VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRÍ TÂN

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,

TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh

HÀ NỘI, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN TRÍ TÂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1................................................................................................................ 6

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ......................................................................................... 6

1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................................................... 6

1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 ....................... 7

1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS Việt

Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 .................................................................. 7

1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................. 10

1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................................................. 11

1.3.1. Khái niệm ........................................................................................................ 11

1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....................................... 12

1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........... 16

1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................... 17

1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt ................................. 17

1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt ............................................. 18

1.4.3. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................ 20

1.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác .............. 24

1.5.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản ................................................................................................................. 25

1.5.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng............... 27

1.5.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ quyền

hạn chiếm đoạt tài sản ............................................................................................... 27

1.5.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ........... 28

1.5.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản, tội trộm cắp

tài sản......................................................................................................................... 29

Tiểu kết Chương 1 ..................................................................................................... 31

CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 32

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ........................................................................................ 32

2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên

Hòa ........................................................................................................................... 32

2.1.1. Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành cơ

bản ............................................................................................................................. 33

2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường

hợp đặc biệt ............................................................................................................... 38

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ

thành phố Biên Hòa ................................................................................................ 40

2.2.1. Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1). ................. 41

2.2.2. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng ...................................... 43

2.2.3. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng, phạm nhiều tội, có

đồng phạm ................................................................................................................. 44

2.3. Những vi phạm, sai sót; những hạn chế, vướng mắc trong định tội danh

và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố

Biên Hòa .................................................................................................................. 46

2.3.1. Những vi phạm, sai sót về định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa .............................................. 46

2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong định tội danh và

quyết định hình phạt từ thành phố Biên Hòa ............................................................ 48

Tiểu kết Chương 2 ..................................................................................................... 53

CHƯƠNG 3.............................................................................................................. 54

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ......................................... 54

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng và đảm bảo đúng quy định về định tội danh

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ................................................................................. 54

3.1.1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp;

bảo đảm công lý, công bằng xã hội ........................................................................... 54

3.1.2 Bảo đảm pháp chế XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt. ........................................................................................................................... 55

3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tội phạm đối với loại tội xâm phạm sở hữu có tính

chiếm đoạt. ................................................................................................................ 55

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. ................................................................................ 56

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Hình sự. ..................................................................... 56

3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. .............................................................................. 58

3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán. ............. 64

3.2.4. Các giải pháp khác. ......................................................................................... 65

Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................................... 67

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

ĐTD: Định tội danh

LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

PLHS: Pháp luật hình sự

TAND: Toà án nhân dân

TNHS: Trách nhiệm hình sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

QĐHP: Quyết định hình phạt

CTTP: Cấu thành tội phạm

HĐXX: Hội đồng xét xử

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Bảng thống kê tình hình tội phạm và số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội LĐCĐTS được giải quyết trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ năm 2015-2019.

Bảng 2: Phân loại tội phạm tội LĐCĐTS theo mức hình phạt (CTTP cơ bản và tăng nặng) tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019.

Bảng 3: Hình phạt áp dụng đối với tội phạm LĐCĐTS tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua diễn biến phức tạp và chưa có xu hướng giảm,

các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội với nhiều thủ đoạn khác nhau, rất tinh vi

xảo quyệt, đã gây ra hậu quả to lớn, có những vụ thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ

đồng, có nhiều nạn nhân, … gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự tại

địa phương. Trong lĩnh vực thương mại, mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội

phạm truyền thống, phổ biến, nhưng hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, xuất hiện

ngày càng nhiều những vụ việc phức tạp, các vấn đề liên quan đến xâm phạm sở

hữu về tài sản hợp pháp của người sở hữu, đã kéo theo nhũng hệ lụy cho sự ổn định

phát triển kinh tế. Tính chất phạm tội ngày càng có quy mô, tinh vi và đa dạng, có

tổ chức-câu kết chặt chẽ dưới nhiều hình thức nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản: hoạt

động tổ chức tín dụng đen, cho vay vốn với lãi suất cao không có sự đảm bảo của

pháp luật, ngụy tạo các thông tin thanh toán qua hệ thống thanh toán trực tuyến

ngân hàng (internet Banking, thanh toán online, …).

Trước tình hình trên, các lực lượng chức năng trên địa bàn thành phố Biên

Hòa đã tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện

xử lý kịp thời. Tuy nhiên, thực tiễn thì việc định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội này còn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt

ra. Do đó, tác giả chọn đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn cao học với mong muốn góp phần

làm rõ cơ sở lý luận của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, thực tiễn trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật trong hoạt động

xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa; từ đó đề xuất

những ý kiến cụ thể góp phần đảm bảo áp dụng đúng quy định pháp luật thời gian

tới.

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về Tội lừa đảo chiến đoạt tài sản đã được rất nhiều các nhà

nghiên cứu đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định

tội danh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận

khoa học BLHS (Phần các tội phạm, Tập II), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

Nội; Mai Văn Bộ (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm

2009 (phần các tội phạm), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Văn Đệ

(2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo

trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội…

Các luận án tiến sỹ, luận văn Thạc sĩ luật học của nhiều tác giả liên quan đến

vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh, thành phố của

cả nước như: Lê Đăng Doanh, Đại học luật Hà Nội, luận án tiến sỹ “Tội LĐCĐTS

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”; Lê Quang Ninh

(2019), Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định

của pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Học viện khoa học

xã hội; Đào Thị Tường (2019), Luận văn thạc sĩ “Tội LĐCĐTS theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Học viện Khoa học xã hội; ...

Các bài viết, tạp chí, đề tài khoa học khác như: “ Phân biệt tợi

LĐCĐTS với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác” của tác giả Triệu Thị

Tuyết, TAND tỉnh Bắc Kạn, tạp chí Tòa án; “ Tội LĐCĐTS theo pháp luật

hình sự Việt Nam, lý luận và thực tiễn” của tác giả Đoàn Ngọc Hải, đăng trên

tạp chí Tòa án; “ Bình luận tội LĐCĐTS trong Bộ luật hình sự năm 2015” của

tác giả Phạm Ngọc Minh, http://hinhsu.luatviet.co; …những công trình nghiên

cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và

thực tiễn, các tác giả đã đề cập một cách khá toàn diện các dấu hiệu pháp lý tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản, phân biệt tội này với một số tội phạm khác trong nhóm tội

2

xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập chuyên sâu pháp luật

hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai; các tài liệu trên cũng chính là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho

việc nghiên cứu luận văn của tác giả.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh

và quyết định hình phạt của Toà án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối

với tội phạm này, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện những quy

định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

Làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, phân biệt các tội phạm về

xâm phạm sở hữu.

Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật trong quá trình định tội danh và

quyết định hình phạt về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai trong khoảng 5 năm (2015 - 2019).

Luận văn đưa ra những vấn đề còn hạn chế, bất cập, qua đó đưa ra một số

giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử đối với tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của

pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

3

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực

tiễn xét xử tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015

đến năm 2019. Cụ thể:

- Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh

và quyết định hình phạt của Toà án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối

với tội phạm này. Từ xem xét các bản án hai cấp của Toà án là cấp sơ thẩm và

phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm

hoàn thiện những quy định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.

Việc áp dụng pháp luật không chỉ có định tội danh và quyết định hình

phạt, nhưng trong phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ xem xét định tội danh và quyết

định hình phạt trong xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, để từ đó phát hiện những vấn đề còn tồn tại, đưa ra

các kiến nghị, giải pháp cụ thể cho việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của

pháp luật hình sự trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật đối với tội

LĐCĐTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015-2019.

Cụ thể từ khi Luật Hình sự 1999, (sửa đổi 2009) có hiệu lực đến khi Luật Hình

sự 2015 (sửa đổi 2017) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về chính sách hình

sự, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp như phân

tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, vụ việc điển hình trong giải quyết các vấn đề

của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn đã phân tích được những khái niệm, đặc điểm cũng như khái

quát lịch sử quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự

4

Việt Nam, phân biệt được tội lừa đảo với một số tội danh trong Bộ luật hình sự

Việt Nam.

- Tác giả đã nghiên cứu và phân tích thực tiễn áp dụng quy định của pháp

luật hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận

văn được kết cấu thành 3 Chương, cụ thể :

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA

ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo từ điển Lạc Việt, từ “lừa” được định nghĩa là “làm cho người khác mắc

sai lầm bằng mưu mẹo hoặc nói dối”, còn “lừa đảo” là “dùng thủ đoạn để chiếm tài

sản, của cải”.

Trong khoa học pháp lý hình sự, lừa đảo là thuật ngữ đã được xuất hiện từ

nhiều thế kỷ qua và được mọi người sử dụng rộng rãi ở trong nhiều lĩnh vực của đời

sống xã hội, về khái niệm tội phạm LĐCĐTS cũng đã được đề cập rất nhiều trong

các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều khái niệm khác nhau. Chẳng

hạn có quan điểm cho rằng: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ

đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác”.[37,tr185]

Bộ luật hình sự năm 2015, tuy không nêu cụ thể khái niệm về tội phạm

LĐCĐTS, nhưng có định nghĩa chung về tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm

cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm

độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính

trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,

lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp

của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ

nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. [K.1, Đ.8 BLHS

2015]

Đồng thời BLHS năm 2015 cũng quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian

dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới

50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp

sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm …”. [K.1, Đ.174 BLHS 2015].

6

Như vậy, về khái niệm tội LĐCĐTS không được định nghĩa cụ thể trong

BLHS năm 2015, nhưng căn cứ vào những quy định trên có thể đưa ra khái niệm về

tội LĐCĐTS như sau:

“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng các thủ

đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm nên trao tài

sản để người phạm tội chiếm đoạt”.

1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam

1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS

Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Nhà nước ta chưa ban hành Bộ luật

hình sự, nhưng đã ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau

để quy định và xử lý về tội LĐCĐTS: Sắc lệnh số 26, Sắc lệnh số 223 năm 1946 về

các tội phá hoại công sản, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 267 năm 1956 về các âm

mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân

làm ảnh hưởng, cản trở các chính sách, kế hoạch Nhà nước.

Trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Ủy

ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970,

quy định về tội LĐCĐTS XHCN như sau: “ Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận

trong việc cân, đo, đong, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt

tài sản XHCN thì phạt tù từ sáu tháng đến năm năm …”. (Điều 10); đồng thời Điều

9 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân (cũng do Ủy ban Thường

vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970), quy định về tội

LĐCĐTS riêng của công dân như sau: “ Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt

tài sản riêng của công dân thì phạt tù từ ba tháng đến ba năm …”.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất

nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm nhiều văn bản pháp luật hình sự trong đó có

quy định về tội LĐCĐTS. Như vậy từ năm 1976 nước ta áp dụng đồng thời đến 03

7

văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng xử lý về tội LĐCĐTS: Miền Bắc áp

dụng hai pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ban hành năm 1970, miền Nam áp dụng Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/03/1976

của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Bộ luật hình sự đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày

09/07/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 áp dụng thống nhất trên cả nước, thay

thế các văn bản quy phạp pháp luật hình sự trước đó. BLHS năm 1985 quy định về

tội LĐCĐTS như sau:

Điều 134. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.

1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì

bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. …”

Điềi 157. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân.

1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, thì

bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. …”

BLHS năm 1985 đã phát huy tối đa tính pháp chế và bảo vệ được quyền tài

sản của công dân, có sự bình đẳng hơn quyền sở hữu đối với tài sản xã hội chủ

nghĩa và tài sản của công dân, thể hiện ở chỗ bỏ mức hình phạt tử hình, chỉ áp dụng

mức hình phạt cao nhất là tù chung thân đối với tội LĐCĐTS xã hội chủ nghĩa; còn

đối với tội LĐCĐTS công dân thì nâng mức hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15

năm. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng BLHS năm 1985 nói chung và đối với tội

LĐCĐTS nói riêng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải được sửa đổi, do

vậy riêng tội LĐCĐTS quy định tại các điều 134 và điều 157 cũng đã được sửa đổi,

bổ sung qua bốn lần vào các năm 1990, 1991, 1993 và 1997.

Mặc dù được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng nhìn chung BLHS năm 1985

vẫn chia ra hai nhóm tội về xâm phạm quyền sở hữu tài sản: tội xâm phạm quyền sở

hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.

Do vậy BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2000 đã thay thế

BLHS năm 1985, được xây dựng dựa trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương

8

đối toàn diện, có kế thừa và phát huy tích cực những quy định tiến bộ của BLHS

năm 1985.

BLHS năm 1999 đã gộp các nhóm tội về xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa

và xâm phạm sở hữu của công dân thành một chương duy nhất, Chương “các tội

xâm phạm sở hữu”, áp dụng cho tất cả các hình thức sở hữu; trong đó tội LĐCĐTS

được quy định tại điều 139, tức nhập các điều 134 và 134a, điều 157 trong BLHS

năm 1985 và các lần sửa đổi bổ sung. Điểm mới của điều 139 trong BLHS năm

1999 là trong cấu thành tội phạm cơ bản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được áp dụng

làm ranh giới xác định hành vi lừa đảo phải truy cứu TNHS với hành vi lừa đảo chỉ

bị xử lý hành chính; hình phạt bổ sung và các tình tiết định khung hình phạt cũng

được quy định ngay trong điều luật và chi tiết, cụ thể hơn về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có

giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm

nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về

hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án

tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ

sáu tháng đến ba năm”. (K.1, Đ.139 BLHS 1999).

Phải thừa nhận rằng BLHS năm 1999 là một bước tiến quan trọng trong quá

trình xây dựng và áp dụng chính sách pháp luật hình sự hướng đến đề cao quyền

con người, tôn trọng quyền sở hữu của công dân. Tuy nhiên kinh tế-xã hội không

ngừng phát triển kéo theo sự gia tăng và phát sinh nhiều loại tội phạm mới kể cả về

thủ đoạn và quy mô như các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, các tội phạm liên

quan đến công nghệ thông tin, lĩnh vực tài chính, …; bên cạnh đó xu thế hội nhập

quốc tế ngày càng sâu rộng cần thiết đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung các quy

định về pháp luật hình sự cho phù hợp với quan điểm, chủ trương mới của Đảng về

cải cách tư pháp như đã được nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó chú trọng

đề cao quyền con người theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, tước đi

mạng sống của con người.

9

1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015 đã thông qua BLHS

năm 2015, tuy nhiên sau đó Quốc hội đã quyết định hoãn thời hiệu áp dụng do phát

hiện một số lỗi, để tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội

khóa XIV chính thức thông qua những sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật số

12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm

2015 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là BLHS năm 2015

được sửa đổi bổ sung năm 2017, gọt tắt là BLHS năm 2015), đã quy định về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản như sau:“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài

sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới

2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: …” (K.1, Đ.174

BLHS 2015).

Căn cứ quy định tại điều 174 BLHS 2015, tội LĐCĐTS được xây dựng theo

bốn CTTP tương ứng với bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, và

sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc: CTTP cơ bản (khoản 1),

CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2), CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3), CTTP tăng

nặng thứ ba (khoản 4).

Trong CTTP cơ bản (khoản 1 điều 174) của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có

các tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi lừa đảo bị xử lý

TNHS và hành vi lừa đảo nhưng chỉ bị xử lý hành chính; đồng thời sửa đổi và bổ

sung thêm các dấu hiệu phạm tội mới thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới

2.000.000 đồng nhằm cụ thể hóa hành vi phạm tội phải truy cứu TNHS.

CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2 điều 174) ngoài các dấu hiệu định tội

còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng. Đối với các tình tiết định khung tăng

nặng theo quy định tại khoản 2, điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả

nghiêm trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là

phù hợp, bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất

khó khăn.

10

Tương tự CTTP tăng nặng thứ nhất, CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3 điều

174), thì ngoài các dấu hiệu định tội còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng được

quy định cụ thể; khoản 3 cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm

trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999); và cũng quy định mới thêm một

tình tiết định khung khác là “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý,

nhằm tránh các trường hợp phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan

đặc biệt mà chưa có quy định dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Đối với CTTP tăng nặng thứ ba, khoản 4 điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình

tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b khoản 4 Điều 139 BLHS 1999).

Đồng thời, BLHS năm 2015 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là c)

Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự bổ sung hợp lý,

nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là trong điều kiện

chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt

tài sản gia tăng rất nhiều. [45]

Ngoài ra, tội LĐCĐTS là một trong những tội phạm phổ biến của nhóm tội

xâm phạm quyền sở hữu, gây thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu một cách trực tiếp,

nên ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ

sung như: bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản như được quy định tại khoản

5 điều 174.

1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Khái niệm

Theo tác giả Phan Thị Hồng Thắng thì: “Định tội danh là việc xác định và

ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm

tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong

Bộ luật hình sự”. [39,tr10]

Còn theo GS.TSKH Lê Cảm thì định nghĩa về định tội danh như sau: “Định

tội danh được hiểu là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong

những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự;

11

đồng thời dựa trên các tài liệu chứng cứ thu thập được phản ánh các tình tiết thực

tế của vụ án đã xảy ra để so sánh, đối chiếu và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp

của chúng với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình

sự quy định”. [12]

Trong khoa học hình sự, một hành vi bị coi là tội phạm khi có đủ bốn dấu

hiệu, bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải

bị xử lý hình sự. Tính phải bị xử lý hình sự đối với một hành vi được hiểu là hành vi

đó phải được qui định trong BLHS bằng một tội phạm cụ thể và kèm theo đó một

hình phạt cũng như các biện pháp xử lý hình sự khác tương ứng.

Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là quá trình các

cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và áp dụng các quy định của PLHS và

TTHS để xác định hành vi của người phạm tội xem có thỏa mãn các yếu tố cấu

thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 BLHS 2015 hay

không, và quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội.

Từ những khái niệm và phân tích trên có thể hiểu định tội danh tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản như sau:

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn của các

cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ

tục pháp luật tố tục hình sự quy định; trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ

nhằm xác định có hay không sự phù hợp giữa hành vi chiếm đoạt đã xảy ra với

các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định

tại điều 174 BLHS 2015; làm căn cứ để giải quyết các vấn đề liên quan đến hình

phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.

1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Định tội danh là hoạt động thực tiễn, có tính logic nhằm xác định có hay

không sự tương đồng giữa hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu

hiệu của nó được quy định tại điều 174 BLHS 2015: “1. Người nào bằng thủ đoạn

gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới

12

50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp

sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm:…”, để từ đó xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản hay không. Trên cơ sở đó có thể nhận thức các dấu hiệu pháp lý của tội

LĐCĐTS như sau:

(i) Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Mặt khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản. Đối

tượng tác động của tội phạm này là tài sản. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể

hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác sau khi lừa lấy được

tài sản.

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ

nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, cụ thể là quyền sở hữu tài sản

được pháp luật bảo vệ. Trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luật không

quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt, đây là

điểm khác so với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp

giật tài sản.

(ii) Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

- Về hành vi khách quan của tội phạm LĐCĐTS: là sử dụng thủ đoạn gian

dối để chiếm đoạt tài sản, thể hiện ở chỗ:

+ Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc

đó người bị hại không biết được có hành vi gian dối;

+ Dùng thủ đoạn gian dối bằng hành vi đưa ra thông tin giả, không đúng với

sự thật (như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình

ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau), làm cho người bị lừa dối tin

đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.

Đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt bằng thủ

đoạn gian dối, hai hành vi này có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó hành vi gian

dối có trước, là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; do vậy thủ đoạn

13

gian dối phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu

hoặc người quản lý tài sản để đạt mục đích chiếm đoạt.

Cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội

LĐCĐTS, một số quan điểm cho rằng tội LĐCĐTS có hai hành vi khách quan là

hành vi “gian dối” và hành vi “chiếm đoạt”; tuy nhiên, BLHS năm 2015, điều 174

quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người

khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì

thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích, mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối

lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà

người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.

Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B

tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu. A đem xe máy của B ra tiệm cầm

đồ cầm cố lấy 10.000.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc và đã thua hết.

Hoặc ví dụ khác: vì muốn có tiền đánh bạc C đã nói dối với D là mượn xe 01 tiếng

đồng hồ để chở bạn gái về rồi sẽ trả lại xe, nhưng C lại đem cầm cố lấy tiền đánh

bạc….

Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật

tài sản của người khác thành của mình, đây là đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ

đoạn gian dối. Như vậy thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi

chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản

cho người phạm tội. Trường hợp nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội

nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp

cụ thể thủ đoạn gian dối đó sẽ cấu thành một tội khác, hoặc có thể là hành vi che

giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác.

- Về hậu quả của tội LĐCĐTS: là thiệt hại về tài sản mà căn cứ xác định là

giá trị tài sản bị chiếm đoạt. BLHS 2015 quy định cụ thể giá trị tài sản bị chiếm đoạt

từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm (K.1, Đ.174), trường hợp tài sản

14

bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện khác được nêu cụ

thể trong điều luật.

Tuy vậy trong một số trường hợp, mặc dù chưa có thiệt hại về tài sản (người

phạm tội chưa thực sự chiếm đoạt được tài sản), nhưng vẫn cấu thành tội phạm

LĐCĐTS, đó là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm

tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Về mối quan hệ nhân quả: tội LĐCĐTS cũng như những tội có cấu thành vật

chất khác, hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả

với nhau, hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu

việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách

quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh

như thế nào.

Ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với

những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác, làm cho chủ sở hữu tài sản “tự

nguyện” giao tài sản của mình, còn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không

phải do người bị hại tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu

khách quan để xác định tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong,

đo, đếm, gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng, hoặc để bán hàng giả nhằm

thu lợi bất chính thì sẽ cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.

(iii) Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Theo quy định tại điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS, thì

đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ

đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải

chịu TNHS về tội LĐCĐTS, mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội này.

(iv) Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là

người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước

hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

15

Thật vậy, tội LĐCĐTS là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể,

mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại,

nghĩa là mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội luôn có trước khi thực hiện

thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách

hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi

LĐCĐTS, mà tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội

phạm khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Ngoài ra, việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn

cứ vào tình trạng tài chính, ngữ cảnh của người phạm tội như: tài sản thực có, tình

trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của

người phạm tội như thế nào; vì thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh

doanh…, không có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài

sản.

1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

(i) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm như sau:

- Là hoạt động có tính logic nhằm xác định có hay không sự tương đồng giữa

hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu hiệu của nó được quy định

tại điều 174 BLHS 2015, để xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản hay không.

- Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải tuân thủ quy

định về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tục hình sự; trên cơ sở thu thập các tài liệu,

chứng cứ để làm căn cứ áp dụng quyết định hình phạt hợp lí nhất đối với người

phạm tội.

- Với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, định tội

danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt

đối; mọi hành vi định tội danh sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn

cho cá nhân, gia đình và xã hội.

16

- Là hoạt động mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng; hoạt

động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ

quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không thể được tiến hành bởi bất kì chủ

thể nào khác, đối tượng bị áp dụng không được lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ

có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt trên cơ sở áp

dụng theo quy định của pháp luật.

(ii) Ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản góp phần thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của

Hiến pháp, các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS. Mặt

khác, việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS (Điều 174 BLHS

2015) có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế, cụ thể là quyền sở hữu tài sản

của công dân, đây là quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận.

Ý nghĩa về phương diện pháp lí: Hoạt động nhằm xác định hành vi của một

người là hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thỏa mãn các dấu hiệu

quy định của BLHS thể hiện sự khách quan, công bằng của pháp luật; là tiền đề

quan trọng để định tội danh một cách chính xác, đồng thời là cơ sở để áp dụng đúng

các thủ tục tố tụng về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng biện pháp tạm

giam,…; không làm oan, sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm; tránh trình trạng

tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang vật; đồng thời là căn cứ để Toà án quyết định hình

phạt đúng, ban hành một bản án đúng, chính xác phù hợp với mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội, thể hiện tính nghiêm minh, công bằng, khách quan

của pháp luật.

1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt

Hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự có khá nhiều quan điểm đã được

nêu ra về khái niệm quyết định hình phạt. Tuy nhiên với quan điểm “Quyết định

hình phạt là một giai đoạn, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc

Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản,

17

điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện

trong bản án buộc tội” [37,tr386] đã cho rằng: quyết định hình phạt là hoạt động

nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Toà án có thẩm quyền thực hiện sau khi

đã định tội danh, và tuỳ thuộc vào từng trường hợp để quyết định mức hình phạt

trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật quy định áp dụng đối với người

có hành vi phạm tội.

Quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử do HĐXX

tiến hành căn cứ vào các quy định của BLHS để QĐHP, nên quyết định hình phạt

có những đặc trưng sau:

Một là: QĐHP là hoạt động thực tiễn của Toà án có thẩm quyền do hoạt

động xét xử thực hiện dựa trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật hình sự và kết

quả định tội danh.

Hai là: Toà án căn cứ quy định trong BLHS, TTHS để quyết định miễn

TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, loại hình phạt và mức hình

phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội đối

với họ.

Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong

muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt

đối với người phạm tội; tuy nhiên mục đích của hình phạt có đạt được hay không lại

phụ thuộc vào sự đúng đắn và hợp lý của Tòa án khi quyết định hình phạt, vì chỉ khi

hình phạt trong bản án được tuyên đảm bảo tính công minh, hợp lý, đúng pháp luật

sẽ là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt; qua đó đạt được mục

đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội, góp phần hữu hiệu trong công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm pháp chế Nhà nước XHCN.

1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt

Căn cứ quyết định hình phạt có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn, hợp

pháp của toản bộ hoạt động áp dụng pháp luật, nên phải dựa trên các căn cứ sau:

- Một là, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS

18

được quy định cụ thể trong BLHS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Toà án

định tội danh và quyết định hình phạt, do đó hình phạt cụ thể mà Toà án áp dụng

đối với người phạm tội phải thuộc phạm vi khung hình phạt áp dụng cho tội phạm

cụ thể (hoặc dưới mức tối thiểu của khung) và không được trái với những quy định

nói trên. Quyết định hình phạt liên quan rất chặt chẽ với việc định tội danh, việc

định tội danh đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng, cũng có nghĩa là

chỉ ra đúng chế tài cần áp dụng đối với người phạm tội.

- Hai là, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội, tức là cần xác định tính chất và

mức độ hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ gây ra, yếu tố lỗi, động cơ phạm tội, phương

pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội, hoàn cảnh phạm tội, …

- Ba là, căn cứ vào nhân thân người phạm tội là các đặc điểm thuộc về nhân

thân người phạm tội gồm các yếu tố như: Trình độ văn hóa, tôn giáo, tuổi, tiền án,

tiền sự, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, nghề nghiệp, thái độ

làm việc, thái độ trong quan hệ với người khác..., các đặc điểm này phản ánh ánh

mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và khả năng cải tạo, giáo dục của người

phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ.

- Bốn là, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS được quy định

tại Điều 51 và Điều 52 BLHS 2015, và là một trong các tình tiết để đánh giá mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. PLHS Việt Nam luôn xem các tình tiết

giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là căn cứ quyết định hình phạt độc lập bên cạnh các căn

cứ khác, để Toà án cân nhắc các tình tiết này (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ

nội dung vụ án để quyết định hình phạt cho người phạm tội được chính xác, hạn chế

sự tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật của Tòa án.

Mặt khác khi quyết định hình phạt Tòa án còn phải dựa trên những nguyên

tắc nhất định:

- Nguyên tắc pháp chế XHCN: Đây là nguyên tắc chung của hệ thống pháp

luật Việt Nam và phải được tuân thủ trong tất cả các ngành luật cụ thể. Riêng đối

với ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các vấn đề về tội phạm và hình

19

phạt đều phải được quy định chặt chẽ, mạch lạc, rõ ràng trong Bộ luật và các văn

bản hướng dẫn; việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt trong áp dụng luật

đều phải dựa trên các điều luật cụ thể.

- Nguyên tắc nhân đạo XHCN: Đây là nguyên tắc chung và là nguyên tắc thể

hiện sự khoan hồng, nhân đạo, coi trọng quyền con người của Nhà nước ta, vì hậu

quả mà người phạm tội phải chịu trong ngành luật này là hình phạt (chế tài nặng

nhất trong các loại chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật).

- Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt: Tòa án cần áp xem xét toàn diện vụ án,

đánh giá khách quan tất cả các vấn đề liên quan đến hành vi phạm tội (tính chất,

mức độ nguy hiểm của tội phạm) và nhân thân người phạm tội để đưa ra được mức

hình phạt công bằng, đúng pháp luật nhằm đạt được mục đích trừng trị và giáo dục,

cải tạo người phạm tội.

- Nguyên tắc công bằng: Quyết định hình phạt phải đảm bảo sự tương xứng

giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và TNHS của

người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu, và phản ánh một cách đầy đủ đạo đức

xã hội, ý thức pháp luật, dư luận xã hội.

1.4.3. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy

định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp

nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,

pháp nhân thương mại đó. [48]

Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị tội phạm mà còn giáo dục họ ý thức tuân

theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, giáo dục

họ tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Trong BLHS năm

2015, tội LĐCĐTS chưa quy định hình phạt đối với pháp nhân thương mại. [48]

Tội LĐCĐTS tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cả hình phạt

chính và hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:

Hình phạt chính bao gồm: Cải tạo không giam giữ và phạt tù.

20

Hình phạt bổ sung bao gồm: bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

1.3.3.1. Hình phạt chính

Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng cho mỗi tội phạm mà không phụ

thuộc vào hình phạt khác (hình phạt bổ sung) trong hệ thống hình phạt. Đối với tội

LĐCĐTS áp dụng hình phạt chính bao gồm hình phạt cải tạo không giam giữ và

hình phạt tù có thời hạn.

i). Hình phạt cải tạo không giam giữ:

- Hình phạt cải tạo không giam giữ: là hình phạt chính được áp dụng đối với

người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Trong các hình phạt, thì hình

thức hình phạt này nhẹ hơn hình phạt tù, nhưng nặng hơn hình phạt tiền và hình

phạt cảnh cáo. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt cải tạo không giam

giữ như sau: “Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối

với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định

mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần

thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội” (Điều 36).

Mục đích của hình phạt là giám sát, giáo dục người phạm tội là chủ yếu. Căn

cứ khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015, thì hình phạt cải tạo không giam giữ với

mức cao nhất là đến 03 năm, hình phạt này làm hạn chế người phạm tội ở một số

mặt về kinh tế, hoặc hạn chế một phần tự do của người phạm tội như khi muốn đi

khỏi nơi cứ trú thì phải thông báo xin phép và được sự đồng ý của cơ quan quản lý

có thẩm quyền thì mới có quyền này.

i). Hình phạt tù có thời hạn:

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước

quyền tự do, bị cách ly với xã hội, người phạm tội phải lao động cải tạo trong trại

giam dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng chức năng. Điều 38 Bộ luật hình sự

năm 2015 quy định:“Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình

phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”.

21

Đối với tội LĐCĐTS thì hình phạt cao nhất là hình phạt tù có thời hạn, tại

khoản 1 khung hình phạt của cấu thành tội phạm cơ bản cho thấy hình phạt tù từ 06

tháng đến 03 năm là không cao, vì vậy ở khung hình phạt tù cơ bản này cũng nhằm

mục đích giáo dục người phạm tội.

iii). Phạt tù có thời hạn theo cấu thành tội phạm tăng nặng:

Bên cạnh hình phạt được quy định tại cấu thành tội phạm cơ bản thì có

những dấu hiệu phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn được quy định

trong cấu thành tội phạm tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4

Điều 174 BLHS năm 2015 như sau:

Khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp dưới đây, thì bị phạt tù

từ 2 năm đến 7 năm (Khoản 2 Điều 174):

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách có tổ chức: Có tổ chức tức là có từ 02

người trở lên, bàn bạc, cấu kết để cùng thực hiện hành vi (đồng phạm).

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp: tình tiết “phạm tội có

tính chất chuyên nghiệp” được hiểu khi có đầy đủ cả hai điều kiện là: tội phạm đã

cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm, không phân biệt đã bị truy

cứu trách nhiệm hình sự hay chưa; và các lần phạm tội là nghề sinh sống của họ.

(hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12/5/2006).

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu VNĐ đến dưới 200 triệu

VNĐ: Đây là số tiền lớn, cho nên đòi hỏi khung hình phạt phải cao hơn so với

Khoản 1.

Tái phạm nguy hiểm: Căn cứ theo khoản 2 điều 53 BLHS 2015 để xác định.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức:

được hiểu là hành vi mà người phạm tội dựa vào sự thuận lợi do chức vụ mà mình

đảm nhiệm tại cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản. Hiện cũng chưa có quy định giới hạn chức vụ, quyền hạn cụ thể nào và của

cơ quan cụ thể nào, cho nên có thể hiểu quy định này áp dụng cho tất cả các chức

vụ, quyền hạn trong tất cả các cơ quan, tổ chức trong hay ngoài nhà nước.

22

Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm để lừa đảo : Hiện nay chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể tình tiết này nhưng qua thực tiễn có thể hiểu dùng thủ đoạn xảo

quyệt, nguy hiểm là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức

gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại khó lường thấy trước được để đề phòng,

ví dụ bỏ thuốc độc vào nước uống rồi đưa cho nạn nhân…

Trong khoản 2 này, BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm

trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là phù hợp,

bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất khó

khăn, mặc dù có quy định tại tiểu mục a mục 3.4 phần I Thông tư 02/2001 của

BLHS 1999. [45]

Tại Khoản 3 Điều 174 (khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm) đã bỏ tình

tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999). Đồng

thời, BLHS năm 2015 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là “Lợi

dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý, nhằm tránh các trường hợp

phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan đặc biệt mà chưa có quy định

dẫn đến bỏ lọt tội phạm. [45]

Tương tự, Khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015 (khung hình phạt tù từ 12 năm

đến 20 năm) cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b

khoản 4 Điều 139 BLHS 1999). Đồng thời, quy định mới thêm một tình tiết định

khung khác là c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự

bổ sung hợp lý, nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là

trong điều kiện chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo

nhằm chiếm đoạt tài sản gia tăng rất nhiều. [45]

1.3.3.2. Hình phạt bổ sung

Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính đối

với những tội phạm nhất định nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt

chính. BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000

đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

23

công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài

sản”. (Khoản 5 Điều 174)

Đối với hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định chỉ được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm

nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội

(Điều 41 BLHS 2015). Hình phạt bổ sung này chỉ được áp dụng nếu xét thấy cần

thiết tức là không bắt buộc phải áp dụng, hình phạt bổ sung này thường được áp

dụng đối với các chủ thể đặc biệt như đang làm một nghề nghiệp nhất định như bác

sĩ, cảnh sát phòng cháy chữa cháy, thủy thủ… tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm

của hành vi phạm tội mà thời hạn cấm sẽ được áp dụng một cách hợp lý. Đối với

hình phạt bổ sung này, luật hình sự quy định nhằm mục đích giáo dục, răn đe người

phạm tội phải chấp hành tốt quy tắc hành nghề hay làm một công việc nhất định và

có ý nghĩa ngăn ngừa, phòng, chống tội phạm. [48]

Qua phân tích các hình phạt nêu trên, việc áp dụng các hình phạt đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm mục đích giáo dục, răn đe người phạm tội là chủ

yếu; đồng thời Điều 174 BLHS năm 2015 đã điều chỉnh khung hình phạt trách

nhiệm hình sự xuống mức cao nhất là chung thân, giảm hơn trước đây so với BLHS

năm 1999 quy định tối đa khung hình phạt ở mức cao nhất là tử hình. Qua đó, cho

thấy trong quá trình xử lý loại tội phạm này nhằm mục đích làm cho người phạm tội

thấy rõ sự sai trái của hành vi của mình, đồng thời giáo dục mọi công dân phải đề

cao ý thức pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác.

1.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác

Như đã phân tích về các yếu tố cấu thành tội LĐCĐTS nêu trên, thì hành vi

chiếm đoạt tài sản đối với tội LĐCĐTS luôn gắn liền và có mối quan hệ nhân quả

với hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản

hoặc của người quản lý tài sản. Tuy nhiên việc xác định thủ đoạn gian dối trong một

số vụ án để chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội LĐCĐTS hay không thì lại trở nên

khó khăn, vì hành vi gian dối không phải lúc nào cũng thể hiện một cách rõ ràng và

24

thống nhất, hoặc không phải là hành vi có trước, không là nguyên nhân trực tiếp của

hành vi chiếm đoạt tài sản.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các

cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn có sự nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội lừa dối khách hàng (Điều 198), tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)…, do vậy cần phải làm rõ những điểm

giống và khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở

hữu khác nhằm đảm bảo cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản được chính xác.

1.5.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản

Tội LĐCĐTS và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hai tội được

quy định ở hai điều luật liền kề nhau trong cùng chương về các tội xâm phạm quyền

sở hữu, cùng thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

Đối với tội LĐCĐTS thì hành vi chiếm đoạt tài sản là sử dụng thủ đoạn gian

dối để chiếm đoạt tài sản; trong khi đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì

hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội được quy định cụ thể trong BLHS

năm 2015, bằng các hành vi như sau:

“… a) Vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người

khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để

chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả

năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người khác

bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp

dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”

(Khoản 1 điều 175).

Về cơ bản cả hai tội LĐCĐTS và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

có các yếu tố cấu thành tội phạm giống nhau về mặt khách thể, mặt khách quan ,

25

mặt chủ quan và mặt chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên giữa hai tội có sự khác nhau

về thời điểm và mục đích thực hiện hành vi lừa dối, cụ thể:

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa dối được người phạm tội

thực hiện trước thời điểm thực hiện sự giao kết, thỏa thuận; và suy cho cùng thì việc

thực hiện sự giao kết, thỏa thuận trong trường hợp này là sau khi người phạm tội đã

chiếm được lòng tin của người bị hại. Như vậy hành vi lừa dối xảy ra trước hành vi

chiếm đoạt, là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra, không có hành vi lừa

dối thì không thể chiếm đoạt được tài sản.

Ví dụ: A nói với B là do mẹ bị bệnh nặng và vay B số tiền 10 triệu đồng để

đưa mẹ đi cấp cứu, do B tin tưởng nên cho A vay số tiền trên. Sau khi nhận được

tiền A đã sử dụng số tiền đó để đánh bạc và bị thua, không có khả năng trả nợ cho

B. Qua vụ án trên ta có thể thấy rằng A có hành vi lừa dối B làm cho B tin tưởng,

sau đó B mới giao tài sản cho A. Như vậy, hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản xảy ra trước hành vi giao nhận tài sản giữa chủ tài sản và người phạm

tội. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra. [42]

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngay tại thời điểm thực

hiện thì việc giao nhận tài sản là ngay thẳng thông qua các giao dịch hợp pháp như

hợp đồng vay mượn, cho thuê, nhờ giữ hộ…. Sau khi hết thời hạn vay mượn, cho

thuê … đáng lẽ ra các tài sản phải được hoàn trả cho chủ tài sản theo các hợp đồng,

thỏa thuận đã ký kết; nhưng người phạm tội cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản

vào mục đích khác dẫn đến mất khả năng chi trả hoặc bỏ trốn nhằm trốn tránh trách

nhiệm phải chi trả tài sản. Do đó hành vi lừa dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản được thực hiện nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản và được thực

hiện sau khi có sự giao nhận tài sản giữa chủ sở hữu tài sản và người phạm tội.

Ví dụ: M là bạn của H, ngày 15/3/2017 M hỏi mượn chiếc xe mô tô của H để

đi lại và hẹn 5 ngày sau sẽ trả, H đồng ý và giao xe cho M. Sau khi nhận được xe,

M đã sử dụng xe để tham gia đánh bạc và bị thua, do không có tiền trả nợ nên M đã

mang xe của H đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu xài, sau đó không có khả năng

chuộc xe về trả cho H, sau 02 tuần M nói với H là xe bị mất trộm. Như vậy hành vi

26

lừa dối của M có sau hành vi M nhận tài sản từ H, mục đích nói dối của M là nhằm

che dấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình (do M đã mang xe đi cầm cố và không

có khả năng chuộc xe về trả cho H).[42]

Như vậy giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản có sự khác nhau về thời điểm và mục đích của hành vi lừa dối nhằm

chiếm đoạt tài sản. Ranh giới để xác định CTTP tội LĐCĐTS hay tội LDTNCĐTS

là: nếu người phạm tội có hành vi gian dối ngay từ đầu nhằm mục đích chiếm đoạt

tài sản thì đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngược lại nếu tại thời điểm giao

nhận tài sản người phạm tội chưa có hành vi gian dối, mà việc giao nhận được thực

hiện một cách ngay thẳng nhưng sau khi có được tài sản thì người phạm tội mới có

hành vi gian dối nhằm che giấu việc chiếm đoạt tài sản thì đó là hành vi lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

1.5.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng

Hành vi khách quan là dấu hiệu cấu thành tội lừa dối khách hàng, là trường

hợp người phạm tội có hành vi gian dối được quy định tại Điều 198 của BLHS năm

2015, như: cân đo, đong đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn

gian dối khác… trong việc mua bán với khách hàng gây thiệt hại nghiêm trọng cho

khách hàng

Điểm giống nhau của cả hai tội này đều được thực hiện bằng thủ đoạn gian

dối, song đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hành vi gian dối được thực hiện

dưới mọi hình thức còn đối với tội lừa dối khách hàng thì hành vi gian dối chỉ diễn

ra trong quan hệ mua bán bằng những hành vi được pháp luật quy định cụ thể như

cân, đo, đong đếm thiếu, mua bán hàng giả …

1.5.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ

quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Điều 355 BLHS năm 2015 quy định về tội lạm dụng chức vụ quyền hạn

chiếm đoạt tài sản, theo đó hành vi khách quan của tội này là trường hợp người

phạm tội đã thực hiện hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình khi thi

hành công vụ nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn: Lạm

27

dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần của người khác để chiếm đoạt tài sản;

lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ;

lạm dụng chức vụ quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Cả hai trường hợp phạm tội: tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm

đoạt tài sản (điểm đ, K.2, Đ.174 BLHS 2015) và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn

lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác (Điều 355 BLHS 2015) đều được thực

hiện bằng hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, chỉ khác nhau ở cách thức thực hiện

hành vi phạm tội, cụ thể như sau:

+ Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hành vi gian

dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên chức vụ quyền hạn mà

người phạm tội có để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Việc lợi

dụng chức vụ quyền hạn không đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng chức vụ quyền

hạn của mình trong khi thi hành công vụ để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài

sản mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ quyền hạn và dựa trên chức vụ quyền

hạn để thực hiện hành vi phạm tội.

+ Còn đối với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản cần

xác định hành vi khách quan cấu thành tội phạm, đó là hành vi vượt ra khỏi phạm vi

quyền hạn của mình nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi vượt quyền

hạn này chỉ thực hiện trên cơ sở chức vụ, quyền hạn đã có của người phạm tội, và

sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như là phương tiện để thực hiện tội phạm. Để

chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội có thể thực hiện tội phạm bằng

nhiều thủ đoạn khác nhau như: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần

người khác để chiếm đoạt tài sản của họ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối

người khác chiếm đoạt tài sản của họ.

Như vậy đối với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản,

ngoài hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên chức vụ

quyền hạn mà người phạm tội có, thì hành vi đó phải được thực hiện trong khi thi

hành công vụ để lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác.

1.5.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng máy

28

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt

tài sản

Đối với tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS 2015) thì thủ đoạn gian dối để

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được người phạm tội sử dụng là thông qua

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản, dưới nhiều thủ đoạn khác nhau như huy động vốn, đánh cắp tiền trong

tài khoản… bằng cách sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện

tử nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Hành vi khách quan được xem là yếu tố cấu thành tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

gồm các dấu hiệu sau: sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng, hoặc làm giả

thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt nhằm chiếm đoạt tài sản

của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản

cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại điện

tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua

mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; hành vi khác nhằm

chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, nếu người phạm tội sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông làm

phương tiện phạm tội, tạo thủ đoạn gian dối, che giấu hành vi phạm tội để người bị

hại tin, giao tiền thì hành vi đó cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; còn nếu

người phạm tội thực hiện hành vi làm giả thẻ ngân hàng; truy cập bất hợp pháp vào

tài khoản; lừa đảo trong thương mại điện tử; gửi tin nhắn lừa trúng thưởng để chiếm

đoạt phí dịch vụ tin nhắn... thì sẽ bị xử lý về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

1.5.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản, tội trộm

cắp tài sản

Đối với tội cướp tài sản, điều 168 BLHS năm 2015, sự khác biệt về mặt

khách quan thì tội cướp tài sản được thể hiện bởi một trong các hành vi: dùng vũ

29

lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn

công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản; trong

khi tội LĐCĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người bị hại tin nhầm

giao tài sản mình đang sở hữu hoặc quản lý cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản

đó.

Còn với tội trộm cắp tài sản, điều 173 BLHS năm 2015, hành vi dùng thủ

đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách

trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình, hay hiểu cách khác hành vi

này làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được

các quyền năng (gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay quản lý) đối với tài

sản của họ hoặc được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người

phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.

Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt, đối với tội trộm cắp, được thực hiện (hành động)

một cách lén lút, bí mật nhằm để che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc

người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó.

30

Tiểu kết Chương 1

Chương 1 của luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về

khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và phân biệt giữa tội

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội chiếm hữu tài sản khác, như: lạm

dụng tín nhiệm tài sản, tội lừa dối khách hàng, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn

chiếm đoạt tài sản, để làm rõ hành vi, các dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản. Khái quát lịch sử quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong

pháp luật hình sự Việt Nam qua các giai đoạn phát triển và ngày càng hoàn thiện

hơn, cho đến nay các quy định trong điều luật khá rõ ràng, hợp lý, làm cơ sở cho

việc xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự thống nhất và khách quan.

Những vấn đề trên là những lý luận để tác giả vận dụng làm rõ thực tiễn áp

dụng pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai.

31

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố

Biên Hòa

Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, số liệu khảo sát thực tế về diễn

biến tình hình tội phạm, riêng đối với tội LĐCĐTS và hoạt động xác định tội danh

qua truy tố, xét xử tại TAND thành phố Biên Hòa như sau:

Năm 2015: Viện kiểm sát truy tố 53 vụ với 66 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn

đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 46 vụ với 59 bị cáo, trả hồ sơ điều tra

bổ sung 2 vụ với 2 bị cáo, số vụ chưa xét xử 5 vụ với 5 bị cáo.

Năm 2016: Viện kiểm sát truy tố 55 vụ với 60 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn

đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 52 vụ với 55 bị cáo, trả hồ sơ điều tra

bổ sung 0 vụ với 0 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 3 vụ với 5 bị cáo.

Năm 2017: Viện kiểm sát truy tố 39 vụ với 45 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn

đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 35 vụ với 38 bị cáo, trả hồ sơ điều tra

bổ sung 3 vụ với 5 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 1 vụ với 2 bị cáo.

Năm 2018: Viện kiểm sát truy tố 13 vụ với 14 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn

đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 12 vụ với 13 bị cáo, số vụ chưa xét xử

1 vụ với 1 bị cáo.

Năm 2019: Viện kiểm sát truy tố 21 vụ với 23 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn

đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 16 vụ với 18 bị cáo, trả hồ sơ điều tra

bổ sung 1 vụ với 1 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 4 vụ với 4 bị cáo.

32

Bảng 2.1: Tình hình tội phạm và số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội LĐCĐTS

được giải quyết trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ 2015 đến 2019.

Tình hình tội phạm Tội LĐCĐTS Năm Số vụ Bị cáo Số vụ Bị cáo

587 1.062 46 59 2015

576 1.071 52 55 2016

489 819 35 38 2017

407 721 12 13 2018

478 751 16 18 2019

2.537 4.424 161 183 Tổng

(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)

Bảng 2.2: Phân loại tội phạm tội LĐCĐTS theo mức hình phạt (CTTP cơ

bản và tăng nặng) tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019 .

CTTP cơ bản CTTP tăng nặng Năm Tổng số Bị cáo Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4

1 59 53 5 2015

1 55 50 4 2016

38 36 2 2017

13 12 1 2018

18 15 3 2019

2 183 166 15 Tổng

(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)

2.1.1. Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu

thành cơ bản

(Khoản 1, Điều 139 BLHS 1999; Khoản 1, Điều 174 BLHS 2015).

Thực tiễn xét xử được thực hiện trong các bản án của TAND thành phố Biên

Hòa những năm qua về tội này là những trường hợp thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu

33

pháp lý cấu thành tội phạm, không có vụ việc nào bị cáo bị định tội danh sai hoặc

nhầm lẫn với các tội khác trong nhóm tội chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm 320/2017/HSST ngày 10/8/2017 của TAND

thành phố Biên Hòa. Nội dung như sau: Công ty tài chính TNHH một thành viên

Home Credit Việt Nam (gọi tắt là Công ty Home Credit có chương trình cho khách

hàng vay tiền trả góp hàng tháng để mua các sản phẩm tiêu dùng tại các cửa hàng

có liên kết với Công ty Home Credit. Khi khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm nào

đó thì sẽ trả trước một phần tiền, phần còn lại Công ty Home Credit sẽ cho vay để

trả cho cửa hàng bán sản phẩm. Nắm rõ quy trình và thủ tục nêu trên, Võ Văn A đã

sử dụng giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu photo mang tên người khác để ký

kết hợp đồng vay tiền mua tài sản rồi chiếm đoạt. Tại tòa Võ Văn A đã khai nhận

toàn bộ hành vi phạm tội; cụ thể: Ngày 05/4/2016, bị cáo đã có hành vi dùng thủ

đoạn gian dối là sử dụng chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu giả để nhằm chiếm đoạt

của công ty Home Credit số tiền 8.851.000đ. Phân tích hồ sơ vụ án tác giả thấy việc

Toà án đã xác định hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến

quyền sở hữu về tài sản của pháp nhân và gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an

tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng

nhận thức pháp luật, biết hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của

công ty Home Credit là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà bất

chấp hậu quả, xem thường pháp luật, đủ các yếu tố CTTP đối với tội LĐCĐTS . Từ

đó Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên bị cáo Võ Văn A phạm tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”, và áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự để xử phạt là thoả

đáng.

Việc chứng minh có thủ đoạn gian dối hay không là vấn đề còn nhiều vướng

mắc trong thực tế. Theo quy định về dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, hoặc Khoản 1 Điều 174 Bộ luật

Hình sự năm 2015 có quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài

sản của người khác…” nên khi xác định hành vi CTTP thì bắt buộc phải có hai yếu

tố là “thủ đoạn gian dối” và có “chiếm đoạt”, như vậy phải chứng minh được thủ

34

đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt, và là nguyên

nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội; vì

nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là

hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác. Bên cạnh đó cơ quan tiến

hành tố tụng phải xác định được hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ

hành vi lừa dối, nếu việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào

những dấu hiệu khách quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và

được pháp luật điều chỉnh như thế nào.

Ví dụ 2: Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10 tháng 3 năm

2017 của TAND thành phố Biên Hòa, xét xử Nguyễn Viết C, sinh năm 1962 tại tỉnh

Đồng Nai. Căn cứ tài liệu, hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, TAND thành phố Biên

Hòa tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và áp

dụng Điểm e, Khoản 2, Điều 139 Bộ luật Hình sự để xử phạt.

Ngày 15/3/2017, bị cáo Nguyễn Viết C có đơn kháng cáo cho rằng mình bị

oan. Tại bản án phúc thẩm số 203/2017/HSPT Ngày 23/08/2017, HĐXX cho rằng:

Tại cấp sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo

cho rằng việc giả chữ ký của vợ chồng ông Trần Văn C và bà Phạm Thị Thanh N

trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2006 là được sự

đồng ý của ông Trần Văn C qua điện thoại; tiền nhận chuyển nhượng quyền sử

dụng đất từ ông Nguyễn Ngọc S, bị cáo đã giao lại hết cho ông Trần Văn C. Do đó,

bị cáo kháng cáo, cho rằng mình không phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cấp

sơ thẩm đã xét xử oan bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C vẫn

giữ nguyên kháng cáo. Từ đó HĐXX quyết định: 1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ

thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10 tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố

Biên Hòa; 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa

để điều tra lại theo thủ tục chung. Đây là vụ án khá phức tạp thực sự khó trong việc

chứng minh có hay không các yếu tố là “thủ đoạn gian dối” và có “chiếm đoạt” để

xác định đủ các yếu tố CTTP tội LĐCĐTS; và theo nhận định của Viện kiểm sát

35

nhân dân tỉnh Đồng Nai tại Toà phúc thẩm: “Cấp sơ thẩm không đưa người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ án, có nhiều vi phạm nghiêm trọng

thủ tục tố tụng và điều tra chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được”,

thì quyết định của HĐXX Toà phúc thẩm như nêu trên là phù hợp.

Ngoài ra, thực tế cũng có nhiều vụ án định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản theo cấu thành cơ bản (Khoản 1, Điều 139 BLHS 1999; Khoản 1, Điều 174

BLHS 2015), và mặc dù bị cáo thực hiện nhiều lần, có thể áp dụng định tội tăng

nặng theo khoản 2, nhưng HDXX vẫn áp dụng khoản 1 để xử phạt.

Ví dụ 3: Bản án hình sự sơ thẩm số 281/2017/HSST ngày 19/7/2017 của

TAND thành phố Biên Hòa. Nội dung như sau: Liên tiếp trong hai ngày, ngày 02 và

03/8/2016, bị cáo đã dùng thủ đoạn dùng hình ảnh của mình dán vào Giấy chứng

minh nhân dân và Giấy phép lái xe của người khác để làm thủ tục vay tiền mua điện

thoại trả góp. Số tiền bị cáo chiếm đoạt mỗi lần là 8.489.000 đồng (lần thứ hai bị

phát hiện bắt giữ). Như vậy, bị cáo Nguyễn Trọng N đã hai lần sử dụng giấy tờ

nhân thân của hai người khác nhau để lừa đảo chiếm đoạt số tiền vay của công ty H

là 16.978.000 đồng. Với hành vi phạm tội nêu trên cho thấy bị cáo Nguyễn Trọng N

đã có quá trình nghiên cứu kỹ càng về các thủ tục, thể thức vay tiền của công ty H

từ đó liên tiếp thực hiện hành vi một cách rất bài bản, tinh vi, thể hiện tính chuyên

nghiệp; do vậy cơ quan tiến hành tố tụng có thể định tội bị cáo N theo CTTP tặng

nặng theo điểm b khoản 2 Điều 139. Tuy nhiên TAND thành phố Biên Hòa xét về

mức độ và hậu quả hành vi vi phạm của bị cáo N và đã xử phạt về tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS.

Thực tiễn định tội danh theo khoản 2 điều luật nói trên của tội danh này tại

thành phố Biên Hòa trong thời gian nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ án đã được

định tội danh đúng, tuy nhiên thì vẫn còn vụ án định tội danh chưa đúng.

Ví dụ 4 về định tội danh theo Khoản 2 đúng: Bản án hình sự sơ thẩm số

290/2018/HSST ngày 28/8/2018 của TAND thành phố Biên Hòa, xử phạt Lê Bá N,

địa chỉ tại phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo khoản 2

Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nội dung vụ

36

án: Tại tòa, bị cáo Lê Bá N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, qua mua bán

hàng qua mạng xã hội Zalo, Facebook với chị M nhận thấy chị M tin tưởng nên đã

nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị M, mặc dù không có những sản

phẩm trà tăng vòng ngực phụ nữ và phấn lạnh để bán cho chị M nhưng N vẫn nói

dối là có hàng và yêu cầu chị M chuyển tiền nhưng không giao hàng, và nói dối

hàng bị hải quan giữ yêu cầu chị M đưa tiền để lo lấy hàng về với 03 lần tổng cộng

số tiền 152.000.000đ. Khi đã nhận được tiền qua tài khoản ngân hàng thì N tắt máy

và bỏ 02 số điện thoại đã sử dụng liên lạc với chị M, đồng thời khóa các tài khoản

Zalo, Facebook để chiếm đoạt tiền của chị M tiêu xài cá nhân. Căn cứ vào các tài

liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, TAND thành phố Biên Hòa

tuyên bố bị cáo Lê Bá N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, và áp dụng điểm e

khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48;

Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt.

Quyết định bản án của TAND trong vụ án này là hoàn toàn chính xác; bởi lẽ bị cáo

Lê Bá Nam đã 03 lần gồm các ngày 28/2/2017 số tiền 55.000.000đ; ngày 03/3/2017

số tiền 36.000.000đ; và ngày 11+ 13/3/2017 số tiền 61.000.000đ đều nói dối để lừa

chị M chuyển tiền cho bị cáo tổng cộng 152.000.000đ, là “phạm tội nhiều lần” được

quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung

năm 2009.

Ví dụ 5 về định tội danh tại khoản 2 chưa đúng: Tại bản án HSST số

109/2018/HSST ngày 20/11/2018 của TAND thành phố Biên Hòa, có nội dung như

sau: Trong thời gian công tác tại BHXH thành phố H, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Văn

A đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan mình đang công tác, nói dối có thể giúp làm chế

độ hưu trí và yêu câu ông H và ông K nộp tiền, để chiếm đoạt tổng cộng số tiền là

196.200.000đ. TAND thành phố Biên Hòa đã quyết định: Căn cứ điểm c khoản 2

Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngày 21/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng nghị với nội

dung: Bỏ lọt tình tiết định khung theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 174, và tình

37

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52

BLHS; đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo. Tại Bản án số 73/2019/HSPT

ngày 21/07/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai đã chấp nhận kháng nghị, áp dụng:

Điểm c, đ khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1

Điều 52 BLHS năm 2015 để xử phạt. Qua ví dụ trên, tác giả đồng tình với quyết

định của bản án phúc thẩm vì ngoài tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 174

của BLHS năm 2015, thì hành vi phạm tội của bị cáo A còn thuộc trường hợp lợi

dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, quy

định tại điểm đ khoản 2 Điều 174 của BLHS; bị cáo A thực hiện hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản của các bị hại, tại các thời điểm khác nhau, mỗi lần lừa đảo

chiếm đoạt tài sản đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên, được quy định tại điểm g

khoản 1 Điều 52 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, không áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 174 và điểm g khoản 1 Điều 52

của BLHS năm 2015, khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo là bỏ lọt tình

tiết tăng nặng định khung hình phạt cũng như tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình

sự đối với bị cáo, do đó xử phạ bị cáo 04 năm 6 tháng tù là chưa phủ hợp vớitính

chất mức độ nguy hiểm của tội phạm; định tội danh chưa đúng theo khung hình phạt

tăng nặng thứ nhất.

2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những

trường hợp đặc biệt

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp đặc biệt, là

những trường hợp định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, trong trường

hợp phạm tội chưa đạt, trong trường hợp đồng phạm,trong trường hợp phạm nhiều

tội. Thực tiễn định tội danh tội này tại địa bàn thành phố Biên Hòa trong thời gian

nghiên cứu cho thấy chỉ có định tội danh trong trường hợp đồng phạm và định tội

danh trường trường hợp phạm nhiều tội. Bởi vậy, luận văn chỉ tập trung phân tích

định tội danh trong hai trường hợp này.

38

Như số liệu nêu tại Bảng 1 (Tình hình xét xử tội phạm nói chung và tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019), đối

với vụ án xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thì có tổng cộng 161 vụ

được xét xử với tổng số 183 bị cáo; như vậy chỉ tương đương 13% số vụ án có đồng

phạm tham gia. Qua đó, thấy được tỉ lệ vụ án có đồng phạm tham của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa chiếm tỉ lệ thấp.

Ví dụ 6: Tại Bản án số: 95/2018/HSST ngày 16/7/2018 của TAND thành phố

Biên Hòa, có nội dung: Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2015 đến đầu năm

2016, mặc dù không có chức năng, nhiệm vụ cũng như khả năng xin việc vào ngành

Giáo dục, nhưng Nguyễn Văn T cùng Bùi Anh K và Đoàn Trung D đã nhận của bà

Hoàng Thị Ngân H số tiền 520.000.000 đồng để xin cho 04 người vào dạy học tại

Trường Tiểu học A thuộc phòng Giáo dục thành phố Biên Hòa quản lý, hứa hẹn sẽ

bố trí công tác dạy học đúng chuyên môn, sau đó không thực hiện được và chiếm

đoạt số tiền này. Trong vụ án nảy, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ,

HĐXX đã nhận định: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm. Do đó,

HĐXX đã tuyên bố các bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và áp dụng điểm

a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều

54; Điều 58 BLHS năm 2015 để xử phạt Nguyễn Văn T. Áp dụng điểm a khoản 4

Điều 139 BLHS năm 1999: điểm b, s khoản 1 và khoán 2 Điều 51; khoản 2 Điều

54; Điều 58; Điều 65 BLHS năm 2015 để xử phạt Bùi Anh K, Đoàn Trung D. Tác

giả cũng đồng tình với bản án của TAND thành phố Biên Hoà, và cho rằng Toà án

đã phân tích hành vi và mức độ phạm tội của từng bị cáo phù hợp với quy định pháp

luật.

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp phạm nhiều

tội: Trong phạm vi này, luận văn muốn đề cập đến các hành vi phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản với một hoặc nhiều tội khác, nghĩa là các hành vi thực hiện tội

phạm của một người phải có đầy đủ các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà các tội ấy

được quy định tại các điều khác nhau trong BLHS, hoặc xâm hại từ hai khách thể

trở lên mà bị cáo chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.

39

Ví dụ 7: Sau đây là ví dụ về định tội danh với cùng hành vi chiếm đoạt tài

sản, nhưng do người phạm tội sử dụng các thủ đoạn khác nhau để thực hiện hành vi

chiếm đoạt, nên cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định hai tội danh khác nhau: Bản

án hình sự sơ thẩm số 111 /2018/HSST Ngày 25/9/ 2018 của TAND thành phố Biên

Hòa. Nội dung như sau: Vũ Đình D có quan hệ quen biết với anh Bùi Văn Th và

anh Huỳnh Minh H, trong khoảng thời gian từ 08/01/2018 đến ngày 11/01/2018, D

đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Th và anh H nhiều lần. Tại tòa bị

cáo D thừa nhận đã có hành vi gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền

110.850.000đ (trong đó có 70.000.000đ của anh Th và 40.850.000đ là trị giá xe mô

tô biển số 60B8-976.53 của anh H), và bị cáo đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt xe mô tô biển số 52M4-1940 của anh Th có trị giá là 35.000.000đ.

TAND thành phố Biên Hòa kết luận: bị cáo Vũ Đình D phạm các tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 174 và “ Lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử

phạt bị cáo Vũ Đình D về hai tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Nghiên cứu hồ sơ cho thấy: i). đối với hành vi chiếm

đoạt số tiền 70.000.000đ của anh Th là do D đã nảy sinh ý định lừa đảo nên đã dùng

thủ đoạn gian dối nói dối anh Th là đang cần tiền đi đóng thuế làm giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất và hỏi anh Th mượn số tiền 70.000.000đ, sau đó chiếm đoạt; và

như vậy thì hành vi lừa dối được D thực hiện trước thời điểm thực hiện sự giao kết,

thỏa thuận với anh Th, đây chính là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra.

ii). Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản là xe mô tô biển số 52M4-1940 của anh Th

thì ban đầu việc giao nhận tài sản giữa D và Th là ngay thẳng thông qua các giao

dịch hợp pháp (nhờ đứng tên), và đáng lẽ ra các tài sản phải được hoàn trả cho chủ

tài sản như đã thỏa thuận thì D lại cố tình không trả và sử dụng tài sản vào mục đích

khác và trốn tránh trách nhiệm phải chi trả tài sản, do vậy việc Toà án định tội D với

tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng.

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản từ thành phố Biên Hòa

40

Theo số liệu thống kê hàng năm của TAND thành phố Biên Hòa từ năm

2015 đến 2019, tình hình áp dụng hình phạt đối với tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn cụ thể như sau:

Bảng 2.3: Hình phạt áp dụng đối với tội phạm LĐCĐTS tại thành phố Biên

Hòa, từ năm 2015-2019.

Năm Số vụ Bị cáo Án treo

Cải tạo không giam giữ Từ 3 năm trở xuống

Từ trên 3 năm đến 7 năm 8 Từ trên 7 năm đến 15 năm 1 Từ trên 15 năm đến 20 năm 2015 46 59 8 42

2016 52 55 2 45 7 1

2017 35 38 1 6 28 3

2018 12 13 1 11 1

2019 16 18 1 12 5

Tổng 161 183 1 18 138 24 2 0

(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)

Qua khảo sát trên cho thấy: tại TAND thành phố Biên Hòa số bị cáo bị áp

dụng hình phạt chính là hình phạt tù trong khung từ 03 năm trở xuống chiếm đa số,

138/183 bị cáo tương đương 75,4%; khung hình phạt tù từ trên 03 năm đến dưới 07

năm là 13,1%; khung hình phạt tù từ trên 07 năm đến dưới 15 năm chỉ có 02 bị cáo

và không có hình phạt tù chung thân. Riêng đối với hình phạt tù nhưng cho hưởng

án treo chiếm tỷ lệ tương đối là 18/183 bị cáo, tỷ lệ tương đương 9,8%.

2.2.1. Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1).

Như số liệu đã nêu trên, tại địa bàn thành phố Biên Hòa, số bị cáo phạm tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị kết án áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 và 174

BLHS 2015 trong giai đoạn 2015-2019 chiếm đa số. Khi QĐHP Tòa án phải căn cứ

vào các quy định của BLHS, đánh giá, phân tích toàn diện, khách quan về tính chất

và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm

tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cũng như các căn cứ pháp lý khác để

đưa ra hình phạt với mức phù hợp, đúng quy định; nếu người phạm tội có nhiều tình

41

tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam

giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Ví dụ 8: Bản án sơ thẩm số 622/2019/HSST ngày 31/12/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa có nội dung như sau: lợi dụng sự quen biết giữa N và chị Vũ

Thị L, bằng thủ đoạn gian dối là bảo có khả năng xin việc cho chị L, bị cáo N đã

tiếp cận và chiếm đoạt tài sản của chị L là 01 chiếc xe môtô hiệu Wave S, biển số

60B9- 246.55, trị giá 12.800.000 đồng. HDXX nhận định: hành vi của bị cáo là

nguy hiểm cho xã hội,…, do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với mức

độ và hành vi phạm tội. Trên cơ sở Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết, tăng nặng

và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau: về tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự là không có, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã

cùng gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối

cải nên được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b; p khoản

01, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. TAND thành

phố Biên Hòa áp dụng khoản 01, Điều 139; điểm b, p khoản 01 Điều 46 Bộ luật

Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N 01

(một) năm tù.

Ví dụ 9: Trở lại ví dụ 3 đối với vụ án Nguyễn Trọng N bị xét xử về tội “Lừa

đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản án hình sự sơ thẩm số 281/2017/HSST ngày 19/7/2017

của TAND thành phố Biên Hòa đã áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS; điểm g khoản

1 Điều 48 BLHS; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; Điều 33, Điều 53

BLHS xử phạt: bị cáo Nguyễn Trọng N 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản”.

Ngày 02/8/2017, bị cáo Nguyễn Trọng N kháng cáo xin được hưởng án treo

với lý do phạm tội lần đầu và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo vừa mới cưới

vợ là chị Hồ Thị Hồng L và chị L đang mang thai. Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX

thấy rằng: Chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ thể hiện số tiền thực tế Công ty H bị chiếm

đoạt là 8.489.000 đồng, lần thứ hai bị cáo thực hiện nhưng chưa chiếm đoạt được đã

bị phát hiện bắt giữ và thu hồi tài sản trả lại ngay cho công ty (chưa đạt). Bị cáo có

42

nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại

khoản 1 Điều 46 BLHS. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo cung cấp giấy đăng ký

kết hôn với chị Hồ Thị Hồng L, sinh năm 1987 và giấy siêu âm của Bệnh viện N

(Thành phố Hồ Chí Minh) chứng minh vợ bị cáo (chị L) đang có thai được 22 tuần.

Do vậy, nghĩ không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính

quyền địa phương quản lý, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi

lầm và chăm sóc vợ con, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với

người đã biết ăn năn hối cải. Do đó, kháng cáo của bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS; điểm b, h, p

khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; Điều 60 BLHS. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Trọng N

01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm, tính

từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Trọng N cho UBND phường T,

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quản lý, giáo dục. Như vậy tại phiên toà sơ

thẩm, Toà án cũng đã xác định đúng tội danh và quyết định áp dụng hình phạt là

tương xứng; tuy nhiên do tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đưa ra thêm bằng chứng

về tình tiết giảm nhẹ là vợ mới mang thai; do đó Toà phúc thẩm đã vận dụng pháp

luật để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là được hưởng án treo, thể hiện sự khoan

hồng của pháp luật.

2.2.2. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng

Thực tiễn tại thành phố Biên Hòa, qua nghiên cứu thực tế trên các vụ án đã

xét xử, TAND thành phố Biên Hòa đã thực hiện tốt, nhìn chung không để xảy ra sai

sót trong hoạt động QĐHP theo CTTP tăng nặng.

Ví dụ 10 về Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 1 :

Bản án hình sự sơ thẩm số 386/2019/HS-T Ngày 18/10/2019 của TAND thành phố

Biên Hòa: vào các ngày 13/8/2019 và ngày 22/9/2018, H đã lừa đảo chiếm đoạt tài

sản đã chiếm đoạt của các anh Đinh Quang T và Nguyễn Thanh V là 02 xe mô tô

nhãn hiệu Honda Vision có tổng giá trị tài sản là 48.430.300 đồng (Bốn mươi tám

triệu bốn trăm ba mươi nghìn ba trăm đồng). Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự: Bị cáo phạm tội hai lần theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 bộ luật

43

hình sự, do vậy TAND thành phố Biên Hòa tuyên bị cáo Hoàng Như H phạm tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. và áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm

g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Hoàng Như H mức án

02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Ở vụ án này bị cáo H đã bị xác định tội danh tại

khoản 1 Điều 174, khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm tù, đồng thời Tòa án

xác định H phạm tội nhiều lần thuộc tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g

khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là hoàn toàn chính xác.

Ví dụ 11 về Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 2 :

Bản án hình sự sơ thẩm số 273/2019/HSST ngày 13/8/2019 của TAND thành phố

Biên Hòa: Ông Nguyễn Công T có con trai là anh Nguyễn Công D bị Cơ quan Cảnh

sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai khởi tố và tạm giam về tội

“Chống người thi hành công vụ”. Bị cáo Phan Thanh H mặc dù biết mình không có

khả năng và không th giúp được gì cho con trai của ông Nguyễn Công T được tại

ngoại điều tra và được giảm nhẹ tội, nhưng bằng thủ đoạn gian dối của mình, bị cáo

vẫn hứa hẹn với ông T nhận lời giúp. Bằng thủ đoạn gian dối bị cáo đã chủ động

liên hệ với ông T để chiếm đoạt tiền của ông T nhiều lần với tổng số tiền là

76.000.000đ (Bảy mươi sáu triệu đồng). TAND thành phố Biên Hòa áp dụng điểm c

khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ

luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Phan Thanh H 03 (Ba)

năm tù. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

là giá trị tài sản trong từng lần mà bị cáo chiếm đoạt của ông T đều đã đủ yếu tố cấu

thành tội phạm, bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm

tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; do vậy

bản án do Tòa tuyên là hợp lý.

2.2.3. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng, phạm nhiều

tội, có đồng phạm

Ví dụ 12: Bản án hình sự sơ thẩm số 453/2017/HSST ngày 17/10/2017 của

TAND thành phố Biên Hòa: Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Mạnh T khai đã gặp Tr, sau

đó Tr đặt vấn đề bảo bị cáo mua 01 chứng minh nhân dân nam giới để tới Ngân

44

hàng đăng ký mở tài khoản, khi có người chuyển tiền vào, bị cáo có nhiệm vụ tới

Ngân hàng làm thủ tục rút tiền ra và sẽ được chia phần trăm (2,5%) trên số tiền rút

được thì bị cáo đồng ý. Để thực hiện hành vi trên, bị cáo đã đi mua chứng minh

nhân dân của người khác tên Đỗ Văn T, rồi đưa chứng minh nhân dân này kèm theo

ảnh chân dung (2 x 3cm) của mình cho Tr để Tr thay vào chứng minh nhân dân tên

Đỗ Văn T đã mua, với mục đích để qua mặt nhân viên Ngân hàng nhằm được mở

tài khoản giao dịch rút tiền của người bị hại bà Ngô Thị Kim C. Hành vi bị cáo

dùng ảnh của mình thay vào chứng minh nhân dân của người khác đã làm sai lệch

nội dung và sử dụng giấy chứng minh nhân dân đã được thay ảnh này, bị cáo đến

Ngân hàng V - Chi nhánh KT, tỉnh H đăng ký mở tài khoản lấy tên chủ tài khoản là

Đỗ Văn T mà không phải đăng ký tên tuổi, địa chỉ thật của mình và đã được Ngân

hàng cấp cho bị cáo mã tài khoản để giao dịch. Đến khi biết được bà C chính là

người đã chuyển số tiền 357.000.000đ vào tài khoản trên, bị cáo T nhận thức được

rõ số tiền trong tài khoản không phải là tiền của mình nhưng bị cáo vẫn trực tiếp tự

mình làm thủ tục rút tiền ra nhằm chiếm đoạt tiền của bà C, đây là hành vi vi phạm

pháp luật và chính bản thân bị cáo cũng nhận thức rõ hành vi này là phi pháp,

nhưng vì mục đích hám lợi mà bị cáo vẫn thực hiện. Việc bà C đã chuyển số tiền

375.000.000đ vào số tài khoản của bị cáo đã mở tại Ngân hàng V - Chi nhánh KT,

tỉnh H là tội phạm đã hoàn thành. HĐXX nhận định: Với hành vi phạm tội như đã

nêu và số tiền chiếm đoạt, nên bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng

trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 của Bộ luật Hình

sự và khoản 1 Điều 266 của Bộ luật Hình sự. TAND thành phố Biên Hòa tuyên bố

bị cáo Đàm Mạnh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sửa chữa, sử

dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Về hình phạt: Áp dụng

điểm a khoản 3 Điều 139; khoản 1 Điều 266; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;

Điều 47; Điều 50; Điều 53 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Đàm Mạnh T 05

(Năm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 06 (Sáu) tháng tù về tội “Sửa

chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình

phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung là 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù.

45

Như đã nêu tại Ví dụ 6: Tại Bản án số: 95/2018/HSST ngày 16/7/2018 của

TAND thành phố Biên Hòa. Do đó, HĐXX đã tuyên bố các bị cáo phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999; điểm b,s

khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn

Văn T 07 năm tù. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999: điểm b, s

khoản 1 và khoán 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 58; Điều 65 BLHS năm 2015,

xử phạt Bùi Anh K 36 tháng tù, Đoàn Trung D 30 tháng tù đều cho hưởng án treo.

Phân tích hồ sơ vụ án cho thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm: Bị

cáo T giữ vài trò đầu: Khởi xướng, trực tiếp giao dịch với K trong việc nhận tiền và

hồ sơ xin dạy học; thông qua K và D nhận của bà H 400.000.000đ rồi chiếm đoạt,

trực tiếp cùng D đưa các cháu của bà H đến gặp Hiệu trưởng Tiểu học A. Bị cáo K

giữ vai trò thứ 2: Trực tiếp giao dịch với T và bị hại là bà H, trực tiếp nhận hồ sơ

xin dạy học từ bà H, chuyển cho T, trực tiếp chịu trách nhiệm số tiền 520.000.000đ

do bà H giao; trong đó nhận trực tiếp từ bà H 120.000.000đ và nhờ D chuyển qua

tài khoản của T 400.000.000đ do bà H nộp để chuyển cho T, hưởng tiền chênh lệch

120 triệu đồng. Bị cáo D giữ vai trò thấp nhất: D giúp T nhận tiền 400.000.000đ của

bà H qua tài khoản của mình để chuyển cho T và giúp chở 04 em đi gặp Hiệu

trưởng. Mặc dù biết rõ T và K lo 04 cháu của bà H là không đúng pháp luật nhưng

D vẫn giúp vì bản thân D quen cả T và K và do nể nang họ. D cũng không được K

chia tiền chênh lệch. Qua phân tích, tác giả nhận thấy các quyết định áp dụng hình

phạt của Toà án là đúng hành vi và mức độ vi phạm của từng bị cáo.

2.3. Những vi phạm, sai sót; những hạn chế, vướng mắc trong định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành

phố Biên Hòa

2.3.1. Những vi phạm, sai sót về định tội danh và quyết định hình phạt đối

với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa

i). Cân nhắc chưa đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội dẫn đến QĐHP quá nặng hoặc quá nhẹ:

46

Như tại Ví dụ 11 tại mục 2.2.3 của luận văn này: Bản án hình sự sơ thẩm số

273/2019/HS-ST Ngày 13/8/2019. TAND thành phố Biên Hòa đã nhận định: Về

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy, giá trị tài sản trong từng lần mà bị

cáo chiếm đoạt của ông T đều đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, bị cáo đã phạm vào

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm

g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên về áp dụng QĐHP thì TAND thành

phố Biên Hòa áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều

51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử

phạt: Phan Thanh H 03 (Ba) năm tù. Tác giả luận văn cho rằng TAND Biên Hòa áp

dụng QĐHP như vậy là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe; vì bản thân khung hình phạt

tải khoản 2 đã có mức từ 02 năm đến 07 năm tù, ngoài ra bị cáo còn bị áp dụng tình

tiết tang nặng TNHS là phạm tội nhiều lần.

ii). Xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ chưa toàn diện dẫn đến kết

quả định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt chưa đủ căn cứ, hoặc bỏ lọt tội

phạm:

Như tại Ví dụ 12 tại mục 2.2.3 của luận văn này: Tại phiên tòa, bị cáo Đàm

Mạnh T khai, Tr đặt vấn đề bảo bị cáo mua 01 chứng minh nhân dân nam giới để

mở tài khoản Ngân hàng … Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 453/2017/HSST Ngày

17/10/2017 ,TAND thành phố Biên Hòa áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; khoản 1

Điều 266; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 50; Điều 53 của Bộ

luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Đàm Mạnh T 05 (Năm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản”, 06 (Sáu) tháng tù về tội “Sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các

tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành

chung là 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tác giả cho rằng bản án trên chưa làm rõ

hành vi vai trò của Tr. trong vụ án, thể hiện việc bỏ lọt tội phạm; trường hợp này có

khả năng vụ án có yếu tố đồng phạm, như vậy kết quả định tội danh và áp dụng

QĐHP sẽ khác.

Tại ví dụ 2 mục 2.1.3: Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10

tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, xét xử Nguyễn Viết C,

47

sinh năm 1962 tại tỉnh Đồng Nai C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và áp

dụng Điểm e, Khoản 2, Điều 139 Bộ luật Hình sự để xử phạt. Tuy nhiên trong phiên

xét xử phúc thẩm (do bị các có đơn kháng cáo kêu oan) HĐXX cho rằng: Tại cấp sơ

thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng việc

giả chữ ký của vợ chồng ông Trần Văn C và bà Phạm Thị Thanh N trong hợp đồng

chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2006 là được sự đồng ý của ông Trần

Văn C qua điện thoại; tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn

Ngọc S, bị cáo đã giao lại hết cho ông Trần Văn C. Do đó, bị cáo kháng cáo, cho

rằng mình không phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cấp sơ thẩm đã xét xử oan

bị cáo; đồng thời chỉ ra những thiếu sót trong việc lấy lời khai của những người có

liên quan trong vụ án, có nhiều lời khai còn mâu thuẫn chưa được làm rõ, chưa

được đối chất tại tòa, …. Từ đó HĐXX quyết định: 1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự

sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa để

điều tra lại theo thủ tục chung.

2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong định tội

danh và quyết định hình phạt từ thành phố Biên Hòa

2.3.2.1. Những hạn chế, vướng mắc

Qua nghiên cứu công tác xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn thành phố Biên Hòa giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy việc định tội danh và quyết

định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn cơ bản đã được các

cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm túc, chính xác, bảo đảm xử lý người

phạm tội nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, góp phần tích cực hạn chế tình

hình tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn. Song vẫn còn một

số những hạn chế, thiếu sót nhất định kể cả các vướng mắc trong định tội danh và

quyết định hình phạt như sau:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các cơ

quan tiến hành tố tụng vẫn còn có sự nhầm lẫn, và nhiều trường hợp hiểu không

thống nhất trong việc định tội danh giữa tội như như tội Cướp giật tài sản (Điều

171), tội Trộm cắp tài sản (Điều 173)...

48

Cùng một tội danh nhưng việc lượng hình của Tòa án còn khá tùy nghi, chưa

có tính thống nhất

Ngoài ra các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát, HĐXX cũng thường

chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự khi áp dụng hình phạt dẫn đến tình trạng bản án thường bị kháng cáo,

kháng nghị.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

Qua nghiên cứu và phân tích từ thực tiễn công tác xét xử các vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa giai đoạn 2015 – 2019, có thể

nêu ra một số nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và vướng mắc trong định

tội danh và quyết định hình phạt như sau:

i). Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, trong BLHS 2015 một số tội thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt chưa được quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không

mô tả cụ thể hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm; khiến các cơ quan tiến

hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) vẫn còn có sự nhầm lẫn, thậm chí nhiều

trường hợp hiểu không thống nhất trong việc định tội danh giữa các tội như: tội

Cướp giật tài sản (Điều 171), tội Trộm cắp tài sản (Điều 173)...

Thứ hai là Khung hình phạt quá rộng dẫn đến việc lý luận lập pháp nhìn thì

thấy chặt chẽ nhưng bản chất lại rất tùy nghi: văn bản pháp luật hình sự chưa có

hướng dẫn kịp thời, thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng hay giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự nên nhiều nơi áp dụng chưa thống nhất, đồng bộ. Tòa án

xét xử có quyền quyết định mức hình phạt mặc dù vẫn nằm trong khung nhưng

chênh lệch lớn dẫn tới việc QĐHP không công bằng, như khoản 4 Điều 174 BLHS

năm 2015 có khung hình phạt từ 12 năm tù đến 20 năm tù hoặc chung thân, với

khung hình phạt quá rộng như vậy, rất khó để cho thẩm phán chưa có kinh nghiệm,

chuyên môn nghiệp vụ để QĐHP đúng.

Thứ ba là hệ thống văn bản hướng dẫn lỗi thời, chưa cập nhật: BLHS năm

1999 đã có thay thế bằng BLHS 2015 sửa đổi 2017, nhưng đến nay vẫn chưa có

49

Thông tư liên tịch hướng dẫn về những sửa đổi bổ sung; thực tế các cơ quan tiến

hành tố tụng vẫn áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của

liên ngành tư pháp trung ương, trong khi văn bản này đã được ban hành cách đây

hơn 18 năm, dù có nhiều những vấn để còn đang gây tranh cãi (tức là tính thống

nhất trong nhận thức về nội dung hướng dẫn chưa cao). Vì thế không ít những

trường hợp khi định tội danh, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải dựa vào hướng

dẫn của Thông tư nêu trên và phải “tự hiểu” và “phiên ra” theo những sửa đổi, bổ

sung của BLHS để áp dụng trong thực tiễn.

Ngoài ra, cùng với xu thế phát triển chung của tình hình tội phạm, mặc dù số

lượng các loại vụ án mà Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã thụ lý và giải

quyết có xu hướng giảm về số lượng nhưng tính chất tính chất phức tạp của vụ án

lại càng đa dạng; nhiều loại án mới phát sinh trên địa bàn, đặc biệt án lừa đảo với

những thủ đoạn mới xuất hiện ngày càng nhiều như lừa đảo mua xe trả góp nhưng

không trả mà chiếm đoạt luôn, lừa đảo kinh doanh đa cấp, sử dụng cộng nghệ tin

học, internet...; đây là những diễn biến phát sinh tội phạm cùng với hệ quả của sự

phát triển kinh tế-xã hội mà kinh nghiệm trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử của các cơ quan tố tụng còn hạn. Bên cạnh đó nhiều vụ án việc thu thập và cung

cấp chứng cứ của các cơ quan chuyên ngành có liên quan không đầy đủ, không kịp

thời và thiếu chính xác, hệ quả là nhiều vụ án xảy ra đã lâu nhưng việc thu thập, lưu

giữ chứng cứ gặp nhiều khó khăn; nhiều người tham gia tố tụng chưa thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ hoặc gây khó khăn, cản trở

trong việc giải quyết, xét xử.

ii). Nguyên nhân chủ quan

Bên cạnh những hạn chế vướng mắc do các nguyên nhân khách quan như

nêu trên, thì còn tồn đọng những hạn chế, vướng mắc xuất phát từ nguyên nhân

mang tính chủ quan cơ bản thuộc về chủ thể như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân-

những người nhân danh Nhà nước tuyên một người có tội hay không có tội:

Thứ nhất là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của HDXX chưa cao và chưa

đồng đều: Sự phát triển khoa học kỹ thuật kéo theo sự phát triển kinh tế ở mọi mặt

50

đời sống xã hội, hệ quả là nhiều loại tội phạm mới xuất hiện với tính chất tinh vi,

nguy hiểm hơn như mua bán đất đai, chạy chức chạy việc, và diễn ra ở nhiều lĩnh

vực, nhiều ngành nghề mới như ngân hàng, bảo hiểm, lừa đảo kinh doanh đa cấp, sử

dụng cộng nghệ tin học, internet, … Mặt khác phần lớn những người phạm tội

LĐCĐTS thường là những đối tượng có trình độ, có học vấn cao, do đó thủ đoạn

che giấu của loại tội phạm này rất tinh vi; trong khi đó có một số Thẩm phán trẻ vẫn

còn thiếu kinh nghiệm trong xét xử mà nếu không có sự hiểu biết, tìm tòi thì khó

phát hiện và xử lý được; vì vậy việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội

trong các vụ án LĐCĐTS của các Thẩm phán còn chưa chính xác hoặc còn lúng

túng trong quá trình xét xử nên không tránh khỏi những sai sót, mục đích của việc

giáo dục và trừng trị với tội phạm này chưa đạt được.

Bên cạnh đó, hiện nay rất ít Hội thẩm nhân dân có sự hiểu biết sâu sắc về

pháp luật nói chung và về tội LĐCĐTS nói riêng, đây cũng là một trong những

nguyên nhân của các hạn chế trong việc định tội danh đúng và quyết định hình phạt

đối với tội lừa đáo chiếm đoạt tài sản. Theo nguyên tắc khi quyết định hình phạt thì

thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và quyết định theo đa số, do

đó trên thực tế, đội ngũ hội thẩm nhân dân hạn chế về kiến thức pháp luật khi được

bầu từ các cơ quan ban ngành đoàn thể khác nhau, làm việc trong các lĩnh vực khác

nhau, kiêm nhiệm nhiều công việc, không có thời gian nghiên cứu hồ sơ và chưa

được đào tạo chuyên sâu về kiến thức pháp luật, khi tham gia xét xử thì lại chiếm tỷ

lệ biểu quyết lớn hơn Thẩm phán (HĐXX gồm 02 hội thẩm nhân dân và 01 thẩm

phán, đối với vụ án phức tạp thì 03 hội thẩm nhân dân và 02 thẩm phán) nên dẫn

đến tình trạng QĐHP chưa đúng.

Thứ hai là đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của thẩm phán, hội thẩm nhân

dân chưa cao: Do áp lực về thời hạn giải quyết vụ án, các thẩm phán, hội thẩm nhân

đân chưa quan tâm đến chất lượng giải quyết mà quá chú trọng vào số lượng vụ án

được giải quyết. Ngoài ra, một bộ phận thẩm phán còn phụ thuộc, tác động bởi các

yếu tố bên ngoài như kiêng nể hoặc thiên vị nên QĐHP không đúng với các quy

định của pháp luật. Một số ít Thẩm phán còn chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm

51

trong công tác, không thực hiện đúng các yêu cầu của pháp luật khi xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự; một số hội thẩm nhân dân khi được mời tham gia giải quyết các vụ

án hình sự thì chỉ tham gia mang tính hình thức, không nghiên cứu hồ sơ hoặc chỉ

nghiên cứu qua loa thể hiện việc nhận thức chưa sâu sắc trách nhiệm của mình.

52

Tiểu kết Chương 2

Qua nghiên cứu, làm rõ thực trạng định tội danh và áp dụng quyết định hình

phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai; dựa trên cơ sở các báo cáo thống kê công tác điều tra, truy tố, xét xử và

các hồ sơ vụ án cụ thể cho thấy mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng cũng đã thực hiện

tương đối tốt hoạt động này, nhưng qua nghiên cứu thực tiễn nhận thấy còn có

trường hợp vi phạm về định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt đối với Tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong quá trình xét xử tại Tòa án và ra bản án, gây ra

nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tác động rất xấu đến trật tự an toàn xã hội, tạo dư luận

xấu và làm mất lòng tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tư pháp. Để

nâng cao chất lượng trong hoạt động định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt

đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Biên Hòa, các cơ quan

chuyên trách cũng rất quan tâm, đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng

này, nhưng thực tế là nó vẫn chưa chấm dứt và nhiều lúc diễn biến rất phức tạp, gây

sự hoài nghi về trình độ, năng lực, sự khách quan, thận trọng và công tâm trong

thực thi quyền lực Nhà nước của các chủ thể tiến hành tố tụng.

Thông qua các nghiên cứu các vụ án cụ thể để làm rõ thực trạng định tội

danh và quyết định hình phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vấn đề cần

thiết để có sự đánh giá toàn diện và chính xác, qua đó rút ra được những nguyên

nhân và tìm những giải pháp khắc phục được tác giả trình bày trong Chương 3 của

luận văn.

53

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG

QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng và đảm bảo đúng quy định về định tội

danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.1.1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu về tài sản hợp

pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội

Hiến pháp Việt Nam 2013 có mục tiêu quan trọng hàng đầu là bảo đảm thực

hiện tốt hơn nữa quyền con người, quyền công dân, tiếp tục phát huy dân chủ. Hiến

pháp 2013 đã khẳng định sự phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận của Đảng và

Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bao gồm cả quyền con người và

quyền công dân.

Việc ban hành pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ mang ý

nghĩa đạt được mục đích của pháp luật mà nó còn mang trong đó sự nhân đạo, nhân

văn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Mặc dù quyền sở hữu

tài sản của công dân là quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật hình sự bảo vệ,

những người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được quy

định trong BLHS thì phải chịu hình phạt do hành vi của mình gây ra. Dù vậy, đối

với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, họ sẽ phải chịu hình phạt do Tòa án

áp dụng, song những quyền cơ bản của công dân, quyền con người vẫn phải được

tôn trọng và đảm bảo.

Pháp luật Việt Nam luôn ghi nhận những nguyên tắc pháp lý tiến bộ của văn

minh pháp lý nhân loại, đó là nguyên tắc bảo đảm quyền sống, quyền tự do và an

ninh cá nhân, quyền bình đẳng và được bảo vệ một cách bình đẳng trước pháp luật,

trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng, công khai, không thiên vị và được

coi là vô tội cho đến khi hành vi phạm tội được chứng minh theo pháp luật. Theo

Điều 13 BLHS năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội thì chỉ khi nào có

bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì mới được xem là người phạm

54

tội do đó họ vẫn được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy

định pháp luật về quyền con người, quyền của công dân. Như vậy, để thực thi sự

công bằng thì chỉ khi có đủ cơ sở chứng minh một người có tội thì mới được áp

dụng các chế tài phù hợp để xử lý những hành vi mà họ đã gây ra.

3.1.2 Bảo đảm pháp chế XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết

định hình phạt.

Trong Nhà nước XHCN Việt Nam, pháp chế đóng vai trò vô cùng quan

trọng để bảo vệ Nhà nước XHCN và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với

các quan hệ xã hội phát triển đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Do đó,

một mặt trong mục đích cao nhất của pháp chế thể hiện bản chất xã hội của pháp

luật, mặt khác cùng với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và không ngừng nâng cao

quyền tự do, dân chủ của công dân sẽ đưa các quan hệ xã hội đi vào khuôn khổ nhất

định.

Hoạt động định tội danh chính xác của Tòa án là rất quan trọng trong việc

bảo vệ tài sản của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức và của công dân, góp phần nâng

cao uy tín của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với nhân dân; thể hiện

tính nghiêm minh pháp chế XHCN. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản việc định

tội danh và QĐHP đối với người phạm tội cũng không nằm ngoài yêu cầu phải bảo

đảm tuân thủ pháp luật.

3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tội phạm đối với loại tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt.

Xã hội càng phát triển thì những vấn đề về kinh tế - xã hội là nguyên nhân,

cũng chính là điều kiện phát sinh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đồng thời thông

qua việc nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế sẽ góp phần phòng

ngừa và đấu tranh để giải quyết những vẫn đề tất yếu liên quan đến tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản do nguyên nhân kinh tế- xã hội gây ra.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội, những hành vi lừa

đảo chiếm đoạt tài sản có sự phát triển, biến tướng ngày càng tinh vi, khó dự đoán

và khó phòng ngừa hơn. Thực tế trên địa bàn Biên Hòa thời gian qua còn một số

55

lượng vụ án hình sự chưa được phát hiện và đưa ra xử lý; tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian

qua diễn biến phức tạp và chưa có xu hướng giảm, các đối tượng thực hiện hành vi

phạm tội với nhiều thủ đoạn khác nhau, rất tinh vi xảo quyệt, đã gây ra hậu quả to

lớn, có những vụ thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ đồng, có nhiều nạn nhân, gây ảnh

hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, đối tượng phạm tội ngày

càng đa dạng, xuất hiện ngày càng nhiều sự móc nối giữa đối tượng phạm tội ở

trong nước với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài, gây khó khăn không nhỏ cho các

cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tội phạm và định tội danh. Trước tình

hình trên, các lực lượng chưa năng trên dịa bàn thành phố Biên Hòa đã tiến hành

đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện xử lý kịp thời,

đồng thời đặt ra yêu cầu đối với công cuộc cái cách chính sách hình sự và thủ tục tố

tụng hình sự phải tạo ra các quy định, quy trình, thủ tục tố tụng thật sự khoa học,

hợp lý để ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm

nói chung và tội phạm LĐCĐTS nói riêng.

Bên cạnh đó trình độ nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp, đặc

biệt là ngành Tòa án, còn chưa cao thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo

đức và trách nhiệm nghề nghiệp; ngành tư pháp chưa được trang bị đầy đủ điều kiện

cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác, … đặt ra yêu cầu là các cơ quan tư

pháp, đặc biệt là các Thẩm phán phải không ngừng học tập, bồi dưỡng những kiến

thức pháp luật, tăng cường tính chuyên nghiệp, tính nhanh nhạy cũng như được

trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, kỹ thuật để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Hình sự.

Đời sống xã hội càng phát triển đòi hỏi hệ thống pháp luật càng phải được

hoàn thiện để điểu chỉnh các mối quan hệ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống

xã hội, đồng thời pháp luật chính là thước đo và cũng là đòn bẩy để phát triển xã

56

hội. Bên cạnh đó các quan hệ xã hội luôn phát triển và biến đổi không ngừng, sự

thay đổi nhanh chóng của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật phải thay đổi, thích

nghi theo. Do vậy đòi hỏi phải luôn không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật

nhằm phù hợp với các nhu cầu của xã hội, nhất là hệ thống pháp luật hình sự.

Để hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS có hiệu quả cần tiếp tục hoàn thiện

các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói

chung, và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn công tác điều tra,

truy tố, xét xử loại tội phạm này trên cả nước, như:

- Bộ luật hình sự phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, đặc biệt đối với các quy

định về tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Thực tiễn cho thấy nếu trong bộ

luật chú trọng đến việc quy định một cách rõ ràng, chi tiết, cụ thể về từng hành vi

khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong điều luật

của BLHS thì chắc chắn sẽ không đảm bảo cho tính ngắn gọn, súc tích của điều

luật; hoặc trong trường hợp do công tác xử lý các tội phạm trên thực tế đòi hỏi phải

có những hướng dẫn cụ thể thì không thể quy định chi tiết trong Bộ luật Hình sự và

tố tụng Hình sự bằng các điều luật mà cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể.

- Nghiên cứu bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể của tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản: mặc dù BLHS năm 2015 đã bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể

của tội phạm và phải chịu TNHS là một sự thay đổi tích cực, phù hợp với luật pháp

quốc tế và tình hình kinh tế, xã hội ở nước ta; nhưng pháp luật hình sự lại chưa quy

định pháp nhân thương mại là chủ thể bị truy cứu TNHS đối với tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. Theo quy định hiện hành thì pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu

TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội được liệt kê tại Điều 76 BLHS, và tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản không được liệt kê trong số các tội đó.

Không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực do quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế mang lại, nhưng bên cạnh đó chúng ta phải đối mặt với mặt trái của nền

kinh tế thị trường; đó là ngày càng có nhiều thành phần kinh tế du nhập vào nước ta

khiến cho việc kiểm soát trở nên khó khăn. Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều

pháp nhân thương mại thành lập không nhằm mục đích kinh doanh, mà thành lập

57

nhằm mục đích mượn danh nghĩa kinh doanh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, song

các pháp nhân thương mại này lại không bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi

phạm tội mà chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy pháp luật hình sự cần bổ

sung quy định về TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản là cần thiết, nhằm đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với

mọi chủ thể, đồng thời thể hiện tính thống nhất của pháp luật hình sự nói riêng và

pháp luật Việt Nam nói chung.

3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng pháp luật

hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Như đã đề cập trong Chương 2, phần những hạn chế vướng mắc thì các văn

bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung đều đã ra đời từ lâu, và mặc

dù cũng đã được sửa đổi bổ sung theo những thay đổi về PLHS nhưng nội dung

hướng dẫn vẫn có một số quy định còn mang tính chung chung và khó thực hiện, cụ

thể:

i). Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công

an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định về các tội xâm phạm sở hữu:

Tại mục 5 phần II Thông tư hướng dẫn như sau: "Trong trường hợp một

người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần thực

hiện hành vi xâm phạm giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu

TNHS theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để

truy cứu TNHS (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án

nhưng chưa được xóa án tích...), đồng thời trong các hành vi xâm phạm sở hữu đó

chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính nếu

tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy

cứu TNHS theo quy định của BLHS thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi

xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu TNHS về loại tội phạm tương ứng theo tổng giá

trị tài sản của các lần bị xâm phạm nêu trên, nếu:

58

a) Các hành vi xâm phạm sở hữu của tội phạm được thực hiện một cách liên

tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

b) Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp,

lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính...

Đối với những trường hợp trên nếu chỉ căn cứ vào các hành vi xâm phạm

cùng loại này thì không áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" (Điểm g

Khoản I Điều 52 BLHS) và cũng không áp dụng tình tiết định khung hình phạt "có

tính chất chuyên nghiệp" quy định tại khoản 2 của điều luật tương ứng quy định đối

với tội phạm tương ứng đó. Trong trường hợp có các tình tiết khác để định khung

hình phạt thì áp dụng khoản tương ứng của điều luật tương ứng đó để quy định tình

tiết định khung hình phạt đó".

Thực tiễn xét xử ở một số địa phương cho thấy những người tiến hành tố

tụng chưa nhận thức đúng, đồng bộ và áp dụng thống nhất các điều kiện trên, cụ

thể:

+ Quy định “Hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế

tiếp nhau về mặt thời gian”: Thông tư liên tịch số 02 có nêu ví dụ: Kẻ phạm tội liên

tục lấy cắp tài sản của nhiều người trong cùng một đêm, thì được cộng dồn để xử lý.

Vậy trường hợp: bị cáo Nguyễn Trọng N liên tiếp trong hai ngày 02 và 03/8/2016

đã dùng hình ảnh của mình dán vào Giấy chứng minh nhân dân và Giấy phép lái xe

của người khác để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của công ty H. Số tiền

bị cáo chiếm đoạt mỗi lần là 8.489.000 đồng (lần thứ hai bị phát hiện bắt giữ); Hành

vi của N có được xem là thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian

để cộng dồn giá trị tài sản bị chiếm đoạt để xử lý về tội lừa đáo chiếm đoạt tài sản

không? (Bản án số: 281/2017/HSST ngày 19/7/2017 của TAND thành phố Biên

Hòa).

+ Theo điểm 5 mục 2 Thông tư liên tịch số 02/2001: Những trường hợp

người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu nhiều lần nhưng không cùng loại; đồng

thời thỏa mãn những điều kiện nêu trên như: vừa cướp giật tài sản, vừa lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản, vừa LĐCĐTS thì sẽ không bị xử lý. Đây là điểm chưa

59

thật sự hợp lý vì không đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đòi hỏi

cần sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự theo hướng quy định một người thực hiện

nhiều hành vi chiếm đoạt tài sản tức là thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính

chiếm đoạt mà giá trị tài sản của mỗi lần dưới mức tối thiểu, tổng các lần cộng lại

bằng hoặc trên mức tối thiểu thì phải chịu TNHS theo khoản 1 của điều luật tương

ứng mà không đòi hỏi các hành vi phải cùng loại. Về ĐTD có thể căn cứ vào dấu

hiệu khách quan của hành vi xâm phạm sở hữu đầu tiên hoặc hành vi khách quan

sau cùng trước khi bị phát hiện để ĐTD.

+ Bên cạnh đó, đối với tội phạm có tổ chức thì việc chứng minh người thực

hiện hành vi phạm tội có dấu hiệu “Lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm

nguồn sống chính” là rất khó, không khả thi bởi vì người phạm tội thường có một

nghề nghiệp nào đó (mặc dù không ổn định); và trên thực tế không có người phạm

tội nào lại thừa nhận họ sống chủ yếu từ việc phạm tội. Việc kết luận họ có lấy tài

sản do việc xâm phạm sở hữu làm nguồn sống chính hay không chủ yếu dựa vào lời

khai của họ, việc xác minh thực sự không hề đơn giản. Vì thế, các văn bản hướng

dẫn cần quy định rõ vấn đề trên để đảm bảo cho việc xử lý được công bằng, không

bỏ lọt tội phạm. [47]

ii). Nghị quyết 01 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự:

+ Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại Điều 174

Khoản 2 Điểm d BLHS được hướng dẫn tại mục 5 như sau:

"5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" đối với

người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện:

a) Đối với trường hợp phạm tội từ 5 lần trở lên mà trong đó có 1 lần phạm

tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người

phạm tội có thể bị áp dụng cả 3 tình tiết đó là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm"

(hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".

b) Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết "phạm tội có tính

chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung hình phạt thì không áp dụng tình tiết đó

60

là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS. Trường hợp điều

luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp

dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS".

Thực tiễn xét xử cho thấy quy định như trên là không khách quan, bởi vì nếu

một người thực hiện 05 lần hành vi LĐCĐTS nhưng có 01 lần đã bị kết án về tội

LĐCĐTS thì có nghĩa là trừ đi lần truy cứu TNHS trước thì người đó chỉ phạm tội

LĐCĐTS 04 lần. Căn cứ quy định như trên thì lại làm nảy sinh trường hợp một

hành vi phạm tội lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần. Lần đầu tiên người đó

thực hiện hành vi phạm tội được xem xét là tình tiết định tội, hành vi này lại tiếp tục

được xem xét là tình tiết định khung tăng nặng "có tính chất chuyên nghiệp" trong

lần xử lý sau. Cùng một hành vi phạm tội lại vừa bị tính phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm như sau:

Chỉ áp dụng tình tiết “Phạm tội có tình tiết chuyên nghiệp” khi có đầy đủ

các điều kiện sau đây:

a. Cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm mà chưa bị truy cứu

TNHS;

b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề để sinh sống và lấy kết

quá phạm tội làm nguồn sống chính.

Những hướng dẫn trên vẫn chưa thật rõ ràng, đầy đủ; hơn nữa, Bộ luật hình

sự được ban hành và được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ 01/01/2018,

thì bên cạnh việc dự báo tội phạm để xây dựng một BLHS hoàn chỉnh hơn, phù hợp

với các điều kiện thực tiễn hơn thì cũng cần rà soát lại xem các quy định nào của Bộ

luật hình sự liên quan tới các tội xâm phạm sở hữu đặc biệt là trong phần tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản có những quy định nào còn khó khăn, vướng mắc thi hành thì

đưa ra các kiến nghị để cơ quan có thẩm quyền hoàn chỉnh Bộ luật này. [47]

Một số các giải pháp có thể áp dụng, đó là:

Thứ nhất, cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm làm rõ

hơn dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để tránh nhầm lẫn với các

tranh chấp giao dịch dân sự hoặc nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với

61

các các tội phạm khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để phạm tội trong BLHS năm

2015 bằng các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật của Hội đồng thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao.

Theo quy định thì dấu hiệu cơ bản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là

hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trong BLHS vẫn

còn một số tội danh khác cũng dùng thủ đoạn gian dối, cùng có hành vi chiếm đoạt

tài sản nhưng lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng quy định trong

BLHS như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng ... vì vậy, cần phải

có sự giải thích trong các văn bản pháp luật để thuận tiện trong quá trình giải quyết

vụ án, đảm bảo cho việc định tội danh được chính xác, tránh nhầm lẫn với các tội

phạm khác.

Để khắc phục tình trạng nhầm lẫn giữa tranh chấp dân sự với trường hợp

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; giữa trường hợp phạm tội lừa dối chiếm đoạt

tài sản với trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải có văn bản hướng dẫn cụ

thể về mục đích của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng:

Trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì xác định mục đích

chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, khi định tội cần xem xét người phạm tội có

mục đích chiếm đoạt hay không và thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích

chiếm đoạt tài sản trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ

tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Không hình sự hóa dân sự: trường hợp người phạm tội có mục đích chiếm

đoạt tài sản trước hoặc trong khi thực hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; còn trường hợp một

người có hành vi gian đối trong việc xác lập các giao dịch dân sự nhưng không

nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và

người phạm tội có thiện chí thực hiện các nghĩa vụ dân sự của mình, thì được coi là

vụ án tranh chấp về dân sự.

62

Để khắc phục tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản với một số trường hợp phạm tội khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để

phạm tội do đánh giá không đúng về mối liên hệ giữa hành vi lừa dối và hành vi

chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần hướng dẫn về hành vi

khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng: Hành vi khách quan của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.

Hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có quan hệ mật thiết với nhau. Xuất

phát từ hành vi lừa dối, đây là điều kiện để hành vi chiếm đoạt xảy ra trên thực tế,

ngược lại hành vi chiếm đoạt chính là kết quả của hành vi lừa dối đó. Trường hợp

hành vi lừa dối nếu chỉ nhằm tiếp cận tài sản, không có ý nghĩa quyết định đối với

việc thực hiện hành vi chiếm đoạt (hành vi chiếm đoạt không phải là kết quả của

hành vi lừa dối trực tiếp mang lại) thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội

xâm phạm sở hữu khác nếu hành vi chiếm đoạt thỏa mãn CTTP của tội đó.

Thứ hai, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự

một cách toàn diện, thống nhất phù hợp với quy định của BLHS hiện hành. Bên

cạnh đó đòi hỏi các văn bản hướng dẫn cần giải thích cụ thể các dấu hiệu định tội,

định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đảm bảo cho việc giải

quyết vụ án hình sự nói chung và đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng

được thống nhất. Đồng thời khi ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật

cũng đòi hỏi các chủ thể ban hành phải dự tính được hết những khả năng có thể xảy

ra trên thực tế khi giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thứ ba, cải cách tư pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và ban

hành văn bản hướng dẫn các quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng là

việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, do vậy cần sớm hoàn thiện

quy định của pháp luật để khắc phục tình trạng không thể thu hồi tài sản bị chiếm

đoạt. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dù có mức hình phạt khá nghiêm khắc,

mức hình phạt cao nhất là tù chung thân, tuy nhiên trong thời gian qua trên phạm vi

cả nước nói chung vẫn còn nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản nghiêm trọng xảy ra.

63

Việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra hết sức

khó khăn vì chế định thu hồi tài sản bị chiếm đoạt có nhiều kẽ hở, do đó pháp luật

hình sự cần có những sửa đổi, bổ sung để việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt có hiệu

quả hơn. Cụ thể cần bổ sung các quy định: Nếu có dấu hiệu tẩu tán tài sản của

người phạm tội thì người phạm tội và người thân của họ có trách nhiệm chứng minh

nguồn gốc. Nếu không thể chứng minh được nguồn gốc thì các cơ quan tiến hành tố

tụng được phép thu hồi toàn bộ hoặc một phần tài sản, khắc phục hậu quả để giảm

nhẹ hình phạt. Theo kiến nghị của tác giả, trong trường hợp có những thay đổi hay

biến động về giá trị tài sản thì các nhà làm luật có thể quy định hoặc hướng dẫn áp

dụng pháp luật về định lượng để áp dụng cho trường hợp này.

Thứ tư, phát triển án lệ: Theo quan điểm của tác giả thì án lệ có giá trị rất lớn

trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật cũng như có tính thực tiễn cao, vì

một bản án cụ thể không thể hình thành nên một quy tắc án lệ mà việc hình thành

quy tắc án lệ phải dựa trên hàng loạt các vụ việc tương tự nhau.

Án lệ giúp giải quyết kịp thời những vụ án mà quy định của pháp luật còn

vướng mắc trong khi các văn bản quy phạm pháp luật thường lạc hậu hơn khi giải

quyết các vấn đề trong đời sống xã hội do chênh lệch giữa sự vận động, chuyển biến

nhanh chóng của xã hội so với tính ổn định trong các quy phạm pháp luật. Bởi vậy,

việc ban hành án lệ và sử dụng án lệ đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hết sức

cần thiết.

3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán.

Để bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản áp dụng pháp luật nói chung, đặc biệt là hoạt động định tội danh

và quyết định hình phạt đạt hiệu quả, cần nâng cao năng lực của các cơ quan, người

tiến hành tố tụng. Cụ thể là:

- Chú trọng đào tạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, bao

gồm đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm có

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp, có kinh

64

nghiệm thực tiễn và có bản lĩnh chính trị vững vàng đề đáp ứng được yêu cầu đặt ra

trong tiến trình cải cách tư pháp.

- Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng nhằm cập nhật văn

bản pháp luật mới, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,

công chức ngành Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc.

- Đẩy mạnh công tác tập huấn, nâng cao nghiệp vụ đối với Hội thẩm nhân

dân. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp giải quyết

vụ án. Thường xuyên tổ chức các buổi họp liên ngành, giải đáp vướng mắc, phối

hợp trong công tác để xử lý vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan

trong việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Theo ý kiến của tác giả, ngành tư pháp cần phải tăng cường giám đốc, kiểm

tra, tổng kết thực tiễn để có càng nhiều các bản án, quyết định đúng đắn, chính xác,

đúng người đúng tội, có tính răn đe, giáo dục và mẫu mực để toàn ngành học tập;

đồng thời mạnh dạn tổng kết rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm những Thẩm phán ra

những bản án, quyết định ban hành chưa chính xác, chưa thoả đáng, còn có những

sai lầm trong xem xét, đánh giá chứng cứ trong việc chọn quy phạm pháp luật đối

với các vụ án tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó nâng cao năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ đối với việc định tội danh và QĐHP.

3.2.4. Các giải pháp khác.

i). Nâng cao nhận thức pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Tuyên

truyền và giáo dục pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác phòng

chống tội phạm nói chung và trong việc phòng chống tội phạm về sở hữu nói riêng,

đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất

phát từ những nguyên nhân sâu xa trong chính con người phạm tội, đó là tâm lý tiêu

cực, bản tính tham lam, ích kỷ vụ lợi nên chiếm đoạt tài sản của người khác. Từ

những bản tính xấu xa đó cùng với sự coi thường pháp luật và những tác động tiêu

cực khác không phải là bẩm sinh cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến hành vi vi

phạm pháp luật, do đó trong xã hội hiện tại, giáo dục con người, giáo dục ý thức

pháp luật của cá nhân, tôn trọng quyền sở hữu của người khác là vấn đề cấp thiết

65

cần phải đề cao và chú trọng. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng cần đẩy mạnh

công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật. Toà án các cấp thông qua việc xét xử các

vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để tuyên truyền ý thức của người dân để họ

hiểu rõ hơn về các thủ đoạn, hình thức lừa đảo của người thực hiện tội phạm.

ii). Thực hiện tốt việc bố trí, rà soát, đánh giá cán bộ, luân chuyển cán bộ với

mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tư pháp địa phương trong các cơ quan

tiến hành tố tụng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm phẩm chất đạo đức, bản lĩnh

chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ; cần phải xử lý nghiêm khắc các

trường hợp tiêu cực.

iii). Nhằm hạn chế các hiện tượng tiêu cực xảy ra, cần xem xét, nghiên cứu

và thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, chính sách đãi ngộ đối với cán

bộ ngành tư pháp sao cho phù hợp với công việc, trách nhiệm và hoạt động đặc thù

của từng ngành, để từ đó đời sống của cán bộ được đảm bảo, ổn định.

Các giải pháp trên đây cùng với việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nội dung,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp trong tình hình mới sẽ

thúc đẩy công cuộc cải cách tư pháp, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật đối

với các loại tội phạm ở nước ta trong thời gian tới ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,

vượt qua những thách thức, để cùng nhịp bước và phục vụ đắc lực hơn, hiệu quả

hơn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để nền tư pháp của chúng ta

ngày một gần dân hơn, xứng đáng là biểu tượng của công lý và pháp quyền trong xã

hội XHCN; từ đó góp phần hạn chế những mâu thuẫn khi định tội danh cũng như

hạn chế sai lầm khi quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết các vụ án hình

sự có liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa

trong thời gian tới.

66

Tiểu kết Chương 3

Ở chương 3, tác giả đã đưa ra được những yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng

các quy định của pháp luật hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn

thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, cụ thể là: Yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền

con người, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội

trong xử lý tội và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bảo đảm pháp chế

XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản; yêu cầu phòng, chống tội phạm, nhất là loại tội xâm phạm sở

hữu có tính chiếm đoạt đang xảy ra có chiều hướng gia tăng. Đồng thời nêu các giải

pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như:

chú trọng hoàn thiện pháp luật Hình sự, ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng

pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ban hành án lệ, nâng cao năng

lực chủ thể tiến hành tố tụng đặc biệt là thẩm phán, …

67

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tác giả luận văn đã làm rõ được một số vấn

đề lý luận và thực tiễn của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn. Trên cơ sở đó,

tác giả có đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật nói chung và

áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Biên

Hòa nói riêng. Cụ thể:

Luận văn đã làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản cho thấy tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản là một trong những tội phạm sở hữu với hành vi chiếm đoạt tài sản của

người khác bằng thủ đoạn gian dối, làm rõ các dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, từ đó cho thấy đặc trưng trong cấu thành tội phạm tội LĐCĐTS, để phân

biệt với các tội phạm khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tội sử

dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản.

Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lý

luận chung về định tội danh và QĐHP đối với tội này, dựa trên những số liệu thực

tiễn giai đoạn 2015-2019 tại địa bàn thành phố Biên Hòa, cho thấy tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản tại thành phố Biên Hòa mặc dù không tăng về số lượng, nhưng

diễn biến phức tạp; những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tập trung vào những vụ án có

sự chiếm đoạt tài sản trị giá lớn nên sẽ chuyển sang TAND tỉnh Đồng Nai giải

quyết theo thẩm quyền. Mặt khác, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số tội phạm

nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

là rất lớn vì thủ đoạn của tội này ngày một xảo quyệt, tinh vi hơn.

Ngoài những kết quả đạt được trong quá trình định tội danh và QĐHP thì

Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa vẫn mắc những sai sót trong một số vụ án cụ

thể như luận văn đã phân tích những sai lầm, hạn chế và nêu ra các nguyên nhân

của sai lầm đó trong việc áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Từ

đó, tác giả đã nêu ra những yêu cầu và giải pháp khắc phục những hạn chế đó nhằm

68

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn, góp phần xây dựng hệ thống Tòa án tại thành phố Biên Hòa công bằng, văn

minh.

Quá trình nghiên cứu làm Luận văn, tác giả đã nhận được sự quan tâm của

các cơ quan tổ chức và đặc biệt là sự nhiệt tình giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn

khoa học. Đây là công trình khoa học đầu tiên của tác giả nên còn có nhiều thiếu

sót. Vì vậy, tác giả luận văn mong muốn nhận được sự đóng góp, chỉ dẫn của các

nhà khoa học, quý thầy cô, anh chị và các bạn đồng nghiệp để để tài luận văn được

hoàn chỉnh hơn tương lai.

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005),

Nghị quyết 49 ngày 02/06/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

năm 2005.

2. Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và Bộ

Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/BCA-TANDTC-

VKSNDTC-BTP ngày 25/2/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1999), Bình luận khoa học

BLHS Việt Nam (tái bản lần thứ ba có sửa theo Luật Sửa đổi, bổ Sung một số

điều của BLHS 2015), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa học

BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp

trong thời gian tới, Hà Nội.

6. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 2/2005 của

Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

8. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS (Phần các tội phạm, Tập II),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời, Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày

15/3/1976.

10. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

70

11. Mai Văn Bộ (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung

năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong

khoa học Luật hình sự (phần chung), Nxb, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

13. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự

Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Chí, Khoa Luật Đại học Quốc gia (2003), Trong Giáo trình

Luật hình sự (phần các tội phạm) do Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự

Việt Nam trên cơ sở số liệu nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn

thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Hòa (1999), Tội phạm học trong luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

18. Quốc hội (1985), BLHS 1985, Hà Nội.

19. Quốc hội (1999), BLHS 1999, Hà Nội.

20. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.

21. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Hà Nội.

22. Quốc hội (2009), BS (sửa đổi, bồ sung), Hà Nội.

23. Quốc hội(2013), hiến pháp 2013, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), BLHS 2015, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà, các Bản án sơ thẩm về tội Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản từ năm 2015-2019.

26. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, các Bản án phúc thẩm về tội Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản từ năm 2015-2019.

27. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày

15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

71

28. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị

Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

30. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017) Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam phẩn chung, NXB Hồng Đức, Thành phô Hồ Chí Minh.

31. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam phần các tội phạm quyển 1, NXB Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí

Minh.

32. Từ điển Bách khoa toàn thư.

33. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2004), Bình luận khoa học BLHS Việt Nam 1999

(Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp

lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.

35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp

lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân, Hà Nội.

36. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triểu Hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

37. Võ Khánh Vinh chủ biên (2015), Giáo trình luật hình sự phần các tội phạm -

Dành cho hệ sau đại học, NXB Khoa học xã hội - Hà Nội.

38. Võ Khánh Vinh (2003), Thay đổi tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Tạp chí Tòa án nhân dân.

39. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã

hội - Hà Nội.

40.

phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thue-tien>, (10/8/2019).

41.

va-toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san/n20161028120821658.html>, (10/8/2019).

72

42. Triệu Thị Tuyết, TAND tỉnh Bắc Kạn,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-

luat/phan-biet-toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-voi-mot-so-toi-pham-xam-

pham-so-huu-khac, (03/10/2019).

43. Phạm Ngọc Minh, http://hinhsu.luatviet.co/binh-luan-toi-lua-dao-chiem-doat-

tai-san-trong-bo-luat-hinh-su-nam-2015/n20161028120823021.htm

(05/06/2018.

44. Đoàn Ngọc Hải, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/toi-lua-dao-chiem-

doat-tai-san-theo-phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thuc-tien,

(01/03/2019).

45. Bùi Thế Phương, http://vksbinhdinh.gov.vn/newsdetail.

46. Đào Thị Tường, Luận văn thạc sĩ “Tội LĐCĐTS theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Học viện Khoa học xã hội, 2019.

47. Lê Quang Ninh, Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội LĐCĐTS theo quy định

của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Học viện Khoa

học xã hội, 2019.

48. Lại Văn Sơn, Luận văn thạc sĩ “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình

trạng nguy hiểm đến tính mạng trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Trường Đại

học Luật Hà Nội, 2019.

73