VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH VĂN SỰ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN SỰ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
Hà Nội, năm 2020.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ
HUỲNH VĂN SỰ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN…………………………………………………………………………….. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…...................................... 6
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………………………... 19
1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…….……………………. 22
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU
TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH…………………………………………………... 26
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………….... 26
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh………….. 39
Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU
TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN…………… 52
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản …………………………. 52
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………………….. 57
KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………..…….. 77
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
ĐTV: Điều tra viên
KSV: Kiểm sát viên
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND để không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị ngày
02/01/2002 đã nhấn mạnh mốt số nội dung của công tác tư pháp, trong đó có nội
dung: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…” [2]. Yêu cầu trên
đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, luật tổ chức VKSND năm 2014 và
BLTTHS năm 2015. Những năm qua, hoạt động thực hành quyền công tố của
VKSND có những chuyển biến rõ rệt và tích cưc, chất lượng từng bước được nâng
lên. Với vai trò chủ động, tích cực của các Kiểm sát viên của VKSND các cấp trong
quá trình giải quyết VAHS, đã hạn chế được tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội
phạm, qua đó đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước và công dân.
Thực hành quyền công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói riêng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, nhằm bảo vệ công lý, quyền
con người, quyền cơ bản của công dân, là một trong những hoạt động quan trọng
của VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo khảo sát trong những năm
qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, việc thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn có những hạn chế bất
cập nhất định, vẫn còn những trường hợp khởi tố, bắt, giam giữ không đúng pháp
luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó một phần
là do một số KSV chưa nhận thức đúng về nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá
trình giải quyết VAHS. Vì vậy còn có tâm lý chủ quan, chưa chủ động, tích cực
1
tham gia vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHS, chưa nhận thức đúng
đắn về sự quan trọng của mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra
VAHS. Bên cạnh đó, chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND còn bị ảnh
hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có quy định của pháp luật, một số
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay còn chưa được nhận thức thống
nhất, còn có những vướng mắc nhất định nhưng chưa có đủ các văn bản hướng dân
thực hiện, chưa phát huy được vai trò chủ động của kiểm sát viên trong việc chứng
minh tội phạm và người phạm tội. Do đó vẫn còn những yêu cầu khởi tố, điều tra
của VKSND chưa được CQĐT tôn trọng và thực hiện đầy đủ, tình trạng trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các vụ án phải tạm
đình đình chỉ điều tra vì không chứng minh được tội phạm vẫn còn tồn tại.
Đặt trong điều kiện xã hội mới và yêu cầu bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn công lý,
quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố nói chung và trong thi hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài:“Thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bởi tầm quan trọng của mình mà vấn đề thực hành quyền công tố trong giai
đoạn giai đoạn điều tra vụ án hình sự hay trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Kết quả là đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu đã được công bố, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học
năm 2019 của Lê Khắc Sơn: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” [29]; Luận văn thạc sĩ luật học
“Thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”của học viên Lý Tường Vy, Học viện Khoa học xã hội,
2
năm 2017; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước”
của Lê Văn Quang, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017 [19]; Luận văn thạc sĩ luật
học “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”của học viên Nguyễn Tiến Tài, Học viện
Khoa học xã hội, năm 2018 [30]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng” của học viên Nông Thị Huyền, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019 [6];
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của tác giả Lê Thanh Hưng: “Chức năng thực
hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đak Nông” [15].
Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, đến nay còn có nhiều công
trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố là các bài viết của các tác giả đăng trên
các tạp chí khoa học pháp lý, kỷ yếu hội thảo khoa học. Từ khi BLTTHS 2015 có
hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về
thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Trong khi đó, việc thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những
nơi, những lúc còn chưa được thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra
vụ án hình sự nói chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc nghiên cứu thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với địa bàn nói ở đây là Quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh đến nay càng cần thiết và càng có ý nghĩa đặc biệt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công
tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực trạng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và thực tiễn thi hành tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất
3
các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu ra trong khoa học luật hình sự
và khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam; Các quy định pháp luật hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự, thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề
thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đó là đề tài về thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh dưới
góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự.
Về không gian, thời gian: Luận văn được tác giả tập trung nghiên cứu các quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2016 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
4
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sủ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, chính sách pháp luật của
Nhà nước Việt Nam trong tố tụng hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu các báo cáo tổng kết
công tác năm, nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKSND quận 1 và VKSND thành phố
Hồ Chí Minh cũng như quy chế phối hợp giữa VKSND quận 1 và CQĐT Công an
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần nhận thức sâu và thống nhất
những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu có giá trị dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động thực
hành quyền công tố trong vụ án hình sự, là tài liệu học tập, nghiên cứu trong các cơ
sở đào tạo chuyên ngành luật và đào tạo nghiệp vụ của KSV. Những giải pháp của
luận văn góp phần việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật TTHS về thực
hành quyền công tố của VKSND nói chung và trong điều tra VAHS nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn thi hành tại
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
5
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Để xây dựng khái niệm hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trước hết phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Liên quan đến vấn đề này cần phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án hình sự. Cần lưu ý
rằng, trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xoay
quanh khái niệm vụ án hình sự, nhưng xét trên nhiều phương diện, tác giả luận văn
này chia sẻ với quan điểm cho rằng:“Vụ án hình sự là vụ án phát sinh khi phát hiện
có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án
và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người
phạm tội” [30, tr.15].
Vậy thì vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì? Trước hết cần nhấn mạnh rằng,
đó vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, để làm sáng tỏ thế nào
là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của tội phạm dùng thủ
đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho tội phạm
để chiếm đoạt tài sản đó. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
7
phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều
168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ...” [21]. Để
nhận thức đúng đắn và sâu sắc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân tích các dấu
hiệu thuộc bốn yếu tố cấu thành tội này, theo đó:
- Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, đó
chính là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của Nhà
nước cũng như của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này
là các loại tài sản thể hiện dưới hình thức vật chất, đó là vật, tiền. Việc xâm phạm
quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người
khác sau khi lừa lấy được tài sản.
- Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
+ Về hành vi khách quan: Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người
bị hại không biết được có hành vi gian dối. Như vậy, người phạm tội dùng thủ đoạn
gian dối là đặc điểm đặc trưng của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ
đoạn gian dối đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nghĩa là người phạm tội đưa
ra thông tin giả, thông tin không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối
tin rằng thông tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông
tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ
viết, bằng hành động, bằng hình ảnh… hoặc cũng có thể kết hợp bằng nhiều cách
thức khác nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của các loại tội phạm rất tinh vi, tội
phạm thường thực hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang
web, sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người
bị hại và thường người bị hại không biết hoặc biết những thông tin không chính xác
về tội phạm. Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian
dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực
8
tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi gian
dối bao giờ cũng phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi gian dối
diễn ra sau khi người phạm tội nhận được sản, tức là ý thức chiếm đoạt tài sản diễn
ra sau khi có tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần lưu ý đặc trưng này để phân biệt với một
số tội phạm như lừa dối khách hàng hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để
có thể lừa dối chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, trên thực tế người phạm tội sử
dụng rất nhiều các cách khác nhau như: bằng lời nói dối, bằng việc giả mạo giấy tờ,
giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, tổ chức từ thiện để chuyển tiền, vàng hay thông qua việc ký kết hợp đồng…
Thực tế để xác định hành vi gian dối có xảy ra hay không, thường căn cứ vào các
chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả (như hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận sở hữu nhà,
đất, giấy vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo dựng niềm tin đối với chủ tài sản,
làm cho chủ tài sản tự nguyện giao tài sản để xác định.
Cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng và lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều có thủ đoạn gian dối, tuy nhiên thủ đoạn gian
dối ở hai tội là khác nhau, đặc biệt là thời điểm thực hiện thủ đoạn này. Đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phải dùng thủ đoạn gian dối
trước làm cho người có tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi để chiếm
đoạt tài sản bằng thủ đoạn có tính chất gian dối nhưng thủ đoạn này được thực hiện
sau khi đã được chủ tài sản giao tài sản một cách hợp pháp thông qua các hình thức
như vay, mượn, thuê, hợp đồng hợp pháp...
+ Về hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu hành vi
gian dối bị phát hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người bị lừa dối
không phát hiện ra hành vi gian dối nhưng không thực hiện việc giao tài sản thì
không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này
được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ
9
đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị
mắc lừa giao tài sản cho mình hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận Hậu quả
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là giá trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt.
Thiệt hại về tài sản bị chiếm đoạt được quy định cụ thể tại Điều 174 BLHS năm
2015. Theo đó, khoản 1 Điều luật quy định “chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên”
mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải
kèm theo điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,
171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.
+ Về mối quan hệ nhân quả: Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác,
hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt
hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác
định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế
nào. Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản
cho mình, còn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị hại tự
động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để xác định tội
phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối nhằm ăn
gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì sẽ cấu
thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả.
- Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không
phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
10
tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà
chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
- Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong
muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại. Như đã phân tích ở
trên, ý định chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn nảy sinh trước
khi chiếm đoạt được tài sản. Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội
luôn có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt
tài sản.
Từ những điều phân tích trên đây có thể hiểu “Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng
các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vậy thì thế nào là thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự? Để
có thể xây dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, cần phải làm sáng tỏ thế nào quyền công tố và thế nào là thực
hành quyền công tố?
Nói đến quyền công tố là nói đến việc VKSND nhân danh quyền lực công của
Nhà nước để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người
phạm tội, còn thực hành quyền công tố là VKSND sử dụng những quyền hạn được
Nhà nước giao để thực hiện những hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cần thiết cho
việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội. Như vậy có
thể nói thực hành quyền công tố chính là việc tổ chức thực hiện quyền công tố.
11
Về mặt lập pháp, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại
Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960, theo đó “Viện kiểm sát nhân dân tối cao
tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có quyền khởi tố về hình sự và
giữ quyền công tố trước Tòa án nhân dân cùng cấp”. Thuật ngữ “quyền công tố”
tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp luật được ban hành sau đó. Tuy
nhiên, theo các quy định pháp luật sau đó thì phạm vi quyền công tố được mở rộng
hơn, không chỉ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà trong cả quá trình tố tụng
vụ án hình sự.
Về mặt khoa học, thuật ngữ và khái niệm “quyền công tố” thường được các
nhà luật học sử dụng khi luận về chức năng của VKSND trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, cho đến nay trong giới luật học vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận thức
nội hàm của khái niệm quyền công tố. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, quyền
công tố là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để
truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội.
Và quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đây chính là
hoạt động tiến hành tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên và những người được
pháp luật quy định có trách nhiệm xác định người phạm tội cũng như những căn cứ
để kết tội và áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội [32, tr.26]. Theo tác
giả luận văn này thì quan điểm nêu trên là quá rộng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa
chức năng cơ bản trong TTHS, đã đồng nhất khái niệm quyền công tố và nguyên tắc
TTHS. Hơn nữa, theo quan điểm này thì không chỉ CQĐT, VKSND mà còn cả các
chủ thể khác cũng thực hành quyền công tố. Cũng có quan điểm khác cho rằng,
quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKSND), cơ
quan này có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó VKSND quyết định việc truy tố bị
can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng cụ thể và thực hiện việc buộc tội
tại phiên tòa. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS với đối tượng tội
phạm và người phạm tội [32, tr.40]. Theo tác giả luận văn thì quan điểm vừa nêu đã
12
thể hiện rõ ràng và chính xác hơn với quan niệm chung về quyền công tố, được thể
hiện rõ ràng hơn trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015.
Thuật ngữ thực hành quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 138
Hiến pháp 1980 và được cụ thể hóa tại các điều 1 và 3 Luật Tổ chức VKSND năm
1981. Tiếp sau đó, thuật ngữ này được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều
107 Hiến pháp 2013 cũng như được cụ thể hóa trong BLTTHS và Luật tổ chức
Viện kiểm sát. Hiện nay, thực hành quyền công tố trở thành chức năng quan trọng
của VKS, quy định cụ thể tại điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “VKSND là cơ
quan thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bên cạnh đó, chức năng thực hành quyền công tố còn
được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể như sau: “Thực
hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ giai đoạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [26].
Cụm từ “thực hành” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [36]. Như vậy,
các quyền năng của VKSND khi thực hành quyền công tố phải được VKSND thực
hiện trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Thực hành quyền
công tố cũng được các nhà luật học nhận thức theo nhiều cách khác nhau. Chẳng
hạn, có quan điểm cho rằng “Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố
tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm
hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó” [33, tr.20]. Theo một quan điểm khác thì “Thực hành quyền công tố là
việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa
người (hoặc pháp nhân thương mại) có hành vi phạm tội ra truy tố và buộc tội
trước Tòa án” [33, tr.12].
Phạm vi thực hành quyển công tố, như đã nhấn mạnh ngày càng mở rộng và có
thể nói là cả quá trình từ giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi xét xử tội
13
phạm. Bởi vậy, có thể hiểu “Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc
VKSND thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình tố tụng hình sự có
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm việc truy tố và buộc tội của mình đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Cuối cùng, để có thể dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn cần phải làm sáng tỏ thế nào điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, như đã nhấn mạnh là vụ
án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, VKSND, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện
pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, điều tra là hoạt động tố tụng hình sự giữ vai trò hết
sức quan trọng, bởi điều tra là các hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ để chứng
minh tội phạm và người phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại mà tội
phạm đã gây ra. Kết quả điều tra là cơ sở cho việc truy tố và xét xử tội phạm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Do vậy, có thể hiểu “Điều tra trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những hoạt
động tố tụng do các cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra và các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) tiến hành bằng các biện pháp
mà pháp luật tố tụng hình sự quy định phát hiện nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ
làm rõ sự thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chứng minh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và người phạm tội này, bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”.
Như vậy, điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động pháp luật, hoạt
động áp dụng pháp luật được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật vào chứng minh, làm sáng tỏ vụ án bằng các biện pháp cũng do pháp
luật quy định như khám nghiệm hiện trường; khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
14
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;đối chất, nhận dạng, khám xét...
Trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền có quyền ra các quyết định tố
tụng nhất định
Là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong suốt quá trình tố tụng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong
điều tra vụ án, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố gắn với các hoạt động điều
tra, vì vậy bắt đầu từ khởi tố bị can và hỏi cung bị can cho đến khi kết thúc điều tra
hoặc đình chỉ điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Từ tất cả những điều phân tích trên đây có thể xây dựng khái niệm thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước và có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
theo quy định của pháp luật thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
Xét về đặc điểm, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án hình sự về bất kỳ một tội phạm cụ thể nào đó, song cũng có những đặc điểm
riêng của mình gắn với đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Một trong những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với việc phát hiện cũng như việc xác định thẩm
quyền điều tra cũng như thực hành quyền công tố. Hầu hết các vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài được phát hiện là do bị hại đến cơ quan có thẩm quyền trình báo; có những
vụ án xảy ra đã rất lâu nên khó khăn cho việc xác định tài liệu chứng cứ, hơn nữa
một số vụ án lừa đảo qua mạng zalo, facebook giả, chỉ khi không liên lạc được với
chủ các tài khoản đó, tài sản bị chiếm đoạt thì người bị hại mới đến cơ quan có thẩm
15
quyền trình báo. Một số vụ án có số lượng bị hại nhiều, xảy ra ở nhiều nơi nên khó
khăn cho việc xác định thẩm quyền, người thực hiện hành vi đã bỏ trốn nên việc xác
định bị hại, thời gian, địa điểm trong quá trình điều tra và thực hành quyền công tố
gặp nhiều khó khăn.
Một đặc điểm riêng khác của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản gắn với định giá tài sản bị chiếm đoạt hay giám định chữ
viết, chữ ký. Nhiều vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải có định giá tài sản,
xác định tài sản bị chiếm đoạt, hoặc cần giám định chữ viết, chữ ký. Việc giám
định, định giá tài sản có ý nghĩa lớn đối với việc xác định có phạm tội hay không,
thuộc điều khoản nào để áp dụng các biện pháp cưỡng chế phù hợp, qua đó thu hồi
tài sản bị chiếm đoạt hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nhiều trường
hợp người thực hiện hành vi chiếm đoạt đã bỏ trốn, khó giám định chữ viết, chữ ký
của họ, hoặc tài sản bị chiếm đoạt đã không còn, không có giấy tờ chứng minh
nguồn gốc, giá trị của tài sản đó, thì việc định giá rất khó thực hiện. KSV thực hành
quyền công tố cần xác định tính quan trọng của việc giám định, định giá tài sản,
phối hợp cùng ĐTV thực hiện việc định giá, giám định nhanh chóng, đúng pháp
luật.
Thêm một đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản gắn với xác định tính chất các giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ
chức. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường liên quan đến hành vi làm giả giấy
tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức. Do đó, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra, KSV được phân công cần (và phải) chú ý xem xét hành vi làm giả giấy tờ
tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản có xâm phạm vào 02
khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều
341 của BLHS) hay không, nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì
phải truy cứu TNHS cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội làm giả
con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ
quan, tổ chức (Điều 341).
16
Những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố đối với các vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản:
Thứ nhất, là hoạt động có mục đích rõ ràng là nhằm truy cứu TNHS đối với
người đã thực hiện hành phạm tội, bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thứ hai, là hoạt động có tính quyền lực Nhà nước, tính bắt buộc thực hiện,
tính được bảo đảm bằng Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi VKSND và
chỉ VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong khi
thực hành quyền công tố, VKSND được sử dụng các quyền hạn theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự như để đảm bảo tính có căn cứ khi truy cứu TNHS đối với
người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp cần thiết, VKSND có
thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Các quyết định mà Viện kiểm sát
ban hành trong quá trình thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…có hiệu lực bắt
buộc đối với cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra và các cá nhân khác có liên quan.
Thứ ba, là hoạt động tính trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định.
VKSND thực hành quyền công tố trong các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
theo trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật TTHS. Các quyết định mà Viện
kiểm sát ban hành như quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can;
quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định phê
chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…cũng đều phải tuân thủ các trình tự, thủ tục mà pháp
luật tố tụng hình sự đã quy định.
Thứ tư, là hoạt động mang tính sáng tạo. Cũng như các hoạt động tố tụng hình
sự khác, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
hoạt động thi hành pháp luật (tố tụng) vì vậy đều mang tính phức tạp, đòi hỏi chủ
17
thể tiến hành không những phải có kiến thức phong phú, trình độ chuyên môn, nhất
là tư duy, trí tuệ, khả năng, năng lực, tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm công tác lâu
năm mà còn phải có phẩm chất, đạo đức, bổn phận trách nhiệm cao. Do vậy, người
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có
kiến thức tổng hợp, uyên thâm, hiểu biết rộng, có ý thức nghề nghiệp và ý thức
pháp luật cao.
1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
VKSND thực hành quyền quyền công tố chính là thực hiện chức năng buộc tội
được nhà nước giao, qua đó thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội. Đây là
chức năng cơ bản của VKSND mà không cơ quan nào có. Trong quá trình thực
hành quyền công tố, VKSND sẽ tiến hành nhiều biện pháp theo quy định của
BLTTHS để góp phần làm rõ vụ án, qua đó bảo vệ các quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một
bộ phận trong thực hành quyền công tố nói chung, có ý nghĩa hết sức quan trọng,
định hướng cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những hành vi phù hợp với
quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, một khi VKSND thực hiện đúng, đủ chức năng của mình khi
giải quyết vụ án hình sự, góp phần đảm bảo mọi hành phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo không có người nào bị bắt,
giam, giữ trái pháp luật, hạn chế các vi phạm pháp luật của những người tiến hành
tố tụng khi điều tra vụ án hình sự, xác định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị
can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, thông qua quá trình thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phát hiện những phương thức, thủ đoạn mới của tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó có biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật cho mọi người dân, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
18
các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa trên địa bàn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
cũng như trên cả nước.
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Bởi thực hành quyền cống tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
như đã nhấn mạnh có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thực hiện những
hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu (buộc tội)
ngươi phạm tội. Vì vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội này chính
là đối tượng thực hành quyền công tố chính trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực hành quyền
công tố hướng vào làm sáng tỏ một cách có căn cứ những vấn đề cần chứng minh
trong vụ án như: Có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra hay không;
thời gian, địa điểm; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, có thủ đoạn gian dối
hay không, họ có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay không; có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không, động cơ phạm tội là
gì; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của bị can và đặc điêm về nhân thân
của bị can; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, cụ thể phải
làm rõ thiệt hại về tài sản là bao nhiêu, thiệt hại có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay
không, tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản nào...; Nguyên nhân và điều kiện phạm
tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình
phạt và những tình tiết khác của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như
vậy, khi chứng minh vụ án hình sự nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nói riêng, Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào
những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, được quy định tại Điều 85
BLTTHS năm 2015.
Như vậy, đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là các yếu tố mà cơ quan tiến hành tố tụng tác động tới, chính là
19
tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, nhằm mục đích quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản, chiếm đoạt tài sản của người
khác, bảo vệ quyền sở hữu tài sản và cá quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao
giờ cũng gắn chặt với việc tiến hành các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra có
thẩm quyền bắt đầu từ khi khởi tố bị can cho đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ
điều tra (vụ án). Về điều này, tác giả luận văn này chia sẻ với quan điểm cho rằng
“Khi nào và ở đâu, cơ quan điều tra tiến hành nghiệp vụ điều tra như: khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khái người làm chứng, hỏi cung
bị can... thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Trong
trường hợp không có tội phạm thì quyền công tố bị triệt tiêu, theo đó cũng chấm dứt
mọi hoạt động tố tụng, trong đó có thực hành quyền công tố [18, tr.13].
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
đã nhấn mạnh, gắn với các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Điều đó có
nghĩa là Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong khám nghiệm hiện trường,
trong khởi tố bị can và hỏi cung bị can, trong các hoạt động khám xét, thu giữ, tạm
giữ đồ vật tài liệu và kê biên tài sản, trong tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, cụ thể là trong các hoạt động điều tra nói trên thông qua những nhiệm vụ,
quyền hạn cụ đối với các hoạt động đó thể quy định tại các Điều 14, 15 Luật Tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, các Điều 41, 113,119, 121, 122, 161, 165,
173, 179, 180, 449... BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và
người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều được điều tra nhanh chóng, đúng
đắn, chính xác, không để một người nào bị khởi tố, bị bắt, giam, giữ trái pháp luật,
20
xâm phạm quyền con người, quyền công dân trái pháp luật trong quá trình điều tra.
Chẳng hạn, đối với trường hợp khởi tố bị can thì VKSND có trách nhiệm phê chuẩn
quyết định khởi tố đó. Viện kiểm sát phải ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung nếu sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra
của CQĐT chuyển sang mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ
luật hình sự quy định là tội phạm trong vụ án chưa bị CQĐT khởi tố. Như vậy, khi
thực hành quyền công tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, VKSND có thể tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can. Hay như khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKSND có thẩm quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu
cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Việc này được thực hiện ngay sau khi có
quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời, trong từng giai đoạn của quá trình điều tra, căn
cứ vào tình hình điều tra vụ án, KSV được phân công thực hành quyền công tố phải
xem xét vụ án một cách toàn diện, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra nhằm đảm bảo quá
trình điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi có căn cứ và xét thấy cần
thiết, theo quy định của Bộ luật TTHS, KSV được phân công giải quyết vụ án có
thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai...
nhằm thu thập, đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện. Hoặc
như khi thực hành quyền công tố, nếu thấy có các căn cứ quy định tại Điều 49 và
Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì KSV được phân công giải quyết vụ
án phải trao đổi ngay với ĐTV để ĐTV từ chối tiến hành tố tụng. Trường hợp
không thống nhất thì KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo VKSND để yêu cầu lãnh
đạo CQĐT thay đổi ĐTV. Nếu ĐTV có hành vi phạm tội thì yêu cầu CQĐT có
thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự.
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng khác của VKSND khi thực
hành quyền công tố là VKSND phải xem xét, quyết định phê chuẩn các biện pháp
ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế như phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, phê
chuẩn lệnh tạm giam...Khi VKSND từ chối không phê chuẩn thì phải nêu rõ căn cứ.
21
Đồng thời, VKSND cũng có quyền quyết định, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn và biện pháp cưỡng chế nêu trên theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình
sự.
Sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải có một trong các quyết định
như: chuyển hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra sang VKSND đề nghị truy tố hoặc
kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. VKSND nhận hồ sơ vụ án cũng
như các quyết định liên quan khi kết thúc điều tra và xem xét quyết định có truy tố
bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng hay không, đây là nhiệm vụ, quyền hạn
duy nhất chỉ VKSND mới có mà không cơ quan nào thay thế được. Qua nghiên cứu
hồ sơ vụ án, xem xét, đánh gía toàn diện chứng cứ, nếu xét thấy có đủ căn cứ để
truy tố bị can thì Viện kiểm sát ra bản cáo trạng thực hiện việc truy tố bị can ra
trước Toà án. Bên cạnh đó, VKSND tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu xét
thấy có những căn cứ quy định tại Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự, CQĐT phải có
nghĩa vụ thực hiện quyết định của VKSND.
1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Chất lượng của các quy định pháp luật
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng thực hành quyền công tố nói chung
và thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
là hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Để đảm bảo nguyên tắc
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự là nền tảng pháp lý quan trọng khi thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc xác định tội danh, thu thập,
đánh giá, sử dụng chứng cứ khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của BLHS, BLTTHS
cũng như hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS.
1.3.2. Tình hình, đặc điểm riêng của địa phương
Mỗi địa phương có đặc điểm kinh tế-xã hội và tình hình tội phạm nói chung
cũng như tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng khác nhau. Ở mỗi địa
22
phương khác nhau thì tình hình tội phạm phức tạp khác nhau, số lượng tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt xảy ra khác nhau và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa
phương cũng khác nhau. Do đó, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào tình hình
tội phạm và yêu cầu phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.3. Chất lượng của chủ thể có thẩm quyền thực hành quyền công tố
Hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, đó là Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố
tụng. Năng lực của người tiến hành tố tụng và tổ chức của các cơ quan Tổ tiến hành
tố tụng là yếu tố có tác động trực tiếp đến chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là
VKS được tổ chức hợp lý, được sự quan tâm của các cơ quan cấp trên thì chất
lượng thực hành quyền công tố sẽ đạt hiệu quả cao, ngược lại nếu tổ chức không
hợp lý, thiếu sự quan tâm thì chất lượng thực hành quyền công tố sẽ giảm. Bên cạnh
đó, những người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV có trình độ, có năng lực và tinh
thần trách nhiệm cao, được phân công, bố trí nhiệm vụ phù hợp sẽ am hiểu và vận
dụng tốt các quy định của pháp luật vào điều tra và thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chất lượng thực hành quyền công tố nhờ
đó được nâng cao. Tuy nhiên, nếu số lượng chủ thể có thẩm quyền tố tụng thiếu,
năng lực, trình độ hạn chế, bị tác động, bị ảnh hưởng bởi các lợi ích khác nhau sẽ
khó có thể đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố. Như vậy, có thể thấy tổ
chức của các cơ quan tiến hành tố tụng và năng lực của người tiến hành tố tụng là
một trong những yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
1.3.4. Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thực hành quyền
công tố
Mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND, giữa VKSND cấp trên với VKSND cấp
dưới và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác là một yêu cầu để nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố. Chức năng thực hành quyền công tố được trao cho
23
VKSND, chỉ VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng này. Tuy nhiên, để
thực hiện tốt chức năng này, VKSND cần có sự phối hợp chặt chẽ với CQĐT, với
các cơ quan, tổ chức khác, vừa đảm bảo được yêu cầu nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố, vừa tranh thủ được sự ủng hộ của các ban ngành địa phương.
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, điều cần thiết là tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cơ sở có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ. ĐTV, KSV của CQĐT và VKSND cần có sự kết hợp, trao đổi ý
kiến để đưa ra kết luận chính xác, tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới,
từ đó mới có cơ sở để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
1.3.5. Ý thức đấu tranh, phòng chống tội phạm của người dân
Quần chúng nhân dân luôn là nền tảng, chỗ dựa vững chắc giúp đỡ lực lượng
chức năng triển khai, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm tình hình an ninh trật tự, đồng
thời là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm, trong đó có tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm bắt nguồn
nhiều từ các giao dịch dân sự, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nổi lên tình trạng
lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng và lừa đảo công nghệ cao. Do đó, vai trò của
người dân là rất quan trọng. Một khi người dân thực hiện tốt trách nhiệm của một
công dân trước pháp luật, tỷ lệ tội phạm sẽ giảm đáng kể, khi tội phạm xảy ra thì
người dân cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin dùng làm căn cứ để áp
dụng các biện pháp cần thiết, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
24
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đã nghiên cứu, phân tích và đưa ra khái niệm quyền
công tố. Quyền Công tố là quyền được Nhà nước giao cho VKSND thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Bên cạnh đó, luận văn cũng nêu khái quát về giai đoạn điều tra vụ án và thực
hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo đó, thực
hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc VKSND
sử dụng tất cả các nhiệm vụ, quyền hạn do Nhà nước giao để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra
VAHS lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện từ khi Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khởi tố VAHS và kết thúc khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị truy
tố hoặc khi VAHS được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có những đặc điểm đặc trưng khác với thực hành quyền công tố trong các vụ án
khác, đồng thời khác với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nhằm đảo bảo mọi hành vi phạm tội và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản phải được phát hiện, khởi tố, điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
25
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN TẠI ĐỊA BÀN
QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý, tính công khai, minh bạch, bắt buộc thực hiện,
hiệu lực và hiệu quả của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự nói
chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại Điều 165 Bộ luật TTHS năm
2015, nhà làm luật nước ta quy định các nội dung sau:
- Quy định về yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can
Theo quy định thì khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKSND có trách nhiệm phải đảm bảo mọi tội
phạm và người phạm tội phải được phát hiện và đều phải được khởi tố. Theo quy
định tại điểm a, khoản 2 Điều 41 Bộ luật TTHS năm 2015, Viện trưởng VKSND
hoặc Phó Viện trưởng VKSND được phân công thực hành quyền công tố có quyền
yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp xét thấy tội phạm đã được
phát hiện mà CQĐT chưa khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT thay đổi quyết định khởi tố
vụ án hình sự nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội đã xảy
ra. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định VKSND có quyền ra quyết định yêu
cầu CQĐT ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Quy định về phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật
Theo quy định của BLTTHS, sau khi kết thúc việc giải quyết tố giác, tin áo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, CQĐT phải ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố hoặc quyết định tạm đình chỉ,
26
đình chỉ việc giải quyết. Trường hợp ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
phải được gửi cho VKS trong thời hạn 24h để kiểm sát việc khởi tố.
Trường hợp VKS nhận được quyết định không khởi tố vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định này, VKS phải
nghiên cứu nội dung quyết định không khởi tố, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ
án do CQĐT chuyển sang. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, VKS đối chiếu với các
quy định tại điều 157 BLTTHS về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự để xem xét
quyết định không khởi tố của CQĐT có căn cứ hay không. Trường hợp xác định có
căn cứ thì VKS thông báo cho CQĐT biết, còn trường hợp không có căn cứ mà sau
khi yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định không khởi tố, CQĐT không thực hiện thì
VKS căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 161 BLTTHS ra quyết định hủy bỏ quyết định
không khởi tố vụ án đồng thời ra quyết định khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và gửi cho CQĐT tiến hành điều tra theo thẩm quyền.
Sau khi CQĐT ra quyết định khởi tố bị can thì ĐTV có quyền tiến hành ngay
các hoạt động điều tra cần thiết đối với bị can để làm rõ hành vi phạm tội mà không
cần chờ quyết định phê chuẩn của VKS mới hỏi cung bị can. Tuy nhiên, nếu VKS
không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thì hiệu lực của quyết định khởi tố bị
can của CQĐT không còn. Trong thời hạn 24 giờ sau khi ra quyết định khởi tố bị
can, theo quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTHS, CQĐT phải gửi quyết định khởi
tố bị can và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để
xét phê chuẩn. Kể từ ngày nhận được quyết định KTBC của CQĐT chuyển sang,
trong thời hạn 03 ngày, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ
quyết định KTBC, nếu thấy chứng cứ còn thiếu, nhưng không thuộc trường hợp hủy
bỏ quyết định KTBC thì VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để
quyết định việc phê chuẩn. Yêu cầu này phải được gửi ngay cho cơ quan điều tra.
Sau khi nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, nếu thấy có đủ căn cứ VKS ra quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu thấy quyết định khởi tố bị can không có căn
cứ, VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
27
Bên cạnh đó, khi CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, VKS
căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được để quyết định phê chuẩn quyết định
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc huỷ bỏ quyết định thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố bị can. Căn cứ Điều 180 BLTTHS, khi tiến hành điều tra,
nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội mà trước đó CQĐT
đã khởi tố thì cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can.
Trường hợp nếu có căn cứ xác định bên cạnh tội phạm mà bị can đa bị khởi tố, còn
có căn cứ xác định bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội
phạm thì cơ quan điều tra phải bổ sung quyết định khởi tố bị can. Quyết định thay
đổi quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can phải
được gửi đến VKS cùng cấp trong thời hạn 24 giờ để xét phê chuẩn.
Sau khi nhận được quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can và quyết định
bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT chuyển sang, VKS phải xem xét quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can, trong thời hạn 3 ngay VKS phải quyết định. Trường hợp cần thiết,
VKS có quyền yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê
chuẩn. Yêu cầu này được gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Sau khi nhận được yêu
cầu của VKS, CQĐT phải tiến hành bổ sung chứng cứ, tài liệu. Trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS ra quyết định phê
chuẩn quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc hủy bỏ quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Như vậy, VKS phải xem xét
các quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT, nếu thấy
các quyết định đó là có căn cứ và hợp pháp, VKS ra quyết định phê chuẩn. Nếu thấy
các quyết định đó là không có căn cứ hoặc trái pháp luật, thì VKS ra quyết định hủy
bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Các
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn của VKS phải được gửi cho CQĐT
trong thời hạn 24 giờ để tiến hành điều tra.
Như vậy, theo các quy định trên, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định tương
đối chặt chẽ, tạo điều kiện để VKS phát huy tính chủ động của mình, qua đó hạn
28
chế đến mức tối đa tình trạng khởi tố bị can thiếu căn cứ, không đúng pháp luật, hạn
chế oan sai, ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân những cũng đồng thời
tránh việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tạo cơ chế pháp lý chặt chẽ xây dựng
và tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc khởi tố bị can,
truy cứu TNHS người phạm tội.
- Quy định về khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định
Trong khi thực hành quyền công tố, VKS được giao nhiều nhiệm vụ, quyền
hạn, trong đó có quyền khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật hiện hành quy định quyền
khởi tố vụ án của Viện kiểm sát tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật TTHS. Tuy nhiên,
khác với CQĐT, VKS chỉ có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong các
trường hợp sau:
+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi VKS hủy bỏ quyết định không khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra;
+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
Như vậy, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, VKS khởi tố trong các trường hợp chủ yếu nêu trên.
Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội
đã xảy ra mà có dấu hiệu của tội phạm khác thì VKS có quyền ra quyết định thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trường hợp thấy còn có tội phạm khác chưa
được khởi tố thì VKS bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Kể từ khi ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, trong thời hạn 24 giờ
VKS phải gửi quyết định đó cho CQĐT để tiến hành điều tra.
Đồng thời với thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, VKS còn được trao quyền
khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can trong khi
29
thực hành quyền công tố. Theo khoản 4 Điều 179 BLTTHS, VKS chỉ được khởi tố
bị can các trường hợp: một là, khi có căn cứ chứng minh có người đã thực hiện
hành vi mà BLHS quy định là tội phạm chưa bị CQĐT khởi tố thì Viện kiểm sát
yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can, nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không
thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can; hai là, sau khi VKS nhận
hồ sơ và kết luận điều tra của CQĐT chuyển sang, nếu có căn cứ xác định có người
khác đã thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của BLHS mà CQĐT chưa khởi
tố bị can thì VKS ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ
sung. Quyết định này phải được gửi cho CQĐT trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định khởi tố bị can để tiến hành điều tra.
- Quy định về phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám
xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng
khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra theo Bộ luật TTHS;
hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ, trái pháp luật của Cơ quan điều tra.
Thứ nhất, thực hành quyền công tố trong việc phê chuẩn, không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và bắt bị can để tạm giam phải được
VKS phê chuẩn. Bên cạnh đó, khi gia hạn tạm giữ, áp dụng biện pháp tạm giam đối
với bị can hoặc áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm phải được VKS
xem xét, phê chuẩn trước khi thi hành.
Đối với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của CQĐT: Lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho VKS cùng cấp kèm theo
tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. Khi nhận được hồ sơ kèm
theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của CQĐT đề nghị VKS phê
chuẩn, VKS phải kiểm tra tính hợp pháp và cần thiết của việc áp dụng biện pháp
30
ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp rồi từ đó quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn [23].
Trường hợp CQĐT ra lệnh bắt bị can để tạm giam, thì CQĐT phải chuyển
ngay lệnh bắt này cùng với các tài liệu liên quan đến việc ban hành biện pháp ngăn
chặn này đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Khi nhận được đề nghị phê chuẩn
lệnh bắt bị can để tạm giam của CQĐT, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ, cần thiết
và đúng pháp luật của lệnh bắt từ đó ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn. Trường hợp lệnh bắt bị can để tạm giam chưa rõ căn cứ, thì VKS yêu
cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ ra lệnh bắt bị can để tạm giam
để xem xét quyết định việc phê chuẩn. CQĐT chỉ được thi hành lệnh bắt bị can để
tạm giam khi có quyết định phê chuẩn của VKS. Nếu chưa có quyết định phê chuẩn
mà CQĐT bắt bị can để tạm giam là vi phạm pháp luật.
Đối với quyết định tạm giữ và quyết định gia hạn tạm giữ: CQĐT được áp
dụng biện pháp tạm giữ mà không cần có sự phê chuẩn của VKS. Tuy nhiên, mọi
trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Theo đó, khi CQĐT ra quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định này phải được
gửi đến VKS cùng cấp để xem xét phê chuẩn. Khi Viện kiểm sát nhận được đề nghị
phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của CQĐT, Viện kiểm sát phải kiểm tra tính
hợp pháp và cần thiết của quyết định gia hạn tạm giữ để từ đó có quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS phê chuẩn quyết định gia hạn
tạm giữ thì CQĐT tiếp tục thi hành, nếu VKS không phê chuẩn quyết định gia hạn
tạm giữ thì CQĐT phải trả tự do cho người đang bị tạm giữ. Trường hợp VKS hủy
bỏ quyết định tạm giữ khi xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết, thì CQĐT phải trả lại tự do ngay cho người bị tạm giữ [23].
Đối với trường hợp CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với
những người đã bị tạm giữ, thì lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên
quan đến việc tạm giam phải được gửi đến VKS cùng cấp để xem xét phê chuẩn
trước khi thi hành. Trường hợp VKS xét thấy không có căn cứ hoặc không cần thiết
tạm giam thì VKS không phê chuẩn lệnh tạm giam. Nếu VKS không phê chuẩn thì
31
CQĐT phải trả tự do ngay và áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can tùy
thuộc vào điều kiện của biện pháp ngăn chặn định áp dụng.
Đối với một số biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
sau khi ra quyết định CQĐT phải gửi quyết định cùng các tài liệu kèm theo sang
VKS cùng cấp để xét phê chuẩn trước khi thi hành. Nếu thấy việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn nêu trên là có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê chuẩn
và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra để thực hiện theo quy định [23].
Ngoài ra, Viện kiểm sát còn có thẩm quyền hủy bỏ việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với những biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra áp dụng. Theo
quy định của Bộ luật TTHS, trong giai đoạn điều tra, đối với những biện pháp ngăn
chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc áp dụng thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát xem xét quyết định. Khi CQĐT
chuyển hồ sơ đề nghị hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn thì VKS nghiên cứu tài
liệu, chứng cứ dùng làm căn cứ để CQĐT đề nghị hủy bỏ, thay thế. Nếu đủ căn cứ
thì VKS ra quyết định hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn và hoàn trả hồ sơ cho
CQĐT thi hành, nếu không đủ căn cứ thì yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục thi hành.
Thứ hai, thực hành quyền công tố khi CQĐT áp dụng các hoạt động điều tra
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
VKS thực hành quyền công tố thông qua hoạt động khám xét của CQĐT. Đối
với trường hợp Thủ trưởng, phó Thủ trưởng CQĐT ra lệnh khám xét, lệnh khám xét
của những người này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi
thi hành. Như vậy, VKS khi thực hành quyền công tố, sau khi kiểm tra nếu xét thấy
lệnh khám xét của CQĐT lầ có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê
chuẩn và chuyển cho CQĐT để thi hành.
Trong quá trình điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu xét thấy cần
thiết và có căn cứ, CQĐT có thể ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông. Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông này phải được Viện kiểm
32
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trường hợp không thể trì hoãn việc thu
giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông
thì Cơ quan điều tra có thể tiến hành thu giữ nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Sau khi thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải thông báo ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc thu giữ để xét
phê chuẩn. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài
liệu liên quan đến việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, Viện kiểm sát
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi xét thấy cần thiết
và có căn cứ áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi
hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; Thu thập bí mật dữ liệu điện tử thì người có
thẩm quyền trong CQĐT có thể quyết định áp dụng. Biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt cho phép Cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh tội
phạm, xác định nhanh chóng, chính xác, toàn diện vụ án, chứng minh tội phạm và
người phạm tội, truy nguyên tài sản bị tội phạm chiếm đoạt. Tuy nhiên, chỉ áp dụng
biện pháp này khi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp có tổ chức
và đặc biệt nghiêm trọng. VKS phải xem xét đẩy đủ căn cứ để phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trước khi
trước khi CQĐT thi hành.
- Quy định về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
Trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, VKS có thể tự mình áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Các biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng như: lệnh
bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đăt
tiền để bảo đảm hoặc các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, tạm hoãn xuất
cảnh. Khi VKS áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế nêu trên
phải đảm bảo đầy đủ các căn cứ theo Điều 113, Điều 119, Điều 121, Điều 122 và
Điều 123 BLTTHS năm 2015.
33
Khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác thì Viện kiểm sát hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi
biện pháp ngăn chặn mà cơ quan có thẩm quyền đang áp dụng đều phải được hủy
bỏ. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong giai đoạn điều tra, chỉ VKS
mới có quyền hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác đối với những
biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn [23].
- Quy định về thực hiện quyền công tố trong đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu Cơ
quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra
Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong quá trình điều tra, VKS
phải đề ra các yêu cầu điều tra. Đây là một nội dung quan trọng của hoạt động thực
hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự. Để thực hiện tốt nội dung này, yêu
cầu Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong hoạt động
điều tra vụ án hình sự, phải bám sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, kịp
thời phát hiện những chứng cứ hoặc nội dung liên quan đến vụ án hình sự chưa
được thu thập hoặc điều tra làm rõ để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, đảm bảo các
yêu cầu điều tra đó phải được thực hiện, thống nhất giữa ĐTV và KSV, hạn chế
việc phải điều tra bổ sung. Việc phối hợp thực hiện tốt yêu cầu điều tra giữa CQĐT
và VKS giúp cho hoạt động điều tra vụ án nhanh chóng, khách quan và toàn diện,
giải quyết vụ án đúng đắn, nâng cao trách nhiệm và uy tín của CQĐT và VKS. Do
đó, VKS cần tránh việc đề ra yêu cầu điều tra một cách chung, không cần thiết, ảnh
hưởng đến kết quả điều tra vụ án. CQĐT có trách nhiệm thực hiện yêu cầu điều tra
của VKS, trong trường hợp không nhất trí với yêu cầu điều tra trao đổi làm rõ hoặc
có thể kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp.
Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị
can nếu phát hiện bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu theo Điều 231
BLTTHS. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, nếu
34
có căn cứ xác định bị can đang bỏ trốn mà Cơ quan điều tra chưa ra quyết định truy
nã thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can.
Trường hợp vụ án có căn cứ cần thiết áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt mà CQĐT không áp dụng thì căn cứ điểm c Khoản 2 Điều 41 BLTTHS và
VKS ra văn bản yêu cầu CQĐT áp dụng.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, để đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng pháp luật, khi xét thấy cần thiết, Viện
kiểm sát còn có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị
can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra.
Theo quy định của Bộ luật TTHS thì VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để xem xét ra quyết định phê chuẩn
các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Bên cạnh đó, VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc có dấu hiệu
oan, sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng không được khắc phục dù
Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản.
- Quy định về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc gia hạn
thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút
gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án
Theo quy định tại Điều 172 BLTTHS, VKS có quyền hạn quyết định việc gia
hạn thời hạn điều tra. Căn cứ vào khoản 2 Điều 172 BLTTHS thì “Trong trường
hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười
ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn điều
tra”. Như vậy, trong trường hợp cần thiết phải ra hạn điều tra thì Cơ quan điều tra
cũng không được trực tiếp gia hạn điều tra mà phải kiến nghị đến Viện kiểm sát để
Viện kiểm sát xem xét và ra quyết định gia hạn điều tra. Có thể thấy, luật quy định
chỉ Viện kiểm sát mới có quyền ra hạn điều tra. Khi nhận được yêu cầu đề nghị gia
hạn điều tra của CQĐT, VKS nghiên cứu hồ sơ, tài liệu chứng cứ liên quan đến việc
35
gia hạn điều tra, nếu thấy có căn cứ thì quyết định gia hạn điều tra, thời hạn gia hạn
bao lâu tùy thuộc vào từng loại tội theo quy định của BLTTHS.
Đối với việc gia hạn tạm giam, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 173
BLTTHS năm 2015, trường hợp vụ án đang điều tra có nhiều tình tiết phức tạp,
không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam và xét thấy cần phải
có thời gian dài hơn cho việc điều tra vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết
thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Như
vậy, chỉ có Viện kiểm sát mới có thẩm quyền gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra.
BLTTHS quy định rất rõ ràng loại tội phạm nào thì ra thời gian gia hạn bao nhiêu,
số lần được gia hạn, cấp có thẩm quyền gia hạn tùy thuộc vào loại tội mà người
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thực hiện là nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng.
Trường hợp trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp quyết định việc
chuyển vụ án để điều tra khi xét thấy có một trong các căn cứ sau đây: Cơ quan điều
tra cùng cấp đề nghị chuyển vụ án khi xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều
tra; Vụ án được Cơ quan điều tra cấp trên rút lên để điều tra; Thủ trưởng Cơ quan
điều tra là ĐTV bị thay đổi; Cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu chuyển vụ án
của Viện kiểm sát. Như vậy, việc chuyển vụ án để điều tra thuộc thẩm quyền của
VKS. Khi thực hành quyền công tố, nếu thấy có căn cứ chuyển vụ án thì VKS ra
băn bản yêu cầu CQĐT có văn bản đề nghị VKS chuyển vụ án. Trong trường hợp
Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra
quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi Viện kiểm sát ra quyết
định chuyển vụ án, quyết định này phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra
đang điều tra vụ án [23].
Đối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn, thì CQĐT trong hời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại
Điều 456 của BLTTHS, CQĐT phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn của CQĐT được gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn
24 giờ kể từ khi ra quyết định. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn của CQĐT, nếu thấy quyết định này là không có căn
36
cứ, không đúng pháp luật thì VKS phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ
tục rút gọn và gửi cho Cơ quan điều tra [23].
Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
nếu sau khi trưng cầu giám định pháp ý tâm thần, xác định người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự, bị can đang mắc bệnh
tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự CQĐT gửi văn bản đề nghị áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cùng kết luận giám định cho VKS cùng cấp để
xem xét, quyết định. Theo quy định tại Điều 449 BLTTHS năm 2015: trong thời
hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của CQĐT cùng kết luận giám
định, VKS quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh đối với bị can hoặc yêu cầu
CQĐT trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại nếu thấy chưa đủ căn cứ để
quyết định. Sau khi VKS ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh với bị
can thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, CQĐT có thể quyết
định nhập hoặc tách vụ án hình sự khi xét thấy có đủ các điều kiện quy định tại
khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2015. Thông thường trong vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, sau khi chiếm đoạt được tài sản, bị can thường bán cho người khác, do
đó thường có trường hợp có người tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có. Trường
hợp này CQĐT phải ra quyết định nhập vụ án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định nhập hoặc tách vụ án, quyết định này phải gửi cho VKS cùng cấp. Sâu
khi nhận quyết định nhập hoặc tách vụ án từ CQĐT chuyển sang, VKS phải nghiên
cứu, xem xét việc nhập hoặc tách vụ án không ảnh hưởng đến sự thật khách quan,
toàn diện của vụ án. Trường hợp không nhất trí với quyết định nhập hoặc tách vụ án
của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ và nêu rõ lý do.
- Quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án
Theo quy định tại khoản 1 Điều 229 BLTTS năm 2015, CQĐT quyết định tạm
đình chỉ điều tra khi thuộc các trường hợp sau: “khi chưa xác định được bị can
hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án, hoặc
37
Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định
truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra; Khi có kết luận giám định tư pháp xác định
bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước
khi hết thời hạn điều tra; Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu
cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều
tra”[23].
Cơ quan điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho Viện kiểm sát
cùng cấp để kiểm tra tính có căn cứ và đúng pháp luật của quyết định tố tụng đó.
Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan
điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra khi xét thấy quyết định tạm
đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra không có căn cứ. Khi đó Viện kiểm sát vẫn
tiếp tục thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự đó.
Trong khi vụ án đang được tạm đình chỉ điều tra, nếu thấy lý do tạm tạm đình chỉ
điều tra không còn nữa, có căn cứ phục hồi điều tra thì Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra.
Theo quy định tại Điều 230 BLTTHS, CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra
khi thuộc một trong các trường hợp: “Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc
Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của BôLHS; Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà
không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm” [23]. Khi Viện kiểm sát
nhận được quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra
chuyển đến, Viện kiểm sát phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định
đình chỉ điều tra để ban hành các quyết định cần thiết theo hai trường hợp sau đây:
một là, Viện kiểm sát ban hành quyết định kết luận kiểm sát việc đình chỉ điều tra
trường và trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền
nếu xét thấy việc Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra là có căn cứ và đúng pháp luật.
Lưu ý, đối với quyết định kết luận kiểm sát việc đình chỉ điều tra trong đó phải nêu
rõ quan điểm của Viện kiểm sát về quyết định đình chỉ của Cơ quan điều tra; hai là,
Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều
38
tra, yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra nếu xét thấy việc đình chỉ điều tra
không có căn cứ, trái pháp luật.
Trên đây là những quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền hạn và trách
nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. So với Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã khắc
phục một số hạn chế, trong đó có chức năng thực hành quyền công tố được quy
định sớm hơn. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Bộ luật TTHS năm 2015
cũng bổ sung đảm bảo để VKS nắm chắc tiến độ điều tra, theo sát quá trình điều tra
và lập hồ sơ vụ án. Hơn nữa, để khắc phục một số vướng mắc khi thực hiện chức
năng của VKS trong thực tiễn, Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung một số quy định
tăng cường sự chủ động của VKS trong việc đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra, quyền ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu
mà CQĐT không thực hiện mà không phải chờ đến khi CQĐT kết thúc điều tra và
chuyển hồ sơ vụ án mới có quyền như Bộ luật TTHS năm 2003 hoặc VKS không
cần phụ thuộc vào đề nghị của CQĐT mà có quyền quyết định chuyển vụ án nếu đã
yêu cầu mà CQĐT không thực hiện...
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Thực trạng một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, có diện tích 7,73 km2,
10 phường với 142.625 người, chiếm 1,59% tổng dân số toàn thành phố [31]. Quận
1 là nơi có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển, đồng thời là nơi tập trung nhiều cơ
quan ban ngành của Thành phố, Trung ương, cũng là nơi trú đóng của nhiều cơ
quan lãnh sự quán hoặc đại diện các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với
điều kiện như vậy, là nơi thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội, phát triển cách
ngành du lịch, dịch vụ. Tuy nhiên, cũng là điều kiện để các loại tội phạm phát sinh,
phát triển. Theo thống kê từ năm 2015 đến năm 2019, trên địa bàn quận 1 xảy ra
tổng cộng 1235 vụ án xâm phạm sở hữu, khởi tố 642 bị can. Trong đó, riêng tội lừa
39
đảo chiếm đoạt tài sản là 69 vụ và 33 bị can [46, 47, 48, 49, 50]. Qua số liệu thống
kê cho thấy, số lượng phạm pháp hình sự xảy ra lớn, tình hình tội phạm trên địa bàn
trong những năm qua tăng, giảm thất thường, tính chất, mức độ, thủ đoạn phạm tội
diễn biến phức tạp và nguy hiểm hơn. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra
trên địa bàn, tỉ lệ điều tra khám phá còn thấp, vì nhiều vụ chưa xác định được người
thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu hồ sơ các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
cho thấy, các đối tượng thực hiện hành vi với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt, sử dụng công nghệ thông tin để đưa ra các thông tin gian dối nhằm
chiếm đoạt tài sản, gây khó khăn cho quá trình điều tra và thực hành quyền công tố.
Mặc dù trong những năm qua, quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 06/2013 của
VKSND tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với điều tra”, VKSND quận 1 đã từng bước nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong điều ta vụ án, gắn chặt công tố với điều tra, phối hợp có hiệu
quả với các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương, góp phần kéo giảm tình hình
tội phạm trên địa bàn, song bởi tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, áp lực công
việc, nên chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự nói
chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của
cải cách tư pháp, nhất là tăng cường hoạt động công tố trên địa bàn quận.
Hiện nay, VKSND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có 29 biên chế và 01 nhân
viên hợp đồng, trong đó KSV trung cấp: 03 (Viện trưởng và 02 Phó Viện trưởng);
KSV sơ cấp: 14; Kiểm tra viên: 06; Chuyên viên: 05; Kế toán: 01; Bảo vệ : 01 (Hợp
đồng) [50]. Công tác tổ chức, cán bộ được thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là
việc bố trí, sắp xếp cán bộ trong các bộ phận nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của công
tác được đảm bảo khách quan, công bằng, đúng người, đúng việc. Lãnh đạo VKS đã
tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện đầy đủ các chỉ thị của Đảng, quy chế của
Ngành về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ
cơ sở trong hoạt động của đơn vị. Nhìn chung, đội ngũ KSV, cán bộ trong VKSND
quận 1 có năng lực, trình độ, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức học
tập nâng cao trình độ, kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ trong thực hành quyền
40
công tố nói chung. Tuy nhiên, với địa bàn quận 1, là một quận trung tâm của thành
phố Hồ Chí Minh, hàng năm tình hình tội phạm xảy ra chiếm tỉ lệ lớn, nhưng biên
chế KSV còn thiếu. Trong năm 2019, thực hiện các quy định mới của pháp luật,
nhiệm vụ và thẩm quyền của VKS tăng lên, nhiều hoạt động tố tụng quy định VKS
phải tham gia, đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố trong thời gian qua.
2.2.2. Kết quả thực hành quyền công tố trong điều ra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản tại Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh
Thực hành quyền công tố trong trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
luôn được VKSND quận 1 chú trọng thực hiện, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự nói chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Thông qua hoạt
động thực hành quyền công tố, VKSND quận 1 đã kịp thời phát hiện hành vi vi
phạm, góp phần hạn chế tình trạng lọt tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bảo đảm
khách quan, toàn diện trong điều tra vụ án. Kết quả thực hành quyền công tố thể
hiện như sau:
Qua phân tích số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019, số vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị khởi tố là 69 vụ; số bị can bị khởi tố là 33 bị can.
Trong đó, VKSND quận 1 yêu cầu CQĐT khởi tố là 02/69 vụ (chiếm tỉ lệ 2,89%);
Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố 01 vụ (chiếm tỉ lệ 1,44%); VKSND quận 1 hủy
quyết định không khởi tố vụ án 01 vụ [46, 47, 48, 49, 50]. Như vậy, tỉ lệ VKSND
hủy quyết định của CQĐT là khá thấp. Điều đó cho thấy VKSND đã làm tốt công
tác thực hành quyền công tố trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, ít có
trường hợp VKSND phát hiện dấu hiệu tội phạm để yêu cầu CQĐT khởi tố. Bên
cạnh đó, VKSND cũng ít phải trực tiếp khởi tố hoặc hủy bỏ quyết định không khởi
tố của CQĐT. Qua nghiên cứu, phân tích số liệu thực tế, thể hiện rõ tinh thần đấu
tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan tố tụng tại quận 1, thực hiện tương đối
tốt nguyên tắc không bỏ lọt tội phạm, không làm on người vô tội. KSV được phân
công thực hành quyền công tố đã đã thực hiện tốt hoạt động THQCT trong khởi tố
vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nắm vững các quy định của BLHS và các
41
văn bản pháp luật có liên quan, phân biệt được vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
các giao dịch dân sự khác, cũng như phân biệt rõ lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, qua đó đã yêu cầu thay đổi quyết định khởi tố vụ án đúng với
hành vi phạm tội xảy ra.
Bên cạnh thực hành quyền công tố đối với quyết định khởi tố vụ án, VKS còn
thực hiện tốt khi thực hành quyền công tố đối với quyết định khởi tố bị can. Khi các
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một
số quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố. Chính vì vậy, để đảm bảo việc
khởi tố đúng người, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng kiên
quyết không để lọt tội phạm, VKSND quận 1 đã kiểm sát chặt chẽ quyết định này.
KSV được phân công thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản đã chủ động nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ một
cách khách quan, toàn diện để đề xuất lãnh đạo VKS ra quyết định phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can. VKSND quận 1 chỉ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi đã xác định đủ chứng cứ xác định người đó thực hiện
hành vi phạm tội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, KSV được phân công đã nghiên
cứu đầy đủ hồ sơ vụ án với tinh thần trách nhiệm cao. Theo kết quả thống kê từ năm
2016-2019, nhìn chung số vụ án VKSND quận 1 hủy bỏ quyết định khởi tố của
CQĐT chiếm tỉ lệ chỉ chiếm tỉ lệ 1,44% tổng số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã
khởi tố (1/69 vụ); số bị can VKS yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định khởi tố 1/69 vụ;
số vụ án yêu cầu CQĐT khởi tố chiếm tỉ lệ 1,44% (1/69 vụ); số vụ án yêu cầu
CQĐT khởi tố 2/69 vụ, chiếm tỉ lệ 2,89% [46, 47, 48, 49, 50]. Như vậy, có thể thấy
công tác thực hành quyền công tố của VKSND quận 1 trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có chất lượng tương đối cao, hạn chế tình trạng oan sai. Chính vì
thực hiện tốt ngay từ khâu giải quyết tố giác, tin báo trong giai đoạn điều tra ban
đầu, phối hợp chặt chẽ với CQĐT trong việc xác định tội phạm và người phạm tội,
kịp thời phát hiện những dấu hiệu tội phạm hoặc vi phạm thủ tục tố tụng, do đó tình
trạng phải trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hết thời hạn phải đình chỉ điều tra luôn
vượt chỉ tiêu đề ra. Đặc biệt, tất cả các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản VKSND
42
quận 1 đề nghị truy tố từ 2016 đến 2019 không có vụ án nào Tòa án tuyên không
phạm tội. Điều này đảm bảo được nguyên tắc không làm oan người vô tội trong thi
hành quyền công tố của VKSND quận 1.
Trong thời gian qua, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiến đoạt tài sản, VKSND thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật trong việc
phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
bị giữ khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam,.... Do khi thực hành quyền công tố trong
việc thu thập chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản tương đối chặt chẽ, đúng pháp luật nên trong thời gian từ 2016 đến năm 2019,
hầu hết các lệnh tam giam, lệnh bắt bị can để tạm giam đều được VKSND quận 1
phê chuẩn, 20/20 quyết định gia hạn tạm giữ được phê chuẩn, 20/23 bị can được
phê chuẩn lệnh bắt bị can và lệnh tạm giam [47, 48, 49, 50]. Trong tổng số 33 bị
can phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chỉ có 01 trường hợp không phê chuẩn
lệnh bắt tạm giam, 01 trường hợp không phê chuẩn lệnh bắt trong trường hợp khẩn
cấp và 01 trường hợp không gia hạn tạm giam.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ đề ra yêu cầu điều tra và tiến hành một số hoạt
động điều tra, theo thống kê thì tỉ lệ KSV đề ra yêu cầu điều tra và trực tiến hành
một số hoạt động điều tra luôn chiếm tỉ lệ khá cao. Cụ thể: Năm 2017: Tổng số thụ
lý: 352 vụ/ 327 bị can. KSV đã thực hiện tham gia hỏi cung đối với 242 bị can, đạt
tỉ lệ 74%. Đối với vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 13/13 vụ có yêu cầu điều tra, hỏi
cung bị can 5/5 bị can, đạt tỉ lệ 100% [48]. Năm 2018, KSV đã ban hành yêu cầu
điều tra 457/ 457 vụ, tỷ lệ 100% số vụ án CQĐT thụ lý. Thực hiện tham gia hỏi
cung và trực tiếp hỏi cung đối với 172 bị can, tỷ lệ 100% số bị can truy tố. Tiếp
nhận các biên bản tài liệu trong trường hợp KSV không trực tiếp kiểm sát các hoạt
động điều tra cùng CQĐT: 391 vụ. Trong đó đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là 13/13 vụ, hỏi cung bị can 9/9 bị can, đạt tỉ lệ 100% [49].
Năm 2019, KSV ban hành yêu cầu điều tra 486/ 486 vụ, tỷ lệ 100% số vụ án CQĐT
thụ lý. Thực hiện tham gia hỏi cung và trực tiếp hỏi cung đối với 240 bị can, tỷ lệ
100% số bị can đã truy tố. Riêng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đề ra yêu cầu
43
điều tra 10/10 vụ, tham gia và hỏi cung bị can 7/7 bị can [50]. Trong những năm
qua CQĐT đã thực hiện tốt việc truy nã bị can, do đó, VKS chưa phải ra quyết định
yêu cầu truy nã bi can khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Qua nghiên cứu số liệu thống kê và hồ sơ một số vụ án cho thấy, tỉ lệ KSV ban
hành đề ra yêu cầu điều tra luôn ở mức cao, đạt tỉ lệ 100% tổng số vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, trong đó có yêu cầu điều tra khi trực tiếp tham gia hoạt động
điều tra và yêu cầu điều tra bằng văn bản. Theo số liệu thống kê 100% tất cả các vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1 đều được VKS đề ra yêu cầu điều
tra bằng văn bản. Chất lượng, số lượng bản yêu cầu điều tra ngày càng được nâng
cao cả về nội dung và hình thức, góp phần giúp CQĐT thu thập chứng cứ đầy đủ,
toàn diện cũng như định hướng điều tra, có những vụ án sau khi đã yêu cầu điều tra,
thấy còn thiếu sót hoặc phát hiện thêm căn cứ, VKS đã yêu cầu điều tra lần thứ 2 để
đảm bảo sự thật khách quan của vụ án.
Đối với hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất..., KSV khi được phân
công thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã
tham gia nhiều buổi hỏi cung, lấy lời khai, thực hiện nghiêm túc trường hợp bắt
buộc KSV phải hỏi cung theo quy định tại khoản 4 Điều 183 BLTTHS. Theo số liệu
thống kê cho thấy, KSV đã tham gia hỏi cung bị can 100% vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Thông qua hoạt động trực tiếp việc hỏi cung bị can, đã góp phần quan
trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, chặt
chẽ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần hạn chế, ngăn ngừa những
thiếu sót vi phạm của Điều tra viên trong quá tình điều tra vụ án hình sự.
2.2.3. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hố Minh và
nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hoạt động thực hành quyền công tố của
VKSND quận 1 cũng còn những hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định, trong đó
44
nhất những hạn chế, khó khăn, vướng mắc xuất phát từ những bất cập, hạn chế của
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Cụ thể là:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát phải xem xét quyết định
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định cùng hồ sơ của CQĐT
chuyển sang. Thời hạn này nhìn chung phù hợp với những vụ án có chứng cứ, tài
liệu rõ ràng, nhưng không thật phù hợp (thiếu) đối với những vụ án phức tạp, cần
phải nghiên cứu, xác minh kỹ, nhất là các vụ án xảy ra có nhiều bị hại, tài sản bị
chiếm đoạt lớn, có sử dụng công nghệ thông tin để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu
KSV không có tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện nghiên cứu hồ sơ, tài liệu ngay
từ khi CQĐT tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì sẽ không đủ thời gian đê
KSV xem xét có đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hay không, và cũng
không đủ căn cứ để không phê chuẩn. Do đó, nếu không phê chuẩn thì có thể bỏ lọt
tội phạm, còn phê chuẩn thì có thể làm oan người vô tội.
Thứ hai, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản gặp khó khăn trong trường hợp do nóng vội, chưa thu thập đầy đủ chứng cứ,
nhận thức chưa đầy đủ, do thiếu trách nhiệm nên CQĐT có sự nhầm lẫn giữa tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản với giao dịch dân sự hoặc với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Bởi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt,
nên ngoài chứng minh thủ đoạn phạm tội, KSVcòn phải xác định có mục đích
chiếm đoạt tài sản hay không, xác định thời điểm xuất hiện ý định chiếm đoạt tài
sản. Đối với các trường hợp có liên quan đến hợp đồng, KSV cần xem xét trong hợp
đồng dân sự có xác định thời gian hoàn trả hay không, chủ tài sản có thật sự mất tài
sản hay chưa, mục đích chiếm đoạt tài sản có trước hay có sau khi có tài sản..., kết
hợp với các tình tiết có trong hồ sơ vụ án xác định người bị khởi tố có hành vi
chiếm đoạt tài sản hay không, nếu đủ căn cứ chứng minh hành vi gian dối trong
giao kết hợp đồng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì đủ căn cứ khởi tố bị can, có
thể phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Thủ đoạn này thường xảy ra trong lĩnh vực
ngân hàng, cầm cố, thế chấp tài sản.
45
Thứ ba, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản gặp khó khăn khi quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo các tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt. Bởi khi ra
quyết định khởi tố bị can, theo quy định của Bộ luật TTHS thì CQĐT phải ghi rõ bị
can bị khởi tố về tội gì, áp dụng theo điều nào, khoản nào của BLHS hiện hành. Đối
với tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” hiện nay chưa có hướng dẫn áp
dụng cụ thể, nên các cơ quan chức năng vẫn vận dụng Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Tuy nhiên,
vấn đề khó khăn là Nghị quyết có quy định áp dụng tình tiết này khi phải có đầy đủ
các điều kiện: Một là, phải có hành vi cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một
tội phạm, trong đó không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, và phải thuộc
trường hợp chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; Hai là,
người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, coi đó là nguồn sống
chính. Nhưng quy định nêu trên rất khó cho CQĐT cũng như VKS chứng minh lấy
kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Việc chứng minh được tình tiết
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định người thực
hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc khoản 1 hay khoản 2 Điều 174 BLHS.
Đối với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo
điểm c, khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 hiện nay cũng chưa có hướng dẫn áp
dụng cụ thể, do đó CQĐT và VKS cũng chưa thống nhất xác định khi nào thì gây
ảnh hưởng xấu, căn cứ vào quy định nào, thẩm quyền xác định gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, trường hợp người thực người thực hiện
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 thì
thuộc khoản 2 Điều 174 BLHS, nhưng nếu chiếm đoạt tài sản từ 50.000.000 đồng
đến dưới 200.000.000 thuộc trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội thì lại rơi vào khoản 3 Điều 174 BLHS. Như vậy, việc xác định người
phạm tội thuộc khoản 2 hay khoản 3 Điều 174 BLHS gặp nhiều khó khăn, từ đó khó
khăn trong việc ghi rõ bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS
khi ban hành quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cũng
46
như trong việc xác định loại tội phạm nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng để áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
gặp khó khăn, trong trường hợp CQĐT bởi quy định của pháp luật, chưa xác định
tình tiết phạm tội có phải là có tính chất chuyên nghiệp hay không, hay tình tiết có
thuộc trường hợp gây ảnh hưởng đến an ninh xấu đến trật tự, an toàn xã hội hay
không? mà việc xác định ràng là rất cần thiết để khẳng định tội đã thực hiện là
nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng làm căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam. Vấn
đề là ở chỗ, khi người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị 50 triệu đồng – dưới
200 triệu đồng (điểm c, khoản 2 Điều 174) là tội nghiêm trọng, nếu bị can không
thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ Điều 119 BLTTHS
thì không đủ căn cứ để tạm giam. Tuy nhiên, nếu như xác định bị can phạm tội
thuộc tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thì bị can
phạm tội rất nghiêm trọng theo khoản 3, điểm b, Điều 174 BLTTHS. Trường hợp
này lại đủ điều kiện tạm giam (áp dụng khoản 1 Điều 119 BLHS).
Thứ tư, đối với yêu cầu điều tra, qua nghiên cứu các hồ sơ vụ án cho thấy,
nhiều yêu cầu điều tra còn mang nặng tính hình thức, thủ tục. Nội dung các yêu cầu
điều tra thường chung chung, không cụ thể, các yêu cầu điều tra ở các vụ án khác
nhau nhưng nội dung lại tương tự nhau, yêu cầu những vấn đề đương nhiên phải
thực hiện, không cần phải yêu cầu điều tra hoặc vấn đề đã được CQĐT thực hiện,
những vấn đề không liên quan đến vụ án, do đó chưa phát huy hiệu quả định hướng
điều tra. Hơn nữa, chất lượng, hiệu quả nội dung yêu cầu điều tra phụ thuộc rất lớn
vào năng lực, trình độ của KSV. Có thể thấy, một số KSV khi thực hành quyền
công tố còn coi nhẹ nội dung này, dẫn đến những yêu cầu chung chung, chưa chủ
động nghiên cứu, nâng cao trình độ, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra khi phát sinh vấn
đề mới, để ra các yêu cầu điều tra định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu
thành tội phạm. Điều này khiến việc giải quyết vụ án lừa đảo trong giai đoạn điều
tra kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả chung của hoạt động điều tra và hoạt động thực
hành quyền công tố.
47
Thứ năm, đối với hoạt động thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định
của pháp luật, theo thống kê cho thấy, KSV chỉ chủ yếu tham gia và trục tiếp thực
hiện biện pháp hỏi cung bị can, còn các biện pháp khác rất ít thực hiện. Đồng thời,
theo hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư liên tịch số 04/2018 TTLT-VKSNDTC-BCA-
BQP ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS thì “Kiểm sát viên
thông báo trước cho Điều tra viên trước khi tiến hành” [41]. Khi được yêu cầu thì
Điều tra viên có trách nhiệm phối hợp với Kiểm sát viên để thực hiện các hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Như vậy, theo quy định nêu trên thì KSV
được phân công thực hành quyền công tố phải thông báo cho ĐTV của CQĐT trước
khi tiến hành. Hơn nữa, tại BLTTHS năm 2015, lại không có quy định VKS phải
thông báo cho CQĐT trước khi tiến hành các hoạt động điều tra nêu trên, điều này
làm hạn chế quyền năng của VKS khi thực hiện hoạt động này, vì Thông tư 04/2018
là văn bản dưới luật. Đồng thời, Điều 12 Thông tư 04/2018 TTLT-VKSNDTC-
BCA-BQP ngày 19/10/2018 cũng chỉ quy định KSV phải thông báo cho ĐTV trước
khi tiến hành, những cũng không quy định rõ là thông báo bằng văn bản hay lời nói
hoặc trường hợp ĐTV từ chối cho KSV thực hiện hoạt động điều tra hoặc ĐTV
vắng mặt thì thông báo cho VKS bằng văn bản hay lời nói. Điều này làm giảm hiệu
lực thực hành quyền công tố của KSV.
Thứ sáu, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, VKSND đều phê chuẩn đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra
của CQĐT Công an quận 1 bởi các quyết định đó đều đúng theo quy định của pháp
luật. Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, CQĐT đã thực hiện đúng các quy định
của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, có một
vấn đề vướng mắc mà CQĐT và VKSND đã thống nhất giải quyết. Đó là quy định
có căn cứ tạm đình chỉ điều tra “khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ
bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án” [23]. Vướng mắc trong
quy định này là phải tính thời hạn điều tra để ra quyết định tạm đình chỉ là khi nào,
từ lúc hết hạn điều tra chung hay tính cả thời hạn gia hạn điều tra. Mặc dù các cơ
quan tư pháp địa phương thống nhất hiểu theo tinh thần điều luật và vận dụng ra
48
quyết định tạm đình chỉ theo thời hạn điều tra ban đầu. Tuy nhiên, tác giả cho rằng
cần có một hướng dẫn cụ thể để làm căn cứ thực hiện thống nhất.
Thứ bảy, theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền công tố của VKS đã
được quy định chi tiết tại Điều 165 BLTTHS năm 2015, còn hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra được quy định tại Điều 166
BLTTHS năm 2015. Mặc dù quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã
được BLTTHS quy định chi tiết ở hai điều luật khác nhau, tuy nhiên vẫn còn sự
không rành mạch giữa hai hoạt động này, dẫn đến một số KSV được phân công
thực hành quyền công tố nhận thức chưa đầy đủ, chưa phân biệt rõ ràng giữa công
tố và kiểm sát tư pháp, làm giảm chất lượng khi thực hành quyền công tố.
Thứ tám, bởi sự phối hợp giữa giữa ĐTV của CQĐT và KSV của VKSND còn
chưa cao, một số KSV còn coi nhẹ công tác thực hành quyền công tố, nên chưa đi
sâu vào nghiên cứu vụ án ngay từ đầu, dẫn đến cả ĐTV và KSV thực hiện chưa
nghiêm túc, đôi khi còn bị động nên dẫn đến trường hợp bỏ sót chứng cứ quan
trọng. KSV chỉ tiếp cận và nghiên cứu hồ sơ khi CQĐT đã có quyết định khởi tố vụ
án, để xét phê chuẩn các quyết định tố tụng, nên ít nhiều đối với các vụ án nhiều bị
can, phức tạp sẽ thiếu thời gian nghiên cứu đầy đủ. Điều đó có thể dẫn đến tình
trạng qua loa, đại khái khi ban hành quyết định cho kịp thời gian luật định, nhất là
đối với quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, việc áp dụng, thay đổi biện
pháp ngăn chặn, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
Thứ chín, theo quy định của BLTTHS, hoạt động điều tra vụ án hình sự nói
chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng do ĐTV tiến hành. Tuy
nhiên, thực tế còn tình trạng thiếu ĐTV và một ĐTV thụ lý nhiều vụ án khác nhau,
do đó tồn tại tình trạng ĐTV chỉ đứng tên được phân công thụ lý, ký tên đối với các
văn bản tố tụng, còn thực tế thì vẫn do Cán bộ điều tra trực tiếp tiến hành. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất đồng về quan điểm định tội,
áp dụng biện pháp ngăn chặn trong một số vụ án, khiến một số vụ án kéo dài thời
hạn xử lý. Một vấn đề nữa cũng tương đối quan trọng, là hiện nay đa số KSV được
phân công thực hành quyền công tố trong các vụ án chưa được đào tạo chuyên sâu
49
về các hoạt động điều tra, hoặc kỹ năng, kinh nghiệm chưa cao nên hiệu quả tiến
hành các hoạt động này phần nào bị ảnh hưởng, đôi khi chưa mang lại hiệu quả cao
nhất. Do đó, qua nghiên cứu hồ sơ, tác giả nhận thấy hoạt động trực tiếp tiến hành
hoạt động điều tra của KSV chủ yếu là hoạt động hỏi cung bị can, còn các hoạt
động khác chưa thực hiện, chủ yếu vẫn do ĐTV tiến hành. Như vây, có thể thấy,
KSV chưa thường xuyên thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm về việc trực tiếp tiến
hành hoạt động điều tra, trực tiếp xác minh để chủ động làm rõ các vẫn đề của vụ
án. Hơn nữa, một số KSV khi thực hành quyền công tố còn hạn chế về kinh nghiệm
nghiệp vụ nói chung, kỹ năng hỏi cung bị can nói riêng nên hoạt động hỏi cung bị
can đôi khi vẫn mang tính hình thức, một số trường hợp chưa thực sự đạt hiệu quả.
Những hạn chế nêu trên cần phải có giải pháp khắc phục để hoạt động thực hành
quyền công tố đạt chất lượng cao, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự, nâng cao uy tín của Nhà nước và pháp luật.
Tiểu kết chương 2
Trong chương này, luận văn đã tập trung phân tích những quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Bằng phương pháp phân tính, tổng hợp, so sánh, luận văn đã
đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 2016 đến năm
2019, qua đó thấy được kết quả của hoạt động này có nhiều thành tựu quan trọng,
góp phần vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót với
nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu cải cách tư pháp trong
tình hình hiện nay. Nghiên cứu những tồn tại, thiếu sót và những nguyên nhân nêu
trên là cơ sở đề ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hành công tố
trong điều tra vụ án nói chung và trong thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
50
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định, đặt nền tảng cho
mọi hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động thực hành quyền công tố.
Theo quy định của tại Điều 7 BLTTHS năm 2015, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong TTHS là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng và
được quy định là nguyên tắc tắc đầu tiên trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Bảo
đảm pháp chế trong tố tụng hình sư đòi hỏi mọi chủ thể TTHS, nhất là các Cơ quan
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định của pháp luật khi tiến hành giải quyết vụ án. Khi thi hành thực hành quyền
công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, đòi
hỏi CQĐT, VKS cũng như ĐTV, KSV phải thực hiện nghiêm chỉnh, tự giác, khách
quan, toàn diện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm phát hiện nhanh
chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời, bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
vừa phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi thi hành thực hành quyền công tố,
vừa phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng, nhằm bảo vệ trật tự pháp
luật, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đảm bảo thực hiện mục
tiêu chung trong đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng.
3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp
Trong những năm qua, vấn đề cải cách tư pháp đã được thể hiện qua các Nghị
quyết của Đảng. Trong đó nổi bật là một số Nghị quyết như Nghị quyết Đại hội
51
Đảng toàn quốc lần thứ IX, với yêu cầu “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt
chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới:“Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp” [2]. Cũng theo nghị
quyết này xác định, hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiễn trong suốt
quá trình tố tụng, bắt đầy ngay từ khi khi khởi tố vụ án hình sự. Nhiệm vụ quan
trọng của hoạt động này nhằm đảm bảo truy cứu TNHS đúng người, đúng tội,
không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới cũng như đề ra phương hướng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có yêu cầu: “Hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực
hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp…”[3]. Cuối cùng là Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, đã tiếp tục xác định VKS giữ chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đồng thời Nghị quyết cũng yêu cầu tăng cường
trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn chặt công tố và hoạt động
điều tra. Các Nghị quyết trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015. Dựa trên các văn bản
trên, VKS đã được tổ chức và hoạt động tương đối phù hợp, từng bước đáp ứng với
tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.
Như vậy, qua yêu cầu cải cách tư pháp, một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với
VKS là phải thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố, tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra nói chung và trong điều tra tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, gắn công tố với hoạt động điều tra. Các văn
bản pháp luật hiện hành đã quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp,
phân định rõ hơn và tăng thẩm quyền, trách nhiệm của ĐTV, KSV theo hướng chủ
52
động và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của
mình. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nói chung và quy định
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng chưa thể hiện đầy đủ chủ
trương của Đảng về cải cách tư pháp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng thực hành quyền công tố. Do đó, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thực hiện nghiêm túc chủ trương cải cách tư pháp
theo hướng:
Một là, đối với quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra đã tương đối phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp,
VKSND có trách nhiệm tuân thủ nghiêm chỉnh, bảo đảm cho pháp luật có hiệu lực
và phát huy vai trò khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, góp phần trong đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm nói chung.
Hai là, đối với các quy định của pháp luật chưa thể hiện rõ yêu cầu cải cách tư
pháp, còn hạn chế, vướng mắc thì VKSND phải vận dụng linh hoạt, phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng để vừa có thể hoàn thành nhiệm vụ, vừa tránh
làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khi
thi hành thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, yêu cầu đặt ra theo tinh thần cải cách tư pháp là phải chặt chẽ, đầy đủ, khách
quan, theo đúng quy định của pháp luật, giảm thiểu oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm và
phải đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, hoạt động công tố nói chung và khi thực hành quyền công tố trong
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, VKSND phải quán triệt sâu sắc các quan
điểm của Đảng, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, coi đây là kim chỉ
nam trong tổ chức và hoạt động của mình nhằm nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố.
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm các nguyên tắc suy đoán vô tội; xác định sự thật vụ án
Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội, không buộc phải tự buộc tội chính mình
chính là một trong những nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền con người. Khoản 1 Điều
53
31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật” [20]. Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 cụ thể hóa với quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” [23].
Thực hành quyền công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói riêng là thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.
Việc buộc tội trong giai đoạn này bao gồm hàng loạt hoạt động tố tụng trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự. VKSND phải có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ với CQĐT điều tra, xác minh, thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh
hành vi phạm tội của người bị buộc tội, nếu không chứng minh được có tội đồng
nghĩa pháp lý với chứng minh vô tội. Suy đoán vô tội bác bỏ định kiến có tội dưới
mọi hình thức và là một bảo đảm quan trọng đối với quyền con người của người bị
buộc tội.
Như vậy, khi tiến hành thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, VKSND quận 1 phải luôn quá triệt nguyên tắc này, phái xác
định nếu như “không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [23].
3.1.4. Yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó
có quyền sở hữu tài sản của công dân
Nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm và thực hiện tốt các quyền con người, quyền
cơ bản của công dân là một trong những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho các
cơ quan tư pháp. Các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền sở hữu tài sản
được Hiếp pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 14: “các quyền con người, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng bảo vệ,
đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật” [20].
54
Như vậy, quyền sở hữu tài sản là quyền dân sự được tôn trọng và bảo vệ, trong
đó BLHS có quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, là tội phạm thuộc nhóm tội
xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, được pháp luật hình sự bảo vệ.
Người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được quy định
trong BLHS phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, gánh chịu những hậu quả bất lợi
do hành vi phạm tội của mình gây ra. Trong quá trình thực hành quyền công tố, việc
xác định đúng tội danh, đúng người phạm tội, áp dụng các biện pháp cần thiết đối
với người phạm tội góp phần quan trọng vào việc bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
cơ quan, tổ chức và cá nhân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy
tín của các cơ quan tư pháp, trong đó có VKS, cơ quan duy nhất có chức năng thực
hành quyền công tố. Chính vì vậy, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản cũng như các quy định về thực hành quyền công tố, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc để truy tố đúng người, đúng tội, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
công dân, nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3.1.5. Yêu cầu phòng, chống tội phạm, nhất là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố của VKSND quận 1
đã từng bước đáp úng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đấu tranh, phòng
chống tội phạm, trong đó có tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt,
nổi lên là các tội phạm cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. VKSND quận 1 đã nêu cao tinh thần phòng, chống tội
phạm, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, từ có biện pháp xử lý thỏa
đáng. VKSND phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong việc phân loại tội phạm,
các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
chống bỏ lọt tội phạm. VKS cũng đã thực hiện tốt quyền năng trực tiếp khởi tố hoặc
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án để tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm xảy ra hàng năm tại quận 1 rất phức tạp, đặc biệt
là tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó, riêng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản với nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, gây khó khăn không
55
nhỏ cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ,
xác định tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, bên cạnh thực hiện quyền năng tố
tụng nhằm đảm bảo cho quá trình khởi tố, điều tra được nhanh chóng, phát hiện và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, VKSND còn cần có trách nhiêm
làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để để áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tội phạm thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, của mình. Đây là
một trong nhưng nhiệm vụ quan trọng của VKSND nói chung và khi thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.2.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm
mới tiến bộ, hoàn thiện hơn so với Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003. Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính xác và thống nhất đòi hỏi phải
tăng cường giải thích các quy phạm pháp luật đã ban hành, theo đó:
Thứ nhất, đối với BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, theo tác giả
cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản:
- Hướng dẫn áp dụng tình tiết:“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội” theo điểm c, khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.
Tình tiết này dẫn đến nhận thức không thống nhất khi áp dụng trong thực tế, vì
mức độ như thế nào là ảnh hưởng xấu, căn cứ nào xác định đó là ảnh hưởng xấu, cơ
quan nào xác định là vấn đề cần làm rõ để tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Hiện
nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào mới về tình tiết này mà chỉ có hướng dẫn tại
tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC về tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 1 Điều
245 của BLHS 1999, điều này dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong
thực tiễn. Do đó, theo tác giả để để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn
56
thì Cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng tình
tiết định khung cơ bản “Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn
xã hội”.
- Hướng dẫn áp dụng tình tiết phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” theo
điểm b, khoản 2 Điều 174 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hiện nay, việc áp dụng tình tiết tiết này vẫn được các cơ quan tố tụng vận
dụng hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12
tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC (viết tắt là Nghị quyết số
01/2006). Theo Nghị quyết quy định thì: “5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp" đối với người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện: Một
là, phải có hành vi cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm, trong đó
không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, và phải thuộc trường hợp chưa hết
thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; Hai là, người phạm tội đều
lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, coi đó là nguồn sống chính.
Tại mục 5.2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP còn quy định: “Khi áp dụng
tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:
a. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội
đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm
tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái
phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
b. Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết “phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình
tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS...”
Theo hướng dẫn của nghị quyết trên thì “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”
được hiểu là người phạm tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên (không phân biệt
đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu
TNHS hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm
nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Việc hướng
dẫn như trên để xử lý người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là rất khó khăn vì
57
chứng minh được bị cáo 05 lần phạm tội là không khó nhưng chứng minh bị cáo lấy
các lần phạm tội đó làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn
sống chính là rất khó.
Theo BLHS năm 2015 thì tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong
Phần các tội phạm, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại điểm b, khoản 2
Điều 174 BLHS. Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, Các
cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản nào hướng dẫn thay thế Nghị quyết
số 01/2006 để hướng dẫn tình tiết thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Hơn nữa, hiện nay Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về
tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2
Điều 324 BLHS 2015 được hướng dẫn như sau: “3. Có tính chất chuyên nghiệp quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm
tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy
khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập.”
Như vậy, khi so sánh Nghị quyết số 01/2006 với Nghị quyết số 03/2019 lại có
điểm khác nhau, không thống nhất, đó là Nghị quyết số 01/2006 thì người phạm tội
đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm
nguồn sống chính còn theo Nghị quyết số 03/2019 thì chỉ cần người phạm tội lấy
khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập. Vậy có thể sử
dụng hướng dẫn này áp dụng vào tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”
được không? Khi hiện nay ngoài hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2019 về tội “rửa
tiền” quy định tại Điều 324 BLHS 2015 thì chưa có văn bản nào hướng dẫn về tình
tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều
52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong Phần các tội phạm, trong đó có tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại điểm b, khoản 2 Điều 174 BLHS.
58
Do đó, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, ban hành
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”
của Bộ luật hình sự cho phù hợp với những vấn đề đã được sửa đổi, bổ sung của Bộ
luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.
Thứ hai, đối với BLTTHS năm 2015:
- Hướng dẫn áp dụng thống nhất một số biện pháp được thực hiện để kiểm tra,
xác minh làm căn cứ để VKS yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc phê chuẩn biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp. Cụ thể như sau:
Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, CQĐT phải tiến hành các biện pháp
kiểm tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm. Do đó, khi có quyết đinh khởi tố vụ
án hình sự, CQĐT phải chuyển quyết định cùng hồ sơ vụ án sang VKS cùng cấp để
kiểm sát việc khởi tố. Việc kiểm tra, xác minh căn cứ khởi tố phải được thực hiện
bằng các biện pháp điều tra quy định trong BLTTHS. Theo đó, tại khoản 3 Điều
147 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định:
“Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có
thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
b) Khám nghiệm hiện trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản [23].
Như vậy, theo quy định của BLTTHS thì khi giải quyết vụ án hình sự, để ra
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố, xác định có dấu hiệu tội phạm hay không
CQĐT cũng như VKS phải căn cứ vào các biện pháp thu thập chứng cứ nêu trên.
Tuy nhiên, thực tế chứng minh nếu chỉ căn cứ vào các hoạt động nêu trên, thì nhiều
trường hợp sẽ khó xác định dấu hiệu tội phạm, hoặc chứng cứ yếu, chưa đủ thuyết
phục để buộc tội đối với người phạm tội, nhất là trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, các đối tượng thường sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản, do
59
đó, để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội, cần hướng dẫn thêm một số biện pháp
cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng khi thu thập chứng cứ xác định dấu hiệu tội
phạm để khởi tố như biện pháp nhận dạng, biện pháp nhận biết giọng nói.
Trong nội dung Điều 83, Điều 191 BLTTHS năm 2015 có quy định như sau:
Điểm d, khoản 3 Điều 83 BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
trong đó có đoạn: “...d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người
bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”
Khoản 1 Điều 191 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi cần thiết, Điều tra viên
có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết
giọng nói”
Đối với quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
theo điểm b, khoản 1 Điều 110 BLTTHS thì: “Người cùng thực hiện tội phạm hoặc
bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận
đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn”
Để xác định người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại
nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy, xác nhận đúng thì trong một số trường
hợp cũng cần cho họ nhận dạng người bị nghi thực hiện tội phạm.
Đối chiếu với các quy định trên tại Điều 83, Điều 191 BLTTHS năm 2015 thì
cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền có thể thực hiện các biện pháp nhận dạng,
nhận biết giọng nói khi kiểm tra, xác minh thông tin để khởi tố hoặc áp dụng biện
pháp ngăn chặn. Nhưng điều này lại mâu thuẫn với các biện pháp giới hạn tại khoản
3 Điều 147 BLTTHS.
Do đó, căn cứ vào thực tế khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, căn cứ vào các quy định tại Điều 83, Điều 147, Điều 191
BLTTHS năm 2015, tác giả kiến nghị các cơ quan chức năng cần thống nhất hướng
dẫn cho phép áp dụng thêm biện pháp nhận dạng và biện pháp nhận biết giọng nói
khi kiểm tra, xác minh chứng cứ xác định dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ án hình
60
sự. Từ đó, khi thực hành quyền công tố, VKS có thể trực tiếp kiêm tra, xác minh
dấu hiệu tội phạm để yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự hoặc làm rõ căn cứ để
phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
- Hướng dẫn thời hạn để ra quyết định tạm đình chỉ điều tra theo Điều 229
BLTTHS năm 2015.
BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan điều tra có quyền ra quyết định tạm đình
chỉ điều tra. Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra CQĐT phải căn cứ theo quy
định của tại điểm a, khoản 1 Điều 229 Bộ luật TTTHS như sau: “a) Khi chưa xác
định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều
tra vụ án...”
Quy định này có hạn chế là chưa rõ ràng, nên chưa thống nhất về mặt nhận
thức, dẫn đến hai cách hiểu: Cho rằng thời hạn điều tra bao gồm cả thời hạn gia hạn
điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS và cho rằng thời hạn điều tra không
bao gồm việc gia hạn thời hạn điều tra.
Mặc dù trên thực tế, đa số các cơ quan tố tụng đều vận dụng theo cách hiểu
thời hạn điều tra không bao gồm việc gia hạn thời hạn điều tra. Dù vậy, theo tác giả
bên cạnh thống nhất về mặt nhận thức, vẫn cần có hướng dẫn của các cơ quan chức
năng để làm cở sở thực hiện thống nhất trên thực tế.
- Hướng dẫn thực hiện quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 153 BLTTHS năm
2015.
Tại điểm a, khoản 3 Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự của VKS: “VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình
sự của CQĐT...”.
Theo quy định này, thì dễ dẫn đến cách hiểu, khi khi VKS hủy bỏ quyết định
không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, đồng thời sẽ ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự. Tuy nhiên, thực tế sẽ xảy ra trường hợp vướng mắc, đó là khi VKS hủy bỏ
quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT vì xác định không đủ căn cứ, nhưng
cũng chưa đủ chứng cứ xác định căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, trong
trường hợp này VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố những cũng không thể ra
61
quyết định khởi tố vụ án ngay trong trường hợp này. Như vậy, qua phân tích nêu
trên, tác giả kiến nghị xem xét ban hành hướng dẫn quy định tại điểm a, khoản 3
Điều 153 BLTTHS theo hướng: VKS khi xác định quyết định không khởi tố vụ án
hình sự của CQĐT là không có căn cứ, thì VKS chỉ cần ra quyết định hủy bỏ quyết
định này, còn quyết định khởi tố vụ án hình sự, khi nào đủ căn cứ thì sẽ ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
- Sửa đổi, hướng dẫn thực hiện một số nội dung đối với Thông tư liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa
CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố,
điều tra và truy tố. Cụ thể như sau:
+ Tại khoản 2 Điều 10 của Thông tư có quy định: khi xét thấy chưa đủ căn cứ
để phê chuẩn thì KSV trao đổi với ĐTV về những nội dung cần bổ sung chứng cứ,
tài liệu. ĐTV và KSV báo cáo lãnh đạo CQĐT và lãnh đạo VKS để xin ý kiến,
thống nhất các nội dung cần bổ sung. Trong Khoản 2 Điều 10 cũng nêu rõ yêu cầu
bổ sung chứng cứ, tài liệu của VKS phải được thể hiện bằng văn bản.
Sau khi đã bổ sung đầy đủ chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu, CQĐT phải xem xét
quyết định: hoặc rút quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can hoặc có văn bản tiếp tục đề nghị phê chuẩn. Các quyết
định của CQĐT phải kèm theo các chứng cứ, tài liệu bổ sung theo yêu cầu của VKS
để Viện kiểm sát xem xét, quyết định.
Trong trường hợp này, thông tư chưa có quy định cụ thể về thời hạn để bổ
sung chứng cứ khi có yêu cầu của VKS. Vì vậy, để thống nhất thực hiện, đề nghị
Liên ngành trung ương thống nhất thời hạn để bổ sung chứng cứ, tài liệu phê chuẩn
không quá 3 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận được yêu cầu của Viện kiểm
sát.
+ Tại Khoản 3 Điều 16 của Thông tư quy định: Trường hợp xét thấy việc khởi
tố bị can có căn cứ, nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can thì VKS ra quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định không phê chuẩn lệnh tạm
62
giam; nếu thấy cần thiết thì yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối
với bị can.”
Theo hướng dẫn trên của Thông tư thì “nếu thấy cần thiết thì yêu cầu Cơ quan
điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can”. Như vậy, khi nào thì
được xem là “cần thiết” để yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác?
Trong thực tế, trường hợp không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị
can thì phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để ngăn chặn bị can bỏ trốn hoặc
gây khó khăn cho quá trình tố tụng hình sự, không có tình trạng không áp dụng biện
pháp ngăn chặn nào đối với bị can. Đồng thời, căn cứ nào để xác định là cần thiết
thì không có hướng dấn thống nhất thực hiện, sẽ dẫn đến tùy tiện. Vì vậy không
nhất thiết quy định cụm từ “nếu thấy cần thiết”. Đề nghị bỏ cụm từ đó và chỉ cần
quy định VKS phải yêu cầu Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối
với bị can.
3.2.2. Nâng cao khả năng và năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát
viên
Kiểm sát viên là người được lãnh đạo VKS phân công trực tiếp thực hiện
quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng. Do đó, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của KSV có vai
trò to lớn đối với chất lượng thực hành quyền công tố. Lãnh đạo VKS cần chủ động
đề ra nhiều giải pháp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
KSV. Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với công tác chỉ đạo, điều hành, công tác tổ chức cán bộ:
Nghiêm túc thực hiện Kế hoạch số 13-KH/BCSĐ ngày 31/01/2018; Kế hoạch số
27/KH-VKSTC ngày 23/3/2018 của Viện KSND tối cao về luân chuyển, điều động
công chức; Kế hoạch số 372/KH-VKS ngày 16/10/2018 của Viện KSND thành phố
về luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức trong ngành
KSND Thành phố giai đoạn 2018-2020 và những năm tiếp theo. Cần rà soát, đánh
giá chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên hiện có một cách khoa học, hợp lý để phân
loại trình độ năng lực của từng người, từ đó xây dựng Kế hoạch đào tạo phù hợp.
63
Căn cứ vào đó, thực hiện tốt công tác bổ nhiệm, bố trí và sử dụng KSV thực hành
quyền công tố đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Điều động, luân chuyển,
chuyển đổi vị trí công tác KSV phù hợp với năng lực, nguyện vọng công tác. Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn hiện nay diễn biến phức tạp với nhiều thủ
đoạn tinh vi, nhiều vụ lừa đảo với số lượng người bị hại rất lớn, đặc biệt nổi lên một
số hình thức lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng, lừa đảo dưới hình thức kinh doanh
đa cấp, lừa đảo công nghệ cao...Do đó, cần phân công những KSV có trình độ,
phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị, chịu được áp lực để đảm đương tốt nhiệm
vụ được giao.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng KSV, đặc biệt là đào tạo tại
chỗ để nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên. Xác định công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, KSV là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Có đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ tốt mới có đội ngũ cán bộ có chất lượng, có năng lực, đủ bản lĩnh để đảm nhiệm
công tác được giao.
Việc đào tạo, nâng cao trình độ cho KSV phải được thực hiện thường xuyên,
nhất là nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chung và trong
thực hành quyền công tố đối với vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với hoạt
động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, KSV ngoài việc am hiểu
pháp luật, còn phải có kiến thức nhất định đối với các hoạt động điều tra. Do đó,
cần có kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu cho KSV về các hoạt động điều tra, để KSV
chủ động và thực hiện tốt các biện pháp này khi cần thiết. Hiện nay, tình trạng lừa
đảo công nghệ cao khá nhiều, dó đó, KSV cũng cần nâng cao trình độ sử dụng công
nghệ thông tin, để phối hợp hoặc yêu cầu ĐTV thực hiện thu thập chứng cứ cần
thiết. Đồng thời, đối với việc số hóa hồ sơ vụ án hình sự, hiện nay mới chỉ dừng lại
ở số hóa ở giai đoạn truy tố. Tuy nhiên, tiến tới cần thực hiện số hóa ở các giai đoạn
tố tụng khác, do đó cần KSV có khả về công nghệ thông tin. Với mặt bằng kiến
thức tin học chung hiện nay cần phải được tập huấn, đào tạo thêm nhiều mới đáp
ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, cần tăng cường bồi dưỡng tiếng anh trình độ bậc 3
khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam cho KSV để đáp ứng nhu cầu hội nhâp, bởi
64
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước, người nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay khá nhiều, nếu xảy ra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người nước
ngoài, KSV có thể thực hiện tốt vai trò của mình.
Một trong những biện pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực KSV đó là
đào tạo tại chỗ, tận dụng Kiểm sát viên có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trực tiếp
kèm cặp, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mới được bổ
nhiệm, phân công nhiệm vụ thực hành quyền công tố đối với vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Tăng cường công tác tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện nhằm tự nâng cao
năng lực của đội ngũ KS. Luôn gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong quá trình học tập, nghiên cứu. Qua đó, giúp cho
mỗi cán bộ, Kiểm sát viên nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nhiệm vụ của ngành,
mỗi KSV phải tự mình thường xuyên cập nhật, chủ động tự nghiên cứu, tích lũy
kinh nghiệm, học hỏi KSV có kinh nghiệm... nhằm đảm bảo có đội ngũ cán bộ,
KSV đủ năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm,
đạo đức lối sống, rèn luyện đức tính người cán bộ kiểm sát theo lời dạy của Bác Hồ:
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” để thực hiện công tác
thực hành quyền công tố ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của
VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới, đổi mới công tác đánh giá cán bộ, KSV.
KSV khi được phân công thực hành quyền công tố xây dựng các báo cáo đề
xuất từ khi phê chuẩn khởi tố bị can, đề xuất áp dụng pháp luật trong công tác thực
hành quyền công tố phải được Lãnh đạo duyệt, có khó khăn, vướng mắc gửi qua thư
điện tử nội bộ của Ngành đến các Phòng nghiệp vụ để nghiên cứu, hướng dẫn, qua
đó đã giúp cho KSV quận hạn chế được những thiếu sót, vi phạm. Thông báo rút
kinh nghiệm trong vụ án, qua đó hướng dẫn, chỉ ra các thiếu sót, tồn tại của các cá
nhân, đơn vị để rút kinh nghiệm chung.
Đối với công tác đánh giá cán bộ, KSV, cần đánh đúng, thực chất cán bộ,
KSV. Từ đó, mới có kế hoạc bố trí và sử dụng KSV cách hợp lý nhằm phát huy
65
năng lực của KSV. Đánh giá cán bộ là yếu tố rất quan trọng, phải được thực hiện
thường xuyên, nhất là đánh giá cán bộ để thực hiện quy hoạch, luân chuyển, đào tạo
và bố trí sử dụng cán bộ. Phải lấy hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, làm
thước đo chủ yếu đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ, KSV phải luôn theo yêu cầu
mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch. Thực hiện việc đánh giá đúng năng lực, sở
trường của từng KSV giúp cho việc bố trí, sắp xếp phát huy được sở trường của họ
từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong khi thực hành quyền công tố đối với
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bốn là, thường xuyên tập huấn cho đội ngũ KSV về thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nâng cao năng lực vận dụng hiệu
quả quyền năng đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra,
nhất là các KSV chưa có nhiều kinh nghiệm.
Khi thực hành quyền công tố, KSV được phân công phải tuân thủ các quy định
của pháp luật. Quy trình, nhiệm vụ đó được quy định cụ thể tại BLTTHS, Luật tổ
chức VKSND cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, đối với mỗi vụ
án khác nhau, mỗi giai đoạn thực hành quyền công tố khác nhau thì có những đặc
trưng riêng khác nhau. Hơn nữa, trình độ, kinh nghiệm của các KSV cũng khác
nhau đối với từng loại tội phạm. Do đó, cần thiết phải tập huấn chuyên sâu cho
KSV, nhất là KSV mới được phân công phụ trách lĩnh vực thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đối với hoạt động đề ra yêu cầu điều tra của KSV, việc thực hiện quyền năng
này, như đã phân tích ở phân thực trạng còn nhiều hạn chế. Kiểm sát viên phải chủ
động sớm hơn, tích cực hơn, trách nhiệm hơn khi thực hiện các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 về đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và điều tra. KSV
phải xác xác định việc ban hành yêu cầu điều tra là nhiệm vụ bắt buộc trong quá
trình thực hành quyền công tố, bắt đầu từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm
và trong suốt quá trình điều tra vụ án.
Trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những vấn đề quan trọng trong việc
chứng minh và chứng cứ, như thu thập chứng cứ, vật chứng, mục đích chiếm đoạt
66
tài sản, thủ đoạn gian dối, định giá tài sản, giám định,… là những vấn đề phải đặc
biệt quan tâm. Kiểm sát viên đề ra bản yêu cầu điều tra phải định hướng nội dung
giám định cho đúng, sát với vấn đề cần kết luận; phối hợp, trao đổi, yêu cầu Điều
tra viên cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ công tác giám định, định giá tài sản; cùng
với Điều tra viên nghiên cứu, đánh giá tài liệu, lựa chọn những tài liệu cần thiết
(trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường có rất nhiều tài liệu, chứng cứ liên
quan như lời nói, giấy tờ thể hiện thủ đoạn gian dối) nhằm bảo đảm kết luận giám
định, kết luận định giá tài sản,… được thực hiện khách quan, đầy đủ, kịp thời, phục
vụ hiệu quả việc giải quyết vụ án. Thực tế cho thấy, những vấn đề này phụ thuộc
phần lớn vào trách nhiệm, năng lực công tác thực hành quyền công tố mỗi Kiểm sát
viên khi được phân công giải quyết vụ án. Ngoài ra, cũng cần có quy định trách
nhiệm của KSV khi đề ra các yêu cầu, quyết định tố tụng của mình không có căn cứ
hoặc trái pháp luật.
Đối với những vụ án phức tạp, Lãnh đạo VKS phải trực tiếp kiểm tra tài liệu
chứng cứ khi cần thiết, phê duyệt Bản yêu cầu điều tra trước khi Kiểm sát viên ban
hành; có chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, kịp thời đối với Kiểm sát viên, giải quyết các
khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án cùng Kiểm sát viên.
KSV được phân công còn phải được tập huấn chuyên sâu về điều tra để có thể
trực tiếp thực hiện tốt một số biện pháp điều tra thu thập chứng cứ. Khi thực thực
hiện một số hoạt động điều tra trong quá trình thực hành quyền công tố, Kiểm sát
viên phải nghiên cứu kỹ những tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên mới thu thập,
chuyển đến để phát hiện những mâu thuẫn trong các lời khai, bản cung, những nội
dung chưa được làm rõ hoặc còn thiếu chưa được thu thập, trường hợp cần thiết,
Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng hoặc trực
tiếp xác minh. Để nâng cao chất lượng thực hiện các biện pháp điều tra của KSV,
đòi hỏi KSV phải chủ động nghiên cứu hồ sơ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát
hiện những chứng cứ còn thiếu để trực tiếp thu thập, tránh tình trạng thực hiện
mang tính hình thức, chỉ để cho đủ hồ sơ. Đồng thời, tăng cường thực hiện một số
hoạt động khác như lấy lời khai, đối chất...thay vì chỉ chủ yếu tham gia hỏi cung bị
67
can. Do đó, cần thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật đối với
quyền năng này.
Ngoài các kỹ năng chung, KSV được phân công còn phải được tập huấn
chuyên sâu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những thủ đoạn mới của tội phạm này.
Hơn nữa, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân biệt với một số tội phạm
khác tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội lừa dối khách hàng cũng như
tránh hình sự hóa các giao dịch dân sự vì nhiều vụ lừa đảo xuất phát từ các giao
dịch dân sự, vì vậy cần tập huấn nắm vững các quy định của pháp luật để thực hiện
tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Đối với KSV mới được phân công thực hiện nhiệm vụ này, phải được tập huấn
trước rồi mới phân công thực hiện vụ án cụ thể. Tổ chức tập huấn chuyên sâu, mở
rộng hình thức tập huấn trực tuyến về công tác thực hành quyền công tố theo hướng
tổng kết thực tiễn, giải quyết những khó khăn vướng mắc bất cập nảy sinh từ thực
tiễn. Có như vậy, trình độ, năng lực của KSV mới đáp ứng được nhiệm vụ được
phân công.
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra
Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có VKS và CQĐT khi
thực hành quyền công tố có vai trò rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, trong đó có nêu: “Tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng cơ quan, không hữu
khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm” [2]. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mỗi cơ quan đều có quyền năng pháp lý riêng,
tuy nhiên thống nhất trong nhận thức, đánh giá chứng cứ, tạo thuận lợi cho quá trình
giải quyết vụ án, thì việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan là hết sức
cần thiết, phối hợp hiệu quả sẽ tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng thực hành
68
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, góp phần thực hiện
mục tiêu đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý yêu cầu CQĐT và VKS thực hiện nghiêm
túc là Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về mối quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của
BLTTHS. Các cơ quan tố tụng ở địa phương cần quán triệt thực hiện nghiêm túc
Thông tư nói trên. Cần phải nhận thức rằng quan hệ giữa CQĐT và VKS được hình
thành một cách tất yếu, thể hiện bằng các hình thức và cách thức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật thông qua
hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền
pháp lý nhằm giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách khách quan,
công bằng và đúng người, đúng tội.
Trong quá trình thực hành quyền công tố, CQĐT và VKS phối hợp trong từng
hoạt động điều tra và trong suốt quá trình điều tra, trong đó đối với án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản cần đặc biệt quan tâm:
Một là, hồ sơ, tài liệu đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, các lệnh
bắt, tạm giam,... của CQĐT phải đảm bảo có đủ căn cứ xác định người đó đã thực
hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi đến Viện kiểm sát.
Hai là, quá trình điều tra, CQĐT phải thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện
kiểm sát (Điều 162, 167, 236, 238 BLTTHS). Nếu CQĐT không nhất trí với quyết
định của VKS thì CQĐT vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp
trên trực tiếp.
Ba là, ĐTV và KSV chủ động phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trao đổi kết
quả điều tra và dự kiến tình huống phát sinh, giải quyết mâu thuẫn trong quá trình
điều tra, đảm bảo thời hạn, đúng quy định. Mặt khác, KSV chủ động kịp thời đề ra
yêu cầu điều tra, kịp thời phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra,
phối hợp trong hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,... nắm chắc tiến độ
điều tra, thống nhất những vấn đề cần điều tra, xác minh với ĐTV, hạn chế thấp
69
nhất án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phấn đấu không để xảy ra oan, sai, để lọt tội
phạm.
Bốn là, Lãnh đạo CQĐT, VKS cần thường xuyên trao đổi, phân công những
ĐTV, KSV có kinh nghiệm, có trình độ để tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đặc
biệt, trong những vụ án phức tạp, hoặc có quan điểm không thống nhất giữa ĐTV
và KSV khi thực hiện yêu cầu điều tra, thì sự tham gia của lãnh đạo hai ngành là rất
cần thiết. Trường hợp CQĐT, VKS địa phương không thống nhất quan điểm xử lý
phải kịp thời báo cáo VKSND tối cao để được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời, hiệu
quả.
Năm là, tăng cường hiệu quả việc thỉnh thị, trả lời thỉnh thị, tăng cường công
tác hướng dẫn và giải đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm và thực hiện
nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố. VKS
cấp dưới tăng cường tính chủ động, thực hiện nghiêm việc thỉnh thị VKS cấp trên
trong phạm vi thẩm quyền, lĩnh vực công tác được phân công theo Chi thị số
03/CT-VKSTC ngày 28/12/2017 của VKSND tối cao về tăng cường việc thỉnh thị,
trả lời thình thị, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm trong
công tác thực hành quyền công tố.
Cuối cùng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thường xuyên, chủ động
sơ kết đánh giá kết quả công tác phối hợp khi thực hành quyền công tố đối với vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đẩy mạnh các cấp độ phối hợp. Từ đó tiến hành xây
dựng quy chế phối hợp giữa CQĐT – VSK – TA trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự nói chung và quy chế phối hợp giữa
CQĐT – VKS khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ cho cán bộ, Kiểm sát
viên khi thực hiện nhiệm vụ nói chung và khi thực hành quyền công tố nói riêng
Nhiệm vụ thứ tư trong 8 nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp được nêu tại
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị là: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế
70
độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng
bước hiện đại hoá các cơ quan tư pháp…Có chính sách tiền lương, phụ cấp và
chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp”... [2]. Như vậy, trong giai đoạn
hiện nay, việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị phục kỹ
thuật nhằm phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố là một yêu cầu tất yếu,
để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hơn nữa, thực tế cho thấy việc đầu tư cho
công tác tư pháp trong những năm vừa qua đa số là đầu tư cơ sở vật chất, chứ đầu tư
về kỹ thuật phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ thì còn nhiều hạn chế. Vì
vậy, công tác xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện
khác cho công tác tư pháp nói chung và cho hoạt động thực hành quyền công tố cần
phải thực hiện theo hướng như sau:
Một là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, có chế độ chính sách hợp lý với cán
bộ, KSV nhằm đảm bảo cho cán bộ, KSV của VKS các cấp có đủ điều kiện để hoàn
thành nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động của VKS trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, phải xây dựng kế hoạch, xác định kinh phí, cơ sở
vật chất, phương tiện cần thiết trong từng giai đoạn phục vụ hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKS nói chung và thực hành quyền công
tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Hai là, xác định loại, số lượng cụ thể về cơ sở vật chất, phương tiện, từ đó tăng
cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của VKS nói
chung và hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng, đặc biệt phương tiện kỹ
thuật số phục vụ số hóa hồ sơ vụ án hình sự của VKS theo kế hoạch trong từng năm
và từng giai đoạn.
Ba là, xây dựng các quy định, quy chế chặt chẽ để quản lý cũng như sử dụng
kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạt động thực
hành quyền công tố của VKS.
71
Tiểu kết chương 3
Trong Chương 3 luận văn trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thực
hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 2016-2019, chương 3 của luận văn đã nêu
những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, luận văn đã phân tích các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, luận văn đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Gồm: giải pháp pháp
luật, giải pháp về nâng cao chất lượng kiểm sát viên, giải pháp về tăng cường phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là giữa CQĐT và VKS trong thực
hành quyền công tố và giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
nghiệp vụ.
Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, quá trình thi hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc nhất định do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của chương 3 góp phần
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
72
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, trong phạm vi của
một luận văn thạc sĩ, tác giả đã làm rõ một số vấn đề sau:
1. Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc Viện kiểm sát theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Hoạt động này được thực hiện từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi
Cơ quan điều tra kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
2. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, khi thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, VKS thực hiện các hoạt động như:
thực hiện quyền công tố trong khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, quyền huỷ bỏ các quyết
định của Cơ quan điều tra theo luật định và quyền yêu cầu truy nã bị can; quyền
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự...
3. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự tại quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2016-2019 đã đạt được nhiều thành tựu
nhất định, đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có hạn chế về quy định của pháp luật hiện hành, năng lực, trách nhiệm của
KSV thực hành quyền công tố và một số nguyên nhân khác.
4. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
73
pháp, yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu tài sản của người dân cũng như yêu cầu đấu
tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp
hoàn thiện BLTTSH và các văn bản hướng dẫn thi hành, nâng cao năng lực của
người tiến hành tố tụng, tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng và tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.
Trong quá trình nghiên cứu, với sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn cùng các
chuyên gia, học viên đã cố gắng để đạt được các kết quả nêu trên. Tuy nhiên, do
thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, quý thầy cô và bạn đọc
để luận văn được hoàn thiện hơn.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thế Băng (2019) Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia
Lai, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
2. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Công an-Bộ Tư pháp-TANDTC-VKSNDTC (2001) Thông tư liên tịch
ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “các
tội phạm xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999, Hà Nội.
6. Nông Thị Chuyên (2019) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện khoa học xã hội.
7. Đặng Huy Cường (2014) Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ các vụ án tham nhũng trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
8. Lam Thị Dung (2019) Thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Thị Tuyết Hoa (2002) Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
1
12. Học viện tư pháp (2002) Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13. Học viện tư pháp (2014) Giáo trình kỹ năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
14. Bùi Văn Hưng (2006) Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
15. Lê Thanh Hưng (2015) Chức năng thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
16. Lê Đình Phong (2019) Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án ma túy từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện khoa học xã hội.
17. Lê Tuấn Phong (2017) Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực
hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Hải Phong (2014) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.
19. Lê Văn Quang (2017) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
20. Quốc hội (2013) Hiến Pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
21. Quốc hội (2017) Bộ Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội
22. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2
25. Quốc hội (2002) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (2015) Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Phan Thị Sa (2018) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sỹ
Luật học, Học Viện khoa học xã hội.
29. Lê Khắc Sơn (2019) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
đối với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện khoa học xã hội.
30. Nguyễn Tiến Tài (2018), Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài
ản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
31. Xuân Thanh (2019) “Dân số quận 1 giảm”, tuc/dan-so-quan-1-giam-1491858440>, (04/11/2019). 32. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb tư pháp, Hà Nội. 33. Nguyễn Ngọc Tỉnh (2019) Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội. 34. Tòa án nhân dân tối cao (2019) Công văn 212/TANDTC-PC 2019 ngày 13/9/2019 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, mục 10, Phần I, Hà Nội. 35. Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS, Hà Nội. 36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016) Giáo trình Luật Hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016) Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 38. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017) Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, lưu hành nội bộ, Hà Nội 39. Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Quốc phòng (2018) Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội. 41. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2016, thành phố Hồ Chí Minh. 42. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2017) Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2017, thành phố Hồ Chí Minh. 43. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2018, thành phố Hồ Chí Minh. 44. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2019, thành phố Hồ Chí Minh. 45. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2015) Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, thành phố Hồ Chí Minh. 46. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo tổng kết công tác năm 2016, thành phố Hồ Chí Minh. 47. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2017) Báo cáo tổng kết công tác năm 2017, thành phố Hồ Chí Minh. 48. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, thành phố Hồ Chí Minh. 49. Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo tổng kết công tác năm 2019, thành phố Hồ Chí Minh PHỤ LỤC Bảng 2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong khởi tố vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Từ năm 2016 đến năm 2019) Năm VKS yêu cầu VKS trực tiếp khởi Hủy quyết định CQĐT khởi tố không khởi tố vụ tố án 2016 0 0 0 2017 00 00 0 2018 01 0 01 2019 00 0 0 Tổng 01 00 01 (Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1) Bảng 2.2: Số liệu khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và khởi tố bị can (Từ năm 2016 đến năm 2019) Số vụ Bị can 2016 2017 2018 2019 Tổng số Số vụ 35 11 13 10 69 Số bị can 11 05 09 07 33 (Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1) Bảng 2.3: Số vụ án, số bị can VKSND quận 1 hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố và khởi tố yêu cầu điều tra (Từ năm 2016 đến năm 2019) Năm Số vụ Số bị can Số vụ Số vụ Số bị Số vụ Số bị VKS hủy hủy bỏ VKS hủy VKS can VKS can bỏ Quyết Quyết bỏ quyết yêu VKS khởi VKS định định định cầu cơ yêu tố yêu khởi khởi khởi tố không quan cầu cơ cầu tố yêu tố khởi tố điều quan điều tra cầu tra khởi điều điều tra tố tra khởi tố 2016
2017
2018
2019 00
00
00
00 00
00
00
00 00
00
01
00 00
00
01
00 00
00
01
00 00
00
00
00 00
00
00
00 Tổng số 00 00 01 01 01 00 00 (Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1) Bảng 2.4: Số liệu áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam (Từ năm 2016 đến năm 2019) Tạm giữ Tạm giam Năm Tổng số Đã giải quyết Tổng số Đã giải quyết 2016 06 08 07 06 2017 03 03 03 03 2018 06 07 06 06 2019 05 05 04 05 Tổng 20 23 20 20 (Nguồn: Báo cáo tổng kết VKSND Quận 1)3
4
5
6
7