VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
THẠCH THIÊN HÀ
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
THẠCH THIÊN HÀ
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nguồn rõ ràng đảm bảo tính chính xác, trung
thực. Kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Thạch Thiên Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN .............................................................................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản...................................................................................... 8
1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian
dối trong Bộ luật Hình sự ................................................................................ 18
1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh ................................. 23
1.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản..28
Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .............................. 31
2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ...... 31
2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh33
Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC NINH ..................................................................................................... 50
3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian tới............................................................................ 50
3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự
ĐTD Đinh tội danh
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
TAND Tòa án nhân dân
PLHS Pháp luật Hình sự
PLTTHS Pháp luật Tố tụng hình sự
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến
thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS).
Thời gian qua tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt
động lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên nhiều lĩnh vực gây bức xúc trong
dư luận xã hội, ảnh hưởng phức tạp đến tình hình an ninh trật tự, hoạt động
sản xuất kinh doanh của người dân. Các đối tượng sử dụng nhiều phương thức
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản.
Theo Báo cáo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019), TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh
đã xét xử sơ thẩm 405 vụ/720 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 142 vụ/151 bị
cáo và xét xử phúc thẩm 346 vụ án/650 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 120
vụ/131 bị cáo. Có thể thấy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm tỉ lệ cao
trong nhóm tội xâm phạm sở hữu và đang có xu hướng gia tăng trong thời
gian từ năm 2017 đến hết năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó có
những vụ án hết sức phức tạp điển hình: vụ án Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn
Quốc Hùng và đồng phạm có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 45 tỷ đồng
của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh… đã gây ảnh hưởng lớn đến
tình hình an ninh trật tự và sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
Thực tiễn cho thấy đa số các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết, đưa ra xét xử đều đảm bảo xử lý đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên thực tiễn vẫn còn có vụ điều tra,
truy tố, xét xử chưa đúng tội danh có sự nhầm lẫn với một số tội danh khác
như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc chưa thống nhất trong
1
việc định tội danh hành vi làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để
lừa đảo chiếm đoạt tài sản...Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ một số quy
định của BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời áp dụng nên có
còn quan điểm, cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội
ngũ chủ thể định tội danh còn hạn chế...Điều này dẫn đến việc định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp chưa chính xác, xâm
phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của
các cơ quan tư pháp. Trong khi đó, các công trình khoa học nghiên cứu về
định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ sau khi BLHS năm 2015 có
hiệu lực pháp luật không nhiều, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến hết năm 2019.
Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nên trên, tác giả lựa chọn đề tài:
“Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ là hoàn toàn có tính cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong các
công trình nghiên cứu khác nhau như:
(i) Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội
phạm - quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam; Lê Cảm và Trịnh
Quốc Toản (chủ biên, 2004), Định tội danh-lý luân, hướng dẫn mẫu và 350
bài tập thực hành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh
(2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân,
2
Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Dương Tuyết
Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã
hội, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng
dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb Tư
pháp, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự,
Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2013),
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần
các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; v.v…
(ii) Công trình khoa học là các bài viết trên các tạp chí, báo: Lê Đăng
Doanh (2004), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến lĩnh vực hoàn
thuế giá trị gia tăng, Tạp chí Tòa án nhân dân, (22), Hà Nội; Lê Đăng
Doanh (2006), Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội
phạm nay ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, Tạp chí Tòa án nhân
dân, (24); PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1998), Đối tượng của các tội xâm
phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/1988, tr 50 – 57; Nguyễn
Ngọc Chí (1997), Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở
hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6); Nguyễn Ngọc Chí (1997), Yếu tố
chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (11).
(iii) Công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn: Nguyễn Ngọc Chí
(2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến
sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương Hiền (2007),
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trịnh Hồng Phương
(2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
3
thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Ngọc Dinh
(20160, Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; v.v...
Liên quan trực tiếp đến đề tài có một số công trình nghiên cứu như:
Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk),
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (1997), Vấn đề định tội
danh trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).
Các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập và nghiên cứu tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản cùng với các chế định khác nhau của BLHS, trên
phạm vi nghiên cứu rộng hoặc theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn
đề “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chỉ là một phần nhỏ trong
nội dung nghiên cứu của các tác giả. Liên quan trực tiếp đến đề tài tác giả
nghiên cứu không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận
và thực tiễn về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam một cách cụ thể, chuyên
sâu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp,
trong thời gian từ năm 2015 đến 2019. Do vậy, đề tài luận văn “Định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính mới
và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích khoa học để làm sáng
tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội
4
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả
của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi
phạm pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Đánh giá về thực trạng định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Dự báo và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm định tội danh đúng
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu trong chuyên ngành luật
hình sự và tố tụng hình sự, với hoạt động định tội danh chính thức của Tòa án,
có sự phối hợp với chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân.
Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, Điều 174 BLHS năm 2015.
Phạm vi về chủ thể: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (hai cấp: cấp tỉnh
và cấp huyện) trong đó Thẩm phán là Chủ thể chính (không nghiên cứu Tòa
án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự), trong quá trình nghiên cứu có
5
sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Ninh.
Phạm vi về thời gian: Đề tài luận văn nghiên cứu từ năm 2015 đến hết
năm 2019.
Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên đại bàn tỉnh Bắc
Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm,
định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về
chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật
hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích ví dụ điển hình và tổng hợp số
liệu dựa trên những bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh;
phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, quy nạp để tổng hợp
các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Những nội dung của luận văn đưa ra nhằm góp phần
làm phong phú thêm lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, qua đó nâng cao nhận thức về hoạt động
định tội danh trong luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp đưa ra, tác giả
sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội lừa đảo
6
chiếm đoạt tài sản, tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan
có thẩm quyền nói chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối
với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn, đặc biệt
đội ngũ công chức trong các cơ quan tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh..
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Dự báo và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khái niệm pháp lý về tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều
8, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm
2015).
Trong BLHS năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc chương
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ
sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân” [17, tr4]; Trên cơ sở tiếp
XVI nhóm các tội xâm phạm sở hữu, “là những hành vi nguy hiểm cho xã
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác bằng thủ đoạn gian dối” [27, tr.214], [17]. Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở
hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để
chiếm đoạt tài sản đó [10, tr.118]. Tác giả đưa ra khái niệm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của người khác.
thu quan điểm của một số tác giả về khái niệm lừa đảo chiếm đoạt tài sản như:
1.1.1.2. Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
8
Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông qua 04 yếu
tố cấu thành tội phạm sau đây:
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt. Do vậy, tội này có đặc điểm chung của các tội phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
người khác đó là ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản
phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với
các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản, tài sản này phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển
dịch được giữa các chủ sở hữu và cùng được thực hiện bằng hành động.
- Khác với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác thì đặc
trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ
đoạn gian dối. Đó là việc người phạm tôi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp
luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình
bằng việc đưa ra các thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả, không đúng
với sự thật hoặc thực hiện các hành vi cụ thể, làm cho người bị lừa dối tin đó
là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể
được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết
(viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách
thức khác nhau.
- Thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm
đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản
cho người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận
được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp
cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành
vi phạm tội khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
9
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian
đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành
vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục
đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản, bao giờ cũng
có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản
- Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn
gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng vì hành này đã được Bộ luật hình
sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương
ứng khác như: Hành vi làm vé bóng đá giả đem bán lấy tiền là hành vi phạm
tội làm vé giả quy định tại Điều 202 BLHS năm 2015; hành vi gian dối trong
việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng... để gây thiệt hại cho
khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198
BLHS năm 2015; v.v...
- Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm
tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d
khoản 1 Điều 174 BLHS): Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,
170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
1.1.1.3. Khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là hoạt động phức tạp, là vấn đề cơ bản và quan trọng
nhất được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố
10
cho đến giai đoạn xét xử. Đây là một thuật ngữ được nghiên cứu dưới góc độ
khoa học pháp lý với nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng
thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng
như pháp luật TTHS và được tiến hành bằng cách, trên cơ sở các chứng cứ
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối
chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [7; tr 33].
TS. Dương Tuyết Miên có quan điểm: Định tội danh là hoạt động thực
tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa
án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác
định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều
luật nào của BLHS hay nói cách khác đấy là quá trình xác định tên gọi cho
hành vi nguy hiểm đã thực hiện [14; tr 9].
Về cơ bản các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý. Tuy nhiên,
tác giả cho rằng, để xây dựng khái niệm định tội danh một cách toàn diện cần
phản ánh được bốn yếu tố quan trọng của hoạt động định tội danh là yếu tố
chủ thể, yếu tố nhận thức (đánh giá, phân tích hành vi phạm tội); yếu tố về so
sánh, đối chiếu kết quả nhận thức đó với quy định của pháp luật hình sự; và
đưa ra được kết luận về hành vi được thực hiện.
Tiếp thu các quan điểm khoa học trên, tác giả có quan điểm như sau:
Định tội danh là một hoạt động nhận thức lý luận, hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân tích, so sánh, kiểm tra, đối
chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, từ đó
xác định và đưa ra kết luận hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là
11
tội phạm thì tội phạm đó là gì và được quy định trong điểm, khoản, điều nào
của Bộ luật Hình sự.
Tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
như sau:
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động nhận thức
lý luận, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố
tụng hình sự, do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân
tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo quy định Điều 174 BLHS năm 2015, từ đó xác định và đưa
ra kết luận hành vi đó có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không, nếu
có thì được quy định tại điểm, khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.
1.1.1.4. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ định nghĩa trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành có
thể rút ra các đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
sau:
Thứ nhất, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động
nhận thức lý luận. Trong đó, chủ thể tiến hành các hoạt động có tính logic như
tiến hành phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu, các tình tiết thực tế của hành
vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại Điều
174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng, trên cơ sở đó kết luận hành vi có phải
tội phạm hay không, là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội phạm khác.
Thứ hai, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hình thức
hoạt động thực tiễn pháp lý. Đây là hoạt động của các chủ thể định tội danh
mà chủ yếu là cơ quan, người tiến hành tố tụng nhằm cụ thể hóa các quy định
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào đời sống thực tế.
Trong hoạt động này thì chủ thể định tội danh triệt để tuân thủ các quy định
của luật tố tụng hình sự nhằm đưa ra kết luận là hành vi được xem xét có đầy
12
đủ các dấu hiệu tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm,
khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.
Thứ ba, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, cần thiết phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối và thông
thường được tiến hành theo một trình tự nhất định.
Thứ tư, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là định tội danh đối
với một loại tội phạm cụ thể - tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài những đặc
điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt động nhận thức có tính logic
của con người, thì định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đặc điểm
riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra
trong thực tế khách quan và quy định của BLHS về tội phạm này.
1.1.2. Căn cứ và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Căn cứ định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù là chính thức hay
không chính thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất đinh. Do đinh tội
danh là sự đánh giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định
tội danh lại là hoạt động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có
cơ sở khoa học. Như vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của
định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Căn cứ pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là toàn
bộ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với
tội phạm này.
Nói cách khác, luật hình sự là luật nội dung (chủ thể định tội danh phải
đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều
174 BLHS hay không) còn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở
pháp lý trên phương diện hình thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm.
13
- Căn cứ khoa học của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Để
mô tả và luật hóa hành vi tội phạm, khoa học luật hình sự sử dụng phương
pháp điển hình hóa thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Tổng hợp các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định trong BLHS được gọi là cấu thành tội phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể
hiện thông qua 04 yếu tố sau:
+ Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Khách thể của tội phạm
là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Không có sự xâm hại quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm [26, tr.86]. Khách thể của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, đó là ba quyền năng là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên, mỗi tội
phạm đều xâm phạm tới khách thể nhất định đều phải thông qua việc tác động
đến đối tượng cụ thể, là bộ phận cấu thành nên khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
khách thể bảo vệ của luật hình sự, khoa học luật hình sự gọi đây là đối tượng
tác động của tội phạm. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đối tượng tác
động là tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng
tác động của tội này, để trở thành đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
thì tài sản đó phải có những đặc điểm nhất định. Tài sản là đối tượng tác động
của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu,
phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản [24; tr.59]. Hơn nữa, tài sản này
phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển dịch được giữa các chủ sở
hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực,
có thể nhìn thấy, sờ thấy. Một số tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của
tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Công
14
trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy… [12; tr.153].
+ Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được
bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thể hiện cách xử sự có tính chất tội
phạm trong thực tế khách quan [6; tr.344]. Các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên
ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công
cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội.
Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Do đặc điểm
riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành
vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn
gian dối.
Theo đó, hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý
chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ
thể khác thành tài sản của mình.
Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm
tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d
khoản 1 Điều 174 BLHS) sau khi đã dùng thủ đoạn gian đối để làm cho người
chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị lừa giao tài sản cho người
phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.
Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hậu quả của tội
phạm (thiệt hại về tài sản) phải được xuất phát từ hành vi chiếm đoạt bằng thủ
đoạn gian dối. Nếu thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì không cấu
thành tội này.
15
- Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên
trong của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích [29, tr.152].
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian
đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành
vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì
không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể
người phạm tội có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Chủ thể của tội phạm: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì chủ
thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ là thể nhân. Theo đó, Chủ thể của tội
phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định [16;
tr.56]. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141,
142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Do vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.
* Ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm
16
đoạt tài sản nói riêng là hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, xác định chính xác tội phạm mà người phạm tội thực hiện, từ đó các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có cơ sở quyết định hình
phạt tương xứng đối với tội phạm, đảm bảo cho việc phân hóa TNHS và cá
thể hóa hình phạt, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lột tội phạm. Định tội danh đúng là cơ
sở để áp dụng chính xác các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, quyền bào chữa của bị can, bị cáo...
Thứ hai, định tội danh đúng đảm bảo thực hiện đúng một số các nguyên
tắc tiến bộ của nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc
bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc công minh, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc trách nhiệm do lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá
nhân, qua đó góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
quyền con người trong lĩnh vực hình sự.
Và ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền của con người, làm
giảm uy tín của các cơ quan tố tụng, làm giảm niềm tin của người dân đối với
pháp luật, đối với các quyết định, bản án của Tòa án, làm giảm hiệu quả công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng.
17
1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu
hiệu gian dối trong Bộ luật Hình sự năm 2015
1.2.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách
hàng
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội lừa dối
khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS. Mặc dù cả hai tội đều thực
hiện hành vi phạm tội bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản với lỗi cố
ý trực tiếp. Tuy nhiên, giữa hai tội có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
- Về khách thể:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
người khác.
+ Tội lừa dối khách hàng: Xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng.
- Hành vi khách quan:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối làm cho
người có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội.
+ Tội lừa dối khách hàng: Hành vi khách quan của tội lừa dối khách
hàng tuy có thủ đoạn gian dối nhưng gian dối trong các lĩnh vực mua, bán
bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, hoặc dùng thủ đoạn gian dối
khác trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
- Mục đích:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Chiếm đoạt tài sản.
+ Tội lừa dối khách hàng: Thu lợi bất chính.
- Chủ thể của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Bất kỳ người nào trên 16 tuổi và có
năng lực TNHS.
18
+ Tội lừa dối khách hàng: Người nào trên 16 tuổi và có năng lực
TNHS nhưng thông thường là những người tham gia vào quá trình mua bán
và thường là người bán mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
+ Tội lừa dối khách hàng: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.
Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm. Khoản 2: bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.2.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 290 BLHS. Cả hai tội danh đều có
chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi luật
19
định có hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối, với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy
nhiên, có những điểm khác biệt sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản
của người khác.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản
của người khác, đồng thời xâm phạm đến chế độ quản lý an ninh mạng, an
toàn công cộng, trật tự công cộng.
- Hành vi khách quan
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng
thủ đoạn gian dối, nhưng không sử dụng môi trường mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách
sử dụng môi trường mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (sử
dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân
để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,
dịch vụ; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm
đoạt tài sản…).
- Hậu quả của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Phải chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên. Nếu dưới 2.000.000 đồng phải kèm
theo một trong các tình tiết theo khoản 1 Điều 174 BLHS.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xảy ra hay không (có chiếm đoạt được
tài sản hay không) không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc.
20
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.
Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu
một phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.2.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội làm, buôn bán
tem giả, vé giả
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội làm, buôn
bán tem giả, vé giả được quy định tại Điều 202 BLHS. Hai tội danh mặc dù
đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, và đều có chủ thể người từ đủ 16
tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Nhưng hai tội danh
có những điểm khác biệt cơ bản sau:
- Về khách thể của tội phạm:
21
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm quyền sở hữu của người
khác. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản (chủ yếu là: vật, tiền).
+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Xâm phạm đến chế độ quản lý
của Nhà nước về in, phát hành và sử dụng các loại tem, vé. Đối tượng tác
động của tội phạm là các loại tem giả, vé giả (các loại tem, vé không phải do
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hành).
- Hành vi khách quan:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng
thủ đoạn gian dối.
+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Có hành vi tạo ra tem giả, vé giả
hoàn toàn hoặc sửa lại nội dung của tem, vé thật hết giá trị hoặc có hành vi
mua đi bán lại đề kiếm lời các loại tem, vé mà biết rõ đó là giả.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt tiền từ 30.000.000
đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng
đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Hình phạt bổ
sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
22
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Các bước định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1.1. Tóm tắt, phân tích hành vi vi phạm đã xảy ra
Đây là bước đầu tiên, rất quan trọng và có ý nghĩa tiền đề cho các bước
sau này trong định tội danh. Trong giai đoạn này chủ thể, người có thẩm
quyền (theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì gồm các cơ quan tiến hành
tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (như Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm..) tận dụng tối đa các biện pháp mà pháp luật cho
phép kết hợp cùng với kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý
luận, thực tiễn để thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ và làm rõ tất cả các tình
tiết liên quan đến hành vi vi phạm một cách khách quan, toàn diện.
Trong giai đoạn này chủ thể định tội danh (giai đoạn ban đầu thông
thường là Cơ quan điều tra) trong quá trình tiếp nhận và kiểm tra, xác minh
nguồn tin tội phạm sẽ tiến hành làm rõ căn cước, lai lịch của người báo tin,
quan hệ của người báo tin với bị hại…có liên quan đến vụ việc, thời gian, địa
điểm xảy ra sự việc, bị hại là ai, mức độ thiệt hại thế nào; đặc điểm của tài sản
bị chiếm đoạt, đồ vật, giấy tờ được sử dụng thực hiện việc chiếm đoạt tài sản,
lý do phát hiện sự việc, thủ đoạn tiếp xúc làm quen, thủ đoạn dùng lời nói,
dùng đồ vật, giấy tờ gây lòng tin, những công cụ, phương tiễn đã sử dụng,
cách thức chiếm đoạt tài sản, thiệt hại gây ra như đặc điểm, số lượng, giá trị
tài sản bị chiếm đoạt...trên cơ sở lời khai của bị hại, người làm chứng, khám
nghiệm hiện trường.
23
Việc thu thập các tình tiết của sự việc phải đầy đủ, toàn diện, trung
thực, chính xác, khách quan và khoa học và phải được kiểm tra, phân tích,
đánh giá độc lập, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, sau đó đặt trong mối
quan hệ với các tình tiết khác, trong cả quá trình diễn biến sự việc xảy ra, từ
đó đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần
là những vi phạm dân sự, kinh tế. Nếu không có dấu hiệu của tội phạm thì
hoạt động định tội danh dừng ở đây, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì hoạt
động định tội danh chuyến sang giai đoạn thứ hai
1.3.1.2. Xác định khách thể loại bị xâm hại và quan hệ pháp luật hình
sự cần kiểm tra
Đây là giai đoạn nhằm xác định tội phạm mà chủ thể thực hiện thuộc
chương các tội phạm xâm phạm sở hữu hay chương khác của BLHS; nói cách
khác đây là giai đoạn xác định xem khách thể loại được pháp luật hình sự bảo
vệ đã bị tội phạm xâm hại đến là gì, có phải là quyền sở hữu tài sản hay
không, đối tượng tác động có phải là tài sản không. Tài sản đó có nằm trong
sự quản lý của chủ sở hữu, có được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển
dịch được giữa các chủ sở hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là
tài sản hữu hình, có thực, có thể nhìn thấy, sờ thấy hay không, có rơi vào các
loại tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của tội xâm phạm sở hữu mà là
đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Công trình, phương tiện giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy...
Sau khi xác định khách thể loại bị xâm hại và quan hệ pháp luật hình sự
cần kiểm tra. Định tội danh chuyển sang giai đoạn thứ ba.
24
1.3.1.3. Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự trong mối liên hệ với
hành vi phạm tội
Đây là giai đoạn nhằm đối chiếu hành vi người phạm tội thực hiện với
các dấu hiệu cấu thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
174 BLHS. Khi đã xác định được hành vi phạm tội do chủ thể có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác
thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản (thuộc nhóm tội xâm phạm sở hửu có
tính chất chiếm đoạt), chủ thể định tội danh cần tiến hành đối chiếu, so sánh
các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự phù hợp
giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm xem có
thỏa mãn cấu thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174
BLHS hay không.
Nói cách khác, cẩn kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản với hành vi phạm tội đã thực hiện trên thực tế nhằm xác
định: Người phạm chiếm đoạt được tài sản có phải bằng thủ đoạn gian dối hay
không? Người thực hiện hành vi có ý định chiếm đoạt tài sản hay không? Ý
định chiếm đoạt tài sản xuất hiện trước hay sau khi có được tài sản? Giá trị tài
sản bị chiếm đoạt có đủ 2.000.000 đồng (trường hợp dưới 2.000.000 đồng thì
xác định có thuộc vào một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
174 BLHS)
Khi đã xác định chính xác điều luật cần áp dụng thì phải xác định thuộc
khoản nào, điểm nào, trên cơ sở đó kết hợp với các tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ cũng như các yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội, tội phạm
được thực hiện có đồng phạm hay không, tội phạm kết thúc ở giai đoạn nào
để quyết định hình phạt cho hợp lý.
25
1.3.1.4. Kết luận
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật trên cơ sở kết luận về sự phù hợp
giữa hành vi mà người phạm tội thực hiện với các yếu tố cấu thành của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS.
1.3.2. Phân loại định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định
tội danh, có thể phân chia định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm hai
dạng là: Định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp
lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật thực hiện: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân [48; tr.23].
Do đó, định tội danh chính thức tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án, và Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra. Dạng định tội danh này làm phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các
quan hệ pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia
các quan hệ đó.
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm
tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công
trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm
nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra. [48, tr.23].
Định tội không chính thức tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phát
sinh quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng
hình sự của các chủ thể tham gia các quan hệ đó. Đây chỉ là sự thể hiện quan
điểm, ý kiến cá nhân. Đây là loại định tội có ý nghĩa quan trọng trong quá
26
trình nghiên cứu pháp luật, như một phương pháp nhận thức luật pháp. Định
tội không chính thức góp phần tạo thành dư luận xã hội về pháp luật.
- Dựa trên CTTP cơ bản (cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội),
CTTP tăng nặng (ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu định khung
tăng nặng) và CTTP giảm nhẹ (ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu
định khung giảm nhẹ). Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được phân
ra thành định tội danh theo CTTP cơ bản (theo khoản 1 Điều 174 BLHS) và
định tội danh theo CTTP tăng nặng (khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS).
1.4. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
* Cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 174):
- Trường hợp thứ nhất: Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên.
- Trường hợp thứ hai: Tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng,
nhưng chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản
mà còn vi phạm.
Đây là trường hợp đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành
vi chiếm đoạt tài sản như: trộm cắp tài sản, cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài
sản, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính, nay lại có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng.
- Trường hợp thứ ba: Tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng
chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các
tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS
năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
27
Đây là trường hợp một người chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng,
nhưng chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hoặc trộm cắp tài
sản, cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp
giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng.
- Trường hợp thứ tư: Chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng
gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Đây là trường hợp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới
2.000.000 đồng nhưng gây ra ảnh hường xấu (rất xấu, đặc biệt xấu) đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
người bị hại và gia đình họ.
Gây ảnh hưởng xâu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những
tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã
hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh
giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. [12; tr. 164].
Khi áp dụng tình tiết tài sản là phương tiện kiếm sống chính của bị hại
và gia đình họ này cần phải đánh giá ý nghĩa của đối tượng tác động của tội
phạm đối với người bị hại và gia đình người bị hại trên phương diện giá trị
kiếm sống.
*Cấu thành tội phạm tăng nặng (khoản 2,3,4 Điều 174):
- Khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015:
+ Có tổ chức: Là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 17 BLHS). Phạm tội có
tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với
28
nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dưới sự
điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
+ Có tính chất chuyên nghiệp: Được hiểu là người phạm tội cố ý phạm
tội từ năm lần trở lên về cùng một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phân
biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa
án tích. Và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và
lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng.
+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích
mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng theo khoản 3, khoản 4 Điều 174 BLHS. Hoặc đã tái phạm,
chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức là các trường hợp: người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội…đã lợi dụng vị trí công tác (chức vụ, quyền hạn) của mình
trong cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác; người
tuy không có chức vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…nhưng
đã lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình để lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của người khác [12; tr.193].
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Dùng thủ đoạn xảo quyệt trong khi phạm
tội, là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm
29
làm cho người bị hại hoặc những người khác khó lường thấy được để đề
phòng, nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Là trường hợp người phạm tội đã lợi
dụng thiên tai, dịch bệnh để thực hiện tội phạm.
- Khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Kết luận Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã phân tích một số vấn đề lý
luận và pháp luật về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Khái
niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, cơ sở của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân biệt
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian dối như tội lừa
dối khách hàng, tội với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; tội làm, buôn bán tem giả,
vé giả. Các kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp
phần bổ sung lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giúp cho
việc nhận thức và áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm này được
chính xác và toàn diện hơn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương
1 là cơ sở để tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong Chương 2 của Luận văn.
30
Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc
Ninh
Hiện nay TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh có 137 biên chế, trong đó có
64 Thẩm phán (01 Thẩm phán cao cấp, 28 Thẩm phán Trung cấp và 35
Thẩm phán sơ cấp) với 02 Tiến sĩ, 24 Thạc sĩ và 38 trình độ Cử nhân (xem
Phụ lục: Bảng 7, Bảng 8). Theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc
Ninh trong 05 năm giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019. TAND hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đã thụ lý xét xử sơ thẩm 405 vụ án, đối với 720 bị cáo về tội
phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó thụ lý xét xử sơ
thẩm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 152 vụ án đối với 163 bị cáo, đưa ra
xét xử 142 vụ với 151 bị cáo (xem Phụ lục: Bảng 2, Bảng 3 và biểu đồ).
Qua bảng thống kê và biểu đồ nêu trên có thể thấy, tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được đưa ra xét xử sơ thẩm chiếm tỷ lệ cao trong số các vụ
án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được đưa ra xét xử sơ thẩm.
Trong đó năm 2016 tỉ lệ số vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm là thấp nhất với
22 vụ/24 bị cáo (chiếm tỉ lệ 34,9% về số vụ và 21,4 % về số bị cáo so với
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt), nhưng đến năm năm
2017, 2018, 2019 thì tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đang có xu
hướng diễn biến phức tạp. Cụ thể: trong năm 2017 thì TAND hai cấp tỉnh Bắc
Ninh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 33 vụ với 34 bị cáo, tăng 11 vụ và 10 bị cáo so
với năm 2016, nhưng đến năm 2018 thì đã giảm xuống còn 29 vụ với 30 bị
cáo, đến năm 2019 thì số vụ án lại tăng lên 31 vụ và 35 bị cáo. Cho thấy, tình
hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra không có quy luật nhất định nhưng
31
có xu hướng tăng vào năm 2019, do sự phát triển trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội tỉnh Bắc Ninh, đòi hỏi công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm
cần được chú trọng hơn nữa.
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc Ninh trong
05 năm giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019, TAND tỉnh Bắc Ninh đã
thụ lý ở cấp phúc thẩm 346 vụ án, đối với 650 bị cáo trong nhóm tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
là 123 vụ án đối với 134 bị cáo và đưa ra xét xử 120 vụ với 131 bị cáo (xem
Phụ lục: Bảng 4, Bảng 5 và biểu đồ).
Qua bảng số liệu và biểu đồ nêu trên, có thể thấy án hình sự phúc thẩm
về tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là khá nhiều.
Cho thấy có nhiều kháng cáo, kháng nghị về các bản án. Qua khảo sát các
bản án được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh xét xử cho thấy, các bị cáo kháng
cáo chủ yếu về vấn đề hình phạt. Cũng như việc xét xử sơ thẩm thì xét xử
phúc thẩm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn biến
không theo quy luật nhất định, nhưng đang có xu hướng tăng vào năm 2019
với 29 vụ/33 bị cáo so với 25 vụ/26 bị cáo vào năm 2018. Đây là con số thể
hiện sự tăng nhanh và diễn biến phức tạp khó dự đoán của loại tội phạm này
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian sắp tới.
Bên cạnh đó, thực tiễn định tội danh cho thấy, tỷ lệ vụ án về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bị cấp phúc thẩm hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại ở cấp
sơ thẩm hầu như không có (có 01 vụ năm 2019) trong giai đoạn từ năm 2015
đến năm 2019. Số án bị sửa do nhầm lẫn về tội danh chiếm tỷ lệ thấp (1,6 %),
chủ yếu là sửa nội dung hình phạt theo hướng giảm nhẹ TNHS cho các bị
cáo. Thể hiện chất lượng định tội danh tội lừa đào chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh có nhiều tiến bộ rõ rệt (xem Phụ lục: Bảng 6).
32
2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Bắc Ninh
2.2.1. Những kết quả đạt được
Qua nghiên cứu các bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc
Ninh xét xử cho thấy, đa số các vụ án đều định tội danh đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Quá trình xử lý vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp
luật, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Có được kết quả
trên đây là do sự nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan tố tụng của tỉnh Bắc Ninh.
Một số vụ án lớn, điển hình gần đây như:
Vụ án số 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2017/HSST ngày 15/6/2017
297/2018/HSPT, ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội)
của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (Bản án hình sự phúc thẩm số
Nội dung: Năm 2005, Doãn Ngọc Giang và vợ là Kiều Thị Thanh
Hương, trú tại số nhà 344 Cầu Giấy, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu
Giấy, Tp. Hà Nội đã thành lập Công ty cổ phần Dệt Quế Võ có địa chỉ tại
Khu công nghiệp Quế Võ, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Vợ chồng Giang -
Hương có nhờ Nguyễn Việt Hoàng làm Giám đốc Công ty và Nguyễn Thị
Tuyết Thanh làm cổ đông và kế toán trưởng công ty Dệt Quế Võ. Đồng thời,
để tạo dựng bộ hồ sơ nhập khẩu máy móc, thiết bị cho Công ty Dệt Quế Võ
làm thủ tục vay vốn, giải ngân chiếm đoạt tiền của Quỹ hỗ trợ phát triển chi
nhánh Bắc Ninh, Giang và Hương đã thành lập thêm Công ty Cổ phần Dệt
may xuất khẩu Chương Dương, trụ sở tại số 2C Lê Phụng Hiểu, phường
Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, và nhờ Nguyễn Quốc Hùng là lái xe của
Giang và Hương làm Phó Giám đốc công ty.
Trong thời gian từ tháng 12/2005 đến tháng 5/2016, theo sự chỉ đạo của
vợ chồng Giang – Hương, Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh và
Nguyễn Quốc Hùng đã ký khống hồ sơ nhập khẩu máy móc thiết bị không có
33
thật để Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh cho vay vốn, giải ngân số
tiền 45 tỷ đồng. Số tiền này Giang và Hương đã rút ra và chiếm đoạt sau đó
bỏ trốn. Do chưa bắt được Doãn Ngọc Giang và Kiều Thị Thanh Hương nên
Cơ quan điều tra đã tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra vụ án và bị can
đối với Giang, Hương xử lý sau. Còn Quỹ hỗ trợ phát triển chi Nhánh Bắc
Ninh do Nguyễn Thế Tài; Trần Đức Lực, Nguyễn Huy Bình, Nguyễn Thế
Tài, đã cùng nhau cố ý làm trái các quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển về
thẩm định cho vay vốn, giải ngân, dẫn đến hậu quả Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát
triển Bắc Ninh bị Doãn Ngọc Giang và đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt số tiền
45 tỷ đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2017/HSST ngày 15/6/2017 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Việt
Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn Quốc Hùng phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139. Ngày 31/5/2018, TAND
Cấp cao tại Hà Nội đã ra Bản án số 297/2018/HSPT: Tuyên bố các bị cáo
Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn Quốc Hùng phạm
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm
1999 như bản án sơ thẩm đã định tội danh. [39].
Tác giả nhận thấy, đây là một vụ án rất phức tạp, liên quan đến nhiều
đối tượng, với số tiền chiếm đoạt rất lớn. Trong vụ án này, TAND tỉnh Bắc
Ninh và TAND Cấp cao đã tiến hành định tội danh theo các yếu tố sau:
+ Về khách thể: Hành vi của Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết
Thanh, Nguyễn Quốc Hùng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Chi
nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Bắc Ninh với thiệt hại lên đến 45 tỷ đồng.
+ Về chủ thể: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn
Quốc Hùng là người trên 18 tuổi, đạt độ tuổi phải chịu TNHS, có khả năng
34
nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm
đoạt số tiền của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Bắc Ninh.
+ Về mặt chủ quan: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh,
Nguyễn Quốc Hùng đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, các đối tượng
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu
của người khác, thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng vẫn thực hiện.
+ Về mặt khách quan: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh,
Nguyễn Quốc Hùng, mặc dù các bị cáo làm theo sự chỉ đạo của vợ chồng
Giang, Hương nhưng các bị cáo biết rõ Công ty Dệt Quế Võ không có hoạt
động sản xuất. Các bị cáo đồng ý lập các tài liệu, chứng từ không có thực để
rút tiền của Quỹ tín dụng, các bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm, dẫn đến hậu quả Chi nhánh Quỹ
hỗ trợ phát triển Bắc Ninh đã giải ngân toàn bộ số tiền cho vay, không phát
hiện việc không có máy móc, thiết bị nhập khẩu, bị Doãn Ngọc Giang cùng
đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt 45 tỷ đồng.
Vụ án số 2: Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2019/HSST ngày 20/3/2019
của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du (Bản án hình sự phúc thẩm số
50/2019/HSPT ngày 14/8/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh).
Nội dung: Tháng 6 năm 2013, Ngô Văn Ngọc thành lập Công ty Cổ
phần thương mại đầu tư xây dựng Q (gọi tắt là Công ty Q) nhưng không có
bất cứ hoạt động gì, không có chức năng tuyển dụng công chức Nhà nước,
không được cấp đất ở. Ngô Văn Ngọc lấy danh nghĩa công ty để thực hiện
việc tuyển dụng công chức Nhà nước. Khi người lao động đến xin việc, Ngọc
yêu cầu họ đóng những khoản tiền gồm: Tiền lệ phí hồ sơ, lệ phí xét tuyển
công chức (còn gọi là bôi trơn công chức), tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội
và một số khoản tiền khác nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền đó để sử dụng
35
chi tiêu. Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2013 đến tháng 9/2016, Ngọc
chiếm đoạt số tiền là 49.905.000 đồng của các bị hại.
Với nội dung trên, Bản án số 29/2019/HS-ST ngày 20/3/2019 của Tòa
án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố bị cáo Ngô
Văn Ngọc phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 139
BLHS 1999 với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt
thi hành án. Ngày 27/3/2019 bị cáo Ngô Văn Ngọc có đơn kháng cáo xin
được hưởng án treo.
TAND tỉnh Bắc Ninh nhận định Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Ngô
Văn Ngọc về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 139 Bộ luật
hình sự 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngày 14/8/2019,
TAND tỉnh Bắc Ninh đã ra Bản án số 50/2019/HSPT, áp dụng khoản 1 Điều
139, điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 60 BLHS
1999 xử phạt: Bị cáo Ngô Văn Ngọc 20 (hai mươi) tháng tù nhưng cho hưởng
án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian thử thách là 40 (bốn
mươi) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (14/8/2019). [40].
Như vậy, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành định tội danh
hành vi của Ngô Văn Ngọc theo các dấu hiệu sau:
+ Về khách thể: Hành vi của Ngô Văn Ngọc đã xâm phạm đến quyền
sở hữu tài sản của người khác, với tổng số tiền chiếm đoạt của các bị hại
là 49.905.000 đồng.
+ Về chủ thể: Ngô Văn Ngọc là người trên 18 tuổi, đạt độ tuổi phải
chịu TNHS, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn
thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền của các bị hại.
+ Về mặt chủ quan: Ngô Văn Ngọc đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý
trực tiếp, Ngọc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến
36
quyền sở hữu của người khác, thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng vẫn
thực hiện.
+ Về mặt khách quan: Ngọc hứa hẹn với người đến xin việc là họ sẽ
được tuyển dụng vào làm việc, trở thành công chức Nhà nước để các bị hại tin
tưởng, tự nguyện nộp cho Ngọc 49.905.000 đồng.
TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã định tội danh đối với hành vi của
Ngô Văn Ngọc theo khoản 1 Điều 139 trên cơ sở các dấu hiệu trên là hoàn
toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trên cơ sở việc tuân thủ đúng quy
định của pháp luật, lý luận chung về định tội danh và tội danh tội mua bán trái
phép chất ma túy nói riêng. TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã định tội danh
nhiều vụ án khác, đều đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
2.2.2. Một số tồn tại, thiếu sót
Qua nghiên cứu một số bản án của Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cho
thấy, bên cạnh những kết quả tích cực trong định tội danh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nêu trên thì thực tiễn định tội danh cho thấy vẫn còn một số tồn
tại, thiếu sót do chưa có sự thống nhất trong hoạt động định tội danh một số
trường hợp hoặc do tại phiên tòa xuất hiện những tình tiết mới.
Nghiên cứu điển hình 30 vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xét xử cho
thấy một số tồn tại, thiếu sót như:
- Chưa thống nhất trong việc định tội danh trường hợp người thực
hiện hành vi làm giả, sử dụng các giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa
đảo chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
hay cả hai tội danh là lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan,
tổ chức.
37
Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 20/5/2019
của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (Bản án phúc thẩm số 584/2019/HSPT
ngày 27/9/2019 của TAND cấp cao tại Hà Nội).
Nội dung: Khoảng đầu tháng 11/2016, Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm
1970; trú tại: Số 70 đường Tr, phường X, thành phố N, tỉnh Bắc Ninh), nhờ
một người tên là Thanh biệt danh “Thanh tàu ” ở khu Y, phường B làm giả
giấy tờ xe ô tô với chi phí hết 250.000.000 đồng. Sau đó Thanh đã giao cho
Hiệp giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô mang BKS: 99A - 088.91 do Công an
tỉnh Bắc Ninh cấp, tên chủ xe Nguyễn Văn Đại, giấy chứng nhận kiểm định
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 89-01S tỉnh Hưng Yên. Khoảng đầu tháng
01/2017, Hiệp gọi điện thoại và hỏi vay anh Trần Quốc Toản số tiền
1.700.000.000 đồng và thế chấp xe ô tô nhãn hiệu Lexus 350, mầu sơn bạc
BKS: 99A - 088.91 mang tên Nguyễn Văn Đại, sau khi ký xong hợp đồng,
anh Toản đã đưa cho Hiệp 1.500.000.000 đồng, còn lại 200.000.000 đồng
ngày 05/01/2017, anh Toản chuyển vào tài khoản số 2602205062967 tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Ninh của vợ Hiệp là
chị Nguyễn Thị Thảo. Đến hạn không thấy Hiệp trả tiền và khi mang xe ô tô
đi mua phí bảo trì đường bộ phát hiện chiếc xe này không có nguồn gốc và
chưa được cấp đăng ký, nên ngày 27/3/2017, anh Toản làm đơn đến Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh tố cáo Hiệp có hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Tại các bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 006953,
BKS: 99A-088.91 mang tên Nguyễn Văn Đại là giả.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 20/5/2019 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự
năm 1999; điểm b khoản 2 Điều 341; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm
g, h Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Hiệp 14 năm tù về
38
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ
quan, tổ chức”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là
17 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/4/2018. Ngày
22/5/2019, bị cáo Nguyễn Văn Hiệp có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.
Ngày 27/9/2019, TAND cấp cao tại Hà Nội đã ra Bản án số: 584/2019/HS-PT
giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HS-ST ngày 20/ 5/2019 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. [42].
Hoặc vụ án: Bản án số 75/2017/HSST ngày 24/11/2017 của TAND
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung: Lợi dụng mối quan hệ quen biết từ trước với anh Nguyễn
Đức Hoạt, nên ngày 08/02/2017, Lê Quang Thái đã dùng thủ đoạn sử dụng
giấy đăng ký và đăng kiểm của xe ô tô nhãn hiệu INOVA BKS 99A - 106.60
do Thái thuê người làm giả từ trước đứng tên Lê Quang Thái để bán xe cho
anh Hoạt. Thấy giấy tờ Thái đưa có dấu đỏ của cơ quan có thẩm quyền nên
anh Hoạt tin rằng chiếc xe ô tô có đặc điểm như trong giấy đăng ký và đăng
kiểm là xe của Thái nên anh Hoạt đã đồng ý mua chiếc xe ô tô đó với giá
320.000.000 đồng và đưa tiền đặt cọc trước cho Thái là 30.000.000 đồng. Sau
khi chiếm đoạt được số tiền 30.000.000 đồng của anh Hoạt, Thái đã ăn tiêu cá
nhân hết. Tại Cáo trạng số 74/CTr - VKS ngày 26/10/2017 của VKSND
huyện Thuận Thành, đã truy tố Lê Quang Thái về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự.
Ngày 24/11/2017, TAND huyện Thuận Thành đã ra Bản án số
75/2017/HSST tuyên bố: Bị cáo Lê Quang Thái phạm tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản”. theo khoản 1 Điều 139, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46,
Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Quang Thái 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. [43].
39
Nhận xét: Thông qua khảo sát một số bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nêu trên cho thấy giữa TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh vẫn chưa có sự
thống nhất trong việc định tội danh đối với trường hợp người phạm tội có
hành vi làm hoặc sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức để thực
hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Có trường hợp Tòa án xử một tội là
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, có Tòa án xử về hai tội là tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc tội sử dụng
tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức. Trong thực tiễn xét xử nhiều địa
phương khác cũng chưa có quan điểm thống nhất trong việc định tội danh,
dẫn đến nhiều vụ án trong thực tiễn bị hủy. Như trong vụ án: Trong khoảng
thời gian từ tháng 7/2015 đến tháng 7/2016, bằng việc đưa ra thông tin gian
dối là có khả năng xin nhiều vị trí việc làm tại Tổng công ty Dệt may H.
Huỳnh Thị Thiên Nga đã trực tiếp nhận, chiếm đoạt tổng cộng số tiền
762.500.000đ của một số người bị hại. Nga đã nhờ Đoàn Thị Thương làm
quyết định riêng cho từng người và nhờ Trần Phước Toàn làm giúp một con
dấu giả, giả chữ ký của Tổng giám đốc Tổng Công ty Dệt may H. Tại Bản án
hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 23/01/2018 của TAND thành phố Đ,
đã dụng điểm a, khoản 4 Điều 139 xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Thiên Nga 08
năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số
178/2018/HSPT ngày 24/1/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã hủy bản
án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại. Do có dấu hiệu bỏ lọt tội “Làm giả
con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. [46].
Tác giả luận văn cho rằng, các trường hợp trên cần định tội danh là
nhiều tội (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức) bởi
hành vi làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đã xâm phạm vào 02 khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ,
40
nên nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì cần phải bị xử lý
hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của
cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
- Thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ để định tội danh hành vi phạm
tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
Điển hình vụ án: Quyết định số 09/2018/HSST-QĐ ngày 14/01/2018
của TAND huyện Yên Phong về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Nội dung: Khoảng 11 giờ ngày 08/10/2017, Nguyễn Đức Trung (trú tại
thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh) gọi điện
cho bạn gái là Nguyễn Thị Hường nhờ chị Hường mượn hộ Trung một chiếc
xe mô tô để Trung đi về quê; chị Hường đồng ý và mượn xe của anh Đào Chí
Phương nhãn hiệu YAMAHA Exciter màu xanh bạc, biển kiểm soát 99H1-
178.70 cho Trung mượn. Sau đó, Trung điều khiển xe đến quán dịch vụ cầm
đồ bán lấy tiền và ăn tiêu cá nhân hết. Ngày 03/11/2017, Nguyễn Đức Trung
đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đầu thú. Căn cứ
vào lời khai của Trung, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong
đã tiến hành làm việc với anh Ngô Trọng Tuấn là chủ cửa hàng cầm đồ “Anh
Quyết” ở thôn Đông Yên - xã Đông Phong - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc
Ninh, Tuấn đã tự nguyện giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an huyện Yên Phong để phục vụ điều tra. Tại bản Kết luận định giá
tài sản số 82/KL-ĐG ngày 10/11/2017 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố
tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận: Chiếc xe mô tô có giá trị còn lại là
32.000.000 đồng (Ba hai triệu đồng). Bản cáo trạng số 176/CTr –VKS ngày
30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã
truy tố Nguyễn Đức Trung về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 14/01/2018
41
Hội đồng xét xử nhận định do còn nhiều tình tiết mâu thuẫn đã ra Quyết định
số 09/2018/HSST-QĐ, tuyên trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. [44].
Nhận xét: Căn cứ vào nội dung vụ án trên cho thấy, nguyên nhân Tòa
án trả hồ sơ điều tra bổ sung bởi giai đoạn điều tra, truy tố chưa làm rõ ý thức
chiếm đoạt của Trung có trước hay sau khi nhận được tài sản; lời khai nhận
của bị cáo tại phiên tòa chưa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình
điều tra, truy tố, còn mâu thuẫn với lời khai của bị hại, người làm chứng;
đồng thời, chưa làm rõ được ý thức chủ quản của Ngô Văn Tuấn là chủ cửa
hàng cầm đồ “Anh Quyết”, đã nhận mua chiếc xe mô tô mô tô YAMAHA
Exciter, có biết chiếc xe đó có nguồn gốc do phạm tội mà có, để truy cứu
trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
hay không. Có thể thấy, thiếu sót trên xuất phát từ năng lực và nhận thức của
người định tội danh trong giai đoạn điều tra, truy tố còn hạn chế. Dẫn đến,
Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.
- Nhầm lẫn giữa tội tham ô tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Ví dụ: Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2015/HSST ngày 20/6/2015 của
TAND huyện Tiên Sơn (Bản án phúc thẩm số 27/2015/HSPT ngày 20/8/2015
của TAND tỉnh Bắc Ninh).
Nội dung: Ngày 01/6/2014, anh vợ của Nguyễn Ngọc Vui là ông
Nguyễn Văn Hùng đã đưa cho Vui số tiền 57 triệu đồng nhờ gửi tiết kiệm hộ
tại Quỹ tín dụng nhân dân xã VN, huyện Tiên Sơn, nơi Vui làm Kế Toán
trưởng của Quỹ tín dụng. Vui đã làm thủ tục gửi tiết kiệm hộ cho ông Hùng
và được cấp số AB2907495 kỳ hạn 06 tháng, lãi suất 0,7%/tháng. Khi làm thủ
tục gửi tiền Vui không ghi số chứng minh thư nhân dân của ông Hùng vào thẻ
ưu sổ tiết kiệm có kỳ hạn và số tiết kiệm có kỳ hạn. Sau đó, Vui tự ý ký tên
“Hùng” vào mục người gửi tiền ở thẻ lưu của sổ tiết kiệm và Vui ký chữ của
mình vào mục kế toán của thẻ lưu tiết kiệm và sổ tiết kiệm có hỳ hạn
42
AB290795 cùng các chữ ký của thủ quỹ và Phó Giám đốc quỹ tín dụng. Ngày
31/8/2014, Vui tự ý rút số tiền gốc 10 triệu đồng và 492.000 đồng tiền lãi
trong sổ của ông Hùng, ngày 19/10/2014, Vui lại tiếp tục rút số tiền
12.600.000 đồng và tự ký tên Hùng vào phần người rút tiền để chiếm đoạt của
Quỹ tín dụng xã VN là 22.649.200 đồng nhưng Vui lại không ghi vào sổ theo
dõi. Đến ngày 01/12/2014, khi tất toán Vui vẫn rút tổng số tiền là 59.394.000
đồng của Quỹ tín dụng để thanh toán cho ông Hùng. Bản án hình sự sơ thẩm
số 41/2015/HSST ngày 20/6/2015 của TAND huyện Tiên Sơn đã quyết định:
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 278; điểm b, p khoản 1,khoản 2 Điều 46; Điều
47; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vui 05 năm tù về tội “Tham ô
tài sản”. Sau khi xét xử sơ thẩm, Vui kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin
được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát cũng
như HĐXX đều cho rằng Quỹ tín dụng nhân dân VN là tổ chức kinh tế thuộc
sở hữu của các thành viên được tổ chức dưới hình thức hợp tác xã. Vốn điều
lệ của Quỹ là tài sản có nguồn gốc do các cá nhân góp vốn và tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập. Do đó,
Quỹ tín dụng không phải là cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Vui với vai
trò Kế toán trưởng Quỹ tín dụng nhân dân xã đã lợi dụng sự tin tưởng của
Giám đốc, Thủ quỹ, Kiểm soát...của Quỹ làm các thủ tục rút tiền nhằm chiếm
đoạt số tiền 22.649.200 đồng của Quỹ tín dụng nhân dân VN nên đã kết án bị
cáo Vui về tội “Tham ô tài sản” là chưa đúng về tội danh. Hành vi giả mạo
danh nghĩa anh Nguyễn Văn Hùng và lợi dụng vai trò làm Kế toán trưởng của
Qũy để làm thủ tục rút tiền tiết kiệm 02 lần chiếm đoạt số tiền 22.649.200
đồng của Quỹ tín dụng nhân dân VN nhưng không hạch toán kế toán, không
ghi số tiền rút từng lần vào thẻ lưu sổ tiết kiệm của bị cáo V có dấu hiệu tội
“Lừa đảo hiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 BLHS năm 1999 (nay là Điều 175
BLHS năm 2015). Do đó, cấp phúc thẩm đã ra Bản án số 27/2015/HSPT ngày
43
20/8/2015 thay đổi tội danh của Vui từ tội tham ô tài sản sang tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. [45].
Nhận xét: Đây là trường hợp mà theo quy định của BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ có thể xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
mà không thể xử lý về tội tham ô tài sản do trước khi BLHS năm 2015 có
hiệu lực thì cơ quan tố tụng chỉ xem xét tội danh này đối với những người có
vị trí, chức vụ quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, công ty
có vốn nhà nước (lĩnh vực công). Nhưng Điều 353 BLHS năm 2015 về tội
tham ô tài sản, đã mở rộng chủ thể của tội tham ô tài sản, theo đó: người có
chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham
ô tài sản thì bị xử lý theo quy định tại Điều 353 BLHS. Do vậy, thời điểm
hiện tại, hoàn toàn có thể xử lý vụ án trên về tội tham ô tài sản.
- Nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Điển hình vụ án: Bản án hình sự phúc thẩm số 16/2019/HSPT ngày
25/7/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung: Do có mối quan hệ quen biết từ trước, ngày 21/9/2015,
Nguyễn Văn Chung đến gặp chị Hoàng Thị Yến vay số tiền 100.000.000
đồng (một trăm triệu đồng) để làm ăn kinh doanh, thời hạn vay là một tháng,
lãi suất tính theo lãi suất Ngân hàng (Chung có giấy vay tiền và ký xác nhận).
Đến thời hạn trả nợ, Chung lấy lý do làm ăn khó khăn nên chưa có tiền để trả.
Ngày 10/12/2015, Chung tiếp tục đến gặp chị Yến đưa ra thông tin cần tiền để
đáo hạn Ngân hàng nên tiếp tục vay chị Yến số tiền 50.000.000 đồng (năm
mươi triệu đồng), Chung hứa sau khi đáo hạn xong Chung sẽ trả lại cho chị
Yến toàn bộ số tiền 150.000.000 đồng. Tin tưởng Chung nên chị Yến tiếp tục
cho Chung vay số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay
là từ ngày 10/12/2015 đến ngày 10/1/2016, lãi suất hai bên thỏa thuận theo lãi
44
suất Ngân hàng (Chung có viết giấy vay tiền và ký xác nhận). Nhiều lần chị
Hoàng Thị Yến đến yêu cầu Chung trả tiền nhưng bị cáo không trả và bỏ sang
Campuchia để làm ăn, không liên lạc cho chị Yến biết. Ngày 06/11/2017,
Nguyễn Văn Chung và Hoàng Thị Yến lập giấy cam kết trả nợ và xác định:
Nguyễn Văn Chung nợ Hoàng Thị Yến 190.000.000 đồng, cam kết đến ngày
30/11/2017 trả 50.000.000 đồng, sau 4 tháng trả tiếp 50.000.000 đồng và trả
hàng tháng 5 - 7 triệu đồng. Tuy nhiên, sau đó Chung không thực hiện như đã
thỏa thuận lại. Do vậy, chị Yến đã làm đơn tố cáo đối với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của bị cáo Chung. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số
02/2019/HSST ngày 10/1/2019 của TAND huyện Tiên Sơn: Căn cứ điểm c
khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt
Nguyễn Văn Chung 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản
án hình sự phúc thẩm số 16/2019/HSPT ngày 25/7/2019 của TAND tỉnh Bắc
Ninh quyết định: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 1 Điều 358
BLTTHS, hủy toàn bộ nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST
ngày 10/1/2019 của TAND huyện Tiên Sơn để điều tra lại theo thủ tục tố tụng
chung. [41].
Nhận xét: Tác giả luận văn nhận thấy việc TAND tỉnh Bắc Ninh hủy
bản án sơ thẩm để điều tra lại là hoàn toàn có căn cứ, bởi lẽ, Nguyễn Văn
Chung có quan hệ quen biết với gia đình Hoàng Thị Yến nên nhiều lần vay
tiền. Cả hai lần, Nguyễn Văn Chung đều lập Hợp đồng vay có thời hạn, hai
bên thỏa thuận lãi suất theo lãi suất Ngân hàng và ký xác nhận. Tuy nhiên,
ngày 06/11/2017, Nguyễn Văn Chung và Hoàng Thị Yến lập giấy cam kết trả
nợ và xác định: Nguyễn Văn Chung nợ Hoàng Thị Yến 190.000.000 đồng,
với cam kết trả nợ mới. Nói cách khác, Hợp đồng vay tiền của Nguyễn Văn
Chung và Hoàng Thị Yến vào ngày 21/9/2015 và ngày 10/12/2015 đã thay
đổi bằng hợp đồng khác mà các bên đã thỏa thuận ngày 06/11/2017 là hoàn
45
toàn tự nguyện, không trái pháp luật. Như vậy, Nguyễn Văn Chung có thực
hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không đúng như cam kết đã thỏa thuận ngày
06/11/2017 là có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua
hợp đồng vay mượn. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Nguyễn Văn
Chung đưa ra thông tin gian dối để lừa đảo chiếm đoạt số tiền 190.000.000
đồng và tuyên xử bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là chưa đảm
bảo quy định pháp luật.
2.2.3. Nguyên nhân của một số hạn chế, thiếu sót
Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình định tội danh đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh xuất phát từ một số nguyên
nhân khác nhau. Tuy nhiên, theo nghiên cứu tác giả, xuất phát từ những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
* Nguyên nhân khách quan:
- Một số quy định của BLHS hiện hành về tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, chưa có
hướng dẫn rõ ràng. Nhiều quy định của pháp luật liên quan đến tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản chưa được ban hành mới, dẫn đến có quan điểm, đánh giá
khác nhau. Cụ thể: BLHS năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018,
nhưng chưa có văn bản pháp luật mới hướng dẫn về nhóm tội xâm phạm sở
hữu, việc vận dụng áp dụng theo tinh thần các văn bản hướng dẫn cũ còn
nhiều bất cập, chưa đầy đủ, rõ ràng. Hành vi thuộc mặt khách quan của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và một số tội phạm khác chưa được phân biệt Ví dụ:
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 với
hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 BLHS
năm 2015, với hành vi lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 BLHS năm
2015... Những điều ngày gây nhầm lẫn, khó phân biệt trong việc định tội, giải
quyết vụ án. Tác giả luận văn sẽ phân tích sâu nội dung này tại Chương 3 của
luận văn và kiến nghị hoàn thiện.
46
- Một bộ phận người dân không am hiểu và nắm rõ các quy định của
pháp luật, cùng với những kẽ hở trong quy trình quản lý nhà nước, công tác
tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật còn hạn chế, việc nhận diện, phổ biến các
thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến tổ chức, cá nhân còn chưa
được chú trọng...đã tạo điều kiện cho đối tượng phạm tội có cơ hội để thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Công tác phát hiện, tố giác tội phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn
do thái độ bất hợp tác từ phía nạn nhân và gia đình nạn nhân. Ngoài ra, quá
trình giải quyết vụ án, do thời gian đã xảy ra đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ
của người phạm tội, bị hại nên việc giám định, định giá tài sản của có quan có
thẩm quyền gặp khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Có nhiều
trường hợp sau khi bị lừa đảo một thời gian dài, người bị hại mới tố cáo hành
vi của người phạm tội, do đó, việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp
nhiều hóa khăn.
- Sự phát triển của kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh trên các mặt của đời
sống xã hội kéo theo tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng. Điều kiện cơ sở vật chất và
phương tiện phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn khó khăn.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Thiếu sót trong hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ. Năng lực
chuyên môn của những chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có đội ngũ Thẩm
phán khi định tội danh còn hạn chế trong giải quyết các vụ án có liên quan
đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. So với yêu cầu chung thì đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công
tác chưa đồng đều, tinh thần trách nhiệm chưa cao khi được giao xét xử các
vụ án xâm phạm sở hữu. Qua khảo sát và điều tra xã hội học từ cơ quan,
người tiến hành tố tụng cho thấy công tác tổng kết thực tiễn, tăng cường giải
thích, hướng dẫn áp dụng quy định pháp luật về tôi xâm phạm sở hữu và tội
47
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng thông qua các hội nghị, hội thảo, các
chuyên đề, tham luận nghiên cứu khoa học của cơ quan, người tiến hành tố
tụng tỉnh Bắc Ninh còn chưa sâu rộng.
+ Rà soát hệ thống văn bản, quy chế mang tính phối hợp trong hoạt
động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng Bắc Ninh cho thấy: cơ chế phối
hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong công tác điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
về các hoạt động điều tra cụ thể như lấy lời khai bị hại, người làm chứng, phối
hợp trong hoạt động định giá tài sản còn chưa có quy định cụ thể, chưa có sự
phối hợp chặt chẽ.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật hình sự, về phòng, chống
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
còn hạn chế, chưa thường xuyên, dẫn đến nhận thức của một bộ phận người
dân về bảo vệ tài sản và quyền lợi của mình còn hạn chế. Một số vụ việc xâm
hại sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xảy ra nhưng công
tác động viên, tư tưởng đối với nạn nhân và gia đình nạn nhân trong việc hợp
tác, phối hợp với cơ quan tố tụng còn hạn chế, chưa thực sự được quan tâm
sâu sát; việc huy động lực lượng, phương tiện nhằm khẩn trương thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm để điều tra làm rõ toàn bộ hành vi
phạm tội và mở rộng điều tra vẫn còn chưa đồng bộ, kịp thời; một số hoạt
động phối hợp của Tòa án trong việc nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử công
khai, nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục tội phạm còn chậm
trễ. Công tác tổ chức rà soát, hệ thống lại và tập trung lực lượng, phương tiện
đẩy nhanh tiến độ điều tra, không để vụ việc phức tạp, kéo dài, gây phức tạp
tình hình an ninh trật tự tại địa bàn cơ sở còn yếu.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu về khách quan, chủ quan làm
cho hoạt động định tội danh vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và lừa đảo
48
chiếm đoạt tài sản nói riêng gặp thiếu sót như tác giả đã phân tích tại Chương
2 của luận văn.
Kết luận Chương 2
Thông qua Chương 2 của luận văn tác giả đã phân tích một số điểm về
tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh, phân tích tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với những kết quả đạt được
trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, thông qua việc nghiên cứu một số
bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tác giả đã đưa ra một số hạn chế,
thiếu sót của hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trên cơ
sở, nghiên cứu, phân tích một số nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
trong việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như quy định của
BLHS hiện hành về tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu sót trong hoạt
động thu thập và đánh giá chứng cứ, năng lực chuyên môn của những người
tiến hành tố tụng khi định tội danh còn hạn chế, công tác tuyên truyền, hướng
dẫn pháp luật còn hạn chế, việc phổ biến các thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản đến tổ chức, cá nhân còn chưa được chú trọng...là tiền đề để tác
giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi
cả nước.
49
Chương 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC NINH
3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới
3.1.1. Căn cứ dự báo
- Tình hình kinh tế, xã hội: Trong những năm qua với những thành tựu
về kinh tế - xã hội tiếp tục khẳng định chủ trương, đường lối đúng đắn của
tỉnh Bắc Ninh. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt được đã cán đích mục tiêu của
năm 2020 đề ra và sẽ là tiền đề để sớm đưa Bắc Ninh trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương vào năm 2022. Trong đó, quy mô GRDP đứng thứ 7 toàn
quốc; GRDP bình quân đầu người đứng thứ 2 cả nước, thu hút vốn FDI đứng
thứ 6 (6 tháng đầu năm 2019 thu hút FDI đứng thứ 3), giá trị sản xuất công
nghiệp đứng đầu cả nước, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2, thu ngân sách nhà
nước đứng 9 cả nước, tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đứng thứ 1, tỷ lệ lao
động qua đào tạo đứng thứ 5, tỷ lệ trường chuẩn Quốc gia và kiên cố hóa
trường học đứng thứ 1, tỷ lệ Trạm y tế chuẩn Quốc gia đứng thứ 1 cả nước.
Lao động nhàn rỗi sẽ được huy động vào sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhiều
khu công nghiệp, khu đô thị mới sầm uất được hình thành, cơ sở vật chất kỹ
thuật sẽ đạt được những bước tiến dài, đời sống vật chất tình thần của nhân
dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, song song với quá trình
phát triển kinh tế, xã hội nêu trên kéo theo sự gia tăng của tình hình tội phạm
xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải xác định chính xác những
hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh và xử lý kịp thời, nghiêm minh
50
những tội phạm đó nhưng phải đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế, xã hội.
- Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Hiện nay, tình hình tội
phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng,
nhất là tội phạm chiếm đoạt tài sản như lừa đảo với thủ đoạn tinh vi, số tiền
thiệt hại lớn, trong đó có nhiều đối tượng là người Việt Nam và người nước
ngoài thực hiện với phương thức như: Giả danh là kỹ sư, bác sỹ, quân nhân
nước ngoài…trên các mạng xã hội như: Facebook, Zalo để làm quen, kết bạn
sau đó lừa chiếm đoạt tài sản của nạn nhân; giả danh là nhân viên giao nhận
hàng, hải quan, thuế vụ… thông báo thùng quà biếu bị tạm giữ vì trong đó có
nhiều ngoại tệ, hàng hóa có giá trị yêu cầu phải nộp thuế, lệ phí để nhận hàng
hoặc lo lót…Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh nói
chung và với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cũng chính là góp phần
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.
- Yêu cầu thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản: Những hạn chế trong việc định tội danh chủ yếu xuất phát từ một số quy
định của pháp luật hình sự còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, cũng như một số
chủ thể định tội danh còn hạn chế về năng lực, tinh thần trách nhiệm chưa
cao…Ngoài ra, cùng với sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người,
quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đặt ra trách nhiệm của Nhà nước là:
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người; thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Do vậy, bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp tài sản của cá nhân, tổ chức là mục tiêu trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Chính vì vậy, để thực hiện tốt bảo vệ
quyền con người và đấu tranh phòng chống tội phạm thì việc khắc phục
những thiếu sót trong công tác định tội danh có vai trò vô cùng quan trọng và
51
cần thiết, cần được tiến hành ngay nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền
con người và quyền sở hữu tài sản của con người.
3.1.2. Nội dung dự báo
3.1.2.1. Dự báo về tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
thời gian tới
Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới sẽ gia
tăng và còn diễn biến phức tạp, xét trên nhiều phương diện cụ thể là:
+ Mức độ, diễn biến, tình chất của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Tính chất và mức độ, diễn biến của tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản sẽ có xu hướng ngày càng phức tạp và hậu quả do tội phạm sẽ nguy hiểm
hơn theo xu hướng chung của loại tội phạm này trên địa bàn cả nước và
những điều kiện thuận lợi mà các đối tượng có thể lợi dụng để thực hiện hành
vi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
+ Phương thức, thủ đoạn, nạn nhân bị chiếm đoạt tài sản: Phương thức,
thủ đoạn chung của các đối tượng lừa đảo ngày một tinh vi, phức tạp như việc
là giả danh kỹ sư, bác sỹ, quân nhân làm quen, kết bạn qua Facebook, Zalo,
Skype,… rồi hứa kết hôn, bảo lãnh đi nước ngoài, hay gửi quà tặng, làm từ
thiện hoặc vay mượn, sau đó, yêu cầu bị hại phải nộp thuế, phí; sử dụng tài
liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Tài sản bị chiếm đoạt tài sản: Có xu hướng ngày một lớn, không chỉ
là tiền mặt mà còn là các bất động sản như nhà đất...
+ Công cụ, phương tiện phạm tội lừa đảo: Các đối tượng sẽ sử dụng
công cụ, phương tiện ngày một tinh vi như sử dụng các giấy tờ giả được in
công nghệ cao, khó phát hiện như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả,
đăng ký xe ô tô giả...để thực hiện tội phạm.
52
3.1.2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong việc định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
- Thuận lợi:
+ BLHS năm 2015 và các luật, bộ luật khác có liên quan có hiệu lực và
hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành ngày càng nhiều là điều
kiện thuận lợi, hành lang pháp lý quan trọng trong việc định tội danh và xử lý
tội phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đúng tính chất mức độ hành vi
nguy hiểm cho xã hội, không để oan sai.
+ Sự chỉ đạo sát sao, quan tâm của Chính phủ và hệ thống chính trị đấu
tranh với loại tội phạm này nên việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo nhanh
chóng, kịp thời đem lại niềm tin cho quần chúng nhân dân và tài sản bị chiếm
đoạt của các nạn nhân, cơ quan, tổ chức được thu hồi chiếm tỷ lệ cao.
+ Trình độ đội ngũ cán bộ Cơ quan tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm
phán được đào tạo bài bản. Ngày càng nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức
chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm.
- Những khó khăn:
+ Do BLHS năm 2015 mới có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018, các văn
bản ban hành hướng dẫn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và các tội
phạm thuộc chương xâm phạm sở hữu nói chung chưa có hướng dẫn kịp thời
nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và chưa có sự thống
nhất trong việc định tội danh.
+ Công tác phát hiện, tố giác tội phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn
do nhiều nguyên nhân như việc bị hại không muốn đi tố giác do đã thỏa
thuận, thống nhất với nhau tự giải quyết và hòa giải....quá trình giải quyết vụ
án, do thời gian đã xảy ra đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của bị hại nên
việc định giá tài sản của có quan có thẩm quyền gặp khó khăn, ảnh hưởng đến
kết quả giải quyết vụ án.
53
+ Năng lực trình độ của chủ thể định tội danh mặc dù đã nâng lên,
nhưng vẫn còn một bộ phận còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao khi
được giao điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Điều kiện cơ sở vật chất và phương
tiện phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn khó khăn. Có thể thấy,
những khó khăn trên dẫn đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử chưa đạt chất
lượng, hiệu quả như mong muốn.
+ Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn chưa có sự
phối hợp chặt chẽ.
3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Thứ nhất, hoàn thiện luật theo hướng có những quy định cụ thể, cần
thiết, hạn chế sự tùy nghi, bớt khả năng xảy ra trong thực tiễn áp dụng trường
hợp một hành vi thỏa mãn đồng thời nhiều dấu hiệu CTTP như tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng....
Thứ hai, tăng cường nghiên cứu, giải thích pháp luật, xây dựng cơ sở
pháp lý, áp dụng án lệ giải quyết một số vướng mắc trong thực tiễn khi một
hành vi có dấu hiệu của nhiều tội danh có tính chất chiếm đoạt như lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa dối khách hàng... tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động lập pháp và áp dụng luật liên quan đến vấn đề này.
Thứ ba, đào tạo đội ngũ chủ thể có thẩm quyền định tội danh mạnh về
cả số lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp vững
vàng. Mặt khác, là tội phạm có khá nhiều điểm tương đồng với pháp luật dân
sự và bản thân tội phạm này cũng bắt nguồn từ các giao dịch dân sự, vì vậy
các chủ thể có thẩm quyền ngoài việc nắm rõ các quy định của pháp luật hình
sự còn phải có vốn kiến thức nhất định về pháp luật dân sự, khả năng đánh giá
sự việc và đưa ra kết luận, đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay là vi
54
phạm pháp luật dân sự, kinh tế, từ đó mới có thể kết luận chính xác về tội
danh của người phạm tội.
Bên cạnh đó, sự thay đổi trong cách thức tổ chức, quản lý là cần thiết
nhằm tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự trên cơ sở có sự kết hợp và trao đổi ý kiến, quan điểm để đưa ra kết luận
chính xác và thống nhất về hành vi của người phạm tội, đồng thời cần có
chính sách hợp lý để đảm bảo điều kiện sống, làm việc của các chủ thể tiến
hành tố tụng để họ an tâm công tác, làm việc và cống hiến, từ đó mới có cơ sở
để nâng cao chất lượng của hoạt động định tội.
3.2.1. Hoàn thiện quy định Bộ luật Hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
- Thứ nhất, Điều 174 BLHS năm 2015 (tương tự ở Điều 173, 175
BLHS năm 2015) quy định trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000
đồng phải kèm theo một trong các dấu hiệu định tội sau mới cấu thành tội
phạm.
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm.
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm.
Tuy nhiên, quy định trên có điểm bất cập đối với hai đối tượng là
người từ đủ 18 tuổi trở lên, và người dưới 18 tuổi. Cụ thể:
+ Đối với tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản mà còn vi phạm”: Nếu một người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi “đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt…” sau đó lại thực hiện
một trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, (hoặc trộm
cắp, công nhiên chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới
55
4.000.000 đồng...) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản hoặc tội tương ứng.
+ Đối với tình tiết “Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội
quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”: Người từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi nếu đã bị kết án về hành vi quy định tại khoản 1 của các Điều 169 (tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản), Điều 171 (tội
cướp giật tài sản) hoặc bị kết án về tội phạm quy định tại khoản 1, khoản 2
của các Điều 172, 173, 175, 290, do các trường hợp này đều là các tội ít
nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù), tội nghiêm
trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù) nên người bị kết án
không bị coi là có án tích theo quy định tại Điều 107 của BLHS.
Đồng thời tình tiết “đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt…mà chưa được
xóa án tích” không thể áp dụng với đối tượng từ đủ 14 đến dưới 16 do họ
cũng không được coi là có án tích. Trong khi, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ
đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
Như vậy, có thể thấy đối với người dưới 18 tuổi nếu trước đó bị xử phạt
hành chính thì lần sau sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong khi người đó
bị kết án (hình thức cưỡng chế nặng hơn biện pháp hành chính) thì lần sau lại
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là điều không hợp lý.
Do vậy, tác giả luận văn đề xuất BLHS 2015 cần sửa đổi các tình tiết
liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính được mô tả trong cấu thành tội
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (cũng như một số tội xâm phạm sở hữu)
theo hướng: Sửa đổi tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt…” quy định tại khoản 1 Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản),
56
thành “Người từ đủ 18 tuổi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt…”.
- Thứ hai, nhà làm luật nên quy định mức khởi điểm giá trị tài sản
chiếm đoạt. Ví dụ, A có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.000.000
đồng từ trước khi nhận tài sản (cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản)
nhưng A lại khai sau khi nhận tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt để trốn
trách TNHS vì 2.000.000 đồng không đủ định lượng cấu thành tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó, rất dễ xảy ra trường hợp bỏ lọt tội phạm.
Vì vậy, nên quy định mức khởi điểm giá trị tài sản chiếm đoạt của hai tội này
bằng nhau, có thể là 2.000.000 đồng bằng với giá trị của một số tội chiếm
đoạt tài sản khác hoặc cũng có thể là 4.000.000 đồng. Khi đó, sẽ hạn chế bỏ
lột tội phạm, còn việc xác định phạm tội gì sẽ được chứng minh qua các tài
liệu, chứng cứ của vụ án, qua điều tra, truy tố, tranh tụng tại phiên tòa.
3.2.2. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Mặc dù BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy
định rất cụ thể, rõ ràng về khái niệm cũng như hành vi khách quan của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên việc định tội danh đối với tội phạm này chủ
yếu phải căn cứ vào các yếu tố của mặt khách quan để xác định ý thức chủ
quan của người phạm tội bởi căn cứ vào nội dung điều luật có thể xác định.
Mặc dù vậy, cho đến nay, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa ban hành văn
bản mới hướng dẫn cụ thể, thống nhất về chương các tội phạm xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt theo quy định mới của BLHS năm 2015 để giúp
cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc
trong việc xác định CTTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
Thứ nhất, một số tội phạm trong thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt không quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không
57
mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nên đã dẫn đến nhiều
trường hợp hiểu không thống nhất như tội cướp giật tài sản, tội trộm cắp tài
sản…và có sự nhầm lẫn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Do vậy, tác giả kiến nghị, trong thời gian tới nhà làm luật cần ban hành
văn bản hướng dẫn về nhóm tội xâm phạm sở hữu, trong đó đưa ra khái niệm
về hành vi khách quan của một số tội dễ gây nhầm lẫn như tội trộm cắp tài
sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản để tránh gây nhầm lẫn
với một số tội danh khác trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn pháp nhằm làm rõ hơn dấu hiệu
định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để tránh nhầm lẫn với các tranh
chấp giao dịch dân sự hoặc nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
các các tội phạm khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để phạm tội trong
BLHS năm 2015 như tội lừa dối khách hàng, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản…để tránh việc nhầm lẫn trong định tội danh, dẫn tới phải hủy án.
Do vậy, thời gian tới nhà làm luật cần có văn bản hướng dẫn theo
hướng:
+ Xác định mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo đó khi định tội
cần xem xét người phạm tội có mục đích chiếm đoạt hay không và thời điểm
người phạm tội nảy sinh mục đích chiếm đoạt tài sản trên cơ sở đánh giá
khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
+ Trường hợp một người có hành vi gian dối trong việc xác lập các
giao dịch dân sự nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà coi là vụ án tranh chấp về dân sự, nếu
người phạm tội có thiện chí thực hiện các nghĩa vụ dân sự của mình; trường
hợp người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản trước hoặc trong khi thực
58
hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. [25].
- Thứ ba, ban hành văn bản hướng dẫn những vướng mắc trong định tội
danh với một số tội phạm liên quan:
+ Về vướng mắc khi định tội danh trong trường hợp người phạm tội
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức (Điều 341 BLHS) để lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Mặc dù ngày 13/9/2019, TAND tối cao đã có hướng dẫn: “Hành vi làm
giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm
phạm vào 02 khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định
tại Điều 174 và Điều 341 của Bộ luật Hình sự), nên nếu hành vi đó có đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản (Điều 174) và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử
dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341). [37, mục 10].
Và ngày 01/10/2019, Tòa án nhân dân tối cao có Công văn số 233/TANDTC-
v/v trao đổi nghiệp vụ, có hướng dẫn: “Trường hợp người thực hiện 01 hành
vi nhưng thỏa mãn dấu hiệu của nhiều tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội nặng hơn. Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi
hành vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi
trước là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm”.
Tuy nhiên, đây chỉ là hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Tòa án, không
phải là văn bản pháp luật để áp dụng thống nhất trong định tội danh của các
giai đoạn điều tra, truy tố. Do vậy, tác giả kiến nghị thời gian sắp tới nhà làm
luật cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của
BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối bằng cách làm
59
giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức để chiếm đoạt tài sản, nhằm tránh
những quan điểm khác nhau các giữa chủ thể định tội danh.
+ Vướng mắc trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì “người tiêu thụ tài sản biết rõ là do người
khác phạm tội mà có” có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không.
Đây cũng là một vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, được TAND tối cao hướng dẫn nghiệp vụ như sau: “...mặt
chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ
tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà
không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực
hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay
chưa. Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng
có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa
chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác
phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có [38].
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những hướng dẫn, giải đáp của ngành Tòa
án tác giả đưa ra trên, không phải là văn bản pháp luật để áp dụng chung trong
định tội danh của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy thời gian
sắp tới nhà làm luật cũng cần có Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất
quy định của BLHS người tiêu thụ tài sản do phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản mà có nhưng chưa đến tuổi truy cứu TNHS theo tinh thần hướng dẫn nêu
trên, có nghiên cứu để phù hợp với thực tiễn.
60
- Thứ tư, cần nghiên cứu, bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong BLHS 2015, pháp nhân thương mại đã
được bổ sung là chủ thể của tội phạm, đây là một sự thay đổi tích cực, phù
hợp với luật pháp quốc tế và tình hình kinh tế, xã hội ở nước ta. Tuy nhiên
pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành
vi phạm tội được liệt kê tại Điều 76 BLHS nhưng đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài không được liệt kê trong số các tội đó. Quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế bên cạnh những mặt tích cực thì chúng ta phải đối mặt với mặt trái
của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều thành phần kinh tế du nhập vào
nước ta khiến cho việc kiểm soát trở nên khó khăn, ngoài ra còn có rất nhiều
pháp nhân thương mại thành lập không nhằm mục đích kinh doanh mà thành
lập nhằm mục đích lợi dụng danh nghĩa kinh doanh để lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nhưng các pháp nhân thương mại này lại không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội mà chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính,
do các quy định của pháp luật không quy định chế tài đối với pháp nhân
thương mại. Vì vậy cần phải bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm đảm bảo tính công
bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với mọi chủ thể, đồng thời thể hiện tính
thống nhất của pháp luật hình sự nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
- Thứ năm, lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản tiêu biểu, có thể phân biệt được với một số tội có tính chất chiếm đoạt
khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc các giao dịch dấn sự...
khắc phục những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật một cách nhanh chóng, kịp
thời. Tránh được sự tùy tiện, tạo công bằng, bình đẳng và áp dụng thống nhất
trong xét xử các vụ án trên cơ sở các lập luận, phán quyết của án lệ mà TAND
tối cao đã công bố.
61
+ Trong thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới hoạt động để nâng cao chất
lượng công tác xây dựng pháp luật tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, mang
tính khả thi cao, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Công tác giải thích và hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
- Thứ sáu, BLHS năm 2015 bổ sung thêm tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn, xã hội” là tình tiết định tội ở một số tội như tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Đây là tình tiết này mang tính đánh
giá, sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó xác định, nhưng chưa được
hướng dẫn để áp dụng thống nhất. Do vậy, nhà làm luật cần có hướng dẫn cụ
thể về nội dung này để áp dụng thống nhất trong thực tiễn định tội danh.
3.2.3. Đào tạo, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức cho chủ thể có thẩm quyền định tội danh
- Nâng cao nhận thức chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thầm phán.
+ Mỗi chủ thể định tội danh phải tự rèn luyện ý thức chính trị, phải
luôn xác định công tác điều tra, truy tố, xét xử là công tác chính trị, phải quán
triệt chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng vào trong hoạt động tố tụng
để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, phục vụ có hiệu quả
nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.
+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và kiến thức pháp luật: cần chú trọng việc bồi dưỡng các kiến thức về Luật
hình sự và kiến thức về lý luận định tội danh. Nhằm giúp cho chủ thể định tội
danh, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán nắm vững những dấu hiệu cấu thành tội
phạm, nắm vững các cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và phương pháp định tội
danh, để thực hiện hoạt động định tội danh đảm bảo chặt chẽ, khoa học và
62
chính xác. Bên cạnh đó, cũng cần tổ chức các buổi hội thảo tổng kết rút kinh
nghiệm trong việc định tội danh đối với các vụ án để xảy ra oan sai, có sai sót
hoặc còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc định tội danh.
- Cần bổ sung đủ số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thầm phán
nhằm tránh quá tải trong quá trình làm việc: chú trọng công tác tuyển chọn
công chức, đặc biệt là cần quan tâm, chủ động hơn với chất lượng nguồn nhân
lực đầu vào.
- Trong công tác lãnh đạo, quản lý cần phải tăng cường sự chỉ đạo điều
hành, nắm bắt và quản lý chặt chẽ các thông tin về tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản; đồng thời tổ chức và thực hiện tốt sự chỉ đạo của cấp trên đối với
từng hệ thống Cơ quan điều tra, kiểm sát, Tòa án. Bên cạnh đó, việc bổ sung
kiến thức cho các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử quy định của Bộ luật hình sự
về tình tiết định tội, định khung trong các tội xâm phạm sở hữu nói chung và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng là yêu cầu cần thiết giúp cho những
người tiến hành tố tụng xác định tội danh và áp dụng pháp luật chính xác
tránh những sai lầm dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Tổ
chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về các thủ đoạn lừa đảo mới,
các đợt tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngành điều tra, kiểm sát đến
xét xử được giao nhiệm vụ thực hành quyền tố tụng đối với các vụ án thuộc
loại tội phạm này. Việc bồi dưỡng, tập huấn cũng cần được tổ chức thường
xuyên và theo định kỳ…Song song với hoạt động này, vấn đề đạo đức, tư
tưởng của những người làm công tác điều tra, kiểm sát, xét xử cũng phải được
quan tâm đúng mực, trong đó chế độ, chính sách, ưu đãi cần tiếp tục thực hiện
theo các văn bản như hiện nay và tiếp tục có sự hoàn thiện, bổ sung trong thời
gian tới. Riêng đối với Điều tra viên các cấp, cần nhận biết rõ thủ đoạn hoạt
động của tội phạm làm lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó tăng cường công tác
63
nắm tình hình, phát hiện đối tượng, vụ việc để chủ động phòng ngừa, bắt giữ
xử lý.
- Thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về công tác giám sát,
thanh tra, kiểm tra và xử lý kỹ luật các hành vi vi phạm trong hoạt động tư
pháp. Ngoài ra, trong ngành Tòa án phải triển khai, thực hiện nghiêm túc theo
Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án TAND tối
cao ban hành, kèm theo Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư
pháp trong TAND.
3.3.4. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và giữa các
cơ quan tư pháp với các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức xã hội trong
đấu tranh với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Một là, tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong
việc giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng. Các cơ quan tư pháp phải nghiêm chỉnh thực hiện các
quy định của pháp luật về quan hệ phối hợp, các Quy chế phối hợp giữa các
ngành trong giải quyết án hình sự. Đồng thời, phải tăng cường quan hệ phối
hợp thường xuyên, đồng bộ, kịp thời, bám sát nội dung và với nhiều hình thức
như ký kết các Quy chế phối hợp; thường xuyên trao đổi, đóng góp ý kiến;
định kỳ hàng tháng tổ chức các buổi họp ba ngành để thông tin về tình hình
tội phạm, về giải quyết các vụ án hình sự, kịp thời phát hiện những sai sót,
những khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm tìm ra những
giải pháp khắc phục. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ
án hình sự, bảo đảm định tội danh đúng.
- Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân hai cấp cần tăng
cường phối hợp, thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án, chú
trọng chỉ đạo điều tra khám phá các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản; thông
qua công tác khai thác mở rộng án để tìm ra các đường dây, ổ nhóm chuyên
64
làm giả giấy tờ, sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo. Tiến hành xét xử công khai
một số vụ án điển hình nhằm tuyên truyền, giáo dục, răn đe tội phạm. Thống
nhất đường lối xử lý trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm
phạm sở hữu tài sản có khó khăn, vướng mắc; đưa một số vụ án điển hình về
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét xử công khai để phục vụ công tác răn đe, phòng
ngừa tội phạm, giáo dục phổ biến pháp luật.
3.3.5. Một số giải pháp khác
- Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp theo tinh thần của
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp
phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”.
- Nhà nước ta phải lên kế hoạch và triển khai nhanh chóng việc xây
dựng các trụ sở làm việc của các cơ quan hoạt động tư pháp khang trang, đầy
đủ tiện nghi; cung cấp, bổ sung trang thiết bị phương tiện hiện đại, có tính
công nghệ cao đáp ứng yêu cầu công việc và ứng dụng công nghệ thông tin,
nhất là ưu tiên cho công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công
tác xét xử; bổ sung kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước và sự hỗ
trợ từ ngân sách địa phương.
Kết luận Chương 3
Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã đưa ra một số yêu cầu và đề ra
một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, như giải pháp hoàn
thiện pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giải pháp về hướng dẫn tổng
kết thực tiễn xét xử, nhóm giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật trong dịnh tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như tăng cường
năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của các công chức làm
công tác định tội danh, tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và
65
giữa các cơ quan tư pháp với các cơ quan khác của nhà nước, tổ chức xã hội
trong đấu tranh với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và một số giải pháp khác
như đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động nghiệp vụ.... Từ đó, có thể áp dụng
trên thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung,
đảm bảo việc định tội danh đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội,
không bỏ loạt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đó
có tỉnh Bắc Ninh.
66
KẾT LUẬN
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng trọng trong bối cảnh khi tình hình nhóm tội xâm phạm sở hữu
nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng đang diễn biến phức tạp
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Thông qua 03 chương của luận văn thạc sĩ luật học tác giả đã phân tích,
làm rõ được những vấn đề chung về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản cũng như thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số yêu cầu và giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như: nhóm giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật,
tổng kết, hướng dẫn, giải thích pháp luật và nhóm giải pháp khác.
Luận văn đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật hình sự, nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đọa tài sản trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả hy vọng, các kiến nghị của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả định tội danh về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trong bối
cảnh BLHS năm 2015 có hiệu lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy
định mới trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng, trong khi kiến thức tác giả có thể còn hạn chế, do
vậy luận văn khó tránh khỏi khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong
nhận được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học,
đồng nghiệp và những ai quan tâm đến đề tài để giúp luận văn được hoàn
chỉnh hơn./.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02/01/2002, về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005, về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005, về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Bộ Tư pháp (2011), Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-
BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 hướng dẫn áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có, Hà Nội.
5. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên, 2017), Bình luận khoa
học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
6. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng
dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Hoàng Ngọc Dinh (2016), Mặt khách quan của các tội phạm sở hữu
trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
9. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật
hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm
BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
11. Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
13. Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn
định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội.
14. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt,
Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Niên (1986), Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm
trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
16. Trịnh Hồng Phương (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội.
17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần
các tội phạm (tập II), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung), Hà Nội
21. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội.
22. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
23. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Lê Thị Sơn (2007), Đổi mới chính sách hình sự - Định hướng cho
việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999, Luật học (số 8), tr.54-59.
25. Triệu Thị Tuyết (2019), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những
vướng mắc cần khắc phục, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, Hà Nội.
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ
Chí Minh.
29. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí
Minh.
30. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh
31. Trần Quang Tiệp (2000), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của phần chung Bộ luật Hình
sự năm 1985, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 02/HĐTP-NQ ngày
16/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ
sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của phần chung Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày
19/4/1989 của HĐTP hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1985, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật
Hình sự 1999, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật
của Tòa án nhân dân tối cao và hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC
ngày 13/9/2019 v/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc
trong xét xử, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn 64/TANDTC-PC ngày
03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về
hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, Bản án số 297/2018/HSPT
ngày 31/5/2018, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 50/2019/HS-PT ngày
14/8/2019, Bắc Ninh.
41. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 16/2019/HS-PT ngày
26/7/2019, Bắc Ninh.
42. Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, Bản án số 584/2019/HS-PT
ngày 27/9/2019, Hà Nội.
43. Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số
75/2017/HSST ngày 24/11/201, Bắc Ninh.
44. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung số 09/2018/HSST – QĐ ngày 14/01/2018, Bắc Ninh.
45. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 27/2015/HSPT ngày
10/9/2015, Bắc Ninh.
46. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà nẵng (2019), Thông báo rút
kinh nghiệm vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bị hủy án để điều tra lại, Đà
Nẵng.
47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
48. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. http://bacninh.gov.vn/-dieu-kien-tu-nhien.
PHỤ LỤC
1. Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019
Bảng 1:
Năm Tổng số vụ/bị can
đã khởi tố
Tổng số vụ/bị can đã truy tố
Tổng số vụ/bị cáo Tòa án thụ lý ở cấp sơ thẩm
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số
29/31 26/27 36/37 31/33 33/38 155/166
29/31 25/26 35/36 31/33 32/37 152/163
29/31 25/26 35/36 31/33 32/37 152/163
Tổng số vụ/bị cáo Tòa án thụ lý ở cấp phúc thẩm 22/23 19/20 27/31 25/26 30/34 123/134 (Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
2. Phân tích kết quả xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh Bắc Ninh từ
năm 2015 đến hết năm 2019
Bảng 2. So sánh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thụ lý ở cấp xét xử sơ thẩm trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019
Tội xâm phạm sở hữu
Tội lừa đảo chiếm đoạt
Tỷ lệ %
Năm
có tính chất chiếm đoạt
tài sản đã thụ lý
đã thụ lý
Số vụ án Số bị cáo
Số vụ án
Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
2015
77
129
29
31
37,6%
24,03%
2016
63
112
25
26
39,6%
23,2%
2017
91
174
35
36
38,4%
20,6%
2018
85
151
33
36,4%
21,8%
31
2019
89
154
37
35,9%
24,02%
32
Tổng số
405
720
163
37,5%
22,6%
152
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
Biểu đồ so sánh tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đã thụ lý ở cấp sơ thẩm
Bảng 3. Kết quả giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở cấp
sơ thẩm từ năm 2015 đến hết năm 2019
Tội lừa đảo chiếm
Tội lừa đảo chiếm
Đình chỉ vụ án Trả hồ sơ
Năm
đoạt tài sản đã thụ
đoạt tài sản đã giải
điều tra bổ
lý
quyết
sung
Số vụ án Số bị
Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
cáo
2015
29
31
27
28
01
01
01
2016
25
26
22
24
00
00
03
2017
35
36
33
34
00
00
02
2018
31
33
29
30
00
00
02
2019
32
37
31
35
00
00
01
Tổng số
152
163
142
151
01
01
11
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 4. So sánh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã thụ lý ở cấp phúc thẩm trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019
Tội xâm phạm sở hữu
Tội lừa đảo chiếm
Tỷ lệ %
Năm
có tính chất chiếm đoạt
đoạt tài sản đã thụ lý
Số vụ án
Số bị cáo
Số vụ án Số bị cáo Số vụ án
Số bị cáo
2015
66
119
22
23
33,3%
19,3%
2016
53
99
19
20
35,8%
20,2%
2017
77
146
27
31
35,06%
21,2%
2018
74
141
25
26
33,7%
18,4%
2019
76
145
30
34
39,4%
23,4%
650
Tổng số
346
123
134
35,5%
20,6%
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
Biểu đồ so sánh tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã thụ lý ở cấp phúc thẩm
Bảng 5. Kết quả giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở cấp phúc
thẩm từ năm 2015 đến hết năm 2019
Năm
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã giải quyết
Đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm
Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
Hủy án điều tra lại hoặc xét xử lại
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã thụ lý Số bị Số vụ cáo án
2015
22
23
21
22
01
01
00
2016
19
20
18
19
01
01
00
2017
27
31
27
31
00
00
00
2018
25
26
25
26
00
00
00
2019
30
34
29
33
01
01
01
03
03
01
Tổng số
123
134
120
131
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
4. Phân tích tình hình các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị hủy bản
án, sửa bản án
Bảng 6. Tình hình các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị hủy bản án,
sửa bản án ở cấp phúc thẩm (do nhầm lần tội danh)
Năm
Tội lừa đảo chiếm
Số vụ án bị
Số vụ án bị
Tỷ lệ %
đoạt tài sản
hủy
sửa
Án hủy
Án sửa
2015
22
00
01
00
4,5%
2016
19
00
00
00
00
2017
27
00
01
00
3,7%
2018
25
00
00
00
00
2019
30
01
00
3,3%
00
Tổng số
123
01
02
0,8%
1,6%
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 7. Thống kê độ tuổi, giới tính, chức danh, trình độ của đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Bắc Ninh (tính đến tháng 12 năm 2019)
Tổng
Độ tuổi
Giới tính
Chức danh
Trình độ
biên
Nghiệp vụ
Tin học, ngoại
chế
Dưới
Phó
Cán
ngữ
Từ
Trên
Chánh
Thẩm
30
Nam
Nữ
Chánh
bộ
30-50
50
án
phán
Tiến
Thạc
Cử
Tin
Ngoại
tuổi
án
khác
sĩ
sĩ
nhân
học B
ngữ B
09 (01
Tòa án
tỉnh và
137
56
50
31
89
48
18
37
73
02
38
97
126
126
08 Tòa
án cấp
huyện)
Tỷ lệ
40,8% 36,4% 22,6% 64,9% 35,03% 6,56% 13,1%
27%
53,2% 1,45% 27,7% 70,% 91,9% 91,9%
%
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 8. Thống kê chức danh, trình độ, giới tính, độ tuổi của Thẩm phán TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh (tính
đến tháng 12/2019)
Chức danh
Trình độ
Giới tính
Độ tuổi
Nghiệp vụ
Chính trị
Tổng
Nam
Nữ
Từ 30-50
Trên 50
Dưới 30 tuổi
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Cử nhân
Cao cấp
Trung cấp
Sơ cấp
Thẩm phán cao cấp
Thẩm phán trung cấp
Thẩm phán sơ cấp
64
01
28
35
02
24
38
11
31
22
51
13
15
29
20
1,56% 43,7% 54,6% 3,12% 37,5% 59,3% 17,1% 48,4% 34,3% 79,6% 20,3% 23,4% 45,3% 31,1%
Tỷ lệ %
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)