intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năn 2006

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:129

193
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năn 2006 gồm 3 chương với những nội dung về tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ (1975 – 1995); quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến cuối nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Bill Clinton (1995 – 2000) và dưới thời tổng thống George Bush (2001 – 2006).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năn 2006

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH LÊ VY HẢO QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA ĐẾN NĂN 2006 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG TP. HỒ CHÍ MINH - 2008
  2. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Quan hệ ngoại giao ngày nay là một yếu tố quan trọng để đưa bất kỳ nước nào đến thành công. Xu thế hợp tác hóa, toàn cầu hóa đã đưa các nước xích lại gần nhau hơn kể cả những nước trước đây từng thù địch nhau, nay làm bạn, hợp tác với nhau để phát triển. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ 1995 đến nay là một trong những điển hình của chính sách “Khép lại quá khứ, hướng về tương lai” đó. Tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không phải diễn ra một cách suôn sẻ. Năm 1976, chính quyền của Tổng thống Jimmy Carter đã có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhưng không thành công do hai bên có nhiều bất đồng về việc giải quyết hậu quả chiến tranh. Từ giữa thập niên 80 đã có những nỗ lực của cả hai phía để chính thức nối lại quan hệ ngoại giao nhưng do “Hội chứng Việt Nam” còn rất nặng nề trong xã hội Hoa Kỳ, thậm chí ngay cả về phía Việt Nam không hẳn mọi người đã đồng ý bắt tay lại với Hoa Kỳ. Mặt khác, tình hình khu vực và quốc tế vào thời điểm ấy còn nhiều yếu tố gây trở ngại cho tiến trình này. Từ nửa sau thập niên 80, tình hình thế giới có nhiều thay đổi làm đẩy nhanh nhịp độ đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, do quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được xây dựng lại trên cơ sở xóa đi những mâu thuẫn trong và sau chiến tranh nên nó không tránh khỏi những khập khiễng. Vì vậy, việc nhận định bản chất và xu hướng của việc thiết lập lại mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là hết sức cần thiết cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của chúng ta. Sau khi nối lại quan hệ ngoại giao, tất cả các mặt trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển một cách tích cực và toàn diện. Hai nước
  3. đã tiến hành đối thoại và trao đổi nhiều đoàn ngoại giao, Quốc hội, doanh nghiệp, du lịch… Hai Tổng thống gần đây nhất của Hoa Kỳ là Bill Clinton và George W. Bush đã sang thăm chính thức Việt Nam. Những ảnh hưởng về kinh tế giáo dục, văn hóa… của Hoa Kỳ ngày càng rõ nét ở Việt Nam. Tất cả những điều đó đã tạo ra nhu cầu tìm hiểu về những thay đổi trong chính sách ngoại giao giữa hai nước từ đó tìm ra nguyên nhân của những thay đổi mau lẹ đó. Bên cạnh những mặt tích cực mà Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được từ khi bình thường hóa, đã nảy sinh một số mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai nước đặc biệt là vấn đề dân chủ, nhân quyền và tranh chấp thương mại. Đây không phải là ngoại lệ trong quan hệ quốc tế. Thực tế lịch sử cho thấy có rất nhiều nước đã gặp phải những vấn đề tương tự trong quan hệ với Hoa Kỳ mà điển hình là Trung Quốc. Do vậy, việc tìm hiểu nguyên nhân đưa đến những mâu thuẫn trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và đưa ra phương hướng để khắc phục là hết sức cần thiết nếu chúng ta muốn đẩy nhanh hơn nữa mối quan hệ này. Có thể nói, việc bình thường hóa và phát triển mối quan hệ với Hoa Kỳ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước. Tạo dựng lại mối quan hệ với Hoa Kỳ là chìa khóa để mở ra những cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh và cũng phù hợp xu hướng toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Xuất phát từ những nhu cầu có tính chất khoa học và thực tiễn trên, tôi đã chọn đề tài “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là một vấn đề rất được quan tâm, không những ở góc độ nhà nước hay ngành ngoại giao mà còn ở góc độ nghiên cứu khoa học, vì mối quan hệ này là một hiện tượng tiêu biểu cho xu thế hợp tác,
  4. toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Mục đích của việc thực hiện đề tài này là khái quát lại tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và cung cấp một cái nhìn tổng quan về quan hệ giữa hai nước sau khi bình thường hóa đến nay. Về mặt lý luận, nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là tiếp cận một khía cạnh rất quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam sau khi nước ta chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình và tái thiết đất nước. Một thời gian dài mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bị gián đoạn vì nhiều lý do chủ quan của hai nước và khách quan của tình hình quốc tế, khi mà hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa luôn có xu hướng đối đầu và gần như cự tuyệt quan hệ với nhau. Vì vậy, việc Việt Nam và Hoa Kỳ vượt qua những trở ngại về tâm lý, chính trị và lịch sử để nối lại quan hệ giữa hai nước là một trong những biểu hiện cụ thể của sự thay đổi trong tiến trình lịch sử thế giới và việc nghiên cứu mối quan hệ này là góp phần lý giải xu hướng mới đó của thời đại. Do vai trò to lớn của Hoa Kỳ trong việc điều hòa các mối quan hệ trên toàn thế giới, nên việc tìm hiểu mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tạo cơ sở để nhận định về con đường phát triển của ngoại giao Việt Nam trong những thập niên gần đây. Đường lối ngoại giao rụt rè trước đây đã được thay thế bằng tư duy mới thông thoáng hơn; những hạn chế trong ngoại giao thời kỳ Chiến tranh lạnh đã dần được xóa bỏ đặt nền ngoại giao Việt Nam đứng trước những cơ hội rộng mở để thể hiện vai trò của mình. Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ tạo cơ hội cho việc thông hiểu giữa hai nước; từ đó củng cố và thúc đẩy mối quan hệ này lên những tầm cao mới. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình phát triển của Việt Nam vì Hoa Kỳ không những là một cường quốc phát triển mà còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế,
  5. chính trị của toàn thế giới. Tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ chính là cơ hội để Việt Nam mở rộng quan hệ với bên ngoài. Những vấn đề tồn tại được vạch ra từ việc nghiên cứu quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ góp phần định hướng cho việc hoạch định chiến lược ngoại giao trong tương lai của Việt Nam nhằm giải quyết những hạn chế trong quan hệ giữa hai nước để vừa khai thác tối đa những lợi ích từ ngoại giao vừa đảm bảo tính độc lập, bền vững về chính trị, kinh tế. Tìm hiểu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa cũng là cơ hội để hàn gắn lại tình cảm giữa hai dân tộc vốn ít nhiều bị tổn thương trong chiến tranh. Trong quá khứ, hai dân tộc vốn có những mối quan hệ tốt đẹp, từng sát cánh với nhau trong cuộc chiến tranh chống lại phát xít, do vậy, việc nối lại quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là cơ hội để nhân dân hai nước tìm lại mối quan hệ tốt đẹp vốn có của mình. Đối với bản thân, việc thực hiện đề tài này giúp tôi củng cố và nâng cao kiến thức về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng và với bạn bè thế giới nói chung làm nền tảng cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để tôi trau dồi những kỹ năng cơ bản trong công tác nghiên cứu lịch sử cũng như thực hành những phương pháp lịch sử mà tôi được tiếp cận từ giảng đường đại học và sau đại học lâu nay. Từ việc thực hiện đề tài này, tôi có cơ hội góp nhặt một phần hiểu biết nhỏ bé của mình vào kho tàng kiến thức về lịch sử quan hệ ngoại giao của Việt Nam thời kỳ hiện đại. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Như tên đề tài luận văn, đối tượng nghiên cứu là quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau khi bình thường hóa. Thuật ngữ “quan hệ” ở đây nhằm chỉ quan hệ đối ngoại giữa những nước độc lập và có đầy đủ chủ quyền. Trước khi bình thường hóa, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn có một vài mối quan hệ qua
  6. lại nhưng thường là những phi vụ kinh tế nhỏ lẻ ở mức độ cá nhân hoặc sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ tại Việt Nam chứ chưa được nâng lên tầm nhà nước. Sau khi bình thường hóa, mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã có những thay đổi về cả lượng và chất, những giới hạn do chính sách cấm vận trước đây của Hoa Kỳ dần được gỡ bỏ và quan hệ giữa hai nước trở nên sôi động hơn rất nhiều. Từ đó có thể thấy bình thường hóa chính là môi trường thuận lợi của mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1995 đến nay và cũng là không gian nghiên cứu của đề tài luận văn. Phạm vi thời gian nghiên cứu chính của đề tài bắt đầu từ năm 1995 khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam (11/07/1995) đến khi ký chính thức thỏa thuận song phương Việt Nam – Hoa Kỳ về việc Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới WTO (31/05/2006). Tương ứng với mốc thời gian trên là hai đời Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton (tính từ 1995 đến 2001) và George W. Bush (tính từ 2001 đến 2006). Đây là hai cột mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến nay. Nếu như năm 1995 là thời điểm hai nước chính thức thiết lập lại quan hệ ngoại giao, thì năm 2006 là thời điểm diễn ra nhiều sự kiện lớn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ hai nước, thể hiện sự bình thường hóa hoàn toàn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo những tiêu chí mà hai nước đề ra. Trong thời gian này giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra nhiều hoạt động ngoại giao, nhiều động thái chính trị – kinh tế tương đối phức tạp. Vì vậy, trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp cao học, tôi không thể đề cập được hết tất cả các mặt cũng như tất cả những chi tiết của mối quan hệ này mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hoa Kỳ từ khi hai nước bình thường hóa với nhau. Trong đó, chúng tôi cố gắng làm rõ những thay đổi cơ
  7. bản của những chính sách này so với thời kỳ trước tạo cơ sở thuận lợi cho việc nhận thức tốt hơn xu hướng phát triển của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Về những thành tựu đã đạt được trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, chúng tôi tập trung chính vào quan hệ kinh tế và chính trị. Đây là hai lĩnh vực cơ bản hàng đầu của quan hệ quốc tế hiện đại. Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế nhưng đồng thời phải đảm bảo ổn định về chính trị. Về phía Hoa Kỳ, sau khi đã đạt được những kết quả khả quan việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh, đã chuyển dần sang mục tiêu hợp tác kinh tế với Việt Nam để khai thác một thị trường mới đầy tiềm năng sau một thời gian dài cấm vận. Hai nước đã đạt được một số thành tựu đáng kể đặc biệt là việc ký Hiệp định thương mại song phương (năm 2001) và thỏa thuận gia nhập WTO giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng do xuất phát điểm kinh tế của hai nước rất khác nhau cùng với sự hiểu biết chưa đầy đủ chính sách pháp luật của nhau nên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã xuất hiện một số tranh chấp thương mại cần được quan tâm giải quyết để thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế giữa hai nước. Trong lĩnh vực chính trị, hai nước đã chính thức thiết lập đại sứ quán, tiến hành trao đổi nhiều đoàn ngoại giao, chính trị, quân sự mà nổi bật nhất là các chuyến thăm chính thức của các nhà lãnh đạo Việt Nam và Hoa Kỳ. Tuy vậy, chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục thi hành những quan điểm chính trị của mình trong quan hệ với Việt Nam về vấn đề nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo... đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo và khéo léo trong ứng xử ngoại giao để vừa duy trì quan hệ hợp tác vừa giữ vững độc lập và tự chủ về chính trị. Trong quá trình thực hiện đề tài, để phục vụ tốt hơn cho việc nghiên cứu đối tượng chính, tôi cũng đề cập đến một số lĩnh vực khác trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ như quân sự, giáo dục, y tế, văn hóa… để làm rõ hơn
  8. những thành tựu về quan hệ kinh tế và chính trị mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được đồng thời thể hiện tính toàn diện trong quan hệ giữa hai nước. Từ những thành tựu đạt được trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006 có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong quan hệ với các cường quốc như Hoa Kỳ nhằm thực hiện tốt hơn nữa chủ trương của Đảng và Chính phủ về việc phát huy vai trò của đối ngoại nhằm phát triển kinh tế – xã hội trong thời điểm hiện tại và tương lai. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ngày càng thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu không chỉ vì Hoa Kỳ là một nước lớn, đóng vai trò quan trọng trong nền ngoại giao toàn cầu mà còn do yếu tố lịch sử trong quan hệ giữa hai nước. Hai nước đã trải qua một cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm và cắt đứt hoàn toàn quan hệ trong 20 năm, do vậy việc hai nước thiết lập quan hệ năm 1995 là một sự kiện mang tính lịch sử, được dư luận rất quan tâm. Mặt khác, những tác động tích cực của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đến sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam càng thúc đẩy nhu cầu tìm hiểu về mối quan hệ này. Do mốc thời gian của vấn đề mà đề tài này nghiên cứu gần với thời điểm hiện tại nên đến nay vẫn chưa có một công trình chính thức nào trình bày một cách toàn diện đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong khoảng 10 năm sau bình thường hóa nhưng từng mặt, lĩnh vực của mối quan hệ này ít nhiều đã được đề cập đến trong các tác phẩm nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam, bài viết chuyên đề và một số công trình khoa học khác nhau. Việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ mới được tiến hành trong khoảng mười năm trở lại đây vì mối quan hệ này chỉ thực sự được nối lại từ năm 1995. Có thể xem tạp chí “Châu Mỹ ngày nay” là tạp chí đi đầu trong
  9. việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ những ngày đầu sau khi bình thường. Từ đó đến nay, mỗi sự kiện quan trọng trong mối quan hệ ấy đều được tạp chí này ghi nhận dưới dạng các bài giới thiệu nhận xét, đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử, ngoại giao, kinh tế… Thông qua tạp chí này, phong trào nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả như Phó Giáo sư Phó Tiến sĩ Đỗ Lộc Diệp, Tiến sĩ Phạm Thị Thi thuộc Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ; Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiết Sơn, Tiến sĩ Lê Khương Thùy của Viện nghiên cứu Châu Mỹ… Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ còn là đề tài thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu nước ngoài như Mark E. Manyin tìm hiểu về quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và những thành tựu đạt được trong quan hệ hợp tác giữa hai nước sau khi bình thường hóa. Emiko và Will Martin thuộc Nhóm nghiên cứu phát triển của Ngân hàng thế giới với chuyên khảo “Ảnh hưởng của việc Mỹ trao quy chế Tối huệ quốc cho Việt Nam”. Ngoài ra còn có sự đóng góp của những nhà chính trị, ngoại giao Hoa Kỳ như Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Douglas Pete Peterson (nhiệm kỳ 1997 – 2001), Raymond Burghardt (nhiệm kỳ 2001 – 2004), Thượng Nghị sĩ John F. Kerry, John McCain… Năm 2003, tổ chức Asia Foundation đã kết hợp với Học viện Quan hệ quốc tế của Việt Nam tổ chức một cuộc hội thảo về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tại đại học Georgetown. Những bài tham luận tại Hội thảo đã được tập hợp thành một công trình chung mang tên: “Đối thoại về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, những vấn đề nội tại” (Dialouge on U.S – Vietnam relations, domestic dimensions) với sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu như Frederick Z. Brown, Mark E. Manyin, Phan Doãn Nam, Phạm Quốc Bảo, Vũ Xuân Trường… Thông qua việc phân tích tình hình thực tế của từng nước trong vài thập niên gần đây như công cuộc đổi mới và những thay đổi trong
  10. chính sách đối ngoại của Việt Nam; vai trò của Quốc hội hai nước trong tiến trình bình thường hóa quan hệ; đường lối hợp tác phát triển kinh tế trong tương lai… các nhà khoa học của hai bên đã bước đầu đi đến sự đồng thuận về khả năng thúc đẩy nhanh hơn nữa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Nhân dịp kỷ niệm 10 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 3 năm 2005, đã diễn ra một cuộc hội thảo quy mô với chủ đề quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau 10 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam tại Trung tâm Việt Nam thuộc Trường Đại học Texas, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Cuộc hội thảo đã thu hút được đông đảo các diễn giả nổi tiếng của Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu hàng đầu về Việt Nam cùng các quan chức cấp cao, trong đó có cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Raymond Burghardt và đại sứ hiện nay Michael Marine tham dự. Các tham luận trình bày tại hội thảo đều tập trung phân tích chủ đề nhìn lại quá khứ để hướng về tương lai trong mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Trong đó tham luận của học giả Larry Berman "Một thập kỷ hòa giải: Việt Nam – Mỹ hôm nay và ngày mai" được đặc biệt chú ý. Hội nghị là cơ hội để các nhà nghiên cứu nhìn nhận lại chặng đường 10 năm quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ đó đưa ra những triển vọng hợp tác giữa hai nước trong tương lai. Cũng trong dịp kỷ niệm này, Hội Việt Mỹ – một tổ chức hợp tác phát triển giáo dục đã xuất bản tập san: “Việt Nam – Hoa Kỳ, những triển vọng mới” (Vietnam – US set in motion) gồm nhiều bài viết trình bày những vấn đề lịch sử trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, những nhận định về mối quan hệ này trong tương lai… Tuy không mang tính chất lịch sử chuyên ngành, nhưng đóng góp lớn nhất của tập san này là cung cấp cái nhìn sinh động về tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cũng
  11. như những thành tựu đối ngoại mà hai nước đã đạt từ sau khi bình thường hóa. Các tác giả của những bài viết này đa phần là những người đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào việc phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên nhiều lĩnh vực khác nhau do đó mà nhận định của họ tương đối chân thực và có giá trị lịch sử. 3.1 Những công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam Để đóng góp vào việc tìm hiểu lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Phó giáo sư Tiến sĩ Phạm Xanh đã xuất bản tác phẩm “Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” đề cập đến quan hệ giữa hai nước từ những ngày đầu (1787) đến khi Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương (1949). Qua đó, tác giả muốn làm rõ “những cơ hội tốt đẹp cho hai dân tộc hiểu biết lẫn nhau, làm bạn với nhau trong suốt gần 200 năm đó, nhưng những cơ hội đều bị bỏ lỡ, do nhiều nguyên nhân khác nhau cả khách quan lẫn chủ quan” [57, tr. 6]. Tuy không liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài này nhưng những tư liệu mà tác giả Phạm Xanh đưa ra đã giúp trang bị cho người viết những cái nhìn tổng quan ban đầu về lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, từ đó nhận thấy được những tiềm năng và cơ hội tốt đẹp để hai dân tộc hiểu biết nhau hơn. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là một bộ phận không thể tách rời của ngoại giao Việt Nam nói chung và chịu sự chi phối của đường lối, chính sách đối ngoại mà Đảng và chính phủ đã đề ra. Do vậy mà, việc tìm hiểu lịch sử ngoại giao Việt Nam trong những thập niên gần đây là rất cần thiết tạo nền tảng cơ bản cho việc nghiên cứu tốt quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Tác phẩm “Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Phó Tiến sĩ Phạm Văn Linh là một tài liệu tham khảo tốt về vấn đề này, quyển sách đề cập nhiều nội dung quan trọng trong quan hệ, hợp tác giữa Việt Nam với hầu hết các nước, khu vực, tổ chức và diễn đàn quốc tế trong khoảng 20 năm gần đây với phương châm là
  12. khép lại quá khứ, hướng tới tương lai bằng cả ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân làm cho các bên hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, giữ vững hòa bình, ổn định và cùng phát triển. Trong đó có những mối quan hệ hợp tác với các nước truyền thống, láng giềng thủy chung; Những quan hệ với các nước lớn có tiềm năng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh; Với các nước đang phát triển và cả những bạn bè, các tổ chức chính trị, phi chính phủ đã kề vai sát cánh với dân tộc ta trong đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc trước đây và phát triển đất nước hiện nay. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình nội bộ Hoa Kỳ có nhiều biến động làm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của nước này. Điều này được phản ánh trong công trình “Nước Mỹ đầu thế kỷ XXI” của tác giả Trương Thị Thủy. Quyển sách cung cấp cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế – chính trị – xã hội của Hoa Kỳ những năm đầu thiên niên kỷ cũng như chính sách quan hệ của Hoa Kỳ với các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Hợp tác kinh tế là lĩnh vực sôi động nhất trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và cũng là mảng đề tài được các nhà nghiên cứu trong thời điểm hiện nay quan tâm nhiều nhất thể hiện qua nhiều công trình nghiên cứu như “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ” của Đỗ Đức Định, “Việt Nam – Hoa Kỳ, Quan Hệ Thương Mại Và Đầu Tư” của Nguyễn Thiết Sơn, “Nước Mỹ ngày nay và hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ” của tập thể tác giả Trần Tất Thắng, Quỳnh Hải Hà, Nguyễn Đức Tư… Trong quyển sách “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ”, từ những nguồn tư liệu vô cùng phong phú, tác giả Đỗ Đức Định đã cố gắng đi sâu tìm hiểu các quan hệ kinh tế giữa hai nước trong ba thời kỳ chính, đó là thời kỳ chiến tranh 1954 – 1975, thời kỳ cấm vận và trừng phạt 1975 – 1995 và thời kỳ bình thường hóa từ 1995. Trọng tâm nghiên cứu tập trung vào ba lĩnh vực
  13. chính là quan hệ thương mại, đầu tư và viện trợ, từ đó cung cấp cho người đọc một cái nhìn lịch sử tương đối xuyên suốt về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Hoa Kỳ. Tác phẩm này đã giúp chúng tôi có được cái nhìn cơ bản về một lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong những năm gần đây đó là hợp tác kinh tế. Trong đó, tác giả đã nêu lên một cách rõ nét những tác động ngày càng lớn của Hoa Kỳ đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp, xúc tiến thương mại, viện trợ phát triển… Một trong những người đi tiên phong và có đóng góp nhiều nhất trong việc nghiên cứu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng phải kể đến Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiết Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Mỹ. Ông là tác giả của rất nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cùng với công trình chuyên khảo về quan hệ kinh tế giữa hai nước mang tên “Việt Nam – Hoa Kỳ, quan hệ thương mại và đầu tư”. Quyển sách này đã trình bày một cách hệ thống tiến trình bình thường hóa quan hệ kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ, những kết quả đạt được trong quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai nước, những vấn đề, những khó khăn bước đầu mà Việt Nam đang vấp phải và triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ. 3.2 Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Đến thời điểm chúng tôi thực hiện đề tài, vẫn chưa có công trình chính thức nào của các học giả nước ngoài về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến nay mà chỉ dừng lại ở các bài nghiên cứu, báo cáo của các cá nhân hoặc các tổ chức có liên quan . Tiến sĩ Nick J. Freeman, một người hoạt động trong lĩnh vực đầu tư cao cấp của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đóng góp vào việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi hai nước chưa bình thường hóa với công trình “Cấm
  14. vận kinh tế của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam” (United States’s economic sanctions against Vietnam) trình bày và phân tích những ảnh hưởng của chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam. Trên cương vị của mình, Nick J. Freeman đã tìm hiểu rất kỹ về thị trường Việt Nam và những cơ hội đầu tư vào thị trường này. Năm 2002, ông đã công bố bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia, Lào và Việt Nam: một tầm nhìn mang tính khu vực” (Foreign direct investment in Cambodia, Laos and Vietnam: a regional overview) nghiên cứu về tình hình đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư của Hoa Kỳ vào thị trường Đông Dương. Liên quan trực tiếp nhất đến đề tài là các bài nghiên cứu đã được công bố năm 2005 của Mark E. Manyin, chuyên viên phân tích các vấn đề châu Á của Cục Đối ngoại, Quốc phòng và Thương mại Hoa Kỳ bao gồm: “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Tiến trình bình thường hóa” (The Vietnam – US. Normalization Process) và “Viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam” (U.S. Assistance to Vietnam). Mark E. Manyin đã điểm lại những cột mốc đáng nhớ trong quan hệ giữa hai nước trước và sau khi bình thường hóa, nêu lên những đóng góp của Hoa Kỳ thông qua hình thức viện trợ vào việc phát triển kinh tế – xã hội tại Việt Nam. 3.3 Những vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và hướng nghiên cứu của đề tài Từ việc trình bày, phân tích và đánh giá những công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn một số tồn tại hạn chế. Các công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hầu như chỉ tập trung vào lĩnh vực hợp tác kinh tế mà chưa đề cập nhiều đến các lĩnh vực khác. Điều này làm cho quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ chưa được nhìn nhận
  15. một cách toàn diện và đầy đủ. Thêm vào đó, việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thường dừng lại ở mức độ chính phủ, nhà nước mà chưa đi vào quan hệ hợp tác nhân dân, vốn đã được hình thành từ trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ với nhau. Một số tác giả nước ngoài còn có cái nhìn phiến diện về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, xem xét mối quan hệ này theo chiều hướng áp đặt của một nước lớn, một cường quốc của thế giới tư bản đối với một nước nhỏ, trình độ phát triển thấp. Chính vì vậy mà họ không thấy được sự tương hỗ trong quan hệ giữa hai nước, không thấy được những tác động trở lại từ phía Việt Nam đối với Hoa Kỳ. Ngược lại, trong quan niệm của một số nhà nghiên cứu Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn là một “đế quốc” đầy tham vọng bành trướng nên phải hết sức dè chừng trong quan hệ ngoại giao. Quan điểm này ảnh hưởng đến tính khách quan trong nội dung nghiên cứu đồng thời gây hạn chế kết quả nghiên cứu. Trong thực tiễn sẽ tạo ra tính bảo thủ gây trở ngại cho việc phát triển quan hệ hai nước. Từ những nhận xét, đánh giá về những vấn đề còn tồn tại hạn chế trong việc nghiên cứu quan hệ Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu của đề tài là: – Tìm hiểu những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hoa Kỳ trong những thập niên cuối của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, làm nền tảng cho việc trình bày, giải thích và đánh giá mối quan hệ giữa hai nước. – Tìm hiểu những thành tựu trên nhiều lĩnh vực mà hai nước đã đạt được trong khoảng hơn 10 năm kể (từ 1995 đến 2006); Tác động của những thành tựu đó trong quá trình phát triển đất nước của Việt Nam và đối với xã hội Hoa Kỳ. Từ đó đưa ra những đánh giá và nhận xét xác đáng về vai trò và
  16. vị trí của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong lịch sử đối ngoại Việt Nam thời hiện đại. 4. NGUỒN SỬ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1 Nguồn sử liệu Trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu đề tài “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006”, tôi có điều kiện để tiếp xúc với các nguồn tư liệu sau đây: 1. Các tài liệu gốc như thư tín, các tuyên bố và văn bản ngoại giao liên quan đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Đây là những tài liệu chính thức của Chính phủ và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố tại các cổng thông tin điện tử của nhà nước Hoa Kỳ. 2. Văn kiện đại hội, hội nghị Đảng Cộng sản Việt Nam trong các nhiệm kỳ VI, VII, VIII, IX, X có liên quan đến chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới. Các tuyên bố, văn bản ngoại giao do chính phủ Việt Nam tuyên bố với Hoa Kỳ. Ngoài ra, tôi còn sử dụng hồi ký của một số nhà ngoại giao Việt Nam như một dạng tư liệu gốc phục vụ cho đề tài này. 3. Các tác phẩm, bài báo bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử, ngoại giao, kinh tế Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài. 4. Các tác phẩm, bài nghiên cứu của các sử gia, các nhà chính trị – ngoại giao, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa. 5. Các tạp chí trong và ngoài nước, luận văn, luận án có liên quan. 4. 2 Phương pháp nghiên cứu: 1. Cũng như các đề tài luận văn lịch sử khác, phương pháp cơ bản nhất mà tôi sử dụng là phương pháp lịch sử. Trên cơ sở phân tích, so sánh các sự kiện lịch sử, đề tài này cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát sự kiện lịnh sử, trình bày lịch sử như nó từng có.
  17. 2. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Yêu cầu của phương pháp này là đặt đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống mối quan hệ nhất định. Ở đây, chúng tôi đặt quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong bối cảnh khu vực và thế giới. Từ đó thấy được quan hệ này vừa là yếu tố tham gia vào các mối quan hệ chung trong khu vực đồng thời chịu sự tác động của các mối quan hệ ấy. 3. Phương pháp liên ngành: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực, vừa mang tính khoa học xã hội vừa mang tính khoa học tự nhiên. Vì vậy mà chúng tôi cũng sử dụng phương pháp này trong quá trình thực hiện đề tài trên cơ sở tài liệu phân ngành: lịch sử học, ngoại giao học, kinh tế học, chính trị học… 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Trên cơ sở tập hợp, lựa chọn, xử lý các tư liệu có được từ nhiều nguồn khác nhau, luận văn mô tả lại một cách trung thực và khách quan bức tranh tổng thể quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, năm 1995 đến khi hai nước đạt được thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới vào tháng 5 năm 2006. Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ cung cấp hệ thống thư mục trong và ngoài nước cùng với những ý kiến và luận điểm cơ bản của các nhà nghiên cứu về vấn đề này, góp phần bổ sung vào việc nghiên cứu một vấn đề còn tương đối mới trong lịch sử Việt Nam. Không dừng lại ở việc trình bày, hệ thống hóa các nguồn tư liệu và các luận điểm cơ bản của các nhà nghiên cứu, luận văn còn đi sâu phân tích, giải thích những nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006, đồng thời chỉ ra sự tác động tương hỗ trong quan hệ giữa hai nước. Luận văn cũng cố gắng hệ thống hóa những thành tựu nổi bật trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, qua đó thấy được tính biện chứng trong quá trình phát triển của mối quan hệ này.
  18. Cuối cùng, nội dung của luận văn có thể là nguồn tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói riêng và lịch sử ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại nói chung. 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN Luận văn được trình bày trong 120 trang gồm phần mở đầu, 3 chương nội dung và phần kết luận. Chương 1: TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ (1975 – 1995) Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA ĐẾN CUỐI NHIỆM KỲ THỨ HAI CỦA TỔNG THỐNG BILL CLINTON (1995 – 2000) Chương 3: QUAN HỆ VIỆT NAM HOA KỲ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG GEORGE BUSH (2001 – 2006)
  19. Chương 1 TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ (1975 – 1995) 1.1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau chiến tranh Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam được hoàn toàn thống nhất, cũng vào thời điểm này Hoa Kỳ bắt đầu mở rộng cấm vận và trừng phạt với Việt Nam. Đây được xem như một hình phạt mà Hoa Kỳ áp dụng đối với một nước xã hội chủ nghĩa đối lập từng là kẻ thù chiến tranh của mình. Thực ra, việc cấm vận của Hoa Kỳ với Việt Nam đã bắt đầu từ 1964 nhưng chỉ đối với miền Bắc với Đạo luật về buôn bán với kẻ thù (Trading With the Enemy Act – TWEA) ban hành năm 1917. Đạo luật này cấm hoạt động buôn bán của Hoa Kỳ với các nước thù địch hoặc đồng minh của một nước thù địch trong thời chiến * . Từ tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ mở rộng cấm vận toàn bộ Việt Nam. Đây là một hình thức trừng phạt phổ biến của Hoa Kỳ đối với những nước bị xem như thù địch. Theo định nghĩa chung, cấm vận là sự ngăn cấm quan hệ ngoại giao, buôn bán, thương mại, vũ khí, năng lượng, đi lại vận chuyển hàng hóa (bằng đường bộ, hàng không hay đường biển), khoa học kỹ thuật... với một nước nào đó. Nó thường được một nước có nhiều tiềm lực, có nhiều ảnh hưởng sử dụng để chống lại một nước khác. Mục tiêu của cấm vận là gây khó khăn cho nước khác trên lĩnh vực bị cấm vận cũng như các lĩnh vực có liên quan. Ảnh hưởng của cấm vận kinh tế tùy thuộc vào sức mạnh kinh tế của nước cấm vận, khả năng kinh tế của nước bị cấm vận và các đồng minh của nó. Các nước * Năm 1977, quyền hạn của Tổng thống được quy định trong Luật buôn bán với nước thù địch để kiểm soát các giao dịch kinh tế trong thời bình được chuyển sang Luật Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế – International Emergency Economic Powers Act. Kể từ đó, IEEPA là công cụ chính để áp đặt các biện pháp kinh tế đối với các nước thù địch khi không có một tuyên bố chiến tranh chính thức nào.
  20. nhỏ, cô lập, khi bị nước lớn cấm vận thì có thể gặp khó khăn trong việc xuất nhập khẩu, khó hòa nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế khó phát triển hơn và khó tiếp cận các tài nguyên chiến lược. Lệnh cấm vận thường được sử dụng như một sự trừng phạt chính trị do sự bất đồng về chính sách và hành động trái với một nhóm nước lớn mạnh về mọi mặt. Mặt khác nó còn là công cụ xử lý, đe dọa một số quốc gia không tuân theo. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, OPEC (Organization of the Petroleum Exporting Countries – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ)... là các tổ chức, quốc gia có khả năng cấm vận gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia khác. Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ chống Việt Nam chịu sự điều chỉnh của nhiều loại luật lệ, điều kiện và các công cụ kinh tế, chính trị khác nhau của Hoa Kỳ. Đầu tiên là Luật mở rộng các hiệp định thương mại được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua năm 1951 quy định không cấp Quy chế Tối huệ quốc cho các nước cộng sản và các nước có xung đột vũ trang với Hoa Kỳ. Luật này lúc đầu ở châu Á được áp dụng cho Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, đến năm 1954 áp dụng đối với miền Bắc Việt Nam và từ năm 1975 áp dụng đối với cả nước Việt Nam thống nhất. Luật mở rộng các hiệp định thương mại về sau được tăng cường và bổ sung thêm bằng một số điều luật và quy chế khác của Hoa Kỳ như Quy chế kiểm soát các tài sản của nước ngoài dựa trên cơ sở của Luật buôn bán với kẻ thù năm 1917 (TWEA) thường được gọi là chính sách cấm vận buôn bán của Hoa Kỳ, và Đạo luật bổ sung Jackson – Vanik do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua (cùng với Luật Mậu dịch – Trade Act) năm 1974, quy định không dành Quy chế Tối huệ quốc cho những nước được xem là không có nền kinh tế thị trường (thường là các nước cộng sản) và hạn chế quyền tự do di cư. Vận dụng những điều trên, Chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách cấm vận và trừng phạt hoàn toàn đối với Việt nam: cấm các quan hệ đi lại,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0