VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH THIÊN HÀ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH THIÊN HÀ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nguồn rõ ràng đảm bảo tính chính xác, trung

thực. Kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thạch Thiên Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM

ĐOẠT TÀI SẢN .............................................................................................. 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản...................................................................................... 8

1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian

dối trong Bộ luật Hình sự ................................................................................ 18

1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh ................................. 23

1.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản..28

Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM

ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .............................. 31

2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ...... 31

2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh33

Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH

ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

BẮC NINH ..................................................................................................... 50

3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh trong thời gian tới............................................................................ 50

3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................................... 54

KẾT LUẬN .................................................................................................... 67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật Hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự

ĐTD Đinh tội danh

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

TAND Tòa án nhân dân

PLHS Pháp luật Hình sự

PLTTHS Pháp luật Tố tụng hình sự

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến

thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS).

Thời gian qua tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt

động lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên nhiều lĩnh vực gây bức xúc trong

dư luận xã hội, ảnh hưởng phức tạp đến tình hình an ninh trật tự, hoạt động

sản xuất kinh doanh của người dân. Các đối tượng sử dụng nhiều phương thức

thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản.

Theo Báo cáo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong thời

gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019), TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh

đã xét xử sơ thẩm 405 vụ/720 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 142 vụ/151 bị

cáo và xét xử phúc thẩm 346 vụ án/650 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 120

vụ/131 bị cáo. Có thể thấy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm tỉ lệ cao

trong nhóm tội xâm phạm sở hữu và đang có xu hướng gia tăng trong thời

gian từ năm 2017 đến hết năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó có

những vụ án hết sức phức tạp điển hình: vụ án Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn

Quốc Hùng và đồng phạm có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 45 tỷ đồng

của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh… đã gây ảnh hưởng lớn đến

tình hình an ninh trật tự và sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.

Thực tiễn cho thấy đa số các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cơ

quan tiến hành tố tụng giải quyết, đưa ra xét xử đều đảm bảo xử lý đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên thực tiễn vẫn còn có vụ điều tra,

truy tố, xét xử chưa đúng tội danh có sự nhầm lẫn với một số tội danh khác

như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc chưa thống nhất trong

1

việc định tội danh hành vi làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để

lừa đảo chiếm đoạt tài sản...Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ một số quy

định của BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời áp dụng nên có

còn quan điểm, cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội

ngũ chủ thể định tội danh còn hạn chế...Điều này dẫn đến việc định tội danh

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp chưa chính xác, xâm

phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của

các cơ quan tư pháp. Trong khi đó, các công trình khoa học nghiên cứu về

định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ sau khi BLHS năm 2015 có

hiệu lực pháp luật không nhiều, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện,

chuyên sâu về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến hết năm 2019.

Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nên trên, tác giả lựa chọn đề tài:

“Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm

đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ là hoàn toàn có tính cấp thiết cả về lý

luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong các

công trình nghiên cứu khác nhau như:

(i) Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:

Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội

phạm - quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam; Lê Cảm và Trịnh

Quốc Toản (chủ biên, 2004), Định tội danh-lý luân, hướng dẫn mẫu và 350

bài tập thực hành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh

(2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân,

2

Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong

Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Dương Tuyết

Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã

hội, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng

dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb Tư

pháp, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự,

Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2013),

Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần

các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; v.v…

(ii) Công trình khoa học là các bài viết trên các tạp chí, báo: Lê Đăng

Doanh (2004), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến lĩnh vực hoàn

thuế giá trị gia tăng, Tạp chí Tòa án nhân dân, (22), Hà Nội; Lê Đăng

Doanh (2006), Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có

sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội

phạm nay ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, Tạp chí Tòa án nhân

dân, (24); PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1998), Đối tượng của các tội xâm

phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/1988, tr 50 – 57; Nguyễn

Ngọc Chí (1997), Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở

hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6); Nguyễn Ngọc Chí (1997), Yếu tố

chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (11).

(iii) Công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn: Nguyễn Ngọc Chí

(2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến

sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương Hiền (2007),

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn

Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trịnh Hồng Phương

(2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

3

thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã

hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Ngọc Dinh

(20160, Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà

Nội; v.v...

Liên quan trực tiếp đến đề tài có một số công trình nghiên cứu như:

Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk),

Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (1997), Vấn đề định tội

danh trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).

Các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập và nghiên cứu tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản cùng với các chế định khác nhau của BLHS, trên

phạm vi nghiên cứu rộng hoặc theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn

đề “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chỉ là một phần nhỏ trong

nội dung nghiên cứu của các tác giả. Liên quan trực tiếp đến đề tài tác giả

nghiên cứu không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận

và thực tiễn về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính đến nay,

chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam một cách cụ thể, chuyên

sâu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp,

trong thời gian từ năm 2015 đến 2019. Do vậy, đề tài luận văn “Định tội danh

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính mới

và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích khoa học để làm sáng

tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội

4

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra tồn tại,

hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả

của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi

phạm pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ lý luận định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Đánh giá về thực trạng định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Dự báo và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm định tội danh đúng

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn

liên quan đến hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp

luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu trong chuyên ngành luật

hình sự và tố tụng hình sự, với hoạt động định tội danh chính thức của Tòa án,

có sự phối hợp với chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân.

Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, Điều 174 BLHS năm 2015.

Phạm vi về chủ thể: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (hai cấp: cấp tỉnh

và cấp huyện) trong đó Thẩm phán là Chủ thể chính (không nghiên cứu Tòa

án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự), trong quá trình nghiên cứu có

5

sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Ninh.

Phạm vi về thời gian: Đề tài luận văn nghiên cứu từ năm 2015 đến hết

năm 2019.

Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên đại bàn tỉnh Bắc

Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm,

định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về

chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật

hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích ví dụ điển hình và tổng hợp số

liệu dựa trên những bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh;

phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, quy nạp để tổng hợp

các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu

trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện

lý luận và thực tiễn.

Về mặt lý luận: Những nội dung của luận văn đưa ra nhằm góp phần

làm phong phú thêm lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, qua đó nâng cao nhận thức về hoạt động

định tội danh trong luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp đưa ra, tác giả

sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội lừa đảo

6

chiếm đoạt tài sản, tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan

có thẩm quyền nói chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối

với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn, đặc biệt

đội ngũ công chức trong các cơ quan tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh..

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3. Dự báo và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

7

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Khái niệm pháp lý về tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều

8, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm

2015).

Trong BLHS năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc chương

hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ

sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân” [17, tr4]; Trên cơ sở tiếp

XVI nhóm các tội xâm phạm sở hữu, “là những hành vi nguy hiểm cho xã

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản

của người khác bằng thủ đoạn gian dối” [27, tr.214], [17]. Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở

hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để

chiếm đoạt tài sản đó [10, tr.118]. Tác giả đưa ra khái niệm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi

chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có

năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm

quyền sở hữu tài sản của người khác.

thu quan điểm của một số tác giả về khái niệm lừa đảo chiếm đoạt tài sản như:

1.1.1.2. Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

8

Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông qua 04 yếu

tố cấu thành tội phạm sau đây:

- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt. Do vậy, tội này có đặc điểm chung của các tội phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của

người khác đó là ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền

định đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản

phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với

các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định

đoạt tài sản, tài sản này phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển

dịch được giữa các chủ sở hữu và cùng được thực hiện bằng hành động.

- Khác với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác thì đặc

trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ

đoạn gian dối. Đó là việc người phạm tôi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp

luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình

bằng việc đưa ra các thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả, không đúng

với sự thật hoặc thực hiện các hành vi cụ thể, làm cho người bị lừa dối tin đó

là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể

được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết

(viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách

thức khác nhau.

- Thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm

đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản

cho người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận

được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp

cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành

vi phạm tội khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

9

- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,

người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian

đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành

vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục

đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản, bao giờ cũng

có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản

- Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn

gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng vì hành này đã được Bộ luật hình

sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương

ứng khác như: Hành vi làm vé bóng đá giả đem bán lấy tiền là hành vi phạm

tội làm vé giả quy định tại Điều 202 BLHS năm 2015; hành vi gian dối trong

việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng... để gây thiệt hại cho

khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198

BLHS năm 2015; v.v...

- Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm

tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000

đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d

khoản 1 Điều 174 BLHS): Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành

vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,

170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc

tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

1.1.1.3. Khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Định tội danh là hoạt động phức tạp, là vấn đề cơ bản và quan trọng

nhất được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố

10

cho đến giai đoạn xét xử. Đây là một thuật ngữ được nghiên cứu dưới góc độ

khoa học pháp lý với nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra:

Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng

thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng

như pháp luật TTHS và được tiến hành bằng cách, trên cơ sở các chứng cứ

các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối

chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của

hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành

tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [7; tr 33].

TS. Dương Tuyết Miên có quan điểm: Định tội danh là hoạt động thực

tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa

án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác

định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều

luật nào của BLHS hay nói cách khác đấy là quá trình xác định tên gọi cho

hành vi nguy hiểm đã thực hiện [14; tr 9].

Về cơ bản các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý. Tuy nhiên,

tác giả cho rằng, để xây dựng khái niệm định tội danh một cách toàn diện cần

phản ánh được bốn yếu tố quan trọng của hoạt động định tội danh là yếu tố

chủ thể, yếu tố nhận thức (đánh giá, phân tích hành vi phạm tội); yếu tố về so

sánh, đối chiếu kết quả nhận thức đó với quy định của pháp luật hình sự; và

đưa ra được kết luận về hành vi được thực hiện.

Tiếp thu các quan điểm khoa học trên, tác giả có quan điểm như sau:

Định tội danh là một hoạt động nhận thức lý luận, hoạt động thực tiễn

áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân tích, so sánh, kiểm tra, đối

chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu

hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, từ đó

xác định và đưa ra kết luận hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là

11

tội phạm thì tội phạm đó là gì và được quy định trong điểm, khoản, điều nào

của Bộ luật Hình sự.

Tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

như sau:

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động nhận thức

lý luận, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố

tụng hình sự, do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân

tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm

được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản theo quy định Điều 174 BLHS năm 2015, từ đó xác định và đưa

ra kết luận hành vi đó có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không, nếu

có thì được quy định tại điểm, khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.

1.1.1.4. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Từ định nghĩa trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành có

thể rút ra các đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như

sau:

Thứ nhất, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động

nhận thức lý luận. Trong đó, chủ thể tiến hành các hoạt động có tính logic như

tiến hành phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu, các tình tiết thực tế của hành

vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại Điều

174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng, trên cơ sở đó kết luận hành vi có phải

tội phạm hay không, là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội phạm khác.

Thứ hai, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hình thức

hoạt động thực tiễn pháp lý. Đây là hoạt động của các chủ thể định tội danh

mà chủ yếu là cơ quan, người tiến hành tố tụng nhằm cụ thể hóa các quy định

pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào đời sống thực tế.

Trong hoạt động này thì chủ thể định tội danh triệt để tuân thủ các quy định

của luật tố tụng hình sự nhằm đưa ra kết luận là hành vi được xem xét có đầy

12

đủ các dấu hiệu tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm,

khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.

Thứ ba, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp

luật tố tụng hình sự, cần thiết phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối và thông

thường được tiến hành theo một trình tự nhất định.

Thứ tư, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là định tội danh đối

với một loại tội phạm cụ thể - tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài những đặc

điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt động nhận thức có tính logic

của con người, thì định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đặc điểm

riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra

trong thực tế khách quan và quy định của BLHS về tội phạm này.

1.1.2. Căn cứ và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.2.1. Căn cứ định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù là chính thức hay

không chính thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất đinh. Do đinh tội

danh là sự đánh giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định

tội danh lại là hoạt động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có

cơ sở khoa học. Như vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của

định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Căn cứ pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là toàn

bộ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với

tội phạm này.

Nói cách khác, luật hình sự là luật nội dung (chủ thể định tội danh phải

đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều

174 BLHS hay không) còn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở

pháp lý trên phương diện hình thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm.

13

- Căn cứ khoa học của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Để

mô tả và luật hóa hành vi tội phạm, khoa học luật hình sự sử dụng phương

pháp điển hình hóa thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Tổng hợp các

dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản được quy định trong BLHS được gọi là cấu thành tội phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể

hiện thông qua 04 yếu tố sau:

+ Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Khách thể của tội phạm

là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Không có sự xâm hại quan hệ xã hội

được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm [26, tr.86]. Khách thể của tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, đó là ba quyền năng là quyền

chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên, mỗi tội

phạm đều xâm phạm tới khách thể nhất định đều phải thông qua việc tác động

đến đối tượng cụ thể, là bộ phận cấu thành nên khách thể của tội phạm, bị

hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho

khách thể bảo vệ của luật hình sự, khoa học luật hình sự gọi đây là đối tượng

tác động của tội phạm. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đối tượng tác

động là tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng

tác động của tội này, để trở thành đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

thì tài sản đó phải có những đặc điểm nhất định. Tài sản là đối tượng tác động

của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu,

phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện

quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản [24; tr.59]. Hơn nữa, tài sản này

phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển dịch được giữa các chủ sở

hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực,

có thể nhìn thấy, sờ thấy. Một số tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của

tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Công

14

trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân

dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy… [12; tr.153].

+ Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt

bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được

bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thể hiện cách xử sự có tính chất tội

phạm trong thực tế khách quan [6; tr.344]. Các dấu hiệu thuộc mặt khách

quan của tội phạm gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm

cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên

ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công

cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội.

Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Do đặc điểm

riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành

vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn

gian dối.

Theo đó, hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý

chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ

thể khác thành tài sản của mình.

Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm

tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000

đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d

khoản 1 Điều 174 BLHS) sau khi đã dùng thủ đoạn gian đối để làm cho người

chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị lừa giao tài sản cho người

phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.

Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hậu quả của tội

phạm (thiệt hại về tài sản) phải được xuất phát từ hành vi chiếm đoạt bằng thủ

đoạn gian dối. Nếu thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì không cấu

thành tội này.

15

- Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên

trong của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích [29, tr.152].

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,

người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian

đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành

vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì

không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể

người phạm tội có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

- Chủ thể của tội phạm: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì chủ

thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ là thể nhân. Theo đó, Chủ thể của tội

phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong

tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định [16;

tr.56]. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự

“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,

trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141,

142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,

252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.

Do vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể là bất kỳ

người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu từ đủ 14

tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.

* Ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Thứ nhất, định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm

16

đoạt tài sản nói riêng là hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự, xác định chính xác tội phạm mà người phạm tội thực hiện, từ đó các

cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có cơ sở quyết định hình

phạt tương xứng đối với tội phạm, đảm bảo cho việc phân hóa TNHS và cá

thể hóa hình phạt, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không làm oan người vô tội, không bỏ lột tội phạm. Định tội danh đúng là cơ

sở để áp dụng chính xác các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố

vụ án hình sự, khởi tố bị can, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, thời hạn

điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trả hồ sơ để điều

tra bổ sung, quyền bào chữa của bị can, bị cáo...

Thứ hai, định tội danh đúng đảm bảo thực hiện đúng một số các nguyên

tắc tiến bộ của nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc

bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc công minh, nguyên tắc nhân đạo,

nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc trách nhiệm do lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá

nhân, qua đó góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

quyền con người trong lĩnh vực hình sự.

Và ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực, xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền của con người, làm

giảm uy tín của các cơ quan tố tụng, làm giảm niềm tin của người dân đối với

pháp luật, đối với các quyết định, bản án của Tòa án, làm giảm hiệu quả công

cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng.

17

1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu

hiệu gian dối trong Bộ luật Hình sự năm 2015

1.2.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách

hàng

Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội lừa dối

khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS. Mặc dù cả hai tội đều thực

hiện hành vi phạm tội bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản với lỗi cố

ý trực tiếp. Tuy nhiên, giữa hai tội có những điểm khác biệt cơ bản như sau:

- Về khách thể:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm quyền sở hữu tài sản của

người khác.

+ Tội lừa dối khách hàng: Xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp

của người tiêu dùng.

- Hành vi khách quan:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối làm cho

người có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội.

+ Tội lừa dối khách hàng: Hành vi khách quan của tội lừa dối khách

hàng tuy có thủ đoạn gian dối nhưng gian dối trong các lĩnh vực mua, bán

bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, hoặc dùng thủ đoạn gian dối

khác trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.

- Mục đích:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Chiếm đoạt tài sản.

+ Tội lừa dối khách hàng: Thu lợi bất chính.

- Chủ thể của tội phạm:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Bất kỳ người nào trên 16 tuổi và có

năng lực TNHS.

18

+ Tội lừa dối khách hàng: Người nào trên 16 tuổi và có năng lực

TNHS nhưng thông thường là những người tham gia vào quá trình mua bán

và thường là người bán mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao

hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02

năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt

tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm

tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm

đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

+ Tội lừa dối khách hàng: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.

Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm. Khoản 2: bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng

hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn

có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

1.2.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản

Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 290 BLHS. Cả hai tội danh đều có

chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi luật

19

định có hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối, với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy

nhiên, có những điểm khác biệt sau:

- Về khách thể của tội phạm:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản

của người khác.

+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản

của người khác, đồng thời xâm phạm đến chế độ quản lý an ninh mạng, an

toàn công cộng, trật tự công cộng.

- Hành vi khách quan

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng

thủ đoạn gian dối, nhưng không sử dụng môi trường mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử.

+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách

sử dụng môi trường mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (sử

dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân

để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,

dịch vụ; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm

đoạt tài sản…).

- Hậu quả của tội phạm:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Phải chiếm đoạt tài sản của người

khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên. Nếu dưới 2.000.000 đồng phải kèm

theo một trong các tình tiết theo khoản 1 Điều 174 BLHS.

+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xảy ra hay không (có chiếm đoạt được

tài sản hay không) không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc.

20

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao

hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02

năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt

tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm

tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm

đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.

Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02 năm

đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt tù từ

12 năm đến 20 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu

một phần hoặc toàn bộ tài sản.

1.2.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội làm, buôn bán

tem giả, vé giả

Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội làm, buôn

bán tem giả, vé giả được quy định tại Điều 202 BLHS. Hai tội danh mặc dù

đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, và đều có chủ thể người từ đủ 16

tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Nhưng hai tội danh

có những điểm khác biệt cơ bản sau:

- Về khách thể của tội phạm:

21

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm quyền sở hữu của người

khác. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản (chủ yếu là: vật, tiền).

+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Xâm phạm đến chế độ quản lý

của Nhà nước về in, phát hành và sử dụng các loại tem, vé. Đối tượng tác

động của tội phạm là các loại tem giả, vé giả (các loại tem, vé không phải do

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hành).

- Hành vi khách quan:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng

thủ đoạn gian dối.

+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Có hành vi tạo ra tem giả, vé giả

hoàn toàn hoặc sửa lại nội dung của tem, vé thật hết giá trị hoặc có hành vi

mua đi bán lại đề kiếm lời các loại tem, vé mà biết rõ đó là giả.

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao

hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02

năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt

tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm

tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm

đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

+ Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả: Có tính nguy hiểm cho xã hội

thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt tiền từ 30.000.000

đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc

phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng

đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Hình phạt bổ

sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

22

50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Các bước định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.3.1.1. Tóm tắt, phân tích hành vi vi phạm đã xảy ra

Đây là bước đầu tiên, rất quan trọng và có ý nghĩa tiền đề cho các bước

sau này trong định tội danh. Trong giai đoạn này chủ thể, người có thẩm

quyền (theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì gồm các cơ quan tiến hành

tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (như Bộ đội biên

phòng, Hải quan, Kiểm lâm..) tận dụng tối đa các biện pháp mà pháp luật cho

phép kết hợp cùng với kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý

luận, thực tiễn để thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ và làm rõ tất cả các tình

tiết liên quan đến hành vi vi phạm một cách khách quan, toàn diện.

Trong giai đoạn này chủ thể định tội danh (giai đoạn ban đầu thông

thường là Cơ quan điều tra) trong quá trình tiếp nhận và kiểm tra, xác minh

nguồn tin tội phạm sẽ tiến hành làm rõ căn cước, lai lịch của người báo tin,

quan hệ của người báo tin với bị hại…có liên quan đến vụ việc, thời gian, địa

điểm xảy ra sự việc, bị hại là ai, mức độ thiệt hại thế nào; đặc điểm của tài sản

bị chiếm đoạt, đồ vật, giấy tờ được sử dụng thực hiện việc chiếm đoạt tài sản,

lý do phát hiện sự việc, thủ đoạn tiếp xúc làm quen, thủ đoạn dùng lời nói,

dùng đồ vật, giấy tờ gây lòng tin, những công cụ, phương tiễn đã sử dụng,

cách thức chiếm đoạt tài sản, thiệt hại gây ra như đặc điểm, số lượng, giá trị

tài sản bị chiếm đoạt...trên cơ sở lời khai của bị hại, người làm chứng, khám

nghiệm hiện trường.

23

Việc thu thập các tình tiết của sự việc phải đầy đủ, toàn diện, trung

thực, chính xác, khách quan và khoa học và phải được kiểm tra, phân tích,

đánh giá độc lập, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, sau đó đặt trong mối

quan hệ với các tình tiết khác, trong cả quá trình diễn biến sự việc xảy ra, từ

đó đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần

là những vi phạm dân sự, kinh tế. Nếu không có dấu hiệu của tội phạm thì

hoạt động định tội danh dừng ở đây, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì hoạt

động định tội danh chuyến sang giai đoạn thứ hai

1.3.1.2. Xác định khách thể loại bị xâm hại và quan hệ pháp luật hình

sự cần kiểm tra

Đây là giai đoạn nhằm xác định tội phạm mà chủ thể thực hiện thuộc

chương các tội phạm xâm phạm sở hữu hay chương khác của BLHS; nói cách

khác đây là giai đoạn xác định xem khách thể loại được pháp luật hình sự bảo

vệ đã bị tội phạm xâm hại đến là gì, có phải là quyền sở hữu tài sản hay

không, đối tượng tác động có phải là tài sản không. Tài sản đó có nằm trong

sự quản lý của chủ sở hữu, có được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển

dịch được giữa các chủ sở hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là

tài sản hữu hình, có thực, có thể nhìn thấy, sờ thấy hay không, có rơi vào các

loại tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của tội xâm phạm sở hữu mà là

đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Công trình, phương tiện giao

thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ

thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy...

Sau khi xác định khách thể loại bị xâm hại và quan hệ pháp luật hình sự

cần kiểm tra. Định tội danh chuyển sang giai đoạn thứ ba.

24

1.3.1.3. Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự trong mối liên hệ với

hành vi phạm tội

Đây là giai đoạn nhằm đối chiếu hành vi người phạm tội thực hiện với

các dấu hiệu cấu thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều

174 BLHS. Khi đã xác định được hành vi phạm tội do chủ thể có năng lực

trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác

thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản (thuộc nhóm tội xâm phạm sở hửu có

tính chất chiếm đoạt), chủ thể định tội danh cần tiến hành đối chiếu, so sánh

các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự phù hợp

giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm xem có

thỏa mãn cấu thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174

BLHS hay không.

Nói cách khác, cẩn kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản với hành vi phạm tội đã thực hiện trên thực tế nhằm xác

định: Người phạm chiếm đoạt được tài sản có phải bằng thủ đoạn gian dối hay

không? Người thực hiện hành vi có ý định chiếm đoạt tài sản hay không? Ý

định chiếm đoạt tài sản xuất hiện trước hay sau khi có được tài sản? Giá trị tài

sản bị chiếm đoạt có đủ 2.000.000 đồng (trường hợp dưới 2.000.000 đồng thì

xác định có thuộc vào một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều

174 BLHS)

Khi đã xác định chính xác điều luật cần áp dụng thì phải xác định thuộc

khoản nào, điểm nào, trên cơ sở đó kết hợp với các tình tiết tăng nặng, tình

tiết giảm nhẹ cũng như các yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội, tội phạm

được thực hiện có đồng phạm hay không, tội phạm kết thúc ở giai đoạn nào

để quyết định hình phạt cho hợp lý.

25

1.3.1.4. Kết luận

Ban hành văn bản áp dụng pháp luật trên cơ sở kết luận về sự phù hợp

giữa hành vi mà người phạm tội thực hiện với các yếu tố cấu thành của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS.

1.3.2. Phân loại định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

- Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định

tội danh, có thể phân chia định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm hai

dạng là: Định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.

Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp

lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể có thẩm quyền theo

quy định của pháp luật thực hiện: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân [48; tr.23].

Do đó, định tội danh chính thức tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Tòa án, và Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động

điều tra. Dạng định tội danh này làm phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các

quan hệ pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia

các quan hệ đó.

Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm

tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công

trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm

nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra. [48, tr.23].

Định tội không chính thức tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phát

sinh quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng

hình sự của các chủ thể tham gia các quan hệ đó. Đây chỉ là sự thể hiện quan

điểm, ý kiến cá nhân. Đây là loại định tội có ý nghĩa quan trọng trong quá

26

trình nghiên cứu pháp luật, như một phương pháp nhận thức luật pháp. Định

tội không chính thức góp phần tạo thành dư luận xã hội về pháp luật.

- Dựa trên CTTP cơ bản (cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội),

CTTP tăng nặng (ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu định khung

tăng nặng) và CTTP giảm nhẹ (ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu

định khung giảm nhẹ). Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được phân

ra thành định tội danh theo CTTP cơ bản (theo khoản 1 Điều 174 BLHS) và

định tội danh theo CTTP tăng nặng (khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS).

1.4. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

* Cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 174):

- Trường hợp thứ nhất: Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chiếm

đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên.

- Trường hợp thứ hai: Tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng,

nhưng chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản

mà còn vi phạm.

Đây là trường hợp đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành

vi chiếm đoạt tài sản như: trộm cắp tài sản, cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm

đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài

sản, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi

phạm hành chính, nay lại có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người

khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng.

- Trường hợp thứ ba: Tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng

chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các

tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS

năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

27

Đây là trường hợp một người chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng,

nhưng chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hoặc trộm cắp tài

sản, cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp

giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng.

- Trường hợp thứ tư: Chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng

gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Đây là trường hợp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới

2.000.000 đồng nhưng gây ra ảnh hường xấu (rất xấu, đặc biệt xấu) đến an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

người bị hại và gia đình họ.

Gây ảnh hưởng xâu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những

tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã

hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh

giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. [12; tr. 164].

Khi áp dụng tình tiết tài sản là phương tiện kiếm sống chính của bị hại

và gia đình họ này cần phải đánh giá ý nghĩa của đối tượng tác động của tội

phạm đối với người bị hại và gia đình người bị hại trên phương diện giá trị

kiếm sống.

*Cấu thành tội phạm tăng nặng (khoản 2,3,4 Điều 174):

- Khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015:

+ Có tổ chức: Là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa

những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 17 BLHS). Phạm tội có

tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với

28

nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dưới sự

điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

+ Có tính chất chuyên nghiệp: Được hiểu là người phạm tội cố ý phạm

tội từ năm lần trở lên về cùng một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phân

biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình

sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa

án tích. Và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và

lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng.

+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích

mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng theo khoản 3, khoản 4 Điều 174 BLHS. Hoặc đã tái phạm,

chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ

chức là các trường hợp: người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà

nước, tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị xã hội…đã lợi dụng vị trí công tác (chức vụ, quyền hạn) của mình

trong cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác; người

tuy không có chức vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,

đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…nhưng

đã lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình để lừa đảo chiếm

đoạt tài sản của người khác [12; tr.193].

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Dùng thủ đoạn xảo quyệt trong khi phạm

tội, là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm

29

làm cho người bị hại hoặc những người khác khó lường thấy được để đề

phòng, nhằm chiếm đoạt tài sản.

- Khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng.

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Là trường hợp người phạm tội đã lợi

dụng thiên tai, dịch bệnh để thực hiện tội phạm.

- Khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Kết luận Chương 1

Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã phân tích một số vấn đề lý

luận và pháp luật về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Khái

niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, cơ sở của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân biệt

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian dối như tội lừa

dối khách hàng, tội với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; tội làm, buôn bán tem giả,

vé giả. Các kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp

phần bổ sung lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giúp cho

việc nhận thức và áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm này được

chính xác và toàn diện hơn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương

1 là cơ sở để tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trong Chương 2 của Luận văn.

30

Chương 2

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc

Ninh

Hiện nay TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh có 137 biên chế, trong đó có

64 Thẩm phán (01 Thẩm phán cao cấp, 28 Thẩm phán Trung cấp và 35

Thẩm phán sơ cấp) với 02 Tiến sĩ, 24 Thạc sĩ và 38 trình độ Cử nhân (xem

Phụ lục: Bảng 7, Bảng 8). Theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc

Ninh trong 05 năm giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019. TAND hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đã thụ lý xét xử sơ thẩm 405 vụ án, đối với 720 bị cáo về tội

phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó thụ lý xét xử sơ

thẩm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 152 vụ án đối với 163 bị cáo, đưa ra

xét xử 142 vụ với 151 bị cáo (xem Phụ lục: Bảng 2, Bảng 3 và biểu đồ).

Qua bảng thống kê và biểu đồ nêu trên có thể thấy, tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản được đưa ra xét xử sơ thẩm chiếm tỷ lệ cao trong số các vụ

án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được đưa ra xét xử sơ thẩm.

Trong đó năm 2016 tỉ lệ số vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm là thấp nhất với

22 vụ/24 bị cáo (chiếm tỉ lệ 34,9% về số vụ và 21,4 % về số bị cáo so với

nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt), nhưng đến năm năm

2017, 2018, 2019 thì tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đang có xu

hướng diễn biến phức tạp. Cụ thể: trong năm 2017 thì TAND hai cấp tỉnh Bắc

Ninh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 33 vụ với 34 bị cáo, tăng 11 vụ và 10 bị cáo so

với năm 2016, nhưng đến năm 2018 thì đã giảm xuống còn 29 vụ với 30 bị

cáo, đến năm 2019 thì số vụ án lại tăng lên 31 vụ và 35 bị cáo. Cho thấy, tình

hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra không có quy luật nhất định nhưng

31

có xu hướng tăng vào năm 2019, do sự phát triển trên các lĩnh vực của đời

sống xã hội tỉnh Bắc Ninh, đòi hỏi công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm

cần được chú trọng hơn nữa.

Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc Ninh trong

05 năm giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019, TAND tỉnh Bắc Ninh đã

thụ lý ở cấp phúc thẩm 346 vụ án, đối với 650 bị cáo trong nhóm tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

là 123 vụ án đối với 134 bị cáo và đưa ra xét xử 120 vụ với 131 bị cáo (xem

Phụ lục: Bảng 4, Bảng 5 và biểu đồ).

Qua bảng số liệu và biểu đồ nêu trên, có thể thấy án hình sự phúc thẩm

về tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là khá nhiều.

Cho thấy có nhiều kháng cáo, kháng nghị về các bản án. Qua khảo sát các

bản án được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh xét xử cho thấy, các bị cáo kháng

cáo chủ yếu về vấn đề hình phạt. Cũng như việc xét xử sơ thẩm thì xét xử

phúc thẩm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn biến

không theo quy luật nhất định, nhưng đang có xu hướng tăng vào năm 2019

với 29 vụ/33 bị cáo so với 25 vụ/26 bị cáo vào năm 2018. Đây là con số thể

hiện sự tăng nhanh và diễn biến phức tạp khó dự đoán của loại tội phạm này

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian sắp tới.

Bên cạnh đó, thực tiễn định tội danh cho thấy, tỷ lệ vụ án về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản bị cấp phúc thẩm hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại ở cấp

sơ thẩm hầu như không có (có 01 vụ năm 2019) trong giai đoạn từ năm 2015

đến năm 2019. Số án bị sửa do nhầm lẫn về tội danh chiếm tỷ lệ thấp (1,6 %),

chủ yếu là sửa nội dung hình phạt theo hướng giảm nhẹ TNHS cho các bị

cáo. Thể hiện chất lượng định tội danh tội lừa đào chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh có nhiều tiến bộ rõ rệt (xem Phụ lục: Bảng 6).

32

2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh

Bắc Ninh

2.2.1. Những kết quả đạt được

Qua nghiên cứu các bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc

Ninh xét xử cho thấy, đa số các vụ án đều định tội danh đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật. Quá trình xử lý vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp

luật, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Có được kết quả

trên đây là do sự nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan tố tụng của tỉnh Bắc Ninh.

Một số vụ án lớn, điển hình gần đây như:

Vụ án số 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2017/HSST ngày 15/6/2017

297/2018/HSPT, ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội)

của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (Bản án hình sự phúc thẩm số

Nội dung: Năm 2005, Doãn Ngọc Giang và vợ là Kiều Thị Thanh

Hương, trú tại số nhà 344 Cầu Giấy, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu

Giấy, Tp. Hà Nội đã thành lập Công ty cổ phần Dệt Quế Võ có địa chỉ tại

Khu công nghiệp Quế Võ, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Vợ chồng Giang -

Hương có nhờ Nguyễn Việt Hoàng làm Giám đốc Công ty và Nguyễn Thị

Tuyết Thanh làm cổ đông và kế toán trưởng công ty Dệt Quế Võ. Đồng thời,

để tạo dựng bộ hồ sơ nhập khẩu máy móc, thiết bị cho Công ty Dệt Quế Võ

làm thủ tục vay vốn, giải ngân chiếm đoạt tiền của Quỹ hỗ trợ phát triển chi

nhánh Bắc Ninh, Giang và Hương đã thành lập thêm Công ty Cổ phần Dệt

may xuất khẩu Chương Dương, trụ sở tại số 2C Lê Phụng Hiểu, phường

Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, và nhờ Nguyễn Quốc Hùng là lái xe của

Giang và Hương làm Phó Giám đốc công ty.

Trong thời gian từ tháng 12/2005 đến tháng 5/2016, theo sự chỉ đạo của

vợ chồng Giang – Hương, Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh và

Nguyễn Quốc Hùng đã ký khống hồ sơ nhập khẩu máy móc thiết bị không có

33

thật để Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh cho vay vốn, giải ngân số

tiền 45 tỷ đồng. Số tiền này Giang và Hương đã rút ra và chiếm đoạt sau đó

bỏ trốn. Do chưa bắt được Doãn Ngọc Giang và Kiều Thị Thanh Hương nên

Cơ quan điều tra đã tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra vụ án và bị can

đối với Giang, Hương xử lý sau. Còn Quỹ hỗ trợ phát triển chi Nhánh Bắc

Ninh do Nguyễn Thế Tài; Trần Đức Lực, Nguyễn Huy Bình, Nguyễn Thế

Tài, đã cùng nhau cố ý làm trái các quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển về

thẩm định cho vay vốn, giải ngân, dẫn đến hậu quả Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát

triển Bắc Ninh bị Doãn Ngọc Giang và đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt số tiền

45 tỷ đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2017/HSST ngày 15/6/2017 của Tòa

án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Việt

Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn Quốc Hùng phạm tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139. Ngày 31/5/2018, TAND

Cấp cao tại Hà Nội đã ra Bản án số 297/2018/HSPT: Tuyên bố các bị cáo

Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn Quốc Hùng phạm

tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm

1999 như bản án sơ thẩm đã định tội danh. [39].

Tác giả nhận thấy, đây là một vụ án rất phức tạp, liên quan đến nhiều

đối tượng, với số tiền chiếm đoạt rất lớn. Trong vụ án này, TAND tỉnh Bắc

Ninh và TAND Cấp cao đã tiến hành định tội danh theo các yếu tố sau:

+ Về khách thể: Hành vi của Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết

Thanh, Nguyễn Quốc Hùng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Chi

nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Bắc Ninh với thiệt hại lên đến 45 tỷ đồng.

+ Về chủ thể: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Nguyễn

Quốc Hùng là người trên 18 tuổi, đạt độ tuổi phải chịu TNHS, có khả năng

34

nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm

đoạt số tiền của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Bắc Ninh.

+ Về mặt chủ quan: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh,

Nguyễn Quốc Hùng đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, các đối tượng

nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu

của người khác, thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng vẫn thực hiện.

+ Về mặt khách quan: Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Thanh,

Nguyễn Quốc Hùng, mặc dù các bị cáo làm theo sự chỉ đạo của vợ chồng

Giang, Hương nhưng các bị cáo biết rõ Công ty Dệt Quế Võ không có hoạt

động sản xuất. Các bị cáo đồng ý lập các tài liệu, chứng từ không có thực để

rút tiền của Quỹ tín dụng, các bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm, dẫn đến hậu quả Chi nhánh Quỹ

hỗ trợ phát triển Bắc Ninh đã giải ngân toàn bộ số tiền cho vay, không phát

hiện việc không có máy móc, thiết bị nhập khẩu, bị Doãn Ngọc Giang cùng

đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt 45 tỷ đồng.

Vụ án số 2: Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2019/HSST ngày 20/3/2019

của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du (Bản án hình sự phúc thẩm số

50/2019/HSPT ngày 14/8/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh).

Nội dung: Tháng 6 năm 2013, Ngô Văn Ngọc thành lập Công ty Cổ

phần thương mại đầu tư xây dựng Q (gọi tắt là Công ty Q) nhưng không có

bất cứ hoạt động gì, không có chức năng tuyển dụng công chức Nhà nước,

không được cấp đất ở. Ngô Văn Ngọc lấy danh nghĩa công ty để thực hiện

việc tuyển dụng công chức Nhà nước. Khi người lao động đến xin việc, Ngọc

yêu cầu họ đóng những khoản tiền gồm: Tiền lệ phí hồ sơ, lệ phí xét tuyển

công chức (còn gọi là bôi trơn công chức), tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội

và một số khoản tiền khác nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền đó để sử dụng

35

chi tiêu. Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2013 đến tháng 9/2016, Ngọc

chiếm đoạt số tiền là 49.905.000 đồng của các bị hại.

Với nội dung trên, Bản án số 29/2019/HS-ST ngày 20/3/2019 của Tòa

án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố bị cáo Ngô

Văn Ngọc phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 139

BLHS 1999 với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt

thi hành án. Ngày 27/3/2019 bị cáo Ngô Văn Ngọc có đơn kháng cáo xin

được hưởng án treo.

TAND tỉnh Bắc Ninh nhận định Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Ngô

Văn Ngọc về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 139 Bộ luật

hình sự 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngày 14/8/2019,

TAND tỉnh Bắc Ninh đã ra Bản án số 50/2019/HSPT, áp dụng khoản 1 Điều

139, điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 60 BLHS

1999 xử phạt: Bị cáo Ngô Văn Ngọc 20 (hai mươi) tháng tù nhưng cho hưởng

án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian thử thách là 40 (bốn

mươi) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (14/8/2019). [40].

Như vậy, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành định tội danh

hành vi của Ngô Văn Ngọc theo các dấu hiệu sau:

+ Về khách thể: Hành vi của Ngô Văn Ngọc đã xâm phạm đến quyền

sở hữu tài sản của người khác, với tổng số tiền chiếm đoạt của các bị hại

là 49.905.000 đồng.

+ Về chủ thể: Ngô Văn Ngọc là người trên 18 tuổi, đạt độ tuổi phải

chịu TNHS, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn

thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền của các bị hại.

+ Về mặt chủ quan: Ngô Văn Ngọc đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý

trực tiếp, Ngọc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến

36

quyền sở hữu của người khác, thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng vẫn

thực hiện.

+ Về mặt khách quan: Ngọc hứa hẹn với người đến xin việc là họ sẽ

được tuyển dụng vào làm việc, trở thành công chức Nhà nước để các bị hại tin

tưởng, tự nguyện nộp cho Ngọc 49.905.000 đồng.

TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã định tội danh đối với hành vi của

Ngô Văn Ngọc theo khoản 1 Điều 139 trên cơ sở các dấu hiệu trên là hoàn

toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trên cơ sở việc tuân thủ đúng quy

định của pháp luật, lý luận chung về định tội danh và tội danh tội mua bán trái

phép chất ma túy nói riêng. TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã định tội danh

nhiều vụ án khác, đều đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

2.2.2. Một số tồn tại, thiếu sót

Qua nghiên cứu một số bản án của Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cho

thấy, bên cạnh những kết quả tích cực trong định tội danh tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản nêu trên thì thực tiễn định tội danh cho thấy vẫn còn một số tồn

tại, thiếu sót do chưa có sự thống nhất trong hoạt động định tội danh một số

trường hợp hoặc do tại phiên tòa xuất hiện những tình tiết mới.

Nghiên cứu điển hình 30 vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xét xử cho

thấy một số tồn tại, thiếu sót như:

- Chưa thống nhất trong việc định tội danh trường hợp người thực

hiện hành vi làm giả, sử dụng các giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa

đảo chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

hay cả hai tội danh là lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài

liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan,

tổ chức.

37

Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 20/5/2019

của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (Bản án phúc thẩm số 584/2019/HSPT

ngày 27/9/2019 của TAND cấp cao tại Hà Nội).

Nội dung: Khoảng đầu tháng 11/2016, Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm

1970; trú tại: Số 70 đường Tr, phường X, thành phố N, tỉnh Bắc Ninh), nhờ

một người tên là Thanh biệt danh “Thanh tàu ” ở khu Y, phường B làm giả

giấy tờ xe ô tô với chi phí hết 250.000.000 đồng. Sau đó Thanh đã giao cho

Hiệp giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô mang BKS: 99A - 088.91 do Công an

tỉnh Bắc Ninh cấp, tên chủ xe Nguyễn Văn Đại, giấy chứng nhận kiểm định

Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 89-01S tỉnh Hưng Yên. Khoảng đầu tháng

01/2017, Hiệp gọi điện thoại và hỏi vay anh Trần Quốc Toản số tiền

1.700.000.000 đồng và thế chấp xe ô tô nhãn hiệu Lexus 350, mầu sơn bạc

BKS: 99A - 088.91 mang tên Nguyễn Văn Đại, sau khi ký xong hợp đồng,

anh Toản đã đưa cho Hiệp 1.500.000.000 đồng, còn lại 200.000.000 đồng

ngày 05/01/2017, anh Toản chuyển vào tài khoản số 2602205062967 tại Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Ninh của vợ Hiệp là

chị Nguyễn Thị Thảo. Đến hạn không thấy Hiệp trả tiền và khi mang xe ô tô

đi mua phí bảo trì đường bộ phát hiện chiếc xe này không có nguồn gốc và

chưa được cấp đăng ký, nên ngày 27/3/2017, anh Toản làm đơn đến Cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh tố cáo Hiệp có hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Tại các bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự

Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 006953,

BKS: 99A-088.91 mang tên Nguyễn Văn Đại là giả.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 20/5/2019 của Tòa

án nhân dân tỉnh Bắc Ninh áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự

năm 1999; điểm b khoản 2 Điều 341; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm

g, h Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Hiệp 14 năm tù về

38

tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ

quan, tổ chức”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là

17 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/4/2018. Ngày

22/5/2019, bị cáo Nguyễn Văn Hiệp có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 27/9/2019, TAND cấp cao tại Hà Nội đã ra Bản án số: 584/2019/HS-PT

giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HS-ST ngày 20/ 5/2019 của

Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. [42].

Hoặc vụ án: Bản án số 75/2017/HSST ngày 24/11/2017 của TAND

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Nội dung: Lợi dụng mối quan hệ quen biết từ trước với anh Nguyễn

Đức Hoạt, nên ngày 08/02/2017, Lê Quang Thái đã dùng thủ đoạn sử dụng

giấy đăng ký và đăng kiểm của xe ô tô nhãn hiệu INOVA BKS 99A - 106.60

do Thái thuê người làm giả từ trước đứng tên Lê Quang Thái để bán xe cho

anh Hoạt. Thấy giấy tờ Thái đưa có dấu đỏ của cơ quan có thẩm quyền nên

anh Hoạt tin rằng chiếc xe ô tô có đặc điểm như trong giấy đăng ký và đăng

kiểm là xe của Thái nên anh Hoạt đã đồng ý mua chiếc xe ô tô đó với giá

320.000.000 đồng và đưa tiền đặt cọc trước cho Thái là 30.000.000 đồng. Sau

khi chiếm đoạt được số tiền 30.000.000 đồng của anh Hoạt, Thái đã ăn tiêu cá

nhân hết. Tại Cáo trạng số 74/CTr - VKS ngày 26/10/2017 của VKSND

huyện Thuận Thành, đã truy tố Lê Quang Thái về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự.

Ngày 24/11/2017, TAND huyện Thuận Thành đã ra Bản án số

75/2017/HSST tuyên bố: Bị cáo Lê Quang Thái phạm tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản”. theo khoản 1 Điều 139, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46,

Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Quang Thái 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời

hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. [43].

39

Nhận xét: Thông qua khảo sát một số bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản nêu trên cho thấy giữa TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh vẫn chưa có sự

thống nhất trong việc định tội danh đối với trường hợp người phạm tội có

hành vi làm hoặc sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức để thực

hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Có trường hợp Tòa án xử một tội là

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, có Tòa án xử về hai tội là tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc tội sử dụng

tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức. Trong thực tiễn xét xử nhiều địa

phương khác cũng chưa có quan điểm thống nhất trong việc định tội danh,

dẫn đến nhiều vụ án trong thực tiễn bị hủy. Như trong vụ án: Trong khoảng

thời gian từ tháng 7/2015 đến tháng 7/2016, bằng việc đưa ra thông tin gian

dối là có khả năng xin nhiều vị trí việc làm tại Tổng công ty Dệt may H.

Huỳnh Thị Thiên Nga đã trực tiếp nhận, chiếm đoạt tổng cộng số tiền

762.500.000đ của một số người bị hại. Nga đã nhờ Đoàn Thị Thương làm

quyết định riêng cho từng người và nhờ Trần Phước Toàn làm giúp một con

dấu giả, giả chữ ký của Tổng giám đốc Tổng Công ty Dệt may H. Tại Bản án

hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 23/01/2018 của TAND thành phố Đ,

đã dụng điểm a, khoản 4 Điều 139 xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Thiên Nga 08

năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số

178/2018/HSPT ngày 24/1/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã hủy bản

án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại. Do có dấu hiệu bỏ lọt tội “Làm giả

con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. [46].

Tác giả luận văn cho rằng, các trường hợp trên cần định tội danh là

nhiều tội (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ

quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức) bởi

hành vi làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài

sản đã xâm phạm vào 02 khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ,

40

nên nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì cần phải bị xử lý

hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của

cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

- Thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ để định tội danh hành vi phạm

tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Điển hình vụ án: Quyết định số 09/2018/HSST-QĐ ngày 14/01/2018

của TAND huyện Yên Phong về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Nội dung: Khoảng 11 giờ ngày 08/10/2017, Nguyễn Đức Trung (trú tại

thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh) gọi điện

cho bạn gái là Nguyễn Thị Hường nhờ chị Hường mượn hộ Trung một chiếc

xe mô tô để Trung đi về quê; chị Hường đồng ý và mượn xe của anh Đào Chí

Phương nhãn hiệu YAMAHA Exciter màu xanh bạc, biển kiểm soát 99H1-

178.70 cho Trung mượn. Sau đó, Trung điều khiển xe đến quán dịch vụ cầm

đồ bán lấy tiền và ăn tiêu cá nhân hết. Ngày 03/11/2017, Nguyễn Đức Trung

đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đầu thú. Căn cứ

vào lời khai của Trung, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong

đã tiến hành làm việc với anh Ngô Trọng Tuấn là chủ cửa hàng cầm đồ “Anh

Quyết” ở thôn Đông Yên - xã Đông Phong - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc

Ninh, Tuấn đã tự nguyện giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều

tra Công an huyện Yên Phong để phục vụ điều tra. Tại bản Kết luận định giá

tài sản số 82/KL-ĐG ngày 10/11/2017 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố

tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận: Chiếc xe mô tô có giá trị còn lại là

32.000.000 đồng (Ba hai triệu đồng). Bản cáo trạng số 176/CTr –VKS ngày

30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã

truy tố Nguyễn Đức Trung về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1

Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 14/01/2018

41

Hội đồng xét xử nhận định do còn nhiều tình tiết mâu thuẫn đã ra Quyết định

số 09/2018/HSST-QĐ, tuyên trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. [44].

Nhận xét: Căn cứ vào nội dung vụ án trên cho thấy, nguyên nhân Tòa

án trả hồ sơ điều tra bổ sung bởi giai đoạn điều tra, truy tố chưa làm rõ ý thức

chiếm đoạt của Trung có trước hay sau khi nhận được tài sản; lời khai nhận

của bị cáo tại phiên tòa chưa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình

điều tra, truy tố, còn mâu thuẫn với lời khai của bị hại, người làm chứng;

đồng thời, chưa làm rõ được ý thức chủ quản của Ngô Văn Tuấn là chủ cửa

hàng cầm đồ “Anh Quyết”, đã nhận mua chiếc xe mô tô mô tô YAMAHA

Exciter, có biết chiếc xe đó có nguồn gốc do phạm tội mà có, để truy cứu

trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

hay không. Có thể thấy, thiếu sót trên xuất phát từ năng lực và nhận thức của

người định tội danh trong giai đoạn điều tra, truy tố còn hạn chế. Dẫn đến,

Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.

- Nhầm lẫn giữa tội tham ô tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Ví dụ: Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2015/HSST ngày 20/6/2015 của

TAND huyện Tiên Sơn (Bản án phúc thẩm số 27/2015/HSPT ngày 20/8/2015

của TAND tỉnh Bắc Ninh).

Nội dung: Ngày 01/6/2014, anh vợ của Nguyễn Ngọc Vui là ông

Nguyễn Văn Hùng đã đưa cho Vui số tiền 57 triệu đồng nhờ gửi tiết kiệm hộ

tại Quỹ tín dụng nhân dân xã VN, huyện Tiên Sơn, nơi Vui làm Kế Toán

trưởng của Quỹ tín dụng. Vui đã làm thủ tục gửi tiết kiệm hộ cho ông Hùng

và được cấp số AB2907495 kỳ hạn 06 tháng, lãi suất 0,7%/tháng. Khi làm thủ

tục gửi tiền Vui không ghi số chứng minh thư nhân dân của ông Hùng vào thẻ

ưu sổ tiết kiệm có kỳ hạn và số tiết kiệm có kỳ hạn. Sau đó, Vui tự ý ký tên

“Hùng” vào mục người gửi tiền ở thẻ lưu của sổ tiết kiệm và Vui ký chữ của

mình vào mục kế toán của thẻ lưu tiết kiệm và sổ tiết kiệm có hỳ hạn

42

AB290795 cùng các chữ ký của thủ quỹ và Phó Giám đốc quỹ tín dụng. Ngày

31/8/2014, Vui tự ý rút số tiền gốc 10 triệu đồng và 492.000 đồng tiền lãi

trong sổ của ông Hùng, ngày 19/10/2014, Vui lại tiếp tục rút số tiền

12.600.000 đồng và tự ký tên Hùng vào phần người rút tiền để chiếm đoạt của

Quỹ tín dụng xã VN là 22.649.200 đồng nhưng Vui lại không ghi vào sổ theo

dõi. Đến ngày 01/12/2014, khi tất toán Vui vẫn rút tổng số tiền là 59.394.000

đồng của Quỹ tín dụng để thanh toán cho ông Hùng. Bản án hình sự sơ thẩm

số 41/2015/HSST ngày 20/6/2015 của TAND huyện Tiên Sơn đã quyết định:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 278; điểm b, p khoản 1,khoản 2 Điều 46; Điều

47; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vui 05 năm tù về tội “Tham ô

tài sản”. Sau khi xét xử sơ thẩm, Vui kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin

được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát cũng

như HĐXX đều cho rằng Quỹ tín dụng nhân dân VN là tổ chức kinh tế thuộc

sở hữu của các thành viên được tổ chức dưới hình thức hợp tác xã. Vốn điều

lệ của Quỹ là tài sản có nguồn gốc do các cá nhân góp vốn và tự chịu trách

nhiệm về kết quả kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập. Do đó,

Quỹ tín dụng không phải là cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã

hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Vui với vai

trò Kế toán trưởng Quỹ tín dụng nhân dân xã đã lợi dụng sự tin tưởng của

Giám đốc, Thủ quỹ, Kiểm soát...của Quỹ làm các thủ tục rút tiền nhằm chiếm

đoạt số tiền 22.649.200 đồng của Quỹ tín dụng nhân dân VN nên đã kết án bị

cáo Vui về tội “Tham ô tài sản” là chưa đúng về tội danh. Hành vi giả mạo

danh nghĩa anh Nguyễn Văn Hùng và lợi dụng vai trò làm Kế toán trưởng của

Qũy để làm thủ tục rút tiền tiết kiệm 02 lần chiếm đoạt số tiền 22.649.200

đồng của Quỹ tín dụng nhân dân VN nhưng không hạch toán kế toán, không

ghi số tiền rút từng lần vào thẻ lưu sổ tiết kiệm của bị cáo V có dấu hiệu tội

“Lừa đảo hiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 BLHS năm 1999 (nay là Điều 175

BLHS năm 2015). Do đó, cấp phúc thẩm đã ra Bản án số 27/2015/HSPT ngày

43

20/8/2015 thay đổi tội danh của Vui từ tội tham ô tài sản sang tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. [45].

Nhận xét: Đây là trường hợp mà theo quy định của BLHS năm 1999

(sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ có thể xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

mà không thể xử lý về tội tham ô tài sản do trước khi BLHS năm 2015 có

hiệu lực thì cơ quan tố tụng chỉ xem xét tội danh này đối với những người có

vị trí, chức vụ quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, công ty

có vốn nhà nước (lĩnh vực công). Nhưng Điều 353 BLHS năm 2015 về tội

tham ô tài sản, đã mở rộng chủ thể của tội tham ô tài sản, theo đó: người có

chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham

ô tài sản thì bị xử lý theo quy định tại Điều 353 BLHS. Do vậy, thời điểm

hiện tại, hoàn toàn có thể xử lý vụ án trên về tội tham ô tài sản.

- Nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Điển hình vụ án: Bản án hình sự phúc thẩm số 16/2019/HSPT ngày

25/7/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh.

Nội dung: Do có mối quan hệ quen biết từ trước, ngày 21/9/2015,

Nguyễn Văn Chung đến gặp chị Hoàng Thị Yến vay số tiền 100.000.000

đồng (một trăm triệu đồng) để làm ăn kinh doanh, thời hạn vay là một tháng,

lãi suất tính theo lãi suất Ngân hàng (Chung có giấy vay tiền và ký xác nhận).

Đến thời hạn trả nợ, Chung lấy lý do làm ăn khó khăn nên chưa có tiền để trả.

Ngày 10/12/2015, Chung tiếp tục đến gặp chị Yến đưa ra thông tin cần tiền để

đáo hạn Ngân hàng nên tiếp tục vay chị Yến số tiền 50.000.000 đồng (năm

mươi triệu đồng), Chung hứa sau khi đáo hạn xong Chung sẽ trả lại cho chị

Yến toàn bộ số tiền 150.000.000 đồng. Tin tưởng Chung nên chị Yến tiếp tục

cho Chung vay số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay

là từ ngày 10/12/2015 đến ngày 10/1/2016, lãi suất hai bên thỏa thuận theo lãi

44

suất Ngân hàng (Chung có viết giấy vay tiền và ký xác nhận). Nhiều lần chị

Hoàng Thị Yến đến yêu cầu Chung trả tiền nhưng bị cáo không trả và bỏ sang

Campuchia để làm ăn, không liên lạc cho chị Yến biết. Ngày 06/11/2017,

Nguyễn Văn Chung và Hoàng Thị Yến lập giấy cam kết trả nợ và xác định:

Nguyễn Văn Chung nợ Hoàng Thị Yến 190.000.000 đồng, cam kết đến ngày

30/11/2017 trả 50.000.000 đồng, sau 4 tháng trả tiếp 50.000.000 đồng và trả

hàng tháng 5 - 7 triệu đồng. Tuy nhiên, sau đó Chung không thực hiện như đã

thỏa thuận lại. Do vậy, chị Yến đã làm đơn tố cáo đối với hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản của bị cáo Chung. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số

02/2019/HSST ngày 10/1/2019 của TAND huyện Tiên Sơn: Căn cứ điểm c

khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt

Nguyễn Văn Chung 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản

án hình sự phúc thẩm số 16/2019/HSPT ngày 25/7/2019 của TAND tỉnh Bắc

Ninh quyết định: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 1 Điều 358

BLTTHS, hủy toàn bộ nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST

ngày 10/1/2019 của TAND huyện Tiên Sơn để điều tra lại theo thủ tục tố tụng

chung. [41].

Nhận xét: Tác giả luận văn nhận thấy việc TAND tỉnh Bắc Ninh hủy

bản án sơ thẩm để điều tra lại là hoàn toàn có căn cứ, bởi lẽ, Nguyễn Văn

Chung có quan hệ quen biết với gia đình Hoàng Thị Yến nên nhiều lần vay

tiền. Cả hai lần, Nguyễn Văn Chung đều lập Hợp đồng vay có thời hạn, hai

bên thỏa thuận lãi suất theo lãi suất Ngân hàng và ký xác nhận. Tuy nhiên,

ngày 06/11/2017, Nguyễn Văn Chung và Hoàng Thị Yến lập giấy cam kết trả

nợ và xác định: Nguyễn Văn Chung nợ Hoàng Thị Yến 190.000.000 đồng,

với cam kết trả nợ mới. Nói cách khác, Hợp đồng vay tiền của Nguyễn Văn

Chung và Hoàng Thị Yến vào ngày 21/9/2015 và ngày 10/12/2015 đã thay

đổi bằng hợp đồng khác mà các bên đã thỏa thuận ngày 06/11/2017 là hoàn

45

toàn tự nguyện, không trái pháp luật. Như vậy, Nguyễn Văn Chung có thực

hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không đúng như cam kết đã thỏa thuận ngày

06/11/2017 là có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua

hợp đồng vay mượn. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Nguyễn Văn

Chung đưa ra thông tin gian dối để lừa đảo chiếm đoạt số tiền 190.000.000

đồng và tuyên xử bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là chưa đảm

bảo quy định pháp luật.

2.2.3. Nguyên nhân của một số hạn chế, thiếu sót

Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình định tội danh đối với tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh xuất phát từ một số nguyên

nhân khác nhau. Tuy nhiên, theo nghiên cứu tác giả, xuất phát từ những

nguyên nhân chủ yếu sau đây:

* Nguyên nhân khách quan:

- Một số quy định của BLHS hiện hành về tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, chưa có

hướng dẫn rõ ràng. Nhiều quy định của pháp luật liên quan đến tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản chưa được ban hành mới, dẫn đến có quan điểm, đánh giá

khác nhau. Cụ thể: BLHS năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018,

nhưng chưa có văn bản pháp luật mới hướng dẫn về nhóm tội xâm phạm sở

hữu, việc vận dụng áp dụng theo tinh thần các văn bản hướng dẫn cũ còn

nhiều bất cập, chưa đầy đủ, rõ ràng. Hành vi thuộc mặt khách quan của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản và một số tội phạm khác chưa được phân biệt Ví dụ:

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 với

hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 BLHS

năm 2015, với hành vi lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 BLHS năm

2015... Những điều ngày gây nhầm lẫn, khó phân biệt trong việc định tội, giải

quyết vụ án. Tác giả luận văn sẽ phân tích sâu nội dung này tại Chương 3 của

luận văn và kiến nghị hoàn thiện.

46

- Một bộ phận người dân không am hiểu và nắm rõ các quy định của

pháp luật, cùng với những kẽ hở trong quy trình quản lý nhà nước, công tác

tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật còn hạn chế, việc nhận diện, phổ biến các

thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến tổ chức, cá nhân còn chưa

được chú trọng...đã tạo điều kiện cho đối tượng phạm tội có cơ hội để thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

- Công tác phát hiện, tố giác tội phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn

do thái độ bất hợp tác từ phía nạn nhân và gia đình nạn nhân. Ngoài ra, quá

trình giải quyết vụ án, do thời gian đã xảy ra đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ

của người phạm tội, bị hại nên việc giám định, định giá tài sản của có quan có

thẩm quyền gặp khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Có nhiều

trường hợp sau khi bị lừa đảo một thời gian dài, người bị hại mới tố cáo hành

vi của người phạm tội, do đó, việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp

nhiều hóa khăn.

- Sự phát triển của kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh trên các mặt của đời

sống xã hội kéo theo tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng. Điều kiện cơ sở vật chất và

phương tiện phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn khó khăn.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Thiếu sót trong hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ. Năng lực

chuyên môn của những chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có đội ngũ Thẩm

phán khi định tội danh còn hạn chế trong giải quyết các vụ án có liên quan

đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. So với yêu cầu chung thì đội ngũ Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công

tác chưa đồng đều, tinh thần trách nhiệm chưa cao khi được giao xét xử các

vụ án xâm phạm sở hữu. Qua khảo sát và điều tra xã hội học từ cơ quan,

người tiến hành tố tụng cho thấy công tác tổng kết thực tiễn, tăng cường giải

thích, hướng dẫn áp dụng quy định pháp luật về tôi xâm phạm sở hữu và tội

47

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng thông qua các hội nghị, hội thảo, các

chuyên đề, tham luận nghiên cứu khoa học của cơ quan, người tiến hành tố

tụng tỉnh Bắc Ninh còn chưa sâu rộng.

+ Rà soát hệ thống văn bản, quy chế mang tính phối hợp trong hoạt

động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng Bắc Ninh cho thấy: cơ chế phối

hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong công tác điều tra

các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng

về các hoạt động điều tra cụ thể như lấy lời khai bị hại, người làm chứng, phối

hợp trong hoạt động định giá tài sản còn chưa có quy định cụ thể, chưa có sự

phối hợp chặt chẽ.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật hình sự, về phòng, chống

tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng

còn hạn chế, chưa thường xuyên, dẫn đến nhận thức của một bộ phận người

dân về bảo vệ tài sản và quyền lợi của mình còn hạn chế. Một số vụ việc xâm

hại sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xảy ra nhưng công

tác động viên, tư tưởng đối với nạn nhân và gia đình nạn nhân trong việc hợp

tác, phối hợp với cơ quan tố tụng còn hạn chế, chưa thực sự được quan tâm

sâu sát; việc huy động lực lượng, phương tiện nhằm khẩn trương thu thập đầy

đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm để điều tra làm rõ toàn bộ hành vi

phạm tội và mở rộng điều tra vẫn còn chưa đồng bộ, kịp thời; một số hoạt

động phối hợp của Tòa án trong việc nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử công

khai, nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục tội phạm còn chậm

trễ. Công tác tổ chức rà soát, hệ thống lại và tập trung lực lượng, phương tiện

đẩy nhanh tiến độ điều tra, không để vụ việc phức tạp, kéo dài, gây phức tạp

tình hình an ninh trật tự tại địa bàn cơ sở còn yếu.

Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu về khách quan, chủ quan làm

cho hoạt động định tội danh vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và lừa đảo

48

chiếm đoạt tài sản nói riêng gặp thiếu sót như tác giả đã phân tích tại Chương

2 của luận văn.

Kết luận Chương 2

Thông qua Chương 2 của luận văn tác giả đã phân tích một số điểm về

tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh, phân tích tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với những kết quả đạt được

trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, thông qua việc nghiên cứu một số

bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tác giả đã đưa ra một số hạn chế,

thiếu sót của hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trên cơ

sở, nghiên cứu, phân tích một số nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

trong việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như quy định của

BLHS hiện hành về tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu sót trong hoạt

động thu thập và đánh giá chứng cứ, năng lực chuyên môn của những người

tiến hành tố tụng khi định tội danh còn hạn chế, công tác tuyên truyền, hướng

dẫn pháp luật còn hạn chế, việc phổ biến các thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản đến tổ chức, cá nhân còn chưa được chú trọng...là tiền đề để tác

giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng định tội danh tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi

cả nước.

49

Chương 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

BẮC NINH

3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới

3.1.1. Căn cứ dự báo

- Tình hình kinh tế, xã hội: Trong những năm qua với những thành tựu

về kinh tế - xã hội tiếp tục khẳng định chủ trương, đường lối đúng đắn của

tỉnh Bắc Ninh. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt được đã cán đích mục tiêu của

năm 2020 đề ra và sẽ là tiền đề để sớm đưa Bắc Ninh trở thành thành phố trực

thuộc Trung ương vào năm 2022. Trong đó, quy mô GRDP đứng thứ 7 toàn

quốc; GRDP bình quân đầu người đứng thứ 2 cả nước, thu hút vốn FDI đứng

thứ 6 (6 tháng đầu năm 2019 thu hút FDI đứng thứ 3), giá trị sản xuất công

nghiệp đứng đầu cả nước, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2, thu ngân sách nhà

nước đứng 9 cả nước, tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đứng thứ 1, tỷ lệ lao

động qua đào tạo đứng thứ 5, tỷ lệ trường chuẩn Quốc gia và kiên cố hóa

trường học đứng thứ 1, tỷ lệ Trạm y tế chuẩn Quốc gia đứng thứ 1 cả nước.

Lao động nhàn rỗi sẽ được huy động vào sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhiều

khu công nghiệp, khu đô thị mới sầm uất được hình thành, cơ sở vật chất kỹ

thuật sẽ đạt được những bước tiến dài, đời sống vật chất tình thần của nhân

dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, song song với quá trình

phát triển kinh tế, xã hội nêu trên kéo theo sự gia tăng của tình hình tội phạm

xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải xác định chính xác những

hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh và xử lý kịp thời, nghiêm minh

50

những tội phạm đó nhưng phải đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh

tế, xã hội.

- Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Hiện nay, tình hình tội

phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng,

nhất là tội phạm chiếm đoạt tài sản như lừa đảo với thủ đoạn tinh vi, số tiền

thiệt hại lớn, trong đó có nhiều đối tượng là người Việt Nam và người nước

ngoài thực hiện với phương thức như: Giả danh là kỹ sư, bác sỹ, quân nhân

nước ngoài…trên các mạng xã hội như: Facebook, Zalo để làm quen, kết bạn

sau đó lừa chiếm đoạt tài sản của nạn nhân; giả danh là nhân viên giao nhận

hàng, hải quan, thuế vụ… thông báo thùng quà biếu bị tạm giữ vì trong đó có

nhiều ngoại tệ, hàng hóa có giá trị yêu cầu phải nộp thuế, lệ phí để nhận hàng

hoặc lo lót…Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh nói

chung và với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cũng chính là góp phần

nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.

- Yêu cầu thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài

sản: Những hạn chế trong việc định tội danh chủ yếu xuất phát từ một số quy

định của pháp luật hình sự còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, cũng như một số

chủ thể định tội danh còn hạn chế về năng lực, tinh thần trách nhiệm chưa

cao…Ngoài ra, cùng với sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người,

quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đặt ra trách nhiệm của Nhà nước là:

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người; thực hiện mục

tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc

sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Do vậy, bảo

vệ quyền sở hữu hợp pháp tài sản của cá nhân, tổ chức là mục tiêu trong xây

dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Chính vì vậy, để thực hiện tốt bảo vệ

quyền con người và đấu tranh phòng chống tội phạm thì việc khắc phục

những thiếu sót trong công tác định tội danh có vai trò vô cùng quan trọng và

51

cần thiết, cần được tiến hành ngay nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền

con người và quyền sở hữu tài sản của con người.

3.1.2. Nội dung dự báo

3.1.2.1. Dự báo về tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong

thời gian tới

Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới sẽ gia

tăng và còn diễn biến phức tạp, xét trên nhiều phương diện cụ thể là:

+ Mức độ, diễn biến, tình chất của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Tính chất và mức độ, diễn biến của tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài

sản sẽ có xu hướng ngày càng phức tạp và hậu quả do tội phạm sẽ nguy hiểm

hơn theo xu hướng chung của loại tội phạm này trên địa bàn cả nước và

những điều kiện thuận lợi mà các đối tượng có thể lợi dụng để thực hiện hành

vi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

+ Phương thức, thủ đoạn, nạn nhân bị chiếm đoạt tài sản: Phương thức,

thủ đoạn chung của các đối tượng lừa đảo ngày một tinh vi, phức tạp như việc

là giả danh kỹ sư, bác sỹ, quân nhân làm quen, kết bạn qua Facebook, Zalo,

Skype,… rồi hứa kết hôn, bảo lãnh đi nước ngoài, hay gửi quà tặng, làm từ

thiện hoặc vay mượn, sau đó, yêu cầu bị hại phải nộp thuế, phí; sử dụng tài

liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Tài sản bị chiếm đoạt tài sản: Có xu hướng ngày một lớn, không chỉ

là tiền mặt mà còn là các bất động sản như nhà đất...

+ Công cụ, phương tiện phạm tội lừa đảo: Các đối tượng sẽ sử dụng

công cụ, phương tiện ngày một tinh vi như sử dụng các giấy tờ giả được in

công nghệ cao, khó phát hiện như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả,

đăng ký xe ô tô giả...để thực hiện tội phạm.

52

3.1.2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong việc định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản

- Thuận lợi:

+ BLHS năm 2015 và các luật, bộ luật khác có liên quan có hiệu lực và

hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành ngày càng nhiều là điều

kiện thuận lợi, hành lang pháp lý quan trọng trong việc định tội danh và xử lý

tội phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đúng tính chất mức độ hành vi

nguy hiểm cho xã hội, không để oan sai.

+ Sự chỉ đạo sát sao, quan tâm của Chính phủ và hệ thống chính trị đấu

tranh với loại tội phạm này nên việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo nhanh

chóng, kịp thời đem lại niềm tin cho quần chúng nhân dân và tài sản bị chiếm

đoạt của các nạn nhân, cơ quan, tổ chức được thu hồi chiếm tỷ lệ cao.

+ Trình độ đội ngũ cán bộ Cơ quan tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm

phán được đào tạo bài bản. Ngày càng nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức

chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm.

- Những khó khăn:

+ Do BLHS năm 2015 mới có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018, các văn

bản ban hành hướng dẫn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và các tội

phạm thuộc chương xâm phạm sở hữu nói chung chưa có hướng dẫn kịp thời

nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và chưa có sự thống

nhất trong việc định tội danh.

+ Công tác phát hiện, tố giác tội phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn

do nhiều nguyên nhân như việc bị hại không muốn đi tố giác do đã thỏa

thuận, thống nhất với nhau tự giải quyết và hòa giải....quá trình giải quyết vụ

án, do thời gian đã xảy ra đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của bị hại nên

việc định giá tài sản của có quan có thẩm quyền gặp khó khăn, ảnh hưởng đến

kết quả giải quyết vụ án.

53

+ Năng lực trình độ của chủ thể định tội danh mặc dù đã nâng lên,

nhưng vẫn còn một bộ phận còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao khi

được giao điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Điều kiện cơ sở vật chất và phương

tiện phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn khó khăn. Có thể thấy,

những khó khăn trên dẫn đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử chưa đạt chất

lượng, hiệu quả như mong muốn.

+ Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn chưa có sự

phối hợp chặt chẽ.

3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thứ nhất, hoàn thiện luật theo hướng có những quy định cụ thể, cần

thiết, hạn chế sự tùy nghi, bớt khả năng xảy ra trong thực tiễn áp dụng trường

hợp một hành vi thỏa mãn đồng thời nhiều dấu hiệu CTTP như tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng....

Thứ hai, tăng cường nghiên cứu, giải thích pháp luật, xây dựng cơ sở

pháp lý, áp dụng án lệ giải quyết một số vướng mắc trong thực tiễn khi một

hành vi có dấu hiệu của nhiều tội danh có tính chất chiếm đoạt như lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa dối khách hàng... tạo cơ sở pháp lý cho hoạt

động lập pháp và áp dụng luật liên quan đến vấn đề này.

Thứ ba, đào tạo đội ngũ chủ thể có thẩm quyền định tội danh mạnh về

cả số lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp vững

vàng. Mặt khác, là tội phạm có khá nhiều điểm tương đồng với pháp luật dân

sự và bản thân tội phạm này cũng bắt nguồn từ các giao dịch dân sự, vì vậy

các chủ thể có thẩm quyền ngoài việc nắm rõ các quy định của pháp luật hình

sự còn phải có vốn kiến thức nhất định về pháp luật dân sự, khả năng đánh giá

sự việc và đưa ra kết luận, đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay là vi

54

phạm pháp luật dân sự, kinh tế, từ đó mới có thể kết luận chính xác về tội

danh của người phạm tội.

Bên cạnh đó, sự thay đổi trong cách thức tổ chức, quản lý là cần thiết

nhằm tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự trên cơ sở có sự kết hợp và trao đổi ý kiến, quan điểm để đưa ra kết luận

chính xác và thống nhất về hành vi của người phạm tội, đồng thời cần có

chính sách hợp lý để đảm bảo điều kiện sống, làm việc của các chủ thể tiến

hành tố tụng để họ an tâm công tác, làm việc và cống hiến, từ đó mới có cơ sở

để nâng cao chất lượng của hoạt động định tội.

3.2.1. Hoàn thiện quy định Bộ luật Hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản

- Thứ nhất, Điều 174 BLHS năm 2015 (tương tự ở Điều 173, 175

BLHS năm 2015) quy định trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000

đồng phải kèm theo một trong các dấu hiệu định tội sau mới cấu thành tội

phạm.

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm.

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các

điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án

tích mà còn vi phạm.

Tuy nhiên, quy định trên có điểm bất cập đối với hai đối tượng là

người từ đủ 18 tuổi trở lên, và người dưới 18 tuổi. Cụ thể:

+ Đối với tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm

đoạt tài sản mà còn vi phạm”: Nếu một người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi “đã

bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt…” sau đó lại thực hiện

một trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, (hoặc trộm

cắp, công nhiên chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới

55

4.000.000 đồng...) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản hoặc tội tương ứng.

+ Đối với tình tiết “Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội

quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật

này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”: Người từ đủ 16 đến dưới 18

tuổi nếu đã bị kết án về hành vi quy định tại khoản 1 của các Điều 169 (tội bắt

cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản), Điều 171 (tội

cướp giật tài sản) hoặc bị kết án về tội phạm quy định tại khoản 1, khoản 2

của các Điều 172, 173, 175, 290, do các trường hợp này đều là các tội ít

nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù), tội nghiêm

trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù) nên người bị kết án

không bị coi là có án tích theo quy định tại Điều 107 của BLHS.

Đồng thời tình tiết “đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt…mà chưa được

xóa án tích” không thể áp dụng với đối tượng từ đủ 14 đến dưới 16 do họ

cũng không được coi là có án tích. Trong khi, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ

đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.

Như vậy, có thể thấy đối với người dưới 18 tuổi nếu trước đó bị xử phạt

hành chính thì lần sau sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong khi người đó

bị kết án (hình thức cưỡng chế nặng hơn biện pháp hành chính) thì lần sau lại

không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là điều không hợp lý.

Do vậy, tác giả luận văn đề xuất BLHS 2015 cần sửa đổi các tình tiết

liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính được mô tả trong cấu thành tội

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (cũng như một số tội xâm phạm sở hữu)

theo hướng: Sửa đổi tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

chiếm đoạt…” quy định tại khoản 1 Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản),

56

thành “Người từ đủ 18 tuổi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

chiếm đoạt…”.

- Thứ hai, nhà làm luật nên quy định mức khởi điểm giá trị tài sản

chiếm đoạt. Ví dụ, A có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.000.000

đồng từ trước khi nhận tài sản (cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản)

nhưng A lại khai sau khi nhận tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt để trốn

trách TNHS vì 2.000.000 đồng không đủ định lượng cấu thành tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó, rất dễ xảy ra trường hợp bỏ lọt tội phạm.

Vì vậy, nên quy định mức khởi điểm giá trị tài sản chiếm đoạt của hai tội này

bằng nhau, có thể là 2.000.000 đồng bằng với giá trị của một số tội chiếm

đoạt tài sản khác hoặc cũng có thể là 4.000.000 đồng. Khi đó, sẽ hạn chế bỏ

lột tội phạm, còn việc xác định phạm tội gì sẽ được chứng minh qua các tài

liệu, chứng cứ của vụ án, qua điều tra, truy tố, tranh tụng tại phiên tòa.

3.2.2. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản

Mặc dù BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy

định rất cụ thể, rõ ràng về khái niệm cũng như hành vi khách quan của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên việc định tội danh đối với tội phạm này chủ

yếu phải căn cứ vào các yếu tố của mặt khách quan để xác định ý thức chủ

quan của người phạm tội bởi căn cứ vào nội dung điều luật có thể xác định.

Mặc dù vậy, cho đến nay, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa ban hành văn

bản mới hướng dẫn cụ thể, thống nhất về chương các tội phạm xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt theo quy định mới của BLHS năm 2015 để giúp

cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc

trong việc xác định CTTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:

Thứ nhất, một số tội phạm trong thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt không quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không

57

mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nên đã dẫn đến nhiều

trường hợp hiểu không thống nhất như tội cướp giật tài sản, tội trộm cắp tài

sản…và có sự nhầm lẫn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Do vậy, tác giả kiến nghị, trong thời gian tới nhà làm luật cần ban hành

văn bản hướng dẫn về nhóm tội xâm phạm sở hữu, trong đó đưa ra khái niệm

về hành vi khách quan của một số tội dễ gây nhầm lẫn như tội trộm cắp tài

sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản để tránh gây nhầm lẫn

với một số tội danh khác trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn pháp nhằm làm rõ hơn dấu hiệu

định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để tránh nhầm lẫn với các tranh

chấp giao dịch dân sự hoặc nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với

các các tội phạm khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để phạm tội trong

BLHS năm 2015 như tội lừa dối khách hàng, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản…để tránh việc nhầm lẫn trong định tội danh, dẫn tới phải hủy án.

Do vậy, thời gian tới nhà làm luật cần có văn bản hướng dẫn theo

hướng:

+ Xác định mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu

thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo đó khi định tội

cần xem xét người phạm tội có mục đích chiếm đoạt hay không và thời điểm

người phạm tội nảy sinh mục đích chiếm đoạt tài sản trên cơ sở đánh giá

khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

+ Trường hợp một người có hành vi gian dối trong việc xác lập các

giao dịch dân sự nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà coi là vụ án tranh chấp về dân sự, nếu

người phạm tội có thiện chí thực hiện các nghĩa vụ dân sự của mình; trường

hợp người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản trước hoặc trong khi thực

58

hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. [25].

- Thứ ba, ban hành văn bản hướng dẫn những vướng mắc trong định tội

danh với một số tội phạm liên quan:

+ Về vướng mắc khi định tội danh trong trường hợp người phạm tội

làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức (Điều 341 BLHS) để lừa đảo

chiếm đoạt tài sản.

Mặc dù ngày 13/9/2019, TAND tối cao đã có hướng dẫn: “Hành vi làm

giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm

phạm vào 02 khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định

tại Điều 174 và Điều 341 của Bộ luật Hình sự), nên nếu hành vi đó có đủ các

yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản (Điều 174) và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử

dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341). [37, mục 10].

Và ngày 01/10/2019, Tòa án nhân dân tối cao có Công văn số 233/TANDTC-

v/v trao đổi nghiệp vụ, có hướng dẫn: “Trường hợp người thực hiện 01 hành

vi nhưng thỏa mãn dấu hiệu của nhiều tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội nặng hơn. Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi

hành vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi

trước là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi thì bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ

các yếu tố cấu thành tội phạm”.

Tuy nhiên, đây chỉ là hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Tòa án, không

phải là văn bản pháp luật để áp dụng thống nhất trong định tội danh của các

giai đoạn điều tra, truy tố. Do vậy, tác giả kiến nghị thời gian sắp tới nhà làm

luật cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của

BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối bằng cách làm

59

giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức để chiếm đoạt tài sản, nhằm tránh

những quan điểm khác nhau các giữa chủ thể định tội danh.

+ Vướng mắc trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa

đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì “người tiêu thụ tài sản biết rõ là do người

khác phạm tội mà có” có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp

hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không.

Đây cũng là một vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, được TAND tối cao hướng dẫn nghiệp vụ như sau: “...mặt

chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ

tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà

không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực

hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay

chưa. Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị

truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng

có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa

chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác

phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu

thụ tài sản do người khác phạm tội mà có [38].

Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những hướng dẫn, giải đáp của ngành Tòa

án tác giả đưa ra trên, không phải là văn bản pháp luật để áp dụng chung trong

định tội danh của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy thời gian

sắp tới nhà làm luật cũng cần có Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất

quy định của BLHS người tiêu thụ tài sản do phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản mà có nhưng chưa đến tuổi truy cứu TNHS theo tinh thần hướng dẫn nêu

trên, có nghiên cứu để phù hợp với thực tiễn.

60

- Thứ tư, cần nghiên cứu, bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong BLHS 2015, pháp nhân thương mại đã

được bổ sung là chủ thể của tội phạm, đây là một sự thay đổi tích cực, phù

hợp với luật pháp quốc tế và tình hình kinh tế, xã hội ở nước ta. Tuy nhiên

pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành

vi phạm tội được liệt kê tại Điều 76 BLHS nhưng đối với tội lừa đảo chiếm

đoạt tài không được liệt kê trong số các tội đó. Quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế bên cạnh những mặt tích cực thì chúng ta phải đối mặt với mặt trái

của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều thành phần kinh tế du nhập vào

nước ta khiến cho việc kiểm soát trở nên khó khăn, ngoài ra còn có rất nhiều

pháp nhân thương mại thành lập không nhằm mục đích kinh doanh mà thành

lập nhằm mục đích lợi dụng danh nghĩa kinh doanh để lừa đảo chiếm đoạt tài

sản nhưng các pháp nhân thương mại này lại không bị truy cứu trách nhiệm

hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội mà chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính,

do các quy định của pháp luật không quy định chế tài đối với pháp nhân

thương mại. Vì vậy cần phải bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân

thương mại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm đảm bảo tính công

bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với mọi chủ thể, đồng thời thể hiện tính

thống nhất của pháp luật hình sự nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.

- Thứ năm, lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản tiêu biểu, có thể phân biệt được với một số tội có tính chất chiếm đoạt

khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc các giao dịch dấn sự...

khắc phục những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật một cách nhanh chóng, kịp

thời. Tránh được sự tùy tiện, tạo công bằng, bình đẳng và áp dụng thống nhất

trong xét xử các vụ án trên cơ sở các lập luận, phán quyết của án lệ mà TAND

tối cao đã công bố.

61

+ Trong thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới hoạt động để nâng cao chất

lượng công tác xây dựng pháp luật tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, mang

tính khả thi cao, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Công tác giải thích và hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.

- Thứ sáu, BLHS năm 2015 bổ sung thêm tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn, xã hội” là tình tiết định tội ở một số tội như tội

công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Đây là tình tiết này mang tính đánh

giá, sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó xác định, nhưng chưa được

hướng dẫn để áp dụng thống nhất. Do vậy, nhà làm luật cần có hướng dẫn cụ

thể về nội dung này để áp dụng thống nhất trong thực tiễn định tội danh.

3.2.3. Đào tạo, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ,

phẩm chất đạo đức cho chủ thể có thẩm quyền định tội danh

- Nâng cao nhận thức chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thầm phán.

+ Mỗi chủ thể định tội danh phải tự rèn luyện ý thức chính trị, phải

luôn xác định công tác điều tra, truy tố, xét xử là công tác chính trị, phải quán

triệt chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng vào trong hoạt động tố tụng

để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, phục vụ có hiệu quả

nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.

+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp

vụ và kiến thức pháp luật: cần chú trọng việc bồi dưỡng các kiến thức về Luật

hình sự và kiến thức về lý luận định tội danh. Nhằm giúp cho chủ thể định tội

danh, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán nắm vững những dấu hiệu cấu thành tội

phạm, nắm vững các cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và phương pháp định tội

danh, để thực hiện hoạt động định tội danh đảm bảo chặt chẽ, khoa học và

62

chính xác. Bên cạnh đó, cũng cần tổ chức các buổi hội thảo tổng kết rút kinh

nghiệm trong việc định tội danh đối với các vụ án để xảy ra oan sai, có sai sót

hoặc còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc định tội danh.

- Cần bổ sung đủ số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thầm phán

nhằm tránh quá tải trong quá trình làm việc: chú trọng công tác tuyển chọn

công chức, đặc biệt là cần quan tâm, chủ động hơn với chất lượng nguồn nhân

lực đầu vào.

- Trong công tác lãnh đạo, quản lý cần phải tăng cường sự chỉ đạo điều

hành, nắm bắt và quản lý chặt chẽ các thông tin về tội phạm lừa đảo chiếm

đoạt tài sản; đồng thời tổ chức và thực hiện tốt sự chỉ đạo của cấp trên đối với

từng hệ thống Cơ quan điều tra, kiểm sát, Tòa án. Bên cạnh đó, việc bổ sung

kiến thức cho các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử quy định của Bộ luật hình sự

về tình tiết định tội, định khung trong các tội xâm phạm sở hữu nói chung và

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng là yêu cầu cần thiết giúp cho những

người tiến hành tố tụng xác định tội danh và áp dụng pháp luật chính xác

tránh những sai lầm dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Tổ

chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về các thủ đoạn lừa đảo mới,

các đợt tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngành điều tra, kiểm sát đến

xét xử được giao nhiệm vụ thực hành quyền tố tụng đối với các vụ án thuộc

loại tội phạm này. Việc bồi dưỡng, tập huấn cũng cần được tổ chức thường

xuyên và theo định kỳ…Song song với hoạt động này, vấn đề đạo đức, tư

tưởng của những người làm công tác điều tra, kiểm sát, xét xử cũng phải được

quan tâm đúng mực, trong đó chế độ, chính sách, ưu đãi cần tiếp tục thực hiện

theo các văn bản như hiện nay và tiếp tục có sự hoàn thiện, bổ sung trong thời

gian tới. Riêng đối với Điều tra viên các cấp, cần nhận biết rõ thủ đoạn hoạt

động của tội phạm làm lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó tăng cường công tác

63

nắm tình hình, phát hiện đối tượng, vụ việc để chủ động phòng ngừa, bắt giữ

xử lý.

- Thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về công tác giám sát,

thanh tra, kiểm tra và xử lý kỹ luật các hành vi vi phạm trong hoạt động tư

pháp. Ngoài ra, trong ngành Tòa án phải triển khai, thực hiện nghiêm túc theo

Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án TAND tối

cao ban hành, kèm theo Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư

pháp trong TAND.

3.3.4. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và giữa các

cơ quan tư pháp với các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức xã hội trong

đấu tranh với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Một là, tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong

việc giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản nói riêng. Các cơ quan tư pháp phải nghiêm chỉnh thực hiện các

quy định của pháp luật về quan hệ phối hợp, các Quy chế phối hợp giữa các

ngành trong giải quyết án hình sự. Đồng thời, phải tăng cường quan hệ phối

hợp thường xuyên, đồng bộ, kịp thời, bám sát nội dung và với nhiều hình thức

như ký kết các Quy chế phối hợp; thường xuyên trao đổi, đóng góp ý kiến;

định kỳ hàng tháng tổ chức các buổi họp ba ngành để thông tin về tình hình

tội phạm, về giải quyết các vụ án hình sự, kịp thời phát hiện những sai sót,

những khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm tìm ra những

giải pháp khắc phục. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ

án hình sự, bảo đảm định tội danh đúng.

- Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân hai cấp cần tăng

cường phối hợp, thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án, chú

trọng chỉ đạo điều tra khám phá các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản; thông

qua công tác khai thác mở rộng án để tìm ra các đường dây, ổ nhóm chuyên

64

làm giả giấy tờ, sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo. Tiến hành xét xử công khai

một số vụ án điển hình nhằm tuyên truyền, giáo dục, răn đe tội phạm. Thống

nhất đường lối xử lý trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm

phạm sở hữu tài sản có khó khăn, vướng mắc; đưa một số vụ án điển hình về

lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét xử công khai để phục vụ công tác răn đe, phòng

ngừa tội phạm, giáo dục phổ biến pháp luật.

3.3.5. Một số giải pháp khác

- Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp theo tinh thần của

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp

phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”.

- Nhà nước ta phải lên kế hoạch và triển khai nhanh chóng việc xây

dựng các trụ sở làm việc của các cơ quan hoạt động tư pháp khang trang, đầy

đủ tiện nghi; cung cấp, bổ sung trang thiết bị phương tiện hiện đại, có tính

công nghệ cao đáp ứng yêu cầu công việc và ứng dụng công nghệ thông tin,

nhất là ưu tiên cho công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công

tác xét xử; bổ sung kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước và sự hỗ

trợ từ ngân sách địa phương.

Kết luận Chương 3

Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã đưa ra một số yêu cầu và đề ra

một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng định tội danh tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, như giải pháp hoàn

thiện pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giải pháp về hướng dẫn tổng

kết thực tiễn xét xử, nhóm giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của

pháp luật trong dịnh tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như tăng cường

năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của các công chức làm

công tác định tội danh, tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và

65

giữa các cơ quan tư pháp với các cơ quan khác của nhà nước, tổ chức xã hội

trong đấu tranh với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và một số giải pháp khác

như đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động nghiệp vụ.... Từ đó, có thể áp dụng

trên thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung,

đảm bảo việc định tội danh đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội,

không bỏ loạt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đó

có tỉnh Bắc Ninh.

66

KẾT LUẬN

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một vấn đề có ý nghĩa

rất quan trọng trọng trong bối cảnh khi tình hình nhóm tội xâm phạm sở hữu

nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng đang diễn biến phức tạp

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.

Thông qua 03 chương của luận văn thạc sĩ luật học tác giả đã phân tích,

làm rõ được những vấn đề chung về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản cũng như thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số yêu cầu và giải

pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản như: nhóm giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật,

tổng kết, hướng dẫn, giải thích pháp luật và nhóm giải pháp khác.

Luận văn đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung

quanh hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn

thiện các quy định của pháp luật hình sự, nâng cao hiệu quả công tác đấu

tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đọa tài sản trong giai đoạn hiện nay.

Tác giả hy vọng, các kiến nghị của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn

thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả định tội danh về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trong bối

cảnh BLHS năm 2015 có hiệu lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy

định mới trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng, trong khi kiến thức tác giả có thể còn hạn chế, do

vậy luận văn khó tránh khỏi khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong

nhận được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học,

đồng nghiệp và những ai quan tâm đến đề tài để giúp luận văn được hoàn

chỉnh hơn./.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02/01/2002, về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005, về

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005, về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, Bộ Tư pháp (2011), Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-

BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 hướng dẫn áp

dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ

tài sản do người khác phạm tội mà có, Hà Nội.

5. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên, 2017), Bình luận khoa

học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

6. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

7. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng

dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. Hoàng Ngọc Dinh (2016), Mặt khách quan của các tội phạm sở hữu

trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật – Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

9. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật

hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm

BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

11. Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn

tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội.

13. Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn

định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà

Nội.

14. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt,

Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Niên (1986), Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm

trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

16. Trịnh Hồng Phương (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật

học, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà

Nội.

17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần

các tội phạm (tập II), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung), Hà Nội

21. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội.

22. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

23. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

24. Lê Thị Sơn (2007), Đổi mới chính sách hình sự - Định hướng cho

việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999, Luật học (số 8), tr.54-59.

25. Triệu Thị Tuyết (2019), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những

vướng mắc cần khắc phục, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, Hà Nội.

26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

28. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình

Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ

Chí Minh.

29. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình

Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí

Minh.

30. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình

Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb. Hồng Đức, Thành

phố Hồ Chí Minh

31. Trần Quang Tiệp (2000), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam,

Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.

32. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày

05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của phần chung Bộ luật Hình

sự năm 1985, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 02/HĐTP-NQ ngày

16/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ

sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số

quy định của phần chung Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày

19/4/1989 của HĐTP hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của

Bộ luật Hình sự năm 1985, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày

04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật

Hình sự 1999, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật

của Tòa án nhân dân tối cao và hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội.

37. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC

ngày 13/9/2019 v/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc

trong xét xử, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn 64/TANDTC-PC ngày

03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về

hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, Bản án số 297/2018/HSPT

ngày 31/5/2018, Hà Nội.

40. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 50/2019/HS-PT ngày

14/8/2019, Bắc Ninh.

41. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 16/2019/HS-PT ngày

26/7/2019, Bắc Ninh.

42. Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, Bản án số 584/2019/HS-PT

ngày 27/9/2019, Hà Nội.

43. Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số

75/2017/HSST ngày 24/11/201, Bắc Ninh.

44. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Quyết định trả

hồ sơ điều tra bổ sung số 09/2018/HSST – QĐ ngày 14/01/2018, Bắc Ninh.

45. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 27/2015/HSPT ngày

10/9/2015, Bắc Ninh.

46. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà nẵng (2019), Thông báo rút

kinh nghiệm vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bị hủy án để điều tra lại, Đà

Nẵng.

47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

48. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh.

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. http://bacninh.gov.vn/-dieu-kien-tu-nhien.

PHỤ LỤC

1. Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019

Bảng 1:

Năm Tổng số vụ/bị can

đã khởi tố

Tổng số vụ/bị can đã truy tố

Tổng số vụ/bị cáo Tòa án thụ lý ở cấp sơ thẩm

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số

29/31 26/27 36/37 31/33 33/38 155/166

29/31 25/26 35/36 31/33 32/37 152/163

29/31 25/26 35/36 31/33 32/37 152/163

Tổng số vụ/bị cáo Tòa án thụ lý ở cấp phúc thẩm 22/23 19/20 27/31 25/26 30/34 123/134 (Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

2. Phân tích kết quả xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh Bắc Ninh từ

năm 2015 đến hết năm 2019

Bảng 2. So sánh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thụ lý ở cấp xét xử sơ thẩm trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019

Tội xâm phạm sở hữu

Tội lừa đảo chiếm đoạt

Tỷ lệ %

Năm

có tính chất chiếm đoạt

tài sản đã thụ lý

đã thụ lý

Số vụ án Số bị cáo

Số vụ án

Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

2015

77

129

29

31

37,6%

24,03%

2016

63

112

25

26

39,6%

23,2%

2017

91

174

35

36

38,4%

20,6%

2018

85

151

33

36,4%

21,8%

31

2019

89

154

37

35,9%

24,02%

32

Tổng số

405

720

163

37,5%

22,6%

152

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

Biểu đồ so sánh tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đã thụ lý ở cấp sơ thẩm

Bảng 3. Kết quả giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở cấp

sơ thẩm từ năm 2015 đến hết năm 2019

Tội lừa đảo chiếm

Tội lừa đảo chiếm

Đình chỉ vụ án Trả hồ sơ

Năm

đoạt tài sản đã thụ

đoạt tài sản đã giải

điều tra bổ

quyết

sung

Số vụ án Số bị

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

cáo

2015

29

31

27

28

01

01

01

2016

25

26

22

24

00

00

03

2017

35

36

33

34

00

00

02

2018

31

33

29

30

00

00

02

2019

32

37

31

35

00

00

01

Tổng số

152

163

142

151

01

01

11

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 4. So sánh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã thụ lý ở cấp phúc thẩm trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019

Tội xâm phạm sở hữu

Tội lừa đảo chiếm

Tỷ lệ %

Năm

có tính chất chiếm đoạt

đoạt tài sản đã thụ lý

Số vụ án

Số bị cáo

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án

Số bị cáo

2015

66

119

22

23

33,3%

19,3%

2016

53

99

19

20

35,8%

20,2%

2017

77

146

27

31

35,06%

21,2%

2018

74

141

25

26

33,7%

18,4%

2019

76

145

30

34

39,4%

23,4%

650

Tổng số

346

123

134

35,5%

20,6%

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

Biểu đồ so sánh tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã thụ lý ở cấp phúc thẩm

Bảng 5. Kết quả giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở cấp phúc

thẩm từ năm 2015 đến hết năm 2019

Năm

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã giải quyết

Đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

Hủy án điều tra lại hoặc xét xử lại

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã thụ lý Số bị Số vụ cáo án

2015

22

23

21

22

01

01

00

2016

19

20

18

19

01

01

00

2017

27

31

27

31

00

00

00

2018

25

26

25

26

00

00

00

2019

30

34

29

33

01

01

01

03

03

01

Tổng số

123

134

120

131

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

4. Phân tích tình hình các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị hủy bản

án, sửa bản án

Bảng 6. Tình hình các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị hủy bản án,

sửa bản án ở cấp phúc thẩm (do nhầm lần tội danh)

Năm

Tội lừa đảo chiếm

Số vụ án bị

Số vụ án bị

Tỷ lệ %

đoạt tài sản

hủy

sửa

Án hủy

Án sửa

2015

22

00

01

00

4,5%

2016

19

00

00

00

00

2017

27

00

01

00

3,7%

2018

25

00

00

00

00

2019

30

01

00

3,3%

00

Tổng số

123

01

02

0,8%

1,6%

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 7. Thống kê độ tuổi, giới tính, chức danh, trình độ của đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

Bắc Ninh (tính đến tháng 12 năm 2019)

Tổng

Độ tuổi

Giới tính

Chức danh

Trình độ

biên

Nghiệp vụ

Tin học, ngoại

chế

Dưới

Phó

Cán

ngữ

Từ

Trên

Chánh

Thẩm

30

Nam

Nữ

Chánh

bộ

30-50

50

án

phán

Tiến

Thạc

Cử

Tin

Ngoại

tuổi

án

khác

nhân

học B

ngữ B

09 (01

Tòa án

tỉnh và

137

56

50

31

89

48

18

37

73

02

38

97

126

126

08 Tòa

án cấp

huyện)

Tỷ lệ

40,8% 36,4% 22,6% 64,9% 35,03% 6,56% 13,1%

27%

53,2% 1,45% 27,7% 70,% 91,9% 91,9%

%

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 8. Thống kê chức danh, trình độ, giới tính, độ tuổi của Thẩm phán TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh (tính

đến tháng 12/2019)

Chức danh

Trình độ

Giới tính

Độ tuổi

Nghiệp vụ

Chính trị

Tổng

Nam

Nữ

Từ 30-50

Trên 50

Dưới 30 tuổi

Tiến sĩ

Thạc sĩ

Cử nhân

Cao cấp

Trung cấp

Sơ cấp

Thẩm phán cao cấp

Thẩm phán trung cấp

Thẩm phán sơ cấp

64

01

28

35

02

24

38

11

31

22

51

13

15

29

20

1,56% 43,7% 54,6% 3,12% 37,5% 59,3% 17,1% 48,4% 34,3% 79,6% 20,3% 23,4% 45,3% 31,1%

Tỷ lệ %

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh)