VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRẦN THANH
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRẦN THANH
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy, trung thực, chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học - Xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học - Xã hội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Nguyễn Trần Thanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CÁC VỤ ÁN MA TÚY ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy ..... 6
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
................................................................................................................................ 15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy tại
cấp Huyện ............................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ
ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .................. 26
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến thực hành quyền
công tố trong các vụ án ma túy của trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu ................................................................................................................ 26
2.2. Những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém thực hành quyền công tố các
vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc và nguyên nhân ............................................. 28
2.3. Những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố các vụ án
ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và nguyên nhân .............. 44
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH ĐÚNG
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU ..................................................................................... 54
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ án ma túy tại
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ......................................................... 54
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ án ma túy
tại huyện Xuyên Mộc, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ................................................... 56
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 63
DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự
BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS
Cơ quan Cảnh sát điều tra
CQCSĐT
Cơ quan điều tra
CQĐT
Điều tra viên
ĐTV
Hội đồng xét xử
HĐXX
Kiểm sát viên
KSV
Nhà xuất bản
NXB
Tòa án
TA
Tòa án nhân dân
TAND
Thực hành quyền công tố
THQCT
Tố tụng hình sự
TTHS
Viện kiểm sát
VKS
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội mua bán trái phép chất ma túy với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai đoạn từ năm 2014– 2018.................................................................................................................. 31
Bảng 2.2. So sánh tình hình áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ trong vụ án ma túy với
vụ án nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai đoạn từ năm 2014– 2018. ..... 32
Bảng 2.3. So sánh số vụ án ma túy TAND huyện Xuyên Mộc đưa ra xét xử với số
vụ án ma túy VKSND huyện truy tố với giai đoạn từ năm 2014 – 2018 ................. 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm ma túy là một trong những loại tội phạm nguy hiểm gây ảnh
hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, đến an ninh, trật tự, sự
ổn định và phát triển đất nước, hiện nay với xu thế hội nhập và phát triển toàn
cầu, tội phạm về ma túy hoạt động với phương thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn,
táo bạo hơn, mặc dù nước ta đã đầu tư rất nhiều công sức, tiền của nằm ngăn
chặn loại tội phạm này nhưng hiện nay tội phạm về ma túy vẫn diễn ra rất phức
tạp và có chiều hướng gia tăng. Vấn nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa
lớn của nhân loại, là một trong những nguyên nhân gây nên những hành vi phạm
tội, gây mất an ninh trật tự, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá
hoại hạnh phúc gia đình, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và đặc biệt là lây truyền
HIV/AIDS trong cộng đồng. Trong những năm gần đây, mặc dù trên các phương
tiện thông tin đại chúng đã cảnh báo về tác hại của ma túy đối với con người,
nhưng vẫn còn không ít người chưa thấy rõ tác hại của nó, trên thế giới hiện nay
có khoảng hơn 250 triệu người nghiện ma túy. Tại Việt Nam có 63/63 tỉnh,
thành và trên 93% số xã, phường có người nghiện ma túy, toàn quốc có gần
170.000 người nghiện ma túy; đối tượng nghiện thuộc mọi tầng lớp nhân dân
(trên 80% là lao động phổ thông, thất nghiệp) và thuộc mọi độ tuổi (khoảng 70%
trong độ tuổi từ 18-35 tuổi). Tại địa bàn huyện Xuyên Mộc, số người nghiện ma
túy có chiều hướng gia tăng đến mức đáng lo ngại. Do đó việc giải quyết tội
phạm ma túy là vấn đề hết rất bức thiết tuy nhiên việc xử lý trong thực tế lại gặp
nhiều khó khăn hức tạp nhất là vấn đề THQCT đối với loại án này vì vậy cần
phải có cách nhìn thống nhất để việc xử lý không còn khó khăn, vướng mắc.
Công tác này còn nhiều khó khăn trong khâu chỉ đạo. Vì những lý do trên, tôi
chọn đề tài nghiên cứu THQCT liên quan đến loại tội phạm này. Nghiên cứu làm
rõ thêm những quy định của pháp luật và việc áp dụng những quy định đó trong
1
thực tế từ đó đề xuất các giải pháp để công tác THQCT đối với các vụ án ma túy
tại Huyện Xuyên Mộc được hoàn thiện. Từ thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài
“Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THQCT đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau tiêu biểu các
công trình:
- Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạtđộng
tư pháp trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội [25];
- Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
độngthực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở
tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[24];
- Hoàng Công Hạnh (2011), Thực trạng chất lượng thực hành quyềncông
tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội [14];
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tốtụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[13];
- Nguyễn Hồng Chương (2012), Những vấn đề lý luận về thực hànhquyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội [12];
- Nguyễn Diệp Liên (2017), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền
2
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã
hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội [15].
- Nguyễn Mạnh Tùng (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội [30].
- Hà Minh Loan (2017), Thực hành quyền công tố trong giao đoạn điều
tra các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chấn, Tỉnh Yên Bái; Luận
văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội [16].
- Mai Đắc Biên (2018), những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học
viện Công an nhân dân, Hà Nội [1].
- Lại Viết Quang (2018), áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội
phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội
[18].
- Trần Công Phàn (2019), Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo
pháp luật mới; sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội [17].
Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào bàn về THQCT trong các vụ
án ma túy tại Huyện Xuyên Mộc mà chỉ nói về các vấn đề liên quan đến
THQCT, các nghiên cứu này là nguồn tham khảo quý trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nhằm đưa ra quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hành đúng quyền công
tố trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.2. Nhiệm vụ
3
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ án ma
túy của VKSND như khái niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự thủ tục và các yếu tố
bảo đảm thực hành quyền công tố các vụ án ma túy của VKSND.
- Làm rõ thực trạng THQCT, đưa ra các giải pháp đảm bảo THQCT trong
các vụ án ma túy của Huyện Xuyên Mộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý
luận và thực tiễn thực hành quyền công tố các vụ án ma túy của VKSND huyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong cácvụ án ma túy của
VKSND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong khoảng thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các chủ trương, Nghị quyết, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả dùng phương pháp nghiên cứu tổng
hợp, so sánh, phân tích để nghiên cứu đề tài
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ
thêm lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng công tác thực hành
4
quyền công tố trong các vụ án ma túy của VKSND cấp huyện nói chung, của
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu nói riêng trong giai đoạn hiện nay,
qua đó có thể làm nguồn tham khảo trong việc công tác THQCT trong các vụ án
ma túy ở cấp Huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ
án ma túy của VKSND.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyển công tố đối trong các vụ án ma
túy của tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hành đúng quyền công
5
tố trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ CÁC VỤ ÁN MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án
ma túy
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án ma túy
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Một trong những chức năng cơ bản của VKS là quyền công tố được quy
định cụ thể tại Điều 137 trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2002)
và Điều 107 Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật TTHS khác cũng có
những quy định tương tự về chức năng thực hành quyền công tố của VKS.
Nếu giải quyết tốt việc xác định khái niệm quyền công tố giúp cho việc
xác định nhiệm vu, quyền hạn của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Có nhiều cách hiểu về quyền công tố dẫn đến giới hạn, phạm vi quyền
công tố cũng được hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn
tại trong lĩnh vực TTHS, một số lại cho rằng nó có mặt trong tất cả các lĩnh vực
tư pháp. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau tuy nhiên các quan điểm này đều có
cở sở của nó vì các nhìn nhận này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật. Có nhiều quan điểm còn hạn chế nhất định nhưng nhìn ở
khía cạnh khoa học hay thực tiễn đều có ảnh hưởng nhất định đến vai trò của
VKS trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố của VKS, có
6
thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính như sau:
- Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS
và đưa ra khái niệm công tố: “Quyền nhân danh nhà nước thực hiện các chức
năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội
phạm, để truy tố và để buộc tội người phạm tội tước tòa án nhằm đạt được mục
đích xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần đảm bảo các
quyền tự do của con người, cũng như các lợi ích của xã hội và của nhà nước”
[11, tr.1-12]. Quan hệ giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan
hệ giữa cái riêng và cái chung. Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm
1980 khi Hiến pháp chưa có quy định về chức năng thực hành quyền công tố của
viện kiểm sát và cũng xuất phát từ quan niệm phổ biến của các nhà TTHS học
Xô viết trước đây.
- Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của VKSND thay mặt Nhà nước
bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật
tức là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra
cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật [29,
tr.85-86]. Vì vậy, VKS thực hành quyền công tố không chỉ trong TTHS mà cả
trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác.
- Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại phiên
tòa với những tội danh cụ thể thông qua hoạt động chứng minh có căn cứ và
đúng pháp luật được thể hiện trong bản cáo trạng. Những người theo quan điểm
này cho rằng việc thực hiện quyền công tố như vậy mới có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân [26, tr.86-88].
- Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ
quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét
xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [28, tr.204]. Quan điểm này phổ
7
biến trong các Nhà nước có sự phân chia quyền lực.
Do các quan niệm khác nhau như trên về quyền công tố cho nên dẫn đến
cách lí giải khác nhau về phạm vi thời gian cũng như không gian của quyền công
tố. Về không gian, đa số các quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực duy nhất là TTHS nhưng cũng có quan điểm cho rằng quyền công tố được
thực hiện trong cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như TTHS, tố tụng dân sự,
kinh tế, lao động. Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố cũng chưa
được nhận thức thống nhất. Ngay trong TTHS cũng có người cho rằng quyền
công tố có trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; người khác lại cho rằng
quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Các quan điểm còn hạn chế:
- Hoặc là thể hiện sự phụ thuộc của chức năng quyền công tố vào kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKS; coi quyền công tố chỉ là hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
- Xem quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một. Hay coi
quyền công tố chỉ có phạm vi trong giai đoạn tố tụng ở cấp sơ thẩm.
Hạn chế chung nhất trong các công trình nghiên cứu về quyền công tố là
hầu như các tác giả chưa thống nhất trong việc xác định hoạt động nào của VKS
là để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, hoạt động nào là để thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, đa số các tác giả
cho rằng hai chức năng trên của viện kiểm sát vừa có tính độc lập tương đối vừa
liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có một số nội
dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự thống nhất trong
chức năng của viện kiểm sát.
Trên thực tế quyền công tố có đặc điểm sau đây: VKS được nhà nước ủy
quyền, quyền công tố của mình, thay mặt nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội.
Từ những nhận thức trên, có thể rút ra khái niệm: Quyền công tố là quyền
8
thuộc về Nhà nước, do VKSND thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc
tội đối với người phạm tội bằng các hoạt động cụ thể như thu thập chứng cứ
buộc tội, truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình
được Bộ luật TTHS giao cho để thực hiện quyền công tố thì cũng xuất hiện khái
niệm THQCT. Đây là khái niệm có liên hệ mật thiết với khái niệm quyền công
tố bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà nước với người
thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà nước là truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa
là phát sinh quyền công tố và cơ quan dùng các quyết định cụ thể được pháp luật
quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội chính là cơ quan thực
hiện quyền công tố. Về khái niệm THQCT hiện nay cũng có nhiều quan điểm
khác nhau tuy nhiên, theo từ điển Luật học: “THQCT là việc sử dụng tổng hợp
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử”
[34,tr.188].
Để hiểu một cách toàn diện về THQCT cần xác định đầy đủ vấn đề sau:
Đối tượng THQCT là tội phạm và người phạm tội. Với chức năng, nhiệm
vị của mình, thực hành quyền công tố có đối tượng là tội phạm và người phạm
tội. Khi có sự việc phạm tội xảy ra, Cơ quan công tố - Viện kiểm sát- phải áp
dụng mọi nhiệm vụ quyền hạn của pháp luật để kịp thời phát hiện tội phạm, khởi
tố, điều tra làm rõ tội phạm, người hoặc pháp nhân phạm tội. Những hoạt động
của VKS để thực hiện quyền công tố là tiếp nhận mọi tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, yêu cầu CQĐT tiến hành kiểm tra xác minh tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phê chuẩn các quyết định tố tụng của
CQĐT, có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKS sử dụng quyền năng của mình
9
theo quy định của pháp luật thay mặt nhà nước buộc tội đối với người phạm tội
từ giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy
tố, giai đoạn xét xử [23].
Nội dung thực hành quyền công tố
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là hoạt động mở đầu cho hoạt động tố tụng
do đó hoạt động của VKS trong giai đoạn này chính là nội dung đầu tiên trong
THQCT của VKS;
- VKS trực tiếp áp dụng thay đổi các biện pháp ngăn chặn hay phê chuẩn,
không phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn theo yêu cầu của CQĐT;
- Truy tố bi can ra tước TA và bảo vệ quyết định truy tố thông qua hoạt
động công tố tại TA. Đồng thời kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo
thủ tục phúc thẩm khi thấy có sự vi phạm về nội dung.Quyết định chấm dứt việc
THQCT bằng việc ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.
Có thể kết luận: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc
Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định
để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội,
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm đảm bảo mọi tội phạm phải được phát
hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.1.3. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy
Khái niệm chất ma túy:
Theo nội dung của 3 Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống và
kiểm soát chất ma túy (năm 1961, 1971 và 1988) mà Việt Nam là thành viên vào
năm 1997 thể hiện không chỉ các chất ma túy, chất hướng thần và tiền chất thiết
yếu tham gia vào danh sách có tên trong danh mục mà còn là các cây tự nhiên có
chứa chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, các chế phẩm có chứa
chất ma túy, được quy định kiểm soát rất chặc chẽ và phù hợp với từng loại
tương ứng. Ngoài danh mục liệt kê các chất ma túy bị kiểm soát, thì 3 Công ước
10
này không đưa ra khái niệm thống nhất về chất ma túy.
Tại Việt Nam, theo Điều 2 Luật số 13/VBHN-VPQH ngày 23/7/2013 về
phòng, chống ma túy thì khái niệm ma túy gồm chất gây nghiện và hướng thần
được hiểu như sau:
“...
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều
chế, sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban
hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được
quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại
Khoản 2 và Khoản 3 Điều này.
6. Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây
cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định”
[32].
Trong vụ án ma túy để xử lý tội phạm, Cơ quan tiến hành tố tụng phải căn
cứ vào tên chất ma túy. Trong các vụ án ma túy có thu giữ vật chứng là chất ma
túy thì tên của chất ma túy đó phải được thể hiện kết luận giám định của Cơ
quan có thẩm quyền giám định chất ma túy.
Khái niệm tội phạm về ma túy:
Hiện nay trên thế giới các quốc gia khác nhau có khái niệm tội phạm về
ma túy cũng khác nhau: Ở Thái Lan tại Điều 3 trong luật về các biện pháp trấn
áp người phạm tội liên quan đén ma túy thì khái niệm về tội phạm ma túy được
hiểu là “phạm tội liên quan đến ma túy” [33, tr.327], còn trong Bộ luật kiểm soát
toàn diện các chất ma túy nguy hiểm năm 2002 của Philippines thì tội phạm ma
11
túy được khái niệm là “Buôn bán trái phép, gieo trồng, chuyển giao, quản lý,
phân phối, sản xuất, mua bán, vận chuyển, phân bổ, nhập khẩu, xuất khẩu và sở
hữu trái phép bất kỳ loại ma túy nguy hiểm hoặc tiền chất và hóa chất cần thiết
bị kiểm soát” [33, tr.158-159].
Bộ luật hình sự và Luật phòng, chống ma túy Việt Nam chưa có khái niệm
tội phạm ma túy tuy nhiên trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (BLHS năm 2015), có thể đưa ra khái niệm tội phạm về ma túy
như sau: Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định tại BLHS năm 2015 và được sửa đổi, bổ sung năm 2017, do người đủ trách
nhiệm hình sự cố ý, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về
các chất ma túy gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế,
trật tự xã hội, đạo đức sức khỏe của con người.
Dấu hiệu để nhận biết tội phạm ma túy, đầu tiên phải xác định được đó có
phải là hành vi liên quan đến ma túy bất hợp pháp hay không, đồng thời xem xét
hành vi này có phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm
(theo quy điịnh tại Điều 3 Luật số 13/VBHN-VPQH ngày 23/7/2013 về phòng,
chống ma túy) hay không. Các hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tàng trữ,
tổ chức sử dụng trái phep chất ma túy… Các hành vi này đều xâm phạm đến chế
độ độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần được quy đinh trong Chương XX “Các tội phạm về ma túy” từ
Điều 247 đến Điều 259 BLHS năm 2015, đều là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện các hành vi nguy hiểm
nêu trên một cách cố ý được coi là tội phạm về ma túy.
Tội phạm ma túy là cở sở cấu thành nên vụ án ma túy, là đối tượng chủ
yếu để các Cơ quan tố tụng có thẩm quyền tiến hành điều tra làm rõ hành vi
phạm tội để xử lý các vụ án về ma túy.
Cấu thành tội phạm của các tội phạm về ma túy:
- Khách thể: Xâm phạm chế độ quản lý nhà nước về chất ma túy;
- Khách quan: Hành vi được quy định trong 13 điều từ Điều 247 đến Điều
12
259;
- Chủ thể: Bất cứ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ
tuổi theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015;
- Chủ quan: Người thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực
tiếp biết rõ là bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Khái niệm vụ án ma túy:
Án ma túy là một trong các vụ án hình sự, khái niệm của nó bắt nguồn từ
khái niệm “vụ án hình sự.” Theo từ điển luật học “Vụ án hình sự là vụ việc phạm
pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự đã được Cơ
quan điều tra khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo trình tự
thủ tục đã được quy định” [10,tr.170-171]. Với khái niệm vụ án có thể hiểu “vụ
án ma túy” là những vụ việc phạm tội liên quan đến ma túy đã bị phát hiện khởi
tố, điều tra giải quyết theo quy định của BLHS. Vụ án ma túy là vụ án hình sự
được khởi tố về một hoặc một số quy định trong BLHS mà căn cứ khởi tố ở đây
là các tội phạm về ma túy được BLHS năm 2015 quy định tại chương XX “Các
tội phạm về ma túy” gồm 13 điều (từ Điều 247 đến Điều 259). Từ phân tich trên
có thể đưa ra khái niệm: “Vụ án ma túy là vụ phạm pháp về ma túy đã được Cơ
quan có thẩm quyền theo luật định kiểm tra, xác minh xác định hành vi phạm tội
về ma túy được quy định trong Bộ luật hình sự đã xảy ra và đã có quyết định
khởi tố vụ án hình sự đối với vụ phạm pháp đó để điều tra giải quyết theo quy
định của tố tụng hình sự” [17, tr.18].
1.1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của
Viện kiểm sát nhân dân cấp Huyện
Thực hành quyền công tố đối với vụ án ma túy có đầy đủ những nội dung
cũng như đặc điểm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát đối với vụ án
hình sự nói chung nhưng chứa đựng những đặc điểm riêng đối vói các vụ án ma
túy. Những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong các vụ án về ma
túy đó là: phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
13
một số hoạt động điều tra giám định hoặc tự mình ra quyết định giám định chất
ma túy. Giám định chất ma túy là một hoạt động tố tụng bắt buộc trong việc
khám phá, điều tra, truy tố và xét xử vụ án ma túy. Do vậy, thực hành quyền
công tố của VKS phải gắn chặt với việc giám định chất ma túy. Một đặc điểm
riêng biệt nữa đối với thực hành quyền công tố là việc xem xét phê chuẩn, không
phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và tạm giam. Trong nhóm tội phạm về ma
túy thì đại đa số là tội nghiêm trọng trở lên, hơn nữa, người bị buộc tội trong
nhóm tội này thông thường là những người có nhân thân xấu, nơi cư trú không
ổn định, thường có ý thức chống đối cơ quan tiến hành tố tụng, chối tội…Do
vậy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên đối với người bị buộc tội
trong vụ án ma túy phải được đặt ra khi giải quyết vụ án ma túy, kể cả trường
hợp tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Từ những phân tích, đánh giá
trên, có thể khái quát: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của Viện
kiểm sát nhân dân cấp Huyện là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu TNHS, buộc tội
đối với người phạm tội về ma túy nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt
tội phạm.”
1.1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện
- VKS chủ thể duy nhất của THQCT về tội phạm ma túy phải tuân thủ
chính xác và đầy đủ quy định của pháp luật;
- Thực hành quyền công tố gắn chặt với hoạt động yêu cầu hoặc trực tiếp
ra quyết định giám định chất ma túy:
Kết luận giám định là một trong những chứng cứ quan trọng để xác định
việc người bị buộc tội phạm tội hay không phạm tội. Do vậy, ngay từ khi thu giữ
14
được chất nghi là ma túy (bao gồm cả tiền chất về chất ma túy), các cơ quan tiến
hành tố tụng phải tiến hành giám định chất ma túy để xác định có phải là chất ma
túy hay không, trọng lượng (thậm chí cả hàm lượng) chất ma túy. Do đó, trong
mọi vụ án về ma túy, VKS phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giám định hoặc tự mình ra quyết
định giám định chất ma túy để phục vụ việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên đối với người bị buộc tội
trong vụ án ma túy phải được đặt ra khi giải quyết vụ án ma túy.
Như trên đã trình bày, phân tích, trong nhóm tội phạm về ma túy thì đại
đa số là tội nghiêm trọng trở lên, hơn nữa, người bị buộc tội trong nhóm tội này
thông thường là những người có nhân thân xấu, nơi cư trú không ổn định,
thường có ý thức chống đối cơ quan tiến hành tố tụng, chối tội. Do vậy, phải áp
dụng các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ,
tạm giam đối với tất cả các vụ án về ma túy. Những hoạt động này gắn chặt với
việc thực hành quyền công tố của VKS, đó là phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc
hủy bỏ các quyết định, lệnh áp dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT, phải xem
xét tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định, lệnh áp dụng biện pháp ngăn
chặn nêu trên của Tòa án, Hội đồng xét xử.
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố trong các
vụ án ma túy
1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
Mọi hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ độc quyền
quản lý các chất ma túy là xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước đối
với các chất ma tuý. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào xâm phạm đến chính
sách độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy cũng đều bị xử lý hình sự
mà tùy vào từng trường hợp quy định cụ thể mới truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có trường, hợp người dưới 16 tuổi có hành vi trồng cây thuốc phiện, cây cô ca,
15
cây cần sa các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247 BLHS thuộc loại tội
phạm ít nghiêm trọng), hành vi này đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của
Nhà nước đối với các chất ma túy. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS
năm 2015 (quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) thì chủ thể tội này phải
là người từ đủ 16 tuổi trở lên, cũng có trường hợp chủ thể đủ năng lực trách
nhiệm hình sự có hành vi xâm phạm đến chính sách độc quyền đối với chất ma
túy của Nhà nước ở hành vi này thì phạm tội nhưng đối với hành vi xâm phạm
khác phải có điều kiện kèm theo mới phạm tội, ví dụ: Tại Điều 249 BLHS chỉ
cần người nào có hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự không cần quy định định lượng chất ma túy nhưng tội tàng trữ trái
phép chất ma túy quy định tại điểm c Điều 249 BLHS thì hành vi tàng trữ trái
phép Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 phải có khối lượng từ 0,1 gam trở lên mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì
vậy, khi thực hành quyền công tố, KSV phải xem xét, đánh giá xem có đầy đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm về ma túy hay không? Ai là người thực hiện hành
vi phạm tội về ma túy. KSV phải áp dụng triệt để các biện pháp tố tụng hình sự
thuộc thẩm quyền để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do vậy, đối tượng của
THQCT trong các vụ án ma túy chỉ có thể là tội phạm và người phạm tội về ma
túy.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
Khi xem xét vấn đề này cần phải toàn diện, đầy đủ bởi lẽ niện nay chưa có
ý kiến thống nhất, việc xác định đúng đắn phạm vi thực hành quyền công tố có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
thực hành quyền công tố nói chung và hoạt động THQCT đối với các tội về ma
túy nói riêng nhằm đảm bảo: Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do,
16
danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra khách quan, toàn
diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; truy tố, xét xử phải được phát hiện kịp
thời; sai sót vi phạm phải được khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, tác giả xác định phạm vi của hoạt
động thực hành quyền công tố đối với các vụ án ma túy bắt đầu từ khi VKS thực
hiện việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm
ma túy và kết thúc khi bản án do tòa án tuyên có hiệu lực pháp luật.
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
1.2.3.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (gọi
chung là tố giác, tin báo về tội phạm) nói chung trong đó tin báo về tội phạm ma
túy nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Việc tiếp nhận tin báo, tố giác làm
cơ sở cho việc điều tra, xác minh giải quyết tin báo để khởi tố hay không khởi tố
vụ án.
Nếu như trước đây BLTTHS năm 2003 quy định VKS chỉ thực hiện hoạt
động “kiểm sát” việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi chung
là Cơ quan điều tra) làm cho hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đối với việc
giải quyết tố giác tin báo về tội phạm ma túy mang tính thụ động, đứng ngoài
việc giải quyết, khi nào CQĐT xác minh, kết luận, chuyển hồ sơ xác minh kèm
theo kết luận khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự các vụ án ma túy, thì lúc
đó VKS mới kiểm sát hồ sơ và có quan điểm về việc giải quyết đó. Vì vậy công
tác kiềm sát giải quyết tin báo gặp nhiều khó khăn. Thì công tác thực hành quyền
công tố đối với việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm ma túy được Điều 159
BLTTH năm 2015 quy định cụ thể từ kiểm sát hồ sơ sang THQCT với những
quy định cụ thể.
17
1.2.3.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra trong các vụ án ma túy
Nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội về ma túy đều phải được xử lý đúng
người, đúng tội, không để xảy ra oan sai, xâm phạm đến quyền con người. Khi
THQCT trong giai đọan điều tra trong các vụ án ma túy phải thực hiện đúng
theo Điều 165 cụ thể:
THQCT trong phê chuẩn khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Trong hồ sơ mua
bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng khi kết quả giám định, chất ma túy
không nằm trong danh mục quy định mà chưa rõ ý thức chủ quan thì phải kiên
quyết yêu cầu Cơ quan CSĐT thu thập, củng cố chứng cứ đầy đủ thì mới phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can. Phải nghiên cứu kỹ chứng cứ buộc và chứng cứ
gỡ tội, nếu cần thiết thì trực tiếp hỏ bị can, nhân chứng về các vấn đề càn làm rõ
trước khi đề xuất phê chuẩn hay không phê chuẩn khởi tố bị can.
Các vụ án ma túy phần lớn có tài liệu đặc tình, trinh sát, do đó khi phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can chú ý các loại tài liệu này nếu chưa được chuyển
hóa thành chứng cứ thì phải yêu vầu ĐTV loại các tài liệu này ra khỏi hồ sơ tố
tụng và chuyển hóa chúng thành chứng cứ, để bảo vệ đặc tình. Trong các vụ án
có nhiều đối tượng KSV chủ động phối hợp với ĐTV nắm chắc hành vi của từng
đối tượng, phân loại đối tượng, nếu đối tượng nào có đủ chứng cứ thì đề xuất bắt
ngay tránh để đối tượng bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra. Đối với các
trường hợp không thừa nhận hành vi phạm tội, kêu oan thì KSV trực tiếp lấy lời
khai để làm rõ các nội dung có trong hồ sơ, đánh giá chứng cứ trước khi lãnh
đạo ban hành các quyết định tố tụng.
Khi phê chuẩn các hồ sơ phê chuẩn khởi tố bị can thông qua truy xét, mà
không thu được vật chứng là ma túy, chỉ có lời khai các đối tượng thì KSV phải
phối hợp với điều tra viên củng cố các chứng cứ vật chất khác như thực nghiệm
điều tra, khám nghiệm hiện trường.
THQCT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn: Phê Chuẩn bắt bị
can phạm tội về ma túy phải được thực hiện theo Điều 113, Điều 119, Điều 173
18
của BLTTHS. Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu đề nghị bổ sung
tài liệu chứng cứ để xem xét quyết định phê chuẩn. Nếu có đủ căn căn cứ tạm
giam và xét thấy phải tạm giam mà Cơ quan ĐT không ra lệnh tạm giam thì
VKS ra lệnh tạm giam sau đó yêu cầu Cơ quan ĐT tra thực hiện lệnh tạm giam
này. Ngoài ra có một số ít trường hợp phạm tội về ma túy áp dụng biện pháp cho
bảo lĩnh, trước khi phê chuẩn bảo lĩnh phải kiểm tra điều kiện tại Điều 121
BLTTHS
THQCT trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế: Người bị áp dụng
biện pháp áp giải, dẫn giải trong vụ án ma túy là đối tượng bị buộc tội, người
làm chứng không có mặt theo giấy triệu tập được quy định tại Khoản 1 và Khoản
2 Điều 127 BLTTHS để tránh việc lợi dụng sở hở tháo chạy. KSV đề xuất lãnh
đạo ra quyết định áp dụng biện pháp dẫn giải, áp giải.
1.2.3.3. Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử trong các vụ án ma túy
Theo quy định Điều 266 BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn xét xử nội dung và quy trình THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung trong đó có vụ án ma túy
nối riêng tập trung vào các nội dung:
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Theo quy định hiện hành, bản cáo trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm
sát ban hành để truy tố người phạm tội ma túy ra trước tòa án để xét xử. Bản cáo
trạng được trình bày phải dựa vào bản kết luận điều tra để nêu rõ: ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội,
thủ đoạn, mục đích, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác;
những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ; nhân thân của bị canvà mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự được
áp dụng. Bản cáo trạng phải được giao cho bị can. Thời điểm công bố bản cáo
19
trạng vụ án hình sự được quy định tại Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ
Đối với việc xét hỏi: Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015, chủ
tọa phiên tòa hỏi đầu tiên, Kiểm sát viên hỏi sau Thẩm phán và Hội thẩm, KSV
hỏi đề bảo vệ cáo trạng trong trường hợp bị cáo phản cung không nhận tội và các
tình tiết quan trọng khác của vụ án mà HĐXX không hỏi.
Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ: Trong trường hợp cần thiết, KSV và
HĐXX cùng những người tham gia phiên tòa xem xét các chứng cứ ngay tại tòa
hoặc xem xét tại chỗ những tài liệu, chứng cứ không đưa được đến phiên tòa
theo quy định tại Điều 312 BLTTTHS năm 2015. Theo quy chế thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số
505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao) [37] (gọi tắc quy chế 505 ), đối với những chứng cứ, tài liệu, đồ vật do cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoặc Tòa án cung cấp thì trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật, KSV phải xem xét báo cáo lãnh đạo
VKS và chuyển lại chứng cứ, tài liệu, đồ vật này cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ
án và sao chụp để lưu hồ sơ kiểm sát.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo
Luận tội của Viện kiểm sát phải phản ánh rõ ràng hành vi phạm tội của
các bị cáo, đã xem xét toàn diện các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hình phạt. Trên
cơ sở xem xét toàn bộ nội dung vụ án, chứng cứ, quá trình xét hỏi, nhận định
hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính
sách quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước, đồng thời còn làm ảnh
hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, do đó cần xét xử nghiêm
tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời tạo sự răn đe với tội phạm ma túy.
Tranh luận tại phiên tòa
Khi tranh luận, KSV cần căn cứ vào lý luận của cấu thành tội phạm về tội
ma túy, phân tích, đánh giá 4 yếu tố cấu thành tội phạm, lý luận về chứng cứ để
20
lập luận một cách lôgic theo từng vấn đề. Kiểm sát viên cần dựa vào các chứng
cứ của vụ án như biên bản phạm tội quả tang, lời khai, hiện trường, giám định
chất ma túy, các quy tắc trong cuộc sống để tranh luận, đối đáp, lập luận chặt chẽ
khẳng định quan điểm đúng đắn của mình, kiên quyết bác bỏ ý kiến sai trái hoặc
không đúng của người bào chữa, bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố
tụng khác. Thực tế thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án ma
túy cho thấy cho thấy, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự thường tập trung tranh luận vào những vấn đề
sau:
+ Một là, không đồng ý với quyết định truy tố của VKS về tội mua bán
trái phép chất ma túy mà là phạm tàng trữ trái phép có khung hình phạt nhẹ hơn;
+ Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng cơ bản
đến nội dung giải quyết vụ án;
+ Ba là, tranh luận về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là việc VKS cùng cấp hoặc VKS cấp
trên trực tiếp kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật mà VKS thấy có sai phạm. Có thể xem xét căn cứ kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm quy định tại Điều 32 Quy chế công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử (quy chế 505).
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự
Rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa: khi thấy không đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 285
BLTTHS và quy định tại Điều 21 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét xử vụ án hình sự (quy chế 505) thì trước khi mở phiên tòa, nếu xét
21
thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố.
Giải quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung: Tòa án trả hồ sơ để điều
tra bổ sung nếu có căn cứ thì chấp nhận việc trả hồ sơ VKS tự mình hoặc trả hồ
sơ để điều tra bổ sung cho CQĐT để tiến hành điều tra theo yêu cầu, nếu không
có căn cứ thì không chấp nhận chuyển trả hồ sơ lại cho TA.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong các vụ
án ma túy tại cấp Huyện
1.3.1. Đảm bảo về mặt pháp lý trong hoạt động thực hành quyền công tố
đối với các vụ án ma túy tại cấp Huyện
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 là những
văn bản văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp nhất quy định về tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND nói chung và VKSND cấp huyện nói riêng trong
công tác thực hành quyền công tố; Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa
đổi, bổ sung năm 2008), BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, BLTTHS năm
2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012; ngoài ra còn có các văn bản dưới
luật do VKSNDTC ban hành như Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày
02/5/2018 ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
đây là các văn bản pháp lý đảm bảo cho VKSND cấp huyện thực hành quyền
công tố đối với các loại tội phạm nói chung trong đó có tội phạm ma túy nói
riêng. Bên cạnh đó còn có các thông tư, thông tư liên tịch của TA, VKSND tối
cao làm cở sở áp dụng trong THQCT đối với các vụ án ma túy cấp huyện.
THQCT trong các vụ án ma túy ở cấp huyện được chính xác và đồng bộ
hay không, phụ thuộc rất lớn vào mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật
22
liên quan. Nếu mức độ hoàn thiện tốt thì công tác này thuận lợi, nhanh chống
còn ngược lại thì khó khăn, ách tắc từ giai đoạn giải quyết tin báo, điều tra, truy
tố, xét xử.
1.3.2. Ý thức pháp luật, kỹ năng của người thực hành quyền công tố trong
các vụ án ma túy tại cấp Huyện
Trong hoạt động thực hành quyền công tố, ý thức pháp luật của KSV là
một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết để áp dụng pháp luật một cách chính
xác và đúng đắn.
Nếu ý thức pháp luật, nhận thức pháp luật của KSV ở mức độ thấp rất dẽ
dẫn đến việc hiểu sai nội dung của quy phạm pháp luật; đánh giá, xem xét các
tình tiết của vụ án một cách hời hợt, chủ quan, phiến diện và rất dễ dẫn đến oan,
sai. Ý thức pháp luật, trình độ nhận thức pháp luật của KSV ở tầm cao thì quyết
định áp dụng pháp luật được ban hành trên cơ sở khoa học và thực tiễn, khách
quan và công minh. Những quyết định áp dụng pháp luật của KSV trong hoạt
động thực hành quyền công tố là sản phẩm của cả một quá trình nghiên cứu, cân
nhắc, trăn trở và lao động nghiêm túc. Chính ý thức pháp luật là nhân tố giúp
KSV đánh giá các sự kiện, các tình tiết, các chứng cứ một cách khách quan,
chính xác, không thiên vị, không bỏ qua bất kỳ tình tiết nào dù nhỏ nhất.
Chính ý thức pháp luật, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp mách bảo cho KSV
biết đâu là vấn đề mấu chốt, đâu là những tình tiết có ý nghĩa quan trọng của một
vụ án. Ý thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của KSV góp phần tạo ra phong
cách làm việc đĩnh đạc, tự tin, quyết đoán, chính xác và khoa học khi thao tác
quy trình áp dụng pháp luật để giải quyết từng vụ án cụ thể.
Có thể nói rằng, ý thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của KSV có một
vai trò cức kỳ quan trọng trong hoạt động thực hành quyền công tố.
1.3.3. Phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp
Ngoài việc làm tốt công tác phối hợp liên ngành với TAND và Cơ quan
điều tra cùng cấp thông qua các Quy chế phối hợp liên quan đến việc giải quyết
23
án ma túy. VKS phối hợp với các ngành, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, các
đoàn thể quần chúng là cơ sở vững chắc cho VKS thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình, phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị trong đấu
tranh, phòng chống tội phạm, trong đó, mối quan hệ giữa VKS và Mặt trận tổ
quốc và các thành viên đóng một vai trò quan trọng, vì vậy, VKS các địa phương
phải chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc để ban hành quy chế phối hợp
công tác, từ đó mở rộng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến nâng cao
nhận thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện có hiệu quả công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong đó có tội phạm ma túy cũng như
kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hình sự của
ngành Kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác.
Kết luận chương 1
Trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã trình bày, làm rõ những vấn đề
về lý luận liên quan đến thực hành quyền công tố của VKS đối với các vụ án ma
túy, như khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố của
VKS đối với các vụ án ma túy. Theo đó, THQCT trong các vụ án ma túy của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự, buộc tội đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội về ma túy nhằm đảm
bảo mọi hành vi phạm tội, người và pháp nhân thương mại phạm tội phải được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Đặc
điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án về ma túy mang những nét
riêng biệt so với THQCT đối với các loại tội phạm khác. Đối tượng của THQCT
trong các vụ án ma túy là tội phạm và người phạm tội ma túy, với phạm vi bắt
đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Chương 1 tác giả cũng đã trình bày,
phân tích, đánh giá nội dung thực hành quyền công tố của VKS trong vụ án ma
24
túy, có thể nhóm lại thành một số nội dung sau: Yêu cầu CQĐT tiến hành kiểm
tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và yêu cầu điều tra;
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định của CQĐT; quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra các quyết định tố tụng khác để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự, trực tiếp tiến hành một số hoạt động kiểm tra xác minh và
hoạt động điều tra; quyết định truy tố; xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận đối đáp;
kiến nghị vi phạm pháp luật và kháng nghị đối với bản án, quyết định của tòa án;
một số nội dung nhiệm vụ quyền hạn tố tụng khác. Những nội dung trên là căn
cứ, cơ sở để tác giả nghiên cứu, trình bày nội dung tại Chương 2: Thực trạng
thực hành quyển công tố đối trong các vụ án ma túy của tại huyện Xuyên Mộc,
25
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến thực
hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của trên địa bàn huyện Xuyên
Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
2.1.1. Tình hình kinh tế, xã hội huyện Xuyên Mộc ảnh hưởng đến công tác
thực hành quyền công tố các vụ án ma túy
Huyện Xuyên Mộc thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một huyện nằm ở vị
trí địa lý vô cùng quan trọng của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Vốn là
vùng địa đầu của miền Đông Nam Bộ nối liền với cực Nam Trung Bộ, phía Tây
và Tây Bắc giáp huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai, Tây giáp huyện Châu Đức, Tây
Nam giáp huyện Đất Đỏ, Đông Nam giáp huyện Hàm Tân tỉnh Bình Thuận, phía
Nam giáp với biển Đông rộng lớn. Diện tích tự nhiên 640,48 km2. Xuyên Mộc là
một huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng, đã và đang được tiến hành khai tháccác nguồn lợi kinh tế.
Theo số liệu thống kê năm 2015 thì dân số trên địa bàn huyện Xuyên Mộc là
170.356 người. Trong những năm qua kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Xuyên
Mộc, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến phát triển hàng loạt các
dự án như khu du lịch Hồ Tràm, du lịch sinh thái Sài Gòn - Bình Châu, bên cạnh
đó huyện còn có cảng cá Bình Châu tạo điều kiện cho các nhà máy chế biến hải
sản phát triển. Ngoài kinh tế biển, nền kinh tế huyện Xuyên Mộc còn có thế
mạnh phát triển các cây công nghiệp như tiêu, cà phê, điều chính những điều
kiện thuận lợi trên đảm bảo an sinh xã hội huyện Xuyên Mộc được phát triển,
đời sống kinh tế của người dân có những biến đổi tích cực [31]. Bên cạn thuận
lợi địa bàn huyện Xuyên Mộc gặp nhiều khó khăn đặc biệt là các loại hình dịch
vụ phòng trọ, karaoke tạo điều kiện cho tội phạm về ma túy phát triển trong đó
26
đa số là tội phạm về mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy. Nhiều tụ điểm tổ
chức sử dụng ma túy tổng hợp trong đó có các quán bar, karaoke. Đối tượng chủ
yếu là thanh niên có tuổi đời còn rất trẻ (80% trong lứa tuổi 16-25, cá biệt có đối
tượng là giáo viên, công chức, viên chức). Trong những năn qua chính quyền và
các đoàn thể, địa phương, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng đều có kế
hoạch cụ thể triển khai thực hiện đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với
tội phạm và tệ nạn ma túy nhằm từng bước kiềm chế, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi
tệ nạn ma tuý; tạo môi trường lành mạnh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Huyện trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì cuộc sống
bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Trong những năm qua tỷ lệ người nghiện
ma túy tăng lên đáng kể. Đây chính là “nguồn cầu” kích thích tội phạm về ma
túy phát triển, cần phải có nhiều biện pháp đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về
ma túy trên địa bàn huyện. Số lượng tàng trữ để sử dụng và mua bán bị bắt tăng
nhiều làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng THQCT đối với loại án này.
2.1.2. Tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu
Dựa trên chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của VKSND huyện Xuyên Mộc
được chia thành nhiều bộ phận nghiệp vụ, cụ thể gồm: Bộ phận kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; bộ phận
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; bộ phận thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; bộ phận
kiểm sát án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, thương mại và thi hành
án dân sự; bộ phận kiểm sát án hành chính, bộ phận kiểm sát khiếu tố; bộ phận
văn phòng, thống kê, tổng hợp.
Tính đến ngày 31/12/2018, Tổng số cán bộ VKSND huyện Xuyên Mộc là
15 người, trong đó có 13 cán bộ, công chức và 02 người là cán bộ theo hợp đồng.
03 lãnh đạo 01 Viện trưởng và 02 Phó viện trưởng. Trong biên chế, có 07 Kiểm
27
sát viên; 02 Kiểm tra viên; 03 chuyên viên và 01 Kế toán trưởng. Trong đó có 02
Kiểm sát viên trung cấp chức vụ Viện trưởng, Phó viện trưởng và 01 sơ cấp giữ
chức vụ Phó viện trưởng và 04 Kiểm sát viên sơ cấp. Biên chế được phân bổ như
sau: Viện trưởng phụ trách chỉ đạo chung và trực tiếp phụ trách công tác thống kê
tổng hợp, tài chính; Phó Viện trưởng phụ trách chỉ đạo thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự từng loại án hình sự, xử lý tố
giác, tin báo về tội phạm; kiểm sát khiếu tố; kiểm sát thi hành án; kiểm sát giam
giữ.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị: Hiện tại, 01 đồng
chí có trình độ Thạc sỹ Luật, 01 đồng chí đang theo học Thạc sỹ Luật, còn lại
đều có trình độ Cử nhân Luật và Cử nhân chuyên ngành khác. Hiện tại chỉ có 02
KSV làm công tác THQCT các vụ án hình sự trong đó có có các vụ án ma túy
chiếm tỷ lệ rất thấp so với khối lượng công việc. Vấn đề này là nguyên nhân
chính dẫn đến chất lượng THQCT trong các vụ án ma túy tại địa bàn huyện.
2.2. Những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém thực hành quyền
công tố các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc và nguyên nhân
2.2.1. Những kết quả đạt được từ công tác thực hành quyền tố trong giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ma túy
Theo số liệu thống kê của VKSND huyện Xuyên Mộc từ năm 2014 đến
năm 2018 [35]: số tố giác, tin báo về tội phạm mà Cơ quan điều tra, VKS tiếp
nhận là 184 tin/205 đối tượng (năm 2014: 23 tin/28 đối tượng; năm 2015: 32
tin/42 đối tượng; năm 2016: 45 tin/50 đối tượng; năm 2017: 37 tin/42 đối tượng;
năm 2018: 47 vụ/62 đối tượng). Các tố giác, tin báo về tội phạm chủ yếu đến từ
công dân và không có trường hợp nào thuộc trường hợp kiến nghị khởi tố. Đồng
thời, không có trường hợp nào thuộc trường hợp pháp nhân thương mại phạm
tội. Tất cả các tin báo đều được VKS tiến hành thụ lý, phân loại, xác minh, khởi
tố. Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố các cơ quan
28
liên ngành đã thực hiện đúng các trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 (đến năm 2018 theo BLTTHS năm 2015) và Thông tư liên
tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại chương XVIII “ Các tội phạm về ma túy ” của
BLHS năm 1999; thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-
BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 “Quy định việc phối hợp giữa các cơ
quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm
2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”
[9] [7], để tiến hành kiểm tra, xác minh, điều tra; Viện kiểm sát đã chủ động,
phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn trong công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ma túy. Những tố giác, tin báo về
tội phạm ma túy sau khi VKS tiếp nhận đều được chuyển cho CQĐT giải quyết,
VKS huyện không trực tiếp giải quyết. Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm ma túy, VKS đều kiểm sát chặt chẽ mọi hoạt động và quyết định của
CQĐT để phục vụ việc thực hành quyền công tố. Trong số 184 tin/224 đối tượng
đã tiếp nhận đều tiến hành kiểm tra, xác minh, áp dụng các biện pháp ngăn chặn
như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và khởi tố vụ án hình sự đối
với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm đã tiếp nhận, giải quyết. Những lệnh
giữ người bị bắt trong trường họp khẩn cấp đều được VKS phê chuẩn và gia hạn
tạm giữ hình sự đối với 57 trường hợp. Có 150 trường hợp VKS yêu cầu CQĐT
phải tiến hành kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, kết quả yêu cầu đó đều được CQĐT thực hiện và đã khởi tố vụ án, khởi tố bị
can đối với 150 trường hợp nêu trên. Có 35 trường hợp trước khi phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp (lệnh giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp) VKS đã tiến
hành lấy lời khai của người bị buộc tội để củng cố chứng cứ phục vụ việc phê
chuẩn. Tất cả 184 quyết định khởi tố vụ án và 224 quyết định khởi tố bị can của
CQĐT đều được VKS huyện Xuyên Mộc nghiên cứu kỹ lưỡng, đồng ý với các
quyết định khởi tố vụ án và phê chuẩn đối với các quyết định khởi tố bị can.
29
Trong tất cả các trường hợp, khi có tố giác, tin báo về tội phạm ma túy, KSV đã
chủ động kiểm sát chặt chẽ tài liệu của CQĐT để qua đó phân tích, đánh giá
chứng cứ và thống nhất với Điều tra viên hướng giải quyết tiếp theo đối với tố
giác, tin báo để báo cáo Lãnh đạo Viện chỉ đạo ngay từ ban đầu. Đối với các vụ
án ma túy có tình thiết phức tạp KSV đề xuất họp liên ngành để tìm hướng tháo
gỡ khó khăn. Một số tố giác, tin báo về tội phạm ma túy phức tạp đều được đưa
ra họp liên ngành tư pháp để thảo luận, bàn bạc thống nhất quan điểm giải quyết.
Công tác thỉnh thị liên ngành cấp trên của VKSND huyện Xuyên Mộc được chú
trọng và thực hiện kịp thời hơn, tất cả các tin báo về ma túy có khó khăn trong
việc xử lý đều được thỉnh thị xin ý kiến giải quyêt của cấp trên nên đã hạn chế
những sai sót, vi phạm có thể dẫn đến oan sai, lọt tội. Đối với những thông tin
tội phạm về ma túy mà VKS phát hiện thông qua công tác nghiệp vụ của mình,
qua xác minh, kiểm tra ban đầu, nếu có dấu hiệu tội phạm thì đưa vào tin báo tội
phạm và chuyển cho CQĐT tiến hành xác minh, giải quyết theo quy định; những
thông tin tội phạm không có dấu hiệu tội phạm thì được phân loại để theo dõi,
giải quyết khi phát hiện có tình tiết mới. Công tác thực hành quyền công tố của
VKSND huyện Xuyên Mộc làm tốt mối quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước
đối với CQĐT.
Qua công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội phạm ma túy, VKS huyện
Xuyên Mộc đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, giữ vững trật tự an toàn xã hội ở địa phương nói chung và đối với tội
phạm ma túy nói riêng.
2.2.2. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc
Theo số liệu thống kê được từ VKSND huyện Xuyên Mộc trong 05 năm
giai đoạn từ 01/01/2014 đến 30/12/2018. VKSND huyện Xuyên Mộc đã THQCT
ở giai đoạn điều tra 554 vụ án hình sự/695 bị can, trong vụ án về ma túy là 184
30
vụ/ 224 bị can [35], cụ thể: Tội phạm về ma túy là tội phạm chiếm số lượng lớn
trong công tác THQCT của VKSND huyện Xuyên Mộc. Trong giai đoạn 2014
đến 2018 tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đỉnh điểm là năm 2018,
VKSND huyện Xuyên Mộc THQCT trong giai đoạn điều tra với 47 vụ án, với
62 bị can chiếm 41,59% các vụ án hình sự. Đây là con số khá lớn đối với một
huyện nông thôn như Xuyên Mộc, cho thấy diễn biến phức tạp khó dự đoán của
loại tội phạm này.
Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội mua bán trái phép chất
ma túy với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc
giai đoạn từ năm 2014 – 2018
Đơn vị tính: Bị can
Vụ án hình sự Vụ án ma túy Tỷ lệ %
Năm
Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can
23 28 25,55% 19,4% 90 144 2014
32 42 27,82% 29,37% 115 143 2015
45 50 34,61% 32,89% 130 152 2016
37 42 34,90% 36,52% 106 115 2017
47 62 41,59% 43,79% 113 141 2018
695 184 224 33,31% 32,23% Tổng số 554
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
Biểu 2.1 (Biểu đồ biểu diễn số lượng các vụ án hình sự và vụ án ma túy trong giai đoạn năm 2014 - 2018)
150
100
50
0
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
số vụ án hình sự
số vụ án ma túy
31
Nguồn: VKSND huyện Xuyên Mộc
Ngay sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, CQĐT thường
ban hành lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam (hoặc gia hạn tạm giam
trong quá trình điều tra) và chuyển các quyết định, lệnh cũng như toàn bộ hồ sơ
vụ án sang VKS để phê chuẩn. KSV được giao nhiệm vụ THQCT đối với vụ án
tập trung nghiên cứu nắm vững nội dung vụ án, các tình tiết có liên quan để báo
cáo, đề xuất lãnh đạo Viện phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết
định trên của CQĐT. Đây là các thao tác nghiệp vụ chủ yếu trong công tác
THQCT đối với vụ án ma túy trong giai đoạn điều tra của VKSND huyện Xuyên
Mộc.
Về công tác THQCT trong việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
của CQĐT và VKSND huyện Xuyên Mộc: Trong 05 năm từ năm 2014 đến năm
2018, CQĐT đã bắt, tạm giữ hình sự tổng số 537 người; trong đó đã đưa vào xử
lý hình sự 537 người (chiếm tỷ lệ 100%), gồm khởi tố chuyển tạm giam 512
người ( Tất cả trường này được VKSND huyện Xuyên Mộc phê chuẩn). Trong
toàn bộ số người bị bắt, tạm giữ thì số người có hành vi phạm tội về ma tuý là
224 người (chiếm tỷ lệ 41,71%), tất cả trường hợp bị bắt tạm giữ CQĐT huyện
Xuyên Mộc đều khởi tố chuyển sang giam.
Bảng 2.2. So sánh tình hình áp dụng biện pháp bắt tạm giữ, tạm giam
trong vụ án ma túy với vụ án nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai
đoạn từ năm 2014 – 2018.
Đơn vị tính: Người bị bắt, tạm giữ
Vụ án hình sự Vụ án ma túy Tỷ lệ %
Năm
Số người Chuyển Số người Chuyển Số người Chuyển
bị bắt, tạm bị bắt, tạm tạm bị bắt, tạm giam
32
tạm giữ giam giữ giam tạm giữ
28 96 28 28% 29,16% 2014 100
42 119 42 35% 35,29% 2015 120
50 120 50 28,46% 41,66% 2016 130
42 87 42 45,65% 48,27% 2017 92
62 90 62 65% 68% 2018 95
512 224 224 41,71% 43,75% Tổng 537
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
Biểu 2.2 (Biểu đồ biểu diễn số người bị bắt, tạm giữ trong các vụ án hình sự và vụ án ma túy trong giai đoạn năm 2014 - 2018)
200
100
0
Người bị bắt, tạm giữ trong Vụ án hình sự
Người bị bắt, tạm giữ trong Vụ án ma túy
Nguồn: VKSND huyện Xuyên Mộc
Quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, tạm giam được quy định rõ tại Điều 22 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014. Việc kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng biện pháp tạm giam
nhằm đảm bảo cho Cơ quan điều tra thực hiện nghiêm chỉnh trình tự, thủ tục tạm
giam; đảm bảo mọi trường hợp tạm giam phải có căn cứ, đúng pháp luật; tránh
tình trạng áp dụng một cách tràn lan, tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền tự do của
công dân.
Trên cơ sở nắm chắc các quy định của BLTTHS và nhận thức rõ vai trò,
trách nhiệm của VKS trong việc phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn tạm giam,
VKSND huyện Xuyên Mộc luôn chú trọng việc nâng cao trách nhiệm trong công
33
tác phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam nhằm bảo đảm việc truy
cứu TNHS, buộc tội được đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con
người trong hoạt động TTHS, cụ thể:
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án của CQĐT chuyển sang, đề nghị
VKS phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh tạm giam, KSV
VKSND huyện Xuyên Mộc được phân công thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra vụ án trong thời hạn 03 ngày đã khẩn trương tiến hành nghiên cứu kỹ
lưỡng hồ sơ vụ án, trực tiếp lấy lời khai của người bị bắt giữ để làm căn cứ phê
chuẩn các lệnh, quyết định trên. KSV đọc kỹ từng trang tài liệu, từng biên bản
khám xét, biên bản lấy lời khai, hỏi cung, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận
giám định chất ma túy… để xác định rõ hành vi phạm tội của bị can, hậu quả của
tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo, các tình tiết khác
có liên quan đến vụ án.Tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị
can, lệnh tạm giam bị can bao gồm các nội dung quan trọng, đó là: bị can phải là
người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, quyết định ban hành phải đúng
thẩm quyền, đúng đối tượng, đúng thời hạn luật định…
Khi lấy lời khai người bị bắt, tạm giam, bị can, bên cạnh việc làm rõ các
tình tiết của vụ án, hành vi phạm tội của người bị bắt giữ, KSV luôn chú trọng
đến việc làm rõ các nội dung buộc tội để đảm bảo việc phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, Lệnh tạm giam là có căn cứ và đúng pháp luật, như: Hỏi về nhân
thân người phạm tội; hỏi về nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi ở; sức khỏe của
người bị bắt tạm giữ, hành vi phạm tội của bị can, hậu quả của hành vi phạm
tội…
Sau khi lấy lời khai của người bị bắt giữ, KSV tiếp tục nghiên cứu kỹ các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án, so sánh, đối chiếu với kết quả lấy lời khai của
mình, thận trọng đánh giá các căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, căn cứ tạm
giam để báo cáo, đề xuất chính xác các trường hợp cần áp dụng biện pháp này.
34
Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người già phạm tội, KSV xem
xét kỹ lưỡng căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm đúng
quy định của pháp luật.
Có thể thấy rằng, VKSND huyện Xuyên Mộc trong công tác phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đã luôn chú trọng bảo đảm đúng các
quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình
sự. Việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam luôn bảo đảm có
căn cứ và hợp pháp; các trường hợp không đảm bảo căn cứ hoặc không hợp
pháp, VKSND huyện Xuyên Mộc kiên quyết hủy bỏ quyết định khởi tố bị can,
không phê chuẩn lệnh tạm giam (gia hạn tạm giam), yêu cầu CQĐT áp dụng các
biện pháp ngăn chặn khác, không có trường hợp phê chuẩn không đúng quy định
của pháp luật hoặc oan sai đối với người bị buộc tội.
Sau đây là một số vụ án điển hình thể hiện công tác thực hành quyền công
tố của VKS trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án ma túy:
Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ này 04/9/2018 Trần Khương Phúc sinh năm
1990 nhắn tin qua mạng xã hội rủ Trần Túy sinh năm 1993 cùng ngụ tại ấp Bình
Tiến, xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, góp mỗi người 100.000đ mua ma túy về
sử dụng chung, Túy đồng ý và mượn điện thoại di động của 01 người không rõ
lai lịch nhắn tin hỏi mua ma túy của Đoàn Văn Trung sinh năm 1986 ngụ tại ấp
khu 1, xã Bình Châu, Trung đồng ý, Túy điều khiển xe mô tô Biển số 72G1-
350.14 đến nhà của Trung và mua được 01 gói ma túy đá. Sau khi mua được ma
túy, Túy bỏ vào túi rồi đi về tiện Internet gặp Phúc, đi tìm nơi sử dụng thì bị
Công an xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc nghi ngờ yêu cầu kiểm tra thì Túy
khai nhận có cất giấu trong người 01 gói ma túy và lấy giao nộp cùng với 01 nỏ
thủy tinh dài 14,5cm cho Cơ quan Công an. Cơ quan Công an đã tiến hành khám
xét nơi ở của Trung thì thu giữ được 06 gói ma túy gồm 01 gói dưới nền nhà và
05 gói Trung giấu trên tấm rèm gần bàn thờ ở phòng khách, mục đích để bán cho
các con nghiện. Ngoài ra còn thu giữ được nhiều vật dụng dùng để chia nhỏ và
35
sử dụng ma túy gồm 01 kéo bằng kim loại dài 22cm, 01 ống hút bằng nhựa màu
đen dài 06cm, 03 gói nylon hàn kín kích thước 03 x 03 cm, 01 nỏ bằng thủy tinh
dài 14,5cm và 200.000đ là tiền Trung vừa bán ma túy cho Túy mà có.
Kết quả giám định thì gói ma túy thu giữ của Trần Túy có khối lượng là
0,1016 gam, 06 gói ma túy thu giữ của Đoàn Văn Trung có khối lượng là 1,4435
gam, tất cả đều là loại ma túy Methamphetamine.
Sau khi CQĐT bắt quả tang đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy đối với Trần Khương Phúc, Trần Túy theo điểm c Khoản 1
Điều 249 BLHS năm 2015 và tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1
Điều 251 BLHS năm 2015 đối với Đoàn Văn Trung, đồng thời ra lệnh tạm giam
đối với các bị can đồng thời chuyển hồ sơ vụ án đề nghị VKS phê chuẩn quyết
đinh khởi tố vụ án và lệnh tạm giam đối với các bị can. KSV được phân công
THQCT và kiểm sát điều tra, tiến hành nghiên cứ hồ sơ vụ án, hỏi cung trực tiếp
các bị can, thấy có căn cứ KSV tiến hành đề xuất lãnh đạo viện phê chuẩn các
quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam và đề ra yêu cầu điều tra vụ án.
Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ ngày 24/11/2018 Bùi Thành Lâm sinh năm
1997 đến khu vực nhà hát cũ thuộc xã An Ngãi, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu mua 07 gói ma túy từ người tên Bình (không rõ nhân thân, lai lịch)
với giá 1.000.000đ và được Bình cho thêm 02 gói ma túy. Lâm đem 09 gói ma
túy về cất giấu ở gác phòng trọ của mình thuộc tổ 7, ấp Thạnh Sơn 1A, xã Phước
Thuận, huyện Xuyên Mộc mục đích để Lâm mình và bạn cùng phòng là Trần
Tuấn Anh sinh năm 1998 và Dương Văn Vũ sinh năm 2001 sử dụng chung.
Khoảng 10 giờ ngày 27/11/2017 Lâm đi thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, trước
khi đi Lâm nói với Dương Văn Vũ đem 09 gói ma túy để trên gác cất đi vì sợ
người khác phát hiện, Vũ đồng ý nhưng chưa thực hiện, khoảng 15 phút sau
Trần Tuấn Anh bạn trọ cùng phòng hỏi Vũ nơi cất ma túy của Lâm đi bán lấy
tiền phụ sinh hoạt phòng trọ. Vũ chỉ nơi cất ma túy, Anh lên gác lấy 01 gói ma
túy chia làm 02 gói nhỏ, để 01 gói lại chỗ cũ còn mình lấy đi 01 gói. Sau đó Vũ
36
đem số ma túy còn lại của Lâm đem đi giấu ở đầu bếp ga để sử dụng chung cùng
với Lâm. Sau khi có được ma túy, Anh mượn xe mô tô của người tên Vàng
(không rõ nhân thân, lai lịch) đến quán cà phê Sao Băng thuộc khu phố Xóm
Rẫy, thị trấn Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc bán cho người tên Ân (không rõ
nhân thân, lai lịch) nhưng khi vừa đến quán thì bị Công an huyện Xuyên Mộc
kiểm tra hành chính phát hiện và tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối
với Trần Tuấn Anh vào lúc 13 giờ 40 phút ngày 27/11/2018, sau đó khám xét
phòng trọ của Bùi Thành Lâm và thu giữ 09 gói ma túy còn lại vào lúc 16 giờ 40
phút ngày 27/11/2018. Số ma túy thu giữ của Trần Tuấn Anh gửi đến giám định
có khối lượng 0,2059 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine và của Bùi
Thành Lâm khối lượng 0,8011 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuyên Mộc đã khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can đới với Lâm và Vũ về “Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy”, bị can Anh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra lệnh tạm giam đối
với các bị can và đề nghị VKS phê chuẩn. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét
thấy có đầy đủ cơ sở đề khởi tố bị can theo đề nghị phê chuẩn, tuy nhiên KSV
vẫn trực tiếp tiến hành lấy lời khai và cho đối chất giữa Trần Tuấn Anh và
Dương Văn Vũ để làm rõ hành vi chỉ nơi cất giấu ma túy cho Anh đem bán của
Vũ có đồng phạm mua bán ma túy hay không, kết quả có đồng phạm nên
VKSND huyện Xuyên Mộc yêu cầu khởi tố bổ sung đối với Dương Văn Vũ về
hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Phần lớn các vụ án ma túy phát hiện ban đầu ở huyện Xuyên Mộc được
thực hiện dưới hình thức bắt quả tang. Do vậy, để đảm bảo tính có căn cứ phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định khởi tố của CQĐT thì đòi hỏi KSV
phải chú ý việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Một số thiếu sót của
CQĐT khi tiến hành lập biên bản quả tang như không lập biên bản tại hiện
trường bắt hoặc mô tả sơ sài đặc điểm người, đồ vật, hiện trường khi bắt quả
tang, không có nhân chứng chứng minh đối tượng có mặt ở hiện trường, liên
37
quan đến ma túy. Vì vậy, trong quá trình THQCT, KSV rất cẩn trọng kiểm tra kỹ
biên bản, chú ý đến những mâu thuẫn giữa lời khai của các đối tượng với nhau,
với đặc điểm vật chứng thu giữ… vì nếu không phát hiện được sẽ dẫn đến gặp
nhiều khó khăn trong củng cố và đánh giá chứng cứ. Khi tiến hành phê chuẩn
các quyết định trên, KSV khẩn trương nghiên cứu, nếu thấy chứng cứ chưa đầy
đủ và còn mâu thuẫn thì yêu cầu CQĐT bổ sung hoặc KSV trực tiếp lấy lời khai
đối tượng để làm rõ, dần đáp ứng với yêu cầu công tố gắn với hoạt động điều tra.
KSV đề ra yêu cầu điều tra rõ ràng không chung chung bằng văn bản (có thể
bằng miệng đối với vụ án đơn giản).
Do thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
nên việc khởi tố, điều tra các vụ án ma túy cơ bản bảo đảm chất lượng, đúng thời
hạn tố tụng và tuân thủ đúng các thủ tục do pháp luật quy định. Tỷ lệ án được
giải quyết ở CQĐT huyện Xuyên Mộc luôn đạt cao, hạn chế được việc gia hạn
điều tra hoặc để quá hạn điều tra.
Trong 05 năm qua, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án
ma túy của VKSND huyện Xuyên Mộc đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận. Các vụ án ma túy được phát hiện và đưa ra xử lý kịp thời, xử đúng người,
đúng tội, không oan sai. Góp phần có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng
ngừa tội phạm.
2.2.3. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu
2.2.3.1. Đối với hoạt động công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo
thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Cáo trạng đáp ứng đúng theo mẫu của ngành, nội dung đảm bảo quy định
tại Điều 243 BLTTHS. KSV được phân công thực hành quyền công tố tại phiên
tòa khi công bố cáo trạng đã thể hiện được phong thái đĩnh đạc, trình bày rõ
ràng, mạch lạc, dứt khoát thể hiện được sự uy nghiêm của người đại diện của cơ
38
quan công tố tại phiên tòa. Việc công bố cáo trạng nhìn chung đạt chất lượng tốt,
các KSV nắm được kỹ năng nghiệp vụ và kết hợp với theo dõi các diễn biến tại
phiên tòa, trong một số vụ án KSV thực hành quyền công tố đã kịp thời thay đổi,
bổ sung cáo trạng khi có tình tiết, chứng cứ mới nhưng không làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo.
Năm 2014 - năm 2018 đối với các vụ án ma túy VKSND huyện đã truy tố
182 vụ/219 bị cáo, TAND huyện đã xét xử 180 vụ/217 bị cáo, tương ứng với 180
cáo trạng mà VKS đã công bố buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa [35].
Trong các vụ án ma túy, có rất nhiều loại chất và tiền chất ma túy được sử
dụng thống nhất nguyên bản ngôn ngữ tiếng Anh trong các văn bản của Nhà
nước ban hành. KSV huyện giữ quyền công tố tại tòa luôn phát âm đúng, chính
xác không hề gây phản cảm.
Bảng 2.3. So sánh số vụ án ma túy TAND huyện Xuyên Mộc đưa ra
xét xử với số vụ án ma túy VKSND huyện truy tố với giai đoạn từ năm 2014
– 2018
Đơn vị tính: Vụ án
Vụ án ma túy truy Vụ án ma túy xét xử Tỷ lệ %
Năm tố
Số vụ Số bị Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
can
25 21 25 100% 100% 2014 21
47 24 30 70,58% 63,82% 2015 34
50 50 60 111% 120% 2016 45
42 42 49 113% 116% 2017 37
55 43 53 95% 96% 2018 45
219 180 217 98% 99% Tổng 182
39
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
2.2.3.2. Đối với hoạt động xét hỏi và xem xét vật chứng tại phiên tòa
Kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự giai đoạn năm 2014 đến hết năm 2018 với 180 vụ án ma túy/217 bị cáo
phạm tội. KSV VKSND huyện xuyên Mộc đã thực hiện tốt các kỹ năng nghiệp
vụ để tham gia xét hỏi làm rõ nội dung vụ án như chuẩn bị đề cương xét hỏi, tập
trung xét hỏi tại phiên tòa. Việc xây dựng đề cương xét hỏi được tuân thủ theo
Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (Ban
hành kèm theo quyết định số 505 ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC).
Đề cương dự kiến đầy đủ các nội dung cần xét hỏi làm rõ vụ án, các tình huống
có thể phát sinh tại phiên tòa. Bên cạnh đó, trong xét hỏi, câu hỏi của các KSV
ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, không mang tính ép buộc, mớm cung, dụ cung, nội
dung hỏi tập trung vào làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, công cụ, phương tiện
bị cáo sử dụng để phạm tội, động cơ, mục đích của bị cáo khi phạm tội, các yếu
tố về lỗi của bị cáo, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết khác có liên
quan đến vụ án như có đồng phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS; Từ những nội dung xét hỏi được làm rõ tại phiên tòa, các chứng cứ buộc
tội, gỡ tội được chứng minh, từ đó, KSV luôn bảo vệ được sự buộc tội đối với bị
cáo theo đúng nội dung cáo trạng. Tác phong, thái độ của KSV giữ quyền công
tố tại tòa đúng mực đáp ứng được quy chế của ngành đề ra.
Hầu hết các vụ án ma túy đều có kết luận giám định của cơ quan giám
định đối với chất ma túy nên các cơ quan giám định không cử người tham gia
phiên tòa sơ thẩm thì phải công bố kết luận, khi thẩm vấn công khai tại phiên
tòa. Đối với trường hợp nhân chứng và những người tham gia tố tụng khác vắng
mặt tại phiên tòa nếu chứng cứ ddue buộc tội thì không cần phải công bố lời khai
của người vắng mặt trong hồ sơ vụ án. Quá trình xét hỏi, KSV luôn chú ý đối
chiếu bảng kê vật chứng, bản kê số lần phạm tội của từng đối tượng đã được
chuẩn bị, tình huống thu giữ vật chứng, như khi đuổi bắt đối tượng vứt lại ma
40
túy sau đó mới giữ vật chứng hay khám xét thu giữ để phục vụ tranh luận. KSV
luôn kiểm tra số lượng, đặc điểm , nguồn gốc, phương tiện công cụ cất giấu,
công cụ chống trả luôn xác định rõ đâu là vật chứng và vật đã tạm giữ để đề nghị
xử lý đúng quy định.
2.2.3.3. Đối với việc luận tội tại phiên tòa
Phần luận tội trong các phiên tòa xét xử án ma túy, VKSND huyện Xuyên
Mộc đánh giá, các bản luận tội tại phiên tòa sơ thẩm đều đáp ứng được yêu cầu
như: tóm tắc cơ bản nội dung vụ án, nêu lên các chứng cứ chứng minh, vai trò,
nguyên nhân phạm tội, những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị
TA áp dụng hình phạt phù hợp đối với bị cáo cũng như quan điểm xử lý vật
chứng, yêu cầu bồi thường thiệt hại dân sự trong vụ án. Về cơ bản nội dung luận
tội thể hiện đầy đủ được những quy định tại BLTTHS, Khoản 1 Điều 321
BLTTHS năm 2015 và đảm bảo được tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa
tội phạm. Đối với vụ án ma túy KSV huyện đảm bảo các vấn đề sau:
Trong nhiều vụ án ma túy, bị cáo cối tội, nên bản luận tội trích dẫn đầy đủ
các yếu tố buộc tội theo lời khai nhân chứng, lời khai các bị cáo khác, và nội
dung lời khai nhận của chính bị cáo tại phiên tòa
Khi luận tội các bị cáo phạm tội ma túy, KSV luôn căn cứ vào kết quả
điều tra công khai tại phiên tòa để kết luậ từng vấn đề cụ thể nếu đủ chứng cứ thì
quy kết cho dù bị cáo không nhận tội, nguuojc lại bị cáo nhận tội nhưng không
buộc tội vì truy xét không đủ chứng cứ thì không quy kết.
Qua tổng hợp kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự giai đoạn 2014 đến hết năm 2018, có thể thấy, VKS đã hoàn
tất xét xử sơ thẩm 180 vụ/217 bị can (trong tổng số 182 vụ án ma túy với 219 bị
cáo đã truy tố) và tuân thủ đúng các quy định pháp luật, tỷ lệ các vụ án được xét
xử chiếm trên đạt 98% [35].
2.2.3.4. Đối với hoạt động tranh luận tại phiên tòa
Các KSV VKSND huyện Xuyên Mộc được giữ quyền công tố tại phiên
41
tòa đều thực hiện nghiêm túc việc tranh luận theo các quy định tại Bộ luật
TTHS. Thông thường các bị cáo, Luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý tham gia
tranh luận cùng với KSV.Khi tranh luận, KSV chủ động đối đáp đến cùng với
từng ý kiến, làm rõ từng vấn đề mà bị cáo, luật sư và người tham gia tố tụng
khác đưa ra với lập luận sắc bén, có căn cứ để bảo vệ quan điểm truy tố, xử lý
của VKS. Thông thường những nội dung tranh luận xoay quanh các trường hợp
sau đây: Bị cáo không thừa nhận phạm tội; bị cáo thừa nhận phạm tội nhưng
phạm tội khác nhẹ hơn tội VKS đã truy tố; Không thừa nhận khung truy tố của
VKS; Bị cáo không đồng ý với các tình tiết tăng nặng mà VKS đã áp dụng; Bị
cáo không đồng ý với đề nghị bồi thường thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật
chứng của VKS; Bị cáo, người bào chữa cho rằng Cơ quan tiến hành tố tụng đã
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đề nghị trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Đối với những trừng hợp như vậy, KSV đối đáp với từng câu hỏi, yêu cầu của
người tham gia tố tụng, phân tích, đánh giá chứng cứ chứng minh hành vi phạm
tội của bị cáo đã được thu thập, làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố và xét hỏi
tại phiên tòa, viện dẫn căn cứ pháp lý trong BLHS, BLTTHS, Bộ Luật dân sự
cũng như các văn bản dưới luật để xác định cấu thành tội phạm, xác định khung
hình phạt, loại hình phạt, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xác
định căn cứ bồi thường thiệt hại để bảo vệ quan điểm của VKS. Từ kết quả nêu
trên có thể khẳng định, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKS huyện
Xuyên Mộc thực hiện tốt, đạt chất lượng cao, có nhiều nỗ lực trong thực hiện các
khâu của công tác thực hành quyền công tố mới có được kết quả tốt tại phiên tòa.
Sau đây là vụ án điển hình về công tác THQCT trong giai đoạn xét xử của
VKDND huyện Xuyên Mộc
Nội dung vụ án: Vào khoảng 12 giờ ngày 19 tháng 01 năm 2018 tại quán
cà phê Sao Băng, số 209 đường Huỳnh Minh Thạnh, khu phố Xóm Rẫy, thị trấn
Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đặng Ngọc Dư rủ Đinh
Văn Cường sử dụng ma túy, Cường đồng ý. Dư lấy trong người một gói ma túy
42
đá đổ ra một ít để cùng Cường sử dụng, lúc này Cường nói Dư bán cho Cường
số ma túy đá còn lại với giá 100.000đ để sử dụng, Dư đồng ý và đổ hết số ma túy
còn lại vào “nỏ” cả hai tiếp tục sử dụng sau đó Cường yêu cầu Dư bán thêm cho
mình 200.000đ ma túy đá. Dư đồng ý bán, Cường đưa cho Dư 300.000đ tiền
mua ma túy. Dư về lấy ma túy sau đó quay lại phân gói ma túy vừa lấy thành 02
gói nhỏ, 01 gói giấu trong chòi của quán mục đích để giành bán cho người khác,
gói còn lại bán cho Cường. Trong lúc thực hiện giao dịch thì bị lực lượng Công
an thị trấn Phước Bửu bắt quả tang cùng tang vật. Sau khi bị bắt Dư giao nộp gói
ma túy giấu trong chòi quán cà phê cho cơ quan Công an. Trong quá trình điều
tra Dư khai nhận, trước đó vào khoảng 20 giở 30 phút ngày 18 tháng 01 năm
2018 tại nhà Phạm Quốc Hùng, khu phố Láng Sim, thị trấn Phước Bửu, huyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Dư bán cho Hùng một gói ma túy đá với
giá 200.000đ và khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày Dư bán cho người tên Quý
không rõ lai lịch một gói ma túy đá số tiền 150.000đ tại nhà của Dư.Tại CQĐT,
Dư khai nhận nguồn gốc số ma túy nêu trên là do Dư mua của một người tên
Long không rõ lai lịch địa chỉ về phân ra để bán cho các con nghiện để kiếm lời.
Đối với Đinh Văn Cường là người đã mua ma túy của Cường, đã bỏ trốn khỏi
địa phương và đối tượng tên Quý (không rõ lai lịch) là người mua ma túy của
Đặng Ngọc Dư, Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh xử lý sau.
Tại bản kết luận giám định số 33/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 23/1/2018 của
Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, kết luận:
- Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín
(mẫu A1), niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an
thị trấn Phước Bửu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Ngô Ngọc Tân,
Nguyễn Ngọc Quý, Đinh Văn Cường, Nguyễn Phan Anh Thuận, Đặng Ngọc Dư,
gửi đến giám định có khối lượng 0,1489gam, là chất ma túy, loại
Methamphetamine (thu giữ trên người của Cường);
- Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín
43
(mẫu A2), niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an
thị trấn Phước Bửu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Ngô Ngọc Tân, Ngô
Văn Cường, Phạm Thị Chi, Đặng Ngọc Dư, gửi đến giám định có khối lượng
0,9771gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine (thu giữ tại chòi lá của quán
cà phê). Tổng khối lượng ma túy giám định có khối lượng 1,1 gam loại
Methamphetamine.
Ngày 13/6/2018 VKSD huyện Xuyên Mộc ra cáo trạng số 38/CT-VKS-
XM truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Xuyên Mộc để xét xử bị can Đặng
Ngọc Dưvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, c
Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, TAND huyện Xuyên Mộc đưa vụ án ra xét
xử: Kết thúc phần xét hỏi, tại phần luận tội đại diện Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố tại tòa: Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc Dư, phạm tội
“Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, c Khoản 2 Điều 251 BLHS
năm 2015; điểm s, r Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đề nghị mức án đối với
bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù.
Tại bàn án số 42/HSST/2018 ngày 11/7/2018, Hội đồng xét xử tuyên bố
bị cáo Đặng Ngọc Dư phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.Áp dụng điểm
b, c Khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015; Điều 38; điểm r, s Khoản 1 Điều 51;
Điều 54 BLHS 2015 tuyên phạt bị cáo Dư 06 năm tù. Đại diện VKS nhận thấy
Bản án trên là phù hợp nên không tiến hành kháng cáo, kháng nghị. Mặc dù TA
huyện Xuyên Mộc tuyên mức án không thống nhất với quan điểm, đề nghị của
VKS huyện Xuyên Mộc, TAND huyện áp dụng điều 54 BLHS năm 2015 để cho
bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt trong vụ án này là có cơ sở, hoàn
toàn phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết
khác, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước.
2.3. Những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố các
vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và nguyên
44
nhân
2.3.1. Những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố
trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc
- Trong công tác thực hành quyền tố trong giai đoạn giải quyết, tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: Thực tế cho thấy, một số tố giác, tin
báo về tội phạm ma túy hiện nay gặp khó khăn chủ yếu từ việc xác định tội danh
để làm căn cứ phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, lệnh tạm giam. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp việc xác
định hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất và mua
bán trái phép chất ma túy cũng có những khó khăn trong nhận thức, không thống
nhất. Đối với những vụ án mua bán trái phép chất ma túy mà xác định được rõ
kẻ mua, người bán thì việc xử lý không quá khó khăn. Tuy nhiên, trong thực tế
có không ít vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được đối tượng
mua và việc chứng minh hành vi mua bán trái phép chất ma túy chủ yếu chỉ dựa
và lời khai của người bị bắt. Mục 3.3 Thông tư 17/2007/TTLT-BCA-
VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 liệt kê các hành vi được
coi là mua bán trái phép chất ma túy trong đó có hành vi: “… e) Tàng trữ chất
ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; g) Vận chuyển chất ma túy nhằm
bán trái phép cho người khác” [9]. Tuy nhiên, việc chứng minh được ý thức chủ
quan của một người là rất khó khăn dẫn đến tình trạng thường gặp là trong quá
trình điều tra vụ án lúc đầu đối tượng khai nhận mục đích cất giấu hoặc vận
chuyển ma túy nhằm mục đích mua bán nhưng sau đó lại thay đổi lời khai mục
đích để sử dụng dẫn đến việc phải thay đổi quyết định khởi tố từ tội Mua bán trái
phép chất ma túy về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cũng như vậy, tại phiên
tòa xét xử vụ án Mua bán trái phép chất ma túy khi bị cáo thay đổi lời khai ban
đầu về mục đích cất giấu hoặc vận chuyển ma túy chỉ nhằm mục đích sử dụng
dẫn đến việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần để yêu cầu thay đổi
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong công tác THQCT trong giai đoạn
45
điều tra: Khi giải quyết các vụ án ma túy, có một số vụ việc, giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng chưa có sự thống nhất về nhận thức trong việc áp dụng pháp
luật hình sự. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều tra
các vụ án ma túy còn có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định tội
danh, điều luật và khoản, điểm của BLHS mà bị can đã vi phạm, dẫn đến việc
xác định mức hình phạt chưa phù hợp, không tương xứng, không thống nhất.
Một số KSV chưa thực hiện tốt vai trò thực hành quyền công tố ngay từ
đầu, không chủ động theo sát hoạt động điều tra, nắm vững tiến độ điều tra vụ án
nên chưa thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động điều tra. Một đặc điểm riêng
của điều tra vụ án về ma túy là hoạt động điều tra truy xét của CQĐT thường
được áp dụng để truy tìm thủ phạm, mở rộng điều tra, xóa bỏ tận gốc tội phạm
ma túy nên một số hoạt động trinh sát, truy xét không được KSV thường xuyên
kiểm sát hoặc trực tiếp kiểm sát. Do vậy, KSV cần bám sát chặt chẽ mọi hoạt
động điều tra, truy xét, nắm chắc kết quả của từng ngày hoặc từng giai đoạn điều
tra. Chính vì không bám sát được quá trình điều tra nên không phát hiện được
những vi phạm, thiếu sót của CQĐT trong việc tuân thủ BLTTHS, để kịp thời
kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục. Điều này dẫn đến tình trạng vụ án phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, một số vụ án ra tòa bị cáo chối tội, một
số vụ người bào chữa đề nghị làm rõ những vi phạm tố tụng, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng, tiến độ giải quyết án.
Trong quá trình THQCT các vụ án ma túy vẫn còn những hạn chế nêu
trên nên dẫn đến việc hồ sơ các vụ án ma túy của Viện kiểm sát huyện Xuyên
Mộc có những vụ án còn bị quá hạn giải quyết tố giác, tin báo, điều tra, hoặc
thời hạn truy tố, xét xử; một số vụ án còn bị trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung nhiều lần; một số vụ án còn bị tòa án cấp phúc thẩm cải sửa.
-Trong công tác thực hành quyền tố trong giai đoạn xét xử: Tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy, công tác thực hành quyền công tố của VKS tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn một số hạn chế nhất định. Có
46
KSV không chuẩn bị đề cương xét hỏi, không chuẩn bị những vấn đề dự kiến
cần làm rõ hơn tại phiên toà; việc chuẩn bị bản luận tội ở cấp sơ thẩm trong một
số vụ án chưa đạt yêu cầu. Hạn chế thường thấy là các bản luận tội chỉ nêu luận
điểm mà rất ít có luận cứ và luận chứng đầy đủ để chứng minh cho luận điểm đã
nêu dẫn đến hệ quả của nó là chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà không
cao, tính thuyết phục không lớn.
Chất lượng xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm của KSV còn hạn chế: qua đánh
giá của VKS huyện Xuyên Mộc thời gian qua còn có trường hợp KSV xét hỏi
chất lượng chưa cao, thể hiện qua việc không chú ý theo dõi việc xét hỏi của các
thành viên HĐXX nên hỏi lặp lại, hỏi về những vấn đề không trọng tâm, hỏi cho
có, thái độ và ngôn từ sử dụng khi xét hỏi còn nhiều hạn chế, có những tình tiết
mới nhưng không được tiếp thu và sửa đổi kịp thời vào trong bản luận tội ở
phiên toà sơ thẩm để làm rõ những vấn đề của vụ án nhằm để có cơ sở bảo vệ
(cũng là để kiểm tra) quan điểm truy tố thể hiện trong cáo trạng. Khi xét hỏi
không được toàn diện, chỉ tập trung xét hỏi về hành vi phạm tội, còn các vấn đề
khác như vật chứng, nhân thân, tài sản bị thu giữ… không được chú trọng nên
chất lượng giải quyết vụ án đó chưa cao.
Chất lượng tranh tụng trong một số phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự về ma
túy còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay. Có KSV do nghiên cứu không sâu hồ sơ vụ án nên không nắm chắc nội
dung vụ án, vì vậy, khi người tham gia tố tụng đề nghị, yêu cầu thì lúng túng
trong tranh luận, chỉ đối đáp qua loa, không làm rõ được những vấn đề cần giải
quyết. Do vậy, trong một số vụ án, mặc dù vẫn đạt được kết quả xét xử nhưng
tính thuyết phục bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng cũng như
quần chúng Nhân dân không cao.
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém trong công tác thực hành
quyền công tố trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc
Kết quả công tác thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của
47
huyện Xuyên Mộc còn có một số tồn tại, yếu kém do những nguyên nhân sau
đây:
Thứ nhất, Tội phạm ma túy hiện nay hoạt động hết sức tinh vi với nhiều
phương thức thủ đoạn khác nhau như: Thủ đoạn mà loại tội phạm này thường
xuyên sử dụng đó là lợi dụng vỏ bọc các doanh nghiệp, thành lập công ty sản
xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, thuê kho, xưởng hàng hóa để ngụy trang việc
tàng trữ, mua bán, vận chuyển ma túy và lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất
hàng hóa để vận chuyển ma túy, có nhiều trường hợp giấu ma túy trong các bình
gas, ép vào ván gỗ, giấu vào hàng hóa, các vùng kín trong cơ thể nhằm trốn tránh
sự kiểm soát của các lực lượng chức năng. Theo quy định tại Thông tư liên tịch
số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24 tháng 12 năm 2007
(Thông tư 17/2007) hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII các
tội về ma túy của BLHS năm 1999, quy định: Trong quá trình giải quyết vụ án
về ma túy tất các trường hợp khi thu giữ chất nghi là ma túy đều phải tiến hành
giám định để xác điịnh loại, hàm lượng ma túy[9]. Việc quy định khi khi thu giữ
tang vật trong vụ án nghi là chất ma túy bắt buộc phải giám định hàm lượng chất
ma túy, mục đích đảm bảo tính thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử, phù hợp với công ước quốc tế, đảm bảo quyền con người đảm bảo nguyên
tắc suy đoán vô tội có lợi cho bị can, bị cáo tránh oan sai trong xét xử. Tuy nhiên
trong thực tiễn đa số HĐXX chỉ căn cứ vào kết quả giám định trọng lượng của
các chất nghi là chất ma túy để kết tội các bị cáo mà không căn cứ vào hàm
lượng do đó Ngày 17/9/2014 Tòa án nhân dân tối cao ban hành công văn số Số:
234/TANDTC-HS yêu cầu:“Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các
Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh; các Đồng chí Chánh án Tòa án quân sự các cấp cần quán
triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 nêu trên
về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất
48
thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định
tại Chương XVIII “Các tội về ma túy” của Bộ luật hình sự 1999” [27]. Việc ban
hành Công văn 234/TANDTC-HS ngày 17/09/2014 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn xác định hàm lượng chất ma túy gây ra nhiều bất cập, khó khăn
không thể thực hiện được dẫn đến nhiều vụ án ma túy phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung quá số lần quy định với cùng một lý do, án tạm đình chỉ nhiều, còn một
số vụ phải đình chỉ điều tra diễn ra trong thời gian dài, ảnh hưởng đến công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Để tháo gỡ khó khăn này thông tư
liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015
(Thông tư 08) ra đời sửa đổi tiết 1.4 mục 1 Phần I Thông tư 17/2007 nói trên, có
nội dung: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy
hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng
cầu giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ
được....” [9].
Nội dung hướng dẫn tại (Thông tư 08/2015) nêu trên mặc dù đã đáp ứng
được nhu cầu thực tế giải quyết án tồn đọng, nhưng lại trái với quy định tại Điều
15 BLTTHS năm 2015 khi xác định sự thật khách quan của vụ án [21].
BLHS năm 1999 nay được thay thế bằng BLHS năm 2015 trong mục các
tội phạm về ma túy không quy định “Lấy tổng khối lượng ma túy, kể cả trong
trường hợp có pha trộn với các chất khác” để làm căn cứ định khung hình phạt.
Thực tế quá trình điều tra, truy tố, xét xử hiện nay khi thu giữ tang vật
trong vụ án nghi chất ma túy (dạng thể rắn), sau khi có kết luận giám định, hầu
hết đều không phải là tinh chất ma túy mà là ma túy tổng hợp. Chứng minh được
sự thật này là một căn cứ đặc biệt quan trọng trong các vụ án về ma túy, đó chính
là gốc của vụ án để định khung hình phạt, xác định có tội hay không có tội. Nội
dung hướng dẫn tại (Thông tư 08/2015) có quan điểm chỉ đạo không giám định
hàm lượng (trừ 04 trường hợp), sau đó lấy tổng khối lượng làm căn cứ định
khung hình phạt đã đáp ứng được việc giải quyết tồn đọng án ma túy, nhưng vô
49
hình chung đã chỉ đạo cơ quan tiến hành tố tụng cố ý thực hiện sai sự thật, trái
với sự thật khách quan, không toàn diện và đầy đủ dẫn tới trái với quy định tại
Điều 15 BLTTHS, gây bất lợi cho bị can, bị cáo. Vấn đề này gây khó khăn cho
VKS trong công tác THQCT trong việc giải quyết vụ án ma túy.
Một số điều luật trong BLHS, BLTTHS năm 2015 quy định chưa cụ thể;
liên ngành cấp Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn nên việc nhận thức, vận
dụng của CQĐT và VKSND, của ĐTV và KSV có khi không đúng, chưa thống
nhất, dẫn đến thiếu đồng thuận trong việc xác định tội danh, khung hình phạt làm
cho quan hệ phối hợp công tác liên ngành đôi lúc chưa được thuận lợi. Hiện tại
có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định các tội danh ma túy. Có
trường hợp CQĐT bắt giữ được đối tượng nghiện chất ma túy, mua ma túy đá
(Methamphetamine) về để nhằm mục đích sử dụng nhưng sau đó ngoài việc sử
dụng còn bán lại chất ma túy cho một số người nghiện khác. CQĐT không thể
xác định được lấy lời khai của người đã mua ma túy, quan điểm CQĐT và VKS
cho rằng đối tượng đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” hoặc “Mua
bán trái phép chất ma túy”, nhưng TA lại cho rằng cần phải áp dụng nguyên tắc
có lợi cho người phạm tội chỉ có thể xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy”, vì khung hình phạt của tội này nhẹ hơn tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy” hoặc “Mua bán trái phép chất ma túy” dẫn đến không thống nhất trong việc
định tội danh giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Khoản 3 Điều 146 BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan công an cấp xã
có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và tiến
hành một số hoạt động hoạt động kiểm tra, xác minh ban đầu [21]. Nhưng không
quy định việc VKS có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của cơ quan công an xã, phường nên đây cũng là một trong
những nguyên nhân gây khó khăn cho công tác thực hành quyền công tố của
VKSND.
Thứ hai, năng lực, nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số
50
Kiểm sát viên vẫn còn hạn chế. Một số KSV chưa nhận thức được đầy đủ về
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra nên dẫn đến
việc chưa thực hiện đầy đủ chức năng THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói
chung và các vụ án ma túy nói riêng được pháp luật quy định. Một số Kiểm sát
viên có trình độ nghiệp vụ, kỹ năng thực hành quyền công tố không cao nên
không chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm,
yêu cầu điều tra, hoặc không phát hiện được các vi phạm trong điều tra của
CQĐT/ĐTV. Những kỹ năng xét hỏi, tranh luận của KSV tại phiên tòa là những
kỹ năng quan trọng giúp cho KSV có thể bảo vệ được quan điểm truy tố, buộc
tội của VKS nhưng một số KSV chưa quan tâm rèn luyện nên kỹ năng không
cao; kết quả xét hỏi, tranh luận trong một số vụ án về ma túy còn chưa có tính
thuyết phục cao. Do vậy, một số quan điểm về loại và mức hình phạt còn không
thống nhất với Tòa án. Một số trường hợp, khi KSV phát hiện ĐTV, CQĐT có
những sai phạm, vi phạm thì lại không báo cáo, đề nghị lãnh đạo kháng nghị,
kiến nghị kịp thời để khắc phục. Vẫn còn biểu hiện nể nang sai phạm của CQĐT,
Tòa án, các nguyên tắc, quy định của pháp luật nên chất lượng giải quyết án
chưa cao, đôi khi bị Tòa án cấp phúc thẩm cải sửa án.
Thứ ba, Trong THQCT đối với các vụ án ma túy VKS huyện đôi lúc chưa
thực sự quan tâm đến mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT, phối hợp liên ngành
còn rời rạc, không thống nhất. Chưa có một điều luật riêng quy định về việc phối
hợp công tác giữa VKS với CQĐT và Tòa án, tuy nhiên, đã có những quy định,
nguyên tắc về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, giữa VKS và Cơ quan điều tra
các cấp thường ký kết Quy chế phối hợp công tác. Nội dung phối hợp dựa trên
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức VKSND và Luật tổ chức cơ
quan điều tra, phối hợp thực hiện những quy định của BLTTHS năm 2015 trong
việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Sự phối hợp chỉ giới hạn ở việc mỗi cơ quan,
mỗi người tiến hành tố tụng phải thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn của mình,
51
thực hiện đúng những quy định của pháp luật. Những trường hợp vụ án khó,
phức tạp cần trao đổi, thống nhất về tội danh, áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
biện pháp điều tra cho phù hợp, đáng đắn, có hiệu quả điều tra cao. Không được
phép phối hợp thực hiện những quy định trái pháp luật, gây oan sai hoặc bỏ lọt
tội phạm. Ở cấp Trung ương, Bộ Công an, Bộ quốc phòng và VKSNDTC đã có
Thông tư liên tịch số 05/2005 ngày 07/9/2005 (và Thông tư liên tịch số 04/2018
ngày 19/10/2018) về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện
một số quy định của LTTHS năm 2003 (BLTTHS năm 2015). Trên thực tế thì
các cơ quan tiến hành tố tụng đã phối phợp rất tốt trong thực thi nhiệm vụ, khám
phá, xử lý rất nhiều vụ án, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, tại VKS huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, việc phối hợp giữa VKS và CQĐT đôi lúc chưa được quan
tâm đúng mức, chưa thực hiện triệt để. Theo luật quy định, các yêu cầu của
VKSND trong hoạt động điều tra, CQĐT phải chấp hành thực hiện, kể cả trong
trường hợp không đồng ý, song một số trường hợp CQĐT không thực hiện, hiện
chưa có chế tài để xử lý đối với việc trên. BLTTHS quy định về nhiệm vụ còn
chưa được cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến không thống nhất,
khó thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, công tác cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ
thể để chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu… Chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo
được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán
bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với
công việc”.
Thứ năm, Cán bộ kiểm sát, kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp là cụ thể ở
đây là cấp huyện những người được giao thực hiện chức năng thực hành quyền
52
công tố. Đây là chức năng có tính đặc thù của ngành KSND, ngoài Viện KSND
không có bất kỳ cơ quan nào khác được giao thực hiện chức năng này. Nhưng
không bảo đảm về kinh phí, trang thiết bị nghiệp vụ, chế độ chính sách tiền
lương không đảm bảo cho cán bộ kiểm sát dẫn đến một bộ phận không nhỏ KSV
khó an tâm công tác.
Kết luận chương 2
Trong Chương 2, đã làm rõ được những tồn tại, hạn chế đối với THQCT
trong các vụ án ma túy ở huyện Xuyên Mộc. Thực trạng công tác thực hành
quyền công tố nói chung và so sánh để thấy được tình hình diễn biến của tội
phạm ma túy trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bằng những số liệu, vụ án xảy ra tại địa phương, tác giả đã đưa ra những
kết quả đạt được trong quá trình THQCT và những hạn chế, khó khăn, vướng
mắc trong quá trình THQCT trong các vụ án ma túy trên địa bàn huyện Xuyên
Mộc. Từ những phân tích đó, là cơ sở để học viên đã đưa ra một số giải pháp cụ
thể để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố các vụ án ma túycủa
53
VKSND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tại Chương 3 của luận văn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH ĐÚNG QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ án
ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
3.1.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc cơ bản, nhân tố quan
trọng hàng đầu cần quán triệt trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ án ma túy của VKSND huyện Xuyên Mộc
Hoạt động THQCT trong các vụ án hình sự trong đó có án ma túy nói
riêng là một hình thức biểu hiện quyền lực Nhà nước để bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng trong việc lãnh đạo xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, có
hoạt động THQCT các vụ án hình sự trong đó có vụ án ma túy luôn đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và mang tính giai cấp sâu sắc.
Nội dung hoạt động nghiệp vụ phải nhằm mục tiêu chính trị, hoạt động
THQCT các vụ án ma túy ở VKSND huyện Xuyên Mộc vừa dùng pháp luật làm
căn vừa quán triệt tư tưởng của Đảng, tức là phải bảo đảm nguyên tắc pháp chế
XHCN đồng thời đáp ứng yêu cầu chính trị ở địa phương.
Quan điểm và đường lối đó thể hiện ở các mặt sau: Quán triệt đến từng
cán bộ, KSV trong đơn vị nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng trong công
tác nghiệp vụ, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự;
VKSND huyện Xuyên Mộc là đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, đồng thời đơn vị có Chi bộ Đảng trực thuộc huyện ủy Xuyên
Mộc, do đó trong công tác THQCT trong các vụ án ma túy phải tuân thủ chặt
chẽ việc áp dụng pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo pháp luật được thực thi
đồng thời phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương; Trong hoạt động THQCT các
54
vụ án ma túy, các thao tác nghiệp vụ của cán bộ, KSV phải thực sự nghiêm túc
mang ý thức chính trị, con người làm công tác này phải mang tính Đảng phải là
con người cách mạng, luôn giữ vững lập trường tư tưởng bảo vệ Đảng, chế độ,
Nhân dân trước sự xâm hại của tội phạm; không được có biểu hiện tiêu cực, nhất
là đối với các vụ án có lượng ma túy lớn, có nhiều tình tiết phức tạp.
3.1.2. Bảo đảm thực hành quyền công tố các vụ án ma túy tại huyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phải dựa trên các yêu cầu về đổi mới tổ chức
và hoạt động của VKSND theo tinh thần cải cách tư pháp
Ngoài yêu cầu nâng cao chất lượng THQCT, Nghị quyết số 08 của Bộ
Chính trị còn nhấn mạnh đến việc tổ chức lại bộ máy, mô hình của VKSND để
nâng cao hiệu, hiệu quả khi thực hiện chức năng của mình. Bộ chính trị thông
qua Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” đã có những kết luận rõ hơn và mang tính định hướng quan trọng
về THQCT trong đấu tranh phòng chống tội phạm đối với các vụ án hình sự, chỉ
rõ: Trước mắt, VKSND giữ nguyên mô hình, chức năng như hiện nay là THQCT
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu việc chuyển VKS thành viện công tố,
tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra; Kết luận số 79-
KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án, VKSND và CQĐT theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” kết luận: Viện Kiểm sát nhân
dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như
hiện nay.
THQCT đối với các vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, được đề ra hơn 10 năm trước và
đòi hỏi yêu cầu thực hiện cao hơn. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong chiến
lược cải cách tư pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm; bảo đảm an ninh trật tự, giữ vững kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp và cuộc sống thanh bình của nhân dân thì công tác THQCT của
55
VKSND trong lĩnh vực hình sự phải dựa trên đổi mới tổ chức và hoạt động của
VKSND theo tinh thần cải cách tư pháp là tất yếu và công tác THQCT trong các
vụ án ma túy của VKSND huyện Xuyên Mộc cũng không nằm ngoài luật này.
3.1.3. Bảo đảm thực hành quyền công tố trong các vụ án các vụ án ma túy
tại huyện Xuyên Mộc phải chính xác, kịp thời, tuân thủ đúng các qui định của
pháp luật
Trong quá trình THQCT các vụ án ma túy ở các giai đoạn tin báo, điều
tra, xét xử, VKSND huyện Xuyên Mộc đảm bảo luôn vận dụng pháp luật theo
phương châm Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội
KSV thường xuyên trao đổi ĐTV về tiến độ, tình hình vụ án nếu có phát
sinh khó khăn, cần tiến hành họp liên ngành để thống nhất các biện pháp giải
quyết. Nếu còn khó khăn thì nhanh chóng thỉnh thị xin ý kiến cấp trên cho ý kiến
chỉ đạo đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn, không bỏ lọt
tội phạm và không làm oan người vô tội.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ
án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
3.2.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thực hiện Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến công tác thực hành quyền công tố đối
với các vụ án ma túy
Bộ luật hình sự, BLTTHS năm 2015 được Quốc hội thông quan năm 2015
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 về cơ bản đã khắc phục được những hạn chế,
khiếm khuyết của pháp luật về các tội phạm về ma túy cũng như trình tự, thủ tục
giải quyết các vụ án ma túy. Các cơ quan tư pháp Trung ương cũng đã kịp thời
ban hành một số Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện các quy định của
56
pháp luật. Tuy nhiên cũng còn một số quy định, tình tiết của BLHS, BLTTHS
năm 2015 chưa được giải thích, hướng dẫn áp dụng cụ thể nên còn nhiều cách
hiểu, cách vân dụng khác nhau, chưa thống nhất.
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
ngày 24/12/2007 và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 đã bộc lộ những hạn chế, lạc hậu trong việc
hướng dẫn áp dụng một số quy định đối với “Các tội phạm về ma túy” của Bộ
luật hình sự năm 1999 hiện tại không còn phù hợp đối với BLHS năm 2015 do
đó nên sớm có Thông tư liên tịch mới thay thế.
Nên có hướng dẫn cụ thể áp dụng Khoản 5 Điều 206 và điểm c Khoản 1
Điều 208 BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn giám định chất ma túy. Kết quả
giám định chất ma túy là căn cứ không thể thiếu trong việc khởi tố vụ án, khởi tố
bị can, ra lệnh tạm giam đói với bị can. Theo quy định thì thời hạn giám định
chất ma túy không quá 09 ngày, quy định này gây khó khăn cho VKS THQCT
đối với vụ án ma túy, vì Cơ quan giám định hầu hết ban hành kết luận giám định
chất ma túy sau đúng 09 ngày, trong khi thời hạn gia hạn tạm giữ lần hai tối đa là
09 ngày và bao giờ cũng hết trước thời hạn giám định gây khó khăn trong việc
khởi tố điều tra.
Nghị định số 127/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ quy định
về niêm phong vật chứng đối với ma túy chưa quy định rõ việc có mặt của chính
quyền địa phương khi mở niêm phong. Do đó, cần có Thông tư hướng dẫn cụ thể
nội dung này để các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất thực hiện.
Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao nên có Nghị quyết mới thay
thế Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 hướng dẫn áp dụng một
số quy định liên quan đến các vụ án ma túy, các khung hình phạt tương ứng với
khối lượng ma túy cụ thể để phù hợp BLHS năm 2015.
3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý trong thực hành quyền công tố trong
57
các vụ án ma túy
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hànhquyền công tố
đối với các vụ án ma túy theo hướng bảo đảm chế độ tập trung thống nhất trong
ngành, KSV phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Viện trưởng và chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, VKSNDTC theo quy định tại
Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014. Do đó, trong thời gian tới KSV huyện
Xuyên Mộc, cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc
tổ chức thực hiện quyền công tố đối với các vụ án ma túy đảm bảo nguyên tắc
tập trung, lãnh đạo thống nhất theo Luật tổ chức VKSND năm 2014.
3.2.3. Tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra trong các vụ án ma túy
Để đáp ứng được trách nhiệm tăng cường THQCT và gắn công tố với
hoạt động điều tra trong các vụ án hình sự nói chung trong đó có vụ án ma túy
nói riêng thì VKSND huyện Xuyên Mộc phải thực hiện tốt những quy định của
BLTTHS năm 2015, Chỉ thị Số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về “Tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm” của Viện trưởng
VKSNDTC, cần thực hiện tốt những yêu cầu sau:
Thứ nhất, VKS phải kiểm sát chặt chẽ, kịp thời các hoạt động điều tra,
gắn hoạt động kiểm sát với hoạt động điều tra:BLTTTHS năm 2015 có nhiều
quy định mới nhằm đảm bảo cho hoạt động của VKS bám sát tiến độ và gắn bó
chặt chẽ với hoạt động điều tra như: bổ sung thêm các hoạt động điều tra bắt
buộc phải có mặt của KSV gồm: đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám
xét, thực nghiệm điều tra (ngoài một số hoạt động điều tra bắt buộc phải có mặt
của Kiểm sát viên là khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi như quy
định trong BLTTHS năm 2003). Việc hỏi cung bị can phải thông báo trước thời
gian, địa điểm để KSV tham gia khi cần thiết. Luật cũng quy định Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách
58
nhiệm chuyển bản gốc tài liệu, chứng cứ đã thu thập cho Viện Kiểm sát trong
thời hạn 05 ngày, nếu có trở ngại khách quan thì có thể kéo dài nhưng không quá
15 ngày; trong thời hạn 03 ngày, Viện Kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên
bản, tài liệu và bàn giao nguyên trạng biên bản, tài liệu đó cho Cơ quan điều tra
để đưa vào hồ sơ vụ án. Ngoài ra, BLTTHS cũng quy định thêm nhiều loại văn
bản tố tụng phải gửi cho Viện Kiểm sát, tăng loại văn bản Cơ quan điều tra phải
gửi trực tiếp cho Viện Kiểm sát.
Việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên sẽ làm cho hoạt động
kiểm sát điều tra vụ án của VKS gắn chặt với hoạt động điều tra như yêu cầu cải
cách tư pháp. Đây là điều kiện rất quan trọng để thực hiện được chủ trương tăng
cường công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Khi hoạt động
kiểm sát điều tra được thực hiện đầy đủ, chặt chẽ sẽ giúp cho VKS có đầy đủ tài
liệu, thông tin để ban hành các quyết định thực hành quyền công tố chính xác.
Phải thay đổi nhận thức, theo đó KSV được phân công thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án phải là người “trong cuộc”, cùng ĐTV phá án, chứ
không phải là người đứng ngoài để quan sát hoạt động của Điều tra viên rồi đưa
ra các yêu cầu và thu về các kết quả để xem xét, đánh giá như trước đây. Trên
thực tế, việc thực hiện các yêu cầu này không dễ dàng, bởi theo đó, gần như ở
đâu có hoạt động điều tra, ở đó phải có sự hiện diện của Viện Kiểm sát để đảm
bảo các hoạt động ấy diễn ra đúng luật.
Thứ hai, VKS tăng cường THQCT sớm hơn, ngay từ giai đoạn tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:Thực tiễn hoạt động
tố tụng hình sự cho thấy giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố có vị trí rất quan trọng. Giải quyết tốt giai đoạn đầu
tiên này sẽ góp phần thực hiện mục tiêu chống bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan
người vô tội. Phúc đáp yêu cầu này, lần đầu tiên nội dung và phạm vi thực hành
quyền công tố của Viện KSND đã được luật hóa tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện
KSND năm 2014. BLTTHS năm 2015 đã có quy định cụ thể thẩm quyền của
59
VKS trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và
khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự và trách nhiệm
của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS (Điều 160, 161, 162).
Yêu cầu đặt ra là, VKS phải bằng cách áp dụng các quy định của pháp luật, quản
lý được đầy đủ tình hình tội phạm và kết quả tiếp nhận, xác minh, giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trên địa bàn; phát hiện
được vi phạm pháp luật của các cơ quan này và áp dụng các thẩm quyền được
BLTTHS quy định để khắc phục, chống oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Để làm
được điều này, phải đổi mới phương pháp, cách làm để thực sự chủ động, gắn
chặt trách nhiệm của VKS với kết quả tiếp nhận, xác minh, giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thứ ba, VKS tăng cường thực hành quyền công tố trong việc trực tiếp tiến
hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, báo tin về tội phạm và các
biện pháp điều tra. VKS cần tăng cường tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác
minh như lấy lời khai người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp để phục vụ việc
phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt; tăng cường trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra như lấy lời khai người vị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, đối chất,
thực nghiệm điều tra để xác định chính xác, đúng đắn hành vi phạm tội của
người bị buộc tội, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết khác giúp giải
quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ án hình sự.
3.2.4. Chủ động đề ra yêu cầu có chất lượng, toàn diện
THQCT trong các vụ án ma túy ở cấp Huyện có một vấn đề phải được đặt ra kể
từ giai đoạn tin báo, tố giác về tội phạm ma túy đó là chủ động đề ra yều điều
tra, xác minh có chất lượng. Việc này đòi hỏi KSV phải bám sát tiến độ giải
quyết vụ án, nghiên cứu kỹ hồ sơ mới đề ra được yêu cầu có chất lượng. Quy
60
định này là gắn công tố với hoạt động giải quyết vụ án ma túy. Nội dung yêu cầu
xác minh nhằm mục đích kiểm tra tính xác thực, yêu cầu thu thập tài liệu chứng
cứ để làm rõ các tình tiết cần chứng minh liên quan đến vụ án. KSV thực hiện tốt
việc đề ra yêu cầu xác minh, điều tra kết quả giúp cho KSV đánh giá được hành
vi của đối tượng có pham tội hay không? Thời gian, địa điểm thực hiện hành vi
phạm tội, mục đích động cơ phạm tội. Khi các vấn đề này được làm rõ trong vụ
án ma túy, KSV có đầy đủ cơ sở để thực hiện các hành vi tố tụng trong THQCT.
3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
hoạt động thực hành quyền công tố
VKS cấp huyện yêu cầu Cơ quan điều tra tạo điều kiện để KSV tiếp cận các tài
liệu trinh sát làm căn cứ phá án ma túy, yêu cầu chuyển hóa tài liệu trinh sát có
giá trị chứng minh tội phạm thành chứng cứ tố tụng để phục vụ cho việc giải
quyết vụ án. Không để vi phạm tố tụng dẫn đến các tài liệu có giá trị chứng minh
không được công nhận là chứng cứ như vi phạm thủ tục lập biên bản bắt giữ
hoặc thu giữ vật chứng.
Phối hợp chặc chẽ với Cơ quan điều tra tận dụng khoảng thời gian mới bắt giữ
đối tượng để khai thác triệt để các thông tin về tội phạm. Kịp thời cũng cố chứng
cứ để tránh việc đối tượng thay đởi lời khai về sau. KSV cần tham gia lấy lời
khai, hỏi cung bị can cùng điều tra viên để tránh sau này bị can, bị cáo nại ra do
bị ép cung nên khai nhận.
Kết luận chương 3
Tác giả đã phân tích, đánh giá những vấn đề trọng tâm cốt lỗi về quan
điiểm đảm bảo công tác THQCT trong các vụ án ma túy trong các vụ án ma túy
của VKSND huyện Xuyên Mộc để làm cơ sở nền tảng cho việc nâng cao chất
lượng công tác này. Trên cơ sở những phân tích, đánh giá những hạn chế, tồn tại,
thực trạng những khó khăn, vướng mắc chỉ ra các nguyên nhân các nguyên nhân
khi THQCT đối với các vụ án ma túy trên địa bàn huyện Xuyên Mộc. Bên cạnh
đó đưa ra những tiến bộ của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003
61
trong việc THQCT trong các vụ án ma túy ở cấp Huyện đồng thời đề xuất những
yêu cầu cụ thể cần được BLTTHS năm 2015 và những văn bản dưới luật bổ
sung. Thông qua những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, tác giả đề xuất các giải
pháp: Tăng cường hướng đẫn áp dụng BLHS năm 2015; tăng cường trách nhiệm
THQCT trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra; chủ động
đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng, toàn diện; tăng cường mối quan hệ phối hợp
giữa CQĐT và VKS trong hoạt động THQCT. Các giải pháp này nhằm đảm bảo
62
nâng cao chất lượng THQCT trong các vụ án ma túy.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, các Cơ quan tư pháp huyện Xuyên Mộc đã thực hiện
nhiều giải pháp để phát hiện và xử lý tội phạm tội phạm ma túy góp phần phòng
ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh những kết quả đã đạt
được, thì việc đấu tranh, xử lý, giải quyết tội phạm về ma túy còn gặp nhiều vấn
đề khó khăn, phức tạp, nhất là tội phạm ma túy còn xảy ra ngày một nhiều và
phương thức phạm tội ngày càng tinh vi hơn, đặc biệt trong bối cảnh BLHS năm
2015 có những quy định mới đối với tội phạm túy. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá một cách khách quan thực trạng hoạt động THQCT của VKSND huyện
Xuyên Mộc từ năm 2014 đến năm 2018 đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên
nhân, vướng mắt trong quá trình THQCT trong các vụ án ma túy từ đó đưa ra
các giải pháp kiến nghị góp phần khắc phục hạn chế để đáp ứng yêu cầu đấu
tranh chống tội phạm về xâm phạm ma túy trong tình hình mới. Kết quả mà đề
tài thu được là đưa ra một số hướng hoàn thiện của BLTTHS 2015 đối với
những quy định đó để làm sáng tỏ các vấn đề còn vướng mắc nhằm góp phần
hoàn thiện lý luận đối với công tác THQCT, đưa ra hệ thống giải pháp để nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố của KSV Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện nói chung và VKSND huyện Xuyên Mộc nói riêng. Kết quả nghiên cứu
có thể là tài liệu tham khảo của các đồng nghiệp trong ngành Kiểm sát góp phấn
nâng cao hiệu quả, vai trò của VKSND trong hoạt động thực hành quyền công tố
đối với các vụ án ma túy, trên cơ sở đó bảo đảm không để xảy ra oan, sai hoặc
63
bỏ lọt tội phạm trong tố tụng hình sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Đắc Biên (2018) Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Học viện Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2007) Chỉ thị 15-CT/TW, của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo
của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý
các vụ án và công tác bảo vệ Đảng, ban hành ngày 07/7/2007, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2010) Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án
đổi mới tổ chức hoạt động của Toà án, VKSND và CQĐT, ban hành ngày
28/7/2010, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày
02/01/2002, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/ 2005, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
7. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) Thông tư Liên tịch số
01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao “Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận , giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành ngày
29/12/2017, Hà Nội.
8. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 08/2015/TTLT-
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC, ban hành ngày 14/11/2015, Hà Nội.
9. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao,
Bộ Tư pháp (2017) Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao,
Bộ Tư pháp “Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội
phạm về ma túy" của BLHS năm 1999, ban hành ngày 24/12/2007, Hà Nội.
10. Bộ Tư Pháp (1999) Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách Khoa phổ
thông, Hà Nội.
11. Lê Cảm (2001) Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố,
Chuyên đề khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình
mới, Hà Nội.
12. Nguyễn Hồng Chương (2012) Những vấn đề lý luận về thực hàn
hquyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Hà Nội.
13. Bùi Mạnh Cường (2012) Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tốtụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
14. Hoàng Công Hạnh (2011) Thực trạng chất lượng thực hành quyềncông
tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
15. Nguyễn Diệp Liên (2017) Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa
học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
16. Hà Minh Loan (2017) Thực hành quyền công tố trong giao đoạn điều
tra các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chấn, Tỉnh Yên Bái, Luận
văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
17. Trần Công Phàn (2019) Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo
pháp luật mới, sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Lại Viết Quang (2018) Áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội
phạm về ma túy, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Quốc hội (2009) Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Năm
2013 – 1992 – 1980 – 1959 – 1946 ), NXB Lao động, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014) Luật Tổ chức VKSND, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
24. Phan Hoàng Tân (2011) Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Lê Hữu Thể (2005) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạtđộng
tư pháp trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội.
26. Võ Thọ (1985) Một số vấn đề về luất tố tụng hình sự, NXB Pháp lý, Hà
Nội.
27. Tòa án nhân dân tối cao ( 2014) Công văn số Số: 234/TANDTC-HS của
Tòa án nhân dân tối cao, ban hành ngày 17/9/2014, Hà Nội.
28. Trung tâm từ điển học (1998) Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng.
29. Trường Cao Đẳng Kiểm sát Hà Nội (1984) Giáo trình công tác kiểm
sát phần chung, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Nguyễn Mạnh Tùng ( 2017) Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
31. Uỷ ban nhân dân huyện Xuyên Mộc (2018) Báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội trình bày tại kỳ họp Hội đồng nhân dân huyện tháng 12/2018.
32. Văn phòng thường trực phòng chống ma túy (2000) Ba công ước của
Liên hiệp quốc về kiểm soát ma túy, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Văn phòng thường trực phòng chống ma túy (2008) Một số văn bản
pháp luật quốc tế và của các nước về công tác phòng ,chống ma túy, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội.
34. Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
35. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc (2014, 2015, 2016, 2017,
2018) Báo cáo tổng kết công tác năm, Bà Rịa - Vũng Tàu.
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013) Chỉ thi số 06/CT-VKSTC của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm, ban hành ngày 06/12/2013, Hà Nội.
37. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) Quyết định 505/QĐ-VKSTC của
Viện Trưởng Viện KSND tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành ngày 18/12/2017, Hà
Nội.
38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018)
Thông tư số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phói hợp giữa Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, ban hành ngày 19/10/2018, Hà Nội.
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2005)
Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phói hợp giữa Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, ban hành ngày 07/9/2005, Hà Nội.