VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHÁNH TOÀN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN

LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHÁNH TOÀN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN

LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LẠI VIẾT QUANG

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa

từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Khánh Toàn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC

HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN “LỪA ĐẢO

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” ............................................................................. 7

1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án

lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................................. 7

1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án

hình sự ......................................................................................................... 26

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI

SẢN” TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 33

2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ

án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ........................ 33

2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 35

2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế khi

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo đảo

chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. ........................ 54

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM

ĐOẠT TÀI SẢN ............................................................................................ 60

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 60

3.2. Giải pháp khác ...................................................................................... 60

KẾT LUẬN .................................................................................................... 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- BLHS : Bộ luật hình sự

- CĐTS : Chiếm đoạt tài sản

- CQĐT : Cơ quan điều tra

- ĐTV : Điều tra viên

- HĐXX : Hội đồng xét xử

- KSV : Kiểm sát viên

- TAND : Tòa án nhân dân

- TNHS : Trách nhiệm hình sự

- TTHS : Tố tụng hình sự

- VAHS : Vụ án hình sự

- VKS : Viện kiểm sát

- VKSND : VKS nhân dân

- XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019 ....................................................... 33

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm chung

từ năm 2015 đến năm 2019. ............................................................................ 34

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo

định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa, các giao dịch

dân sự, kinh tế diễn ra một cách thường xuyên và đạt những thành tựu quan

trọng về phát triển kinh tế - xã hội thì mặt trái của sự phát triển là tình hình tội

phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất,

mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Trong đó, tội Lừa đảo CĐTS là một trong

những tội phạm xảy ra phổ biến trong thời gian qua, gây nhiều biến động trong

xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước.

Trong những năm qua, thông qua công tác Thực hành quyền công tố,

Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử VAHS nói chung, các vụ án Lừa đảo CĐTS

nói riêng, VKSND các cấp đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm

vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Tuy nhiên, qua theo dõi tình hình chung trên toàn quốc, cũng như từ thực

tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng nhiều vụ án Lừa đảo CĐTS cơ quan

tiến hành tố tụng có sai sót trong quá trình điều tra các dẫn đến vụ án bị trả điều

tra bổ sung hoặc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra lại. Theo thống

kê, tại thành phố Hồ Chí Minh, tội Lừa đảo CĐTS bị Tòa án cấp phúc thẩm

hủy để điều tra lại chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại án đã xét xử phúc thẩm.

Để xảy ra những sai sót dẫn đến hủy án có phần trách nhiệm thuộc về VKSND

khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa đảo

CĐTS nói riêng.

1

Về mặt lý luận vẫn còn những nội dung liên quan đến thực hành quyền

công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án liên

quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cần được nghiên cứu một cách

tường minh hơn nhằm phục vụ thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa

có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về thực trạng hoạt động thực hành

quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS từ thực tiễn Thành phố

Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hoạt

động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKSND Thành phố Hồ Chí

Minh, thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS là cần thiết cả về mặt lý luận lẫn

thực tiễn.

Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công

tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố

Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện chưa có công trình nghiên cứu về Thực hành quyền công tố trong

điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS; nhưng có một số công trình nghiên cứu về

hai nhóm vấn đề có tính chất liên quan đến đề tài là “Thực hành quyền công tố

trong điều tra” của VKSND và “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Sách chuyên khảo có các công trình nghiên cứu liên như: "Quyền con

người" của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản

năm 2015; "Chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: Nhìn từ lý thuyết chức

năng" của TS. Đinh Đinh Thị Mai năm 2015 đăng trên tạp chí Nhân lực khoa

học xã hội; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong

giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư

pháp năm 2008; “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư

2

pháp” của Nguyễn Hải Phong (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp

năm 2013.

Luận án Tiến sĩ Luật học có các công trình: “Hoạt động của VKSND

trong điều tra VAHS” của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long, bảo vệ tại Trường Đại

học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

trên địa bàn miền đông nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng

ngừa” của tác giả Bùi Thị Lan Hương, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội

năm 2018.

Luận văn Thạc sĩ Luật học liên quan đến hoạt động thực hành quyền

công tố trong điều tra có công trình: “Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn

truy tố” của Vũ Đức Ninh, bảo vệ tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà

Nội năm 2013; liên quan đến tội Lừa đảo CĐTS có công trình: “Tội lừa đảo

CĐTS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Phương Hiền, bảo vệ

tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2007; “Tội lừa đảo CĐTS

trong pháp luật hình sự Việt Nam” của Đặng Thị Thanh Huyền, bảo vệ tại

Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; “Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo

CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh” của Dương Thị Ngọc Thủy, bảo vệ tại

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2008; "Thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự" của Nguyễn Công Cường bảo

vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; "Thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" của

Phạm Thị Tuyết Chinh, bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;

"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" của Bùi

Trọng Thắng, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; "Tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu thực

tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" của Nguyễn Tiến Dũng, bảo vệ năm 2014 tại Đại

học Quốc gia Hà Nội.... Ngoài ra còn có một số bài viết trên Tạp chí khoa học

3

chuyên ngành bàn về các khía cạnh hoạt động thực hành quyền công tố trong

điều tra.

Qua khảo sát tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn,

thấy rằng các công trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã

làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận,

thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến hoạt

động thực hành quyền công tố trong điều tra VAHS. Tuy nhiên các công trình

nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát, toàn diện nên không trùng lặp về

phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên sâu, chi tiết và thiên về

diễn giải, hướng dẫn thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với Cán bộ

kiểm sát. Đồng thời, các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ những tồn tại,

hạn chế trong hoạt động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKS nói

chung, đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng, để từ đó có những đề xuất

nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thực tiễn.

Những hạn chế trên đã đặt ra yêu cầu phải có công trình chuyên khảo

nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về hoạt động thực hành quyền công

tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn

Thành phố Hồ Chí Minh thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS bị trả điều tra bổ

sung hoặc Tòa án các cấp tuyên hủy để điều tra lại. Trên cơ sở nghiên cứu các

vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến trả điều tra bổ sung

hoặc hủy án để cùng nghiên cứu, nhằm rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp

khắc phục trong thời gian tới. Đây là yêu cầu khách quan, vừa có tính lý luận,

vừa có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời

gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTHS nói

chung, hoạt động của VKSND khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các

4

vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng và thực trạng hoạt động thực hành quyền công

tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS tại Thành phố Hồ Chí Minh, trọng

tâm là những vi phạm trong hoạt động điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS

- Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền

công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nhằm hạn chế tình trạng cấp

phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ

bản về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa

đảo CĐTS; tập trung nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ thực trạng quy

định và thực tiễn áp dụng để làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

Trên cơ sở đó có các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này

trong thực tiễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu về hoạt động

thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS của

các Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Các số liệu khảo sát trong khoảng thời

gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận tiếp cận vấn đề nghiên cứu của Luận văn dựa trên cơ

sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền

Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương

pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê cùng với việc tham khảo kinh

5

nghiệm của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để làm rõ mục đích,

nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề của Luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện

lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo

CĐTS; chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn và nguyên nhân. Từ đó đưa

ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trong thực tiễn.

- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng cho

mục đích tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy. Luận văn cũng đề ra các

đề xuất, kiến nghị có thể dùng vào việc phục vụ cho hoạt động thực tiễn, qua

đó đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác

đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.

7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu gồm phần mở đầu,Bảng chữ cái viết tắt, Bảng kê

mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính được trình bày trong

3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Thực hành quyền công

tố trong điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

các vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

6

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA

VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN”

1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa

đảo chiếm đoạt tài sản

Hoạt động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do một số

cơ quan Nhà nước được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành, hay còn gọi là thực

hiện chức năng, nhiệm vụ. TTHS còn được hiểu là hoạt động của các cơ quan

tiến hành tố tụng từ khi người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cho đến

khi hành vi đó được cơ quan tố tụng hình sự giải quyết bằng quyết định hoặc

bản án của Tòa án. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến

các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, đến lợi ích của Nhà nước,

của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp do luật

định để khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định

của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt. Do

vậy hoạt động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung

của Nhà nước, của xã hội, nhưng khi thực thi phải tuân thủ nghiêm ngặt các

quy định của BLTTHS đã qui định.

Quá trình thực hiện hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn

ra liên tục và nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là:

Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (còn

gọi là giai đoạn tiền khởi tố hoặc giải quyết tin báo, tin tố giác); Giai đoạn điều

tra; Giai đoạn truy tố và giai xét xử.

7

Ngoài ra, trong Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định một số thủ tục như

Thi hành án hình sự; thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm nhưng không phải là

một gia đoạn của tố tụng hình sự.

Về giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình

sự; trong đó cơ quan điều tra trong ngành Công an, trong Quân đội và Bộ đội

Biên phòng và cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng

một số biện pháp nghiệp vụ do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng

cứ, chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội và những vấn đề khác có liên

quan. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân, điều kiện

phạm tội đối với từng vụ án cụ thể để kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, tổ

chức….có các biện pháp phòng ngừa không để xảy ra hành vi phạm tội xảy ra.

Giai đoạn điều tra có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động đặc biệt của

một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành theo qui định của Bộ luật tố tụng

hình sự. Thứ hai, giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu khi CQĐT ra quyết

định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng việc ban hành bản kết luận điều tra,

quyết định truy tố (thủ tục rút gọn) hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án.

Thứ ba, trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp

do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh có sự

việc phạm tội và người thực hiện tội phạm và các tình tiết khác có liên quan

đến vụ án và qua công tác điều tra các loại tội phạm CQĐT sẽ kiến nghị biện

pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan góp phần đấu tranh phòng

chống tội phạm hiệu quả hơn.

Theo Hiến pháp năm 2013, thì VKSND là cơ quan được giao nhiệm vụ

Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm

vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

8

bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất. Như vậy, Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến

định của Ngành Kiểm sát.

Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì Thực hành quyền

công tố “là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc

buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội”. Theo đó, đối tượng của hoạt

động thực hành quyền công tố là tội phạm (là hành vi nguy hiểm cho xã hội có

dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được qui định trong Bộ luật hình sự) và người

bị tình nghi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. VKS có nhiệm vụ

sử dụng các quyền năng pháp lý để truy cứu TNHS (truy tố) người đã thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Hoạt động

thực hành quyền công tố của VKS với mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm

tội, người phạm tội phải được kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét

xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không

để lọt tội phạm và người phạm tội; không để bất kỳ một người nào bị khởi tố,

bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Lừa đảo là dùng thủ đoạn

gian dối đánh lừa người khác để mưu lợi. Thủ đoạn gian dối rất đa dạng, nhằm

giấu giếm nội dung sai sự thật (ít, nhiều hoặc hoàn toàn) làm cho người khác

tin, nhầm, tưởng giả là thật để chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, thu lợi vật chất

khác hoặc che giấu một việc làm xấu. Sự lừa đảo được thực hiện trước hoặc

liền ngay với hành động chiếm đoạt, nó thể hiện dưới nhiều hình thức khác

nhau: nói dối, dùng giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức, có quyền….”

Dưới góc độ pháp lý, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực

hiện một cách cố ý...” Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xếp vào nhóm các

9

tội phạm “xâm phạm về sở hữu” được quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về cấu thành cơ bản của tội lừa đảo

CĐTS: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác

trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.

Như vậy, Tội lừa đảo CĐTS là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác

bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm

hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.

Để xác định hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm Lừa đảo CĐTS hay

không cần đảm bảo có yếu tố đặc trưng là thủ đoạn gian dối đây nhưng còn

phải có điều kiện người phạm tội còn có hành vi chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, lừa đảo CĐTS là việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn

gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động

làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ, quản lý tài sản

tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội, sau đó

người phạm tội đã CĐTS đó.

Dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo CĐTS

Theo Điều 139 BLHS năm 1999, Lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ

đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ

sung năm 2017 giữ nguyên quy định này. Có thể thấy tội Lừa đảo CĐTS có các

dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:

- Khách thể của tội Lừa đảo CĐTS là quan hệ xã hội về sở hữu và quản

lý tài sản. Quan hệ sở hữu có nội dung là quyền của sở hữu tài sản (gồm quyền

chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với tài sản. Đối tượng tác

động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu; thuộc

quyền quản lý, quyền sử dụng hợp pháp của người khác, có thể là tài sản hợp

10

pháp, cũng có thể là tài sản bất hợp pháp. Tài sản được hiểu là vật có thực, tiền,

giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền về tài sản. Giá trị của tài sản đó một phần

hay toàn bộ là do sức lao động của con nguời tạo nên.; Những tài sản có tính

chất đặc biệt không phải đối tuợng của các tội xâm phạm sở hữu mà là đối

tuợng của tội phạm khác (ví dụ: Công trình, phương tiện quan trọng về an ninh

quốc gia, ma túy, vũ khí...).

Thông qua việc tác động lên đối tượng của tội phạm là chiếm đoạt tài

sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của người khác đã xâm phạm đến

khách thể là quyền sở hữu và quản lý tài sản.

- Chủ thể:

Chủ thể của tội Lừa đảo CĐTS là người có năng lực TNHS, nghĩa là

không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức

hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ tuổi chịu TNHS. Theo Điều

12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tuổi chịu TNHS đối với tội

Lừa đảo CĐTS là từ đủ 16 tuổi trở lên. Đây là sự thay đổi lớn so với BLHS

năm 1999 về tuổi chịu TNHS, vì BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi

trở lên phải chịu TNHS đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu

TNHS về tội Lừa đảo CĐTS nếu phạm vào khoản 2, 3, 4 Điều 139 của BLHS

năm 1999.

- Mặt chủ quan của tội Lừa đảo CĐTS gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục

đích phạm tội, là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành

vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó.

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi thực hiện hành vi Lừa đảo

CĐTS, người phạm tội mong muốn chiếm đoạt tài sản nên cố ý thực hiện hành

vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra người phạm nên đây là lỗi cố ý trực tiếp

nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

11

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, nhưng vẫn có ý thức để

mặc cho hậu quả xảy ra.

Khi thực hiện hành vi, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có

mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác và mục đích này tồn tại trước

khi thực hiện hành vi. Trong trường hợp người phạm tội đã có tài sản một cách

hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi của họ không cấu

thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để

xem xét người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một tội danh

khác.

- Mặt khách quan của tội Lừa đảo CĐTS được nêu trong đoạn đầu của

Điều 174 BLHS 2015: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản

của người khác...”, Như vậy, mặt khách quan của tội phạm bao gồm 2 dấu hiệu

cơ bản, bắt buộc, đó là:

+ Thủ đoạn gian dối. Theo Từ điển tiếng Việt thì thủ đoạn là cách làm

khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt mục đích; còn gian dối là có

ý lừa lọc, không thật thà ngay thẳng. Như vậy thủ đoạn gian dối được hiểu là

cách làm xảo trá, có ý lừa lọc chỉ cốt đạt mục đích. Thủ đoạn gian dối là đưa ra

thông tin giả (không đúng sự thật) bằng nhiều hình thức khác nhau làm cho chủ

sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin là thật và giao tài sản cho người phạm tội.

+ Chiếm đoạt tài sản là chiếm lấy tài sản của nguồi khác thành tài sản

của mình. Hay nói cách khác là là chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản

thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của người khác thành của mình.

Hai dấu hiệu khách quan của tội lừa đảo có mối quan hệ nhân quả, đó là

dùng thủ đoạn gian dối mục đích để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối bao

giờ cũng phải có trước khi phát sinh việc giao nhận tài sản giữa người bị hại

với người phạm tội thì mới là hành vi Lừa đảo CĐTS; còn nếu thủ đoạn gian

12

dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không thuộc tội danh này,

mà có thể phạm tội che giấu tội phạm hoặc tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS…

Tội Lừa đảo CĐTS thường dựa trên các giao dịch dân sự, kinh tế nên

trong thực tiễn có tình trạng hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, hoặc

ngược lại, dân sự hóa các hành vi phạm tội. Tội Lừa đảo CĐTS và các giao

dịch dân sự, kinh tế đều có điểm giống nhau là các bên đã xác lập một giao dịch

dân sự, kinh tế theo quy định của pháp luật. Các bên xác lập và thực hiện giao

kết với quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận về tài sản nhưng trong quá trình thực

hiện, có một bên hưởng lợi nhưng không thực hiện nghĩa vụ về tài sản tương

ứng đã thỏa thuận, dẫn đến thiệt hại cho bên kia. Trường hợp này cần xem xét

cụ thể có hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản hay không để kết hành vi cấu

thành tội Lừa đảo CĐTS hay chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự,

kinh tế. Yếu tố chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối là điểm khác nhau cơ bản để

phân biệt tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự. Nếu một người vi phạm

nghĩa vụ về tài sản đã giao kết do nguyên nhân khách quan sau đó sử dụng

nhiều phương thức gian dối để chậm thực thi nghĩa vụ thì không có cơ sở xác

định hành vi phạm tội lừa đảo nhưng nếu xác định họ có ý thức chiếm đoạt

ngay từ đầu thì đây là hành vi phạm tội Lừa đảo CĐTS. Như vậy, để phân biệt

tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự, kinh tế, phải chứng minh được yếu

tố chiếm đoạt và hành vi gian dối, trong khi việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt

trong một số trường hợp rất khó khăn. Trên thực tế, để phân định ranh giới giữa

các giao dịch dân sự, kinh tế và tội Lừa đảo CĐTS còn nhiều vấn đề chưa được

làm rõ dẫn đến có những thiếu sót trong việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt và

phân định thủ đoạn gian dối làm xuất hiện tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ

dân sự, kinh tế hoặc ngược lại.

Trong thực tiễn có một số trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian

dối nhằm CĐTS, nhưng thủ đoạn gian dối này đã được BLHS quy định thành

13

tội phạm độc lập, ví dụ “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” nhằm

“lừa đảo CĐTS”. Do chưa có hướng dẫn thống nhất của liên ngành tư pháp

Trung ương nên đối với các trường hợp này có địa phương xử lý về hai tội

nhưng có địa phương chỉ xử lý về tội “Lừa đảo CĐTS”.

Về hậu quả của tội phạm, tội Lừa đảo CĐTS phải gây thiệt hại về tài sản

có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị

không đến 2 triệu đồng thì để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo

CĐTS cần phải có đủ điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về các tội có tính chất chiếm đoạt được quy định

cụ thể trong BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. BLHS năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã liệt kê cụ thể các tội CĐTS, thay vì chỉ quy

định chung chung “tội CĐTS” như BLHS năm 1999. Ngoài ra BLHS năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn bổ sung thêm trường hợp Lừa đảo CĐTS

dưới 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

bỏ tình tiết tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh

thần đối với người bị hại và tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành

cơ bản, bỏ tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong

cấu thành tăng nặng của tội phạm.

Ngoài hành vi và hậu quả, các yếu tố khác thuộc về mặt khách quan của

tội phạm như: phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện tội phạm và thời

gian, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm không phải là tình tiết định tội mà

có thể là tình tiết định khung hoặc tăng nặng, giảm nhẹ.

1.1.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo BLTTHS năm 2015 thì Thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt

động cơ quan tố tụng từ khi tiếp nhận tin báo, tin tố giác về tội phạm và kiến

14

nghị khởi tố; và các hoạt động xét phê chuẩn các biện pháp tư pháp làm hạn

chế quyền công dân, quyền con người như: bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và một số các biện pháp khác như thu thập phương

tiện điện tử, dữ liệu điện tử….. thời điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị

can, mới là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bộ luật tố tụng hình

sự qui định Viện kiểm sát tham gia hoạt động tố tụng rất sớm (từ khi vụ án chưa

được khởi tố) đó là sự khẳng định chức năng THQCT của Viện kiểm sát trong

việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Đây là khâu đầu tiên của hoạt động

điều tra vụ án hình sự, là rất quan trọng vì: Nếu không phân loại, xử lý đúng

nguồn tin về tội phạm từ đầu để có biện pháp xử lý đúng thì dễ xảy ra oan, sai,

có thể xảy ra hình sự hóa quan hệ dân sự - hành chính hoặc ngược lại hành vi

đáng phải xử lý hình sự (theo tố tụng hình sự) thì lại xử lý bằng biện pháp dân

sự, hành chính. Theo đó, VKSND thực hiện chức năng Thực hành quyền công

tố bằng 6 công tác sau đây: (1) Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Thực hành quyền công tố

trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS; (3) Thực hành quyền công tố trong giai

đoạn truy tố tội phạm; (4) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử

VAHS; (5) Điều tra một số loại tội phạm; (6) Thực hành quyền công tố trong

hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

Giai đoạn điều tra là một trong những giai đoạn của quá trình tố tụng

hình sự được tiến hành bởi cơ quan có thẩm quyền giao cho người tiến hành tố

tụng thực hiện các hoạt động điều tra nhằm thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng

minh có hay không tội phạm xảy ra và giải quyết các vấn đề pháp lý khi phát

sinh tội phạm. Các nhà làm luật đều thống nhất việc giai đoạn điều tra kết thúc

khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành Bản kết luận điều tra chuyển hồ

sơ đến Viện kiểm sát đề đề nghị truy tố hoặc đình chỉ vụ án nhưng chưa thống

nhất về quan điểm về việc gia đoạn điều tra được bắt đầu khi nào. Một số quan

15

điểm cho rằng giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm

hoặc kiến nghị khởi tố nhưng một số khác cho rằng giai đoạn điều tra chỉ bắt

đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc. Trong luận văn này tác giả

tập trung nghiên cứu toàn diện quá trình điều tra kể từ khi khởi tố vụ án đến khi

kết thúc điều tra.

1.1.3. Ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án

lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Qua công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động của CQĐT và các cơ

quan có thẩm quyền trong trong giai đoạn điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản từ thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra có ý nghĩa sau:

Thứ nhất, thông qua việc thực hiện vai trò THQCT và kiểm sát các hoạt

động của CQĐT trong quá trình thu thập các chứng cứ để xác định có hay

không sự việc phạm tội xảy ra, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, hành vi

của họ có thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật

hình sự hay không để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, Viện kiểm sát thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đảm bảo việc truy cứu đúng người, đúng

tội, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Thứ hai, không chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giải

quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại trong

vụ án Lừa đảo CĐTS mà thông qua việc phối hợp với cơ quan điều tra kịp thời

phát hiện những vi phạm trong quá trình quản lý con người, quản lý tài sản của

cơ quan điều tra cần kịp thời đưa ra kiến nghị, yêu cầu các cơ quan khắc phục.

Thứ ba, thông qua công tác THQCT trong quá trình điều tra, VKS tập

hợp những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, những khó khăn, vướng mắc và

vi phạm thường xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án Lừa đảo chiems đoạt tài

sản để từ đó đề ra biện pháp khắc phục thích hợp và kiến nghị, yêu cầu cơ quan,

16

tổ chức, cá nhân có liên quan áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, biện pháp

phòng ngừa loại tội phạm này.

1.1.4. Nội dung và những đặc trưng khi thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản

Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự là giai đoạn bắt đầu từ khi các cơ

quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, thực hiện các biện pháp

điều tra, xác minh tội phạm và sau khi có đủ chứng cứ chứng minh có hành vi

phạm tội thì khởi tố vụ án. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, KSV được phân

công phải tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi

tố nhằm đảm bảo cho quyết định khởi tố VAHS của CQĐT có căn cứ, hợp

pháp, không để oan sai và bỏ lọt tội phạm.

- Tính có căn cứ được quy định tại Điều 143 Bộ luật TTHS năm 2015,

theo đó chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Những

căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm bao gồm: Tố giác, in báo của cá nhân, cơ

quan, tổ chức được gửi đến hoặc đăng trên phương tiện thông tin đại chúng;

Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú. Để xác định

dấu hiệu tội phạm, cần làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Lừa đảo

CĐTS là: có hành vi Lừa đảo CĐTS xảy ra, thiệt hại về tài sản; hành vi chiếm

đoạt tài sản phải thực hiện bằng thủ đoạn gian dối; hành vi này có tính gây nguy

hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình

phạt; Lỗi của người thực hiện hành vi

Khi thực hành quyền công tố trong việc khởi tố VAHS, VKS phải nghiên

cứu kỹ các tài liệu dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án, đối chiếu với dấu hiệu

đặc trưng của tội Lừa đảo CĐTS để xác định hành vi đã khởi tố có đúng không

17

hay chỉ là dấu hiệu vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế. Điểm khác biệt cơ bản nhất

phân biệt có hành vi phạm tội phạm Lừa đảo CĐTS là có dấu hiệu CĐTS, còn

vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế không có dấu hiệu này.

- Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án, tức là phải kiểm

tra việc chấp hành các trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để thẩm tra, xác

minh; thẩm quyền của người ra quyết định khởi tố vụ án, nội dung và hình thức

của quyết định khởi tố vụ án có đúng quy định của pháp luật TTHS; tài liệu,

chứng cứ đã thu thập để xác định có hay không có sự việc phạm tội Lừa đảo

CĐTS; nếu có thì các tài liệu, chứng cứ chứng minh sự việc xảy ra có dấu hiệu

tội phạm hay không? Thuộc khoản nào của điều 174 BLHS 2015?

Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ

án Lừa đảo CĐTS, nếu thấy quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì

thông báo bằng văn bản cho CQĐT biết; nếu thấy căn cứ để khởi tố chưa đầy

đủ thì yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố; Nếu thấy quyết

định khởi tố vụ án không có căn cứ, thì VKS ban hành văn bản yêu cầu CQĐT

ra quyết định huỷ bỏ; nếu CQĐT không nhất trí thì VKS ra quyết định huỷ bỏ

quyết định khởi tố vụ án theo điểm b khoản 1 Điều 161 Bộ luật TTHS năm

2015; Nếu thấy tội danh đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn

có tội phạm khác chưa được khởi tố, thì VKS yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra

quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS; nếu Cơ quan đã

khởi tố không nhất trí, thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định

khởi tố VAHS. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thay đổi hoặc bổ sung, VKS

phải gửi ngay các quyết định này cho CQĐT theo quy định tại khoản 2 Điều

156 Bộ luật TTHS năm 2015 để tiến hành điều tra. Đối với quyết định khởi tố

vụ án của HĐXX, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó,

nếu thấy quyết định khởi tố VAHS có căn cứ thì chuyển quyết định khởi tố

VAHS kèm theo các tài liệu có liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến

18

hành điều tra; nếu thấy quyết định khởi tố VAHS không có căn cứ thì kháng

nghị lên Toà án cấp trên.

Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can phạm tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”

Khởi tố bị can: Sau khi khởi tố vụ án và xác định được người thực hiện

hành vi phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can để truy cứu trách

nhiệm hình sự của người tực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật.

Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ Quyết định khởi tố bị can để tiến hành

việc điều tra theo pháp luật quy định và từ đó thu thập chứng cứ chứng minh

tội phạm và người phạm tội, giải quyết vụ án và các vấn đề pháp lý khác.

Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can là quyền năng pháp

lý, đồng thời là biện pháp nghiệp vụ của VKS nhằm đảm bảo cho quyết định

khởi tố bị can có căn cứ, hợp pháp. VKS kiểm tra tính có căn cứ của quyết định

khởi tố bị can về tội Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan

người vô tội. Vì vậy khi kiểm tra, xem xét các tài liệu chứng cứ như đã nêu ở

trên, VKS cần phải làm rõ tính khách quan, toàn diện và đầy đủ của các tài liệu,

chứng cứ có trong hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn xem có đủ căn cứ để chứng

minh người bị khởi tố chính là người đã thực hiện hành vi Lừa đảo CĐTS hay

không? Hành vi phạm tội diễn ra như thế nào? Có đồng phạm hay không? Vai

trò của từng đồng phạm? Các yếu tố về năng lực TNHS và các tình tiết loại trừ

TNHS. Kiểm tra tính hợp pháp trong việc ra quyết định khởi tố bị can về tội

Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định đó là đúng pháp luật. Bên

cạnh đó, VKS có trách nhiệm kiểm tra về thủ tục, trình tự khi ban hành quyết

định; hình thức, nội dung của quyết định có đảm bảo đúng với quy định của

BLTTHS hay không và đặc biệt là cơ quan và người ra quyết định khởi tố bị

can có đúng thẩm quyền hay không; phải xem xét nội dung quyết định khởi tố

19

bị can có thể hiện đầy đủ các thông tin về họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề

nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội LĐCĐTS thuộc

khoản nào của điều 175 BLHS 2015; thời gian, địa điểm phạm tội; đồng thời

xem xét các vấn đề khác như ảnh, danh chỉ bản của bị can và các thông tin khác

có liên quan; thẩm quyền của người tiến hành các hoạt động điều tra; trình tự,

thủ tục tiến hành các hoạt động điều tra thể hiện thông qua các tài liệu có trong

hồ sơ đề nghị phê chuẩn, sự phù hợp giữa quyết định khởi tố vụ án và quyết

định khởi tố bị can. Ngoài ra, Quyết định khởi tố cũng phải ghi rõ từng tội danh

và điều khoản áp dụng của BLHS trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội Lừa

đảo CĐTS và cả tội khác.

Tại khoản 3, 4 Điều 179 Bộ luật TTHS năm 2015, khi ra quyết định khởi

tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi

tố bị can cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ. Trong 03

ngày kể từ ngày nhận được thì VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ

quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ

để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho CQĐT. Trường hợp VKS yêu

cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được

chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định

hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Nếu phát hiện có người thực hiện hành vi

phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can

hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không

thực hiện và gửi quyết định khởi tố bị can cho CQĐT để tiến hành điều tra trong

thời hạn 24 giờ. Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra nếu VKS phát hiện có

người khác thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS ra

quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.

Đối với những trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi

tố lúc nhận tội, lúc không nhận tội, tài liệu, chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa

20

rõ, Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra viên thụ lý vụ án để lấy lời khai

người bị khởi tố, người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can

hoặc trực tiếp lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố để

làm căn cứ giải quyết vụ án.

Theo quy định Khoản 1 Điều 180 BLTTHS 2015 thì CQĐT hoặc VKS

thay đổi quyết định khởi tố bị can trong các trường hợp sau: có căn cứ cho rằng

hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố; quyết định khởi tố không

đúng với nhân thân của bị can. CQĐT hoặc VKS phải bổ sung quyết định khởi

tố bị can trong trường hợp có chứng cứ xác định bị can còn thực hiện hành vi

phạm tội khác, không bỏ lọt tội phạm. VKS khi tiến hành việc phê chuẩn quyết

định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can thì thực hiện như quá trình

phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.

Đây là những quy định để đảm bảo Kiểm sát viên thực hiện quyền và

nghĩa vụ của mình khi được phân công thực hành quyền công tố trong việc ra

quyết định khởi tố bị can của CQĐT để đảm bảo việc khởi tố bị can đúng người,

đúng tội góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm pháp

chế xã hội chủ nghĩa và hạn chế việc xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, dẫn tới oan, sai, để lọt tội phạm.

Thực hành quyền công tố trong đề ra yêu cầu điều tra và quá trình tiến

hành các hoạt động điều tra

Theo quy định tại Điều 42 BLTTHS 2015, khi THQCT trong giai đoạn

điều tra, KSV có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều

tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra Mục

đích của KSV trong việc đề ra yêu cầu điều tra là cùng với Cơ quan điều tra

làm rõ những vấn đề cần điều tra, thu thập chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố

tụng đảm bảo cho việc điều tra, truy tố được khách quan, toàn diện theo đúng

quy định của pháp luật và hạn chế việc phải điều tra bổ sung, điều tra lại, qua

21

đó tạo được cơ sở vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát hoạt động xét xử của KSV tại phiên tòa.

KSV được phân công giải quyết vụ án phải chủ động trao đổi kịp thời

với ĐTV được phân công điều tra vụ án ngay từ khi kiểm sát việc giải quyết tin

báo, tố giác tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can và các hoạt động điều tra

khác về những vấn đề cần điều tra, xác minh trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản để đảm bảo công tác thực hành quyền công tố đạt chất lượng và hiệu

quả cao.

Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là một quyền

năng quan trọng và cơ bản của công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối

với vụ án hình sự, Kiểm sát viên cần bám sát tiến độ điều tra, nắm chắc hồ sơ

vụ án thì đề ra được yêu cầu điều tra có chất lượng, góp phần giải quyết vụ án

khách quan, toàn diện và triệt để, hạn chế oan, sai hoặc phải trả hồ sơ để điều

tra bổ sung. Quyền yêu cầu điều tra của VKS là nội dung quan trọng của công

tác thực hành quyền công tố được quy định tại khoản 7 Điều 14 Luật Tổ chức

VKSND năm 2014; khoản 6 Điều 165 Bộ luật TTHS năm 2015, nhằm bảo đảm

cho việc điều tra thu thập, sử dụng các tài liệu chứng cứ được khách quan, đầy

đủ và đúng quy định của pháp luật; tạo cơ sở để VKS xét phê chuẩn, ra các

quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền có căn cứ và hợp pháp. Để làm tốt kỹ năng

đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án Lừa đảo CĐTS phải có nhận thức đúng và

tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền của VKS trong việc đề ra

yêu cầu điều tra và đảm bảo các yêu cầu sau:

Một là, VKS phải nắm vững lý luận về tội phạm và đặc trưng cơ bản của

tội phạm Lừa đảo CĐTS, đây là cơ sở quan trọng đầu tiên giúp cho việc xác

định phương hướng của quá trình điều tra chứng minh tội phạm.

Hai là, phải theo sát tiến độ điều tra để nắm được diễn biến, tính chất của

vụ án, nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ

22

án để phát hiện những vấn đề mâu thuẫn, những vấn đề cần tiếp tục làm rõ, trên

cơ sở đó chủ động, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra phù hợp.

Ba là, phải xác định rõ mục đích, yêu cầu của việc yêu cầu điều tra là

giúp cho ĐTV xác định đúng hướng điều tra, bảo đảm việc điều tra được khách

quan toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm

nên nội dung của yêu cầu điều tra phải tập trung làm rõ các tài liệu, chứng cứ

xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ vi phạm pháp luật kinh tế, dân sự;

có dấu hiệu Lừa đảo CĐTS hay tội phạm khác.

Trong trờng hợp VKS đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản nhưng không

được thực hiện nhưng xét thấy cần thiết phải kiểm tra, bổ sung tài liệu chứng

cứ để xét phê chuẩn hoặc có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp

luật thì KSV có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là căn

cứ thể hiện cụ thể thẩm quyền điều tra của VKS trong giai đoạn điều tra, góp

phần làm sáng tỏ những vấn đề cần giải quyết trong vụ án

Một số hoạt động điều tra Theo quy định của BLTTHS 2015 mà Kiểm

sát viên có quyền tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:

trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra thì KSV được trực tiếp

hỏi cung; lấy lời khai người làm chứng và có thể cho đối chất, tiến hành thực

nghiệm điều tra nhằm thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTHS.

KSV tiến hành hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình là để đảm bảo

việc xác định tội phạm và người phạm tội là đúng với sự thật khách quan do đó

KSV phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của ĐTV trong quá trình điều

tra để bảo đảm việc thu thập chứng cứ, quá trình điều tra là đúng quy định và

các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ. Trong đó phải kiểm sát việc khám

nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc mà CQĐT tiến hành khám

nghiệm; kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản;

kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn

23

dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án của ĐTV hoặc trực

tiếp lấy lời khai những người này; kiểm sát việc hỏi cung bị can của ĐTV hoặc

trực tiếp hỏi cung bị can; kiểm sát việc đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều

tra, trưng cầu giám định và giám định, bảo đảm các hoạt động này thực hiện

theo đúng quy định của Bộ luật TTHS. Kiểm sát việc lập hồ sơ VAHS phải

đảm bảo các tài liệu được đưa vào hồ sơ vụ án đầy đủ, việc thu thập tài liệu là

đúng quy định của pháp luật. Đối với tài liệu, hồ sơ xét phê chuẩn, KSV sau

khi kiểm sát việc phê chuẩn phải đóng dấu bút lục của VKS vào các tài liệu để

xét phê chuẩn và chuyển trả cho CQĐT đưa vào hồ sơ vụ án. Tài liệu của CQĐT

hoặc của VKS thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự

quy định tại BLTTHS.

Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS, KSV phải

nghiên cứu hồ sơ và đề xuất việc truy tố. Chú ý các yếu tố cấu thành tội Lừa

đảo CĐTS, những vấn đề phải chứng minh trong VAHS. Về nội dung nghiên

cứu, do trong suốt quá trình điều tra, KSV đã tiếp cận với kết quả điều tra, đã

nắm được nội dung vụ án từ khi khởi tố đến trước khi kết thúc điều tra, nên đã

cơ bản nắm nội dung và các chứng cứ, tình tiết của vụ án. Kết hợp giữa quá

trình kiểm sát điều tra và với nghiên cứu nội dung kết luận điều tra và hồ sơ vụ

án, KSV sẽ hình thành được hướng xử lý vụ án gồm: ban hành cáo trạng hoặc

quyết định truy tố để truy tố bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc

tạm đình chỉ vụ án khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu thấy các tài liệu, chứng cứ đã được

thu thập đầy đủ, toàn diện, KSV đề xuất lãnh đạo quyết định việc truy tố. Hình

thức và nội dung cáo trạng đối với tội Lừa đảo CĐTS thực hiện theo hướng

dẫn, phần mô tả hành vi phạm tội là phần trọng tâm nhất của cáo trạng, cần vận

dụng tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội và pháp lý nhằm thể hiện rõ hành

vi phạm tội của bị can. Khi viết diễn biến hành vi phạm tội cần đi thẳng vào

24

trọng tâm hành vi phạm tội của bị can và phải trên cơ sở tổng hợp đánh giá

chứng cứ của vụ án thể hiện tại bút lục nào. Trường hợp bị can chối tội cũng

phải viện dẫn chứng cứ để bác bỏ. Trường hợp sau khi nghiên cứu hồ sơ nhưng

còn một số vấn đề chưa được làm rõ, VKS có quyền yêu cầu CQĐT hoặc cá

nhân bổ sung tài iệu liên quan hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều

tra để củng cố căn cứ cho việc truy tố. Nếu có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm

hoặc hành vi phạm tội, VKS căn cứ theo quy định tại Thông tư liên tịch số

02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa

các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố

tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì VKS trả hồ sơ để CQĐT điều

tra bổ sung và kiểm sát chặt chẽ việc điều tra bổ sung.

Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong tạm đình chỉ, đình chỉ

điều tra

Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra được tực hiện theo

quy định tại Điều 229 BLTTHS 2015, khi thuộc trường hợp: “Khi chưa xác

định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn

điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra

phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra; Khi có kết luận giám

định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể

tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra; Khi trưng cầu giám định,

yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả

nhưng đã hết thời hạn điều tra.”. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên được

phân công THQCT phải kiểm tra, đánh giá việc tạm đình chỉ điều tra, nếu thấy

quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật hoặc khi thấy

lý do tạm đình chỉ không còn như: bị can khỏi bệnh, đã bắt được bị can thì báo

cáo, đề xuất lãnh đạo ban hành quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều

25

tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi

điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều

230 BLTTHS 2015 đối với các trường hợp: khi có một trong các căn cứ quy

định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của BLTTHS 2015 hoặc có căn cứ quy

định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự; Đã

hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội

phạm. Về mặt pháp lý, Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc bị can là căn cứ

chấm dứt hoạt động tố tụng đối với vụ án hoặc bị can. VKS có thời hạn 15 ngày

từ khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án để nghiên

cứu các căn cứ và tính hợp pháp của quyết định đình chỉ điều tra và giải quyết

như sau: Nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì ra văn bản trả lại

hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; Nếu

thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình

chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; Nếu thấy đủ căn cứ

để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo

thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS.

1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ

10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã cụ thể hóa quy định của Hiến

pháp 2013 bằng Điều 20 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự quyết định việc buộc

tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người

phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và

xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm

26

tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” và đã có nhiều sửa đổi,

bổ sung cho Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra theo hướng tăng thêm quyền,

trách nhiệm.

Trong thực tiễn tiến hành tố tụng CQĐT đã không ít lần để xảy những vi

phạm pháp luật trong điều tra vụ án hình sự như vi phạm trong việc định tội

danh, vi phạm trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng, và đặc biệt là xảy ra

việc bức cung, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc thiếu trách nhiệm

trong điều tra, xác minh sự thật của vụ án nên vai trò của VKS được Hiến định

là cơ quan tiến hành tố tụng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều

tra trong các hoạt động điều tra thông qua công tác THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp.

Tất cả các hoạt động của VKS có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó mang

tính quyết định ngay từ khi tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu đến khi

kết thúc điều tra. Theo Hiến định, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất

được thay mặt Nhà nước thực hiện việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án

để xét xử. Do đó, VKS tuy không trực tiếp tiến hành điều tra thu thập chứng cứ

(trừ một số trường hợp luật định) nhưng là cơ quan chịu trách nhiệm về giá trị

pháp lý của các chứng cứ chứng minh trong vụ án, chứng minh tội phạm và

người phạm tội trước Tòa án và các chứng cứ đó phải đảm bảo đuợc thu thập

đầy đủ, khách quan và đúng quy định của BLTTHS.

VKS thực hiện vai trò kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nhằm đảm bảo

cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật,

bảo đảm việc điều tra phải toàn diện, đầy đủ, khách quan thông qua các hoạt

động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp

luật tố tụng hình sự đồng thời phát hiện, khắc phục, xử lý nghiêm minh những

vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình điều tra.

27

Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, thì chức năng

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được hiểu là việc sử dụng các

quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của VKSND được quy định

trong pháp luật hình sự được thực hiện từ khi khởi tố vụ án đến khi kết thúc

điều tra để xem xét, quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội.

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là một trong những

nhiệm vụ quan trọng chủ chốt hàng đầu của ngành Kiểm sát. Căn cứ vào thực

tiễn và yêu cầu tăng cường vai trò công tố của VKS trong hoạt động điều tra,

Điều 165 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định 10 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS:

- Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS, khởi tố

bị can.

- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ

sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật.

- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can

trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định.

- Phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp tư pháp ảnh hưởng đến

quyền công dân, quyền con người, quyền tài sản... như: lệnh bắt, giữ người

trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền

để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu

phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;

- Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn

cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp

luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

28

tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê

chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.

- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế theo quy định của Bộ luật TTHS.

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao tiến hành

một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm

tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để kiểm tra, bổ sung tài

liệu, chứng cứ khi xem xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát

hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu

cầu bằng văn bản nhưng không được cơ quan điều tra khắc phục hoặc trường

hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố.

- VKS trực tiếp khởi tố VAHS khi phát hiện hành vi của người có thẩm

quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và

trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS

khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội

phạm.

- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định

chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;

hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công

tố theo quy định của Bộ luật TTHS.

Viện kiểm sát nhân dân cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát điều tra vụ án hình sự được quy định cụ thể tại Luật tổ chức VKSND

năm 2014. Các hoạt động này được những người tiến hành tố tụng có thẩm

29

quyền pháp lý thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định cụ

thể trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát

trong THQT và trong hoạt động kiểm sát điều tra còn được Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015 quy định chặt chẽ, cụ thể và Luật tổ chức cơ quan điều tra

hình sự năm 2015 cũng bổ sung một số điểm mới liên quan đến vấn đề đảm

bảo cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố

và kiểm sát điều tra.

VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để cơ quan CSĐT tiến hành hoạt

động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và đây được coi là nhiệm

vụ quan trọng nhất của VKS trong giai đoạn này. Kiểm sát viên được phân công

thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có trách nhiệm, bám sát toàn bộ

hoạt động điều tra của CQĐT ngày từ ban đầu và nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án

qua đó kịp thời phối hợp cùng CQĐT và đưa ra các yêu cầu điều tra một cách

toàn diện, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó,

trong một số trường hợp, Viện kiểm sát còn có quyền trực tiếp thực hiện một

số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để củng cố

các chứng cứ nhằm đánh giá một cách khách quan và toàn diện toàn bộ vụ án,

bảo đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật, tuyệt đối không

để xảy ra trường hợp oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Nếu quá trình nghiên cứu

phát hiện cơ quan điều tra có vi phạm hoặc sai sót quy định của pháp luật, VKS

tròn phạm vi quyền hạn của mình có thể tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can

hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan điều tra. Ngoài

ra, thực tế có các trường hợp diễn biến hành vi phạm tội phức tạp cón có nhiều

quan điểm khác nhau về đinh tội danh hoặc hướng xử lý thì để làm tốt nhiệm

vụ được giao, Kiểm sát viên và Điều tra viên cần tăng cường trao đổi thống

nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án, cần thiết có thể tổ

chức họp liên ngành để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án.

30

Nhằm nâng cao chất lượng Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều

tra vụ án hình sự, chống oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm, Bộ luật Tố tụng

hình sự 2015 dựa trên cơ sở quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng thay đổi

theo hướng tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, bổ sung

quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên tại Điều 43 BLTTHS

2015 theo đó, các chủ thể được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm pháp luật về hành vi, quyết định của

mình.

Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền phân công hoặc thay đổi Phó Viện

trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong tố tụng hình sự và thay đổi, hủy bỏ các quyết định của

những người này nếu xét thấy quyết định không có căn cứ. Việc phân công

được thể hiện bằng Quyết định theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban

hành. Viện trưởng ký các Quyết định phân công và những người được phân

công là Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nêu trong quyết định có

trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Để bảo đảm cho các quyết định của VKS có hiệu lực, Điều 167 Bộ luật

TTHS năm 2015 khẳng định trách nhiệm của CQĐT phải việc thực hiện các

yêu cầu và quyết định của VKS. Đối với một số yêu cầu và quyết định quy định

tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 165 như phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết

định của CQĐT, đề ra yêu cầu điều tra… thì ngay cả khi không thống nhất quan

điểm thì CQĐT vẫn phải chấp hành và có quyền kiến nghị với VKS cấp trên

trực tiếp.

31

Tiểu kết chương 1

Thông qua việc tìm hiểu khái niệm chung về tố tụng hình sự, thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra và quy định của pháp luật về tội Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản để đúc kết được khái niệm và một số vấn đề về phạm vi, ý

nghĩa của công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Tại chương 1, tác giả còn tìm hiều các quy định của pháp

luật về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công tác thực hành quyền công tố trong

kiểm sát điều tra nói chung và đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng,

từ đó làm căn cứ cho việc đánh giá việc thực hiện công tác này của các cơ quan

tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong điều tra vụ án Lừa đảo

CĐTS.

32

Chương 2:

THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CĐTS”

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh

Cùng hòa nhịp với sự phát triển toàn diện về mọi mặt của nền kinh tế - xã

hội và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trung tâm kinh

tế - văn hóa của cả nước và đứng đầu về phát triển kinh tế, tuy nhiên đi kèm

với sự phát triển đó là tình hình tội phạm vẫn diễn biến ngày càng phức tạp. Các

loại tội phạm về xâm phạm sở hữu như tổ chức Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản… xảy ra với qui mô lớn hơn, thủ đoạn phạm

tội tinh vi hơn. Đặc biệt đối với loại tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thống

kê trong giai đoạn 5 năm từ 2015 đến năm 2019 tình hình tội phạm về Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên cả nước nói chung, TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn

diễn biến khá phức tạp với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả

gây ra thiệt hại về tài sản cho bị hại ngày càng lớn cùng với thủ đoạn ngày càng

tinh vi.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019

Khởi tố Đình chỉ Truy tố Đề nghị truy tố Tạm đình chỉ Năm

Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ Bị can

Bị can 806 423 Bị can 754 02 Bị can 07 01 02 402 Bị can 723 2015 468

914 512 883 04 13 01 01 481 869 2016 547

823 570 791 03 09 0 0 545 769 2017 615

726 377 689 0 0 01 02 360 647 2018 423

33

2019 450 819 413 787 0 0 0 373 765 0

Tổng 2.503 4.088 2.295 3.904 09 03 05 2.161 3.773 29

Nguồn: số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm

chung từ năm 2015 đến năm 2019.

Số vụ án/bị can Tổng số vụ án/bị Số vụ án/bị can phạm tội chương can phạm tội LĐCĐTS Năm xâm phạm sở hữu

Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị can

2015 2.735 5.978 892 402 723 1.584

2016 3.586 8.538 981 481 869 1.736

2017 3.267 7.729 770 545 769 1.237

2018 3.763 8.691 714 360 647 1.395

2019 3.810 8.778 816 373 765 1.449

7.401 Tổng 17.161 39.714 4.173 2.161 3.773

Nguồn: số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh

Trên địa bàn các quận, huyện thể hiện như thế nào cần bổ sung số

liệu này

Từ năm 2015 đến năm 2019, CQĐT Công an TP. Hồ Chí Minh đã khỏi

tố 17.161 vụ, 39.714 bị can, cụ thể các tội xâm phạm sở hữu là 4.173 vụ, 7.401

bị can.

Từ năm 2015 đến năm 2019 tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP.

Hồ Chí Minh tăng giảm theo từng năm, trong đó tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

cũng tăng số lượng các tội phạm này bị phát hiện, khởi tố cao nhất vào năm

2017 với 615 vụ/ 823 bị can. Tổng số vụ án CQĐT đề nghị VKS truy tố là

2.295 vụ/3.904 bị can (chiếm 91% án LĐCĐTS đã khởi tố). số vụ án phải tạm

đình chỉ là 09 vụ/29 bị can (chiếm 0,3%) chủ yếu do bị can bỏ trốn và chưa có

34

kết quả giám định tài sản bị chiếm đoạt, số vụ án phải đình chỉ điều tra là 03

vụ/07 bị can (chiếm 0,1%) theo khoản 2, khoản 7 Điều 157 Bộ luật TTHS.

Trong số các tội phạm đã được phát hiện xử lý, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

chiếm 12,6% và chiếm 51,7% trên tổng số án xâm phạm sở hữu .

Những kết quả đã đạt được nêu trên đã khẳng định vai trò của Ngành

kiểm sát TP. HCM trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân trên địa bàn thành phố. Những kết quả trên là nỗ lực của toàn

thể cán bộ, công chức Viện KSND TP.HCM, đặc biệt là vai trò lãnh đạo đã

thường xuyên quan tâm, quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về

cải cách tư pháp; quy định của pháp luật, nhanh chóng, kịp thời trong công tác

chỉ đạo thực hiện các chuyên đề nghiệp vụ, giải quyết các vụ án cụ thể; phối

hợp chặt chẽ CQĐT ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm nên đã từng

bước hạn chế tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

Kết quả trên còn cho thấy CQĐT Công an TP. Hồ Chí Minh và Viện

KSND TP. Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng trong trong việc phát hiện, điều

tra tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn. Tuy nhiên, nhóm tội này

trên tại TP. Hồ Chí Minh diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, mức độ và

thủ đoạn của hành vi phạm tội ngày càng tinh vi, nghiêm trọng đã gây nhiều

khó khăn cho công tác điều tra và thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra

các vụ án này của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Qua công tác kiểm sát các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời

gian qua, nhận thấy hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có một số tồn

tại, hạn chế, dẫn đến dẫn đến một số vụ án bị Tòa án các cấp tuyên hủy án để

35

điều tra lại. Những vi phạm chủ yếu dẫn đến hủy án là: vi phạm nghiêm trọng

thủ tục tố tụng; đánh giá chứng cứ và xác định tội danh không chính xác; vi

phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác định các yếu tố cấu thành tội

phạm, đặc biệt là yếu tố chiếm đoạt và yếu tố gian dối; áp dụng pháp luật không

đúng.

2.2.1. Những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

Những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong điều tra vụ án lừa

đảo CĐTS thường thể hiện dưới các dạng cụ thể như:

- Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án

Đó là trường hợp Cơ quan tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành

vi phạm tội dẫn đến điều tra truy tố, xét xử sai thẩm quyền, thường xảy ra trong

các trường hợp giao dịch tại một nơi, tài sản để một nơi khác. Như vụ Mai Thị

Tuyết Linh “Lừa đảo CĐTS” xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng các cơ

quan tố tụng tỉnh Kiên Giang xử lý không đúng thẩm quyền, dẫn đến TAND

cấp cao hủy án giao cho thành phố Hồ Chí Minh giải quyết. Trong vụ án này,

bị cáo làm nghề buôn bán hải sản ở Kiên Giang, biết ông Nguyễn Văn Sinh là

giám đốc Công ty Trang Ngọc Phát ở Kiên Giang có 100 tấn ruốc khô đang gửi

kho lạnh tại thành phố Hồ Chí Minh nên đã dùng tên giả, tự xưng giám đốc một

Công ty giả để giao dịch mua ruốc khô của ông Sinh, sau đó chiếm đoạt. Việc

giao dịch và nhận hàng diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, đây là nơi bị cáo

Linh thực hiện hành vi phạm tội nhưng cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Kiên

Giang giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Xác định sai tư cách tham gia tố tụng

Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng xảy ra phổ biến, tính nghiêm

trọng của vi phạm này thể hiện ở chỗ việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng

sẽ dẫn đến giải quyết phần dân sự trong VAHS không chính xác, đặc biệt là

36

vấn đề bồi hoàn tài sản chiếm đoạt cho ai. Việc xác định sai tư cách tham gia

tố tụng thường xảy ra trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất là các vụ án mà người quản lý tài sản không phải chủ sở hữu

tài sản, do có sự nhầm lẫn trong việc xác định người bị thiệt hại là chủ sở hữu

tài sản hay người đang quản lý, sử dụng tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể: vụ án do

nhân viên kế toán của Công ty dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của

Công ty đang được quản lý tại Ngân hàng, có nhiều quan điểm khác nhau về

xác định người bị thiệt hại ở đây là Công ty hay Ngân hàng. Điển hình là vụ

Đặng Thị Nguyệt là kế toán trưởng của chi nhánh Công ty Cacao Việt Nam tại

thành phố Hồ Chí Minh, đã dùng một số ủy nhiệm chi, lệnh chi, séc do ông

Trần Văn Liêng, Tổng giám đốc ký khống trước đó (sử dụng vào việc Công ty

Cacao Việt Nam trả tiền vay nóng bên ngoài, đáo hạn ngân hàng), lập khống

chứng từ và ký giả chữ ký của ông Liêng hoặc đưa kèm với các chứng từ khác

trình ông Liêng ký với người thụ hưởng là người quen của Thu để rút tiền của

Công ty. Sau đó đem đến các ngân hàng để chuyển tiền. Với thủ đoạn nêu trên,

từ tháng 3/2015 đến tháng 6/2013 Đặng Thị Nguyệt Thu đã lập 91 chứng từ ủy

nhiệm chi, lệnh chi, séc ghi khống nội dung, chiếm đoạt của Công ty

3.229.420.017đ tiền gửi tại các Ngân hàng Vietcombank, Vietinbank,

Eximbank, Vpbank.

Hành vi phạm tội của Đặng Thị Nguyệt Thu đã rõ, vấn đề đặt ra là ai bị

thiệt hại, Công ty hay Ngân hàng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng tài sản bị cáo

nhằm chiếm đoạt là tiền của Công ty Cacao Việt Nam nằm trong tài khoản mở

tại các ngân hàng, ý thức chủ quan của bị cáo là hướng đến tài sản của Công ty

Cacao Việt Nam. Người bị thiệt hại là Công ty Cacao Việt Nam nên buộc bị

cáo phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho công ty. Sau khi xét xử sơ thẩm,

Công ty Cacao Việt Nam kháng cáo yêu cầu xác định Ngân hàng là bị hại trong

vụ án (nguyên đơn dân sự) và yêu cầu các Ngân hàng phải trả lại tiền cho Công

37

ty. Tòa án cấp cao cho rằng các ngân hàng được Công ty Cacao Việt Nam tin

tưởng để mở tài khoản giao dịch trong hoạt động kinh doanh, Thu bằng thủ

đoạn gian dối là lập phiếu khống, giả chữ ký để rút được tiền từ công ty đang

gửi tại ngân hàng. Về phía ngân hàng, do chủ quan nên các nhân viên Ngân

hàng không phát hiện được chữ ký giả của chủ tài khoản là ông Trần Văn Liêng

do Đặng Thị Nguyệt Thu ký giả để thực hiện giao dịch rút tiền để chiếm đoạt.

Theo Điều 12 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà

nước và tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 1284 ngày 21/11/2002

của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì “Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về

những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng trên tài khoản khách hàng do lỗi của mình”,

do vậy ngân hàng chịu trách nhiệm trả tiền cho Công ty Cacao Việt Nam đối

với những ủy nhiệm chi, lệnh chi do Đặng Thị Nguyệt Thu giả chữ ký của ông

Trần Văn Liêng. Từ những phân tích và lập luận trên, Tòa án cấp cao đã hủy

một phần bản án sơ thẩm về phần dân sự để giải quyết lại.

Thứ hai là các vụ án sang tên trái phép tài sản từ một người, sau đó bán

cho một người khác nên có sự nhầm lẫn trong việc xác định người bị thiệt hại

là người đứng tên tài sản đầu tiên hay người mua sau. Điển hình là vụ Nguyễn

Phước Hinh có hành vi tự ý sang tên thửa đất 761,7m2 từ ông Nguyễn Đắc Minh

bà Trần Thị Đen, thửa đất này bà Nguyễn Thị Minh Nhãn là Việt Kiều Thụy

sỹ là cô ruột bị cáo bỏ tiền mua, nhờ ông Minh, bà Đen đứng tên. Sau khi sang

tên, bị cáo bán cho ông Bùi Quốc Bình với giá 7 tỷ đồng. Trong trường hợp

này, việc sang tên tài sản từ ông Minh, bà Đen sang bị cáo là giao dịch vô hiệu,

do bị cáo có hành vi gian dối, nên tài sản vẫn thuộc quyền sử dụng của ông

Minh, bà Đen. Người bị hại trong vụ án này phải là ông Bình, nhưng các cơ

quan tố tụng cấp sơ thẩm xác định bà Nhãn là người bị hại là không chính xác,

đồng thời do xác định sai nên không đưa ông Bình tham gia tố tụng.

38

Thứ ba là các vụ án liên quan đến tài sản của doanh nghiệp, người bị

thiệt hại là doanh nghiệp nhưng cơ quan tiến hành tố tụng xác định chủ doanh

nghiệp là người bị hại. Như vụ Mai Thị Tuyết Linh nêu trên, tuy giao dịch thực

hiện với cá nhân ông Nguyễn Văn Sinh nhưng tài sản bị chiếm đoạt thuộc sở

hữu của Công ty Trang Ngọc Phát, ông Nguyễn Văn Sinh là Giám đốc, đại diện

theo pháp luật của Công ty. Trong trường hợp này người bị thiệt hại là Công ty

Trang Ngọc Phát, do Bộ luật TTHS không quy định người bị hại là pháp nhân

nên Công ty Trang Ngọc Phát tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự

nếu có đơn yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên các cơ quan tố tụng đã xác định ông

Sinh là người bị hại là chưa chính xác. Từ việc xác định tư cách tham gia tố

tụng chưa chính xác, sẽ dẫn đến việc giải quyết phần dân sự không chính xác,

lẽ ra phải bồi hoàn tài sản chiếm đoạt cho Công ty Trang Ngọc Phát thì lại thành

bồi hoàn cho cá nhân ông Nguyễn Văn Sinh.

2.2.2. Những vi phạm về đánh giá chứng cứ và xác định tội danh

Những vi phạm về đánh giá chứng cứ và xác định tội danh xảy ra do các

cơ quan tiến hành tố tụng thiếu toàn diện trong việc đánh giá chứng cứ và hành

vi khách quan, được thể hiện dưới các dạng cụ thể như:

- Quyết định khởi tố bị can không phù hợp với căn cứ khởi tố vụ án

Đây là trường hợp khởi tố bị can về hành vi không nằm trong căn cứ khởi

tố vụ án. Điển hình là vụ án Tạ Tấn Lộc “Lừa đảo CĐTS”. Tạ Tấn Lộc sống

cùng cha là ông Tạ Tấn Tài và mẹ là bà Tô Thị Ngọc Nên, Ngọc là lao động

chính trong gia đình. Do Lộc sang Campuchia đánh bạc và nợ 900 triệu đồng,

sợ chủ nợ qua đòi nợ, nên Lộc nói dối với bà Nên là bạn cần vay số tiền 2,8 tỷ

đồng để đáo hạn ngân hàng nhưng bà Nên chỉ có 800 triệu đồng, Lộc nói bà

Nên đi vay dùm cho đủ 2,8 tỷ đồng. Tin tưởng Lộc, bà Nên vay 02 tỷ đồng của

Nguyễn Thị Dung nói là để đáo hạn ngân hàng, hẹn 04 ngày sau trả lại. Do

trước đó bà Nên vay đáo hạn ngân hàng nhiều lần và trả đúng hạn, nên hôm sau

39

chồng bà Dung đem 2 tỷ đến nhà giao cho bà Nên, Lộc nhận thay. Sau khi nhận

02 tỷ đồng, cộng với 800 triệu đồng của bà Nên, tổng cộng 2,8 tỷ đồng Lộc

sang Campuchia trả nợ 900 triệu đồng, còn lại 1,9 tỷ đồng đánh bạc thua hết.

Bà Nên biết việc và nói với bà Dung việc con bà là Tạ Tấn Lộc đã mang 2,8 tỷ

đồng sang Campuchia đánh bạc thua hết, để từ từ Bà trả tiền và đã trả lãi cho

bà Dung được 40 triệu đồng. Sau đó bà Dung làm đơn tố cáo bà Nên chiếm

đoạt 02 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết tin báo, CQĐT xác định Tạ Tấn

Lộc chiếm đoạt tiền của mẹ ruột là bà Tô Thị Ngọc Nên nên khởi tố, Tạ Tấn

Lộc bị truy tố về tội Lừa đảo CĐTS theo điểm a Khoản 4 Điều 139 BLHS, bị

hại bà Tô Thị Ngọc Nên, với số tiền 2,8 tỷ đồng, sau đó Tòa án xử phạt 3 năm

tù. Trong vụ án này, căn cứ để CQĐT khởi tố vụ án là đơn của Nguyễn Thị

Dung tố cáo bà Tô Thị Ngọc Nên lừa đảo. Nhưng sau đó không đủ cơ sở để

khởi tố bà Nên nên CQĐT đã khởi tố bị can đối với Tạ Tấn Lộc, căn cứ khởi

tố bị can là căn cứ vào quyết định khởi tố vụ án. Việc CQĐT khởi tố vụ án là

căn cứ vào đơn bà Dung tố cáo bà Nên, quyết định khởi tố bị can Tạ Tấn Lộc

lại căn cứ vào quyết định khởi tố vụ án nêu trên, trong khi giữa bà Dung và Tạ

Tấn Lộc không có quan hệ gì, việc vay mượn giữa bà Dung và bà Nên không

liên quan đến Tạ Tấn Lộc. CQĐT đưa vụ án đi theo hướng Tạ Tấn Lộc lừa đảo

mẹ ruột minh là bà Tô Thị Ngọc Nên, trong khi đó bà Nên xác định bà không

thiệt hại gì, tài sản mà gia đình bà có được là do công sức chủ yếu của Tạ Tấn

Lộc, bà không tố cáo con bà và bà không yêu cầu Tạ Tấn Lộc trả lại số tiền mà

bà đã đưa cho Lộc, bà không phải là người bị hại. Xét về khách thể bị xâm

phạm thì thấy, quan hệ giữa bị cáo Lộc và người bị hại là mẹ con ruột, hiện tại

bị cáo đang sống chung với bà Nên, lao động nuôi dưỡng vợ chồng bà Nên. Tài

sản trong gia đình khó phân biệt được một cách rõ ràng, rành mạch nên hậu quả

là rất mơ hồ, cấp sơ thẩm căn cứ vào các kết quả xác minh mức thu nhập của

bị cáo Lộc để trừ một phần thiệt hại và xét xử bị cáo ở điểm a khoản 3 Điều

40

139 BLHS là không có cơ sở. Như vậy, căn cứ khởi tố vụ án trong trường hợp

này không rõ ràng nên căn cứ để khởi tố bị can là không chính xác. Bà Nên xác

định mình không có thiệt hại gì và không chấp nhận tư cách tham gia tố tụng

của mình. CQĐT xác định giá trị tài sản riêng của bị cáo trong khối tài sản

chung với người bị hại là không phù hợp, không có cơ sở. Do vậy vụ án đã bị

đã huỷ để điều tra lại theo hướng làm rõ căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can,

phân biệt rõ tài sản của bị cáo và bà Nên để xác định bị cáo chiếm đoạt tài sản

của ai, người bị hại là ai.

- Bỏ lọt người phạm tội

Đây là một trong các dạng vi phạm phổ biến dẫn đến bị hủy án, thường

xảy ra trong các trường hợp sau:

Thứ nhất là các vụ án có liên quan đến hai vợ chồng hoặc nhiều người

thân tích trong gia đình nhưng chỉ xử lý người giữ vai trò chính. Như vụ Trần

Thị Quỳnh Hoa “Lừa đảo CĐTS”. Bị cáo đưa ra thông tin gian dối là có mối

quan hệ mua được xe giá rẻ hơn thị trường, nếu ai cần mua xe thì giúp, nhưng

sau khi nhận tiền bị cáo không mua xe, chiếm đoạt của 37 người số tiền

34.921.500.000đ. Quá trình điều tra các bị hại trình bày và cung cấp các tin

nhắn, email có giao dịch trao đổi chuyển tiền đều thông qua Phạm Thị Quỳnh

Mai là con bị cáo Hoa. Đồng thời bị cáo Hoa cũng khai nhận Mai giúp sức cho

bị cáo mở tài khoản để giao dịch mua bán với nhiều bị hại, Mai cũng trực tiếp

nhận tiền thay cho mẹ với tổng số tiền trên 15 tỷ đồng trong thời gian dài, và

nhận thực được hành vi của mẹ mình là gian dối... Nhưng cấp CQĐT chỉ khởi

tố Trần Thị Quỳnh Hoa, không xem xét trách nhiệm hình sự của Mai nên Tòa

án phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Thứ hai là các vụ án có vai trò xúi giục của người khác nhưng cấp sơ

thẩm không làm rõ người xúi giục. Như vụ Mai Thị Tuyết Linh “Lừa đảo

CĐTS” nêu trên. Quá trình điều tra thì bị cáo Linh khai do nợ bà Trần Thị Dung

41

một khoản tiền trên 02 tỷ đồng, không có khả năng trả nợ, nên bà Dung đã chỉ

dẫn và lập kế hoạch cho bị cáo lừa mua ruốc khô của ông Nguyễn Văn Sinh

(như việc dùng tên giả, cho số điện thoại của ông Nguyễn Văn Sinh) nhằm

chiếm đoạt tiền của ông Sinh để có tiền trả nợ cho bà Trần Thị Dung. Lời khai

này của bị cáo Mai Thị Tuyết Linh phù hợp với diễn biến sự việc, vì bị cáo

Linh nợ bà Trần Thị Dung trên 02 tỷ đồng trong khoảng thời gian dài không có

tiền trả, phải bỏ địa phương đến thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Mặt khác,

giữa bà Dung với ông Sinh có mối quan hệ quen biết từ trước qua việc mua bán

ruốc với nhau (bà Dung bán ruốc cho ông Sinh), còn bị cáo Mai Thị Tuyết Linh

không quen biết ông Sinh. Một thực tế nữa là sau khi chiếm đoạt được tiền của

ông Sinh, bị cáo Linh đã dùng một phần tiền này để chuyển khoản, trả nợ cho

bà Trần Thị Dung. Do đó vụ án đã bị tuyên hủy án điều tra lại để xác định đúng

vai trò của bà Trần Thị Dung trong vụ án này.

Thứ ba là các vụ án có vai trò giúp sức của người khác nhưng cấp sơ

thẩm không làm rõ. Như vụ Trần Thị Út Hiền “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có hành

vi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trương Hồng Yến do người khác

thế chấp cho bị cáo khi vay tiền, nhờ Phạm Văn Đủ sửa giấy xác nhận độc thân

của Đủ thành Trương Hồng Yến rồi thuê Dương Thị Ngưng đóng giả Trương

Hồng Yến và giả chữ ký Yến để chuyển nhượng đất cho người khác. Tòa án

cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ truy tố, xét xử Trần Thị Út Hiền và Dương Thị

Ngưng, không xem xét trách nhiệm hình sự của Phạm Văn Đủ nên TAND cấp

cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án phúc

thẩm và bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại.

Thứ tư là các vụ án có người cùng thực hiện tội phạm nhưng không làm

rõ và xử lý chung trong vụ án. Như vụ Nguyễn Thị Bạch Tuyết là Kế toán

trưởng Công ty L&M Việt Nam, doanh nghiệp 100% vốn Malaysia, Tuyết biết

Công ty L&M với Ngân hàng OCBC và UOB thỏa thuận về việc các Ngân

42

hàng chấp nhận tất cả các phiếu yêu cầu chuyển tiền, lệnh chuyển tiền bằng bản

fax (hoặc bản scan) là chứng từ để chuyển tiền; các bản chính của phiếu yêu

cầu chuyển tiền hoặc lệnh chuyển tiền được Công ty L&M chuyển cho Ngân

hàng sau này chỉ để Ngân hàng lưu trữ (hoặc không cần nộp bản chính). Do

vậy, Tuyết đã làm nhiều phiếu yêu cầu chuyển tiền, lệnh chuyển tiền có chữ ký

và dấu chữ ký mang tên Wong Kong Hee, Chủ tịch và Yee Lip Chee, Tổng

giám đốc Công ty L&M để yêu cầu Ngân hàng OCBC và UOB chuyển tiền từ

tài khoản của Công ty L&M vào tài khoản của Công ty Đại Hồng Tùng (do

Tuyết làm chủ tài khoản) với tổng số tiền là 12 tỷ 747 triệu đồng, mặc dù giữa

hai công ty không có bất kỳ giao dịch nào. Khi tiền của Công ty L&M vào tài

khoản của Công ty Đại Hồng Tùng, Tuyết đã rút ra chiếm đoạt. Với hành vi

nêu trên, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, bị truy tố về tội “Lừa đảo CĐTS” với số tiền

chiếm đoạt 12 tỷ 747 triệu. CQĐT kết luận trong số 51 phiếu và lệnh chuyển

tiền có 26 phiếu và lệnh chuyển tiền giả với số tiền 6 tỷ 58 triệu nên chỉ quy kết

bị cáo chiếm đoạt khoản tiền này. Riêng 25 phiếu và lệnh chuyển tiền còn lại

với số tiền 6 tỷ 689 triệu là do Yee Lip Chee, Tổng giám đốc Công ty L&M ký

trực tiếp. Tuyết cho rằng toàn bộ 51 chứng từ bị cáo thực hiện theo lệnh của

Yee Lip Chee, sau khi tiền rút ra bị cáo đưa cho Yee Lip Chee, nhưng Yee Lip

Chee không thừa nhận và không biết tại sao lại ký các chứng từ này, CQĐT

tách hành vi của ông Yee Lip Chee để giải quyết thành một vụ án khác là chưa

giải quyết toàn diện vụ án. Vì nếu ông Yee Lip Chee phạm tội đối với 25 phiếu

chi này thì số tiền phạm tội của bị cáo Tuyết là trên 12 tỉ đồng, không thể tách

khoản tiền này thành 2 vụ án khác nhau. Mặt khác cần phải xem xét có vai trò

đồng phạm của Yee Lip Chee đối với 26 phiếu và lệnh chuyển tiền giả hay

không, do đó Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy án.

- Bỏ lọt hành vi phạm tội

43

Đây là vi phạm phổ biến trong hoạt động điều tra, truy tố, thường xảy ra

trong các trường hợp sau:

Thứ nhất là hành vi Lừa đảo CĐTS thường đi kèm với hành vi làm giả

tài liệu của cơ quan tổ chức, các tài liệu giả này được sử dụng để lừa dối người

bị hại, có nơi thì xử lý hai tội, có nơi thì xử lý một tội. Như vụ Nguyễn Phước

Hinh “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo thuê người làm giả 3 cuốn sổ đỏ thế chấp vay

tiền của Lâm Văn Hoài và Nguyễn Thụy Huyền Chi. Đây là hai hành vi độc

lập (làm giả sổ đỏ sau đó lừa đối người bị hại), có dấu hiệu phạm hai tội, nhưng

cấp sơ thẩm chỉ xử lý tội “Lừa đảo CĐTS”, không xử lý tội “Làm giả con dấu,

tài liệu của cơ quan tổ chức” là bỏ lọt hành vi phạm tội hoặc có trường hợp

ngược lại là hành vi làm giả giấy tờ xe để hợp thức hóa xe gian, bán cho người

khác, có dấu hiệu phạm hai tội nhưng chỉ xử lý hành vi “Làm giả con dấu, tài

liệu của cơ quan tổ chức” mà không xem xét hành vi gian dối với người mua

xe. Điển hình là vụ Nguyễn Quốc Lâm “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức,

Lừa đảo CĐTS”. Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Minh Hiền, Lê Hoàng Duy

sử dụng giấy đăng ký xe giả để hợp thức hóa mô tô không có giấy tờ rồi bán

cho nhiều người theo giá của xe mô tô hợp pháp, có dấu hiệu phạm tội “Lừa

đảo CĐTS”, người bị hại là những người mua xe; nhưng cấp sơ thẩm chỉ truy

tố, xét xử Hiền, Duy về tội “Làm giả giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan, tổ

chức”, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi “Lừa đảo CĐTS”

khi bán xe cho người mua.

Thứ hai là trong vụ án, ngoài hành vi phạm tội bị truy tố, xét xử, bị cáo

còn có hành vi chiếm đoạt khác có dấu hiệu phạm tội, nhưng không làm rõ để

xử lý. Như vụ Đặng Thị Huệ “Lừa đảo CĐTS”, ngoài hành vi chiếm đoạt của

bà Lê Thị Hồng 300.000.000đ, bị cáo còn đưa ra thông tin giả rồi bán cho ông

Phạm Thành Công thửa đất đã chuyển nhượng cho bà Châu Hồng Khỏe để

chiếm đoạt số tiền 430.000.000đ của ông Công, có dấu hiệu của tội “Lừa đảo

44

CĐTS”. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng xác

định đây là quan hệ dân sự là không chính xác. Do vậy vụ án đã bị tuyên hủy

án để điều tra lại do để lọt hành vi phạm tội.

- Xác định sai tội danh

Việc xác định sai tội danh thường có sự nhầm lẫn giữa tội “Lừa đảo

CĐTS” và “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS”, do xác định chưa đúng thời điểm có

hành vi gian dối, như vụ Nguyễn Phước Hinh. Bị cáo có 8 hành vi chiếm đoạt,

cấp sơ thẩm quy kết 3 hành vi là lừa đảo CĐTS, 5 hành vi là lạm dụng tín nhiệm

CĐTS. Trong đó khoản tiền 2.091.717.769đ bị cáo Hinh nói cô ruột là bà

Nguyễn Minh Nhãn gửi tiền để mua đất của ông Ngô Thanh Bình và

2.109.948.111đ để mua nhà của ông Lê Văn Nhuận nhưng sau khi nhận tiền

Hinh không mua. Hành vi này có dấu hiệu Lừa đảo CĐTS nhưng cấp sơ thẩm

kết luận đây là hành vi lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

- Kê biên tài sản không đúng

Đây là trường hợp kê biên tài sản không thuộc quyền quản lý sử dụng

của người bị kê biên. Như vụ Trần Văn Minh “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo lừa đảo

chiếm đoạt của 9 người bị hại với số tiền 2.693.500.000đ, CQĐT đã kê biên tài

sản gồm 1 căn nhà và 4 thửa đất của Trần Văn Minh và Huỳnh Thị Lệ Hoa mà

để bảo đảm thi hành án cho các đương sự trong VAHS và vụ án dân sự. Tuy

nhiên các tài sản này đã được vợ chồng bị cáo thế chấp để vay tiền của bà

Nguyễn Thị Thu Thủy trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Do không trả

được nợ nên bà Thủy kiện ra Tòa, Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa

thuận của các đương sự có nội dung ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự

là Trần Văn Minh và Huỳnh Thị Lệ Hoa liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Thu

Thủy số tiền vốn và lãi là 3.391.900.000 đồng, chị Thủy đồng ý trả lại tài sản

thế chấp cho anh Minh và chị Hoa. Quyết định trên đã có hiệu lực pháp luật và

không bị kháng nghị. Lệnh kê biên tài sản của CQĐT ban hành sau khi đã thế

45

chấp vay tiền và sau khi Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các

đương sự là không đúng, vì tài sản bị kê biên không còn thuộc quyền quản lý

của bị cáo. Mặt khác giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà

cấp cho hộ ông Trần Văn Minh chứ không phải cấp cho cá nhân ông Minh nên

là tài sản chung của hộ, trong khi ông Minh chỉ chịu trách nhiệm về tài sản đối

với phần tài sản của mình, không thể kê biên tài sản của các đồng sở hữu khác,

trong đó có phần tài sản của bà Huỳnh Thị Lệ Hoa vợ ông Minh đã cam kết trả

nợ cho bà Nguyễn Thị Thu Thủy theo Quyết định công nhận thỏa thuận của

các đương sự.

2.2.3. Những vi phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác định

các yếu tố cấu thành tội phạm

- Xác định các yếu tố cấu thành tội phạm không đúng, dẫn đến hình sự

hóa các quan hệ dân sự

Tội lừa đảo CĐTS được thực hiện thông qua việc người phạm tội xác lập

một giao dịch dân sự với người bị hại. Để phân biệt hành vi phạm tội và các

giao dịch dân sự thì phải xác định có yếu tố gian dối và chiếm đoạt trong giao

dịch dân sự đó không. Thực tế vẫn có trường hợp vi phạm trong việc xác định

các yếu tố cấu thành tội phạm dẫn đến hình sự hóa quan hệ dân sự; được thể

hiện dưới các dạng như:

Thứ nhất, nhầm lẫn giữa vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong giao dịch

dân sự với hành vi chiếm đoạt. Điển hình là vụ Vũ Đình Quý “Lừa đảo CĐTS”,

bị cáo bị truy tố về 9 hành vi chiếm đoạt, trong đó có hành vi thỏa thuận với bà

Nguyễn Thị Tư thi công 470 mét đường bê tông vào nhà ông Lâm Văn Triệu,

trị giá 200 triệu đồng nhưng không thanh toán tiền cho bà Tư. VKS cho rằng

đây là hành vi chiếm đoạt với lập luận bị cáo không có tài sản, không nghề

nghiệp, khi ký hợp đồng thi công đường với bà Tư bị cáo không có phương án

gì để thanh toán tiền thi công, bị cáo thừa nhận không có ý định trả tiền cho bà

46

Tư nên khi ký hợp đồng đã dùng tên giả, tuy không chiếm đoạt nhưng mục đích

làm đường để tạo lòng tin với ông Triệu nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản khác. Quan điểm trên là không chính xác vì đây là quan hệ dân sự, bị cáo

không nhận tiền từ bà Tư, đoạn đường này nhiều hộ sử dụng, do vậy việc khởi

tố hành vi này là không đúng.

Thứ hai, xử lý trách nhiệm hình sự về một khoản nợ trong giao dịch dân

sự đã được giải quyết bằng một quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật. Điển

hình là vụ Văng Thị Kim Nguyệt “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo vay tiền của nhiều

người với lý do vay đáo hạn ngân hàng hoặc vay để kinh doanh với lãi suất từ

1,5%/tháng đến 12%/tháng. Do tin tưởng nên nhiều người cho Nguyệt vay tiền,

nhưng sau khi nhận được tiền vay thì Nguyệt không sử dụng tiền vay như thỏa

thuận, mà đem trả lãi và vốn của người vay trước đó (lấy của người sau trả cho

người trước). Do mất khả năng thanh toán nên một số bị hại làm đơn tố cáo,

Văng Thị Kim Nguyệt bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Lừa đảo CĐTS” 1,4 tỷ

đồng của 10 người. Trong các khoản chiếm đoạt mà CQĐT kết luận có 300

triệu đồng vay của ông Võ Phước Hùng là sui gia với gia đình bị cáo. Khoản

tiền này bị cáo không chủ động vay, mà ông Võ Phước Hùng trúng số có tiền

nên đã chủ động cho vợ chồng bị cáo mượn tiền, ông Võ Văn Be, chồng Nguyệt

là người đứng ra mượn và viết giấy mượn tiền. Việc vay mượn không có thời

hạn và ông Hùng cũng không có tố cáo hành vi gian dối. Trước khi CQĐT khởi

tố vụ án thì ông Võ Phước Hùng đã làm đơn khởi kiện và Tòa án đã ra Quyết

định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ghi nhận việc ông Võ Văn Be

thừa nhận nợ và đồng ý trả lại cho ông Võ Phước Hùng số tiền vốn vay là 300

triệu đồng và lãi 19.800.000đ. Như vậy khoản vay 300 triệu đồng là giao dịch

dân sự, đã được giải quyết bằng một Quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật

nhưng CQĐT vẫn hình sự hóa và quy trách nhiệm hình sự cho bị cáo Văng Thị

Kim Nguyệt là vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

47

- Chưa làm rõ thủ đoạn gian dối

Việc chứng minh thủ đoạn gian dối trong nhiều trường hợp rất khó khăn,

nhiều khi mang tính chất suy đoán chủ quan mà không dựa trên những chứng

cứ rõ ràng, dẫn đến nhiều vụ bị hủy án vì lý do này. Việc chưa làm rõ thủ đoạn

gian dối thường xảy ra trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp giao dịch

chuyển nhượng nhà, đất nhưng người chuyển nhượng chưa thực hiện đầy đủ

nghĩa vụ đối với tài sản trước khi chuyển nhượng. Điển hình là vụ Ngô Thùy

Lan “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có 3 hành vi bị xử lý nhưng trong đó có hành vi

mua hai căn nhà chưa trả hết tiền cho người mua, sau đó bán nhà cho ông Đỗ

Quý Lưu; mua đất chưa trả hết tiền sau đó ủy quyền cho Nguyễn Thị Ly quản

lý, sử dụng đất. Cơ quan điều tra kết luận bị cáo Lừa đảo CĐTS của ông Đỗ

Quý Lưu và bà Nguyễn Thị Ly. Mặc dù chưa thanh toán hết tiền nhà và đất

nhưng vợ chồng bị cáo đã đứng tên quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, theo

quy định của pháp luật dân sự có quyền chuyển nhượng và ủy quyền cho người

khác, việc chưa trả hết tiền là một quan hệ pháp luật khác. Do có thiếu sót trên,

Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

Thứ hai, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp vay tiền để làm

ăn sau đó mất cân đối không có khả năng trả nợ. Trường hợp này tiềm ẩn nguy

cơ hình sự hóa quan hệ dân sự vì khó chứng minh yếu tố gian dối và yếu tố

chiếm đoạt. Điển hình là vụ Nguyễn Xuân Ngọc bị khởi tố “Lừa đảo CĐTS”,

vợ chồng Ngọc thuê nhà hàng để kinh doanh ăn uống, thời gian đầu kinh doanh

có hiệu quả nên Ngọc vay thêm tiền để mở rộng kinh doanh nhà hàng và kinh

doanh mỹ phẩm, hùn vốn nuôi cá. Do vay với lãi suất cao và chi phí cao bị thua

lỗ trong việc nuôi cá và kinh doanh mỹ phẩm, từ đó nợ ngày càng tăng và mất

khả năng thanh toán. Để có tiền duy trì kinh doanh, Ngọc tiếp tục vay tiền và

sử dụng một phần vào mục đích kinh doanh, số còn lại trả nợ vốn, lãi và chi

48

tiêu trong gia đình. Ngọc đã vay của 4 người với tổng số tiền 1.971.655.000đ.

Trong vụ án này, Ngọc vay tiền để làm ăn thật sự, vừa vay vừa trả lãi lẫn vốn,

việc kinh doanh thất bại, lợi nhuận thấp nên dẫn đến nợ càng nhiều nhưng bị

cáo vẫn cố gắng tìm mọi cách để trả, không có ý thức chiếm đoạt. Việc vay nợ

giữa bị cáo và người bị hại là tự nguyện giao dịch với mục đích vay là để kinh

doanh làm ăn. Cơ quan điều tra chưa làm rõ việc sử dụng vốn vay của bị cáo

có đúng mục đích khi vay không trong khi lời khai của các bên thì trong thời

gian vay, trả liên hoàn kéo dài nhiều lần, bị cáo Ngọc vẫn hoạt động kinh doanh

nhưng chưa điều tra làm rõ lần nào bị cáo sử dụng tiền vay đúng mục đích, lần

nào không, số tiền cụ thể là bao nhiêu? Có việc kinh doanh bị lỗ nên không trả

nợ được như lời khai của bị cáo không hay việc kinh doanh làm ăn chỉ là hình

thức lừa dối để bị cáo chiếm đoạt tiền của các bị hại để trả nợ cá nhân trước đó,

và trả cho những ai, bao nhiêu cũng chưa được điều tra rõ. CQĐT cho rằng

tháng 5/2015 bị cáo còn nợ hơn 500 triệu không có khả năng trả nhưng vẫn vay

tiếp để quy kết việc kinh doanh của bị cáo chỉ là hình thức nhằm che giấu hành

vi gian dối, các lần vay sau với số tiền không trả được là Lừa đảo CĐTS là nhận

định chủ quan, thiếu căn cứ, chưa chứng minh được ý thức gian dối để CĐTS

của bị cáo.

Thứ ba, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp có quan hệ chơi

huê hụi với nhau, sau đó không có khả năng trả tiền huê. Như vụ Hồ Thị Bảo

Nghĩa bị khởi tố về hành vi “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo làm chủ mở nhiều dây

huê và huy động nhiều người tham gia chơi, lấy tiền đóng huê của người này

trả cho người khác, bù vào số tiền bị bể huê và tiêu xài cá nhân, với hành vi

trên Hồ Thị Bảo Nghĩa đã chiếm đoạt của 6 người với tổng số tiền trên 14 tỷ

và 10 lượng vàng. Tuy nhiên, Nghĩa cho rằng không có hành vi gian dối, quan

hệ huê hụi giữa bị cáo và những người bị hại là giao dịch dân sự. Trong vụ án

này một số khoản là tiền nợ hụi, do bị cáo hốt các dây hụi người khác làm chủ

49

nhưng sau đó không đóng hụi chết; một số khoản là tiền người chơi hụi đóng

cho bị cáo khi tham gia các dây hụi do bị cáo làm chủ, sau này bể hụi bị cáo

không có tiền trả. Quá trình điều tra chưa làm rõ thủ đoạn gian dối cụ thể mà bị

cáo đã sử dụng trong việc chiếm đoạt các khoản tiền trên.

Thứ tư, chưa làm rõ hành vi gian dối trong trường hợp dùng chứng thư

bảo lãnh làm giả để ký hợp đồng mua hàng. Đây là một dạng lừa đảo mới,

nhưng phải chứng minh bị cáo biết rõ chứng thư bảo lãnh làm giả. Điển hình là

vụ Trần Phương Đức bị khởi tố về tội “Lừa đảo CĐTS”, bị cáo là giám đốc

Công ty Việt Tuân ký hợp đồng mua dầu Diesel bằng hình thức thanh toán trả

chậm. Để được mua dầu bằng hình thức trả chậm, Đức thuê Đỗ Văn Sơn làm

chứng thư bảo lãnh thanh toán trị giá 2 tỷ đồng của ngân hàng Công thương

Việt Nam chi nhánh Bình Tân với giá 200 triệu đồng để cung cấp cho bên bán.

Sau khi nhận hàng, Đức không thanh toán nên bên bán yêu cầu ngân hàng thanh

toán trả nợ theo chứng thư bảo lãnh thanh toán thì phát hiện chứng thư bảo lãnh

giả. Trần Phương Đức kêu oan vì cho rằng không biết chứng thư bảo lãnh giả.

Trong vụ án này, CQĐT quy kết bị cáo Đức về tội “Lừa đảo CĐTS” với lập

luận bị cáo buộc phải biết rõ để có được chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng thì

bên được bảo lãnh phải trực tiếp giao dịch với Ngân hàng, phải có tài sản thế

chấp, người nhận chứng thư bảo lãnh phải là người của công ty được giao nhiệm

vụ thực hiện theo thẩm quyền của mình mới được nhận chứng thư, nhưng Đức

không làm đúng quy định và thực tế chứng thư bảo lãnh giả, Đức đã dùng chứng

thư giả này để ký hợp đồng mua dầu trị giá 506 triệu đồng. Việc xác định hành

vi gian dối như lập luận trên mang tính chất suy diễn chủ quan do bị cáo Trần

Phương Đức khai không biết chứng thư bảo lãnh mà Đức thuê Sơn làm là chứng

thư giả cho đến khi được thông báo và khi thuê làm chứng thư có biên nhận

nhận tiền có chữ ký của ông Đỗ Văn Sơn, Đỗ Văn Phát, bà Nguyễn Ngọc Nữ.

Trong vụ án này, để xác định bị cáo có hành vi gian dối, có ý thức chiếm đoạt

50

hay không cần phải làm rõ khi nào bị cáo biết chứng thư bảo lãnh là giả, cần

phải làm rõ bị cáo thuê làm chứng thư giả hay chứng thư thật, cần phải đối chất

làm rõ giữa bị cáo, ông Sơn, ông Phát vì sao có các biên nhận nhận tiền và các

biên nhận này có liên quan đến việc làm chứng thư bảo lãnh? Việc CQĐT tách

ông Sơn, ông Phát, bà Nữ ra giải quyết thành vụ án khác là chưa xem xét toàn

diện vụ án. Ngoài ra, cần phải làm rõ việc mua dầu sử dụng cho cá nhân Đức

hay sử dụng cho hoạt động của công ty Việt Tuấn. Từ đó, mới xác định rõ yếu

tố gian dối, cũng như trách nhiệm cụ thể của bị cáo và Công ty.

- Chưa làm rõ mục đích chiếm đoạt

Mục đích chiếm đoạt là hành vi khách quan trong tội Lừa đảo CĐTS

nhưng trong thực tế các cơ quan tố tụng thường chỉ chú ý đến yếu tố gian dối

mà ít chú ý đến yếu tố chiếm đoạt, cứ có thủ đoạn gian dối là quy kết phạm tội,

dẫn đến bị hủy án. Điển hình là vụ Trần Quốc Dũng “Lừa đảo CĐTS”, trong

vụ án này bà Trần Thị Hồng là chủ sở hữu căn nhà 29B Điện Biên Phủ, quận

Bình Thạnh. Bà Hồng đưa giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử

dụng đất ở cùng tờ khai trước bạ cho con là Trần Quốc Dũng cất giữ. Do cần

tiền thực hiện việc góp vốn kinh doanh nên Dũng làm giả giấy ủy quyền với

nội dung bà Hồng ủy quyền cho Dũng được quyền mua bán, sang nhượng, cầm

cố, sau đó thế chấp giấy tờ nhà để vay của bà Trần Thị Kiều Trang

1.500.000.000đ trong thời hạn 1 tháng. Do Dũng không trả lãi đúng hẹn nên bà

Trang tìm hiểu và phát hiện giấy ủy quyền giả nên làm đơn tố cáo. Sau đó,

CQĐT đã thu hồi trả lại cho bà Trang số tiền 1.500.000.000đ. Như vậy, thủ

đoạn gian dối của Trần Quốc Dũng khi làm giả hoặc sử dụng giấy ủy quyền giả

chỉ thể hiện mục đích là để vay được tiền của bà Trần Thị Kiều Trang chứ chưa

thể hiện ý thức chiếm đoạt. CQĐT chỉ làm rõ được Trần Quốc Dũng có thủ

đoạn gian dối khi sử dụng tài sản không thuộc sử hữu của mình để bảo đảm

51

thực hiện nghĩa vụ cho hợp đồng vay tài sản, chứ chưa chứng minh “hành vi

CĐTS” của Trần Quốc Dũng, đó đó vụ án được trả hồ sơ để điều tra lại.

- Chưa làm rõ số tiền chiếm đoạt

Đây là dạng vi phạm phổ biến nhất của cấp sơ thẩm dẫn đến án bị trả

điều tra bổ sung hoặc cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại, thường được thể

hiện dưới các dạng như sau:

Thứ nhất là mua tài sản nhưng chỉ trả một phần để nhận tài sản và sau đó

chiếm đoạt tài sản đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định tài sản chiếm đoạt là

toàn bộ trị giá tài sản hay trừ đi phần tiền đã trả. Điển hình là vụ Vũ Đình Quý

“Lừa đảo CĐTS”, bị cáo có hành vi mua xe SH Mode dưới hình thức trả góp,

đưa trước 21 triệu, nhận xe, số còn lại trả góp cho Ngân hàng là 36 triệu. Trong

vụ án này số tiền chiếm đoạt là khoản tiền phải trả góp cho Ngân hàng, nhưng

CQĐT xác định số tiền chiếm đoạt là trị giá chiếc xe chiếm đoạt, còn số tiền

đưa trước 21 triệu là để tạo lòng tin nhằm nhận được tài sản, được trừ vào trách

nhiệm dân sự là chưa chính xác.

Thứ hai là lời khai của bị cáo và người bị hại về số tiền chiếm đoạt có

mâu thuẫn nhau nhưng không làm rõ mà kết luận theo số liệu của người bị hại,

gây bất lợi cho bị cáo. Như vụ án Bùi Thị Mỹ Dung “Lừa đảo CĐTS” trong

việc chơi huê hụi. Trong vụ án này việc chơi huê chỉ dựa vào lòng tin và thỏa

thuận miệng giữa các bên, không có giấy tờ ghi nhận rõ ràng số lần đóng, số

tiền đóng, những người tham gia đóng và hốt huê. Dung thừa nhận có nợ tiền

của các con huê, có người thì Dung nhớ số tiền nợ, có người Dung không nhớ

nợ bao nhiêu, có người Dung không thừa nhận nợ. Mặc dù đã cho tiến hành đối

chất nhưng bị cáo và người bị hại vẫn khai khác nhau, số tiền các bị cáo thừa

nhận nợ thấp hơn số tiền các bị hại khai rất nhiều. CQĐT căn cứ vào lời khai

của những người chơi huê về số tiền đã đóng huê và hốt huê, từ đó kết luận số

tiền các bị cáo chiếm đoạt tiền của các con huê là có thiếu sót về thu thập chứng

52

cứ. Lẽ ra trong quá trình điều tra, để chứng minh thủ đoạn phạm tội và số tiền

chiếm đoạt thì CQĐT phải làm rõ và lập bảng kê từng dây huê có bao nhiêu

con huê tham gia, số phần mỗi con huê tham gia, người hốt huê thực tế trong

mỗi kỳ để có số liệu chính xác, rõ ràng, có xác nhận của người tham gia dây

huê, làm cơ sở cho việc đấu tranh với các bị cáo, nhưng CQĐT không thực

hiện, do vậy chứng cứ để kết luận về thủ đoạn lừa đảo và quy kết số tiền các bị

cáo chiếm đoạt là không rõ ràng, chưa đầy đủ và không có tính thuyết phục.

- Thu thập chứng cứ chưa đầy đủ

Đây cũng là dạng vi phạm phổ biến, dẫn đến việc phải trả hồ sơ điều tra

bổ sung nhiều lần hoặc hủy án. Như vụ Nguyễn Hồng Mạnh “Lừa đảo CĐTS”,

bị cáo thành lập Công ty Tư vấn đầu tư Kinh Bắc với 22 ngành nghề kinh doanh.

Mặc dù Công ty hầu như không hoạt động kinh doanh như giấy phép được cấp,

không nhận được dự án nào ngoài việc làm báo cáo thuế cho một công ty mới

thành lập, nhưng Mạnh đã ký các hợp đồng tuyển dụng lao động vào làm việc

tại Công ty với chức danh là Kế toán, nhân viên tư vấn và yêu cầu người lao

động đóng tiền “Ký quỹ trách nhiệm”, số tiền này Mạnh hứa trả cho những

người lao động khi họ nghỉ việc. Sau khi tuyển dụng xong, Mạnh không bố trí

được công việc và không trả lương đầy đủ cho người lao động đến khi họ xin

nghỉ việc do không có việc làm thì Mạnh không trả lại tiền Ký quỹ. Với thủ

đoạn trên Mạnh đã nhận tiền ký quỹ của 7 người với số tiền 140 triệu. Ngoài ra

Mạnh còn rủ chị Phạm Thị Hoa góp 360 triệu chung với Mạnh mua đất nhưng

sau đó không mua đất và không trả tiền; hứa hẹn có khả năng làm dịch vụ tách

thửa đất để nhận của chị Nguyễn Thị Dịu và anh Nguyễn Văn Tánh 50 triệu

đồng nhưng sau đó không làm. Mạnh cho rằng bản thân bị oan và do đối với

khoản tiền ký quỹ trách nhiệm của 7 người thì có 4 người có đơn xin rút đơn tố

cáo, do họ chỉ muốn làm đơn để Mạnh trả lại tiền. Mạnh cho rằng có sắp xếp

công việc đúng hợp đồng, trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy

53

đủ và có thông báo trước về lý do chưa thanh lý hợp đồng, trả số tiền ký quỹ

trách nhiệm” còn lại Mạnh chưa trả sẽ kiện bằng vụ kiện dân sự khác. Ông

Tánh và bà Dịu có đơn yêu cầu không xử lý hình sự đối với khoản tiền 50 triệu

đưa cho Mạnh vì đó là hợp đồng dịch vụ Mạnh nhận để làm dịch vụ chuyển

quyền sử dụng đất và tách thửa. Quá trình điều tra bị cáo Mạnh khai có đến

Phòng Tài nguyên và Môi trường hỏi thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất thì

được biết diện tích đất trên chưa cho chuyển mục đích. Để có cơ sở quy kết bị

cáo chiếm đoạt tiền của ông Tánh và bà Dịu cần điều tra bị cáo Mạnh có thực

hiện nghĩa vụ hợp đồng dịch vụ hay không? Giữa các bên có thỏa thuận gì sau

khi hết thời hạn cam kết của hợp đồng dịch vụ? Tình tiết này cấp sơ thẩm chưa

cho đối chất làm rõ. Do vậy Tòa án cấp cao đã hủy án để điều tra lại.

Thực trạng các vụ án Lừa đảo CĐTS bị hủy nêu trên cho thấy còn nhiều

tồn tại thiếu sót trong việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ, xác định tội

danh, xác định các yếu tố cấu thành tội phạm, áp dụng pháp luật cũng như việc

tuân thủ pháp luật TTHS. Những tồn tại thiếu sót này thuộc về trách nhiệm của

VKS khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự.

2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn

chế khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa

đảo CĐTS” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

2.3.1. Nguyên nhân khách quan

- Một là, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều thủ

đoạn phạm tội mới, ngày càng tinh vi, gây khó khăn cho việc chứng minh tội

phạm. Như vụ Ngô Thùy Lan “Lừa đảo CĐTS”, thủ đoạn của bị cáo là thỏa

thuận mua nhà, giao trước một số tiền nhỏ và hứa sang tên xong sẽ trả nốt,

nhưng sau khi làm thủ tục sang tên nhà, các bị cáo đã chuyển nhượng cho người

khác, không trả tiền mua nhà. Trường hợp này có yếu tố gian dối với cả người

54

mua nhà trước đó và người bán nhà sau này, người bán nhà trước đó bị thiệt hại

vì không lấy được tiền bán nhà nhưng rất khó chứng minh yếu tố chiếm đoạt vì

về mặt hình thức đây là quan hệ dân sự. Hoặc việc chứng minh yếu tố gian dối

và chiếm đoạt trong trường hợp vay tiền để làm ăn hoặc chơi huê hụi với nhau,

sau đó không có khả năng trả nợ.

- Hai là, việc thu thập chứng cứ trong một số vụ án hết sức khó khăn,

nhất là việc chứng minh số tiền chiếm đoạt trong các vụ án liên quan đến quan

hệ vay mượn, huê hụi. Trong các vụ này việc vay mượn tiền và chơi huê hụi

diễn ra nhiều lần, trong một thời gian dài; khi mượn tiền hoặc đóng huê không

làm giấy tờ, chỉ dựa trên lòng tin, hoặc có làm giấy tờ nhưng không cụ thể từng

khoản, từng ngày, ghi chép, theo dõi không đầy đủ, lẫn lộn giữa các khoản trả

gốc, trả lãi; dẫn đến chứng cứ chứng minh số tiền vay và trả không rõ ràng,

trong khi đó thời gian xảy ra đã lâu, các bên không nhớ rõ nên khai không thống

nhất, mâu thuẫn. Mặt khác trong số tiền đã nhận thì phần chiếm đoạt và phần

sử dụng đúng mục đích không rõ ràng. Khi chứng cứ không thu thập được, cơ

quan tố tụng cân đối đầu vào, đầu ra, kết luận số tiền chênh lệch là số chiếm

đoạt hoặc kết luận theo số liệu người bị hại, dẫn đến bị hủy án.

- Ba là, một số quy định của pháp luật hình sự chưa cụ thể, rõ ràng mang

ý nghĩa chung chung chậm sửa đổi, bổ sung. Trong khi công tác hướng dẫn,

giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền chưa được thường xuyên sâu

sát và đồng bộ, đây là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng thiếu thống nhất trong

nhận thức và áp dụng pháp luật, từ đó làm cho việc giải quyết nhiều vụ án

gặp khó khăn, xảy ra vi phạm, thiếu sót. Cụ thể: BLTTHS và Luật tổ chức

VKSND chủ yếu quy định các nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi tham gia giải

quyết các vụ án hình sự trong khi quyền hạn thì lại rất hạn chế, thiếu những quy

phạm bảo đảm cơ chế hoạt động công tố gắn kết với hoạt động điều tra. Nội

dung Luật tổ chức VKSND năm 2014 còn nặng về những quy định chung chung

55

về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiếm sát viên, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể

nên hiệu quả thấp. Vì thế cần bổ sung quy định pháp luật cho các quyền tương

ứng với quyền năng pháp lý của VKS và KSV trong thực hành quyền công tố

để thực thi nhiệm vụ của mình.

Tồn tại một số những bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự

như dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là “dùng thủ đoạn gian

dối” với dấu hiệu của một số tội thuộc chương sở hữu và các tội phạm khác

nhưng chưa có một văn bản nào hướng dẫn chi tiết, cụ thể phân biệt các loại tội

phạm này, cũng như định nghĩa thế nào là “thủ đoạn gian dối”, “thủ đoạn xảo

quyệt” nên còn có sự chưa thống nhất giữa các cơ quan tố tụng trong việc nhận

thức và áp dụng pháp luật quá trình giải quyết vụ án…

Ngoài ra, Trong mối quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra: Theo quy

định thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và quyết định của

VKS nhưng trên thực tế, do chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với

CQĐT nên nhiều yêu cầu của Kiểm sát viên trong tiếp nhận, giải quyết nguồn

tin tội phạm và yêu cầu điều tra đã không được thực hiện.

2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

- Một là, KSV được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát điều

tra vụ án còn hạn chế về năng lực và chưa làm hết trách nhiệm được giao trong

quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án

không kịp thời phát hiện những những vi phạm, thiếu sót của CQĐT. Thể hiên

trước tiên là KSV được phân công THQCT được đề ra yêu cầu điều tra để định

hướng điều tra, góp phần giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, chính xác

nhưng thực tiễn nhận thấy do thiếu tinh thần trách nhiệm, không theo dõi sát

vụ án cũng như do hạn chế về năng lực nghiệp vụ nên xảy ra tình trạng chất

lượng yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên chưa thực sự đảm bảo, một số vụ án

có nội dung yêu cầu điều tra còn chung chung, mang tính hình thức, không sát

56

với nội dung cần chứng minh, mang tính sao chép, chưa định hướng thu thập

chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm của vụ án Lừa đảo CĐTS; trong quá

trình điều tra không kịp thời yêu cầu làm rõ những vấn đề quan trọng để chứng

minh hành vi phạm tội và người phạm tội; khi kết thúc điều tra không thực hiện

các hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, nhân chứng, xác minh

khi bị can kêu oan, có mâu thuẫn trong lời khai, tài liệu chứng cứ trong hồ sơ

vụ án; còn nặng tư duy buộc tội, chỉ tập trung xem xét, đánh giá các chứng cứ

buộc tội, không quan tâm đến việc thu thập đánh giá chứng cứ gỡ tội. Đây trước

hết thuộc về lỗi chủ quan của KSV. Bên cạnh đó còn có trách nhiệm của lãnh

đạo VKS đã không kiểm tra chặt chẽ các hoạt động nghiệp vụ để chỉ đạo xử lý

kịp thời các vướng mắc và định hướng cho KSV trong quá trình thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra, đặc biệt là các vụ án phức tạp, chứng cứ

yếu.

Việc chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo viện trong thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có lúc chưa hợp lý, thiếu tính khoa

học nên chưa phát huy hết năng lực sở trường công tác của Kiểm sát viên cũng

như đôi lúc còn chưa sâu sát, chưa thường xuyên kiểm tra đôn đốc cán bộ KSV,

Kiểm tra viên thực hiện đầy đủ các chức năng theo BLTTHS quy định.

- Hai là, công tác phối hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút

kinh nghiệm chưa được chú trọng. Thể hiện ở nhiều vụ án phức tạp, có vướng

mắc, nhưng VKS cấp sơ thẩm không báo cáo xin ý kiến VKS cấp trên, sau đó

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy án. Công tác tổng kết thực tiễn tại một số địa

phương chưa được chú trọng, các vụ án Tòa tuyên hủy án để điều tra, xét xử lại

chưa được tổng kết, phân tích để rút kinh nghiệm về công tác nghiệp vụ và công

tác quản lý, chỉ đạo; việc triển khai thực hiện chuyên đề nghiệp vụ, thông báo

rút kinh nghiệm còn mang tính hình thức, kém hiệu quả khi còn nặng về số liệu

57

nhưng chưa đúc kết ra được bài học kinh nghiệm, kỹ năng trong thực tiễn cho

KSV học hỏi để áp dụng vào hoạt động THQCT.

58

Tiểu kết chương 2

Trong chương này tác giả tập trung nghiên cứu về thực tiễn áp dụng tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, phân tích các kết quả

đã đạt được thể hiện vai trò của VKS trong việc đảm bảo việc điều tra đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người

vô tội, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất

định như những vi phạm, sai lầm và những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn

áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đó đi sâu

vào những vi phạm, hạn chế, thiếu sót của CQĐT và VKS trong quá trình giải

quyết vụ án, những vi phạm về tố tụng, đánh giá, thu thập chứng cứ cũng như

sai phạm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc

bị Tòa tuyên hủy án. Từ những vi phạm và thiếu sót trong thưc tiễn đã nêu, tác

giả đề ra một số giải pháp khắc phục và nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trong thời gian tới.

59

Chương 3:

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CĐTS

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung

về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ

án hình sự nhưng cần bổ sung thêm một số quy định để tăng cường hiệu quả

hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, cần quy định cụ thể hơn

Kiểm sát viên có những quyền hạn, nhiệm vụ gì khi là người đại diện cho VKS

thực hành quyền công tố nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của Kiểm sát viên

đối với những quyết định của mình.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng cần quy định đối với yêu cầu,

quyết định của KSV phải được CQĐT, những người tham gia tố tụng thực hiện

nghiêm, nếu không thì có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm

hình sự, tránh tình trạng do không có chế tài dẫn đến hiện trạng CQĐT không

chú trọng thực hiện yêu cầu điều tra của VKS dẫn đến vi phạm trong việc giải

quyết vụ án. Kèm theo đó là quy định Kiểm sát viên cũng sẽ chịu trách nhiệm

pháp lý đối với các yêu cầu, quyết định của mình nếu các yêu cầu, quyết định

đó không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật.

3.2. Giải pháp khác

3.2.1. Quán triệt và thực hiện các yêu cầu trong hoạt động nghiệp vụ

Trong quá trình giải quyết các vụ án Lừa đảo CĐTS, cần chú ý thực hiện

tốt một số yêu cầu nghiệp vụ sau đây:

Thứ nhất, VKS có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT. Phần lớn các vụ án Lừa đảo

CĐTS đều có một khoảng thời gian xác minh khá dài trước khi khởi tố. Hoạt

60

động xác minh tố giác, tin báo tội phạm có vai trò rất quan trọng, nếu giai đoạn

này thực hiện tốt thì sẽ thuận lợi cho giai đoạn điều tra sau này. Tuy thời hạn

xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tối đa chỉ có 2 tháng nhưng

nhiều trường hợp phức tạp, cần có nhiều thời gian xác minh, có thể xảy ra

trường hợp vi phạm về thời hạn xác minh tố giác, tin báo tội phạm nhưng cũng

phải làm thật kỹ trước khi khởi tố. Trong quá trình xác minh tố giác, tin báo tội

phạm, cần chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh để CQĐT thực hiện. Chú

ý về địa điểm thực hiện hành vi phạm tội để xác định thẩm quyền giải quyết

cho chính xác. Trong trường hợp CQĐT có vi phạm pháp luật trong hoạt động

kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm

mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng CQĐT không thực hiện, không khắc

phục thì VKS phải trực tiếp xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015.

Thứ hai, khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, xét phê chuẩn

biện pháp ngăn chặn, cần chú ý xem hành vi bị khởi tố bị can có nằm trong căn

cứ khởi tố vụ án không; nếu thấy chứng cứ còn yếu hoặc có mâu thuẫn thì VKS

phải yêu cầu CQĐT xác minh, tuyệt đối không nể nang phê chuẩn trước, bổ

sung tài liệu, chứng cứ sau. Trường hợp CQĐT không bổ sung tài liệu, chứng

cứ mà vẫn đề nghị phê chuẩn, hoặc trường hợp người bị khởi tố không nhận

tội, tài liệu chứng cứ chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì KSV phải trực tiếp lấy lời

khai người bị khởi tố, bị hại, nhân chứng để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng

cứ nhằm bảo đảm việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp

ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật, coi đây là yêu cầu nghiệp vụ bắt buộc đối

với KSV. Nếu sau khi thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ vẫn không đủ căn cứ

thì kiên quyết không phê chuẩn hoặc ban hành quyết định hủy bỏ các quyết

định cảu CQĐT theo luật định.

61

Thứ ba, đặc biệt chú trọng thực hiện việc đề ra yêu cầu điều tra đối với

tất cả các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đây là thao tác nghiệp vụ có mục đích phối

hợp và định hướng cho CQĐT những vấn đề cần thực hiện trong quá trình điều

tra thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội, kịp thời

giải quyết và làm rõ mâu thuẫn trong các tài liệu chứng cứ để đảm bảo giải

quyết vụ án đúng người, đúng tội. Việc đề ra yêu cầu điều tra phải đạt được

mục đích làm rõ tất cả các khía cạnh có liên quan đến giao dịch giữa người

phạm tội và người bị hại. Ngoài yêu cầu chung về hình thức, kết cấu, nội dung

thì yêu cầu điều tra phải phù hợp đặc điểm của tội Lừa đảo CĐTS. Thực tiễn

cho thấy nội dung trọng tâm cần đề ra yêu cầu điều tra trong tội Lừa đảo CĐTS

là:

- Làm rõ thủ đoạn gian dối, nhất là hành vi gian dối trong trường hợp vay

tiền để làm ăn sau đó không có khả năng trả nợ; quan hệ huê hụi với nhau, sau

đó không có khả năng trả tiền huê; gian dối trong trường hợp dùng giấy tờ giả

nhưng người bị khởi tố cho rằng không biết đó là giấy tờ giả. Cần phải làm rõ

gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt hay gian dối để được giao kết hợp đồng

nhưng không có mục đích chiếm đoạt, từ đó xác định đây là hành vi phạm tội

vay hay vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự.

- Làm rõ mục đích chiếm đoạt, hành vi gian dối có quyết định việc chiếm

đoạt không, tài sản bị mất do bị chiếm đoạt hay vì lý do khách quan.

- Làm rõ thời điểm thực hiện hành vi gian dối và hoàn thành việc chiếm

đoạt để định tội danh chính xác.

- Làm rõ tư cách của các bên trong giao dịch, quyền sở hữu, quản lý đối

với tài sản mang đi giao dịch, từ đó xác định chính xác tư cách tham gia tố tụng,

nhất là trường hợp người quản lý tài sản không phải chủ sở hữu tài sản, tài sản

của doanh nghiệp, tài sản được sang tên trái phép.

62

- Làm rõ số tiền chiếm đoạt, nhất là trường hợp chiếm đoạt một phần, sử

dụng đúng mục đích một phần; trường hợp gian dối để vay tiền sau đó có trả

lãi; trường hợp lời khai bị can và bị hại về số tiền chiếm đoạt có mâu thuẫn

nhau; phải làm rõ từng khoản tiền chiếm đoạt cụ thể vào thời gian nào, số tiền

bao nhiêu, bằng thủ đoạn gì, không được kết luận trên cơ sở duy diễn bị can

không chứng minh được mục đích sử dụng hợp pháp thì xem là chiếm đoạt.

- Làm rõ hành vi của người có liên quan đến giao dịch, nhất là vai trò

của vợ hoặc chồng người phạm tội; người bày mưu, xúi giục, giúp sức và người

có tham gia một công đoạn nào đó trong quá trình làm cho người bị hại tin

tưởng, giao tài sản cho người phạm tội.

- Làm rõ các hành vi có liên quan đến hành vi phạm tội như dùng các tài

liệu giả của cơ quan tổ chức hoặc còn có hành vi nào khác không, các hành vi

này có dấu hiệu phạm tội độc lập không.

Thứ tư, phải chủ động bám sát quá trình điều tra, theo dõi chặt chẽ tiến

độ điều tra, kịp thời yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan vụ án

để phục vụ công tác thực hành quyền công tố. Trong trường hợp phát hiện có

dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm và VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng

CQĐT không khắc phục thì KSV phải trực tiếp tiến hành các hoạt động điều

tra theo quy định, xem đây là yêu cầu nghiệp vụ bắt buộc thể hiện sự tăng cường

trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Trong

quá trình kiểm sát khi có những vụ án phức tạp, có khó khăn, vướng mắc về

đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đường lối xử lý hoặc bất đồng quan điểm

giữa các bên trong xử lý vụ án, KSV cần kịp thời báo cáo xin ý kiến của lãnh

đạo Liên ngành cùng cấp để thống nhất giải quyết; nếu các bên không thống

nhất được thì báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Liên ngành cấp trên.

Thứ năm, KSV cùng với ĐTV phải có sự phối hợp rà soát lại toàn bộ

chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra các thủ tục tố tụng đối với vụ án, bị

63

can trước khi kết thúc điều tra, trong trường hợp cần thiết, KSV có thể trực tiếp

cùng với ĐTV tổng hợp bản cung để đánh giá toàn diện, khách quan tính chất;

mức độ phạm tội của từng bị can trong vụ án. Bên cạnh đó, qua việc rà soát lại

toàn bộ vụ án trước khi kết thúc điều tra giúp CQĐT kịp thời phát hiện và khắc

phục những vi phạm hoặc thiếu sót trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ.

Ngoài ra, do đặc trưng của tội Lừa đảo CĐTS, cần mô hình hóa nội dung vụ án

để xác định các mối liên hệ trong quá trình thực hiện tội phạm, đường đi dòng

tiền nhằm đánh giá tổng thể vụ án và phát hiện những mối liên hệ cần làm rõ.

Thực tiễn công tác xử lý tội phạm về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhận thấy

các đối tượng phạm tội thực hiện tội phạm một cách tinh vi, xảo quyệt thường

quanh co chối tội, nên khi gặp các trường hợp này, KSV cần trực tiếp hỏi cung

bị can để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc không nhận tội của bị can, từ

đó phối hợp và yêu cầu CQĐT thu thập, bổ sung tất cả các chứng cứ cả buộc

tội và gỡ tội, hạn chế tình trạng kết thúc điều tra vụ án mới phát hiện vấn đề và

trả hồ sơ điều tra bổ sung. Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ cho

VKS truy tố, KSV được phân công nghiên cứu kỹ hồ sơ trong thời hạn luật

định, thực hiện việc phúc cung tổng hợp đối với từng bị can, phát hiện kịp thời

những mâu thuẫn trong vụ án cần tiếp tục làm rõ từ đó có đường lối xử lý vụ

án, bị can một cách thận trọng, đảm bảo có căn cứ theo luật định.

Thứ sáu, khi quyết định việc truy tố phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc

suy đoán vô tội, tránh đánh giá một chiều, chỉ tập trung xem xét, đánh giá các

chứng cứ buộc tội, không quan tâm đến việc thu thập đánh giá chứng cứ gỡ tội,

khi không có đủ chứng cứ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội thì VKS

phải kết luận người bị buộc tội theo hướng không có tội. Đảm bảo nguyên tắc

không sử dụng chứng cứ là các tài liệu có vi phạm tố tụng làm để làm căn cứ

phê chuẩn các quyết định của CQĐT hay kết tội, truy tố bị can.

64

3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác phối

hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm

Chất lượng và hiệu quả công tác giải quyết án hình sự phần lớn do ảnh

hưởng trực tiếp từ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Công tác phối hợp,

thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm có vai trò hỗ trợ tích

cực cho hoạt động giải quyết án. Do vậy nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo,

điều hành và tăng cường công tác phối hợp, thỉnh thị nghiệp vụ, tổng kết thực

tiễn, rút kinh nghiệm là yếu tố quan trọng nhằm hạn chế các sai lầm trong

nghiệp vụ dẫn đến Tòa án tuyên không phạm tội hoặc hủy án để điều tra lại, cụ

thể:

Thứ nhất, Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các

hoạt động nghiệp vụ của KSV ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là kiểm tra việc

thực hiện các yêu cầu nghiệp vụ về kiểm sát việc khởi tố, đề ra yêu cầu điều

tra, kiểm sát việc lập hồ sơ, kiểm sát việc kết thúc điều tra, đề xuất truy tố, xử

lý vụ án; Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc trong

quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, phải thực sự thể hiện vai

trò, trách nhiệm đối với công việc. Đối với các vụ án phức tạp, cần phân công

KSV có kinh nghiệm, có năng lực làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm

sát điều tra. Lãnh đạo cũng cần phải theo dõi chỉ đạo sát sao và xử lý kịp thời

những vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án này.

Thứ hai, Lãnh đạo có trách nhiệm trực tiếp kiểm tra tài liệu, chứng cứ

nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm, thiếu sót cũng như những mâu thuẫn

trong tác tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và hạn chế trong nghiên cứu,

đánh giá, đề xuất của KSV trong quá trình điều tra đối những vụ án phức tạp,

bị can không nhận tội, từ đó chỉ đạo kịp thời đối với KSV tiến hành một số hoạt

động điều tra trước khi phê chuẩn các quyết định hoặc quyết định truy tố. Phát

huy trí tuệ tập thể trong quá trình đánh giá chứng cứ. Khi có quan điểm khác

65

nhau về đánh giá chứng cứ và đường lối giải quyết vụ án thì VKS phải chủ

động họp liên ngành với CQĐT, có thể mời Tòa án tham gia họp, nếu không

thống nhất có thể báo cáo VKSND cấp trên xin ý kiến bởi BLTTHS, Luật tổ

chức VKSND, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Cơ quan điều tra

quy định mang tính nguyên tắc trong mối quan hệ phối của VKSND với CQĐT,

Tòa án và nội dung này đã nên được các cơ quan có thẩm quyền cần cụ thể để

áp dụng thống nhất, phù hợp với quy định của pháp luật

Thứ ba, KSV thụ lý vụ án phải báo cáo đầy đủ các tình tiết của vụ án,

một cách trung thực, khách quan, cả các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội;

vấn đề dân sự, biện pháp tư pháp và những vướng mắc khi xử lý vụ án khi phê

chuẩn khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định việc truy tố và các tình

tiết nhân thân người phạm tội.

Thứ tư, khi xảy ra sai sót trong hoạt động nghiệp vụ, bị Tòa án cấp trên

tuyên hủy án để điều tra lại, cần nghiêm túc kiểm điểm làm rõ nguyên nhân và

trách nhiệm cá nhân của KSV, của Lãnh đạo Viện chỉ đạo. Lãnh đạo phải

nghiêm túc trong việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và chịu trách nhiệm, không

đẩy hết trách nhiệm cho KSV.

Thứ năm, VKS các cấp cần tiến hành phân tích, tổng hợp những vấn đề

cần khắc phục trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ đạo, điều

hành, để rút kinh nghiệm thông qua các vi phạm, thiếu sót dẫn đến Tòa án tuyên

hủy án để điều tra, xét xử lại, hoặc trả điều tra bổ sung để tránh việc xảy các vi

phạm tương tự. Các KSV thông qua các Thông báo rút kinh nghiệm những vụ

án cấp trên hủy, sửa hoặc những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án cụ thể đã

giải quyết để rút kinh nghiệm bản thân và trao dồi, học hỏi từ đồng nghiệp nhằm

nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ

án Lừa đảo CĐTS.

66

3.2.3. Củng cố và tăng cường trong bố trí nhân lực và các điều kiện đảm

bảo công tác

Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên

Thứ nhất, lãnh đạo VKS tối cao và VKS địa phương cần thường xuyên

tổ chức các hội nghị tập huấn các chuyên đề chuyên sâu mà thực tế đòi hỏi như

nâng cao kỹ năng THQCT kiểm sát điều tra hoặc trực tiếp tiến hành một số

hoạt động điều tra về tội “Lừa đảo CĐTS”. Ngoài ra, nâng cao chất lượng trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, kỹ

năng nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên cũng là vấn đề cần được quan tâm

và chú trọng hàng đầu bởi đây là lực lượng chính thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của Ngành. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức và tạo điều kiện cho Kiểm

sát viên phát huy và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị theo tinh

thần lời dạy của Bác Hồ: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và

khiêm tốn.

Thứ hai, chính bản thân Kiểm sát viên phải có ý thức được tầm quan

trọng của việc trau dồi kiến thức, tích cực học tập để nắm vững các quy định

pháp luật hình sự cùng những ngành luật khác và có hiểu biết nhất định về các

chuyên ngành khác để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ từ đó giúp

Kiểm sát viên có đủ tự tin, kỹ năng nghiệp vụ vững vàng, có đủ khả năng đánh

giá chính xác hiệu quả hoạt động điều tra của CQĐT đồng thời phát hiện những

vi phạm, thiếu sót để kịp thời khắc phục, giải quyết.

Thứ ba, Lãnh đạo cần quan tâm chú trọng đến công tác bố trí nguồn nhân

lực phù hợp với năng lực. trình độ của từng cá nhân, phát động các phong trào

thi đua, khen thưởng gắn với việc phát huy tinh thần rèn luyện phấn đấu, từ đó

nâng cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực cống hiến của mỗi cá nhân trong công

tác chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

67

Các giải pháp bảo đảm cơ sở vật chất và chế độ chính sách đối với Kiểm

sát viên

Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là yếu tố quan trọng mà Đảng và

Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng để hỗ trợ phục vụ công tác của các cơ

quan như xây dựng nhiều trụ sở mới đảm bảo nơi làm việc cho cán bộ, công

chức; mua sắm trang thiết bị công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu công việc;

thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đối với cán bộ công chức trong ngành Kiểm

sát. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay thì vẫn không đáp ứng đủ bởi

vẫn còn tình trạng khó khăn, thiếu thốn, nhất là trụ sở làm việc, phương tiện đi

lại, đặc biệt là các phương tiện công nghệ như máy vi tính và máy phô tô, các

chương trình quản lý án chuyên dụng để hỗ trợ cho công tác thống kê, quản lý,

các công cụ, phương tiện thích hợp cho việc số hóa hồ sơ vụ án và lưu trữ, bảo

mật chúng.

Bên cạnh đó, vấn đề về chế độ lương, phụ cấp của ngành còn thấp, chưa

tương xứng với khối lượng công việc và trách nhiệm phải gánh vác nên đời

sống của cán bộ công chức ngành Kiểm sát còn gặp nhiều khó khăn, đã ảnh

hưởng phần nào đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì

vậy, cần có chế độ chính sách về tiền lương, phụ cấp phù hợp với lượng công

việc và trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành kiểm sát để họ đảm bảo cuộc

sống và quan tâm đến việc cải thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác được hiệu

quả hơn. Việc quan tâm đến chế độ đối với con người và cơ sở vật chất góp

phần đảm bảo các điều kiện cuộc sống, môi trường làm việc của cán bộ công

chức để họ an tâm công tác và tập trung phấn đấu trong công tác chuyên môn,

nghiệp vụ cũng như góp phần thu hút những người có năng lực đóng góp cho

Ngành.

68

69

KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, hoạt động điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa

đảo CĐTS nói riêng về cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

đã khắc phục được nhiều tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử; nhờ đó tình hình oan, sai đã được hạn chế đáng kể so với trước đây. Những

kết quả tích cực từ thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy đội ngũ Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã làm tốt công tác

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, góp phần bảo vệ pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức, cá nhân. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, thì công tác điều tra

án Lừa đảo CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, vi phạm,

dẫn đến phải trả điều tra bổ sung hoặc bị TAND cấp phúc thẩm tuyên hủy án

để điều tra, xét xử lại. Từ những hạn chế, thiếu sót đã nêu, tác giả đề ra một số

đề xuất, kiến nghị khắc phục vi phạm và nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố nói chung và trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng.

Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả đã đánh giá khái quát tình hình

điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và hệ

thống hóa các vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến hủy

án trong thời gian 5 năm gần đây để cùng nghiên cứu, trao đổi. Trên cơ sở đó

đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều

tra các vụ án Lừa đảo CĐTS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, hạn chế tình

trạng bị hủy án trong thời gian tới.

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lý Văn Chính (2005) “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2005, tr.48-51.

2. Hoàng Xuân Đàn (2018) Thực hành quyền công tố trong điều tra các

VAHS ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã

hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Hậu (2013) “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm

sát điều tra của VKSND”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp 1/2013, tr.25-

27.

4. Trần Thị Phương Hiền (2007) Tội lừa đảo CĐTS - Những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

5. Lê Thị Tuyết Hoa (2012) “Một số nội dung trọng tâm để thực hiện

chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu

cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 16/2012, tr.9-12;20.

6. Lê Thị Tuyết Hoa (2014) “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng

cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động

điều tra”, Tạp chí Kiểm sát, số 08/2014, tr.2-8.

7. Đặng Thị Thanh Huyền (2016) Tội lừa đảo CĐTS trong pháp luật hình

sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

8. Tống Kim Hương (2013) “Về kiểm sát điều tra VAHS và mối quan hệ

giữa kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố trong TTHS”, Tạp chí Kiểm

sát, số 6/2013, tr.38-41.

9. Đoàn Tạ Cửu Long (2014), Hoạt động của VKSND trong điều tra

VAHS, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

10. Hoàng Nghĩa Mai (2008) “Nâng cao trách nhiệm của VKS và KSV

trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ

thẩm các VAHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2008, tr.39-43.

11. Trần Đình Nhã (2014) “Công tố và thực hành quyền công tố trong

TTHS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21/2014, tr.29-33.

12. Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn truy tố,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Trần Công Phàn (2012) “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 02/2012, tr.39-41;46.

14. Nguyễn Hải Phong (chủ biên) (2013) Một số vấn đề về tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

15. Nguyễn Hải Phong (2008) “Nâng cao chất lượng THQCT, kiểm sát

điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm các VAHS nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để

điều tra bổ sung giữa các cơ quan THTT”, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2008, tr.9-

16.

16. Đinh Văn Quế (2007) Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng

trong BLHS và Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Đinh Văn Quế (2002) Bình luận khoa học BLHS năm 1999 tập II, Nxb

tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Đinh Văn Quế (2005) Pháp luật hình sự, thực tiễn xét xử và án lệ, Nxb

Lao động xã hội, Hà Nội.

19. Quốc hội (2009) Bộ luật hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm

2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm

2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Lê Hữu Thể (2005) “Một số giải pháp nâng cao chất lượng THQCT

và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2005, tr.8-10;11-

15.

22. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, NxbTư pháp, Hà Nội.

23. Trần Đức Thuận (2014) “Một số kinh nghiệm trong hoạt động công tố

và kiểm sát điều tra án hình sự của KSV”, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2014, tr.59-

63.

24. Dương Thị Ngọc Thủy (2008) Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo

CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật

Thành phố Hồ Chí Minh.

25. Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLHS, ban hành ngày 12/5/2006, Hà Nội.

26. TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (2001) Thông tư liên

tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP về việc hướng dẫn áp

dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS

năm 1999, ban hành ngày 25/12/2001, Hà Nội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

28. VKSND tối cao (2002) Những giải pháp nâng cao chất lượng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.

29. VKSND tối cao (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Đề tài khoa học cấp Bộ.

30. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb

Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.

31. Trịnh Tiến Việt (2003) Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb

Giao thông vận tải, Hà Nội.

32. Võ Khánh Vinh (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các

tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.