VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN SỰ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN SỰ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2020.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn

đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

HUỲNH VĂN SỰ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN

CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI

SẢN…………………………………………………………………………….. 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…...................................... 6

1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành công tố trong điều tra

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………………………... 19

1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…….……………………. 22

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU

TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH…………………………………………………... 26

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………….... 26

2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh………….. 39

Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU

TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN…………… 52

3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản …………………………. 52

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………………….. 57

KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………..…….. 77

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

ĐTV: Điều tra viên

KSV: Kiểm sát viên

TNHS: Trách nhiệm hình sự

TTHS: Tố tụng hình sự

VAHS: Vụ án hình sự

VKS: Viện kiểm sát

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải

nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND để không bỏ lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội. Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị ngày

02/01/2002 đã nhấn mạnh mốt số nội dung của công tác tư pháp, trong đó có nội

dung: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện

ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ

lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…” [2]. Yêu cầu trên

đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, luật tổ chức VKSND năm 2014 và

BLTTHS năm 2015. Những năm qua, hoạt động thực hành quyền công tố của

VKSND có những chuyển biến rõ rệt và tích cưc, chất lượng từng bước được nâng

lên. Với vai trò chủ động, tích cực của các Kiểm sát viên của VKSND các cấp trong

quá trình giải quyết VAHS, đã hạn chế được tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội

phạm, qua đó đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của

Nhà nước và công dân.

Thực hành quyền công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản nói riêng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, nhằm bảo vệ công lý, quyền

con người, quyền cơ bản của công dân, là một trong những hoạt động quan trọng

của VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo khảo sát trong những năm

qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên

nhân, việc thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn có những hạn chế bất

cập nhất định, vẫn còn những trường hợp khởi tố, bắt, giam giữ không đúng pháp

luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó một phần

là do một số KSV chưa nhận thức đúng về nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá

trình giải quyết VAHS. Vì vậy còn có tâm lý chủ quan, chưa chủ động, tích cực

1

tham gia vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHS, chưa nhận thức đúng

đắn về sự quan trọng của mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra

VAHS. Bên cạnh đó, chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND còn bị ảnh

hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có quy định của pháp luật, một số

quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay còn chưa được nhận thức thống

nhất, còn có những vướng mắc nhất định nhưng chưa có đủ các văn bản hướng dân

thực hiện, chưa phát huy được vai trò chủ động của kiểm sát viên trong việc chứng

minh tội phạm và người phạm tội. Do đó vẫn còn những yêu cầu khởi tố, điều tra

của VKSND chưa được CQĐT tôn trọng và thực hiện đầy đủ, tình trạng trả hồ sơ để

điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các vụ án phải tạm

đình đình chỉ điều tra vì không chứng minh được tội phạm vẫn còn tồn tại.

Đặt trong điều kiện xã hội mới và yêu cầu bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn công lý,

quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần nâng cao chất

lượng thực hành quyền công tố nói chung và trong thi hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài:“Thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí

Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bởi tầm quan trọng của mình mà vấn đề thực hành quyền công tố trong giai

đoạn giai đoạn điều tra vụ án hình sự hay trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Kết quả là đã có khá nhiều công trình

nghiên cứu đã được công bố, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học

năm 2019 của Lê Khắc Sơn: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối

với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” [29]; Luận văn thạc sĩ luật học

“Thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện

Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”của học viên Lý Tường Vy, Học viện Khoa học xã hội,

2

năm 2017; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước”

của Lê Văn Quang, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017 [19]; Luận văn thạc sĩ luật

học “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”của học viên Nguyễn Tiến Tài, Học viện

Khoa học xã hội, năm 2018 [30]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công

tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao

Bằng” của học viên Nông Thị Huyền, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019 [6];

Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của tác giả Lê Thanh Hưng: “Chức năng thực

hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đak Nông” [15].

Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, đến nay còn có nhiều công

trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố là các bài viết của các tác giả đăng trên

các tạp chí khoa học pháp lý, kỷ yếu hội thảo khoa học. Từ khi BLTTHS 2015 có

hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về

thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản. Trong khi đó, việc thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về

thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những

nơi, những lúc còn chưa được thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những

vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra

vụ án hình sự nói chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc nghiên cứu thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với địa bàn nói ở đây là Quận 1, thành

phố Hồ Chí Minh đến nay càng cần thiết và càng có ý nghĩa đặc biệt.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công

tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực trạng quy định của pháp luật

tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản và thực tiễn thi hành tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất

3

các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền

công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

+ Đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu ra trong khoa học luật hình sự

và khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam; Các quy định pháp luật hình sự và pháp

luật tố tụng hình sự, thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề

thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn đó là đề tài về thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh dưới

góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự.

Về không gian, thời gian: Luận văn được tác giả tập trung nghiên cứu các quy

định của Bộ luật TTHS năm 2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm

2016 – 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

4

Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sủ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, chính sách pháp luật của

Nhà nước Việt Nam trong tố tụng hình sự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu

khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu các báo cáo tổng kết

công tác năm, nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKSND quận 1 và VKSND thành phố

Hồ Chí Minh cũng như quy chế phối hợp giữa VKSND quận 1 và CQĐT Công an

quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần nhận thức sâu và thống nhất

những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu có giá trị dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động thực

hành quyền công tố trong vụ án hình sự, là tài liệu học tập, nghiên cứu trong các cơ

sở đào tạo chuyên ngành luật và đào tạo nghiệp vụ của KSV. Những giải pháp của

luận văn góp phần việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật TTHS về thực

hành quyền công tố của VKSND nói chung và trong điều tra VAHS nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn thi hành tại

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

5

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

Để xây dựng khái niệm hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, trước hết phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Liên quan đến vấn đề này cần phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án hình sự. Cần lưu ý

rằng, trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xoay

quanh khái niệm vụ án hình sự, nhưng xét trên nhiều phương diện, tác giả luận văn

này chia sẻ với quan điểm cho rằng:“Vụ án hình sự là vụ án phát sinh khi phát hiện

có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án

và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người

phạm tội” [30, tr.15].

Vậy thì vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì? Trước hết cần nhấn mạnh rằng,

đó vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, để làm sáng tỏ thế nào

là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của tội phạm dùng thủ

đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho tội phạm

để chiếm đoạt tài sản đó. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy

định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối

chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000

đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây

thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03

năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

7

phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều

168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài

sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ...” [21]. Để

nhận thức đúng đắn và sâu sắc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân tích các dấu

hiệu thuộc bốn yếu tố cấu thành tội này, theo đó:

- Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, đó

chính là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của Nhà

nước cũng như của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này

là các loại tài sản thể hiện dưới hình thức vật chất, đó là vật, tiền. Việc xâm phạm

quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người

khác sau khi lừa lấy được tài sản.

- Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

+ Về hành vi khách quan: Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là

dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người

bị hại không biết được có hành vi gian dối. Như vậy, người phạm tội dùng thủ đoạn

gian dối là đặc điểm đặc trưng của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ

đoạn gian dối đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nghĩa là người phạm tội đưa

ra thông tin giả, thông tin không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối

tin rằng thông tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông

tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ

viết, bằng hành động, bằng hình ảnh… hoặc cũng có thể kết hợp bằng nhiều cách

thức khác nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của các loại tội phạm rất tinh vi, tội

phạm thường thực hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang

web, sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người

bị hại và thường người bị hại không biết hoặc biết những thông tin không chính xác

về tội phạm. Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian

dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực

8

tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi gian

dối bao giờ cũng phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi gian dối

diễn ra sau khi người phạm tội nhận được sản, tức là ý thức chiếm đoạt tài sản diễn

ra sau khi có tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi định tội

danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần lưu ý đặc trưng này để phân biệt với một

số tội phạm như lừa dối khách hàng hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để

có thể lừa dối chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, trên thực tế người phạm tội sử

dụng rất nhiều các cách khác nhau như: bằng lời nói dối, bằng việc giả mạo giấy tờ,

giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội, tổ chức từ thiện để chuyển tiền, vàng hay thông qua việc ký kết hợp đồng…

Thực tế để xác định hành vi gian dối có xảy ra hay không, thường căn cứ vào các

chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả (như hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận sở hữu nhà,

đất, giấy vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo dựng niềm tin đối với chủ tài sản,

làm cho chủ tài sản tự nguyện giao tài sản để xác định.

Cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng và lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều có thủ đoạn gian dối, tuy nhiên thủ đoạn gian

dối ở hai tội là khác nhau, đặc biệt là thời điểm thực hiện thủ đoạn này. Đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phải dùng thủ đoạn gian dối

trước làm cho người có tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Đối

với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi để chiếm

đoạt tài sản bằng thủ đoạn có tính chất gian dối nhưng thủ đoạn này được thực hiện

sau khi đã được chủ tài sản giao tài sản một cách hợp pháp thông qua các hình thức

như vay, mượn, thuê, hợp đồng hợp pháp...

+ Về hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu hành vi

gian dối bị phát hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người bị lừa dối

không phát hiện ra hành vi gian dối nhưng không thực hiện việc giao tài sản thì

không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này

được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ

9

đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị

mắc lừa giao tài sản cho mình hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận Hậu quả

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là giá trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt.

Thiệt hại về tài sản bị chiếm đoạt được quy định cụ thể tại Điều 174 BLHS năm

2015. Theo đó, khoản 1 Điều luật quy định “chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên”

mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải

kèm theo điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc

đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,

171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm

hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.

+ Về mối quan hệ nhân quả: Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác,

hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt

hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác

định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế

nào. Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản

cho mình, còn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị hại tự

động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để xác định tội

phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối nhằm ăn

gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì sẽ cấu

thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả.

- Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, có thể là bất kỳ

người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi

lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách

nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không

phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

10

tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà

chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

- Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người

phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả

do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong

muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại. Như đã phân tích ở

trên, ý định chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn nảy sinh trước

khi chiếm đoạt được tài sản. Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội

luôn có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt

tài sản.

Từ những điều phân tích trên đây có thể hiểu “Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản là vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng

các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Vậy thì thế nào là thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự? Để

có thể xây dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, cần phải làm sáng tỏ thế nào quyền công tố và thế nào là thực

hành quyền công tố?

Nói đến quyền công tố là nói đến việc VKSND nhân danh quyền lực công của

Nhà nước để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người

phạm tội, còn thực hành quyền công tố là VKSND sử dụng những quyền hạn được

Nhà nước giao để thực hiện những hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cần thiết cho

việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội. Như vậy có

thể nói thực hành quyền công tố chính là việc tổ chức thực hiện quyền công tố.

11

Về mặt lập pháp, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại

Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960, theo đó “Viện kiểm sát nhân dân tối cao

tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có quyền khởi tố về hình sự và

giữ quyền công tố trước Tòa án nhân dân cùng cấp”. Thuật ngữ “quyền công tố”

tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp luật được ban hành sau đó. Tuy

nhiên, theo các quy định pháp luật sau đó thì phạm vi quyền công tố được mở rộng

hơn, không chỉ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà trong cả quá trình tố tụng

vụ án hình sự.

Về mặt khoa học, thuật ngữ và khái niệm “quyền công tố” thường được các

nhà luật học sử dụng khi luận về chức năng của VKSND trong tố tụng hình sự. Tuy

nhiên, cho đến nay trong giới luật học vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận thức

nội hàm của khái niệm quyền công tố. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, quyền

công tố là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để

truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội.

Và quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đây chính là

hoạt động tiến hành tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên và những người được

pháp luật quy định có trách nhiệm xác định người phạm tội cũng như những căn cứ

để kết tội và áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội [32, tr.26]. Theo tác

giả luận văn này thì quan điểm nêu trên là quá rộng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa

chức năng cơ bản trong TTHS, đã đồng nhất khái niệm quyền công tố và nguyên tắc

TTHS. Hơn nữa, theo quan điểm này thì không chỉ CQĐT, VKSND mà còn cả các

chủ thể khác cũng thực hành quyền công tố. Cũng có quan điểm khác cho rằng,

quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKSND), cơ

quan này có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác

định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó VKSND quyết định việc truy tố bị

can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng cụ thể và thực hiện việc buộc tội

tại phiên tòa. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS với đối tượng tội

phạm và người phạm tội [32, tr.40]. Theo tác giả luận văn thì quan điểm vừa nêu đã

12

thể hiện rõ ràng và chính xác hơn với quan niệm chung về quyền công tố, được thể

hiện rõ ràng hơn trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015.

Thuật ngữ thực hành quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 138

Hiến pháp 1980 và được cụ thể hóa tại các điều 1 và 3 Luật Tổ chức VKSND năm

1981. Tiếp sau đó, thuật ngữ này được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều

107 Hiến pháp 2013 cũng như được cụ thể hóa trong BLTTHS và Luật tổ chức

Viện kiểm sát. Hiện nay, thực hành quyền công tố trở thành chức năng quan trọng

của VKS, quy định cụ thể tại điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “VKSND là cơ

quan thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bên cạnh đó, chức năng thực hành quyền công tố còn

được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể như sau: “Thực

hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc

tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ giai đoạn giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [26].

Cụm từ “thực hành” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “làm để áp dụng lý

thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [36]. Như vậy,

các quyền năng của VKSND khi thực hành quyền công tố phải được VKSND thực

hiện trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Thực hành quyền

công tố cũng được các nhà luật học nhận thức theo nhiều cách khác nhau. Chẳng

hạn, có quan điểm cho rằng “Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố

tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm

hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự

buộc tội đó” [33, tr.20]. Theo một quan điểm khác thì “Thực hành quyền công tố là

việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa

người (hoặc pháp nhân thương mại) có hành vi phạm tội ra truy tố và buộc tội

trước Tòa án” [33, tr.12].

Phạm vi thực hành quyển công tố, như đã nhấn mạnh ngày càng mở rộng và có

thể nói là cả quá trình từ giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi xét xử tội

13

phạm. Bởi vậy, có thể hiểu “Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc

VKSND thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình tố tụng hình sự có

sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo

đảm việc truy tố và buộc tội của mình đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Cuối cùng, để có thể dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn cần phải làm sáng tỏ thế nào điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, như đã nhấn mạnh là vụ

án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, VKSND, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện

pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, điều tra là hoạt động tố tụng hình sự giữ vai trò hết

sức quan trọng, bởi điều tra là các hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ để chứng

minh tội phạm và người phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại mà tội

phạm đã gây ra. Kết quả điều tra là cơ sở cho việc truy tố và xét xử tội phạm đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Do vậy, có thể hiểu “Điều tra trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những hoạt

động tố tụng do các cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra và các cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) tiến hành bằng các biện pháp

mà pháp luật tố tụng hình sự quy định phát hiện nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ

làm rõ sự thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chứng minh tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản và người phạm tội này, bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”.

Như vậy, điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động pháp luật, hoạt

động áp dụng pháp luật được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định

của pháp luật vào chứng minh, làm sáng tỏ vụ án bằng các biện pháp cũng do pháp

luật quy định như khám nghiệm hiện trường; khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy

lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

14

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;đối chất, nhận dạng, khám xét...

Trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền có quyền ra các quyết định tố

tụng nhất định

Là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng trong suốt quá trình tố tụng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong

điều tra vụ án, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố gắn với các hoạt động điều

tra, vì vậy bắt đầu từ khởi tố bị can và hỏi cung bị can cho đến khi kết thúc điều tra

hoặc đình chỉ điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Từ tất cả những điều phân tích trên đây có thể xây dựng khái niệm thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động của

Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước và có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý

theo quy định của pháp luật thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản

Xét về đặc điểm, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản có những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án hình sự về bất kỳ một tội phạm cụ thể nào đó, song cũng có những đặc điểm

riêng của mình gắn với đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

Một trong những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với việc phát hiện cũng như việc xác định thẩm

quyền điều tra cũng như thực hành quyền công tố. Hầu hết các vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài được phát hiện là do bị hại đến cơ quan có thẩm quyền trình báo; có những

vụ án xảy ra đã rất lâu nên khó khăn cho việc xác định tài liệu chứng cứ, hơn nữa

một số vụ án lừa đảo qua mạng zalo, facebook giả, chỉ khi không liên lạc được với

chủ các tài khoản đó, tài sản bị chiếm đoạt thì người bị hại mới đến cơ quan có thẩm

15

quyền trình báo. Một số vụ án có số lượng bị hại nhiều, xảy ra ở nhiều nơi nên khó

khăn cho việc xác định thẩm quyền, người thực hiện hành vi đã bỏ trốn nên việc xác

định bị hại, thời gian, địa điểm trong quá trình điều tra và thực hành quyền công tố

gặp nhiều khó khăn.

Một đặc điểm riêng khác của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản gắn với định giá tài sản bị chiếm đoạt hay giám định chữ

viết, chữ ký. Nhiều vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải có định giá tài sản,

xác định tài sản bị chiếm đoạt, hoặc cần giám định chữ viết, chữ ký. Việc giám

định, định giá tài sản có ý nghĩa lớn đối với việc xác định có phạm tội hay không,

thuộc điều khoản nào để áp dụng các biện pháp cưỡng chế phù hợp, qua đó thu hồi

tài sản bị chiếm đoạt hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nhiều trường

hợp người thực hiện hành vi chiếm đoạt đã bỏ trốn, khó giám định chữ viết, chữ ký

của họ, hoặc tài sản bị chiếm đoạt đã không còn, không có giấy tờ chứng minh

nguồn gốc, giá trị của tài sản đó, thì việc định giá rất khó thực hiện. KSV thực hành

quyền công tố cần xác định tính quan trọng của việc giám định, định giá tài sản,

phối hợp cùng ĐTV thực hiện việc định giá, giám định nhanh chóng, đúng pháp

luật.

Thêm một đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản gắn với xác định tính chất các giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ

chức. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường liên quan đến hành vi làm giả giấy

tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức. Do đó, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra, KSV được phân công cần (và phải) chú ý xem xét hành vi làm giả giấy tờ

tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản có xâm phạm vào 02

khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều

341 của BLHS) hay không, nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì

phải truy cứu TNHS cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội làm giả

con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ

quan, tổ chức (Điều 341).

16

Những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố đối với các vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản:

Thứ nhất, là hoạt động có mục đích rõ ràng là nhằm truy cứu TNHS đối với

người đã thực hiện hành phạm tội, bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Thứ hai, là hoạt động có tính quyền lực Nhà nước, tính bắt buộc thực hiện,

tính được bảo đảm bằng Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi VKSND và

chỉ VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền thực hiện chức năng

thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong khi

thực hành quyền công tố, VKSND được sử dụng các quyền hạn theo quy định của

pháp luật tố tụng hình sự như để đảm bảo tính có căn cứ khi truy cứu TNHS đối với

người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp cần thiết, VKSND có

thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Các quyết định mà Viện kiểm sát

ban hành trong quá trình thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị

can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…có hiệu lực bắt

buộc đối với cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra và các cá nhân khác có liên quan.

Thứ ba, là hoạt động tính trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định.

VKSND thực hành quyền công tố trong các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra

theo trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật TTHS. Các quyết định mà Viện

kiểm sát ban hành như quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can;

quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định phê

chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi,

hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…cũng đều phải tuân thủ các trình tự, thủ tục mà pháp

luật tố tụng hình sự đã quy định.

Thứ tư, là hoạt động mang tính sáng tạo. Cũng như các hoạt động tố tụng hình

sự khác, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là

hoạt động thi hành pháp luật (tố tụng) vì vậy đều mang tính phức tạp, đòi hỏi chủ

17

thể tiến hành không những phải có kiến thức phong phú, trình độ chuyên môn, nhất

là tư duy, trí tuệ, khả năng, năng lực, tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm công tác lâu

năm mà còn phải có phẩm chất, đạo đức, bổn phận trách nhiệm cao. Do vậy, người

thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có

kiến thức tổng hợp, uyên thâm, hiểu biết rộng, có ý thức nghề nghiệp và ý thức

pháp luật cao.

1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

VKSND thực hành quyền quyền công tố chính là thực hiện chức năng buộc tội

được nhà nước giao, qua đó thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội. Đây là

chức năng cơ bản của VKSND mà không cơ quan nào có. Trong quá trình thực

hành quyền công tố, VKSND sẽ tiến hành nhiều biện pháp theo quy định của

BLTTHS để góp phần làm rõ vụ án, qua đó bảo vệ các quyền con người, quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một

bộ phận trong thực hành quyền công tố nói chung, có ý nghĩa hết sức quan trọng,

định hướng cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những hành vi phù hợp với

quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, một khi VKSND thực hiện đúng, đủ chức năng của mình khi

giải quyết vụ án hình sự, góp phần đảm bảo mọi hành phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và

người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo không có người nào bị bắt,

giam, giữ trái pháp luật, hạn chế các vi phạm pháp luật của những người tiến hành

tố tụng khi điều tra vụ án hình sự, xác định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị

can phải có căn cứ và đúng pháp luật.

Bên cạnh đó, thông qua quá trình thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phát hiện những phương thức, thủ đoạn mới của tội

phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó có biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật cho mọi người dân, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng

18

các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa trên địa bàn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh

cũng như trên cả nước.

1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

Bởi thực hành quyền cống tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

như đã nhấn mạnh có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thực hiện những

hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu (buộc tội)

ngươi phạm tội. Vì vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội này chính

là đối tượng thực hành quyền công tố chính trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản. Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực hành quyền

công tố hướng vào làm sáng tỏ một cách có căn cứ những vấn đề cần chứng minh

trong vụ án như: Có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra hay không;

thời gian, địa điểm; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, có thủ đoạn gian dối

hay không, họ có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm

hình sự hay không; có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không, động cơ phạm tội là

gì; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của bị can và đặc điêm về nhân thân

của bị can; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, cụ thể phải

làm rõ thiệt hại về tài sản là bao nhiêu, thiệt hại có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay

không, tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản nào...; Nguyên nhân và điều kiện phạm

tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình

phạt và những tình tiết khác của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như

vậy, khi chứng minh vụ án hình sự nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài

sản nói riêng, Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào

những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, được quy định tại Điều 85

BLTTHS năm 2015.

Như vậy, đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản là các yếu tố mà cơ quan tiến hành tố tụng tác động tới, chính là

19

tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, nhằm mục đích quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những

người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản, chiếm đoạt tài sản của người

khác, bảo vệ quyền sở hữu tài sản và cá quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ.

1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao

giờ cũng gắn chặt với việc tiến hành các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra có

thẩm quyền bắt đầu từ khi khởi tố bị can cho đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ

điều tra (vụ án). Về điều này, tác giả luận văn này chia sẻ với quan điểm cho rằng

“Khi nào và ở đâu, cơ quan điều tra tiến hành nghiệp vụ điều tra như: khám nghiệm

hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khái người làm chứng, hỏi cung

bị can... thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Trong

trường hợp không có tội phạm thì quyền công tố bị triệt tiêu, theo đó cũng chấm dứt

mọi hoạt động tố tụng, trong đó có thực hành quyền công tố [18, tr.13].

1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như

đã nhấn mạnh, gắn với các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Điều đó có

nghĩa là Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong khám nghiệm hiện trường,

trong khởi tố bị can và hỏi cung bị can, trong các hoạt động khám xét, thu giữ, tạm

giữ đồ vật tài liệu và kê biên tài sản, trong tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra.

Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, cụ thể là trong các hoạt động điều tra nói trên thông qua những nhiệm vụ,

quyền hạn cụ đối với các hoạt động đó thể quy định tại các Điều 14, 15 Luật Tổ

chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, các Điều 41, 113,119, 121, 122, 161, 165,

173, 179, 180, 449... BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và

người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều được điều tra nhanh chóng, đúng

đắn, chính xác, không để một người nào bị khởi tố, bị bắt, giam, giữ trái pháp luật,

20

xâm phạm quyền con người, quyền công dân trái pháp luật trong quá trình điều tra.

Chẳng hạn, đối với trường hợp khởi tố bị can thì VKSND có trách nhiệm phê chuẩn

quyết định khởi tố đó. Viện kiểm sát phải ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ

cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung nếu sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra

của CQĐT chuyển sang mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ

luật hình sự quy định là tội phạm trong vụ án chưa bị CQĐT khởi tố. Như vậy, khi

thực hành quyền công tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của mình, VKSND có thể tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án

hình sự, khởi tố bị can. Hay như khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKSND có thẩm quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu

cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Việc này được thực hiện ngay sau khi có

quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời, trong từng giai đoạn của quá trình điều tra, căn

cứ vào tình hình điều tra vụ án, KSV được phân công thực hành quyền công tố phải

xem xét vụ án một cách toàn diện, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra nhằm đảm bảo quá

trình điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi có căn cứ và xét thấy cần

thiết, theo quy định của Bộ luật TTHS, KSV được phân công giải quyết vụ án có

thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai...

nhằm thu thập, đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện. Hoặc

như khi thực hành quyền công tố, nếu thấy có các căn cứ quy định tại Điều 49 và

Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì KSV được phân công giải quyết vụ

án phải trao đổi ngay với ĐTV để ĐTV từ chối tiến hành tố tụng. Trường hợp

không thống nhất thì KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo VKSND để yêu cầu lãnh

đạo CQĐT thay đổi ĐTV. Nếu ĐTV có hành vi phạm tội thì yêu cầu CQĐT có

thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự.

Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng khác của VKSND khi thực

hành quyền công tố là VKSND phải xem xét, quyết định phê chuẩn các biện pháp

ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế như phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, phê

chuẩn lệnh tạm giam...Khi VKSND từ chối không phê chuẩn thì phải nêu rõ căn cứ.

21

Đồng thời, VKSND cũng có quyền quyết định, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn

chặn và biện pháp cưỡng chế nêu trên theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình

sự.

Sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải có một trong các quyết định

như: chuyển hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra sang VKSND đề nghị truy tố hoặc

kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. VKSND nhận hồ sơ vụ án cũng

như các quyết định liên quan khi kết thúc điều tra và xem xét quyết định có truy tố

bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng hay không, đây là nhiệm vụ, quyền hạn

duy nhất chỉ VKSND mới có mà không cơ quan nào thay thế được. Qua nghiên cứu

hồ sơ vụ án, xem xét, đánh gía toàn diện chứng cứ, nếu xét thấy có đủ căn cứ để

truy tố bị can thì Viện kiểm sát ra bản cáo trạng thực hiện việc truy tố bị can ra

trước Toà án. Bên cạnh đó, VKSND tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu xét

thấy có những căn cứ quy định tại Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự, CQĐT phải có

nghĩa vụ thực hiện quyết định của VKSND.

1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Chất lượng của các quy định pháp luật

Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng thực hành quyền công tố nói chung

và thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng

là hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Để đảm bảo nguyên tắc

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình

sự và tố tụng hình sự là nền tảng pháp lý quan trọng khi thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc xác định tội danh, thu thập,

đánh giá, sử dụng chứng cứ khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của BLHS, BLTTHS

cũng như hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS.

1.3.2. Tình hình, đặc điểm riêng của địa phương

Mỗi địa phương có đặc điểm kinh tế-xã hội và tình hình tội phạm nói chung

cũng như tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng khác nhau. Ở mỗi địa

22

phương khác nhau thì tình hình tội phạm phức tạp khác nhau, số lượng tội phạm lừa

đảo chiếm đoạt xảy ra khác nhau và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa

phương cũng khác nhau. Do đó, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào tình hình

tội phạm và yêu cầu phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

1.3.3. Chất lượng của chủ thể có thẩm quyền thực hành quyền công tố

Hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, đó là Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố

tụng. Năng lực của người tiến hành tố tụng và tổ chức của các cơ quan Tổ tiến hành

tố tụng là yếu tố có tác động trực tiếp đến chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là

VKS được tổ chức hợp lý, được sự quan tâm của các cơ quan cấp trên thì chất

lượng thực hành quyền công tố sẽ đạt hiệu quả cao, ngược lại nếu tổ chức không

hợp lý, thiếu sự quan tâm thì chất lượng thực hành quyền công tố sẽ giảm. Bên cạnh

đó, những người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV có trình độ, có năng lực và tinh

thần trách nhiệm cao, được phân công, bố trí nhiệm vụ phù hợp sẽ am hiểu và vận

dụng tốt các quy định của pháp luật vào điều tra và thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chất lượng thực hành quyền công tố nhờ

đó được nâng cao. Tuy nhiên, nếu số lượng chủ thể có thẩm quyền tố tụng thiếu,

năng lực, trình độ hạn chế, bị tác động, bị ảnh hưởng bởi các lợi ích khác nhau sẽ

khó có thể đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố. Như vậy, có thể thấy tổ

chức của các cơ quan tiến hành tố tụng và năng lực của người tiến hành tố tụng là

một trong những yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

1.3.4. Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thực hành quyền

công tố

Mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND, giữa VKSND cấp trên với VKSND cấp

dưới và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác là một yêu cầu để nâng cao chất lượng

thực hành quyền công tố. Chức năng thực hành quyền công tố được trao cho

23

VKSND, chỉ VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng này. Tuy nhiên, để

thực hiện tốt chức năng này, VKSND cần có sự phối hợp chặt chẽ với CQĐT, với

các cơ quan, tổ chức khác, vừa đảm bảo được yêu cầu nâng cao chất lượng thực

hành quyền công tố, vừa tranh thủ được sự ủng hộ của các ban ngành địa phương.

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, điều cần thiết là tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cơ sở có sự kiểm tra,

giám sát chặt chẽ. ĐTV, KSV của CQĐT và VKSND cần có sự kết hợp, trao đổi ý

kiến để đưa ra kết luận chính xác, tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới,

từ đó mới có cơ sở để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

1.3.5. Ý thức đấu tranh, phòng chống tội phạm của người dân

Quần chúng nhân dân luôn là nền tảng, chỗ dựa vững chắc giúp đỡ lực lượng

chức năng triển khai, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm tình hình an ninh trật tự, đồng

thời là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm, trong đó có tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm bắt nguồn

nhiều từ các giao dịch dân sự, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nổi lên tình trạng

lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng và lừa đảo công nghệ cao. Do đó, vai trò của

người dân là rất quan trọng. Một khi người dân thực hiện tốt trách nhiệm của một

công dân trước pháp luật, tỷ lệ tội phạm sẽ giảm đáng kể, khi tội phạm xảy ra thì

người dân cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin dùng làm căn cứ để áp

dụng các biện pháp cần thiết, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

24

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã nghiên cứu, phân tích và đưa ra khái niệm quyền

công tố. Quyền Công tố là quyền được Nhà nước giao cho VKSND thực hiện việc

truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

Bên cạnh đó, luận văn cũng nêu khái quát về giai đoạn điều tra vụ án và thực

hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo đó, thực

hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc VKSND

sử dụng tất cả các nhiệm vụ, quyền hạn do Nhà nước giao để truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với người phạm tội. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra

VAHS lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện từ khi Cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền khởi tố VAHS và kết thúc khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị truy

tố hoặc khi VAHS được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có những đặc điểm đặc trưng khác với thực hành quyền công tố trong các vụ án

khác, đồng thời khác với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản nhằm đảo bảo mọi hành vi phạm tội và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản phải được phát hiện, khởi tố, điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.

25

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN

LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN TẠI ĐỊA BÀN

QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý, tính công khai, minh bạch, bắt buộc thực hiện,

hiệu lực và hiệu quả của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự nói

chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại Điều 165 Bộ luật TTHS năm

2015, nhà làm luật nước ta quy định các nội dung sau:

- Quy định về yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án

hình sự, khởi tố bị can

Theo quy định thì khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKSND có trách nhiệm phải đảm bảo mọi tội

phạm và người phạm tội phải được phát hiện và đều phải được khởi tố. Theo quy

định tại điểm a, khoản 2 Điều 41 Bộ luật TTHS năm 2015, Viện trưởng VKSND

hoặc Phó Viện trưởng VKSND được phân công thực hành quyền công tố có quyền

yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp xét thấy tội phạm đã được

phát hiện mà CQĐT chưa khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT thay đổi quyết định khởi tố

vụ án hình sự nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội đã xảy

ra. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định VKSND có quyền ra quyết định yêu

cầu CQĐT ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.

- Quy định về phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi

hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật

Theo quy định của BLTTHS, sau khi kết thúc việc giải quyết tố giác, tin áo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, CQĐT phải ra

quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố hoặc quyết định tạm đình chỉ,

26

đình chỉ việc giải quyết. Trường hợp ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án

phải được gửi cho VKS trong thời hạn 24h để kiểm sát việc khởi tố.

Trường hợp VKS nhận được quyết định không khởi tố vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định này, VKS phải

nghiên cứu nội dung quyết định không khởi tố, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ

án do CQĐT chuyển sang. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, VKS đối chiếu với các

quy định tại điều 157 BLTTHS về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự để xem xét

quyết định không khởi tố của CQĐT có căn cứ hay không. Trường hợp xác định có

căn cứ thì VKS thông báo cho CQĐT biết, còn trường hợp không có căn cứ mà sau

khi yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định không khởi tố, CQĐT không thực hiện thì

VKS căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 161 BLTTHS ra quyết định hủy bỏ quyết định

không khởi tố vụ án đồng thời ra quyết định khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản và gửi cho CQĐT tiến hành điều tra theo thẩm quyền.

Sau khi CQĐT ra quyết định khởi tố bị can thì ĐTV có quyền tiến hành ngay

các hoạt động điều tra cần thiết đối với bị can để làm rõ hành vi phạm tội mà không

cần chờ quyết định phê chuẩn của VKS mới hỏi cung bị can. Tuy nhiên, nếu VKS

không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thì hiệu lực của quyết định khởi tố bị

can của CQĐT không còn. Trong thời hạn 24 giờ sau khi ra quyết định khởi tố bị

can, theo quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTHS, CQĐT phải gửi quyết định khởi

tố bị can và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để

xét phê chuẩn. Kể từ ngày nhận được quyết định KTBC của CQĐT chuyển sang,

trong thời hạn 03 ngày, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ

quyết định KTBC, nếu thấy chứng cứ còn thiếu, nhưng không thuộc trường hợp hủy

bỏ quyết định KTBC thì VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để

quyết định việc phê chuẩn. Yêu cầu này phải được gửi ngay cho cơ quan điều tra.

Sau khi nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày

nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, nếu thấy có đủ căn cứ VKS ra quyết định phê

chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu thấy quyết định khởi tố bị can không có căn

cứ, VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.

27

Bên cạnh đó, khi CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, VKS

căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được để quyết định phê chuẩn quyết định

thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc huỷ bỏ quyết định thay đổi, bổ

sung quyết định khởi tố bị can. Căn cứ Điều 180 BLTTHS, khi tiến hành điều tra,

nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội mà trước đó CQĐT

đã khởi tố thì cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can.

Trường hợp nếu có căn cứ xác định bên cạnh tội phạm mà bị can đa bị khởi tố, còn

có căn cứ xác định bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội

phạm thì cơ quan điều tra phải bổ sung quyết định khởi tố bị can. Quyết định thay

đổi quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can phải

được gửi đến VKS cùng cấp trong thời hạn 24 giờ để xét phê chuẩn.

Sau khi nhận được quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can và quyết định

bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT chuyển sang, VKS phải xem xét quyết

định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định

khởi tố bị can, trong thời hạn 3 ngay VKS phải quyết định. Trường hợp cần thiết,

VKS có quyền yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê

chuẩn. Yêu cầu này được gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Sau khi nhận được yêu

cầu của VKS, CQĐT phải tiến hành bổ sung chứng cứ, tài liệu. Trong thời hạn 03

ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS ra quyết định phê

chuẩn quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc hủy bỏ quyết

định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Như vậy, VKS phải xem xét

các quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT, nếu thấy

các quyết định đó là có căn cứ và hợp pháp, VKS ra quyết định phê chuẩn. Nếu thấy

các quyết định đó là không có căn cứ hoặc trái pháp luật, thì VKS ra quyết định hủy

bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Các

quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn của VKS phải được gửi cho CQĐT

trong thời hạn 24 giờ để tiến hành điều tra.

Như vậy, theo các quy định trên, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định tương

đối chặt chẽ, tạo điều kiện để VKS phát huy tính chủ động của mình, qua đó hạn

28

chế đến mức tối đa tình trạng khởi tố bị can thiếu căn cứ, không đúng pháp luật, hạn

chế oan sai, ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân những cũng đồng thời

tránh việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tạo cơ chế pháp lý chặt chẽ xây dựng

và tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc khởi tố bị can,

truy cứu TNHS người phạm tội.

- Quy định về khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi

tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định

Trong khi thực hành quyền công tố, VKS được giao nhiều nhiệm vụ, quyền

hạn, trong đó có quyền khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật hiện hành quy định quyền

khởi tố vụ án của Viện kiểm sát tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật TTHS. Tuy nhiên,

khác với CQĐT, VKS chỉ có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong các

trường hợp sau:

+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi VKS hủy bỏ quyết định không khởi

tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra;

+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố;

+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm

hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

Như vậy, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, VKS khởi tố trong các trường hợp chủ yếu nêu trên.

Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội

đã xảy ra mà có dấu hiệu của tội phạm khác thì VKS có quyền ra quyết định thay

đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trường hợp thấy còn có tội phạm khác chưa

được khởi tố thì VKS bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Kể từ khi ra quyết

định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, trong thời hạn 24 giờ

VKS phải gửi quyết định đó cho CQĐT để tiến hành điều tra.

Đồng thời với thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, VKS còn được trao quyền

khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can trong khi

29

thực hành quyền công tố. Theo khoản 4 Điều 179 BLTTHS, VKS chỉ được khởi tố

bị can các trường hợp: một là, khi có căn cứ chứng minh có người đã thực hiện

hành vi mà BLHS quy định là tội phạm chưa bị CQĐT khởi tố thì Viện kiểm sát

yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can, nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không

thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can; hai là, sau khi VKS nhận

hồ sơ và kết luận điều tra của CQĐT chuyển sang, nếu có căn cứ xác định có người

khác đã thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của BLHS mà CQĐT chưa khởi

tố bị can thì VKS ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ

sung. Quyết định này phải được gửi cho CQĐT trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra

quyết định khởi tố bị can để tiến hành điều tra.

- Quy định về phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám

xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện

pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng

khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra theo Bộ luật TTHS;

hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ, trái pháp luật của Cơ quan điều tra.

Thứ nhất, thực hành quyền công tố trong việc phê chuẩn, không phê chuẩn

lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam,

bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn

bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và bắt bị can để tạm giam phải được

VKS phê chuẩn. Bên cạnh đó, khi gia hạn tạm giữ, áp dụng biện pháp tạm giam đối

với bị can hoặc áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm phải được VKS

xem xét, phê chuẩn trước khi thi hành.

Đối với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của CQĐT: Lệnh bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho VKS cùng cấp kèm theo

tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. Khi nhận được hồ sơ kèm

theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của CQĐT đề nghị VKS phê

chuẩn, VKS phải kiểm tra tính hợp pháp và cần thiết của việc áp dụng biện pháp

30

ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp rồi từ đó quyết định phê

chuẩn hoặc không phê chuẩn [23].

Trường hợp CQĐT ra lệnh bắt bị can để tạm giam, thì CQĐT phải chuyển

ngay lệnh bắt này cùng với các tài liệu liên quan đến việc ban hành biện pháp ngăn

chặn này đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Khi nhận được đề nghị phê chuẩn

lệnh bắt bị can để tạm giam của CQĐT, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ, cần thiết

và đúng pháp luật của lệnh bắt từ đó ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không

phê chuẩn. Trường hợp lệnh bắt bị can để tạm giam chưa rõ căn cứ, thì VKS yêu

cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ ra lệnh bắt bị can để tạm giam

để xem xét quyết định việc phê chuẩn. CQĐT chỉ được thi hành lệnh bắt bị can để

tạm giam khi có quyết định phê chuẩn của VKS. Nếu chưa có quyết định phê chuẩn

mà CQĐT bắt bị can để tạm giam là vi phạm pháp luật.

Đối với quyết định tạm giữ và quyết định gia hạn tạm giữ: CQĐT được áp

dụng biện pháp tạm giữ mà không cần có sự phê chuẩn của VKS. Tuy nhiên, mọi

trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi

hành. Theo đó, khi CQĐT ra quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định này phải được

gửi đến VKS cùng cấp để xem xét phê chuẩn. Khi Viện kiểm sát nhận được đề nghị

phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của CQĐT, Viện kiểm sát phải kiểm tra tính

hợp pháp và cần thiết của quyết định gia hạn tạm giữ để từ đó có quyết định phê

chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS phê chuẩn quyết định gia hạn

tạm giữ thì CQĐT tiếp tục thi hành, nếu VKS không phê chuẩn quyết định gia hạn

tạm giữ thì CQĐT phải trả tự do cho người đang bị tạm giữ. Trường hợp VKS hủy

bỏ quyết định tạm giữ khi xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần

thiết, thì CQĐT phải trả lại tự do ngay cho người bị tạm giữ [23].

Đối với trường hợp CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với

những người đã bị tạm giữ, thì lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên

quan đến việc tạm giam phải được gửi đến VKS cùng cấp để xem xét phê chuẩn

trước khi thi hành. Trường hợp VKS xét thấy không có căn cứ hoặc không cần thiết

tạm giam thì VKS không phê chuẩn lệnh tạm giam. Nếu VKS không phê chuẩn thì

31

CQĐT phải trả tự do ngay và áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can tùy

thuộc vào điều kiện của biện pháp ngăn chặn định áp dụng.

Đối với một số biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,

sau khi ra quyết định CQĐT phải gửi quyết định cùng các tài liệu kèm theo sang

VKS cùng cấp để xét phê chuẩn trước khi thi hành. Nếu thấy việc áp dụng các biện

pháp ngăn chặn nêu trên là có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê chuẩn

và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra để thực hiện theo quy định [23].

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn có thẩm quyền hủy bỏ việc áp dụng biện pháp

ngăn chặn đối với những biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra áp dụng. Theo

quy định của Bộ luật TTHS, trong giai đoạn điều tra, đối với những biện pháp ngăn

chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc áp dụng thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng

biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát xem xét quyết định. Khi CQĐT

chuyển hồ sơ đề nghị hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn thì VKS nghiên cứu tài

liệu, chứng cứ dùng làm căn cứ để CQĐT đề nghị hủy bỏ, thay thế. Nếu đủ căn cứ

thì VKS ra quyết định hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn và hoàn trả hồ sơ cho

CQĐT thi hành, nếu không đủ căn cứ thì yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục thi hành.

Thứ hai, thực hành quyền công tố khi CQĐT áp dụng các hoạt động điều tra

khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

VKS thực hành quyền công tố thông qua hoạt động khám xét của CQĐT. Đối

với trường hợp Thủ trưởng, phó Thủ trưởng CQĐT ra lệnh khám xét, lệnh khám xét

của những người này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi

thi hành. Như vậy, VKS khi thực hành quyền công tố, sau khi kiểm tra nếu xét thấy

lệnh khám xét của CQĐT lầ có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê

chuẩn và chuyển cho CQĐT để thi hành.

Trong quá trình điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu xét thấy cần

thiết và có căn cứ, CQĐT có thể ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu

phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông. Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu

kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông này phải được Viện kiểm

32

sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trường hợp không thể trì hoãn việc thu

giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông

thì Cơ quan điều tra có thể tiến hành thu giữ nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Sau khi thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải thông báo ngay cho Viện

kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc thu giữ để xét

phê chuẩn. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài

liệu liên quan đến việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, Viện kiểm sát

phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi xét thấy cần thiết

và có căn cứ áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi

hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; Thu thập bí mật dữ liệu điện tử thì người có

thẩm quyền trong CQĐT có thể quyết định áp dụng. Biện pháp điều tra tố tụng đặc

biệt cho phép Cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh tội

phạm, xác định nhanh chóng, chính xác, toàn diện vụ án, chứng minh tội phạm và

người phạm tội, truy nguyên tài sản bị tội phạm chiếm đoạt. Tuy nhiên, chỉ áp dụng

biện pháp này khi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp có tổ chức

và đặc biệt nghiêm trọng. VKS phải xem xét đẩy đủ căn cứ để phê chuẩn hoặc

không phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trước khi

trước khi CQĐT thi hành.

- Quy định về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện

pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

Trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, VKS có thể tự mình áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp

ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Các biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng như: lệnh

bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đăt

tiền để bảo đảm hoặc các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, tạm hoãn xuất

cảnh. Khi VKS áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế nêu trên

phải đảm bảo đầy đủ các căn cứ theo Điều 113, Điều 119, Điều 121, Điều 122 và

Điều 123 BLTTHS năm 2015.

33

Khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn

khác thì Viện kiểm sát hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi

biện pháp ngăn chặn mà cơ quan có thẩm quyền đang áp dụng đều phải được hủy

bỏ. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong giai đoạn điều tra, chỉ VKS

mới có quyền hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác đối với những

biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn [23].

- Quy định về thực hiện quyền công tố trong đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu Cơ

quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và trực tiếp

tiến hành một số hoạt động điều tra

Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong quá trình điều tra, VKS

phải đề ra các yêu cầu điều tra. Đây là một nội dung quan trọng của hoạt động thực

hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự. Để thực hiện tốt nội dung này, yêu

cầu Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong hoạt động

điều tra vụ án hình sự, phải bám sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, kịp

thời phát hiện những chứng cứ hoặc nội dung liên quan đến vụ án hình sự chưa

được thu thập hoặc điều tra làm rõ để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, đảm bảo các

yêu cầu điều tra đó phải được thực hiện, thống nhất giữa ĐTV và KSV, hạn chế

việc phải điều tra bổ sung. Việc phối hợp thực hiện tốt yêu cầu điều tra giữa CQĐT

và VKS giúp cho hoạt động điều tra vụ án nhanh chóng, khách quan và toàn diện,

giải quyết vụ án đúng đắn, nâng cao trách nhiệm và uy tín của CQĐT và VKS. Do

đó, VKS cần tránh việc đề ra yêu cầu điều tra một cách chung, không cần thiết, ảnh

hưởng đến kết quả điều tra vụ án. CQĐT có trách nhiệm thực hiện yêu cầu điều tra

của VKS, trong trường hợp không nhất trí với yêu cầu điều tra trao đổi làm rõ hoặc

có thể kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp.

Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị

can nếu phát hiện bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu theo Điều 231

BLTTHS. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, nếu

34

có căn cứ xác định bị can đang bỏ trốn mà Cơ quan điều tra chưa ra quyết định truy

nã thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can.

Trường hợp vụ án có căn cứ cần thiết áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc

biệt mà CQĐT không áp dụng thì căn cứ điểm c Khoản 2 Điều 41 BLTTHS và

VKS ra văn bản yêu cầu CQĐT áp dụng.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, để đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng pháp luật, khi xét thấy cần thiết, Viện

kiểm sát còn có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị

can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra.

Theo quy định của Bộ luật TTHS thì VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều

tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để xem xét ra quyết định phê chuẩn

các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra. Bên cạnh đó, VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động

điều tra trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc có dấu hiệu

oan, sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng không được khắc phục dù

Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản.

- Quy định về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc gia hạn

thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút

gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án

Theo quy định tại Điều 172 BLTTHS, VKS có quyền hạn quyết định việc gia

hạn thời hạn điều tra. Căn cứ vào khoản 2 Điều 172 BLTTHS thì “Trong trường

hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười

ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn điều

tra”. Như vậy, trong trường hợp cần thiết phải ra hạn điều tra thì Cơ quan điều tra

cũng không được trực tiếp gia hạn điều tra mà phải kiến nghị đến Viện kiểm sát để

Viện kiểm sát xem xét và ra quyết định gia hạn điều tra. Có thể thấy, luật quy định

chỉ Viện kiểm sát mới có quyền ra hạn điều tra. Khi nhận được yêu cầu đề nghị gia

hạn điều tra của CQĐT, VKS nghiên cứu hồ sơ, tài liệu chứng cứ liên quan đến việc

35

gia hạn điều tra, nếu thấy có căn cứ thì quyết định gia hạn điều tra, thời hạn gia hạn

bao lâu tùy thuộc vào từng loại tội theo quy định của BLTTHS.

Đối với việc gia hạn tạm giam, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 173

BLTTHS năm 2015, trường hợp vụ án đang điều tra có nhiều tình tiết phức tạp,

không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam và xét thấy cần phải

có thời gian dài hơn cho việc điều tra vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết

thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Như

vậy, chỉ có Viện kiểm sát mới có thẩm quyền gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra.

BLTTHS quy định rất rõ ràng loại tội phạm nào thì ra thời gian gia hạn bao nhiêu,

số lần được gia hạn, cấp có thẩm quyền gia hạn tùy thuộc vào loại tội mà người

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thực hiện là nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng.

Trường hợp trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp quyết định việc

chuyển vụ án để điều tra khi xét thấy có một trong các căn cứ sau đây: Cơ quan điều

tra cùng cấp đề nghị chuyển vụ án khi xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều

tra; Vụ án được Cơ quan điều tra cấp trên rút lên để điều tra; Thủ trưởng Cơ quan

điều tra là ĐTV bị thay đổi; Cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu chuyển vụ án

của Viện kiểm sát. Như vậy, việc chuyển vụ án để điều tra thuộc thẩm quyền của

VKS. Khi thực hành quyền công tố, nếu thấy có căn cứ chuyển vụ án thì VKS ra

băn bản yêu cầu CQĐT có văn bản đề nghị VKS chuyển vụ án. Trong trường hợp

Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra

quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi Viện kiểm sát ra quyết

định chuyển vụ án, quyết định này phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra

đang điều tra vụ án [23].

Đối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút

gọn, thì CQĐT trong hời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại

Điều 456 của BLTTHS, CQĐT phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết

định áp dụng thủ tục rút gọn của CQĐT được gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn

24 giờ kể từ khi ra quyết định. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được quyết

định áp dụng thủ tục rút gọn của CQĐT, nếu thấy quyết định này là không có căn

36

cứ, không đúng pháp luật thì VKS phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ

tục rút gọn và gửi cho Cơ quan điều tra [23].

Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

nếu sau khi trưng cầu giám định pháp ý tâm thần, xác định người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự, bị can đang mắc bệnh

tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi

của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự CQĐT gửi văn bản đề nghị áp

dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cùng kết luận giám định cho VKS cùng cấp để

xem xét, quyết định. Theo quy định tại Điều 449 BLTTHS năm 2015: trong thời

hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của CQĐT cùng kết luận giám

định, VKS quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh đối với bị can hoặc yêu cầu

CQĐT trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại nếu thấy chưa đủ căn cứ để

quyết định. Sau khi VKS ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh với bị

can thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can.

Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, CQĐT có thể quyết

định nhập hoặc tách vụ án hình sự khi xét thấy có đủ các điều kiện quy định tại

khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2015. Thông thường trong vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, sau khi chiếm đoạt được tài sản, bị can thường bán cho người khác, do

đó thường có trường hợp có người tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có. Trường

hợp này CQĐT phải ra quyết định nhập vụ án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra

quyết định nhập hoặc tách vụ án, quyết định này phải gửi cho VKS cùng cấp. Sâu

khi nhận quyết định nhập hoặc tách vụ án từ CQĐT chuyển sang, VKS phải nghiên

cứu, xem xét việc nhập hoặc tách vụ án không ảnh hưởng đến sự thật khách quan,

toàn diện của vụ án. Trường hợp không nhất trí với quyết định nhập hoặc tách vụ án

của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ và nêu rõ lý do.

- Quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án

Theo quy định tại khoản 1 Điều 229 BLTTS năm 2015, CQĐT quyết định tạm

đình chỉ điều tra khi thuộc các trường hợp sau: “khi chưa xác định được bị can

hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án, hoặc

37

Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định

truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra; Khi có kết luận giám định tư pháp xác định

bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước

khi hết thời hạn điều tra; Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu

cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều

tra”[23].

Cơ quan điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho Viện kiểm sát

cùng cấp để kiểm tra tính có căn cứ và đúng pháp luật của quyết định tố tụng đó.

Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan

điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra khi xét thấy quyết định tạm

đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra không có căn cứ. Khi đó Viện kiểm sát vẫn

tiếp tục thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự đó.

Trong khi vụ án đang được tạm đình chỉ điều tra, nếu thấy lý do tạm tạm đình chỉ

điều tra không còn nữa, có căn cứ phục hồi điều tra thì Viện kiểm sát có quyền yêu

cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra.

Theo quy định tại Điều 230 BLTTHS, CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra

khi thuộc một trong các trường hợp: “Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2

Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc

Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của BôLHS; Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà

không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm” [23]. Khi Viện kiểm sát

nhận được quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra

chuyển đến, Viện kiểm sát phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định

đình chỉ điều tra để ban hành các quyết định cần thiết theo hai trường hợp sau đây:

một là, Viện kiểm sát ban hành quyết định kết luận kiểm sát việc đình chỉ điều tra

trường và trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền

nếu xét thấy việc Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra là có căn cứ và đúng pháp luật.

Lưu ý, đối với quyết định kết luận kiểm sát việc đình chỉ điều tra trong đó phải nêu

rõ quan điểm của Viện kiểm sát về quyết định đình chỉ của Cơ quan điều tra; hai là,

Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều

38

tra, yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra nếu xét thấy việc đình chỉ điều tra

không có căn cứ, trái pháp luật.

Trên đây là những quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền hạn và trách

nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. So với Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã khắc

phục một số hạn chế, trong đó có chức năng thực hành quyền công tố được quy

định sớm hơn. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Bộ luật TTHS năm 2015

cũng bổ sung đảm bảo để VKS nắm chắc tiến độ điều tra, theo sát quá trình điều tra

và lập hồ sơ vụ án. Hơn nữa, để khắc phục một số vướng mắc khi thực hiện chức

năng của VKS trong thực tiễn, Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung một số quy định

tăng cường sự chủ động của VKS trong việc đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến

hành một số hoạt động điều tra, quyền ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu

mà CQĐT không thực hiện mà không phải chờ đến khi CQĐT kết thúc điều tra và

chuyển hồ sơ vụ án mới có quyền như Bộ luật TTHS năm 2003 hoặc VKS không

cần phụ thuộc vào đề nghị của CQĐT mà có quyền quyết định chuyển vụ án nếu đã

yêu cầu mà CQĐT không thực hiện...

2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Thực trạng một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, có diện tích 7,73 km2,

10 phường với 142.625 người, chiếm 1,59% tổng dân số toàn thành phố [31]. Quận

1 là nơi có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển, đồng thời là nơi tập trung nhiều cơ

quan ban ngành của Thành phố, Trung ương, cũng là nơi trú đóng của nhiều cơ

quan lãnh sự quán hoặc đại diện các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với

điều kiện như vậy, là nơi thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội, phát triển cách

ngành du lịch, dịch vụ. Tuy nhiên, cũng là điều kiện để các loại tội phạm phát sinh,

phát triển. Theo thống kê từ năm 2015 đến năm 2019, trên địa bàn quận 1 xảy ra

tổng cộng 1235 vụ án xâm phạm sở hữu, khởi tố 642 bị can. Trong đó, riêng tội lừa

39

đảo chiếm đoạt tài sản là 69 vụ và 33 bị can [46, 47, 48, 49, 50]. Qua số liệu thống

kê cho thấy, số lượng phạm pháp hình sự xảy ra lớn, tình hình tội phạm trên địa bàn

trong những năm qua tăng, giảm thất thường, tính chất, mức độ, thủ đoạn phạm tội

diễn biến phức tạp và nguy hiểm hơn. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra

trên địa bàn, tỉ lệ điều tra khám phá còn thấp, vì nhiều vụ chưa xác định được người

thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu hồ sơ các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

cho thấy, các đối tượng thực hiện hành vi với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi,

xảo quyệt, sử dụng công nghệ thông tin để đưa ra các thông tin gian dối nhằm

chiếm đoạt tài sản, gây khó khăn cho quá trình điều tra và thực hành quyền công tố.

Mặc dù trong những năm qua, quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 06/2013 của

VKSND tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn

công tố với điều tra”, VKSND quận 1 đã từng bước nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố trong điều ta vụ án, gắn chặt công tố với điều tra, phối hợp có hiệu

quả với các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương, góp phần kéo giảm tình hình

tội phạm trên địa bàn, song bởi tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, áp lực công

việc, nên chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự nói

chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của

cải cách tư pháp, nhất là tăng cường hoạt động công tố trên địa bàn quận.

Hiện nay, VKSND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có 29 biên chế và 01 nhân

viên hợp đồng, trong đó KSV trung cấp: 03 (Viện trưởng và 02 Phó Viện trưởng);

KSV sơ cấp: 14; Kiểm tra viên: 06; Chuyên viên: 05; Kế toán: 01; Bảo vệ : 01 (Hợp

đồng) [50]. Công tác tổ chức, cán bộ được thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là

việc bố trí, sắp xếp cán bộ trong các bộ phận nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của công

tác được đảm bảo khách quan, công bằng, đúng người, đúng việc. Lãnh đạo VKS đã

tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện đầy đủ các chỉ thị của Đảng, quy chế của

Ngành về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ

cơ sở trong hoạt động của đơn vị. Nhìn chung, đội ngũ KSV, cán bộ trong VKSND

quận 1 có năng lực, trình độ, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức học

tập nâng cao trình độ, kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ trong thực hành quyền

40

công tố nói chung. Tuy nhiên, với địa bàn quận 1, là một quận trung tâm của thành

phố Hồ Chí Minh, hàng năm tình hình tội phạm xảy ra chiếm tỉ lệ lớn, nhưng biên

chế KSV còn thiếu. Trong năm 2019, thực hiện các quy định mới của pháp luật,

nhiệm vụ và thẩm quyền của VKS tăng lên, nhiều hoạt động tố tụng quy định VKS

phải tham gia, đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thực hành

quyền công tố trong thời gian qua.

2.2.2. Kết quả thực hành quyền công tố trong điều ra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản tại Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh

Thực hành quyền công tố trong trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

luôn được VKSND quận 1 chú trọng thực hiện, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án

hình sự nói chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Thông qua hoạt

động thực hành quyền công tố, VKSND quận 1 đã kịp thời phát hiện hành vi vi

phạm, góp phần hạn chế tình trạng lọt tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bảo đảm

khách quan, toàn diện trong điều tra vụ án. Kết quả thực hành quyền công tố thể

hiện như sau:

Qua phân tích số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019, số vụ án

lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị khởi tố là 69 vụ; số bị can bị khởi tố là 33 bị can.

Trong đó, VKSND quận 1 yêu cầu CQĐT khởi tố là 02/69 vụ (chiếm tỉ lệ 2,89%);

Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố 01 vụ (chiếm tỉ lệ 1,44%); VKSND quận 1 hủy

quyết định không khởi tố vụ án 01 vụ [46, 47, 48, 49, 50]. Như vậy, tỉ lệ VKSND

hủy quyết định của CQĐT là khá thấp. Điều đó cho thấy VKSND đã làm tốt công

tác thực hành quyền công tố trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, ít có

trường hợp VKSND phát hiện dấu hiệu tội phạm để yêu cầu CQĐT khởi tố. Bên

cạnh đó, VKSND cũng ít phải trực tiếp khởi tố hoặc hủy bỏ quyết định không khởi

tố của CQĐT. Qua nghiên cứu, phân tích số liệu thực tế, thể hiện rõ tinh thần đấu

tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan tố tụng tại quận 1, thực hiện tương đối

tốt nguyên tắc không bỏ lọt tội phạm, không làm on người vô tội. KSV được phân

công thực hành quyền công tố đã đã thực hiện tốt hoạt động THQCT trong khởi tố

vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nắm vững các quy định của BLHS và các

41

văn bản pháp luật có liên quan, phân biệt được vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và

các giao dịch dân sự khác, cũng như phân biệt rõ lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản, qua đó đã yêu cầu thay đổi quyết định khởi tố vụ án đúng với

hành vi phạm tội xảy ra.

Bên cạnh thực hành quyền công tố đối với quyết định khởi tố vụ án, VKS còn

thực hiện tốt khi thực hành quyền công tố đối với quyết định khởi tố bị can. Khi các

cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một

số quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố. Chính vì vậy, để đảm bảo việc

khởi tố đúng người, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng kiên

quyết không để lọt tội phạm, VKSND quận 1 đã kiểm sát chặt chẽ quyết định này.

KSV được phân công thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản đã chủ động nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ một

cách khách quan, toàn diện để đề xuất lãnh đạo VKS ra quyết định phê chuẩn quyết

định khởi tố bị can. VKSND quận 1 chỉ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi đã xác định đủ chứng cứ xác định người đó thực hiện

hành vi phạm tội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, KSV được phân công đã nghiên

cứu đầy đủ hồ sơ vụ án với tinh thần trách nhiệm cao. Theo kết quả thống kê từ năm

2016-2019, nhìn chung số vụ án VKSND quận 1 hủy bỏ quyết định khởi tố của

CQĐT chiếm tỉ lệ chỉ chiếm tỉ lệ 1,44% tổng số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã

khởi tố (1/69 vụ); số bị can VKS yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định khởi tố 1/69 vụ;

số vụ án yêu cầu CQĐT khởi tố chiếm tỉ lệ 1,44% (1/69 vụ); số vụ án yêu cầu

CQĐT khởi tố 2/69 vụ, chiếm tỉ lệ 2,89% [46, 47, 48, 49, 50]. Như vậy, có thể thấy

công tác thực hành quyền công tố của VKSND quận 1 trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản có chất lượng tương đối cao, hạn chế tình trạng oan sai. Chính vì

thực hiện tốt ngay từ khâu giải quyết tố giác, tin báo trong giai đoạn điều tra ban

đầu, phối hợp chặt chẽ với CQĐT trong việc xác định tội phạm và người phạm tội,

kịp thời phát hiện những dấu hiệu tội phạm hoặc vi phạm thủ tục tố tụng, do đó tình

trạng phải trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hết thời hạn phải đình chỉ điều tra luôn

vượt chỉ tiêu đề ra. Đặc biệt, tất cả các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản VKSND

42

quận 1 đề nghị truy tố từ 2016 đến 2019 không có vụ án nào Tòa án tuyên không

phạm tội. Điều này đảm bảo được nguyên tắc không làm oan người vô tội trong thi

hành quyền công tố của VKSND quận 1.

Trong thời gian qua, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiến đoạt tài sản, VKSND thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật trong việc

phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người

bị giữ khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam,.... Do khi thực hành quyền công tố trong

việc thu thập chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản tương đối chặt chẽ, đúng pháp luật nên trong thời gian từ 2016 đến năm 2019,

hầu hết các lệnh tam giam, lệnh bắt bị can để tạm giam đều được VKSND quận 1

phê chuẩn, 20/20 quyết định gia hạn tạm giữ được phê chuẩn, 20/23 bị can được

phê chuẩn lệnh bắt bị can và lệnh tạm giam [47, 48, 49, 50]. Trong tổng số 33 bị

can phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chỉ có 01 trường hợp không phê chuẩn

lệnh bắt tạm giam, 01 trường hợp không phê chuẩn lệnh bắt trong trường hợp khẩn

cấp và 01 trường hợp không gia hạn tạm giam.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ đề ra yêu cầu điều tra và tiến hành một số hoạt

động điều tra, theo thống kê thì tỉ lệ KSV đề ra yêu cầu điều tra và trực tiến hành

một số hoạt động điều tra luôn chiếm tỉ lệ khá cao. Cụ thể: Năm 2017: Tổng số thụ

lý: 352 vụ/ 327 bị can. KSV đã thực hiện tham gia hỏi cung đối với 242 bị can, đạt

tỉ lệ 74%. Đối với vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 13/13 vụ có yêu cầu điều tra, hỏi

cung bị can 5/5 bị can, đạt tỉ lệ 100% [48]. Năm 2018, KSV đã ban hành yêu cầu

điều tra 457/ 457 vụ, tỷ lệ 100% số vụ án CQĐT thụ lý. Thực hiện tham gia hỏi

cung và trực tiếp hỏi cung đối với 172 bị can, tỷ lệ 100% số bị can truy tố. Tiếp

nhận các biên bản tài liệu trong trường hợp KSV không trực tiếp kiểm sát các hoạt

động điều tra cùng CQĐT: 391 vụ. Trong đó đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản là 13/13 vụ, hỏi cung bị can 9/9 bị can, đạt tỉ lệ 100% [49].

Năm 2019, KSV ban hành yêu cầu điều tra 486/ 486 vụ, tỷ lệ 100% số vụ án CQĐT

thụ lý. Thực hiện tham gia hỏi cung và trực tiếp hỏi cung đối với 240 bị can, tỷ lệ

100% số bị can đã truy tố. Riêng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đề ra yêu cầu

43

điều tra 10/10 vụ, tham gia và hỏi cung bị can 7/7 bị can [50]. Trong những năm

qua CQĐT đã thực hiện tốt việc truy nã bị can, do đó, VKS chưa phải ra quyết định

yêu cầu truy nã bi can khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản.

Qua nghiên cứu số liệu thống kê và hồ sơ một số vụ án cho thấy, tỉ lệ KSV ban

hành đề ra yêu cầu điều tra luôn ở mức cao, đạt tỉ lệ 100% tổng số vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, trong đó có yêu cầu điều tra khi trực tiếp tham gia hoạt động

điều tra và yêu cầu điều tra bằng văn bản. Theo số liệu thống kê 100% tất cả các vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1 đều được VKS đề ra yêu cầu điều

tra bằng văn bản. Chất lượng, số lượng bản yêu cầu điều tra ngày càng được nâng

cao cả về nội dung và hình thức, góp phần giúp CQĐT thu thập chứng cứ đầy đủ,

toàn diện cũng như định hướng điều tra, có những vụ án sau khi đã yêu cầu điều tra,

thấy còn thiếu sót hoặc phát hiện thêm căn cứ, VKS đã yêu cầu điều tra lần thứ 2 để

đảm bảo sự thật khách quan của vụ án.

Đối với hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất..., KSV khi được phân

công thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã

tham gia nhiều buổi hỏi cung, lấy lời khai, thực hiện nghiêm túc trường hợp bắt

buộc KSV phải hỏi cung theo quy định tại khoản 4 Điều 183 BLTTHS. Theo số liệu

thống kê cho thấy, KSV đã tham gia hỏi cung bị can 100% vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. Thông qua hoạt động trực tiếp việc hỏi cung bị can, đã góp phần quan

trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, chặt

chẽ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần hạn chế, ngăn ngừa những

thiếu sót vi phạm của Điều tra viên trong quá tình điều tra vụ án hình sự.

2.2.3. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hố Minh và

nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả nêu trên, hoạt động thực hành quyền công tố của

VKSND quận 1 cũng còn những hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định, trong đó

44

nhất những hạn chế, khó khăn, vướng mắc xuất phát từ những bất cập, hạn chế của

pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Cụ thể là:

Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát phải xem xét quyết định

phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị

can trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định cùng hồ sơ của CQĐT

chuyển sang. Thời hạn này nhìn chung phù hợp với những vụ án có chứng cứ, tài

liệu rõ ràng, nhưng không thật phù hợp (thiếu) đối với những vụ án phức tạp, cần

phải nghiên cứu, xác minh kỹ, nhất là các vụ án xảy ra có nhiều bị hại, tài sản bị

chiếm đoạt lớn, có sử dụng công nghệ thông tin để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu

KSV không có tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện nghiên cứu hồ sơ, tài liệu ngay

từ khi CQĐT tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì sẽ không đủ thời gian đê

KSV xem xét có đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hay không, và cũng

không đủ căn cứ để không phê chuẩn. Do đó, nếu không phê chuẩn thì có thể bỏ lọt

tội phạm, còn phê chuẩn thì có thể làm oan người vô tội.

Thứ hai, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản gặp khó khăn trong trường hợp do nóng vội, chưa thu thập đầy đủ chứng cứ,

nhận thức chưa đầy đủ, do thiếu trách nhiệm nên CQĐT có sự nhầm lẫn giữa tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản với giao dịch dân sự hoặc với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản. Bởi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt,

nên ngoài chứng minh thủ đoạn phạm tội, KSVcòn phải xác định có mục đích

chiếm đoạt tài sản hay không, xác định thời điểm xuất hiện ý định chiếm đoạt tài

sản. Đối với các trường hợp có liên quan đến hợp đồng, KSV cần xem xét trong hợp

đồng dân sự có xác định thời gian hoàn trả hay không, chủ tài sản có thật sự mất tài

sản hay chưa, mục đích chiếm đoạt tài sản có trước hay có sau khi có tài sản..., kết

hợp với các tình tiết có trong hồ sơ vụ án xác định người bị khởi tố có hành vi

chiếm đoạt tài sản hay không, nếu đủ căn cứ chứng minh hành vi gian dối trong

giao kết hợp đồng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì đủ căn cứ khởi tố bị can, có

thể phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Thủ đoạn này thường xảy ra trong lĩnh vực

ngân hàng, cầm cố, thế chấp tài sản.

45

Thứ ba, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản gặp khó khăn khi quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can lừa đảo

chiếm đoạt tài sản theo các tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt. Bởi khi ra

quyết định khởi tố bị can, theo quy định của Bộ luật TTHS thì CQĐT phải ghi rõ bị

can bị khởi tố về tội gì, áp dụng theo điều nào, khoản nào của BLHS hiện hành. Đối

với tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” hiện nay chưa có hướng dẫn áp

dụng cụ thể, nên các cơ quan chức năng vẫn vận dụng Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Tuy nhiên,

vấn đề khó khăn là Nghị quyết có quy định áp dụng tình tiết này khi phải có đầy đủ

các điều kiện: Một là, phải có hành vi cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một

tội phạm, trong đó không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, và phải thuộc

trường hợp chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; Hai là,

người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, coi đó là nguồn sống

chính. Nhưng quy định nêu trên rất khó cho CQĐT cũng như VKS chứng minh lấy

kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Việc chứng minh được tình tiết

phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định người thực

hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc khoản 1 hay khoản 2 Điều 174 BLHS.

Đối với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo

điểm c, khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 hiện nay cũng chưa có hướng dẫn áp

dụng cụ thể, do đó CQĐT và VKS cũng chưa thống nhất xác định khi nào thì gây

ảnh hưởng xấu, căn cứ vào quy định nào, thẩm quyền xác định gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, trường hợp người thực người thực hiện

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 thì

thuộc khoản 2 Điều 174 BLHS, nhưng nếu chiếm đoạt tài sản từ 50.000.000 đồng

đến dưới 200.000.000 thuộc trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội thì lại rơi vào khoản 3 Điều 174 BLHS. Như vậy, việc xác định người

phạm tội thuộc khoản 2 hay khoản 3 Điều 174 BLHS gặp nhiều khó khăn, từ đó khó

khăn trong việc ghi rõ bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS

khi ban hành quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cũng

46

như trong việc xác định loại tội phạm nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng để áp

dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.

Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng

gặp khó khăn, trong trường hợp CQĐT bởi quy định của pháp luật, chưa xác định

tình tiết phạm tội có phải là có tính chất chuyên nghiệp hay không, hay tình tiết có

thuộc trường hợp gây ảnh hưởng đến an ninh xấu đến trật tự, an toàn xã hội hay

không? mà việc xác định ràng là rất cần thiết để khẳng định tội đã thực hiện là

nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng làm căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam. Vấn

đề là ở chỗ, khi người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị 50 triệu đồng – dưới

200 triệu đồng (điểm c, khoản 2 Điều 174) là tội nghiêm trọng, nếu bị can không

thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ Điều 119 BLTTHS

thì không đủ căn cứ để tạm giam. Tuy nhiên, nếu như xác định bị can phạm tội

thuộc tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thì bị can

phạm tội rất nghiêm trọng theo khoản 3, điểm b, Điều 174 BLTTHS. Trường hợp

này lại đủ điều kiện tạm giam (áp dụng khoản 1 Điều 119 BLHS).

Thứ tư, đối với yêu cầu điều tra, qua nghiên cứu các hồ sơ vụ án cho thấy,

nhiều yêu cầu điều tra còn mang nặng tính hình thức, thủ tục. Nội dung các yêu cầu

điều tra thường chung chung, không cụ thể, các yêu cầu điều tra ở các vụ án khác

nhau nhưng nội dung lại tương tự nhau, yêu cầu những vấn đề đương nhiên phải

thực hiện, không cần phải yêu cầu điều tra hoặc vấn đề đã được CQĐT thực hiện,

những vấn đề không liên quan đến vụ án, do đó chưa phát huy hiệu quả định hướng

điều tra. Hơn nữa, chất lượng, hiệu quả nội dung yêu cầu điều tra phụ thuộc rất lớn

vào năng lực, trình độ của KSV. Có thể thấy, một số KSV khi thực hành quyền

công tố còn coi nhẹ nội dung này, dẫn đến những yêu cầu chung chung, chưa chủ

động nghiên cứu, nâng cao trình độ, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra khi phát sinh vấn

đề mới, để ra các yêu cầu điều tra định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu

thành tội phạm. Điều này khiến việc giải quyết vụ án lừa đảo trong giai đoạn điều

tra kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả chung của hoạt động điều tra và hoạt động thực

hành quyền công tố.

47

Thứ năm, đối với hoạt động thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định

của pháp luật, theo thống kê cho thấy, KSV chỉ chủ yếu tham gia và trục tiếp thực

hiện biện pháp hỏi cung bị can, còn các biện pháp khác rất ít thực hiện. Đồng thời,

theo hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư liên tịch số 04/2018 TTLT-VKSNDTC-BCA-

BQP ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS thì “Kiểm sát viên

thông báo trước cho Điều tra viên trước khi tiến hành” [41]. Khi được yêu cầu thì

Điều tra viên có trách nhiệm phối hợp với Kiểm sát viên để thực hiện các hoạt động

điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Như vậy, theo quy định nêu trên thì KSV

được phân công thực hành quyền công tố phải thông báo cho ĐTV của CQĐT trước

khi tiến hành. Hơn nữa, tại BLTTHS năm 2015, lại không có quy định VKS phải

thông báo cho CQĐT trước khi tiến hành các hoạt động điều tra nêu trên, điều này

làm hạn chế quyền năng của VKS khi thực hiện hoạt động này, vì Thông tư 04/2018

là văn bản dưới luật. Đồng thời, Điều 12 Thông tư 04/2018 TTLT-VKSNDTC-

BCA-BQP ngày 19/10/2018 cũng chỉ quy định KSV phải thông báo cho ĐTV trước

khi tiến hành, những cũng không quy định rõ là thông báo bằng văn bản hay lời nói

hoặc trường hợp ĐTV từ chối cho KSV thực hiện hoạt động điều tra hoặc ĐTV

vắng mặt thì thông báo cho VKS bằng văn bản hay lời nói. Điều này làm giảm hiệu

lực thực hành quyền công tố của KSV.

Thứ sáu, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, VKSND đều phê chuẩn đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra

của CQĐT Công an quận 1 bởi các quyết định đó đều đúng theo quy định của pháp

luật. Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, CQĐT đã thực hiện đúng các quy định

của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, có một

vấn đề vướng mắc mà CQĐT và VKSND đã thống nhất giải quyết. Đó là quy định

có căn cứ tạm đình chỉ điều tra “khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ

bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án” [23]. Vướng mắc trong

quy định này là phải tính thời hạn điều tra để ra quyết định tạm đình chỉ là khi nào,

từ lúc hết hạn điều tra chung hay tính cả thời hạn gia hạn điều tra. Mặc dù các cơ

quan tư pháp địa phương thống nhất hiểu theo tinh thần điều luật và vận dụng ra

48

quyết định tạm đình chỉ theo thời hạn điều tra ban đầu. Tuy nhiên, tác giả cho rằng

cần có một hướng dẫn cụ thể để làm căn cứ thực hiện thống nhất.

Thứ bảy, theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền công tố của VKS đã

được quy định chi tiết tại Điều 165 BLTTHS năm 2015, còn hoạt động kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra được quy định tại Điều 166

BLTTHS năm 2015. Mặc dù quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã

được BLTTHS quy định chi tiết ở hai điều luật khác nhau, tuy nhiên vẫn còn sự

không rành mạch giữa hai hoạt động này, dẫn đến một số KSV được phân công

thực hành quyền công tố nhận thức chưa đầy đủ, chưa phân biệt rõ ràng giữa công

tố và kiểm sát tư pháp, làm giảm chất lượng khi thực hành quyền công tố.

Thứ tám, bởi sự phối hợp giữa giữa ĐTV của CQĐT và KSV của VKSND còn

chưa cao, một số KSV còn coi nhẹ công tác thực hành quyền công tố, nên chưa đi

sâu vào nghiên cứu vụ án ngay từ đầu, dẫn đến cả ĐTV và KSV thực hiện chưa

nghiêm túc, đôi khi còn bị động nên dẫn đến trường hợp bỏ sót chứng cứ quan

trọng. KSV chỉ tiếp cận và nghiên cứu hồ sơ khi CQĐT đã có quyết định khởi tố vụ

án, để xét phê chuẩn các quyết định tố tụng, nên ít nhiều đối với các vụ án nhiều bị

can, phức tạp sẽ thiếu thời gian nghiên cứu đầy đủ. Điều đó có thể dẫn đến tình

trạng qua loa, đại khái khi ban hành quyết định cho kịp thời gian luật định, nhất là

đối với quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, việc áp dụng, thay đổi biện

pháp ngăn chặn, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự.

Thứ chín, theo quy định của BLTTHS, hoạt động điều tra vụ án hình sự nói

chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng do ĐTV tiến hành. Tuy

nhiên, thực tế còn tình trạng thiếu ĐTV và một ĐTV thụ lý nhiều vụ án khác nhau,

do đó tồn tại tình trạng ĐTV chỉ đứng tên được phân công thụ lý, ký tên đối với các

văn bản tố tụng, còn thực tế thì vẫn do Cán bộ điều tra trực tiếp tiến hành. Đây cũng

là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất đồng về quan điểm định tội,

áp dụng biện pháp ngăn chặn trong một số vụ án, khiến một số vụ án kéo dài thời

hạn xử lý. Một vấn đề nữa cũng tương đối quan trọng, là hiện nay đa số KSV được

phân công thực hành quyền công tố trong các vụ án chưa được đào tạo chuyên sâu

49

về các hoạt động điều tra, hoặc kỹ năng, kinh nghiệm chưa cao nên hiệu quả tiến

hành các hoạt động này phần nào bị ảnh hưởng, đôi khi chưa mang lại hiệu quả cao

nhất. Do đó, qua nghiên cứu hồ sơ, tác giả nhận thấy hoạt động trực tiếp tiến hành

hoạt động điều tra của KSV chủ yếu là hoạt động hỏi cung bị can, còn các hoạt

động khác chưa thực hiện, chủ yếu vẫn do ĐTV tiến hành. Như vây, có thể thấy,

KSV chưa thường xuyên thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm về việc trực tiếp tiến

hành hoạt động điều tra, trực tiếp xác minh để chủ động làm rõ các vẫn đề của vụ

án. Hơn nữa, một số KSV khi thực hành quyền công tố còn hạn chế về kinh nghiệm

nghiệp vụ nói chung, kỹ năng hỏi cung bị can nói riêng nên hoạt động hỏi cung bị

can đôi khi vẫn mang tính hình thức, một số trường hợp chưa thực sự đạt hiệu quả.

Những hạn chế nêu trên cần phải có giải pháp khắc phục để hoạt động thực hành

quyền công tố đạt chất lượng cao, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người

trong tố tụng hình sự, nâng cao uy tín của Nhà nước và pháp luật.

Tiểu kết chương 2

Trong chương này, luận văn đã tập trung phân tích những quy định của Bộ luật

tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Bằng phương pháp phân tính, tổng hợp, so sánh, luận văn đã

đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 2016 đến năm

2019, qua đó thấy được kết quả của hoạt động này có nhiều thành tựu quan trọng,

góp phần vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích hợp pháp

của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.

Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót với

nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu cải cách tư pháp trong

tình hình hiện nay. Nghiên cứu những tồn tại, thiếu sót và những nguyên nhân nêu

trên là cơ sở đề ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hành công tố

trong điều tra vụ án nói chung và trong thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

50

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản

3.1.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định, đặt nền tảng cho

mọi hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động thực hành quyền công tố.

Theo quy định của tại Điều 7 BLTTHS năm 2015, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã

hội chủ nghĩa trong TTHS là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng và

được quy định là nguyên tắc tắc đầu tiên trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Bảo

đảm pháp chế trong tố tụng hình sư đòi hỏi mọi chủ thể TTHS, nhất là các Cơ quan

và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành các

quy định của pháp luật khi tiến hành giải quyết vụ án. Khi thi hành thực hành quyền

công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, đòi

hỏi CQĐT, VKS cũng như ĐTV, KSV phải thực hiện nghiêm chỉnh, tự giác, khách

quan, toàn diện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm phát hiện nhanh

chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời, bảo đảm pháp chế

xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

vừa phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi thi hành thực hành quyền công tố,

vừa phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng, nhằm bảo vệ trật tự pháp

luật, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đảm bảo thực hiện mục

tiêu chung trong đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng.

3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp

Trong những năm qua, vấn đề cải cách tư pháp đã được thể hiện qua các Nghị

quyết của Đảng. Trong đó nổi bật là một số Nghị quyết như Nghị quyết Đại hội

51

Đảng toàn quốc lần thứ IX, với yêu cầu “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt

chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới:“Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp” [2]. Cũng theo nghị

quyết này xác định, hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiễn trong suốt

quá trình tố tụng, bắt đầy ngay từ khi khi khởi tố vụ án hình sự. Nhiệm vụ quan

trọng của hoạt động này nhằm đảm bảo truy cứu TNHS đúng người, đúng tội,

không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, đáp ứng yêu cầu trong tình

hình mới cũng như đề ra phương hướng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có yêu cầu: “Hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực

hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp…”[3]. Cuối cùng là Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, đã tiếp tục xác định VKS giữ chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đồng thời Nghị quyết cũng yêu cầu tăng cường

trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn chặt công tố và hoạt động

điều tra. Các Nghị quyết trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015. Dựa trên các văn bản

trên, VKS đã được tổ chức và hoạt động tương đối phù hợp, từng bước đáp ứng với

tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.

Như vậy, qua yêu cầu cải cách tư pháp, một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với

VKS là phải thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố, tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra nói chung và trong điều tra tội phạm

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, gắn công tố với hoạt động điều tra. Các văn

bản pháp luật hiện hành đã quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp,

phân định rõ hơn và tăng thẩm quyền, trách nhiệm của ĐTV, KSV theo hướng chủ

52

động và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của

mình. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nói chung và quy định

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng chưa thể hiện đầy đủ chủ

trương của Đảng về cải cách tư pháp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng thực hành quyền công tố. Do đó, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thực hiện nghiêm túc chủ trương cải cách tư pháp

theo hướng:

Một là, đối với quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra đã tương đối phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp,

VKSND có trách nhiệm tuân thủ nghiêm chỉnh, bảo đảm cho pháp luật có hiệu lực

và phát huy vai trò khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, góp phần trong đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm nói chung.

Hai là, đối với các quy định của pháp luật chưa thể hiện rõ yêu cầu cải cách tư

pháp, còn hạn chế, vướng mắc thì VKSND phải vận dụng linh hoạt, phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng để vừa có thể hoàn thành nhiệm vụ, vừa tránh

làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khi

thi hành thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, yêu cầu đặt ra theo tinh thần cải cách tư pháp là phải chặt chẽ, đầy đủ, khách

quan, theo đúng quy định của pháp luật, giảm thiểu oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm và

phải đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp, hoạt động công tố nói chung và khi thực hành quyền công tố trong

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, VKSND phải quán triệt sâu sắc các quan

điểm của Đảng, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, coi đây là kim chỉ

nam trong tổ chức và hoạt động của mình nhằm nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố.

3.1.3. Yêu cầu bảo đảm các nguyên tắc suy đoán vô tội; xác định sự thật vụ án

Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội, không buộc phải tự buộc tội chính mình

chính là một trong những nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền con người. Khoản 1 Điều

53

31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho

đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật” [20]. Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 cụ thể hóa với quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội

được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ

luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” [23].

Thực hành quyền công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản nói riêng là thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.

Việc buộc tội trong giai đoạn này bao gồm hàng loạt hoạt động tố tụng trong suốt

quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự. VKSND phải có trách nhiệm phối hợp chặt

chẽ với CQĐT điều tra, xác minh, thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh

hành vi phạm tội của người bị buộc tội, nếu không chứng minh được có tội đồng

nghĩa pháp lý với chứng minh vô tội. Suy đoán vô tội bác bỏ định kiến có tội dưới

mọi hình thức và là một bảo đảm quan trọng đối với quyền con người của người bị

buộc tội.

Như vậy, khi tiến hành thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, VKSND quận 1 phải luôn quá triệt nguyên tắc này, phái xác

định nếu như “không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo

trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [23].

3.1.4. Yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó

có quyền sở hữu tài sản của công dân

Nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm và thực hiện tốt các quyền con người, quyền

cơ bản của công dân là một trong những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho các

cơ quan tư pháp. Các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền sở hữu tài sản

được Hiếp pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 14: “các quyền con người, quyền công

dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng bảo vệ,

đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật” [20].

54

Như vậy, quyền sở hữu tài sản là quyền dân sự được tôn trọng và bảo vệ, trong

đó BLHS có quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, là tội phạm thuộc nhóm tội

xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, được pháp luật hình sự bảo vệ.

Người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được quy định

trong BLHS phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, gánh chịu những hậu quả bất lợi

do hành vi phạm tội của mình gây ra. Trong quá trình thực hành quyền công tố, việc

xác định đúng tội danh, đúng người phạm tội, áp dụng các biện pháp cần thiết đối

với người phạm tội góp phần quan trọng vào việc bảo vệ tài sản của Nhà nước, của

cơ quan, tổ chức và cá nhân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy

tín của các cơ quan tư pháp, trong đó có VKS, cơ quan duy nhất có chức năng thực

hành quyền công tố. Chính vì vậy, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản cũng như các quy định về thực hành quyền công tố, tạo cơ sở

pháp lý vững chắc để truy tố đúng người, đúng tội, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của

công dân, nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong công tác đấu tranh,

phòng chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

3.1.5. Yêu cầu phòng, chống tội phạm, nhất là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố của VKSND quận 1

đã từng bước đáp úng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đấu tranh, phòng

chống tội phạm, trong đó có tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt,

nổi lên là các tội phạm cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. VKSND quận 1 đã nêu cao tinh thần phòng, chống tội

phạm, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, từ có biện pháp xử lý thỏa

đáng. VKSND phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong việc phân loại tội phạm,

các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

chống bỏ lọt tội phạm. VKS cũng đã thực hiện tốt quyền năng trực tiếp khởi tố hoặc

yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án để tiến hành điều tra.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm xảy ra hàng năm tại quận 1 rất phức tạp, đặc biệt

là tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó, riêng tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản với nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, gây khó khăn không

55

nhỏ cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ,

xác định tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, bên cạnh thực hiện quyền năng tố

tụng nhằm đảm bảo cho quá trình khởi tố, điều tra được nhanh chóng, phát hiện và

xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, VKSND còn cần có trách nhiêm

làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để để áp dụng các biện pháp phòng ngừa

tội phạm thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, của mình. Đây là

một trong nhưng nhiệm vụ quan trọng của VKSND nói chung và khi thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai

đoạn hiện nay.

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.2.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật

Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm

mới tiến bộ, hoàn thiện hơn so với Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2003. Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính xác và thống nhất đòi hỏi phải

tăng cường giải thích các quy phạm pháp luật đã ban hành, theo đó:

Thứ nhất, đối với BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, theo tác giả

cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản:

- Hướng dẫn áp dụng tình tiết:“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội” theo điểm c, khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.

Tình tiết này dẫn đến nhận thức không thống nhất khi áp dụng trong thực tế, vì

mức độ như thế nào là ảnh hưởng xấu, căn cứ nào xác định đó là ảnh hưởng xấu, cơ

quan nào xác định là vấn đề cần làm rõ để tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Hiện

nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào mới về tình tiết này mà chỉ có hướng dẫn tại

tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm

phán TANDTC về tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 1 Điều

245 của BLHS 1999, điều này dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong

thực tiễn. Do đó, theo tác giả để để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn

56

thì Cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng tình

tiết định khung cơ bản “Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn

xã hội”.

- Hướng dẫn áp dụng tình tiết phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” theo

điểm b, khoản 2 Điều 174 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hiện nay, việc áp dụng tình tiết tiết này vẫn được các cơ quan tố tụng vận

dụng hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12

tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC (viết tắt là Nghị quyết số

01/2006). Theo Nghị quyết quy định thì: “5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có

tính chất chuyên nghiệp" đối với người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện: Một

là, phải có hành vi cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm, trong đó

không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, và phải thuộc trường hợp chưa hết

thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; Hai là, người phạm tội đều

lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, coi đó là nguồn sống chính.

Tại mục 5.2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP còn quy định: “Khi áp dụng

tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:

a. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội

đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm

tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái

phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

b. Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết “phạm tội có tính

chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình

tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS...”

Theo hướng dẫn của nghị quyết trên thì “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”

được hiểu là người phạm tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên (không phân biệt

đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu

TNHS hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm

nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Việc hướng

dẫn như trên để xử lý người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là rất khó khăn vì

57

chứng minh được bị cáo 05 lần phạm tội là không khó nhưng chứng minh bị cáo lấy

các lần phạm tội đó làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn

sống chính là rất khó.

Theo BLHS năm 2015 thì tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được

quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong

Phần các tội phạm, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại điểm b, khoản 2

Điều 174 BLHS. Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, Các

cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản nào hướng dẫn thay thế Nghị quyết

số 01/2006 để hướng dẫn tình tiết thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Hơn nữa, hiện nay Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về

tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2

Điều 324 BLHS 2015 được hướng dẫn như sau: “3. Có tính chất chuyên nghiệp quy

định tại điểm d khoản 2 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm

tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách

nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu

truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy

khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập.”

Như vậy, khi so sánh Nghị quyết số 01/2006 với Nghị quyết số 03/2019 lại có

điểm khác nhau, không thống nhất, đó là Nghị quyết số 01/2006 thì người phạm tội

đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm

nguồn sống chính còn theo Nghị quyết số 03/2019 thì chỉ cần người phạm tội lấy

khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập. Vậy có thể sử

dụng hướng dẫn này áp dụng vào tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”

được không? Khi hiện nay ngoài hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2019 về tội “rửa

tiền” quy định tại Điều 324 BLHS 2015 thì chưa có văn bản nào hướng dẫn về tình

tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều

52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong Phần các tội phạm, trong đó có tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản tại điểm b, khoản 2 Điều 174 BLHS.

58

Do đó, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, ban hành

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”

của Bộ luật hình sự cho phù hợp với những vấn đề đã được sửa đổi, bổ sung của Bộ

luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.

Thứ hai, đối với BLTTHS năm 2015:

- Hướng dẫn áp dụng thống nhất một số biện pháp được thực hiện để kiểm tra,

xác minh làm căn cứ để VKS yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ

án hình sự hoặc phê chuẩn biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp. Cụ thể như sau:

Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, CQĐT phải tiến hành các biện pháp

kiểm tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm. Do đó, khi có quyết đinh khởi tố vụ

án hình sự, CQĐT phải chuyển quyết định cùng hồ sơ vụ án sang VKS cùng cấp để

kiểm sát việc khởi tố. Việc kiểm tra, xác minh căn cứ khởi tố phải được thực hiện

bằng các biện pháp điều tra quy định trong BLTTHS. Theo đó, tại khoản 3 Điều

147 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định:

“Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có

thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:

a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

để kiểm tra, xác minh nguồn tin;

b) Khám nghiệm hiện trường;

c) Khám nghiệm tử thi;

d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản [23].

Như vậy, theo quy định của BLTTHS thì khi giải quyết vụ án hình sự, để ra

quyết định khởi tố hoặc không khởi tố, xác định có dấu hiệu tội phạm hay không

CQĐT cũng như VKS phải căn cứ vào các biện pháp thu thập chứng cứ nêu trên.

Tuy nhiên, thực tế chứng minh nếu chỉ căn cứ vào các hoạt động nêu trên, thì nhiều

trường hợp sẽ khó xác định dấu hiệu tội phạm, hoặc chứng cứ yếu, chưa đủ thuyết

phục để buộc tội đối với người phạm tội, nhất là trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, các đối tượng thường sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản, do

59

đó, để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội, cần hướng dẫn thêm một số biện pháp

cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng khi thu thập chứng cứ xác định dấu hiệu tội

phạm để khởi tố như biện pháp nhận dạng, biện pháp nhận biết giọng nói.

Trong nội dung Điều 83, Điều 191 BLTTHS năm 2015 có quy định như sau:

Điểm d, khoản 3 Điều 83 BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,

trong đó có đoạn: “...d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người

bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”

Khoản 1 Điều 191 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi cần thiết, Điều tra viên

có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết

giọng nói”

Đối với quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

theo điểm b, khoản 1 Điều 110 BLTTHS thì: “Người cùng thực hiện tội phạm hoặc

bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận

đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó

trốn”

Để xác định người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại

nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy, xác nhận đúng thì trong một số trường

hợp cũng cần cho họ nhận dạng người bị nghi thực hiện tội phạm.

Đối chiếu với các quy định trên tại Điều 83, Điều 191 BLTTHS năm 2015 thì

cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền có thể thực hiện các biện pháp nhận dạng,

nhận biết giọng nói khi kiểm tra, xác minh thông tin để khởi tố hoặc áp dụng biện

pháp ngăn chặn. Nhưng điều này lại mâu thuẫn với các biện pháp giới hạn tại khoản

3 Điều 147 BLTTHS.

Do đó, căn cứ vào thực tế khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa

đảo chiếm đoạt tài sản, căn cứ vào các quy định tại Điều 83, Điều 147, Điều 191

BLTTHS năm 2015, tác giả kiến nghị các cơ quan chức năng cần thống nhất hướng

dẫn cho phép áp dụng thêm biện pháp nhận dạng và biện pháp nhận biết giọng nói

khi kiểm tra, xác minh chứng cứ xác định dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ án hình

60

sự. Từ đó, khi thực hành quyền công tố, VKS có thể trực tiếp kiêm tra, xác minh

dấu hiệu tội phạm để yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự hoặc làm rõ căn cứ để

phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

- Hướng dẫn thời hạn để ra quyết định tạm đình chỉ điều tra theo Điều 229

BLTTHS năm 2015.

BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan điều tra có quyền ra quyết định tạm đình

chỉ điều tra. Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra CQĐT phải căn cứ theo quy

định của tại điểm a, khoản 1 Điều 229 Bộ luật TTTHS như sau: “a) Khi chưa xác

định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều

tra vụ án...”

Quy định này có hạn chế là chưa rõ ràng, nên chưa thống nhất về mặt nhận

thức, dẫn đến hai cách hiểu: Cho rằng thời hạn điều tra bao gồm cả thời hạn gia hạn

điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS và cho rằng thời hạn điều tra không

bao gồm việc gia hạn thời hạn điều tra.

Mặc dù trên thực tế, đa số các cơ quan tố tụng đều vận dụng theo cách hiểu

thời hạn điều tra không bao gồm việc gia hạn thời hạn điều tra. Dù vậy, theo tác giả

bên cạnh thống nhất về mặt nhận thức, vẫn cần có hướng dẫn của các cơ quan chức

năng để làm cở sở thực hiện thống nhất trên thực tế.

- Hướng dẫn thực hiện quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 153 BLTTHS năm

2015.

Tại điểm a, khoản 3 Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền

khởi tố vụ án hình sự của VKS: “VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình

sự của CQĐT...”.

Theo quy định này, thì dễ dẫn đến cách hiểu, khi khi VKS hủy bỏ quyết định

không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, đồng thời sẽ ra quyết định khởi tố vụ án

hình sự. Tuy nhiên, thực tế sẽ xảy ra trường hợp vướng mắc, đó là khi VKS hủy bỏ

quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT vì xác định không đủ căn cứ, nhưng

cũng chưa đủ chứng cứ xác định căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, trong

trường hợp này VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố những cũng không thể ra

61

quyết định khởi tố vụ án ngay trong trường hợp này. Như vậy, qua phân tích nêu

trên, tác giả kiến nghị xem xét ban hành hướng dẫn quy định tại điểm a, khoản 3

Điều 153 BLTTHS theo hướng: VKS khi xác định quyết định không khởi tố vụ án

hình sự của CQĐT là không có căn cứ, thì VKS chỉ cần ra quyết định hủy bỏ quyết

định này, còn quyết định khởi tố vụ án hình sự, khi nào đủ căn cứ thì sẽ ra quyết

định khởi tố vụ án hình sự.

- Sửa đổi, hướng dẫn thực hiện một số nội dung đối với Thông tư liên tịch số

04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa

CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố,

điều tra và truy tố. Cụ thể như sau:

+ Tại khoản 2 Điều 10 của Thông tư có quy định: khi xét thấy chưa đủ căn cứ

để phê chuẩn thì KSV trao đổi với ĐTV về những nội dung cần bổ sung chứng cứ,

tài liệu. ĐTV và KSV báo cáo lãnh đạo CQĐT và lãnh đạo VKS để xin ý kiến,

thống nhất các nội dung cần bổ sung. Trong Khoản 2 Điều 10 cũng nêu rõ yêu cầu

bổ sung chứng cứ, tài liệu của VKS phải được thể hiện bằng văn bản.

Sau khi đã bổ sung đầy đủ chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu, CQĐT phải xem xét

quyết định: hoặc rút quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung

quyết định khởi tố bị can hoặc có văn bản tiếp tục đề nghị phê chuẩn. Các quyết

định của CQĐT phải kèm theo các chứng cứ, tài liệu bổ sung theo yêu cầu của VKS

để Viện kiểm sát xem xét, quyết định.

Trong trường hợp này, thông tư chưa có quy định cụ thể về thời hạn để bổ

sung chứng cứ khi có yêu cầu của VKS. Vì vậy, để thống nhất thực hiện, đề nghị

Liên ngành trung ương thống nhất thời hạn để bổ sung chứng cứ, tài liệu phê chuẩn

không quá 3 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận được yêu cầu của Viện kiểm

sát.

+ Tại Khoản 3 Điều 16 của Thông tư quy định: Trường hợp xét thấy việc khởi

tố bị can có căn cứ, nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can thì VKS ra quyết

định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định không phê chuẩn lệnh tạm

62

giam; nếu thấy cần thiết thì yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối

với bị can.”

Theo hướng dẫn trên của Thông tư thì “nếu thấy cần thiết thì yêu cầu Cơ quan

điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can”. Như vậy, khi nào thì

được xem là “cần thiết” để yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác?

Trong thực tế, trường hợp không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị

can thì phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để ngăn chặn bị can bỏ trốn hoặc

gây khó khăn cho quá trình tố tụng hình sự, không có tình trạng không áp dụng biện

pháp ngăn chặn nào đối với bị can. Đồng thời, căn cứ nào để xác định là cần thiết

thì không có hướng dấn thống nhất thực hiện, sẽ dẫn đến tùy tiện. Vì vậy không

nhất thiết quy định cụm từ “nếu thấy cần thiết”. Đề nghị bỏ cụm từ đó và chỉ cần

quy định VKS phải yêu cầu Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối

với bị can.

3.2.2. Nâng cao khả năng và năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát

viên

Kiểm sát viên là người được lãnh đạo VKS phân công trực tiếp thực hiện

quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng. Do đó, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của KSV có vai

trò to lớn đối với chất lượng thực hành quyền công tố. Lãnh đạo VKS cần chủ động

đề ra nhiều giải pháp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

KSV. Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, đối với công tác chỉ đạo, điều hành, công tác tổ chức cán bộ:

Nghiêm túc thực hiện Kế hoạch số 13-KH/BCSĐ ngày 31/01/2018; Kế hoạch số

27/KH-VKSTC ngày 23/3/2018 của Viện KSND tối cao về luân chuyển, điều động

công chức; Kế hoạch số 372/KH-VKS ngày 16/10/2018 của Viện KSND thành phố

về luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức trong ngành

KSND Thành phố giai đoạn 2018-2020 và những năm tiếp theo. Cần rà soát, đánh

giá chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên hiện có một cách khoa học, hợp lý để phân

loại trình độ năng lực của từng người, từ đó xây dựng Kế hoạch đào tạo phù hợp.

63

Căn cứ vào đó, thực hiện tốt công tác bổ nhiệm, bố trí và sử dụng KSV thực hành

quyền công tố đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Điều động, luân chuyển,

chuyển đổi vị trí công tác KSV phù hợp với năng lực, nguyện vọng công tác. Tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn hiện nay diễn biến phức tạp với nhiều thủ

đoạn tinh vi, nhiều vụ lừa đảo với số lượng người bị hại rất lớn, đặc biệt nổi lên một

số hình thức lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng, lừa đảo dưới hình thức kinh doanh

đa cấp, lừa đảo công nghệ cao...Do đó, cần phân công những KSV có trình độ,

phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị, chịu được áp lực để đảm đương tốt nhiệm

vụ được giao.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng KSV, đặc biệt là đào tạo tại

chỗ để nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên. Xác định công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, KSV là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Có đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ tốt mới có đội ngũ cán bộ có chất lượng, có năng lực, đủ bản lĩnh để đảm nhiệm

công tác được giao.

Việc đào tạo, nâng cao trình độ cho KSV phải được thực hiện thường xuyên,

nhất là nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chung và trong

thực hành quyền công tố đối với vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với hoạt

động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, KSV ngoài việc am hiểu

pháp luật, còn phải có kiến thức nhất định đối với các hoạt động điều tra. Do đó,

cần có kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu cho KSV về các hoạt động điều tra, để KSV

chủ động và thực hiện tốt các biện pháp này khi cần thiết. Hiện nay, tình trạng lừa

đảo công nghệ cao khá nhiều, dó đó, KSV cũng cần nâng cao trình độ sử dụng công

nghệ thông tin, để phối hợp hoặc yêu cầu ĐTV thực hiện thu thập chứng cứ cần

thiết. Đồng thời, đối với việc số hóa hồ sơ vụ án hình sự, hiện nay mới chỉ dừng lại

ở số hóa ở giai đoạn truy tố. Tuy nhiên, tiến tới cần thực hiện số hóa ở các giai đoạn

tố tụng khác, do đó cần KSV có khả về công nghệ thông tin. Với mặt bằng kiến

thức tin học chung hiện nay cần phải được tập huấn, đào tạo thêm nhiều mới đáp

ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, cần tăng cường bồi dưỡng tiếng anh trình độ bậc 3

khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam cho KSV để đáp ứng nhu cầu hội nhâp, bởi

64

quận 1, thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước, người nước ngoài ở Việt Nam

hiện nay khá nhiều, nếu xảy ra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người nước

ngoài, KSV có thể thực hiện tốt vai trò của mình.

Một trong những biện pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực KSV đó là

đào tạo tại chỗ, tận dụng Kiểm sát viên có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trực tiếp

kèm cặp, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mới được bổ

nhiệm, phân công nhiệm vụ thực hành quyền công tố đối với vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

Tăng cường công tác tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện nhằm tự nâng cao

năng lực của đội ngũ KS. Luôn gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong quá trình học tập, nghiên cứu. Qua đó, giúp cho

mỗi cán bộ, Kiểm sát viên nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nhiệm vụ của ngành,

mỗi KSV phải tự mình thường xuyên cập nhật, chủ động tự nghiên cứu, tích lũy

kinh nghiệm, học hỏi KSV có kinh nghiệm... nhằm đảm bảo có đội ngũ cán bộ,

KSV đủ năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm,

đạo đức lối sống, rèn luyện đức tính người cán bộ kiểm sát theo lời dạy của Bác Hồ:

“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” để thực hiện công tác

thực hành quyền công tố ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của

VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới, đổi mới công tác đánh giá cán bộ, KSV.

KSV khi được phân công thực hành quyền công tố xây dựng các báo cáo đề

xuất từ khi phê chuẩn khởi tố bị can, đề xuất áp dụng pháp luật trong công tác thực

hành quyền công tố phải được Lãnh đạo duyệt, có khó khăn, vướng mắc gửi qua thư

điện tử nội bộ của Ngành đến các Phòng nghiệp vụ để nghiên cứu, hướng dẫn, qua

đó đã giúp cho KSV quận hạn chế được những thiếu sót, vi phạm. Thông báo rút

kinh nghiệm trong vụ án, qua đó hướng dẫn, chỉ ra các thiếu sót, tồn tại của các cá

nhân, đơn vị để rút kinh nghiệm chung.

Đối với công tác đánh giá cán bộ, KSV, cần đánh đúng, thực chất cán bộ,

KSV. Từ đó, mới có kế hoạc bố trí và sử dụng KSV cách hợp lý nhằm phát huy

65

năng lực của KSV. Đánh giá cán bộ là yếu tố rất quan trọng, phải được thực hiện

thường xuyên, nhất là đánh giá cán bộ để thực hiện quy hoạch, luân chuyển, đào tạo

và bố trí sử dụng cán bộ. Phải lấy hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, làm

thước đo chủ yếu đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ, KSV phải luôn theo yêu cầu

mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch. Thực hiện việc đánh giá đúng năng lực, sở

trường của từng KSV giúp cho việc bố trí, sắp xếp phát huy được sở trường của họ

từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong khi thực hành quyền công tố đối với

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Bốn là, thường xuyên tập huấn cho đội ngũ KSV về thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nâng cao năng lực vận dụng hiệu

quả quyền năng đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra,

nhất là các KSV chưa có nhiều kinh nghiệm.

Khi thực hành quyền công tố, KSV được phân công phải tuân thủ các quy định

của pháp luật. Quy trình, nhiệm vụ đó được quy định cụ thể tại BLTTHS, Luật tổ

chức VKSND cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, đối với mỗi vụ

án khác nhau, mỗi giai đoạn thực hành quyền công tố khác nhau thì có những đặc

trưng riêng khác nhau. Hơn nữa, trình độ, kinh nghiệm của các KSV cũng khác

nhau đối với từng loại tội phạm. Do đó, cần thiết phải tập huấn chuyên sâu cho

KSV, nhất là KSV mới được phân công phụ trách lĩnh vực thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đối với hoạt động đề ra yêu cầu điều tra của KSV, việc thực hiện quyền năng

này, như đã phân tích ở phân thực trạng còn nhiều hạn chế. Kiểm sát viên phải chủ

động sớm hơn, tích cực hơn, trách nhiệm hơn khi thực hiện các quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015 về đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và điều tra. KSV

phải xác xác định việc ban hành yêu cầu điều tra là nhiệm vụ bắt buộc trong quá

trình thực hành quyền công tố, bắt đầu từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm

và trong suốt quá trình điều tra vụ án.

Trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những vấn đề quan trọng trong việc

chứng minh và chứng cứ, như thu thập chứng cứ, vật chứng, mục đích chiếm đoạt

66

tài sản, thủ đoạn gian dối, định giá tài sản, giám định,… là những vấn đề phải đặc

biệt quan tâm. Kiểm sát viên đề ra bản yêu cầu điều tra phải định hướng nội dung

giám định cho đúng, sát với vấn đề cần kết luận; phối hợp, trao đổi, yêu cầu Điều

tra viên cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ công tác giám định, định giá tài sản; cùng

với Điều tra viên nghiên cứu, đánh giá tài liệu, lựa chọn những tài liệu cần thiết

(trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường có rất nhiều tài liệu, chứng cứ liên

quan như lời nói, giấy tờ thể hiện thủ đoạn gian dối) nhằm bảo đảm kết luận giám

định, kết luận định giá tài sản,… được thực hiện khách quan, đầy đủ, kịp thời, phục

vụ hiệu quả việc giải quyết vụ án. Thực tế cho thấy, những vấn đề này phụ thuộc

phần lớn vào trách nhiệm, năng lực công tác thực hành quyền công tố mỗi Kiểm sát

viên khi được phân công giải quyết vụ án. Ngoài ra, cũng cần có quy định trách

nhiệm của KSV khi đề ra các yêu cầu, quyết định tố tụng của mình không có căn cứ

hoặc trái pháp luật.

Đối với những vụ án phức tạp, Lãnh đạo VKS phải trực tiếp kiểm tra tài liệu

chứng cứ khi cần thiết, phê duyệt Bản yêu cầu điều tra trước khi Kiểm sát viên ban

hành; có chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, kịp thời đối với Kiểm sát viên, giải quyết các

khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án cùng Kiểm sát viên.

KSV được phân công còn phải được tập huấn chuyên sâu về điều tra để có thể

trực tiếp thực hiện tốt một số biện pháp điều tra thu thập chứng cứ. Khi thực thực

hiện một số hoạt động điều tra trong quá trình thực hành quyền công tố, Kiểm sát

viên phải nghiên cứu kỹ những tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên mới thu thập,

chuyển đến để phát hiện những mâu thuẫn trong các lời khai, bản cung, những nội

dung chưa được làm rõ hoặc còn thiếu chưa được thu thập, trường hợp cần thiết,

Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng hoặc trực

tiếp xác minh. Để nâng cao chất lượng thực hiện các biện pháp điều tra của KSV,

đòi hỏi KSV phải chủ động nghiên cứu hồ sơ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát

hiện những chứng cứ còn thiếu để trực tiếp thu thập, tránh tình trạng thực hiện

mang tính hình thức, chỉ để cho đủ hồ sơ. Đồng thời, tăng cường thực hiện một số

hoạt động khác như lấy lời khai, đối chất...thay vì chỉ chủ yếu tham gia hỏi cung bị

67

can. Do đó, cần thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật đối với

quyền năng này.

Ngoài các kỹ năng chung, KSV được phân công còn phải được tập huấn

chuyên sâu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những thủ đoạn mới của tội phạm này.

Hơn nữa, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân biệt với một số tội phạm

khác tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng cũng như

tránh hình sự hóa các giao dịch dân sự vì nhiều vụ lừa đảo xuất phát từ các giao

dịch dân sự, vì vậy cần tập huấn nắm vững các quy định của pháp luật để thực hiện

tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản. Đối với KSV mới được phân công thực hiện nhiệm vụ này, phải được tập huấn

trước rồi mới phân công thực hiện vụ án cụ thể. Tổ chức tập huấn chuyên sâu, mở

rộng hình thức tập huấn trực tuyến về công tác thực hành quyền công tố theo hướng

tổng kết thực tiễn, giải quyết những khó khăn vướng mắc bất cập nảy sinh từ thực

tiễn. Có như vậy, trình độ, năng lực của KSV mới đáp ứng được nhiệm vụ được

phân công.

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là

giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra

Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có VKS và CQĐT khi

thực hành quyền công tố có vai trò rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, trong đó có nêu: “Tăng

cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở

thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng cơ quan, không hữu

khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm” [2]. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mỗi cơ quan đều có quyền năng pháp lý riêng,

tuy nhiên thống nhất trong nhận thức, đánh giá chứng cứ, tạo thuận lợi cho quá trình

giải quyết vụ án, thì việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan là hết sức

cần thiết, phối hợp hiệu quả sẽ tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng thực hành

68

quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, góp phần thực hiện

mục tiêu đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý yêu cầu CQĐT và VKS thực hiện nghiêm

túc là Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về mối quan hệ phối hợp

giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của

BLTTHS. Các cơ quan tố tụng ở địa phương cần quán triệt thực hiện nghiêm túc

Thông tư nói trên. Cần phải nhận thức rằng quan hệ giữa CQĐT và VKS được hình

thành một cách tất yếu, thể hiện bằng các hình thức và cách thức thực hiện chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật thông qua

hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền

pháp lý nhằm giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách khách quan,

công bằng và đúng người, đúng tội.

Trong quá trình thực hành quyền công tố, CQĐT và VKS phối hợp trong từng

hoạt động điều tra và trong suốt quá trình điều tra, trong đó đối với án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản cần đặc biệt quan tâm:

Một là, hồ sơ, tài liệu đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, các lệnh

bắt, tạm giam,... của CQĐT phải đảm bảo có đủ căn cứ xác định người đó đã thực

hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi đến Viện kiểm sát.

Hai là, quá trình điều tra, CQĐT phải thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện

kiểm sát (Điều 162, 167, 236, 238 BLTTHS). Nếu CQĐT không nhất trí với quyết

định của VKS thì CQĐT vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp

trên trực tiếp.

Ba là, ĐTV và KSV chủ động phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trao đổi kết

quả điều tra và dự kiến tình huống phát sinh, giải quyết mâu thuẫn trong quá trình

điều tra, đảm bảo thời hạn, đúng quy định. Mặt khác, KSV chủ động kịp thời đề ra

yêu cầu điều tra, kịp thời phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra,

phối hợp trong hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,... nắm chắc tiến độ

điều tra, thống nhất những vấn đề cần điều tra, xác minh với ĐTV, hạn chế thấp

69

nhất án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phấn đấu không để xảy ra oan, sai, để lọt tội

phạm.

Bốn là, Lãnh đạo CQĐT, VKS cần thường xuyên trao đổi, phân công những

ĐTV, KSV có kinh nghiệm, có trình độ để tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đặc

biệt, trong những vụ án phức tạp, hoặc có quan điểm không thống nhất giữa ĐTV

và KSV khi thực hiện yêu cầu điều tra, thì sự tham gia của lãnh đạo hai ngành là rất

cần thiết. Trường hợp CQĐT, VKS địa phương không thống nhất quan điểm xử lý

phải kịp thời báo cáo VKSND tối cao để được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời, hiệu

quả.

Năm là, tăng cường hiệu quả việc thỉnh thị, trả lời thỉnh thị, tăng cường công

tác hướng dẫn và giải đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm và thực hiện

nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố. VKS

cấp dưới tăng cường tính chủ động, thực hiện nghiêm việc thỉnh thị VKS cấp trên

trong phạm vi thẩm quyền, lĩnh vực công tác được phân công theo Chi thị số

03/CT-VKSTC ngày 28/12/2017 của VKSND tối cao về tăng cường việc thỉnh thị,

trả lời thình thị, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm trong

công tác thực hành quyền công tố.

Cuối cùng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thường xuyên, chủ động

sơ kết đánh giá kết quả công tác phối hợp khi thực hành quyền công tố đối với vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đẩy mạnh các cấp độ phối hợp. Từ đó tiến hành xây

dựng quy chế phối hợp giữa CQĐT – VSK – TA trong công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự nói chung và quy chế phối hợp giữa

CQĐT – VKS khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt

tài sản.

3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ cho cán bộ, Kiểm sát

viên khi thực hiện nhiệm vụ nói chung và khi thực hành quyền công tố nói riêng

Nhiệm vụ thứ tư trong 8 nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp được nêu tại

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị là: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất

bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế

70

độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật

chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng

bước hiện đại hoá các cơ quan tư pháp…Có chính sách tiền lương, phụ cấp và

chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp”... [2]. Như vậy, trong giai đoạn

hiện nay, việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị phục kỹ

thuật nhằm phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố là một yêu cầu tất yếu,

để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hơn nữa, thực tế cho thấy việc đầu tư cho

công tác tư pháp trong những năm vừa qua đa số là đầu tư cơ sở vật chất, chứ đầu tư

về kỹ thuật phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ thì còn nhiều hạn chế. Vì

vậy, công tác xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện

khác cho công tác tư pháp nói chung và cho hoạt động thực hành quyền công tố cần

phải thực hiện theo hướng như sau:

Một là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, có chế độ chính sách hợp lý với cán

bộ, KSV nhằm đảm bảo cho cán bộ, KSV của VKS các cấp có đủ điều kiện để hoàn

thành nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào

hoạt động của VKS trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, phải xây dựng kế hoạch, xác định kinh phí, cơ sở

vật chất, phương tiện cần thiết trong từng giai đoạn phục vụ hoạt động thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKS nói chung và thực hành quyền công

tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

Hai là, xác định loại, số lượng cụ thể về cơ sở vật chất, phương tiện, từ đó tăng

cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của VKS nói

chung và hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng, đặc biệt phương tiện kỹ

thuật số phục vụ số hóa hồ sơ vụ án hình sự của VKS theo kế hoạch trong từng năm

và từng giai đoạn.

Ba là, xây dựng các quy định, quy chế chặt chẽ để quản lý cũng như sử dụng

kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạt động thực

hành quyền công tố của VKS.

71

Tiểu kết chương 3

Trong Chương 3 luận văn trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thực

hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành

phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 2016-2019, chương 3 của luận văn đã nêu

những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, luận văn đã phân tích các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, luận văn đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành

quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Gồm: giải pháp pháp

luật, giải pháp về nâng cao chất lượng kiểm sát viên, giải pháp về tăng cường phối

hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là giữa CQĐT và VKS trong thực

hành quyền công tố và giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật

nghiệp vụ.

Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, quá trình thi hành quyền công tố trong điều tra

vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc nhất định do

nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của chương 3 góp phần

đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.

72

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo

chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, trong phạm vi của

một luận văn thạc sĩ, tác giả đã làm rõ một số vấn đề sau:

1. Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc Viện kiểm sát theo chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội. Hoạt động này được thực hiện từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi

Cơ quan điều tra kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc

hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, khi thực hành quyền công tố

trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKS thực hiện các hoạt động như:

thực hiện quyền công tố trong khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến

hành một số hoạt động điều tra, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, phê chuẩn hoặc không

phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, quyền huỷ bỏ các quyết

định của Cơ quan điều tra theo luật định và quyền yêu cầu truy nã bị can; quyền

quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự...

3. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự tại quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2016-2019 đã đạt được nhiều thành tựu

nhất định, đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, không bỏ lọt

tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt

được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém từ nhiều nguyên nhân khác nhau,

trong đó có hạn chế về quy định của pháp luật hiện hành, năng lực, trách nhiệm của

KSV thực hành quyền công tố và một số nguyên nhân khác.

4. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

73

pháp, yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu tài sản của người dân cũng như yêu cầu đấu

tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp

hoàn thiện BLTTSH và các văn bản hướng dẫn thi hành, nâng cao năng lực của

người tiến hành tố tụng, tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng và tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.

Trong quá trình nghiên cứu, với sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn cùng các

chuyên gia, học viên đã cố gắng để đạt được các kết quả nêu trên. Tuy nhiên, do

thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất

mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, quý thầy cô và bạn đọc

để luận văn được hoàn thiện hơn.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thế Băng (2019) Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc

cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia

Lai, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.

2. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ

chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Công an-Bộ Tư pháp-TANDTC-VKSNDTC (2001) Thông tư liên tịch

ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “các

tội phạm xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999, Hà Nội.

6. Nông Thị Chuyên (2019) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, Luận văn thạc sĩ luật

học, Học viện khoa học xã hội.

7. Đặng Huy Cường (2014) Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ các vụ án tham nhũng trên cơ sở nghiên cứu

thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà

Nội.

8. Lam Thị Dung (2019) Thực hành quyền công tố đối với các tội giết người

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Lê Thị Tuyết Hoa (2002) Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật

học, Viện Nhà nước và Pháp luật.

1

12. Học viện tư pháp (2002) Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

13. Học viện tư pháp (2014) Giáo trình kỹ năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14. Bùi Văn Hưng (2006) Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Lê Thanh Hưng (2015) Chức năng thực hành quyền công tố của Viện

kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

16. Lê Đình Phong (2019) Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các

vụ án ma túy từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ

luật học, Học viện khoa học xã hội.

17. Lê Tuấn Phong (2017) Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực

hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Hải Phong (2014) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.

19. Lê Văn Quang (2017) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các

vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc

sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.

20. Quốc hội (2013) Hiến Pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

21. Quốc hội (2017) Bộ Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội

22. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2

25. Quốc hội (2002) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Quốc hội (2015) Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

28. Phan Thị Sa (2018) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sỹ

Luật học, Học Viện khoa học xã hội.

29. Lê Khắc Sơn (2019) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

đối với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học,

Học viện khoa học xã hội.

30. Nguyễn Tiến Tài (2018), Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài

ản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Luận văn

thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.

31. Xuân Thanh (2019) “Dân số quận 1 giảm”,

tuc/dan-so-quan-1-giam-1491858440>, (04/11/2019).

32. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb tư pháp, Hà Nội.

33. Nguyễn Ngọc Tỉnh (2019) Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã

hội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2019) Công văn 212/TANDTC-PC 2019 ngày

13/9/2019 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong

xét xử, mục 10, Phần I, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số

quy định của BLHS, Hà Nội.

3

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016) Giáo trình Luật Hình sự, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016) Giáo trình Luật tố tụng hình sự,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017) Giáo trình đào tạo nghiệp vụ

kiểm sát, lưu hành nội bộ, Hà Nội

39. Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Quốc phòng (2018)

Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về quan hệ

phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.

41. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo tổng kết

công tác kiểm sát năm 2016, thành phố Hồ Chí Minh.

42. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2017) Báo cáo tổng kết

công tác kiểm sát năm 2017, thành phố Hồ Chí Minh.

43. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo tổng kết

công tác kiểm sát năm 2018, thành phố Hồ Chí Minh.

44. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo tổng kết

công tác kiểm sát năm 2019, thành phố Hồ Chí Minh.

45. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2015) Báo cáo

tổng kết công tác năm 2015, thành phố Hồ Chí Minh.

46. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo

tổng kết công tác năm 2016, thành phố Hồ Chí Minh.

47. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2017) Báo cáo

tổng kết công tác năm 2017, thành phố Hồ Chí Minh.

48. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo

tổng kết công tác năm 2018, thành phố Hồ Chí Minh.

49. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo

tổng kết công tác năm 2019, thành phố Hồ Chí Minh

4

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh trong khởi tố vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài

sản (Từ năm 2016 đến năm 2019)

Năm VKS yêu cầu VKS trực tiếp khởi Hủy quyết định

CQĐT khởi tố không khởi tố vụ tố

án

2016 0 0 0

2017 00 00 0

2018 01 0 01

2019 00 0 0

Tổng 01 00 01

(Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1)

Bảng 2.2: Số liệu khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và khởi tố bị can

(Từ năm 2016 đến năm 2019)

Số vụ

Bị can 2016 2017 2018 2019 Tổng số

Số vụ 35 11 13 10 69

Số bị can 11 05 09 07 33

(Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1)

5

Bảng 2.3: Số vụ án, số bị can VKSND quận 1 hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết

định không khởi tố và khởi tố yêu cầu điều tra (Từ năm 2016 đến năm 2019)

Năm Số vụ Số bị can Số vụ Số vụ Số bị Số vụ Số bị

VKS hủy hủy bỏ VKS hủy VKS can VKS can

bỏ Quyết Quyết bỏ quyết yêu VKS khởi VKS

định định định cầu cơ yêu tố yêu khởi

khởi khởi tố không quan cầu cơ cầu tố yêu

tố khởi tố điều quan điều tra cầu

tra khởi điều điều tra

tố tra khởi

tố

2016 2017 2018 2019 00 00 00 00 00 00 00 00 00 00 01 00 00 00 01 00 00 00 01 00 00 00 00 00 00 00 00 00

Tổng số 00 00 01 01 01 00 00

(Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1)

6

Bảng 2.4: Số liệu áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam

(Từ năm 2016 đến năm 2019)

Tạm giữ Tạm giam

Năm Tổng số Đã giải quyết Tổng số Đã giải quyết

2016 06 08 07 06

2017 03 03 03 03

2018 06 07 06 06

2019 05 05 04 05

Tổng 20 23 20 20

(Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1)

7