intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ Lịch sử: Mặt trận ngoại giao từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954

Chia sẻ: Phan Huy Khai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

197
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu đề tài nhằm: làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, quá trình đấu tranh ngoại giao từ sau ngày ký hiệp định sơ bộ đến trước hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, cuộc đấu tranh ngoại giao tại hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ Lịch sử: Mặt trận ngoại giao từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954

  1. 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM --------------------------- LỤC THUÝ HẰNG MẶT TRẬN NGOẠI GIAO TỪ THÁNG 3-1946 ĐẾN THÁNG 7-1954 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM --------------------------- LỤC THUÝ HẰNG MẶT TRẬN NGOẠI GIAO TỪ THÁNG 3-1946 ĐẾN THÁNG 7-1954 Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số : 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: T.S NGUYỄN XUÂN MINH THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ............................... 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 5 3.3. Nhiệm vụ của đề tài .............................................................................. 5 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ................................................... 5 4.1. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 5 4.2. Nguồn tài liệu ....................................................................................... 5 5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6 6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6 Chương 1. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 3/1946) ................................................................. 7 1.1. Tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao .................................................. 7 1.2. Quá trình đấu tranh ngoại giao dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 .................................................................................... 10 1.3. Ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 ................................... 25 Chương 2. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NĂM 1953 ....................... 30 2.1. Từ sau ngày 6/3/1946 đến ngày 19/12/1946 ............................................ 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 4 2.2. Từ sau ngày 19/12/1946 đến năm 1949 ................................................... 38 2.3. Từ năm 1950 đến năm 1953..................................................................... 56 Chương 3. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TẠI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG ................. 68 3.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn tới Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương ............... 68 3.2. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5 - 21/ 7/ 1954) ........................... 74 3.2.1. Mục đích cuộc đàm phán ................................................................ 74 3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán ................................................................ 77 3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương ........................................................ 84 3.3. Ý nghĩa Hiệp định Giơnevơ ..................................................................... 87 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chính sách đối ngoại của Đảng là biểu hiện cụ thể của chính sách đối nội trên phạm vi quốc tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích của cách mạng Việt Nam. Chính sách đối ngoại có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng. Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cốt yếu cho một nước độc lập. Từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đấu tranh ngoại giao có tác dụng nâng cao địa vị của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, cô lập ngày càng cao độ kẻ thù. Cuối cùng, bằng đấu tranh ngoại giao kết hợp với thắng lợi quân sự trên chiến trường, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải cam kết công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương. Chặng đường đấu tranh đầy gay go, phức tạp giữa hai thời điểm gắn với hai Hiệp định (6/3/1946 và 21/7/1954) đánh dấu những bước trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng chính là thắng lợi của đường lối đối ngoại do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Bởi vậy, nghiên cứu đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954 để làm rõ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chính phủ trong kháng chiến chống Pháp là điều cần thiết. Việc nghiên cứu quá trình đấu tranh ngoại giao từ Hiệp định sơ bộ (3/1946) đến Hiệp định Giơnevơ (7/1954) không chỉ có ý nghĩa khoa học, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. Thông qua việc nghiên cứu đấu tranh ngoại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2 giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Đi sâu tìm hiểu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân Pháp còn giúp cho công tác giảng dạy phần lịch sử dân tộc ở nhà trường phổ thông đạt chất lượng tốt hơn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: "Mặt trận ngoại giao từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Lịch sử ngoại giao Việt Nam nói chung, chính sách đối ngoại của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh ngoại giao nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến ngoại giao Việt Nam hiện đại từ những góc độ khác nhau, khẳng định nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại Việt Nam, trí tuệ và thiên tài ngoại giao Hồ Chí Minh và những hoạt động phong phú trong đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam. Ngay từ 1950 trong tác phẩm "Hội nghị Việt - Pháp Phôngtennơblô tháng 7-1946", Nxb Văn hoá, tác giả Trịnh Quốc Quang đã đề cập đến bối cảnh lịch sử dẫn đến cuộc đấu tranh chính thức giữa Việt Nam và Pháp. Năm 1979, Nxb Sự thật, Hà Nội cho ra đời cuốn sách "Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mĩ cứu nước (1965-1975)". Đây là một cuốn sách tập hợp các bài viết, các bài trả lời phỏng vấn, các báo cáo về ngoại giao ... trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh. Năm 1985, Học viện Quan hệ Quốc tế xuất bản cuốn sách "Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 3 ta". Cuốn sách đã đề cập đến quá trình đấu tranh ngoại giao của nhân dân ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ dẫn đến thắng lợi mang tính thời đại sâu sắc mùa xuân năm 1975. GS. Đinh Xuân Lâm, trong bài viết "Thắng lợi ngoại giao đầu tiên có tính chất quyết định của chính quyền cách mạng (1945-1946)" đăng trên tạp chí Khoa học Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 6 - 7 năm 1990, đã đi sâu phân tích quá trình đấu tranh ngoại giao trong năm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tác giả nhấn mạnh thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao trong thời gian này có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc bảo vệ Chính quyền Dân chủ Nhân dân. Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 năm 1993 đã đăng bài viết: "Hồ Chí Minh với quan hệ Việt - Mĩ" của hai tác giả Trịnh Vương Hồng và Nguyễn Minh Đức. Bài báo đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Việt Nam và Mĩ trong lịch sử. Năm 1994, Học viện Quan hệ Quốc tế xuất bản cuốn sách: "Bác Hồ nói về ngoại giao". Cuốn sách nêu rõ những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác ngoại giao trong đấu tranh cách mạng. Đặc biệt vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam hiện đại, Học viên Quan hệ Quốc tế đã tổ chức hội thảo khoa học. Cuộc hội thảo đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành ngoại giao. Nhiều báo cáo khoa học được gửi về cuộc hội thảo. Trên cơ sở đó, tập kỉ yếu "Hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam" đã được xuất bản. Các báo cáo khoa học tại Hội thảo đã nêu rõ quá trình phát triển cùng với những thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 4 Lưu Văn Lợi trong tác phẩm "50 năm ngoại giao Việt Nam (1945- 1995)" do Nxb Công an nhân dân Hà Nội xuất bản năm 1996, đã nêu rõ quá trình phát triển của ngành Ngoại giao Việt Nam trong 50 năm. Năm 2001, Học viện Quan hệ Quốc tế cho ra mắt bạn đọc cuốn sách: "Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do". Cuốn sách đã trình bày quá trình phát triển của nền ngoại giao Việt Nam từ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, góp phần đem lại thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta vào mùa Xuân năm 1975. Tác giả Nguyễn Phúc Luân trong tác phẩm "Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do (1945-1975)", Nxb Chính trị năm 2001, đã trình bày khá cụ thể quá trình đấu tranh ngoại giao trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược (1945-1975). Dưới góc độ đi sâu tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 2005 tác giả Vũ Quang Hiển đã cho xuất bản cuốn "Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945-1954". Ngoài ra, còn nhiều công trình của các nhà nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau đề cập vấn đề đấu tranh ngoại giao trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào mang tính chuyên khảo trình bày một cách hệ thống quá trình đấu tranh ngoại giao từ ngày ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) đến ngày kí Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (21/7/1954). Mặc dù vậy, tất cả những công trình nghiên cứu đã được công bố đều là những nguồn tư liệu quý báu giúp cho chúng tôi hoàn thành Luận văn này. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 5 Cuộc đấu tranh ngoại giao Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Quá trình đấu tranh ngoại giao của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong thời gian từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Luận văn còn đề cập đến những hoạt động ngoại giao từ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đến trước ngày kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946. - Quá trình đấu tranh ngoại giao từ sau ngày ký kết Hiệp định sơ bộ đến trước Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. - Cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. - Thông qua đó làm rõ lập trường kiên định, tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chính phủ ta trong quá trình đấu tranh ngoại giao, rút ra những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại giao. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU 4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử, kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu. Một số phương pháp cụ thể (phân tích, tổng hợp...) cũng được sử dụng. 4.2. Nguồn tài liệu Để đạt được mục đích của đề tài chúng tôi sử dụng: - Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh bàn về ngoại giao làm cơ sở lí luận nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 6 - Các văn kiện chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Các chỉ thị về ngoại giao của Bộ Ngoại giao và Chính phủ trong thời kỳ 1945-1954. - Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả về ngoại giao. 5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI - Tập hợp, hệ thống hoá các nguồn tư liệu về quá trình đấu tranh ngoại giao từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. - Làm rõ đường lối đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở hai thời điểm đầu và cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. - Dùng tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy phần lịch sử dân tộc trong trường phổ thông trung học. 6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn được xây dựng thành 3 chương: Chƣơng 1. Đấu tranh ngoại giao trong những tháng đầu sau Cách mạng tháng Tám (9/1945 - 3/1946) Chƣơng 2. Hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam từ sau ngày 6/3/1946 đến năm 1953 Chƣơng 3. Đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 7 Chương 1 ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 3/1946) 1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO Đường lối hay chính sách của một quốc gia bao giờ cũng gồm hai mặt: Đối nội và đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc. Đường lối đó trước hết xác định bởi tính chất của chế độ kinh tế, xã hội, của quốc gia. V.I. Lênin nói: "Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội lẫn đối ngoại của nhà nước chúng ta đều có lợi ích kinh tế, địa vị kinh tế của giai cấp thống trị ở nước ta quyết định. Những luận điểm đó vốn là cơ sở toàn bộ của thế giới quan của những người Mác xit... đã được kinh nghiệm chứng thực" [55, tr.403-404]. Hai mặt đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và dân tộc trong quốc gia và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc trên trường quốc tế. Song, từng quốc gia lại thi hành chính sách thống nhất để thực hiện những lợi ích chiến lược của giai cấp cầm quyền ở trong nước và tạo điều kiện tốt nhất thực hiện lợi ích ấy trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại thống nhất với chính sách đối nội ở nội dung giai cấp, xuất xứ và phương hướng. Nói cách khác, chính sách đối nội và đối ngoại của một quốc gia đều giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ, duy trì hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội hiện hành ở quốc gia đó. Lênin thường nhấn mạnh: Đem tách chính sách đối ngoại ra khỏi chính trị nói chung, hay hơn nữa, đem đối lập chính sách đối nội, đó là tư tưởng hoàn toàn sai lầm, không Macxit, không khoa học. Trong mối liên hệ trên, vai trò quyết định thuộc về chính trị đối nội, vì nó gắn trực tiếp, sâu sắc hơn với cơ sở hạ tầng kinh tế như V.I.Lênin đã khẳng định: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 8 Chính trị đối nội quyết định nội dung, phương hướng chính trị đối ngoại, đặt yêu cầu cho chính trị đối ngoại. Tuy nhiên, chính trị đối ngoại có tính độc lập nhất định và tác động trở lại chính trị đối nội. Chính sách đối ngoại bao gồm mục đích, lợi ích của một quốc gia, phương pháp hoạt động của nó trên trường quốc tế. Phương pháp giải quyết các nhiệm vụ đối nội bằng cách Nhà nước nắm quyền lực chính trong xã hội. Điều đó không thể áp dụng được trên lĩnh vực đối ngoại. Trên sân khấu quốc tế không có một trung tâm quyền lực thống nhất, trái lại, sự tồn tại các hoạt động của nhiều Nhà nước mà về nguyên tắc thì các nhà nước này đều có quyền bình đẳng với nhau. Quan hệ giữa các nhà nước này với nhau được thực hiện thông qua các cuộc đấu tranh thương lượng, thông qua các hiệp định, thoả hiệp song phương hoặc đa phương. Mục đích và lợi ích của một quốc gia trong quan hệ quốc tế được thực hiện trước tiên thông qua quan hệ chính thức giữa các Chính phủ, nhưng đồng thời cũng thực hiện thông qua quan hệ kinh tế và văn hoá dưới sự bảo trợ của Chính phủ cũng như của các công ty, đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi Chính phủ... Cuối cùng được thực hiện thông qua việc sử dụng lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang này tuỳ thuộc vào tính chất giai cấp của nhà nước và chính sách đối ngoại mang tính chất mục đích xâm lược hay tự vệ. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từ xưa, ông cha ta đã đánh giá cao vai trò của ngoại giao, đã kết hợp hết sức tài tình giữa đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao. Tiêu biểu là vua Lê Đại Hành trong kháng chiến chống Tống; nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên; đặc biệt là Lê Lợi, Nguyễn Trãi trong cuộc kháng chiến chống Minh. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã đúc kết nên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác ngoại giao, đó là: Kiên quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, giữ vững nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 9 tắc: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", "biết mình, biết người" để đưa ra mục tiêu chính sách kịp thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa chính sách đối nội và đối ngoại, đánh giá cao vị trí, vai trò đối ngoại, vai trò của nhân dân quốc tế, nhân tố bên ngoài đối với cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, tư tưởng của Người về đường lối cách mạng Việt Nam, bao gồm cả lĩnh vực đối nội và đối ngoại đã dần dần hình thành, phát triển. Trong cuốn sách: "Phép dùng binh của Tôn Tử", Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi nhất là không đánh mà quân địch phải thua. Cho nên dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba là đánh bằng binh. Tại Hội nghị đại biểu Đảng ở Tân Trào, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý tới công tác ngoại giao đối với đất nước Việt Nam độc lập. Nghị quyết của Hội nghị đã đặt "Vấn đề ngoại giao" thành mục riêng, mục IV, ngang với mục III: "Chủ trương của Đảng" và mục VI "Nhiệm vụ quân sự". Điều này nói lên rằng, vào giai đoạn quyết định của cách mạng, ngoại giao phải là một mặt trận quan trọng ngang với đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Trong quá trình kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của đế quốc, đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự nhằm mục tiêu cuối cùng là đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, trong đó đấu tranh quân sự là quyết định, đấu tranh ngoại giao phục vụ cho đấu tranh quân sự, cho phát triển lực lượng và phát huy thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: "Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn". Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam chính thức ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà người đặt nền móng là Hồ Chí Minh. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngoại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 10 giao trở thành "một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược và dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động ngoại giao đã gắn liền với các giai đoạn phát triển của cách mạng. Ngoại giao luôn thể hiện là vũ khí bảo vệ và phát huy thành quả, là một mặt trận đấu tranh góp phần tích cực giành và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước" [48, tr.336]. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao trong đấu tranh cách mạng, Đảng và Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đẩy mạnh hoạt động đối ngoại. 1.2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO DẪN ĐẾN HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6 THÁNG 3 NĂM 1946 Nhà nước dân chủ nhân dân vừa ra đời, các lực lượng thù địch đã ập tới, uy hiếp từ nhiều phía. Dựa vào đó, các lực lượng phản động, chủ yếu là tay sai Tưởng ở miền Bắc và tay sai Pháp ở miền Nam, cũng ráo riết chống phá từ bên trong. Trước mắt, chính quyền cách mạng phải chiến đấu đơn độc, hầu như không có một lực lượng nào bên ngoài hỗ trợ. Mối liên hệ với phong trào cộng sản quốc tế hầu như không có. Trong mối quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo sau chiến tranh, lại có nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại cấp bách cần phải giải quyết, nên các Đảng Cộng sản, các lực lượng cách mạng trên thế giới chưa có điều kiện giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới thành lập, chưa có kinh nghiệm điều hành công việc của một quốc gia. Lực lượng vũ trang cách mạng còn quá nhỏ bé và đơn sơ so với yêu cầu của một nhà nước. Chính quyền mới lại phải đương đầu với hàng loạt khó khăn chồng chất về kinh tế, chính trị, xã hội. Theo cách đánh giá của các đế quốc và tay sai thì chỉ riêng những khó khăn về kinh tế (hậu quả nạn đói, tình hình tài chính kiệt quệ...) cũng đã đủ khiến cho Nhà nước Cộng hoà non trẻ của ta ngả nghiêng, sụp đổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 11 nhanh chóng. Trong hoàn cảnh ấy, hoàn toàn có thể xảy ra khả năng chính quyền nhân dân không đứng vững, nền độc lập dân tộc vừa giành được có thể bị thủ tiêu. Bên cạnh những khó khăn, trở ngại, cách mạng nước ta vẫn có nhiều thuận lợi rất cơ bản. Cách mạng tháng Tám đem lại những đổi thay quan trọng về thế và lực cho nhân dân Việt Nam. Bản thân chính quyền cách mạng được thành lập đã là một nhân tố mới rất quan trọng, tạo ra những thuận lợi cơ bản cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Lực lượng cách mạng lúc này đã đứng trên tư thế của một nhà nước, có những quyền lực nhất định. Với Cách mạng tháng Tám, cả một dân tộc bị áp bức gần một thế kỷ, có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời, đã tự khẳng định được sức mạnh quật khởi. Một dân tộc bị đẩy xuống địa vị "vong quốc nô" nay trở lại là chủ nhân đất nước, tạo dựng một chế độ mới chưa từng có trong lịch sử của mình. Sự gắn bó của nhân dân với chính quyền cách mạng do chính họ dựng lên, niềm hi vọng của nhân dân ở chế độ mới tốt đẹp, ý chí của cả dân tộc quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước và thành quả cách mạng, uy tín của lãnh tụ, của Đảng và Mặt trận Việt Minh sau thắng lợi của cách mạng..., tất cả những yếu tố đó sẽ trở thành sức mạnh và phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc. Trước mắt, nhiều thế lực thù địch tràn vào nước ta, trong đó chủ yếu là Tưởng và Pháp, gây cho ta những khó khăn nghiêm trọng. Mặc dù thống nhất với nhau trong ý đồ chung nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng, song các thế lực ấy lại mâu thuẫn với nhau về quyền lợi cụ thể. Những mâu thuẫn đó cũng là một thuận lợi khách quan mà cách mạng cần tranh thủ. Những thuận lợi khách quan và chủ quan nói trên vừa có tác dụng lâu dài, lại vừa có tác động trực tiếp tới chính sách của các thế lực đế quốc và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 12 phản động, hạn chế thế và lực của chúng ở nhiều nơi, khiến cho chúng không thể hoàn toàn công khai hành động theo ý muốn. Thực tế ngay buổi chiều ngày 2/9/1945, tại Nam Bộ, trong lúc hàng chục vạn đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn họp mít tinh mừng độc lập thì một nhóm người Pháp đã nổ súng khiêu khích làm một số người bị thương và chết. Phái bộ Anh đã tỏ rõ thái độ ủng hộ thực dân Pháp qua việc vu cáo chính quyền Việt Nam không giữ được trật tự trong thành phố. Họ cho quân Nhật tước khí giới và đòi ta giải tán các đội tự vệ. Sau khi quân Anh kéo vào phía Nam vĩ tuyến 16, việc đầu tiên của họ chưa phải là tước khí giới quân Nhật mà là thả tù binh Pháp bị Nhật bắt giam từ ngày 9/3/1945. Đồng thời, họ ra lệnh đóng cửa tất cả các báo chí của ta tại Sài Gòn. Ngày 21/9, Anh chiếm đóng trụ sở Cảnh sát Quận 2, trang bị lại vũ khí cho tù binh người Pháp, ban bố lệnh thiết quân luật, cấm nhân dân ta biểu tình hội họp, đem theo vũ khí và đi lại ban đêm. Tối 22/9, sau khi chiếm đài vô tuyến điện, phía Anh làm ngơ cho quân Pháp nổ súng đánh úp ta ở Sài Gòn. Như vậy là, quân Anh đã làm tấm bình phong, đồng thời làm nhiệm vụ dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ. Nhân dân Nam Bộ anh dũng đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập chủ quyền vừa giành được. Trung ương Đảng và Chính phủ đã kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Trong lời kêu gọi ủng hộ kháng chiến Nam Bộ, Chính phủ lâm thời đã khẳng định cần phải: "hy sinh hết thảy vì kháng chiến. Hy sinh hết thảy vì mặt trận Nam Bộ". Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên các mặt trận Nam Bộ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bao vây chặt quân Pháp trong thành phố, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 13 Trong toàn quốc, phong trào ủng hộ Nam Bộ diễn ra sôi nổi ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú. Tháng 9 - 1945, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đã lập các "Phòng Nam Bộ" để ghi tên những người tình nguyện vào Nam đánh giặc. Các đội quân Nam tiến được thành lập và nhanh chóng lên đường vào Nam chiến đấu. Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở phân tích chính xác, âm mưu và hành động của từng thế lực ngoại xâm có mặt ở nước ta sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong bản Chỉ thị: "Kháng chiến, kiến quốc" (25/11/1945), Trung ương Đảng chỉ rõ: "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp" [72, tr.21]. Trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chính quyền, giữ gìn độc lập dân tộc, Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động ngoại giao. Là người lãnh đạo Chính phủ, đồng thời trực tiếp phụ trách công tác ngoại giao trong buổi đầu khó khăn của Nhà nước cách mạng, Hồ Chí Minh luôn theo đúng tinh thần các nghị quyết của Đảng ta về đối ngoại, hết sức tránh trường hợp cùng một lúc đương đầu với nhiều lực lượng Đồng minh kéo vào nước ta nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính. Bản tuyên bố về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Người dự thảo, được Hội đồng Chính phủ thông qua trong phiên họp ngày 28/9/1945 cũng thể hiện tinh thần ấy. Việc giải quyết quan hệ với phía Pháp luôn được Hồ Chí Minh đặt trong bối cảnh chung, liên quan chặt chẽ với việc giải quyết quan hệ với các lực lượng Đồng minh. Đối với Anh, Đảng chủ trương giao thiệp bình thường, chỉ phản đối những hành động sai trái của Anh nhằm dung túng cho quân Pháp xâm lược Việt Nam. Đó là những hành động ngoài phạm vi nhiệm vụ được Đồng Minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 14 quy định. Ngày 26/9/1945, Người gửi điện cho tướng Anh Graxy (Gracey) để kháng nghị việc quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn. Phối hợp đấu tranh ngoại giao, Đảng ta đã phát động phong trào đấu tranh của nhân dân trong nước để biểu thị thái độ phản đối quân Anh dung túng cho quân Pháp xâm lược Nam Bộ. Để nâng cao vị trí của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã cố gắng tranh thủ các nước có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế lúc đó. Đối với Liên Xô, giai đoạn này Chính phủ ta không có mối quan hệ trực tiếp. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta luôn dành mối cảm tình đặc biệt đối với Liên Xô. Tuy nhiên, thời gian đó nước ta đang trong tình thế bị bao vây, các đường liên hệ với bên ngoài rất hạn chế. Với Mĩ, Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vững quan hệ đã có trong thời gian cuối chiến tranh. Là nước đứng đầu các nước tư bản trong phe Đồng Minh và có vai trò quan trọng trong Liên hợp quốc, Mĩ có ảnh hưởng rất lớn tới các mối quan hệ quốc tế sau chiến tranh. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng nếu không có sự giúp đỡ của Mĩ và các nước Đồng Minh thì Pháp không thể trở lại được Đông Dương. Điểm yếu nhất của Pháp là không có danh nghĩa hợp pháp để vào Đông Dương. Ở miền Nam, Pháp được Anh giúp, muốn vào miền Bắc, Pháp phải được sự giúp đỡ của Mĩ - Tưởng. Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã chỉ rõ thái độ hai mặt của Mĩ: "Mĩ tuy vẫn nói với Đông Dương, giữ thái độ trung lập, song Mĩ đã ngầm giúp Pháp bằng cách cho Pháp mượn tàu chở quân sang Đông Dương. Một mặt, Mĩ muốn tranh giành quyền lợi với Anh - Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á, nhưng mặt khác lại muốn hoà hoãn với Anh - Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô" [73, tr.21]. Trên cơ sở nhận định đó, Hồ Chí Minh đã quyết định khai thác "mặt trung lập" của Mĩ. Người thường nhắc tới vai trò đứng đầu Đồng Minh của Mĩ, tán dương những điều Mĩ tuyên bố công khai, dựa vào đó để đấu tranh trên lĩnh vực ngoại giao với Pháp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 15 Song Mĩ đã ngả hẳn về lập trường ủng hộ Pháp trong vấn đề Đông Dương. Ngày 5/10/1945, khi tướng Lơcơlec đổ bộ lên Sài Gòn, Chính phủ Mĩ đã gửi một bức điện nói rõ: Hoa Kỳ không hề có ý định chống lại việc khôi phục sự thống trị của Pháp ở Đông Dương và không có một quan điểm chính thức nào của Chính phủ Mĩ động đến quyền của Pháp ở Đông Dương. Chính phủ Trùng Khánh được sự chỉ đạo của Mĩ và sự vận động của Pháp có xu hướng nhường Bắc Việt Nam cho Pháp đổi bằng việc lấy lại những đặc quyền kinh tế to lớn của Pháp. Để đối phó với âm mưu ấy, Đảng đã vận dụng sách lược hoà hoãn hết sức mềm dẻo. Đảng ta đã dự đoán Mĩ - Tưởng sẽ nhân nhượng với Anh - Pháp, nhường Đông Dương cho Pháp. Như vậy, khả năng quân Tưởng ở miền Bắc cũng không lâu dài được như chúng mong muốn. Ta sẽ bị đẩy vào thế cùng lúc đương đầu với cả Pháp và Tưởng, rất nguy hiểm cho cách mạng. Ngoài ra, còn có các lí do khác về phương diện quốc tế. Chính phủ Trùng Khánh trong Chiến tranh được Liên Xô giúp đỡ kháng Nhật. Đến thời gian này, Liên Xô tiếp tục tranh thủ Tưởng để giữ yên biên giới phía Đông. Hơn nữa, cuộc hợp tác Quốc - Cộng ở Trung Quốc cũng chưa tan vỡ hẳn, thái độ công khai của Tưởng cũng như Mĩ ủng hộ độc lập của các dân tộc, là khả năng để ta tranh thủ. Việc hoà hoãn được với quân Tưởng trong khi chúng sắp sẵn mưu đồ đen tối, lại đem theo bọn tay sai đầy tham vọng và ngông cuồng chống phá cách mạng nước ta quả là một việc vô cùng khó khăn. Nhưng với sự hiểu biết cặn kẽ nội bộ các tên tướng cầm đầu quân Tưởng, với những đòn chủ động tiến công ngoại giao kết hợp với các biện pháp khôn khéo, mềm dẻo, Hồ Chí Minh đã buộc chúng phải giao thiệp với Chính phủ ta và hoà hoãn với ta ngay từ đầu. Để duy trì sự hoà hoãn với Tưởng, Đảng ta đã có những nhân nhượng, lùi bước quan trọng, ngăn chặn âm mưu khiêu khích phá hoại của chúng và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 16 của các đảng phái tay sai. Trong lúc nhân dân đang bị nạn đói đe doạ, Chính phủ vẫn phải nhận cung cấp lương thực cho quân Tưởng. Trước những yêu sách của quân Tưởng đòi cho bọn tay sai tham gia chính quyền, Hồ Chí Minh đã 2 lần quyết định mở rộng Chính phủ (tháng 12/1945 và tháng 2/1946). Qua đó nhường cho các đảng Việt Quốc và Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, cho chúng giữ chức Bộ trưởng 4 Bộ trong số 10 Bộ của Chính phủ và để Nguyễn Hải Thần, thủ lĩnh Việt Cách giữ chức Phó Chủ tịch nước. Chủ trương và những hoạt động ngoại giao của Đảng cùng với sự chỉ đạo cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giữ mối quan hệ hoà hoãn với quân Tưởng có ý nghĩa rất lớn. Thông qua sách lược này, vị thế chủ nhân đất nước của Chính phủ Việt Nam được củng cố, đồng thời khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp ở chừng mực nhất định. Cùng với việc tranh thủ Mĩ, sự hoà hoãn với Tưởng đã tạo điều kiện cho chính quyền cách mạng tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Âm mưu trở lại xâm lược nước ta, chính thực dân Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trong thế phải đối mặt với chúng như trước những năm 40 của thế kỷ. Song, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp sau Cách mạng tháng Tám không còn bó hẹp trong khuôn khổ một dân tộc thuộc địa chống chế đế quốc thống trị như thời kỳ trước mà đã chuyển thành cuộc đấu tranh của một quốc gia vừa giành được chủ quyền, chống lại kẻ xâm lược. Trong đó, đấu tranh ngoại giao có ý nghĩa rất quan trọng, có khả năng mở ra một phạm vi rộng lớn của các vấn đề quốc tế. Thực hiện các chính sách ngoại giao hoà bình, Nhà nước Việt Nam đã ý thức sâu sắc được sự khác nhau về chất trong quan hệ Việt - Pháp giữa thời kỳ đấu tranh giành chính quyền với thời kỳ đã có chính quyền. Ở thời kỳ trước, yêu cầu của dân tộc Việt Nam là phải lật đổ nền thống trị thực dân của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2