ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THU HƢƠNG
CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THU HƢƠNG
CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
NĂM 2015
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo
Hà nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
NGƢỜI CAM ĐOAN
BÙI THU HƢƠNG
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN
BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 7
1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 7
1.1.2. Ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 14
1.2.1. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 16
1.2.2. Các loại văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo 21
1.2.3. Phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng 23
1.3. Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 36
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945 36
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 37
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay 38
Kết luận chƣơng 1 41
CHƢƠNG 2 42
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CẤP,
TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ 42
2.1. Các văn bản tố tụng phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 42
2.1.1.Văn bản tố tụng dân sự do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo 42
2.1.2.Văn bản tố tụng dân sự do Viện kiểm sát cấp, tống đạt, thông báo 47
2.1.3.Văn bản tố tụng dân sự do cơ quan Thi hành án dân sự cấp, tống đạt,
thông báo 49
2.2. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 50
2.2.1. Chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 51
2.2.2. Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 53
2.3.1. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trực tiếp 55
2.3.2. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự qua dịch vụ bưu chính
hoặc người thứ ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo 58
2.3.3. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự bằng phương tiện điện
tử 60
2.3.4. Niêm yết công khai 62
2.3.5.Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng 64
2.3.6.Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong trường hợp
đương sự ở nước ngoài 66
CHƢƠNG 3 72
THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 72
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 72
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 72
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 74
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng dân sự 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
FRCP
: Federal Rules of Civil Procedure (quy tắc thủ tục TTDS Liên bang)
HĐXX : Hội đồng xét xử
PLTTDS : Pháp luật tố tụng dân sự
TAND : Toà án nhân dân
TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
THA : Thi hành án
THADS : Thi hành án dân sự
TTDS : Tố tụng dân sự
UBND : Uỷ ban nhân dân
UTTP : Uỷ thác tƣ pháp
VBTT : Văn bản tố tụng
VBTTDS : Văn bản tố tụng dân sự
VKS : Viện kiểm sát
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự là một phần rất quan
trọng trong hoạt động tƣ pháp và gắn liền với việc tiến hành tố tụng của các
cơ quan nhƣ Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự. Trong tố tụng
dân sự, việc chuyển giao, thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan
đến vụ việc dân sự các văn bản tố tụng đang đƣợc giải quyết là rất cần thiết để
họ biết mà thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tùy theo nội
dung yêu cầu thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của những ngƣời đó mà
các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành chuyển giao hoặc thông báo cho họ
biết nội dung văn bản tố tụng dƣới hình thức nhất định nhƣ cấp, tống đạt hoặc
thông báo nội dung của nó. Trong đó, hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành
tố tụng giao cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự để họ
sử dụng đƣợc coi là cấp văn bản tố tụng; hoạt động tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng giao văn bản tố tụng và buộc họ phải nhận đƣợc gọi là tống đạt
văn bản tố tụng; hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng báo cho cá
nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự đƣợc biết những vấn đề
liên quan đến họ đƣợc gọi là thông báo văn bản tố tụng [39, trang 201].
Với xu hƣớng minh bạch hóa quá trình tố tụng và đảm bảo sự tham gia
ngày càng tích cực của các đƣơng sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, pháp luật nƣớc ta đã có nhiều quy định liên quan đến văn bản tố tụng cũng
nhƣ cách thức, thủ tục cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng. Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 (có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/07/2016) đã dành
một Chƣơng (từ Điều 170 đến Điều 181) để quy định về trình tự cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng. Theo đó, vấn đề này đƣợc quy định một cách cụ
thể, chi tiết hơn và có sự bổ sung về phƣơng thức thực hiện. Đây đƣợc xem là
bƣớc tiến về thủ tục tống đạt so với các văn bản quy định về tố tụng dân sự
1
trƣớc đây. Qua thời gian áp dụng trong thực tiễn, các quy định về cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng đã phát huy giá trị, góp phần quan trọng vào
việc đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản tố tụng và đặc biệt đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện cho thấy một số quy định về tống đạt văn bản tố tụng của
BLTTDS đã bộc lộ không ít vƣớng mắc, bất cập cần có sự hoàn thiện hoặc
cần có văn bản hƣớng dẫn để phát huy giá trị pháp lý của thủ tục tố tụng này.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: "Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật
học với mong muốn tìm ra những bất cập trong các quy định của pháp luật
cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng trên thực tế
liên quan đến hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự. Từ
đó đƣa ra đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật, góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành
về chế định cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự nhằm khẳng định
tầm quan trọng của hoạt động tố tụng này trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, vấn đề cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự chƣa
thực sự đƣợc quan tâm nghiên cứu.
Nội dung cơ bản của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự đƣợc đề cập đến trong một số giáo trình mang tính chất là tài liệu tham
khảo, học tập đối với sinh viên chuyên ngành luật nhƣ: “Giáo trình Luật tố
tụng dân sự” của Học viện Tƣ pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm
2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Nhà xuất bản Giáo dục
xuất bản năm 2011; “Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam” của trƣờng Đại
học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2012; “Giáo trình
2
Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất
bản Tƣ pháp, năm 2015; “Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa
Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do Bùi Thị Thanh Hằng chủ biên,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Tính đến hiện nay mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về hoạt động
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, cụ thể là: khóa luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Lan “Thủ tục cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng
dân sự”, thực hiện tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2010; khóa luận tốt
nghiệp của Trần Thị Nguyệt “Thủ tục cấp, thông báo, tống đạt các văn bản tố
tụng”, thực hiện tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ
của Đèo Thị Thủy “Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự - Thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La” bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm
2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Giang “Cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng dân sự”, bảo vệ tại Khoa Luật - Trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội
năm 2014.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập một cách khái quát những vấn
đề cơ bản về chế định cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc đã nghiên cứu về một hay một số vấn
đề cụ thể của hoạt động này. Các tác giả đã đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện
có giá trị để hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản trong tố tụng dân sự
đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn hạn chế về
mặt số lƣợng và mới chỉ dừng lại ở một phạm vi nhất định. Đặc biệt là Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 mới đƣợc ban hành và đƣa vào thực hiện trên thực tế
đòi hỏi cần có sự nghiên cứu sâu hơn không chỉ về nội dung các quy định mà
còn xem xét tính khả thi, khả năng áp dụng trên thực tế của các quy định đó.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề về lý luận, thực trạng
quy định của pháp luật cũng nhƣ thực tiễn áp dụng của hoạt động cấp, tống
3
đạt, thông báo văn bản tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là rất
cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu nhằm đề xuất các giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự và nâng cao hiệu quả hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng dân sự trên thực tế.
Để có thể đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn phải giải
quyết các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cấp, tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng dân sự; chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự; sự phát triển các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề này.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015.
Thứ ba, phân tích thực tiễn thi hành các quy định về cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trên cơ sở
đó đề xuất, đƣa ra các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp
luật, đảm bảo tốt việc thực hiện những quy định về cấp, tống đạt, thông báo
văn bản trong tố tụng dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật TTDS về cấp, tống đạt, thông báo VBTT và thực tiễn thực hiện các quy
định về cấp, tống đạt, thông báo VBTT theo BLTTDS năm 2015.
Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS là một hoạt động tố tụng quan trọng
và có ý nghĩa rất lớn. Do vậy, đề tài mà tác giả nghiên cứu có nhiều nội dung
4
khác nhau. Trong khuôn khổ và điều kiện thời gian nghiên cứu đề tài luận văn
thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, nội
dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cấp, tống đạt, thông
báo VBTTDS và đánh giá hoạt động tố tụng này thông qua những vụ án thực
tế trong vài năm gần đây từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS để từ đó có sự đánh giá, so
sánh, liên hệ với pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa vào phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhận thức, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và đƣờng lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, luận văn sử dụng
kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê.
Một số phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc áp dụng trong luận văn:
Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp: Những phƣơng pháp này đƣợc sử
dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về nội dung của
việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự.
Phƣơng pháp luật học so sánh: Những phƣơng pháp này đƣợc ngƣời viết
vận dụng để nghiên cứu so sánh pháp luật của một số quốc gia về tống đạt
văn bản tố tụng dân sự, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Đƣợc vận dụng để triển
khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến hoạt động cấp, tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng dân sự, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể nhƣ trên
cơ sở đƣa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích ngƣời viết dùng
phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó…
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần bổ sung lý luận về vấn đề cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự; chủ thể, đối tƣợng và
phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự…; thực trạng
điều chỉnh của pháp luật mà cụ thể là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối với
vấn đề cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, chỉ ra những bất cập
của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự.
Ngoài ra, công trình nghiên cứu này cũng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Luật tố tụng dân sự trong các cơ
sở đào tạo luật, cũng nhƣ làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan xây dựng
pháp luật và cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố
tụng dân sự
Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Chƣơng 3: Thực tiễn thi hành và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của
hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự Việt Nam.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO
VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự
1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
a. Cấp văn bản tố tụng dân sự
Hiểu theo nghĩa đơn giản và phổ thông nhất thì “cấp” là một hoạt động
nhằm cung cấp cho ai đó vật, giấy tờ, tài liệu xác định để họ sử dụng tùy theo
mục đích khác nhau. Đối với thuật ngữ này, Từ điển Tiếng Việt cũng đƣa ra
cách hiểu khái quát về khái niệm “cấp” là việc giao cho hƣởng, giao cho toàn
quyền sử dụng [46]. Tuy nhiên, khi mang tính chất là một thuật ngữ pháp lý
thì việc cấp văn bản tố tụng dân sự phải đƣợc hiểu với ý nghĩa cụ thể hơn gắn
với yêu cầu của từng hoạt động tố tụng cụ thể.
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội định nghĩa: “Hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng giao cho
cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự văn bản tố tụng để họ
sử dụng được gọi là cấp văn bản tố tụng”(trang 201). Ví dụ: sau thời hạn luật
định, đƣơng sự đƣợc Tòa án cấp cho Quyết định giải quyết việc dân sự về
việc công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận giữa các đƣơng sự. Quyết định
này có hiệu lực ngay và đƣợc cấp cho đƣơng sự để họ sử dụng làm căn cứ cho
việc chấm dứt quan hệ hôn nhân. Cơ quan tiến hành tố tụng ở đây hay còn gọi
là chủ thể thực hiện việc cấp VBTTDS bao gồm Tòa án và cơ quan thi hành
án dân sự. Viện kiểm sát không thực hiện việc cấp VBTTDS do chức năng
của VKS là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Do đó, định
7
nghĩa theo giáo trình nhƣ trên còn chung chung, chƣa chỉ rõ đƣợc cơ quan
tiến hành tố tụng bao gồm những cơ quan nào và chƣa thực sự chính xác khi
thực tế hiện nay ngoài Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự thì Văn phòng
thừa phát lại cũng là một chủ thể đƣợc nhà nƣớc trao quyền thực hiện việc cấp
VBTTDS.
Theo quan điểm của tác giả, hoạt động cấp VBTTDS có thể đƣợc hiểu
nhƣ sau: “Cấp VBTTDS là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền (gồm Toà
án, cơ quan Thi hành án, Thừa phát lại) tiến hành giao VBTT cho các đương
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự
và thi hành án để họ sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật”.
b. Thông báo văn bản tố tụng dân sự
Theo từ điển Tiếng Việt, “thông báo” đƣợc hiểu là báo cho mọi ngƣời
biết tình hình, tin tức bằng lời nói hoặc văn bản [46]. Nhƣ vậy, dựa theo cách
hiểu nhƣ trên thì việc cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến vụ việc dân sự biết về những hoạt
động tố tụng liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ đƣợc gọi là
thông báo văn bản tố tụng dân sự. Việc thông báo đƣợc thể hiện dƣới hình
thức văn bản. Mục đích của hoạt động này nhằm truyền tải các thông tin về
hoạt động giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để đƣơng sự biết thông tin
để từ đó có cách xử sự phù hợp. Không giống nhƣ hoạt động tống đạt, việc
thông báo VBTTDS chỉ nhằm giúp đƣơng sự nhận biết rằng VBTTDS đã
đƣợc ban hành công khai với nội dung nhất định hay một hoạt động tố tụng
nào đó sắp đƣợc tiến hành để các chủ thể biết và tham gia, không phụ thuộc
vào ý chí của các chủ thể đƣợc thông báo. Trong đó chủ thể thực hiện thông
báo là các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan
THADS và tổ chức Thừa phát lại. Đối tƣợng thông báo là các văn bản tố tụng
phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự.
8
Ví dụ: Đối với Thông báo thụ lý vụ án đƣợc quy định tại Điều 196
BLTTDS năm 2015 thì “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ
án, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho
VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án”. Có thể thấy điều luật này đã
quy định rõ thẩm phán là ngƣời có nghĩa vụ thực hiện việc thông báo cho các
đƣơng sự, ngƣời có quyền và lợi ích liên quan và VKS cùng cấp. Hoạt động
thông báo này là bƣớc quan trọng trong thủ tục tố tụng để giúp các đƣơng sự
biết thông tin về vụ việc đã đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết. Mặt khác đây cũng
là căn cứ để đƣơng sự cũng nhƣ VKS nắm bắt đƣợc thông tin vụ việc để từ đó
có căn cứ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa về thông báo VBTTDS
nhƣ sau: “Thông báo VBTTDS là việc các cơ quan có thẩm quyền bao gồm
Toà án, VKS, cơ quan THADS và tổ chức Thừa phát lại chuyển đến cho
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích liên quan các thông
tin về hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có liên quan
tới quyền và nghĩa vụ của họ để họ biết và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình theo đúng quy định của pháp luật”.
c. Tống đạt văn bản tố tụng dân sự
Về mặt pháp lý, Từ điển Luật học có đƣa ra khái niệm tống đạt là “việc
chuyển các giấy tờ đến tận tay người nhận” [45]. Với tƣ cách là một thuật
ngữ pháp lý thì tống đạt là việc chuyển đến đƣơng sự giấy tờ cần thiết của cơ
quan tƣ pháp. Theo pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan
Thi hành án có nghĩa vụ tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đƣơng
sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đến vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng. Việc chuyển
giao tài liệu, giấy tờ do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện là hoạt động giao
9
nhận một cách chính thức và mang tính chất bắt buộc đối với ngƣời nhận,
ngƣời nhận văn bản bắt buộc phải có trách nhiệm tuân theo, không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của ngƣời nhận văn bản tống đạt.
Ví dụ: ông H là đƣơng sự trong một vụ án dân sự, Tòa án huyện K tống
đạt cho ông H giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử vào ngày 20/05/2018.
Ông H có nghĩa vụ phải tham gia phiên tòa vào đúng thời gian nên trên.
Tại Khoản 3 Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số
61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì: “Tống đạt là
việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án
dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật”. Với quy
định này, bản chất của hoạt động tống đạt văn bản là việc “thông báo” và
“giao nhận” các văn bản tố tụng, điều này cũng gần giống với hoạt động
thông báo hay cấp VBTT.
Thông thƣờng cơ quan nào ban hành ra VBTTDS thì phải có nghĩa vụ
thực hiện việc tống đạt VBTT đó. Khác với hoạt động cấp hay thông báo
VBTTDS, tống đạt mang tính chất bắt buộc, thậm chí là áp đặt đối với đƣơng
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự. Ở đây, ngƣời
nhận văn bản phải có trách nhiệm bắt buộc tuân theo, không phụ thuộc vào ý
chỉ chủ quan của họ, buộc họ phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Trƣờng hợp họ không thực hiện đúng nhƣ nội dung văn bản yêu cầu thì vô
hình chung họ đã tự mình từ bỏ quyền và nghĩa vụ. Đây là cơ sở để các cơ
quan có thẩm quyền xác định và tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo
theo trình tự luật định.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra định nghĩa về tống đạt VBTTDS nhƣ sau:
“Tống đạt VBTTDS là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền bao gồm Toà
10
án, cơ quan THADS và Thừa phát lại giao cho đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự VBTT, buộc họ phải nhận và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật”.
Có thể nói cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS đều là hoạt động tố tụng
quan trọng của các cơ quan có thẩm quyền nhằm chuyển giao văn bản tố tụng
do các cơ quan này ban hành cho các chủ thể có liên quan để họ biết đƣợc nội
dung các hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để từ đó
giúp họ biết và sử dụng quyền, nghĩa vụ của mình một cách hợp pháp.
d. Đặc trưng cơ bản của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự ở
Việt Nam
Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS ở Việt Nam có những đặc trƣng sau
đây:
Thứ nhất: cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là nghĩa vụ
của cơ quan ban hành văn bản tố tụng dân sự. Theo quy định của BLTTDS thì
chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm Toà án, Viện kiểm sát,
cơ quan Thi hành án, đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định,
ngƣời phiên dịch và ngƣời liên quan. Trong quá trình tiến hành tố tụng, tuỳ
vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà các cơ quan nhƣ Toà án,
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án đã ban hành ra nhiều văn bản với mục đích
và nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có một số văn bản tố tụng dân sự đƣợc cấp,
tống đạt, thông báo cho đƣơng sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự và THADS. Việc cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự do Toà án, Viện kiểm sát, cơ
quan thi hành án dân sự thực hiện, đây cũng đƣợc xem là nghĩa vụ của các cơ
quan này. Việc quy định nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự cho các cơ quan tiến hành tố tụng góp phần đảm bảo việc giải quyết
11
các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, đảm bảo thời gian và tuân theo trình tự
luật định. Qua đó cũng thể hiện vai trò chủ đạo của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này cũng giúp đảm
bảo các quyền cho đƣơng sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác, các cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thứ hai: văn bản đƣợc cấp, tống đạt, thông báo là văn bản tố tụng của
Toà án, VKS và cơ quan Thi hành án ban hành. Để đảm bảo việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng đã
sử dụng công cụ là văn bản tố tụng dân sự nhƣ bản án, quyết định của Toà án,
giấy mời, giấy báo...theo quy định của pháp luật về hình thức cũng nhƣ nội
dung thể hiện văn bản. Đây là các văn bản thể hiện nội dung làm việc trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 171 BLTTDS năm
2015 thì nhìn chung các văn bản đƣợc cấp, tống đạt, thông báo chủ yếu là do
Toà án, VKS và cơ quan Thi hành án ban hành. Cụ thể, các văn bản tố tụng
phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo gồm có: thông báo, giấy báo, giấy triệu
tập, giấy mời trong tố tụng dân sự; bản án, quyết định của Toà án; quyết định
kháng nghị của VKS; các văn bản của cơ quan thi hành án dân sự và các văn
bản khác mà pháp luật có quy định.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, mỗi cơ quan tiến hành tố
tụng có vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Chức năng của Viện kiểm sát
là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, do đó các loại văn
bản do cơ quan này ban hành thông thƣờng ít đƣợc cấp, tống đạt, thông báo.
Cụ thể, loại VBTT mà VKS phải tiến hành cấp, tống đạt, thông báo đó là
Quyết định kháng nghị (khoản 3 Điều 171). Trong khi đó cơ quan Thi hành
án dân sự thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật. Công việc này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan nên việc ban
12
hành và thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản cho họ là rất
cần thiết. Còn đối với Toà án, đây là cơ quan đóng vai trò là cầu nối trung
gian, cơ quan tiến hành tố tụng và đƣa ra quyết định cuối cùng trong quá trình
giải quyết vụ việc. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình, Toà án cần
tìm hiểu và tiếp cận sự việc một cách xuyên suốt theo trình tự luật định, điều
này cũng chiếm phần lớn thời gian trong quá trình tố tụng. Do đó ta có thể
thấy hầu hết các văn bản tố tụng dân sự đƣợc cấp, tống đạt, thông báo là do
Toà án và cơ quan Thi hành án ban hành và thực hiện.
Thứ ba: cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nƣớc. Để thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện theo
đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Ngoài ra, hình thức và nội dung
mà văn bản tố tụng đó thể hiện cũng phải tuân thủ theo luật định. Để thực
hiện việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thì ngoài cơ quan tiến hành tố
tụng nhƣ Toà án, VKS, cơ quan THA thì Thừa phát lại cũng là một tổ chức
đƣợc nhà nƣớc trao quyền thực hiện việc tống đạt VBTTDS nhằm góp phần
làm giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan nhà nƣớc, nâng cao hiệu quả xét xử,
tiến độ thi hành án và các quyền tố tụng của công dân. Hay nói cách khác,
hoạt động tống đạt của Thừa phát lại đƣợc thực hiện theo sự uỷ quyền (thông
qua hình thức hợp đồng) của cơ quan nhà nƣớc theo trình tự, thủ tục chặt chẽ
do pháp luật quy định. Do đó hoạt động của tổ chức Thừa phát lại cũng mang
tính quyền lực nhà nƣớc.
Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự đƣợc quy định cụ thể
tại chƣơng X (từ Điều 170 đến Điều 181) của BLTTDS năm 2015. VBTTDS
đƣợc ban hành bởi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và đƣợc bảo đảm thực
hiện bởi quyền lực nhà nƣớc. Nếu ngƣời có quyền hoặc nghĩa vụ thực hiện
việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng mà không thực hiện hoặc thực
13
hiện không đúng, cố tình làm sai quy định của pháp luật thì phải chịu những
chế tài nhất định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi.
Ngƣời có nghĩa vụ thi hành các VBTTDS đã đƣợc cấp, tống đạt, thông báo thì
phải nghiêm chỉnh thực hiện, nếu không thi hành hoặc thi hành không đúng
thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định
của pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Thứ nhất: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự. Đƣơng sự
chỉ có thể thực hiện đƣợc các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình khi họ có
đầy đủ thông tin về quá trình tố tụng, đƣợc cấp, tống đạt, thông báo đầy đủ,
kịp thời các văn bản tố tụng. Ví dụ, đƣơng sự sẽ không thể thực hiện đƣợc
quyền tranh tụng, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc tòa
án nếu không đƣợc tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu
tập tham gia phiên tòa, phiên họp v.v… Hoạt động cấp, tống đạt, thông báo
VBTTDS là cầu nối gắn kết giữa cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành
án với ngƣời tham gia tố tụng. Nhờ có hoạt động này mà các thông tin liên
quan đến vụ việc dân sự đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng thông báo tới các
đƣơng sự, giúp họ nắm bắt đƣợc thông tin cũng nhƣ theo dõi đƣợc quá trình
diễn biến vụ việc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhƣ vậy, mặc dù
không trực tiếp tác động đến kết quả giải quyết nội dung vụ án, nhƣng cấp,
tống đạt, thông báo chính là phƣơng tiện góp phần đảm bảo công lý về thủ tục
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
đảm bảo việc cung cấp những thông tin quan trọng, cần thiết trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự cho đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng
sự. Thông qua hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTT của Tòa án, VKS, cơ
14
quan THA, tổ chức Thừa phát lại mà cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến
vụ việc dân sự có thể biết đƣợc quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có
những hành vi xử sự phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên
cạnh đó, thông qua hoạt động cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS công dân
đƣợc thực hiện quyền dân chủ, quyền giám sát đối với cơ quan nhà nƣớc.
Điều này đƣợc thể hiện qua việc pháp luật quy định cho đƣơng sự quyền
kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án và quyền khiếu nại, tố cáo
khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Thứ hai: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS là mắt xích quan trọng để
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng một cách có trình tự,
khoa học và thông suốt. Ví dụ: Trƣớc khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử,
Thẩm phán phải tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hoà giải giữa các đƣơng sự (trừ trƣờng hợp vụ án dân
sự không đƣợc hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải đƣợc). Để tiến hành
đƣợc phiên họp thì phải có ngƣời tham gia phiên họp. Muốn có ngƣời tham
gia phiên họp thì Toà án phải thông báo cho các bên liên quan để họ đƣợc biết
và tham gia phiên họp theo đúng thời gian, địa điểm mà Toà án đã ấn định.
Nhƣ vậy, nếu Toà án không thực hiện hoạt động thông báo về phiên họp cho
các đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự cũng nhƣ các cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự đang đƣợc Toà án thụ lý giải
quyết thì họ không thể biết đƣợc thông tin về phiên họp để tham gia. Điều này
sẽ làm gián đoạn, gây khó khăn, cản trở trong việc thực hiện các hoạt động tố
tụng tiếp theo của Toà án.
Thứ ba: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS giúp các cơ quan tiến hành
tố tụng (Toà án, VKS, cơ quan THA, Thừa phát lại) thực hiện nhiệm vụ và
quyền hạn của mình một cách đúng đắn, kịp thời. Để giải quyết một vụ việc
15
dân sự cần trải qua các giai đoạn cũng nhƣ trình tự thủ tục nhất định do pháp
luật quy định. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn khác nhau do đó hoạt động thông báo, cấp, tống đạt VBTTDS sẽ đảm bảo
việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự của mỗi cơ
quan. Việc cấp, tống đạt, thông báo VBTT giúp cho quá trình giải quyết vụ
việc dân sự đƣợc diễn ra một cách công khai, minh bạch, dân chủ. Ngoài việc
công dân có thể thực hiện quyền dân chủ, quyền giám sát đối với cơ quan nhà
nƣớc thì hoạt động tố tụng này cũng giúp VKS thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của cơ quan tƣ pháp trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự. Đối với cơ quan THADS, việc thông báo cũng giúp cho quá trình
thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật đƣợc diễn ra nhanh chóng, đúng pháp luật. Việc thực hiện tốt các hoạt
động cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS cũng góp phần không nhỏ vào việc
giúp cho các vụ việc dân sự đƣợc diễn ra công khai, minh bạch và dân chủ,
phù hợp với chủ trƣơng để “dân biết, dân, làm, dân kiểm tra” của Đảng và
Nhà nƣớc.
1.2. Chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng dân sự
Pháp luật TTDS các quốc gia trên thế giới khi quy định về chủ thể, đối
tƣợng và phƣơng thức tống đạt VBTTDS có những điểm khác biệt nhất định
tuỳ thuộc vào mô hình tố tụng cũng nhƣ hệ thống pháp luật từng quốc gia. Do
đó, nội dung chính trong phần này sẽ tập trung tìm hiểu, so sánh pháp luật
một số quốc gia đại diện cho các mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố
tụng thẩm vấn để từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
1.2.1. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Nhìn chung, chủ thể tống đạt VBTTDS ở các quốc gia hiện nay có sự
kết hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức thừa phát lại và tƣ nhân.
16
Ở các nƣớc châu Âu lục địa với mô hình tố tụng thẩm vấn, vai trò của
cơ quan công quyền trong hoạt động tố tụng đƣợc đề cao, do đó, việc tống đạt
các VBTT chủ yếu do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (thƣờng là Toà án)
kết hợp với Thừa phát lại thực hiện. Chẳng hạn, Pháp là một quốc gia tiêu
biểu của mô hình tố tụng thẩm vấn với vai trò chủ động của thẩm phán trong
tố tụng dân sự. Một vụ việc dân sự đƣợc bắt đầu bằng việc nguyên đơn tống
đạt trực tiếp giấy mời ra tòa (assignation) cho bị đơn thông qua một chức
danh gọi là “huissier” - thừa phát lại (Điều 55, 750 BLTTDS Pháp). Thừa
phát lại có độc quyền thực hiện tống đạt chính thức, là những ngƣời có chức
năng tống đạt và phải tuân theo quy định của pháp luật. Việc tống đạt giấy
mời ra tòa phải đƣợc thực hiện tại trụ sở của bị đơn (nếu bị đơn là tổ chức)
hoặc nơi cƣ trú của bị đơn (nếu bị đơn là cá nhân). Giấy mời ra tòa đƣa ra yêu
cầu của nguyên đơn và các căn cứ thực tế cũng nhƣ căn cứ pháp lý của yêu
cầu đó, kèm theo là danh mục các tài liệu, chứng cứ ban đầu của nguyên đơn
(Điều 56). Sau khi tống đạt giấy mời ra tòa cho bị đơn, nguyên đơn phải nộp
đơn khởi kiện đến Tòa án. Tòa án thụ lý vụ án khi nguyên đơn nộp bản sao
đơn khởi kiện mà nguyên đơn đã tống đạt cho bị đơn (Điều 53-54). Việc tống
đạt cũng có thể đƣợc thực hiện theo sự sắp đặt của Văn phòng toà án (trong
một số trƣờng hợp nhất định để triệu tập một phiên họp hoặc tống đạt các bản
án).
Ở một số quốc gia khác nhƣ Đức có hai hình thức tống đạt, đó là tống
đạt chính thức và tống đạt do các bên thực hiện. Tống đạt chính thức là việc
tống đạt đƣợc thực hiện bởi Chánh văn phòng tòa án nơi vụ kiện đang đƣợc
giải quyết (Điều 168 (1) của Bộ luật tố tụng dân sự của Đức). Chánh văn
phòng tòa án có quyền lựa chọn phƣơng thức tống đạt theo cách mà ngƣời đó
cho là tốt nhất nhƣ: tống đạt thông qua luật sƣ hoặc ngƣời đại diện hợp pháp
của đƣơng sự, tống đạt trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bƣu chính, hoặc chỉ
17
định một cán bộ tòa án thực hiện việc tống đạt. Trong một số trƣờng hợp
đƣợc quy định hợp pháp, thẩm phán có trách nhiệm sắp xếp việc tống đạt, ví
dụ trong trƣờng hợp tống đạt ra nƣớc ngoài (Điều 183 và Điều 184) hoặc tống
đạt theo hình thức công bố công khai (Điều 186 và Điều 187).
Việc tống đạt VBTTDS do các bên thực hiện về nguyên tắc sẽ thông
qua chức danh Thừa phát lại. Thừa phát lại tống đạt theo chỉ dẫn trực tiếp của
các đƣơng sự hoặc thông qua thỏa thuận với Văn phòng tòa án (Điều 192).
Thừa phát lại có thể giao phó việc tống đạt tài liệu cho dịch vụ bƣu chính
(Điều 194).
Ở các nƣớc thuộc truyền thống common law với mô hình tố tụng tranh
tụng, vai trò tống đạt của tƣ nhân đƣợc đề cao hơn so với vai trò của cơ quan
nhà nƣớc.
Theo pháp luật Mỹ, sau khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án, nguyên đơn
có nghĩa vụ tống đạt các văn bản khởi kiện cho bị đơn, tức là giao cho bị đơn
bản sao đơn khởi kiện và một thông báo (summons) của tòa án yêu cầu bị đơn
phải đến để trả lời về một khiếu kiện trƣớc Toà án nhằm bảo vệ quyền lợi của
mình. Đây là thông báo có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý từ phía Tòa án.
Và trong trƣờng hợp không có câu trả lời, thông báo này sẽ cho phép nguyên
đơn có đƣợc phán quyết trên cơ sở những lời cáo buộc có trong đơn kiện
(Quy tắc số 55). Các biện pháp theo đó lệnh tống đạt có hiệu lực là tƣơng đối
phức tạp, song nhìn chung chúng đƣợc xây dựng nhằm đem lại sự bảo đảm
hợp lý rằng ngƣời đƣợc triệu tập sẽ thực tế nhận đƣợc thông báo về vụ việc.
Việc nhận đƣợc thông báo và đơn khởi kiện sẽ bắt đầu vào thời điểm mà bị
đơn phải trả lời khiếu kiện (quy định 12(a)).
Sau khi nhận đƣợc các văn bản từ nguyên đơn, bị đơn phải phúc đáp
bằng việc nộp một bản trả lời, trong đó phúc đáp lại từng đoạn văn trong đơn
khởi kiện (có thể là thừa nhận những tình tiết có thật, bác bỏ những tình tiết
18
mà bị đơn cho là không có thật, hoặc nêu rõ bị đơn không có đủ thông tin để
thừa nhận hoặc bác bỏ). Những tình tiết bị đơn đã thừa nhận sẽ đƣợc coi là
tình tiết có thật, và toàn bộ quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm sẽ chỉ tập trung
vào các tình tiết mà bị đơn bác bỏ.
Ngoài ra, ngay ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý, các đƣơng sự có quyền
yêu cầu tòa án ra một số quyết định, nhƣ yêu cầu đình chỉ giải quyết vụ án
(motion to dismiss), yêu cầu chuyển vụ việc (motion to transfer)… dựa trên
các căn cứ nhƣ: tòa án không có thẩm quyền theo loại việc, hoặc tòa án không
có thẩm quyền theo lãnh thổ, hoặc yêu cầu của nguyên đơn thiếu cơ sở pháp
lý. Trƣờng hợp bị đơn yêu cầu đình chỉ vụ án do bị đơn không đƣợc tống đạt
các văn bản khởi kiện theo đúng thủ tục, thông thƣờng tòa án sẽ không đình
chỉ mà chỉ ra lệnh buộc nguyên đơn thực hiện lại việc tống đạt giấy tờ theo
đúng thủ tục. [19]
Ở hầu hết các bang tại Mỹ, chủ thể thực hiện tống đạt VBTT chỉ cần
đáp ứng điều kiện là phải từ 18 tuổi trở lên và không phải là đƣơng sự trong
vụ án. Ngoài ra, theo yêu cầu của nguyên đơn, tòa án có thể ra lệnh cho một
ngƣời đƣợc tòa án chỉ định đặc biệt để thực hiện tống đạt.
Tại một số quốc gia khác, quá trình tống đạt VBTTDS đƣợc thực hiện
thông qua Thừa phát lại. Chức danh này đƣợc bổ nhiệm bởi một thẩm phán
của Toà án (nhƣ tại Canada, Italia...) hoặc bởi Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp (ví dụ
nhƣ Pháp). Họ giữ độc quyền về chức năng tống đạt và thi hành các quyết
định của Toà án. Trong hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ, thừa phát lại
thƣờng đƣợc dịch là “bailiff” và đƣợc hiểu nhƣ là một viên chức thuộc Toà án
vì chức năng tƣơng tự nhƣ vậy. Là ngƣời hoạt động trong lĩnh vực pháp lý,
thừa phát lại thực hiện quá trình tống đạt VBTT, chịu trách nhiệm cung cấp
các giấy tờ, tài liệu trong vụ án và xác thực đối với các bên khi VBTT đƣợc
chuyển giao. Mọi hoạt động của họ phải tuân theo quy định của pháp luật.
19
Liên hệ với pháp luật Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 1975 dƣới ách cai trị
của thực dân Pháp cũng bị ảnh hƣởng bởi pháp luật Pháp. “Thừa phát lại” có
lẽ xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hoà ƣớc ngày
05/06/1862 nhƣợng cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đó Pháp đã áp đặt chế độ cai
trị và quy chế về thuộc địa lãnh thổ. Mô hình thừa phát lại đƣợc quy định ở
các bộ luật dân sự, tố tụng dân sự thời kỳ đó hầu hết đều theo khuôn mẫu của
mô hình thừa phát lại của Pháp. Cho đến nay, chức năng, nhiệm vụ của “thừa
phát lại” vẫn đƣợc quy định trong PLTTDS Việt Nam nhƣng vai trò của họ
ngày càng giữ vị trí quan trọng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống pháp luật
nƣớc ta.
Ở các nƣớc có pháp luật tố tụng dân sự khá tƣơng đồng với Việt Nam
nhƣ Nga và Trung Quốc, chủ thể thực hiện tống đạt VBTTDS là cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức khác có chức năng thực hiện tống
đạt theo quy định của pháp luật.
Theo BLTTDS Liên Bang Nga, sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán chuyển
hoặc tống đạt cho bị đơn bản sao đơn kiện và những tài liệu kèm theo làm cơ
sở cho yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu bị đơn trong thời hạn đƣợc ấn định
phải xuất trình những chứng cứ làm cơ sở cho sự phản đối của bị đơn (Điều
150). Trong quá trình chuẩn bị xét xử, các đƣơng sự phải tự tiến hành thu thập
chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cung cấp các
chứng cứ đó cho đƣơng sự còn lại và cho tòa án. Nguyên đơn, ngƣời đại diện
của nguyên đơn phải chuyển cho bị đơn bản sao chứng cứ làm cơ sở cho yêu
cầu của nguyên đơn. Bị đơn, ngƣời đại diện của bị đơn chuyển cho nguyên
đơn, đại diện của nguyên đơn và tòa án ý kiến phản đối bằng văn bản đối với
những yêu cầu của nguyên đơn và những chứng cứ làm cơ sở cho ý kiến phản
đối của bị đơn (Điều 149). Ở Nga, việc tống đạt giấy báo và giấy gọi do Toà
án thực hiện. Đối với bị đơn, Toà án gửi bản sao đơn khởi kiện cùng với
20
thông báo, còn đối với nguyên đơn, Toà án gửi bản sao bằng văn bản lời giải
thích của bị đơn cùng với thông báo, nếu Toà án có những lời giải thích đó.
Đối với pháp luật TTDS Trung Quốc, thủ tục tố tụng dân sự cũng mang
nhiều nét tƣơng đồng với thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam. Sau khi thụ lý vụ
án, Tòa án phải gửi bản sao đơn khởi kiện cho bị đơn trong thời hạn 5 ngày kể
từ ngày thụ lý. Bị đơn phải nộp bản tự bảo vệ cho tòa án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản sao đơn khởi kiện. Trong thời hạn 5 ngày kể
từ ngày nhận đƣợc bản tự bảo vệ của bị đơn, tòa án phải gửi bản sao bản tự
bảo vệ cho nguyên đơn (Điều 125). Nhƣ vậy, khác với thủ tục tố tụng dân sự
Hoa Kỳ, ở Trung Quốc, tòa án đóng vai trò chủ động và là chủ thể có trách
nhiệm tống đạt văn bản, giấy tờ cho các bên đƣơng sự.
1.2.2. Các loại văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo
a. Đơn khởi kiện
Pháp luật tố tụng dân sự một số nƣớc theo hệ thống pháp luật Anh –
Mỹ, trong đó điển hình là Mỹ rất chú trọng vào bƣớc đầu tiên của quá trình
khởi kiện, đặc biệt là việc tống đạt VBTTDS cho bị đơn ở giai đoạn khởi kiện
và thụ lý vụ án. Việc tống đạt hợp lệ đơn khởi kiện cho bị đơn đƣợc pháp luật
Mỹ coi là một bƣớc quan trọng để đảm bảo trình tự công bằng (due process) –
một nguyên tắc hiến định [49]. “Trình tự công bằng” bao gồm các khái niệm
cơ bản về sự công bằng mà đƣơng sự có đƣợc, đề cập đến quyền đƣợc thông
báo và cơ hội đƣợc lắng nghe để phúc đáp lại. Nếu một bên không đƣợc thông
báo về việc bên kia có ý định làm gì, cũng nhƣ không có cơ hội trình bày
chứng cứ và tranh luận, bên đó sẽ mất đi một trong những biện pháp bảo vệ
chính đáng của mình.
Với ý nghĩa quan trọng của việc tống đạt đơn khởi kiện cho bị đơn,
Quy tắc 11 trong Bộ nguyên tắc TTDS xuyên quốc gia cũng đƣa ra quy định
rất cụ thể về vấn đề này. Theo đó, ở giai đoạn chuẩn bị, nguyên đơn phải nộp
21
cho Toà án một đơn khởi kiện (đƣợc quy định trong quy tắc số 12). Sau đó
Toà án sẽ thực hiện thủ tục thông báo tới bị đơn. Thông báo này phải phù hợp
với một công ƣớc quốc tế đƣợc áp dụng hoặc nếu không Toà án thực hiện
thông báo bằng cách chuyển tới bị đơn một bản sao đơn khởi kiện và yêu cầu
bị đơn trình diện trƣớc tòa án để phản hồi trong một khoảng thời gian hợp lý.
Nội dung của thông báo nêu rõ thời gian mà bị đơn phải trả lời, đồng thời nêu
rõ phán quyết mặc định có thể đƣợc đƣa ra đối với bị đơn nếu bị đơn không
trả lời trong thời gian quy định. Thủ tục đƣợc coi là bắt đầu vào ngày nguyên
đơn gửi đơn khởi kiện cho tòa án.
b. Giấy triệu tập và các văn bản tố tụng dân sự khác
Giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo của Tòa án thƣờng do Tòa án tống
đạt. Theo Quy tắc 4, Chƣơng II trong Quy tắc tố tụng dân sự liên bang quy
định về tống đạt VBTT tại Toà án sơ thẩm Liên bang Mỹ thì:
“Nội dung giấy triệu tập phải có:
(A) Tên Tòa án và các bên
(B) Được chuyển đến bị đơn
(C) Ghi rõ tên và địa chỉ của nguyên đơn hoặc Luật sư của nguyên đơn
(D) Nêu rõ thời gian mà bị đơn phải trình diện và bảo vệ (nêu quan
điểm của mình)
(E) Thông báo cho bị đơn hậu quả pháp lý bất lợi của việc không trình
diện và bảo vệ sẽ dẫn đến một bản án mặc định chống lại bị đơn về
những yêu cầu trong đơn khởi kiện;
(F) Được ký bởi thư ký và
(G) Có dấu của Tòa án.” [53]
Toà án có thể cho phép một Giấy triệu tập đƣợc sửa đổi. Trong hoặc
sau khi nộp đơn khởi kiện, nguyên đơn xuất trình giấy triệu tập cho thƣ ký
văn phòng tòa án để ký tên và đóng dấu. Nếu giấy triệu tập đƣợc hoàn thành
22
đúng cách, thƣ ký văn phòng tòa án phải ký tên, đóng dấu và cấp cho nguyên
đơn để tống đạt cho bị đơn. Bản chính hoặc bản sao của giấy triệu tập đƣợc
gửi đến nhiều bị đơn phải đƣợc cấp cho từng bị đơn. Thông thƣờng, giấy triệu
tập phải đƣợc gửi kèm theo bản sao đơn khiếu nại. Trong thời gian quy định,
nguyên đơn chịu trách nhiệm cho việc triệu tập và khiến nại đồng thời phải
cung cấp các bản sao cần thiết cho ngƣời thực hiện tống đạt.
1.2.3. Phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
Tống đạt là việc chuyển giao các tài liệu pháp lý cho một bên cần phản
hồi trong thời gian nhất định. Tuỳ thuộc vào tính chất, mục đích sử dụng cũng
nhƣ mô hình TTDS của mỗi quốc gia lại đòi hỏi các phƣơng thức cấp,tống
đạt, thông báo VBTTDS khác nhau sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật
mỗi nƣớc. Nhƣng nhìn chung trên thế giới tồn tại năm phƣơng thức cấp, tống
đạt, thông báo VBTTDS chính. Đó là: tống đạt trực tiếp, tống đạt thay thế,
tống đạt qua dịch vụ bƣu chính, tống đạt bằng cách công bố công khai, tống
đạt bằng phƣơng tiện điện tử và mạng xã hội.
a. Tống đạt trực tiếp
Bản chất của phƣơng thức này là giao tận tay cho ngƣời nhận văn bản,
thông thƣờng là nhà hoặc nơi làm việc của họ. Nhìn chung, ngƣời tiếp nhận
văn bản thƣờng sẵn sàng nhận các tài liệu đƣợc tống đạt, tuy nhiên cũng có
không ít trƣờng hợp ngƣời tiếp nhận cố tình trốn tránh, không nhận. Trong
trƣờng hợp này, chủ thể tống đạt có thể trực tiếp đến tại địa chỉ nhà của cá
nhân đó để thực hiện tống đạt giấy tờ, tài liệu. Tòa án thƣờng lựa chọn
phƣơng pháp này hơn là các phƣơng pháp khác bởi nó là cách đảm bảo chắc
chắn nhất để đƣa ra thông báo.
Ở Mỹ, có ba phƣơng pháp tống đạt chính đƣợc cho phép đó là: tống đạt
cá nhân, tống đạt thay thế (qua ngƣời khác) và tống đạt bằng việc công bố
công khai (hay còn gọi là phƣơng pháp xuất bản) [54]. Tống đạt cá nhân hoặc
23
chuyển giao tận tay luôn đƣợc ƣu tiên hơn vì nó đƣợc xem nhƣ là phƣơng
pháp chính xác nhất. Tống đạt thay thế đƣợc sử dụng khi không thể liên lạc
trực tiếp đƣợc với bị đơn. Tống đạt công khai chỉ đƣợc sử dụng nhƣ là một
phƣơng sách cuối cùng vì nó không đáng tin cậy. Mỗi tiểu bang ở Mỹ có quy
tắc tố tụng dân sự riêng quy định chi tiết cách thức chuyển giao tài liệu. Trong
bối cảnh tống đạt thông báo về vụ kiện, thủ tục này đƣợc hiểu là mọi ngƣời
phải đƣợc thông báo về vụ kiện, đƣợc biết về những quan điểm chống lại họ
và tạo cho họ một cơ hội để đƣợc lắng nghe. Vì vậy, để đánh giá tính hợp
pháp của việc tống đạt, tòa án đánh giá liệu phƣơng pháp tống đạt đƣợc sử
dụng có thực sự hợp lý và liệu nó có tuân thủ các yêu cầu theo luật định hay
không. Nếu việc tống đạt đƣợc cho phép theo luật định, tòa án sử dụng các
quy tắc tố tụng dân sự của liên bang và tiểu bang, sau đó xác định đầy đủ các
thủ tục, trình tự thực hiện trong mỗi trƣờng hợp. Đối với các vụ kiện tại Tòa
án liên bang, Quy tắc số 4 Bộ Quy tắc tố tụng dân sự liên bang quy định các
phƣơng pháp tống đạt truyền thống đối với bị đơn ở trong nƣớc, bao gồm
tống đạt cá nhân, chuyển giấy tờ, tài liệu đến nơi ở của bị đơn hoặc giao cho
đại diện của bị đơn. Nếu nếu việc tống đạt vẫn không thể thực hiện đƣợc theo
các phƣơng pháp truyền thống này, Quy tắc 4 cũng cho phép tống đạt theo
phƣơng thức do pháp luật tiểu bang nơi vụ kiện diễn ra quy định.
Phƣơng pháp tống đạt cơ bản và lâu đời nhất là tống đạt cá nhân. Trƣớc
khi các quy tắc tố tụng dân sự liên bang đƣợc thông qua, Tòa án tối cao Hoa
Kỳ năm 1877 đã quyết định trong vụ Pennoyer v. Nef (Pennoyer v. Neff, 95
US 714, 1878) [52], rằng Tòa án áp dụng thẩm quyền đối với một bên nếu
bên đó đƣợc tống đạt đơn khởi kiện trong khi hiện diện tại tiểu bang. Tòa án
tối cao phán quyết rằng: để tòa án có thẩm quyền xét xử đối với bị đơn thì bị
đơn phải đƣợc tống đạt đơn khởi kiện trực tiếp. Tại thời điểm xảy ra vụ
Pennoyer, hầu nhƣ tất cả các thông tin liên lạc, chính thức và không chính
24
thức đều đƣợc thực hiện một cách trực tiếp. Báo chí đã tồn tại nhƣng chỉ đƣa
các đoạn thông tin ngắn gọn. Hệ thống bƣu điện đã hoạt động nhƣng chậm và
đắt đỏ. Điện báo đã có sẵn nhƣng mới xuất hiện trong thời gian này. Không
có phƣơng pháp hợp lý nào khác có thể đƣợc sử dụng để thực hiện quá trình
tống đạt. Bối cảnh lịch sử này lý giải tại sao Tòa án tối cao kiên quyết rằng
việc tống đạt phải đƣợc thực hiện trực tiếp.
Hiện nay, Quy tắc 4 (e) của FRCP (Federal Rules of Civil Procedure) -
quy tắc thủ tục TTDS liên bang chứa đựng các phƣơng pháp tống đạt truyền
thống mà theo đó bị đơn trong nƣớc có thể đƣợc tống đạt thông qua hình thức
tống đạt cá nhân, chuyển đến nơi ở của cá nhân đƣợc chấp nhận bởi một
ngƣời có độ tuổi phù hợp, và chuyển cho ngƣời đại diện đƣợc ủy quyền để
chấp nhận tống đạt. FRCP đã thay đổi theo thời gian, thậm chí tại một thời
điểm bao gồm tống đạt bằng thƣ đƣợc chứng nhận là phƣơng tiện có thể chấp
nhận đƣợc. Trong một số trƣờng hợp, các phƣơng pháp truyền thống không
hiệu quả. Các tòa án sau đó xem xét xem liệu dịch vụ có thể đƣợc thực hiện
thông qua một phƣơng pháp "thay thế", chủ yếu theo luật tiểu bang nơi diễn
ra hành động. Ở Louisiana, luật tiểu bang cho phép tống đạt cá nhân và tống
đạt tại nhà đối với tất cả các văn bản tố tụng thông thƣờng. Tuy nhiên, trong
một số trƣờng hợp, chẳng hạn nhƣ sự thay thế các bên trong một số trƣờng
hợp nhất định, tống đạt theo phƣơng thức công bố công khai đƣợc cho phép.
Tại Nga, giấy gọi của Toà án đƣợc tống đạt trực tiếp cho đƣơng sự với
việc trả lại cuống biên lai có chữ ký của ngƣời đƣợc tống đạt. Đối với tổ chức
thì Toà án tống đạt cho ngƣời có chức vụ, sau đó ngƣời này ký nhận vào
cuống biên lai của văn bản. Trong trƣờng hợp ngƣời chuyển giấy gọi không
gặp ngƣời đƣợc toà án triệu tập ở nơi ngƣời đó sinh sống, giấy gọi đƣợc trao
cho một trong những thành viên là ngƣời thành niên của gia đình nếu ngƣời
đó đồng ý tống đạt cho ngƣời đƣợc Toà án triệu tập. Trong trƣờng hợp ngƣời
25
đƣợc Toà án triệu tập vắng mặt tạm thời, ngƣời chuyển giấy gọi của Toà án
ghi rõ nơi đến của ngƣời đƣợc tống đạt, và thời gian ngƣời đó quay trở lại
trong cuống biên lai của giấy gọi. Trong trƣờng hợp không rõ nơi cƣ trú của
ngƣời đƣợc toà án triệu tập thì điều này phải đƣợc ghi nhận trên tờ giấy gọi,
đồng thời chỉ rõ ngày, thời gian ghi nhận và nguồn thông tin về điều này
(Điều 116 BLTTDS Liên Bang Nga). Nếu ngƣời đƣợc tống đạt từ chối tiếp
nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án thì ngƣời chuyển đánh dấu trên tờ
giấy báo hoặc giấy gọi và trả lại Toà án. Trong trƣờng hợp từ chối tiếp nhận
giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án, ngƣời đƣợc tống đạt coi nhƣ đã đƣợc
thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời gian và địa điểm
thực hiện hoạt động tố tụng. Về cơ bản, phƣơng thức tống đạt này có đặc
điểm gần giống với phƣơng thức tống đạt trực tiếp trong PLTTDS Việt Nam,
việc tống đạt cho cá nhân hay tổ chức trong các trƣờng hợp phải có sự xác
nhận của ngƣời thực hiện tống đạt để làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự,
pháp luật Nga cũng đƣa ra quy định thế nào thì đƣợc coi là tống đạt hợp lệ tuy
nhiên chƣa bao quát đƣợc trong các trƣờng hợp ví dụ nhƣ việc tống đạt thông
qua ngƣời thứ ba – ngƣời thành niên của gia đình, pháp luật không quy định
việc ngƣời này phải ký xác nhận về việc đã nhận VBTT và có trách nhiệm
chuyển giao văn bản hay không. Ngoài ra đối với trƣờng hợp đƣơng sự từ
chối tiếp nhận thì Toà án không yêu cầu phải nêu rõ lý do, ngƣời đƣợc tống
đạt coi nhƣ đã đƣợc thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời
gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng, điều này là chƣa thực sự phù
hợp và không có cơ sở rõ ràng.
b. Tống đạt thay thế
Ở Mỹ, nếu tống đạt trực tiếp cho cá nhân không khả thi hoặc không
hiệu quả, tòa án một số khu vực cho phép chủ thể thực hiện chuyển giao tài
liệu theo các phƣơng pháp khác. Một lựa chọn có thể là giao các giấy tờ cho
26
một ngƣời thành niên hợp pháp, ngƣời này phải hiểu đƣợc trách nhiệm của
việc nhận giấy tờ. Chủ thể tống đạt cũng đƣợc phép giao các tài liệu đến nơi
cƣ trú hoặc nơi làm việc của bị đơn, sau đó gửi kèm một bản sao đến địa chỉ
của họ. Một số tòa án khu vực cho phép chủ thể thực hiện gửi các giấy tờ đơn
giản bằng cách sử dụng hộp thƣ đã đăng ký. Các tòa án khu vực khác nhau
cho phép thực hiện các phƣơng pháp tống đạt khác nhau, vì vậy điều quan
trọng là phải kiểm tra các quy định của pháp luật trƣớc khi tiến hành tống đạt
thay thế.
Ở Đức, việc tống đạt có thể đƣợc thực hiện thông qua luật sƣ sau đó
luật sƣ xác nhận về việc đã nhận văn bản (Điều 174 BLTTDS của Đức). Việc
tống đạt cũng có thể đƣợc thực hiện giữa các luật sƣ với nhau. Trƣờng hợp
luật sƣ của các bên sƣ phải thực hiện tống đạt một tài liệu cho đồng nghiệp
của mình (Điều 671 đến 673 BLTTDS của Đức). Điều này thƣờng diễn ra tại
Tòa án theo một trong hai cách: tống đạt chính thức - yêu cầu sự can thiệp của
một ngƣời đƣợc ủy quyền đóng dấu và chữ ký trên tài liệu và bản sao hoặc
tống đạt trực tiếp - đƣợc thực hiện bằng cách giao hai bản sao của tài liệu cho
luật sƣ mà ngƣời đó tham gia giải quyết vụ án dân sự, sau đó gửi lại để Toà án
xem xét, lƣu hồ sơ.
Tại BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga có quy định việc chuyển
VBTTDS (gồm giấy gọi và giấy báo) có thể đƣợc thực hiện thông qua ngƣời
đƣợc Toà án uỷ nhiệm. Theo đó, nếu đƣợc ngƣời tham gia tố tụng đồng ý,
thẩm phán có thể trao giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án cho ngƣời đó để tống
đạt cho ngƣời đƣợc thông báo hoặc ngƣời đƣợc triệu tập. Ngƣời đƣợc Toà án
uỷ nhiệm chuyển giấy gọi hoặc giấy báo có nghĩa vụ gửi lại Toà án cuống
biên lai của giấy gọi hoặc bản sao giấy báo có chữ ký xác nhận của ngƣời
đƣợc tống đạt (khoản 2 Điều 115).
c. Tống đạt qua dịch vụ bưu chính
27
Ở Đức, việc tống đạt VBTT có thể đƣợc thực hiện thông qua dịch vụ
bƣu chính. Thuật ngữ “dịch vụ bƣu chính” có nghĩa là các công ty đƣợc Cơ
quan mạng Liên bang (Bundesnetzagentur) cấp phép cung cấp dịch vụ bƣu
chính.
Theo pháp luật TTDS của Pháp, phƣơng thức này đƣợc thực hiện bằng
cách sử dụng một phong bì có niêm phong hoặc thƣ (Điều 667 của BLTTDS
Pháp). Nhân viên bƣu điện khi thực hiện chuyển giao tài liệu, giấy tờ phải ký
nhận hoặc ghi vào giấy biên nhận. Trên phong bì hoặc thƣ phải có đầy đủ các
thông tin liên quan đến ngƣời nhận và ngƣời gửi. Đối với ngƣời gửi phải ghi
rõ họ tên hoặc công ty hoặc tên doanh nghiệp cũng nhƣ văn phòng đăng ký
hoặc nơi cƣ trú của ngƣời này. Ngƣời nhận phải là ngƣời đƣợc chỉ định cụ thể
(Điều 665). Tất cả những chi tiết này là yêu cầu bắt buộc nếu không việc tống
đạt sẽ trở nên vô hiệu (Điều 693).
Trƣờng hợp ngƣời nhận là cá nhân, việc tống đạt đƣợc thực hiện tại nơi
cƣ trú của ngƣời đó hoặc ở bất kỳ nơi nào khác nếu đƣợc yêu cầu hoặc ngay
tại địa chỉ tống đạt nếu đƣợc chấp nhận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu
ngƣời có liên quan là pháp nhân, việc tống đạt đƣợc thực hiện tại địa điểm
kinh doanh của cơ quan, tổ chức đó hoặc tống đạt trực tiếp cho một nhân viên
của cơ quan, tổ chức – ngƣời có chức năng hoặc đƣợc phép nhận các VBTT
đó. Đối với ngƣời thực hiện tống đạt, việc tống đạt đƣợc coi là hoàn thành kể
từ khi thƣ đƣợc gửi đi, ngày gửi đƣợc hiển thị trên tem của văn phòng bƣu
chính nơi gửi. Đối với ngƣời đƣợc tống đạt, ngày đƣợc tống đạt thành công là
ngày nhận đƣợc thƣ. Trong trƣờng hợp thƣ đã đăng ký có xác nhận về việc đã
nhận, ngày hoàn thành việc tống đạt là ngày tƣơng ứng với thƣ đƣợc chuyển
cho ngƣời nhận và có xác nhận của cơ quan bƣu chính. Ở đây, có thể hiểu
rằng việc tống đạt qua dịch vụ bƣu chính bao gồm hai hình thức gần giống với
hình thức gửi thƣ tại Việt Nam, đó là gửi thƣờng và gửi bảo đảm.
28
Một số quốc gia khác nhƣ Nga cũng sử dụng phƣơng pháp tống đạt
thông qua dịch vụ bƣu chính để chuyển giao VBTTDS cho đƣơng sự. Điều
115 BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga quy định: “Giấy gọi và giấy báo
của Toà án đƣợc chuyển theo bƣu điện hoặc thông qua ngƣời đƣợc Toà án uỷ
nhiệm. Thời hạn tống đạt giấy báo cho ngƣời nhận đƣợc xác định theo cách
thức của cơ quan bƣu điện hoặc dựa trên giấy báo lại cho Toà án”.
d. Tống đạt công khai (tống đạt bằng việc xuất bản)
Đây đƣợc coi là phƣơng sách cuối cùng bởi nó là phƣơng án không
hiệu quả nhất và ít có khả năng nhất trong việc truyền đạt văn bản tố tụng tới
đƣợc bị đơn. Chủ thể thực hiện có thể công bố thông báo trên một tờ báo
đƣợc phát hành ở địa điểm có khả năng là địa chỉ của bị đơn hoặc vị trí của
Tòa án, hoặc cả hai. Ở Mỹ, hầu hết các tòa án khu vực yêu cầu thông báo phải
đƣợc công bố trong nhiều tuần để đảm bảo khả năng bị đơn thấy đƣợc thông
báo. Bởi vì hầu hết các bị đơn sẽ không bao giờ đọc báo. Phƣơng pháp này
chỉ đƣợc phép áp dụng khi không còn cách nào khác để liên lạc với bị đơn.
Nó không chỉ tốn kém tiền bạc mà còn không đáng tin cậy bởi sau này bị đơn
có thể tuyên bố rằng họ đáng lẽ đã có thể đƣợc tống đạt trực tiếp với tƣ cách cá
nhân (không đại diện bởi ngƣời khác).
Năm 1950, quyết định của Tòa án Tối cao trong vụ án Mullane và
Ngân hàng Trung ƣơng Hannover & Trust Co. cho thấy nƣớc Mỹ có sự thay
đổi mạnh mẽ [49]. Toà án chấp thuận việc xuất bản nhƣ một phƣơng tiện
thông báo đƣợc cho phép theo Hiến pháp khi không có phƣơng pháp hợp lý
nào khác có thể đƣợc sử dụng và khi nơi của những ngƣời đƣợc thông báo là
không rõ ràng. Theo phán quyết trong vụ Mullane, công nghệ và tống đạt tiếp
tục phát triển. Tòa án đã đƣa ra quyết định cho phép các phƣơng pháp tống
đạt thay thế phù hợp với với sự phát triển của công nghệ. Đáng chú ý là các
phƣơng pháp này đã không thay thế các phƣơng thức dịch vụ truyền thống
29
nhƣng đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng sách cuối cùng khi các nỗ lực đã đƣợc
thực hiện để xác định nơi ở của bị đơn.
e. Tống đạt thông qua mạng xã hội truyền thông và phương tiện điện tử
Không thể phủ nhận rằng, những tiến bộ khoa học công nghệ đã mở ra
một thế giới hoàn toàn mới cho việc áp dụng các phƣơng pháp tống đạt
VBTTDS. Đôi khi nguyên đơn phải cố gắng thực hiện việc tống đạt thông qua
nhiều hình thức, phƣơng tiện khác nhau sao cho phù hợp, đặc biệt trong
trƣờng hợp ngƣời bị kiện cố tình trốn tránh hoặc không có địa chỉ thƣờng trú
rõ ràng. Thông thƣờng trong trƣờng hợp này khó có thể tống đạt trực tiếp cho
cá nhân. Do đó đòi hỏi cần có một giải pháp lý tƣởng thông qua việc ứng
dụng các công nghệ tiến bộ để giải quyết vấn đề. Qua thực tiễn áp dụng pháp
luật cho thấy một số phƣơng pháp tống đạt thông qua phƣơng tiện điện tử hay
mạng xã hội truyền thông đƣợc các nƣớc trên thế giới chấp nhận và sử dụng,
thậm chí đƣợc coi là án lệ trở thành khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có
tính chất tƣơng tự về sau phải kể đến các phƣơng pháp đó là:
Tống đạt bằng phương tiện điện tử
Sự ra đời của các công nghệ mới trong hệ thống tƣ pháp đã dẫn đến sự
thay đổi của các điều khoản và điều kiện cho việc tống đạt chính thức bằng
phƣơng tiện điện tử. Điều 748-1 của Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định
việc gửi, giao tống đạt các thủ tục tố tụng, giấy tờ, thông báo, cảnh báo hoặc
triệu tập, báo cáo, báo cáo chính thức và bản sao, bản gốc giấy tờ tài liệu để
thi hành bản án có thể đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức điện tử.
Quá trình tống đạt VBTT giữa các luật sƣ cũng có thể đƣợc thực hiện
thông qua mạng xã hội dành riêng cho Luật sƣ (Réseau Privé Virtuel Avocats,
RPVA), phƣơng tiện này cũng đƣợc sử dụng để tiến hành trao đổi thủ tục
giữa luật sƣ và tòa án. Ngoài ra, trong các trƣờng hợp và điều kiện đƣợc xác
định rõ ràng, một số tài liệu có nguồn gốc từ cơ quan đăng ký (nhƣ thông báo
30
về phiên họp của tòa án, giấy triệu tập...) có thể đƣợc gửi tới một bên bằng e-
mail (Điều 748-8 và 748-9 của BLTTDS Pháp). Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời
nhận tài liệu phải đồng ý rõ ràng việc sử dụng các phƣơng tiện giao tiếp điện tử.
Tống đạt qua email
Có thể nói, sự ra đời của Internet đã mở rộng đáng kể việc sử dụng e-
mail, nó cho phép mọi ngƣời có thể truy cập vào công nghệ mới này một cách
dễ dàng. Ngƣời dùng có thể “Gửi và nhận dữ liệu kỹ thuật số từ một số lƣợng
vô hạn nguồn” [48]. Email nhanh chóng trở thành phƣơng pháp giao tiếp
chính và trong năm 2011, số lƣợng tài khoản e-mail trên toàn thế giới đƣợc
ƣớc tính vào khoảng 3,1 tỷ. Tại Mỹ, 60 tòa án vào năm 2000 đƣợc cho phép
thực hiện tống đạt thông qua phƣơng pháp này.
Năm 2000, Tòa án phá sản Hoa Kỳ trong “In re INTERNATIONAL
TELEMEDIA ASSOCIATES, INC” giữa nguyên đơn là Herbert C.
Broadfoot và bị đơn là Arjuna Diaz, đã cho phép tống đạt một bản sao của
Lệnh triệu tập và khiếu nại khi bị đơn ở nƣớc ngoài bằng fax, e-mail và thƣ
đến địa chỉ đƣợc biết cuối cùng của bị đơn. Vào thời điểm đó nguyên đơn đã
không đƣợc tống đạt các văn bản khiếu nại và không đƣợc thực hiện bất kỳ sự
xuất hiện nào. Bị đơn từ chối cung cấp địa chỉ gửi thƣ nhƣng đã cung cấp một
bản fax, số điện thoại, địa chỉ e-mail và nói rằng ông muốn sử dụng chúng
trong thƣ từ tƣơng lai. Trong trƣờng hợp này, tòa án thấy rằng Diaz chỉ đơn
giản cung cấp cho ngƣời uỷ thác của nguyên đơn một địa chỉ điện tử thay vì
địa chỉ bƣu điện hay địa chỉ đƣờng phố truyền thống và chỉ ra rằng đây là
những phƣơng thức liên lạc ƣa thích của anh ta. Vì vậy, ngƣời đƣợc ủy thác
đã yêu cầu ủy quyền thực hiện tống đạt văn bản cho Diaz bằng các phƣơng
tiện thay thế đó. Tòa án cũng tuyên bố rằng việc ủy quyền tống đạt bằng e-
mail và phƣơng tiện thay thế khác có ít hoặc không có tiền lệ nào. Hơn nữa,
31
tòa án cũng nhận thấy đƣợc sự cần thiết phải thích ứng cùng với sự phát triển
của công nghệ đang ngày một hiện đại [51].
Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực thứ chín cũng đã chấp thuận tống đạt
qua Internet trong vụ Rio Properties, Inc. Trong vụ Rio, tòa án cho phép tống
đạt qua e-mail trong trƣờng hợp bị đơn ở nƣớc ngoài. Nguyên đơn không thể
tống đạt cho bị đơn tại Mỹ và không thể tìm thấy địa chỉ thực tế tại Costa
Rica. Địa chỉ duy nhất có sẵn là một địa chỉ e-mail, mà bị đơn đƣợc chỉ định
làm phƣơng pháp liên lạc ƣa thích. Tòa án nói rằng tống đạt qua e-mail là phù
hợp trong hoàn cảnh này bởi nó "Đƣợc tính toán hợp lý để đƣa ra thông báo
và cơ hội để trả lời” [48]. Hơn nữa, tòa án đã tuyên bố rằng trong trƣờng hợp
này tống đạt qua email là phƣơng pháp khả thi nhất để tiếp cận bị đơn vì bị
đơn do tính chất kinh doanh của mình chỉ có thể liên lạc qua e-mail. Tuy
nhiên đối với e-mail, không có xác nhận rằng giao tiếp điện tử đã thực sự
nhận đƣợc. Thêm vào đó, sự gia tăng trong số lƣợng e-mail đƣợc gửi và nhận
mỗi ngày đã chậm lại do sự phát triển của các hình thức giao tiếp khác, đặc
biệt là sự xuất hiện của nhiều mạng xã hội. Trên thực tế, việc ứng dụng những
ƣu thế của truyền thông xã hội là cần thiết, góp phần quan trọng trong cuộc
sống hàng ngày và tăng tiềm năng của nó nhƣ một công cụ hữu ích cho hệ
thống pháp luật.
Bên cạnh email, ngày nay máy fax vẫn đƣợc sử dụng nhƣng không
nhiều do sự phát triển của khoa học công nghệ. Có thể nói việc sử dụng email
trở nên đáng tin cậy hơn so với truyền fax trong nhiều trƣờng hợp bởi khi một
tài liệu đƣợc gửi qua fax, không có cách nào để xác nhận những ngƣời thực sự
nhận đƣợc fax và thời điểm chính xác nó đã đƣợc nhận vì một biên nhận fax
chỉ xác nhận rằng tài liệu đã đƣợc gửi.
Tống đạt qua mạng xã hội truyền thông Facebook
32
Facebook là trang web mạng xã hội lớn nhất và đƣợc tạo ra để cho
phép ngƣời dùng kết nối với các mục đích khác nhau. Khi sử dụng phƣơng
thức tống đạt này, nguyên đơn có thể tìm thấy mạng xã hội của bị đơn bằng
cách sử dụng thông tin cá nhân đƣợc liệt kê trên tiểu sử, xác nhận rằng những
thông tin đó thuộc về bị đơn. Ví dụ, Facebook có chính sách mà ngƣời dùng
cung cấp tên thật và thông tin và bảo lƣu quyền xóa tài khoản của ngƣời dùng
nếu vi phạm chính sách này. Việc tống đạt tài liệu, giấy tờ đƣợc thực hiện
bằng cách đính kèm với thƣ đƣợc gửi tới hộp thƣ đến liên kết với hồ sơ cá
nhân của bị đơn. Tính năng của phƣơng tiện truyền thông xã hội sẽ phát hành
một "biên lai đọc" (read receipt) [48], danh sách ngày và giờ tin nhắn đƣợc
đọc. Thông thƣờng mỗi ngƣời dùng Facebook hiện có tài khoản e-mail hoạt
động giống nhƣ hộp thƣ đến tài khoản e-mail truyền thống. Các tệp đính kèm,
chẳng hạn nhƣ thông báo chính thức có thể đƣợc đính kèm vào thƣ Facebook,
giống nhƣ với e-mail. Nguyên đơn có thể xác minh danh tính của hồ sơ mạng
xã hội trực tuyến bằng cách so sánh thông tin đã biết với thông tin đƣợc liệt
kê trong hồ sơ. Với một tài khoản truyền thông xã hội, thông tin cá nhân có
thể đƣợc so sánh để thấy rằng tài khoản rất có thể thuộc về bị đơn.
Bởi sự phổ biến của truyền thông xã hội, hệ thống pháp luật sẽ không
thể bỏ qua công nghệ mới này nhƣ một phƣơng tiện để thực hiện tống đạt khi
các phƣơng thức khác không có hiệu quả. Điều này cũng làm nảy sinh một số
vấn đề gây tranh luận rằng hệ thống pháp luật có nên thừa nhận giá trị của
truyền thông xã hội và cho phép việc tống đạt đƣợc thực hiện thông qua nó
hay không. Thực tế cho thấy, phƣơng tiện truyền thông xã hội cho phép ngƣời
dùng liên kết với nhau bằng công nghệ, tƣơng tác xã hội và kết nối cộng tác.
Ngƣời dùng thƣờng là cá nhân, doanh nghiệp hay các tổ chức khác cũng tham
gia vào mạng xã hội. Để tạo một tài khoản trên hầu hết các trang web mạng
hoặc facebook, ngƣời dùng phải nhập cá nhân thông tin, chọn mật khẩu và
33
nhập địa chỉ e-mail và đôi khi là số điện thoại để tài khoản có thể đƣợc xác
minh.
Để tham gia Facebook, ví dụ, một ngƣời dùng tạo ra một "hồ sơ" trực
tuyến bằng cách nhập tên, ngày sinh, giới tính và e-mail của họ. Sau đó phải
xác nhận địa chỉ e-mail bằng cách truy cập vào tài khoản e-mail đƣợc liệt kê
trong quá trình đăng ký. Sau khi ngƣời dùng xác nhận tài khoản e-mail, họ
phải xác minh bằng cách liệt kê một số điện thoại và xác nhận các thông tin
cần thiết cho việc tạo lập tài khoản facebook. Ngƣời dùng có thể bắt đầu kết
nối với những ngƣời dùng khác trên trang web, mạng xã hội và chia sẻ thông
tin, có thể sử dụng tài khoản để thêm bạn bè, đăng bài viết, tải ảnh, thêm
thông tin cá nhân, thay đổi cài đặt bảo mật, cập nhật trạng thái bài đăng và gửi
tin nhắn riêng đến những ngƣời dùng khác... Các tính năng tƣơng tác này, kết
hợp với tính dễ sử dụng đã làm cho mạng xã hội ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Trên trang “Archer Attorneys at law” với tựa đề “Estate & Trust
litigation law blog” có viết: Toà thƣợng thẩm New Jersey đã tổ chức thực
hiện tống đạt văn bản thông qua nền tảng truyền thông xã hội mà Facebook
cho phép sau khi việc tống đạt qua thƣ đƣợc cho là không hiệu quả [50]. Theo
quy định của Tòa án bang New Jersey tại Điều 4 - 4(a), nguyên đơn phải tự
mình khiếu nại và triệu tập đơn kiện. Tuy nhiên, nếu những nỗ lực hợp lý và
trung thực của nguyên đơn để thực hiện tống đạt cho cá nhân chứng minh
rằng nó không đạt đƣợc hiệu quả thì nguyên đơn có thể cố gắng thực hiện
tống đạt văn bản bằng các phƣơng pháp thứ cấp đƣợc quy định trong Điều 4 - 3(b).
Trên thế giới, một số quốc gia đã cho phép thực hiện quá trình tống đạt
thông qua truyền thông xã hội trong đó Australia là quốc gia đầu tiên. Năm
2008, Tòa án tối cao của Australia cho phép tống đạt qua Facebook trong một
thủ tục tịch thu nhà do không thể thực hiện tống đạt bằng phƣơng pháp truyền
thống cho các bị đơn bởi họ đã chuyển nơi ở, chuyển việc làm và thay đổi số
34
điện thoại. Cả tống đạt cá nhân và tống đạt bằng phƣơng thức công bố công
khai đều không có kết quả. Tòa án Australia đã yêu cầu thực hiện tống đạt
bằng cách gửi một tin nhắn Facebook riêng tƣ với các tài liệu pháp lý gắn liền
với cả hai tài khoản Facebook của bị đơn. Phƣơng pháp này đƣợc cho phép
bởi vì Quy tắc tố tụng dân sự thống nhất của Australia bao gồm các quy tắc
rộng hơn quy tắc 4 (e) của FRCP của Hoa Kỳ quy định về quá trình tống đạt.
Quy tắc của Australia thực sự khá giống với tiêu chuẩn trong vụ Mullane.
Theo quy định của Úc, nếu một tài liệu không thể đƣợc tống đạt cho cá nhân
hoặc cho một ngƣời theo cách thức mà pháp luật quy định, "tòa án có thể theo
lệnh, chỉ đạo rằng, thay vì tống đạt, các bƣớc đƣợc thực hiện theo trình tự quy
định với mục đích đƣa tài liệu để thông báo cho những ngƣời liên quan” [57].
Sau khi sử dụng một trong những phƣơng pháp trên, chủ thể thực hiện
phải gửi một bản khai cung cấp chi tiết về việc chuyển giao tài liệu. Nếu Tòa
án thấy rằng chủ thể thực hiện đƣa ra báo cáo sai về việc chuyển giao, có thể
gây hậu quả nghiêm trọng. Nếu vụ án đã qua hết thời hiệu thì nguyên đơn
không có quyền khởi kiện nữa. Việc tống đạt là một bƣớc quan trọng trong
mọi vụ kiện và phải đƣợc thực hiện chính xác.
Rõ ràng là trong vài thập kỷ qua, các phƣơng pháp tống đạt VBTT trên
thế giới đã có sự thay đổi đáng kể, đồng thời cung cấp các phƣơng tiện giao
tiếp mới có thể đƣợc sử dụng để thực hiện tống đạt. Mạng xã hội là địa chỉ lý
tƣởng để thực hiện thủ tục này bởi nó có khả năng đƣa ra thông báo. Cơ quan
Tòa án nên tận dụng cơ hội để ứng dụng các công nghệ mới này và không bị
hạn chế bởi các phƣơng pháp truyền thống thông thƣờng. Qua đó khẳng định
tầm quan trọng của truyền thông xã hội và tiện ích của nó đối với việc tống
đạt VBTT.
35
1.3. Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Giai đoạn trƣớc năm 1945, nƣớc ta là thuộc địa của Pháp, Pháp trực
tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ,
coi 6 tỉnh Nam Kỳ nhƣ một hạt, mỗi tỉnh đƣợc coi nhƣ một quận của nƣớc
Pháp. Sau đó, bằng bản Hiệp ƣớc ngày 06/06/1884, nƣớc Việt Nam trở thành
một nƣớc bảo hộ của Pháp. Quyền tƣ pháp vẫn thuộc về Hoàng đế nhƣng bị
hạn chế bởi sự kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp. Do đó pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật về tố tụng dân sự Việt Nam nói riêng chƣa đƣợc
hình thành, tuy nhiên đã xuất hiện chế định thừa phát lại. Những công việc
của thừa phát lại nhƣ trát đòi hầu toà, truyền phiếu...vẫn do các sứ giả của
Vua thực hiện. Mô hình Thừa phát lại đã đƣợc quy định chính thức trong một
số văn bản nhƣ: “BLTTDS Nam Việt” ban hành kèm Nghị định ngày
16/03/1910 (ở Nam Kỳ); “Bộ dân luật Trung năm 1936 - 1939”, ban hành
kèm Bộ hộ sự, thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942 (ở Trung kỳ); “Bộ dân
luật Bắc năm 1931”, kèm Bộ dân sự tố tụng Bắc năm 1917 (ở Bắc kỳ). Hầu
hết các quy định trong các bộ luật này đều theo khuôn mẫu của mô hình thừa
phát lại của Pháp thể hiện trong Bộ dân luật Pháp năm 1804 và Bộ dân sự tố
tụng Pháp năm 1807.
Ngày 08/03/1949 Thoả ƣớc Việt – Pháp đƣợc ký kết dƣới thời vua Bảo
Đại. Các chế định về Thừa phát lại ngày càng đƣợc quy định chi tiết, cụ thể
hơn, đƣợc thể hiện tại: Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 do Tổng
trƣởng Bộ tƣ pháp ban hành quy định chi tiết về tổ chức, chức năng, nhiệm,
vụ, quyền hạn của Thừa phát lại; Bộ luật dân sự và thƣơng sự tố tụng ban
hành năm 1972 bởi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên sau khi chính
quyền Thiệu sụp đổ thì Thừa phát lại cũng không đƣợc sử dụng nữa.
36
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Đây là giai đoạn nƣớc ta vừa giành đƣợc độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng
hoà, hệ thống pháp luật Việt Nam dần đƣợc xây dựng và hoàn thiện để đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nƣớc. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bấy giờ
vẫn chƣa có một văn bản pháp lý nào quy định về thủ tục tố tụng dân sự. Hình
thức của thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng lần đầu tiên đƣợc đề cập
đến và đƣợc ghi nhận tại Công văn số 363 ngày 17/04/1961 trong đó có nêu:
“Việc niêm yết công khai giấy gọi đương sự ra phiên tòa, niêm yết trích lục
bản án”. Tuy nhiên nội dung này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, mang tính
chất chung chung, quy định về thủ tục thông báo, cấp, tống đạt VBTTDS
chƣa đƣợc thể hiện rõ ràng, cụ thể.
Đến năm 1977, Thông tƣ số 53/TATC ngày 23/06/1977 đƣợc
TANDTC ban hành, đƣa ra hƣớng dẫn về thủ tục tống đạt. Đây đƣợc coi là
văn bản pháp luật đầu tiên của nƣớc ta quy định cụ thể về tống đạt văn bản tố
tụng. Nội dung Thông tƣ cũng xác định rõ những loại giấy tờ cần phải tống
đạt cho những ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có nghĩa vụ tống đạt, thủ tục
tống đạt, hƣớng dẫn cách làm giấy tờ tống đạt, quy định cách giải quyết trong
trƣờng hợp tống đạt đƣơng sự vắng mặt hoặc không hợp tác, có tình trốn
tránh hoặc giấu địa chỉ… Kèm theo Thông tƣ này là một số mẫu biên bản
hƣớng dẫn để Tòa án sử dụng trong quá trình thực hiện hoạt động tống đạt.
Trong quan hệ quốc tế, ngày 12/10/1982, Việt Nam tham gia ký kết
“Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa nƣớc
CHXHCN Việt Nam và nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc”. Trong
đó quy định việc tống đạt văn bản có yếu tố nƣớc ngoài (Điều 7, Điều 8), các
cơ quan tƣ pháp giữa hai nƣớc tƣơng trợ nhau trong việc lập, chuyển và tống
đạt giấy tờ.
37
Nhìn chung trong giai đoạn này do nƣớc ta vẫn đang còn bị ảnh hƣởng
bởi chiến tranh, pháp luật tố tụng dân sự ở thời kỳ đầu chƣa đƣợc hoàn thiện
và quan tâm đúng mức dẫn đến hoạt động cấp, tống đạt và thông báo
VBTTDS này vẫn chƣa đƣợc chú trọng. Ngày 30/04/1975, miền Nam hoàn
toàn đƣợc giải phóng, chiến tranh kết thúc. Sau khi đất nƣớc đƣợc thống nhất
thì hoạt động này đã đƣợc quan tâm, chú trọng hơn. Tuy nhiên, do mới bắt
đầu đƣợc xây dựng nên các quy định vẫn chƣa đầy đủ, rõ ràng, tƣơng xứng
với vai trò của nó trong thời kỳ mới.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay
Thời kỳ này, Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày 07/12/1989 của Hội
đồng nhà nƣớc về thủ tục giải quyết các vụ án vụ án dân sự đƣợc ban hành đã
xác định rõ thẩm quyền của Toà án cũng nhƣ trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên
toà các cấp. Tuy nhiên quy định về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
lại không đƣợc đề cập đến. Sau đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao đã đƣa ra hƣớng dẫn việc áp dụng một số quy định của Pháp lệnh số 27
tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 những cũng chỉ dừng lại ở việc
hƣớng dẫn niêm yết giấy triệu tập phiên toà đối với bị đơn. Cho đến Công văn
số 29/NCPL ngày 6/4/1992 của TANDTC hƣớng dẫn giải quyết các vụ án ly
hôn với một bên đƣơng sự đang ở nƣớc ngoài mới đề cập đến việc thông báo
và lấy lời khai đƣơng sự qua cơ quan ngoại giao của nƣớc ta ở nƣớc ngoài.
Ngày 15/6/2004, tại kỳ họp Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, BLTTDS đƣợc thông qua. Sau đó Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS năm 2004 đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày
29/3/2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012). Qua lần sửa đổi này, các
chế định về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS hầu nhƣ không có gì
thay đổi so với nguyên bản của nó. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng trên
thực tế, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong thời gian này đã bộc
lộ những hạn chế nhất định. Do đó, để phù hợp với điều kiện, tình hình mới,
38
BLTTDS năm 2015 đƣợc Quốc hội ban hành và thông qua ngày 25/11/2015,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2016. So với BLTTDS năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 quy định về cấp, tống đạt, thông
báo VBTT gồm 12 điều (từ Điều 70 đến Điều 181), trong đó giữ nguyên 2
điều, mới 1 điều, sửa đổi 9 điều. Nội dung các điều luật đã có sự quy định rõ
ràng về trách nhiệm tống đạt VBTTDS do các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện cũng nhƣ trình tự, thủ tục tống đạt hợp lệ. Các phƣơng thức cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng cũng có những điểm mới, đó là: thừa nhận
phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng mới bằng phƣơng tiện
điện tử theo yêu cầu của đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác phù hợp
với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và quy định cụ thể cấp, tống
đạt, thông báo bằng phƣơng thức khác cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài theo quy
định tại Chƣơng XXXVIII (Điều 173); việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng qua dịch vụ bƣu chính phải bằng thƣ bảo đảm và có xác nhận của
ngƣời nhận văn bản tố tụng (Điều 175).
Ở một khía cạnh khác, ngày 14/11/2008, Nghị quyết số 24/2008/QH12
do Quốc hội ban hành về việc thi hành Luật THADS có nêu rõ việc thực hiện
thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phƣơng nhằm xã hội hoá công
việc liên quan đến THADS. Việc thí điểm đƣợc thực hiện từ ngày 01/07/2009
đến ngày 01/07/2012. Căn cứ vào Nghị quyết số 24/2008/QH12, ngày
19/02/2009 Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Quyết định số 224/QĐ-TTg phê duyệt
đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí
Minh”. Theo Quyết định này, việc thực hiện đề án là nhằm xác định sự cần
thiết và tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tƣ pháp, xác định khả
năng áp dụng mô hình này trong toàn quốc. Sau khi phê duyệt đề án, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 quy định về tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí
Minh. Ngoài ra, Bộ tƣ pháp đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng
39
ban hành một số văn bản hƣớng dẫn nhƣ: Thông tƣ liên tịch số
04/2009/TTLT-BTP-BTC ngày 15/10/2009, Thông tƣ số 03/2009/TT-BTP
ngày 30/09/2009, Thông tƣ liên tịch số 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC.
Có thể nói, việc ra đời chế định thừa phát lại đã phần nào giảm tải đáng kể
khối lƣợng công việc cho ngành Toà án và THADS, giúp cho việc giải quyết
các vụ việc dân sự đƣợc diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Sau hơn hai
năm thực hiện thí điểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng
11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII
đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội về việc tiếp tục thực
hiện thí điểm chế định thừa phát lại đồng thời mở rộng phạm vi thí điểm ra
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng. Tại Hà Nội, Bộ tƣ pháp đã có văn
bản phê duyệt đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại thành phố Hà
Nội thông qua Quyết định số 2531/QĐ-BTP ngày 21/10/2013. Tiếp đó là
Quyết định số 6236/QĐ-UBND về việc ban hành đề án “Thực hiện thí điểm
chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà Nội” ngày 15/10/2013 do UBND
thành phố Hà Nội ban hành. Đến ngày 03/04/2014, Kế hoạch triển khai thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà Nội đƣợc chính thức
ban hành kèm theo Quyết định số 1790/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân
thành phố Hà Nội. Trong quá trình thực hiện chƣơng trình thí điểm tại thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, các chế định về thừa phát lại cũng nhƣ thủ tục
thực hiện công việc mà trọng tâm đó là thực hiện chức năng cấp, tống đạt,
thông báo VBTTDS giúp Toà án và cơ quan THADS đã đƣợc quy định khá
chi tiết, cụ thể tại các văn bản pháp luật và văn bản hƣớng dẫn thực hiện của
cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động của tổ chức thừa phát lại sẽ là một giải
pháp hữu hiệu để thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá hoạt động tƣ pháp mà Đảng
và Nhà nƣớc ta đã đề ra.
Có thể thấy rằng trong mỗi giai đoạn, pháp luật TTDS nƣớc ta có
những thay đổi, chuyển biến tích cực hơn. Các thủ tục TTDS dần đƣợc hoàn
40
thiện, mở rộng phƣơng thức tống đạt, từng bƣớc thực hiện xã hội hoá. Theo
đó, không chỉ có cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức khác cũng đƣợc nhà nƣớc
trao quyền thực hiện một số hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi, quyền
hạn mà pháp luật cho phép. Qua các thời kỳ, hoạt động tống đạt VBTT ngày
càng đƣợc chú trọng, cùng với đó là sự ra đời của chế định Thừa phát lại đã
tạo cho ngƣời dân có thêm sự lựa chọn phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo
VBTT một cách phù hơp, giảm tải công việc cho hoạt động của các cơ quan
nhà nƣớc. Thông qua hoạt động của Thừa phát lại, ngƣời dân có thể chủ động
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với các cơ quan tiến hành tố
tụng, việc thực hiện xã hội hoá thủ tục tố tụng, chuyển giao cho tổ chức Thừa
phát lại đảm nhiệm việc tống đạt các văn bản, giấy tờ đã phần nào giải toả
đƣợc những ách tắc, quá tải trong hoạt động của các cơ quan xét xử và
THADS, đồng thời đây cũng là sự bổ sung góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTDS nói riêng.
Kết luận chƣơng 1
Qua việc tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về cấp, tống đạt, thông
báo VBTTDS đã cho ta thấy tống đạt văn bản tố tụng là một trong những vấn
đề hết sức quan trọng, nếu hoạt động này diễn ra thuận lợi sẽ giúp cho việc
giải quyết vụ án đƣợc nhanh chóng kịp thời. Để thực hiện tống đạt VBTT
theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải
đáp ứng các điều kiện về nguồn nhân lực cũng nhƣ thời gian để thực hiện.
Trong khi khối lƣợng công việc tống đạt là rất lớn, thậm chí vƣợt quá khả
năng của các cơ quan này thì việc chuyển giao công việc cho một tố chức có
chức năng tống đạt với mục đích chia sẻ công việc là cần thiết. Vì vậy, chế
định về thừa phát lại quy định trở lại là tất yếu và hoàn toàn phù hợp với thực
tế. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nƣớc, hệ thống pháp luật TTDS đã
có những thay đổi nhất định phù hợp với nhu cầu xã hội, cùng với đó các
41
phƣơng thức tống đạt đƣợc mở rộng và đa dạng hơn, tạo điều kiện cho quá trình
thực hiện và áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, từ việc nghiên cứu, so sánh pháp luật TTDS các quốc gia
trên thế giới có thể thấy rằng mỗi quốc gia tƣơng ứng với hệ thống pháp luật
khác nhau lại có những nét đặc trƣng trong mô hình TTDS, đặc biệt là vấn đề
về chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức tống đạt VBTT. Cùng với sự phát triển
của khoa học công nghệ, các quốc gia phát triển đã có những phƣơng pháp
hợp lý trong quá trình thực hiện tống đạt VBTT. Xuất phát từ thực tế áp dụng
pháp luật và kinh nghiệm quốc tế, pháp luật Việt Nam cần học hỏi kinh
nghiệm một cách có chọn lọc, kết hợp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
nhằm đa dạng hoá phƣơng thức tống đạt, phù hợp với sự phát triển của đất
nƣớc. Việc sử dụng các phƣơng pháp mới ngoài những phƣơng pháp truyền
thống sẽ đem lại nhiều sự lựa chọn hơn, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt
động tố tụng.
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CẤP,
TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Các văn bản tố tụng phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
2.1.1.Văn bản tố tụng dân sự do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo
Có thể thấy rằng Điều 171 BLTTDS năm 2015 đã liệt kê cụ thể một số
loại văn bản tố tụng, giấy tờ do Tòa án thực hiện việc cấp, tống đạt, thông
báo. Ngoài ra tại khoản 5 của Điều luật này còn có quy định mang tính chất
mở, đó là “các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định”. Sở dĩ các
nhà lập pháp đƣa ra điều luật này là do trong quá trình thực hiện các giai
đoạn, thủ tục tố tụng dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ban hành
nhiều văn bản tố tụng khác nhau. Do vậy việc liệt kê các văn bản sẽ là không
42
đủ để có bao quát hết cũng nhƣ làm giới hạn phạm vi văn bản tố tụng mà cơ
quan có thẩm quyền sẽ ban hành. Khoản 5 điều luật quy định mở sẽ góp phần
hạn chế đƣợc tính lạc hậu của quy phạm, đồng thời đáp ứng nhu cầu bổ sung
các văn bản tố tụng trong tƣơng lai một cách dễ dàng và khoa học. Trên thực
tế, các loại văn bản tố tụng do Tòa án ban hành bao gồm:
- Các bản án: đây là văn bản tố tụng thể hiện kết quả xét xử của Tòa án
về một vụ việc dân sự. Trong bản án phải nêu rõ: thời gian mở phiên tòa,
thành phần HĐXX, các bên tham gia tố tụng, nội dung sự việc, nhận định và
quyết định của Tòa án. Thông thƣờng nếu phân loại theo cấp xét xử thì bản án
có hai loại là bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm.
- Trích lục bản án: là sao chép lại nguyên văn những nội dung cần thiết
trong bản án theo quy định của pháp luật (thông thƣờng nội dung sao chép là
phần quyết định trong bản án). Trích lục chỉ có giá trị pháp lý khi đƣợc cơ
quan hoặc ngƣời có thẩm quyền chứng thực. Theo quy định của pháp luật, sau
khi tuyên án, Tòa án phải cấp trích lục bản án cho đƣơng sự, ngƣời có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ khi có yêu
cầu. Ngoài ra Tòa án cũng có thể cấp trích lục bản án cho cơ quan, cá nhân
khác nếu có yêu cầu nếu xét thấy việc cấp trích lục bản án là cần thiết để có
cơ sở giải quyết những việc có liên quan đến vụ án.
- Các loại quyết định nhƣ: Quyết định đƣa vụ án ra xét xử; Quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đƣơng sự; Quyết định chuyển vụ án;
Quyết định định giá tài sản; Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ; Quyết
định thay đổi, áp dụng, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định giải
quyết việc dân sự; Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm... Trong đó, Quyết
định của tòa án là văn bản tố tụng dân sự thể hiện nhận định và ý chí của Tòa
án về một vấn đề cụ thể đang đƣợc xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự;
43
đƣợc áp dụng một lần với một hay một số ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời
tham gia tố tụng, ngƣời có liên quan.
- Các loại thông báo nhƣ: Thông báo yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện;
Thông báo trả lại đơn khởi kiện; Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí
định giá, giám định; Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; Thông báo thời
gian, địa điểm mở lại phiên tòa; Thông báo về việc kháng cáo; Thông báo về
việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo kháng nghị phúc thẩm ... Việc ban hành
các thông báo này nhằm truyền tải thông tin đến ngƣời nhận, báo cho đƣơng
sự, những ngƣời tham gia tố tụng đƣợc biết nội dung chính mà Toà án sẽ tiến
hành làm việc để giải quyết vụ việc cụ thể nào đó.
- Các loại giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự. Đây
là các văn bản tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án ban
hành; đƣợc cấp, tống đạt hoặc thông báo đến ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có
liên quan để biết và thực hiện. Giữa các văn bản này khác nhau ở điểm:
+ Đối với giấy báo, đây là văn bản tố tụng mang tính chất truyền tải
thông tin từ cơ quan tiến hành tố tụng,cơ quan thi hành án đến ngƣời tiếp
nhận để họ đƣợc biết và sử dụng các thông tin đó. Các loại giấy báo nhƣ: giấy
báo nhận đơn, giáo báo đƣơng sự tham gia phiên họp tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải…
+ Giấy triệu tập là văn bản tố tụng mang tính cƣỡng chế, buộc ngƣời
tiếp nhận phải thực hiện đúng theo nội dung văn bản. Trƣờng hợp không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải các chế tài hành chính hoặc nặng
nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy thuộc vào tính chất, mức độ cụ thể
của hành vi. Các loại giấy triệu tập nhƣ: Giấy triệu tập lấy lời khai, Giấy triệu
tập tham gia hòa giải, Giấy triệu tập tham gia phiên toà xét xử...
44
+ Giấy mời đƣợc coi là văn bản tố tụng dễ chịu hơn giấy triệu tập. Đây
là lời mời từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THA đề nghị ngƣời tiếp
nhận cùng hợp tác giải quyết vụ việc dân sự hoặc thi hành án dân sự. Với văn
bản tố tụng này, ngƣời tiếp nhận có quyền từ chối và không phải chịu bất cứ
trách nhiệm nào. Các loại giấy mời nhƣ: Giấy mời Hội thẩm nhân dân, Giấy
mời Kiểm sát viên tham gia phiên toà; Giấy mời tham gia định giá tài sản.
- Đơn khởi kiện, đơn kháng cáo. Trong đó: đơn khởi kiện là văn bản tố
tụng do cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
bởi một hoặc nhiều chủ thể khác hay ngƣời đại diện hợp pháp của họ yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó.
Quy định về đơn khởi kiện đƣợc quy định tại các Điều 189, 190 BLTTDS.
Còn đơn kháng cáo là văn bản tố tụng do đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại
Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng
cáo. Đơn kháng cáo hợp lệ là đơn đáp ứng đầy đủ các quy định tại Điều 272
BLTTDS năm 2015.
- Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị xem
xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm. Mục đích của loại văn bản này là nhằm xác nhận sự việc đƣơng sự
đã nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị tại cơ quan Toà án cùng với
các giấy tờ, tài liệu kèm theo để làm căn cứ cho yêu cầu giải quyết vụ việc
dân sự của họ. Trong nội dung của giấy xác nhận, thông thƣờng Toà án cũng
nêu rõ thời gian, địa điểm mà đƣơng sự có thể đến nhận kết quả trả lời đơn.
- Các loại biên bản nhƣ: biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, biên bản phiên toà, biên bản hòa giải
thành, biên bản về việc giao nhận chứng cứ, biên bản làm việc, biên bản xác
minh, biên bản lấy lời khai... Bằng việc lập biên bản, thẩm phán hoặc thƣ ký
45
ghi chép lại những sự việc thực tế đã và đang xảy ra trong quá trình giải quyết
vụ việc, các biên bản này sẽ đƣợc lƣu vào hồ sơ vụ án và sử dụng chúng để
làm căn cứ chứng minh cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng theo trình tự
luật định. BLTTDS năm 2015 cũng đƣa ra quy định cụ thể về thẩm quyền, nội
dung, hình thức đối với việc lập biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; biên bản phiên toà tại Điều 211 và
Điều 236. Bởi đây là 2 loại văn bản quan trọng trong việc đánh giá sự thật
khách quan của vụ việc, là căn cứ để thẩm phán ra các quyết định theo đúng
quy định pháp luật.
Trong quá trình áp dụng pháp luật, để soạn thảo và ban hành đúng,
thống nhất các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại
Toà án, ngày 13/01/2017 Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành 93 biểu
mẫu trong TTDS, đƣợc quy định rõ tại Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP (có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/02/2017). Điều này hoàn toàn phù hợp với
thực tế, giúp cho các cơ quan tố tụng khỏi lúng túng trong việc ban hành
VBTTDS theo thẩm quyền.
Tùy từng loại văn bản tố tụng khác nhau mà thời hạn thực hiện việc
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là khác nhau. Tại Điều 269
BLTTDS năm 2015 thì các đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
đƣợc Toà án cấp trích lục bản án trong thời hạn 03 ngày làm việc ngày kết
thúc phiên toà. Đối với Thông báo về việc thụ lý vụ án phải đƣợc thực hiện
trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các loại
Quyết định nhƣ: Quyết định đƣa vụ án ra xét xử phải đƣợc gửi cho đƣơng sự
và VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định
(Điều 220); Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải đƣợc cấp
cho đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong
thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định (khoản 2 Điều 214, khoản
46
3 Điều 217); Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự phải đƣợc gửi cho
đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án không
còn (Điều 216). Đối với đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo
ngay bằng văn bản cho VKS cùng cấp và đƣơng sự có liên quan đến kháng
cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà ngƣời
kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo sau khi nhận đƣợc đơn kháng cáo hợp lệ
(Điều 277).
2.1.2.Văn bản tố tụng dân sự do Viện kiểm sát cấp, tống đạt, thông báo
Theo quy định của BLTTDS, đối tƣợng văn bản đƣợc VKS thông báo
bao gồm:
- Quyết định kháng nghị (Điều 281)
Quyết định kháng nghị là văn bản tố tụng do VKS cùng cấp với Tòa án
cấp sơ thẩm hoặc VKS cấp trên trực tiếp, yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp
xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. VKS ra quyết định kháng nghị
phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đƣơng sự có liên quan đến kháng
nghị đƣợc biết (khoản 1 Điều 281 BLTTDS năm 2015).
- Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 331, 336)
Giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 336
BLTTDS năm 2015 thì ngay sau khi ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm,
VKS phải gửi ngay quyết định đó cho Toà án đã ra bản án, quyết định; các
đƣơng sự; cơ quan THADS; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
kháng nghị. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể thời gian VKS
phải gửi quyết định cho đƣơng sự và các cơ quan có thẩm quyền theo luật
47
định mà chỉ quy định chung chung rằng “phải gửi ngay” (tƣơng tự quy định
tại khoản 1 Điều 281). Điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong
quá trình áp dụng pháp luật cũng nhƣ trong việc xác định thời điểm mà VKS
thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.
- Quyết định kháng nghị tái thẩm (Điều 354)
Tái thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án nhƣng bị kháng nghị do phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án không biết đƣợc khi ra bản
án, quyết định đó. Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS năm 2015 thì “các
quy định khác về thủ tục tái thẩm đƣợc thực hiện nhƣ các quy định về thủ tục
giám đốc thẩm”. Do vậy quyết định kháng nghị tái thẩm cũng là VBTTDS mà
Viện kiểm sát thực hiện cấp, tống đạt, thông báo. Sau khi nhận đƣợc quyết
định, bản án của Tòa án, nếu có căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm
hay tái thẩm thì trong thời hạn luật định, VKS phải thông báo quyết định
kháng nghị cho Tòa án có thẩm quyền và các đƣơng sự có liên quan trong vụ án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTDS năm 2015 thì trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các
đƣơng sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và VKS cùng cấp. Thời hạn kháng nghị
đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15 ngày, của
VKS cấp trên trực tiếp là 01 tháng kể từ ngày tuyên án (Điều 280). Việc quy
định về thời hạn kháng nghị nhƣ trên trên thực thế còn tồn tại một số bất cập
bởi liên hệ với Điều 269 ta có thể thấy thời hạn gửi hoặc chuyển giao Bản án
của Tòa án cấp sơ thẩm cho VKS cùng cấp là 10 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trƣờng hợp sau khi tuyên án, Tòa án không gửi ngay Bản án cho VKS
mà đến hạn vào ngày thứ 10 theo quy định Tòa án mới gửi Bản án cho VKS,
nhƣ vậy, VKS chỉ còn lại 05 ngày để xem xét bản án và ra quyết định kháng
nghị, thậm chí thời hạn này sẽ chỉ còn lại là 03 ngày nếu nhƣ ngày thứ 10 Tòa
48
án gửi Bản án cho VKS nhƣng lại là ngày thứ sáu trong tuần (vì VKS sẽ mất
thêm 2 ngày nghỉ vào thứ 7 và chủ nhật). Nhƣ vậy việc xem xét, đánh giá bản
án, quyết định của Toà án để từ đó VKS đƣa ra quyết định kháng nghị sẽ
không đƣợc đảm bảo về mặt thời gian nghiên cứu để có thể đánh giá một cách
toàn diện, khách quan.
2.1.3.Văn bản tố tụng dân sự do cơ quan Thi hành án dân sự cấp, tống đạt,
thông báo
Nếu BLTTDS dành hẳn 1 chƣơng để quy định về cả 3 hoạt động cấp,
tống đạt, thông báo VBTTDS thì Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 lại
chỉ tập trung quy định về hoạt động thông báo văn bản với 05 điều luật. Hiện
nay, thông báo về thi hành án dân sự đƣợc quy định cụ thể tại Điều 39 đến
Điều 43 Luật Thi hành án dân sự, Điều 2 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và
Điều 2 Thông tƣ liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày
01/8/2015 của Bộ Tƣ pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên
ngành trong thi hành án dân sự, Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ
quan thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số 273/QĐ-
TCTHADS ngày 22/02/2017 của Tổng cục trƣởng Tổng cục Thi hành án dân
sự, với nhiều công việc phải thực hiện thông báo nhƣ: thông báo cƣỡng chế
thi hành án, thông báo về việc kê biên tài sản, thông báo bán đấu giá tài sản
(kể cả thông báo đấu giá quyền sử dụng đất), thông báo về việc giao nhận tài
sản (theo văn bản bán đấu giá hoặc biên bản thoả thuận của đƣơng sự), thông
báo về việc giải toả kê biên tài sản (theo Điều 105 Luật Thi hành án dân sự),
thông báo về việc nhận tiền, tài sản… nhằm đảm bảo các quyền của đƣơng sự
đƣợc thực hiện một cách công khai, minh bạch.
49
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm
2014 thì cơ quan THA phải thực hiện thông báo đối với 03 loại văn bản tố
tụng, đó là:
- Quyết định về thi hành án nhƣ: quyết định THA, quyết định hoãn
THA, quyết định tạm đình chỉ THA, quyết định trả đơn yêu cầu THA, quyết
định khôi phục thời hiệu THA, quyết định cƣỡng chế THA ….
- Các giấy báo thi hành án: nhƣ giấy báo tự nguyện THA, giấy báo
đƣơng sự đến giải quyết việc THA...
- Giấy triệu tập thi hành án: Đây là văn bản do Chấp hành viên ban
hành để triệu tập đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải
quyết việc THA. Căn cứ để ban hành giấy triệu tập về THA dựa trên cơ sở,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật
THADS.
- Ngoài ra còn có các văn bản khác có liên quan đến việc THA nhƣ:
Thông báo từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án, thông báo tạm đình chỉ thi
hành án, thông báo cƣỡng chế thi hành án...
Các văn bản này đƣợc ban hành nhằm thông báo cho các đƣơng sự biết
nội dung thông tin về THA từ đó giúp họ biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình. Hình thức và nội dung văn bản tố tụng đƣợc quy định cụ thể theo
mẫu thống nhất tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Thông tƣ số 01/2016/TT-
BTP ngày 01/02/2016 về Hƣớng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành
chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS (Điều 32).
2.2. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà mỗi cơ quan
tiến hành tố tụng ban hành các loại VBTTDS khác nhau, phù hợp với từng đối
tƣợng cụ thể trong các trƣờng hợp nhất định. Do đó, chủ thể cấp, tống đạt,
50
thông báo văn bản tố tụng dân sự gồm có chủ thể thực hiện và chủ thể đƣợc
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự (hay còn gọi là chủ thể nhận
văn bản).
2.2.1. Chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân
sự
a. Các cơ quan có nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Cấp, tống đạt, thông báo VBTT là công cụ hữu ích giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án giải quyết vụ việc và đƣa nội dung văn
bản tố tụng vào thi hành đƣợc nhanh chóng và đúng đắn. Hơn thế nữa nó còn
bảo đảm cung cấp các thông tin cần thiết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên
quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về nguyên tắc, cơ quan
nào ban hành ra VBTTDS thì cơ quan đó có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống
đạt, thông báo cho đƣơng sự và những ngƣời tham gia tố tụng. Nhƣng các cơ
quan này không đƣợc thực hiện nghĩa vụ một cách tuỳ tiện.
Bên cạnh đó, có những trƣờng hợp ngƣời tham gia, thực hiện cấp, tống
đạt, thông báo văn bản TTDS không phải là ngƣời thuộc các cơ quan ban
hành ra VBTTDS mà họ chỉ tham gia với tƣ cách hỗ trợ, giúp đỡ các cơ quan
này. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng nhƣ thực hiện chủ trƣơng cải cách tƣ
pháp đƣợc nêu tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nội dung: “Tiếp
tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu và phát triển các loại hình
dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu
thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…từng
bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao
cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi
hành án” mà chế định về Thừa phát lại quy định trở lạimang tính tất yếu, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển của đất nƣớc. Thừa phát lại là hoạt
51
động theo yêu cầu của công dân để ghi nhận các sự kiện pháp lý, lập các vi
bằng làm chứng bảo vệ quyền lợi của ngƣời yêu cầu hoặc tổ chức thi hành
quyền lợi của đƣơng sự theo phán quyết của Tòa án. Nhƣ vậy, thông qua hoạt
động của thừa phát lại, ngƣời dân có thể chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Thừa phát lại ra đời đã tạo cho ngƣời dân có thêm điều kiện
lựa chọn phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng một cách phù
hợp, giảm tải cho hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Căn cứ Điều 146
BLTTDS, LTHA và Điều 1, Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì chủ thể có nghĩa vụ cấp, tống đạt,
thông báo VBTTDS gồm Toà án, VKS, cơ quan THA, văn phòng Thừa phát
lại. Trong đó việc thành lập, cơ cấu tổ chức và hoạt động của văn phòng Thừa
phát lại đƣợc thực hiện theo những quy định và tiêu chuẩn cụ thể mà pháp
luật quy định.
b. Những người tham gia vào hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản
tố tụng dân sự
Trƣớc hết, ngƣời tham gia vào quá trình cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng là ngƣời tiến hành tố tụng của cơ quan ban hành VBTTDS đƣợc
giao nhiệm vụ cấp,tống đạt, thông báo VBTTDS. Đối với cơ quan Toà án,
ngƣời có thẩm quyền ký ban hành văn bản tố tụng gồm có: Chánh án, Phó
chánh án, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng chủ yếu là Thƣ ký toà án, trong một số
trƣờng hợp Thẩm phán cũng có thể trực tiếp thực hiện việc cấp, tống đạt,
thông báo VBTTDS. Nếu nhƣ ở Toà án nhiệm vụ này đƣợc coi là công việc
thƣờng xuyên của thƣ ký thì tại ở cơ quan thi hành án, nhiệm vụ này do các
chấp hành viên và công chức làm công tác thi hành án đảm nhiệm, VKS có
Kiểm sát viên. Còn đối với văn phòng Thừa phát lại, thƣ ký nghiệp vụ đƣợc
52
coi là “ngƣời có chức năng tống đạt” (khoản 5 Điều 172 BLTTDS năm 2015)
thực hiện tống đạt VBTT khi đƣợc Trƣởng văn phòng giao nhiệm vụ.
Tiếp đó, tại Điều 172 BLTTDS năm 2015, các nhà làm luật có nêu ra
một số chủ thể tham gia vào hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
gồm có: UBND cấp xã nơi ngƣời tham gia TTDS cƣ trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi ngƣời tham gia TTDS làm việc khi Toà án yêu cầu; đƣơng sự, ngƣời
đại diện của đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự; nhân viên tổ chức dịch vụ bƣu chính. Đối với công tác THADS,
ngoài chấp hành viên và công chức làm công tác THA thì một số chủ thể khác
đƣợc thực hiện việc thông báo về THA bao gồm: bƣu tá; ngƣời đƣợc cơ quan
THA uỷ quyền; tổ trƣởng tổ dân phố; trƣởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn,
phum, sóc; Ủy ban nhân dân, công an cấp xã; Thủ trƣởng cơ quan, đơn vị;
Giám thị trại giam, trại tạm giam; Thủ trƣởng cơ quan thi hành án hình sự;
Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc thông báo có địa chỉ, cƣ trú, công tác,
chấp hành hình phạt tù giao văn bản cần thông báo cho ngƣời đƣợc thông báo
(theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 quy
định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS). Mặc dù
pháp luật tố tụng dân sự quy định đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự
hoặc ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là ngƣời thực hiện
việc tống đạt văn bản tố tụng tuy nhiên gần nhƣ không có điều luật nào quy
định hay hƣớng dẫn rõ ràng về các trƣờng hợp đƣơng sự, ngƣời đại diện của
đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đƣợc thực
hiện việc tống đạt văn bản tố tụng. Điều này có thể dẫn đến những vƣớng
mắc, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật.
2.2.2. Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Căn cứ vào vị trí, vai trò của chủ thể đối với vụ việc dân sự, ta có thể
phân loại chủ thể đƣợc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thành 03 nhóm sau:
53
- Thứ nhất: chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng, có quyền và lợi ích
liên quan đến vụ việc dân sự. Bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, ngƣời yêu cầu,
ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
- Thứ hai: chủ thể không tham gia vào hoạt động tố tụng, không có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nhƣng phải thực hiện cấp, tống
đạt, thông báo văn bản để làm rõ nội dung, tình tiết sự việc, đảm bảo quá trình
giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật. Bao gồm: ngƣời đại diện, ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, tổ chức giám
định, cơ quan định giá tài sản.... Ví dụ: Khi vụ án có ngƣời đại diện hoặc
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Toà án có thể giao trực tiếp
VBTT để họ giao lại cho đƣơng sự. Khi giao văn bản, Toà án phải lập biên
bản và yêu cầu họ thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đƣợc giao.
- Thứ ba: chủ thể nhận văn bản chính là cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo quy định của pháp luật, các cơ quan này phải thực hiện việc giao VBTT
cho cơ quan khác để thực hiện việc giám sát hoạt động của cơ quan ban hành
văn bản hoặc để các cơ quan có thẩm quyền thi hành các văn bản đƣợc ban
hành. Ví dụ: VKS là cơ quan nhận thông báo thụ lý vụ án, các quyết định
(nhƣ quyết định đƣa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự), bản án của Toà án. Ngƣợc lại,
Toà án cũng là chủ thể nhận các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm của VKS hoặc các thông báo THA của cơ quan THADS. Cơ quan
THADS nhận Bản án của Toà án để thi hành.
2.3. Các phƣơng thức và thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan thi hành án ban hành rất nhiều các văn bản tố tụng khác nhau
nhƣ: giấy triệu tập đƣơng sự, giấy báo, thông báo thụ lý vụ án, quyết định áp
54
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định đình chỉ vụ án, bản án… Đối
với mỗi loại văn bản lại đòi hỏi phƣơng thức cấp, tống đạt hoặc thông báo
phù hợp để đạt đƣợc hiệu quả truyền tải thông tin một cách tốt nhất. Hiện nay
có nhiều phƣơng thức hiện đại đƣợc sử dụng để chuyển giao văn bản và đem
lại kết quả tốt trên thực tế.
2.3.1. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trực tiếp
a. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cá nhân
Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng là cá
nhân thì ngƣời thực hiện phải có nghĩa vụ giao trực tiếp văn bản tố tụng tại
nơi cƣ trú của họ. Ngƣời nhận văn bản phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ
giao nhận văn bản tố tụng, đây là cơ sở để xác định tính hợp pháp của hoạt
động tống đạt. Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
nếu ngƣời tiếp nhận từ chối nhận văn bản thì ngƣời thực hiện phải lập biên
bản, nêu rõ lý do của việc từ chối và phải đƣợc tổ trƣởng tổ dân phố, Ủy ban
nhân dân, công an xã, phƣờng, thị trấn nơi cƣ trú của ngƣời đó xác nhận. Quy
định này là hoàn toàn hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời thực hiện việc
tống đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Theo Luật cƣ trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì nơi cƣ trú
của công dân là chỗ ở hợp pháp mà ngƣời đó thƣờng xuyên sinh sống, là nơi
thƣờng trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phƣơng tiện hoặc nhà
khác mà công dân sử dụng để cƣ trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở
hữu của công dân hoặc đƣợc cá nhân, cơ quan, tổ chức cho thuê, cho mƣợn,
cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Nơi thƣờng trú là nơi công dân sinh
sống thƣờng xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã
đăng ký thƣờng trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi thƣờng
trú và đã đăng ký tạm trú. Trong trƣờng hợp không xác định đƣợc nơi cƣ trú
55
của công dân theo các quy định nói trên thì nơi cƣ trú của công dân là nơi
ngƣời đó đang sinh sống.
Tại thời điểm chuyển giao văn bản tố tụng, ngƣời tiếp nhận vắng mặt
(đƣợc hiểu vắng mặt trong một thời gian ngắn và xác định đƣợc thời gian trở
về) thì ngƣời thực hiện thông báo, cấp, tống đạt văn bản có thể giao văn bản
đó cho ngƣời thân thích có cùng nơi cƣ trú nhƣ: ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng,
anh, chị, em… có đủ năng lực hành vi dân sự (tức là khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự); yêu
cầu ngƣời này ký nhận và cam kết sẽ chuyển giao lại cho ngƣời có nghĩa vụ
tiếp nhận. Ngày chuyển giao văn bản tố tụng là ngày ngƣời thân thích của
ngƣời tiếp nhận ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng.
Trong một trƣờng hợp khác, nếu ngƣời tiếp nhận văn bản tố tụng không có
ngƣời thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cƣ trú hoặc có nhƣng
không chịu nhận hộ thì văn bản tố tụng sẽ đƣợc chuyển giao cho tổ trƣởng tổ
dân phố (hoặc trƣởng thôn, làng, ấp, bản), Ủy ban nhân dân, công an xã,
phƣờng, thị trấn nơi ngƣời tiếp nhận cƣ trú. Cá nhân, cơ quan. tổ chức có
trách nhiệm chuyển giao văn bản tố tụng phải ký nhận và cam kết giao lại tận
tay cho ngƣời tiếp nhận. Việc thông báo, cấp, tống đạt gián tiếp qua ngƣời
thân thích có cùng nơi cƣ trú hoặc thông qua tổ trƣởng tổ dân phố, trƣởng
thôn, Ủy ban nhân dân xã, phƣờng…nơi ngƣời tiếp nhận văn bản cƣ trú phải
đƣợc lập thành văn bản. Trong biên bản phải thể hiện rõ ngƣời tiếp nhận vắng
mặt nêu rõ lý do, văn bản tố tụng đã đƣợc chuyển giao cho ai, quan hệ giữa họ
với nhau, thời gian giao văn bản, cam kết và chữ ký của ngƣời nhận chuyển
giao văn bản, ngƣời thực hiện và ngƣời chứng kiến.
Trên thực tế, việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ đƣợc thực
hiện một cách dễ dàng, thuận lợi khi xác định đƣợc địa chỉ nơi cƣ trú của
ngƣời tiếp nhận văn bản, kể cả trong trƣờng hợp ngƣời đó vắng mặt vì lý do
56
khách quan. Vậy nếu trong trƣờng hợp ngƣời tiếp nhận vắng mặt tại nơi cƣ
trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ cƣ trú thì việc thông
báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ đƣợc thực hiện bằng cách nào? Để giải
quyết vấn đề này, pháp luật tố tụng dân sự đã đƣa ra hai trƣờng hợp ngƣời
thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng phải lập biên bản về
việc không chuyển giao văn bản tố tụng đƣợc. Đó là khi có căn cứ cho rằng
ngƣời tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ.
Trƣờng hợp thứ nhất là ngƣời đƣợc tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời
điểm trở về đƣợc hiểu là đã xác định đƣợc địa chỉ của ngƣời tiếp nhận nhƣng
ngƣời đó không có mặt tại địa chỉ này vì lý do nào đó nhƣ đi tìm việc, đi làm
ăn xa… và điều quan trọng là thông tin về việc lúc nào ngƣời đó sẽ quay trở
lại địa chỉ này lại hoàn toàn không có. Đây không phải là việc vắng mặt trong
thời gian ngắn một vài ngày mà thời gian vắng mặt tƣơng đối dài, không thể
xác định đƣợc. Trƣờng hợp thứ hai, ngƣời tiếp nhận vắng mặt trong một thời
gian dài vì lý do nào đó, không thông báo cho cơ quan hành chính địa phƣơng
và không thể xác định đƣợc địa chỉ mới của ngƣời đó. Để xác định tính xác
thực của thông tin và chịu trách nhiệm về thông tin mà mình cung cấp, ngƣời
cung cấp thông tin về hai trƣờng hợp trên phải ký nhận vào biên bản không
chuyển giao văn bản tố tụng đƣợc và nêu rõ lý do.
b. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức
Ngƣời tham gia tố tụng ngoài cá nhân có thể là cơ quan, tổ chức. Vì
vậy, thủ tục thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho những đối
tƣợng này đòi hỏi phải có những quy định riêng và phù hợp.
Khi thực hiện chuyển giao văn bản, ngƣời thực hiện phải giao cho
ngƣời đại diện theo pháp luật (thông thƣờng là Thủ trƣởng hoặc Giám đốc
công ty) hoặc ngƣời có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó
(thƣờng là bộ phận văn thƣ). Nếu có ngƣời đại diện quyền và lợi ích hợp pháp
57
của cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng thì văn bản cần thông báo,
cấp, tống đạt đƣợc chuyển giao cho ngƣời đó. Ngoài ra, ngƣời thực hiện có
thể thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho ngƣời đƣợc cơ quan cử đại
diện nhận văn bản tố tụng. Tuy vậy pháp luật không quy định cụ thể việc cử
ngƣời đại diện này có thể thực hiện bằng hình thức lời nói hay buộc phải lập
thành văn bản; hay khi chuyển giao văn bản họ có phải cung cấp Giấy ủy
quyền hay không. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền
của ngƣời tiếp nhận văn bản và tính hợp lệ của việc thông báo, cấp, tống đạt
văn bản tố tụng dân sự. Để có cơ sở xác minh văn bản tố tụng đã đƣợc cấp,
tống đạt hoặc thông báo đến đúng ngƣời, đúng thời điểm và hợp lệ, việc lập
biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản và sự ký nhận của ngƣời tiếp nhận là rất
cần thiết. Vì vậy pháp luật quy định ngày ký nhận là ngày đƣợc cấp, tống đạt
hoặc thông báo.
2.3.2. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự qua dịch vụ bưu
chính hoặc người thứ ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo
Xét về bản chất thì đây là 2 phƣơng thức tống đạt VBTT qua trung
gian. Tuy nhiên phƣơng thức tống đạt qua ngƣời thứ ba đƣợc uỷ quyền
BLTTDS vẫn chƣa có quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục mà chỉ quy định
cấp, tống đạt, thông báo VBTT qua ngƣời thân thích, tổ trƣởng tổ dân phố,
UBND hoặc Công an cấp xã. Điều này đã gây không ít khó khăn cho ngƣời
có trách nhiệm tống đạt cũng nhƣ ảnh hƣởng đến quyền và nghĩa vụ của
ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo VBTT.
Đa số các vụ việc dân sự đƣợc thụ lý giải quyết tại Toà án, cơ quan tiến
hành tố tụng thƣờng thực hiện tống đạt cho đƣơng sự thông qua con đƣờng
bƣu chính. Bởi đây là phƣơng thức chuyển giao văn bản tố tụng tƣơng đối
nhanh chóng, giảm thiểu đƣợc chi phí tống đạt trong điều kiện Toà án không
đủ nhân lực và hoạt động của cơ quan thừa phát lại vẫn còn đang đƣợc thí
58
điểm tại một số địa phƣơng ở nƣớc ta hiện nay. Thực tế cho thấy trong những
trƣờng hợp đƣơng sự vắng mặt tại Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng rất khó
khăn trong việc xác định văn bản tố tụng đƣợc chuyển giao cho đƣơng sự
thông qua bƣu điện có phải là tống đạt hợp lệ hay không.
Thông thƣờng Toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự
qua dịch vụ bƣu chính dƣới ba hình thức, đó là: gửi thƣờng, gửi đảm bảo và
chuyển phát nhanh. Đối với hình thức gửi thƣờng thì thời gian mà VBTT
đƣợc chuyển đến ngƣời cần tống đạt khá lâu, thậm chí có trƣờng hợp bị thất
lạc do sơ suất của nhân viên bƣu tá khi mà khối lƣợng bƣu phẩm phải vận
chuyển hiện nay là tƣơng đối lớn, mức độ ƣu tiên về mặt thời gian chƣa thực
sự đƣợc đảm bảo. Khác với gửi thƣờng, chuyển phát nhanh là hình thức đƣợc
lựa chọn nhiều hơn, ngƣời nhận có thể nhận đƣợc bƣu phẩm dễ dàng và
nhanh chóng trong khoảng thời gian từ 1-2 ngày tuỳ theo phạm vi địa lý từng
khu vực. Tuy nhiên, cả 2 hình thức gửi thƣờng và chuyển phát nhanh đều chỉ
đƣợc xác nhận bằng Vận đơn gửi. Các thông tin trên Vận đơn này chỉ mang
tính chất xác nhận sự việc ngƣời gửi đã thực hiện việc gửi thƣ hoặc bƣu phẩm
tới ngƣời tiếp nhận tại bƣu cục gửi mà không đề cập đến việc ngƣời nhận có
thực sự nhận đƣợc chúng hay không. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn,
vƣớng mắc trong việc xác định việc gửi VBTTDS tại thời điểm nào thì đƣợc
coi là tống đạt hợp lệ. Bên cạnh đó cũng phải kể đến việc sử dụng các mẫu
văn bản dùng trong bƣu chính cần phải đƣợc áp dụng thống nhất. Tại các bƣu
cục khác nhau, đôi khi việc sử dụng các mẫu vận đơn, mẫu gửi mới thay thế
cho các mẫu văn bản cũ lại không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên hoặc đã không
còn đƣợc sử dụng nữa. Bởi các lý do trên mà pháp luật tố tụng dân sự quy
định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thông qua dịch vụ bƣu chính phải
đƣợc gửi bằng thƣ bảo đảm và có xác nhận của ngƣời nhận văn bản. Văn bản
có xác nhận phải đƣợc chuyển lại cho Tòa án. Thời điểm để tính thời hạn tố
59
tụng là ngày họ xác nhận đã nhận đƣợc văn bản tố tụng do tổ chức dịch vụ
bƣu chính chuyển đến (Điều 175 BLTTDS năm 2015). Khi thực hiện gửi đảm
bảo, ngoài việc chuyển bƣu phẩm đến đúng địa chỉ của ngƣời đƣợc tống đạt
do ngƣời gửi cung cấp, nhân viên bƣu điện còn phải yêu cầu ngƣời nhận ký
tên xác nhận về việc đã nhận bƣu phẩm thông qua Phiếu báo phát. Nội dung
Phiếu báo phát có ghi rõ thông tin ngƣời gửi, ngƣời nhận bƣu phẩm và có dấu
xác nhận của bƣu cục phát.
Nhìn chung, việc lựa chọn hình thức chuyển giao văn bản nào trong 3
hình thức này tuỳ thuộc vào tính chất của từng vụ việc dân sự cụ thể. Thời
điểm đƣơng sự đƣợc tống đạt hợp lệ căn cứ vào dấu xác nhận của bƣu điện
gửi VBTT. Đây cũng là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định thời
hạn tố tụng theo quy định của pháp luật.
2.3.3. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự bằng phương tiện
điện tử
Để phù hợp với điều kiện, tình hình mới, BLTTDS năm 2015 đã thừa
nhận phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hoàn toàn mới, đó
là cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phƣơng tiện điện tử theo yêu cầu của
đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp
luật về giao dịch điện tử. Theo khoản 6 Điều 4 Luật giao dịch điện tử năm
2005 thì:
“Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”;
“Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện
tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công
nghệ tương tự”.
Ngày 30/12/2016, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị
quyết số 04/2016/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 15/02/2017) hƣớng dẫn thi
hành một số quy định về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp,
60
tống đạt, thông báo VBTT bằng phƣơng tiện điện tử. Theo đó, Pháp luật
TTDS cho phép ngƣời khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến Toà án thông qua gửi
trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Toà án theo
một trong các hình thức sau: Gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa
án; Chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo.
Về điều kiện thực hiện giao dịch điện tử, ngƣời khởi kiện, ngƣời tham
gia tố tụng (các cá nhân, cơ quan, tổ chức) lựa chọn gửi và nhận thông điệp
dữ liệu điện tử với Tòa án phải có các điều kiện sau:
- “Có địa chỉ thư điện tử để gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử đến
và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án;
- Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn
hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận...”. (khoản 1
Điều 5 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP)
Đƣơng sự đƣợc đăng ký một số điện thoại di động để nhận mã xác thực giao
dịch điện tử qua tin nhắn và đƣợc đăng ký một địa chỉ thƣ điện tử chính thức
để nhận tất cả văn bản tố tụng trong quá trình thực hiện giao dịch điện tử với
tòa.
Nội dung đơn khởi kiện có ghi rõ fax và địa chỉ thƣ điện tử (nếu có).
Ngày khởi kiện là ngày gửi đơn thành công. Tòa gửi thông báo nhận đơn khởi
kiện điện tử đến đƣơng sự qua cổng thông tin điện tử của tòa chậm nhất 15
phút sau khi nhận đƣợc đơn khởi kiện điện tử. Khi thực hiện tống đạt theo
hình thức này, Tòa án phải lập biên bản ghi nhận sự đồng ý của đƣơng sự và
địa chỉ thƣ điện tử để tống đạt. Về phía Tòa án cũng phải có một địa chỉ email
để sử dụng chung. Thƣ ký chụp hình các văn bản tố tụng đã đƣợc ký, đóng
dấu rồi gửi cho đƣơng sự qua email. Khi nhận đƣợc các văn bản tống đạt,
đƣơng sự phải gửi thƣ xác nhận đã nhận đƣợc qua email cho ngƣời gửi.
61
Có thể nói phƣơng thức này đem lại khá nhiều sự tiện lợi, giúp cho việc
tống đạt, thông báo đƣợc thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng, ít chi phí.
Tuy nhiên, để việc áp dụng trở nên phổ biến thì cũng cần có một khoảng thời
gian nhất định bởi ngƣời dân không phải ai cũng quen giao dịch trên mạng,
nhất là ở những vùng có điều kiện, kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Chƣa
kể, các Tòa án cũng cần có thời gian đầu tƣ xây dựng cổng thông tin điện tử
của cơ quan mình cùng nền tảng công nghệ cần thiết giúp cho việc thực hiện
giao dịch điện tử với đƣơng sự. Bên cạnh đó, muốn phát huy đƣợc hiệu quả
trên thực tế còn đòi hỏi nhà nƣớc phải có một hệ thống pháp luật với những
quy định đủ chặt chẽ, khoa học và rõ ràng.
2.3.4. Niêm yết công khai
Hiểu theo cách khái quát, niêm yết công khai là việc dán (treo) văn bản
tố tụng cần đƣợc truyền tải thông tin lên một vị trí nhất định để thông báo cho
công chúng và cho ngƣời tiếp nhận biết. Về mặt lý luận, có thể nhận thấy việc
niêm yết công khai VBTT mang lại hiệu quả thấp hơn so với thủ tục tống đạt
trực tiếp, do đó pháp luật quy định trong những trƣờng hợp không thể tống
đạt trực tiếp đƣợc thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng thủ tục
niêm yết công khai. Khi thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng
hình thức này, Tòa án có thể tự mình trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận thực
hiện. Theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về
tổ chức hoạt động của Thừa phát lại thì hiện nay việc chuyển văn bản tố tụng
đến ngƣời có nghĩa vụ tiếp nhận có thể đƣợc ủy quyền cho tổ chức Thừa phát
lại thực hiện.
Theo quy định của BLTTDS, có 3 địa điểm thực hiện việc niêm yết
công khai văn bản tố tụng là Trụ sở TAND đang thụ lý giải quyết vụ án, trụ
sở UBND cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời đƣợc tống
62
đạt và nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời đƣợc tống đạt. Việc
niêm yết văn bản tố tụng tại trụ sở Tòa án là cần thiết bởi đây là nơi mà hàng
ngày ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có liên quan trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự thƣờng đến liên hệ làm việc. Hơn nữa, thông tin về văn bản đƣợc
niêm yết tại trụ sở thể hiện sự minh bạch, công khai với công chúng về hoạt
động tố tụng nói chung và văn bản tố tụng đó nói riêng. Nơi niêm yết công
khai thứ hai là tại trụ sở UBND cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng
của ngƣời tiếp nhận. Điều này rất dễ hiểu bởi đây là cơ quan quản lý hành
chính nhà nƣớc tại địa phƣơng, là nơi gần dân nhất, hàng ngày giải quyết các
công việc của công dân trên địa bàn cơ sở, do đó việc niêm yết tại các cơ quan
này sẽ phần nào đảm bảo cơ hội cho ngƣời cần đƣợc tống đạt tiếp cận với
nguồn thông tin. Văn bản niêm yết còn cần đƣợc niêm yết tại nơi cƣ trú hoặc
nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận và đƣợc xác định theo Luật cƣ trú và
văn bản hƣớng dẫn thi hành. Việc niêm yết tại nơi cƣ trú, nơi cƣ trú cuối cùng
cũng là cơ hội để họ đƣợc biết về văn bản tố tụng. Nhƣ vậy, việc niêm yết tại
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cƣ trú, nơi cƣ trú cuối cùng và tại nơi cƣ
trú, nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận về cơ bản là trùng nhau, cùng
trên địa bàn cấp xã.
Về thủ tục niêm yết công khai, điều luật quy định khi thực hiện niêm
yết công khai thì ngƣời thực hiện niêm yết phải lập biên bản về việc niêm yết
đó. Trong biên bản phải ghi rõ thời gian, ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày,
tháng, năm, tên của văn bản thông báo, có chữ ký của ngƣời chứng kiến. Sở
dĩ pháp luật đòi hỏi ngƣời thực hiện niêm yết phải thực hiện thủ tục này là để
có cơ sở khẳng định việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng đã đƣợc
thực hiện chính xác và vì biên bản sẽ đƣợc lƣu vào hồ sơ tố tụng. Đối với việc
niêm yết tại trụ sở Tòa án, thông thƣờng Tòa án lập biên bản niêm yết riêng,
biên bản này do Thƣ ký tòa án lập và đƣợc Thẩm phán, Cán bộ văn phòng ký
63
tên, đóng dấu xác nhận. Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là 15
ngày kể từ ngày đƣợc niêm yết. Thời gian niêm yết đƣợc đặt ra nhƣ trên nhằm
đảm bảo cơ hội cho ngƣời đƣợc tống đạt có điều kiện tiếp nhận thông tin một
cách chính xác, kịp thời. Về mặt pháp lý, ngày cuối cùng của thời hạn niêm
yết là ngày xác định việc ngƣời đƣợc tống đạt đã tiếp nhận đƣợc những thông
tin cần thiết và tạo cơ sở cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một
cách hợp pháp.
2.3.5.Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
Việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng chỉ đƣợc thực hiện
khi pháp luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai
không đảm bảo cho ngƣời đƣợc tống đạt nhận đƣợc thông tin về văn bản cần
đƣợc tống đạt. Nhƣ vậy khi các phƣơng thức tống đạt trực tiếp, tống đạt thông
qua ngƣời thứ ba hoặc thủ tục niêm yết công khai không đạt hiệu quả, pháp
luật cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng thủ tục truyền đạt thông tin văn
bản tố tụng qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, từ đó thông tin có thể
đến với ngƣời cần đƣợc tống đạt văn bản tố tụng. Thông tin đại chúng theo
trƣờng hợp này đƣợc hiểu là một quá trình truyền đạt thông tin văn bản tố
tụng thông qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng, đến các nhóm cộng
đồng trong xã hội, trong đó có đối tƣợng cần tiếp nhận thông tin. Phƣơng thức
thông báo này xác định phạm vi địa lý để phổ biển thông tin lớn hơn so với
các phƣơng thức khác, cũng nhƣ mở rộng hơn về số lƣợng ngƣời tiếp cận
thông tin, với mong muốn ngƣời cần đƣợc tống đạt sẽ có điều kiện tiếp cận
thông tin một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Bởi nếu nhƣ thông báo, cấp, tống
đạt văn bản tố tụng trực tiếp thì chỉ đối tƣợng cần tiếp nhận hoặc ngƣời đại
diện của họ có thể tiếp cận đƣợc thì đến niêm yết công khai phạm vi đƣợc mở
rộng ra nơi cƣ trú của ngƣời đó, cùng với đó là số lƣợng ngƣời biết về thông
tin trong văn bản tố tụng cũng tăng lên. Trên thực tế áp dụng thì phƣơng thức
64
này thƣờng đem lại kết quả thấp và không xác định đƣợc rõ ràng. Ngoài
những lý do trên, thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng đƣợc
sử dụng nếu có yêu cầu của đƣơng sự khác, lệ phí liên quan sẽ do ngƣời yêu
cầu chịu.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS năm 2015 thì việc thông
báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin
điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của Trung ƣơng trong
ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của
Trung ƣơng ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Có thể thấy rằng trong điều kiện
kinh tế của nƣớc ta hiện nay, ở các đô thị lớn, mạng lƣới truyền thông,
internet phát triển mạnh mẽ giúp cho việc cập nhật thông tin đƣợc thực hiện
nhanh chóng. Tuy nhiên đối với các khu vực vùng xâu vùng xa, vùng nông
thôn kinh tế khó khăn, ngƣời dân không có những điều kiện thuận lợi để tiếp
cận các phƣơng tiện thông tin hiện đại. Vì vậy, pháp luật quy định việc đăng
tải thông tin trên các phƣơng tiện truyền thông chính thống của quốc gia, gần
gũi với ngƣời dân là báo hàng ngày của Trung ƣơng, Đài phát thanh hoặc Đài
truyền hình của Trung ƣơng nhằm đảm bảo cho việc mở rộng phạm vi lan
truyền và số lƣợng ngƣời tiếp nhận thông tin, từ đó bảo đảm cơ hội cao hơn
để thông tin đến đƣợc với ngƣời cần đƣợc tống đạt. Hiện nay, chƣa có quy
định nào của pháp luật, từ Luật Báo chí năm 2016 đến các văn bản hƣớng dẫn
thi hành Luật này đƣa ra tiêu chí xác định thế nào là báo trung ƣơng hay báo
địa phƣơng. Trên thực tế, việc xác định báo trung ƣơng hay báo địa phƣơng
thƣờng căn cứ dựa trên cơ quan chủ quản báo chí, nếu cơ quan chủ quản của
tờ báo là cấp trung ƣơng thì tờ báo họ quản lý là cấp trung ƣơng và tƣơng tự
nhƣ vậy đối với báo địa phƣơng. Căn cứ vào đơn vị chủ quản của báo chí, Bộ
thông tin và truyền thông đã phân loại một số cơ quan báo chí và công bố
công khai trên website của Bộ, theo đó, một số cơ quan báo chí trung ƣơng
65
nhƣ: đối với đơn vị chủ quản là Ban chấp hành trung ƣơng có Báo Nhân dân,
tạp chí Cộng sản; đơn vị chủ quản là Trung ƣơng Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh có Báo Tiền phong, Báo Thanh niên; đơn vị chủ quản là Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam có Báo Lao động... Ngoài tiêu chí cơ quan chủ
quản của tờ báo là cấp trung ƣơng thì việc thông báo trên phƣơng tiện thông
tin đại chúng còn phải đảm bảo tiêu chí rằng đó là tờ báo đƣợc phát hành
hàng ngày.
Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình trung ƣơng là các đài phát thanh
và truyền hình trực thuộc trung ƣơng, có phạm vi phát sóng trên toàn quốc.
Đài truyền hình Việt Nam là đài truyền hình quốc gia, là cơ quan thuộc Chính
phủ thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc và cung ứng các dịch vụ công. Đài Tiếng nói
Việt Nam là đài phát thanh quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ có chức
năng thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nƣớc, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân
dân và công chúng. Ngoài ra, việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại
chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Quy định này
nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin thƣờng xuyên trong lĩnh vực tƣ pháp
nói chung và hoạt động của ngành Toà án nói riêng. Mặt khác, qua việc đăng
tải thông báo trên kênh thông tin này, đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan có thể nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận thông tin về vụ việc đang
đƣợc toà án thụ lý giải quyết.
2.3.6.Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong trường hợp
đương sự ở nước ngoài
Ngày này, với việc hội nhập quốc tế mạnh mẽ và rộng khắp thế giới,
các giao lƣu dân sự, thƣơng mại giữa các quốc gia ngày càng phổ biến dẫn
đến các tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh mà Toà án cần
66
phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều. Các tranh chấp, yêu cầu này đƣợc gọi
là vụ việc có yếu tố nƣớc ngoài. Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc
ngoài, nếu một trong các bên đƣơng sự ở nƣớc ngoài thì hoạt động cấp, thông
báo, tống đạt VBTTDS phải đƣợc thực hiện thông qua một thủ tục riêng gọi là
tƣơng trợ tƣ pháp. Trong Giáo trình Luật TTDS của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội có nêu: “sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các Toà án, cơ quan có
thẩm quyền của các nước được gọi là tương trợ tư pháp”. Từ đó, có thể hiểu
rằng tƣơng trợ tƣ pháp là việc Toà án của một nƣớc nhờ Toà án của nƣớc
ngoài thực hiện giúp hành vi tố tụng nhất định, cần thiết để đảm bảo giải
quyết đƣợc các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Xem xét quy định tại
Điều 13 Luật tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài thực hiện tƣơng trợ tƣ pháp trong các
trƣờng hợp sau đây: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho ngƣời đang ở nƣớc
đƣợc yêu cầu; Triệu tập ngƣời làm chứng, ngƣời giám định ở nƣớc đƣợc yêu
cầu; Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nƣớc đƣợc yêu cầu để giải quyết vụ việc
dân sự tại Việt Nam và các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Nhƣ vậy, hoạt động cấp, thông báo, tống đạt các VBTTDS cho đƣơng
sự ở nƣớc ngoài là một trong những hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp. Hoạt động
này đƣợc thực hiện dựa trên những nguyên tắc chung của tƣơng trợ tƣ pháp
đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với
Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Trong trƣờng hợp giữa Việt Nam và nƣớc ngoài chƣa ký kết điều
ƣớc quốc tế thì có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong hoạt động ủy thác
tƣ pháp nhƣng không đƣợc trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và
tập quán quốc tế (Điều 4 Luật tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007).
67
Ngoài những quy định về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc quy định tại chƣơng
XXXVIII của BLTTDS năm 2015, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cũng
đã ban hành một số văn bản hƣớng dẫn thực hiện hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp
nói chung và hoạt động tống đạt, thông báo VBTTDS cho đƣơng sự ở nƣớc
ngoài nói riêng. Đặc biệt, khi Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài
giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (gọi
tắt là Công ước Tống đạt) đƣợc thông qua ngày 15/11/1965 tại phiên họp lần
thứ 10 của Hội nghị La Hay về tƣ pháp quốc tế, có hiệu lực đối với Việt Nam
kể từ ngày 01/10/2016. Là thành viên của Công ƣớc Tống đạt, Việt Nam sẽ có
quyền yêu cầu các quốc gia thành viên khác thực hiện các yêu cầu tống đạt
giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp của mình theo quy định tại Công ƣớc. Đồng
thời, Việt Nam cũng có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu tống đạt giấy tờ của
các quốc gia thành viên khác phù hợp với phạm vi, yêu cầu và quy trình thủ
tục đƣợc quy định tại Công ƣớc này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tống
đạt văn bản tố tụng theo phƣơng thức quy định tại các điều ƣớc quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ƣớc Tống đạt và phƣơng thức ngoại
giao, ngày 19/10/2016, Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC
“Quy định về trình tự, thủ tục tƣơng trợ tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự”, có
hiệu lực từ ngày 06/12/2016. Đây là văn bản thay thế cho Thông tƣ liên tịch
số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tƣ pháp, Bộ
Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Hƣớng dẫn áp dụng một số quy định
về tƣơng trợ tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tƣơng trợ tƣ pháp” trƣớc
đó. Thông tƣ liên tịch số 12 đã nội luật hoá Công ƣớc Tống đạt, hƣớng dẫn
chi tiết về cách thức, trình tự thực hiện hồ sơ uỷ thác tƣ pháp về dân sự phù
hợp với quy định của BLTTDS năm 2015 và quy định về cơ chế thu, nộp chi
68
phí uỷ thác tƣ pháp về dân sự (tại Thông tƣ số 203/2016/TT-BTC ngày
09/11/2016). Ngày 21/2/2017, TANDTC ban hành Công văn số
33/TANDTC-HTQT quy định về việc tống đạt VBTT cho đƣơng sự ở nƣớc
ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nhằm hƣớng dẫn việc thực
hiện đúng và thống nhất các nội dung của Thông tƣ liên tịch số 12/2016/TLT-
BTP-BNG-TANDTC.
Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong trƣờng hợp đƣơng
sự ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện bằng các phƣơng thức sau:
Thứ nhất, theo phƣơng thức đƣợc quy định tại điều ƣớc quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, các thành viên tham gia điều ƣớc phải có nghĩa vụ
tuân thủ các quy định chung đã đƣợc ký kết.
Thứ hai, thông qua cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền của mỗi quốc gia.
Bằng hình thức này, các yêu cầu về uỷ thác tƣ pháp sẽ đƣợc chuyển cho cơ
quan trung ƣơng của mỗi quốc gia, cơ quan này sẽ nhận và chuyển tiếp tới các
cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Thứ ba, bằng con đƣờng ngoại giao, theo đó, các yêu cầu về uỷ thác tƣ
pháp đƣợc chuyển giao cho cơ quan ngoại giao của mỗi quốc gia, cơ quan này
sẽ nhận và chuyển tiếp tới cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, thông qua văn phòng đại diện, chi nhánh của cơ quan, tổ chức
nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Thứ năm, theo đƣờng dịch vụ bƣu chính, VBTTDS có thể đƣợc gửi đến
địa chỉ của đƣơng sự đang cƣ trú ở nƣớc ngoài nhƣng phải đƣợc pháp luật
nƣớc đó cho phép. Ngoài ra, phƣơng thức tống đạt này đƣợc sử dụng để tống
đạt cho đƣơng sự là công dân Việt Nam ở nƣớc ngoài thông qua cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nƣớc ngoài (cơ quan lãnh sự, đại sứ quán); cho ngƣời
đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền tại Việt Nam của đƣơng
sự ở nƣớc ngoài. Các quy định về hồ sơ và chi phí tống đạt VBTT theo đƣờng
69
bƣu chính đƣợc pháp luật quy định cụ thể tại mục II của Công văn số
33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017.
Thứ sáu, bằng hình thức niêm yết công khai trong trƣờng hợp 5 phƣơng
thức tống đạt nêu trên không có kết quả. Khi đó, Toà án tiến hành niêm yết
công khai tại trụ sở cơ quan đại diện của Việt Nam ở nƣớc ngoài, Toà án đang
giải quyết vụ việc hoặc tại nơi cƣ trú cuối cùng của đƣơng sự tại Việt Nam
trong thời hạn 01 tháng và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Toà án
(nếu có), cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nƣớc
ngoài. Trƣờng hợp cần thiết, Toà án có thể thông báo qua kênh dành cho
ngƣời nƣớc ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ƣơng ba
lần trong 03 ngày liên tiếp. Hiện nay, ở nƣớc ta, Bộ tƣ pháp là cơ quan có
thẩm quyền nhận các văn bản uỷ thác và tài liệu liên quan đến tƣơng trợ tƣ
pháp của các Toà án địa phƣơng, sau đó các văn bản, tài liệu này sẽ đƣợc
chuyển cho Bộ Ngoại giao để Bộ Ngoại giao chuyển cho Toà án nƣớc ngoài
và ngƣợc lại. Thực tế cho thấy rằng việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS
cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài phụ thuộc vào sự hợp tác của các cơ quan tƣ pháp
nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp nếu họ không thực hiện giúp việc tống đạt thì
ta khó có thể biết đƣợc và cũng không có biện pháp nào buộc họ phải thực
hiện việc uỷ thác.
Tóm lại, việc cấp, thông báo, tống đạt VBTTDS cho đƣơng sự ở nƣớc
ngoài hiện nay đƣợc thực hiện trên cơ sở tuân theo quy định trong các hiệp
định tƣơng trợ tƣ pháp giữa nƣớc đó với Việt Nam. Trong trƣờng hợp giữa
nƣớc đó với Việt Nam không có hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp thì sẽ tuân theo
nguyên tắc có đi có lại nhƣng không đƣợc trái với pháp luật Việt Nam và
Điều ƣớc quốc tế.
2.4. Thông báo kết quả việc cấp, tống đạt, hoặc thông báo văn bản tố
tụng
70
Tại Điều 181 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong trƣờng hợp ngƣời
thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng không phải là Tòa án
hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán bộ của các cơ quan đó thì
ngƣời thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông
báo văn bản tố tụng cho Tòa án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng đó”.
Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng vì một số lý do
nào đó mà không thể thực hiện đƣợc. Để đảm bảo văn bản tố tụng đã đƣợc
chuyển đến đúng ngƣời, đúng thời hạn luật định cũng nhƣ giúp cơ quan tiến
hành tố tụng nhanh chóng xử lý các trƣờng hợp làm chậm trễ việc chuyển
giao, ngƣời thực hiện phải thông báo ngay kết quả làm việc đến thủ trƣởng cơ
quan, tổ chức hoặc ngƣời trực tiếp giao nhiệm vụ nơi mình công tác. Nếu
ngƣời thực hiện không phải là cán bộ làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng
thì ngoài trách nhiệm nêu trên, ngƣời này còn có trách nhiệm thông báo ngay
kết quả chuyển giao văn bản tố tụng cho cơ quan đã ban hành văn bản đó. Vì
ý nghĩa quan trọng của hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng,
đồng thời nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của ngƣời thực hiện, nếu không
vì lý do khách quan mà ngƣời chuyển giao vi phạm nghĩa vụ thông báo kết
quả cấp, tống đặt hoặc thông báo văn bản tố tụng thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng. Tuy nhiên căn cứ để xử
lý trƣờng hợp này lại gặp vƣớng mắc, khó khăn vì pháp luật quy định việc
thông báo kết quả phải đƣợc thực hiện ngay nhƣng lại không quy định sau
bao lâu từ thời điểm “ngay” đó đƣợc coi là vi phạm trách nhiệm và đƣợc tính
là cơ sở áp dụng các biện pháp xử phạt đối với ngƣời có nghĩa vụ thực hiện.
Kết luận chƣơng 2
Có thể thấy rằng, VBTTDS rất đa dạng, mỗi văn bản đƣợc ban hành
chứa đựng những nội dung, mục đích khác nhau và đƣợc áp dụng đối với từng
71
đối tƣợng cụ thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tuỳ từng trƣờng
hợp mà các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn các phƣơng thức thông báo,
cấp, tống đạt VBTT sao cho phù hợp để đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất. Việc
BLTTDS năm 2015 quy định thêm một số phƣơng pháp mới về cấp, tống đạt,
thông báo VBTTDS đã giúp cho hoạt động tố tụng đƣợc thực hiện một cách
linh hoạt và khoa học hơn. Cùng với đó, sự gia nhập Công ƣớc Tống đạt đã
mở ra cơ hội mới cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và giao lƣu quốc tế.
Nó tạo cơ sở pháp lý đa phƣơng để Việt Nam đề nghị nƣớc ngoài thực hiện
các yêu cầu tống đạt giấy tờ nhằm giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nƣớc ngoài liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng cần có nhận
thức rõ rằng là thành viên của Công ƣớc Tống đạt đồng nghĩa với việc Việt
Nam sẽ tiếp nhận các yêu cầu tống đạt từ các quốc gia thành viên khác. Vì
vậy, cần có sự đầu tƣ, tăng cƣờng nguồn lực (cơ sở vật chất, cán bộ) cho công
tác tƣơng trợ tƣ pháp và đẩy mạnh sự phối hợp giữa Cơ quan Trung ƣơng với
các cơ quan địa phƣơng để đảm bảo thực hiện tốt Công ƣớc.
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Có thể thấy rằng từ khi BLTTDS năm 2015 đƣợc ban hành, với các quy
định tƣơng đối cụ thể và rõ ràng về hoạt động tống đạt VBTTDS, việc thực
hiện các công việc liên quan đến giao các VBTTDS diễn ra một cách khoa
học, chặt chẽ và quy củ hơn, giảm thiểu những sai sót trong quá trình thực
72
hiện nhiệm vụ. Thực tế ngành Toà án cho thấy trong những năm gần đây, các
vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động do Toà
án nhân dân các cấp giải quyết ngày càng gia tăng về số lƣợng, điều này đồng
nghĩa với việc số vụ việc Toà án cần thực hiện các hoạt động tống đạt văn bản
tố tụng ngày càng tăng. Việc BLTTDS dành riêng một chƣơng để quy định về
thủ tục tống đạt văn bản tố tụng đã góp phần quan trọng nâng cao chất lƣợng
giải quyết các vụ việc dân sự, tạo nên một khung pháp lý tƣơng đối hoàn
chỉnh cho hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù số lƣợng vụ việc dân sự
cần phải giải quyết không ngừng gia tăng qua các năm, nhƣng tỉ lệ vụ việc
đƣợc giải quyết của Toà án năm sau luôn cao hơn năm trƣớc. Trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án nhân dân các cấp, những trƣờng hợp bản
án, quyết định dân sự bị huỷ, sửa chiếm tỷ lệ không quá cao. Theo thống kê
của ngành Toà án, trong 6 tháng đầu năm 2017, TAND hai cấp thành phố Hà
Nội đã thụ lý 18.010 vụ án, giải quyết 11.947 vụ, đạt tỉ lệ 66,3%. Số vụ án bị
huỷ, sửa giảm so với cùng kỳ năm 2016. Về chất lƣợng xét xử đƣợc nâng lên,
số án bị huỷ 57 vụ (giảm 27 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016), án sửa 280 vụ
(giảm 62 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016) [15]. Nhìn chung, hoạt động tống
đạt văn bản tố tụng đƣợc các cơ quan chức năng thực hiện một cách khách
quan, vô tƣ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Nhiều vƣớng
mắc trong hoạt động tống đạt trƣớc đây chƣa đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ, nay đã
đƣợc Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và phát huy hiệu quả áp dụng trên thực
tế. Bên cạnh đó, những quy định của BLTTDS đã phần nào khẳng định vị thế
của cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức
có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức này hoàn thành tốt
nhiệm vụ đƣợc giao.
Trong quá trình công tác, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
các cơ quan tiến hành tố tụng đã không ngừng bồi dƣỡng, nâng cao trình độ
73
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức; chú ý đến sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nƣớc trong quá trình thực hiện hoạt động tống đạt văn
bản; không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan
của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các cơ quan ban ngành liên quan trong hoạt
động tố tụng. Thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự chứng minh những điều
này đã tạo tiền đề quan trọng để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động
tống đạt văn bản tố tụng.
Cho đến nay vẫn chƣa có thống kê chính thức về số lƣợng bản án, quyết
định dân sự, kinh doanh thƣơng mại, lao động của Toà án bị huỷ do vi phạm
quy định pháp luật về tống đạt văn bản tố tụng, tuy nhiên có thể nhận thấy
trên thực tiễn có rất nhiều bản án, quyết định bị toà án cấp trên huỷ vì lý do vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trong đó các vi phạm về tống đạt văn bản
tố tụng là tƣơng đối phổ biến. Thực trạng này dẫn đến yêu cầu đƣợc đặt ra là
cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động tống đạt văn bản để
đảm bảo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời cũng đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của các đƣơng sự khi tham gia tố tụng.
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
3.1.2.1. Đối với thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương
tiện thông tin đại chúng
a - Việc áp dụng thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
còn thiếu thống nhất
Theo quy định pháp luật có ba trƣờng hợp phải thực hiện thủ tục thông
báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng. Một là, khi pháp luật có quy định.
Hai là, có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời
đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,
74
tống đạt, thông báo. Các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
có sử dụng phƣơng thức thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng đó là:
yêu cầu thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú, yêu cầu tuyên bố
một ngƣời mất tích và yêu cầu tuyên bố một ngƣời là đã chết. Tuy nhiên, căn
cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo thì lại không có hƣớng
dẫn cụ thể dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các Toà án.
Ví dụ: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vƣợng VPBank (gọi tắt là
Ngân hàng VPBank) khởi kiện ông Lê Văn H ra Toà án nhân dân huyện Phúc
Thọ về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Quá trình xác minh, thông tin,
địa chỉ của ông H theo địa chỉ mà Ngân hàng cung cấp, công an xã Vân Hà
xác minh nhƣ sau: “Ông Lê Văn H và gia đình còn đăng ký hộ khẩu tại xã
Vân Hà, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, ông H hiện đã đi đâu
không rõ.” Trong trƣờng hợp này, có ý kiến cho rằng ông Lê Văn H còn đăng
ký hộ khẩu tại địa phƣơng và gia đình ông hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ
này. Do đó chỉ cần cấp, tống đạt, thông báo cho ngƣời thân của ông H để họ
thông báo lại với ông và thực hiện thủ tục niêm yết công khai thì đã “đảm
bảo” mà không cần thiết thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông
tin đại chúng. Bên cạnh đó, một quan điểm khác lại cho rằng do ông H đã đi
khỏi địa phƣơng, không rõ thời điểm trở về, không rõ địa chỉ nơi cƣ trú mới
nên việc niêm yết công khai tại địa phƣơng sẽ không đảm bảo việc ông H biết
đƣợc việc Ngân hàng VPBank khởi kiện đối với ông. Vì vậy, trƣờng hợp này
cần phải thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Đối với hai quan điểm nêu trên, tác giả nghiêng về quan điểm thứ nhất. Theo
đó, chỉ cần thực hiện thủ tục niêm yết công khai mà không cần phải thực hiện
thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng. Bởi lẽ ngƣời thân của
ông H còn cƣ trú tại địa chỉ trên và Toà án đã thông báo về việc thụ lý vụ án
cho gia đình ông H đƣợc biết. Đồng thời, ông H đi khỏi địa phƣơng mà không
75
thực hiện thủ tục khai báo tạm trú, tạm vắng theo quy định của pháp luật. Do
đó, có cơ sở xác định ông H cố tình trốn tránh việc khởi kiện nên chỉ cần thực
hiện thủ tục niêm yết công khai.
Trên thực tế, nhiều trƣờng hợp đƣơng sự bỏ trốn khỏi địa phƣơng, cố
tình trốn tránh việc tống đạt mặc dù vẫn biết việc khởi kiện, gia đình ngƣời
thân không hợp tác cung cấp thông tin, địa chỉ của đƣơng sự dẫn đến việc giải
quyết vụ án kéo dài, gây khó khăn cho đƣơng sự khác mà chủ yếu là ngƣời
khởi kiện. Đa số các vụ án phải tiến hành thủ tục thông báo trên phƣơng tiện
thông tin đại chúng thì trong thời gian 04 tháng kể từ ngày thông báo, Toà án
mới tiếp tục giải quyết vụ việc. Mặt khác, chi phí để thực hiện thủ tục thông
báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng khá cao mà thông thƣờng lệ phí này
do đƣơng sự có yêu cầu thông báo chịu.Vì vậy, việc đƣơng sự (chủ yếu là
ngƣời bị kiện) không phải chịu chi phí thông báo sẽ dẫn đến việc cố tình trốn
tránh việc khởi kiện, cản trở tố tụng tƣ pháp. Các đƣơng sự cùng tham gia
trong vụ án cũng có thể yêu cầu thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện
thông tin đại chúng, Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ việc sẽ xem xét
có chấp nhận thực hiện thủ tục này hay không. Nếu đƣợc chấp nhận thì đƣơng
sự yêu cầu phải chịu lệ phí thông báo.
b - Quy định về việc thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng chưa cụ thể
Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS 2015 thì việc thông báo
trên phƣơng tiện thông tin đại chúng phải đƣợc đăng trên Cổng Thông tin
điện tử của Toà án. Thực tế cho thấy, thông báo của một số Toà án tỉnh/thành
phố có Cổng thông tin điện tử thực hiện việc đăng thông báo trên Cổng thông
tin của Toà án cấp tỉnh đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án cấp huyện và tỉnh nơi đó. Tuy nhiên, một số Toà án địa phƣơng
chƣa có Cổng thông tin điện tử nên việc thông báo của Toà án lại đƣợc đăng
76
trên Cổng thông tin của TANDTC dẫn đến việc tra cứu thông báo không
thống nhất, gây khó khăn, không mang lại hiệu quả, đặc biệt là khi thông báo
trên Cổng thông tin điện tử của Toà án địa phƣơng nhƣng đƣơng sự không
còn có mặt tại địa phƣơng. Vì vậy cần có quy định rõ đối với vấn đề này để
đem lại hiệu quả đối với việc thực hiện mục đích của quy định trên.
c - Quy định về nghĩa vụ chịu lệ phí thông báo còn nhiều bất cập
Theo quy định tại điều 180 BLTTDS năm 2015 thì đƣơng sự phải chịu lệ
phí thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng nếu đƣơng sự có yêu cầu.
Đồng thời đối với trƣờng hợp áp dụng thủ tục thông báo trên phƣơng tiện
thông tin đại chúng mà pháp luật có quy định thì lệ phí thực hiện theo quy
định cũng do đƣơng sự phải chịu. Tuy nhiên, đối với trƣờng hợp mà pháp luật
không có quy định và đƣơng sự không có yêu cầu mà có căn cứ xác định việc
niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo
nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp, tống đạt thì lại không có quy
định ai là ngƣời phải chịu lệ phí thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại
chúng. Trƣờng hợp này Toà án có phải chịu lệ phí hay không và nếu chịu thì
lấy tiền từ đâu, quyết toán nhƣ thế nào hay do đƣơng sự phải chịu thì chƣa có
hƣớng dẫn cụ thể. Bất cập này dẫn đến các hậu quả pháp lý sau: Thứ nhất,
trƣờng hợp đƣơng sự đi khỏi địa phƣơng và có căn cứ xác định việc niêm yết
công khai không đảm bảo cho ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc
thông tin về văn bản cần đƣợc cấp, tống đạt nhƣng các Toà án thƣờng chỉ
dừng lại ở thủ tục niêm yết công khai hoặc thực hiện khi đƣơng sự có yêu cầu.
Điều này khiến việc thực hiện thủ tục cấp, tống đạt, thông báo cho đƣơng sự
không đƣợc đảm bảo. Thứ hai, một số toà án ra thông báo yêu cầu đƣơng sự
phải chịu lệ phí thông báo để thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện
thông tin đại chúng gây bất lợi cho đƣơng sự khi mà lệ phí thực hiện thủ tục
thông báo không nhỏ gây nên tâm lý ngại đi kiện, vì không biết có giải quyết
77
đƣợc không nhƣng lại bỏ ra một khoản lệ phí khá cao để giải quyết và tạo
điều kiện cho đƣơng sự trốn tránh việc khởi kiện. Tuy nhiên cũng có một số
toà án lại chịu lệ phí thực hiện thông báo gây nên bất nhất trong quá trình tố
tụng.
3.1.2.2. Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua dịch vụ bưu
chính
BLTTDS quy định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS qua dịch vụ
bƣu chính đƣợc coi là hợp lệ khi VBTT đƣợc gửi bằng thƣ đảm báo và phải
có chữ ký của ngƣời nhận VB mà không quy định rõ trình tự, thủ tục tiến
hành khiến cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng. Các
văn bản thể hiện việc chuyển giao giữa Tòa án và bƣu điện không có các mục
ghi thông tin hay phần nội dung để Tòa án có thể ghi số hiệu, thời gian ban
hành văn bản, thời gian triệu tập, mời đƣơng sự, ngƣời tham gia tố tụng khác,
cũng không có mục nêu rõ trách nhiệm của nhân viên bƣu điện phải giao tận
tay cho ngƣời cần đƣợc tống đạt. Đa số nhân viên bƣu điện do am hiểu pháp
luật còn hạn chế nên không tuân thủ các quy định về thủ tục tống đạt. Hơn
nữa, quá trình chuyển giao văn bản phải thực hiện qua nhiều khâu trung gian
khiến cho VBTT thƣờng đƣợc chuyển qua nhiều ngƣời nên thực tế ngƣời giao
tận tay cho ngƣời đƣợc tống đạt văn bản tố tụng không phải là ngƣời nhận văn
bản từ cán bộ Tòa án ban đầu. Khi chuyển giao văn bản tố tụng, nhân viên
bƣu điện thƣờng chỉ chú ý đến chuyển giao đến đúng địa chỉ ghi trên bì thƣ
mà không quan tâm đến việc ai là ngƣời ký nhận cũng nhƣ các điều kiện khác
để đảm bảo cho việc tống đạt đƣợc xem là hợp lệ. Đối với đƣơng sự ở các
vùng nông thôn không có số nhà, tên đƣờng cụ thể mà chỉ có địa chỉ là thôn,
xóm, huyện, xã...; nhân viên bƣu điện có khi chuyển giao bƣu phẩm trực tiếp
cho ngƣời nhận, nhƣng cũng có khi chỉ giao cho tổ trƣởng tổ dân phố khu vực
đó mà không báo lại cho Toà án biết. Hoặc có nhiều trƣờng hợp bƣu phẩm
78
đƣợc ngƣời khác nhận thay nhƣng nhân viên bƣu điện không ghi rõ ngƣời
nhận là ai, quan hệ nhƣ thế nào với ngƣời đƣợc tống đạt. Do đó, rất khó để
xác định việc ngƣời đƣợc tống đạt đã nhận đƣợc văn bản tố tụng nếu đến thời
gian đƣợc triệu tập, họ không có mặt tại Toà án.
3.1.2.3. Về hoạt động niêm yết công khai văn bản tố tụng dân sự
Một số Toà án khi giải quyết các vụ việc dân sự đã áp dụng không đúng
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục niêm yết văn bản
tố tụng, dẫn đến bản án, quyết định bị Toà án cấp trên huỷ vì vi phạm thủ tục
tố tụng. Có thể kể đến hai bản án sau đây:
Bản án thứ nhất: Ngày 28/3/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã
mở phiên toà phúc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa
nguyên đơn là Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Đại Á và bị đơn là Công ty
trách nhiệm hữu hạn MTV NQP. Tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản tiền
vay theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết gồm: 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Đinh Văn D là chủ sở
hữu. Ngày 08/8/2017, 08 ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
là bà Nguyễn Thị Mỹ H, bà Nguyễn Thị Hoàng Anh K, ông Nguyễn Xuân Th,
bà Nguyễn Thị Mỹ L, ông Nguyễn Quốc Q, bà Nguyễn Thị Ch, ông Nguyễn
Quốc K và bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số
35/2017/KDTM-ST ngày 18/07/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [58].
Nhận xét về thủ tục tố tụng, Toà án cấp phúc thẩm cho rằng Toà án cấp
sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng theo Điều 179 BLTTDS
năm 2015 khi thực hiện việc triệu tập bị đơn thông qua thủ tục niêm yết
không đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể, tại biên bản niêm yết ngày
21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết Giấy triệu tập làm việc số 75/GTT
ngày 15/10/2015 cho công ty NQP tại trụ sở công ty NQP (địa chỉ 138H, tổ 4,
ấp 2, xã An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân
79
dân xã An Hòa, thành phố Biên Hòa nhƣng không niêm yết tại trụ sở Tòa án;
Tại biên bản niêm yết ngày 21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết giấy
triệu tập làm việc số 72/GTT ngày 15/10/2015 đối với ông Đinh Văn D và bà
Phạm Thị Thu Th tại nơi cƣ trú (địa chỉ 138H, tổ 4, ấp 2, xã An Hòa, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân dân xã An Hòa, thành
phố Biên Hòa nhƣng không niêm yết tại trụ sở Tòa án. Ngày niêm yết là
21/10/2015, triệu tập làm việc vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 02/11/2015 là
không đủ 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc Thẩm phán tính toán thời hạn
niêm yết VBTT là không chính xác. Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên
hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Tp. Biên Hòa giải
quyết lại theo thủ tục chung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Qua vụ án trên có thể thấy rằng niêm yết công khai là một hoạt động tố
tụng quan trọng. Từ việc không nắm chắc các quy định của pháp luật đã dẫn
đến việc áp dụng sai trình tự, thủ tục tố tụng. Các trƣờng hợp vi phạm thƣờng
gặp đó là niêm yết VBTT không đúng địa điểm, không đủ thời gian 15 ngày
mà nguyên nhân chính là do Thẩm phán tính toán thời hạn niêm yết không
chính xác theo đúng quy định và hƣớng dẫn của TANDTC.
Bản án thứ hai: Ngày 21/03/2018, TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 232/2017/TLPT-DS ngày 06/12/2017
về việc “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Th và bị đơn là ông
Nguyễn Minh H. Do bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày
31/7/2017 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột bị ông H kháng cáo (ngày
14/10/2017).
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và ngƣời đại diện theo uỷ
quyền của bị đơn cho rằng khi xét xử sơ thẩm, ông TR và ông P (là ngƣời có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) không đƣợc Toà án triệu tập tham gia phiên
toà và Toà án cấp sơ thẩm thực hiện niêm yết VBTT tại nơi ở của ông H
80
không đúng dẫn đến việc ông H không nhận đƣợc Quyết định đƣa vụ án ra xét
xử và Bản án sơ thẩm, làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông
H. Tại phiên toà, đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk trình bày quan điểm: Ông H
đang ở địa chỉ đƣờng Y, Thôn A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, nhƣng Tòa án
cấp sơ thẩm xác định ông H đang ở thôn B và tống đạt, niêm yết văn bản tố
tụng tại thôn B là không đúng quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015.
Đồng thời khi tiến hành niêm yết văn bản tố tụng Tòa án không thực hiện việc
lập biên bản trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt
và không đƣa ông H vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68, Điều 177
BLTTDS năm 2015. Do đó có thể thấy toà án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng dân sự.
Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình
bày của các đƣơng sự, HĐXX nhận định việc tống đạt, niêm yết các văn bản
của Tòa án thì cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết nhƣng không đúng theo quy
định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Việc ông Nguyễn Minh H cho rằng
ông không nhận đƣợc các văn bản của Tòa án cấp sơ thẩm là có cơ sở. Do đó
HĐXX quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày
31/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và
chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Qua vụ án trên ta thấy, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định không đúng địa
chỉ nơi ở của ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, dẫn đến
việc họ không nhận đƣợc các VBTT. Thêm nữa, việc niêm yết VBTT đƣợc
tiến hành không đúng thủ tục, trình tự luật định bởi cán bộ thực hiện niêm yết
không lập biên bản trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo
vắng mặt (theo quy định tại Điều 177 BLTTDS năm 2015) là vi phạm thủ tục
tố tụng. Trong trƣờng hợp này, ông H vắng mặt tại nơi cƣ trú, không rõ thời
điểm trở về thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành lập biên bản về việc không
81
thực hiện đƣợc việc cấp, tống đạt, thông báo VBTT, có xác nhận của đại diện
tổ dân phố hoặc Công an xã/phƣờng; đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết
công khai.
3.1.2.4. Về việc xác định nơi cư trú của đương sự
Có thể thấy rằng việc xác định đúng địa chỉ nơi cƣ trú của đƣơng sự có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thủ tục tống đạt văn bản tố tụng,
nhằm đảm bảo cho đƣơng sự có khả năng tiếp cận với thông tin của văn bản
tố tụng cần tống đạt và là cơ sở để xác định tính hợp pháp, tính hiệu quả của
hoạt động tống đạt. Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc xác định địa chỉ nơi
cƣ trú của đƣơng sự còn là một số khó khăn vƣớng mắc, biểu hiện cụ thể
trong 2 vụ án dƣới đây:
Vụ án thứ nhất: về “Yêu cầu cấp dƣỡng” giữa nguyên đơn là ông Trần
Thái D và bị đơn là ông Nguyễn Hữu P. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông
Trần Thái D xác định địa chỉ của bị đơn Nguyễn Hữu P ở tại số 21 Lĩnh Nam,
Hoàng Mai, Hà Nội. Toà án sơ cấp thẩm đã tiến hành xác minh địa chỉ cƣ trú
của bị đơn và đƣợc chính quyền địa phƣơng xác nhận tại biên bản xác minh
ngày 15/07/2015 với nội dung nhƣ sau: “ông Nguyễn Hữu P đăng ký hộ khẩu
thƣờng trú tại số 8 Lĩnh Nam nhƣng ở tại số 21 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà
Nội. Hiện nay đƣơng sự không có mặt tại địa phƣơng, đi làm ăn xa ở Vũng
Tàu, không có địa chỉ cụ thể”. Vì nguyên đơn không cung cấp thêm địa chỉ
nào khác của bị đơn nên Toà án cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn chƣa đủ
điều kiện khởi kiện và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau khi nguyên đơn có
đơn kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét và cho rằng, trong trƣờng
hợp này nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Vậy thế
nào thì đƣợc coi là “đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ nơi cƣ trú”? Theo hƣớng
dẫn tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017
của HĐTP TANDTC thì: ngƣời khởi kiện đã cung cấp địa chỉ nơi cƣ trú của
82
ngƣời bị kiện cho Toà án theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm nộp
đơn khởi kiện mà đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có
căn cứ khác chứng minh rằng đó đó là địa chỉ của ngƣời bị kiện thì đƣợc coi
là đã ghi đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Nhƣ vậy, trong vụ án này, tại thời
điểm ông Trần Thái D nộp đơn khởi kiện, chính quyền địa phƣơng đã xác
nhận địa chỉ nơi ở của ông Nguyễn Hữu P (bị đơn) tại 21 Lĩnh Nam, Hoàng
Mai, Hà Nội mà ông D đã cung cấp cho Toà án là đúng và đƣợc coi là đã ghi
đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Mặt khác, ông Nguyễn Hữu P thay đổi nơi cƣ
trú mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật về cƣ trú. Lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các
thủ tục tống đạt các thông báo và quyết định đƣa ra vụ án xét xử để giải quyết
vụ án theo trƣờng hợp ngƣời bị kiện cố tình giấu địa chỉ chứ không đƣợc đình
chỉ giải quyết vụ án. Theo đó, Toà án phải tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết
theo thủ tục chung theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm
2015 và hƣớng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP. Do
đó Toà án cấp phúc thẩm đã huỷ quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của
Toà án sơ thẩm.
Vụ án thứ hai: về việc “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đoàn Lệ
H và bị đơn là anh Nguyễn Hoàng A. Tóm tắt nội dung vụ án nhƣ sau:
“Chị Đoàn Lệ H và anh Nguyễn Hoàng A kết hôn trên cơ sở tự nguyện,
có đăng ký kết hôn ngày 06/09/1998 tại UBND phƣờng Q, quận B, thành phố
Hà Nội. Đến năm 2013, anh A bỏ nhà đi không có tin tức gì, không ai biết
hiện anh đang ở đâu. Chị H đã có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự
về việc tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú đối với anh A. Ngày
29/12/2015, Tòa án nhân dân quận B đã ra Quyết định chấp nhận yêu cầu
thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú của chị H đối với anh A.
Sau khi ra Quyết định giải quyết việc dân sự nêu trên, Tòa án nhân dân quận
83
B đã thực hiện đúng quy định tại Điều 385 BLTTDS năm 2015 về thông báo
tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú, nhƣng anh H vẫn không trở về nhà và
cũng không có tin tức gì. Ngày 10/9/2016, chị H có đơn khởi kiện xin ly hôn
với anh A và cùng ngày Tòa án nhân dân quận B thụ lý vụ án. Quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết công khai các văn bản
tố tụng theo quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Ngày 25/10/2016,
Tòa án tiến hành xét xử đối với vụ án và tuyên chị H đƣợc ly hôn anh A. Toàn
bộ quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi kiện đến khi xét xử, không có tin tức
gì của anh A và không biết đƣợc anh A đang cƣ trú ở đâu”.
Tại thời điểm chị H làm đơn khởi kiện thì anh A không có mặt tại địa
chỉ cƣ trú mà chị H đã cung cấp cho Tòa án; địa chỉ mà chị H cung cấp cho
Tòa án là nơi đăng ký hộ khẩu thƣờng trú của anh A, còn địa chỉ nơi ở hiện tại
của anh A thì chị H không biết và không cung cấp đƣợc. Việc xác minh địa
chỉ của anh A không đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận và chị H
cũng không có căn cứ nào khác để chứng minh đó là địa chỉ của anh A. Theo
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 và hƣớng dẫn tại
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC về
Hƣớng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số
92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án thì
đây là trƣờng hợp phải trả lại đơn khởi kiện vì chƣa có đủ điều kiện khởi kiện.
Do đó việc Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của anh A là sai quy định. Hơn nữa,
vì anh A không có mặt tại địa chỉ mà chị H cung cấp nên anh A không nhận
đƣợc thông báo thụ lý vụ án của Tòa án; mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm
yết công khai và thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, nhƣng anh A
vẫn không biết về việc khởi kiện của nguyên đơn và việc thụ lý giải quyết vụ
án của Tòa án cấp sơ thẩm. Bởi vậy, không có căn cứ để cho rằng anh A cố
84
tình giấu địa chỉ nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung là
không đúng.
Theo quy định tại các Điều 64, 65, 66, 67 của Bộ luật dân sự năm 2015
về Thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú thì chỉ quy định về việc
quản lý tài sản của ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú mà không quy định về việc
Tòa án giải quyết cho ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn. Việc
giải quyết cho ly hôn chỉ có thể đƣợc Tòa án giải quyết theo quy định tại
khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 về tuyên bố một ngƣời mất tích.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có quy định nào về việc giải
quyết cho ly hôn đối với ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú mà chỉ có quy định đối
với trƣờng hợp tuyên bố mất tích, cụ thể khoản 2 điều 56 Luật này quy định:
“Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích yêu
cầu ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Để ly hôn với ngƣời mất tích
trƣớc hết vợ hoặc chồng cần phải thực hiện thủ tục yêu cầu Toà án tuyên bố
vợ hoặc chồng mất tích sau đó mới thực hiện thủ tục ly hôn. Nhƣ vậy, đối với
vụ án này Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị H là không
có căn cứ pháp luật, mà cần hƣớng dẫn chị H thực hiện thủ tục giải quyết việc
dân sự về tuyên bố anh A mất tích, sau đó mới có thể giải quyết về quan hệ
hôn nhân.
Từ hai vụ án nói trên cho thấy trong các trƣờng hợp nguyên đơn khởi
kiện mà vì lý do nào đó không xác định đƣợc địa chỉ hiện tại của bị đơn. Cấp
phúc thẩm cho rằng trong trƣờng hợp bị đơn có đăng ký hộ khẩu thƣờng trú
tại địa phƣơng nhƣng họ thƣờng xuyên vắng mặt tại địa chỉ thƣờng trú mà
không thông báo cho ngƣời khởi kiện thì đƣợc xem nhƣ trƣờng hợp họ cố tình
giấu địa chỉ. Trƣờng hợp này, Toà án cấp sơ thẩm cần tiến hành tống đạt các
văn bản tố tụng để tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
85
Trở lại với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số
04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao, ta có thể nhận thấy: Bộ luật Tố tụng dân sự xác định tên, địa chỉ
của ngƣời bị kiện là một trong những nội dung chính của đơn khởi kiện.
Trong trƣờng hợp nguyên đơn không ghi đúng tên, địa chỉ của ngƣời bị kiện
thì Toà án yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ghi đúng và đầy đủ
các thông tin đƣợc yêu cầu; nếu họ không thực hiện, Toà án không đƣợc thụ
lý vụ án mà phải trả lại đơn khởi kiện cho họ. Nếu ngƣời khởi kiện không biết
hoặc không ghi đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thì họ phải thực hiện việc tìm và xác minh địa chỉ của những ngƣời
nói trên. Chỉ trong trƣờng hợp ngƣời khởi kiện ghi đúng, đầy đủ địa chỉ của
ngƣời bị kiện nhƣng ngƣời bị kiện không có nơi cƣ trú ổn định, thƣờng xuyên
thay đổi nơi cƣ trú mà không thông báo địa chỉ mới cho ngƣời khởi kiện, cho
Toà án, nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với ngƣời khởi
kiện thì đƣợc coi là trƣờng hợp cố tình giấu địa chỉ và Toà án tiến hành thụ lý
giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày
05/5/2017 cũng đƣa ra hƣớng dẫn về việc xác định thế nào là “ghi đầy đủ và
đúng địa chỉ” tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết. Thực tiễn cho thấy có rất
nhiều trƣờng hợp ngƣời dân đăng ký hộ khẩu thƣờng trú ở một nơi nhƣng vì
lý do học tập, công tác...mà họ có thể sinh sống ở một địa phƣơng khác. Do
đó, để có căn cứ cho việc thụ lý vụ án, kèm theo các giấy tờ, tài liệu và đơn
khởi kiện, một số Toà án thƣờng yêu cầu ngƣời khởi kiện cung cấp thêm Giấy
xác nhận cƣ trú của ngƣời bị kiện do cơ quan Công an tại địa phƣơng mà bị
đơn có hộ khẩu thƣờng trú, tạm trú hoặc đang sinh sống xác nhận. Điều này
giúp cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng đƣợc diễn ra một cách chặt chẽ và
trình tự hơn.
86
3.1.2.5. Về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho đương sự ở nước
ngoài
Vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án Việt Nam đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 469 BLTTDS năm 2015.
Tuy nhiên, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và việc xác
định việc phải ủy thác tƣ pháp trong một số trƣờng hợp khá phức tạp và
không phải vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài nào Tòa án cũng phải tiến
hành ủy thác tƣ pháp và ngƣợc lại. Nhiều vụ việc dân sự khi Tòa án tiến hành
thụ lý, giải quyết thì không phải là “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và
không phải tiến hành ủy thác tƣ pháp nhƣng sau đó một hoặc nhiều đƣơng sự
ra nƣớc ngoài công tác, học tập, lao động dẫn đến Tòa án phải tiến hành ủy
thác tƣ pháp. Do đó, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” để
xác định việc Tòa án có phải tiến hành việc ủy thác tƣ pháp hay không chỉ
mang tính chất tƣơng đối. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán phải
căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể mà mình đang giải quyết để xác định xem
có cần tiến hành hoạt động tố tụng ở nƣớc ngoài hay không, từ đó, xác định
việc có phải tiến hành việc ủy thác tƣ pháp ra nƣớc ngoài hay không.
Theo thống kê tại Báo cáo công tác Tƣơng trợ tƣ pháp của Chính phủ
trình Quốc hội hàng năm, từ năm 2013 đến năm 2017, các cơ quan có thẩm
quyền Việt Nam đã gửi đi nƣớc ngoài tổng cộng 15.485 yêu cầu UTTP, đã
tiếp nhận 3921 yêu cầu TTTP của nƣớc ngoài vào Việt Nam [5]. Trong đó
năm 2017 đã tiếp nhận, xử lý 1.920 hồ sơ ủy thác tƣ pháp về dân sự do các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi đi nƣớc ngoài; 787 hồ sơ của cơ quan
thẩm quyền nƣớc ngoài gửi tới Việt Nam [8]. Trong đó, yêu cầu tống đạt giấy
tờ, tài liệu, bản án chiếm đến hơn 80% các yêu cầu uỷ thác tƣ pháp. Từ số liệu
thực tế trên đây, có thể thấy rằng số lƣợng yêu cầu uỷ thác tƣ pháp về dân sự
là rất lớn. Sau nhiều năm thực hiện, với khối lƣợng lớn hàng năm các yêu cầu
87
TTTP, Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao, Toà án và cơ quan THADS cấp tỉnh,
thành phố trên cả nƣớc đã có nhiều nỗ lực để thực hiện các quy định pháp luật
trong nƣớc cũng nhƣ các ĐƢQT về TTTP trong lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên
vẫn còn những tồn tại, hạn chế, cụ thể là:
- Thứ nhất, thực tiễn cho thấy khi giải quyết các vụ án có yếu tố nƣớc
ngoài có hoạt động uỷ thác tƣ pháp (tống đạt các văn bản tố tụng, lấy lời khai
đƣơng sự ở nƣớc ngoài,...), việc thực hiện uỷ thác tƣ pháp chiếm rất nhiều
thời gian, làm ảnh hƣởng đến thời hạn chuẩn bị xét xử. Thêm vào đó, một số
lƣợng hồ sơ UTTP gửi ra nƣớc ngoài còn chƣa đáp ứng yêu cầu (về biểu mẫu,
ngôn ngữ …) nên bị trả lại để bổ sung, hoàn thiện khiến thời gian thực hiện
UTTP bị kéo dài.
- Thứ hai, một số cơ quan thực hiện hồ sơ ủy thác còn chƣa nắm rõ các
kênh thực hiện (theo Công ƣớc Tống đạt hay theo kênh Hiệp định song
phƣơng hoặc áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo kênh ngoại giao) để lựa
chọn phƣơng án phù hợp.
Những hạn chế, tồn tại này làm giảm hiệu quả thực hiện TTTP, ảnh
hƣởng đến việc giải quyết các vụ việc dân sự, thi hành án có yếu tố nƣớc
ngoài.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
Trên cơ sở các vƣớng mắc, bất cập đã phân tích ở trên, ngƣời viết xin
đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị giải quyết nhƣ sau:
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng dân sự
Đối với trường hợp cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự
cho cá nhân thông qua người thân thích của họ
88
Để hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục tống đạt trong trƣờng hợp
ngƣời đƣợc tống đạt vắng mặt và toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng
thông qua ngƣời thân thích của họ, pháp luật tố tụng dân sự cần có quy định
cụ thể về “ngƣời thân thích”. Theo đó, ngƣời thân thích của đƣơng sự, ngoài
vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con nuôi, con đẻ; ông bà nội, ông bà
ngoại, anh chị em ruột, chú bác ruột, cậu cô ruột, dì ruột, cháu ruột thì còn
bao gồm cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, con dâu, con rể. Nếu những ngƣời này có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự và ở cùng nơi cƣ trú của đƣơng sự thì họ có
thể nhận thay văn bản tố tụng cần đƣợc tống đạt và cam kết chuyển giao lại
cho ngƣời đƣợc tống đạt.
Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện
thông tin đại chúng
Thứ nhất, cần có hƣớng dẫn cụ thể, chi tiết đối với trƣờng hợp đƣợc
xem là “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời
đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,
tống đạt, thông báo” để việc áp dụng đƣợc thống nhất.
Thứ hai, đối với việc đăng thông báo trên Cổng thông tin điện tử cần có
hƣớng dẫn cụ thể. Theo tác giả, thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại
chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để đảm bảo
việc thông tin đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất.
Thứ ba, việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng nên đƣợc
thực hiện một lần theo trình tự thủ tục BLTTDS quy định và cần đảm bảo các
nội dung nhƣ sau: thông báo cho ngƣời cần đƣợc thông tin biết về việc khởi
kiện, nội dung khởi kiện của nguyên đơn, toà án thụ lý vụ việc, dự kiến thời
gian hoà giải, thời gian mở phiên toà và ấn định một khoảng thời gian phù
hợp để ngƣời đƣợc thông báo liên hệ với toà án có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp. Điều này nhằm hạn chế việc ngƣời yêu cầu thông báo phải gánh
89
chịu một chi phí quá lớn cho việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại
chúng và cũng đảm bảo đƣợc thời gian giải quyết vụ việc dân sự, tránh tình
trạng án quá hạn kéo dài.
Thứ tư, đối với nghĩa vụ phải chịu lệ phí trong trƣờng hợp Toà án xác
định “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời
đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,
tống đạt, thông báo” cần đƣợc quy định rõ. Theo quan điểm của ngƣời viết, đa
số ngƣời bị yêu cầu thông báo tìm kiếm đều là đối với ngƣời bị kiện và đều
không thực hiện việc khai báo tạm trú, tạm vắng khi đi khỏi địa phƣơng, một
số nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ. Do đó cần xem xét buộc họ phải
chịu lệ phí thông báo nhƣ đối với án phí trong trƣờng hợp yêu cầu của ngƣời
khởi kiện đƣợc Toà án chấp thuận. Ngoài ra pháp luật tố tụng dân sự cần bổ
sung quy định xác định trách nhiệm chịu chi phí thông báo trên phƣơng tiện
thông tin đại chúng trong trƣờng hợp Toà án có trách nhiệm giải quyết vụ
việc dân sự là cơ quan chịu chi phí cho việc đăng tải thông tin ở các báo, đài
phát thanh hoặc đài truyền hình trung ƣơng theo quy định. Đồng thời cần có
hƣớng dẫn bổ sung thủ tục quyết toán các khoản chi phí này cho Toà án nhân
dân các địa phƣơng.
Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua đường bưu
điện
Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Thông tin và truyền thông cần sớm ban
hành văn bản liên tịch hƣớng dẫn việc tống đạt văn bản tố tụng qua đƣờng
bƣu điện để đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản tố tụng do Tòa án ban hành.
Theo đó, cần hƣớng dẫn và thống nhất về một số vấn đề nhƣ: nội dung biên
bản chuyển giao văn bản tố tụng giữa Toà án và bƣu điện (có số hiệu, ngày
tháng năm ban hành văn bản cũng nhƣ thời gian triệu tập, mời đƣơng sự); đề
ra quy chế phối hợp để nâng cao ý thứ trách nhiệm của nhân viên bƣu điện
90
trong quá trình chuyển giao văn bản tố tụng (ví dụ: trách nhiệm về việc thông
tin cho cơ quan ban hành văn bản tố tụng biết về việc văn bản không đƣợc
chuyển giao trực tiếp cho ngƣời nhận mà có thể đƣợc chuyển giao cho tổ
trƣởng tổ dân phố hoặc ngƣời khác...). Đồng thời, hƣớng dẫn rõ trƣờng hợp
tống đạt trực tiếp cho ngƣời đƣợc tống đạt, qua ngƣời thân, chính quyền địa
phƣơng cũng nhƣ thể hiện đầy đủ các thông tin trong trƣờng hợp không tống đạt
đƣợc. Mục đích của việc này là nhằm tạo điều kiện cho Toà án chủ động các
hoạt động tống đạt tiếp theo khi đƣơng sự không có mặt tại Toà án theo yêu
cầu.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng dân sự
Về hoạt động phối hợp tống đạt văn bản giữa cơ quan tiến hành tố
tụng và các cơ quan chức năng khác
Từ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về ngƣời thực hiện hoạt động
tống đạt văn bản tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy: ngoài việc trực tiếp thực
hiện hoạt động tống đạt văn bản, Toà án có thể phối hợp với UBND cấp xã
nơi cƣ trú của ngƣời tham gia tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời
tham gia tố tụng làm việc để chuyển giao văn bản tố tụng cho ngƣời này trong
những trƣờng hợp cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể về
trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ
quan này phải phối hợp thực hiện khi Toà án có yêu cầu. Đồng thời, theo Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND các cấp thì hoạt động tống đạt văn bản
không đƣợc xem thuộc chức năng của UBND cấp xã, và ở một khía cạnh nhất
định, hoạt động này có phần là gia tăng áp lực công việc đối với lực lƣợng
cán bộ tƣ pháp của cấp xã, phƣờng, mặc dù nó chỉ đƣợc xem là hoạt động
phối hợp giữa UBND và cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quy định thủ tục
tống đạt trong nhiều trƣờng hợp phải có con dấu xác nhận của UBND xã
91
phƣờng thị trấn nơi cƣ trú của đƣơng sự khiến cho việc tống đạt hợp lệ phải
trải qua nhiều thủ tục, kéo dài gây mất thời gian, công sức của các bên. Thực
tiễn quá trình thực hiện hoạt động tống đạt của cán bộ Toà án cho thấy, có đôi
lúc các UBND và cơ quan Công an xã phƣờng ở địa phƣơng cho rằng việc
thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng là nghĩa vụ, trách nhiệm của Toà
án, họ không phải là cơ quan có chức năng giao văn bản thay cho Toà án nên
thái độ hợp tác thiếu tích cực, đồng thời khi cần sự xác nhận của UBND trong
các trƣờng hợp nhƣ đƣơng sự từ chối nhận văn bản tố tụng mất rất nhiều thời
gian vì chính quyền cấp xã hẹn cán bộ Toà án đi lại rất nhiều lần mới có thể
nhận đƣợc biên bản xác nhận có con dấu của chính quyền địa phƣơng. Điều
này đã phần nào làm hạn chế hiệu quả của việc tống đạt văn bản tố tụng cho
đƣơng sự.
Vì vậy, để hoạt động tống đạt văn bản tố tụng diễn ra thông suốt, thuận
lợi đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc, TANDTC
cần phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện hoạt động tống
đạt văn bản theo quy định của BLTTDS và về lâu dài cần quy định bổ sung
thêm quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, chính
quyền địa phƣơng trong việc phối hợp thực hiện các hoạt động bổ trợ tƣ pháp
khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu. Theo đó, cần quy định cụ thể về
trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ
quan này phải phối hợp thực hiện khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu
thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự. Đồng thời cũng
cần xem xét hỗ trợ một phần chi phí bồi dƣỡng cho cán bộ thực hiện công tác
tống đạt văn bản tố tụng nhằm nâng cao chất lƣợng tống đạt.
Về tống đạt VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài
Cần tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các thiết chế đa phƣơng trong lĩnh
vực tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự, tích cực tham gia quá trình đàm phán, ký kết
92
và thực thi các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp. Tăng cƣờng vai trò tránh nhiệm
của các cơ quan trung ƣơng và sự phối hợp giữa cơ quan trung ƣơng và địa
phƣơng trong việc triển khai thực hiện pháp luật về tƣơng trợ tƣ pháp với mục
tiêu giải quyết hiệu quả, kịp thời các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài;
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việt Nam và nâng cao
vị thế của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Trong trƣờng hợp cần thiết, có
thể xem xét xây dựng một chƣơng riêng của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định
về trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện hoạt động uỷ thác tƣ pháp ra nƣớc
ngoài và cách thức xử lý những trƣờng hợp uỷ thác không có kết quả (trong
đó có hoạt động uỷ thác tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài).
Có nhƣ vậy mới đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động uỷ thác tƣ
pháp trong lĩnh vực dân sự trên thực tế.
Hiện nay thời gian hoàn thành một hồ sơ yêu cầu uỷ thác tống đạt văn
bản tố tụng cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài kéo dài trung bình từ 4 đến 6 tháng,
do đó quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị xét xử
là không phù hợp khi áp dụng cho các trƣờng hợp này. Pháp luật cần bổ sung
thêm quy định riêng về thời hạn giải quyết các vụ việc dân sự có đƣơng sự ở
nƣớc ngoài theo hƣớng tăng thời hạn chuẩn bị xét xử để đảm bảo tính hợp lý
không làm gia tăng áp lực về thời gian đối với các Toà án giải quyết những vụ
việc này.
Đa dạng hoá phương thức tống đạt dựa trên tiến bộ khoa học công
nghệ
Từ thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy, pháp luật Việt Nam cần
nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm và đa dạng hoá các phƣơng thức tống đạt
phù hợp với sự phát triển của xã hội và của khoa học công nghệ. Những năm
gần đây, việc sử dụng truyền thông xã hội ngày càng tăng nhanh, vai trò của
nó trong xã hội hiện đại có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và
93
có tiềm năng để trở thành một công cụ hữu ích cho hệ thống pháp luật bởi
tính kết nối sâu rộng và dễ sử dụng. Theo đó, các nhà làm luật có thể xem xét
và xây dựng quy định cho phép thực hiện tống đạt, uỷ thác tƣ pháp cho bị đơn
ở trong nƣớc và ở nƣớc ngoài bằng phƣơng tiện điện tử fax, e-mail hoặc
thông qua mạng xã hội trong trƣờng hợp việc thực hiện các phƣơng pháp khác
không đem lại hiệu quả hay không thể thực hiện đƣợc. Đối với mạng xã hội
Facebook, phƣơng thức này có đầy đủ các tính năng nhƣ kết nối ngƣời dùng
khác thông qua tin nhắn riêng, tin nhắn cũng có khả năng đính kèm tệp hay
file tài liệu trong thƣ để VBTT có thể đính kèm và gửi trong tin nhắn. Ở một
số quốc gia cho phép sử dụng phƣơng pháp tống đạt này (nhƣ Australia),
nguyên đơn phải cung cấp đầy đủ lƣợng thông tin trong hồ sơ cá nhân để có
thể xác minh tài khoản của mình chẳng hạn nhƣ giáo dục, nghề nghiệp, sở
thích, bạn bè, tuổi, quê hƣơng... Facebook cũng thiết lập các trạng thái, thông
báo đƣợc coi là bằng chứng cho việc ngƣời dùng có sử dụng trang web hay
không. Nếu tần suất sử dụng không thể hiển thị hoặc tài khoản của ngƣời
dùng đã đƣợc cài đặt riêng tƣ thì việc tống đạt sẽ không đƣợc phép thực hiện.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây có không ít những vụ rò rỉ thông tin cá
nhân, ngƣời dùng Facebook bị khai thác và sử dụng thông tin cá nhân một
cách trái phép. Nguyên nhân chủ yếu là do ngƣời dùng thƣờng chia sẻ thông
tin ở chế độ công khai thay vì chỉ hạn chế ở chế độ riêng tƣ hoặc chỉ dành cho
bạn bè. Mặt khác, nhiều ngƣời thƣờng cài đặt các ứng dụng trên Facebook mà
không quá chú ý đến chức năng và quyền hạn của các ứng dụng này có thể
khai thác thông tin mà họ chia sẻ trên mạng xã hội. Trƣớc tình trạng trên,
Facebook đã thay đổi hàng loạt các chính sách để bảo vệ thông tin ngƣời dùng
[59]. Bên cạnh những nỗ lực từ phía nhà mạng, bản thân ngƣời dùng cũng cần
có những giải pháp tự bảo vệ thông tin của mình trên mạng xã hội để trong
một tƣơng lai không xa, nhờ những tiến bộ của khoa học công nghệ có thể
94
ứng dụng thực hiện tống đạt thông qua mạng xã hội một cách nhanh chóng và
hiệu quả.
Việc thực hiện tống đạt bằng phƣơng pháp này đòi hỏi pháp luật cần
quy định các yếu tố mang tính bắt buộc để xác thực thông tin và danh tính của
ngƣời dùng đồng thời phải có hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, phù hợp
với điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên (trong trƣờng hợp tống đạt
cho bị đơn ở nƣớc ngoài).
Về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và hành vi
không làm đúng trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố
tụng.
Một trong những nguyên nhân khiến hoạt động tống đạt văn bản tố
tụng của toà án còn phát sinh nhiều khó khăn, vƣớng mắc chính là việc chƣa
có những quy định thật sự hiệu quả về biện pháp xử lý đối với các đƣơng sự
có hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và ngƣời không thực thi đúng
trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù BLTTDS năm
2015 dành hẳn một chƣơng (chƣơng XL) để quy định việc xử lý hành vi cản
trở hoạt động tố tụng nhƣng quy định về việc xử lý hành vi cản trở việc cấp,
giao, nhận, tống đạt, thông báo VBTT của Toà án (Điều 493) cũng chỉ đƣợc
quy định một cách chung chung, chƣa cụ thể. Điều luật chỉ dừng lại ở việc
đƣa ra các trƣờng hợp bị coi là có hành vi gây cản trở hoạt động cấp, tống đạt,
thông báo VBTT mà không quy định các biện pháp xử lý hoặc chế tài đối với
các hành vi vi phạm đó. Trong thực tế, rất hiếm trƣờng hợp những hành vi
cản trở hoạt động tống đạt văn bản tố tụng của đƣơng sự hoặc hành vi không
thực hiện đúng trách nhiệm tống đạt của ngƣời có thẩm quyền bị xử lý. Muốn
khắc phục tình trạng này, theo tác giả pháp luật cần quy định:
95
- Các căn cứ cụ thể để xác định hành vi thế nào bị coi là cản trở, không
làm đúng trách nhiệm trong việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo
VBTTDS.
- Xác định cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý các hành vi vi
phạm nói trên.
- Đƣa ra biện pháp, chế tài xử lý (các biện pháp xử lý hành chính/hình
sự) đối với hành vi không thực hiện đúng trách nhiệm trong hoạt động tống
đạt văn bản tố tụng; hành vi cản trở tố tụng dân sự của ngƣời tham gia tố
tụng.
Ở đây, yêu cầu đƣợc đặt ra là cần đảm bảo các tiêu chí rõ ràng, cụ thể
đối với các căn cứ xác định hành vi vi phạm và áp dụng chế tài đủ tính chất
răn đe đối với những hành vi đó để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nƣớc và
nâng cao trách nhiệm của ngƣời dân cũng nhƣ của các cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tống đạt VBTTDS.
Kết luận chƣơng 3
Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động tống đạt văn bản tố
tụng dân sự ở nƣớc ta hiện nay ngày càng đƣợc hoàn thiện theo hƣớng đồng
bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi,với sự kế thừa của các quy định pháp
luật trƣớc đó và sự dày công nghiên cứu của cá nhà lập pháp. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc trƣng của nên kinh tế nƣớc ta đang trong thời kỳ hội nhập, hệ
thống pháp luật vẫn còn trong quá trình hoàn thiện nên không thể tránh khỏi
nhiều vấn đề bất cập, vƣớng mắc, chƣa hợp lý, khiến cho hoạt động tống đạt
văn bản tố tụng gặp phải nhiều khó khăn khi thực hiện trên thực tế, làm ảnh
hƣởng đến chất lƣợng và thời gian giải quyết các tranh chấp dân sự tại toà án.
KẾT LUẬN
Có thể nói, trong hoạt động tố tụng dân sự việc chuyển giao và nhận
thông tin của các văn bản tố tụng chiếm một vai trò rất quan trọng. Cấp, tống
96
đạt, thông báo VBTT là hoạt động gắn liền với các việc tiến hành tố tụng của
Toà án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Nhận thức sâu sắc về ý
nghĩa cũng nhƣ tầm quan trọng của thủ tục tố tụng này, các nhà lập pháp đã
xây dựng tƣơng đối hoàn chỉnh bộ khung pháp lý đối với hoạt động tống đạt
văn bản tố tụng, giúp cho hoạt động tống đạt ngày càng đi vào quy củ, khoa
học, dân chủ và minh bạch hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm của pháp
luật vẫn còn tồn tại không ít khó khăn vƣớng mắc phát sinh trong thực tiễn
thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những khó khăn, vƣớng mắc
này cần đƣợc nhanh chóng nhận diện và khắc phục để tạo môi trƣờng công
bằng, bình đẳng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho tất cả những ngƣời
tham gia tố tụng, đồng thời cũng nâng cao vị thế của các cơ quan tiến hành tố
tụng, hƣớng đến mục tiêu thể chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của bộ chính trị về cải cách tƣ pháp vào các quy định cảu pháp luật
tố tụng dân sự.
Với đề tài “Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản theo BLTTDS
năm 2015”, tác giả đã cố gắng khái quái một cách cơ bản cơ sở lý luận, các
quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân
sự, phân tích thực trạng áp dụng và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những giải pháp này có thể
chƣa thật sự toàn diện, chƣa giải quyết đƣợc toàn bộ những vƣớng mắc phát
sinh trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng, nhƣng tác giả hy vọng có thể
góp phần giải quyết những vấn đề bất cập chủ yếu, nổi bật của hoạt động tống
đạt văn bản trong quá trình tố tụng tại Toà án; từ đó tạo nên một hệ thống
pháp luật về dân sự tố tụng chặt chẽ, đồng bộ và khả thi, thúc đẩy phát triển
nền kinh tế xã hội của nƣớc ta hiện nay.
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 203/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016
quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý phí thực hiện uỷ thác tư pháp về
dân sự có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
3. Bộ Tƣ pháp - Bộ Ngoại giao – Toà án nhân dân tối cao (2011), Thông
tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 hướng dẫn
áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật
Tương trợ tư pháp, Hà Nội.
4. Bộ Tƣ pháp – Bộ Tài chính – TANDTC (2010), Thông tư liên tịch số
12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày 24/06/2010 hướng dẫn một số điều
của Nghị định số 61/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh
liên quan đến chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại và chế độ tài
chính đối với văn phòng thừa phát lại, Hà Nội.
5. Bộ Tƣ pháp - Vụ pháp luật quốc tế (tháng 01/2018), Sổ tay hướng dẫn
thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự tại Việt Nam, tr. 7, Hà Nội.
6. Bộ Tƣ pháp (2009), Thông tư số 03/2009/TT-BTP ngày 30/09/2009
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7. Bộ Tƣ pháp (2013), Quyết định số 2531/QĐ-BTP ngày 21/10/2013 về việc
phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà
Nội”, Hà Nội.
98
8. Bộ Tƣ pháp (2018), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 về Tổng
kết công tác tư pháp năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công
tác năm 2018, tr. 20, Hà Nội.
9. Chính phủ (2009), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 về
tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
10. Chính phủ (2013), Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa
đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11. Đèo Thị Thủy (2013), Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự
- Thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội.
12. Dƣơng Quốc Thành (2007), “Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
theo quy định của BLTTDS năm 2004: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn
thiện”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 52-57, Hà Nội.
13. Học viện Tƣ pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội.
14. Hội đồng Nhà nƣớc (1989), Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày
07/12/1989 về thủ tục giải quyết các vụ án vụ án dân sự, Hà Nội.
15. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội kỳ họp thứ 4, khoá XV (2017),
Báo cáo số 1301/BC-VP ngày 13/6/2017 về Kết quả công tác 6 tháng đầu
năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2017 của hai cấp TAND TP.Hà Nội, Hà
Nội.
16. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2017), Nghị quyết số
01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 về việc ban hành một số biểu mẫu trong
tố tụng dân sự, Hà Nội.
99
17. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (1990), Nghị quyết số 03/HĐTP ngày
19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự, Hà Nội.
18. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2016), Nghị quyết số 04/2016/NQ-
HĐTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS số
92/2015/QH13, Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn
khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phương
tiện điện tử, Hà Nội.
19. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng
dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Khoa Luật - Trƣờng ĐH New York (tháng 12/2007), Những vấn đề cơ
bản của Luật pháp Mỹ (Fundamentals of American Law), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
21. Lâm Vƣơng Mỹ Linh (2015), Hoạt động tống đạt văn bản theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nhà nƣớc pháp quyền là tinh thần pháp
luật hay là đúng quy trình?”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 30 (1), trang 54-
61.
23. Nguyễn Kim Giang (2014), Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
dân sự, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. PGS. TS Nguyễn Thị Hoài Phƣơng chủ biên (2016), Bình luận những
điểm mới trong BLTTDS năm 2015, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia VN, Hà
Nội.
25. Praha (1982), Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và
hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Tiệp Khắc.
100
26. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
27. Quốc hội (2005), Luật giao dịch điện tử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
28. Quốc hội (2006), Luật cư trú, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (2007), Luật tương trợ tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
30. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
31. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về
việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Luật số 36/2013/QH13 ngày 20/06/2013 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật cư trú, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (2016), Luật báo chí, Hà Nội.
36. ThS. Nguyễn Thị Thu Hà (2011), “Pháp luật TTDS Hoa Kỳ và khả
năng ứng dụng vào việc hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam”, Tạp chí Luật
học, (01), trang 55-62, Hà Nội.
37. Thủ tƣớng Chính phủ (2009), Quyết định số 224/QĐ –TTg ngày
19/02/2009 phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại
thành phố Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
38. Toà án nhân dân tối cao (2017), Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày
21/02/2017 về việc tống đạt VBTT cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ
việc dân sự, vụ án hành chính, Hà Nội.
39. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (201207), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
101
40. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.
41. TS. Nguyễn Ngọc Khanh chủ biên (tháng 12/2005 ), Bộ luật TTDS
Liên Bang Nga, Chƣơng X, Điều 113-120, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.
42. TS. Trần Anh Tuấn (2007) , Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015,
Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.
43. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 1790/QĐ-
UBND ngày 03/04/2014 về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện thí
điểm chế định thừa phát lại tại thành phố Hà Nội, Hà Nội.
44. Uỷ ban nhân thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 6236/QĐ-UBND
ngày 15/10/2013 về việc ban hành đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại tại thành phố Hà Nội”, Hà Nội.
45. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, tr.779, Nxb. Tƣ
pháp, Hà Nội.
46. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, tr. 124, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
47. Viện Nhà nƣớc và pháp luật (2012), Bình luận khoa học Bộ luật TTDS
sửa đổi, bổ sung 2011, chƣơng X, trang 261-278, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.
Tiếng Anh
48. Keely Knapp (2014), “Accepting Social Media for Service of Process
in the 21st Century”, Louisiana Law Rewiew, pp. 547 – 579.
49. Glannon, Perlman & Raven-Hansen (2011), Civil Procedure: A
Coursebook, Wolters Kluwer Law & Business, New York.
Website
50. https://www.archerestatelaw.com/hot-trends/nj-court-permits-service-
of-process-through-facebook/
102
51. https://www.courtlistener.com/opinion/1926914/in-re-international-
telemedia-associates-inc/
52. https://en.wikipedia.org/wiki/Pennoyer_v._Neff
53. https://www.federalrulesofcivilprocedure.org/frcp/title-ii/
54. https://www.hg.org/legal-articles/methods-of-service-of-process-31553
55. https://ipkey.eu/en/china/ip-information
56. https://www.johnmarshall.edu/.../Fundamental-Principles-of-Civil-
Procedure
57. http://torrilegalservices.com/service-process-facebook/
58. http://vksdongnai.gov.vn/Pages/noi-dung
tin.aspx?NewsID=1149&TopicID=1
59. https://dantri.com.vn/suc-manh-so/500000-nguoi-dung-facebook-viet-
nam-bi-ro-ri-thong-tin-ca-nhan-20180406064716935.htm
103