Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007
lượt xem 20
download
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007 là tìm hiểu quá trình chuyển biến các mặt về kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau sau mười năm tái lập từ năm 1997 đến năm 2007. Từ đó kiến nghị những giải pháp, dự đoán những triển vọng của sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau trong những năm sắp tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH Ngô Đình Khiêm QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH CÀ MAU TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007 Chuyên ngành : Lịch Sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả Ngô Đình Khiêm
- MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Lịch sử địa phương là một bộ phận hợp thành và làm phong phú lịch sử dân tộc. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ góp phần tích cực vào việc bổ sung nguồn sử liệu cho việc xây dựng lịch sử dân tộc, làm cụ thể hóa một số nội dung cơ bản của lịch sử dân tộc, làm rõ mối quan hệ hữu cơ giữa lịch sử của từng địa phương và lịch sử của toàn dân tộc. Hiện nay, lịch sử địa phương là một môn học ở các cấp học phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Nó góp phần làm phong phú tri thức của học sinh về quê hương, đất nước, giúp hình thành ở thế hệ trẻ tinh thần yêu nước trong sáng, đồng thời qua đó giáo dục lòng yêu quý, gắn bó với quê hương cho học sinh, hình thành ý thức về nghĩa vụ đối với quê hương, đất nước, nhận thức đúng đắn mối liên hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Ngoài ra, lịch sử địa phương còn có tác dụng to lớn trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ và ý thức lao động cho thế hệ trẻ - chủ nhân của xã hội trong tương lai - để đưa đất nước sánh vai cùng bè bạn khắp năm châu. Bởi lẽ, nguồn gốc của lòng yêu Tổ quốc bắt nguồn từ tình yêu quê hương, xứ sở, nơi mình đã sinh ra và trưởng thành. Mặt khác, được học lịch sử địa phương còn làm cho thế hệ trẻ thấy rõ ý nghĩa lịch sử tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo đang được thực hiện và đem lại thành tựu ở khắp mọi miền đất nước từ những địa phương cụ thể. Từ đó, mỗi người càng thêm yêu quý quê hương, đất nước, tin tưởng vào tương lai của dân tộc, quê hương mình. Cà Mau, một tỉnh giàu đẹp ở cực nam Tổ quốc, trải qua hơn ba trăm năm hình thành và phát triển, với địa thế chiến lược, vai trò kinh tế và đặc thù văn hóa của mình đã làm phong phú thêm và độc đáo hơn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như trong quá trình khẩn hoang về phương Nam của những cư dân người Việt vào thế kỷ XVI XVII, trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong quá trình cùng cả nước xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa… Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nam Bộ, trong đó có Cà Mau, đã được định hướng phát triển với những nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể, phù hợp với thế mạnh và đặc thù của địa phương. Do đó, việc biên soạn lịch sử địa phương tỉnh Cà Mau một cách khoa học để giáo dục lòng yêu quê hương trong thế hệ trẻ, trong cộng
- đồng dân cư để động viên và cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân lao động, sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ đất nước là một công việc cần thiết. Mười năm tuy ngắn ngủi đối với quá trình lịch sử của một địa phương, tuy nhiên đối với Cà Mau, đó là thời kỳ có ý nghĩa quan trọng về sự nổ lực phát triển nội tại, về thời kỳ không còn chế độ “xin cho” từ Trung ương, về việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, xã hội một cách đồng bộ, về việc giải quyết những mâu thuẫn kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình phát triển tỉnh nhà, về hội nhập quốc tế… Phải nói đây là thời kỳ mà những phẩm chất tốt đẹp vốn có của con người Cà Mau như năng động, sáng tạo, tự lập, bản lĩnh, hào hiệp được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chắc chắn những phẩm chất đó cùng với tiềm năng về thiên nhiên và sự lãnh đạo của các cấp Đảng, chính quyền, Cà Mau sẽ trở thành một vùng đất giàu mạnh và phát triển. Với ý nghĩa như vậy, chúng tôi chọn “Quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007” làm đề tài luận văn thạc sĩ sử học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Theo chúng tôi được biết, những công trình nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau còn rất ít, và cũng chỉ mới xuất hiện rải rác trong những năm gần đây, nhất là sau khi tách tỉnh. Những công trình này cũng chỉ mới đề cập đến những vấn đề chung chung mang tính chất báo cáo hoặc chỉ riêng lẻ một mảng nào đó về tình hình kinh tế hoặc xã hội của tỉnh trong một thời gian ngắn mà thôi. Một công trình viết về quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau sau 10 năm tái lập thì hoàn toàn chưa có. Tháng 12/2002 Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau xuất bản cuốn Cà Mau anh hùng, Tập 1, giới thiệu về quá trình đấu tranh vũ trang của nhân dân Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tháng 3/2006, nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau và Công ty Cổ phần Thông tin Kinh tế Đối ngoại (FEI) xuất bản cuốn Cà Mau Thế và lực mới trong thế kỷ XXI, giới thiệu sơ lược về lịch sử, địa lý và tiềm năng của tỉnh Cà Mau, đặc biệt có đề cập đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội nhưng chỉ là những con số thống kê về các huyện cho đến năm 2005. Tháng 7/2000, Trung tâm Thông tin và chuyển giao tiến bộ sinh học Việt Nam xuất bản cuốn Đồng bằng sông Cửu Long đón chào thế kỷ XXI giới thiệu ngắn gọn những thành tựu, tiềm năng, triển vọng, các chương trình kêu gọi đầu tư và khẳng định những ưu thế về nhiều
- lĩnh vực địa lý, kinh tế, văn hóa, lịch sử… của 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong đó có Cà Mau. Ngoài ra, vào năm 2001, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội có xuất bản cuốn Lịch sử và địa lý Cà Mau, Tập 1 và Tập 2 do Thái Văn Long chủ biên. Nội dung giới thiệu về con người, điều kiện tự nhiên, tiềm năng và quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân Cà Mau trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào đề cập một cách toàn diện, hệ thống và cụ thể về quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007. 3. Các nguồn tài liệu nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi tham khảo và sử dụng những nguồn tài liệu chủ yếu sau: - Những Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Cà Mau. - Những kế hoạch và báo cáo tổng kết hàng quý, hàng năm của UBND tỉnh Cà Mau. - Số liệu của Cục Thống kê tỉnh Cà Mau. - Những công trình nghiên cứu đề cập đến các lĩnh vực của tỉnh Cà Mau. - Các trang Web có liên quan đến các mặt kinh tế, xã hội của tỉnh Cà Mau. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu - Về không gian: giới hạn trên địa bàn tỉnh Cà Mau. - Về thời gian: từ năm 1997 đến năm 2007. Sở dĩ chúng tôi lấy năm 1997 làm mốc mở đầu cho công trình nghiên cứu vì đây là năm Cà Mau được tách ra thành lập một tỉnh riêng từ tỉnh Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau) theo phê chuẩn ngày 6/11/1996 trong kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, thực hiện từ ngày 1/1/1997. Năm 2007 là mốc kết thúc của công trình nghiên cứu vì đây là năm kết thúc kế hoạch 10 năm quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau sau khi tái lập. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007, chúng tôi kéo dài sự nghiên cứu của mình về trước năm 1997. 5. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm hiểu quá trình chuyển biến các mặt về kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau sau mười năm tái lập từ năm 1997 đến năm 2007. Qua đó nêu được những thành tựu, hạn chế của quá trình này, đồng thời, chỉ ra được những nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó. Từ đó kiến nghị những giải pháp, dự đoán những triển vọng của sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau trong những năm sắp tới.
- 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi vận dụng, quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc nhìn nhận đánh giá vấn đề, đặt các vấn đề trong mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Là một đề tài lịch sử, nên trong việc nghiên cứu chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, đồng thời chú ý kết hợp với những phương pháp hỗ trợ khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, đối chiếu… 7. Đóng góp của luận văn - Trước hết, đề tài trình bày một cách có hệ thống quá trình phát triển của tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau trong một giai đoạn ngắn nhưng là giai đoạn có tính chất bước ngoặt, có ý nghĩa mở đường cho giai đoạn phát triển về sau. - Nội dung và tư liệu của luận văn có thể sử dụng vào mục đích tham khảo cho những bài báo cáo, những công trình tổng kết, kỷ niệm những ngày truyền thống của địa phương. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy lịch sử địa phương trong các nhà trường phổ thông ở tỉnh Cà Mau nhằm giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào về những truyền thống tốt đẹp của địa phương, giáo dục lòng yêu quê hương, xứ sở, ý thức bảo vệ những truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hóa của quê hương. - Đồng thời, luận văn còn có thể dùng để làm phong phú thêm nguồn tài liệu tuyên truyền trong quần chúng, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và của tỉnh nhà. - Qua việc rút ra những bài học, những nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo.
- Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT CÀ MAU TRƯỚC NĂM 1997 1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội tỉnh Cà Mau Cà Mau là vùng đất trẻ mới được mở mang, khai khẩn cách đây trên 300 năm. Trước đây, vùng đất này được hình thành bởi sự bồi đắp của hai dòng hải lưu ở biển Đông và vịnh Thái Lan đón nhận phù sa sông Cửu Long. Trải qua hàng ngàn năm lắng đọng và bồi đắp, vùng đất Cà Mau dần hình thành. Đến trước thế kỷ XVII, đây là vùng đất sình lầy, ẩm thấp, hoang vu với rừng thiêng, nước độc, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết. Từ đầu thế kỷ XVII, chiến tranh Nam - Bắc triều, Đàng Trong - Đàng Ngoài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn khiến đời sống nhân dân vô cùng cơ cực. Họ vừa phải chịu cảnh áp bức, bóc lột, vừa nơm nớp lo sợ phu phen, lao dịch và binh lửa, ly loạn. Nhiều người dân nghèo ở Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó phần lớn là nông dân và thợ thủ công phải rời bỏ quê cha, đất tổ tiến về phương Nam tìm đường sinh sống. Đến cuối thế kỷ XVII, một số người Hoa cũng tìm đến vùng đất này, điển hình là Mạc Cửu - một di thần của nhà Minh bất phục triều đình Mãn Thanh, lưu trú tại Mang Khảm (Hà Tiên) đã chiêu tập lưu dân sinh sống ở 7 xã dọc theo bờ biển đến cư trú và làm ăn sinh sống, dựng thành một xã với tên gọi “xã” Cà Mau. Sau khi Mạc Cửu chết, con là Mạc Thiên Tứ chỉnh đốn cơ nghiệp của cha và vâng lệnh triều đình nhà Nguyễn ra đèo Long Xuyên (ở vùng đất Cà Mau ngày nay) chiêu tập nhân dân, thành lập tổ chức có tính chất quân sự. Ngoài ra, nhiều người dân Khmer do nội chiến và bị xâm lược liên miên trong hai thế kỷ XV - XVI cũng phiêu dạt đến nơi này sinh sống. Những cư dân người Việt đầu tiên, kể cả người Khmer và người Hoa khi đến khai khẩn vùng đất Cà Mau thường phải đối diện với một môi trường thiên nhiên vừa có nhiều thuận lợi, vừa có rất nhiều khó khăn, nguy hiểm. Họ phải đổ nhiều mồ hôi và cả máu để khai khẩn đất đai, xây dựng và bảo vệ xóm làng. Trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên đầy gian khổ, nguy nan, họ đã đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó lòng hữu ái giai cấp giữa những người lao động đã từng bước hình thành, tạo nhân tố bền vững của tình đoàn kết, của cộng đồng các dân tộc ở Cà Mau trong các thời kỳ lịch sử. Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) vào năm 1867, thực dân Pháp bắt đầu chia nhỏ các tỉnh cũ để dễ dàng cai trị. Ngày 18 tháng 12 năm 1882, tỉnh Bạc Liêu là tỉnh thứ 21 của Nam Kỳ được thành lập.
- Ngày 25/10/1955 theo sắc lệnh số 32/VN, chính quyền Sài Gòn tách quận Cà Mau ra khỏi tỉnh Bạc Liêu rồi lấy quận Quảng Xuyên và 4 xã của quận Giá Rai để thành lập tỉnh Cà Mau. Đến ngày 22/10/1956, chính quyền Sài Gòn ban hành Sắc lệnh số 143/VN đổi tên tỉnh Cà Mau thành tỉnh An Xuyên. Về phía chính quyền cách mạng, ngày 27/11/1973, tỉnh Cà Mau giao huyện Giá Rai cho tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh Bạc Liêu được tái lập. Lúc bấy giờ, Cà Mau - Bạc Liêu là hai tỉnh theo sự phân định địa giới hành chính của chính quyền Sài Gòn. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện Nghị quyết số 19/NQ - TW ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, hai tỉnh Cà Mau (An Xuyên) và Bạc Liêu hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Ngày 6/11/1996, trong kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc tách tỉnh Minh Hải ra làm hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, thực hiện từ ngày 1/1/1997. Đến năm 2007 Cà Mau có 1 thành phố và 8 huyện, gồm 97 xã, phường, thị trấn với diện tích đất tự nhiên là 5.329 km2, đứng thứ hai so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, sau tỉnh Kiên Giang. Đất đai Cà Mau màu mỡ, thích hợp với các loại cây lương thực, cây ăn trái và nhiều loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Cơ cấu phân bố các loại đất khá hợp lý: đất nông nghiệp chiếm 64,81%; đất lâm nghiệp: 23,32%; đất ở: 1,12% và đất chuyên dùng chiếm 3,63%. [19, tr.140] Dân số tỉnh Cà Mau đến năm 2007 có 1.248.241 người. Cơ cấu dân số thành thị chiếm tỉ trọng 20%, nông thôn 80% và ít thay đổi. Về thành phần dân tộc, chủ yếu là người Kinh, dân tộc thiểu số gồm người Hoa, Khmer, Tày, Chăm, Nùng, Mường… và một số dân tộc khác. Mật độ dân số bình quân của tỉnh năm 2007 là 234 người/km2, thấp nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long (430 người/km2); bình quân ruộng đất trên 1 nhân khẩu, 1 lao động cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long. [19, tr.18,319] Tổng số lao động năm 2007 có 669.876 người. Cơ cấu lao động trong độ tuổi theo ngành nghề, chủ yếu vẫn là nông nghiệp và thủy sản. Trình độ học vấn và kỹ thuật nguồn nhân lực của tỉnh Cà Mau tương đối thấp, chưa đạt mức bình quân cả nước. Theo số liệu điều tra ngày 01/7/2005 cho thấy trình độ lao động của tỉnh còn rất hạn chế; 73,4% mới có trình độ văn hóa tiểu học, số lao động có trình độ trung học cơ sở chiếm 18% và trình độ trung học phổ thông chiếm 8,6%. [35, tr.167-168]. Tuy vậy, tập quán, kinh nghiệm canh tác và kỹ năng nghề nghiệp của lao động Cà Mau được tích lũy qua nhiều thế hệ thuộc loại khá cao so với các tỉnh khác, nhất là kỹ năng lao động nghề trồng lúa, chăn nuôi và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, hải sản.
- Dưới sự áp bức, bóc lột của thực dân và địa chủ, người dân Cà Mau, hầu hết là bần cố nông, phải sống một cuộc sống tăm tối, dốt nát, lao động đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu ăn, thiếu mặc, dù sống trên ruộng đất trù phú, màu mỡ. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, xã hội nông thôn Cà Mau đã hình thành hai giai cấp đối lập chủ yếu là nông dân và địa chủ. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Cà Mau cũng là nơi có nhiều tôn giáo. Hai tôn giáo có mặt sớm ở đây và có nhiều tín đồ là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, các tôn giáo khác ra đời muộn hơn, trong đó có đạo Cao Đài. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo phần đông đều là những nông dân nghèo khổ và có tinh thần yêu nước, vừa lo việc đạo, vừa làm tròn phận sự công dân đối với dân tộc, tin tưởng vào Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về chủ tịch Hồ Chí Minh, căm thù quân giặc xâm lược, ủng hộ và tham gia kháng chiến. Trong sinh hoạt văn hóa, người dân Cà Mau cũng sáng tạo ra những lời ca, tiếng hát, hò, vè ca ngợi quá trình lao động mở đất, mở nước, chống thiên tai, thú dữ và ngoại xâm… như hò đối đáp, đọc thơ Bạc Liêu, cổ nhạc…tiêu biểu là bản Dạ cổ Hoài lang của cụ Cao Văn Lầu, chuyện cười Bác Ba Phi… Người Cà Mau từ trước đến nay không những cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo trong lao động sản xuất, dũng cảm trong chinh phục thiên nhiên mà còn kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột, viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc nói chung và của nhân dân vùng đất mũi Cà Mau nói riêng. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và lịch sử của Cà Mau vừa chứng minh tiềm năng, lợi thế vừa cho thấy nhiều điểm bất lợi đối với quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Thực tế là cho đến nay, Cà Mau vẫn là tỉnh có tỉ lệ xã chưa có đường bộ, chưa có điện lưới quốc gia cao nhất các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Là tỉnh cực nam Tổ quốc nên Cà Mau có thiệt thòi là xa Trung ương, xa các trung tâm thương mại và công nghiệp lớn, lại không có sân bay, bến cảng lớn nên có nhiều khó khăn trong giáo lưu kinh tế, văn hóa với các tỉnh, thành phố khác. Các điều kiện xã hội cũng có những bất lợi trong phát triển kinh tế hàng hóa. Dân số, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, thủy sản truyền thống, chưa quen với công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao. Trình độ dân trí vùng sâu, vùng xa nói chung còn thấp, tập tục lạc hậu vẫn còn nhiều, sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật còn nghèo nàn. Tiềm năng về biển, rừng, đất ở Cà Mau rất lớn. Rừng ngập mặn có giá trị trên thế giới về hệ sinh thái, đứng sau rừng Amazon. Biển Cà Mau về hải sản và hứa hẹn nhiều tiềm năng dầu khí. Trong thời kỳ đổi mới, với sự kế thừa và sáng tạo không ngừng, Đảng bộ và nhân dân Cà
- Mau tiếp tục viết nên những trang sử mới bằng chính những thành tích ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng. 1.2. Truyền thống cách mạng của nhân dân Cà Mau + Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau trước khi có Đảng. Cùng với tiếng súng chống Pháp của nhân dân cả nước, ngay từ năm 1861 nhân dân Cà Mau đã tự vũ trang đứng lên chống quân xâm lược. Năm 1873, nhân dân vùng đất mũi Cà Mau đã cùng anh em ông Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự đứng lên chống Pháp, ủng hộ và tham gia nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân... Những cuộc đấu tranh của nhân dân Cà Mau nổ ra từ những ngày đầu Pháp xâm lược và kéo dài liên tiếp đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã thể hiện tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân Cà Mau cùng cả nước trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và phong kiến. + Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Cà Mau. Tháng 1/1929, Chi hội Việt Nam cách mạng thanh niên thị trấn Cà Mau được thành lập do ông Đào Hưng Long làm bí thư. Chi hội mở một cửa hiệu bán sách báo lấy tên là “Hồng Anh thư quán”, một quán bán cơm và cà phê “Đồng Tâm” vừa làm cơ sở để giáo dục, vận động nhân dân yêu nước, vừa là nơi trao đổi, hội họp của chi hội. Hoạt động của chi hội ngày càng gây được ảnh hưởng rộng rãi trong dân nghèo ở thị trấn và nhân dân ở các xã xung quanh. + Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Cà Mau. Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, tháng 1/1930, Chi bộ An Nam Cộng sản đảng ở Cà Mau được thành lập do ông Lâm Thành Mậu làm bí thư. Sau đó có nhiều chi bộ Đảng ra đời và hoạt động mạnh mẽ đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh sôi nổi. Để kịp thời lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh, ngày 26/10/1938 Tỉnh ủy lâm thời được thành lập do đồng chí Bùi Thị Trường làm bí thư. + Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai (13/12/1940). Cùng với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh đạo nổ ra vào ngày 13/12/1940 và giành được thắng lợi nhanh chóng. Lực lượng khởi nghĩa đã tiêu diệt tên xếp đảo Ôliviê, thu toàn bộ vũ khí rồi về đất liền để kịp thời cùng lực lượng khởi nghĩa đánh chiếm Năm Căn. Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai cuối cùng bị dìm trong biển máu nhưng kẻ thù không thể dập tắt được tinh thần yêu nước của nhân dân. Cũng từ đó tỉnh Cà Mau lấy ngày khởi nghĩa
- Hòn Khoai 13 tháng 12 làm ngày truyền thống của địa phương. Hòn Khoai ngày nay đã trở thành di tích lịch sử - cách mạng của cả nước, là biểu tượng tự hào về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau. + Cách mạng tháng Tám 1945 ở Cà Mau. Được tin Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện, hòa nhịp chung với cả nước, Tỉnh ủy lâm thời Cà Mau tổ chức cuộc mít tinh lớn ở thị trấn Cà Mau để chào mừng ngày Mặt trận Việt Minh ra đời và biểu dương lực lượng quần chúng. Cuộc mít tinh sau đó chuyển thành cuộc biểu tình vũ trang thị uy kéo đến dinh Đốc phủ Kế, quận trưởng Cà Mau, đòi giao chính quyền cho nhân dân. Trước thái độ kiên quyết của quần chúng cách mạng, Đốc phủ Kế phải bàn giao chính quyền cho ủy ban dân tộc giải phóng quận Cà Mau. Ngay sau thắng lợi ở tỉnh lỵ, nhân dân khắp vùng nông thôn trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng đã nhất tề đứng lên đập tan bộ máy chính quyền nông thôn ở xã, thành lập chính quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng cách mạng. + Chín năm kháng chiến chống Pháp. Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Chính quyền cách mạng đã tiến hành cuộc kháng chiến để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám. Suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, Cà Mau là khu căn cứ, cung cấp nguồn sống cho cả miền Tây Nam Bộ và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn trên chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân Cà Mau đã tiêu diệt hơn 6.996 tên địch, phá hủy và thu nhiều vũ khí. Những tấm gương hy sinh anh dũng cho công cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng quê hương như Phan Ngọc Hiển, Trần Văn Thời, Châu Văn Đặng, Lương Thế Trân, Quách Văn Phẩm… đã mãi mãi làm rạng danh trang sử Cà Mau anh hùng. + Hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau năm 1954, Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiến hành xâm lược Việt Nam. Cà Mau vẫn tiếp tục là căn cứ địa kiên cường của cách mạng. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước như Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt đã từng được nhân dân Cà Mau che chở, nuôi giấu. Trong những ngày đầu chống Mỹ, Cà Mau, với sự kiện 200 ngày chuẩn bị cho ngày lên tàu tập kết ra Bắc và sự kiện xây dựng “Làng rừng” để chống lại kế hoạch gom dân, đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm đã trở thành những sự kiện điển hình của thời kỳ này. Sau Đồng khởi năm 1960, quân dân Cà Mau đã vùng lên đánh địch, giành nhiều thắng lợi quan trọng. Năm 1968 quân giải phóng Cà Mau đánh vào thị xã Cà Mau và giải phóng hoàn
- toàn huyện Ngọc Hiển. Năm 1972, lực lượng cách mạng tiến công đồng loạt, bao vây 200 đồn bốt giặc buộc chúng phải đầu hàng hoặc bị tiêu diệt. Cùng với chiến dịch mùa xuân 1975, 10 giờ ngày 1/5/1975 thị xã Cà Mau hoàn toàn giải phóng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân Cà Mau đã tiến hành đánh 73.500 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 310.907 tên ngụy và nhiều tên Mỹ, bắn rơi và bắn bị thương 1.029 máy bay, bắn chìm và phá hủy 1.365 tàu chiến, phá hủy 821 xe quân sự, thu và phá hủy 31.000 súng trong đó có 89 khẩu pháo 105 và 155 ly. Với những chiến công đó, tỉnh có 21 cá nhân và 42 tập thể được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 507 bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên 11.000 thương binh và 16.000 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những tấm gương hy sinh anh dũng như Bông Văn Dĩa, Nguyễn Việt Khái, Lý Văn Lâm, Dương Thị Cẩm Vân, Hồ Thị Kỷ, Huỳnh Phi Hùng, Hồ Trung Thành, Đặng Tấn Triệu, Danh Thị Tươi…đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Cà Mau. 1.3. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau trước năm 1997 1.3.1. Thời kỳ trước đổi mới (1976 - 1985) Sau giải phóng (1975), Cà Mau cùng với Miền Nam và cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh rất nặng nề: Về kinh tế: ruộng vườn đa số bị bỏ hoang, kênh rạch khô cạn, công cụ sản xuất thô sơ, sản xuất lúa độc canh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vô cùng thiếu thốn. Là vùng đất giàu tài nguyên rừng ngập mặn, biển và bờ biển bao quanh nhưng 60% đất rừng bị hủy diệt bởi chất độc hóa học, nghề khai thác biển bị phong tỏa, ngư cụ nghèo nàn. Công nghiệp, thương mại ở những vùng thị xã, thị trấn hầu như không đáng kể, cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là đường giao thông, điện, nước, trường học, bệnh viện… Về xã hội: tồn tại nhiều tập tục lạc hậu, lối sống thực dụng, hưởng thụ, tệ nạn xã hội tràn lan, văn hóa lai căng phản động, thất nghiệp, mù chữ là phổ biến. Nhân dân Cà Mau vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, trấn áp bọn phản động vừa phải phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chế độ mới.
- Nhận thức đầy đủ trách nhiệm nặng nề đó, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Minh Hải, cùng với Bạc Liêu, nhân dân Cà Mau đã ra sức khắc phục khó khăn, hoàn thành các mục tiêu cơ bản của hai kế hoạch 5 năm 1976 -1980 và 1981-1985. Các ngành sản xuất công nghiệp - xây dựng, nông - lâm nghiệp - thủy sản và các hoạt động thương mại - dịch vụ trong tỉnh từng bước được khôi phục và phát triển theo kế hoạch. Thu nhập của lao động sản xuất và công nhân viên chức nhà nước được nâng cao do hoạt động sản xuất kinh doanh trong tỉnh có chuyển biến tích cực, nhất là khai thác, chế biến và xuất khẩu thủy sản. Từ năm 1981-1985, Đảng và Nhà nước đã thực hiện cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp bằng chính sách khoán theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng, các Nghị quyết về đổi mới cơ chế quản lý trong công nghiệp, thương mại, du lịch, điều chỉnh chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa theo hướng thông thoáng hơn. Nhờ đó tiềm năng về đất đai, lao động, vốn liếng, kinh nghiệm sản xuất nông, công nghiệp, thủy sản của người dân Cà Mau được khơi dậy và bước đầu được phát huy. Đi đôi với việc khôi phục và phát triển kinh tế, đời sống văn hóa của nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũng đã được nâng lên một bước. Năm 1985 nhiều xã có tivi công cộng phục vụ bà con nông dân. Hệ thống loa truyền thanh, phát thanh nhiều huyện đã về đến xã, ấp góp phần tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến người dân. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được chính quyền các cấp quan tâm. Hệ thống các cơ sở y tế hầu hết được xây dựng mới và hoạt động có hiệu quả. Đến năm 1985 có 40% số xã có bác sĩ. Công tác vệ sinh môi trường đã trở thành phong trào của quần chúng nhiều xã ấp. Nhiều địa phương đã bảo đảm nước sạch sinh hoạt cho nhân dân trong mùa khô. Một số dịch bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết đã được ngăn chặn có hiệu quả. Giáo dục và đào tạo có nhiều tiến bộ rõ rệt: hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề và đào tạo bồi dưỡng cán bộ phát triển cả về số lượng và cơ cấu trường lớp, ngành nghề. Tỉ lệ học sinh bỏ học, lưu ban giảm dần; tỉ lệ học sinh giỏi, đạt giải khu vực và cấp quốc gia tăng dần. Công tác xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học được thực hiện đạt kết quả khá. Tình trạng thiếu giáo viên, thiếu trường lớp đã được khắc phục từng bước. Đời sống nhân dân được cải thiện. Số hộ giàu và khá tăng nhanh, số hộ nghèo giảm dần. Một số xã, ấp vùng sâu đã xóa được diện hộ nghèo gay gắt. Những nhu cầu cơ bản của nhân dân như: ăn, mặc, nhà ở, đi lại, học tập…được cải thiện rõ nét. Việc thực hiện các chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công được các cấp, các ngành quan tâm và đầu tư thỏa đáng.
- Tuy có những phát triển về các mặt như đã nói ở trên, thời kỳ 1976 -1985 vẫn còn tồn tại một số nhược điểm, hạn chế sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh vừa chậm vừa không ổn định, bình quân 5 năm (1976 - 1985) tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) tăng 19,4%, nhưng 5 năm (1981-1985) chỉ tăng 8,66%. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 67,84% trong cơ cấu kinh tế, còn công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ chiếm tỉ trọng nhỏ và tăng rất chậm. [36, tr.48] Thu ngân sách toàn tỉnh năm 1980 đạt 64,64 triệu đồng, chỉ bằng 3,06% GDP; năm 1985 đạt 202 triệu đồng bằng 5,88% GDP do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu chi ngân sách. Do nguồn thu quá ít nên cơ cấu chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên (chiếm 86% năm 1980 và 80% năm 1985), chi cho đầu tư phát triển rất thấp (năm 1980 chiếm 13,8% và năm 1985 chiếm 19,58%) trong tổng chi ngân sách. [10, tr.26] Hoạt động ngân hàng cũng chỉ tập trung phục vụ nông nghiệp còn các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ không được quan tâm đúng mức. Đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ trong 10 năm sau giải phóng. Sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản là ngành kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất trong GDP của tỉnh nhưng trong 10 năm đầu sau giải phóng phát triển chậm, không đều và không ổn định. Trồng trọt tuy có tiềm năng lớn nhưng chưa khai thác hợp lý cả đất lúa và đất màu. Sản xuất lúa mùa theo phương thức quảng canh là phổ biến nên năng suất thấp và tăng chậm. Sản xuất màu, cây công nghiệp, rau quả giảm sút liên tục, chậm hình thành các vùng tập trung có tỉ suất nông sản hàng hóa cao theo qui hoạch và đầu tư. Chăn nuôi chưa được coi trọng, còn phân tán nhỏ lẻ theo tập quán cũ, kĩ thuật chăn thả tự nhiên là chủ yếu. Thủy sản là thế mạnh của Cà Mau nhưng phát triển không đều và không đồng bộ. Số lượng, công suất tàu vốn đã ít lại khai thác chưa hợp lý nên sản lượng thủy hải sản đánh bắt tăng chậm. Nuôi trồng thủy hải sản vẫn mang nặng tính tự phát, nhất là tình trạng lấn đất lúa, đất rừng đước để nuôi tôm quảng canh, năng suất thấp. Nuôi cá đồng phát triển chậm và không đều trong khi tiềm năng mặt nước còn rất lớn. Các công trình thủy lợi mới ít về số lượng lại chậm đưa vào phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, tình trạng chặt phá rừng bừa bãi diễn ra khá phổ biến nên diện tích rừng đước ngày một giảm dần. Công tác quản lý, chăm sóc khoanh nuôi và bảo vệ rừng phòng hộ, rừng kinh tế còn nhiều bất cập.
- Sản xuất công nghiệp quy mô quá nhỏ, sản phẩm ít về số lượng, đơn điệu về chủng loại, kém về chất lượng nên chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là thủy sản đông lạnh không qua chế biến mà khối lượng lại không nhiều. Sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu chưa tương xứng với khả năng của địa phương, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Đến năm 1985 toàn tỉnh chỉ có 21 sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với sản lượng sản xuất rất khiêm tốn: 1.000 tấn tôm đông lạnh, 2 triệu lít nước mắm, 197.000 tấn gạo xay xát, 6.867 tấn đường mật, 23 triệu viên thuốc các loại, 149.000 mét vải, 709.000 viên gạch nung, 230.000 nông cụ cầm tay, trên 10.000 tàu, thuyền đóng mới và sửa chữa. [13, tr.34] Hoạt động giao thông - vận tải là mặt chủ yếu của tỉnh trong đầu tư xây dựng nhưng chậm khắc phục. Trong quy hoạch và chỉ đạo thiếu sự phân cấp, phân công giữa tỉnh, huyện, xã, thị trấn nên tiến độ xây dựng và nâng cấp đường bộ chậm và không đều, nhất là đường nông thôn. Trong quản lý và bảo vệ chưa có sự phối kết hợp giữa giao thông và thủy lợi nên hiệu quả thấp. Việc khai thác, sử dụng các phương tiện vận tải hàng hóa chưa hợp lý, coi trọng thành phần quốc doanh và hợp tác xã mà xem nhẹ các thành phần kinh tế tư nhân nên chưa phát huy hết mọi tiềm lực to lớn trong nhân dân. Hoạt động thương mại - dịch vụ của tỉnh thời gian này có nhiều khuyết, nhược điểm. Thương nghiệp chưa gắn liền với yêu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân, hàng hóa và dịch vụ phát triển chậm, tự phát, đơn điệu, chất lượng thấp. Hoạt động của các ngành và đơn vị kinh doanh thương mại, du lịch, dịch vụ chưa có sự gắn bó liên kết với nhau nên phát triển không lành mạnh. Tình trạng tranh mua, tranh bán chạy theo chênh lệch giá để trục lợi, trốn thuế rất phổ biến. Công tác quản lý xuất nhập khẩu chưa tốt dẫn đến các cơn sốt về hàng hóa, về giá cả trên thị trường nhất là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu của người dân. Thị trường, giá cả có biến động lớn nhưng công tác tổ chức quản lý thị trường còn bị buông lỏng. Tình trạng này đã dẫn đến đời sống nhân dân đã khó khăn càng khó khăn hơn. Trong các vấn đề xã hội, tồn tại lớn nhất là những hoạt động văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, thông tin, tuyên truyền còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Trong giáo dục, tình trạng thiếu thầy, thiếu lớp, thiếu đồ dùng dạy học còn phổ biến. Hệ thống trường mẫu giáo chưa hình thành, hệ thống trường bổ túc văn hóa còn yếu kém, chưa duy trì thường xuyên nên tỉ lệ người mù chữ còn cao. Hoạt động văn hóa chưa đều; vùng sâu, vùng xa còn thiếu phim ảnh, báo chí. Sản phẩm văn hóa còn nghèo nàn, tệ nạn mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu, tệ cờ bạc, nghiện rượu bê tha còn phổ biến. Hoạt động của
- hệ thống y tế còn nhiều bất cập, tinh thần, ý thức phục vụ của một bộ phận cán bộ y tế còn chưa tốt. Đời sống của nhân dân nói chung, của người nông dân nói riêng còn rất thấp và tăng chậm. Lao động thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp vẫn là phổ biến cả khu vực thành thị và nông thôn nhưng chưa có giải pháp tích cực có hiệu quả. An ninh chính trị, trật tự xã hội tuy có tiến bộ song vẫn còn có nhiều hạn chế. Tình hình vượt biên, chiến tranh tâm lý, phao tin đồn nhảm chưa được ngăn chặn kịp thời. Các mặt tiêu cực trong quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, huyện, xã, xí nghiệp chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Những khuyết điểm và hạn chế trên đây trong lĩnh vực xã hội bắt nguồn từ nhiều phía: kinh tế thuần nông, tăng trưởng chậm, đời sống nhân dân còn có nhiều khó khăn, cơ chế chính sách và luật pháp chưa đồng bộ; tổ chức chỉ đạo và quản lý điều hành của bộ máy Đảng, Chính quyền các cấp chưa chặt chẽ, chưa sâu sát quần chúng. Suy cho cùng, đó là những khuyết, nhược điểm khó tránh khỏi của một địa phương nghèo, cơ sở hạ tầng thấp kém, xa các trung tâm thương mại và dịch vụ lớn, lại chịu tác động tiêu cực của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu và bao cấp nặng nề trong một thời gian dài. Đó cũng là những bài học không thành công cần tổng kết để rút kinh nghiệm và tìm giải pháp thích hợp cho Cà Mau nói riêng và cho cả nước nói chung trong những năm tiếp theo. 1.3.2. Thời kỳ 10 năm đổi mới (1986 -1996) Quán triệt đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện của Đảng, trong 2 kế hoạch 5 năm 1986 -1990 và 1991-1995, Đảng bộ và nhân dân Cà Mau đã tập trung nguồn lực để khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương để phát triển kinh tế toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước. Tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) từ năm 1986 đến năm 1996 tăng bình quân 5,68%. Nét đặc biệt trong 10 năm này là cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, xóa dần tính thuần nông, tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng trong GDP của tỉnh từ 7,38% năm 1985 lên 10,83% năm 1990 và 16,96% năm 1995; tỉ trọng khu vực thương mại - dịch vụ cũng tăng dần từ 12,1% lên 13,32% và 15,05% trong thời gian trên. Tỉ trọng khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm xuống còn 65,9% năm 1995 so với 80,52% năm 1985 nhưng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,74%/năm. [13, tr.40] Kinh tế tăng trưởng đã góp phần tăng thu ngân sách của tỉnh. Tỉ lệ thu ngân sách trên GDP tuy còn thấp so với yêu cầu nhưng đã có tiến bộ hơn so với các thời kỳ trước đổi mới và cơ bản đáp ứng được các yêu cầu chi ngân sách của địa phương. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 1995 đạt 334,79 tỉ đồng tăng 2,92 lần năm 1990 và bằng gần 2 lần năm 1991. [11, tr.13].
- Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng với nhịp độ khá cao. Sản xuất lúa là thế mạnh của tỉnh tiếp tục phát triển theo hướng ổn định, đồng thời đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất để tăng sản lượng và chất lượng lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ diện tích lúa mùa đã được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm để có lợi hơn. Một nét mới nữa của Cà Mau là không đặt mục tiêu tăng sản lượng lúa lên hàng đầu như các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long và sản lượng lúa giảm dần liên tục từ năm 1991 đến năm 1995. Tuy vậy, lương thực bình quân nhân khẩu của tỉnh vẫn đạt trên 514 kg/năm trong đó lúa trên 511 kg, vẫn bảo đảm an ninh lương thực trên địa bàn trong mọi tình huống, đồng thời chuyển một phần đất lúa năng suất thấp sang trồng các cây công nghiệp, cây ăn trái hoặc nuôi trồng thủy sản có lợi hơn. Nhờ đó tính độc canh lúa mùa của tỉnh tồn tại từ trước giải phóng đã được hạn chế. Mô hình sản xuất lúa - cá, lúa - rau - màu đã được mở ra trên vùng đất vốn phèn mặn, trước đây chỉ độc canh lúa mùa năng suất thấp. Đó không chỉ là thành tựu về mặt kinh tế mà còn là bài học về sử dụng tài nguyên đất sao cho hiệu quả trong cơ chế thị trường. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi tuy phát triển chưa đều nhưng bước đầu đã có tăng trưởng. Năm 1996 đàn lợn đạt 241.634 ngàn con, tăng 42,99% so với năm 1985, bình quân mỗi năm tăng gần 4,05%, sản lượng xuất chuồng đạt trên 14,9 ngàn tấn, tăng 1,9 ngàn tấn trong cùng thời gian trên. Đàn gia cầm đạt gần 2 triệu con. [12, tr.47] Sản xuất lâm nghiệp phát triển theo hướng tăng cường trồng mới và chăm sóc, bảo vệ rừng, nuôi rừng và giảm khai thác lâm sản. Diện tích rừng trồng tập trung 5 năm 1991-1995 đạt 69.840 ha, tăng 52.067 ha (tăng 292 %) so với thời kỳ 1986-1990. Diện tích rừng và đất rừng được chăm sóc, bảo vệ tốt hơn, tình trạng đốt phá rừng làm ruộng, rẫy, chuyển nuôi tôm được hạn chế. Việc giao khoán đất rừng cho hộ nông dân gắn với kinh doanh tổng hợp nghề rừng theo hướng lâm - ngư - nông kết hợp đã đạt được những kết quả bước đầu. Sản xuất thủy sản phát triển toàn diện cả về nuôi trồng và đánh bắt, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản xuất ngành thủy sản giai đoạn 1991-1995 đạt 8,4%, cao nhất trong khu vực nông lâm nghiệp - thủy sản và vượt xa giai đoạn trước đó (tăng 2,75%). Cơ cấu sản xuất thủy sản đã có bước chuyển tích cực từ khai thác sang nuôi trồng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng từ 31,7 ngàn tấn năm 1991 lên 46,6 ngàn tấn năm 1995. Cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi chuyển mạnh từ cá sang tôm để phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu thủy sản đang mở rộng.
- Sản xuất công nghiệp có tiến bộ trên một số mặt. Năm 1995 toàn tỉnh có 9.734 cơ sở sản xuất công nghiệp, thu hút 23.674 lao động trong đó khu vực kinh tế cá thể có 8.289 lao động, chủ yếu làm việc trong các ngành công nghiệp chế biến. [11, tr.84] Với tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng năm 13,62% giai đoạn 1991-1995, công nghiệp Cà Mau đã có bước tiến bộ về một số mặt hàng sản phẩm công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản và hàng tiêu dùng thiết yếu như nông cụ cầm tay, sửa chữa tàu thuyền. Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp bước đầu đã chuyển dịch theo hướng đa thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước chiếm tỉ trọng cao nhất và giữ vai trò chủ đạo. Các hoạt động đầu tư - xây dựng đã thực hiện chuyển dịch từ đầu tư theo nguồn vốn ngân sách Nhà nước sang đầu tư bằng vốn tín dụng, liên doanh liên kết, vốn vay trong nước và nước ngoài. Cơ cấu đầu tư đã chuyển dần từ kinh tế sang các lĩnh vực khác (văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, chỉnh trang đô thị…). Một số công trình kinh tế trọng điểm của địa phương được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, trong đó nổi bật là điện lưới quốc gia về 3 huyện vùng sâu: Trần Văn Thời, Thới Bình và U Minh, các trọng điểm kinh tế ven thị xã Cà Mau, ven biển và gần 50% cụm trung tâm xã, thị trấn. Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, văn hóa, nhà ở đô thị… được xây dựng, nâng cấp góp phần tăng năng lực sản xuất và lưu thông hàng hóa các vùng trong tỉnh, cải thiện bộ mặt thành thị lẫn nông thôn. Các hoạt động dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được khôi phục và phát triển. Đáng chú ý là hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa phát triển với tốc độ nhanh, đáp ứng mọi yêu cầu đi lại của nhân dân và lưu thông hàng hóa của các thành phần kinh tế. Dịch vụ bưu chính viễn thông có bước phát triển vượt bậc so với các thời kỳ trước. Lần đầu tiên Cà Mau được lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, hòa mạng thông tin viễn thông quốc tế, rút ngắn khoảng cách vùng Đất Mũi xa xôi với cả nước và quốc tế. Dịch vụ phát hành báo chí cũng được cải thiện, phương thức phục vụ tốt hơn. Dịch vụ - thương mại có bước phát triển mới. Hệ thống siêu thị được hình thành và đi vào hoạt động, hệ thống chợ nông thôn được mở rộng đã tạo nhiều thuận lợi trong tiêu thụ nông sản. Các lực lượng thương nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển và không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động từ bán buôn đến bán lẻ, đã góp phần tích cực vào quá trình lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 1995 đạt 1.608,6 tỉ đồng, tăng 2,58 lần năm 1991 và tăng 32,8 lần những năm đầu đổi mới. Cơ cấu bán lẻ đã chuyển từ Nhà nước và tập thể là chủ yếu sang đa thành phần, cá thể là chủ yếu. Tỉ trọng của khu vực cá thể tăng từ 27,33% năm 1986 lên 81,15% năm 1995.
- Thị trường trong nước được khai thông, thị trường nước ngoài được hình thành và phát triển. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh từ 17,34 triệu USD năm 1986 lên 19,92 triệu USD năm 1990 và tăng vọt lên 95,08 triệu USD năm 1995. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh là thủy sản tăng nhanh, trong đó chủ yếu là tôm đông từ 2.170 tấn năm 1986 lên 3.300 tấn năm 1990 và 13,773 tấn năm 1995. Mặt hàng gạo năm cao nhất là 1992 đạt 17.000 tấn, tăng 10.330 tấn so với năm 1989. Với sự tăng nhanh của mặt hàng thủy sản xuất khẩu, Cà Mau đã trở thành một trong số ít tỉnh có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn nhất cả nước trong thời kỳ này. Năm 1995, cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu thủy sản 621,4 triệu USD, trong đó Cà Mau chiếm 15%, riêng sản lượng tôm đông lạnh Cà Mau chiếm trên 30% (13,7/44,8 ngàn tấn). Thế mạnh của tỉnh bước đầu được khai thác hợp lý, góp phần tích cực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. [13, tr.47-49] Hoạt động du lịch cũng được phục hồi và phát triển. Số khách du lịch đến Cà Mau năm 1995 đạt 67.118 lượt người, tăng 69,13% so với năm 1991 trong đó có 2.124 khách nước ngoài tăng 22,75 lần. [11, tr. 108] Tuy vẫn còn khó khăn về cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông thủy, bộ, hàng không…nhưng thế mạnh của Cà Mau là du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn đã bước đầu được khai thác với hình thức và sản phẩm tương đối đa dạng. Về các vấn đề xã hội, cùng với phát triển kinh tế, trong 10 năm đầu sau đổi mới, Cà Mau cũng đạt được nhiều tiến bộ về các mặt ổn định xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đạt được những thành tựu trên trước hết là nhờ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, nhờ sự nỗ lực phấn đấu của các cấp các ngành, nhờ kết quả tổng hợp của đường lối đổi mới đúng đắn, vận dụng cụ thể hóa phù hợp với điều kiện của tỉnh, được nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện với tinh thần đầy sáng tạo, bên cạnh đó còn nhờ kế thừa và phát huy những thành quả, kinh nghiệm của những năm trước, đồng thời nhờ có sự chỉ đạo và giúp đỡ có hiệu quả của Trung ương. Bên cạnh những kết quả và tiến bộ về các mặt như đã trình bày ở trên, tình hình kinh tế - xã hội Cà Mau trong 10 năm 1ừ 1986 đến 1996 cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. + Về kinh tế. Thứ nhất, kinh tế của tỉnh vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thuần nông, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, không đều. Tốc độ tăng GDP của tỉnh bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ đạt 4,48%, thời kỳ 1991-1995 tuy có cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 6,88%. Kết quả này không đạt mục tiêu đề ra và thấp hơn tốc độ tăng GDP của cả nước (8,2%).
- Thứ hai, sản xuất nông nghiệp của tỉnh vẫn nặng độc canh lúa và sản xuất chưa gắn với công nghiệp chế biến trong khi tiềm năng về phát triển công nghiệp và dịch vụ của tỉnh là rất lớn. Cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển dịch chậm, tự phát và không đều. Một số cây công nghiệp, cây ăn trái như dừa, mía, chuối, khóm…có sản lượng khá lớn nhưng chưa tìm được thị trường tiêu thụ ổn định nên tăng, giảm thất thường và không có cây nào, vùng nào chủ lực, sản xuất tập trung thâm canh cao. Chăn nuôi tăng chậm và không đều, trong đó từ 1992 đến 1995, đàn heo, đàn gia cầm giảm liên tục dù tiềm năng còn rất lớn. Vì vậy cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn mất cân đối nghiêm trọng, tỉ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp vừa nhỏ lại giảm dần. Thủy sản tuy tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững. Việc chuyển đất lúa, lấn đất bãi bồi ven biển, đất rừng sang nuôi tôm diễn ra phổ biến ở các huyện nhưng vẫn mang nặng tính tự phát, chưa được quản lý, hướng dẫn của các cấp, các ngành dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái là rất lớn. Hoạt động khai thác thủy sản xa bờ phát triển chậm do cơ sở tàu thuyền và ngư cụ phục vụ khai thác còn nhiều hạn chế. Trong lâm nghiệp, tình trạng đốt phá rừng phòng hộ, rừng kinh tế để làm rẫy, làm ruộng, nuôi tôm vẫn diễn ra nhưng chưa được ngăn chặn. Việc giao đất, giao rừng cho dân quản lý, bảo vệ còn chậm, tài nguyên rừng và đất rừng tiếp tục suy giảm với tốc độ nhanh, trong khi đó tốc độ trồng rừng lại rất chậm và không được quan tâm đúng mức. Thứ ba, công nghiệp và xây dựng tuy có tiến bộ về một số mặt nhưng nhìn chung khu vực này phát triển không tương xứng với yêu cầu và khả năng của địa phương. Trong 10 năm đổi mới, số lượng cơ sở và lao động trong công nghiệp không tăng. Năng lực máy móc thiết bị và công nhân lành nghề trong công nghiệp và xây dựng vừa thiếu, không đồng bộ lại lạc hậu nhưng chậm đổi mới. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các huyện chưa được tổ chức lại và hướng dẫn sản xuất theo qui hoạch và thị trường. Công tác kiến trúc chưa được quan tâm, kể cả kiến trúc công sở, nhà ở đô thị, nông thôn vùng sông nước, vùng đất mới bồi ven biển. Thực tiễn còn cho thấy việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một tỉnh thuần nông còn lúng túng, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; công tác qui hoạch và đầu tư cho công nghiệp, xây dựng còn chưa tương xứng. Thứ tư, khu vực thương mại - dịch vụ tăng trưởng chậm và không đều giữa các vùng, các huyện trong tỉnh. Sau 10 năm đổi mới, tỉ trọng khu vực thương mại - dịch vụ trong GDP của tỉnh chỉ tăng 2,62%. Thương mại, du lịch, khách sạn - nhà hàng, các dịch vụ vận tải, kho bãi, tài chính - ngân hàng, giáo dục - đào tạo, quản lý Nhà nước, tư vấn - xây dựng, bảo hiểm…đều
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 198 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 149 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 194 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 136 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 16 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn