VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH TOÀN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH TOÀN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LẠI VIẾT QUANG
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Khánh Toàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN “LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” ............................................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................................. 7
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
hình sự ......................................................................................................... 26
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN” TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 33
2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ........................ 33
2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 35
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo đảo
chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. ........................ 54
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN ............................................................................................ 60
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 60
3.2. Giải pháp khác ...................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS : Bộ luật hình sự
- CĐTS : Chiếm đoạt tài sản
- CQĐT : Cơ quan điều tra
- ĐTV : Điều tra viên
- HĐXX : Hội đồng xét xử
- KSV : Kiểm sát viên
- TAND : Tòa án nhân dân
- TNHS : Trách nhiệm hình sự
- TTHS : Tố tụng hình sự
- VAHS : Vụ án hình sự
- VKS : Viện kiểm sát
- VKSND : VKS nhân dân
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019 ....................................................... 33
Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm chung
từ năm 2015 đến năm 2019. ............................................................................ 34
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa, các giao dịch
dân sự, kinh tế diễn ra một cách thường xuyên và đạt những thành tựu quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội thì mặt trái của sự phát triển là tình hình tội
phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất,
mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Trong đó, tội Lừa đảo CĐTS là một trong
những tội phạm xảy ra phổ biến trong thời gian qua, gây nhiều biến động trong
xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, thông qua công tác Thực hành quyền công tố,
Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử VAHS nói chung, các vụ án Lừa đảo CĐTS
nói riêng, VKSND các cấp đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm
vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tuy nhiên, qua theo dõi tình hình chung trên toàn quốc, cũng như từ thực
tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng nhiều vụ án Lừa đảo CĐTS cơ quan
tiến hành tố tụng có sai sót trong quá trình điều tra các dẫn đến vụ án bị trả điều
tra bổ sung hoặc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra lại. Theo thống
kê, tại thành phố Hồ Chí Minh, tội Lừa đảo CĐTS bị Tòa án cấp phúc thẩm
hủy để điều tra lại chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại án đã xét xử phúc thẩm.
Để xảy ra những sai sót dẫn đến hủy án có phần trách nhiệm thuộc về VKSND
khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa đảo
CĐTS nói riêng.
1
Về mặt lý luận vẫn còn những nội dung liên quan đến thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án liên
quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cần được nghiên cứu một cách
tường minh hơn nhằm phục vụ thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa
có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về thực trạng hoạt động thực hành
quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hoạt
động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKSND Thành phố Hồ Chí
Minh, thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS là cần thiết cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn.
Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện chưa có công trình nghiên cứu về Thực hành quyền công tố trong
điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS; nhưng có một số công trình nghiên cứu về
hai nhóm vấn đề có tính chất liên quan đến đề tài là “Thực hành quyền công tố
trong điều tra” của VKSND và “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Sách chuyên khảo có các công trình nghiên cứu liên như: "Quyền con
người" của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản
năm 2015; "Chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: Nhìn từ lý thuyết chức
năng" của TS. Đinh Đinh Thị Mai năm 2015 đăng trên tạp chí Nhân lực khoa
học xã hội; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư
pháp năm 2008; “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
2
pháp” của Nguyễn Hải Phong (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp
năm 2013.
Luận án Tiến sĩ Luật học có các công trình: “Hoạt động của VKSND
trong điều tra VAHS” của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long, bảo vệ tại Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn miền đông nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa” của tác giả Bùi Thị Lan Hương, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2018.
Luận văn Thạc sĩ Luật học liên quan đến hoạt động thực hành quyền
công tố trong điều tra có công trình: “Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn
truy tố” của Vũ Đức Ninh, bảo vệ tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà
Nội năm 2013; liên quan đến tội Lừa đảo CĐTS có công trình: “Tội lừa đảo
CĐTS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Phương Hiền, bảo vệ
tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2007; “Tội lừa đảo CĐTS
trong pháp luật hình sự Việt Nam” của Đặng Thị Thanh Huyền, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; “Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo
CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh” của Dương Thị Ngọc Thủy, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2008; "Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự" của Nguyễn Công Cường bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; "Thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" của
Phạm Thị Tuyết Chinh, bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;
"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" của Bùi
Trọng Thắng, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; "Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" của Nguyễn Tiến Dũng, bảo vệ năm 2014 tại Đại
học Quốc gia Hà Nội.... Ngoài ra còn có một số bài viết trên Tạp chí khoa học
3
chuyên ngành bàn về các khía cạnh hoạt động thực hành quyền công tố trong
điều tra.
Qua khảo sát tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn,
thấy rằng các công trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã
làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận,
thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến hoạt
động thực hành quyền công tố trong điều tra VAHS. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát, toàn diện nên không trùng lặp về
phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên sâu, chi tiết và thiên về
diễn giải, hướng dẫn thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với Cán bộ
kiểm sát. Đồng thời, các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKS nói
chung, đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng, để từ đó có những đề xuất
nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thực tiễn.
Những hạn chế trên đã đặt ra yêu cầu phải có công trình chuyên khảo
nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về hoạt động thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS bị trả điều tra bổ
sung hoặc Tòa án các cấp tuyên hủy để điều tra lại. Trên cơ sở nghiên cứu các
vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến trả điều tra bổ sung
hoặc hủy án để cùng nghiên cứu, nhằm rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp
khắc phục trong thời gian tới. Đây là yêu cầu khách quan, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời
gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTHS nói
chung, hoạt động của VKSND khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các
4
vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng và thực trạng hoạt động thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS tại Thành phố Hồ Chí Minh, trọng
tâm là những vi phạm trong hoạt động điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS
- Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nhằm hạn chế tình trạng cấp
phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ
bản về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa
đảo CĐTS; tập trung nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ thực trạng quy
định và thực tiễn áp dụng để làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Trên cơ sở đó có các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này
trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu về hoạt động
thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS của
các Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Các số liệu khảo sát trong khoảng thời
gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tiếp cận vấn đề nghiên cứu của Luận văn dựa trên cơ
sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê cùng với việc tham khảo kinh
5
nghiệm của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để làm rõ mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện
lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo
CĐTS; chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn và nguyên nhân. Từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trong thực tiễn.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng cho
mục đích tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy. Luận văn cũng đề ra các
đề xuất, kiến nghị có thể dùng vào việc phục vụ cho hoạt động thực tiễn, qua
đó đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác
đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm phần mở đầu,Bảng chữ cái viết tắt, Bảng kê
mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính được trình bày trong
3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Thực hành quyền công
tố trong điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN”
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Hoạt động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do một số
cơ quan Nhà nước được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành, hay còn gọi là thực
hiện chức năng, nhiệm vụ. TTHS còn được hiểu là hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng từ khi người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cho đến
khi hành vi đó được cơ quan tố tụng hình sự giải quyết bằng quyết định hoặc
bản án của Tòa án. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến
các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, đến lợi ích của Nhà nước,
của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp do luật
định để khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định
của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt. Do
vậy hoạt động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung
của Nhà nước, của xã hội, nhưng khi thực thi phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định của BLTTHS đã qui định.
Quá trình thực hiện hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn
ra liên tục và nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là:
Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (còn
gọi là giai đoạn tiền khởi tố hoặc giải quyết tin báo, tin tố giác); Giai đoạn điều
tra; Giai đoạn truy tố và giai xét xử.
7
Ngoài ra, trong Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định một số thủ tục như
Thi hành án hình sự; thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm nhưng không phải là
một gia đoạn của tố tụng hình sự.
Về giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình
sự; trong đó cơ quan điều tra trong ngành Công an, trong Quân đội và Bộ đội
Biên phòng và cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng
một số biện pháp nghiệp vụ do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng
cứ, chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội và những vấn đề khác có liên
quan. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân, điều kiện
phạm tội đối với từng vụ án cụ thể để kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, tổ
chức….có các biện pháp phòng ngừa không để xảy ra hành vi phạm tội xảy ra.
Giai đoạn điều tra có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động đặc biệt của
một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành theo qui định của Bộ luật tố tụng
hình sự. Thứ hai, giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu khi CQĐT ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng việc ban hành bản kết luận điều tra,
quyết định truy tố (thủ tục rút gọn) hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án.
Thứ ba, trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp
do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh có sự
việc phạm tội và người thực hiện tội phạm và các tình tiết khác có liên quan
đến vụ án và qua công tác điều tra các loại tội phạm CQĐT sẽ kiến nghị biện
pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan góp phần đấu tranh phòng
chống tội phạm hiệu quả hơn.
Theo Hiến pháp năm 2013, thì VKSND là cơ quan được giao nhiệm vụ
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm
vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
8
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Như vậy, Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến
định của Ngành Kiểm sát.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì Thực hành quyền
công tố “là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội”. Theo đó, đối tượng của hoạt
động thực hành quyền công tố là tội phạm (là hành vi nguy hiểm cho xã hội có
dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được qui định trong Bộ luật hình sự) và người
bị tình nghi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. VKS có nhiệm vụ
sử dụng các quyền năng pháp lý để truy cứu TNHS (truy tố) người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Hoạt động
thực hành quyền công tố của VKS với mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội phải được kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không
để lọt tội phạm và người phạm tội; không để bất kỳ một người nào bị khởi tố,
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Lừa đảo là dùng thủ đoạn
gian dối đánh lừa người khác để mưu lợi. Thủ đoạn gian dối rất đa dạng, nhằm
giấu giếm nội dung sai sự thật (ít, nhiều hoặc hoàn toàn) làm cho người khác
tin, nhầm, tưởng giả là thật để chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, thu lợi vật chất
khác hoặc che giấu một việc làm xấu. Sự lừa đảo được thực hiện trước hoặc
liền ngay với hành động chiếm đoạt, nó thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau: nói dối, dùng giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức, có quyền….”
Dưới góc độ pháp lý, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý...” Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xếp vào nhóm các
9
tội phạm “xâm phạm về sở hữu” được quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về cấu thành cơ bản của tội lừa đảo
CĐTS: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.
Như vậy, Tội lừa đảo CĐTS là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
Để xác định hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm Lừa đảo CĐTS hay
không cần đảm bảo có yếu tố đặc trưng là thủ đoạn gian dối đây nhưng còn
phải có điều kiện người phạm tội còn có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, lừa đảo CĐTS là việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn
gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động
làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ, quản lý tài sản
tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội, sau đó
người phạm tội đã CĐTS đó.
Dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo CĐTS
Theo Điều 139 BLHS năm 1999, Lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 giữ nguyên quy định này. Có thể thấy tội Lừa đảo CĐTS có các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:
- Khách thể của tội Lừa đảo CĐTS là quan hệ xã hội về sở hữu và quản
lý tài sản. Quan hệ sở hữu có nội dung là quyền của sở hữu tài sản (gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với tài sản. Đối tượng tác
động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu; thuộc
quyền quản lý, quyền sử dụng hợp pháp của người khác, có thể là tài sản hợp
10
pháp, cũng có thể là tài sản bất hợp pháp. Tài sản được hiểu là vật có thực, tiền,
giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền về tài sản. Giá trị của tài sản đó một phần
hay toàn bộ là do sức lao động của con nguời tạo nên.; Những tài sản có tính
chất đặc biệt không phải đối tuợng của các tội xâm phạm sở hữu mà là đối
tuợng của tội phạm khác (ví dụ: Công trình, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia, ma túy, vũ khí...).
Thông qua việc tác động lên đối tượng của tội phạm là chiếm đoạt tài
sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của người khác đã xâm phạm đến
khách thể là quyền sở hữu và quản lý tài sản.
- Chủ thể:
Chủ thể của tội Lừa đảo CĐTS là người có năng lực TNHS, nghĩa là
không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ tuổi chịu TNHS. Theo Điều
12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tuổi chịu TNHS đối với tội
Lừa đảo CĐTS là từ đủ 16 tuổi trở lên. Đây là sự thay đổi lớn so với BLHS
năm 1999 về tuổi chịu TNHS, vì BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi
trở lên phải chịu TNHS đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu
TNHS về tội Lừa đảo CĐTS nếu phạm vào khoản 2, 3, 4 Điều 139 của BLHS
năm 1999.
- Mặt chủ quan của tội Lừa đảo CĐTS gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội, là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi thực hiện hành vi Lừa đảo
CĐTS, người phạm tội mong muốn chiếm đoạt tài sản nên cố ý thực hiện hành
vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra người phạm nên đây là lỗi cố ý trực tiếp
nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
11
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, nhưng vẫn có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra.
Khi thực hiện hành vi, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có
mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác và mục đích này tồn tại trước
khi thực hiện hành vi. Trong trường hợp người phạm tội đã có tài sản một cách
hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi của họ không cấu
thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để
xem xét người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một tội danh
khác.
- Mặt khách quan của tội Lừa đảo CĐTS được nêu trong đoạn đầu của
Điều 174 BLHS 2015: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản
của người khác...”, Như vậy, mặt khách quan của tội phạm bao gồm 2 dấu hiệu
cơ bản, bắt buộc, đó là:
+ Thủ đoạn gian dối. Theo Từ điển tiếng Việt thì thủ đoạn là cách làm
khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt mục đích; còn gian dối là có
ý lừa lọc, không thật thà ngay thẳng. Như vậy thủ đoạn gian dối được hiểu là
cách làm xảo trá, có ý lừa lọc chỉ cốt đạt mục đích. Thủ đoạn gian dối là đưa ra
thông tin giả (không đúng sự thật) bằng nhiều hình thức khác nhau làm cho chủ
sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
+ Chiếm đoạt tài sản là chiếm lấy tài sản của nguồi khác thành tài sản
của mình. Hay nói cách khác là là chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của người khác thành của mình.
Hai dấu hiệu khách quan của tội lừa đảo có mối quan hệ nhân quả, đó là
dùng thủ đoạn gian dối mục đích để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối bao
giờ cũng phải có trước khi phát sinh việc giao nhận tài sản giữa người bị hại
với người phạm tội thì mới là hành vi Lừa đảo CĐTS; còn nếu thủ đoạn gian
12
dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không thuộc tội danh này,
mà có thể phạm tội che giấu tội phạm hoặc tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS…
Tội Lừa đảo CĐTS thường dựa trên các giao dịch dân sự, kinh tế nên
trong thực tiễn có tình trạng hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, hoặc
ngược lại, dân sự hóa các hành vi phạm tội. Tội Lừa đảo CĐTS và các giao
dịch dân sự, kinh tế đều có điểm giống nhau là các bên đã xác lập một giao dịch
dân sự, kinh tế theo quy định của pháp luật. Các bên xác lập và thực hiện giao
kết với quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận về tài sản nhưng trong quá trình thực
hiện, có một bên hưởng lợi nhưng không thực hiện nghĩa vụ về tài sản tương
ứng đã thỏa thuận, dẫn đến thiệt hại cho bên kia. Trường hợp này cần xem xét
cụ thể có hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản hay không để kết hành vi cấu
thành tội Lừa đảo CĐTS hay chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự,
kinh tế. Yếu tố chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối là điểm khác nhau cơ bản để
phân biệt tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự. Nếu một người vi phạm
nghĩa vụ về tài sản đã giao kết do nguyên nhân khách quan sau đó sử dụng
nhiều phương thức gian dối để chậm thực thi nghĩa vụ thì không có cơ sở xác
định hành vi phạm tội lừa đảo nhưng nếu xác định họ có ý thức chiếm đoạt
ngay từ đầu thì đây là hành vi phạm tội Lừa đảo CĐTS. Như vậy, để phân biệt
tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự, kinh tế, phải chứng minh được yếu
tố chiếm đoạt và hành vi gian dối, trong khi việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt
trong một số trường hợp rất khó khăn. Trên thực tế, để phân định ranh giới giữa
các giao dịch dân sự, kinh tế và tội Lừa đảo CĐTS còn nhiều vấn đề chưa được
làm rõ dẫn đến có những thiếu sót trong việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt và
phân định thủ đoạn gian dối làm xuất hiện tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ
dân sự, kinh tế hoặc ngược lại.
Trong thực tiễn có một số trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian
dối nhằm CĐTS, nhưng thủ đoạn gian dối này đã được BLHS quy định thành
13
tội phạm độc lập, ví dụ “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” nhằm
“lừa đảo CĐTS”. Do chưa có hướng dẫn thống nhất của liên ngành tư pháp
Trung ương nên đối với các trường hợp này có địa phương xử lý về hai tội
nhưng có địa phương chỉ xử lý về tội “Lừa đảo CĐTS”.
Về hậu quả của tội phạm, tội Lừa đảo CĐTS phải gây thiệt hại về tài sản
có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị
không đến 2 triệu đồng thì để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo
CĐTS cần phải có đủ điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về các tội có tính chất chiếm đoạt được quy định
cụ thể trong BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã liệt kê cụ thể các tội CĐTS, thay vì chỉ quy
định chung chung “tội CĐTS” như BLHS năm 1999. Ngoài ra BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn bổ sung thêm trường hợp Lừa đảo CĐTS
dưới 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
bỏ tình tiết tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh
thần đối với người bị hại và tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành
cơ bản, bỏ tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong
cấu thành tăng nặng của tội phạm.
Ngoài hành vi và hậu quả, các yếu tố khác thuộc về mặt khách quan của
tội phạm như: phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện tội phạm và thời
gian, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm không phải là tình tiết định tội mà
có thể là tình tiết định khung hoặc tăng nặng, giảm nhẹ.
1.1.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo BLTTHS năm 2015 thì Thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt
động cơ quan tố tụng từ khi tiếp nhận tin báo, tin tố giác về tội phạm và kiến
14
nghị khởi tố; và các hoạt động xét phê chuẩn các biện pháp tư pháp làm hạn
chế quyền công dân, quyền con người như: bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và một số các biện pháp khác như thu thập phương
tiện điện tử, dữ liệu điện tử….. thời điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, mới là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bộ luật tố tụng hình
sự qui định Viện kiểm sát tham gia hoạt động tố tụng rất sớm (từ khi vụ án chưa
được khởi tố) đó là sự khẳng định chức năng THQCT của Viện kiểm sát trong
việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Đây là khâu đầu tiên của hoạt động
điều tra vụ án hình sự, là rất quan trọng vì: Nếu không phân loại, xử lý đúng
nguồn tin về tội phạm từ đầu để có biện pháp xử lý đúng thì dễ xảy ra oan, sai,
có thể xảy ra hình sự hóa quan hệ dân sự - hành chính hoặc ngược lại hành vi
đáng phải xử lý hình sự (theo tố tụng hình sự) thì lại xử lý bằng biện pháp dân
sự, hành chính. Theo đó, VKSND thực hiện chức năng Thực hành quyền công
tố bằng 6 công tác sau đây: (1) Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS; (3) Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố tội phạm; (4) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
VAHS; (5) Điều tra một số loại tội phạm; (6) Thực hành quyền công tố trong
hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Giai đoạn điều tra là một trong những giai đoạn của quá trình tố tụng
hình sự được tiến hành bởi cơ quan có thẩm quyền giao cho người tiến hành tố
tụng thực hiện các hoạt động điều tra nhằm thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng
minh có hay không tội phạm xảy ra và giải quyết các vấn đề pháp lý khi phát
sinh tội phạm. Các nhà làm luật đều thống nhất việc giai đoạn điều tra kết thúc
khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành Bản kết luận điều tra chuyển hồ
sơ đến Viện kiểm sát đề đề nghị truy tố hoặc đình chỉ vụ án nhưng chưa thống
nhất về quan điểm về việc gia đoạn điều tra được bắt đầu khi nào. Một số quan
15
điểm cho rằng giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố nhưng một số khác cho rằng giai đoạn điều tra chỉ bắt
đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc. Trong luận văn này tác giả
tập trung nghiên cứu toàn diện quá trình điều tra kể từ khi khởi tố vụ án đến khi
kết thúc điều tra.
1.1.3. Ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Qua công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động của CQĐT và các cơ
quan có thẩm quyền trong trong giai đoạn điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản từ thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, thông qua việc thực hiện vai trò THQCT và kiểm sát các hoạt
động của CQĐT trong quá trình thu thập các chứng cứ để xác định có hay
không sự việc phạm tội xảy ra, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, hành vi
của họ có thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự hay không để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, Viện kiểm sát thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đảm bảo việc truy cứu đúng người, đúng
tội, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Thứ hai, không chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giải
quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại trong
vụ án Lừa đảo CĐTS mà thông qua việc phối hợp với cơ quan điều tra kịp thời
phát hiện những vi phạm trong quá trình quản lý con người, quản lý tài sản của
cơ quan điều tra cần kịp thời đưa ra kiến nghị, yêu cầu các cơ quan khắc phục.
Thứ ba, thông qua công tác THQCT trong quá trình điều tra, VKS tập
hợp những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, những khó khăn, vướng mắc và
vi phạm thường xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án Lừa đảo chiems đoạt tài
sản để từ đó đề ra biện pháp khắc phục thích hợp và kiến nghị, yêu cầu cơ quan,
16
tổ chức, cá nhân có liên quan áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, biện pháp
phòng ngừa loại tội phạm này.
1.1.4. Nội dung và những đặc trưng khi thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự là giai đoạn bắt đầu từ khi các cơ
quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, thực hiện các biện pháp
điều tra, xác minh tội phạm và sau khi có đủ chứng cứ chứng minh có hành vi
phạm tội thì khởi tố vụ án. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, KSV được phân
công phải tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi
tố nhằm đảm bảo cho quyết định khởi tố VAHS của CQĐT có căn cứ, hợp
pháp, không để oan sai và bỏ lọt tội phạm.
- Tính có căn cứ được quy định tại Điều 143 Bộ luật TTHS năm 2015,
theo đó chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Những
căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm bao gồm: Tố giác, in báo của cá nhân, cơ
quan, tổ chức được gửi đến hoặc đăng trên phương tiện thông tin đại chúng;
Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú. Để xác định
dấu hiệu tội phạm, cần làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Lừa đảo
CĐTS là: có hành vi Lừa đảo CĐTS xảy ra, thiệt hại về tài sản; hành vi chiếm
đoạt tài sản phải thực hiện bằng thủ đoạn gian dối; hành vi này có tính gây nguy
hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình
phạt; Lỗi của người thực hiện hành vi
Khi thực hành quyền công tố trong việc khởi tố VAHS, VKS phải nghiên
cứu kỹ các tài liệu dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án, đối chiếu với dấu hiệu
đặc trưng của tội Lừa đảo CĐTS để xác định hành vi đã khởi tố có đúng không
17
hay chỉ là dấu hiệu vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế. Điểm khác biệt cơ bản nhất
phân biệt có hành vi phạm tội phạm Lừa đảo CĐTS là có dấu hiệu CĐTS, còn
vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế không có dấu hiệu này.
- Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án, tức là phải kiểm
tra việc chấp hành các trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để thẩm tra, xác
minh; thẩm quyền của người ra quyết định khởi tố vụ án, nội dung và hình thức
của quyết định khởi tố vụ án có đúng quy định của pháp luật TTHS; tài liệu,
chứng cứ đã thu thập để xác định có hay không có sự việc phạm tội Lừa đảo
CĐTS; nếu có thì các tài liệu, chứng cứ chứng minh sự việc xảy ra có dấu hiệu
tội phạm hay không? Thuộc khoản nào của điều 174 BLHS 2015?
Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ
án Lừa đảo CĐTS, nếu thấy quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì
thông báo bằng văn bản cho CQĐT biết; nếu thấy căn cứ để khởi tố chưa đầy
đủ thì yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố; Nếu thấy quyết
định khởi tố vụ án không có căn cứ, thì VKS ban hành văn bản yêu cầu CQĐT
ra quyết định huỷ bỏ; nếu CQĐT không nhất trí thì VKS ra quyết định huỷ bỏ
quyết định khởi tố vụ án theo điểm b khoản 1 Điều 161 Bộ luật TTHS năm
2015; Nếu thấy tội danh đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn
có tội phạm khác chưa được khởi tố, thì VKS yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS; nếu Cơ quan đã
khởi tố không nhất trí, thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố VAHS. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thay đổi hoặc bổ sung, VKS
phải gửi ngay các quyết định này cho CQĐT theo quy định tại khoản 2 Điều
156 Bộ luật TTHS năm 2015 để tiến hành điều tra. Đối với quyết định khởi tố
vụ án của HĐXX, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó,
nếu thấy quyết định khởi tố VAHS có căn cứ thì chuyển quyết định khởi tố
VAHS kèm theo các tài liệu có liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến
18
hành điều tra; nếu thấy quyết định khởi tố VAHS không có căn cứ thì kháng
nghị lên Toà án cấp trên.
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”
Khởi tố bị can: Sau khi khởi tố vụ án và xác định được người thực hiện
hành vi phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can để truy cứu trách
nhiệm hình sự của người tực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ Quyết định khởi tố bị can để tiến hành
việc điều tra theo pháp luật quy định và từ đó thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm và người phạm tội, giải quyết vụ án và các vấn đề pháp lý khác.
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can là quyền năng pháp
lý, đồng thời là biện pháp nghiệp vụ của VKS nhằm đảm bảo cho quyết định
khởi tố bị can có căn cứ, hợp pháp. VKS kiểm tra tính có căn cứ của quyết định
khởi tố bị can về tội Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Vì vậy khi kiểm tra, xem xét các tài liệu chứng cứ như đã nêu ở
trên, VKS cần phải làm rõ tính khách quan, toàn diện và đầy đủ của các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn xem có đủ căn cứ để chứng
minh người bị khởi tố chính là người đã thực hiện hành vi Lừa đảo CĐTS hay
không? Hành vi phạm tội diễn ra như thế nào? Có đồng phạm hay không? Vai
trò của từng đồng phạm? Các yếu tố về năng lực TNHS và các tình tiết loại trừ
TNHS. Kiểm tra tính hợp pháp trong việc ra quyết định khởi tố bị can về tội
Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định đó là đúng pháp luật. Bên
cạnh đó, VKS có trách nhiệm kiểm tra về thủ tục, trình tự khi ban hành quyết
định; hình thức, nội dung của quyết định có đảm bảo đúng với quy định của
BLTTHS hay không và đặc biệt là cơ quan và người ra quyết định khởi tố bị
can có đúng thẩm quyền hay không; phải xem xét nội dung quyết định khởi tố
19
bị can có thể hiện đầy đủ các thông tin về họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề
nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội LĐCĐTS thuộc
khoản nào của điều 175 BLHS 2015; thời gian, địa điểm phạm tội; đồng thời
xem xét các vấn đề khác như ảnh, danh chỉ bản của bị can và các thông tin khác
có liên quan; thẩm quyền của người tiến hành các hoạt động điều tra; trình tự,
thủ tục tiến hành các hoạt động điều tra thể hiện thông qua các tài liệu có trong
hồ sơ đề nghị phê chuẩn, sự phù hợp giữa quyết định khởi tố vụ án và quyết
định khởi tố bị can. Ngoài ra, Quyết định khởi tố cũng phải ghi rõ từng tội danh
và điều khoản áp dụng của BLHS trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội Lừa
đảo CĐTS và cả tội khác.
Tại khoản 3, 4 Điều 179 Bộ luật TTHS năm 2015, khi ra quyết định khởi
tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi
tố bị can cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ. Trong 03
ngày kể từ ngày nhận được thì VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ
để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho CQĐT. Trường hợp VKS yêu
cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được
chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Nếu phát hiện có người thực hiện hành vi
phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can
hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không
thực hiện và gửi quyết định khởi tố bị can cho CQĐT để tiến hành điều tra trong
thời hạn 24 giờ. Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra nếu VKS phát hiện có
người khác thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS ra
quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Đối với những trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi
tố lúc nhận tội, lúc không nhận tội, tài liệu, chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa
20
rõ, Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra viên thụ lý vụ án để lấy lời khai
người bị khởi tố, người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can
hoặc trực tiếp lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố để
làm căn cứ giải quyết vụ án.
Theo quy định Khoản 1 Điều 180 BLTTHS 2015 thì CQĐT hoặc VKS
thay đổi quyết định khởi tố bị can trong các trường hợp sau: có căn cứ cho rằng
hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố; quyết định khởi tố không
đúng với nhân thân của bị can. CQĐT hoặc VKS phải bổ sung quyết định khởi
tố bị can trong trường hợp có chứng cứ xác định bị can còn thực hiện hành vi
phạm tội khác, không bỏ lọt tội phạm. VKS khi tiến hành việc phê chuẩn quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can thì thực hiện như quá trình
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Đây là những quy định để đảm bảo Kiểm sát viên thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình khi được phân công thực hành quyền công tố trong việc ra
quyết định khởi tố bị can của CQĐT để đảm bảo việc khởi tố bị can đúng người,
đúng tội góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa và hạn chế việc xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, dẫn tới oan, sai, để lọt tội phạm.
Thực hành quyền công tố trong đề ra yêu cầu điều tra và quá trình tiến
hành các hoạt động điều tra
Theo quy định tại Điều 42 BLTTHS 2015, khi THQCT trong giai đoạn
điều tra, KSV có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều
tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra Mục
đích của KSV trong việc đề ra yêu cầu điều tra là cùng với Cơ quan điều tra
làm rõ những vấn đề cần điều tra, thu thập chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố
tụng đảm bảo cho việc điều tra, truy tố được khách quan, toàn diện theo đúng
quy định của pháp luật và hạn chế việc phải điều tra bổ sung, điều tra lại, qua
21
đó tạo được cơ sở vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động xét xử của KSV tại phiên tòa.
KSV được phân công giải quyết vụ án phải chủ động trao đổi kịp thời
với ĐTV được phân công điều tra vụ án ngay từ khi kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can và các hoạt động điều tra
khác về những vấn đề cần điều tra, xác minh trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản để đảm bảo công tác thực hành quyền công tố đạt chất lượng và hiệu
quả cao.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là một quyền
năng quan trọng và cơ bản của công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối
với vụ án hình sự, Kiểm sát viên cần bám sát tiến độ điều tra, nắm chắc hồ sơ
vụ án thì đề ra được yêu cầu điều tra có chất lượng, góp phần giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện và triệt để, hạn chế oan, sai hoặc phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Quyền yêu cầu điều tra của VKS là nội dung quan trọng của công
tác thực hành quyền công tố được quy định tại khoản 7 Điều 14 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014; khoản 6 Điều 165 Bộ luật TTHS năm 2015, nhằm bảo đảm
cho việc điều tra thu thập, sử dụng các tài liệu chứng cứ được khách quan, đầy
đủ và đúng quy định của pháp luật; tạo cơ sở để VKS xét phê chuẩn, ra các
quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền có căn cứ và hợp pháp. Để làm tốt kỹ năng
đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án Lừa đảo CĐTS phải có nhận thức đúng và
tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền của VKS trong việc đề ra
yêu cầu điều tra và đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, VKS phải nắm vững lý luận về tội phạm và đặc trưng cơ bản của
tội phạm Lừa đảo CĐTS, đây là cơ sở quan trọng đầu tiên giúp cho việc xác
định phương hướng của quá trình điều tra chứng minh tội phạm.
Hai là, phải theo sát tiến độ điều tra để nắm được diễn biến, tính chất của
vụ án, nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
22
án để phát hiện những vấn đề mâu thuẫn, những vấn đề cần tiếp tục làm rõ, trên
cơ sở đó chủ động, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra phù hợp.
Ba là, phải xác định rõ mục đích, yêu cầu của việc yêu cầu điều tra là
giúp cho ĐTV xác định đúng hướng điều tra, bảo đảm việc điều tra được khách
quan toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm
nên nội dung của yêu cầu điều tra phải tập trung làm rõ các tài liệu, chứng cứ
xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ vi phạm pháp luật kinh tế, dân sự;
có dấu hiệu Lừa đảo CĐTS hay tội phạm khác.
Trong trờng hợp VKS đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản nhưng không
được thực hiện nhưng xét thấy cần thiết phải kiểm tra, bổ sung tài liệu chứng
cứ để xét phê chuẩn hoặc có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp
luật thì KSV có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là căn
cứ thể hiện cụ thể thẩm quyền điều tra của VKS trong giai đoạn điều tra, góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề cần giải quyết trong vụ án
Một số hoạt động điều tra Theo quy định của BLTTHS 2015 mà Kiểm
sát viên có quyền tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra thì KSV được trực tiếp
hỏi cung; lấy lời khai người làm chứng và có thể cho đối chất, tiến hành thực
nghiệm điều tra nhằm thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTHS.
KSV tiến hành hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình là để đảm bảo
việc xác định tội phạm và người phạm tội là đúng với sự thật khách quan do đó
KSV phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của ĐTV trong quá trình điều
tra để bảo đảm việc thu thập chứng cứ, quá trình điều tra là đúng quy định và
các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ. Trong đó phải kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc mà CQĐT tiến hành khám
nghiệm; kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản;
kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn
23
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án của ĐTV hoặc trực
tiếp lấy lời khai những người này; kiểm sát việc hỏi cung bị can của ĐTV hoặc
trực tiếp hỏi cung bị can; kiểm sát việc đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều
tra, trưng cầu giám định và giám định, bảo đảm các hoạt động này thực hiện
theo đúng quy định của Bộ luật TTHS. Kiểm sát việc lập hồ sơ VAHS phải
đảm bảo các tài liệu được đưa vào hồ sơ vụ án đầy đủ, việc thu thập tài liệu là
đúng quy định của pháp luật. Đối với tài liệu, hồ sơ xét phê chuẩn, KSV sau
khi kiểm sát việc phê chuẩn phải đóng dấu bút lục của VKS vào các tài liệu để
xét phê chuẩn và chuyển trả cho CQĐT đưa vào hồ sơ vụ án. Tài liệu của CQĐT
hoặc của VKS thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự
quy định tại BLTTHS.
Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS, KSV phải
nghiên cứu hồ sơ và đề xuất việc truy tố. Chú ý các yếu tố cấu thành tội Lừa
đảo CĐTS, những vấn đề phải chứng minh trong VAHS. Về nội dung nghiên
cứu, do trong suốt quá trình điều tra, KSV đã tiếp cận với kết quả điều tra, đã
nắm được nội dung vụ án từ khi khởi tố đến trước khi kết thúc điều tra, nên đã
cơ bản nắm nội dung và các chứng cứ, tình tiết của vụ án. Kết hợp giữa quá
trình kiểm sát điều tra và với nghiên cứu nội dung kết luận điều tra và hồ sơ vụ
án, KSV sẽ hình thành được hướng xử lý vụ án gồm: ban hành cáo trạng hoặc
quyết định truy tố để truy tố bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu thấy các tài liệu, chứng cứ đã được
thu thập đầy đủ, toàn diện, KSV đề xuất lãnh đạo quyết định việc truy tố. Hình
thức và nội dung cáo trạng đối với tội Lừa đảo CĐTS thực hiện theo hướng
dẫn, phần mô tả hành vi phạm tội là phần trọng tâm nhất của cáo trạng, cần vận
dụng tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội và pháp lý nhằm thể hiện rõ hành
vi phạm tội của bị can. Khi viết diễn biến hành vi phạm tội cần đi thẳng vào
24
trọng tâm hành vi phạm tội của bị can và phải trên cơ sở tổng hợp đánh giá
chứng cứ của vụ án thể hiện tại bút lục nào. Trường hợp bị can chối tội cũng
phải viện dẫn chứng cứ để bác bỏ. Trường hợp sau khi nghiên cứu hồ sơ nhưng
còn một số vấn đề chưa được làm rõ, VKS có quyền yêu cầu CQĐT hoặc cá
nhân bổ sung tài iệu liên quan hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra để củng cố căn cứ cho việc truy tố. Nếu có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm
hoặc hành vi phạm tội, VKS căn cứ theo quy định tại Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì VKS trả hồ sơ để CQĐT điều
tra bổ sung và kiểm sát chặt chẽ việc điều tra bổ sung.
Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong tạm đình chỉ, đình chỉ
điều tra
Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra được tực hiện theo
quy định tại Điều 229 BLTTHS 2015, khi thuộc trường hợp: “Khi chưa xác
định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn
điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra
phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra; Khi có kết luận giám
định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể
tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra; Khi trưng cầu giám định,
yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả
nhưng đã hết thời hạn điều tra.”. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên được
phân công THQCT phải kiểm tra, đánh giá việc tạm đình chỉ điều tra, nếu thấy
quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật hoặc khi thấy
lý do tạm đình chỉ không còn như: bị can khỏi bệnh, đã bắt được bị can thì báo
cáo, đề xuất lãnh đạo ban hành quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều
25
tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi
điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều
230 BLTTHS 2015 đối với các trường hợp: khi có một trong các căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của BLTTHS 2015 hoặc có căn cứ quy
định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự; Đã
hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội
phạm. Về mặt pháp lý, Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc bị can là căn cứ
chấm dứt hoạt động tố tụng đối với vụ án hoặc bị can. VKS có thời hạn 15 ngày
từ khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án để nghiên
cứu các căn cứ và tính hợp pháp của quyết định đình chỉ điều tra và giải quyết
như sau: Nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì ra văn bản trả lại
hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; Nếu
thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình
chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; Nếu thấy đủ căn cứ
để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo
thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS.
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ
10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp 2013 bằng Điều 20 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự quyết định việc buộc
tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
26
tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” và đã có nhiều sửa đổi,
bổ sung cho Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra theo hướng tăng thêm quyền,
trách nhiệm.
Trong thực tiễn tiến hành tố tụng CQĐT đã không ít lần để xảy những vi
phạm pháp luật trong điều tra vụ án hình sự như vi phạm trong việc định tội
danh, vi phạm trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng, và đặc biệt là xảy ra
việc bức cung, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc thiếu trách nhiệm
trong điều tra, xác minh sự thật của vụ án nên vai trò của VKS được Hiến định
là cơ quan tiến hành tố tụng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều
tra trong các hoạt động điều tra thông qua công tác THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Tất cả các hoạt động của VKS có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó mang
tính quyết định ngay từ khi tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu đến khi
kết thúc điều tra. Theo Hiến định, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất
được thay mặt Nhà nước thực hiện việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án
để xét xử. Do đó, VKS tuy không trực tiếp tiến hành điều tra thu thập chứng cứ
(trừ một số trường hợp luật định) nhưng là cơ quan chịu trách nhiệm về giá trị
pháp lý của các chứng cứ chứng minh trong vụ án, chứng minh tội phạm và
người phạm tội trước Tòa án và các chứng cứ đó phải đảm bảo đuợc thu thập
đầy đủ, khách quan và đúng quy định của BLTTHS.
VKS thực hiện vai trò kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nhằm đảm bảo
cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật,
bảo đảm việc điều tra phải toàn diện, đầy đủ, khách quan thông qua các hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật tố tụng hình sự đồng thời phát hiện, khắc phục, xử lý nghiêm minh những
vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình điều tra.
27
Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, thì chức năng
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được hiểu là việc sử dụng các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của VKSND được quy định
trong pháp luật hình sự được thực hiện từ khi khởi tố vụ án đến khi kết thúc
điều tra để xem xét, quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là một trong những
nhiệm vụ quan trọng chủ chốt hàng đầu của ngành Kiểm sát. Căn cứ vào thực
tiễn và yêu cầu tăng cường vai trò công tố của VKS trong hoạt động điều tra,
Điều 165 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định 10 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS:
- Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS, khởi tố
bị can.
- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật.
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can
trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp tư pháp ảnh hưởng đến
quyền công dân, quyền con người, quyền tài sản... như: lệnh bắt, giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền
để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;
- Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn
cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp
luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
28
tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê
chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế theo quy định của Bộ luật TTHS.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao tiến hành
một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm
tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để kiểm tra, bổ sung tài
liệu, chứng cứ khi xem xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát
hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu
cầu bằng văn bản nhưng không được cơ quan điều tra khắc phục hoặc trường
hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố.
- VKS trực tiếp khởi tố VAHS khi phát hiện hành vi của người có thẩm
quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS
khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội
phạm.
- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định
chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công
tố theo quy định của Bộ luật TTHS.
Viện kiểm sát nhân dân cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án hình sự được quy định cụ thể tại Luật tổ chức VKSND
năm 2014. Các hoạt động này được những người tiến hành tố tụng có thẩm
29
quyền pháp lý thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định cụ
thể trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong THQT và trong hoạt động kiểm sát điều tra còn được Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 quy định chặt chẽ, cụ thể và Luật tổ chức cơ quan điều tra
hình sự năm 2015 cũng bổ sung một số điểm mới liên quan đến vấn đề đảm
bảo cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra.
VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để cơ quan CSĐT tiến hành hoạt
động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và đây được coi là nhiệm
vụ quan trọng nhất của VKS trong giai đoạn này. Kiểm sát viên được phân công
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có trách nhiệm, bám sát toàn bộ
hoạt động điều tra của CQĐT ngày từ ban đầu và nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án
qua đó kịp thời phối hợp cùng CQĐT và đưa ra các yêu cầu điều tra một cách
toàn diện, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó,
trong một số trường hợp, Viện kiểm sát còn có quyền trực tiếp thực hiện một
số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để củng cố
các chứng cứ nhằm đánh giá một cách khách quan và toàn diện toàn bộ vụ án,
bảo đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật, tuyệt đối không
để xảy ra trường hợp oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Nếu quá trình nghiên cứu
phát hiện cơ quan điều tra có vi phạm hoặc sai sót quy định của pháp luật, VKS
tròn phạm vi quyền hạn của mình có thể tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan điều tra. Ngoài
ra, thực tế có các trường hợp diễn biến hành vi phạm tội phức tạp cón có nhiều
quan điểm khác nhau về đinh tội danh hoặc hướng xử lý thì để làm tốt nhiệm
vụ được giao, Kiểm sát viên và Điều tra viên cần tăng cường trao đổi thống
nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án, cần thiết có thể tổ
chức họp liên ngành để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án.
30
Nhằm nâng cao chất lượng Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều
tra vụ án hình sự, chống oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm, Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 dựa trên cơ sở quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng thay đổi
theo hướng tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, bổ sung
quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên tại Điều 43 BLTTHS
2015 theo đó, các chủ thể được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm pháp luật về hành vi, quyết định của
mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền phân công hoặc thay đổi Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự và thay đổi, hủy bỏ các quyết định của
những người này nếu xét thấy quyết định không có căn cứ. Việc phân công
được thể hiện bằng Quyết định theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban
hành. Viện trưởng ký các Quyết định phân công và những người được phân
công là Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nêu trong quyết định có
trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm cho các quyết định của VKS có hiệu lực, Điều 167 Bộ luật
TTHS năm 2015 khẳng định trách nhiệm của CQĐT phải việc thực hiện các
yêu cầu và quyết định của VKS. Đối với một số yêu cầu và quyết định quy định
tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 165 như phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết
định của CQĐT, đề ra yêu cầu điều tra… thì ngay cả khi không thống nhất quan
điểm thì CQĐT vẫn phải chấp hành và có quyền kiến nghị với VKS cấp trên
trực tiếp.
31
Tiểu kết chương 1
Thông qua việc tìm hiểu khái niệm chung về tố tụng hình sự, thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra và quy định của pháp luật về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản để đúc kết được khái niệm và một số vấn đề về phạm vi, ý
nghĩa của công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Tại chương 1, tác giả còn tìm hiều các quy định của pháp
luật về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công tác thực hành quyền công tố trong
kiểm sát điều tra nói chung và đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng,
từ đó làm căn cứ cho việc đánh giá việc thực hiện công tác này của các cơ quan
tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong điều tra vụ án Lừa đảo
CĐTS.
32
Chương 2:
THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CĐTS”
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh
Cùng hòa nhịp với sự phát triển toàn diện về mọi mặt của nền kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trung tâm kinh
tế - văn hóa của cả nước và đứng đầu về phát triển kinh tế, tuy nhiên đi kèm
với sự phát triển đó là tình hình tội phạm vẫn diễn biến ngày càng phức tạp. Các
loại tội phạm về xâm phạm sở hữu như tổ chức Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản… xảy ra với qui mô lớn hơn, thủ đoạn phạm
tội tinh vi hơn. Đặc biệt đối với loại tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thống
kê trong giai đoạn 5 năm từ 2015 đến năm 2019 tình hình tội phạm về Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên cả nước nói chung, TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn
diễn biến khá phức tạp với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả
gây ra thiệt hại về tài sản cho bị hại ngày càng lớn cùng với thủ đoạn ngày càng
tinh vi.
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019
Khởi tố Đình chỉ Truy tố Đề nghị truy tố Tạm đình chỉ Năm
Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ Bị can
Bị can 806 423 Bị can 754 02 Bị can 07 01 02 402 Bị can 723 2015 468
914 512 883 04 13 01 01 481 869 2016 547
823 570 791 03 09 0 0 545 769 2017 615
726 377 689 0 0 01 02 360 647 2018 423
33
2019 450 819 413 787 0 0 0 373 765 0
Tổng 2.503 4.088 2.295 3.904 09 03 05 2.161 3.773 29
Nguồn: số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm
chung từ năm 2015 đến năm 2019.
Số vụ án/bị can Tổng số vụ án/bị Số vụ án/bị can phạm tội chương can phạm tội LĐCĐTS Năm xâm phạm sở hữu
Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị can
2015 2.735 5.978 892 402 723 1.584
2016 3.586 8.538 981 481 869 1.736
2017 3.267 7.729 770 545 769 1.237
2018 3.763 8.691 714 360 647 1.395
2019 3.810 8.778 816 373 765 1.449
7.401 Tổng 17.161 39.714 4.173 2.161 3.773
Nguồn: số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Trên địa bàn các quận, huyện thể hiện như thế nào cần bổ sung số
liệu này
Từ năm 2015 đến năm 2019, CQĐT Công an TP. Hồ Chí Minh đã khỏi
tố 17.161 vụ, 39.714 bị can, cụ thể các tội xâm phạm sở hữu là 4.173 vụ, 7.401
bị can.
Từ năm 2015 đến năm 2019 tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh tăng giảm theo từng năm, trong đó tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
cũng tăng số lượng các tội phạm này bị phát hiện, khởi tố cao nhất vào năm
2017 với 615 vụ/ 823 bị can. Tổng số vụ án CQĐT đề nghị VKS truy tố là
2.295 vụ/3.904 bị can (chiếm 91% án LĐCĐTS đã khởi tố). số vụ án phải tạm
đình chỉ là 09 vụ/29 bị can (chiếm 0,3%) chủ yếu do bị can bỏ trốn và chưa có
34
kết quả giám định tài sản bị chiếm đoạt, số vụ án phải đình chỉ điều tra là 03
vụ/07 bị can (chiếm 0,1%) theo khoản 2, khoản 7 Điều 157 Bộ luật TTHS.
Trong số các tội phạm đã được phát hiện xử lý, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chiếm 12,6% và chiếm 51,7% trên tổng số án xâm phạm sở hữu .
Những kết quả đã đạt được nêu trên đã khẳng định vai trò của Ngành
kiểm sát TP. HCM trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trên địa bàn thành phố. Những kết quả trên là nỗ lực của toàn
thể cán bộ, công chức Viện KSND TP.HCM, đặc biệt là vai trò lãnh đạo đã
thường xuyên quan tâm, quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về
cải cách tư pháp; quy định của pháp luật, nhanh chóng, kịp thời trong công tác
chỉ đạo thực hiện các chuyên đề nghiệp vụ, giải quyết các vụ án cụ thể; phối
hợp chặt chẽ CQĐT ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm nên đã từng
bước hạn chế tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Kết quả trên còn cho thấy CQĐT Công an TP. Hồ Chí Minh và Viện
KSND TP. Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng trong trong việc phát hiện, điều
tra tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn. Tuy nhiên, nhóm tội này
trên tại TP. Hồ Chí Minh diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, mức độ và
thủ đoạn của hành vi phạm tội ngày càng tinh vi, nghiêm trọng đã gây nhiều
khó khăn cho công tác điều tra và thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án này của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Qua công tác kiểm sát các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời
gian qua, nhận thấy hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có một số tồn
tại, hạn chế, dẫn đến dẫn đến một số vụ án bị Tòa án các cấp tuyên hủy án để
35
điều tra lại. Những vi phạm chủ yếu dẫn đến hủy án là: vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng; đánh giá chứng cứ và xác định tội danh không chính xác; vi
phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác định các yếu tố cấu thành tội
phạm, đặc biệt là yếu tố chiếm đoạt và yếu tố gian dối; áp dụng pháp luật không
đúng.
2.2.1. Những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
Những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong điều tra vụ án lừa
đảo CĐTS thường thể hiện dưới các dạng cụ thể như:
- Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án
Đó là trường hợp Cơ quan tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành
vi phạm tội dẫn đến điều tra truy tố, xét xử sai thẩm quyền, thường xảy ra trong
các trường hợp giao dịch tại một nơi, tài sản để một nơi khác. Như vụ Mai Thị
Tuyết Linh “Lừa đảo CĐTS” xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng các cơ
quan tố tụng tỉnh Kiên Giang xử lý không đúng thẩm quyền, dẫn đến TAND
cấp cao hủy án giao cho thành phố Hồ Chí Minh giải quyết. Trong vụ án này,
bị cáo làm nghề buôn bán hải sản ở Kiên Giang, biết ông Nguyễn Văn Sinh là
giám đốc Công ty Trang Ngọc Phát ở Kiên Giang có 100 tấn ruốc khô đang gửi
kho lạnh tại thành phố Hồ Chí Minh nên đã dùng tên giả, tự xưng giám đốc một
Công ty giả để giao dịch mua ruốc khô của ông Sinh, sau đó chiếm đoạt. Việc
giao dịch và nhận hàng diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, đây là nơi bị cáo
Linh thực hiện hành vi phạm tội nhưng cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Kiên
Giang giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Xác định sai tư cách tham gia tố tụng
Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng xảy ra phổ biến, tính nghiêm
trọng của vi phạm này thể hiện ở chỗ việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng
sẽ dẫn đến giải quyết phần dân sự trong VAHS không chính xác, đặc biệt là
36
vấn đề bồi hoàn tài sản chiếm đoạt cho ai. Việc xác định sai tư cách tham gia
tố tụng thường xảy ra trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất là các vụ án mà người quản lý tài sản không phải chủ sở hữu
tài sản, do có sự nhầm lẫn trong việc xác định người bị thiệt hại là chủ sở hữu
tài sản hay người đang quản lý, sử dụng tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể: vụ án do
nhân viên kế toán của Công ty dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của
Công ty đang được quản lý tại Ngân hàng, có nhiều quan điểm khác nhau về
xác định người bị thiệt hại ở đây là Công ty hay Ngân hàng. Điển hình là vụ
Đặng Thị Nguyệt là kế toán trưởng của chi nhánh Công ty Cacao Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh, đã dùng một số ủy nhiệm chi, lệnh chi, séc do ông
Trần Văn Liêng, Tổng giám đốc ký khống trước đó (sử dụng vào việc Công ty
Cacao Việt Nam trả tiền vay nóng bên ngoài, đáo hạn ngân hàng), lập khống
chứng từ và ký giả chữ ký của ông Liêng hoặc đưa kèm với các chứng từ khác
trình ông Liêng ký với người thụ hưởng là người quen của Thu để rút tiền của
Công ty. Sau đó đem đến các ngân hàng để chuyển tiền. Với thủ đoạn nêu trên,
từ tháng 3/2015 đến tháng 6/2013 Đặng Thị Nguyệt Thu đã lập 91 chứng từ ủy
nhiệm chi, lệnh chi, séc ghi khống nội dung, chiếm đoạt của Công ty
3.229.420.017đ tiền gửi tại các Ngân hàng Vietcombank, Vietinbank,
Eximbank, Vpbank.
Hành vi phạm tội của Đặng Thị Nguyệt Thu đã rõ, vấn đề đặt ra là ai bị
thiệt hại, Công ty hay Ngân hàng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng tài sản bị cáo
nhằm chiếm đoạt là tiền của Công ty Cacao Việt Nam nằm trong tài khoản mở
tại các ngân hàng, ý thức chủ quan của bị cáo là hướng đến tài sản của Công ty
Cacao Việt Nam. Người bị thiệt hại là Công ty Cacao Việt Nam nên buộc bị
cáo phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho công ty. Sau khi xét xử sơ thẩm,
Công ty Cacao Việt Nam kháng cáo yêu cầu xác định Ngân hàng là bị hại trong
vụ án (nguyên đơn dân sự) và yêu cầu các Ngân hàng phải trả lại tiền cho Công
37
ty. Tòa án cấp cao cho rằng các ngân hàng được Công ty Cacao Việt Nam tin
tưởng để mở tài khoản giao dịch trong hoạt động kinh doanh, Thu bằng thủ
đoạn gian dối là lập phiếu khống, giả chữ ký để rút được tiền từ công ty đang
gửi tại ngân hàng. Về phía ngân hàng, do chủ quan nên các nhân viên Ngân
hàng không phát hiện được chữ ký giả của chủ tài khoản là ông Trần Văn Liêng
do Đặng Thị Nguyệt Thu ký giả để thực hiện giao dịch rút tiền để chiếm đoạt.
Theo Điều 12 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước và tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 1284 ngày 21/11/2002
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì “Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về
những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng trên tài khoản khách hàng do lỗi của mình”,
do vậy ngân hàng chịu trách nhiệm trả tiền cho Công ty Cacao Việt Nam đối
với những ủy nhiệm chi, lệnh chi do Đặng Thị Nguyệt Thu giả chữ ký của ông
Trần Văn Liêng. Từ những phân tích và lập luận trên, Tòa án cấp cao đã hủy
một phần bản án sơ thẩm về phần dân sự để giải quyết lại.
Thứ hai là các vụ án sang tên trái phép tài sản từ một người, sau đó bán
cho một người khác nên có sự nhầm lẫn trong việc xác định người bị thiệt hại
là người đứng tên tài sản đầu tiên hay người mua sau. Điển hình là vụ Nguyễn
Phước Hinh có hành vi tự ý sang tên thửa đất 761,7m2 từ ông Nguyễn Đắc Minh
bà Trần Thị Đen, thửa đất này bà Nguyễn Thị Minh Nhãn là Việt Kiều Thụy
sỹ là cô ruột bị cáo bỏ tiền mua, nhờ ông Minh, bà Đen đứng tên. Sau khi sang
tên, bị cáo bán cho ông Bùi Quốc Bình với giá 7 tỷ đồng. Trong trường hợp
này, việc sang tên tài sản từ ông Minh, bà Đen sang bị cáo là giao dịch vô hiệu,
do bị cáo có hành vi gian dối, nên tài sản vẫn thuộc quyền sử dụng của ông
Minh, bà Đen. Người bị hại trong vụ án này phải là ông Bình, nhưng các cơ
quan tố tụng cấp sơ thẩm xác định bà Nhãn là người bị hại là không chính xác,
đồng thời do xác định sai nên không đưa ông Bình tham gia tố tụng.
38
Thứ ba là các vụ án liên quan đến tài sản của doanh nghiệp, người bị
thiệt hại là doanh nghiệp nhưng cơ quan tiến hành tố tụng xác định chủ doanh
nghiệp là người bị hại. Như vụ Mai Thị Tuyết Linh nêu trên, tuy giao dịch thực
hiện với cá nhân ông Nguyễn Văn Sinh nhưng tài sản bị chiếm đoạt thuộc sở
hữu của Công ty Trang Ngọc Phát, ông Nguyễn Văn Sinh là Giám đốc, đại diện
theo pháp luật của Công ty. Trong trường hợp này người bị thiệt hại là Công ty
Trang Ngọc Phát, do Bộ luật TTHS không quy định người bị hại là pháp nhân
nên Công ty Trang Ngọc Phát tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự
nếu có đơn yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên các cơ quan tố tụng đã xác định ông
Sinh là người bị hại là chưa chính xác. Từ việc xác định tư cách tham gia tố
tụng chưa chính xác, sẽ dẫn đến việc giải quyết phần dân sự không chính xác,
lẽ ra phải bồi hoàn tài sản chiếm đoạt cho Công ty Trang Ngọc Phát thì lại thành
bồi hoàn cho cá nhân ông Nguyễn Văn Sinh.
2.2.2. Những vi phạm về đánh giá chứng cứ và xác định tội danh
Những vi phạm về đánh giá chứng cứ và xác định tội danh xảy ra do các
cơ quan tiến hành tố tụng thiếu toàn diện trong việc đánh giá chứng cứ và hành
vi khách quan, được thể hiện dưới các dạng cụ thể như:
- Quyết định khởi tố bị can không phù hợp với căn cứ khởi tố vụ án
Đây là trường hợp khởi tố bị can về hành vi không nằm trong căn cứ khởi
tố vụ án. Điển hình là vụ án Tạ Tấn Lộc “Lừa đảo CĐTS”. Tạ Tấn Lộc sống
cùng cha là ông Tạ Tấn Tài và mẹ là bà Tô Thị Ngọc Nên, Ngọc là lao động
chính trong gia đình. Do Lộc sang Campuchia đánh bạc và nợ 900 triệu đồng,
sợ chủ nợ qua đòi nợ, nên Lộc nói dối với bà Nên là bạn cần vay số tiền 2,8 tỷ
đồng để đáo hạn ngân hàng nhưng bà Nên chỉ có 800 triệu đồng, Lộc nói bà
Nên đi vay dùm cho đủ 2,8 tỷ đồng. Tin tưởng Lộc, bà Nên vay 02 tỷ đồng của
Nguyễn Thị Dung nói là để đáo hạn ngân hàng, hẹn 04 ngày sau trả lại. Do
trước đó bà Nên vay đáo hạn ngân hàng nhiều lần và trả đúng hạn, nên hôm sau
39
chồng bà Dung đem 2 tỷ đến nhà giao cho bà Nên, Lộc nhận thay. Sau khi nhận
02 tỷ đồng, cộng với 800 triệu đồng của bà Nên, tổng cộng 2,8 tỷ đồng Lộc
sang Campuchia trả nợ 900 triệu đồng, còn lại 1,9 tỷ đồng đánh bạc thua hết.
Bà Nên biết việc và nói với bà Dung việc con bà là Tạ Tấn Lộc đã mang 2,8 tỷ
đồng sang Campuchia đánh bạc thua hết, để từ từ Bà trả tiền và đã trả lãi cho
bà Dung được 40 triệu đồng. Sau đó bà Dung làm đơn tố cáo bà Nên chiếm
đoạt 02 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết tin báo, CQĐT xác định Tạ Tấn
Lộc chiếm đoạt tiền của mẹ ruột là bà Tô Thị Ngọc Nên nên khởi tố, Tạ Tấn
Lộc bị truy tố về tội Lừa đảo CĐTS theo điểm a Khoản 4 Điều 139 BLHS, bị
hại bà Tô Thị Ngọc Nên, với số tiền 2,8 tỷ đồng, sau đó Tòa án xử phạt 3 năm
tù. Trong vụ án này, căn cứ để CQĐT khởi tố vụ án là đơn của Nguyễn Thị
Dung tố cáo bà Tô Thị Ngọc Nên lừa đảo. Nhưng sau đó không đủ cơ sở để
khởi tố bà Nên nên CQĐT đã khởi tố bị can đối với Tạ Tấn Lộc, căn cứ khởi
tố bị can là căn cứ vào quyết định khởi tố vụ án. Việc CQĐT khởi tố vụ án là
căn cứ vào đơn bà Dung tố cáo bà Nên, quyết định khởi tố bị can Tạ Tấn Lộc
lại căn cứ vào quyết định khởi tố vụ án nêu trên, trong khi giữa bà Dung và Tạ
Tấn Lộc không có quan hệ gì, việc vay mượn giữa bà Dung và bà Nên không
liên quan đến Tạ Tấn Lộc. CQĐT đưa vụ án đi theo hướng Tạ Tấn Lộc lừa đảo
mẹ ruột minh là bà Tô Thị Ngọc Nên, trong khi đó bà Nên xác định bà không
thiệt hại gì, tài sản mà gia đình bà có được là do công sức chủ yếu của Tạ Tấn
Lộc, bà không tố cáo con bà và bà không yêu cầu Tạ Tấn Lộc trả lại số tiền mà
bà đã đưa cho Lộc, bà không phải là người bị hại. Xét về khách thể bị xâm
phạm thì thấy, quan hệ giữa bị cáo Lộc và người bị hại là mẹ con ruột, hiện tại
bị cáo đang sống chung với bà Nên, lao động nuôi dưỡng vợ chồng bà Nên. Tài
sản trong gia đình khó phân biệt được một cách rõ ràng, rành mạch nên hậu quả
là rất mơ hồ, cấp sơ thẩm căn cứ vào các kết quả xác minh mức thu nhập của
bị cáo Lộc để trừ một phần thiệt hại và xét xử bị cáo ở điểm a khoản 3 Điều
40
139 BLHS là không có cơ sở. Như vậy, căn cứ khởi tố vụ án trong trường hợp
này không rõ ràng nên căn cứ để khởi tố bị can là không chính xác. Bà Nên xác
định mình không có thiệt hại gì và không chấp nhận tư cách tham gia tố tụng
của mình. CQĐT xác định giá trị tài sản riêng của bị cáo trong khối tài sản
chung với người bị hại là không phù hợp, không có cơ sở. Do vậy vụ án đã bị
đã huỷ để điều tra lại theo hướng làm rõ căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
phân biệt rõ tài sản của bị cáo và bà Nên để xác định bị cáo chiếm đoạt tài sản
của ai, người bị hại là ai.
- Bỏ lọt người phạm tội
Đây là một trong các dạng vi phạm phổ biến dẫn đến bị hủy án, thường
xảy ra trong các trường hợp sau:
Thứ nhất là các vụ án có liên quan đến hai vợ chồng hoặc nhiều người
thân tích trong gia đình nhưng chỉ xử lý người giữ vai trò chính. Như vụ Trần
Thị Quỳnh Hoa “Lừa đảo CĐTS”. Bị cáo đưa ra thông tin gian dối là có mối
quan hệ mua được xe giá rẻ hơn thị trường, nếu ai cần mua xe thì giúp, nhưng
sau khi nhận tiền bị cáo không mua xe, chiếm đoạt của 37 người số tiền
34.921.500.000đ. Quá trình điều tra các bị hại trình bày và cung cấp các tin
nhắn, email có giao dịch trao đổi chuyển tiền đều thông qua Phạm Thị Quỳnh
Mai là con bị cáo Hoa. Đồng thời bị cáo Hoa cũng khai nhận Mai giúp sức cho
bị cáo mở tài khoản để giao dịch mua bán với nhiều bị hại, Mai cũng trực tiếp
nhận tiền thay cho mẹ với tổng số tiền trên 15 tỷ đồng trong thời gian dài, và
nhận thực được hành vi của mẹ mình là gian dối... Nhưng cấp CQĐT chỉ khởi
tố Trần Thị Quỳnh Hoa, không xem xét trách nhiệm hình sự của Mai nên Tòa
án phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Thứ hai là các vụ án có vai trò xúi giục của người khác nhưng cấp sơ
thẩm không làm rõ người xúi giục. Như vụ Mai Thị Tuyết Linh “Lừa đảo
CĐTS” nêu trên. Quá trình điều tra thì bị cáo Linh khai do nợ bà Trần Thị Dung
41
một khoản tiền trên 02 tỷ đồng, không có khả năng trả nợ, nên bà Dung đã chỉ
dẫn và lập kế hoạch cho bị cáo lừa mua ruốc khô của ông Nguyễn Văn Sinh
(như việc dùng tên giả, cho số điện thoại của ông Nguyễn Văn Sinh) nhằm
chiếm đoạt tiền của ông Sinh để có tiền trả nợ cho bà Trần Thị Dung. Lời khai
này của bị cáo Mai Thị Tuyết Linh phù hợp với diễn biến sự việc, vì bị cáo
Linh nợ bà Trần Thị Dung trên 02 tỷ đồng trong khoảng thời gian dài không có
tiền trả, phải bỏ địa phương đến thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Mặt khác,
giữa bà Dung với ông Sinh có mối quan hệ quen biết từ trước qua việc mua bán
ruốc với nhau (bà Dung bán ruốc cho ông Sinh), còn bị cáo Mai Thị Tuyết Linh
không quen biết ông Sinh. Một thực tế nữa là sau khi chiếm đoạt được tiền của
ông Sinh, bị cáo Linh đã dùng một phần tiền này để chuyển khoản, trả nợ cho
bà Trần Thị Dung. Do đó vụ án đã bị tuyên hủy án điều tra lại để xác định đúng
vai trò của bà Trần Thị Dung trong vụ án này.
Thứ ba là các vụ án có vai trò giúp sức của người khác nhưng cấp sơ
thẩm không làm rõ. Như vụ Trần Thị Út Hiền “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có hành
vi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trương Hồng Yến do người khác
thế chấp cho bị cáo khi vay tiền, nhờ Phạm Văn Đủ sửa giấy xác nhận độc thân
của Đủ thành Trương Hồng Yến rồi thuê Dương Thị Ngưng đóng giả Trương
Hồng Yến và giả chữ ký Yến để chuyển nhượng đất cho người khác. Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ truy tố, xét xử Trần Thị Út Hiền và Dương Thị
Ngưng, không xem xét trách nhiệm hình sự của Phạm Văn Đủ nên TAND cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án phúc
thẩm và bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại.
Thứ tư là các vụ án có người cùng thực hiện tội phạm nhưng không làm
rõ và xử lý chung trong vụ án. Như vụ Nguyễn Thị Bạch Tuyết là Kế toán
trưởng Công ty L&M Việt Nam, doanh nghiệp 100% vốn Malaysia, Tuyết biết
Công ty L&M với Ngân hàng OCBC và UOB thỏa thuận về việc các Ngân
42
hàng chấp nhận tất cả các phiếu yêu cầu chuyển tiền, lệnh chuyển tiền bằng bản
fax (hoặc bản scan) là chứng từ để chuyển tiền; các bản chính của phiếu yêu
cầu chuyển tiền hoặc lệnh chuyển tiền được Công ty L&M chuyển cho Ngân
hàng sau này chỉ để Ngân hàng lưu trữ (hoặc không cần nộp bản chính). Do
vậy, Tuyết đã làm nhiều phiếu yêu cầu chuyển tiền, lệnh chuyển tiền có chữ ký
và dấu chữ ký mang tên Wong Kong Hee, Chủ tịch và Yee Lip Chee, Tổng
giám đốc Công ty L&M để yêu cầu Ngân hàng OCBC và UOB chuyển tiền từ
tài khoản của Công ty L&M vào tài khoản của Công ty Đại Hồng Tùng (do
Tuyết làm chủ tài khoản) với tổng số tiền là 12 tỷ 747 triệu đồng, mặc dù giữa
hai công ty không có bất kỳ giao dịch nào. Khi tiền của Công ty L&M vào tài
khoản của Công ty Đại Hồng Tùng, Tuyết đã rút ra chiếm đoạt. Với hành vi
nêu trên, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, bị truy tố về tội “Lừa đảo CĐTS” với số tiền
chiếm đoạt 12 tỷ 747 triệu. CQĐT kết luận trong số 51 phiếu và lệnh chuyển
tiền có 26 phiếu và lệnh chuyển tiền giả với số tiền 6 tỷ 58 triệu nên chỉ quy kết
bị cáo chiếm đoạt khoản tiền này. Riêng 25 phiếu và lệnh chuyển tiền còn lại
với số tiền 6 tỷ 689 triệu là do Yee Lip Chee, Tổng giám đốc Công ty L&M ký
trực tiếp. Tuyết cho rằng toàn bộ 51 chứng từ bị cáo thực hiện theo lệnh của
Yee Lip Chee, sau khi tiền rút ra bị cáo đưa cho Yee Lip Chee, nhưng Yee Lip
Chee không thừa nhận và không biết tại sao lại ký các chứng từ này, CQĐT
tách hành vi của ông Yee Lip Chee để giải quyết thành một vụ án khác là chưa
giải quyết toàn diện vụ án. Vì nếu ông Yee Lip Chee phạm tội đối với 25 phiếu
chi này thì số tiền phạm tội của bị cáo Tuyết là trên 12 tỉ đồng, không thể tách
khoản tiền này thành 2 vụ án khác nhau. Mặt khác cần phải xem xét có vai trò
đồng phạm của Yee Lip Chee đối với 26 phiếu và lệnh chuyển tiền giả hay
không, do đó Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy án.
- Bỏ lọt hành vi phạm tội
43
Đây là vi phạm phổ biến trong hoạt động điều tra, truy tố, thường xảy ra
trong các trường hợp sau:
Thứ nhất là hành vi Lừa đảo CĐTS thường đi kèm với hành vi làm giả
tài liệu của cơ quan tổ chức, các tài liệu giả này được sử dụng để lừa dối người
bị hại, có nơi thì xử lý hai tội, có nơi thì xử lý một tội. Như vụ Nguyễn Phước
Hinh “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo thuê người làm giả 3 cuốn sổ đỏ thế chấp vay
tiền của Lâm Văn Hoài và Nguyễn Thụy Huyền Chi. Đây là hai hành vi độc
lập (làm giả sổ đỏ sau đó lừa đối người bị hại), có dấu hiệu phạm hai tội, nhưng
cấp sơ thẩm chỉ xử lý tội “Lừa đảo CĐTS”, không xử lý tội “Làm giả con dấu,
tài liệu của cơ quan tổ chức” là bỏ lọt hành vi phạm tội hoặc có trường hợp
ngược lại là hành vi làm giả giấy tờ xe để hợp thức hóa xe gian, bán cho người
khác, có dấu hiệu phạm hai tội nhưng chỉ xử lý hành vi “Làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan tổ chức” mà không xem xét hành vi gian dối với người mua
xe. Điển hình là vụ Nguyễn Quốc Lâm “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức,
Lừa đảo CĐTS”. Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Minh Hiền, Lê Hoàng Duy
sử dụng giấy đăng ký xe giả để hợp thức hóa mô tô không có giấy tờ rồi bán
cho nhiều người theo giá của xe mô tô hợp pháp, có dấu hiệu phạm tội “Lừa
đảo CĐTS”, người bị hại là những người mua xe; nhưng cấp sơ thẩm chỉ truy
tố, xét xử Hiền, Duy về tội “Làm giả giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan, tổ
chức”, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi “Lừa đảo CĐTS”
khi bán xe cho người mua.
Thứ hai là trong vụ án, ngoài hành vi phạm tội bị truy tố, xét xử, bị cáo
còn có hành vi chiếm đoạt khác có dấu hiệu phạm tội, nhưng không làm rõ để
xử lý. Như vụ Đặng Thị Huệ “Lừa đảo CĐTS”, ngoài hành vi chiếm đoạt của
bà Lê Thị Hồng 300.000.000đ, bị cáo còn đưa ra thông tin giả rồi bán cho ông
Phạm Thành Công thửa đất đã chuyển nhượng cho bà Châu Hồng Khỏe để
chiếm đoạt số tiền 430.000.000đ của ông Công, có dấu hiệu của tội “Lừa đảo
44
CĐTS”. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng xác
định đây là quan hệ dân sự là không chính xác. Do vậy vụ án đã bị tuyên hủy
án để điều tra lại do để lọt hành vi phạm tội.
- Xác định sai tội danh
Việc xác định sai tội danh thường có sự nhầm lẫn giữa tội “Lừa đảo
CĐTS” và “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS”, do xác định chưa đúng thời điểm có
hành vi gian dối, như vụ Nguyễn Phước Hinh. Bị cáo có 8 hành vi chiếm đoạt,
cấp sơ thẩm quy kết 3 hành vi là lừa đảo CĐTS, 5 hành vi là lạm dụng tín nhiệm
CĐTS. Trong đó khoản tiền 2.091.717.769đ bị cáo Hinh nói cô ruột là bà
Nguyễn Minh Nhãn gửi tiền để mua đất của ông Ngô Thanh Bình và
2.109.948.111đ để mua nhà của ông Lê Văn Nhuận nhưng sau khi nhận tiền
Hinh không mua. Hành vi này có dấu hiệu Lừa đảo CĐTS nhưng cấp sơ thẩm
kết luận đây là hành vi lạm dụng tín nhiệm CĐTS.
- Kê biên tài sản không đúng
Đây là trường hợp kê biên tài sản không thuộc quyền quản lý sử dụng
của người bị kê biên. Như vụ Trần Văn Minh “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo lừa đảo
chiếm đoạt của 9 người bị hại với số tiền 2.693.500.000đ, CQĐT đã kê biên tài
sản gồm 1 căn nhà và 4 thửa đất của Trần Văn Minh và Huỳnh Thị Lệ Hoa mà
để bảo đảm thi hành án cho các đương sự trong VAHS và vụ án dân sự. Tuy
nhiên các tài sản này đã được vợ chồng bị cáo thế chấp để vay tiền của bà
Nguyễn Thị Thu Thủy trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Do không trả
được nợ nên bà Thủy kiện ra Tòa, Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự có nội dung ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự
là Trần Văn Minh và Huỳnh Thị Lệ Hoa liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Thu
Thủy số tiền vốn và lãi là 3.391.900.000 đồng, chị Thủy đồng ý trả lại tài sản
thế chấp cho anh Minh và chị Hoa. Quyết định trên đã có hiệu lực pháp luật và
không bị kháng nghị. Lệnh kê biên tài sản của CQĐT ban hành sau khi đã thế
45
chấp vay tiền và sau khi Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự là không đúng, vì tài sản bị kê biên không còn thuộc quyền quản lý
của bị cáo. Mặt khác giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
cấp cho hộ ông Trần Văn Minh chứ không phải cấp cho cá nhân ông Minh nên
là tài sản chung của hộ, trong khi ông Minh chỉ chịu trách nhiệm về tài sản đối
với phần tài sản của mình, không thể kê biên tài sản của các đồng sở hữu khác,
trong đó có phần tài sản của bà Huỳnh Thị Lệ Hoa vợ ông Minh đã cam kết trả
nợ cho bà Nguyễn Thị Thu Thủy theo Quyết định công nhận thỏa thuận của
các đương sự.
2.2.3. Những vi phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác định
các yếu tố cấu thành tội phạm
- Xác định các yếu tố cấu thành tội phạm không đúng, dẫn đến hình sự
hóa các quan hệ dân sự
Tội lừa đảo CĐTS được thực hiện thông qua việc người phạm tội xác lập
một giao dịch dân sự với người bị hại. Để phân biệt hành vi phạm tội và các
giao dịch dân sự thì phải xác định có yếu tố gian dối và chiếm đoạt trong giao
dịch dân sự đó không. Thực tế vẫn có trường hợp vi phạm trong việc xác định
các yếu tố cấu thành tội phạm dẫn đến hình sự hóa quan hệ dân sự; được thể
hiện dưới các dạng như:
Thứ nhất, nhầm lẫn giữa vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong giao dịch
dân sự với hành vi chiếm đoạt. Điển hình là vụ Vũ Đình Quý “Lừa đảo CĐTS”,
bị cáo bị truy tố về 9 hành vi chiếm đoạt, trong đó có hành vi thỏa thuận với bà
Nguyễn Thị Tư thi công 470 mét đường bê tông vào nhà ông Lâm Văn Triệu,
trị giá 200 triệu đồng nhưng không thanh toán tiền cho bà Tư. VKS cho rằng
đây là hành vi chiếm đoạt với lập luận bị cáo không có tài sản, không nghề
nghiệp, khi ký hợp đồng thi công đường với bà Tư bị cáo không có phương án
gì để thanh toán tiền thi công, bị cáo thừa nhận không có ý định trả tiền cho bà
46
Tư nên khi ký hợp đồng đã dùng tên giả, tuy không chiếm đoạt nhưng mục đích
làm đường để tạo lòng tin với ông Triệu nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản khác. Quan điểm trên là không chính xác vì đây là quan hệ dân sự, bị cáo
không nhận tiền từ bà Tư, đoạn đường này nhiều hộ sử dụng, do vậy việc khởi
tố hành vi này là không đúng.
Thứ hai, xử lý trách nhiệm hình sự về một khoản nợ trong giao dịch dân
sự đã được giải quyết bằng một quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật. Điển
hình là vụ Văng Thị Kim Nguyệt “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo vay tiền của nhiều
người với lý do vay đáo hạn ngân hàng hoặc vay để kinh doanh với lãi suất từ
1,5%/tháng đến 12%/tháng. Do tin tưởng nên nhiều người cho Nguyệt vay tiền,
nhưng sau khi nhận được tiền vay thì Nguyệt không sử dụng tiền vay như thỏa
thuận, mà đem trả lãi và vốn của người vay trước đó (lấy của người sau trả cho
người trước). Do mất khả năng thanh toán nên một số bị hại làm đơn tố cáo,
Văng Thị Kim Nguyệt bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Lừa đảo CĐTS” 1,4 tỷ
đồng của 10 người. Trong các khoản chiếm đoạt mà CQĐT kết luận có 300
triệu đồng vay của ông Võ Phước Hùng là sui gia với gia đình bị cáo. Khoản
tiền này bị cáo không chủ động vay, mà ông Võ Phước Hùng trúng số có tiền
nên đã chủ động cho vợ chồng bị cáo mượn tiền, ông Võ Văn Be, chồng Nguyệt
là người đứng ra mượn và viết giấy mượn tiền. Việc vay mượn không có thời
hạn và ông Hùng cũng không có tố cáo hành vi gian dối. Trước khi CQĐT khởi
tố vụ án thì ông Võ Phước Hùng đã làm đơn khởi kiện và Tòa án đã ra Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ghi nhận việc ông Võ Văn Be
thừa nhận nợ và đồng ý trả lại cho ông Võ Phước Hùng số tiền vốn vay là 300
triệu đồng và lãi 19.800.000đ. Như vậy khoản vay 300 triệu đồng là giao dịch
dân sự, đã được giải quyết bằng một Quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật
nhưng CQĐT vẫn hình sự hóa và quy trách nhiệm hình sự cho bị cáo Văng Thị
Kim Nguyệt là vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
47
- Chưa làm rõ thủ đoạn gian dối
Việc chứng minh thủ đoạn gian dối trong nhiều trường hợp rất khó khăn,
nhiều khi mang tính chất suy đoán chủ quan mà không dựa trên những chứng
cứ rõ ràng, dẫn đến nhiều vụ bị hủy án vì lý do này. Việc chưa làm rõ thủ đoạn
gian dối thường xảy ra trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp giao dịch
chuyển nhượng nhà, đất nhưng người chuyển nhượng chưa thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với tài sản trước khi chuyển nhượng. Điển hình là vụ Ngô Thùy
Lan “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có 3 hành vi bị xử lý nhưng trong đó có hành vi
mua hai căn nhà chưa trả hết tiền cho người mua, sau đó bán nhà cho ông Đỗ
Quý Lưu; mua đất chưa trả hết tiền sau đó ủy quyền cho Nguyễn Thị Ly quản
lý, sử dụng đất. Cơ quan điều tra kết luận bị cáo Lừa đảo CĐTS của ông Đỗ
Quý Lưu và bà Nguyễn Thị Ly. Mặc dù chưa thanh toán hết tiền nhà và đất
nhưng vợ chồng bị cáo đã đứng tên quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, theo
quy định của pháp luật dân sự có quyền chuyển nhượng và ủy quyền cho người
khác, việc chưa trả hết tiền là một quan hệ pháp luật khác. Do có thiếu sót trên,
Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.
Thứ hai, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp vay tiền để làm
ăn sau đó mất cân đối không có khả năng trả nợ. Trường hợp này tiềm ẩn nguy
cơ hình sự hóa quan hệ dân sự vì khó chứng minh yếu tố gian dối và yếu tố
chiếm đoạt. Điển hình là vụ Nguyễn Xuân Ngọc bị khởi tố “Lừa đảo CĐTS”,
vợ chồng Ngọc thuê nhà hàng để kinh doanh ăn uống, thời gian đầu kinh doanh
có hiệu quả nên Ngọc vay thêm tiền để mở rộng kinh doanh nhà hàng và kinh
doanh mỹ phẩm, hùn vốn nuôi cá. Do vay với lãi suất cao và chi phí cao bị thua
lỗ trong việc nuôi cá và kinh doanh mỹ phẩm, từ đó nợ ngày càng tăng và mất
khả năng thanh toán. Để có tiền duy trì kinh doanh, Ngọc tiếp tục vay tiền và
sử dụng một phần vào mục đích kinh doanh, số còn lại trả nợ vốn, lãi và chi
48
tiêu trong gia đình. Ngọc đã vay của 4 người với tổng số tiền 1.971.655.000đ.
Trong vụ án này, Ngọc vay tiền để làm ăn thật sự, vừa vay vừa trả lãi lẫn vốn,
việc kinh doanh thất bại, lợi nhuận thấp nên dẫn đến nợ càng nhiều nhưng bị
cáo vẫn cố gắng tìm mọi cách để trả, không có ý thức chiếm đoạt. Việc vay nợ
giữa bị cáo và người bị hại là tự nguyện giao dịch với mục đích vay là để kinh
doanh làm ăn. Cơ quan điều tra chưa làm rõ việc sử dụng vốn vay của bị cáo
có đúng mục đích khi vay không trong khi lời khai của các bên thì trong thời
gian vay, trả liên hoàn kéo dài nhiều lần, bị cáo Ngọc vẫn hoạt động kinh doanh
nhưng chưa điều tra làm rõ lần nào bị cáo sử dụng tiền vay đúng mục đích, lần
nào không, số tiền cụ thể là bao nhiêu? Có việc kinh doanh bị lỗ nên không trả
nợ được như lời khai của bị cáo không hay việc kinh doanh làm ăn chỉ là hình
thức lừa dối để bị cáo chiếm đoạt tiền của các bị hại để trả nợ cá nhân trước đó,
và trả cho những ai, bao nhiêu cũng chưa được điều tra rõ. CQĐT cho rằng
tháng 5/2015 bị cáo còn nợ hơn 500 triệu không có khả năng trả nhưng vẫn vay
tiếp để quy kết việc kinh doanh của bị cáo chỉ là hình thức nhằm che giấu hành
vi gian dối, các lần vay sau với số tiền không trả được là Lừa đảo CĐTS là nhận
định chủ quan, thiếu căn cứ, chưa chứng minh được ý thức gian dối để CĐTS
của bị cáo.
Thứ ba, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp có quan hệ chơi
huê hụi với nhau, sau đó không có khả năng trả tiền huê. Như vụ Hồ Thị Bảo
Nghĩa bị khởi tố về hành vi “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo làm chủ mở nhiều dây
huê và huy động nhiều người tham gia chơi, lấy tiền đóng huê của người này
trả cho người khác, bù vào số tiền bị bể huê và tiêu xài cá nhân, với hành vi
trên Hồ Thị Bảo Nghĩa đã chiếm đoạt của 6 người với tổng số tiền trên 14 tỷ
và 10 lượng vàng. Tuy nhiên, Nghĩa cho rằng không có hành vi gian dối, quan
hệ huê hụi giữa bị cáo và những người bị hại là giao dịch dân sự. Trong vụ án
này một số khoản là tiền nợ hụi, do bị cáo hốt các dây hụi người khác làm chủ
49
nhưng sau đó không đóng hụi chết; một số khoản là tiền người chơi hụi đóng
cho bị cáo khi tham gia các dây hụi do bị cáo làm chủ, sau này bể hụi bị cáo
không có tiền trả. Quá trình điều tra chưa làm rõ thủ đoạn gian dối cụ thể mà bị
cáo đã sử dụng trong việc chiếm đoạt các khoản tiền trên.
Thứ tư, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp dùng chứng thư
bảo lãnh làm giả để ký hợp đồng mua hàng. Đây là một dạng lừa đảo mới,
nhưng phải chứng minh bị cáo biết rõ chứng thư bảo lãnh làm giả. Điển hình là
vụ Trần Phương Đức bị khởi tố về tội “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo là giám đốc
Công ty Việt Tuân ký hợp đồng mua dầu Diesel bằng hình thức thanh toán trả
chậm. Để được mua dầu bằng hình thức trả chậm, Đức thuê Đỗ Văn Sơn làm
chứng thư bảo lãnh thanh toán trị giá 2 tỷ đồng của ngân hàng Công thương
Việt Nam chi nhánh Bình Tân với giá 200 triệu đồng để cung cấp cho bên bán.
Sau khi nhận hàng, Đức không thanh toán nên bên bán yêu cầu ngân hàng thanh
toán trả nợ theo chứng thư bảo lãnh thanh toán thì phát hiện chứng thư bảo lãnh
giả. Trần Phương Đức kêu oan vì cho rằng không biết chứng thư bảo lãnh giả.
Trong vụ án này, CQĐT quy kết bị cáo Đức về tội “Lừa đảo CĐTS” với lập
luận bị cáo buộc phải biết rõ để có được chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng thì
bên được bảo lãnh phải trực tiếp giao dịch với Ngân hàng, phải có tài sản thế
chấp, người nhận chứng thư bảo lãnh phải là người của công ty được giao nhiệm
vụ thực hiện theo thẩm quyền của mình mới được nhận chứng thư, nhưng Đức
không làm đúng quy định và thực tế chứng thư bảo lãnh giả, Đức đã dùng chứng
thư giả này để ký hợp đồng mua dầu trị giá 506 triệu đồng. Việc xác định hành
vi gian dối như lập luận trên mang tính chất suy diễn chủ quan do bị cáo Trần
Phương Đức khai không biết chứng thư bảo lãnh mà Đức thuê Sơn làm là chứng
thư giả cho đến khi được thông báo và khi thuê làm chứng thư có biên nhận
nhận tiền có chữ ký của ông Đỗ Văn Sơn, Đỗ Văn Phát, bà Nguyễn Ngọc Nữ.
Trong vụ án này, để xác định bị cáo có hành vi gian dối, có ý thức chiếm đoạt
50
hay không cần phải làm rõ khi nào bị cáo biết chứng thư bảo lãnh là giả, cần
phải làm rõ bị cáo thuê làm chứng thư giả hay chứng thư thật, cần phải đối chất
làm rõ giữa bị cáo, ông Sơn, ông Phát vì sao có các biên nhận nhận tiền và các
biên nhận này có liên quan đến việc làm chứng thư bảo lãnh? Việc CQĐT tách
ông Sơn, ông Phát, bà Nữ ra giải quyết thành vụ án khác là chưa xem xét toàn
diện vụ án. Ngoài ra, cần phải làm rõ việc mua dầu sử dụng cho cá nhân Đức
hay sử dụng cho hoạt động của công ty Việt Tuấn. Từ đó, mới xác định rõ yếu
tố gian dối, cũng như trách nhiệm cụ thể của bị cáo và Công ty.
- Chưa làm rõ mục đích chiếm đoạt
Mục đích chiếm đoạt là hành vi khách quan trong tội Lừa đảo CĐTS
nhưng trong thực tế các cơ quan tố tụng thường chỉ chú ý đến yếu tố gian dối
mà ít chú ý đến yếu tố chiếm đoạt, cứ có thủ đoạn gian dối là quy kết phạm tội,
dẫn đến bị hủy án. Điển hình là vụ Trần Quốc Dũng “Lừa đảo CĐTS”, trong
vụ án này bà Trần Thị Hồng là chủ sở hữu căn nhà 29B Điện Biên Phủ, quận
Bình Thạnh. Bà Hồng đưa giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở cùng tờ khai trước bạ cho con là Trần Quốc Dũng cất giữ. Do cần
tiền thực hiện việc góp vốn kinh doanh nên Dũng làm giả giấy ủy quyền với
nội dung bà Hồng ủy quyền cho Dũng được quyền mua bán, sang nhượng, cầm
cố, sau đó thế chấp giấy tờ nhà để vay của bà Trần Thị Kiều Trang
1.500.000.000đ trong thời hạn 1 tháng. Do Dũng không trả lãi đúng hẹn nên bà
Trang tìm hiểu và phát hiện giấy ủy quyền giả nên làm đơn tố cáo. Sau đó,
CQĐT đã thu hồi trả lại cho bà Trang số tiền 1.500.000.000đ. Như vậy, thủ
đoạn gian dối của Trần Quốc Dũng khi làm giả hoặc sử dụng giấy ủy quyền giả
chỉ thể hiện mục đích là để vay được tiền của bà Trần Thị Kiều Trang chứ chưa
thể hiện ý thức chiếm đoạt. CQĐT chỉ làm rõ được Trần Quốc Dũng có thủ
đoạn gian dối khi sử dụng tài sản không thuộc sử hữu của mình để bảo đảm
51
thực hiện nghĩa vụ cho hợp đồng vay tài sản, chứ chưa chứng minh “hành vi
CĐTS” của Trần Quốc Dũng, đó đó vụ án được trả hồ sơ để điều tra lại.
- Chưa làm rõ số tiền chiếm đoạt
Đây là dạng vi phạm phổ biến nhất của cấp sơ thẩm dẫn đến án bị trả
điều tra bổ sung hoặc cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại, thường được thể
hiện dưới các dạng như sau:
Thứ nhất là mua tài sản nhưng chỉ trả một phần để nhận tài sản và sau đó
chiếm đoạt tài sản đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định tài sản chiếm đoạt là
toàn bộ trị giá tài sản hay trừ đi phần tiền đã trả. Điển hình là vụ Vũ Đình Quý
“Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có hành vi mua xe SH Mode dưới hình thức trả góp,
đưa trước 21 triệu, nhận xe, số còn lại trả góp cho Ngân hàng là 36 triệu. Trong
vụ án này số tiền chiếm đoạt là khoản tiền phải trả góp cho Ngân hàng, nhưng
CQĐT xác định số tiền chiếm đoạt là trị giá chiếc xe chiếm đoạt, còn số tiền
đưa trước 21 triệu là để tạo lòng tin nhằm nhận được tài sản, được trừ vào trách
nhiệm dân sự là chưa chính xác.
Thứ hai là lời khai của bị cáo và người bị hại về số tiền chiếm đoạt có
mâu thuẫn nhau nhưng không làm rõ mà kết luận theo số liệu của người bị hại,
gây bất lợi cho bị cáo. Như vụ án Bùi Thị Mỹ Dung “Lừa đảo CĐTS” trong
việc chơi huê hụi. Trong vụ án này việc chơi huê chỉ dựa vào lòng tin và thỏa
thuận miệng giữa các bên, không có giấy tờ ghi nhận rõ ràng số lần đóng, số
tiền đóng, những người tham gia đóng và hốt huê. Dung thừa nhận có nợ tiền
của các con huê, có người thì Dung nhớ số tiền nợ, có người Dung không nhớ
nợ bao nhiêu, có người Dung không thừa nhận nợ. Mặc dù đã cho tiến hành đối
chất nhưng bị cáo và người bị hại vẫn khai khác nhau, số tiền các bị cáo thừa
nhận nợ thấp hơn số tiền các bị hại khai rất nhiều. CQĐT căn cứ vào lời khai
của những người chơi huê về số tiền đã đóng huê và hốt huê, từ đó kết luận số
tiền các bị cáo chiếm đoạt tiền của các con huê là có thiếu sót về thu thập chứng
52
cứ. Lẽ ra trong quá trình điều tra, để chứng minh thủ đoạn phạm tội và số tiền
chiếm đoạt thì CQĐT phải làm rõ và lập bảng kê từng dây huê có bao nhiêu
con huê tham gia, số phần mỗi con huê tham gia, người hốt huê thực tế trong
mỗi kỳ để có số liệu chính xác, rõ ràng, có xác nhận của người tham gia dây
huê, làm cơ sở cho việc đấu tranh với các bị cáo, nhưng CQĐT không thực
hiện, do vậy chứng cứ để kết luận về thủ đoạn lừa đảo và quy kết số tiền các bị
cáo chiếm đoạt là không rõ ràng, chưa đầy đủ và không có tính thuyết phục.
- Thu thập chứng cứ chưa đầy đủ
Đây cũng là dạng vi phạm phổ biến, dẫn đến việc phải trả hồ sơ điều tra
bổ sung nhiều lần hoặc hủy án. Như vụ Nguyễn Hồng Mạnh “Lừa đảo CĐTS”,
bị cáo thành lập Công ty Tư vấn đầu tư Kinh Bắc với 22 ngành nghề kinh doanh.
Mặc dù Công ty hầu như không hoạt động kinh doanh như giấy phép được cấp,
không nhận được dự án nào ngoài việc làm báo cáo thuế cho một công ty mới
thành lập, nhưng Mạnh đã ký các hợp đồng tuyển dụng lao động vào làm việc
tại Công ty với chức danh là Kế toán, nhân viên tư vấn và yêu cầu người lao
động đóng tiền “Ký quỹ trách nhiệm”, số tiền này Mạnh hứa trả cho những
người lao động khi họ nghỉ việc. Sau khi tuyển dụng xong, Mạnh không bố trí
được công việc và không trả lương đầy đủ cho người lao động đến khi họ xin
nghỉ việc do không có việc làm thì Mạnh không trả lại tiền Ký quỹ. Với thủ
đoạn trên Mạnh đã nhận tiền ký quỹ của 7 người với số tiền 140 triệu. Ngoài ra
Mạnh còn rủ chị Phạm Thị Hoa góp 360 triệu chung với Mạnh mua đất nhưng
sau đó không mua đất và không trả tiền; hứa hẹn có khả năng làm dịch vụ tách
thửa đất để nhận của chị Nguyễn Thị Dịu và anh Nguyễn Văn Tánh 50 triệu
đồng nhưng sau đó không làm. Mạnh cho rằng bản thân bị oan và do đối với
khoản tiền ký quỹ trách nhiệm của 7 người thì có 4 người có đơn xin rút đơn tố
cáo, do họ chỉ muốn làm đơn để Mạnh trả lại tiền. Mạnh cho rằng có sắp xếp
công việc đúng hợp đồng, trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy
53
đủ và có thông báo trước về lý do chưa thanh lý hợp đồng, trả số tiền ký quỹ
trách nhiệm” còn lại Mạnh chưa trả sẽ kiện bằng vụ kiện dân sự khác. Ông
Tánh và bà Dịu có đơn yêu cầu không xử lý hình sự đối với khoản tiền 50 triệu
đưa cho Mạnh vì đó là hợp đồng dịch vụ Mạnh nhận để làm dịch vụ chuyển
quyền sử dụng đất và tách thửa. Quá trình điều tra bị cáo Mạnh khai có đến
Phòng Tài nguyên và Môi trường hỏi thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất thì
được biết diện tích đất trên chưa cho chuyển mục đích. Để có cơ sở quy kết bị
cáo chiếm đoạt tiền của ông Tánh và bà Dịu cần điều tra bị cáo Mạnh có thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng dịch vụ hay không? Giữa các bên có thỏa thuận gì sau
khi hết thời hạn cam kết của hợp đồng dịch vụ? Tình tiết này cấp sơ thẩm chưa
cho đối chất làm rõ. Do vậy Tòa án cấp cao đã hủy án để điều tra lại.
Thực trạng các vụ án Lừa đảo CĐTS bị hủy nêu trên cho thấy còn nhiều
tồn tại thiếu sót trong việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ, xác định tội
danh, xác định các yếu tố cấu thành tội phạm, áp dụng pháp luật cũng như việc
tuân thủ pháp luật TTHS. Những tồn tại thiếu sót này thuộc về trách nhiệm của
VKS khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự.
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn
chế khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa
đảo CĐTS” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Một là, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều thủ
đoạn phạm tội mới, ngày càng tinh vi, gây khó khăn cho việc chứng minh tội
phạm. Như vụ Ngô Thùy Lan “Lừa đảo CĐTS”, thủ đoạn của bị cáo là thỏa
thuận mua nhà, giao trước một số tiền nhỏ và hứa sang tên xong sẽ trả nốt,
nhưng sau khi làm thủ tục sang tên nhà, các bị cáo đã chuyển nhượng cho người
khác, không trả tiền mua nhà. Trường hợp này có yếu tố gian dối với cả người
54
mua nhà trước đó và người bán nhà sau này, người bán nhà trước đó bị thiệt hại
vì không lấy được tiền bán nhà nhưng rất khó chứng minh yếu tố chiếm đoạt vì
về mặt hình thức đây là quan hệ dân sự. Hoặc việc chứng minh yếu tố gian dối
và chiếm đoạt trong trường hợp vay tiền để làm ăn hoặc chơi huê hụi với nhau,
sau đó không có khả năng trả nợ.
- Hai là, việc thu thập chứng cứ trong một số vụ án hết sức khó khăn,
nhất là việc chứng minh số tiền chiếm đoạt trong các vụ án liên quan đến quan
hệ vay mượn, huê hụi. Trong các vụ này việc vay mượn tiền và chơi huê hụi
diễn ra nhiều lần, trong một thời gian dài; khi mượn tiền hoặc đóng huê không
làm giấy tờ, chỉ dựa trên lòng tin, hoặc có làm giấy tờ nhưng không cụ thể từng
khoản, từng ngày, ghi chép, theo dõi không đầy đủ, lẫn lộn giữa các khoản trả
gốc, trả lãi; dẫn đến chứng cứ chứng minh số tiền vay và trả không rõ ràng,
trong khi đó thời gian xảy ra đã lâu, các bên không nhớ rõ nên khai không thống
nhất, mâu thuẫn. Mặt khác trong số tiền đã nhận thì phần chiếm đoạt và phần
sử dụng đúng mục đích không rõ ràng. Khi chứng cứ không thu thập được, cơ
quan tố tụng cân đối đầu vào, đầu ra, kết luận số tiền chênh lệch là số chiếm
đoạt hoặc kết luận theo số liệu người bị hại, dẫn đến bị hủy án.
- Ba là, một số quy định của pháp luật hình sự chưa cụ thể, rõ ràng mang
ý nghĩa chung chung chậm sửa đổi, bổ sung. Trong khi công tác hướng dẫn,
giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền chưa được thường xuyên sâu
sát và đồng bộ, đây là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng thiếu thống nhất trong
nhận thức và áp dụng pháp luật, từ đó làm cho việc giải quyết nhiều vụ án
gặp khó khăn, xảy ra vi phạm, thiếu sót. Cụ thể: BLTTHS và Luật tổ chức
VKSND chủ yếu quy định các nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi tham gia giải
quyết các vụ án hình sự trong khi quyền hạn thì lại rất hạn chế, thiếu những quy
phạm bảo đảm cơ chế hoạt động công tố gắn kết với hoạt động điều tra. Nội
dung Luật tổ chức VKSND năm 2014 còn nặng về những quy định chung chung
55
về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiếm sát viên, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể
nên hiệu quả thấp. Vì thế cần bổ sung quy định pháp luật cho các quyền tương
ứng với quyền năng pháp lý của VKS và KSV trong thực hành quyền công tố
để thực thi nhiệm vụ của mình.
Tồn tại một số những bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự
như dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là “dùng thủ đoạn gian
dối” với dấu hiệu của một số tội thuộc chương sở hữu và các tội phạm khác
nhưng chưa có một văn bản nào hướng dẫn chi tiết, cụ thể phân biệt các loại tội
phạm này, cũng như định nghĩa thế nào là “thủ đoạn gian dối”, “thủ đoạn xảo
quyệt” nên còn có sự chưa thống nhất giữa các cơ quan tố tụng trong việc nhận
thức và áp dụng pháp luật quá trình giải quyết vụ án…
Ngoài ra, Trong mối quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra: Theo quy
định thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và quyết định của
VKS nhưng trên thực tế, do chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với
CQĐT nên nhiều yêu cầu của Kiểm sát viên trong tiếp nhận, giải quyết nguồn
tin tội phạm và yêu cầu điều tra đã không được thực hiện.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Một là, KSV được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra vụ án còn hạn chế về năng lực và chưa làm hết trách nhiệm được giao trong
quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án
không kịp thời phát hiện những những vi phạm, thiếu sót của CQĐT. Thể hiên
trước tiên là KSV được phân công THQCT được đề ra yêu cầu điều tra để định
hướng điều tra, góp phần giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, chính xác
nhưng thực tiễn nhận thấy do thiếu tinh thần trách nhiệm, không theo dõi sát
vụ án cũng như do hạn chế về năng lực nghiệp vụ nên xảy ra tình trạng chất
lượng yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên chưa thực sự đảm bảo, một số vụ án
có nội dung yêu cầu điều tra còn chung chung, mang tính hình thức, không sát
56
với nội dung cần chứng minh, mang tính sao chép, chưa định hướng thu thập
chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm của vụ án Lừa đảo CĐTS; trong quá
trình điều tra không kịp thời yêu cầu làm rõ những vấn đề quan trọng để chứng
minh hành vi phạm tội và người phạm tội; khi kết thúc điều tra không thực hiện
các hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, nhân chứng, xác minh
khi bị can kêu oan, có mâu thuẫn trong lời khai, tài liệu chứng cứ trong hồ sơ
vụ án; còn nặng tư duy buộc tội, chỉ tập trung xem xét, đánh giá các chứng cứ
buộc tội, không quan tâm đến việc thu thập đánh giá chứng cứ gỡ tội. Đây trước
hết thuộc về lỗi chủ quan của KSV. Bên cạnh đó còn có trách nhiệm của lãnh
đạo VKS đã không kiểm tra chặt chẽ các hoạt động nghiệp vụ để chỉ đạo xử lý
kịp thời các vướng mắc và định hướng cho KSV trong quá trình thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra, đặc biệt là các vụ án phức tạp, chứng cứ
yếu.
Việc chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo viện trong thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có lúc chưa hợp lý, thiếu tính khoa
học nên chưa phát huy hết năng lực sở trường công tác của Kiểm sát viên cũng
như đôi lúc còn chưa sâu sát, chưa thường xuyên kiểm tra đôn đốc cán bộ KSV,
Kiểm tra viên thực hiện đầy đủ các chức năng theo BLTTHS quy định.
- Hai là, công tác phối hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm chưa được chú trọng. Thể hiện ở nhiều vụ án phức tạp, có vướng
mắc, nhưng VKS cấp sơ thẩm không báo cáo xin ý kiến VKS cấp trên, sau đó
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy án. Công tác tổng kết thực tiễn tại một số địa
phương chưa được chú trọng, các vụ án Tòa tuyên hủy án để điều tra, xét xử lại
chưa được tổng kết, phân tích để rút kinh nghiệm về công tác nghiệp vụ và công
tác quản lý, chỉ đạo; việc triển khai thực hiện chuyên đề nghiệp vụ, thông báo
rút kinh nghiệm còn mang tính hình thức, kém hiệu quả khi còn nặng về số liệu
57
nhưng chưa đúc kết ra được bài học kinh nghiệm, kỹ năng trong thực tiễn cho
KSV học hỏi để áp dụng vào hoạt động THQCT.
58
Tiểu kết chương 2
Trong chương này tác giả tập trung nghiên cứu về thực tiễn áp dụng tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, phân tích các kết quả
đã đạt được thể hiện vai trò của VKS trong việc đảm bảo việc điều tra đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất
định như những vi phạm, sai lầm và những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đó đi sâu
vào những vi phạm, hạn chế, thiếu sót của CQĐT và VKS trong quá trình giải
quyết vụ án, những vi phạm về tố tụng, đánh giá, thu thập chứng cứ cũng như
sai phạm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc
bị Tòa tuyên hủy án. Từ những vi phạm và thiếu sót trong thưc tiễn đã nêu, tác
giả đề ra một số giải pháp khắc phục và nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trong thời gian tới.
59
Chương 3:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CĐTS
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ
án hình sự nhưng cần bổ sung thêm một số quy định để tăng cường hiệu quả
hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, cần quy định cụ thể hơn
Kiểm sát viên có những quyền hạn, nhiệm vụ gì khi là người đại diện cho VKS
thực hành quyền công tố nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của Kiểm sát viên
đối với những quyết định của mình.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng cần quy định đối với yêu cầu,
quyết định của KSV phải được CQĐT, những người tham gia tố tụng thực hiện
nghiêm, nếu không thì có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm
hình sự, tránh tình trạng do không có chế tài dẫn đến hiện trạng CQĐT không
chú trọng thực hiện yêu cầu điều tra của VKS dẫn đến vi phạm trong việc giải
quyết vụ án. Kèm theo đó là quy định Kiểm sát viên cũng sẽ chịu trách nhiệm
pháp lý đối với các yêu cầu, quyết định của mình nếu các yêu cầu, quyết định
đó không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật.
3.2. Giải pháp khác
3.2.1. Quán triệt và thực hiện các yêu cầu trong hoạt động nghiệp vụ
Trong quá trình giải quyết các vụ án Lừa đảo CĐTS, cần chú ý thực hiện
tốt một số yêu cầu nghiệp vụ sau đây:
Thứ nhất, VKS có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT. Phần lớn các vụ án Lừa đảo
CĐTS đều có một khoảng thời gian xác minh khá dài trước khi khởi tố. Hoạt
60
động xác minh tố giác, tin báo tội phạm có vai trò rất quan trọng, nếu giai đoạn
này thực hiện tốt thì sẽ thuận lợi cho giai đoạn điều tra sau này. Tuy thời hạn
xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tối đa chỉ có 2 tháng nhưng
nhiều trường hợp phức tạp, cần có nhiều thời gian xác minh, có thể xảy ra
trường hợp vi phạm về thời hạn xác minh tố giác, tin báo tội phạm nhưng cũng
phải làm thật kỹ trước khi khởi tố. Trong quá trình xác minh tố giác, tin báo tội
phạm, cần chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh để CQĐT thực hiện. Chú
ý về địa điểm thực hiện hành vi phạm tội để xác định thẩm quyền giải quyết
cho chính xác. Trong trường hợp CQĐT có vi phạm pháp luật trong hoạt động
kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm
mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng CQĐT không thực hiện, không khắc
phục thì VKS phải trực tiếp xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015.
Thứ hai, khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, xét phê chuẩn
biện pháp ngăn chặn, cần chú ý xem hành vi bị khởi tố bị can có nằm trong căn
cứ khởi tố vụ án không; nếu thấy chứng cứ còn yếu hoặc có mâu thuẫn thì VKS
phải yêu cầu CQĐT xác minh, tuyệt đối không nể nang phê chuẩn trước, bổ
sung tài liệu, chứng cứ sau. Trường hợp CQĐT không bổ sung tài liệu, chứng
cứ mà vẫn đề nghị phê chuẩn, hoặc trường hợp người bị khởi tố không nhận
tội, tài liệu chứng cứ chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì KSV phải trực tiếp lấy lời
khai người bị khởi tố, bị hại, nhân chứng để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng
cứ nhằm bảo đảm việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp
ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật, coi đây là yêu cầu nghiệp vụ bắt buộc đối
với KSV. Nếu sau khi thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ vẫn không đủ căn cứ
thì kiên quyết không phê chuẩn hoặc ban hành quyết định hủy bỏ các quyết
định cảu CQĐT theo luật định.
61
Thứ ba, đặc biệt chú trọng thực hiện việc đề ra yêu cầu điều tra đối với
tất cả các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đây là thao tác nghiệp vụ có mục đích phối
hợp và định hướng cho CQĐT những vấn đề cần thực hiện trong quá trình điều
tra thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội, kịp thời
giải quyết và làm rõ mâu thuẫn trong các tài liệu chứng cứ để đảm bảo giải
quyết vụ án đúng người, đúng tội. Việc đề ra yêu cầu điều tra phải đạt được
mục đích làm rõ tất cả các khía cạnh có liên quan đến giao dịch giữa người
phạm tội và người bị hại. Ngoài yêu cầu chung về hình thức, kết cấu, nội dung
thì yêu cầu điều tra phải phù hợp đặc điểm của tội Lừa đảo CĐTS. Thực tiễn
cho thấy nội dung trọng tâm cần đề ra yêu cầu điều tra trong tội Lừa đảo CĐTS
là:
- Làm rõ thủ đoạn gian dối, nhất là hành vi gian dối trong trường hợp vay
tiền để làm ăn sau đó không có khả năng trả nợ; quan hệ huê hụi với nhau, sau
đó không có khả năng trả tiền huê; gian dối trong trường hợp dùng giấy tờ giả
nhưng người bị khởi tố cho rằng không biết đó là giấy tờ giả. Cần phải làm rõ
gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt hay gian dối để được giao kết hợp đồng
nhưng không có mục đích chiếm đoạt, từ đó xác định đây là hành vi phạm tội
vay hay vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự.
- Làm rõ mục đích chiếm đoạt, hành vi gian dối có quyết định việc chiếm
đoạt không, tài sản bị mất do bị chiếm đoạt hay vì lý do khách quan.
- Làm rõ thời điểm thực hiện hành vi gian dối và hoàn thành việc chiếm
đoạt để định tội danh chính xác.
- Làm rõ tư cách của các bên trong giao dịch, quyền sở hữu, quản lý đối
với tài sản mang đi giao dịch, từ đó xác định chính xác tư cách tham gia tố tụng,
nhất là trường hợp người quản lý tài sản không phải chủ sở hữu tài sản, tài sản
của doanh nghiệp, tài sản được sang tên trái phép.
62
- Làm rõ số tiền chiếm đoạt, nhất là trường hợp chiếm đoạt một phần, sử
dụng đúng mục đích một phần; trường hợp gian dối để vay tiền sau đó có trả
lãi; trường hợp lời khai bị can và bị hại về số tiền chiếm đoạt có mâu thuẫn
nhau; phải làm rõ từng khoản tiền chiếm đoạt cụ thể vào thời gian nào, số tiền
bao nhiêu, bằng thủ đoạn gì, không được kết luận trên cơ sở duy diễn bị can
không chứng minh được mục đích sử dụng hợp pháp thì xem là chiếm đoạt.
- Làm rõ hành vi của người có liên quan đến giao dịch, nhất là vai trò
của vợ hoặc chồng người phạm tội; người bày mưu, xúi giục, giúp sức và người
có tham gia một công đoạn nào đó trong quá trình làm cho người bị hại tin
tưởng, giao tài sản cho người phạm tội.
- Làm rõ các hành vi có liên quan đến hành vi phạm tội như dùng các tài
liệu giả của cơ quan tổ chức hoặc còn có hành vi nào khác không, các hành vi
này có dấu hiệu phạm tội độc lập không.
Thứ tư, phải chủ động bám sát quá trình điều tra, theo dõi chặt chẽ tiến
độ điều tra, kịp thời yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan vụ án
để phục vụ công tác thực hành quyền công tố. Trong trường hợp phát hiện có
dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm và VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng
CQĐT không khắc phục thì KSV phải trực tiếp tiến hành các hoạt động điều
tra theo quy định, xem đây là yêu cầu nghiệp vụ bắt buộc thể hiện sự tăng cường
trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Trong
quá trình kiểm sát khi có những vụ án phức tạp, có khó khăn, vướng mắc về
đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đường lối xử lý hoặc bất đồng quan điểm
giữa các bên trong xử lý vụ án, KSV cần kịp thời báo cáo xin ý kiến của lãnh
đạo Liên ngành cùng cấp để thống nhất giải quyết; nếu các bên không thống
nhất được thì báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Liên ngành cấp trên.
Thứ năm, KSV cùng với ĐTV phải có sự phối hợp rà soát lại toàn bộ
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra các thủ tục tố tụng đối với vụ án, bị
63
can trước khi kết thúc điều tra, trong trường hợp cần thiết, KSV có thể trực tiếp
cùng với ĐTV tổng hợp bản cung để đánh giá toàn diện, khách quan tính chất;
mức độ phạm tội của từng bị can trong vụ án. Bên cạnh đó, qua việc rà soát lại
toàn bộ vụ án trước khi kết thúc điều tra giúp CQĐT kịp thời phát hiện và khắc
phục những vi phạm hoặc thiếu sót trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ.
Ngoài ra, do đặc trưng của tội Lừa đảo CĐTS, cần mô hình hóa nội dung vụ án
để xác định các mối liên hệ trong quá trình thực hiện tội phạm, đường đi dòng
tiền nhằm đánh giá tổng thể vụ án và phát hiện những mối liên hệ cần làm rõ.
Thực tiễn công tác xử lý tội phạm về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhận thấy
các đối tượng phạm tội thực hiện tội phạm một cách tinh vi, xảo quyệt thường
quanh co chối tội, nên khi gặp các trường hợp này, KSV cần trực tiếp hỏi cung
bị can để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc không nhận tội của bị can, từ
đó phối hợp và yêu cầu CQĐT thu thập, bổ sung tất cả các chứng cứ cả buộc
tội và gỡ tội, hạn chế tình trạng kết thúc điều tra vụ án mới phát hiện vấn đề và
trả hồ sơ điều tra bổ sung. Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ cho
VKS truy tố, KSV được phân công nghiên cứu kỹ hồ sơ trong thời hạn luật
định, thực hiện việc phúc cung tổng hợp đối với từng bị can, phát hiện kịp thời
những mâu thuẫn trong vụ án cần tiếp tục làm rõ từ đó có đường lối xử lý vụ
án, bị can một cách thận trọng, đảm bảo có căn cứ theo luật định.
Thứ sáu, khi quyết định việc truy tố phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc
suy đoán vô tội, tránh đánh giá một chiều, chỉ tập trung xem xét, đánh giá các
chứng cứ buộc tội, không quan tâm đến việc thu thập đánh giá chứng cứ gỡ tội,
khi không có đủ chứng cứ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội thì VKS
phải kết luận người bị buộc tội theo hướng không có tội. Đảm bảo nguyên tắc
không sử dụng chứng cứ là các tài liệu có vi phạm tố tụng làm để làm căn cứ
phê chuẩn các quyết định của CQĐT hay kết tội, truy tố bị can.
64
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác phối
hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm
Chất lượng và hiệu quả công tác giải quyết án hình sự phần lớn do ảnh
hưởng trực tiếp từ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Công tác phối hợp,
thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm có vai trò hỗ trợ tích
cực cho hoạt động giải quyết án. Do vậy nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo,
điều hành và tăng cường công tác phối hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực
tiễn, rút kinh nghiệm là yếu tố quan trọng nhằm hạn chế các sai lầm trong
nghiệp vụ dẫn đến Tòa án tuyên không phạm tội hoặc hủy án để điều tra lại, cụ
thể:
Thứ nhất, Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các
hoạt động nghiệp vụ của KSV ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là kiểm tra việc
thực hiện các yêu cầu nghiệp vụ về kiểm sát việc khởi tố, đề ra yêu cầu điều
tra, kiểm sát việc lập hồ sơ, kiểm sát việc kết thúc điều tra, đề xuất truy tố, xử
lý vụ án; Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc trong
quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, phải thực sự thể hiện vai
trò, trách nhiệm đối với công việc. Đối với các vụ án phức tạp, cần phân công
KSV có kinh nghiệm, có năng lực làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra. Lãnh đạo cũng cần phải theo dõi chỉ đạo sát sao và xử lý kịp thời
những vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án này.
Thứ hai, Lãnh đạo có trách nhiệm trực tiếp kiểm tra tài liệu, chứng cứ
nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm, thiếu sót cũng như những mâu thuẫn
trong tác tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và hạn chế trong nghiên cứu,
đánh giá, đề xuất của KSV trong quá trình điều tra đối những vụ án phức tạp,
bị can không nhận tội, từ đó chỉ đạo kịp thời đối với KSV tiến hành một số hoạt
động điều tra trước khi phê chuẩn các quyết định hoặc quyết định truy tố. Phát
huy trí tuệ tập thể trong quá trình đánh giá chứng cứ. Khi có quan điểm khác
65
nhau về đánh giá chứng cứ và đường lối giải quyết vụ án thì VKS phải chủ
động họp liên ngành với CQĐT, có thể mời Tòa án tham gia họp, nếu không
thống nhất có thể báo cáo VKSND cấp trên xin ý kiến bởi BLTTHS, Luật tổ
chức VKSND, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Cơ quan điều tra
quy định mang tính nguyên tắc trong mối quan hệ phối của VKSND với CQĐT,
Tòa án và nội dung này đã nên được các cơ quan có thẩm quyền cần cụ thể để
áp dụng thống nhất, phù hợp với quy định của pháp luật
Thứ ba, KSV thụ lý vụ án phải báo cáo đầy đủ các tình tiết của vụ án,
một cách trung thực, khách quan, cả các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội;
vấn đề dân sự, biện pháp tư pháp và những vướng mắc khi xử lý vụ án khi phê
chuẩn khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định việc truy tố và các tình
tiết nhân thân người phạm tội.
Thứ tư, khi xảy ra sai sót trong hoạt động nghiệp vụ, bị Tòa án cấp trên
tuyên hủy án để điều tra lại, cần nghiêm túc kiểm điểm làm rõ nguyên nhân và
trách nhiệm cá nhân của KSV, của Lãnh đạo Viện chỉ đạo. Lãnh đạo phải
nghiêm túc trong việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và chịu trách nhiệm, không
đẩy hết trách nhiệm cho KSV.
Thứ năm, VKS các cấp cần tiến hành phân tích, tổng hợp những vấn đề
cần khắc phục trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành, để rút kinh nghiệm thông qua các vi phạm, thiếu sót dẫn đến Tòa án tuyên
hủy án để điều tra, xét xử lại, hoặc trả điều tra bổ sung để tránh việc xảy các vi
phạm tương tự. Các KSV thông qua các Thông báo rút kinh nghiệm những vụ
án cấp trên hủy, sửa hoặc những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án cụ thể đã
giải quyết để rút kinh nghiệm bản thân và trao dồi, học hỏi từ đồng nghiệp nhằm
nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án Lừa đảo CĐTS.
66
3.2.3. Củng cố và tăng cường trong bố trí nhân lực và các điều kiện đảm
bảo công tác
Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên
Thứ nhất, lãnh đạo VKS tối cao và VKS địa phương cần thường xuyên
tổ chức các hội nghị tập huấn các chuyên đề chuyên sâu mà thực tế đòi hỏi như
nâng cao kỹ năng THQCT kiểm sát điều tra hoặc trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra về tội “Lừa đảo CĐTS”. Ngoài ra, nâng cao chất lượng trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, kỹ
năng nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên cũng là vấn đề cần được quan tâm
và chú trọng hàng đầu bởi đây là lực lượng chính thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Ngành. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức và tạo điều kiện cho Kiểm
sát viên phát huy và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị theo tinh
thần lời dạy của Bác Hồ: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và
khiêm tốn.
Thứ hai, chính bản thân Kiểm sát viên phải có ý thức được tầm quan
trọng của việc trau dồi kiến thức, tích cực học tập để nắm vững các quy định
pháp luật hình sự cùng những ngành luật khác và có hiểu biết nhất định về các
chuyên ngành khác để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ từ đó giúp
Kiểm sát viên có đủ tự tin, kỹ năng nghiệp vụ vững vàng, có đủ khả năng đánh
giá chính xác hiệu quả hoạt động điều tra của CQĐT đồng thời phát hiện những
vi phạm, thiếu sót để kịp thời khắc phục, giải quyết.
Thứ ba, Lãnh đạo cần quan tâm chú trọng đến công tác bố trí nguồn nhân
lực phù hợp với năng lực. trình độ của từng cá nhân, phát động các phong trào
thi đua, khen thưởng gắn với việc phát huy tinh thần rèn luyện phấn đấu, từ đó
nâng cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực cống hiến của mỗi cá nhân trong công
tác chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
67
Các giải pháp bảo đảm cơ sở vật chất và chế độ chính sách đối với Kiểm
sát viên
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là yếu tố quan trọng mà Đảng và
Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng để hỗ trợ phục vụ công tác của các cơ
quan như xây dựng nhiều trụ sở mới đảm bảo nơi làm việc cho cán bộ, công
chức; mua sắm trang thiết bị công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu công việc;
thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đối với cán bộ công chức trong ngành Kiểm
sát. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay thì vẫn không đáp ứng đủ bởi
vẫn còn tình trạng khó khăn, thiếu thốn, nhất là trụ sở làm việc, phương tiện đi
lại, đặc biệt là các phương tiện công nghệ như máy vi tính và máy phô tô, các
chương trình quản lý án chuyên dụng để hỗ trợ cho công tác thống kê, quản lý,
các công cụ, phương tiện thích hợp cho việc số hóa hồ sơ vụ án và lưu trữ, bảo
mật chúng.
Bên cạnh đó, vấn đề về chế độ lương, phụ cấp của ngành còn thấp, chưa
tương xứng với khối lượng công việc và trách nhiệm phải gánh vác nên đời
sống của cán bộ công chức ngành Kiểm sát còn gặp nhiều khó khăn, đã ảnh
hưởng phần nào đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì
vậy, cần có chế độ chính sách về tiền lương, phụ cấp phù hợp với lượng công
việc và trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành kiểm sát để họ đảm bảo cuộc
sống và quan tâm đến việc cải thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác được hiệu
quả hơn. Việc quan tâm đến chế độ đối với con người và cơ sở vật chất góp
phần đảm bảo các điều kiện cuộc sống, môi trường làm việc của cán bộ công
chức để họ an tâm công tác và tập trung phấn đấu trong công tác chuyên môn,
nghiệp vụ cũng như góp phần thu hút những người có năng lực đóng góp cho
Ngành.
68
69
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, hoạt động điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa
đảo CĐTS nói riêng về cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
đã khắc phục được nhiều tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử; nhờ đó tình hình oan, sai đã được hạn chế đáng kể so với trước đây. Những
kết quả tích cực từ thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy đội ngũ Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã làm tốt công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, góp phần bảo vệ pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, thì công tác điều tra
án Lừa đảo CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, vi phạm,
dẫn đến phải trả điều tra bổ sung hoặc bị TAND cấp phúc thẩm tuyên hủy án
để điều tra, xét xử lại. Từ những hạn chế, thiếu sót đã nêu, tác giả đề ra một số
đề xuất, kiến nghị khắc phục vi phạm và nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố nói chung và trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả đã đánh giá khái quát tình hình
điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và hệ
thống hóa các vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến hủy
án trong thời gian 5 năm gần đây để cùng nghiên cứu, trao đổi. Trên cơ sở đó
đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều
tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, hạn chế tình
trạng bị hủy án trong thời gian tới.
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý Văn Chính (2005) “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2005, tr.48-51.
2. Hoàng Xuân Đàn (2018) Thực hành quyền công tố trong điều tra các
VAHS ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Hậu (2013) “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát điều tra của VKSND”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp 1/2013, tr.25-
27.
4. Trần Thị Phương Hiền (2007) Tội lừa đảo CĐTS - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Lê Thị Tuyết Hoa (2012) “Một số nội dung trọng tâm để thực hiện
chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu
cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 16/2012, tr.9-12;20.
6. Lê Thị Tuyết Hoa (2014) “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra”, Tạp chí Kiểm sát, số 08/2014, tr.2-8.
7. Đặng Thị Thanh Huyền (2016) Tội lừa đảo CĐTS trong pháp luật hình
sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
8. Tống Kim Hương (2013) “Về kiểm sát điều tra VAHS và mối quan hệ
giữa kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố trong TTHS”, Tạp chí Kiểm
sát, số 6/2013, tr.38-41.
9. Đoàn Tạ Cửu Long (2014), Hoạt động của VKSND trong điều tra
VAHS, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
10. Hoàng Nghĩa Mai (2008) “Nâng cao trách nhiệm của VKS và KSV
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ
thẩm các VAHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2008, tr.39-43.
11. Trần Đình Nhã (2014) “Công tố và thực hành quyền công tố trong
TTHS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21/2014, tr.29-33.
12. Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn truy tố,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Trần Công Phàn (2012) “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 02/2012, tr.39-41;46.
14. Nguyễn Hải Phong (chủ biên) (2013) Một số vấn đề về tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
15. Nguyễn Hải Phong (2008) “Nâng cao chất lượng THQCT, kiểm sát
điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm các VAHS nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa các cơ quan THTT”, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2008, tr.9-
16.
16. Đinh Văn Quế (2007) Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng
trong BLHS và Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Đinh Văn Quế (2002) Bình luận khoa học BLHS năm 1999 tập II, Nxb
tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Đinh Văn Quế (2005) Pháp luật hình sự, thực tiễn xét xử và án lệ, Nxb
Lao động xã hội, Hà Nội.
19. Quốc hội (2009) Bộ luật hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm
2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm
2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Lê Hữu Thể (2005) “Một số giải pháp nâng cao chất lượng THQCT
và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2005, tr.8-10;11-
15.
22. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, NxbTư pháp, Hà Nội.
23. Trần Đức Thuận (2014) “Một số kinh nghiệm trong hoạt động công tố
và kiểm sát điều tra án hình sự của KSV”, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2014, tr.59-
63.
24. Dương Thị Ngọc Thủy (2008) Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo
CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
25. Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS, ban hành ngày 12/5/2006, Hà Nội.
26. TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (2001) Thông tư liên
tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP về việc hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS
năm 1999, ban hành ngày 25/12/2001, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
28. VKSND tối cao (2002) Những giải pháp nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.
29. VKSND tối cao (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Đề tài khoa học cấp Bộ.
30. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb
Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.
31. Trịnh Tiến Việt (2003) Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb
Giao thông vận tải, Hà Nội.
32. Võ Khánh Vinh (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.