VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRÍ TÂN
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh
HÀ NỘI, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN TRÍ TÂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1................................................................................................................ 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................................................... 6
1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 ....................... 7
1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS Việt
Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 .................................................................. 7
1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................. 10
1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................................................. 11
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................................ 11
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....................................... 12
1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........... 16
1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................... 17
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt ................................. 17
1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt ............................................. 18
1.4.3. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................ 20
1.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác .............. 24
1.5.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản ................................................................................................................. 25
1.5.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng............... 27
1.5.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ quyền
hạn chiếm đoạt tài sản ............................................................................................... 27
1.5.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ........... 28
1.5.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản, tội trộm cắp
tài sản......................................................................................................................... 29
Tiểu kết Chương 1 ..................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 32
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ........................................................................................ 32
2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên
Hòa ........................................................................................................................... 32
2.1.1. Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành cơ
bản ............................................................................................................................. 33
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường
hợp đặc biệt ............................................................................................................... 38
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
thành phố Biên Hòa ................................................................................................ 40
2.2.1. Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1). ................. 41
2.2.2. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng ...................................... 43
2.2.3. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng, phạm nhiều tội, có
đồng phạm ................................................................................................................. 44
2.3. Những vi phạm, sai sót; những hạn chế, vướng mắc trong định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố
Biên Hòa .................................................................................................................. 46
2.3.1. Những vi phạm, sai sót về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa .............................................. 46
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong định tội danh và
quyết định hình phạt từ thành phố Biên Hòa ............................................................ 48
Tiểu kết Chương 2 ..................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3.............................................................................................................. 54
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ......................................... 54
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng và đảm bảo đúng quy định về định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ................................................................................. 54
3.1.1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp;
bảo đảm công lý, công bằng xã hội ........................................................................... 54
3.1.2 Bảo đảm pháp chế XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt. ........................................................................................................................... 55
3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tội phạm đối với loại tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt. ................................................................................................................ 55
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. ................................................................................ 56
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Hình sự. ..................................................................... 56
3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. .............................................................................. 58
3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán. ............. 64
3.2.4. Các giải pháp khác. ......................................................................................... 65
Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
ĐTD: Định tội danh
LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Toà án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
QĐHP: Quyết định hình phạt
CTTP: Cấu thành tội phạm
HĐXX: Hội đồng xét xử
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Bảng thống kê tình hình tội phạm và số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội LĐCĐTS được giải quyết trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ năm 2015-2019.
Bảng 2: Phân loại tội phạm tội LĐCĐTS theo mức hình phạt (CTTP cơ bản và tăng nặng) tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019.
Bảng 3: Hình phạt áp dụng đối với tội phạm LĐCĐTS tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua diễn biến phức tạp và chưa có xu hướng giảm,
các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội với nhiều thủ đoạn khác nhau, rất tinh vi
xảo quyệt, đã gây ra hậu quả to lớn, có những vụ thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ
đồng, có nhiều nạn nhân, … gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự tại
địa phương. Trong lĩnh vực thương mại, mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội
phạm truyền thống, phổ biến, nhưng hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, xuất hiện
ngày càng nhiều những vụ việc phức tạp, các vấn đề liên quan đến xâm phạm sở
hữu về tài sản hợp pháp của người sở hữu, đã kéo theo nhũng hệ lụy cho sự ổn định
phát triển kinh tế. Tính chất phạm tội ngày càng có quy mô, tinh vi và đa dạng, có
tổ chức-câu kết chặt chẽ dưới nhiều hình thức nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản: hoạt
động tổ chức tín dụng đen, cho vay vốn với lãi suất cao không có sự đảm bảo của
pháp luật, ngụy tạo các thông tin thanh toán qua hệ thống thanh toán trực tuyến
ngân hàng (internet Banking, thanh toán online, …).
Trước tình hình trên, các lực lượng chức năng trên địa bàn thành phố Biên
Hòa đã tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện
xử lý kịp thời. Tuy nhiên, thực tiễn thì việc định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội này còn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt
ra. Do đó, tác giả chọn đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn cao học với mong muốn góp phần
làm rõ cơ sở lý luận của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, thực tiễn trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa; từ đó đề xuất
những ý kiến cụ thể góp phần đảm bảo áp dụng đúng quy định pháp luật thời gian
tới.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Tội lừa đảo chiến đoạt tài sản đã được rất nhiều các nhà
nghiên cứu đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định
tội danh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận
khoa học BLHS (Phần các tội phạm, Tập II), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Mai Văn Bộ (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 (phần các tội phạm), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Văn Đệ
(2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội…
Các luận án tiến sỹ, luận văn Thạc sĩ luật học của nhiều tác giả liên quan đến
vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh, thành phố của
cả nước như: Lê Đăng Doanh, Đại học luật Hà Nội, luận án tiến sỹ “Tội LĐCĐTS
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”; Lê Quang Ninh
(2019), Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định
của pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Học viện khoa học
xã hội; Đào Thị Tường (2019), Luận văn thạc sĩ “Tội LĐCĐTS theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Học viện Khoa học xã hội; ...
Các bài viết, tạp chí, đề tài khoa học khác như: “ Phân biệt tợi
LĐCĐTS với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác” của tác giả Triệu Thị
Tuyết, TAND tỉnh Bắc Kạn, tạp chí Tòa án; “ Tội LĐCĐTS theo pháp luật
hình sự Việt Nam, lý luận và thực tiễn” của tác giả Đoàn Ngọc Hải, đăng trên
tạp chí Tòa án; “ Bình luận tội LĐCĐTS trong Bộ luật hình sự năm 2015” của
tác giả Phạm Ngọc Minh, http://hinhsu.luatviet.co; …những công trình nghiên
cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và
thực tiễn, các tác giả đã đề cập một cách khá toàn diện các dấu hiệu pháp lý tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, phân biệt tội này với một số tội phạm khác trong nhóm tội
2
xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập chuyên sâu pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai; các tài liệu trên cũng chính là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu luận văn của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh
và quyết định hình phạt của Toà án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối
với tội phạm này, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện những quy
định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, phân biệt các tội phạm về
xâm phạm sở hữu.
Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật trong quá trình định tội danh và
quyết định hình phạt về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong khoảng 5 năm (2015 - 2019).
Luận văn đưa ra những vấn đề còn hạn chế, bất cập, qua đó đưa ra một số
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực
tiễn xét xử tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2019. Cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh
và quyết định hình phạt của Toà án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối
với tội phạm này. Từ xem xét các bản án hai cấp của Toà án là cấp sơ thẩm và
phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
hoàn thiện những quy định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.
Việc áp dụng pháp luật không chỉ có định tội danh và quyết định hình
phạt, nhưng trong phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ xem xét định tội danh và quyết
định hình phạt trong xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, để từ đó phát hiện những vấn đề còn tồn tại, đưa ra
các kiến nghị, giải pháp cụ thể cho việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật đối với tội
LĐCĐTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015-2019.
Cụ thể từ khi Luật Hình sự 1999, (sửa đổi 2009) có hiệu lực đến khi Luật Hình
sự 2015 (sửa đổi 2017) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về chính sách hình
sự, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, vụ việc điển hình trong giải quyết các vấn đề
của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã phân tích được những khái niệm, đặc điểm cũng như khái
quát lịch sử quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
4
Việt Nam, phân biệt được tội lừa đảo với một số tội danh trong Bộ luật hình sự
Việt Nam.
- Tác giả đã nghiên cứu và phân tích thực tiễn áp dụng quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận
văn được kết cấu thành 3 Chương, cụ thể :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo từ điển Lạc Việt, từ “lừa” được định nghĩa là “làm cho người khác mắc
sai lầm bằng mưu mẹo hoặc nói dối”, còn “lừa đảo” là “dùng thủ đoạn để chiếm tài
sản, của cải”.
Trong khoa học pháp lý hình sự, lừa đảo là thuật ngữ đã được xuất hiện từ
nhiều thế kỷ qua và được mọi người sử dụng rộng rãi ở trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, về khái niệm tội phạm LĐCĐTS cũng đã được đề cập rất nhiều trong
các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều khái niệm khác nhau. Chẳng
hạn có quan điểm cho rằng: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác”.[37,tr185]
Bộ luật hình sự năm 2015, tuy không nêu cụ thể khái niệm về tội phạm
LĐCĐTS, nhưng có định nghĩa chung về tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. [K.1, Đ.8 BLHS
2015]
Đồng thời BLHS năm 2015 cũng quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian
dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm …”. [K.1, Đ.174 BLHS 2015].
6
Như vậy, về khái niệm tội LĐCĐTS không được định nghĩa cụ thể trong
BLHS năm 2015, nhưng căn cứ vào những quy định trên có thể đưa ra khái niệm về
tội LĐCĐTS như sau:
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng các thủ
đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm nên trao tài
sản để người phạm tội chiếm đoạt”.
1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS
Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Nhà nước ta chưa ban hành Bộ luật
hình sự, nhưng đã ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
để quy định và xử lý về tội LĐCĐTS: Sắc lệnh số 26, Sắc lệnh số 223 năm 1946 về
các tội phá hoại công sản, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 267 năm 1956 về các âm
mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân
làm ảnh hưởng, cản trở các chính sách, kế hoạch Nhà nước.
Trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970,
quy định về tội LĐCĐTS XHCN như sau: “ Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận
trong việc cân, đo, đong, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt
tài sản XHCN thì phạt tù từ sáu tháng đến năm năm …”. (Điều 10); đồng thời Điều
9 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân (cũng do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970), quy định về tội
LĐCĐTS riêng của công dân như sau: “ Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt
tài sản riêng của công dân thì phạt tù từ ba tháng đến ba năm …”.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất
nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm nhiều văn bản pháp luật hình sự trong đó có
quy định về tội LĐCĐTS. Như vậy từ năm 1976 nước ta áp dụng đồng thời đến 03
7
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng xử lý về tội LĐCĐTS: Miền Bắc áp
dụng hai pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ban hành năm 1970, miền Nam áp dụng Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/03/1976
của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Bộ luật hình sự đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày
09/07/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 áp dụng thống nhất trên cả nước, thay
thế các văn bản quy phạp pháp luật hình sự trước đó. BLHS năm 1985 quy định về
tội LĐCĐTS như sau:
Điều 134. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì
bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. …”
Điềi 157. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân.
1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, thì
bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. …”
BLHS năm 1985 đã phát huy tối đa tính pháp chế và bảo vệ được quyền tài
sản của công dân, có sự bình đẳng hơn quyền sở hữu đối với tài sản xã hội chủ
nghĩa và tài sản của công dân, thể hiện ở chỗ bỏ mức hình phạt tử hình, chỉ áp dụng
mức hình phạt cao nhất là tù chung thân đối với tội LĐCĐTS xã hội chủ nghĩa; còn
đối với tội LĐCĐTS công dân thì nâng mức hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15
năm. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng BLHS năm 1985 nói chung và đối với tội
LĐCĐTS nói riêng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải được sửa đổi, do
vậy riêng tội LĐCĐTS quy định tại các điều 134 và điều 157 cũng đã được sửa đổi,
bổ sung qua bốn lần vào các năm 1990, 1991, 1993 và 1997.
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng nhìn chung BLHS năm 1985
vẫn chia ra hai nhóm tội về xâm phạm quyền sở hữu tài sản: tội xâm phạm quyền sở
hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.
Do vậy BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2000 đã thay thế
BLHS năm 1985, được xây dựng dựa trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương
8
đối toàn diện, có kế thừa và phát huy tích cực những quy định tiến bộ của BLHS
năm 1985.
BLHS năm 1999 đã gộp các nhóm tội về xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
và xâm phạm sở hữu của công dân thành một chương duy nhất, Chương “các tội
xâm phạm sở hữu”, áp dụng cho tất cả các hình thức sở hữu; trong đó tội LĐCĐTS
được quy định tại điều 139, tức nhập các điều 134 và 134a, điều 157 trong BLHS
năm 1985 và các lần sửa đổi bổ sung. Điểm mới của điều 139 trong BLHS năm
1999 là trong cấu thành tội phạm cơ bản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được áp dụng
làm ranh giới xác định hành vi lừa đảo phải truy cứu TNHS với hành vi lừa đảo chỉ
bị xử lý hành chính; hình phạt bổ sung và các tình tiết định khung hình phạt cũng
được quy định ngay trong điều luật và chi tiết, cụ thể hơn về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm
nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. (K.1, Đ.139 BLHS 1999).
Phải thừa nhận rằng BLHS năm 1999 là một bước tiến quan trọng trong quá
trình xây dựng và áp dụng chính sách pháp luật hình sự hướng đến đề cao quyền
con người, tôn trọng quyền sở hữu của công dân. Tuy nhiên kinh tế-xã hội không
ngừng phát triển kéo theo sự gia tăng và phát sinh nhiều loại tội phạm mới kể cả về
thủ đoạn và quy mô như các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, các tội phạm liên
quan đến công nghệ thông tin, lĩnh vực tài chính, …; bên cạnh đó xu thế hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng cần thiết đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung các quy
định về pháp luật hình sự cho phù hợp với quan điểm, chủ trương mới của Đảng về
cải cách tư pháp như đã được nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó chú trọng
đề cao quyền con người theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, tước đi
mạng sống của con người.
9
1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015 đã thông qua BLHS
năm 2015, tuy nhiên sau đó Quốc hội đã quyết định hoãn thời hiệu áp dụng do phát
hiện một số lỗi, để tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội
khóa XIV chính thức thông qua những sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật số
12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
2015 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là BLHS năm 2015
được sửa đổi bổ sung năm 2017, gọt tắt là BLHS năm 2015), đã quy định về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản như sau:“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài
sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: …” (K.1, Đ.174
BLHS 2015).
Căn cứ quy định tại điều 174 BLHS 2015, tội LĐCĐTS được xây dựng theo
bốn CTTP tương ứng với bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, và
sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc: CTTP cơ bản (khoản 1),
CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2), CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3), CTTP tăng
nặng thứ ba (khoản 4).
Trong CTTP cơ bản (khoản 1 điều 174) của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
các tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi lừa đảo bị xử lý
TNHS và hành vi lừa đảo nhưng chỉ bị xử lý hành chính; đồng thời sửa đổi và bổ
sung thêm các dấu hiệu phạm tội mới thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới
2.000.000 đồng nhằm cụ thể hóa hành vi phạm tội phải truy cứu TNHS.
CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2 điều 174) ngoài các dấu hiệu định tội
còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng. Đối với các tình tiết định khung tăng
nặng theo quy định tại khoản 2, điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả
nghiêm trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là
phù hợp, bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất
khó khăn.
10
Tương tự CTTP tăng nặng thứ nhất, CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3 điều
174), thì ngoài các dấu hiệu định tội còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng được
quy định cụ thể; khoản 3 cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm
trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999); và cũng quy định mới thêm một
tình tiết định khung khác là “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý,
nhằm tránh các trường hợp phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan
đặc biệt mà chưa có quy định dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Đối với CTTP tăng nặng thứ ba, khoản 4 điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình
tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b khoản 4 Điều 139 BLHS 1999).
Đồng thời, BLHS năm 2015 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là c)
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự bổ sung hợp lý,
nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là trong điều kiện
chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt
tài sản gia tăng rất nhiều. [45]
Ngoài ra, tội LĐCĐTS là một trong những tội phạm phổ biến của nhóm tội
xâm phạm quyền sở hữu, gây thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu một cách trực tiếp,
nên ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ
sung như: bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản như được quy định tại khoản
5 điều 174.
1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm
Theo tác giả Phan Thị Hồng Thắng thì: “Định tội danh là việc xác định và
ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm
tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong
Bộ luật hình sự”. [39,tr10]
Còn theo GS.TSKH Lê Cảm thì định nghĩa về định tội danh như sau: “Định
tội danh được hiểu là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong
những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự;
11
đồng thời dựa trên các tài liệu chứng cứ thu thập được phản ánh các tình tiết thực
tế của vụ án đã xảy ra để so sánh, đối chiếu và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp
của chúng với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình
sự quy định”. [12]
Trong khoa học hình sự, một hành vi bị coi là tội phạm khi có đủ bốn dấu
hiệu, bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải
bị xử lý hình sự. Tính phải bị xử lý hình sự đối với một hành vi được hiểu là hành vi
đó phải được qui định trong BLHS bằng một tội phạm cụ thể và kèm theo đó một
hình phạt cũng như các biện pháp xử lý hình sự khác tương ứng.
Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là quá trình các
cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và áp dụng các quy định của PLHS và
TTHS để xác định hành vi của người phạm tội xem có thỏa mãn các yếu tố cấu
thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 BLHS 2015 hay
không, và quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội.
Từ những khái niệm và phân tích trên có thể hiểu định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau:
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ
tục pháp luật tố tục hình sự quy định; trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ
nhằm xác định có hay không sự phù hợp giữa hành vi chiếm đoạt đã xảy ra với
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định
tại điều 174 BLHS 2015; làm căn cứ để giải quyết các vấn đề liên quan đến hình
phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là hoạt động thực tiễn, có tính logic nhằm xác định có hay
không sự tương đồng giữa hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu
hiệu của nó được quy định tại điều 174 BLHS 2015: “1. Người nào bằng thủ đoạn
gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
12
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm:…”, để từ đó xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản hay không. Trên cơ sở đó có thể nhận thức các dấu hiệu pháp lý của tội
LĐCĐTS như sau:
(i) Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Mặt khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản. Đối
tượng tác động của tội phạm này là tài sản. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể
hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác sau khi lừa lấy được
tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ
nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, cụ thể là quyền sở hữu tài sản
được pháp luật bảo vệ. Trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luật không
quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt, đây là
điểm khác so với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp
giật tài sản.
(ii) Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
- Về hành vi khách quan của tội phạm LĐCĐTS: là sử dụng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản, thể hiện ở chỗ:
+ Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc
đó người bị hại không biết được có hành vi gian dối;
+ Dùng thủ đoạn gian dối bằng hành vi đưa ra thông tin giả, không đúng với
sự thật (như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình
ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau), làm cho người bị lừa dối tin
đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
Đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt bằng thủ
đoạn gian dối, hai hành vi này có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó hành vi gian
dối có trước, là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; do vậy thủ đoạn
13
gian dối phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản để đạt mục đích chiếm đoạt.
Cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội
LĐCĐTS, một số quan điểm cho rằng tội LĐCĐTS có hai hành vi khách quan là
hành vi “gian dối” và hành vi “chiếm đoạt”; tuy nhiên, BLHS năm 2015, điều 174
quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì
thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích, mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối
lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà
người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.
Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B
tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu. A đem xe máy của B ra tiệm cầm
đồ cầm cố lấy 10.000.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc và đã thua hết.
Hoặc ví dụ khác: vì muốn có tiền đánh bạc C đã nói dối với D là mượn xe 01 tiếng
đồng hồ để chở bạn gái về rồi sẽ trả lại xe, nhưng C lại đem cầm cố lấy tiền đánh
bạc….
Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành của mình, đây là đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ
đoạn gian dối. Như vậy thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi
chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản
cho người phạm tội. Trường hợp nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội
nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp
cụ thể thủ đoạn gian dối đó sẽ cấu thành một tội khác, hoặc có thể là hành vi che
giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác.
- Về hậu quả của tội LĐCĐTS: là thiệt hại về tài sản mà căn cứ xác định là
giá trị tài sản bị chiếm đoạt. BLHS 2015 quy định cụ thể giá trị tài sản bị chiếm đoạt
từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm (K.1, Đ.174), trường hợp tài sản
14
bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện khác được nêu cụ
thể trong điều luật.
Tuy vậy trong một số trường hợp, mặc dù chưa có thiệt hại về tài sản (người
phạm tội chưa thực sự chiếm đoạt được tài sản), nhưng vẫn cấu thành tội phạm
LĐCĐTS, đó là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm
tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Về mối quan hệ nhân quả: tội LĐCĐTS cũng như những tội có cấu thành vật
chất khác, hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả
với nhau, hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu
việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách
quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh
như thế nào.
Ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác, làm cho chủ sở hữu tài sản “tự
nguyện” giao tài sản của mình, còn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không
phải do người bị hại tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu
khách quan để xác định tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong,
đo, đếm, gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng, hoặc để bán hàng giả nhằm
thu lợi bất chính thì sẽ cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
(iii) Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Theo quy định tại điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS, thì
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải
chịu TNHS về tội LĐCĐTS, mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội này.
(iv) Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
15
Thật vậy, tội LĐCĐTS là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể,
mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại,
nghĩa là mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội luôn có trước khi thực hiện
thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách
hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi
LĐCĐTS, mà tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội
phạm khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra, việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn
cứ vào tình trạng tài chính, ngữ cảnh của người phạm tội như: tài sản thực có, tình
trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của
người phạm tội như thế nào; vì thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh
doanh…, không có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài
sản.
1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(i) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm như sau:
- Là hoạt động có tính logic nhằm xác định có hay không sự tương đồng giữa
hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu hiệu của nó được quy định
tại điều 174 BLHS 2015, để xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản hay không.
- Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải tuân thủ quy
định về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tục hình sự; trên cơ sở thu thập các tài liệu,
chứng cứ để làm căn cứ áp dụng quyết định hình phạt hợp lí nhất đối với người
phạm tội.
- Với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt
đối; mọi hành vi định tội danh sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn
cho cá nhân, gia đình và xã hội.
16
- Là hoạt động mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng; hoạt
động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không thể được tiến hành bởi bất kì chủ
thể nào khác, đối tượng bị áp dụng không được lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ
có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt trên cơ sở áp
dụng theo quy định của pháp luật.
(ii) Ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản góp phần thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của
Hiến pháp, các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS. Mặt
khác, việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS (Điều 174 BLHS
2015) có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế, cụ thể là quyền sở hữu tài sản
của công dân, đây là quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận.
Ý nghĩa về phương diện pháp lí: Hoạt động nhằm xác định hành vi của một
người là hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thỏa mãn các dấu hiệu
quy định của BLHS thể hiện sự khách quan, công bằng của pháp luật; là tiền đề
quan trọng để định tội danh một cách chính xác, đồng thời là cơ sở để áp dụng đúng
các thủ tục tố tụng về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng biện pháp tạm
giam,…; không làm oan, sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm; tránh trình trạng
tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang vật; đồng thời là căn cứ để Toà án quyết định hình
phạt đúng, ban hành một bản án đúng, chính xác phù hợp với mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, thể hiện tính nghiêm minh, công bằng, khách quan
của pháp luật.
1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt
Hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự có khá nhiều quan điểm đã được
nêu ra về khái niệm quyết định hình phạt. Tuy nhiên với quan điểm “Quyết định
hình phạt là một giai đoạn, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc
Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản,
17
điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện
trong bản án buộc tội” [37,tr386] đã cho rằng: quyết định hình phạt là hoạt động
nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Toà án có thẩm quyền thực hiện sau khi
đã định tội danh, và tuỳ thuộc vào từng trường hợp để quyết định mức hình phạt
trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật quy định áp dụng đối với người
có hành vi phạm tội.
Quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử do HĐXX
tiến hành căn cứ vào các quy định của BLHS để QĐHP, nên quyết định hình phạt
có những đặc trưng sau:
Một là: QĐHP là hoạt động thực tiễn của Toà án có thẩm quyền do hoạt
động xét xử thực hiện dựa trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật hình sự và kết
quả định tội danh.
Hai là: Toà án căn cứ quy định trong BLHS, TTHS để quyết định miễn
TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, loại hình phạt và mức hình
phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội đối
với họ.
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong
muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội; tuy nhiên mục đích của hình phạt có đạt được hay không lại
phụ thuộc vào sự đúng đắn và hợp lý của Tòa án khi quyết định hình phạt, vì chỉ khi
hình phạt trong bản án được tuyên đảm bảo tính công minh, hợp lý, đúng pháp luật
sẽ là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt; qua đó đạt được mục
đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội, góp phần hữu hiệu trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm pháp chế Nhà nước XHCN.
1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn, hợp
pháp của toản bộ hoạt động áp dụng pháp luật, nên phải dựa trên các căn cứ sau:
- Một là, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
18
được quy định cụ thể trong BLHS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Toà án
định tội danh và quyết định hình phạt, do đó hình phạt cụ thể mà Toà án áp dụng
đối với người phạm tội phải thuộc phạm vi khung hình phạt áp dụng cho tội phạm
cụ thể (hoặc dưới mức tối thiểu của khung) và không được trái với những quy định
nói trên. Quyết định hình phạt liên quan rất chặt chẽ với việc định tội danh, việc
định tội danh đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng, cũng có nghĩa là
chỉ ra đúng chế tài cần áp dụng đối với người phạm tội.
- Hai là, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội, tức là cần xác định tính chất và
mức độ hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ gây ra, yếu tố lỗi, động cơ phạm tội, phương
pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội, hoàn cảnh phạm tội, …
- Ba là, căn cứ vào nhân thân người phạm tội là các đặc điểm thuộc về nhân
thân người phạm tội gồm các yếu tố như: Trình độ văn hóa, tôn giáo, tuổi, tiền án,
tiền sự, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, nghề nghiệp, thái độ
làm việc, thái độ trong quan hệ với người khác..., các đặc điểm này phản ánh ánh
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và khả năng cải tạo, giáo dục của người
phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ.
- Bốn là, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS được quy định
tại Điều 51 và Điều 52 BLHS 2015, và là một trong các tình tiết để đánh giá mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. PLHS Việt Nam luôn xem các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là căn cứ quyết định hình phạt độc lập bên cạnh các căn
cứ khác, để Toà án cân nhắc các tình tiết này (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ
nội dung vụ án để quyết định hình phạt cho người phạm tội được chính xác, hạn chế
sự tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật của Tòa án.
Mặt khác khi quyết định hình phạt Tòa án còn phải dựa trên những nguyên
tắc nhất định:
- Nguyên tắc pháp chế XHCN: Đây là nguyên tắc chung của hệ thống pháp
luật Việt Nam và phải được tuân thủ trong tất cả các ngành luật cụ thể. Riêng đối
với ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các vấn đề về tội phạm và hình
19
phạt đều phải được quy định chặt chẽ, mạch lạc, rõ ràng trong Bộ luật và các văn
bản hướng dẫn; việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt trong áp dụng luật
đều phải dựa trên các điều luật cụ thể.
- Nguyên tắc nhân đạo XHCN: Đây là nguyên tắc chung và là nguyên tắc thể
hiện sự khoan hồng, nhân đạo, coi trọng quyền con người của Nhà nước ta, vì hậu
quả mà người phạm tội phải chịu trong ngành luật này là hình phạt (chế tài nặng
nhất trong các loại chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật).
- Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt: Tòa án cần áp xem xét toàn diện vụ án,
đánh giá khách quan tất cả các vấn đề liên quan đến hành vi phạm tội (tính chất,
mức độ nguy hiểm của tội phạm) và nhân thân người phạm tội để đưa ra được mức
hình phạt công bằng, đúng pháp luật nhằm đạt được mục đích trừng trị và giáo dục,
cải tạo người phạm tội.
- Nguyên tắc công bằng: Quyết định hình phạt phải đảm bảo sự tương xứng
giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và TNHS của
người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu, và phản ánh một cách đầy đủ đạo đức
xã hội, ý thức pháp luật, dư luận xã hội.
1.4.3. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó. [48]
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị tội phạm mà còn giáo dục họ ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, giáo dục
họ tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Trong BLHS năm
2015, tội LĐCĐTS chưa quy định hình phạt đối với pháp nhân thương mại. [48]
Tội LĐCĐTS tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cả hình phạt
chính và hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
Hình phạt chính bao gồm: Cải tạo không giam giữ và phạt tù.
20
Hình phạt bổ sung bao gồm: bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.3.3.1. Hình phạt chính
Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng cho mỗi tội phạm mà không phụ
thuộc vào hình phạt khác (hình phạt bổ sung) trong hệ thống hình phạt. Đối với tội
LĐCĐTS áp dụng hình phạt chính bao gồm hình phạt cải tạo không giam giữ và
hình phạt tù có thời hạn.
i). Hình phạt cải tạo không giam giữ:
- Hình phạt cải tạo không giam giữ: là hình phạt chính được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Trong các hình phạt, thì hình
thức hình phạt này nhẹ hơn hình phạt tù, nhưng nặng hơn hình phạt tiền và hình
phạt cảnh cáo. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt cải tạo không giam
giữ như sau: “Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định
mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần
thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội” (Điều 36).
Mục đích của hình phạt là giám sát, giáo dục người phạm tội là chủ yếu. Căn
cứ khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015, thì hình phạt cải tạo không giam giữ với
mức cao nhất là đến 03 năm, hình phạt này làm hạn chế người phạm tội ở một số
mặt về kinh tế, hoặc hạn chế một phần tự do của người phạm tội như khi muốn đi
khỏi nơi cứ trú thì phải thông báo xin phép và được sự đồng ý của cơ quan quản lý
có thẩm quyền thì mới có quyền này.
i). Hình phạt tù có thời hạn:
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước
quyền tự do, bị cách ly với xã hội, người phạm tội phải lao động cải tạo trong trại
giam dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng chức năng. Điều 38 Bộ luật hình sự
năm 2015 quy định:“Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình
phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”.
21
Đối với tội LĐCĐTS thì hình phạt cao nhất là hình phạt tù có thời hạn, tại
khoản 1 khung hình phạt của cấu thành tội phạm cơ bản cho thấy hình phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm là không cao, vì vậy ở khung hình phạt tù cơ bản này cũng nhằm
mục đích giáo dục người phạm tội.
iii). Phạt tù có thời hạn theo cấu thành tội phạm tăng nặng:
Bên cạnh hình phạt được quy định tại cấu thành tội phạm cơ bản thì có
những dấu hiệu phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn được quy định
trong cấu thành tội phạm tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4
Điều 174 BLHS năm 2015 như sau:
Khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp dưới đây, thì bị phạt tù
từ 2 năm đến 7 năm (Khoản 2 Điều 174):
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách có tổ chức: Có tổ chức tức là có từ 02
người trở lên, bàn bạc, cấu kết để cùng thực hiện hành vi (đồng phạm).
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp: tình tiết “phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp” được hiểu khi có đầy đủ cả hai điều kiện là: tội phạm đã
cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm, không phân biệt đã bị truy
cứu trách nhiệm hình sự hay chưa; và các lần phạm tội là nghề sinh sống của họ.
(hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 12/5/2006).
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu VNĐ đến dưới 200 triệu
VNĐ: Đây là số tiền lớn, cho nên đòi hỏi khung hình phạt phải cao hơn so với
Khoản 1.
Tái phạm nguy hiểm: Căn cứ theo khoản 2 điều 53 BLHS 2015 để xác định.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức:
được hiểu là hành vi mà người phạm tội dựa vào sự thuận lợi do chức vụ mà mình
đảm nhiệm tại cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Hiện cũng chưa có quy định giới hạn chức vụ, quyền hạn cụ thể nào và của
cơ quan cụ thể nào, cho nên có thể hiểu quy định này áp dụng cho tất cả các chức
vụ, quyền hạn trong tất cả các cơ quan, tổ chức trong hay ngoài nhà nước.
22
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm để lừa đảo : Hiện nay chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể tình tiết này nhưng qua thực tiễn có thể hiểu dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức
gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại khó lường thấy trước được để đề phòng,
ví dụ bỏ thuốc độc vào nước uống rồi đưa cho nạn nhân…
Trong khoản 2 này, BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là phù hợp,
bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất khó
khăn, mặc dù có quy định tại tiểu mục a mục 3.4 phần I Thông tư 02/2001 của
BLHS 1999. [45]
Tại Khoản 3 Điều 174 (khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm) đã bỏ tình
tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999). Đồng
thời, BLHS năm 2015 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là “Lợi
dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý, nhằm tránh các trường hợp
phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan đặc biệt mà chưa có quy định
dẫn đến bỏ lọt tội phạm. [45]
Tương tự, Khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015 (khung hình phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm) cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b
khoản 4 Điều 139 BLHS 1999). Đồng thời, quy định mới thêm một tình tiết định
khung khác là c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự
bổ sung hợp lý, nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là
trong điều kiện chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo
nhằm chiếm đoạt tài sản gia tăng rất nhiều. [45]
1.3.3.2. Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính đối
với những tội phạm nhất định nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt
chính. BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
23
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản”. (Khoản 5 Điều 174)
Đối với hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định chỉ được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm
nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội
(Điều 41 BLHS 2015). Hình phạt bổ sung này chỉ được áp dụng nếu xét thấy cần
thiết tức là không bắt buộc phải áp dụng, hình phạt bổ sung này thường được áp
dụng đối với các chủ thể đặc biệt như đang làm một nghề nghiệp nhất định như bác
sĩ, cảnh sát phòng cháy chữa cháy, thủy thủ… tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội mà thời hạn cấm sẽ được áp dụng một cách hợp lý. Đối với
hình phạt bổ sung này, luật hình sự quy định nhằm mục đích giáo dục, răn đe người
phạm tội phải chấp hành tốt quy tắc hành nghề hay làm một công việc nhất định và
có ý nghĩa ngăn ngừa, phòng, chống tội phạm. [48]
Qua phân tích các hình phạt nêu trên, việc áp dụng các hình phạt đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm mục đích giáo dục, răn đe người phạm tội là chủ
yếu; đồng thời Điều 174 BLHS năm 2015 đã điều chỉnh khung hình phạt trách
nhiệm hình sự xuống mức cao nhất là chung thân, giảm hơn trước đây so với BLHS
năm 1999 quy định tối đa khung hình phạt ở mức cao nhất là tử hình. Qua đó, cho
thấy trong quá trình xử lý loại tội phạm này nhằm mục đích làm cho người phạm tội
thấy rõ sự sai trái của hành vi của mình, đồng thời giáo dục mọi công dân phải đề
cao ý thức pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác.
1.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
Như đã phân tích về các yếu tố cấu thành tội LĐCĐTS nêu trên, thì hành vi
chiếm đoạt tài sản đối với tội LĐCĐTS luôn gắn liền và có mối quan hệ nhân quả
với hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản
hoặc của người quản lý tài sản. Tuy nhiên việc xác định thủ đoạn gian dối trong một
số vụ án để chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội LĐCĐTS hay không thì lại trở nên
khó khăn, vì hành vi gian dối không phải lúc nào cũng thể hiện một cách rõ ràng và
24
thống nhất, hoặc không phải là hành vi có trước, không là nguyên nhân trực tiếp của
hành vi chiếm đoạt tài sản.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các
cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn có sự nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội lừa dối khách hàng (Điều 198), tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)…, do vậy cần phải làm rõ những điểm
giống và khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở
hữu khác nhằm đảm bảo cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản được chính xác.
1.5.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Tội LĐCĐTS và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hai tội được
quy định ở hai điều luật liền kề nhau trong cùng chương về các tội xâm phạm quyền
sở hữu, cùng thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Đối với tội LĐCĐTS thì hành vi chiếm đoạt tài sản là sử dụng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản; trong khi đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì
hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội được quy định cụ thể trong BLHS
năm 2015, bằng các hành vi như sau:
“… a) Vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”
(Khoản 1 điều 175).
Về cơ bản cả hai tội LĐCĐTS và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
có các yếu tố cấu thành tội phạm giống nhau về mặt khách thể, mặt khách quan ,
25
mặt chủ quan và mặt chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên giữa hai tội có sự khác nhau
về thời điểm và mục đích thực hiện hành vi lừa dối, cụ thể:
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa dối được người phạm tội
thực hiện trước thời điểm thực hiện sự giao kết, thỏa thuận; và suy cho cùng thì việc
thực hiện sự giao kết, thỏa thuận trong trường hợp này là sau khi người phạm tội đã
chiếm được lòng tin của người bị hại. Như vậy hành vi lừa dối xảy ra trước hành vi
chiếm đoạt, là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra, không có hành vi lừa
dối thì không thể chiếm đoạt được tài sản.
Ví dụ: A nói với B là do mẹ bị bệnh nặng và vay B số tiền 10 triệu đồng để
đưa mẹ đi cấp cứu, do B tin tưởng nên cho A vay số tiền trên. Sau khi nhận được
tiền A đã sử dụng số tiền đó để đánh bạc và bị thua, không có khả năng trả nợ cho
B. Qua vụ án trên ta có thể thấy rằng A có hành vi lừa dối B làm cho B tin tưởng,
sau đó B mới giao tài sản cho A. Như vậy, hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản xảy ra trước hành vi giao nhận tài sản giữa chủ tài sản và người phạm
tội. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra. [42]
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngay tại thời điểm thực
hiện thì việc giao nhận tài sản là ngay thẳng thông qua các giao dịch hợp pháp như
hợp đồng vay mượn, cho thuê, nhờ giữ hộ…. Sau khi hết thời hạn vay mượn, cho
thuê … đáng lẽ ra các tài sản phải được hoàn trả cho chủ tài sản theo các hợp đồng,
thỏa thuận đã ký kết; nhưng người phạm tội cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản
vào mục đích khác dẫn đến mất khả năng chi trả hoặc bỏ trốn nhằm trốn tránh trách
nhiệm phải chi trả tài sản. Do đó hành vi lừa dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản được thực hiện nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản và được thực
hiện sau khi có sự giao nhận tài sản giữa chủ sở hữu tài sản và người phạm tội.
Ví dụ: M là bạn của H, ngày 15/3/2017 M hỏi mượn chiếc xe mô tô của H để
đi lại và hẹn 5 ngày sau sẽ trả, H đồng ý và giao xe cho M. Sau khi nhận được xe,
M đã sử dụng xe để tham gia đánh bạc và bị thua, do không có tiền trả nợ nên M đã
mang xe của H đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu xài, sau đó không có khả năng
chuộc xe về trả cho H, sau 02 tuần M nói với H là xe bị mất trộm. Như vậy hành vi
26
lừa dối của M có sau hành vi M nhận tài sản từ H, mục đích nói dối của M là nhằm
che dấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình (do M đã mang xe đi cầm cố và không
có khả năng chuộc xe về trả cho H).[42]
Như vậy giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản có sự khác nhau về thời điểm và mục đích của hành vi lừa dối nhằm
chiếm đoạt tài sản. Ranh giới để xác định CTTP tội LĐCĐTS hay tội LDTNCĐTS
là: nếu người phạm tội có hành vi gian dối ngay từ đầu nhằm mục đích chiếm đoạt
tài sản thì đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngược lại nếu tại thời điểm giao
nhận tài sản người phạm tội chưa có hành vi gian dối, mà việc giao nhận được thực
hiện một cách ngay thẳng nhưng sau khi có được tài sản thì người phạm tội mới có
hành vi gian dối nhằm che giấu việc chiếm đoạt tài sản thì đó là hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.5.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng
Hành vi khách quan là dấu hiệu cấu thành tội lừa dối khách hàng, là trường
hợp người phạm tội có hành vi gian dối được quy định tại Điều 198 của BLHS năm
2015, như: cân đo, đong đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn
gian dối khác… trong việc mua bán với khách hàng gây thiệt hại nghiêm trọng cho
khách hàng
Điểm giống nhau của cả hai tội này đều được thực hiện bằng thủ đoạn gian
dối, song đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hành vi gian dối được thực hiện
dưới mọi hình thức còn đối với tội lừa dối khách hàng thì hành vi gian dối chỉ diễn
ra trong quan hệ mua bán bằng những hành vi được pháp luật quy định cụ thể như
cân, đo, đong đếm thiếu, mua bán hàng giả …
1.5.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ
quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Điều 355 BLHS năm 2015 quy định về tội lạm dụng chức vụ quyền hạn
chiếm đoạt tài sản, theo đó hành vi khách quan của tội này là trường hợp người
phạm tội đã thực hiện hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình khi thi
hành công vụ nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn: Lạm
27
dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần của người khác để chiếm đoạt tài sản;
lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ;
lạm dụng chức vụ quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cả hai trường hợp phạm tội: tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (điểm đ, K.2, Đ.174 BLHS 2015) và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn
lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác (Điều 355 BLHS 2015) đều được thực
hiện bằng hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, chỉ khác nhau ở cách thức thực hiện
hành vi phạm tội, cụ thể như sau:
+ Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hành vi gian
dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên chức vụ quyền hạn mà
người phạm tội có để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Việc lợi
dụng chức vụ quyền hạn không đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng chức vụ quyền
hạn của mình trong khi thi hành công vụ để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài
sản mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ quyền hạn và dựa trên chức vụ quyền
hạn để thực hiện hành vi phạm tội.
+ Còn đối với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản cần
xác định hành vi khách quan cấu thành tội phạm, đó là hành vi vượt ra khỏi phạm vi
quyền hạn của mình nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi vượt quyền
hạn này chỉ thực hiện trên cơ sở chức vụ, quyền hạn đã có của người phạm tội, và
sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như là phương tiện để thực hiện tội phạm. Để
chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội có thể thực hiện tội phạm bằng
nhiều thủ đoạn khác nhau như: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần
người khác để chiếm đoạt tài sản của họ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối
người khác chiếm đoạt tài sản của họ.
Như vậy đối với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản,
ngoài hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên chức vụ
quyền hạn mà người phạm tội có, thì hành vi đó phải được thực hiện trong khi thi
hành công vụ để lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác.
1.5.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng máy
28
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản
Đối với tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS 2015) thì thủ đoạn gian dối để
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được người phạm tội sử dụng là thông qua
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản, dưới nhiều thủ đoạn khác nhau như huy động vốn, đánh cắp tiền trong
tài khoản… bằng cách sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Hành vi khách quan được xem là yếu tố cấu thành tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
gồm các dấu hiệu sau: sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng, hoặc làm giả
thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt nhằm chiếm đoạt tài sản
của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản
cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại điện
tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua
mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; hành vi khác nhằm
chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, nếu người phạm tội sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông làm
phương tiện phạm tội, tạo thủ đoạn gian dối, che giấu hành vi phạm tội để người bị
hại tin, giao tiền thì hành vi đó cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; còn nếu
người phạm tội thực hiện hành vi làm giả thẻ ngân hàng; truy cập bất hợp pháp vào
tài khoản; lừa đảo trong thương mại điện tử; gửi tin nhắn lừa trúng thưởng để chiếm
đoạt phí dịch vụ tin nhắn... thì sẽ bị xử lý về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
1.5.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản, tội trộm
cắp tài sản
Đối với tội cướp tài sản, điều 168 BLHS năm 2015, sự khác biệt về mặt
khách quan thì tội cướp tài sản được thể hiện bởi một trong các hành vi: dùng vũ
29
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản; trong
khi tội LĐCĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người bị hại tin nhầm
giao tài sản mình đang sở hữu hoặc quản lý cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản
đó.
Còn với tội trộm cắp tài sản, điều 173 BLHS năm 2015, hành vi dùng thủ
đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách
trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình, hay hiểu cách khác hành vi
này làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được
các quyền năng (gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay quản lý) đối với tài
sản của họ hoặc được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người
phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.
Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt, đối với tội trộm cắp, được thực hiện (hành động)
một cách lén lút, bí mật nhằm để che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó.
30
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 của luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về
khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và phân biệt giữa tội
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội chiếm hữu tài sản khác, như: lạm
dụng tín nhiệm tài sản, tội lừa dối khách hàng, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản, để làm rõ hành vi, các dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Khái quát lịch sử quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam qua các giai đoạn phát triển và ngày càng hoàn thiện
hơn, cho đến nay các quy định trong điều luật khá rõ ràng, hợp lý, làm cơ sở cho
việc xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự thống nhất và khách quan.
Những vấn đề trên là những lý luận để tác giả vận dụng làm rõ thực tiễn áp
dụng pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.
31
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố
Biên Hòa
Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, số liệu khảo sát thực tế về diễn
biến tình hình tội phạm, riêng đối với tội LĐCĐTS và hoạt động xác định tội danh
qua truy tố, xét xử tại TAND thành phố Biên Hòa như sau:
Năm 2015: Viện kiểm sát truy tố 53 vụ với 66 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn
đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 46 vụ với 59 bị cáo, trả hồ sơ điều tra
bổ sung 2 vụ với 2 bị cáo, số vụ chưa xét xử 5 vụ với 5 bị cáo.
Năm 2016: Viện kiểm sát truy tố 55 vụ với 60 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn
đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 52 vụ với 55 bị cáo, trả hồ sơ điều tra
bổ sung 0 vụ với 0 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 3 vụ với 5 bị cáo.
Năm 2017: Viện kiểm sát truy tố 39 vụ với 45 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn
đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 35 vụ với 38 bị cáo, trả hồ sơ điều tra
bổ sung 3 vụ với 5 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 1 vụ với 2 bị cáo.
Năm 2018: Viện kiểm sát truy tố 13 vụ với 14 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn
đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 12 vụ với 13 bị cáo, số vụ chưa xét xử
1 vụ với 1 bị cáo.
Năm 2019: Viện kiểm sát truy tố 21 vụ với 23 bị cáo (bao gồm cả số vụ tồn
đọng năm trước chuyển sang), Tòa án xét xử 16 vụ với 18 bị cáo, trả hồ sơ điều tra
bổ sung 1 vụ với 1 bị cáo, số vụ đình chỉ 0, số vụ chưa xét xử 4 vụ với 4 bị cáo.
32
Bảng 2.1: Tình hình tội phạm và số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội LĐCĐTS
được giải quyết trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ 2015 đến 2019.
Tình hình tội phạm Tội LĐCĐTS Năm Số vụ Bị cáo Số vụ Bị cáo
587 1.062 46 59 2015
576 1.071 52 55 2016
489 819 35 38 2017
407 721 12 13 2018
478 751 16 18 2019
2.537 4.424 161 183 Tổng
(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)
Bảng 2.2: Phân loại tội phạm tội LĐCĐTS theo mức hình phạt (CTTP cơ
bản và tăng nặng) tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019 .
CTTP cơ bản CTTP tăng nặng Năm Tổng số Bị cáo Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4
1 59 53 5 2015
1 55 50 4 2016
38 36 2 2017
13 12 1 2018
18 15 3 2019
2 183 166 15 Tổng
(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)
2.1.1. Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu
thành cơ bản
(Khoản 1, Điều 139 BLHS 1999; Khoản 1, Điều 174 BLHS 2015).
Thực tiễn xét xử được thực hiện trong các bản án của TAND thành phố Biên
Hòa những năm qua về tội này là những trường hợp thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
33
pháp lý cấu thành tội phạm, không có vụ việc nào bị cáo bị định tội danh sai hoặc
nhầm lẫn với các tội khác trong nhóm tội chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm 320/2017/HSST ngày 10/8/2017 của TAND
thành phố Biên Hòa. Nội dung như sau: Công ty tài chính TNHH một thành viên
Home Credit Việt Nam (gọi tắt là Công ty Home Credit có chương trình cho khách
hàng vay tiền trả góp hàng tháng để mua các sản phẩm tiêu dùng tại các cửa hàng
có liên kết với Công ty Home Credit. Khi khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm nào
đó thì sẽ trả trước một phần tiền, phần còn lại Công ty Home Credit sẽ cho vay để
trả cho cửa hàng bán sản phẩm. Nắm rõ quy trình và thủ tục nêu trên, Võ Văn A đã
sử dụng giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu photo mang tên người khác để ký
kết hợp đồng vay tiền mua tài sản rồi chiếm đoạt. Tại tòa Võ Văn A đã khai nhận
toàn bộ hành vi phạm tội; cụ thể: Ngày 05/4/2016, bị cáo đã có hành vi dùng thủ
đoạn gian dối là sử dụng chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu giả để nhằm chiếm đoạt
của công ty Home Credit số tiền 8.851.000đ. Phân tích hồ sơ vụ án tác giả thấy việc
Toà án đã xác định hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến
quyền sở hữu về tài sản của pháp nhân và gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an
tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng
nhận thức pháp luật, biết hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của
công ty Home Credit là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà bất
chấp hậu quả, xem thường pháp luật, đủ các yếu tố CTTP đối với tội LĐCĐTS . Từ
đó Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên bị cáo Võ Văn A phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”, và áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự để xử phạt là thoả
đáng.
Việc chứng minh có thủ đoạn gian dối hay không là vấn đề còn nhiều vướng
mắc trong thực tế. Theo quy định về dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, hoặc Khoản 1 Điều 174 Bộ luật
Hình sự năm 2015 có quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài
sản của người khác…” nên khi xác định hành vi CTTP thì bắt buộc phải có hai yếu
tố là “thủ đoạn gian dối” và có “chiếm đoạt”, như vậy phải chứng minh được thủ
34
đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt, và là nguyên
nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội; vì
nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là
hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác. Bên cạnh đó cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định được hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ
hành vi lừa dối, nếu việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào
những dấu hiệu khách quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và
được pháp luật điều chỉnh như thế nào.
Ví dụ 2: Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10 tháng 3 năm
2017 của TAND thành phố Biên Hòa, xét xử Nguyễn Viết C, sinh năm 1962 tại tỉnh
Đồng Nai. Căn cứ tài liệu, hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, TAND thành phố Biên
Hòa tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và áp
dụng Điểm e, Khoản 2, Điều 139 Bộ luật Hình sự để xử phạt.
Ngày 15/3/2017, bị cáo Nguyễn Viết C có đơn kháng cáo cho rằng mình bị
oan. Tại bản án phúc thẩm số 203/2017/HSPT Ngày 23/08/2017, HĐXX cho rằng:
Tại cấp sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo
cho rằng việc giả chữ ký của vợ chồng ông Trần Văn C và bà Phạm Thị Thanh N
trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2006 là được sự
đồng ý của ông Trần Văn C qua điện thoại; tiền nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ ông Nguyễn Ngọc S, bị cáo đã giao lại hết cho ông Trần Văn C. Do đó,
bị cáo kháng cáo, cho rằng mình không phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cấp
sơ thẩm đã xét xử oan bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C vẫn
giữ nguyên kháng cáo. Từ đó HĐXX quyết định: 1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ
thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10 tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố
Biên Hòa; 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa
để điều tra lại theo thủ tục chung. Đây là vụ án khá phức tạp thực sự khó trong việc
chứng minh có hay không các yếu tố là “thủ đoạn gian dối” và có “chiếm đoạt” để
xác định đủ các yếu tố CTTP tội LĐCĐTS; và theo nhận định của Viện kiểm sát
35
nhân dân tỉnh Đồng Nai tại Toà phúc thẩm: “Cấp sơ thẩm không đưa người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ án, có nhiều vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng và điều tra chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được”,
thì quyết định của HĐXX Toà phúc thẩm như nêu trên là phù hợp.
Ngoài ra, thực tế cũng có nhiều vụ án định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo cấu thành cơ bản (Khoản 1, Điều 139 BLHS 1999; Khoản 1, Điều 174
BLHS 2015), và mặc dù bị cáo thực hiện nhiều lần, có thể áp dụng định tội tăng
nặng theo khoản 2, nhưng HDXX vẫn áp dụng khoản 1 để xử phạt.
Ví dụ 3: Bản án hình sự sơ thẩm số 281/2017/HSST ngày 19/7/2017 của
TAND thành phố Biên Hòa. Nội dung như sau: Liên tiếp trong hai ngày, ngày 02 và
03/8/2016, bị cáo đã dùng thủ đoạn dùng hình ảnh của mình dán vào Giấy chứng
minh nhân dân và Giấy phép lái xe của người khác để làm thủ tục vay tiền mua điện
thoại trả góp. Số tiền bị cáo chiếm đoạt mỗi lần là 8.489.000 đồng (lần thứ hai bị
phát hiện bắt giữ). Như vậy, bị cáo Nguyễn Trọng N đã hai lần sử dụng giấy tờ
nhân thân của hai người khác nhau để lừa đảo chiếm đoạt số tiền vay của công ty H
là 16.978.000 đồng. Với hành vi phạm tội nêu trên cho thấy bị cáo Nguyễn Trọng N
đã có quá trình nghiên cứu kỹ càng về các thủ tục, thể thức vay tiền của công ty H
từ đó liên tiếp thực hiện hành vi một cách rất bài bản, tinh vi, thể hiện tính chuyên
nghiệp; do vậy cơ quan tiến hành tố tụng có thể định tội bị cáo N theo CTTP tặng
nặng theo điểm b khoản 2 Điều 139. Tuy nhiên TAND thành phố Biên Hòa xét về
mức độ và hậu quả hành vi vi phạm của bị cáo N và đã xử phạt về tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS.
Thực tiễn định tội danh theo khoản 2 điều luật nói trên của tội danh này tại
thành phố Biên Hòa trong thời gian nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ án đã được
định tội danh đúng, tuy nhiên thì vẫn còn vụ án định tội danh chưa đúng.
Ví dụ 4 về định tội danh theo Khoản 2 đúng: Bản án hình sự sơ thẩm số
290/2018/HSST ngày 28/8/2018 của TAND thành phố Biên Hòa, xử phạt Lê Bá N,
địa chỉ tại phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo khoản 2
Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nội dung vụ
36
án: Tại tòa, bị cáo Lê Bá N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, qua mua bán
hàng qua mạng xã hội Zalo, Facebook với chị M nhận thấy chị M tin tưởng nên đã
nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị M, mặc dù không có những sản
phẩm trà tăng vòng ngực phụ nữ và phấn lạnh để bán cho chị M nhưng N vẫn nói
dối là có hàng và yêu cầu chị M chuyển tiền nhưng không giao hàng, và nói dối
hàng bị hải quan giữ yêu cầu chị M đưa tiền để lo lấy hàng về với 03 lần tổng cộng
số tiền 152.000.000đ. Khi đã nhận được tiền qua tài khoản ngân hàng thì N tắt máy
và bỏ 02 số điện thoại đã sử dụng liên lạc với chị M, đồng thời khóa các tài khoản
Zalo, Facebook để chiếm đoạt tiền của chị M tiêu xài cá nhân. Căn cứ vào các tài
liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, TAND thành phố Biên Hòa
tuyên bố bị cáo Lê Bá N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, và áp dụng điểm e
khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48;
Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt.
Quyết định bản án của TAND trong vụ án này là hoàn toàn chính xác; bởi lẽ bị cáo
Lê Bá Nam đã 03 lần gồm các ngày 28/2/2017 số tiền 55.000.000đ; ngày 03/3/2017
số tiền 36.000.000đ; và ngày 11+ 13/3/2017 số tiền 61.000.000đ đều nói dối để lừa
chị M chuyển tiền cho bị cáo tổng cộng 152.000.000đ, là “phạm tội nhiều lần” được
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009.
Ví dụ 5 về định tội danh tại khoản 2 chưa đúng: Tại bản án HSST số
109/2018/HSST ngày 20/11/2018 của TAND thành phố Biên Hòa, có nội dung như
sau: Trong thời gian công tác tại BHXH thành phố H, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Văn
A đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan mình đang công tác, nói dối có thể giúp làm chế
độ hưu trí và yêu câu ông H và ông K nộp tiền, để chiếm đoạt tổng cộng số tiền là
196.200.000đ. TAND thành phố Biên Hòa đã quyết định: Căn cứ điểm c khoản 2
Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngày 21/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng nghị với nội
dung: Bỏ lọt tình tiết định khung theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 174, và tình
37
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52
BLHS; đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo. Tại Bản án số 73/2019/HSPT
ngày 21/07/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai đã chấp nhận kháng nghị, áp dụng:
Điểm c, đ khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1
Điều 52 BLHS năm 2015 để xử phạt. Qua ví dụ trên, tác giả đồng tình với quyết
định của bản án phúc thẩm vì ngoài tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 174
của BLHS năm 2015, thì hành vi phạm tội của bị cáo A còn thuộc trường hợp lợi
dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 174 của BLHS; bị cáo A thực hiện hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của các bị hại, tại các thời điểm khác nhau, mỗi lần lừa đảo
chiếm đoạt tài sản đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên, được quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, không áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 174 và điểm g khoản 1 Điều 52
của BLHS năm 2015, khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo là bỏ lọt tình
tiết tăng nặng định khung hình phạt cũng như tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự đối với bị cáo, do đó xử phạ bị cáo 04 năm 6 tháng tù là chưa phủ hợp vớitính
chất mức độ nguy hiểm của tội phạm; định tội danh chưa đúng theo khung hình phạt
tăng nặng thứ nhất.
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những
trường hợp đặc biệt
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp đặc biệt, là
những trường hợp định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, trong trường
hợp phạm tội chưa đạt, trong trường hợp đồng phạm,trong trường hợp phạm nhiều
tội. Thực tiễn định tội danh tội này tại địa bàn thành phố Biên Hòa trong thời gian
nghiên cứu cho thấy chỉ có định tội danh trong trường hợp đồng phạm và định tội
danh trường trường hợp phạm nhiều tội. Bởi vậy, luận văn chỉ tập trung phân tích
định tội danh trong hai trường hợp này.
38
Như số liệu nêu tại Bảng 1 (Tình hình xét xử tội phạm nói chung và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019), đối
với vụ án xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thì có tổng cộng 161 vụ
được xét xử với tổng số 183 bị cáo; như vậy chỉ tương đương 13% số vụ án có đồng
phạm tham gia. Qua đó, thấy được tỉ lệ vụ án có đồng phạm tham của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa chiếm tỉ lệ thấp.
Ví dụ 6: Tại Bản án số: 95/2018/HSST ngày 16/7/2018 của TAND thành phố
Biên Hòa, có nội dung: Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2015 đến đầu năm
2016, mặc dù không có chức năng, nhiệm vụ cũng như khả năng xin việc vào ngành
Giáo dục, nhưng Nguyễn Văn T cùng Bùi Anh K và Đoàn Trung D đã nhận của bà
Hoàng Thị Ngân H số tiền 520.000.000 đồng để xin cho 04 người vào dạy học tại
Trường Tiểu học A thuộc phòng Giáo dục thành phố Biên Hòa quản lý, hứa hẹn sẽ
bố trí công tác dạy học đúng chuyên môn, sau đó không thực hiện được và chiếm
đoạt số tiền này. Trong vụ án nảy, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ,
HĐXX đã nhận định: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm. Do đó,
HĐXX đã tuyên bố các bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và áp dụng điểm
a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều
54; Điều 58 BLHS năm 2015 để xử phạt Nguyễn Văn T. Áp dụng điểm a khoản 4
Điều 139 BLHS năm 1999: điểm b, s khoản 1 và khoán 2 Điều 51; khoản 2 Điều
54; Điều 58; Điều 65 BLHS năm 2015 để xử phạt Bùi Anh K, Đoàn Trung D. Tác
giả cũng đồng tình với bản án của TAND thành phố Biên Hoà, và cho rằng Toà án
đã phân tích hành vi và mức độ phạm tội của từng bị cáo phù hợp với quy định pháp
luật.
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp phạm nhiều
tội: Trong phạm vi này, luận văn muốn đề cập đến các hành vi phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản với một hoặc nhiều tội khác, nghĩa là các hành vi thực hiện tội
phạm của một người phải có đầy đủ các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà các tội ấy
được quy định tại các điều khác nhau trong BLHS, hoặc xâm hại từ hai khách thể
trở lên mà bị cáo chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
39
Ví dụ 7: Sau đây là ví dụ về định tội danh với cùng hành vi chiếm đoạt tài
sản, nhưng do người phạm tội sử dụng các thủ đoạn khác nhau để thực hiện hành vi
chiếm đoạt, nên cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định hai tội danh khác nhau: Bản
án hình sự sơ thẩm số 111 /2018/HSST Ngày 25/9/ 2018 của TAND thành phố Biên
Hòa. Nội dung như sau: Vũ Đình D có quan hệ quen biết với anh Bùi Văn Th và
anh Huỳnh Minh H, trong khoảng thời gian từ 08/01/2018 đến ngày 11/01/2018, D
đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Th và anh H nhiều lần. Tại tòa bị
cáo D thừa nhận đã có hành vi gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền
110.850.000đ (trong đó có 70.000.000đ của anh Th và 40.850.000đ là trị giá xe mô
tô biển số 60B8-976.53 của anh H), và bị cáo đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt xe mô tô biển số 52M4-1940 của anh Th có trị giá là 35.000.000đ.
TAND thành phố Biên Hòa kết luận: bị cáo Vũ Đình D phạm các tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 174 và “ Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử
phạt bị cáo Vũ Đình D về hai tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Nghiên cứu hồ sơ cho thấy: i). đối với hành vi chiếm
đoạt số tiền 70.000.000đ của anh Th là do D đã nảy sinh ý định lừa đảo nên đã dùng
thủ đoạn gian dối nói dối anh Th là đang cần tiền đi đóng thuế làm giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và hỏi anh Th mượn số tiền 70.000.000đ, sau đó chiếm đoạt; và
như vậy thì hành vi lừa dối được D thực hiện trước thời điểm thực hiện sự giao kết,
thỏa thuận với anh Th, đây chính là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra.
ii). Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản là xe mô tô biển số 52M4-1940 của anh Th
thì ban đầu việc giao nhận tài sản giữa D và Th là ngay thẳng thông qua các giao
dịch hợp pháp (nhờ đứng tên), và đáng lẽ ra các tài sản phải được hoàn trả cho chủ
tài sản như đã thỏa thuận thì D lại cố tình không trả và sử dụng tài sản vào mục đích
khác và trốn tránh trách nhiệm phải chi trả tài sản, do vậy việc Toà án định tội D với
tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ thành phố Biên Hòa
40
Theo số liệu thống kê hàng năm của TAND thành phố Biên Hòa từ năm
2015 đến 2019, tình hình áp dụng hình phạt đối với tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn cụ thể như sau:
Bảng 2.3: Hình phạt áp dụng đối với tội phạm LĐCĐTS tại thành phố Biên
Hòa, từ năm 2015-2019.
Năm Số vụ Bị cáo Án treo
Cải tạo không giam giữ Từ 3 năm trở xuống
Từ trên 3 năm đến 7 năm 8 Từ trên 7 năm đến 15 năm 1 Từ trên 15 năm đến 20 năm 2015 46 59 8 42
2016 52 55 2 45 7 1
2017 35 38 1 6 28 3
2018 12 13 1 11 1
2019 16 18 1 12 5
Tổng 161 183 1 18 138 24 2 0
(Số liệu thống kê của TAND Tp.Biên Hòa)
Qua khảo sát trên cho thấy: tại TAND thành phố Biên Hòa số bị cáo bị áp
dụng hình phạt chính là hình phạt tù trong khung từ 03 năm trở xuống chiếm đa số,
138/183 bị cáo tương đương 75,4%; khung hình phạt tù từ trên 03 năm đến dưới 07
năm là 13,1%; khung hình phạt tù từ trên 07 năm đến dưới 15 năm chỉ có 02 bị cáo
và không có hình phạt tù chung thân. Riêng đối với hình phạt tù nhưng cho hưởng
án treo chiếm tỷ lệ tương đối là 18/183 bị cáo, tỷ lệ tương đương 9,8%.
2.2.1. Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1).
Như số liệu đã nêu trên, tại địa bàn thành phố Biên Hòa, số bị cáo phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị kết án áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 và 174
BLHS 2015 trong giai đoạn 2015-2019 chiếm đa số. Khi QĐHP Tòa án phải căn cứ
vào các quy định của BLHS, đánh giá, phân tích toàn diện, khách quan về tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm
tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cũng như các căn cứ pháp lý khác để
đưa ra hình phạt với mức phù hợp, đúng quy định; nếu người phạm tội có nhiều tình
41
tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Ví dụ 8: Bản án sơ thẩm số 622/2019/HSST ngày 31/12/2019 của TAND
thành phố Biên Hòa có nội dung như sau: lợi dụng sự quen biết giữa N và chị Vũ
Thị L, bằng thủ đoạn gian dối là bảo có khả năng xin việc cho chị L, bị cáo N đã
tiếp cận và chiếm đoạt tài sản của chị L là 01 chiếc xe môtô hiệu Wave S, biển số
60B9- 246.55, trị giá 12.800.000 đồng. HDXX nhận định: hành vi của bị cáo là
nguy hiểm cho xã hội,…, do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với mức
độ và hành vi phạm tội. Trên cơ sở Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết, tăng nặng
và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau: về tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự là không có, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã
cùng gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải nên được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b; p khoản
01, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. TAND thành
phố Biên Hòa áp dụng khoản 01, Điều 139; điểm b, p khoản 01 Điều 46 Bộ luật
Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N 01
(một) năm tù.
Ví dụ 9: Trở lại ví dụ 3 đối với vụ án Nguyễn Trọng N bị xét xử về tội “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản án hình sự sơ thẩm số 281/2017/HSST ngày 19/7/2017
của TAND thành phố Biên Hòa đã áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS; điểm g khoản
1 Điều 48 BLHS; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; Điều 33, Điều 53
BLHS xử phạt: bị cáo Nguyễn Trọng N 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản”.
Ngày 02/8/2017, bị cáo Nguyễn Trọng N kháng cáo xin được hưởng án treo
với lý do phạm tội lần đầu và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo vừa mới cưới
vợ là chị Hồ Thị Hồng L và chị L đang mang thai. Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX
thấy rằng: Chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ thể hiện số tiền thực tế Công ty H bị chiếm
đoạt là 8.489.000 đồng, lần thứ hai bị cáo thực hiện nhưng chưa chiếm đoạt được đã
bị phát hiện bắt giữ và thu hồi tài sản trả lại ngay cho công ty (chưa đạt). Bị cáo có
42
nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 46 BLHS. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo cung cấp giấy đăng ký
kết hôn với chị Hồ Thị Hồng L, sinh năm 1987 và giấy siêu âm của Bệnh viện N
(Thành phố Hồ Chí Minh) chứng minh vợ bị cáo (chị L) đang có thai được 22 tuần.
Do vậy, nghĩ không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính
quyền địa phương quản lý, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi
lầm và chăm sóc vợ con, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với
người đã biết ăn năn hối cải. Do đó, kháng cáo của bị cáo là có căn cứ chấp nhận.
Áp dụng khoản 1 Điều 139 BLHS; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS; điểm b, h, p
khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; Điều 60 BLHS. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Trọng N
01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm, tính
từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Trọng N cho UBND phường T,
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quản lý, giáo dục. Như vậy tại phiên toà sơ
thẩm, Toà án cũng đã xác định đúng tội danh và quyết định áp dụng hình phạt là
tương xứng; tuy nhiên do tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đưa ra thêm bằng chứng
về tình tiết giảm nhẹ là vợ mới mang thai; do đó Toà phúc thẩm đã vận dụng pháp
luật để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là được hưởng án treo, thể hiện sự khoan
hồng của pháp luật.
2.2.2. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng
Thực tiễn tại thành phố Biên Hòa, qua nghiên cứu thực tế trên các vụ án đã
xét xử, TAND thành phố Biên Hòa đã thực hiện tốt, nhìn chung không để xảy ra sai
sót trong hoạt động QĐHP theo CTTP tăng nặng.
Ví dụ 10 về Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 1 :
Bản án hình sự sơ thẩm số 386/2019/HS-T Ngày 18/10/2019 của TAND thành phố
Biên Hòa: vào các ngày 13/8/2019 và ngày 22/9/2018, H đã lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đã chiếm đoạt của các anh Đinh Quang T và Nguyễn Thanh V là 02 xe mô tô
nhãn hiệu Honda Vision có tổng giá trị tài sản là 48.430.300 đồng (Bốn mươi tám
triệu bốn trăm ba mươi nghìn ba trăm đồng). Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự: Bị cáo phạm tội hai lần theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 bộ luật
43
hình sự, do vậy TAND thành phố Biên Hòa tuyên bị cáo Hoàng Như H phạm tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. và áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm
g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Hoàng Như H mức án
02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Ở vụ án này bị cáo H đã bị xác định tội danh tại
khoản 1 Điều 174, khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm tù, đồng thời Tòa án
xác định H phạm tội nhiều lần thuộc tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là hoàn toàn chính xác.
Ví dụ 11 về Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 2 :
Bản án hình sự sơ thẩm số 273/2019/HSST ngày 13/8/2019 của TAND thành phố
Biên Hòa: Ông Nguyễn Công T có con trai là anh Nguyễn Công D bị Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai khởi tố và tạm giam về tội
“Chống người thi hành công vụ”. Bị cáo Phan Thanh H mặc dù biết mình không có
khả năng và không th giúp được gì cho con trai của ông Nguyễn Công T được tại
ngoại điều tra và được giảm nhẹ tội, nhưng bằng thủ đoạn gian dối của mình, bị cáo
vẫn hứa hẹn với ông T nhận lời giúp. Bằng thủ đoạn gian dối bị cáo đã chủ động
liên hệ với ông T để chiếm đoạt tiền của ông T nhiều lần với tổng số tiền là
76.000.000đ (Bảy mươi sáu triệu đồng). TAND thành phố Biên Hòa áp dụng điểm c
khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Phan Thanh H 03 (Ba)
năm tù. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
là giá trị tài sản trong từng lần mà bị cáo chiếm đoạt của ông T đều đã đủ yếu tố cấu
thành tội phạm, bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm
tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; do vậy
bản án do Tòa tuyên là hợp lý.
2.2.3. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng, phạm nhiều
tội, có đồng phạm
Ví dụ 12: Bản án hình sự sơ thẩm số 453/2017/HSST ngày 17/10/2017 của
TAND thành phố Biên Hòa: Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Mạnh T khai đã gặp Tr, sau
đó Tr đặt vấn đề bảo bị cáo mua 01 chứng minh nhân dân nam giới để tới Ngân
44
hàng đăng ký mở tài khoản, khi có người chuyển tiền vào, bị cáo có nhiệm vụ tới
Ngân hàng làm thủ tục rút tiền ra và sẽ được chia phần trăm (2,5%) trên số tiền rút
được thì bị cáo đồng ý. Để thực hiện hành vi trên, bị cáo đã đi mua chứng minh
nhân dân của người khác tên Đỗ Văn T, rồi đưa chứng minh nhân dân này kèm theo
ảnh chân dung (2 x 3cm) của mình cho Tr để Tr thay vào chứng minh nhân dân tên
Đỗ Văn T đã mua, với mục đích để qua mặt nhân viên Ngân hàng nhằm được mở
tài khoản giao dịch rút tiền của người bị hại bà Ngô Thị Kim C. Hành vi bị cáo
dùng ảnh của mình thay vào chứng minh nhân dân của người khác đã làm sai lệch
nội dung và sử dụng giấy chứng minh nhân dân đã được thay ảnh này, bị cáo đến
Ngân hàng V - Chi nhánh KT, tỉnh H đăng ký mở tài khoản lấy tên chủ tài khoản là
Đỗ Văn T mà không phải đăng ký tên tuổi, địa chỉ thật của mình và đã được Ngân
hàng cấp cho bị cáo mã tài khoản để giao dịch. Đến khi biết được bà C chính là
người đã chuyển số tiền 357.000.000đ vào tài khoản trên, bị cáo T nhận thức được
rõ số tiền trong tài khoản không phải là tiền của mình nhưng bị cáo vẫn trực tiếp tự
mình làm thủ tục rút tiền ra nhằm chiếm đoạt tiền của bà C, đây là hành vi vi phạm
pháp luật và chính bản thân bị cáo cũng nhận thức rõ hành vi này là phi pháp,
nhưng vì mục đích hám lợi mà bị cáo vẫn thực hiện. Việc bà C đã chuyển số tiền
375.000.000đ vào số tài khoản của bị cáo đã mở tại Ngân hàng V - Chi nhánh KT,
tỉnh H là tội phạm đã hoàn thành. HĐXX nhận định: Với hành vi phạm tội như đã
nêu và số tiền chiếm đoạt, nên bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 của Bộ luật Hình
sự và khoản 1 Điều 266 của Bộ luật Hình sự. TAND thành phố Biên Hòa tuyên bố
bị cáo Đàm Mạnh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sửa chữa, sử
dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Về hình phạt: Áp dụng
điểm a khoản 3 Điều 139; khoản 1 Điều 266; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;
Điều 47; Điều 50; Điều 53 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Đàm Mạnh T 05
(Năm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 06 (Sáu) tháng tù về tội “Sửa
chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình
phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung là 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù.
45
Như đã nêu tại Ví dụ 6: Tại Bản án số: 95/2018/HSST ngày 16/7/2018 của
TAND thành phố Biên Hòa. Do đó, HĐXX đã tuyên bố các bị cáo phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999; điểm b,s
khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn
Văn T 07 năm tù. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999: điểm b, s
khoản 1 và khoán 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 58; Điều 65 BLHS năm 2015,
xử phạt Bùi Anh K 36 tháng tù, Đoàn Trung D 30 tháng tù đều cho hưởng án treo.
Phân tích hồ sơ vụ án cho thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm: Bị
cáo T giữ vài trò đầu: Khởi xướng, trực tiếp giao dịch với K trong việc nhận tiền và
hồ sơ xin dạy học; thông qua K và D nhận của bà H 400.000.000đ rồi chiếm đoạt,
trực tiếp cùng D đưa các cháu của bà H đến gặp Hiệu trưởng Tiểu học A. Bị cáo K
giữ vai trò thứ 2: Trực tiếp giao dịch với T và bị hại là bà H, trực tiếp nhận hồ sơ
xin dạy học từ bà H, chuyển cho T, trực tiếp chịu trách nhiệm số tiền 520.000.000đ
do bà H giao; trong đó nhận trực tiếp từ bà H 120.000.000đ và nhờ D chuyển qua
tài khoản của T 400.000.000đ do bà H nộp để chuyển cho T, hưởng tiền chênh lệch
120 triệu đồng. Bị cáo D giữ vai trò thấp nhất: D giúp T nhận tiền 400.000.000đ của
bà H qua tài khoản của mình để chuyển cho T và giúp chở 04 em đi gặp Hiệu
trưởng. Mặc dù biết rõ T và K lo 04 cháu của bà H là không đúng pháp luật nhưng
D vẫn giúp vì bản thân D quen cả T và K và do nể nang họ. D cũng không được K
chia tiền chênh lệch. Qua phân tích, tác giả nhận thấy các quyết định áp dụng hình
phạt của Toà án là đúng hành vi và mức độ vi phạm của từng bị cáo.
2.3. Những vi phạm, sai sót; những hạn chế, vướng mắc trong định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành
phố Biên Hòa
2.3.1. Những vi phạm, sai sót về định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa
i). Cân nhắc chưa đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội dẫn đến QĐHP quá nặng hoặc quá nhẹ:
46
Như tại Ví dụ 11 tại mục 2.2.3 của luận văn này: Bản án hình sự sơ thẩm số
273/2019/HS-ST Ngày 13/8/2019. TAND thành phố Biên Hòa đã nhận định: Về
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy, giá trị tài sản trong từng lần mà bị
cáo chiếm đoạt của ông T đều đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, bị cáo đã phạm vào
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên về áp dụng QĐHP thì TAND thành
phố Biên Hòa áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều
51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử
phạt: Phan Thanh H 03 (Ba) năm tù. Tác giả luận văn cho rằng TAND Biên Hòa áp
dụng QĐHP như vậy là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe; vì bản thân khung hình phạt
tải khoản 2 đã có mức từ 02 năm đến 07 năm tù, ngoài ra bị cáo còn bị áp dụng tình
tiết tang nặng TNHS là phạm tội nhiều lần.
ii). Xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ chưa toàn diện dẫn đến kết
quả định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt chưa đủ căn cứ, hoặc bỏ lọt tội
phạm:
Như tại Ví dụ 12 tại mục 2.2.3 của luận văn này: Tại phiên tòa, bị cáo Đàm
Mạnh T khai, Tr đặt vấn đề bảo bị cáo mua 01 chứng minh nhân dân nam giới để
mở tài khoản Ngân hàng … Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 453/2017/HSST Ngày
17/10/2017 ,TAND thành phố Biên Hòa áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; khoản 1
Điều 266; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 50; Điều 53 của Bộ
luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Đàm Mạnh T 05 (Năm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản”, 06 (Sáu) tháng tù về tội “Sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các
tài liệu của Cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành
chung là 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tác giả cho rằng bản án trên chưa làm rõ
hành vi vai trò của Tr. trong vụ án, thể hiện việc bỏ lọt tội phạm; trường hợp này có
khả năng vụ án có yếu tố đồng phạm, như vậy kết quả định tội danh và áp dụng
QĐHP sẽ khác.
Tại ví dụ 2 mục 2.1.3: Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2017/HSST ngày 10
tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, xét xử Nguyễn Viết C,
47
sinh năm 1962 tại tỉnh Đồng Nai C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và áp
dụng Điểm e, Khoản 2, Điều 139 Bộ luật Hình sự để xử phạt. Tuy nhiên trong phiên
xét xử phúc thẩm (do bị các có đơn kháng cáo kêu oan) HĐXX cho rằng: Tại cấp sơ
thẩm, bị cáo Nguyễn Viết C không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng việc
giả chữ ký của vợ chồng ông Trần Văn C và bà Phạm Thị Thanh N trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2006 là được sự đồng ý của ông Trần
Văn C qua điện thoại; tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn
Ngọc S, bị cáo đã giao lại hết cho ông Trần Văn C. Do đó, bị cáo kháng cáo, cho
rằng mình không phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cấp sơ thẩm đã xét xử oan
bị cáo; đồng thời chỉ ra những thiếu sót trong việc lấy lời khai của những người có
liên quan trong vụ án, có nhiều lời khai còn mâu thuẫn chưa được làm rõ, chưa
được đối chất tại tòa, …. Từ đó HĐXX quyết định: 1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự
sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa để
điều tra lại theo thủ tục chung.
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong định tội
danh và quyết định hình phạt từ thành phố Biên Hòa
2.3.2.1. Những hạn chế, vướng mắc
Qua nghiên cứu công tác xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Biên Hòa giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy việc định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn cơ bản đã được các
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm túc, chính xác, bảo đảm xử lý người
phạm tội nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, góp phần tích cực hạn chế tình
hình tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn. Song vẫn còn một
số những hạn chế, thiếu sót nhất định kể cả các vướng mắc trong định tội danh và
quyết định hình phạt như sau:
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các cơ
quan tiến hành tố tụng vẫn còn có sự nhầm lẫn, và nhiều trường hợp hiểu không
thống nhất trong việc định tội danh giữa tội như như tội Cướp giật tài sản (Điều
171), tội Trộm cắp tài sản (Điều 173)...
48
Cùng một tội danh nhưng việc lượng hình của Tòa án còn khá tùy nghi, chưa
có tính thống nhất
Ngoài ra các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát, HĐXX cũng thường
chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi áp dụng hình phạt dẫn đến tình trạng bản án thường bị kháng cáo,
kháng nghị.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Qua nghiên cứu và phân tích từ thực tiễn công tác xét xử các vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa giai đoạn 2015 – 2019, có thể
nêu ra một số nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và vướng mắc trong định
tội danh và quyết định hình phạt như sau:
i). Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, trong BLHS 2015 một số tội thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt chưa được quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không
mô tả cụ thể hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm; khiến các cơ quan tiến
hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) vẫn còn có sự nhầm lẫn, thậm chí nhiều
trường hợp hiểu không thống nhất trong việc định tội danh giữa các tội như: tội
Cướp giật tài sản (Điều 171), tội Trộm cắp tài sản (Điều 173)...
Thứ hai là Khung hình phạt quá rộng dẫn đến việc lý luận lập pháp nhìn thì
thấy chặt chẽ nhưng bản chất lại rất tùy nghi: văn bản pháp luật hình sự chưa có
hướng dẫn kịp thời, thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng hay giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự nên nhiều nơi áp dụng chưa thống nhất, đồng bộ. Tòa án
xét xử có quyền quyết định mức hình phạt mặc dù vẫn nằm trong khung nhưng
chênh lệch lớn dẫn tới việc QĐHP không công bằng, như khoản 4 Điều 174 BLHS
năm 2015 có khung hình phạt từ 12 năm tù đến 20 năm tù hoặc chung thân, với
khung hình phạt quá rộng như vậy, rất khó để cho thẩm phán chưa có kinh nghiệm,
chuyên môn nghiệp vụ để QĐHP đúng.
Thứ ba là hệ thống văn bản hướng dẫn lỗi thời, chưa cập nhật: BLHS năm
1999 đã có thay thế bằng BLHS 2015 sửa đổi 2017, nhưng đến nay vẫn chưa có
49
Thông tư liên tịch hướng dẫn về những sửa đổi bổ sung; thực tế các cơ quan tiến
hành tố tụng vẫn áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của
liên ngành tư pháp trung ương, trong khi văn bản này đã được ban hành cách đây
hơn 18 năm, dù có nhiều những vấn để còn đang gây tranh cãi (tức là tính thống
nhất trong nhận thức về nội dung hướng dẫn chưa cao). Vì thế không ít những
trường hợp khi định tội danh, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải dựa vào hướng
dẫn của Thông tư nêu trên và phải “tự hiểu” và “phiên ra” theo những sửa đổi, bổ
sung của BLHS để áp dụng trong thực tiễn.
Ngoài ra, cùng với xu thế phát triển chung của tình hình tội phạm, mặc dù số
lượng các loại vụ án mà Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã thụ lý và giải
quyết có xu hướng giảm về số lượng nhưng tính chất tính chất phức tạp của vụ án
lại càng đa dạng; nhiều loại án mới phát sinh trên địa bàn, đặc biệt án lừa đảo với
những thủ đoạn mới xuất hiện ngày càng nhiều như lừa đảo mua xe trả góp nhưng
không trả mà chiếm đoạt luôn, lừa đảo kinh doanh đa cấp, sử dụng cộng nghệ tin
học, internet...; đây là những diễn biến phát sinh tội phạm cùng với hệ quả của sự
phát triển kinh tế-xã hội mà kinh nghiệm trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử của các cơ quan tố tụng còn hạn. Bên cạnh đó nhiều vụ án việc thu thập và cung
cấp chứng cứ của các cơ quan chuyên ngành có liên quan không đầy đủ, không kịp
thời và thiếu chính xác, hệ quả là nhiều vụ án xảy ra đã lâu nhưng việc thu thập, lưu
giữ chứng cứ gặp nhiều khó khăn; nhiều người tham gia tố tụng chưa thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ hoặc gây khó khăn, cản trở
trong việc giải quyết, xét xử.
ii). Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những hạn chế vướng mắc do các nguyên nhân khách quan như
nêu trên, thì còn tồn đọng những hạn chế, vướng mắc xuất phát từ nguyên nhân
mang tính chủ quan cơ bản thuộc về chủ thể như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân-
những người nhân danh Nhà nước tuyên một người có tội hay không có tội:
Thứ nhất là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của HDXX chưa cao và chưa
đồng đều: Sự phát triển khoa học kỹ thuật kéo theo sự phát triển kinh tế ở mọi mặt
50
đời sống xã hội, hệ quả là nhiều loại tội phạm mới xuất hiện với tính chất tinh vi,
nguy hiểm hơn như mua bán đất đai, chạy chức chạy việc, và diễn ra ở nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành nghề mới như ngân hàng, bảo hiểm, lừa đảo kinh doanh đa cấp, sử
dụng cộng nghệ tin học, internet, … Mặt khác phần lớn những người phạm tội
LĐCĐTS thường là những đối tượng có trình độ, có học vấn cao, do đó thủ đoạn
che giấu của loại tội phạm này rất tinh vi; trong khi đó có một số Thẩm phán trẻ vẫn
còn thiếu kinh nghiệm trong xét xử mà nếu không có sự hiểu biết, tìm tòi thì khó
phát hiện và xử lý được; vì vậy việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội
trong các vụ án LĐCĐTS của các Thẩm phán còn chưa chính xác hoặc còn lúng
túng trong quá trình xét xử nên không tránh khỏi những sai sót, mục đích của việc
giáo dục và trừng trị với tội phạm này chưa đạt được.
Bên cạnh đó, hiện nay rất ít Hội thẩm nhân dân có sự hiểu biết sâu sắc về
pháp luật nói chung và về tội LĐCĐTS nói riêng, đây cũng là một trong những
nguyên nhân của các hạn chế trong việc định tội danh đúng và quyết định hình phạt
đối với tội lừa đáo chiếm đoạt tài sản. Theo nguyên tắc khi quyết định hình phạt thì
thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và quyết định theo đa số, do
đó trên thực tế, đội ngũ hội thẩm nhân dân hạn chế về kiến thức pháp luật khi được
bầu từ các cơ quan ban ngành đoàn thể khác nhau, làm việc trong các lĩnh vực khác
nhau, kiêm nhiệm nhiều công việc, không có thời gian nghiên cứu hồ sơ và chưa
được đào tạo chuyên sâu về kiến thức pháp luật, khi tham gia xét xử thì lại chiếm tỷ
lệ biểu quyết lớn hơn Thẩm phán (HĐXX gồm 02 hội thẩm nhân dân và 01 thẩm
phán, đối với vụ án phức tạp thì 03 hội thẩm nhân dân và 02 thẩm phán) nên dẫn
đến tình trạng QĐHP chưa đúng.
Thứ hai là đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của thẩm phán, hội thẩm nhân
dân chưa cao: Do áp lực về thời hạn giải quyết vụ án, các thẩm phán, hội thẩm nhân
đân chưa quan tâm đến chất lượng giải quyết mà quá chú trọng vào số lượng vụ án
được giải quyết. Ngoài ra, một bộ phận thẩm phán còn phụ thuộc, tác động bởi các
yếu tố bên ngoài như kiêng nể hoặc thiên vị nên QĐHP không đúng với các quy
định của pháp luật. Một số ít Thẩm phán còn chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm
51
trong công tác, không thực hiện đúng các yêu cầu của pháp luật khi xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự; một số hội thẩm nhân dân khi được mời tham gia giải quyết các vụ
án hình sự thì chỉ tham gia mang tính hình thức, không nghiên cứu hồ sơ hoặc chỉ
nghiên cứu qua loa thể hiện việc nhận thức chưa sâu sắc trách nhiệm của mình.
52
Tiểu kết Chương 2
Qua nghiên cứu, làm rõ thực trạng định tội danh và áp dụng quyết định hình
phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai; dựa trên cơ sở các báo cáo thống kê công tác điều tra, truy tố, xét xử và
các hồ sơ vụ án cụ thể cho thấy mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng cũng đã thực hiện
tương đối tốt hoạt động này, nhưng qua nghiên cứu thực tiễn nhận thấy còn có
trường hợp vi phạm về định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt đối với Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong quá trình xét xử tại Tòa án và ra bản án, gây ra
nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tác động rất xấu đến trật tự an toàn xã hội, tạo dư luận
xấu và làm mất lòng tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tư pháp. Để
nâng cao chất lượng trong hoạt động định tội danh và áp dụng quyết định hình phạt
đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Biên Hòa, các cơ quan
chuyên trách cũng rất quan tâm, đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng
này, nhưng thực tế là nó vẫn chưa chấm dứt và nhiều lúc diễn biến rất phức tạp, gây
sự hoài nghi về trình độ, năng lực, sự khách quan, thận trọng và công tâm trong
thực thi quyền lực Nhà nước của các chủ thể tiến hành tố tụng.
Thông qua các nghiên cứu các vụ án cụ thể để làm rõ thực trạng định tội
danh và quyết định hình phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vấn đề cần
thiết để có sự đánh giá toàn diện và chính xác, qua đó rút ra được những nguyên
nhân và tìm những giải pháp khắc phục được tác giả trình bày trong Chương 3 của
luận văn.
53
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng và đảm bảo đúng quy định về định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.1.1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu về tài sản hợp
pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội
Hiến pháp Việt Nam 2013 có mục tiêu quan trọng hàng đầu là bảo đảm thực
hiện tốt hơn nữa quyền con người, quyền công dân, tiếp tục phát huy dân chủ. Hiến
pháp 2013 đã khẳng định sự phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận của Đảng và
Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bao gồm cả quyền con người và
quyền công dân.
Việc ban hành pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ mang ý
nghĩa đạt được mục đích của pháp luật mà nó còn mang trong đó sự nhân đạo, nhân
văn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Mặc dù quyền sở hữu
tài sản của công dân là quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật hình sự bảo vệ,
những người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được quy
định trong BLHS thì phải chịu hình phạt do hành vi của mình gây ra. Dù vậy, đối
với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, họ sẽ phải chịu hình phạt do Tòa án
áp dụng, song những quyền cơ bản của công dân, quyền con người vẫn phải được
tôn trọng và đảm bảo.
Pháp luật Việt Nam luôn ghi nhận những nguyên tắc pháp lý tiến bộ của văn
minh pháp lý nhân loại, đó là nguyên tắc bảo đảm quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân, quyền bình đẳng và được bảo vệ một cách bình đẳng trước pháp luật,
trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng, công khai, không thiên vị và được
coi là vô tội cho đến khi hành vi phạm tội được chứng minh theo pháp luật. Theo
Điều 13 BLHS năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội thì chỉ khi nào có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì mới được xem là người phạm
54
tội do đó họ vẫn được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy
định pháp luật về quyền con người, quyền của công dân. Như vậy, để thực thi sự
công bằng thì chỉ khi có đủ cơ sở chứng minh một người có tội thì mới được áp
dụng các chế tài phù hợp để xử lý những hành vi mà họ đã gây ra.
3.1.2 Bảo đảm pháp chế XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt.
Trong Nhà nước XHCN Việt Nam, pháp chế đóng vai trò vô cùng quan
trọng để bảo vệ Nhà nước XHCN và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với
các quan hệ xã hội phát triển đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Do đó,
một mặt trong mục đích cao nhất của pháp chế thể hiện bản chất xã hội của pháp
luật, mặt khác cùng với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và không ngừng nâng cao
quyền tự do, dân chủ của công dân sẽ đưa các quan hệ xã hội đi vào khuôn khổ nhất
định.
Hoạt động định tội danh chính xác của Tòa án là rất quan trọng trong việc
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức và của công dân, góp phần nâng
cao uy tín của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với nhân dân; thể hiện
tính nghiêm minh pháp chế XHCN. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản việc định
tội danh và QĐHP đối với người phạm tội cũng không nằm ngoài yêu cầu phải bảo
đảm tuân thủ pháp luật.
3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tội phạm đối với loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt.
Xã hội càng phát triển thì những vấn đề về kinh tế - xã hội là nguyên nhân,
cũng chính là điều kiện phát sinh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đồng thời thông
qua việc nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế sẽ góp phần phòng
ngừa và đấu tranh để giải quyết những vẫn đề tất yếu liên quan đến tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản do nguyên nhân kinh tế- xã hội gây ra.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội, những hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có sự phát triển, biến tướng ngày càng tinh vi, khó dự đoán
và khó phòng ngừa hơn. Thực tế trên địa bàn Biên Hòa thời gian qua còn một số
55
lượng vụ án hình sự chưa được phát hiện và đưa ra xử lý; tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian
qua diễn biến phức tạp và chưa có xu hướng giảm, các đối tượng thực hiện hành vi
phạm tội với nhiều thủ đoạn khác nhau, rất tinh vi xảo quyệt, đã gây ra hậu quả to
lớn, có những vụ thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ đồng, có nhiều nạn nhân, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, đối tượng phạm tội ngày
càng đa dạng, xuất hiện ngày càng nhiều sự móc nối giữa đối tượng phạm tội ở
trong nước với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài, gây khó khăn không nhỏ cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tội phạm và định tội danh. Trước tình
hình trên, các lực lượng chưa năng trên dịa bàn thành phố Biên Hòa đã tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện xử lý kịp thời,
đồng thời đặt ra yêu cầu đối với công cuộc cái cách chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng hình sự phải tạo ra các quy định, quy trình, thủ tục tố tụng thật sự khoa học,
hợp lý để ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm
nói chung và tội phạm LĐCĐTS nói riêng.
Bên cạnh đó trình độ nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp, đặc
biệt là ngành Tòa án, còn chưa cao thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo
đức và trách nhiệm nghề nghiệp; ngành tư pháp chưa được trang bị đầy đủ điều kiện
cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác, … đặt ra yêu cầu là các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là các Thẩm phán phải không ngừng học tập, bồi dưỡng những kiến
thức pháp luật, tăng cường tính chuyên nghiệp, tính nhanh nhạy cũng như được
trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, kỹ thuật để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Hình sự.
Đời sống xã hội càng phát triển đòi hỏi hệ thống pháp luật càng phải được
hoàn thiện để điểu chỉnh các mối quan hệ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, đồng thời pháp luật chính là thước đo và cũng là đòn bẩy để phát triển xã
56
hội. Bên cạnh đó các quan hệ xã hội luôn phát triển và biến đổi không ngừng, sự
thay đổi nhanh chóng của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật phải thay đổi, thích
nghi theo. Do vậy đòi hỏi phải luôn không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm phù hợp với các nhu cầu của xã hội, nhất là hệ thống pháp luật hình sự.
Để hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS có hiệu quả cần tiếp tục hoàn thiện
các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói
chung, và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn công tác điều tra,
truy tố, xét xử loại tội phạm này trên cả nước, như:
- Bộ luật hình sự phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, đặc biệt đối với các quy
định về tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Thực tiễn cho thấy nếu trong bộ
luật chú trọng đến việc quy định một cách rõ ràng, chi tiết, cụ thể về từng hành vi
khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong điều luật
của BLHS thì chắc chắn sẽ không đảm bảo cho tính ngắn gọn, súc tích của điều
luật; hoặc trong trường hợp do công tác xử lý các tội phạm trên thực tế đòi hỏi phải
có những hướng dẫn cụ thể thì không thể quy định chi tiết trong Bộ luật Hình sự và
tố tụng Hình sự bằng các điều luật mà cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể.
- Nghiên cứu bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản: mặc dù BLHS năm 2015 đã bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể
của tội phạm và phải chịu TNHS là một sự thay đổi tích cực, phù hợp với luật pháp
quốc tế và tình hình kinh tế, xã hội ở nước ta; nhưng pháp luật hình sự lại chưa quy
định pháp nhân thương mại là chủ thể bị truy cứu TNHS đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Theo quy định hiện hành thì pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu
TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội được liệt kê tại Điều 76 BLHS, và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản không được liệt kê trong số các tội đó.
Không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực do quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế mang lại, nhưng bên cạnh đó chúng ta phải đối mặt với mặt trái của nền
kinh tế thị trường; đó là ngày càng có nhiều thành phần kinh tế du nhập vào nước ta
khiến cho việc kiểm soát trở nên khó khăn. Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều
pháp nhân thương mại thành lập không nhằm mục đích kinh doanh, mà thành lập
57
nhằm mục đích mượn danh nghĩa kinh doanh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, song
các pháp nhân thương mại này lại không bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi
phạm tội mà chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy pháp luật hình sự cần bổ
sung quy định về TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là cần thiết, nhằm đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với
mọi chủ thể, đồng thời thể hiện tính thống nhất của pháp luật hình sự nói riêng và
pháp luật Việt Nam nói chung.
3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Như đã đề cập trong Chương 2, phần những hạn chế vướng mắc thì các văn
bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung đều đã ra đời từ lâu, và mặc
dù cũng đã được sửa đổi bổ sung theo những thay đổi về PLHS nhưng nội dung
hướng dẫn vẫn có một số quy định còn mang tính chung chung và khó thực hiện, cụ
thể:
i). Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày
25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định về các tội xâm phạm sở hữu:
Tại mục 5 phần II Thông tư hướng dẫn như sau: "Trong trường hợp một
người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần thực
hiện hành vi xâm phạm giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu
TNHS theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để
truy cứu TNHS (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án
nhưng chưa được xóa án tích...), đồng thời trong các hành vi xâm phạm sở hữu đó
chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính nếu
tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy
cứu TNHS theo quy định của BLHS thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi
xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu TNHS về loại tội phạm tương ứng theo tổng giá
trị tài sản của các lần bị xâm phạm nêu trên, nếu:
58
a) Các hành vi xâm phạm sở hữu của tội phạm được thực hiện một cách liên
tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
b) Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp,
lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính...
Đối với những trường hợp trên nếu chỉ căn cứ vào các hành vi xâm phạm
cùng loại này thì không áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" (Điểm g
Khoản I Điều 52 BLHS) và cũng không áp dụng tình tiết định khung hình phạt "có
tính chất chuyên nghiệp" quy định tại khoản 2 của điều luật tương ứng quy định đối
với tội phạm tương ứng đó. Trong trường hợp có các tình tiết khác để định khung
hình phạt thì áp dụng khoản tương ứng của điều luật tương ứng đó để quy định tình
tiết định khung hình phạt đó".
Thực tiễn xét xử ở một số địa phương cho thấy những người tiến hành tố
tụng chưa nhận thức đúng, đồng bộ và áp dụng thống nhất các điều kiện trên, cụ
thể:
+ Quy định “Hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế
tiếp nhau về mặt thời gian”: Thông tư liên tịch số 02 có nêu ví dụ: Kẻ phạm tội liên
tục lấy cắp tài sản của nhiều người trong cùng một đêm, thì được cộng dồn để xử lý.
Vậy trường hợp: bị cáo Nguyễn Trọng N liên tiếp trong hai ngày 02 và 03/8/2016
đã dùng hình ảnh của mình dán vào Giấy chứng minh nhân dân và Giấy phép lái xe
của người khác để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của công ty H. Số tiền
bị cáo chiếm đoạt mỗi lần là 8.489.000 đồng (lần thứ hai bị phát hiện bắt giữ); Hành
vi của N có được xem là thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian
để cộng dồn giá trị tài sản bị chiếm đoạt để xử lý về tội lừa đáo chiếm đoạt tài sản
không? (Bản án số: 281/2017/HSST ngày 19/7/2017 của TAND thành phố Biên
Hòa).
+ Theo điểm 5 mục 2 Thông tư liên tịch số 02/2001: Những trường hợp
người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu nhiều lần nhưng không cùng loại; đồng
thời thỏa mãn những điều kiện nêu trên như: vừa cướp giật tài sản, vừa lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, vừa LĐCĐTS thì sẽ không bị xử lý. Đây là điểm chưa
59
thật sự hợp lý vì không đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đòi hỏi
cần sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự theo hướng quy định một người thực hiện
nhiều hành vi chiếm đoạt tài sản tức là thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt mà giá trị tài sản của mỗi lần dưới mức tối thiểu, tổng các lần cộng lại
bằng hoặc trên mức tối thiểu thì phải chịu TNHS theo khoản 1 của điều luật tương
ứng mà không đòi hỏi các hành vi phải cùng loại. Về ĐTD có thể căn cứ vào dấu
hiệu khách quan của hành vi xâm phạm sở hữu đầu tiên hoặc hành vi khách quan
sau cùng trước khi bị phát hiện để ĐTD.
+ Bên cạnh đó, đối với tội phạm có tổ chức thì việc chứng minh người thực
hiện hành vi phạm tội có dấu hiệu “Lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm
nguồn sống chính” là rất khó, không khả thi bởi vì người phạm tội thường có một
nghề nghiệp nào đó (mặc dù không ổn định); và trên thực tế không có người phạm
tội nào lại thừa nhận họ sống chủ yếu từ việc phạm tội. Việc kết luận họ có lấy tài
sản do việc xâm phạm sở hữu làm nguồn sống chính hay không chủ yếu dựa vào lời
khai của họ, việc xác minh thực sự không hề đơn giản. Vì thế, các văn bản hướng
dẫn cần quy định rõ vấn đề trên để đảm bảo cho việc xử lý được công bằng, không
bỏ lọt tội phạm. [47]
ii). Nghị quyết 01 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự:
+ Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại Điều 174
Khoản 2 Điểm d BLHS được hướng dẫn tại mục 5 như sau:
"5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" đối với
người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện:
a) Đối với trường hợp phạm tội từ 5 lần trở lên mà trong đó có 1 lần phạm
tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người
phạm tội có thể bị áp dụng cả 3 tình tiết đó là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm"
(hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
b) Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết "phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung hình phạt thì không áp dụng tình tiết đó
60
là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS. Trường hợp điều
luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp
dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS".
Thực tiễn xét xử cho thấy quy định như trên là không khách quan, bởi vì nếu
một người thực hiện 05 lần hành vi LĐCĐTS nhưng có 01 lần đã bị kết án về tội
LĐCĐTS thì có nghĩa là trừ đi lần truy cứu TNHS trước thì người đó chỉ phạm tội
LĐCĐTS 04 lần. Căn cứ quy định như trên thì lại làm nảy sinh trường hợp một
hành vi phạm tội lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần. Lần đầu tiên người đó
thực hiện hành vi phạm tội được xem xét là tình tiết định tội, hành vi này lại tiếp tục
được xem xét là tình tiết định khung tăng nặng "có tính chất chuyên nghiệp" trong
lần xử lý sau. Cùng một hành vi phạm tội lại vừa bị tính phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm như sau:
Chỉ áp dụng tình tiết “Phạm tội có tình tiết chuyên nghiệp” khi có đầy đủ
các điều kiện sau đây:
a. Cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm mà chưa bị truy cứu
TNHS;
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề để sinh sống và lấy kết
quá phạm tội làm nguồn sống chính.
Những hướng dẫn trên vẫn chưa thật rõ ràng, đầy đủ; hơn nữa, Bộ luật hình
sự được ban hành và được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ 01/01/2018,
thì bên cạnh việc dự báo tội phạm để xây dựng một BLHS hoàn chỉnh hơn, phù hợp
với các điều kiện thực tiễn hơn thì cũng cần rà soát lại xem các quy định nào của Bộ
luật hình sự liên quan tới các tội xâm phạm sở hữu đặc biệt là trong phần tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có những quy định nào còn khó khăn, vướng mắc thi hành thì
đưa ra các kiến nghị để cơ quan có thẩm quyền hoàn chỉnh Bộ luật này. [47]
Một số các giải pháp có thể áp dụng, đó là:
Thứ nhất, cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm làm rõ
hơn dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để tránh nhầm lẫn với các
tranh chấp giao dịch dân sự hoặc nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
61
các các tội phạm khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để phạm tội trong BLHS năm
2015 bằng các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
Theo quy định thì dấu hiệu cơ bản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trong BLHS vẫn
còn một số tội danh khác cũng dùng thủ đoạn gian dối, cùng có hành vi chiếm đoạt
tài sản nhưng lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng quy định trong
BLHS như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng ... vì vậy, cần phải
có sự giải thích trong các văn bản pháp luật để thuận tiện trong quá trình giải quyết
vụ án, đảm bảo cho việc định tội danh được chính xác, tránh nhầm lẫn với các tội
phạm khác.
Để khắc phục tình trạng nhầm lẫn giữa tranh chấp dân sự với trường hợp
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; giữa trường hợp phạm tội lừa dối chiếm đoạt
tài sản với trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải có văn bản hướng dẫn cụ
thể về mục đích của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng:
Trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì xác định mục đích
chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, khi định tội cần xem xét người phạm tội có
mục đích chiếm đoạt hay không và thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích
chiếm đoạt tài sản trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ
tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Không hình sự hóa dân sự: trường hợp người phạm tội có mục đích chiếm
đoạt tài sản trước hoặc trong khi thực hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; còn trường hợp một
người có hành vi gian đối trong việc xác lập các giao dịch dân sự nhưng không
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
người phạm tội có thiện chí thực hiện các nghĩa vụ dân sự của mình, thì được coi là
vụ án tranh chấp về dân sự.
62
Để khắc phục tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với một số trường hợp phạm tội khác cùng sử dụng thủ đoạn gian dối để
phạm tội do đánh giá không đúng về mối liên hệ giữa hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần hướng dẫn về hành vi
khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng: Hành vi khách quan của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có quan hệ mật thiết với nhau. Xuất
phát từ hành vi lừa dối, đây là điều kiện để hành vi chiếm đoạt xảy ra trên thực tế,
ngược lại hành vi chiếm đoạt chính là kết quả của hành vi lừa dối đó. Trường hợp
hành vi lừa dối nếu chỉ nhằm tiếp cận tài sản, không có ý nghĩa quyết định đối với
việc thực hiện hành vi chiếm đoạt (hành vi chiếm đoạt không phải là kết quả của
hành vi lừa dối trực tiếp mang lại) thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội
xâm phạm sở hữu khác nếu hành vi chiếm đoạt thỏa mãn CTTP của tội đó.
Thứ hai, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự
một cách toàn diện, thống nhất phù hợp với quy định của BLHS hiện hành. Bên
cạnh đó đòi hỏi các văn bản hướng dẫn cần giải thích cụ thể các dấu hiệu định tội,
định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án hình sự nói chung và đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
được thống nhất. Đồng thời khi ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
cũng đòi hỏi các chủ thể ban hành phải dự tính được hết những khả năng có thể xảy
ra trên thực tế khi giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ ba, cải cách tư pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và ban
hành văn bản hướng dẫn các quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng là
việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, do vậy cần sớm hoàn thiện
quy định của pháp luật để khắc phục tình trạng không thể thu hồi tài sản bị chiếm
đoạt. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dù có mức hình phạt khá nghiêm khắc,
mức hình phạt cao nhất là tù chung thân, tuy nhiên trong thời gian qua trên phạm vi
cả nước nói chung vẫn còn nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản nghiêm trọng xảy ra.
63
Việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra hết sức
khó khăn vì chế định thu hồi tài sản bị chiếm đoạt có nhiều kẽ hở, do đó pháp luật
hình sự cần có những sửa đổi, bổ sung để việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt có hiệu
quả hơn. Cụ thể cần bổ sung các quy định: Nếu có dấu hiệu tẩu tán tài sản của
người phạm tội thì người phạm tội và người thân của họ có trách nhiệm chứng minh
nguồn gốc. Nếu không thể chứng minh được nguồn gốc thì các cơ quan tiến hành tố
tụng được phép thu hồi toàn bộ hoặc một phần tài sản, khắc phục hậu quả để giảm
nhẹ hình phạt. Theo kiến nghị của tác giả, trong trường hợp có những thay đổi hay
biến động về giá trị tài sản thì các nhà làm luật có thể quy định hoặc hướng dẫn áp
dụng pháp luật về định lượng để áp dụng cho trường hợp này.
Thứ tư, phát triển án lệ: Theo quan điểm của tác giả thì án lệ có giá trị rất lớn
trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật cũng như có tính thực tiễn cao, vì
một bản án cụ thể không thể hình thành nên một quy tắc án lệ mà việc hình thành
quy tắc án lệ phải dựa trên hàng loạt các vụ việc tương tự nhau.
Án lệ giúp giải quyết kịp thời những vụ án mà quy định của pháp luật còn
vướng mắc trong khi các văn bản quy phạm pháp luật thường lạc hậu hơn khi giải
quyết các vấn đề trong đời sống xã hội do chênh lệch giữa sự vận động, chuyển biến
nhanh chóng của xã hội so với tính ổn định trong các quy phạm pháp luật. Bởi vậy,
việc ban hành án lệ và sử dụng án lệ đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hết sức
cần thiết.
3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán.
Để bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản áp dụng pháp luật nói chung, đặc biệt là hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt đạt hiệu quả, cần nâng cao năng lực của các cơ quan, người
tiến hành tố tụng. Cụ thể là:
- Chú trọng đào tạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, bao
gồm đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp, có kinh
64
nghiệm thực tiễn và có bản lĩnh chính trị vững vàng đề đáp ứng được yêu cầu đặt ra
trong tiến trình cải cách tư pháp.
- Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng nhằm cập nhật văn
bản pháp luật mới, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
công chức ngành Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc.
- Đẩy mạnh công tác tập huấn, nâng cao nghiệp vụ đối với Hội thẩm nhân
dân. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp giải quyết
vụ án. Thường xuyên tổ chức các buổi họp liên ngành, giải đáp vướng mắc, phối
hợp trong công tác để xử lý vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan
trong việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Theo ý kiến của tác giả, ngành tư pháp cần phải tăng cường giám đốc, kiểm
tra, tổng kết thực tiễn để có càng nhiều các bản án, quyết định đúng đắn, chính xác,
đúng người đúng tội, có tính răn đe, giáo dục và mẫu mực để toàn ngành học tập;
đồng thời mạnh dạn tổng kết rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm những Thẩm phán ra
những bản án, quyết định ban hành chưa chính xác, chưa thoả đáng, còn có những
sai lầm trong xem xét, đánh giá chứng cứ trong việc chọn quy phạm pháp luật đối
với các vụ án tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ đối với việc định tội danh và QĐHP.
3.2.4. Các giải pháp khác.
i). Nâng cao nhận thức pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Tuyên
truyền và giáo dục pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác phòng
chống tội phạm nói chung và trong việc phòng chống tội phạm về sở hữu nói riêng,
đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất
phát từ những nguyên nhân sâu xa trong chính con người phạm tội, đó là tâm lý tiêu
cực, bản tính tham lam, ích kỷ vụ lợi nên chiếm đoạt tài sản của người khác. Từ
những bản tính xấu xa đó cùng với sự coi thường pháp luật và những tác động tiêu
cực khác không phải là bẩm sinh cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến hành vi vi
phạm pháp luật, do đó trong xã hội hiện tại, giáo dục con người, giáo dục ý thức
pháp luật của cá nhân, tôn trọng quyền sở hữu của người khác là vấn đề cấp thiết
65
cần phải đề cao và chú trọng. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng cần đẩy mạnh
công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật. Toà án các cấp thông qua việc xét xử các
vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để tuyên truyền ý thức của người dân để họ
hiểu rõ hơn về các thủ đoạn, hình thức lừa đảo của người thực hiện tội phạm.
ii). Thực hiện tốt việc bố trí, rà soát, đánh giá cán bộ, luân chuyển cán bộ với
mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tư pháp địa phương trong các cơ quan
tiến hành tố tụng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ; cần phải xử lý nghiêm khắc các
trường hợp tiêu cực.
iii). Nhằm hạn chế các hiện tượng tiêu cực xảy ra, cần xem xét, nghiên cứu
và thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, chính sách đãi ngộ đối với cán
bộ ngành tư pháp sao cho phù hợp với công việc, trách nhiệm và hoạt động đặc thù
của từng ngành, để từ đó đời sống của cán bộ được đảm bảo, ổn định.
Các giải pháp trên đây cùng với việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp trong tình hình mới sẽ
thúc đẩy công cuộc cải cách tư pháp, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật đối
với các loại tội phạm ở nước ta trong thời gian tới ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,
vượt qua những thách thức, để cùng nhịp bước và phục vụ đắc lực hơn, hiệu quả
hơn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để nền tư pháp của chúng ta
ngày một gần dân hơn, xứng đáng là biểu tượng của công lý và pháp quyền trong xã
hội XHCN; từ đó góp phần hạn chế những mâu thuẫn khi định tội danh cũng như
hạn chế sai lầm khi quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết các vụ án hình
sự có liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa
trong thời gian tới.
66
Tiểu kết Chương 3
Ở chương 3, tác giả đã đưa ra được những yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng
các quy định của pháp luật hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn
thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, cụ thể là: Yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội
trong xử lý tội và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bảo đảm pháp chế
XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; yêu cầu phòng, chống tội phạm, nhất là loại tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt đang xảy ra có chiều hướng gia tăng. Đồng thời nêu các giải
pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như:
chú trọng hoàn thiện pháp luật Hình sự, ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ban hành án lệ, nâng cao năng
lực chủ thể tiến hành tố tụng đặc biệt là thẩm phán, …
67
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tác giả luận văn đã làm rõ được một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn. Trên cơ sở đó,
tác giả có đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật nói chung và
áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Biên
Hòa nói riêng. Cụ thể:
Luận văn đã làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản cho thấy tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là một trong những tội phạm sở hữu với hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác bằng thủ đoạn gian dối, làm rõ các dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, từ đó cho thấy đặc trưng trong cấu thành tội phạm tội LĐCĐTS, để phân
biệt với các tội phạm khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản.
Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lý
luận chung về định tội danh và QĐHP đối với tội này, dựa trên những số liệu thực
tiễn giai đoạn 2015-2019 tại địa bàn thành phố Biên Hòa, cho thấy tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại thành phố Biên Hòa mặc dù không tăng về số lượng, nhưng
diễn biến phức tạp; những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tập trung vào những vụ án có
sự chiếm đoạt tài sản trị giá lớn nên sẽ chuyển sang TAND tỉnh Đồng Nai giải
quyết theo thẩm quyền. Mặt khác, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số tội phạm
nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
là rất lớn vì thủ đoạn của tội này ngày một xảo quyệt, tinh vi hơn.
Ngoài những kết quả đạt được trong quá trình định tội danh và QĐHP thì
Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa vẫn mắc những sai sót trong một số vụ án cụ
thể như luận văn đã phân tích những sai lầm, hạn chế và nêu ra các nguyên nhân
của sai lầm đó trong việc áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Từ
đó, tác giả đã nêu ra những yêu cầu và giải pháp khắc phục những hạn chế đó nhằm
68
bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn, góp phần xây dựng hệ thống Tòa án tại thành phố Biên Hòa công bằng, văn
minh.
Quá trình nghiên cứu làm Luận văn, tác giả đã nhận được sự quan tâm của
các cơ quan tổ chức và đặc biệt là sự nhiệt tình giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn
khoa học. Đây là công trình khoa học đầu tiên của tác giả nên còn có nhiều thiếu
sót. Vì vậy, tác giả luận văn mong muốn nhận được sự đóng góp, chỉ dẫn của các
nhà khoa học, quý thầy cô, anh chị và các bạn đồng nghiệp để để tài luận văn được
hoàn chỉnh hơn tương lai.
69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005),
Nghị quyết 49 ngày 02/06/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2005.
2. Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và Bộ
Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/BCA-TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 25/2/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1999), Bình luận khoa học
BLHS Việt Nam (tái bản lần thứ ba có sửa theo Luật Sửa đổi, bổ Sung một số
điều của BLHS 2015), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa học
BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp
trong thời gian tới, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 2/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
8. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS (Phần các tội phạm, Tập II),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời, Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày
15/3/1976.
10. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
70
11. Mai Văn Bộ (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong
khoa học Luật hình sự (phần chung), Nxb, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Chí, Khoa Luật Đại học Quốc gia (2003), Trong Giáo trình
Luật hình sự (phần các tội phạm) do Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự
Việt Nam trên cơ sở số liệu nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hòa (1999), Tội phạm học trong luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
18. Quốc hội (1985), BLHS 1985, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), BLHS 1999, Hà Nội.
20. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.
21. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Hà Nội.
22. Quốc hội (2009), BS (sửa đổi, bồ sung), Hà Nội.
23. Quốc hội(2013), hiến pháp 2013, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), BLHS 2015, Hà Nội.
25. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà, các Bản án sơ thẩm về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2015-2019.
26. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, các Bản án phúc thẩm về tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản từ năm 2015-2019.
27. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày
15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.
71
28. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017) Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam phẩn chung, NXB Hồng Đức, Thành phô Hồ Chí Minh.
31. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam phần các tội phạm quyển 1, NXB Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí
Minh.
32. Từ điển Bách khoa toàn thư.
33. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2004), Bình luận khoa học BLHS Việt Nam 1999
(Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân, Hà Nội.
36. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triểu Hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
37. Võ Khánh Vinh chủ biên (2015), Giáo trình luật hình sự phần các tội phạm -
Dành cho hệ sau đại học, NXB Khoa học xã hội - Hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh (2003), Thay đổi tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Tạp chí Tòa án nhân dân.
39. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã
hội - Hà Nội.
40. phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thue-tien>, (10/8/2019). 41. va-toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san/n20161028120821658.html>, (10/8/2019). 72 42. Triệu Thị Tuyết, TAND tỉnh Bắc Kạn,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap- luat/phan-biet-toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-voi-mot-so-toi-pham-xam- pham-so-huu-khac, (03/10/2019). 43. Phạm Ngọc Minh, http://hinhsu.luatviet.co/binh-luan-toi-lua-dao-chiem-doat- tai-san-trong-bo-luat-hinh-su-nam-2015/n20161028120823021.htm (05/06/2018. 44. Đoàn Ngọc Hải, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/toi-lua-dao-chiem- doat-tai-san-theo-phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thuc-tien, (01/03/2019). 45. Bùi Thế Phương, http://vksbinhdinh.gov.vn/newsdetail. 46. Đào Thị Tường, Luận văn thạc sĩ “Tội LĐCĐTS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Học viện Khoa học xã hội, 2019. 47. Lê Quang Ninh, Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội LĐCĐTS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Học viện Khoa học xã hội, 2019. 48. Lại Văn Sơn, Luận văn thạc sĩ “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2019. 73