ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐỖ NGỌC DUNG HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QU¶N Lý NHµ N¦íC §èI VíI DOANH NGHIÖP KHOA HäC Vµ C¤NG NGHÖ QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐỖ NGỌC DUNG HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QU¶N Lý NHµ N¦íC §èI VíI DOANH NGHIÖP KHOA HäC Vµ C¤NG NGHÖ QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đỗ Ngọc Dung

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ

NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ ...................................................................................... 8

1.1. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ......... 8

1.1.1. Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - khái niệm và đặc điểm .............. 8

1.1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ -

khái niệm, đặc điểm ............................................................................. 13

1.2. Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ .............................................................................. 18

1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 18

1.2.2. Nội dung, đặc điểm của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ .............................................. 21

1.3. Tiêu chí và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ...................... 25

1.3.1. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ .......................................................... 25

1.3.2. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 28

1.4. Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ ở một số quốc gia trên thế giới và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................... 29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 37

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - QUA THỰC TIỄN TỈNH

THANH HÓA .................................................................................................... 39

2.1. Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về quản lý nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ..................... 39

2.1.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối

với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ......................................... 39

2.1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 43

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ............. 81

2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thực hiện pháp luật về quản lý nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa .................................................................................... 81

2.2.2. Những hạn chế và kinh nghiệm rút ra từ thực hiện pháp luật về

quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ................................................................ 86

2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................ 91

2.3.1. Những ƣu điểm .................................................................................... 91

2.3.2. Những nhƣợc điểm và nguyên nhân ................................................... 92

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 98

CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA

HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................... 100

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ .......................................... 100

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ đảm bảo cho doanh nghiệp Khoa học và

Công nghệ phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lƣợng và chất lƣợng .... 100

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả ........ 101

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ đồng thời chú trọng hoàn thiện và phát

huy vai trò của các công cụ, phƣơng tiện quản lý khác .................... 101

3.2. Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ở Việt

Nam hiện nay ................................................................................... 102

3.2.1. Rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về quản

lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............. 102

3.2.2. Đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................. 110

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 114

KẾT LUẬN .................................................................................................. 115

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 126

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DN KH&CN: Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

DN: Doanh nghiệp

DNKN: Doanh nghiệp khởi nghiệp

HĐND: Hội đồng nhân dân

KHCN: Khoa học và Công nghệ

QLNN: Quản lý Nhà nƣớc

SXKD: Sản xuất kinh doanh

TNDN: Thu nhập doanh nghiệp

UBND: Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm qua, Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ về cơ

chế quản lý cũng nhƣ xây dựng chính sách nhằm huy động mọi nguồn lực

phát triển KH&CN. Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp KH&CN, đã đƣợc xác

định là trung tâm để đổi mới và ứng dụng KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN

đƣợc thành lập từ các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp

các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Doanh nghiệp

KH&CN không chỉ là cầu nối đƣa nhanh các tiến bộ KH&CN vào sản xuất,

đời sống mà còn đóng vai trò nhƣ một lực lƣợng sản xuất chủ lực, tạo ra

những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Phát triển doanh nghiệp KH&CN là

một trong những nhiệm vụ quan trọng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặt ra và

quyết tâm triển khai thực hiện. Xác định đƣợc tầm quan trọng của doanh

nghiệp KH&CN trong phát triển kinh tế xã hội, Thanh Hóa cũng sớm có chủ

trƣơng, định hƣớng phát triển doanh nghiệp KH&CN. Tuy nhiên so với doanh

nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ doanh nghiệp KH&CN còn ít,

một số doanh nghiệp KH&CN sau khi thành lập hoạt động còn khó khăn.

Trong những yếu tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển của các doanh

nghiệp KH&CN thì pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là yếu

tố đặc biệt quan trọng.

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, bên cạnh ƣu điểm

cơ bản là đã quy định đƣợc những vấn đề chủ yếu nhằm đạt đƣợc mục tiêu

phát triển nhanh và mạnh mẽ đội ngũ doanh nghiệp KH&CN, vẫn đang còn

một số hạn chế. Những hạn chế có thể dễ dàng nhận thấy là: một số văn bản

quy phạm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chồng

chéo, thiếu sự thống nhất; pháp luật QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

còn chƣa kịp điều chỉnh một số nội dung trong thực tiễn QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN; tính rõ ràng, minh bạch của một số quy định của pháp luật

1

về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế; tính khả khi của một

số quy định của pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn thấp.

Chính vì thế, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN là vấn đề hết sức cần thiết. Do vậy, tôi đã chọn đề tài

"Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN qua thực tiễn

tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành lý luận và lịch sử

nhà nƣớc và pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN:

- Công trình “Doanh nghiệp KH&CN Việt Nam – thực trạng và giải pháp

phát triển” (2014) của Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn. Tại

công trình này các tác giả đã chỉ ra hai vấn đề: Một là, pháp luật liên quan đến

doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam chƣa đồng bộ với các Luật trong một số

lĩnh vực có liên quan (ví dụ nhƣ Luật Đất đai), dẫn tới việc doanh nghiệp

KH&CN chƣa đƣợc hƣởng ƣu đãi theo quy định. Hai là, thiếu các văn bản

hƣớng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách trong ngành, khiến các

nội dung ƣu đãi cũng chƣa thể triển khai trong thực tiễn [1].

- Công trình “Doanh nghiệp KH&CN theo pháp luật Việt Nam” (2017)

của Nguyễn Văn Lâm. Tại công trình này, tác giả cho rằng những bất cập của

pháp luật về doanh nghiệp KH&CN hiện nay là: Thứ nhất, thiếu văn bản hƣớng

dẫn Luật KH&CN năm 2013. Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp KH&CN tại

Việt Nam chƣa đồng bộ với các luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ

nhƣ Luật Đất đai), dẫn tới doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc hƣởng các ƣu đãi

về quyền sử dụng đất. Thứ ba, các quy định về chính sách ƣu đãi đối với

doanh nghiệp KH&CN chƣa đồng bộ, thiếu thống nhất với quy định của Luật

KH&CN năm 2013, dẫn đến việc khó thực thi. Thứ tƣ, thủ tục đăng ký doanh

2

nghiệp KH&CN rƣờm rà, phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp, khiến

doanh nghiệp e ngại không muốn đăng ký. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền,

phổ biến thông tin về ƣu đãi tới doanh nghiệp chƣa kịp thời, nên dẫn đến tình

trạng các doanh nghiệp chƣa thực sự hiểu đƣợc quyền lợi khi trở thành doanh

nghiệp KH&CN [41].

- Trong bài viết “Khó khăn trong tiếp cận chính sách ưu đãi dành cho

doanh nghiệp KH&CN” (2019), Hà Linh cho rằng: Bộ KH&CN cần có văn

bản hƣớng dẫn thực hiện đối với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN

đầu tƣ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ƣu tiên xác lập quyền sở

hữu trí tuệ, sử dụng miễn phí máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm

trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo công nghệ... Nếu quy định chung chung

nhƣ tại Nghị định 13/2019/NÐ-CP, không có mức hỗ trợ bao nhiêu, thủ tục

thực hiện, quy trình, hồ sơ nhƣ thế nào thì địa phƣơng không thể triển khai

đƣợc. Một số chính sách khác hấp dẫn doanh nghiệp hơn cũng khiến doanh

nghiệp không mặn mà trở thành doanh nghiệp KH&CN (nhƣ chính sách hỗ

trợ về thuế, đất đai theo Nghị định 210/2013/NÐ-CP về khuyến khích doanh

nghiệp đầu tƣ vào nông nghiệp, nông thôn...) [58].

- Trong bài viết “Quá ít doanh nghiệp KH&CN - vì sao?” (2019), tác giả

Quang Vũ nêu ra thực trạng: Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có khoảng 500 doanh

nghiệp đủ khả năng đáp ứng các tiêu chí để đƣợc công nhận là doanh nghiệp

khoa học - công nghệ (DN KHCN). Trong khi, hiện chỉ có 4 DN đƣợc công

nhận. Đây là con số quá khiêm tốn. Nguyên nhân DN chƣa mặn mà thành lập

DN KHCN là do một số DN hiện vẫn chƣa thực sự quan tâm đến các chính

sách của hoạt động KHCN, cũng nhƣ đăng ký thành lập DN KHCN. Phản ánh

từ một số DN thì việc thành lập DN KHCN trên lý thuyết rất nhiều ƣu đãi hấp

dẫn, tuy nhiên trên thực tế để đạt DN KHCN thì vô cùng khó khăn. Đặc biệt,

khi đã vào vƣờn ƣơm hay đăng ký độc quyền sáng chế, DN phải khai báo chi

tiết về công nghệ, mô tả sáng kiến của mình nên rất dễ bị mất thông tin, bí

3

quyết quy trình công nghệ. Bên cạnh đó, DN chƣa thấy đƣợc nhiều lợi ích khi

đƣợc công nhận là DN KHCN, kể cả việc miễn giảm thuế [64].

- Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và Quản lý “Giải pháp phát triển Doanh

nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” (2019) của Cao Thị Ngọc Hà.

Tác giả đã đề ra một số giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ: Khuyến khích đầu tƣ và phát triển nghiên cứu KH&CN trong doanh

nghiệp bằng vốn trong và ngoài ngân sách; Khuyến khích chuyển giao, ứng

dụng các thành tựu KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định về điều kiện để

đƣợc chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định

về thủ tục công nhận doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định

về chính sách ƣu đãi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện

nhóm các quy định về tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển

KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định về hoạt động ƣơm tạo công nghệ,

ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; Xây dựng chính sách khuyến khích liên kết

viện, trƣờng - doanh nghiệp - nhà khoa học nhằm thúc đẩy hình thành các

doanh nghiệp KH&CN [38].

- Trong bài viết “Thanh Hóa: Giải pháp phát triển doanh nghiệp

KH&CN” (2019), tác giả Nguyễn Ngọc Túy cho rằng giải pháp để các doanh

nghiệp KH&CN Thanh Hóa phát triển bền vững gồm: Thứ nhất, phải có sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ

sở. Thứ hai, thực hiện cơ chế khuyến khích thông qua triển khai thực hiện các

chƣơng trình, dự án cụ thể; tổ chức các hoạt động xúc tiến chính sách để các

doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận, nắm bắt đƣợc các cơ chế, chính sách của

Nhà nƣớc. Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phƣơng tiện

thông tin đại chúng phong phú, phù hợp với từng đối tƣợng một cách hiệu

quả. Thứ tƣ, bố trí đội ngũ cán bộ có năng lực và tâm huyết để theo dõi và

trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách; đồng hành cùng với các doanh nghiệp,

hỗ trợ, giúp đỡ, tƣ vấn cho các doanh nghiệp. Và phải đƣợc hoạt động theo

4

phƣơng châm “Chủ động tìm đến doanh nghiệp” chứ không thụ động chờ các

doanh nghiệp tìm đến... [63].

Nhƣ vậy, các công trình nêu trên dù đã có những thành công trong việc

chỉ ra thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN ở nƣớc

ta nhƣng mới dừng lại ở mức độ đề cập giải quyết một số khía cạnh của vấn đề,

những hiện tƣợng đơn lẻ của thực tiễn phát triển doanh nghiệp KH&CN. Đặc

biệt từ góc độ pháp luật, chƣa có một công trình nghiên cứu sâu, đầy đủ, có

trọng tâm, trọng điểm và toàn diện về vấn đề pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN.

3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

của pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, từ đó đề xuất những

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

ở Việt Nam hiện nay.

- Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản quy phạm pháp luật có các quy

định về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đƣợc ban hành ở Việt Nam.

Thực trạng thực hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở

Thanh Hóa. Các tài liệu nghiên cứu chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp

luật có liên quan đến hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN trên

địa bàn tỉnh từ khi có Nghị định 80/2007/NĐ-CP (năm 2007) đến nay; các

văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản khác do Tỉnh Thanh Hóa ban

hành trong giai đoạn 2011 - 2019 có liên quan đến KH&CN; các báo cáo tổng

kết công tác hằng năm của ngành KH&CN Thanh Hóa.

- Phạm vi nghiên cứu: Đối với các văn bản quy phạm pháp luật: đƣợc

ban hành từ năm 2007 (năm ban hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP, Nghị định

đầu tiên về doanh nghiệp KH&CN) đến hết năm 2019; đối với thực trạng thực

5

hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở Thanh Hóa: từ năm

2014 (năm công nhận doanh nghiệp KH&CN đầu tiên) đến hết năm 2019.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn này có các nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN.

- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN và thực trạng thực hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật lịch sử và

duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

Nhà nƣớc và Pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng Nhà

nƣớc pháp quyền, về chính sách, phƣơng hƣớng, nhiệm vụ cải cách tƣ pháp…

Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, trong Luận văn sử dụng kết hợp

các phƣơng pháp: phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu; phƣơng pháp phân tích,

tổng hợp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp

chuyên gia…

6. Điểm mới của luận văn

Luận văn đã làm rõ đƣợc những vấn đề chung của pháp luật về QLNN

đối với doanh nghiệp KH&CN: khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Luận văn đã làm rõ đƣợc thực trạng pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN; đánh giá đƣợc tình hình thực hiện pháp luật về QLNN đối

6

với doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra những yếu

kém, tồn tại và nguyên nhân.

Luận văn đã đề xuất đƣợc quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham

khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng:

Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về quản lý Nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quản lý Nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - qua thực tiễn ở tỉnh

Thanh Hóa

Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý Nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam hiện nay.

7

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

Ở nƣớc ta, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là một

ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

bộ phận quan trọng của pháp luật hành chính và hệ thống pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, khái niệm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Đến nay

trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chƣa có đƣợc một quan niệm thống

nhất, hoàn chỉnh về pháp luật trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Để làm sáng tỏ quan niệm pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp KH&CN thì trƣớc hết cần làm rõ 2 vấn đề: (i) khái niệm và đặc điểm

của “doanh nghiệp KH&CN”; (ii) khái niệm và đặc điểm của "QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN".

1.1. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.1.1. Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - khái niệm và đặc điểm

1.1.1.1. Khái niệm

Doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa thế kỷ

XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up

(doanh nghiệp khởi nghiệp) đƣợc hình thành ở các nƣớc công nghiệp phát

triển. Spin-off đƣợc khởi nguồn từ Trƣờng đại học (tách ra hoạt động độc lập

từ các Trƣờng đại học), do các cá nhân tạo ra các tài sản KH&CN tham gia

vào quá trình quản lý của doanh nghiệp. Start - up chỉ sự khởi nghiệp của một

doanh nghiệp mới hình thành trên nền tảng kết quả KH&CN [65]. Mặc dù có

sự khác nhau giữa spin-off và start-up, nhƣng giữa chúng đều có đặc điểm

chung là: (1) Khởi đầu một doanh nghiệp mới dựa trên kết quả KH&CN; (2)

Doanh nghiệp có khả năng thực hiện đổi mới và thƣơng mại hóa các kết quả

KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà ngƣời tiêu dùng có nhu cầu.

8

Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN đƣợc đề cập lần đầu

tiên vào năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành

Trung ƣơng Đảng khóa IX: “Từng bƣớc chuyển các tổ chức KH&CN thực

hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự

trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [3].

Theo Luật KH&CN năm 2013, doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp

thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ KH&CN để tạo ra sản phẩm, hàng

hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ [50].

1.1.1.2. Đặc điểm

Doanh nghiệp KH&CN có các đặc điểm: Là doanh nghiệp đƣợc thành

lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật

doanh nghiệp; Có năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN; Doanh thu từ việc

sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định. Để hiểu rõ đặc điểm

của doanh nghiệp KH&CN, cần phân biệt nó với một số đối tƣợng sau:

a) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp (nói chung)

Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,

đƣợc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh

doanh [52].

Điểm giống nhau dễ nhận thấy đó là mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động

của doanh nghiệp và doanh nghiệp KH&CN đều theo mô hình tổ chức, cơ chế

của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp và doanh nghiệp KH&CN khác nhau ở một số điểm.

Điểm khác biệt đầu tiên là về năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN. Doanh

nghiệp KH&CN phải có năng lực thực hiện nhiệm vu KH&CN; còn doanh

nghiệp thì không bắt buộc phải có năng lực này. Thứ hai, doanh nghiệp

KH&CN phải có tỷ lệ doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ

9

kết quả nghiên cứu đạt từ 30% trở lên; còn doanh nghiệp không bắt buộc phải

đạt tỷ lệ 30% này.

b) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với tổ chức KH&CN

Tổ chức KH&CN là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa

học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN,

đƣợc thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật [33].

Hai loại hình này giống nhau ở chỗ: năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN

đều là yếu tố bắt buộc phải có đối với doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN.

Điểm khác nhau đầu tiên là về tỷ lệ doanh thu sản xuất, kinh doanh sản

phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu. Doanh nghiệp KH&CN phải có tỷ lệ

doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm từ kết quả nghiên cứu đạt từ 30%

trở lên; còn tổ chức KH&CN thì không bắt buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.

Điểm khác nhau thứ hai là doanh nghiệp KH&CN có mô hình tổ chức

và cơ chế hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; nhƣng tổ chức KH&CN thì

không bắt buộc thực hiện theo cơ chế này.

c) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp công nghệ cao

Căn cứ Điều 18 Luật Công nghệ cao năm 2008; Điều 75 Luật Đầu tƣ

năm 2014 và Điều 1 Quyết định số 19/2015/QĐ-TTg thì doanh nghiệp công

nghệ cao là doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí: (i) Doanh nghiệp sản xuất sản

phẩm công nghệ cao thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ cao đƣợc khuyến

khích phát triển; (ii) Doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp thân thiện môi

trƣờng, tiết kiệm năng lƣợng trong sản xuất và quản lý chất lƣợng sản phẩm

đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam; trƣờng hợp chƣa có tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam thì áp dụng tiêu chuẩn của tổ chức

quốc tế chuyên ngành; (iii) Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao của doanh

nghiệp phải đạt ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hàng năm; (iv) Tổng

chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển đƣợc thực hiện tại Việt Nam trên

10

tổng doanh thu thuần hàng năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít

nhất 1%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn vốn trên 100 tỷ đồng và

tổng số lao động trên 300 ngƣời tỷ lệ này phải đạt ít nhất 0,5%; (v) doanh

nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 5% số lƣợng lao động có trình độ chuyên

môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số

lao động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có nguồn vốn trên 100

tỷ đông và tổng số lao động trên 300 ngƣời tỷ lệ này phải đạt ít nhất 2,5%

nhƣng không thấp hơn 15 ngƣời [48], [51], [56].

Dễ dàng nhận thấy điểm giống nhau của doanh nghiệp KH&CN và

doanh nghiệp công nghệ cao là ở chỗ: hai loại hình đều là doanh nghiệp

Tuy vậy, doanh nghiệp KH&CN và doanh nghiệp công nghệ cao có hai

điểm khác nhau. Thứ nhất, doanh nghiệp KH&CN phải có năng lực thực hiện

nhiệm vụ KHCN; còn doanh nghiệp công nghệ cao thì không bắt buộc phải có

năng lực này. Thứ hai, doanh nghiệp KH&CN phải có tỷ lệ doanh thu sản

xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu từ 30% trở lên;

còn doanh nghiệp công nghệ cao thì không bắt buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.

d) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp nông nghiệp ứng

dụng công nghệ cao

Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là doanh nghiệp

đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Luật công

nghệ cao, cụ thể: (i) Ứng dụng công nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao

đƣợc ƣu tiên đầu tƣ phát triển quy định tại Điều 5 của Luật công nghệ cao để

sản xuất sản phẩm nông nghiệp; (ii) Tạo ra sản phẩm nông nghiệp có chất

lƣợng, năng suất, giá trị và hiệu quả cao, doanh thu từ sản phẩm nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao của doanh nghiệp đạt ít nhất 60% trong tổng số doanh

thu thuần hàng năm; (iii) Có hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm ứng dụng công

nghệ cao, chuyển giao công nghệ để sản xuất sản phẩm nông nghiệp, tổng chi

11

cho hoạt động nghiên cứu và phát triển đƣợc thực hiện tại Việt Nam trên tổng

doanh thu thuần hàng năm đạt ít nhất 0,5%; số lao động có trình độ chuyên

môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số

lao động của doanh nghiệp đạt ít nhất 2,5%; (iv) Áp dụng các biện pháp thân

thiện môi trƣờng, tiết kiệm năng lƣợng trong sản xuất và quản lý chất lƣợng

sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam hoặc

tiêu chuẩn quốc tế [48].

Điểm giống nhau của Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ

cao và doanh nghiệp KH&CN là đều tổ chức và hoạt động theo mô hình tổ

chức và cơ chế doanh nghiệp; đều phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN.

Điểm khác nhau giữa 2 loại hình này là: doanh nghiệp KH&CN có tỷ lệ

doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu

phải đạt tỷ lệ từ 30% trở lên; còn Doanh nghiệp công nghệ cao không bắt

buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.

Nhƣ vậy, đặc trƣng của Doanh nghiệp KH&CN là tỷ lệ doanh thu sản

xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu bắt buộc phải đạt

30% trở lên.

Qua nội dung nghiên cứu trên có thể thấy rằng doanh nghiệp KH&CN

là sự “hòa trộn” giữa doanh nghiệp và tổ chức KH&CN. Đây là điểm cần

đặc biệt lưu ý khi nghiên cứu về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN cũng

như nghiên cứu về pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Vai trò của doanh nghiệp KH&CN đƣợc thể hiện trên các mặt sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp KH&CN đƣợc coi là cầu nối giữa các kết quả

nghiên cứu, ứng dụng KH&CN đƣợc chuyển giao vào trong sản xuất sản

phẩm, hàng hóa. Các doanh nghiệp KH&CN chính là nơi trực tiếp ứng dụng

thành công các kết quả nghiên cứu KH&CN mà doanh nghiệp có quyền sở

12

hữu và sử dụng hợp pháp để sản xuất sản phẩm. Hay nói cách khác, vai trò

của doanh nghiệp KH&CN nhằm thƣơng mại hóa, ứng dụng kết quả nghiên

cứu KH&CN vào đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa, doanh nghiệp KH&CN

cũng chính là nơi tiếp thu thành tựu KH&CN của thế giới để tạo ra, ứng dụng

có hiệu quả công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.

Doanh nghiệp KH&CN góp phần phát triển nền KH&CN Việt Nam đạt trình

độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc

cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh việc phổ biến

và ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống.

Thứ hai, doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò nhƣ một chủ thể kinh tế

sản xuất chủ lực, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, góp phần phát

triển kinh tế - xã hội. Đây là những doanh nghiệp có sự kết nối giữa các nhà

khoa học và thực tiễn thị trƣờng, đã góp phần đƣa ra thị trƣờng những sản

phẩm, dịch vụ tốt đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh nghiệp KH&CN sẽ là

phƣơng thức chuyển giao công nghệ nhanh nhất bởi sự ra đời và phát triển

của các doanh nghiệp KHCN sẽ tạo điều kiện để huy động tối đa và sử dụng

có hiệu quả nguồn lực KH&CN phục vụ cho sự phát triển của đất nƣớc, là

nguồn tạo công ăn việc làm ổn định, góp phần nâng cao đời sống địa phƣơng.

Thứ ba, doanh nghiệp KH&CN còn có vai trò tạo ra việc làm mới, thu

hút các lao động có trình độ, tay nghề, đƣợc đào tạo thành nguồn nhân lực

KH&CN cho chính doanh nghiệp và thị trƣờng lao động.

1.1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

- khái niệm, đặc điểm

1.1.2.1. Khái niệm

Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Tuy nhiên, các quan niệm

về quản lý đều thể hiện 3 yếu tố: ai quản lý; quản lý cái gì; quản lý nhằm đạt

đƣợc cái gì? Tƣơng ứng với 3 yếu tố đó là: chủ thể quản lý; đối tƣợng quản

lý; mục tiêu quản lý. Quản lý đƣợc hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý

13

đến đối tƣợng quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý. Có nhiều dạng quản

lý khác nhau. Nếu phân theo đối tƣợng quản lý thì quản lý gồm có các dạng

sau: (i) Quản lý giới vô sinh (hay quản lý kỹ thuật): đối tƣợng quản lý là các

vật vô tri, vô giác (nhƣ nhà xƣởng, thiết bị, máy móc...; (ii) Quản lý giới sinh

vật: đối tƣợng quản lý là các vật hữu sinh (nhƣ cây trồng, vật nuôi ...); (iii)

Quản lý xã hội con ngƣời: đối tƣợng quản lý là con ngƣời (trong các tổ chức,

đoàn thể, xã hội và trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, KH&CN). Trong quản

lý xã hội con ngƣời, nếu xét từ góc độ chủ thể quản lý thì sẽ có các dạng cụ

thể của quản lý xã hội nhƣ QLNN, quản lý doanh nghiệp. vv ...

QLNN một dạng của quản lý xã hội con ngƣời. Đây là dạng quản lý xã

hội mà nhà nƣớc là chủ thể quản lý.

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là QLNN mà đối tƣợng quản lý

là doanh nghiệp KH&CN.

Theo giáo trình về QLNN của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh (1996) thì:

Quản lý hành chính nhà nƣớc là dạng quản lý xã hội mang tính

quyền lực nhà nƣớc với chức năng chấp hành luật và tổ chức thực

hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính

nhà nƣớc (hệ thống Chính phủ và chính quyền địa phƣơng [39].

Trong sách Luật hành chính Việt Nam (2005), PGS.TS Đinh Văn Mậu

và PGS.TS Phạm Hồng Thái cho rằng:

QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nƣớc đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do

các cơ quan hành pháp từ Trung ƣơng đến cơ sở tiến hành để thực

hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nƣớc, phát triển các

mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu

hàng ngày của nhân dân [42].

14

Từ các quan niệm về QLNN nêu trên, chúng ta có thể hiểu: QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN cũng nhƣ bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào

khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy nhà nƣớc – là công việc

của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và đƣợc điều chỉnh bằng

pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nƣớc đối với các quá trình xã hội và hoạt

động của doanh nghiệp KH&CN do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ

thống hành pháp từ trung ƣơng đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và

nhiệm vụ của nhà nƣớc.

Với ý nghĩa hành chính là chấp hành (thực thi) pháp luật, Chính phủ và

các cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp KH&CN có quyền (lập quy)

ban hành các quy tắc và các quyết định hành chính cho phép hoặc cấm đoán

một cách áp đặt và buộc đối tƣợng có liên quan phải chấp hành; có quyền

kiểm tra việc thực hiện pháp luật về doanh nghiệp KH&CN và các quyết định

mà nó ban hành; có quyền xử lý các tình huống quản lý bằng biện pháp cƣỡng

chế đối với các vi phạm hành chính kể cả trƣờng hợp các chủ thể từ chối thực

hiện nghĩa vụ pháp lý nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật đối với

doanh nghiệp KH&CN.

Tuy nhiên, để thực hiện đƣợc những quyền hạn trên cần có những quy

định chung về tổ chức bộ máy và nhân sự thực hiện những hoạt động hành

chính có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời xác lập một trật tự chuẩn mực trong việc

thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong từng quan hệ pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN. Với tính "vƣợt trội" của thiết chế hành

chính, chính phủ nắm giữ công quyền hành pháp theo nghĩa cƣỡng chế của tổ

chức luôn có xu hƣớng tự định trong ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

- ƣu tiên mở rộng và tăng cƣờng quyền lực không hạn chế nhằm cai quản nhiều

hơn là thực hiện nghĩa vụ xã hội. Do vậy, cần đặt bộ máy hành pháp nói chung,

các cơ quan hành chính quản lý doanh nghiệp KH&CN nói riêng trong sự kiểm

15

soát của các quyền lập pháp, hành pháp và sự tham gia của các tổ chức xã hội,

công dân để tránh xu hƣớng lạm dụng quyền lực.

Những hoạt động có tính công quyền của hành chính nhà nƣớc phải

đƣợc kiểm soát, chịu sự ràng buộc bởi pháp luật do quyền lực chung - quyền

lực nhà nƣớc ban hành. Hành chính nói chung, hành chính đối với doanh

nghiệp KH&CN nói riêng đƣợc toàn quyền hành động quản lý và phục vụ

nhƣng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ pháp luật. Những

quyết định hành chính làm tổn hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp KH&CH phải bị hủy bỏ và bị truy cứu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.

Hành chính nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN là một bộ phận

của nền hành chính nhà nƣớc, theo đúng nghĩa là sự QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN. Nó xuất hiện cùng với thiết chế hành chính nhà nƣớc, quản

lý công vụ quốc gia, cụ thể là công việc của bộ máy hành pháp thực hiện chức

năng đối nội và đối ngoại của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.1.2.2. Đặc điểm

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN mang các đặc điểm chung của

QLNN, đó là: tính tổ chức, điều chỉnh; tính quyền lực; tính khoa học, liên tục.

Tính tổ chức, điều chỉnh tác động QLNN rất phong phú, đa dạng, có

nhiều đặc trƣng và có ý nghĩa riêng. Khác với các hình thức tác động khác nhƣ

đào tạo, giáo dục, tác động QLNN là một hình thức tác động có tổ chức và mang

tính điều chỉnh. Điều đó có nghĩa là sự tác động này phải đặt con ngƣời vào các

mối quan hệ tổ chức nhất định, nhƣ quan hệ sản xuất, quan hệ công vụ...

Tổ chức có nghĩa là xây dựng các mối quan hệ giữa con ngƣời với con

ngƣời trong cộng đồng, xã hội, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống con ngƣời.

Tổ chức là sự tập hợp mọi ngƣời để đạt đƣợc những mục đích nhất định. Tổ

chức không phải là những hoạt động mà tổ chức là tạo ra các điều kiện cho

các hoạt động thực tiễn.

16

Tính điều chỉnh của QLNN thể hiện sự tác động quản lý ấy nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển.

Đặc điểm tính quyền lực: QLNN không chỉ thuần tuý là ban hành văn

bản quy phạm pháp luật, ban hành các quyết định quản lý. Điều quan trọng là

những văn bản, quyết định đó đƣợc thực hiện nhƣ thế nào trong cuộc sống.

Để đảm bảo đƣợc điều này phải dựa vào quyền lực nhà nƣớc. Chỉ có quyền

lực nhà nƣớc mới đảm bảo cho các cơ quan quản lý thực hiện việc tổ chức,

điều chỉnh bằng các biện pháp cƣỡng chế khác nhau.

Quyền lực nhà nƣớc và QLNN là hai mặt của một vấn đề, không tách

rời nhau. Thực hiện quyền lực chính là quản lý. Trong quá trình thực hiện

quản lý, quyền lực đƣợc xem nhƣ là một trong các công cụ quan trọng nhất.

Quyền lực nhà nƣớc đƣợc thể hiện trƣớc hết trong các văn bản quy

phạm pháp luật. Do vậy, các văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình thực

hiện đã đảm bảo cho QLNN. Về phần mình QLNN lại phải đảm bảo sao cho

các quy phạm pháp luật đƣợc thực hiện một cách đầy đủ trong cuộc sống. Bởi

vậy, không thể tách rời quyền lực nhà nƣớc với QLNN.

Về tính khoa học, tính liên tục, dễ thấy QLNN thể hiện khả năng tổ

chức, điều chỉnh xã hội một cách có ý thức. Để đạt đƣợc hiệu quả cao, QLNN

phải tuân theo các quy luật tự nhiên và xã hội. Bởi vậy có thể nói rằng, tác

động QLNN là một hình thức tác động có căn cứ khoa học.

Tính liên tục của QLNN đƣợc thể hiện rõ nét trong mối liên hệ giữa

quyền lực và quản lý. Tính liên tục của quản lý thể hiện ở chỗ: khi Quốc hội đã

thông qua một đạo luật nào đó, và để cho đạo luật này đƣợc thực hiện trong

cuộc sống, thì cần phải có sự tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nƣớc ở các

cấp, các ngành, thậm chí cả cƣ dân. Chính điều này tạo ra sự liên tục của

QLNN. Tính liên tục là một đặc điểm quan trọng của các quá trình quản lý.

17

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là sự “hòa nhập” giữa QLNN

đối với doanh nghiệp và QLNN về KH&CN

Sự “hòa nhập” này xuất phát từ chỗ: doanh nghiệp KH&CN (là đối

tƣợng của QLNN về doanh nghiệp KH&CN) chính là kết quả của sự “hòa

nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN.

Chính vì thế, QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN gồm: (i) QLNN

đối với doanh nghiệp; (ii) QLNN đối với KH&CN; (iii) QLNN đối với phần

“hòa nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN.

QLNN đối với phần “hòa nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN bao gồm:

QLNN đối với hoạt động liên quan đến ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; QLNN

đối với hoạt động liên quan đến công nhận doanh nghiệp KH&CN; QLNN đối với

hoạt động liên quan đến ƣu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.2. Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ

1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.2.1.1. Khái niệm

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà

nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên

cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện

bằng nhà nƣớc, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn

định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, hiểu theo nghĩa

rộng nhất, là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nƣớc

đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên cơ sở

ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng

nhà nƣớc, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định

18

xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội để điều chỉnh quan hệ giữa nhà

nƣớc và doanh nghiệp KH&CN.

Với cách hiểu này, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

là toàn bộ các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội: đối với doanh

nghiệp, đối với KH&CN (là 2 yếu tố tạo thành doanh nghiệp KH&CN và vẫn

tồn tại trong doanh nghiệp KH&CN); đối với riêng doanh nghiệp KH&CN.

Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của luận văn này, pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN sẽ đƣợc nghiên cứu ở khía cạnh các là

quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội đối với riêng doanh nghiệp

KH&CN; không nghiên cứu các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội:

đối với doanh nghiệp, đối với KH&CN (là 2 yếu tố tạo thành doanh nghiệp

KH&CN và vẫn tồn tại trong doanh nghiệp KH&CN) nhƣ đã trình bày ở trên.

Với cách tiếp cận đó, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

được hiểu là các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, điều chỉnh các nội

dung liên quan đến doanh nghiệp KH&CN, nhằm mục tiêu phát triển doanh

nghiệp KH&CN. Các nội dung liên quan đến doanh nghiệp KH&CN, nhằm

mục tiêu phát triển doanh nghiệp KH&CN bao gồm:

- Ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN

- Công nhận, chấm dứt công nhận doanh nghiệp KH&CN

- Ƣu đãi doanh nghiệp KH&CN

- Bộ máy thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

- Xử lý vi phạm liên quan đến doanh nghiệp KH&CN

1.2.1.2. Vai trò

Nhà nƣớc quản lý các lĩnh vực trong đời sống xã hội bằng pháp luật.

Pháp luật đƣợc coi là công cụ, phƣơng tiện quan trọng tạo ra cơ chế để nhà

nƣớc quản lý các quá trình xã hội hóa hƣớng tới mục đích xây dựng một xã

hội phát triển. Cũng nhƣ pháp luật hành chính nói chung, pháp luật về QLNN

19

đối với doanh nghiệp KH&CN là cơ sở pháp lý cho các hoạt động hành chính

của các cơ quan nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN. Có thể chỉ ra vai

trò của pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN sau đây.

a) Pháp luật - phương tiện quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp KH&CN

hoạt động để đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản xuất, kinh doanh

Với mục tiêu phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng, chất lƣợng doanh nghiệp

KH&CN, nhà nƣớc có chủ trƣơng dành một số ƣu đãi cho doanh nghiệp

KH&CN. Để có thể thực hiện đƣợc các ƣu đãi mà nhà nƣớc dành cho doanh

nghiệp, cần phải có pháp luật để quy định về nội dung ƣu đãi, điều kiện ƣu

đãi, thủ tục ƣu đãi. Không có pháp luật thì các ƣu đãi của nhà nƣớc không thể

triển khai thực hiện đƣợc.

b) Pháp luật - phương tiện cơ bản để thực hiện chức năng QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN nhằm phát triển doanh nghiệp KH&CN

Để thực hiện chức năng QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, nhà nƣớc

sử dụng nhiều phƣơng tiện khác nhau, trong đó pháp luật là phƣơng tiện cơ bản.

Với những đặc điểm riêng của mình, luật pháp có khả năng triển khai những chủ

trƣơng, chính sách của nhà nƣớc về phát triển doanh nghiệp KH&CN một cách

nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn quốc.

Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản luật pháp về doanh nghiệp KH&CN

đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và kịp thời, quốc gia mới có thể thực

hiện đƣợc mục tiêu phát triển doanh nghiệp KH&CN của mình.

c) Pháp luật - phương tiện tổ chức và hoạt động của bộ máy QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN

Muốn phát huy hiệu quả QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, điều

cần thiết là phải thiết lập một hệ thống tổ chức quản lý doanh nghiệp KH&CN

rõ ràng, đồng bộ và quy định thật cụ thể cơ chế điều hành, điều phối của hệ

thống tổ chức quản lý này từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Muốn thực hiện

20

điều này, rõ ràng là phải dựa vào pháp luật, phải phát huy chức năng điều

chỉnh của pháp luật trong việc hƣớng dẫn các hoạt động của cơ quan, tổ chức,

cá nhân có liên quan tuân theo quy định của pháp luật.

Pháp luật là phƣơng tiện đảm bảo cho tổ chức và hoạt động QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN tiến hành thống nhất nhƣng có sự phân công và

phối hợp chặt chẽ, ngăn chặn sự lạm quyền đảm bảo cho QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN có hiệu lực và hiệu quả.

1.2.2. Nội dung, đặc điểm của pháp luật về quản lý nhà nước đối với

Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.2.2.1. Nội dung của pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là công cụ quan trọng

để nhà nƣớc thực hiện chức năng quản lý đối với doanh nghiệp KH&CN nhằm

thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN; tạo mọi điều kiện để các chủ

thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật về doanh nghiệp KH&CN, đồng

thời thông qua nó nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm

pháp luật về doanh nghiệp KH&CN.

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là một hệ thống -

một chỉnh thể các nhóm quy phạm có quan hệ hữu cơ với nhau. Từ khái niệm

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đã đƣợc trình bày ở trên

và qua nghiên cứu các tài liệu, có thể chỉ ra những nội dung cơ bản của nó

gồm hai phần: những quy định chung và những quy định cụ thể.

Phần những quy định chung của pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN bao gồm: các quy phạm điều chỉnh các quan hệ có tính chất

chung, phát sinh trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN nhƣ: khái niệm

doanh nghiệp KH&CN; kết quả KH&CN; sản phẩm hình thành từ kết quả

KH&CN; đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp KH&CN;

dự án đầu tƣ mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

21

Phần những quy định cụ thể về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN bao

gồm: các quy định về biện pháp hỗ trợ để thành lập doanh nghiệp KH&CN; các

quy định về công nhận doanh nghiệp KH&CN; các quy định về ƣu đãi, hỗ trợ

để doanh nghiệp KH&CN đẩy mạnh ứng dụng các kết quả KH&CN vào sản

xuất; các quy định về bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN; các quy

định về xử lý vi phạm liên quan đến doanh nghiệp KH&CN.

Bên cạnh những quy phạm nội dung còn có các quy phạm hình thức

(quy phạm thủ tục), quy định trình tự, thủ tục tiến hành công việc nhằm thực

hiện các quy phạm nội dung. Thủ tục là hình thức sống của đạo luật và luật

vật chất có thủ tục riêng của nó. Các quy phạm thủ tục này thực chất là các

quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình thực

hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thủ tục hành chính đối với

doanh nghiệp KH&CN. Thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp KH&CN là

một loại quy phạm hành chính mang tính công cụ để giúp cơ quan QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN có điều kiện thực hiện chức năng của mình. Quy

phạm thủ tục đảm bảo cho các quy phạm vật chất của luật hành chính và của

pháp luật đối với doanh nghiệp KH&CN đƣợc thực hiện có hiệu quả; mặt

khác, nó mang tính phƣơng tiện giúp các chủ thể thực hiện quyền của mình,

tạo điều kiện mở rộng tính pháp chế của nền dân chủ, tính công khai của hành

chính nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.2.2.2. Đặc điểm của pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ

Để chỉ ra những đặc điểm của pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN chúng ta cần xem xét các phƣơng diện mà nó thể hiện nhƣ:

các quan hệ xã hội được điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều

chỉnh và các quy phạm riêng của nó.

Xuất phát từ quan niệm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN đã đƣợc trình bày ở trên và qua nghiên cứu các văn bản pháp luật

22

về doanh nghiệp KH&CN hiện hành, có thể rút ra những đặc trƣng cơ bản

của nó nhƣ sau:

* Đặc trưng thứ nhất, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát

sinh đối với doanh nghiệp KH&CN

Đây có thể coi là đặc trƣng cơ bản để nhận biết, phân biệt với các đạo

luật khác trong hệ thống pháp luật. Đặc trƣng này thể hiện tính chất của các

quan hệ pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Những quan hệ phát sinh đối với doanh nghiệp KH&CN có thể chia

thành các nhóm quan hệ chủ yếu sau:

Nhóm thứ nhất, những quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp trên và cơ

quan hành chính cấp dƣới trong quá trình hoạt động QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN;

Nhóm thứ hai, những quan hệ giữa hai bên đều là cơ quan cơ quan

hành chính cùng cấp, thực hiện các quan hệ phối hợp phục vụ, hỗ trợ lẫn nhau

trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN;

Nhóm thứ ba, những quan hệ giữa một bên là cơ quan cơ quan hành

chính có thẩm quyền trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN với một

bên là các tổ chức sự nghiệp, tổ chức kinh doanh của các thành phần kinh tế

trong và ngoài nƣớc;

Nhóm thứ tƣ, những quan hệ giữa một bên là cơ quan hành chính có

thẩm quyền với một bên là các tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân.

Nhóm thứ năm, những quan hệ giữa một bên là cơ quan hành có thẩm

quyền trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN và một bên là công dân.

* Đặc trưng thứ hai, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

có một số chủ thể đặc thù

- Chủ thể là các cơ quan QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN:

23

Theo nghĩa rộng, các cơ quan tham gia QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN bao gồm: Quốc hội (ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến

doanh nghiệp KH&CN); các cơ quan tƣ pháp (tòa án xét xử các vụ việc liên

quan đến doanh nghiệp KH&CN) và Chính phủ.

Ở nƣớc ta, Chính phủ thống nhất QLNN đối với doanh nghiệp, trong đó

có doanh nghiệp KH&CN.

Ở Trung ƣơng, các bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ

về việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc phân công trong QLNN đối với doanh nghiệp.

Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có chức năng, nhiệm vụ: Chủ trì, phối hợp với

các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến lƣợc, chƣơng trình, kế hoạch sắp xếp,

đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc, cơ chế quản lý, sắp xếp doanh

nghiệp nhà nƣớc và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần

kinh tế; Tham gia thẩm định đề án thành lập, sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp

nhà nƣớc; tổng hợp tình hình sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà

nƣớc và tình hình phát triển doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác của

cả nƣớc; Quản lý về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh; hƣớng

dẫn thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh; kiểm tra, theo dõi,

tổng hợp tình hình đăng ký doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp qua mạng

điện tử và sau đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi cả nƣớc; quản lý và khai

thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh.

Đối với doanh nghiệp KH&CN, Bộ KH&CN thực hiện nhiệm vụ: Xây

dựng, hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích, phát

triển hoạt động ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN, thành

lập và phát triển doanh nghiệp KH&CN, thị trƣờng KH&CN.

Ở địa phƣơng, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng

thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Sở Kế hoạch và Đầu tƣ giúp UBND tỉnh QLNN đối với doanh nghiệp.

24

Đối với doanh nghiệp KH&CN, Sở KH&CN có chức năng, nhiệm vụ:

hƣớng dẫn, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp KH&CN tại địa phƣơng;

hƣớng dẫn các tổ chức, cá nhân trong hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN; hƣớng dẫn việc thành lập và chứng nhận doanh nghiệp KH&CN

trên địa bàn theo quy định của pháp luật; Hƣớng dẫn, kiểm tra việc thành lập

và phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn.

- Chủ thể là đối tƣợng của QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN,

bao gồm:

+ Doanh nghiệp KH&CN.

+ Tổ chức, cá nhân có liên quan đến ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN.

+ Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.

+ Tổ chức, cá nhân cá nhân có liên quan đến thực hiện các chính sách

ƣu đãi, hỗ trợ của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.3. Tiêu chí và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc

đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.3.1. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.3.1.1. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ phải thống nhất với các pháp luật liên quan khác

Quan trọng nhất là sự thống nhất với Hiến pháp. Hiến pháp gồm những

quy định mang tính chất nền tảng của chế độ nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, chế độ xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức và

bộ máy nhà nƣớc và là cơ sở để xác định toàn bộ hệ thống pháp luật Việt

Nam. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, do đó, pháp luật nói chung, trong đó có

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN phải phù hợp, thống nhất

với các quy định của Hiến pháp. Trong trƣờng hợp có những quy định về

doanh nghiệp KH&CN trái với quy định của Hiến pháp thì những quy định đó

phải bị bãi bỏ.

25

Đối với các văn bản pháp luật khác, do pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN có mối liên hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại

với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc hoàn

thiện nó cũng phải tiến hành trên cơ sở hoàn thiện một cách đồng bộ các

đạo luật có liên quan.

Tránh sự thiếu thống nhất nhƣ ví dụ sau:

Khoản 2, Điều 2 Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định về diện tích đất

để doanh nghiệp KH&CN đƣợc hƣởng các ƣu đãi là “đất xây dựng cơ sở

nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp KH&CN”

Tuy nhiên, cùng diện tích đất này nhƣng lại đang đƣợc gọi khác nhau

trong các văn bản hoặc thậm chí là trong cùng 1 văn bản, điều này tạo nên sự

thiếu thống nhất. Cụ thể là:

- Luật đất đai thì gọi là: “đất xây dựng cơ sở KH&CN” (Điểm d, khoản

2, Điều 10 Luật Đất đai 2013); “đất xây dựng công trình KH&CN” (Khoản 5,

Điều 61 Luật Đất đai 2013); “đất xây dựng công trình sự nghiệp KH&CN”

(Khoản 2, Điều 147 Luật Đất đai 2013);

- Nghị định 140/2016/NĐ-CP thì gọi là: “đất phục vụ cho các hoạt động

trong lĩnh vực KH&CN” (Khoản 29, Điều 9, Nghị định 140/2016/NĐ-CP); “đất

của doanh nghiệp KH&CN” (Khoản 30, Điều 9, Nghị định 140/2016/NĐ-CP);

Hậu quả của sự thiếu thống nhất này là ƣu đãi này đối với doanh nghiệp

KH&CN hầu nhƣ chƣa đƣợc thực hiện trên thực tế

Điều này đòi hỏi khi bổ sung, sửa đổi pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN phải gắn liền với việc rà soát các đạo luật có liên quan

và các điều ƣớc quốc tế liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Ngƣợc

lại, khi sửa đổi các đạo luật khác cũng cần lƣu ý đến vấn đề doanh nghiệp

KH&CN để việc hoàn thiện đạo luật có tính bao quát mọi đối tƣợng liên quan

và để đảm bảo điều khoản sửa đổi, bổ sung của pháp luật về QLNN đối với

26

doanh nghiệp KH&CN không bị chồng chéo, có tính thống nhất, có tính khả

thi và đi vào cuộc sống. Nói cách khác, hệ thống các quy phạm pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN phải đƣợc hoàn thiện một cách thống

nhất, đồng bộ để kịp thời đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra

trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.3.1.2. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ phải đảm bảo tính toàn diện, khoa học, phù hợp

Tiêu chí này đòi hỏi các quy định trong QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN phải toàn diện tất cả nội dung liên quan đến QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp KH&CN.

Tiền đề quan trọng để pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN có hiệu quả là sự phù hợp của các quy định với thực tiễn hoạt động

doanh nghiệp KH&CN đặt ra, dự báo đƣợc những xu hƣớng phát triển của

doanh nghiệp KH&CN.

1.3.1.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ phải rõ ràng, cụ thể, công khai, minh bạch

Xây dựng một hệ thống quy phạm pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN rõ ràng, cụ thể, công khai, minh bạch là một trong những

tiêu chí quan trọng. Tiêu chí này đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật về QLNN

đối với doanh nghiệp KH&CN phải tạo cơ sở pháp lý để củng cố hoàn thiện

tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN; đổi mới phƣơng pháp

quản lý và phải đƣợc thực hiện theo hƣớng: mỗi quy phạm pháp luật về doanh

nghiệp KH&CN đều phải dễ hiểu và hiểu theo một nghĩa nhất là đối với các

thủ tục hành chính nhà nƣớc về doanh nghiệp KH&CN. Các chủ thể tham gia

vào hoạt động doanh nghiệp KH&CN để thực hiện những hoạt động nhƣ: đề

nghị cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, đề nghị miễn, giảm thuế thu

nhập doanh nghiệp, hƣởng ƣu đãi, hỗ trợ … phải thực hiện những thủ tục nhất

27

định. Nếu những thủ tục này không khoa học, công khai, minh bạch sẽ gây khó

khăn, phiền hà cho các chủ thể trong quá trình thực hiện. Do vậy, thủ tục hành

chính đối với doanh nghiệp KH&CN phải đƣợc xây dựng và hoàn thiện theo

đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm đảm bảo là một phƣơng tiện QLNN hiệu

quả, chống mọi biểu hiện gây phiền hà, tiêu cực trong lĩnh vực này.

Các quy định pháp luật nói chung, về doanh nghiệp KH&CN nói riêng

sau khi ban hành phải đƣợc công bố công khai, kịp thời và rộng rãi cho mọi

đối tƣợng. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng và công dân mới có thể

quyết định và thực hiện chính xác các quy định của pháp luật. Và nhƣ vậy,

các quy định của pháp luật mới đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả.

1.3.2. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

1.3.2.1. Nguyên tắc không vì quản lý mà can thiệp đến hoạt động của

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Hiện nay, bên cạnh những hạn chế từ nội tại doanh nghiệp KH&CN thì

có thể thấy còn nhiều rủi ro về mặt thể chế đang cản trở sự phát triển của

doanh nghiệp KH&CN. Ngoài những rủi ro trong kinh doanh nhƣ biến động

thị trƣờng, cạnh tranh,… thì DN còn phải đối mặt với rủi ro pháp lý. Điều này

dẫn đến sự bất an trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN KH&CN.

Hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

mang đặc điểm chung của quản lý nhà nƣớc. Vậy nên nó là sự tác động mang

tính điều chỉnh, có tính chất quyền lực.

Đối với loại hình DN đặc thù nhƣ DN KH&CN thì càng cần phải có

những cơ chế phù hợp. Những sản phẩm khoa học đặc thù cần có cơ chế mở

rộng riêng biệt. Không đƣợc dựa trên những nguyên tắc chung cứng nhắc để

hạn chế, can thiệp hoạt động của DN KH&CN. Hoàn thiện pháp luật về

QLNN đối với DN KH&CN không phải là công cụ kìm hãm, trói buộc mà

28

phải tạo nên một hành lang pháp lý nền tảng4, hỗ trợ tối đa cho sự phát triển

của DN KH&CN

1.3.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tự do nghiên cứu của doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ

Theo Hiến pháp 2013, mọi ngƣời có quyền tự do kinh doanh trong

những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

Theo đó mọi ngƣời đều có quyền tự do kinh doanh với bất kể ngành

nghề nào, chỉ cần là trong khuôn khổ những ngành nghề mà pháp luật không

cấm. Điều này đã đƣợc cụ thể hóa từ đó làm cơ sở cho việc thực hiện quyền

của công dân, cụ thể nhƣ sau: theo quy định tại Luật DN 2014:

Quyền tự do kinh doanh đƣợc cá nhân, tổ chức thực hiện trong khuôn khổ

những ngành, nghề không bị cấm. Việc tự do kinh doanh này đƣợc thể hiện qua

việc họ có toàn quyền tự chủ trong việc kinh doanh, toàn quyền lực chọn về hình

thức cũng nhƣ ngành, nghề liên quan và cả những vấn đề khác liên quan nhƣ địa

bàn, quy mô kinh doanh, sản phẩm nghiên cứu, cách thức nghiên cứu…

Doanh nghiệp KH&CN về bản chất cũng là doanh nghiệp. Vì thế theo

Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì quyền tự do kinh doanh. Của

doanh nghiệp (nói chung) và doanh nghiệp KH&CN là giống nhau.

Việc quản lý doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ phải phát triển

dựa trên quyền tự do của doanh nghiệp. Mọi hoạt động nghiên cứu phục vụ

cho kinh doanh sản xuất nằm trong khuôn khổ pháp luật đều phải đƣợc đảm

bảo thực hiện.

1.4. Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ ở một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam

Doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa thế kỷ

XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up

29

(doanh nghiệp khởi nghiệp) đƣợc hình thành ở các nƣớc công nghiệp phát

triển. Theo số liệu của Hiệp hội các trƣờng đại học quản lý công nghệ Mỹ

(AUTM), trong giai đoạn 1980-2000, Mỹ có 3.376 doanh nghiệp KH&CN

(spin offs) tại các trƣờng đại học. Tốc độ gia tăng ngày càng mạnh mẽ trong

những năm gần đây. Tại Anh, có 1.307 doanh nghiệp KH&CN tại các trƣờng

đại học trong năm 2007, với sự bổ sung 219 doanh nghiệp KH&CN từ 163

trƣờng đại học trong năm 2008. Tốc độ tăng hàng năm khoảng 70 doanh

nghiệp KH&CN từ 102 trƣờng đại học tại Vƣơng quốc Anh [67].

Để khuyến khích các spin-off, start-up phát triển, chính phủ các quốc

gia trên thế giới đều có những chính sách hỗ trợ phát triển, nhƣ khuyến khích

thành lập các Vƣờn ƣơm công nghệ, các trung tâm chuyển giao công nghệ,

văn phòng cấp phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ, thành lập các quỹ đầu tƣ

mạo hiểm, quỹ đầu tƣ thiên thần (angel fund) - quỹ đầu tƣ cá nhân, … để hỗ

trợ các doanh nghiệp KH&CN hình thành và phát triển [66], [68].

Australia

Trong giai đoạn 2014-2016, hoạt động khởi nghiệp nhận đƣợc sự quan

tâm mạnh mẽ của Chính phủ Australia và cả cộng đồng doanh nghiệp (DN).

Tƣơng tự nhƣ các quốc gia khác trên thế giới, Chính phủ Australia tập trung

phát triển cơ sở hạ tầng mềm nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp

(DNKN) - bao gồm xây dựng các vƣờn ƣơm, các khóa tăng tốc khởi nghiệp,

không gian làm việc chung và vốn đầu tƣ đã đƣợc đổ vào lĩnh vực này từ các

nhà đầu tƣ thiên thần và các quỹ đầu tƣ mạo hiểm, mặc dù, các DN này cũng

cần phải chứng tỏ mình có đầy đủ các yếu tố cần thiết để đƣợc hỗ trợ. Một số

chƣơng trình hỗ trợ điển hình cho hệ sinh thái khởi nghiệp của Chính phủ

Australia bao gồm:

- Chƣơng trình Doanh nhân: Đƣợc hình thành vào năm 2014 nhằm giúp

các DN tăng năng suất và khả năng cạnh tranh thông qua việc cấp vốn và cơ

30

hội tiếp cận mạng lƣới các chuyên gia tƣ vấn và hỗ trợ khu vực tƣ nhân qua

hai quỹ (Accelerating Commercialisation fund and Business Growth Grants).

Chƣơng trình này có nhiệm vụ cung cấp các khoản đầu tƣ lên đến 50% tổng

dự án, tƣơng đƣơng với 250.000 AUD cho các công ty thƣơng mại và các đối

tác hợp pháp, và tƣơng đƣơng với 1 triệu AUD cho các ứng viên còn lại.

Ngoài ra, Chƣơng trình Doanh nhân cũng cung cấp hỗ trợ các chi phí

liên quan đến việc đầu tƣ, giúp các công ty khởi nghiệp thâm nhập vào các thị

trƣờng toàn cầu. Các khoản đầu tƣ trong hiện tại và tƣơng lai có thể đƣợc tài

trợ lên đến 50% tổng giá trị dự án tƣơng đƣơng với 500.000 USD. Đối với các

DN hoặc chuyên gia thuộc dự án trong nƣớc có thể nhận đƣợc gói hỗ trợ lên

đến 25.000 AUD.

- Quỹ Đổi mới CSIRO: Đƣợc thành lập vào tháng 12/2016 với mục tiêu

là cầu nối giúp các DN phát triển các ý tƣởng nghiên cứu và thƣơng mại hóa

các sản phẩm của mình. Đối tƣợng đƣợc Quỹ Đổi mới CSIRO hƣớng đến đầu

tƣ là các DNKN, các công ty spin-off và các DN vừa và nhỏ. Thông qua Quỹ

Đổi mới CSIRO, các công ty khởi nghiệp có thể nhận đƣợc tới 50.000 USD

tài trợ để phát triển kinh doanh nếu thỏa mãn các điều kiện do Quỹ đƣa ra, ví

dụ nhƣ: Công ty phải có doanh thu hiện tại hoặc trong vòng 2 năm gần nhất

trong khoảng 1,5 triệu USD và đăng ký kinh doanh không quá 3 năm… Kinh

phí hỗ trợ từ 10.000 - 50.000 USD đƣợc sử dụng để trang trải chi phí thực

hiện dự án nhƣ trả tiền lƣơng cho các nhà nghiên cứu và không bao gồm chi

phí xây dựng các công trình hay cơ sở hạ tầng…

Các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và phúc lợi

thì sẽ có cơ hội tiếp cận các khoản vốn hỗ trợ từ Biomedical Translation Fund

(BTF). BTF do Chính phủ liên bang thành lập từ tháng 12/2016 với quy mô

bao gồm 250 triệu USD vốn Commonwealth và 250 triệu USD vốn từ khu

vực tƣ nhân. Quỹ BTF đã thực hiện đầu tƣ vào nhiều công ty khởi nghiệp

31

nhƣ: Khoản đầu tƣ 7,5 triệu USD vào công ty khởi nghiệp toàn cầu MedTech,

22 triệu USD vào Certa Therapeutics … Đối tƣợng đầu tƣ của Quỹ là các

công ty cung cấp các sản phẩm trị liệu, y tế, dƣợc phẩm, các quy trình, dịch

vụ (bao gồm cả dịch vụ y tế kỹ thuật số), các công nghệ hoặc quy trình đại

diện cho ứng dụng và thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu, nhằm cải thiện

sức khỏe và phúc lợi.

Quỹ Phát triển thị trƣờng xuất khẩu - EMDG đƣợc thiết lập nhằm thúc

đẩy phát triển lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và du lịch nội địa. Đối

với các DN đã chi 15.000 USD trở lên cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu, họ

có thể đƣợc hoàn trả tới 50% các chi phí vƣợt trên mức 5.000 USD. Các DN

đủ điều kiện sẽ có thu nhập dƣới 50 triệu USD trong năm tài trợ [2].

Singapore

Singapore là một quốc gia có nhiều chính sách hấp dẫn cho các doanh

nhân thành lập DN. Bên cạnh mức thuế thấp và điều kiện kinh doanh dễ dàng,

một yếu tố quan trọng khác thu hút các doanh nhân từ khắp nơi trên thế giới

đến nƣớc này là sự đa dạng của các nguồn tài chính cho khởi nghiệp. Theo

đó, Chính phủ Singapore sẽ cung cấp một số khoản tài trợ tiền mặt và chƣơng

trình tài trợ hấp dẫn giúp DN phát triển qua các giai đoạn đầu tiên, đồng thời

rất chú trọng việc xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp giúp các DN phát

triển với sự tham gia của rất nhiều bên liên quan…

Ngoài sự hỗ trợ của Chính phủ, còn có nhiều mạng lƣới đầu tƣ thiên

thần, công ty đầu tƣ mạo hiểm, công ty cổ phần tƣ nhân, vƣờn ƣơm khởi

nghiệp và các chƣơng trình tăng tốc hỗ trợ các doanh nhân huy động vốn.

Xuất phát từ những thách thức toàn cầu phát sinh từ thực tế nhƣ tình hình dân

số già, mật độ đô thị, vấn đề sức khỏe, phƣơng tiện giao thông… các ý tƣởng

mới sáng tạo có thể đƣợc thử nghiệm tại Singapore nhƣ là phòng thí nghiệm

"sống" của các DNKN.

32

Singapore đã triển khai các chƣơng trình tài trợ để giúp các công ty khởi

nghiệp trong các giai đoạn tăng trƣởng khác nhau. Quỹ Tài trợ khởi nghiệp của

ACE (ACE Satrt-up Grant) với số tiền 50.000 đô la Singapore; Quỹ Tài trợ khởi

nghiệp i.JAM với số tiền từ 50.000 - 200.000 đô la Singapore, Chƣơng trình

thƣơng mại hóa DN công nghệ - Technology Enterprise Commercialisation

Scheme (số tiền từ 250.000 - 500.000 USD Singapore) tài trợ cho các công ty

khởi nghiệp giai đoạn đầu.

Bên cạnh đó, Quỹ Khởi nghiệp iPACT cấp vốn cho các công ty khởi

nghiệp, để phát triển và định vị vị thế là một nhà cung cấp cho các tập đoàn

lớn và giành quyền tiếp cận thị trƣờng trong quá trình này. Chƣơng trình ƣơm

tạo tiếp cận thị trƣờng, Hỗ trợ sẵn sàng thị trƣờng - Chƣơng trình ƣơm tạo

tiếp cận thị trƣờng cung cấp kinh phí cho các công ty khởi nghiệp giai đoạn

đầu và giai đoạn phát triển mở rộng ra thị trƣờng nƣớc ngoài. Để nhận đƣợc

các khoản tài trợ và các chƣơng trình này phải đủ các điều kiện và tiêu chí

cho Chính phủ đặt ra.

Ngoài ra, Chính phủ Singapore chủ động tham gia vào khu vực tƣ nhân,

đặc biệt là hình thức hợp tác đầu tƣ để thành lập các công ty khởi nghiệp tiếp

cận với công nghiệp và khai thác khu vực tƣ nhân để dẫn đầu về đầu tƣ [61].

Israel

Israel là quốc gia có mật độ các DNKN lớn nhất trên thế giới – cứ

1.844 ngƣời dân Israel thì có 1 công ty khởi nghiệp. Với dân số là 7,1 triệu

ngƣời, Israel có nhiều công ty niêm yết trên Sàn Chứng khoán Nasdaq Mỹ -

hơn con số ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc hay toàn bộ cả lục địa

châu Âu. Quốc gia này cũng là quê hƣơng của các công ty khởi nghiệp thành

công nhƣ: Houzz, Mobileye, Waze, Wix... Những thành quả này xuất phát từ

những chính sách đi đầu trong việc đầu tƣ và nuôi dƣỡng một hệ sinh thái

khởi nghiệp thịnh vƣợng bằng cách phân bổ thời gian và nguồn lực để hỗ trợ

33

hệ sinh thái của Chính phủ Israel. Quốc gia này đầu tƣ nhiều vào hoạt động

nghiên cứu và phát triển để tạo điều kiện cho sự đổi mới, sáng tạo, tiến bộ

công nghệ và phát triển văn hóa khởi nghiệp. Israel cũng quản lý các chƣơng

trình vƣờn ƣơm khởi nghiệp nhằm khuyến khích, hỗ trợ các ý tƣởng sáng tạo

trở thành sản phẩm thật sự và có thể phổ biến rộng rãi.

Từ những năm 1980, Chính phủ Israel đã tích cực khám phá tiềm năng

của khu vực tƣ nhân. Đầu những năm 1990, Israel không có một quỹ đầu tƣ

mạo hiểm nào và khi đó, Chính phủ đã phải hành động bằng hình thức thành

lập các quỹ đầu tƣ, nhƣng phối hợp hoạt động với khu vực tƣ nhân. Để hỗ trợ

các DNKN, Chính phủ Israel đứng ra thành lập các quỹ đầu tƣ mạo hiểm

nhƣng để cho tƣ nhân quản lý hoạt động, bộ phận tƣ nhân sẽ giám sát và điều

phối việc đầu tƣ các quỹ này. Trong trƣờng hợp hoạt động đầu tƣ có hiệu quả,

tƣ nhân sẽ mua lại các quỹ đầu tƣ này còn nếu thua lỗ, nhà nƣớc sẽ gánh phần

rủi ro. Nhƣ vậy, với thành phần tƣ nhân khi tham gia các quỹ đầu tƣ đã đƣợc

nhà nƣớc nhận trách nhiệm về kinh tế do hoạt động đầu tƣ vào DNKN có tỷ lệ

thành công rất thấp.

Đến cuối thập niên 1990, Chính phủ Israel đã không phải làm gì vì toàn

bộ các hoạt động đầu tƣ mạo hiểm đã đƣợc các tổ chức bên ngoài vận hành

đầy đủ. Mọi quỹ đầu tƣ mạo hiểm hiện nay tại Israel đều của tƣ nhân hoặc của

các tổ chức đa quốc gia. Chính phủ không quyết định sẽ đầu tƣ vào dự án nào

và cũng không can thiệp vào hoạt động của các dự án này mà để các cấp quản

lý tƣ nhân quyết định dựa vào nhu cầu của thị trƣờng [61].

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thứ nhất, tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp.

Để làm đƣợc điều này, Việt Nam cần tập trung xây dựng một hệ sinh thái

khởi nghiệp có sự tham gia hỗ trợ của Chính phủ và một mạng lƣới liên kết

chặt chẽ để phát triển các DNKN bao gồm: Các DN KH&CN mới khởi nghiệp,

34

các DN KH&CN đã thành công, các nhà đầu tƣ thiên thần, các viện nghiên

cứu, trƣờng đại học, các quỹ đầu tƣ, các cơ sở ƣơm tạo, các tổ chức thúc đẩy

kinh doanh, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp khác. Nhà nƣớc sẽ nắm vai trò kết

nối các chủ thể và điều phối, thƣờng xuyên hỗ trợ cho các chủ thể trong mạng

lƣới này để hệ thống sinh thái khởi nghiệp có thể hoạt động và phát triển một

cách bền vững.

Thứ hai, phát huy vai trò tích cực của khu vực kinh tế tƣ nhân. Kinh

nghiệm từ Israel cho thấy, khu vực tƣ nhân hoạt động rất hiệu quả và có khả

năng giúp Chính phủ giải quyết rất nhiều vấn đề xã hội và việc làm cho nền

kinh tế. Bản thân các DNKN khi mới khởi nghiệp cũng rất cần sự hỗ trợ về

chuyên môn, kinh nghiệm và nguồn lực để tiến hành sản xuất kinh doanh hiệu

quả; đồng thời những ngƣời làm chủ các DN tƣ nhân cũng chính là những

ngƣời khởi nghiệp thành công. Do vậy, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà

nƣớc và tƣ nhân thông qua hình thức hợp tác đầu tƣ, để cùng nhau chia sẻ

trách nhiệm, phát huy lợi thế, năng lực của mỗi bên để thành lập và phát triển

các công ty khởi nghiệp.

Thứ ba, phát triển các chƣơng trình hỗ trợ và vƣờn ƣơm khởi nghiệp.

Chính phủ Australia đã xây dựng nhiều chƣơng trình hỗ trợ khởi nghiệp dành

cho các đối tƣợng trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ: Công nghệ, chăm sóc

sức khỏe, xuất khẩu … đồng thời, thành lập các quỹ thúc đẩy giáo dục, khuyến

khích đào tạo các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ sƣ và toán, nhằm khởi

động một văn hóa đổi mới trong giới trẻ tại các trƣờng đại học.

Việt Nam cũng cần phát triển các chƣơng trình hỗ trợ khởi nghiệp và

các trung tâm nghiên cứu và hợp tác nhằm thúc đẩy các công trình nghiên cứu

ở các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu và đào tạo các sinh viên tốt nghiệp

có kinh nghiệm làm việc thực tiễn, tăng cƣờng liên kết với các trƣờng đại học

trong và ngoài nƣớc để học hỏi, trao đổi chuyên môn, mời các chuyên gia về

khởi nghiệp đến chia sẻ kinh nghiệm DNKN.

35

Thứ tƣ, áp dụng các chính sách hỗ trợ về pháp lý, thủ tục hành chính và

thuế cho hoạt động liên quan đến khởi nghiệp. Các điều kiện, chính sách của

Nhà nƣớc cần đƣợc cải cách theo hƣớng giảm bớt các rào cản về vốn, rút

ngắn thời gian để hình thành DN, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo sự

thông thoáng trong cơ chế và chính sách đầu tƣ; Áp dụng chính sách ƣu đãi về

thuế cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhằm khuyến khích sự đổi

mới hoạt động của các DN. Chính phủ Việt Nam cần xây dựng các chính sách

để giảm bớt các rào cản vốn, có các cơ chế thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thu

hút các quỹ đầu tƣ rót vốn vào các dự án khởi nghiệp tạo điều kiện cho các

DNKN đƣợc tiếp cận vốn đầu tƣ.

36

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

1 - Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là một bộ phận

của pháp luật hành chính, có đối tƣợng điều chỉnh là nhóm các quan hệ xã hội

phát sinh đối với doanh nghiệp KH&CN. Pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN tạo môi trƣờng thuận lợi để doanh nghiệp KH&CN phát

triển; đồng thời là phƣơng tiện cơ bản để thực hiện chức năng QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN nhằm tăng về số lƣợng và nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp KH&CN.

Pháp luật là phƣơng tiện đảm bảo cho tổ chức và hoạt động QLNN

đối với doanh nghiệp KH&CN tiến hành thống nhất nhƣng có sự phân công

và phối hợp chặt chẽ, đảm bảo cho QLNN về doanh nghiệp KH&CN có

hiệu lực và hiệu quả.

2 - Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc,

xác định đƣợc vai trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp KH&CN, Đảng và

Nhà nƣớc ta quan tâm đến doanh nghiệp KH&CN, đặt ra những mục tiêu và

kỳ vọng lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN. Đặc biệt năm 2007,

Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN đƣợc ban

hành là một bƣớc tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý doanh

nghiệp KH&CN. Tuy nhiên, sau 12 năm thực hiện Nghị định 80/2007/NĐ-CP,

sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam đã không đạt đƣợc mục

tiêu đề ra. Đến năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định 13/2019/NĐ-CP

thay thế Nghị định 80/2007/NĐ-CP. Thời gian triển khai một năm qua cho

thấy Nghị định 13/2019/NĐ-CP vẫn chƣa tạo đƣợc sự phát triển đột phá của

doanh nghiệp KH&CN ở nƣớc ta. Điều đó đặt ra vấn đề cần hoàn thiện pháp

luật về QLNN đối với doanh nghiệp

3 - Có nhiều tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN, gồm cả tiêu chí hoàn thiện nội dung và hình thức

37

nhƣ: pháp luật về QLNN trong lĩnh vực doanh nghiệp KH&CN phải có quan

hệ thống nhất với các pháp luật liên quan khác; đảm bảo tính toàn diện, khoa

học, phù hợp; cụ thể, công khai, minh bạch.

4 - Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN có phạm vi

rộng, bao gồm pháp luật về quản lý QLNN đối với doanh nghiệp, pháp luật về

QLNN trong lĩnh vực KH&CN, pháp luật về QLNN đối với phần “hòa nhập”

giữa doanh nghiệp với KH&CN. Trong khuôn khổ luận văn, sẽ chỉ tập trung

nghiên cứu pháp luật về QLNN đối với phần “hòa nhập” giữa doanh nghiệp với

KH&CN; ở các nội dung: Pháp luật về QLNN liên quan đến ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN; Pháp luật về QLNN liên quan đến chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN; Pháp luật về QLNN đối với các ƣu đãi cho doanh nghiệp KH&CN;

Pháp luật về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN; Pháp luật

về xử lý vi phạm pháp luật về doanh nghiệp KH&CN.

38

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ - QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

2.1. Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về quản lý nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

2.1.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý nhà nước

đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Pháp luật nói chung, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

nói riêng là kết quả của nhận thức và là hình thức ghi nhận nhu cầu khách quan

để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Khi nghiên cứu lịch sử hình thành và phát

triển của pháp luật, chúng ta không thể tách rời các quan hệ xã hội đƣợc pháp

luật điều chỉnh và càng không thể thoát ly các đặc điểm về chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội của từng thời kỳ lịch sử, trong đó các quy phạm pháp luật về

nội dung (quy phạm vật chất) và thủ tục hành chính (quy phạm hình thức)

đƣợc ban hành.

Pháp luật luôn thể hiện hai mặt cơ bản: một mặt nó là sự thể hiện và kết

tinh những giá trị phổ biến, những kinh nghiệm của những giai đoạn, thời kỳ

trƣớc đó và tại giai đoạn nó đƣợc ban hành. Mặt khác, nó thuộc phạm trù giai

cấp và xã hội đƣợc ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp, lực lƣợng đại diện xã

hội, cho nên nó phủ nhận những gì không phù hợp với đời sống xã hội. Do

vậy, sự hình thành và phát triển của pháp luật là một quá trình kế thừa và phủ

nhận một cách biện chứng, mà nó cần phải đƣợc nghiên cứu, xem xét trên cả

hai mặt để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện.

Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN đƣợc đề cập lần đầu

tiên vào năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành

Trung ƣơng Đảng khóa IX: “Từng bƣớc chuyển các tổ chức KH&CN thực

39

hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự

trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [3]. Tuy nhiên trong

suốt 25 năm sau đó, không có văn bản quy phạm pháp luật nào đƣợc ban hành

có quy định về doanh nghiệp KH&CN. Ngay cả Luật KH&CN đầu tiên đƣợc

ban hành năm 2000 cũng không có quy định về doanh nghiệp KH&CN.

Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy

định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập;

trong đó quy định: “Các tổ chức KH&CN có thể lựa chọn hình thức chuyển

đổi thành doanh nghiệp KH&CN” [24]. Tuy nhiên, ngoài quy định tại Điều

4, Nghị định 115/2005/NĐ-CP ra, không có các quy định nào về doanh

nghiệp KH&CN.

Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh

nghiệp KH&CN. Đây là Nghị định đầu tiên quy định về doanh nghiệp KH&CN.

Đến năm 2010, Nghị định 80/2007/NĐ-CP đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Nghị

định số 96/2010/NĐ-CP.

Tại Nghị định 80/2007/NĐ-CP, Nghị định 96/2010/NĐ-CP đã nêu rõ

khái niệm doanh nghiệp KH&CN: Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp

do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài có quyền sở hữu

hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ (R&D) thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật

Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của doanh nghiệp là thực

hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả

R&D do doanh nghiệp đƣợc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp; thực hiện

các nhiệm vụ KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN thực hiện sản xuất, kinh

doanh và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật [25] (Điều

1.2, Điều 2, Nghị định 80/2007/NĐ-CP; Điều 2, Nghị định 96/2010/NĐ-CP).

Để thực hiện các quy định về doanh nghiệp KH&CN tại Nghị định

80/2007/NĐ-CP và Nghị định 96/2010/NĐ-CP, năm 2008 liên Bộ KH&CN -

40

Tài chính – Nội vụ đã ban hành thông tƣ liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-

BTC-BNV; đến năm 2012 ban hành Thông tƣ liên tịch số 17/2012/TTLT-

BKHCN-BTC-BNV.

Đến năm 2013, quy định về doanh nghiệp KH&CN đƣợc đề cập trong

văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn, đó là Luật KH&CN.

Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định về doanh nghiệp KH&CN

cho đến thời điểm này. Tuy nhiên, cho đến năm 2019, quy định về doanh

nghiệp KH&CN trong Luật KH&CN chƣa thể áp dụng toàn diện vì vẫn còn

thiếu văn bản hƣớng dẫn thi hành.

Điều kiện để đƣợc công nhận là doanh nghiệp KH&CN đƣợc quy định

cụ thể tại Thông tƣ 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV: Đối tƣợng thành

lập doanh nghiệp KH&CN hoàn thành việc ƣơm tạo và làm chủ công nghệ

từ kết quả KH&CN đƣợc sở hữu, sử dụng hợp pháp hoặc sở hữu hợp pháp

công nghệ để trực tiếp sản xuất thuộc các lĩnh vực: (1) công nghệ thông tin –

truyền thông, đặc biệt là công nghệ phần mềm tin học; (2) công nghệ sinh

học, đặc biệt là công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản, y tế; (3)

công nghệ tự động hóa; (4) công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là công nghệ

nano; (5) công nghệ bảo vệ môi trƣờng; (6) công nghệ năng lƣợng mới; (7)

công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định;

chuyển giao công nghệ hoặc trực tiếp sản xuất trên cơ sở công nghệ đã ƣơm

tạo và làm chủ hay sở hữu hợp pháp công nghệ theo quy định của pháp luật

theo các lĩnh vực đã nói ở trên [19, Điều 1.2].

Nhƣ vậy quan điểm về doanh nghiệp KH&CN đƣợc quy định bởi pháp

luật Việt Nam lúc này tƣơng đối phù hợp quan điểm về doanh nghiệp KH&CN

hiện nay trên thế giới. Sự phù hợp đƣợc đánh giá mang tính chất “tƣơng đối”

vì cùng thống nhất ở điểm: (1) mô hình tổ chức đều phải là doanh nghiệp; (2)

doanh nghiệp đó có khả năng thực hiện đổi mới; (3) Sản xuất, kinh doanh dựa

trên kết quả KH&CN. Tuy nhiên, quan điểm của thế giới về doanh nghiệp

41

KH&CN, là doanh nghiệp phải “thành lập mới (khởi nguồn, khởi nghiệp)”,

còn tại Việt Nam yếu tố này không đƣợc đề cập. Quan điểm này là phù hợp

với điều kiện và bối cảnh thực tế tại Việt Nam. Bởi việc hình thành các doanh

nghiệp mới từ kết quả KH&CN gặp rất nhiều rủi ro, đòi hỏi ngƣời quản lý,

điều hành doanh nghiệp vừa phải có kiến thức quản lý, kinh nghiệm thực tiễn

điều hành doanh nghiệp, vừa phải có kiến thức khác liên quan đến quyền sở

hữu trí tuệ, kiến thức chuyên môn kỹ thuật để tiếp nhận và đƣa công nghệ mới

vào vận hành khai thác, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tại các nƣớc

tiên tiến trên thế giới, có cả hệ thống trợ giúp ƣơm tạo công nghệ (vốn, kỹ

thuật, quản lý, thƣơng mại,…) để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp(start-up),

khởi nguồn (spin-off) phát triển. Trong khi đó, tại Việt Nam, các doanh nghiệp

KH&CN hầu nhƣ đều đang đang tự xoay xở, phải dựa rất nhiều và tiềm lực của

các doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, để hỗ trợ tốt cho các kết quả KH&CN

đƣợc ứng dụng vào thực tiễn.

Trong giai đoạn này, với các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị áp

dụng là Nghị định 80, 96; Thông tƣ 06, 17, chúng ta thấy rằng: phạm vi “khái

niệm doanh nghiệp KH&CN” rộng hơn “điều kiện thành lập doanh nghiệp

KH&CN”. Sự “rộng” hơn này liên quan đến thuật ngữ “kết quả KH&CN”. Điều

kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN nêu tại điều 1.2, Thông tƣ 17

chỉ chấp nhận “kết quả KH&CN” của 7 lĩnh vực: (1) công nghệ thông tin –

truyền thông; (2) công nghệ sinh học; (3) công nghệ tự động hóa; (4) công nghệ

vật liệu mới; (5) công nghệ bảo vệ môi trƣờng; (6) công nghệ năng lƣợng mới;

(7) công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định. Nhƣ

vậy, sự hạn chế này đã tƣớc đi cơ hội đƣợc cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khác có “kết quả KH&CN”

nằm ngoài 7 lĩnh vực nêu trên. Chẳng hạn nhƣ tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, một

cá nhân đã tự đầu tƣ nghiên cứu sáng tạo ra “xe lu ruộng muối”. Giải pháp “xe

42

lu ruộng muối” có tính mới, tính sáng tạo, khả năng ứng dụng rất cao. Giải

pháp này đã đạt giải nhất hội thi sáng tạo kỹ thuật của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

năm 2013. Chủ sở hữu của giải pháp này đã thành lập doanh nghiệp và sản xuất

ra các “xe lu ruộng muối” để cung cấp cho các diêm dân trong và ngoài Tỉnh.

Tuy nhiên, giải pháp “xe lu ruộng muối “của doanh nghiệp mới thành lập là kết

quả R&D thuộc lĩnh vực cơ khí, nên chƣa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN theo quy định hiện hành [1]. Đối chiếu với quy định

mới về doanh nghiệp KH&CN của Luật KH&CN (Điều 58.1, 58.2), thấy rằng

sự hạn chế trên đã đƣợc khắc phục. Đây là một điểm mới, tiến bộ của Luật

KH&CN. Nhƣng với quy định doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng điều kiện:

“Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết

quả R&D đạt tỷ lệ theo quy định” (Điều 58.2.c, Luật KH&CN) lại hình thành

một rào cản mới đối với các doanh nghiệp mong muốn đứng vào hàng ngũ

doanh nghiệp KH&CN đƣợc nhà nƣớc thừa nhận, nhất là các doanh nghiệp

thành lập mới, đƣợc hình thành từ kết quả R&D. Đã có nhà nghiên cứu cho

rằng, không nên đƣa điều kiện “doanh thu kết quả R&D đạt tỷ lệ theo quy

định” vào điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, nên đƣa điều

khoản này về quy định hƣởng ƣu đãi thuế nhƣ Thông tƣ 06, Thông tƣ 17. Bởi

quá trình kinh doanh, không phải bao giờ doanh nghiệp cũng đảm bảo doanh

thu nhƣ mong muốn, nhất là sản phẩm mới hình thành bao giờ cũng tiềm ẩn

những rủi ro, phải mất một thời gian, mới đƣợc thị trƣờng đón nhận rộng rãi.

Một số sản phẩm mới, phải đƣợc cơ quan quản lý chức năng ban hành tiêu

chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành phù hợp mới đƣợc phép lƣu hành.

2.1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Văn bản quy phạm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

khá phong phú, trong cùng một văn bản lại đề cập tới nhiều vấn đề nên để

43

tránh sự trùng lặp quá nhiều, trong khi khảo sát, Luận văn không liệt kê quá

chi tiết nội dung các văn bản. Trong mục này, chúng tôi sẽ khảo sát quy định

của pháp luật hiện hành về QLNN trong lĩnh vực doanh nghiệp KH&CN nhƣ

đã trình bày ở Chƣơng 1 theo những nhóm sau: Pháp luật về QLNN liên quan

đến ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; Pháp luật về QLNN liên quan đến chứng

nhận doanh nghiệp KH&CN; Pháp luật về QLNN đối với các ƣu đãi cho doanh

nghiệp KH&CN; Pháp luật về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN; Pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về doanh nghiệp KH&CN.

2.1.2.1. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với ươm tạo doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ

Ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN là quá trình hình thành, phát triển

doanh nghiệp KH&CN thông qua các hoạt động trợ giúp về hạ tầng kỹ thuật,

nguồn lực và dịch vụ cần thiết [14] (Khoản 2, Điều 2, Thông tƣ 19/2016/TT-

BKHCN quy định việc tổ chức quản lý Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm); là hoạt động hỗ trợ tổ chức, cá nhân hoàn thiện công nghệ,

huy động vốn đầu tƣ, tổ chức sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, thực hiện thủ tục

pháp lý và các dịch vụ cần thiết khác để thành lập doanh nghiệp sử dụng công

nghệ mới đƣợc tạo ra.

Chính sách của nhà nƣớc ta là hỗ trợ ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN [53]

(Khoản 13, Điều 2, Luật chuyển giao công nghệ 2017). Theo đó, pháp luật về

ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN gồm các quy định về: Thành lập cơ sở ƣơm

tạo doanh nghiệp KH&CN; Hỗ trợ các cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN;

Hỗ trợ các hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN.

a. Pháp luật về thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp Khoa học và

Công nghệ

Pháp luật hiện hành về thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

được quy định tại: Luật Chuyển giao công nghệ 2017; Nghị định số 08/2014/NĐ-

44

CP ngày 27/1/2014 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật

KH&CN; Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 quy định về thành lập,

tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN

ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN quy định về điều kiện thành lập, hoạt động của

tổ chức trung gian của thị trƣờng KH&CN; Thông tƣ số 03/2014/TT-BKHCN

ngày 31/3/2014 của Bộ KH&CN hƣớng dẫn điều kiện thành lập và đăng ký

hoạt động của tổ chức KH&CN, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức

KH&CN; Thông tƣ số 298/2016/TT-BTC ngày 15/11/2016 của Bộ Tài chính

quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định điều

kiện hoạt động về khoa học, công nghệ.

Pháp luật hiện hành về thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN đã

quy định các nội dung sau:

Một là, quy định về khái niệm “Cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN”.

Cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN là cơ sở cung cấp các điều kiện theo

quy định của pháp luật về hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực và dịch vụ cần thiết

phục vụ việc ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN (Luật Chuyển giao công nghệ

2017); Là loại hình tổ chức KH&CN trung gian, cung cấp dịch vụ tƣ vấn, hỗ

trợ tổ chức, cá nhân trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoàn

thiện, ứng dụng, thƣơng mại hóa công nghệ; xây dựng mô hình kinh doanh,

huy động vốn đầu tƣ và các hoạt động khác thúc đẩy hình thành và phát triển

doanh nghiệp KH&CN [9] (Khoản 9, Điều 2, Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN

ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN quy định điều kiện thành lập, hoạt động tổ

chức trung gian của thị trƣờng KH&CN); Là nơi có điều kiện thuận lợi về cơ

sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ, hỗ trợ cần thiết để ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN (Khoản 3, Điều 2, Thông tƣ 19/2016/TT-BKHCN quy định

việc tổ chức quản lý Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và

tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm).

45

Hai là, quy định về điều kiện thành lập, hoạt động cơ sở ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN (Điều 10, Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 của

Bộ KH&CN quy định điều kiện thành lập, hoạt động tổ chức trung gian của

thị trƣờng KH&CN):

Về nhân lực: Có ít nhất 05 ngƣời có trình độ đại học trở lên, trong đó

có ít nhất 40% làm việc chính thức, 30% có chứng chỉ, chứng nhận hoàn

thành khóa học về các kỹ năng: ƣơm tạo hoặc quản lý hoạt động ƣơm tạo

công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; quản trị doanh nghiệp; tƣ vấn

đầu tƣ; tƣ vấn tài chính. Ngƣời đứng đầu phải có trình độ đại học trở lên, có

chứng chỉ, chứng nhận hoàn thành khóa học về một trong các kỹ năng nêu

trên, có ít nhất 01 năm kinh nghiệm công tác liên quan đến một trong các lĩnh

vực: ƣơm tạo, thƣơng mại hóa công nghệ; ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN;

phát triển doanh nghiệp; đầu tƣ; tài chính.

Về cơ sở vật chất - kỹ thuật: Có quyền sử dụng mặt bằng diện tích tối thiểu 100m2 trong thời hạn từ 01 năm trở lên để thiết lập không gian làm việc

chung cho các đối tƣợng đƣợc ƣơm tạo; Có quyền sử dụng hợp pháp phòng

thí nghiệm, cơ sở sản xuất thử nghiệm, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động

ƣơm tạo trong lĩnh vực liên quan; Có cơ sở dữ liệu hoặc có quyền sử dụng,

khai thác cơ sở dữ liệu về công nghệ, đối tƣợng ƣơm tạo, chuyên gia công

nghệ, chuyên gia tƣ vấn cho các hoạt động ƣơm tạo liên quan; Có quy trình

ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN.

Ba là, quy định về thủ tục đăng ký hoạt động cơ sở ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN [12]. Thủ tục đăng ký đƣợc quy định tại Thông tƣ số

03/2014/TT-BKHCN ngày 31/3/2014 của Bộ KH&CN hƣớng dẫn điều kiện

thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức KH&CN, văn phòng đại diện, chi

nhánh của tổ chức KH&CN.

Bốn là, quy định về trách nhiệm của các cơ quan QLNN (Điều 16,

46

Thông tƣ số 03/2014/TT-BKHCN ngày 31/3/2014 của Bộ KH&CN hƣớng

dẫn điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức KH&CN, văn

phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức KH&CN).

Bộ KH&CN tổ chức thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận; theo dõi, kiểm

tra, xử lý và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm

theo quy định của pháp luật. Thực hiện việc công bố trên cổng thông tin điện tử

của Bộ KH&CN thông tin về các tổ chức KH&CN, văn phòng đại diện, chi

nhánh của tổ chức KH&CN nƣớc ngoài đã đƣợc Bộ KH&CN cấp Giấy chứng

nhận, Giấy phép; các trƣờng hợp bị đình chỉ, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng

nhận, Giấy phép. Hƣớng dẫn các Sở KH&CN về nghiệp vụ đăng ký.

Sở KH&CN cấp Giấy chứng nhận; theo dõi, kiểm tra, xử lý và kiến

nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của

pháp luật; Báo cáo Bộ KH&CN kết quả công tác cấp Giấy chứng nhận; Thực

hiện việc công bố trên cổng thông tin điện tử của Sở KH&CN.

Qua khảo sát pháp luật hiện hành về thành lập cơ sở ươm tạo doanh

nghiệp KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, khái niệm “Cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN” chƣa có

sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật (Luật Chuyển giao công

nghệ 2017, Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN

quy định điều kiện thành lập, hoạt động tổ chức trung gian của thị trƣờng

KH&CN, Thông tƣ 19/2016/TT-BKHCN quy định việc tổ chức quản lý

Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN

công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm).

Thứ hai, không có quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự thủ tục

thành lập cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN mà áp dụng quy định chung

cho các tổ chức KH&CN.

b. Pháp luật về hỗ trợ cơ sở ươm tạo doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Pháp luật hiện hành về hỗ trợ cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

47

được quy định tại: Quyết định 592/QĐ-TTg ngày 25/2/2012 của Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN

và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;

Quyết định 1381/QĐ-TTg ngày 12/7/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Quyết định 592/QĐ-TTg; Thông tƣ 19/2016/TT-BKHCN của Bộ KH&CN

quy định việc tổ chức quản lý Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm; Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN quy

định về điều kiện thành lập, hoạt động của tổ chức trung gian của thị trƣờng

KH&CN; Thông tƣ 142/2017/TT-BTC ngày 29/12/2017 của Bộ Tài chính

quy định cơ chế tài chính thực hiện Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm.

Pháp luật về hỗ trợ cơ sở ươm tạo doanh nghiệp Khoa học và Công

nghệ đã quy định các nội dung sau:

Một là, quy định về hình thức hỗ trợ cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN. Việc hỗ trợ cho cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN đƣợc thực

hiện dƣới hình thức Dự án hỗ trợ cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN -

nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia (Khoản 1, Điều 3, Thông tƣ 19/2016/TT-

BKHCN của Bộ KH&CN quy định việc tổ chức quản lý Chƣơng trình hỗ trợ

phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ

chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm).

Hai là, quy định về đối tƣợng đƣợc hỗ trợ (Khoản 1, Điều 9, Thông tƣ

19/2016/TT-BKHCN). Các cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN, trong đó ƣu

tiên các cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN đƣợc thành lập tại các viện

nghiên cứu, trƣờng đại học, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung.

48

Ba là, quy định về nội dung hỗ trợ (Khoản 2, Điều 9, Thông tƣ 19/2016/

TT-BKHCN). Hỗ trợ kinh phí mua, thuê trang thiết bị dùng chung cho cơ sở

ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN để phục vụ trực tiếp hoạt động ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN; kinh phí thực hiện hoạt động tƣ vấn về việc ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN; kinh phí thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng cho ngƣời

làm việc tại cơ sở ƣơm tạo và tổ chức, cá nhân tham gia ƣơm tạo tại cơ sở ƣơm

tạo; kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo phục vụ hoạt động ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN của cơ sở ƣơm tạo; kinh phí xây dựng trang thông tin điện tử

của cơ sở ƣơm tạo và các hoạt động quảng bá về cơ sở ƣơm tạo.

Bốn là, quy định về mức hỗ trợ cho các nội dung [21] (Khoản 1, Điều

5, Thông tƣ 142/2017/TT-BTC). Hỗ trợ kinh phí mua sắm các trang thiết bị

dùng chung phục vụ trực tiếp hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN của

cơ sở ƣơm tạo nhƣng không vƣợt quá 45% tổng mức kinh phí thực hiện

nhiệm vụ đƣợc phê duyệt; Hỗ trợ kinh phí thực hiện hoạt động tƣ vấn về ƣơm

tạo doanh nghiệp KH&CN cho các tổ chức cá nhân tham gia ƣơm tạo tại cơ sở

ƣơm tạo theo nhiệm vụ đƣợc phê duyệt: Tối đa không quá 80 triệu đồng cho

hoạt động tƣ vấn của 01 nhiệm vụ; Hỗ trợ kinh phí thực hiện hoạt động đào tạo,

bồi dƣỡng cho ngƣời làm việc tại cơ sở ƣơm tạo và tổ chức, cá nhân tham gia

ƣơm tạo tại cơ sở ƣơm tạo: theo Thông tƣ số 139/2010/TT-BTC ngày 21/9/2010

của Bộ Tài chính; Thông tƣ liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC ngày

13/8/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính; Tổ chức hội nghị, hội

thảo: theo Thông tƣ số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4 /2017 của Bộ Tài chính; Hỗ

trợ kinh phí để xây dựng trang thông tin điện tử quảng bá về cơ sở ƣơm tạo: theo

Thông tƣ số 194/2012/TT-BTC ngày 15/11/ 2012 của Bộ Tài chính.

Năm là, quy định về thủ tục để đƣợc hỗ trợ. Thủ tục để đƣợc hỗ trợ

thực hiện theo thủ tục đề xuất dự án KH&CN cấp quốc gia.

49

Qua khảo sát pháp luật về hỗ trợ cơ sở ươm tạo doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ có thể rút ra nhận xét: Việc hỗ trợ đối với cơ sở ƣơm tạo DN

KH&CN chỉ có hình thức duy nhất là thông qua nhiệm vụ KH&CN thuộc

Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công

lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để đƣợc hỗ trợ, cơ sở ƣơm tạo

doanh nghiệp KH&CN phải đề xuất nhiệm vụ KH&CN để đƣợc phê duyệt.

Theo quy định hiện hành, từ lúc đề xuất đến khi đƣợc phê duyệt, thực hiện

phải mất một khoảng thời gian dài. Vì thế nhiều khi nội dung đƣợc duyệt, cấp

kinh phí không còn phù hợp với hoạt động của cơ sở ƣơm tạo nữa.

c. Pháp luật về hỗ trợ các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ

Pháp luật về hỗ trợ các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

được quy định tại: Quyết định 592/QĐ-TTg ngày 25/2/2012 của Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN

và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;

Quyết định 1381/QĐ-TTg ngày 12/7/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Quyết định 592/QĐ-TTg ngày 25/2/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ; Thông tƣ

16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN quy định về điều kiện

thành lập, hoạt động của tổ chức trung gian của thị trƣờng KH&CN; Thông tƣ

142/2017/TT-BTC ngày 29/12/2017 của Bộ Tài chính quy định cơ chế tài

chính thực hiện Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ

chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Pháp luật về hỗ trợ các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp Khoa học và

Công nghệ đã quy định các nội dung sau:

Một là, quy định hình thức hỗ trợ các hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ. Việc hỗ trợ hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN đƣợc thực hiện dƣới hình thức Dự án hỗ trợ ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN (là nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia).

50

Hai là, quy định đối tƣợng đƣợc hỗ trợ (Khoản 1, Điều 10, Thông tƣ

19/2016/TT-BKHCN). Đối tƣợng đƣợc hỗ trợ là tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc sử

dụng hợp pháp kết quả KH&CN hoặc chuyển giao kết quả KH&CN đó cho tổ

chức, cá nhân khác để thành lập doanh nghiệp KH&CN.

Ba là, quy định nội dung hỗ trợ (Khoản 2, Điều 10, Thông tƣ 19/2016/TT-

BKHCN). Hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ để tạo ra sản

phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị trƣờng; Hỗ trợ sử dụng trang thiết bị,

dịch vụ tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN; Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện hoàn thiện hồ sơ,

thủ tục để đƣợc công nhận là doanh nghiệp KH&CN.

Bốn là, quy định mức hỗ trợ hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN

(Khoản 2, Điều 5, Thông tƣ 142/2017/TT-BKHCN). Hỗ trợ tối đa 100% kinh phí

cho hoạt động nghiên cứu, giải mã công nghệ để tạo ra sản phẩm mới có khả

năng thƣơng mại hóa; Hỗ trợ tối đa 50% kinh phí cho hoạt động hoàn thiện công

nghệ để tạo ra sản phẩm mới trên cơ sở các sáng chế, giải pháp hữu ích, giải

pháp kỹ thuật, kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN; hoặc ứng dụng và phát triển

công nghệ do tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp vào sản xuất, kinh

doanh. Hỗ trợ tối đa 50% chi phí vận hành máy móc, thiết bị (bao gồm cả chi phí

nhân công) tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo theo

nhiệm vụ đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt; Hỗ trợ tối đa 30% kinh phí thực

hiện các nội dung của nhiệm vụ đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Năm là, quy định thủ tục để đƣợc hỗ trợ. Thủ tục hỗ trợ đƣợc thực hiện

theo thủ tục đề xuất dự án KH&CN cấp Quốc gia tham gia vào Chƣơng trình 592.

Qua khảo sát pháp luật về hỗ trợ các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ có thể rút ra nhận xét: Việc hỗ trợ đối với hoạt động

ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN chỉ có hình thức duy nhất là thông qua nhiệm

vụ KH&CN thuộc Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và

51

tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để

đƣợc hỗ trợ, cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN phải đề xuất nhiệm vụ

KH&CN để đƣợc phê duyệt. Theo quy định hiện hành, từ lúc đề xuất đến khi

đƣợc phê duyệt, thực hiện phải mất một khoảng thời gian dài. Vì thế nhiều khi

nội dung đƣợc duyệt, cấp kinh phí không còn phù hợp với hoạt động của cơ

sở ƣơm tạo nữa.

2.1.2.2. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với chứng nhận doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ

a. Pháp luật về cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Pháp luật hiện hành về cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN được

quy định tại: Nghị định 13/2019/NĐ-CP; Quyết định 395/QĐ-BKHCN ngày

28/2/2019 của Bộ KH&CN công bố thủ tục hành chính; Công văn số 1048/BKHCN-

PTTTDN ngày 16/4/2019 của Bộ KH&CN hƣớng dẫn cấp giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP.

Pháp luật về quản lý Nhà nước đối với chứng nhận doanh nghiệp KH&CN

đã quy định các nội dung sau:

Một là, quy định về điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN (Điều

6, Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN

gồm: Đƣợc thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; Có khả năng tạo

ra hoặc ứng dụng kết quả KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền đánh giá,

thẩm định, công nhận; Có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm

hình thành từ kết quả KH&CN đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu

(Doanh nghiệp mới thành lập dƣới 5 năm không cần đáp ứng điều kiện về tỷ

lệ doanh thu 30%).

Hai là, quy định về hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận. Hồ sơ gồm có:

(i) Đề nghị chứng nhận doanh nghiệp KH&CN; (ii) Văn bản xác nhận, công

nhận kết quả KH&CN của cơ quan có thẩm quyền (Văn bằng bảo hộ quyền

52

sở hữu trí tuệ; Quyết định công nhận giống cây trồng mới, giống vật nuôi

mới, giống thủy sản mới, giống cây lâm nghiệp mới, tiến bộ kỹ thuật; Bằng

chứng nhận giải thƣởng đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ đã đạt đƣợc các

giải thƣởng về KH&CN do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền chủ trì, phối

hợp tổ chức xét tặng giải thƣởng hoặc đồng ý cho tổ chức xét tặng giải

thƣởng; Quyết định công nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng

ngân sách nhà nƣớc hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kết quả thực hiện nhiệm

vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nƣớc; Giấy xác nhận hoặc giấy thẩm định

kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nƣớc;

Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ; Các văn bản xác nhận,

công nhận khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng); (iii) Phƣơng án sản xuất,

kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN [47].

Ba là, quy định thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận (Điều 5, Nghị định

13/2019/NĐ-CP). Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN cấp

Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN (trong các trƣờng hợp: (i) Các kết

quả KH&CN đƣợc hình thành từ nhiệm vụ KH&CN đặc biệt; có tầm quan

trọng đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trong phạm vi cả

nƣớc; có vai trò quan trọng nâng cao tiềm lực KH&CN quốc gia; giải quyết

các vấn đề KH&CN liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng,

nhất là môi trƣờng, sức khỏe; hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông; (ii)

Doanh nghiệp đƣợc thành lập từ việc chuyển đổi tổ chức KH&CN công lập

mà đăng ký hoạt động KH&CN tại Bộ KH&CN; (iii) Sở KH&CN chƣa đủ

điều kiện kỹ thuật đánh giá kết quả KH&CN và có văn bản đề nghị Cục Phát

triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN xem xét cấp Giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN; (iv) Doanh nghiệp có chi nhánh, cơ sở sản xuất kinh

doanh trên địa bàn của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và có văn

bản đề nghị Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN cấp Giấy

53

chứng nhận doanh nghiệp KH&CN); Sở KH&CN nơi doanh nghiệp đặt trụ sở

chính (trừ các trƣờng hợp thuộc thẩm quyền của Cục Phát triển thị trƣờng và

doanh nghiệp KH&CN).

Bốn là, quy định thủ tục hành chính cấp Giấy chứng nhận (Quyết định

395/QĐ-BKHCN ngày 28/2/2019 của Bộ KH&CN). Thủ tục bao gồm các

bƣớc: (i) Doanh nghiệp gửi hồ sơ đề nghị chứng nhận về Bộ KH&CN (hoặc

Sở KH&CN); (ii) Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN (hoặc

Sở KH&CN) tổ chức thẩm định hồ sơ trong thời gian không quá 15 ngày; (iii)

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN, Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN công bố

trên cổng thông tin điện tử của cơ quan về tên, địa chỉ và danh mục sản phẩm

hình thành từ kết quả KH&CN của doanh nghiệp đó [16].

Qua khảo sát pháp luật về quản lý Nhà nước đối với chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, Công văn số 1048/BKHCN-PTTTDN ngày 16/4/2019 của

Bộ KH&CN hƣớng dẫn cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo

Nghị định 13/2019/NĐ-CP là sai về thể thức văn bản.

Thứ hai, quy định về điều kiện “Có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết

quả KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận” là

quy định chƣa rõ ràng, khó thực hiện nếu không có hƣớng dẫn cụ thể.

Thứ ba, quy định “Có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm

hình thành từ kết quả KH&CN đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu”

cũng là quy định khó thực hiện trên thực tế nếu không có hƣớng dẫn cụ thể.

Thứ tư, quy định “Các văn bản xác nhận, công nhận khác có giá trị

pháp lý tƣơng đƣơng” là quy định không rõ ràng, có thể gây cách hiểu và áp

dụng khác nhau.

Thứ năm, quy định “Các kết quả KH&CN đƣợc hình thành từ nhiệm vụ

54

KH&CN đặc biệt; có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc

phòng, an ninh trong phạm vi cả nƣớc; có vai trò quan trọng nâng cao tiềm

lực KH&CN quốc gia; giải quyết các vấn đề KH&CN liên quan đến nhiều

ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng, nhất là môi trƣờng, sức khỏe” là quy định

không rõ ràng, khó thực hiện nêu không có hƣớng dẫn.

Thứ sáu, quy định về gửi hồ sơ đăng ký KH&CN có thể dẫn đến cách

hiểu khác nhau: doanh nghiệp bắt buộc phải gửi hồ sơ đăng ký về Cục Phát triển

thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN hay là gửi về Sở KH&CN có trụ sở chính.

b. Pháp luật về thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ

Pháp luật hiện hành về thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN quy định tại: Nghị định 13/2019/NĐ-CP; Quyết định 395/QĐ-BKHCN

ngày 28/2/2019 của Bộ KH&CN công bố thủ tục hành chính; Công văn số

1048/BKHCN-PTTTDN ngày 16/4/2019 của Bộ KH&CN hƣớng dẫn cấp

giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP.

Pháp luật hiên hành về thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ đã quy định các nội dung sau:

Một là, quy định các trƣờng hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận (Điều 10,

Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Các trƣờng hợp bị thu hồi là: (i) Doanh nghiệp

KH&CN bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; (ii) Trong 5 năm

liên tiếp, doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết

quả KH&CN không năm nào đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu của

doanh nghiệp KH&CN (trừ trƣờng hợp doanh nghiệp mới thành lập trong thời

gian 5 năm đầu tiên kể từ khi đƣợc cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN); Doanh nghiệp KH&CN không thực hiện chế độ báo cáo trong 03

năm liên tiếp theo quy định; Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN đƣợc

cấp không đúng thẩm quyền, trình tự theo quy định.

55

Hậu quả pháp lý của việc thu hồi Giấy chứng nhận là doanh nghiệp

không tiếp tục đƣợc hƣởng những chính sách ƣu đãi, hỗ trợ đối với doanh

nghiệp KH&CN.

Hai là, quy định các trƣờng hợp bị hủy bỏ Giấy chứng nhận Điều 10,

Nghị định 13/2019/NĐ-CP. Các trƣờng hợp bị hủy bỏ là: (i) Có hành vi xâm

phạm quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả KH&CN đã kê khai trong hồ

sơ đề nghị chứng nhận doanh nghiệp KH&CN; (ii) Có hành vi giả mạo nội

dung hồ sơ đề nghị chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.

Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ Giấy chứng nhận là doanh nghiệp bị

truy thu toàn bộ các khoản kinh phí, những lợi ích khác đã đƣợc hƣởng và bị

xử lý theo quy định của pháp luật.

Khảo sát pháp luật hiên hành về thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, chƣa có hƣớng dẫn để doanh nghiệp và đơn vị có thẩm quyền

thu hồi có thể thống nhất cách hiểu và áp dụng cách tính 5 năm liên tiếp đối

với trƣờng hợp doanh nghiệp mới thành lập.

Thứ hai, chƣa có hƣớng dẫn về trƣờng hợp bị thu hồi nhƣng đang vay

vốn tín dụng ƣu đãi (tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc, hỗ trợ từ các Quỹ phát

triển KH&CN), đang thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà

nƣớc đang đƣợc thực hiện thì xử lý hợp đồng vay vốn, hợp đồng thực hiện

nhiệm vụ KH&CN nhƣ thế nào?

Thứ ba, chƣa có hƣớng dẫn về các khoản kinh phí, lợi ích khác đã đƣợc

hƣởng sẽ bị truy thu là kinh phí, lợi ích gì?

2.1.2.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với ưu đãi cho doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ

a. Pháp luật về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Pháp luật hiện hành về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với

56

doanh nghiệp KH&CN được quy định tại: Nghị định 13/2019/NĐ-CP; Thông

tƣ liên tịch 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 hƣớng dẫn

thực hiện Nghị định 80/2007/NĐ-CP về Doanh nghiệp KH&CN; Thông tƣ

liên tịch 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 10/9/2012 sửa đổi, bổ sung

một số nội dung của Thông tƣ liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV.

Pháp luật về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh

nghiệp KH&CN quy định các nội dung chủ yếu sau:

Một là, quy định phạm vi thu nhập đƣợc miễn giảm thuế TNDN. Thu

nhập đƣợc miễn giảm thuế TNDN là một phần thu nhập của doanh nghiệp

(Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết

quả KH&CN), không phải là toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp. Nhƣ vậy,

phạm vi thu nhập đƣợc miễn giảm thuế TNDN theo Nghị định 13/2019/NĐ-

CP hẹp hơn Nghị định 80/2007/NĐ-CP (toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp).

Hai là, quy định điều kiện để đƣợc miễn, giảm thuế TNDN. Để đƣợc

miễn, giảm thuế TNDN thì tỷ lệ doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết

quả KH&CN trên tổng doanh thu của doanh nghiệp phải đạt tối thiểu 30%.

Nhƣ vậy, điều kiện về tỷ lệ doanh thu sản phẩm hình thành từ kết quả

KH&CN tối thiểu theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP thấp hơn so với Nghị định

80/2007/NĐ-CP. Theo Nghị định 80: 30% năm thứ nhất; 50% năm thứ hai;

70% từ năm thứ 3 trở đi.

Ba là, quy định tỷ lệ miễn, giảm và thời gian đƣợc miễn, giảm. Doanh

nghiệp KH&CN đƣợc miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong

09 năm tiếp theo.

Bốn là, thủ tục hành chính để đƣợc miễn, giảm. Thủ tục miễn giảm thực

hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và quản lý thuế.

Qua khảo sát pháp luật hiên hành về miễn, giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp đối với doanh nghiệp KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

57

Thứ nhất, Khoản 1, Điều 2 Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định “Sản

phẩm hình thành từ kết quả KH&CN (bao gồm: công nghệ sau ƣơm tạo, hàng

hóa, dịch vụ và các hình thức khác) là kết quả của quá trình sản xuất hoặc

cung ứng dịch vụ dựa trên việc áp dụng, ứng dụng hoặc phát triển kết quả

KH&CN”. Quy định này là khó hiểu do không có tiêu chí để phân định với

các sản phẩm khác của doanh nghiệp.

Thứ hai, chƣa có văn bản hƣớng dẫn để thực hiện một số nội dung về

ƣu đãi thuế TNDN đối với doanh nghiệp KH&CN nhƣ: Thời gian bắt đầu tính

ƣu đãi thuế TNDN cho DN KH&CN là từ khi nào? Từ năm đầu tiên đƣợc

công nhận DN KH&CN, hay từ năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế từ hoạt

động SNKD các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN; hay từ năm đầu

tiên đáp ứng đƣợc tỷ lệ 30%?. Thu nhập từ hoạt động SXKS các sản phẩm

hình thành từ kết quả KH&CN phát sinh trƣớc khi đƣợc cấp giấy CN

DNKH&CN thì có đƣợc miễn, giảm thuế không? Trong thời gian đang hƣởng

ƣu đãi mà lại có năm DN KH&CN không đáp ứng đƣợc điều kiện về tỷ lệ

doanh thu tối thiểu thì năm đó sẽ đƣợc tính hay không đƣợc tính vào tổng 13

năm đƣợc hƣởng miễn giảm thuế TNDN? Hƣớng dẫn điều kiện, thủ tục để

thực hiện ƣu đãi về thuế TNDN. Cách xác định số thuế thu nhập đƣợc ƣu đãi

nhƣ thế nào? Có theo phƣơng pháp nhƣ Thông tƣ 06/2008/TTLT-BKHCN-

BTC-BNV hay không. Trƣờng hợp DN KH&CN đang hƣởng ƣu đãi thuế

TNDN hoặc đã đƣợc hƣởng hết ƣu đãi thuế TNDN theo quy định của các văn

bản QPPL khác (ngoài ƣu đãi cho DN KH&CN) thì thời gian đƣợc hƣởng ƣu

đãi thuế TNDN theo điều kiện DN KH&CN đƣợc tính nhƣ thế nào để thống

nhất với quy định tại điểm d, Khoản 1, Điều 15 Nghị định 128/2013/NĐ-CP

về thuế TNDN. Khái niệm “Dịch vụ có ứng dụng kết quả KH&CN trong lĩnh

vực công nghệ thông tin là dịch vụ mới”: đƣợc hiểu nhƣ thế nào cho đúng: cơ

quan nào, tổ chức nào, văn bản nào xác định là “dịch vụ mới”?...

58

b. Pháp luật về miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước

Pháp luật về miễn, giảm thuế tiền thuê đất, thuê mặt nước cho doanh

nghiệp KH&CN được quy định tại: Thông tƣ liên tịch 06/2008/TTLT-BKHCN-

BTC-BNV ngày 18/6/2008 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 80/2007/NĐ-CP về

Doanh nghiệp KH&CN; Thông tƣ liên tịch 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV

ngày 10/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tƣ liên tịch số

06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV; Nghị định 46/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014

quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nƣớc; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ; Thông tƣ số 77/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 hƣớng

dẫn một số điều của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP; Thông tƣ 333/2016/TT-BTC

ngày 26/12/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số 77/2014/TT-

BTC ngày 16/6/2014; Nghị định 123/2017/NĐ-CP ngày 14/11/2017 sửa đổi một

số điều của các Nghị định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt

nƣớc; Nghị định 13/2019/NĐ-CP

Pháp luật về miễn, giảm thuế tiền thuê đất, thuê mặt nước cho doanh

nghiệp KH&CN đã quy định những nội dung cơ bản sau:

Một là, quy định loại đất đƣợc miễn, giảm thuê đất. Loại đất đƣợc miễn

giảm gồm đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ƣơm tạo công

nghệ và ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất

xây dựng cơ sở sản xuất thử nghiệm.

Hai là, quy định thẩm quyền xác nhận diện tích đất để đƣợc miễn,

giảm. Sở KH&CN có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiếp nhận hồ sơ của

ngƣời sử dụng đất khi xác định diện tích đất đƣợc miễn, giảm cho mục đích

KH&CN. Đây là quy định mới tại Nghị định 13/2019, bổ sung trách nhiệm

(thực chất là thẩm quyền) của Sở KH&CN trong việc xác định diện tích đất

đƣợc miễn, giảm cho mục đích KH&CN.

59

Ba là, quy định hồ sơ, thủ tục để đƣợc miễn, giảm. Trƣớc khi Nghị định

123/2017/NĐ-CP đƣợc ban hành, không có quy định cụ thể về hồ sơ, thủ tục để

đƣợc miễn, giảm thuế tiền thuê đất, thuê mặt nƣớc cho doanh nghiệp KH&CN.

Đây là khó khăn cho doanh nghiệp KH&CN khi muốn đƣợc miễn giảm tiền

thuê đất. Ngay cả cơ quan thuế ở địa phƣơng cũng lúng túng vì không biết áp

dụng quy định nào để hƣớng dẫn và giải quyết cho doanh nghiệp KH&CN.

Sau khi có Nghị định 123/2017/NĐ-CP thì hồ sơ, thủ tục đã đƣợc quy định rõ

nên doanh nghiệp KH&CN có cơ sở pháp lý để thực hiện.

Qua khảo sát pháp luật hiện hành về miễn, giảm thuế tiền thuê đất, thuê

mặt nước đối với doanh nghiệp KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, quy định “Sở KH&CN có trách nhiệm phối hợp với cơ quan

tiếp nhận hồ sơ của ngƣời sử dụng đất khi xác định diện tích đất đƣợc miễn,

giảm cho mục đích khoa học và công nghệ” là quy định mới tại Nghị định

13/2019/NĐ-CP. Quy định này đã bổ sung trách nhiệm (thực chất là thẩm

quyền) của Sở KH&CN trong việc xác định diện tích đất đƣợc miễn, giảm

cho mục đích KH&CN. Tuy nhiên, chƣa có văn bản hƣớng dẫn về cách thức

xác định diện tích đất này để thực hiện thuận lợi và thống nhất.

Thứ hai, hệ thống các văn bản quy định về đất đai tƣơng đối phức tạp.

Để triển khai đƣợc thuận lợi và thống nhất quy định miễn giảm thuê đất, thuê

mặt nƣớc cho doanh nghiệp KH&CN thì cần phải rà soát các quy định về

miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nƣớc có liên quan đến doanh nghiệp

KH&CN hiện đang có trong các văn bản pháp luật để đảm bảo: Quy định rõ

những điều kiện mà diện tích đất phải đáp ứng; Quy định rõ điều kiện mà

doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng; Quy định rõ thành phần hồ sơ, các biểu

mẫu trong hồ sơ; Quy định rõ cách thức thực hiện những nội dung, công việc

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình lập, xử lý hồ

sơ. Quy định rõ cách thức xác định diện tích đất sử dụng cho mục đích

KH&CN (Hiện nay chƣa có quy định này).

60

c. Pháp luật về ưu đãi tín dụng

Pháp luật hiện hành về ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp KH&CN

được quy định tại: Nghị định 13/2019/NĐ-CP; Quyết định 1342/QĐ-TTg

ngày 05/08/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ thành lập Quỹ đổi mới công nghệ

quốc gia; Quyết định 1051/QĐ-TTg ngày 03/07/2013 của Thủ tƣớng Chính

phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc

gia; Thông tƣ liên tịch 120/2014/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/08/2014 của

Bộ Tài chính - Bộ KH&CN ban hành hƣớng dẫn quản lý tài chính đối với

Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia; Thông tƣ 06/2014/TT-BKHCN ngày

25/04/2014 của Bộ KH&CN quy định nguyên tắc, tiêu chí xét chọn nhiệm vụ

KH&CN thuộc Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia; Nghị định 23/2014/NĐ-CP

ngày 03/04/2014 của Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của

Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia; Thông tƣ 37/2014/TT-BKHCN ngày

12/12/2014 của Bộ KH&CN quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ

Phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ; Thông tƣ 15/2016/TT-BKHCN ngày

30/6/2016 của Bộ KH&CN ban hành quy định quản lý đề tài nghiên cứu ứng dụng

do Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ; Thông tƣ 40/2014/TT-BKHCN ngày

18/12/2014 của Bộ KH&CN Quy định quản lý nhiệm vụ KH&CN đột xuất có ý

nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ KH&CN tiềm năng do Quỹ

Phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ; Thông tƣ 14/2016/TT-BKHCN ngày

30/6/2016 của Bộ KH&CN về quản lý các hoạt động cho vay từ nguồn vốn

của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia.

Pháp luật về ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp KH&CN đã quy

định các nội dung chủ yếu sau:

Một là, quy định về tài trợ. Doanh nghiệp KH&CN có thể đƣợc nhận

tài trợ từ: (i) Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, (ii) Quỹ phát triển KH&CN

của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ƣơng.

61

Đối với Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Doanh nghiệp KH&CN có

thể đƣợc tài trợ để thực hiện các dự án: (i) Nghiên cứu phát triển công nghệ

mới, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao của doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm

mới, dịch vụ mới; (ii) Ƣơm tạo công nghệ; sản xuất thử nghiệm sản phẩm

mới; (iii) Đào tạo cán bộ KH&CN phục vụ chuyển giao, ứng dụng công nghệ;

(iv) Chuyển giao, hoàn thiện, sáng tạo công nghệ để sản xuất sản phẩm chủ

lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia (Khoản 1, Điều 3, Thông tƣ

06/2014/TT-BKHCN ngày 25/04/2014 của Bộ KH&CN quy định nguyên tắc,

tiêu chí xét chọn nhiệm vụ KH&CN thuộc Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia).

Thủ tục để đƣợc tài trợ thì theo quy định của Hội đồng quản lý quỹ.

Đối với Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, doanh nghiệp KH&CN có

thể đƣợc tài trợ để thực hiện: (i) Nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản; (ii) Nhiệm vụ

nghiên cứu ứng dụng; (iii) Nhiệm vụ KH&CN đột xuất có ý nghĩa quan trọng

về khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ KH&CN tiềm năng [27] (Khoản 1, Điều

3, Nghị định 23/2014/NĐ-CP ngày 3/4/2014 về Điều lệ tổ chức và hoạt động

của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia).

Thủ tục để đƣợc tài trợ: (i) Đối với nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản: thực

hiện theo Thông tƣ 37/2014/TT-BKHCN ngày 12/12/2014 của Bộ KH&CN quy

định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia tài

trợ; (ii) Đối với nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng: thực hiện theo Thông tƣ

15/2016/TT-BKHCN ngày 30/6/2016 của Bộ KH&CN ban hành quy định quản

lý đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ. (iii) Đối

với nhiệm vụ KH&CN đột xuất có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn,

nhiệm vụ KH&CN tiềm năng: thực hiện theo Thông tƣ 40/2014/TT-BKHCN ngày

18/12/2014 của Bộ KH&CN Quy định quản lý nhiệm vụ KH&CN đột xuất có ý

nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ KH&CN tiềm năng do Quỹ

Phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ [10], [13], [11].

62

Hai là, quy định về vay ƣu đãi.

Đối với Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Doanh nghiệp KH&CN có

thể đƣợc Quỹ cho vay ƣu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn đối với

các dự án: (i) Chuyển giao công nghệ đƣợc khuyến khích chuyển giao (gồm

cả chuyển giao công nghệ tại Việt Nam và từ nƣớc ngoài vào Việt Nam); (ii)

Ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; (iii) Phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất,

kinh doanh của doanh nghiệp KH&CN; (iv) Chuyển giao công nghệ phục vụ

phát triển nông nghiệp, nông thôn [7] (Khoản 2, Điều 3, Thông tƣ 06/2014/TT-

BKHCN ngày 25/04/2014 của Bộ KH&CN quy định nguyên tắc, tiêu chí xét

chọn nhiệm vụ KH&CN thuộc Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia).

Thủ tục để đƣợc vay ƣu đãi: theo quy định của Hội đồng quản lý quỹ.

Đối với Quỹ phát triển KH&CN quốc gia: Doanh nghiệp KH&CN có

thể đƣợc vay để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nhằm ứng dụng kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống do tổ chức,

cá nhân đề xuất; đƣợc bảo lãnh vốn vay để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN

chuyên biệt [27] (Khoản 1, Điều 3, Nghị định 23/2014/NĐ-CP ngày 3/4/2014 về

Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia).

Thủ tục để đƣợc vay ƣu đãi: theo Thông tƣ 14/2016/TT-BKHCN ngày

30/6/2016 của Bộ KH&CN về quản lý các hoạt động cho vay từ nguồn vốn

của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia [8].

Qua khảo sát pháp luật hiện hành về ưu đãi tín dụng cho các doanh

nghiệp KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia (Natif) chính thức đi vào

hoạt động từ năm 2015, với số vốn điều lệ dự kiến đƣợc cấp là 1.000 tỷ đồng

mỗi năm nhƣng đến năm 2018, nhƣng Ban quản lý quỹ mới chỉ ký hợp đồng

tài trợ đƣợc cho 27 nhiệm vụ với tổng số kinh phí là 268,1 tỷ đồng. Nguyên

nhân là do Quỹ Natif phải tuân thủ nguyên tắc bảo đảm an toàn vốn, nên hoạt

63

động tài trợ và chi phí quản lý của quỹ bị thu hẹp. Đáng chú ý, trong danh mục

các loại dịch vụ công trong lĩnh vực KH&CN đƣợc Chính phủ ban hành, không

có loại dịch vụ nào phù hợp với hoạt động của Quỹ để quỹ hoạt động theo cơ

chế tự chủ hoàn toàn, hoặc theo mô hình doanh nghiệp công ty TNHH một

thành viên 100% vốn nhà nƣớc... Về mặt pháp lý, hệ thống văn bản về quản lý

và sử dụng quỹ chƣa đầy đủ; thiếu thông tƣ hƣớng dẫn quản lý tài chính đối với

hoạt động tín dụng; không đồng bộ với các văn bản pháp luật (Luật Ngân sách,

Luật Đấu thầu, Nghị định Quản lý tài sản công; Luật Chuyển giao công

nghệ…). Kể từ năm 2018 đến nay, Quỹ Natif đã tạm dừng việc xét chọn và ký

hợp đồng tài trợ mới để xây dựng sửa đổi lại điều lệ hoạt động [59].

Thứ hai, Quỹ Nafosted có địa vị pháp lý nhƣ một đơn vị sự nghiệp,

90% các hoạt động hỗ trợ, tài trợ của quỹ là không hoàn lại; quỹ hoạt động

hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn kinh phí NSNN cấp. Các quy định về Quỹ

Nafosted thì có nhiều nội dung trùng lặp với quy định về các chƣơng trình

KH&CN quốc gia [59].

d. Pháp luật về giao tài sản kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ

KH&CN sử dụng vốn nhà nước

Pháp luật về giao tài sản kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ KH&CN

sử dụng vốn nhà nước cho các doanh nghiệp KH&CN được quy định tại:

Nghị định 13/2019/NĐ-CP; Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của

Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng tài sản đƣợc hình thành thông qua

việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nƣớc.

Pháp luật về giao tài sản kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ

KH&CN sử dụng vốn nhà nước cho các doanh nghiệp KH&CN đã quy định

các nội dung sau:

Một là, quy định về trƣờng hợp đƣợc giao tài sản là kết quả của nhiệm

vụ KH&CN. DN KH&CN đƣợc ƣu tiên giao quyền sở hữu nếu là đơn vị chủ

trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN đó (Điều 22, Nghị định 70/2018/NĐ-CP).

64

Hai là, quy định các nguyên tắc giao tài sản là kết quả của nhiệm vụ

KH&CN. Đối với tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN mà ngân sách nhà

nƣớc chiếm trên 30% thì đơn vị chủ trì đƣợc giao quyền sở hữu nhƣng phải hoàn

trả giá trị tài sản (Điểm c, Khoản 1, Điều 22, Nghị định 70/2018/NĐ-CP). Đối

với tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN mà Nhà nƣớc hỗ trợ từ 30% tổng số

vốn trở xuống thì giao quyền sở hữu không thu hồi phần kinh phí hỗ trợ.

Ba là, quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục để thực hiện giao tài

sản. Bộ trƣởng Bộ KH&CN quyết định đối với nhiệm vụ KH&CN cấp quốc

gia. Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan trung ƣơng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh quyết định đối với nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đƣợc giao quản

lý; nhiệm vụ KH&CN do mình phê duyệt. Ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ chức

quyết định đối với nhiệm vụ KH&CN do mình phê duyệt.

Bốn là, quy định về xác định giá trị của tài sản là kết quả của nhiệm vụ

KH&CN để thực hiện giao quyền. Giá trị của tài sản là kết quả nhiệm vụ

KH&CN đƣợc xác định dựa trên kinh phí đầu tƣ cho nhiệm vụ, giá giao dịch

trên thị trƣờng (nếu có), chính sách, khả năng, nghiên cứu, thƣơng mại hóa

kết quả của nhiệm vụ KH&CN, đặc điểm kỹ thuật, pháp lý, kinh tế của kết

quả nghiên cứu và các yếu tố khác có liên quan.

Năm là, quy định về thanh toán giá trị của tài sản là kết quả của nhiệm

vụ KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN đƣợc giao quyền sở hữu tài sản có nghĩa

vụ hoàn trả giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN theo quy định tại

Quyết định giao tài sản của cơ quan có thẩm quyền.

Sáu là, quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp KH&CN sau khi

nhận quyền sử dụng tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN. Tổ chức, cá

nhân chủ trì có trách nhiệm nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công

nghệ, ứng dụng, thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu nhƣ phƣơng án đã trình

đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Sau 03 năm, kể từ thời điểm quyết định công

65

nhận và giao quyền sử dụng tài sản là kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN

mà không triển khai nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ,

ứng dụng, thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu thì cơ quan, ngƣời có thẩm

quyền xem xét, quyết định giao tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN cho

tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu [31].

Qua khảo sát pháp luật hiện hành về giao tài sản kết quả KH&CN hình

thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước cho các doanh nghiệp

KH&CN có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, chƣa có các văn bản hƣớng dẫn giao quyền sử dụng tài sản,

việc hoàn trả giá trị tài sản và việc phân chia lợi nhuận với nhà nƣớc.

Thứ hai, pháp luật về giao quyền giao tài sản là kết quả hình thành

thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà

nƣớc áp dụng chung cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN, không

có quy định riêng hay ƣu đãi riêng nào cho doanh nghiệp KH&CN. Nhƣ vậy,

thiếu các quy định mang tính ƣu đãi hơn cho doanh nghiệp KH&CN. Ví dụ: Đối

với doanh nghiệp KH&CN, nên quy định thông thoáng hơn về giao tài sản là

kết quả hình thành thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN

sử dụng vốn nhà nƣớc.

đ. Pháp luật về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả

Khoa học và Công nghệ

Pháp luật hiện hành về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết

quả KH&CN cho các doanh nghiệp KH&CN được quy định tại: Nghị định

13/2019/NĐ-CP; Nghị định 134/2016/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật thuế

xuất khẩu nhập khẩu; Thông tƣ 01/2018/TT-BKHĐT ngày 30/03/2018 của Bộ

Kế hoạch và Đầu tƣ ban hành các danh Mục máy móc, thiết bị, phụ tùng thay

thế, phƣơng tiện vận tải chuyên dùng, nguyên liệu, vật tƣ, bán thành phẩm trong

nƣớc đã sản xuất đƣợc; Thông tƣ 14/2017/TT-BKHCN ngày 01/12/2017 của Bộ

66

KH&CN ban hành quy định tiêu chí xác định phƣơng tiện vận tải; máy móc,

thiết bị, phụ tùng, vật tƣ chuyên dùng và danh mục tài liệu, sách báo, tạp chí

khoa học quy định tại khoản 2 Điều 40 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày

01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện

pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.

Pháp luật về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả

KH&CN cho các doanh nghiệp KH&CN đã quy định các nội dung chủ yếu sau:

Một là, quy định về miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Các đối tƣợng

nhập khẩu mà doanh nghiệp KH&CN đƣợc miễn thuế nhập khẩu gồm có: (i)

Nguyên liệu, vật tƣ, linh kiện trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc. Điều 15, Nghị

định 134/2016/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu

quy định: Nguyên liệu, vật tƣ, linh kiện trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc nhập

khẩu để sản xuất của doanh nghiệp KH&CN, tổ chức KH&CN đƣợc miễn

thuế nhập khẩu trong thời hạn 05 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất theo quy

định tại khoản 13 Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Căn cứ để

xác định nguyên liệu, vật tƣ, linh kiện trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc thực

hiện theo quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ. Thông tƣ 01/2018/TT-BKHĐT

ngày 30/ 03 /2018 của Bộ trƣởng Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ ban hành các danh

Mục máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phƣơng tiện vận tải chuyên dùng,

nguyên liệu, vật tƣ, bán thành phẩm trong nƣớc đã sản xuất đƣợc. Các Danh

mục quy định tại Điều 1 Thông tƣ này là căn cứ xác định đối tƣợng miễn thuế

nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số 134/2016/NĐ-CP [28], [4]. (ii) Hàng

hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN. Điều

19, Nghị định 134/2016/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Thuế xuất khẩu,

nhập khẩu quy định: Hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho ƣơm tạo

doanh nghiệp KH&CN đƣợc miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại khoản 21

Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.Căn cứ để xác định máy móc,

67

thiết bị, phụ tùng, vật tƣ chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa

học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo

doanh nghiệp KH&CN, đổi mới công nghệ thực hiện theo quy định của Bộ

KH&CN. Danh mục hoặc tiêu chí xác định tài liệu, sách báo khoa học chuyên

dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát

triển hoạt động ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN, đổi mới

công nghệ thực hiện theo quy định của Bộ KH&CN.

Về hồ sơ, thủ tục để đƣợc miễn thuế nhập khẩu: Đối với nhập khẩu

nguyên liệu, vật tƣ, linh kiện trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc, Doanh nghiệp

KH&CN gửi hồ sơ thông báo Danh mục hàng hóa nhập khẩu miễn thuế đến

Cục Hải quan; sau đó, doanh nghiệp KH&CN lập hồ sơ miễn thuế - là hồ sơ

hải quan theo quy định tại Luật hải quan và các văn bản hƣớng dẫn thi hành

(Điều 30, Điều 31 Nghị định 134/2016/NĐ-CP). Đối với hàng hóa nhập khẩu

để sử dụng trực tiếp cho ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN: Doanh nghiệp

KH&CN lập hồ sơ miễn thuế - là hồ sơ hải quan theo quy định tại Luật hải

quan và các văn bản hƣớng dẫn thi hành (Điều 31 Nghị định 134/2016/NĐ-

CP); kèm theo Văn bản xác nhận danh mục hàng hóa để ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, bộ chủ quản nơi có dự

án, cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN (Điểm b, Khoản 4, Điều 19 Nghị

định 134/2016/NĐ-CP).

Hai là, quy định về việc ƣu tiên, không bị thu phí dịch vụ khi sử dụng

máy móc, trang thiết bị. Doanh nghiệp KH&CN đƣợc ƣu tiên khi sử dụng

máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở

ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của

Nhà nƣớc; không bị thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại

các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo

doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp

68

phát sinh chi phí mua nguyên vật liệu để thực hiện các hoạt động nghiên cứu,

doanh nghiệp chi trả các khoản chi phí phát sinh.

Ba là, quy định về sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp

và các nguồn huy động hợp pháp khác để thƣơng mại hóa kết quả KH&CN.

Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định doanh nghiệp KH&CN đƣợc sử dụng

Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp để chi thƣơng mại hóa kết quả

KH&CN. Thông tƣ 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC ngày 28/6/2016 của Bộ

KH&CN và Bộ Tài chính hƣớng dẫn về nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển

KH&CN của doanh nghiệp thì quy định đƣợc sử dụng Quỹ phát triển KH&CN

của doanh nghiệp để thƣơng mại hóa sản phẩm mới, công nghệ mới [18] (Khoản

6, Điều 8, Thông tƣ liên tịch 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC).

Bốn là, quy định về ƣu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thƣơng mại hóa

kết quả KH&CN, tài sản trí tuệ của Nhà nƣớc. Nội dung và mức hỗ trợ cụ thể

thực hiện theo quy định của Nhà nƣớc về dự án hỗ trợ thƣơng mại hóa kết quả

KH&CN, tài sản trí tuệ.

Năm là, quy định về miễn lệ phí trƣớc bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật về lệ phí trƣớc bạ. Doanh nghiệp

KH&CN đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đƣợc miễn lệ phí trƣớc

bạ [29] (Khoản 30, Điều 9, Nghị định 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 về lệ

phí trƣớc bạ).Tuy nhiên, không phải quyền sử dụng đất nào, nhà nào do doanh

nghiệp KH&CN đăng ký cũng đƣợc miễn phí trƣớc bạ, mà chỉ quyền sử dụng

đất, quyền sở hữu nhà phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học thì mới đƣợc

miễn lệ phí trƣớc bạ [20] (Khoản 30, Điều 5 Thông tƣ 301/2016/TT-BTC ngày

15/11/2016 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn về lệ phí trƣớc bạ).

Sáu là, quy định về xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm

hình thành từ kết quả KH&CN của doanh nghiệp KH&CN. Các bộ, cơ quan

ngang bộ, ƣu tiên xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình thành

69

từ kết quả KH&CN của doanh nghiệp KH&CN trong trƣờng hợp sản phẩm thuộc

danh mục sản phẩm nhóm 2 khi chƣa có quy chuẩn kỹ thuật tƣơng ứng.

Qua khảo sát pháp luật về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại

hóa kết quả KH&CN cho các doanh nghiệp KH&CN đã rút ra một số nhận

xét sau:

Thứ nhất, Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định về miễn thuế xuất khẩu

cho doanh nghiệp KH&CN. Tuy nhiên, các quy định về thuế xuất khẩu không

có quy định nào về miễn thuế xuất khẩu cho đối tƣợng là doanh nghiệp

KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN thực hiện thuế xuất khẩu hoặc đƣợc miễn

giảm thuế xuất khẩu theo quy định chung cho tất cả các đối tƣợng. Nhƣ vậy,

việc quy định ƣu đãi về thuế xuất khẩu đối với doanh nghiệp KH&CN trong

Nghị định 13/2019/NĐ-CP chỉ có giá trị “thông tin để biết”, không có giá trị

“quy định để thực hiện”.

Thứ hai, quy định về ƣu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy

móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm

tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà

nƣớc theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP mới chỉ là quy định “khung”. Trong số

các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo

doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nƣớc thì có đơn vị đƣợc

Ngân sách nhà nƣớc cấp toàn bộ, nhƣng cũng có đơn vị thực hiện theo chế độ

tự chủ. Vì thế việc quy định không thu phí sử dụng sẽ gặp nhiều khó khăn,

khó khả thi trên thực tế.

Thứ ba, quy định về chi từ Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp

KH&CN giữa Nghị định 13/2019/NĐ-CP (“để thƣơng mại hóa kết quả KH&CN”)

không đồng nhất với Thông tƣ 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC (“thƣơng mại hóa

sản phẩm mới, công nghệ mới”). “Kết quả KH&CN” có nội hàm rộng hơn “sản

phẩm mới”. Theo Khoản 2, Điều 3 Nghị định 13/2019/NĐ-CP, kết quả

70

KH&CN đƣợc thể hiện dƣới một trong các hình thức: Sáng chế, giải pháp hữu

ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây

trồng đã đƣợc cấp văn bằng bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí

tuệ hoặc đƣợc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ƣớc quốc tế

mà Việt Nam là thành viên; chƣơng trình máy tính đã đƣợc cấp Giấy chứng

nhận đăng ký quyền tác giả; Giống vật nuôi mới, giống cây trồng mới, giống

thủy sản mới, giống cây lâm nghiệp mới, tiến bộ kỹ thuật đã đƣợc Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận; Kết quả thực hiện nhiệm vụ đã đạt

đƣợc các giải thƣởng về KH&CN do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

chủ trì, phối hợp tổ chức xét tặng giải thƣởng hoặc đồng ý cho tổ chức xét

tặng giải thƣởng theo quy định của pháp luật về giải thƣởng KH&CN; Các kết

quả KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền xác nhận, công nhận theo quy định

của pháp luật; Công nghệ nhận chuyển giao đƣợc cơ quan có thẩm quyền xác

nhận theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, quy định ƣu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thƣơng mại hóa kết

quả KH&CN, tài sản trí tuệ của Nhà nƣớc chỉ là quy định “khung”, quy định

“thông tin để biết”. Để quy định này có thể thực hiện thực trên thực tế thì cần

cụ thể hóa trong các quy định về xét duyệt, tham gia tuyển chọn các dự án hỗ

trợ thƣơng mại hóa kết quả KH&CN, tài sản trí tuệ.

Thứ năm, tiêu chí xác định “đất phục vụ cho mục đích nghiên cứu

khoa học”, “nhà phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học”; thẩm quyền

xác nhận “đất phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học”, “nhà phục vụ

cho mục đích nghiên cứu khoa học” cần phải đƣợc quy định cụ thể thì mới

thực hiện đƣợc.

Thứ sáu, các quy định liên quan đến đất phục vụ cho mục đích KH&CN

đang có nhiều cách diễn đạt khác nhau: Luật đất đai: “đất xây dựng cơ sở

KH&CN” (Điểm d, khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai 2013); “đất xây dựng công

71

trình KH&CN” (Khoản 5, Điều 61 Luật Đất đai 2013); “đất xây dựng công trình

sự nghiệp KH&CN” [49] (Khoản 2, Điều 147 Luật Đất đai 2013); Nghị định

140/2016/NĐ-CP: “đất phục vụ cho các hoạt động trong lĩnh vực KH&CN”

(Khoản 29, Điều 9, Nghị định 140/2016/NĐ-CP); “đất của doanh nghiệp KH&CN”

(Khoản 30, Điều 9, Nghị định 140/2016/NĐ-CP); Nghị định 13/2019/NĐ-CP: “đất

xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp KH&CN” (Khoản 2,

Điều 2, Nghị định 13/2019/NĐ-CP).

Thứ bảy, quy định về việc “các bộ, cơ quan ngang bộ, ƣu tiên xây dựng

quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của

doanh nghiệp KH&CN trong trƣờng hợp sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm

nhóm 2 khi chƣa có quy chuẩn kỹ thuật tƣơng ứng” là rất khó thực hiện nếu

trong hệ thống pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật không quy định

quyền “ƣu tiên” này.

Thứ tám, qua khảo sát các quy định pháp luật về tiêu chuẩn và quy

chuẩn kỹ thuật hiện hành gồm: (i) Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật

năm 2006; (ii) Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ

thuật; (iii) Thông tƣ số 23/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ KH&CN

hƣớng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành quy chuẩn kỹ thuật; (iv) Thông

tƣ số 30/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/ 2011 của Bộ KH&CN sửa đổi, bổ

sung, bãi bỏ một số quy định của Thông tƣ số 23/2007/TT-BKHCN, không có

trƣờng hợp ƣu tiên trong xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Vì vậy cần

có sự bổ sung các trƣờng hợp đƣợc ƣu tiên trong xây dựng quy chuẩn kỹ thuật

quốc gia vào Thông tƣ hƣớng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành quy

chuẩn kỹ thuật [47], [26], [5], [6].

e. Về hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ

Pháp luật hiện hành về hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ

cho các doanh nghiệp KH&CN được quy định tại: Nghị định 13/2019/NĐ-CP;

72

Nghị định 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và

hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật Chuyển giao

công nghệ 2017; Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật

Chuyển giao Công nghệ.

Pháp luật hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ cho các

doanh nghiệp KH&CN đã quy định các nội dung sau:

Một là, quy định về việc doanh nghiệp KH&CN đƣợc Quỹ Đổi mới

công nghệ quốc gia tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ

trợ lãi suất vay. Doanh nghiệp KH&CN đầu tƣ cho cơ sở vật chất - kỹ thuật

hoạt động giải mã công nghệ đƣợc Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia tạo điều

kiện thuận lợi hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay tối đa 50% lãi

suất vay vốn tại ngân hàng thƣơng mại cho vay (Khoản 1, Điều 17 Nghị định

13/2019/NĐ-CP).

Hai là, quy định về việc doanh nghiệp KH&CN đƣợc Quỹ Phát triển

doanh nghiệp nhỏ và vừa cho vay. Doanh nghiệp KH&CN có dự án tham gia

cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị đƣợc Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và

vừa xem xét cho vay theo quy định của pháp luật hiện hành.

Hiện nay, quy định hiện hành là Nghị định 39/2019/NĐ-CP ngày

10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh

nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết

ngành đƣợc vay vốn của Quỹ khi đáp ứng các điều kiện sau: (i) Đáp ứng tiêu

chí doanh nghiệp vừa và nhỏ; (ii) Đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tham gia

dự án, phƣơng án sản xuất, kinh doanh tối thiểu 20% tổng vốn đầu tƣ để

thực hiện dự án, phƣơng án sản xuất, kinh doanh và phải đảm bảo đủ nguồn

vốn để thực hiện dự án, phƣơng án sản xuất, kinh doanh; (iii) Đáp ứng các

quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định này (iv) Có dự án,

phƣơng án sản xuất, kinh doanh khả thi, nằm trong khu vực địa lý của cụm

73

liên kết ngành và có hợp đồng hợp tác, kinh doanh với doanh nghiệp khác

trong cụm liên kết ngành hoặc cùng xây dựng, sử dụng thƣơng hiệu vùng [34]

(Nghị định 39/2019/NĐ-CP).

Ba là, quy định về việc đƣợc hỗ trợ kinh phí, đƣợc nhà nƣớc mua kết quả

tự nghiên cứu. Doanh nghiệp KH&CN tự đầu tƣ nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ sau khi có kết quả đƣợc chuyển giao, ứng dụng hiệu quả trong

thực tiễn, đƣợc cơ quan QLNN về KH&CN công nhận thì đƣợc hỗ trợ kinh

phí từ ngân sách nhà nƣớc; trƣờng hợp kết quả có ý nghĩa quan trọng đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh thì Nhà nƣớc sẽ xem xét

mua kết quả đó (Khoản 3, Điều 17, Nghị định 13/2019/NĐ-CP).

Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp

KH&CN đƣợc Nhà nƣớc xem xét mua theo quy định của pháp luật về mua

sắm sử dụng vốn nhà nƣớc (Khoản 1, Điều 19, Nghị định 76/2018/NĐ-CP

hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển giao Công nghệ).

Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đƣợc cơ quan có

thẩm quyền xem xét hỗ trợ kinh phí thông qua hình thức hỗ trợ kinh phí hoặc hỗ

trợ thông qua nhiệm vụ khoa học và phát triển công nghệ (Khoản 3, Điều 19,

Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển giao Công nghệ).

Pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể về thủ tục, thẩm quyền hỗ trợ

kinh phí, mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Điều 20,

Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển giao Công nghệ).

Tuy nhiên chƣa có quy định cụ thể về phƣơng thức mua, phƣơng thức hỗ trợ.

Phƣơng thức mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đƣợc

thực hiện theo quy định của pháp luật về mua sắm sử dụng vốn nhà nƣớc và

pháp luật khác có liên quan. Phƣơng thức hỗ trợ đƣợc thực hiện theo quy định

của pháp luật KH&CN và các chƣơng trình, đề án liên quan (Khoản 8, Điều 20,

Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển giao Công nghệ).

74

Hệ thống biểu mẫu phục vụ cho việc lập hồ sơ, đánh giá hồ sơ đề nghị

hỗ trợ, đề nghị mua cũng chƣa đƣợc ban hành [32] (Khoản 9, Điều 20, Nghị

định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển giao Công nghệ).

Bốn là, quy định về ƣu tiên cho doanh nghiệp KH&CN trong việc xác

lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lƣu hành sản phẩm hình thành từ

kết quả KH&CN để phát triển sản phẩm mới.

Doanh nghiệp KH&CN đƣợc các cơ quan có thẩm quyền ƣu tiên trong

việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lƣu hành sản phẩm hình

thành từ kết quả KH&CN để phát triển sản phẩm mới (Khoản 4, Điều 17,

Nghị định 13/2019/NĐ-CP).

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí

tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở

hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Quyền tác giả đƣợc bảo

hộ theo cơ chế tự động, có nghĩa là quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm

đƣợc sáng tạo và đƣợc thể hiện dƣới một hình thức vật chất nhất định, mà

không phân biệt nội dung, chất lƣợng, hình thức …, không phụ thuộc vào việc

tác giả đã công bố hay chƣa công bố, đã đăng ký hay chƣa đăng ký. Quyền

liên quan phát sinh từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chƣơng trình

phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chƣơng trình đƣợc mã hoá đƣợc định hình

hoặc thực hiện mà không, cản trở và gây phƣơng hại đến việc tác giả thực

hiện quyền tác giả của mình. Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế,

kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu đƣợc xác lập trên cơ sở

quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục Sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu công

nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý đƣợc xác lập trên cơ sở quyết định của Cục Sở

hữu trí tuệ về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho tổ chức

quản lý chỉ dẫn địa lý. Quyền đối với giống cây trồng đƣợc xác lập khi có

quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nƣớc có thẩm

75

quyền. Qua khảo sát các quy định về cấp văn bằng bảo hộ, giấy chứng nhận

đăng ký chỉ dẫn địa lý của Cục Sở hữu trí tuệ, cấp Bằng bảo hộ giống cây

trồng của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT) thì không thấy quy định

nào về việc ƣu tiên cho doanh nghiệp KH&CN.

Việc công nhận kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

sử dụng ngân sách nhà nƣớc đƣợc thực hiện theo các quy định quản lý nhiệm

vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nƣớc. Việc công nhận kết quả nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ do tổ chức, cá nhân tự đầu tƣ thực hiện

theo quy định tại Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Luật Chuyển

giao công nghệ. Qua khảo sát các quy định về công nhận kết quả nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ, không có quy định nào mang tính ƣu tiên

cho doanh nghiệp KH&CN.

Việc đăng ký lƣu hành sản phẩm đƣợc quy định tại nhiều văn bản quy

phạm pháp luật. Qua khảo sát một số văn bản nhƣ Thông tƣ 32/2018/TT-BYT

ngày 12/11/ 2018 của Bộ Y tế quy định việc đăng ký lƣu hành thuốc, nguyên

liệu làm thuốc; Thông tƣ 07/2002/TT-BYT ngày 30/5/2002 của Bộ Y tế hƣớng

dẫn việc đăng ký lƣu hành sản phẩm trang thiết bị y tế, Nghị định 84/2019/NĐ-

CP ngày 14/11/2019 về quản lý phân bón… thì thấy không có quy định nào

mang tính ƣu tiên cho doanh nghiệp KH&CN [23], [22], [35].

Năm là, về khen thƣởng doanh nghiệp KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN

có thành tích trong hoạt động KH&CN, thƣơng mại hóa sản phẩm hình thành

từ kết quả KH&CN đƣợc vinh danh, khen thƣởng Khoản 5, Điều 17 Nghị

định 13/2019/NĐ-CP).

Qua khảo sát pháp luật hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công

nghệ cho các doanh nghiệp KH&CN có thể rút ra được một số nhận xét sau:

Thứ nhất, quy định về việc Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia tạo điều

kiện thuận lợi hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay cho doanh

76

nghiệp KH&CN đầu tƣ cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt động giải mã công

nghệ là quy định rất khó thực hiện vì không rõ nội hàm của khái niệm “tạo

điều kiện thuận lợi” là gì.

Thứ hai, quy định về việc Doanh nghiệp KH&CN có dự án tham gia

cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị đƣợc Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

xem xét cho vay theo quy định của pháp luật hiện hành là quy định “thông tin

để biết”; không phải là quy định để thực hiện. Vì vậy thực tế quy định này

không có giá trị “quy định để thực hiện” mà chỉ có giá trị “thông tin để biết”.

Thứ ba, quy định về doanh nghiệp KH&CN đƣợc hỗ trợ kinh phí từ

ngân sách, đƣợc nhà nƣớc mua kết quả tự nghiên cứu tuy đã đƣợc quy định về

hồ sơ, thủ tục cụ thể tại các Điều 18, 19, 20 Nghị định 76/2018/NĐ-CP hƣớng

dẫn thi hành Luật Chuyển giao công nghệ song vẫn chƣa thể thực hiện đƣợc

trên thực tế. Lý do là vì: (i) phƣơng thức mua, phƣơng thức hỗ trợ chƣa đƣợc

Bộ Tài chính, Bộ KH&CN hƣớng dẫn cụ thể; (ii) hệ thống biểu mẫu phục vụ

cho việc lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ, đề nghị mua kết quả đến nay vẫn chƣa đƣợc

Bộ KH&CN ban hành.

Thứ tư, quy định về ƣu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ,

công nhận, đăng ký lƣu hành sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN để

phát triển sản phẩm mới là quy định rất khó thực hiện do chƣa rõ nội hàm của

khái niệm “ƣu tiên” là gì.

Thứ năm, quy định “doanh nghiệp KH&CN có thành tích trong hoạt

động KH&CN, thƣơng mại hóa sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN

đƣợc vinh danh, khen thƣởng” cũng là dạng quy định “thông tin để biết”.

Thực tế các quy định về khen thƣởng trong lĩnh vực KH&CN không quy định

khen thƣởng riêng cho doanh nghiệp KH&CN mà quy định chung cho các tổ

chức, cá nhân. Các tổ chức, cá nhân này nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện

thì đƣợc vinh danh, khen thƣởng.

77

2.1.2.4. Pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ

Pháp luật hiện hành về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN được quy định tại: Nghị định 95/2017/NĐ-CP ngày 16/08/2017 của

Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ

KH&CN; Quyết định số 1096/QĐ-BKHCN ngày 27/4/2018 của Bộ KH&CN

ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Cục Phát triển thị trƣờng và doanh

nghiệp KH&CN; Thông tƣ 29/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 15/10/2014

của Bộ KH&CN, Bộ Nội vụ hƣớng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về KH&CN thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Pháp luật về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đã

quy định các nội dung chủ yếu như sau:

Một là, quy định về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

ở Trung ƣơng.

Bộ KH&CN có nhiệm vụ xây dựng, hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện cơ

chế, chính sách khuyến khích, phát triển hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN, thành lập và phát triển doanh nghiệp KH&CN [30] (điểm h, khoản

8, Điều 2 Nghị định 95/2017/NĐ-CP). Cục Phát triển thị trƣờng và doanh

nghiệp KH&CN là tổ chức trực thuộc Bộ KH&CN, giúp Bộ trƣởng thực hiện

chức năng quản lý nhà nƣớc doanh nghiệp KH&CN. Cục Phát triển thị trƣờng

và doanh nghiệp KH&CN có nhiệm vụ: (i) Nghiên cứu, xây dựng trình Bộ

trƣởng cơ chế, chính sách, chiến lƣợc phát triển, chƣơng trình, kế hoạch dài

hạn, 05 năm, hằng năm, đề án, dự án và dự thảo các văn bản pháp luật về phát

triển doanh nghiệp KH&CN; (ii) Hƣớng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện

các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lƣợc, kế hoạch, chƣơng trình,

đề án, dự án về phát triển doanh nghiệp KH&CN sau khi đƣợc cấp có thẩm

78

quyền ban hành, phê duyệt; (iii) Hƣớng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện

chứng nhận doanh nghiệp KH&CN; hƣớng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN

tiếp cận, khai thác, sử dụng các loại quỹ, nguồn tài chính, tín dụng; (iv) Hƣớng

dẫn và tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp

KH&CN tại các viện nghiên cứu, trƣờng đại học, tổ chức KH&CN, các doanh

nghiệp và đầu mối, cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; (v) Chủ trì tổ chức

thực hiện hoạt động nghiên cứu, dự án liên quan đến phát triển doanh nghiệp

KH&CN; (vi) Quản lý dữ liệu về doanh nghiệp KH&CN, cơ sở ƣơm tạo

doanh nghiệp KH&CN trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao. Đơn vị

giúp Cục trƣởng thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về doanh nghiệp

KH&CN là Phòng Ƣơm tạo và Phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Bộ Tài chính có nhiệm vụ chỉ đạo, hƣớng dẫn cơ quan thuế, cơ quan tài

chính các địa phƣơng thực hiện ƣu đãi cho doanh nghiệp KH&CN; Kiến nghị

và đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về giải pháp để tháo gỡ vƣớng mắc

trong quá trình thực hiện chính sách ƣu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, ƣu tiên xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc

gia đáp ứng yêu cầu phát triển doanh nghiệp KH&CN; chỉ đạo Quỹ phát triển

doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ phát triển KH&CN của bộ, ngành thực hiện hỗ

trợ doanh nghiệp KH&CN.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính

sách tín dụng đầu tƣ đối với doanh nghiệp KH&CN theo quy định của pháp

luật. Đề xuất với cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các vƣớng mắc, khó

khăn trong quá trình thực hiện các chính sách ƣu đãi tín dụng đối với doanh

nghiệp KH&CN.

Hai là, quy định về tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

ở địa phƣơng.

UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về doanh nghiệp

79

KH&CN trên địa bàn. UBND tỉnh có trách nhiệm ban hành chƣơng trình, kế

hoạch phát triển doanh nghiệp KH&CN cho từng giai đoạn và bố trí kinh phí

thực hiện; Chỉ đạo Sở KH&CN thực hiện công bố công khai quy trình, thủ

tục, mẫu biểu đăng ký chứng nhận doanh nghiệp KH&CN trên Trang thông

tin điện tử của cơ quan; hàng năm, báo cáo bằng văn bản về tình hình đăng ký

chứng nhận doanh nghiệp KH&CN và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh

của doanh nghiệp KH&CN tại địa phƣơng về Cục Phát triển thị trƣờng và

doanh nghiệp KH&CN; Chỉ đạo các sở, ngành liên quan, các Quỹ phát triển

KH&CN của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (nếu có) thực hiện chính

sách ƣu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp thực hiện dự án

đầu tƣ mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quy

định tại Nghị định này; Ƣu tiên cho thuê đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp

nhất theo quy định; bố trí quỹ đất cho doanh nghiệp KH&CN trong phạm vi

của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất tại địa phƣơng.

Sở KH&CN là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có

chức năng tham mƣu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nƣớc về

doanh nghiệp KH&CN. Sở KH&CN có nhiệm vụ hƣớng dẫn, kiểm tra hoạt

động các doanh nghiệp KH&CN tại địa phƣơng; Hƣớng dẫn các tổ chức, cá

nhân trong hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; hƣớng dẫn việc thành

lập và chứng nhận doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn theo quy định của pháp

luật; việc thành lập và phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn [17].

2.1.2.5. Pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ

Một nội dung không thể thiếu đƣợc của QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN là việc thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp kiểm tra thực hiện pháp

luật về doanh nghiệp KH&CN và xử lý vi phạm.

80

Tuy nhiên, khảo sát các quy định hiện hành thì thấy rằng đây là một

khoảng trống pháp lý. Chƣa có quy định nào về vi phạm và xử lý vi phạm

pháp luật về doanh nghiệp KH&CN.

Việc quy định về hành vi vi phạm và xử lý vi phạm là cần thiết trong

quản lý nhà nƣớc đối với một lĩnh vực, một đối tƣợng cụ thể. Chính vì thế,

cần sớm bổ sung quy định về vi phạm và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp

luật đối với doanh nghiệp KH&CN.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa

2.2.1.1. Thực hiện pháp luật về ươm tạo, công nhận doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ

Tại Thanh Hóa, việc hình thành doanh nghiệp KH&CN đƣợc bắt đầu

tƣơng đối muộn (bắt đầu từ năm 2014), song tốc độ phát triển tƣơng đối

nhanh. Đến nay, toàn tỉnh đã 24 có doanh nghiệp KH&CN. Trong đó:

- Phân theo loại hình doanh nghiệp KH&CN: Có 04 doanh nghiệp

thành lập mới (khởi nghiệp), 20 doanh nghiệp chuyển đổi sau một thời gian

hoạt động.

- Phân theo lĩnh vực SXKD: Nông nghiệp: 6; Công nghiệp: 13 (công

nghệ thông tin: 3); Y dƣợc: 4.

- Phân theo nguồn gốc tài chính tạo ra kết quả KH&CN để sản xuất

sản phẩm và thương mại hóa: Có 9 doanh nghiệp KH&CN đƣợc hình thành

trên cơ sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN; 15 doanh

nghiệp KH&CN còn lại đƣợc hình thành do doanh nghiệp tự bỏ vốn nghiên

cứu, tiếp thu làm chủ công nghệ.

81

Các doanh nghiệp KH&CN sau khi đƣợc công nhận đã tổ chức triển

khai hiệu quả các dự án sản xuất kinh doanh sản phẩm, hàng hóa từ kết quả

KH&CN; tăng cƣờng đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đào tạo nguồn

nhân lực KH&CN nâng cao năng lực KH&CN; tổ chức nghiên cứu, tiếp thu

ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; hoàn thiện, đổi

mới công nghệ, thiết bị phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lƣợng, giá trị

gia tăng, khả năng cạnh tranh sản phẩm hàng hóa trên thị trƣờng, góp phần

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp.

2.2.1.2. Thực hiện pháp luật về hỗ trợ, ưu đãi cho doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ

Tuy có nhiều nội dung hỗ trợ, ƣu đãi nhƣng đến nay toàn tỉnh mới chỉ

có 3 doanh nghiệp KH&CN đủ điều kiện và đã đƣợc thụ hƣởng chính sách ƣu

đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; 01 doanh nghiệp KH&CN đƣợc ƣu đãi về

miễn tiền thuê đất.

Nguyên nhân chính là do điều kiện đƣợc hỗ trợ ƣu đãi về thuế thu nhập

doanh nghiệp ngặt nghèo. Đối với chính sách ƣu đãi về miễn tiền thuê đất,

mặt nƣớc: Từ năm 2017 trở về trƣớc, thủ tục để đƣợc thụ hƣởng ƣu đãi còn

khó khăn, phức tạp và thiếu văn bản hƣớng dẫn cụ thể. Trƣớc 01/01/2018

(thời điểm Nghị định số 123/2017/NĐ-CP có hiệu lực), chính sách miễn tiền

thuê đất chỉ áp dụng đối với diện tích đất sử dụng cho mục đích KH&CN theo

quy hoạch đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt và để thụ hƣởng chính sách,

doanh nghiệp KH&CN phải thiết lập hồ sơ dự án đầu tƣ để xin cấp Giấy

chứng nhận đầu tƣ. Giấy chứng nhận Doanh nghiệp KH&CN không thay thế

Giấy chứng nhận đầu tƣ. Do đó, các doanh nghiệp chủ yếu trong tình trạng

“nghiên cứu” chứ chƣa có động thái thiết lập hồ sơ thủ tục để hƣởng ƣu đãi.

Ngày 14/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2017/NĐ-CP sửa

đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất,

82

thu tiền thuê đất, thuê mặt nƣớc. Các doanh nghiệp KH&CN trong cả nƣớc

nói chung và doanh nghiệp Thanh Hóa nói riêng đã quan tâm và chuẩn bị xúc

tiến các thủ tục để đƣợc hƣởng ƣu đãi này.

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 có quy định Nhà nƣớc

có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nghiên cứu, đổi mới công nghệ,

tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện, làm chủ công nghệ. Các nội dung này đƣợc

quy định chi tiết tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tuy nhiên, để các chính sách này đi vào cuộc sống, cần có các văn bản hƣớng

dẫn của Bộ chuyên ngành.

Ngoài các chính sách hỗ trợ, ƣu đãi tại các văn bản trên, Nhà nƣớc cũng

có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp ƣơm tạo, hoàn thiện làm chủ công nghệ, trực

tiếp sản xuất sản phẩm từ kết quả KH&CN làm cơ sở thành lập doanh nghiệp

KH&CN và hoàn thiện công nghệ tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên

thị trƣờng, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, phát triển bền vững doanh

nghiệp thông qua cơ chế thực hiện nhiệm vụ KH&CN thuộc các chƣơng trình

KH&CN quốc gia: Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và

tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm

(Chƣơng trình 592); Chƣơng trình đổi mới công nghệ quốc gia đến 2020;

Chƣơng trình phát triển thị trƣờng KH&CN đến năm 2020. Đến nay, đã có 9

doanh nghiệp Thanh Hóa đăng ký tham gia dự án thuộc các chƣơng trình nêu

trên; Bộ KH&CN đã phê duyệt đề xuất đặt hàng 7 dự án; phê duyệt hỗ trợ cho

04 dự án với tổng kinh phí gần 30 tỷ đồng.

2.2.1.3. Thực hiện pháp luật về ưu đãi cho doanh nghiệp Khoa học và

Công nghệ theo quy định của Tỉnh

Tại Thanh Hóa, chỉ đến cuối năm 2017 mới có một chính sách riêng

về KH&CN, đó là: “Chính sách khuyến khích phát triển KH&CN trở thành

83

khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến năm

2020” ban hành theo Nghị quyết số 81/2017/NQ-HĐND ngày 07/12/2017

của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Theo chính sách này, các doanh

nghiệp của tỉnh sẽ đƣợc hỗ trợ cho các nội dung nghiên cứu, ứng dụng và

chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật; nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới;

đổi mới công nghệ - thiết bị; phát triển sản xuất theo hƣớng ứng dụng công

nghệ cao, theo chuỗi giá trị, trên quy mô lớn; nâng cao năng lực hoạt động

KH&CN (phòng thí nghiệm, phân tích, kiểm nghiệm, kiểm định, hiệu chuẩn,

thử nghiệm sản phẩm trực thuộc doanh nghiệp). Doanh nghiệp, hợp tác xã,

tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân ứng dụng công nghệ cao, quy trình thực

hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP hoặc GlobalGAP) trên diện tích

trồng cam, bƣởi từ 50 ha trở lên thì đƣợc hỗ trợ 30% giá trị hợp đồng chuyển

giao công nghệ, chi phí xây dựng nhãn hàng hóa, công nhận VietGAP hoặc

GlobalGAP, xây dựng và công bố tiêu chuẩn cho sản phẩm, dán tem truy

xuất nguồn gốc, tối đa 6 tỷ đồng. Hiện đã có 3 doanh nghiệp đề nghị thụ

hƣởng chính sách, nhiều doanh nghiệp khác đang trong quá trình nghiên

cứu, thiết lập hồ sơ để đƣợc hỗ trợ [40].

Ngoài chính sách trên, tỉnh Thanh Hóa có cơ chế hỗ trợ các doanh

nghiệp thông qua thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh. Giai đoạn 2011-

2018, đã có 28 doanh nghiệp triển khai thành công và đăng ký kết quả 34

nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh, NSNN hỗ trợ trên 30 tỷ đồng. Quỹ phát triển

KH&CN đƣợc thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2007. Đến nay đã có 29

doanh nghiệp đƣợc vay vốn để đổi mới công nghệ - thiết bị. Nhiều doanh

nghiệp cũng đã tự đầu tƣ kinh phí tổ chức nghiên cứu và tiếp nhận chuyển

giao công nghệ, trực tiếp sản xuất, thƣơng mại hóa sản phẩm KH&CN trên

các lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp, công nghiệp- xây dựng … Kết quả thực

hiện các nhiệm vụ KH&CN đã tạo trên 100 loại sản phẩm, trong đó có gần 20

84

loại sản phẩm công nghiệp; trên 60 loại giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản;

nhiều loại phân bón, chế phẩm sinh học…

Đặc biệt, nhằm khuyến khích phát triển doanh nghiệp KH&CN, hệ

sinh thái khởi nghiệp ĐMST trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, ngày 17/12/2017,

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt “Chương trình Hỗ trợ phát

triển Doanh nghiệp KH&CN và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thanh

Hóa, giai đoạn 2017-2020”. Mục tiêu Chƣơng trình này là hỗ trợ hoàn

thiện, làm chủ công nghệ để thành lập mới ít nhất 15 doanh nghiệp KH&CN

và hoàn thiện công nghệ tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị

trƣờng cho 15 doanh nghiệp KH&CN đã đƣợc thành lập thông qua thực hiện

các dự án KH&CN; hình thành và phát triển 10 doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐMST; hằng năm, hỗ trợ các cá nhân, nhóm cá nhân, doanh nghiệp khởi

nghiệp tham gia thực hiện ít nhất 1 dự án khởi nghiệp ĐMST từ các đề án,

chƣơng trình KH&CN của TW và ít nhất 3 dự án khởi nghiệp ĐMST từ các

đề án, chƣơng trình của tỉnh.

Kết quả thực hiện các cơ chế, chính sách nêu trên đã và đang giúp các

doanh nghiệp Thanh Hóa nghiên cứu, tiếp thu ứng dụng các tiến bộ khoa học

và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; đổi mới công nghệ, thiết bị nâng cao chất

lƣợng, giá trị gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Đồng

thời, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ƣơm tạo, hoàn thiện công nghệ, trực

tiếp sản xuất và thƣơng mại hóa các sản phẩm từ kết quả KH&CN, hình thành

nên các doanh nghiệp KH&CN.

2.2.1.4. Thực hiện pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về

Khoa học và Công nghệ

UBND tỉnh là cơ quan có chức năng quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực

KH&CN, trong đó có doanh nghiệp KH&CN.

Sở KH&CN đƣợc giao chức năng, nhiệm vụ tham mƣu cho UBND tỉnh

thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

85

Phòng Phát triển Tiềm lực KH&CN (trực thuộc Sở KH&CN) là phòng

chuyên môn đƣợc giao nhiệm vụ QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN. Biên

chế hiện tại của Phòng PTTL KH&CN gồm 4 ngƣời: 1 Trƣởng phòng, 1 Phó

trƣởng phòng, 2 chuyên viên. Phòng Phát triển Tiềm lực KH&CN phân công

01 cán bộ (Phó trƣởng phòng) trực tiếp phụ trách công tác QLNN về DN

KH&CN trên địa bàn tỉnh.

Ở các Sở, ngành cấp tỉnh khác không có bộ phận hoặc cán bộ theo dõi

về doanh nghiệp KH&CN.

2.2.1.5. Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực doanh

nhiệm Khoa học và Công nghệ

Trong giai đoạn 2015 - 2019, Sở KH&CN đã tổ chức thanh tra trong

lĩnh vực KH&CN đối với hơn 500 tổ chức, cá nhân, phát hiện và xử lý vi

phạm đối với hơn 50 cơ sở. Tuy nhiên, không thực hiện thanh tra, kiểm tra

đối với doanh nghiệp KH&CN.

2.2.2. Những hạn chế và kinh nghiệm rút ra từ thực hiện pháp luật

về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa

bàn tỉnh Thanh Hóa

2.2.2.1. Hạn chế trong thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

- Chưa có cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN được thành lập theo

quy định của pháp luật về thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.

Qua khảo sát các doanh nghiệp KH&CN, nguyên nhân là do các quy định về

thành lập cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN còn chƣa thực sự rõ ràng.

Các cơ chế hỗ trợ cho cơ sở ƣơm tạo DN KH&CN chƣa hấp dẫn, chƣa đủ để

khuyến khích các chủ thể thành lập, vận hành cơ sở ƣơm tạo.

- Số lượng doanh nghiệp KH&CN được công nhận theo pháp luật về

công nhận doanh nghiệp KH&CN còn ít: Mặc dù đến năm 2020 Thanh Hóa

đã có 24 doanh nghiệp KH&CN, nhiều thứ 3 trong cả nƣớc (chỉ sau Hà Nội,

86

Thành phố Hồ Chí Minh) song nếu so với số lƣợng trên 11 nghìn doanh

nghiệp của tỉnh đang hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp KH&CN còn quá thấp.

Thực tế ở Thanh Hóa cũng là thực tế ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc.

Chẳng hạn ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có khoảng 500 doanh nghiệp đủ khả

năng đáp ứng các tiêu chí để đƣợc công nhận là doanh nghiệp khoa học - công

nghệ (DN KHCN). Trong khi, hiện chỉ có 4 DN đƣợc công nhận gồm: Công

ty CP KHCN Việt Nam (Busadco); Công ty CP Công nghệ Việt - Séc; Công

ty TNHH Quốc tế Troy và Công ty TNHH sản xuất thƣơng mại Đại Nam. Rất

nhiều DN khác, dù đã đƣợc Sở KH&CN khảo sát và xác nhận đủ điều kiện để

trở thành DN KHCN nhƣng các DN này lại không mặn mà trong việc làm thủ

tục để đƣợc chứng nhận.

Qua khảo sát các chủ doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn Thanh Hóa,

nguyên nhân chủ yếu là do bản chất của hoạt động đầu tƣ sản xuất, kinh

doanh sản phẩm, hàng hóa có từ kết quả KH&CN mang tính rủi do. Các

doanh nghiệp của tỉnh phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tiềm lực tài

chính yếu nên không dám mạnh dạn đầu tƣ cho KH&CN. Bên cạnh đó, pháp

luật về ƣu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN chƣa thực sự hấp dẫn.

- Tỷ lệ doanh nghiệp KH&CN được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ theo pháp

luật về ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước cho doanh nghiệp KH&CN còn thấp: đến

nay Thanh Hóa mới có 03 doanh nghiệp KH&CN đƣợc thụ hƣởng chính sách

ƣu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; 01 doanh nghiệp KH&CN đƣợc ƣu đãi

về miễn tiền thuê đất.

Thực trạng ở Thanh Hóa đã phản ảnh tình hình chung của cả nƣớc. Theo

số liệu báo cáo của các sở KH&CN, thời gian qua, việc tiếp cận các chính sách

ƣu đãi, hỗ trợ của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN phần lớn còn khó

khăn. Trong số 386 doanh nghiệp KH&CN trong cả nƣớc, mới có 53 doanh

nghiệp đƣợc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, 13 doanh nghiệp đƣợc

miễn, giảm tiền thuê đất, 9 doanh nghiệp đƣợc vay vốn tín dụng ƣu đãi.

87

Theo chúng tôi, nguyên nhân là do pháp luật về hỗ trợ, ƣu đãi của nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN chƣa thực sự hấp dẫn. So với một số ƣu

đãi khác thuộc các lĩnh vực công nghệ thông tin, giống cây trồng, vật nuôi...

thì ƣu đãi để khuyến khích phát triển doanh nghiệp KH&CN không vƣợt trội.

Quy định về điều kiện, thủ tục để đƣợc thụ hƣởng một số chính sách ƣu đãi

vẫn còn ngặt nghèo, đặc biệt là chính sách ƣu đãi về thuế thu nhập doanh

nghiệp ... Bên cạnh đó, một số quy định của nhà nƣớc có tác dụng gián tiếp hỗ

trợ thúc đẩy thị trƣờng công nghệ, thƣơng mại hóa sản phẩm KH&CN nhƣ:

Xác nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ không sử dụng NSNN; giao quyền sở

hữu, sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ sử dụng NSNN gặp rất nhiều khó

khăn, bất cập trong quá trình thực hiện, do đó khó đi vào cuộc sống...

- Một số doanh nghiệp KH&CN sau khi đã được công nhận là doanh

nghiệp KH&CN hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn

Tại Thanh Hóa đến nay 01 doanh nghiệp KH&CN đã ngừng hoạt

động; 01 doanh nghiệp phải chuyển đổi phát triển sản phẩm KH&CN mới.

Qua khảo sát cho thấy, nguyên nhân chính là do sản phẩm hàng hóa có từ

kết quả KH&CN thƣờng là sản phẩm mới, để phát triển đƣợc thị trƣờng đòi

hỏi không chỉ về mặt chất lƣợng mà còn phải làm tốt nhiều vấn đề khác

trong kinh doanh thƣơng mại nhƣ: Bảo đảm các nguồn lực (nhân lực, tài

chính...); quảng bá, tiếp thị sản phẩm ... Quá trình này không tránh khỏi

những khó khăn, rủi ro nhất định mà không phải doanh nghiệp nào cũng có

thể vƣợt qua đƣợc.

2.2.2.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về

quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ tại Thanh Hóa

Thứ nhất, phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính

quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về

doanh nghiệp KH&CN. Những năm qua, đƣợc sự quan tâm và chỉ đạo quyết

88

liệt của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh nên hoạt động phát triển doanh

nghiệp KH&CN tại Thanh Hóa đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt,

Kế hoạch hành động của UBND tỉnh Thanh Hóa thực hiện khâu đột phá về

nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học

- kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định mục tiêu đến năm 2020,

Thanh Hóa hình thành và hoạt động có hiệu quả ít nhất 30 doanh nghiệp

KH&CN. Đây không chỉ là thể hiện sự quan tâm, mà còn thể hiện rõ quan

điểm lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Tỉnh về hoạt động KH&CN, trong đó có

nội dung về tăng cƣờng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Thứ hai, cần cụ thể hóa pháp luật về doanh nghiệp KH&CN thành các

chương trình đề án, dự án, chính sách cụ thể về phát triển doanh nghiệp

KH&CN cho phù hợp với điều kiện của địa phương

Theo hƣớng này, ngoài việc đẩy mạnh hƣớng dẫn các doanh nghiệp

tham gia các nhiệm vụ KH&CN thuộc các chƣơng trình KH&CN quốc gia,

hoặc các chƣơng trình KH&CN trọng điểm của tỉnh, Sở KH&CN Thanh Hóa

đang tích cực phối hợp với các ngành, địa phƣơng, cộng đồng doanh nghiệp

Thanh Hóa triển khai thực hiện “Chính sách khuyến khích phát triển KH&CN

trở thành khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến

năm 2020” và “Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và Khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2017-2020”. Cơ chế

khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ cho KH&CN nên thực hiện thông qua triển

khai thực hiện các chƣơng trình, dự án cụ thể là thích hợp nhất.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần được quan tâm hơn

và nên cải tiến, lựa chọn hình thức phù hợp với từng đối tượng để hiệu quả hơn

Đây là nội dung luôn đƣợc đề cập, tuy nhiên, không phải chính sách nào,

nơi nào, lúc nào cũng đƣợc tuyên truyền, phổ biến một cách hiệu quả. Theo

89

kinh nghiệm của Thanh Hóa, cần phối hợp nhiều hình thức thông tin, tuyên

truyền phù hợp cho từng đối tƣợng: Đối với cộng đồng doanh nghiệp, cần tăng

cƣờng tuyên truyền qua kênh truyền hình và mạng thông tin điện tử (website)

kết hợp phát hành tờ rơi và hƣớng dẫn trực tiếp; đối với các nhà khoa học, nhà

quản lý, có thể phát hành sổ tay hƣớng dẫn về chính sách phục vụ tra cứu...

Thứ tư, phải tổ chức tốt các hoạt động hướng dẫn trực tiếp để các doanh

nghiệp có điều kiện tiếp cận, nắm bắt được pháp luật về doanh nghiệp KH&CN,

đặc biệt là các cơ chế, chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN

Thực tế, những năm gần đây, Thanh Hóa đã tổ chức nhiều cuộc hội

nghị, hội thảo nhằm tạo diễn đàn cho các doanh nghiệp trong tỉnh tiếp cận với

các cơ chế, chính sách của nhà nƣớc về hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KH&CN,

đổi mới công nghệ, với sự tham gia truyền đạt, hƣớng dẫn nhiệt tình của cán bộ

các cơ quan có liên quan thuộc Bộ KH&CN. Đồng thời, phải xây dựng đƣợc có

đội ngũ cán bộ có năng lực, có trách nhiệm và tâm huyết đồng hành cùng với

các doanh nghiệp, hỗ trợ, giúp đỡ, tƣ vấn cho các doanh nghiệp. Và phải đƣợc

hoạt động theo phƣơng châm “chủ động tìm đến doanh nghiệp” chứ không

thụ động chờ các doanh nghiệp tìm đến.

Bên cạnh đó, cũng rất cần tạo một diễn đàn giúp các doanh nghiệp

trong ngoài tỉnh thƣờng xuyên trao đổi thông tin, kinh nghiệm, cùng hợp tác

phát triển. “Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và Khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2017-2020” đã xác định

nội dung thành lập Trung tâm hỗ trợ pháp lý, tƣ vấn khởi nghiệp và Câu lạc

bộ doanh nghiệp KH&CN thuộc Hiệp hội doanh nghiệp Thanh Hóa để hỗ trợ

pháp lý, tƣ vấn phát triển doanh nghiệp KH&CN và khởi nghiệp ĐMST; tạo

diễn đàn để các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân thông tin, trao đổi kinh

nghiệm trong ƣơm tạo, thành lập và phát triển doanh nghiệp KH&CN, doanh

nghiệp khởi nghiệp ĐMST.

90

Ngoài ra, trên thực tế có nhiều doanh nghiệp tự nghiên cứu, ƣơm tạo

làm chủ công nghệ và tổ chức sản xuất sản phẩm hàng hóa sử dụng nguồn

kinh phí ngoài ngân sách. Đây là nhóm doanh nghiệp có số lƣợng tiềm năng

lớn hơn nhiều so với nhóm doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có

sử dụng ngân sách nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc xây dựng hồ sơ đề nghị cơ quan

nhà nƣớc xác nhận kết quả tự nghiên cứu không sử dụng ngân sách nhà nƣớc

không phải là dễ dàng đối với doanh nghiệp. Do đó, ngoài việc đẩy mạnh

tuyên truyền phổ biến pháp luật quy định về vấn đề này (trong đó có theo

Thông tƣ số 02/2015/TT-BKHCN ngày 06/3/2015), rất cần có cán bộ chuyên

trách, nắm vững kiến thức về quản lý nhiệm vụ KH&CN vừa phải có kinh

nghiệm thực tiễn về hoạt động SXKD của doanh nghiệp để hƣớng dẫn cho

doanh nghiệp lập hồ sơ nhanh, đúng và hiệu quả.

2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN và thực tiễn áp dụng có những ƣu điểm và nhƣợc

điểm sau đây:

2.3.1. Những ưu điểm

Thứ nhất, đã hình thành hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN để làm cơ sở pháp lý thực hiện mục tiêu xây dựng và phát

triển doanh nghiệp KH&CN

Trong hệ thống pháp luật này, Nghị định 13/2019/NĐ-CP đóng vai trò

nhƣ một “Luật” về doanh nghiệp KH&CN. Ngoài ra, các nội dung liên quan

đến doanh nghiệp KH&CN còn đƣợc quy định tại các Luật, Nghị định, Thông

tƣ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.

Thứ hai, nội dung của hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN đã quy định được những vấn đề cơ bản nhất nhằm đạt mục tiêu phát

triển doanh nghiệp KH&CN

91

Các nội dung của hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN hiện hành gồm có: ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; công nhận

doanh nghiệp KH&CN; các ƣu đãi hỗ trợ đối với doanh nghiệp KH&CN; tổ

chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Thứ ba, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN hiện hành cũng

đã được xây dựng và ban hành theo hướng cụ thể hóa, chi tiết hơn trước. Thủ tục

cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN đƣợc cải tiến theo hƣớng đơn giản,

hiệu quả, dễ thực hiện, dễ kiểm tra hơn; các ƣu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN

quy định cụ thể hơn. Các quy phạm về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ

quan quản lý đƣợc phân định ngày một rành mạch, rõ ràng hơn;

Thứ tư, hầu hết các nội dung pháp luật về KH&CN đều có quy định về

trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện.

Hầu hết các nội dung về ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; công nhận

doanh nghiệp KH&CN; các ƣu đãi hỗ trợ đối với doanh nghiệp KH&CN đều

đƣợc quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện.

Thứ năm, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp KH&CN đã là cơ sở

pháp lý để hình thành nên một cộng đồng doanh nghiệp KH&CN ở nước ta

Với hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN này,

đã hình thành nên đƣợc gần 400 doanh nghiệp KH&CN. Trong đó nhiều

doanh nghiệp KH&CN đã hoạt động có hiệu quả, góp phần không nhỏ vào

phát triển KH&CN, phát triển kinh tế - xã hội.

2.3.2. Những nhược điểm và nguyên nhân

Bên cạnh những ƣu điểm nhƣ đã phân tích ở trên, pháp luật về QLNN

đối với doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số nhƣợc

điểm nhƣ sau:

Một là, một số văn bản quy phạm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN còn chồng chéo, thiếu sự thống nhất

Quy định về khái niệm “Cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN” chƣa

92

có sự thống nhất giữa Luật Chuyển giao công nghệ 2017, Thông tƣ 16/2014/TT-

BKHCN ngày 13/6/2014 của Bộ KH&CN quy định điều kiện thành lập,

hoạt động tổ chức trung gian của thị trƣờng KH&CN, Thông tƣ 19/2016/TT-

BKHCN quy định việc tổ chức quản lý Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm.

Hệ thống văn bản về quản lý và sử dụng quỹ đổi mới công nghệ quốc

gia không đồng bộ với các văn bản pháp luật: Luật Ngân sách, Luật Đấu thầu,

Nghị định Quản lý tài sản công; Luật Chuyển giao công nghệ….

Các quy định liên quan đến đất phục vụ cho mục đích KH&CN đang có

nhiều cách diễn đạt khác nhau trong Luật đất đai, Nghị định 140/2016/NĐ-

CP, Nghị định 13/2019/NĐ-CP.

Hai là, pháp luật QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chưa kịp điều

chỉnh một số nội dung trong thực tiễn QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

Không có quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự thủ tục thành lập cơ

sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN mà áp dụng quy định chung cho các tổ

chức KH&CN. Không có văn bản quy định ƣu đãi về thuế TNDN đối với

doanh nghiệp KH&CN. Không có quy định cách thức xác định diện tích đất

sử dụng cho mục đích KH&CN. Không có quy định về vi phạm và xử lý vi

phạm pháp luật về doanh nghiệp KH&CN.

Không có hƣớng dẫn để doanh nghiệp và đơn vị có thẩm quyền thu hồi

hiểu và áp dụng thống nhất cách tính 5 năm liên tiếp đối với trƣờng hợp

doanh nghiệp mới thành lập; Không có hƣớng dẫn về trƣờng hợp bị thu hồi

nhƣng đang vay vốn tín dụng ƣu đãi (tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc, hỗ trợ từ

các Quỹ phát triển KH&CN), đang thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng

ngân sách nhà nƣớc đang đƣợc thực hiện thì xử lý hợp đồng vay vốn, hợp

đồng thực hiện nhiệm vụ KH&CN nhƣ thế nào? Không có hƣớng dẫn về các

93

khoản kinh phí, lợi ích khác đã đƣợc hƣởng sẽ bị truy thu. Đối với những

khoản đã đƣợc miễn, giảm thì có thể truy thu đƣợc. Còn những khoản đƣợc

hƣởng nhƣng không phải là đƣợc miễn, giảm (ví dụ nhƣ thực hiện nhiệm vụ

KH&CN) thì không nên truy thu.

Ba là, tính rõ ràng, minh bạch của một số quy định của pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế

Quy định về điều kiện “Có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả

KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận” là

quy định chƣa rõ ràng. Do đó cần có hƣớng dẫn để doanh nghiệp, cơ quan cấp

giấy chứng nhận thống nhất cách hiểu và áp dụng trong thực tế cấp giấy

chứng nhận doanh nghiệp KH&CN: (1) Thế nào là có khả năng tạo ra kết quả

KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận; (2)

Thế nào là có khả năng ứng dụng kết quả KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm

quyền đánh giá, thẩm định, công nhận.

Quy định “Có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình

thành từ kết quả KH&CN đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu” cũng là

quy định khó thực hiện trên thực tế nếu không có hƣớng dẫn cụ thể. Vì vậy,

cần có hƣớng dẫn để doanh nghiệp, cơ quan cấp giấy chứng nhận thống nhất

cách hiểu và áp dụng trong thực tế: cách xác định tỷ lệ doanh thu để cấp giấy

chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.

Quy định “Các văn bản xác nhận, công nhận khác có giá trị pháp lý

tƣơng đƣơng” là quy định không rõ ràng, có thể gây cách hiểu và áp dụng

khác nhau. Do đó, cần phải có hƣớng dẫn cụ thể để doanh nghiệp và cơ quan

cấp Giấy chứng nhận thống nhất hiểu và áp dụng: Thế nào “Các văn bản xác

nhận, công nhận khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng”;

Cần phải hƣớng dẫn cụ thể để doanh nghiệp và cơ quan cấp Giấy chứng

nhận thống nhất hiểu và áp dụng “Các kết quả KH&CN đƣợc hình thành từ

94

nhiệm vụ KH&CN đặc biệt; có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế xã

hội, quốc phòng, an ninh trong phạm vi cả nƣớc; có vai trò quan trọng nâng

cao tiềm lực KH&CN quốc gia; giải quyết các vấn đề KH&CN liên quan đến

nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng, nhất là môi trƣờng, sức khỏe” là

nhiệm vụ KH&CN nhƣ thế nào?

Cần phải hƣớng dẫn rõ là doanh nghiệp có bắt buộc phải gửi hồ sơ đăng

ký về Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN hay là có thể gửi về

Sở KH&CN có trụ sở chính. Trong trƣờng hợp này nên hƣớng dẫn là có thể gửi

về Sở KH&CN hoặc Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN.

Bốn là, tính khả khi của một số quy định của pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN còn thấp

Quy định ƣu đãi về thuế xuất khẩu đối với doanh nghiệp KH&CN

trong Nghị định 13/2019/NĐ-CP chỉ có giá trị “thông tin để biết”, không có

giá trị “quy định để thực hiện”. Quy định về ƣu tiên, không thu phí dịch vụ

khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc

gia, cơ sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu

KH&CN của Nhà nƣớc theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP mới chỉ là quy định

“khung”. Quy định ƣu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thƣơng mại hóa kết quả

KH&CN, tài sản trí tuệ của Nhà nƣớc cũng chỉ là quy định “khung”, quy định

“thông tin để biết”.

Quy định về việc “các bộ, cơ quan ngang bộ, ƣu tiên xây dựng quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của

doanh nghiệp KH&CN trong trƣờng hợp sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm

nhóm 2 khi chƣa có quy chuẩn kỹ thuật tƣơng ứng” là rất khó thực hiện nếu

trong hệ thống pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật không quy định

quyền “ƣu tiên” này. Quy định về việc Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia tạo

điều kiện thuận lợi hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay cho doanh

95

nghiệp KH&CN đầu tƣ cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt động giải mã công

nghệ là quy định rất khó thực hiện. Để thực hiện đƣợc quy định này cần làm

rõ nội hàm của khái niệm “tạo điều kiện thuận lợi”; đồng thời cụ thể hóa nội

hàm đó vào các quy định về Quỹ Đổi mới Công nghệ quốc gia hiện đang

đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

Quy định về việc Doanh nghiệp KH&CN có dự án tham gia cụm liên

kết ngành, chuỗi giá trị đƣợc Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa xem xét

cho vay theo quy định của pháp luật hiện hành là quy định “thông tin để biết”;

không phải là quy định để thực hiện. Vì vậy thực tế quy định này không có

giá trị “quy định để thực hiện” mà chỉ có giá trị “thông tin để biết”.

Quy định về ƣu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận,

đăng ký lƣu hành sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN để phát triển sản

phẩm mới là quy định rất khó thực hiện. Để thực hiện đƣợc quy định này cần

làm rõ nội hàm của khái niệm “ƣu tiên”; đồng thời phải cụ thể hóa nội hàm đó

vào các quy định về xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lƣu

hành sản phẩm.

Quy định “doanh nghiệp KH&CN có thành tích trong hoạt động

KH&CN, thƣơng mại hóa sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN đƣợc vinh

danh, khen thƣởng” cũng là dạng quy định “thông tin để biết”. Thực tế các

quy định về khen thƣởng trong lĩnh vực KH&CN không quy định khen

thƣởng riêng cho doanh nghiệp KH&CN mà quy định chung cho các tổ chức,

cá nhân. Các tổ chức, cá nhân này nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì

đƣợc vinh danh, khen thƣởng.

Những yếu kém và bất cập trên của pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN do nhiều nguyên nhân, nhƣng trong đó có nguyên nhân chủ

quan là chính. Quá trình xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật vẫn còn

vƣớng mắc, trở ngại do một số nguyên nhân nhƣ: nhiều vấn đề lý luận về

96

pháp luật trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc nghiên cứu

một cách cơ bản, có hệ thống; chậm tiến hành tổng kết, đánh giá một cách

toàn diện, mang tính khoa học; việc bổ sung sửa đổi các văn bản quy phạm

pháp luật về doanh nghiệp KH&CN thời gian qua còn mang nặng giải pháp

tình thế, thiếu sự thống nhất cao về tƣ tƣởng, đƣờng lối xây dựng và hoàn

thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN; cơ chế quản lý về

doanh nghiệp KH&CN thiếu tập trung thống nhất, còn phân tán, chia cắt giữa

các ngành. Đây là những vấn đề mang tính cấp thiết cần sớm khắc phục, điều

chỉnh và hoàn thiện.

97

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

1- Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở nƣớc ta ra đời

năm 2007 với Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN. Đến

năm 2010, Nghị định 80/2007/NĐ-CP đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định

số 96/2010/NĐ-CP. Đến 2019, Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp

KH&CN đƣợc ban hành và đang có hiệu lực thi hành.

2 - Đến nay, đã hình thành hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN để làm cơ sở pháp lý thực hiện mục tiêu xây dựng và phát

triển doanh nghiệp KH&CN. Nội dung của hệ thống pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN đã quy định đƣợc những vấn đề cơ bản nhằm đạt

mục tiêu phát triển doanh nghiệp KH&CN: ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN;

công nhận doanh nghiệp KH&CN; các ƣu đãi hỗ trợ đối với doanh nghiệp

KH&CN; tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN. Hầu hết nội

dung pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đều có quy định về

trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện. Hệ thống pháp luật về doanh

nghiệp KH&CN đã là cơ sở pháp lý để hình thành nên một cộng đồng doanh

nghiệp KH&CN ở nƣớc ta.

3 - Mặc dù đã đƣợc quan tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực

tiễn, nhƣng pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam

hiện nay vẫn còn một số nhƣợc điểm nhƣ: một số văn bản quy phạm pháp luật

về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chồng chéo, thiếu sự thống

nhất; pháp luật QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chƣa kịp điều

chỉnh một số nội dung trong thực tiễn QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN;

tính rõ ràng, minh bạch của một số quy định của pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế; tính khả khi của một số quy định của

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn thấp.

98

4 - Những yếu kém và bất cập trên của pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN do nhiều nguyên nhân, nhƣng trong đó có nguyên

nhân chủ quan là chính nhƣ: nhiều vấn đề lý luận về pháp luật trong QLNN

về doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ

thống; chậm tiến hành tổng kết, đánh giá một cách toàn diện, mang tính khoa

học; việc bổ sung sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp

KH&CN thời gian qua còn mang nặng giải pháp tình thế, thiếu sự thống nhất

cao về tƣ tƣởng, đƣờng lối xây dựng và hoàn thiện pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN; cơ chế quản lý về doanh nghiệp KH&CN thiếu

tập trung thống nhất, còn phân tán, chia cắt giữa các ngành. Do vậy, nghiên

cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN là một yêu cầu khách quan trong xu thế hội nhập

quốc tế của Việt Nam hiện nay.

99

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ đảm bảo cho doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng và chất lượng

Quan điểm này xuất phát từ vai trò của pháp luật. Pháp luật là phƣơng

tiện quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp KH&CN đƣợc hƣởng các ƣu đãi

để đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản xuất, kinh doanh. Pháp luật - phƣơng

tiện cơ bản để thực hiện chức năng QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN nhằm

phát triển doanh nghiệp KH&CN. Pháp luật là phƣơng tiện tổ chức và hoạt

động của bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Hiện nay trong bối cảnh Việt Nam, có rất nhiều điều kiện thuận lợi để

phát triển doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ về cả tự nhiên lẫn kinh tế xã

hội… Nguồn lao động nƣớc ta vô cùng lớn với tỉ lệ ngƣời lao động có trình

độ chuyên môn kĩ thuật đƣợc đào tạo bài bản ngày càng cao, chất lƣợng lao

động tốt. Thêm vào đó, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, cơ sở vật

chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng đƣợc chú trọng là cơ sở nội tại để nƣớc ta chủ

động phát triển về Khoa học và Công nghệ. Chính vì vậy, trong lĩnh vực

Khoa học và Công nghệ nói chung và doanh nghiệp KH&CN nói riêng, pháp

luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ bất kì lĩnh vực nào khi phát triển

đều sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp kèm theo. Nếu không có một cơ chế

quản lý toàn diện thì không thể có một sự phát triển mạnh mẽ và bền vững lâu

100

dài. Vậy nên hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp

KH&CN là một yêu cầu tất yếu cần thực hiện.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

Khoa học và Công nghệ đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả

Quan điểm này xuất phát từ các tiêu chí của một hệ thống pháp luật

hoàn thiện. Các tiêu chí này bao gồm: Pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN phải có quan hệ thống nhất với các pháp luật liên quan khác.

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN phải đảm bảo tính toàn

diện, khoa học, phù hợp. Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

phải rõ ràng, cụ thể, công khai, minh bạch.

Bởi lẽ pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc

chung, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hƣớng cụ thể nên

pháp luật có tính hệ thống, thống nhất. Trong khi phong tục, tập quán địa

phƣơng tản mạn, rời rạc, phân tán, thực hiện theo thói quen, cảm xúc, thì các

quy định pháp luật mang tính bắt buộc lại phải liên kết với nhau từ khái quát

đến cụ thể. Một vấn đề không thể chỉ áp dụng Hiến Pháp hay một bộ Luật mà

còn phải soi chiếu vào các văn bản pháp luật cụ thể liên quan, từ đó tạo ra sự

liên kết chặt chẽ, hình thành chỉnh thể thống nhất, phát huy đƣợc hiệu lực của

các quy phạm. Không một quan hệ xã hội trong lĩnh vực nào có thể đứng

riêng rẽ mà không tác động hoặc không chịu sự tác động của lĩnh vực khác và

doanh nghiệp KH&CN là một trong số đó.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ đồng thời chú trọng hoàn thiện và phát huy

vai trò của các công cụ, phương tiện quản lý khác

Quan điểm này xuất phát từ chỗ pháp luật hoàn thiện thì cần phải có

các điều kiện về con ngƣời, phƣơng tiện, nguồn lực tài chính để đảm bảo để

thực hiện. Nếu chỉ có hệ thống pháp luật hoàn thiện mà không có các điều

101

kiện để đảm bảo thực hiện chỉ chỉ là pháp luật hoàn thiện trên giấy, không có

giá trị thực tiễn.

Điều kiện về con ngƣời có thể đƣợc coi là điều kiện chìa khóa cho sự

hoàn thiện pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu của con ngƣời, pháp luật về quản

lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN mới phải đƣợc đổi mới, hoàn

thiện. Con ngƣời cũng là yếu tố quyết định, sử dụng các công cụ, phƣơng tiện

khác phù hợp để quản lý doanh nghiệp Khoa học và công nghệ. Tuy vậy, cần

có sự kết hợp hài hòa các công cụ, phƣơng tiện quản lý khác bên cạnh việc

hoàn thiện pháp luật thì mới đem lại đƣợc một kết quả tốt trong việc quản lý

doanh nghiệp KH&CN. Việc này đòi hỏi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền phải đề ra chủ trƣơng, phƣơng hƣớng phù hợp và đúng đắn, kịp thời

nhằm thiết lập một hệ thống quản lý toàn diện, xây dựng mối quan hệ chặt

chẽ giữa các công cụ và phƣơng tiện quản lý theo hƣớng tác động điều chỉnh

hoạt động của đối tƣợng quản lý.

3.2. Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc

đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam hiện nay

3.2.1. Rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về

quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Từ thực trạng pháp luật hiện hành về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN và thực tiễn áp dụng, tác giả xin nêu một số kiến nghị để sửa đổi, bổ

sung một số quy định của pháp luật về QLNN trong lĩnh vực này.

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về ươm tạo doanh nghiệp Khoa học và

Công nghệ

a) Pháp luật về thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

Cần thống nhất khái niệm “Cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN” giữa

các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là thống nhất khái niệm này trong Luật

Chuyển giao công nghệ 2017, Thông tƣ 16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014

của Bộ KH&CN quy định điều kiện thành lập, hoạt động tổ chức trung gian

102

của thị trƣờng KH&CN, Thông tƣ 19/2016/TT-BKHCN quy định việc tổ chức

quản lý Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức

KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Cần ban hành quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự thủ tục thành lập

cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; không nên áp dụng quy định chung

cho các tổ chức KH&CN vì bản chất của doanh nghiệp KH&CN khác với tổ

chức KH&CN.

b) Pháp luật về hỗ trợ cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, hỗ trợ

các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

Ngoài hình thức hỗ trợ đối với cơ sở ƣơm tạo DN KH&CN, hỗ trợ các

hoạt động ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN thông qua nhiệm vụ KH&CN

thuộc Chƣơng trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức

KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cần quy định

thêm các hỗ trợ khác theo dạng nhiệm vụ chi đƣợc ngân sách nhà nƣớc giao

hằng năm. Lý do là vì có hỗ trợ theo dạng này mới đáp ứng đƣợc kịp thời, sát

hợp với nhu cầu phát triển của cơ sở ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN.

3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về chứng nhận doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ

a) Pháp luật về cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN

Cần ban hành Thông tƣ của Bộ KH&CN hƣớng dẫn cấp giấy chứng

nhận doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP thay cho Công

văn số 1048/BKHCN-PTTTDN ngày 16/4/2019 của Bộ KH&CN hƣớng dẫn

cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP

để đảm bảo đúng quy định về thể thức văn bản quy phạm pháp luật.

Cần có hƣớng dẫn để doanh nghiệp, cơ quan cấp giấy chứng nhận

thống nhất cách hiểu và áp dụng trong thực tế cấp giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN: (i) Thế nào là có khả năng tạo ra kết quả KH&CN đƣợc cơ

103

quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận; (ii) Thế nào là có khả

năng ứng dụng kết quả KH&CN đƣợc cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm

định, công nhận; (iii) Cách xác định tỷ lệ doanh thu để cấp giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN; (iv) “Các văn bản xác nhận, công nhận khác có giá trị

pháp lý tƣơng đƣơng” là văn bản gì?; (v) “Các kết quả KH&CN đƣợc hình

thành từ nhiệm vụ KH&CN đặc biệt; có tầm quan trọng đối với phát triển

kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trong phạm vi cả nƣớc; có vai trò quan

trọng nâng cao tiềm lực KH&CN quốc gia; giải quyết các vấn đề KH&CN

liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng, nhất là môi trƣờng, sức

khỏe” là nhiệm vụ KH&CN nhƣ thế nào?

Cần bổ sung quy định doanh nghiệp phải có Quyết định giao quyền sở

hữu hoặc quyền sử dụng tài sản đối với kết quả KH&CN là tài sản đƣợc hình

thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nƣớc (theo quy định tại Nghị định

70/2018/NĐ-CP về quản lý sử dụng tài sản đƣợc hình thành thông qua việc triển

khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nƣớc) trong hồ sơ đề nghị

cấp Giấy chứng nhận để tránh trƣờng hợp tranh chấp về quyền sở hữu hoặc

quyền sử dụng kết quả KH&CN, và do đó mà có thể bị thu hồi Giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN đã cấp (theo Điều 10 – Nghị định 13/2019/NĐ-CP).

Cần có hƣớng dẫn là doanh nghiệp có thể gửi hồ sơ đăng ký về Sở

KH&CN hoặc Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp KH&CN.

b) Pháp luật về thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN

Cần có hƣớng dẫn để doanh nghiệp và đơn vị có thẩm quyền thu hồi

hiểu và áp dụng thống nhất cách tính 5 năm liên tiếp đối với trƣờng hợp

doanh nghiệp mới thành lập.

Cần có hƣớng dẫn về trƣờng hợp bị thu hồi nhƣng đang vay vốn tín dụng

ƣu đãi (tín dụng đầu tƣ của Nhà nƣớc, hỗ trợ từ các Quỹ phát triển KH&CN),

104

đang thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nƣớc đang đƣợc

thực hiện thì xử lý hợp đồng vay vốn, hợp đồng thực hiện nhiệm vụ KH&CN

nhƣ thế nào?

Cần có hƣớng dẫn về các khoản kinh phí, lợi ích khác đã đƣợc hƣởng

sẽ bị truy thu theo hƣớng: Đối với những khoản đã đƣợc miễn, giảm thì có thể

truy thu đƣợc; Còn những khoản đƣợc hƣởng nhƣng không phải là đƣợc

miễn, giảm (ví dụ nhƣ thực hiện nhiệm vụ KH&CN) thì không nên truy thu.

3.2.1.3. Pháp luật về ưu đãi cho doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

a) Pháp luật về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Cần có hƣớng dẫn về “sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN” vì tuy

Khoản 1, Điều 2 Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã quy định “Sản phẩm hình

thành từ kết quả KH&CN (bao gồm: công nghệ sau ƣơm tạo, hàng hóa, dịch

vụ và các hình thức khác) là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng

dịch vụ dựa trên việc áp dụng, ứng dụng hoặc phát triển kết quả KH&CN”;

song trên thực tế quy định này vẫn khó hiểu, cần đƣợc nêu các ví dụ cụ thể để

có thể phân định đƣợc với các sản phẩm khác của doanh nghiệp.

Cần phải ban hành văn bản hƣớng dẫn ƣu đãi về thuế TNDN đối với

doanh nghiệp KH&CN. Các nội dung cần đƣợc làm rõ trong văn bản hƣớng

dẫn gồm: Thời gian bắt đầu tính ƣu đãi thuế TNDN cho DN KH&CN là từ

khi nào? Từ năm đầu tiên đƣợc công nhận DN KH&CN, hay từ năm đầu tiên

có thu nhập chịu thuế từ hoạt động SNKD các sản phẩm hình thành từ kết quả

KH&CN; hay từ năm đầu tiên đáp ứng đƣợc tỷ lệ 30%? Thu nhập từ hoạt động

SXKS các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN phát sinh trƣớc khi đƣợc

cấp giấy CN DNKH&CN thì có đƣợc miễn, giảm thuế không? Trong thời gian

đang hƣởng ƣu đãi mà lại có năm DN KH&CN không đáp ứng đƣợc điều kiện

về tỷ lệ doanh thu tối thiểu thì năm đó sẽ đƣợc tính hay không đƣợc tính vào

tổng 13 năm đƣợc hƣởng miễn giảm thuế TNDN? Hƣớng dẫn điều kiện, thủ

tục để thực hiện ƣu đãi về thuế TNDN. Cách xác định số thuế thu nhập đƣợc

105

ƣu đãi nhƣ thế nào? Có theo phƣơng pháp nhƣ Thông tƣ 06/2008/TTLT-

BKHCN-BTC-BNV hay không. Trƣờng hợp DN KH&CN đang hƣởng ƣu đãi

thuế TNDN hoặc đã đƣợc hƣởng hết ƣu đãi thuế TNDN theo quy định của các

văn bản QPPL khác (ngoài ƣu đãi cho DN KH&CN) thì thời gian đƣợc hƣởng

ƣu đãi thuế TNDN theo điều kiện DN KH&CN đƣợc tính nhƣ thế nào để thống

nhất với quy định tại điểm d, Khoản 1, Điều 15 Nghị định 128/2013/NĐ-CP

về thuế TNDN.

Cần có hƣớng dẫn cụ thể về “Dịch vụ có ứng dụng kết quả KH&CN

trong lĩnh vực công nghệ thông tin là dịch vụ mới”: cơ quan nào, tổ chức nào,

văn bản nào xác định là “dịch vụ mới”?...

b) Pháp luật về miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước

Cần có hƣớng dẫn về cách thức xác định “diện tích đất đƣợc miễn,

giảm cho mục đích KH&CN ” này để thực hiện thuận lợi và thống nhất.

Cần phải rà soát các quy định về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt

nƣớc có liên quan đến doanh nghiệp KH&CN hiện đang có trong các văn bản

pháp luật để đảm bảo: Quy định rõ những điều kiện mà diện tích đất phải đáp

ứng; Quy định rõ điều kiện mà doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng; Quy

định rõ thành phần hồ sơ, các biểu mẫu trong hồ sơ; Quy định rõ cách thức

thực hiện những nội dung, công việc của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan trong quá trình lập, xử lý hồ sơ.

Cần quy định rõ cách thức xác định diện tích đất sử dụng cho mục đích

KH&CN (Hiện nay chƣa có quy định này).

c) Pháp luật về ưu đãi tín dụng

Phải tiếp tục xây dựng hoàn thiện các văn bản hƣớng dẫn giao quyền sử

dụng tài sản, việc hoàn trả giá trị tài sản và việc phân chia lợi nhuận với nhà

nƣớc để hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng tài sản hình thành thông qua triển

khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN.

106

Tiếp tục bổ sung các quy định mang tính ƣu đãi hơn cho doanh nghiệp

KH&CN. Ví dụ: Đối với doanh nghiệp KH&CN, nên quy định thông thoáng

hơn về giao tài sản là kết quả hình thành thông qua việc triển khai thực hiện

các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nƣớc. Nên giao tài sản này cho doanh

nghiệp KH&CN mà không cần phải phụ thuộc vào tỷ lệ hỗ trợ của nhà nƣớc

trong tổng vốn thực hiện nhiệm vụ KHCN đó. Nhƣ vậy, không cần thực hiện

thủ tục giao tài sản mà khi doanh nghiệp tạo ra kết quả nhiệm vụ KH&CN thì

tự động đƣợc xác lập quyền đối với tài sản đó. Điều này sẽ kích thích và tạo

điều kiện để doanh nghiệp KH&CN sử dụng một cách hiệu quả nhất kết quả

của nhiệm vụ KH&CN.

d) Pháp luật về hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả KH&CN

Bổ sung các quy định về miễn thuế xuất khẩu cho đối tƣợng là doanh

nghiệp KH&CN là điều cần thiết. Doanh nghiệp KH&CN thực hiện thuế xuất

khẩu hoặc đƣợc miễn giảm thuế xuất khẩu theo quy định chung cho tất cả các

đối tƣợng. Bỏ quy định ƣu đãi về thuế xuất khẩu đối với doanh nghiệp KH&CN

trong Nghị định 13/2019/NĐ-CP vì quy định này chỉ có giá trị “thông tin để

biết”, không có giá trị “quy định để thực hiện”.

Cần phải có hƣớng dẫn cụ thể về “ƣu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử

dụng máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia,

cơ sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN

của Nhà nƣớc” theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP mới chỉ là quy định “khung”.

để các doanh nghiệp KH&CN, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ

sở ƣơm tạo công nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của

Nhà nƣớc có cơ sở thực hiện.

Cần nghiên cứu lại quy định không thu phí sử dụng máy móc, trang

thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo công

nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nƣớc vì

không khả thi trên thực tế.

107

Cần sửa lại quy định tại khoản 6, Điều 8 Thông tƣ 12/2016/TTLT-

BKHCN-BTC để thống nhất với Nghị định 13/2019/NĐ-CP theo hƣớng bổ

sung nội dung chi đối với doanh nghiệp KH&CN rộng hơn doanh nghiệp

không phải là doanh nghiệp KH&CN.

Phải cụ thể hóa trong các quy định về xét duyệt, tham gia tuyển chọn

các dự án hỗ trợ thƣơng mại hóa kết quả KH&CN, tài sản trí tuệ theo hƣớng:

đối với đơn vị tham gia là doanh nghiệp KH&CN thì đƣợc cộng thêm điểm

vào kết quả xét duyệt, tuyển chọn.

Cần phải quy định cụ thể tiêu chí xác định “đất phục vụ cho mục đích

nghiên cứu khoa học”, “nhà phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học”;

thẩm quyền xác nhận “đất phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học”, “nhà

phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học”.

Cần có sự thống nhất trong diễn đạt khái niệm về đất của doanh nghiệp

KH&CN, các quy định liên quan đến đất phục vụ cho mục đích KH&CN

trong Luật đất đai, Nghị định 140/2016/NĐ-CP, Nghị định 13/2019/NĐ-CP

để dễ thực hiện.

Cần có sự bổ sung các trƣờng hợp đƣợc ƣu tiên trong xây dựng quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia vào Thông tƣ hƣớng dẫn xây dựng, thẩm định và ban

hành quy chuẩn kỹ thuật.

đ) Về hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ

Cần làm rõ nội hàm của khái niệm “tạo điều kiện thuận lợi” trong quy

định về việc Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ

vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay cho doanh nghiệp KH&CN đầu tƣ

cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt động giải mã công nghệ; đồng thời cụ thể

hóa nội hàm đó vào các quy định về Quỹ Đổi mới Công nghệ quốc gia hiện

đang đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

Bỏ quy định về việc Doanh nghiệp KH&CN có dự án tham gia cụm

108

liên kết ngành, chuỗi giá trị đƣợc Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

xem xét cho vay theo quy định của pháp luật hiện hành” vì đây là quy định

“thông tin để biết”; không phải là quy định để thực hiện.

Bộ Tài chính, Bộ KH&CN cần hƣớng dẫn cụ thể về phƣơng thức nhà

nƣớc mua kết quả tự nghiên cứu, phƣơng thức hỗ trợ kinh phí từ ngân sách.

Bộ KH&CN cần ban hành hƣớng dẫn cụ thể về biểu mẫu để phục vụ cho việc

lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí, mua kết quả tự nghiên cứu của các tổ chức,

cá nhân nói chung, trong đó có doanh nghiệp KH&CN.

Cần làm rõ nội hàm của khái niệm “ƣu tiên” trong việc xác lập quyền

sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lƣu hành sản phẩm hình thành từ kết quả

KH&CN để phát triển sản phẩm mới; đồng thời phải cụ thể hóa nội hàm đó

vào các quy định về xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lƣu

hành sản phẩm.

Bỏ quy định “doanh nghiệp KH&CN có thành tích trong hoạt động

KH&CN, thƣơng mại hóa sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN đƣợc vinh

danh, khen thƣởng” vì thực tế các quy định về khen thƣởng trong lĩnh vực

KH&CN không quy định khen thƣởng riêng cho doanh nghiệp KH&CN mà

quy định chung cho các tổ chức, cá nhân. Các tổ chức, cá nhân này nếu đáp

ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì đƣợc vinh danh, khen thƣởng.

3.2.1.4. Pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ

Cần rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN cho UBND cấp huyện.

Cần điều chỉnh một số quy định về thẩm quyền công nhận doanh

nghiệp KH&CN nhƣ sau: Sở KH&CN các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ƣơng cấp, thu hồi, hủy bỏ hiệu lực, cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận

doanh nghiệp KH&CN và danh mục sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả

KH&CN cho các doanh nghiệp đặt trụ sở chính tại địa phƣơng; Bộ KH&CN

109

cấp, thu hồi, hủy bỏ hiệu lực, cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc

phòng, có ảnh hƣởng lớn đến sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trƣờng, doanh

nghiệp đƣợc thành lập từ tổ chức KH&CN công lập thuộc đối tƣợng đăng ký

hoạt động KH&CN tại Bộ KH&CN và các trƣờng hợp khác theo đề nghị của

Sở KH&CN các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.

3.2.1.5. Pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ

Cần sớm bổ sung quy định về vi phạm và xử lý vi phạm trong thực hiện

pháp luật đối với doanh nghiệp KH&CN.

3.2.2. Đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật về quản lý nhà nước đối

với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Hoàn thiện hệ thống pháp luật chỉ phát huy tác dụng nếu đồng thời có

đƣợc cơ chế thực hiện pháp luật đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.

3.2.2.1. Đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ

công chức để thực hiện tốt pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực

doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

Xây dựng và hoàn thiện đƣợc một hệ thống các quy phạm pháp luật

mang tính khoa học và phù hợp về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là

một yêu cầu tiên quyết và quan trọng, nhƣng để nó đƣợc áp dụng và phát huy

hiệu lực, hiệu quả thì cần phải xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm cải

cách bộ máy, cơ chế và đội ngũ quản lý thích hợp.

Về bộ máy quản lý

Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh

tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ,

ngành, đặc biệt là với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ trong QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN

110

Thứ hai, ở địa phƣơng, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn

về chức giữa Sở KH&CN với Sở Kế hoạch và Đầu tƣ của các tỉnh, thành phố

trong quản lý doanh nghiệp KH&CN.

Thứ ba, triển khai áp dụng phƣơng tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý

hiện đại vào hệ thống QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

Về cơ chế quản lý

Nhƣ trên đã phân tích, việc tổ chức thực thi pháp luật doanh nghiệp

KH&CN của các cơ quan nhà nƣớc vẫn còn rời rạc, chƣa có sự thống nhất. Vì

vậy, cần bổ sung các quy định nhằm cải tiến phƣơng thức, lề lối làm việc, cơ

chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan trong QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN. Cụ thể là xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp

trong sự vận hành của bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN; định rõ

thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan QLNN.

Về đội ngũ cán bộ quản lý

Trong những năm gần đây, doanh nghiệp KH&CN Việt Nam đã phát

triển cả về số lƣợng và chất lƣợng. Vì thế cần có những quy định, chính sách

hợp lý về đào tạo và xây dựng đội ngũ công chức làm công tác QLNN về

doanh nghiệp KH&CN, nhất là ở các Sở KH&CN. Công chức QLNN về doanh

nghiệp KH&CN phải tri thức về khoa học, về công nghệ thông tin và quản lý,

tri thức pháp luật. Ngƣời làm công tác theo dõi, quản lý phải có những hiểu

biết rất cơ bản về doanh nghiệp KH&CN, tức là phải tham gia học các lớp bồi

dƣỡng kiến thức quản lý về doanh nghiệp KH&CN. Ngoài ra, cán bộ quản lý

phải có những kiến thức cơ bản về QLNN, về pháp luật nói chung và những

văn bản pháp luật đối với doanh nghiệp KH&CN nói riêng.

Tóm lại, để bảo đảm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

đƣợc ban hành và thực hiện tốt, vấn đề đặt ra không chỉ dừng lại ở việc xây

dựng cho đƣợc một hệ thống các văn bản thích hợp, đầy đủ tiêu chuẩn, mà

111

chúng ta còn phải quan tâm cơ chế thực hiện các văn bản pháp luật đó, lực

lƣợng cán bộ thực hiện. Những vấn đề này có mối liên quan với nhau một cách

mật thiết. Sẽ là sai lầm nếu chúng ta quá nhấn mạnh hoặc coi nhẹ một vấn đề

nào đó trong những vấn đề nêu trên. Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN đƣợc hoàn thiện mà không có cơ chế thực hiện, không có đủ cán bộ

có năng lực triển khai thì đó sẽ chỉ là những dòng chữ chết trên giấy.

3.2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thanh

tra, xử lý nghiêm vi phạm pháp luật trong hoạt động doanh nghiệp Khoa học

và Công nghệ

Nhƣ trên đã phân tích, rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các quy định

về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên,

việc tuyên truyền phổ biến pháp luật doanh nghiệp KH&CN để các chủ thể

tuân thủ, thực hiện cũng là một vấn đề cần quan tâm. Qua khảo sát của chúng

tôi đối với các doanh nghiệp KH&CN thì nhiều doanh nghiệp KH&CN không

hiểu hết các quy định về hỗ trợ, ƣu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN. Vì thế,

Bộ KH&CN, các Sở KH&CN cần có kế hoạch tập huấn thƣờng xuyên cho

các doanh nghiệp KH&CN.

Các Sở KH&CN cần bố trí cán bộ chuyên trách về hoạt động phát triển

doanh nghiệp KH&CN. Bộ phận này có trách nhiệm tổ chức các hoạt động

tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về doanh nghiệp KH&CN. Cần bổ

sung kinh phí riêng dành cho truyền thông về doanh nghiệp KH&CN: lên dự

toán thông qua việc tổ chức các hội nghị, tập huấn về phát triển doanh nghiệp

KH&CN tại các địa phƣơng trong kinh phí dành cho truyền thông KH&CN

hàng năm. Ngoài việc tăng cƣờng chỉ đạo, đầu tƣ kinh phí và những điều kiện

khác thì việc đa dạng hóa các hình thức truyền thông nhƣ tổ chức hội nghị phổ

biến chính sách, triển lãm các sản phẩm KH&CN của doanh nghiệp KH&CN,

tuyên truyền trên các loại báo hình, báo giấy, báo nói … là hết sức cần thiết.

112

Tổ chức các hội nghị, triển lãm nhằm phổ biến chính sách về doanh

nghiệp KH&CN và giới thiệu điển hình doanh nghiệp KH&CN tại các trung

tâm nghiên cứu, trƣờng đại học, các địa phƣơng để tăng cƣờng sự hình thành

các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Quảng bá và nêu điển hình doanh nghiệp KH&CN mẫu, giới thiệu

thành tựu của những doanh nghiệp KH&CN, chính sách ƣu đãi mà họ đã

đƣợc hƣởng, thông qua: truyền hình, in ấn tuyển tập sáng tạo, ...

Tăng cƣờng, nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra của nhà nƣớc đối

với doanh nghiệp KH&CN là nhiệm vụ quan trọng của QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN nhằm đảm bảo pháp luật đƣợc thực hiện một cách nghiêm

minh, hiệu quả.

113

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

1- Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, thực hiện chính sách mở cửa và

hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật về

QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là đòi hỏi của nhu cầu khách quan,

luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm.

2- Quan điểm cơ bản hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN là: Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với KH&CN phải

đảm bảo cho doanh nghiệp KH&CN phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lƣợng

và chất lƣợng; Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

phải dựa trên các tiêu chí của một hệ thống pháp luật hoàn thiện; Hoàn thiện

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đồng thời chú trọng hoàn

thiện và phát huy vai trò của các công cụ, phƣơng tiện quản lý khác.

3- Trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN, đánh giá ƣu điểm và hạn chế đồng thời dựa trên các quan điểm

cơ bản hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, tác giả

kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN trên cơ sở các tiêu chí đã nêu ở chƣơng 1 nhƣ: rà soát, đánh giá,

sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về QLNN đối với doanh nghiệp

KH&CN, tập trung vào ban hành các văn bản hƣớng dẫn thực hiện Nghị định

13/2019/NĐ-CP về Doanh nghiệp KH&CN; đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ

chế quản lý, đội ngũ cán bộ công chức để thực hiện tốt pháp luật về QLNN

đối với doanh nghiệp KH&CN; tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật và thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm pháp luật trong hoạt động doanh

nghiệp KH&CN.

114

KẾT LUẬN

1- Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở nƣớc ta ra đời

năm 2007 với Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN. Đến

năm 2010, Nghị định 80/2007/NĐ-CP đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định

số 96/2010/NĐ-CP. Đến 2019, Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp

KH&CN đƣợc ban hành và đang có hiệu lực thi hành.

2 - Đến nay, đã hình thành hệ thống pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN để làm cơ sở pháp lý thực hiện mục tiêu xây dựng và phát

triển doanh nghiệp KH&CN. Nội dung của hệ thống pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN đã quy định đƣợc những vấn đề cơ bản nhằm đạt

mục tiêu phát triển doanh nghiệp KH&CN: ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN;

công nhận doanh nghiệp KH&CN; các ƣu đãi hỗ trợ đối với doanh nghiệp

KH&CN; tổ chức bộ máy QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN. Hầu hết nội

dung pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đều có quy định về

trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện. Hệ thống pháp luật về doanh

nghiệp KH&CN đã là cơ sở pháp lý để hình thành nên một cộng đồng doanh

nghiệp KH&CN ở nƣớc ta.

3 - Mặc dù đã đƣợc quan tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực

tiễn, nhƣng pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam

hiện nay vẫn còn một số nhƣợc điểm nhƣ: một số văn bản quy phạm pháp luật

về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chồng chéo, thiếu sự thống

nhất; pháp luật QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chƣa kịp điều

chỉnh một số nội dung trong thực tiễn QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN;

tính rõ ràng, minh bạch của một số quy định của pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế; tính khả khi của một số quy định của

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn thấp.

115

4 - Những yếu kém và bất cập trên của pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN do nhiều nguyên nhân, nhƣng trong đó có nguyên

nhân chủ quan là chính nhƣ: nhiều vấn đề lý luận về pháp luật trong QLNN

về doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ

thống; chậm tiến hành tổng kết, đánh giá một cách toàn diện, mang tính khoa

học; việc bổ sung sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp

KH&CN thời gian qua còn mang nặng giải pháp tình thế, thiếu sự thống nhất

cao về tƣ tƣởng, đƣờng lối xây dựng và hoàn thiện pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN; cơ chế quản lý về doanh nghiệp KH&CN thiếu

tập trung thống nhất, còn phân tán, chia cắt giữa các ngành. Do vậy, nghiên

cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về QLNN đối

với doanh nghiệp KH&CN là một yêu cầu khách quan trong xu thế hội nhập

quốc tế của Việt Nam hiện nay.

5 - Các quan điểm cơ bản hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh

nghiệp KH&CN là: Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với KH&CN phải

đảm bảo cho doanh nghiệp KH&CN phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lƣợng

và chất lƣợng; Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN

phải dựa trên các tiêu chí của một hệ thống pháp luật hoàn thiện; Hoàn thiện

pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đồng thời chú trọng hoàn

thiện và phát huy vai trò của các công cụ, phƣơng tiện quản lý khác.

6 - Trên cơ sở pháp luật hiện hành về QLNN trong lĩnh vực doanh

nghiệp KH&CN, đánh giá ƣu điểm và hạn chế và thực trạng thực hiện và các

quan điểm hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, tác

giả kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN nhƣ: rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản

quy định về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, tập trung vào ban hành

các văn bản hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 13/2019/NĐ-CP về Doanh nghiệp

116

KH&CN; đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ công

chức để thực hiện tốt pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN;

tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thanh tra, xử lý

nghiêm vi phạm pháp luật trong hoạt động doanh nghiệp KH&CN.

Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam hiện

nay là vấn đề lớn, phức tạp nhƣng rất cần thiết hiện nay. Những vấn đề đƣợc

đề cập trong phạm vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ là bƣớc đầu, còn hạn chế

và thiếu sót nhất định. Phần nghiên cứu kèm theo các kiến nghị của tác giả

nêu trong luận văn là những đóng góp nhỏ để giải quyết những tồn tại, nhằm

hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.

117

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1.

Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn (2014), “Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam – thực trạng và giải pháp phát triển”, Tạp chí Chính sách và quản lý khoa học và công nghệ, tập 3, (3).

2.

Dƣơng Hồng Anh, Hoàng Minh Thúy (2017), Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kinh nghiệm từ Australia, JSTPM, số 4.

3.

Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (2002), Kết luận số 14/KL- TW ngày 26/7/2002 của Hội nghị lần thứ VI, Hà Nội.

4.

Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2018), Thông tư 01/2018/TT-BKHĐT ban hành các danh Mục máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng, nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước đã sản xuất được, ban hành ngày 30/03/2018, Hà Nội.

5.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Thông tư số 23/2007/TT-BKHCN của Bộ KH&CN hướng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành quy chuẩn kỹ thuật, ban hành ngày 28/9/2007, Hà Nội.

6.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2011), Thông tư số 30/2011/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định của Thông tư số 23/2007/TT- BKHCN, ban hành ngày 15/11/ 2011, Hà Nội.

7.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư 06/2014/TT-BKHCN Quy định nguyên tắc, tiêu chí xét chọn nhiệm vụ KH&CN thuộc Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, ban hành ngày 25/04/2014, Hà Nội.

8.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư 14/2016/TT-BKHCN về quản lý các hoạt động cho vay từ nguồn vốn của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia, ban hành ngày 30/6/2016, Hà Nội.

9.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư 16/2014/TT-BKHCN quy định điều kiện thành lập, hoạt động tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, ban hành ngày 13/6/2014, Hà Nội.

118

10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư 37/2014/TT-BKHCN của

Bộ KH&CN quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát

triển KH&CN Quốc gia tài trợ, ban hành ngày 12/12/2014, Hà Nội.

11. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư 40/2014/TT-BKHCN Quy

định quản lý nhiệm vụ KH&CN đột xuất có ý nghĩa quan trọng về khoa

học và thực tiễn, nhiệm vụ KH&CN tiềm năng do Quỹ Phát triển

KH&CN Quốc gia tài trợ, ban hành ngày 18/12/2014, Hà Nội.

12. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 03/2014/TT-BKHCN

hướng dẫn điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức

KH&CN, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức KH&CN, ban

hành ngày 31/3/2014, Hà Nội.

13. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Thông tư 15/2016/TT-BKHCN quy

định quản lý đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển KH&CN

Quốc gia tài trợ, ban hành ngày 30/6/2016, Hà Nội.

14. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Thông tư 19/2016/TT-BKHCN quy

định việc tổ chức quản lý Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm, ban hành ngày 28/10/2016, Hà Nội.

15. Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Công văn số 1048/BKHCN-

PTTTDN hướng dẫn cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo

Nghị định 13/2019/NĐ-CP, ban hành ngày 16/4/2019, Hà Nội.

16. Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Quyết định 395/QĐ-BKHCN công

bố thủ tục hành chính, ban hành ngày 28/2/2019, Hà Nội.

17. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ (2014), Thông tư 29/2014/TTLT-

BKHCN-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của cơ quan chuyên môn về KH&CN thuộc Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, ban hành ngày 15/10/2014, Hà Nội.

119

18.

Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính (2016), Thông tư 12/2016/TTLT- BKHCN-BTC của hướng dẫn về nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, ban hành ngày 28/6/2016, Hà Nội.

19.

Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ (2012), Thông tư liên tịch 17/2012/TTLT-BKHCN-BNV-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ban hành ngày 10/9/2012, Hà Nội.

20.

Bộ Tài chính (2016), Thông tư 301/2016/TT-BTC Hướng dẫn về lệ phí trước bạ, ban hành ngày 15/11/2016, Hà Nội.

21.

Bộ Tài chính (2017), Thông tư 142/2017/TT-BTC quy định cơ chế tài chính thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, ban hành ngày 29/12/2017, Hà Nội.

22.

Bộ Y tế (2002), Thông tư 07/2002/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn việc đăng ký lưu hành sản phẩm trang thiết bị y tế, ban hành ngày 30/5/2002, Hà Nội.

23.

Bộ Y tế (2018), Thông tư 32/2018/TT-BYT quy định việc đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc; ban hành ngày 12/11/ 2018, Hà Nội.

24.

Chính phủ (2005), Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tài chính và tài sản, tổ chức và biên chế của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, ban hành ngày 5/9/2005, Hà Nội.

25.

Chính phủ (2007), Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ban hành ngày 19/5/2007, Hà Nội

26.

Chính phủ (2007), Nghị định số 127/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, ban hành ngày 01/8/2007, Hà Nội.

120

27. Chính phủ (2014), Nghị định 23/2014/NĐ-CP về Điều lệ tổ chức và

hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia, ban hành ngày

3/4/2014, Hà Nội.

28. Chính phủ (2016), Nghị định 134/2016/NĐ-CP hướng dẫn thi hành

Luật Thuế xuất khẩu, ban hành ngày 01/9/2016, Hà Nội.

29. Chính phủ (2016), Nghị định 140/2016/NĐ-CP về lệ phí trước bạ, ban

hành ngày 10/10/2016, Hà Nội.

30. Chính phủ (2017), Nghị định 95/2017/NĐ-CP quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN, ban hành

ngày 16/08/2017, Hà Nội.

31. Chính phủ (2018), Nghị định 70/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định

việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai

thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, ban hành ngày

15/05/2018, Hà Nội.

32. Chính phủ (2018), Nghị định 76/2018/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật

Chuyển giao Công nghệ, ban hành ngày 15/5/2018, Hà Nội.

33. Chính phủ (2019), Nghị định 13/2019/NĐ-CP về Doanh nghiệp khoa

học và công nghệ, ban hành ngày 01/2/2019, Hà Nội.

34. Chính phủ (2019), Nghị định 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động

của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành ngày

10/5/2019, Hà Nội.

35. Chính phủ (2019), Nghị định 84/2019/NĐ-CP về quản lý phân bón, ban

hành ngày 14/11/2019, Hà Nội.

36. Phạm Văn Diễn (2012), Trao đổi về doanh nghiệp KH&CN, tài liệu tập

huấn KH&CN tại Bình Dƣơng ngày 23/10/2012, Trƣờng quản lý

KH&CN, Bộ KH&CN.

121

37.

Trần Văn Đích (2014), “Khái niệm, con đƣờng hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, Tài liệu hội nghị triển khai “Chương trình khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm và hàng hóa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2014 – 2020”, Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 10/9/2014.

38.

Cao Thị Ngọc Hà (2019), Giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ.

39.

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Giáo trình quản lý nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia.

40.

Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2017), Nghị quyết số 81/2017/NQ- HĐND ban hành“Chính sách khuyến khích phát triển KH&CN trở thành khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020”, ban hành ngày 07/12/2017, Hà Nội.

41.

Nguyễn Văn Lâm, (2017), “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (2).

42.

Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (2005), Luật hành chính Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.

43.

Nguyễn Thị Minh Nga (2006), “Nghiên cứu khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, Kỷ yếu kết quả nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ năm 2005 – 2006, Viện chiến lƣợc và chính sách Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.

44.

Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên (2006), “Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ – kinh nghiệm các nƣớc châu Âu”, Tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ, Viện chiến lƣợc và chính sách Khoa học và Công nghệ, (12).

45.

Nguyễn Văn Phú (2006), “Một vài kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu thực tiễn doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ – mô hình tiêu biểu của Khoa học và Công nghệ trực tiếp sản xuất”, Tạp chí nghiên cứu chính sách Khoa học và Công nghệ, Viện chiến lƣợc và chính sách Khoa học và Công nghệ, (13).

122

46. Nguyễn Quân (2006), “Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ – một lực

lƣợng sản xuất mới”, Tạp chí Hoạt động khoa học, Bộ Khoa học và

Công nghệ, tháng 10.

47. Quốc hội (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuậ số 68/2006/QH11,

ban hành ngày 29/6/2006, Hà Nội.

48. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12, ban hành

ngày 31/12/2008, Hà Nội.

49. Quốc hội (2013), Luật Đất đai số 45/2013/QH13, ban hành ngày

29/11/2013, Hà Nội.

50. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13, ban

hành ngày 18/6/2013, Hà Nội.

51. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH 13, ban hành ngày

26/11/2014, Hà Nội.

52. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ban hành ngày

26/11/2014, Hà Nội.

53. Quốc hội (2017), Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14, ban

hành ngày 19/6/2017, Hà Nội.

54. Bạch Tân Sinh (2005), “Doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam: cơ sở lý

luận và đánh giá ban đầu”, Tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và

công nghệ, Viện chiến lƣợc và chính sách Khoa học và Công nghệ,

(10), tháng 6.

55. Bạch Tân Sinh (2006), “Nghiên cứu sự hình thành và phát triển doanh

nghiệp KH&CN và sự chuyển đổi một số tổ chức nghiên cứu và phát

triển ở Việt Nam sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp”, Kỷ yếu kết

quả nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ năm

2004 – 2005, Viện chiến lƣợc và chính sách Khoa học và Công nghệ,

Nxb lao động, Hà Nội.

123

56. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quyết định 19/2015/QĐ-TTg ban hành

Quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao, ban hành ngày

15/06/2015, Hà Nội.

57. UBND tỉnh Thanh Hóa (2017), Chương trình Hỗ trợ phát triển Doanh

nghiệp KH&CN và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thanh Hóa, giai

đoạn 2017-2020, ban hành ngày 17/12/2017.

II. Tài liệu Website tiếng Việt

58. Hà Linh (2019), “Khó khăn trong tiếp cận chính sách ưu đãi dành cho

doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, https://nhandan.com.vn/nhan-

dinh/kho-khan-trong-tiep-can-chinh-sach-uu-dai-danh-cho-doanh-

nghiep-khoa-hoc-va-cong-nghe-354885/, truy cập ngày 12/5/2020.

59. Nhật Minh (2019), "Tìm cơ chế để các quỹ khoa học và công nghệ hoạt

động hiệu quả", Báo Nhân dân, https://www.nhandan.com.vn/khoahoc-

congnghe/item/41767002-tim-co-che-de-cac-quy-khoa-hoc-va-cong-

nghe-hoat-dong-hieu-qua.html, truy cập ngày 10/3/2020.

60. Phạm Đức Nghiệm (2014), “Ba nhóm giải pháp đẩy mạnh phát triển

doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, https://nhandan.com.vn/khoa-

hoc/ba-nhom-giai-phap-day-manh-phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc-

va-cong-nghe-203814/, truy cập ngày 6/3/2020.

61. Lê Thị Minh Ngọc (2019), Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ

vốn cho khởi nghiệp,

http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_k2&view=item&id=9

742:kinh-nghiem-quoc-te-ve-chinh-sach-ho-tro-von-cho-khoi-

nghiep&lang=vi, truy cập ngày 15/3/2020.

62. Phạm Hồng Quất (2014), “Doanh nghiệp KH&CN: Cơ hội và thách

thức”, https://baodatviet.vn/khoa-hoc/doanh-nghiep-khampcn-co-hoi-

va-thach-thuc-3039541/ truy cập ngày 03/4/2020.

124

63.

Nguyễn Ngọc Túy (2019), Thanh Hóa: Giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, https://vanhoadoisong.vn/web/trang- chu/khoa-hoc/cong-nghe/thanh-hoa-giai-phap-phat-trien-doanh-nghiep- kh-ampcn.html, truy cập ngày 13/3/2020.

64.

Quang Vũ (2019), “Quá ít doanh nghiệp KH&CN - vì sao?”, http://baobariavungtau.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/201909/qua-it-doanh- nghiep-khoa-hoc-cong-nghe-vi-sao-872850/, truy cập ngày 10/3/2020.

III. Tài liệu tiếng Anh

65.

Barbara Bigliardi, Francesco Galati, Chiara Verbano (2013), “Evaluating Performance of University Spin – Off Companies: lessons from Italy”, Journal of Technology Management & Innovation, Volum 8, (2), ISSN:0718 – 2724 (http://www.jotmi.org), Universidad Alberto Hurtado, Facultad de Economia y Negocios.

66.

Masayuki Kondo (2004), University spin – offs in Japan; tech monitor, Mar-Apr.

67.

Thomas Astebro, Navid Bazzazian, Serguey Braguinsky (2011), their Faculty- Startup by Recent Univercity Graduates versus Implications for University Entrepreneurship Policy, available at: http://www.andrew.cmu/user/sbrag/ABB.pdf.

68.

Tindara Abbate, Fabrizio Cesaroni (2014), Market Orientation and academic spin-off firms, Working Paper, ISSN 1989-8843, January, Universidad Carlos III de Madrid.

125

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: DANH SÁCH DOANH NGHIỆP KH&CN THANH HÓA (Thời điểm 6- 4 -2020)

Kết quả KH&CN

Nguồn gốc tài chính Kết quả KH&CN

TT

Tên doanh nghiệp

Năm thành lập

Năm cấp giấy chứng nhận DN KHCN

Vốn ngoài ngân sách

Doanh nghiệp nghiên cứu

Tiếp nhận chuyển giao công nghệ

Ngân sách nhà nước

1.

Công ty cổ phần CNN Tiến Nông

1995

2014

X

X

2.

Công ty CP giống cây trồng Thanh Hóa

2003

2014

X

X

X

3.

Công ty TNHH Aeonmed Việt Nam

2012

2014

X

X

4.

Công ty Quảng cáo Ánh Dƣơng

2000

2014

X

X

5.

Công ty Điện tử Bình Minh

2012

2014

X

X

6.

Công ty TNHH Minh Lộ

2005

2015

X

X

7.

Doanh nghiệp tƣ nhân Hãng thuốc Thể thao

2005

2015

X

X

8.

2014

2015

X

X

Công ty TNHH Trung tâm nghiên cứu và phát triển Nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn

9.

Công ty cổ phần Long Phú

2003

2015

X

X

10.

Công ty cổ phần Khoáng sản Thanh Hóa

2011

2015

X

X

11.

Công ty cổ phần Dạ Lan

2000

2016

X

X

12.

Công ty cổ phần dụng cụ thể thao Denta

2002

2016

X

X

126

13.

Công ty CP đầu tƣ phát triển Vicenza

2013

2016

X

X

14.

Công ty CP Dƣợc vật tƣ y tế Thanh Hóa

2002

2016

X

X

15.

Công ty cổ phần Thƣơng mại Hậu Lộc

2000

2016

X

X

16.

Công ty CP phân bón Hữu cơ Miền Trung

2014

2017

X

X

17.

Công ty TNHH Dịch vụ Khoa học kỹ thuật

2011

2017

X

X

Lam Sơn Thanh Hoá

18.

Công ty cổ phần Thiên Nông Thanh Hoá

2004

2017

X

X

19.

Công ty cổ phần Tân Thanh Phƣơng

2004

2018

X

X

20.

Công ty CP thiết bị giáo dục Hồng Đức

2004

2018

X

X

21.

Doanh nghiệp tƣ nhân sản xuất thuốc y học cổ

2004

2018

X

X

truyền Bà Giằng

22.

Công ty TNHH chế biến hải sản Ba Làng

2009

2018

X

X

23.

Công ty Lập trình phần mềm Thông Minh

2016

2018

X

X

24.

Công ty CP Thinklabs

2017

2019

X

X

25.

Công ty NNHH Quảng cáo điện tử ABC

2013

2019

X

X

26.

Công ty cổ phần tự động hóa thể thao

2019

2019

X

X

27.

Công ty TNHH nông nghiệp hữu cơ TH

2017

2020

X

X

X

TỔNG SỐ

-

-

21

8

10

17

127

Phụ lục 2

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI, HỖ TRỢ CHO DOANH NGHIỆP KH&CN TRÊN ĐỊA BÀN THANH HÓA

Đơn vị tính: Triệu đồng1

Hoạt động sản xuất, kinh doanh và thụ hƣởng ƣu đãi, hỗ trợ (triệu đồng)

TT

Tên doanh nghiệp

Sản phẩm / Lĩnh vực KH&CN

Vốn điều lệ (triệu đồng)

Số giấy chứng nhận/ Tình trạng hoạt động và sở hữu

Đầu tƣ cho KH&CN (triệu đồng)

Lợi nhuận trước thuế / Lợi nhuận trước thuế của sp KHCN (triệu đồng)

Thuế thu nhập doanh nghiệp được miễn, giảm (triệu đồng)

doanh thu của sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả KH&CN

Tiền thuê đất được miễn, giảm (triệu đồng)

Tổng doanh thu

Vốn tín dụng ưu đãi (triệu đồng)

Trích lập quỹ phát triển KH&CN (triệu đồng)

Thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN

Các ưu đãi hỗ trợ khác

Tổng số lao động

Phân bón nông nghiệp

3.103

80.525 932.112 743.532

2.999

-

-

-

-

-

552

1.

34.735 29.991

Công ty CP Công Nông nghiệp Tiến Nông

- Số: 228 / DNKHCN Ngày 08/4/2014; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

1 Sử dụng dấu chấm để phân chia hàng nghìn, dấu phẩy để chia số thập phân

128

Giống lúa

2.

1.178

6.000 26.500

5.249

-

-

-

-

-

-

86

105 32,5

Công ty CP giống cây trồng Thanh Hóa

- Số: 984 / DNKHCN Ngày 18/12/2014; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Dung dịch HAEMO

3.

21.042 49.909

0

0

0

0

0

0

38

34.480

32.341 (93,8 %)

1.348 1.264

Công ty TNHH AEONMED Việt Nam

- Số: 985 / DNKHCN Ngày 18/12/2014; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Linh kiện Chíp điện tử thạch an

4.

-

250.000

-

-

-

-

-

-

-

-

-

75

Công ty TNHH Điện tử Bình Minh

- Số: 986 / DNKHCN Ngày 18/12/2014; - Đang dừng sản xuất; - Tƣ nhân.

- Số: 987 / DNKHCN Ngày 18/12/2014; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

5.

0

3.918

1.316

1.316

0

0

0

0

18

5,691 56,128

28.456 28,456

Công ty Quảng cáo Ánh Dƣơng

- Hệ thống máy khắc dấu kim loại siêu tốc - Sản phẩm mỹ nghệ - quà tặng sản xuất theo công nghệ chế bản chân không AD-BBB

129

6.

8.000

1.050 46.691 40.691

18.374

-

-

100

-

-

83

18.374 18.374

- Phần mềm CNTT: Phần mềm Quản lý bệnh viện

Công ty TNHH Minh Lộ

- Số: 181 / DNKHCN Ngày 15/5/2015; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

7.

6.721

26.000 25.177,8 18.177

-

0

0

0

0

0

68

363,56 363,56

- Số: 180 / DNKHCN Ngày 15/5/2015; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

Sản phẩm nông nghiệp (Giống mía nuôi cấy mô, dưa vàng, cam, hoa lan...)

Công ty TNHH Trung tâm NC&PT nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn

Tảo soắn Spirulina

8.

2.249

15.000 37.826

3.317

-

-

-

1.900

-

1.000

Công ty CP Long Phú

15- 20

3.845 991

- Số: 182 / DNKHCN Ngày 15/5/2015; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Thuốc thể thao

9.

150

120

398,027

0

0

0

78,75

596,48

0

10

246,43 62,00

100

Doanh nghiệp tƣ nhân Hãng thuốc Thể thao

- Số: 183 / DNKHCN Ngày 15/5/2015; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

Gạch không nung

10.

-

9.000

-

-

(Lỗ)

-

-

-

-

-

-

31

Số 1021/ DNKHCN Ngày 21/12/2015;

Công ty CP đầu tƣ khoáng sản Thanh Hoá

130

- Đang dừng sản xuất; - Tƣ nhân.

Công ty CP Dạ Lan

Rƣợu nếp cái hoa vàng Dạ Lan

11.

10.113 109,007

3.000

0

0

0

500

1.802

0

205

5.000

50.964

- Số 243/ DNKHCN Ngày 04/04/2016; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Gạch men cao cấp

12.

12.657 14.391 479.238 431.312

-

-

-

-

6.900

-

450

Công ty Cp đầu tƣ phát triển Vicenza

5.900 5.310

- Số 355/ DNKHCN Ngày 12/05/2016; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Công ty Cp dụng cụ thể thao Delta

Bóng đá thể thao theo tiêu chuẩn FIFA

13.

34.137 240,000 470.998 107.828

-

-

-

-

7.185

- 2.900

24.495 5.608

- Số 356/ DNKHCN Ngày 12/05/2016; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Sản phẩm dƣợc

14.

250

67.930 515.214 74.825

0

0

0

0

0

0

793

Công ty Cp Dƣợc vật tƣ Y tế Thanh Hoá.

2.778 1.159

- Số 357/ DNKHCN Ngày 12/05/2016; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Rƣợu Chine

15.

65

65.000 204.917 3.500

0

0

0

50

0

0

17

Công ty Cổ phần

- Số: 1148 / DNKHCN

525 325

131

Thƣơng mại Hậu Lộc

Ngày 30/12/2016; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Phân bón hữu cơ vi sinh

16.

844

6.800 362,87 362,87

1,032

0

0

0

505,3

0

10

Công ty CP phân bón Hữu cơ Miền Trung

5,16 5,16

- Số: 458 / DNKHCN Ngày 15/5/2017; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Chế phẩm phòng chống mối, rắn độc

17.

542,7

1.400

775,2

20,7

0

0

41,5

0

0

58

775,2 (100%)

103,8 103,8

- Số: 459 / DNKHCN Ngày 15/5/2017; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

Công ty TNHH Dịch vụ Khoa học kỹ thuật Lam Sơn Thanh Hoá

Phân bón viên nén NK 25-20

Công ty CP Thiên Nông Thanh Hoá

18.

491

53.100 261.231 16.399

0

0

0

100

1.231,5

0

60

100,9 458,8

- Số: 460 / DNKHCN Ngày 15/5/2017; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Ống nhựa thoát nƣớc thải

19.

500

15.868 18.000

500

0

0

3.700

0

0

0

20

500 70

- Số: 90 / DNKHCN Ngày 2/2/2018; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Công ty Cổ phần đầu tƣ phát triển công nghệ Tân Thanh Phƣơng

20.

446

30.600 79.827 72.704

838

0

0

0

0

0

0

188

Công ty Cổ phần thiết bị

Thiết bị giáo dục và văn

- Số: 400 / DNKHCN

132

phòng

838

giáo dục Hồng Đức

Ngày 15/5/2018; - Cổ phần; - Đang hoạt động.

Nƣớc mắm Tuyến Hòa - Ba Làng

21.

1.000

1.900

889,6

500,2

-

-

-

-

-

-

34

Công ty TNHH chế biến hải sản Ba Làng

16,4 10,1

- Số: 401 / DNKHCN Ngày 15/5/2018; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

Thuốc YHCT Bà Giằng

22.

148

20.000 10.658 10.658

29,3

-

-

-

842

-

41

290 290

Số: 402 / DNKHCN Ngày 15/5/2018

Doanh nghiệp Tƣ nhân sản xuất thuốc YHCT Bà Giằng

Phần mềm CNTT

23.

72

83

12

12

-

0

0

0

0

0

0

5

Công ty TNHH lập trình phần mềm thông minh

- Số: 403 / DNKHCN Ngày 15/5/2018; - Tƣ nhân; - Đang hoạt động.

Công ty Cp ThinkLabs

Phần mềm CNTT

24.

-

3.900

-

-

-

-

-

-

-

-

-

15

- Số: 475 / DNKHCN ngày 17/5/2019; - Cổ phần; - Đang hoạt động. - Mới thành lập DN KH&CN

133