ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI THU HƢƠNG

CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI THU HƢƠNG

CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

NĂM 2015

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo

Hà nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy

và trung thực.

NGƢỜI CAM ĐOAN

BÙI THU HƢƠNG

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6

MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1 7

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN

BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ 7

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 7

1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 7

1.1.2. Ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 14

1.2.1. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 16

1.2.2. Các loại văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo 21

1.2.3. Phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng 23

1.3. Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 36

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945 36

1.3.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 37

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay 38

Kết luận chƣơng 1 41

CHƢƠNG 2 42

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CẤP,

TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ 42

2.1. Các văn bản tố tụng phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo theo quy định của

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 42

2.1.1.Văn bản tố tụng dân sự do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo 42

2.1.2.Văn bản tố tụng dân sự do Viện kiểm sát cấp, tống đạt, thông báo 47

2.1.3.Văn bản tố tụng dân sự do cơ quan Thi hành án dân sự cấp, tống đạt,

thông báo 49

2.2. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy định

của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 50

2.2.1. Chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 51

2.2.2. Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 53

2.3.1. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trực tiếp 55

2.3.2. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự qua dịch vụ bưu chính

hoặc người thứ ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo 58

2.3.3. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự bằng phương tiện điện

tử 60

2.3.4. Niêm yết công khai 62

2.3.5.Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng 64

2.3.6.Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong trường hợp

đương sự ở nước ngoài 66

CHƢƠNG 3 72

THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ

TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 72

3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 72

3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp

luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 72

3.1.2. Những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định

của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự 74

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng dân sự 88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự

FRCP

: Federal Rules of Civil Procedure (quy tắc thủ tục TTDS Liên bang)

HĐXX : Hội đồng xét xử

PLTTDS : Pháp luật tố tụng dân sự

TAND : Toà án nhân dân

TANDTC : Toà án nhân dân tối cao

THA : Thi hành án

THADS : Thi hành án dân sự

TTDS : Tố tụng dân sự

UBND : Uỷ ban nhân dân

UTTP : Uỷ thác tƣ pháp

VBTT : Văn bản tố tụng

VBTTDS : Văn bản tố tụng dân sự

VKS : Viện kiểm sát

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự là một phần rất quan

trọng trong hoạt động tƣ pháp và gắn liền với việc tiến hành tố tụng của các

cơ quan nhƣ Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự. Trong tố tụng

dân sự, việc chuyển giao, thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan

đến vụ việc dân sự các văn bản tố tụng đang đƣợc giải quyết là rất cần thiết để

họ biết mà thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tùy theo nội

dung yêu cầu thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của những ngƣời đó mà

các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành chuyển giao hoặc thông báo cho họ

biết nội dung văn bản tố tụng dƣới hình thức nhất định nhƣ cấp, tống đạt hoặc

thông báo nội dung của nó. Trong đó, hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành

tố tụng giao cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự để họ

sử dụng đƣợc coi là cấp văn bản tố tụng; hoạt động tố tụng của cơ quan tiến

hành tố tụng giao văn bản tố tụng và buộc họ phải nhận đƣợc gọi là tống đạt

văn bản tố tụng; hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng báo cho cá

nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự đƣợc biết những vấn đề

liên quan đến họ đƣợc gọi là thông báo văn bản tố tụng [39, trang 201].

Với xu hƣớng minh bạch hóa quá trình tố tụng và đảm bảo sự tham gia

ngày càng tích cực của các đƣơng sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân

sự, pháp luật nƣớc ta đã có nhiều quy định liên quan đến văn bản tố tụng cũng

nhƣ cách thức, thủ tục cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng. Bộ luật tố

tụng dân sự năm 2015 (có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/07/2016) đã dành

một Chƣơng (từ Điều 170 đến Điều 181) để quy định về trình tự cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng. Theo đó, vấn đề này đƣợc quy định một cách cụ

thể, chi tiết hơn và có sự bổ sung về phƣơng thức thực hiện. Đây đƣợc xem là

bƣớc tiến về thủ tục tống đạt so với các văn bản quy định về tố tụng dân sự

1

trƣớc đây. Qua thời gian áp dụng trong thực tiễn, các quy định về cấp, tống

đạt, thông báo văn bản tố tụng đã phát huy giá trị, góp phần quan trọng vào

việc đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản tố tụng và đặc biệt đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trong quá

trình thực hiện cho thấy một số quy định về tống đạt văn bản tố tụng của

BLTTDS đã bộc lộ không ít vƣớng mắc, bất cập cần có sự hoàn thiện hoặc

cần có văn bản hƣớng dẫn để phát huy giá trị pháp lý của thủ tục tố tụng này.

Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: "Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật

học với mong muốn tìm ra những bất cập trong các quy định của pháp luật

cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng trên thực tế

liên quan đến hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự. Từ

đó đƣa ra đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống

pháp luật, góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành

về chế định cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự nhằm khẳng định

tầm quan trọng của hoạt động tố tụng này trong việc giải quyết các vụ việc

dân sự.

2. Tình hình nghiên cứu

Ở Việt Nam, vấn đề cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự chƣa

thực sự đƣợc quan tâm nghiên cứu.

Nội dung cơ bản của hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

dân sự đƣợc đề cập đến trong một số giáo trình mang tính chất là tài liệu tham

khảo, học tập đối với sinh viên chuyên ngành luật nhƣ: “Giáo trình Luật tố

tụng dân sự” của Học viện Tƣ pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm

2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Nhà xuất bản Giáo dục

xuất bản năm 2011; “Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam” của trƣờng Đại

học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2012; “Giáo trình

2

Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất

bản Tƣ pháp, năm 2015; “Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa

Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do Bùi Thị Thanh Hằng chủ biên,

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.

Tính đến hiện nay mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về hoạt động

cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, cụ thể là: khóa luận tốt

nghiệp của Nguyễn Thị Lan “Thủ tục cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng

dân sự”, thực hiện tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2010; khóa luận tốt

nghiệp của Trần Thị Nguyệt “Thủ tục cấp, thông báo, tống đạt các văn bản tố

tụng”, thực hiện tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ

của Đèo Thị Thủy “Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự - Thực

tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La” bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm

2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Giang “Cấp, tống đạt, thông báo văn

bản tố tụng dân sự”, bảo vệ tại Khoa Luật - Trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội

năm 2014.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập một cách khái quát những vấn

đề cơ bản về chế định cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc đã nghiên cứu về một hay một số vấn

đề cụ thể của hoạt động này. Các tác giả đã đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện

có giá trị để hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản trong tố tụng dân sự

đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn hạn chế về

mặt số lƣợng và mới chỉ dừng lại ở một phạm vi nhất định. Đặc biệt là Bộ luật

tố tụng dân sự năm 2015 mới đƣợc ban hành và đƣa vào thực hiện trên thực tế

đòi hỏi cần có sự nghiên cứu sâu hơn không chỉ về nội dung các quy định mà

còn xem xét tính khả thi, khả năng áp dụng trên thực tế của các quy định đó.

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề về lý luận, thực trạng

quy định của pháp luật cũng nhƣ thực tiễn áp dụng của hoạt động cấp, tống

3

đạt, thông báo văn bản tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là rất

cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu nhằm đề xuất các giải

pháp hoàn thiện quy định pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố

tụng dân sự và nâng cao hiệu quả hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản

tố tụng dân sự trên thực tế.

Để có thể đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn phải giải

quyết các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cấp, tống đạt, thông báo

văn bản tố tụng dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng dân sự; chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức cấp,

tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự; sự phát triển các quy định của

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề này.

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015.

Thứ ba, phân tích thực tiễn thi hành các quy định về cấp, tống đạt, thông

báo văn bản tố tụng dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trên cơ sở

đó đề xuất, đƣa ra các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp

luật, đảm bảo tốt việc thực hiện những quy định về cấp, tống đạt, thông báo

văn bản trong tố tụng dân sự.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là vấn đề lý luận, các quy định của pháp

luật TTDS về cấp, tống đạt, thông báo VBTT và thực tiễn thực hiện các quy

định về cấp, tống đạt, thông báo VBTT theo BLTTDS năm 2015.

Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS là một hoạt động tố tụng quan trọng

và có ý nghĩa rất lớn. Do vậy, đề tài mà tác giả nghiên cứu có nhiều nội dung

4

khác nhau. Trong khuôn khổ và điều kiện thời gian nghiên cứu đề tài luận văn

thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, nội

dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cấp, tống đạt, thông

báo VBTTDS và đánh giá hoạt động tố tụng này thông qua những vụ án thực

tế trong vài năm gần đây từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành.

Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia trên

thế giới về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS để từ đó có sự đánh giá, so

sánh, liên hệ với pháp luật Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Dựa vào phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhận thức, tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh và đƣờng lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, luận văn sử dụng

kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích, tổng hợp, so

sánh, thống kê.

Một số phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc áp dụng trong luận văn:

Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp: Những phƣơng pháp này đƣợc sử

dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về nội dung của

việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự.

Phƣơng pháp luật học so sánh: Những phƣơng pháp này đƣợc ngƣời viết

vận dụng để nghiên cứu so sánh pháp luật của một số quốc gia về tống đạt

văn bản tố tụng dân sự, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Đƣợc vận dụng để triển

khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến hoạt động cấp, tống đạt, thông báo

văn bản tố tụng dân sự, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể nhƣ trên

cơ sở đƣa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích ngƣời viết dùng

phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó…

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần bổ sung lý luận về vấn đề cấp,

tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa

của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự; chủ thể, đối tƣợng và

phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự…; thực trạng

điều chỉnh của pháp luật mà cụ thể là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối với

vấn đề cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, chỉ ra những bất cập

của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cấp,

tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự.

Ngoài ra, công trình nghiên cứu này cũng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích

cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Luật tố tụng dân sự trong các cơ

sở đào tạo luật, cũng nhƣ làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan xây dựng

pháp luật và cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố

tụng dân sự

Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về cấp, tống

đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Chƣơng 3: Thực tiễn thi hành và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của

hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự Việt Nam.

6

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO

VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

dân sự

1.1.1. Khái niệm cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

a. Cấp văn bản tố tụng dân sự

Hiểu theo nghĩa đơn giản và phổ thông nhất thì “cấp” là một hoạt động

nhằm cung cấp cho ai đó vật, giấy tờ, tài liệu xác định để họ sử dụng tùy theo

mục đích khác nhau. Đối với thuật ngữ này, Từ điển Tiếng Việt cũng đƣa ra

cách hiểu khái quát về khái niệm “cấp” là việc giao cho hƣởng, giao cho toàn

quyền sử dụng [46]. Tuy nhiên, khi mang tính chất là một thuật ngữ pháp lý

thì việc cấp văn bản tố tụng dân sự phải đƣợc hiểu với ý nghĩa cụ thể hơn gắn

với yêu cầu của từng hoạt động tố tụng cụ thể.

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà

Nội định nghĩa: “Hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng giao cho

cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự văn bản tố tụng để họ

sử dụng được gọi là cấp văn bản tố tụng”(trang 201). Ví dụ: sau thời hạn luật

định, đƣơng sự đƣợc Tòa án cấp cho Quyết định giải quyết việc dân sự về

việc công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận giữa các đƣơng sự. Quyết định

này có hiệu lực ngay và đƣợc cấp cho đƣơng sự để họ sử dụng làm căn cứ cho

việc chấm dứt quan hệ hôn nhân. Cơ quan tiến hành tố tụng ở đây hay còn gọi

là chủ thể thực hiện việc cấp VBTTDS bao gồm Tòa án và cơ quan thi hành

án dân sự. Viện kiểm sát không thực hiện việc cấp VBTTDS do chức năng

của VKS là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện

các quyền yêu cầu kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm

đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Do đó, định

7

nghĩa theo giáo trình nhƣ trên còn chung chung, chƣa chỉ rõ đƣợc cơ quan

tiến hành tố tụng bao gồm những cơ quan nào và chƣa thực sự chính xác khi

thực tế hiện nay ngoài Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự thì Văn phòng

thừa phát lại cũng là một chủ thể đƣợc nhà nƣớc trao quyền thực hiện việc cấp

VBTTDS.

Theo quan điểm của tác giả, hoạt động cấp VBTTDS có thể đƣợc hiểu

nhƣ sau: “Cấp VBTTDS là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền (gồm Toà

án, cơ quan Thi hành án, Thừa phát lại) tiến hành giao VBTT cho các đương

sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự

và thi hành án để họ sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật”.

b. Thông báo văn bản tố tụng dân sự

Theo từ điển Tiếng Việt, “thông báo” đƣợc hiểu là báo cho mọi ngƣời

biết tình hình, tin tức bằng lời nói hoặc văn bản [46]. Nhƣ vậy, dựa theo cách

hiểu nhƣ trên thì việc cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động báo cho

cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến vụ việc dân sự biết về những hoạt

động tố tụng liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ đƣợc gọi là

thông báo văn bản tố tụng dân sự. Việc thông báo đƣợc thể hiện dƣới hình

thức văn bản. Mục đích của hoạt động này nhằm truyền tải các thông tin về

hoạt động giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để đƣơng sự biết thông tin

để từ đó có cách xử sự phù hợp. Không giống nhƣ hoạt động tống đạt, việc

thông báo VBTTDS chỉ nhằm giúp đƣơng sự nhận biết rằng VBTTDS đã

đƣợc ban hành công khai với nội dung nhất định hay một hoạt động tố tụng

nào đó sắp đƣợc tiến hành để các chủ thể biết và tham gia, không phụ thuộc

vào ý chí của các chủ thể đƣợc thông báo. Trong đó chủ thể thực hiện thông

báo là các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan

THADS và tổ chức Thừa phát lại. Đối tƣợng thông báo là các văn bản tố tụng

phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự.

8

Ví dụ: Đối với Thông báo thụ lý vụ án đƣợc quy định tại Điều 196

BLTTDS năm 2015 thì “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ

án, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, cơ quan, tổ

chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho

VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án”. Có thể thấy điều luật này đã

quy định rõ thẩm phán là ngƣời có nghĩa vụ thực hiện việc thông báo cho các

đƣơng sự, ngƣời có quyền và lợi ích liên quan và VKS cùng cấp. Hoạt động

thông báo này là bƣớc quan trọng trong thủ tục tố tụng để giúp các đƣơng sự

biết thông tin về vụ việc đã đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết. Mặt khác đây cũng

là căn cứ để đƣơng sự cũng nhƣ VKS nắm bắt đƣợc thông tin vụ việc để từ đó

có căn cứ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa về thông báo VBTTDS

nhƣ sau: “Thông báo VBTTDS là việc các cơ quan có thẩm quyền bao gồm

Toà án, VKS, cơ quan THADS và tổ chức Thừa phát lại chuyển đến cho

đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích liên quan các thông

tin về hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có liên quan

tới quyền và nghĩa vụ của họ để họ biết và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của

mình theo đúng quy định của pháp luật”.

c. Tống đạt văn bản tố tụng dân sự

Về mặt pháp lý, Từ điển Luật học có đƣa ra khái niệm tống đạt là “việc

chuyển các giấy tờ đến tận tay người nhận” [45]. Với tƣ cách là một thuật

ngữ pháp lý thì tống đạt là việc chuyển đến đƣơng sự giấy tờ cần thiết của cơ

quan tƣ pháp. Theo pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan

Thi hành án có nghĩa vụ tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đƣơng

sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên

quan đến vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng. Việc chuyển

giao tài liệu, giấy tờ do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện là hoạt động giao

9

nhận một cách chính thức và mang tính chất bắt buộc đối với ngƣời nhận,

ngƣời nhận văn bản bắt buộc phải có trách nhiệm tuân theo, không phụ thuộc

vào ý chí chủ quan của ngƣời nhận văn bản tống đạt.

Ví dụ: ông H là đƣơng sự trong một vụ án dân sự, Tòa án huyện K tống

đạt cho ông H giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử vào ngày 20/05/2018.

Ông H có nghĩa vụ phải tham gia phiên tòa vào đúng thời gian nên trên.

Tại Khoản 3 Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của

Chính phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số

61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của

Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì: “Tống đạt là

việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án

dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật”. Với quy

định này, bản chất của hoạt động tống đạt văn bản là việc “thông báo” và

“giao nhận” các văn bản tố tụng, điều này cũng gần giống với hoạt động

thông báo hay cấp VBTT.

Thông thƣờng cơ quan nào ban hành ra VBTTDS thì phải có nghĩa vụ

thực hiện việc tống đạt VBTT đó. Khác với hoạt động cấp hay thông báo

VBTTDS, tống đạt mang tính chất bắt buộc, thậm chí là áp đặt đối với đƣơng

sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự. Ở đây, ngƣời

nhận văn bản phải có trách nhiệm bắt buộc tuân theo, không phụ thuộc vào ý

chỉ chủ quan của họ, buộc họ phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

Trƣờng hợp họ không thực hiện đúng nhƣ nội dung văn bản yêu cầu thì vô

hình chung họ đã tự mình từ bỏ quyền và nghĩa vụ. Đây là cơ sở để các cơ

quan có thẩm quyền xác định và tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo

theo trình tự luật định.

Nhƣ vậy, có thể đƣa ra định nghĩa về tống đạt VBTTDS nhƣ sau:

“Tống đạt VBTTDS là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền bao gồm Toà

10

án, cơ quan THADS và Thừa phát lại giao cho đương sự, cá nhân, cơ quan,

tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự VBTT, buộc họ phải nhận và thực

hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật”.

Có thể nói cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS đều là hoạt động tố tụng

quan trọng của các cơ quan có thẩm quyền nhằm chuyển giao văn bản tố tụng

do các cơ quan này ban hành cho các chủ thể có liên quan để họ biết đƣợc nội

dung các hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để từ đó

giúp họ biết và sử dụng quyền, nghĩa vụ của mình một cách hợp pháp.

d. Đặc trưng cơ bản của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự ở

Việt Nam

Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS ở Việt Nam có những đặc trƣng sau

đây:

Thứ nhất: cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là nghĩa vụ

của cơ quan ban hành văn bản tố tụng dân sự. Theo quy định của BLTTDS thì

chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm Toà án, Viện kiểm sát,

cơ quan Thi hành án, đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định,

ngƣời phiên dịch và ngƣời liên quan. Trong quá trình tiến hành tố tụng, tuỳ

vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà các cơ quan nhƣ Toà án,

Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án đã ban hành ra nhiều văn bản với mục đích

và nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có một số văn bản tố tụng dân sự đƣợc cấp,

tống đạt, thông báo cho đƣơng sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác, cá

nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự và THADS. Việc cấp,

tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự do Toà án, Viện kiểm sát, cơ

quan thi hành án dân sự thực hiện, đây cũng đƣợc xem là nghĩa vụ của các cơ

quan này. Việc quy định nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

dân sự cho các cơ quan tiến hành tố tụng góp phần đảm bảo việc giải quyết

11

các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, đảm bảo thời gian và tuân theo trình tự

luật định. Qua đó cũng thể hiện vai trò chủ đạo của các cơ quan tiến hành tố

tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này cũng giúp đảm

bảo các quyền cho đƣơng sự, những ngƣời tham gia tố tụng khác, các cá nhân,

cơ quan, tổ chức có liên quan.

Thứ hai: văn bản đƣợc cấp, tống đạt, thông báo là văn bản tố tụng của

Toà án, VKS và cơ quan Thi hành án ban hành. Để đảm bảo việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng đã

sử dụng công cụ là văn bản tố tụng dân sự nhƣ bản án, quyết định của Toà án,

giấy mời, giấy báo...theo quy định của pháp luật về hình thức cũng nhƣ nội

dung thể hiện văn bản. Đây là các văn bản thể hiện nội dung làm việc trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 171 BLTTDS năm

2015 thì nhìn chung các văn bản đƣợc cấp, tống đạt, thông báo chủ yếu là do

Toà án, VKS và cơ quan Thi hành án ban hành. Cụ thể, các văn bản tố tụng

phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo gồm có: thông báo, giấy báo, giấy triệu

tập, giấy mời trong tố tụng dân sự; bản án, quyết định của Toà án; quyết định

kháng nghị của VKS; các văn bản của cơ quan thi hành án dân sự và các văn

bản khác mà pháp luật có quy định.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, mỗi cơ quan tiến hành tố

tụng có vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Chức năng của Viện kiểm sát

là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, do đó các loại văn

bản do cơ quan này ban hành thông thƣờng ít đƣợc cấp, tống đạt, thông báo.

Cụ thể, loại VBTT mà VKS phải tiến hành cấp, tống đạt, thông báo đó là

Quyết định kháng nghị (khoản 3 Điều 171). Trong khi đó cơ quan Thi hành

án dân sự thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án đã có

hiệu lực pháp luật. Công việc này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích

hợp pháp của đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan nên việc ban

12

hành và thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông báo văn bản cho họ là rất

cần thiết. Còn đối với Toà án, đây là cơ quan đóng vai trò là cầu nối trung

gian, cơ quan tiến hành tố tụng và đƣa ra quyết định cuối cùng trong quá trình

giải quyết vụ việc. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình, Toà án cần

tìm hiểu và tiếp cận sự việc một cách xuyên suốt theo trình tự luật định, điều

này cũng chiếm phần lớn thời gian trong quá trình tố tụng. Do đó ta có thể

thấy hầu hết các văn bản tố tụng dân sự đƣợc cấp, tống đạt, thông báo là do

Toà án và cơ quan Thi hành án ban hành và thực hiện.

Thứ ba: cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là hoạt động

mang tính quyền lực nhà nƣớc. Để thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông

báo văn bản tố tụng dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện theo

đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Ngoài ra, hình thức và nội dung

mà văn bản tố tụng đó thể hiện cũng phải tuân thủ theo luật định. Để thực

hiện việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thì ngoài cơ quan tiến hành tố

tụng nhƣ Toà án, VKS, cơ quan THA thì Thừa phát lại cũng là một tổ chức

đƣợc nhà nƣớc trao quyền thực hiện việc tống đạt VBTTDS nhằm góp phần

làm giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan nhà nƣớc, nâng cao hiệu quả xét xử,

tiến độ thi hành án và các quyền tố tụng của công dân. Hay nói cách khác,

hoạt động tống đạt của Thừa phát lại đƣợc thực hiện theo sự uỷ quyền (thông

qua hình thức hợp đồng) của cơ quan nhà nƣớc theo trình tự, thủ tục chặt chẽ

do pháp luật quy định. Do đó hoạt động của tổ chức Thừa phát lại cũng mang

tính quyền lực nhà nƣớc.

Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự đƣợc quy định cụ thể

tại chƣơng X (từ Điều 170 đến Điều 181) của BLTTDS năm 2015. VBTTDS

đƣợc ban hành bởi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và đƣợc bảo đảm thực

hiện bởi quyền lực nhà nƣớc. Nếu ngƣời có quyền hoặc nghĩa vụ thực hiện

việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng mà không thực hiện hoặc thực

13

hiện không đúng, cố tình làm sai quy định của pháp luật thì phải chịu những

chế tài nhất định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi.

Ngƣời có nghĩa vụ thi hành các VBTTDS đã đƣợc cấp, tống đạt, thông báo thì

phải nghiêm chỉnh thực hiện, nếu không thi hành hoặc thi hành không đúng

thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy

cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định

của pháp luật.

1.1.2. Ý nghĩa của cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Thứ nhất: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS có ý nghĩa rất quan trọng

trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự. Đƣơng sự

chỉ có thể thực hiện đƣợc các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình khi họ có

đầy đủ thông tin về quá trình tố tụng, đƣợc cấp, tống đạt, thông báo đầy đủ,

kịp thời các văn bản tố tụng. Ví dụ, đƣơng sự sẽ không thể thực hiện đƣợc

quyền tranh tụng, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc tòa

án nếu không đƣợc tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu

tập tham gia phiên tòa, phiên họp v.v… Hoạt động cấp, tống đạt, thông báo

VBTTDS là cầu nối gắn kết giữa cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành

án với ngƣời tham gia tố tụng. Nhờ có hoạt động này mà các thông tin liên

quan đến vụ việc dân sự đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng thông báo tới các

đƣơng sự, giúp họ nắm bắt đƣợc thông tin cũng nhƣ theo dõi đƣợc quá trình

diễn biến vụ việc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhƣ vậy, mặc dù

không trực tiếp tác động đến kết quả giải quyết nội dung vụ án, nhƣng cấp,

tống đạt, thông báo chính là phƣơng tiện góp phần đảm bảo công lý về thủ tục

trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS

đảm bảo việc cung cấp những thông tin quan trọng, cần thiết trong quá trình

giải quyết vụ việc dân sự cho đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng

sự. Thông qua hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTT của Tòa án, VKS, cơ

14

quan THA, tổ chức Thừa phát lại mà cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến

vụ việc dân sự có thể biết đƣợc quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có

những hành vi xử sự phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên

cạnh đó, thông qua hoạt động cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS công dân

đƣợc thực hiện quyền dân chủ, quyền giám sát đối với cơ quan nhà nƣớc.

Điều này đƣợc thể hiện qua việc pháp luật quy định cho đƣơng sự quyền

kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án và quyền khiếu nại, tố cáo

khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền

tiến hành tố tụng.

Thứ hai: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS là mắt xích quan trọng để

các cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng một cách có trình tự,

khoa học và thông suốt. Ví dụ: Trƣớc khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử,

Thẩm phán phải tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,

công khai chứng cứ và hoà giải giữa các đƣơng sự (trừ trƣờng hợp vụ án dân

sự không đƣợc hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải đƣợc). Để tiến hành

đƣợc phiên họp thì phải có ngƣời tham gia phiên họp. Muốn có ngƣời tham

gia phiên họp thì Toà án phải thông báo cho các bên liên quan để họ đƣợc biết

và tham gia phiên họp theo đúng thời gian, địa điểm mà Toà án đã ấn định.

Nhƣ vậy, nếu Toà án không thực hiện hoạt động thông báo về phiên họp cho

các đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự cũng nhƣ các cá nhân,

cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự đang đƣợc Toà án thụ lý giải

quyết thì họ không thể biết đƣợc thông tin về phiên họp để tham gia. Điều này

sẽ làm gián đoạn, gây khó khăn, cản trở trong việc thực hiện các hoạt động tố

tụng tiếp theo của Toà án.

Thứ ba: cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS giúp các cơ quan tiến hành

tố tụng (Toà án, VKS, cơ quan THA, Thừa phát lại) thực hiện nhiệm vụ và

quyền hạn của mình một cách đúng đắn, kịp thời. Để giải quyết một vụ việc

15

dân sự cần trải qua các giai đoạn cũng nhƣ trình tự thủ tục nhất định do pháp

luật quy định. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn khác nhau do đó hoạt động thông báo, cấp, tống đạt VBTTDS sẽ đảm bảo

việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự của mỗi cơ

quan. Việc cấp, tống đạt, thông báo VBTT giúp cho quá trình giải quyết vụ

việc dân sự đƣợc diễn ra một cách công khai, minh bạch, dân chủ. Ngoài việc

công dân có thể thực hiện quyền dân chủ, quyền giám sát đối với cơ quan nhà

nƣớc thì hoạt động tố tụng này cũng giúp VKS thực hiện chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật của cơ quan tƣ pháp trong quá trình giải quyết các vụ

việc dân sự. Đối với cơ quan THADS, việc thông báo cũng giúp cho quá trình

thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp

luật đƣợc diễn ra nhanh chóng, đúng pháp luật. Việc thực hiện tốt các hoạt

động cấp, tống đạt và thông báo VBTTDS cũng góp phần không nhỏ vào việc

giúp cho các vụ việc dân sự đƣợc diễn ra công khai, minh bạch và dân chủ,

phù hợp với chủ trƣơng để “dân biết, dân, làm, dân kiểm tra” của Đảng và

Nhà nƣớc.

1.2. Chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản

tố tụng dân sự

Pháp luật TTDS các quốc gia trên thế giới khi quy định về chủ thể, đối

tƣợng và phƣơng thức tống đạt VBTTDS có những điểm khác biệt nhất định

tuỳ thuộc vào mô hình tố tụng cũng nhƣ hệ thống pháp luật từng quốc gia. Do

đó, nội dung chính trong phần này sẽ tập trung tìm hiểu, so sánh pháp luật

một số quốc gia đại diện cho các mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố

tụng thẩm vấn để từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

1.2.1. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Nhìn chung, chủ thể tống đạt VBTTDS ở các quốc gia hiện nay có sự

kết hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức thừa phát lại và tƣ nhân.

16

Ở các nƣớc châu Âu lục địa với mô hình tố tụng thẩm vấn, vai trò của

cơ quan công quyền trong hoạt động tố tụng đƣợc đề cao, do đó, việc tống đạt

các VBTT chủ yếu do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (thƣờng là Toà án)

kết hợp với Thừa phát lại thực hiện. Chẳng hạn, Pháp là một quốc gia tiêu

biểu của mô hình tố tụng thẩm vấn với vai trò chủ động của thẩm phán trong

tố tụng dân sự. Một vụ việc dân sự đƣợc bắt đầu bằng việc nguyên đơn tống

đạt trực tiếp giấy mời ra tòa (assignation) cho bị đơn thông qua một chức

danh gọi là “huissier” - thừa phát lại (Điều 55, 750 BLTTDS Pháp). Thừa

phát lại có độc quyền thực hiện tống đạt chính thức, là những ngƣời có chức

năng tống đạt và phải tuân theo quy định của pháp luật. Việc tống đạt giấy

mời ra tòa phải đƣợc thực hiện tại trụ sở của bị đơn (nếu bị đơn là tổ chức)

hoặc nơi cƣ trú của bị đơn (nếu bị đơn là cá nhân). Giấy mời ra tòa đƣa ra yêu

cầu của nguyên đơn và các căn cứ thực tế cũng nhƣ căn cứ pháp lý của yêu

cầu đó, kèm theo là danh mục các tài liệu, chứng cứ ban đầu của nguyên đơn

(Điều 56). Sau khi tống đạt giấy mời ra tòa cho bị đơn, nguyên đơn phải nộp

đơn khởi kiện đến Tòa án. Tòa án thụ lý vụ án khi nguyên đơn nộp bản sao

đơn khởi kiện mà nguyên đơn đã tống đạt cho bị đơn (Điều 53-54). Việc tống

đạt cũng có thể đƣợc thực hiện theo sự sắp đặt của Văn phòng toà án (trong

một số trƣờng hợp nhất định để triệu tập một phiên họp hoặc tống đạt các bản

án).

Ở một số quốc gia khác nhƣ Đức có hai hình thức tống đạt, đó là tống

đạt chính thức và tống đạt do các bên thực hiện. Tống đạt chính thức là việc

tống đạt đƣợc thực hiện bởi Chánh văn phòng tòa án nơi vụ kiện đang đƣợc

giải quyết (Điều 168 (1) của Bộ luật tố tụng dân sự của Đức). Chánh văn

phòng tòa án có quyền lựa chọn phƣơng thức tống đạt theo cách mà ngƣời đó

cho là tốt nhất nhƣ: tống đạt thông qua luật sƣ hoặc ngƣời đại diện hợp pháp

của đƣơng sự, tống đạt trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bƣu chính, hoặc chỉ

17

định một cán bộ tòa án thực hiện việc tống đạt. Trong một số trƣờng hợp

đƣợc quy định hợp pháp, thẩm phán có trách nhiệm sắp xếp việc tống đạt, ví

dụ trong trƣờng hợp tống đạt ra nƣớc ngoài (Điều 183 và Điều 184) hoặc tống

đạt theo hình thức công bố công khai (Điều 186 và Điều 187).

Việc tống đạt VBTTDS do các bên thực hiện về nguyên tắc sẽ thông

qua chức danh Thừa phát lại. Thừa phát lại tống đạt theo chỉ dẫn trực tiếp của

các đƣơng sự hoặc thông qua thỏa thuận với Văn phòng tòa án (Điều 192).

Thừa phát lại có thể giao phó việc tống đạt tài liệu cho dịch vụ bƣu chính

(Điều 194).

Ở các nƣớc thuộc truyền thống common law với mô hình tố tụng tranh

tụng, vai trò tống đạt của tƣ nhân đƣợc đề cao hơn so với vai trò của cơ quan

nhà nƣớc.

Theo pháp luật Mỹ, sau khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án, nguyên đơn

có nghĩa vụ tống đạt các văn bản khởi kiện cho bị đơn, tức là giao cho bị đơn

bản sao đơn khởi kiện và một thông báo (summons) của tòa án yêu cầu bị đơn

phải đến để trả lời về một khiếu kiện trƣớc Toà án nhằm bảo vệ quyền lợi của

mình. Đây là thông báo có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý từ phía Tòa án.

Và trong trƣờng hợp không có câu trả lời, thông báo này sẽ cho phép nguyên

đơn có đƣợc phán quyết trên cơ sở những lời cáo buộc có trong đơn kiện

(Quy tắc số 55). Các biện pháp theo đó lệnh tống đạt có hiệu lực là tƣơng đối

phức tạp, song nhìn chung chúng đƣợc xây dựng nhằm đem lại sự bảo đảm

hợp lý rằng ngƣời đƣợc triệu tập sẽ thực tế nhận đƣợc thông báo về vụ việc.

Việc nhận đƣợc thông báo và đơn khởi kiện sẽ bắt đầu vào thời điểm mà bị

đơn phải trả lời khiếu kiện (quy định 12(a)).

Sau khi nhận đƣợc các văn bản từ nguyên đơn, bị đơn phải phúc đáp

bằng việc nộp một bản trả lời, trong đó phúc đáp lại từng đoạn văn trong đơn

khởi kiện (có thể là thừa nhận những tình tiết có thật, bác bỏ những tình tiết

18

mà bị đơn cho là không có thật, hoặc nêu rõ bị đơn không có đủ thông tin để

thừa nhận hoặc bác bỏ). Những tình tiết bị đơn đã thừa nhận sẽ đƣợc coi là

tình tiết có thật, và toàn bộ quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm sẽ chỉ tập trung

vào các tình tiết mà bị đơn bác bỏ.

Ngoài ra, ngay ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý, các đƣơng sự có quyền

yêu cầu tòa án ra một số quyết định, nhƣ yêu cầu đình chỉ giải quyết vụ án

(motion to dismiss), yêu cầu chuyển vụ việc (motion to transfer)… dựa trên

các căn cứ nhƣ: tòa án không có thẩm quyền theo loại việc, hoặc tòa án không

có thẩm quyền theo lãnh thổ, hoặc yêu cầu của nguyên đơn thiếu cơ sở pháp

lý. Trƣờng hợp bị đơn yêu cầu đình chỉ vụ án do bị đơn không đƣợc tống đạt

các văn bản khởi kiện theo đúng thủ tục, thông thƣờng tòa án sẽ không đình

chỉ mà chỉ ra lệnh buộc nguyên đơn thực hiện lại việc tống đạt giấy tờ theo

đúng thủ tục. [19]

Ở hầu hết các bang tại Mỹ, chủ thể thực hiện tống đạt VBTT chỉ cần

đáp ứng điều kiện là phải từ 18 tuổi trở lên và không phải là đƣơng sự trong

vụ án. Ngoài ra, theo yêu cầu của nguyên đơn, tòa án có thể ra lệnh cho một

ngƣời đƣợc tòa án chỉ định đặc biệt để thực hiện tống đạt.

Tại một số quốc gia khác, quá trình tống đạt VBTTDS đƣợc thực hiện

thông qua Thừa phát lại. Chức danh này đƣợc bổ nhiệm bởi một thẩm phán

của Toà án (nhƣ tại Canada, Italia...) hoặc bởi Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp (ví dụ

nhƣ Pháp). Họ giữ độc quyền về chức năng tống đạt và thi hành các quyết

định của Toà án. Trong hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ, thừa phát lại

thƣờng đƣợc dịch là “bailiff” và đƣợc hiểu nhƣ là một viên chức thuộc Toà án

vì chức năng tƣơng tự nhƣ vậy. Là ngƣời hoạt động trong lĩnh vực pháp lý,

thừa phát lại thực hiện quá trình tống đạt VBTT, chịu trách nhiệm cung cấp

các giấy tờ, tài liệu trong vụ án và xác thực đối với các bên khi VBTT đƣợc

chuyển giao. Mọi hoạt động của họ phải tuân theo quy định của pháp luật.

19

Liên hệ với pháp luật Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 1975 dƣới ách cai trị

của thực dân Pháp cũng bị ảnh hƣởng bởi pháp luật Pháp. “Thừa phát lại” có

lẽ xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hoà ƣớc ngày

05/06/1862 nhƣợng cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đó Pháp đã áp đặt chế độ cai

trị và quy chế về thuộc địa lãnh thổ. Mô hình thừa phát lại đƣợc quy định ở

các bộ luật dân sự, tố tụng dân sự thời kỳ đó hầu hết đều theo khuôn mẫu của

mô hình thừa phát lại của Pháp. Cho đến nay, chức năng, nhiệm vụ của “thừa

phát lại” vẫn đƣợc quy định trong PLTTDS Việt Nam nhƣng vai trò của họ

ngày càng giữ vị trí quan trọng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống pháp luật

nƣớc ta.

Ở các nƣớc có pháp luật tố tụng dân sự khá tƣơng đồng với Việt Nam

nhƣ Nga và Trung Quốc, chủ thể thực hiện tống đạt VBTTDS là cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức khác có chức năng thực hiện tống

đạt theo quy định của pháp luật.

Theo BLTTDS Liên Bang Nga, sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán chuyển

hoặc tống đạt cho bị đơn bản sao đơn kiện và những tài liệu kèm theo làm cơ

sở cho yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu bị đơn trong thời hạn đƣợc ấn định

phải xuất trình những chứng cứ làm cơ sở cho sự phản đối của bị đơn (Điều

150). Trong quá trình chuẩn bị xét xử, các đƣơng sự phải tự tiến hành thu thập

chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cung cấp các

chứng cứ đó cho đƣơng sự còn lại và cho tòa án. Nguyên đơn, ngƣời đại diện

của nguyên đơn phải chuyển cho bị đơn bản sao chứng cứ làm cơ sở cho yêu

cầu của nguyên đơn. Bị đơn, ngƣời đại diện của bị đơn chuyển cho nguyên

đơn, đại diện của nguyên đơn và tòa án ý kiến phản đối bằng văn bản đối với

những yêu cầu của nguyên đơn và những chứng cứ làm cơ sở cho ý kiến phản

đối của bị đơn (Điều 149). Ở Nga, việc tống đạt giấy báo và giấy gọi do Toà

án thực hiện. Đối với bị đơn, Toà án gửi bản sao đơn khởi kiện cùng với

20

thông báo, còn đối với nguyên đơn, Toà án gửi bản sao bằng văn bản lời giải

thích của bị đơn cùng với thông báo, nếu Toà án có những lời giải thích đó.

Đối với pháp luật TTDS Trung Quốc, thủ tục tố tụng dân sự cũng mang

nhiều nét tƣơng đồng với thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam. Sau khi thụ lý vụ

án, Tòa án phải gửi bản sao đơn khởi kiện cho bị đơn trong thời hạn 5 ngày kể

từ ngày thụ lý. Bị đơn phải nộp bản tự bảo vệ cho tòa án trong thời hạn 15

ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản sao đơn khởi kiện. Trong thời hạn 5 ngày kể

từ ngày nhận đƣợc bản tự bảo vệ của bị đơn, tòa án phải gửi bản sao bản tự

bảo vệ cho nguyên đơn (Điều 125). Nhƣ vậy, khác với thủ tục tố tụng dân sự

Hoa Kỳ, ở Trung Quốc, tòa án đóng vai trò chủ động và là chủ thể có trách

nhiệm tống đạt văn bản, giấy tờ cho các bên đƣơng sự.

1.2.2. Các loại văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo

a. Đơn khởi kiện

Pháp luật tố tụng dân sự một số nƣớc theo hệ thống pháp luật Anh –

Mỹ, trong đó điển hình là Mỹ rất chú trọng vào bƣớc đầu tiên của quá trình

khởi kiện, đặc biệt là việc tống đạt VBTTDS cho bị đơn ở giai đoạn khởi kiện

và thụ lý vụ án. Việc tống đạt hợp lệ đơn khởi kiện cho bị đơn đƣợc pháp luật

Mỹ coi là một bƣớc quan trọng để đảm bảo trình tự công bằng (due process) –

một nguyên tắc hiến định [49]. “Trình tự công bằng” bao gồm các khái niệm

cơ bản về sự công bằng mà đƣơng sự có đƣợc, đề cập đến quyền đƣợc thông

báo và cơ hội đƣợc lắng nghe để phúc đáp lại. Nếu một bên không đƣợc thông

báo về việc bên kia có ý định làm gì, cũng nhƣ không có cơ hội trình bày

chứng cứ và tranh luận, bên đó sẽ mất đi một trong những biện pháp bảo vệ

chính đáng của mình.

Với ý nghĩa quan trọng của việc tống đạt đơn khởi kiện cho bị đơn,

Quy tắc 11 trong Bộ nguyên tắc TTDS xuyên quốc gia cũng đƣa ra quy định

rất cụ thể về vấn đề này. Theo đó, ở giai đoạn chuẩn bị, nguyên đơn phải nộp

21

cho Toà án một đơn khởi kiện (đƣợc quy định trong quy tắc số 12). Sau đó

Toà án sẽ thực hiện thủ tục thông báo tới bị đơn. Thông báo này phải phù hợp

với một công ƣớc quốc tế đƣợc áp dụng hoặc nếu không Toà án thực hiện

thông báo bằng cách chuyển tới bị đơn một bản sao đơn khởi kiện và yêu cầu

bị đơn trình diện trƣớc tòa án để phản hồi trong một khoảng thời gian hợp lý.

Nội dung của thông báo nêu rõ thời gian mà bị đơn phải trả lời, đồng thời nêu

rõ phán quyết mặc định có thể đƣợc đƣa ra đối với bị đơn nếu bị đơn không

trả lời trong thời gian quy định. Thủ tục đƣợc coi là bắt đầu vào ngày nguyên

đơn gửi đơn khởi kiện cho tòa án.

b. Giấy triệu tập và các văn bản tố tụng dân sự khác

Giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo của Tòa án thƣờng do Tòa án tống

đạt. Theo Quy tắc 4, Chƣơng II trong Quy tắc tố tụng dân sự liên bang quy

định về tống đạt VBTT tại Toà án sơ thẩm Liên bang Mỹ thì:

“Nội dung giấy triệu tập phải có:

(A) Tên Tòa án và các bên

(B) Được chuyển đến bị đơn

(C) Ghi rõ tên và địa chỉ của nguyên đơn hoặc Luật sư của nguyên đơn

(D) Nêu rõ thời gian mà bị đơn phải trình diện và bảo vệ (nêu quan

điểm của mình)

(E) Thông báo cho bị đơn hậu quả pháp lý bất lợi của việc không trình

diện và bảo vệ sẽ dẫn đến một bản án mặc định chống lại bị đơn về

những yêu cầu trong đơn khởi kiện;

(F) Được ký bởi thư ký và

(G) Có dấu của Tòa án.” [53]

Toà án có thể cho phép một Giấy triệu tập đƣợc sửa đổi. Trong hoặc

sau khi nộp đơn khởi kiện, nguyên đơn xuất trình giấy triệu tập cho thƣ ký

văn phòng tòa án để ký tên và đóng dấu. Nếu giấy triệu tập đƣợc hoàn thành

22

đúng cách, thƣ ký văn phòng tòa án phải ký tên, đóng dấu và cấp cho nguyên

đơn để tống đạt cho bị đơn. Bản chính hoặc bản sao của giấy triệu tập đƣợc

gửi đến nhiều bị đơn phải đƣợc cấp cho từng bị đơn. Thông thƣờng, giấy triệu

tập phải đƣợc gửi kèm theo bản sao đơn khiếu nại. Trong thời gian quy định,

nguyên đơn chịu trách nhiệm cho việc triệu tập và khiến nại đồng thời phải

cung cấp các bản sao cần thiết cho ngƣời thực hiện tống đạt.

1.2.3. Phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Tống đạt là việc chuyển giao các tài liệu pháp lý cho một bên cần phản

hồi trong thời gian nhất định. Tuỳ thuộc vào tính chất, mục đích sử dụng cũng

nhƣ mô hình TTDS của mỗi quốc gia lại đòi hỏi các phƣơng thức cấp,tống

đạt, thông báo VBTTDS khác nhau sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật

mỗi nƣớc. Nhƣng nhìn chung trên thế giới tồn tại năm phƣơng thức cấp, tống

đạt, thông báo VBTTDS chính. Đó là: tống đạt trực tiếp, tống đạt thay thế,

tống đạt qua dịch vụ bƣu chính, tống đạt bằng cách công bố công khai, tống

đạt bằng phƣơng tiện điện tử và mạng xã hội.

a. Tống đạt trực tiếp

Bản chất của phƣơng thức này là giao tận tay cho ngƣời nhận văn bản,

thông thƣờng là nhà hoặc nơi làm việc của họ. Nhìn chung, ngƣời tiếp nhận

văn bản thƣờng sẵn sàng nhận các tài liệu đƣợc tống đạt, tuy nhiên cũng có

không ít trƣờng hợp ngƣời tiếp nhận cố tình trốn tránh, không nhận. Trong

trƣờng hợp này, chủ thể tống đạt có thể trực tiếp đến tại địa chỉ nhà của cá

nhân đó để thực hiện tống đạt giấy tờ, tài liệu. Tòa án thƣờng lựa chọn

phƣơng pháp này hơn là các phƣơng pháp khác bởi nó là cách đảm bảo chắc

chắn nhất để đƣa ra thông báo.

Ở Mỹ, có ba phƣơng pháp tống đạt chính đƣợc cho phép đó là: tống đạt

cá nhân, tống đạt thay thế (qua ngƣời khác) và tống đạt bằng việc công bố

công khai (hay còn gọi là phƣơng pháp xuất bản) [54]. Tống đạt cá nhân hoặc

23

chuyển giao tận tay luôn đƣợc ƣu tiên hơn vì nó đƣợc xem nhƣ là phƣơng

pháp chính xác nhất. Tống đạt thay thế đƣợc sử dụng khi không thể liên lạc

trực tiếp đƣợc với bị đơn. Tống đạt công khai chỉ đƣợc sử dụng nhƣ là một

phƣơng sách cuối cùng vì nó không đáng tin cậy. Mỗi tiểu bang ở Mỹ có quy

tắc tố tụng dân sự riêng quy định chi tiết cách thức chuyển giao tài liệu. Trong

bối cảnh tống đạt thông báo về vụ kiện, thủ tục này đƣợc hiểu là mọi ngƣời

phải đƣợc thông báo về vụ kiện, đƣợc biết về những quan điểm chống lại họ

và tạo cho họ một cơ hội để đƣợc lắng nghe. Vì vậy, để đánh giá tính hợp

pháp của việc tống đạt, tòa án đánh giá liệu phƣơng pháp tống đạt đƣợc sử

dụng có thực sự hợp lý và liệu nó có tuân thủ các yêu cầu theo luật định hay

không. Nếu việc tống đạt đƣợc cho phép theo luật định, tòa án sử dụng các

quy tắc tố tụng dân sự của liên bang và tiểu bang, sau đó xác định đầy đủ các

thủ tục, trình tự thực hiện trong mỗi trƣờng hợp. Đối với các vụ kiện tại Tòa

án liên bang, Quy tắc số 4 Bộ Quy tắc tố tụng dân sự liên bang quy định các

phƣơng pháp tống đạt truyền thống đối với bị đơn ở trong nƣớc, bao gồm

tống đạt cá nhân, chuyển giấy tờ, tài liệu đến nơi ở của bị đơn hoặc giao cho

đại diện của bị đơn. Nếu nếu việc tống đạt vẫn không thể thực hiện đƣợc theo

các phƣơng pháp truyền thống này, Quy tắc 4 cũng cho phép tống đạt theo

phƣơng thức do pháp luật tiểu bang nơi vụ kiện diễn ra quy định.

Phƣơng pháp tống đạt cơ bản và lâu đời nhất là tống đạt cá nhân. Trƣớc

khi các quy tắc tố tụng dân sự liên bang đƣợc thông qua, Tòa án tối cao Hoa

Kỳ năm 1877 đã quyết định trong vụ Pennoyer v. Nef (Pennoyer v. Neff, 95

US 714, 1878) [52], rằng Tòa án áp dụng thẩm quyền đối với một bên nếu

bên đó đƣợc tống đạt đơn khởi kiện trong khi hiện diện tại tiểu bang. Tòa án

tối cao phán quyết rằng: để tòa án có thẩm quyền xét xử đối với bị đơn thì bị

đơn phải đƣợc tống đạt đơn khởi kiện trực tiếp. Tại thời điểm xảy ra vụ

Pennoyer, hầu nhƣ tất cả các thông tin liên lạc, chính thức và không chính

24

thức đều đƣợc thực hiện một cách trực tiếp. Báo chí đã tồn tại nhƣng chỉ đƣa

các đoạn thông tin ngắn gọn. Hệ thống bƣu điện đã hoạt động nhƣng chậm và

đắt đỏ. Điện báo đã có sẵn nhƣng mới xuất hiện trong thời gian này. Không

có phƣơng pháp hợp lý nào khác có thể đƣợc sử dụng để thực hiện quá trình

tống đạt. Bối cảnh lịch sử này lý giải tại sao Tòa án tối cao kiên quyết rằng

việc tống đạt phải đƣợc thực hiện trực tiếp.

Hiện nay, Quy tắc 4 (e) của FRCP (Federal Rules of Civil Procedure) -

quy tắc thủ tục TTDS liên bang chứa đựng các phƣơng pháp tống đạt truyền

thống mà theo đó bị đơn trong nƣớc có thể đƣợc tống đạt thông qua hình thức

tống đạt cá nhân, chuyển đến nơi ở của cá nhân đƣợc chấp nhận bởi một

ngƣời có độ tuổi phù hợp, và chuyển cho ngƣời đại diện đƣợc ủy quyền để

chấp nhận tống đạt. FRCP đã thay đổi theo thời gian, thậm chí tại một thời

điểm bao gồm tống đạt bằng thƣ đƣợc chứng nhận là phƣơng tiện có thể chấp

nhận đƣợc. Trong một số trƣờng hợp, các phƣơng pháp truyền thống không

hiệu quả. Các tòa án sau đó xem xét xem liệu dịch vụ có thể đƣợc thực hiện

thông qua một phƣơng pháp "thay thế", chủ yếu theo luật tiểu bang nơi diễn

ra hành động. Ở Louisiana, luật tiểu bang cho phép tống đạt cá nhân và tống

đạt tại nhà đối với tất cả các văn bản tố tụng thông thƣờng. Tuy nhiên, trong

một số trƣờng hợp, chẳng hạn nhƣ sự thay thế các bên trong một số trƣờng

hợp nhất định, tống đạt theo phƣơng thức công bố công khai đƣợc cho phép.

Tại Nga, giấy gọi của Toà án đƣợc tống đạt trực tiếp cho đƣơng sự với

việc trả lại cuống biên lai có chữ ký của ngƣời đƣợc tống đạt. Đối với tổ chức

thì Toà án tống đạt cho ngƣời có chức vụ, sau đó ngƣời này ký nhận vào

cuống biên lai của văn bản. Trong trƣờng hợp ngƣời chuyển giấy gọi không

gặp ngƣời đƣợc toà án triệu tập ở nơi ngƣời đó sinh sống, giấy gọi đƣợc trao

cho một trong những thành viên là ngƣời thành niên của gia đình nếu ngƣời

đó đồng ý tống đạt cho ngƣời đƣợc Toà án triệu tập. Trong trƣờng hợp ngƣời

25

đƣợc Toà án triệu tập vắng mặt tạm thời, ngƣời chuyển giấy gọi của Toà án

ghi rõ nơi đến của ngƣời đƣợc tống đạt, và thời gian ngƣời đó quay trở lại

trong cuống biên lai của giấy gọi. Trong trƣờng hợp không rõ nơi cƣ trú của

ngƣời đƣợc toà án triệu tập thì điều này phải đƣợc ghi nhận trên tờ giấy gọi,

đồng thời chỉ rõ ngày, thời gian ghi nhận và nguồn thông tin về điều này

(Điều 116 BLTTDS Liên Bang Nga). Nếu ngƣời đƣợc tống đạt từ chối tiếp

nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án thì ngƣời chuyển đánh dấu trên tờ

giấy báo hoặc giấy gọi và trả lại Toà án. Trong trƣờng hợp từ chối tiếp nhận

giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án, ngƣời đƣợc tống đạt coi nhƣ đã đƣợc

thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời gian và địa điểm

thực hiện hoạt động tố tụng. Về cơ bản, phƣơng thức tống đạt này có đặc

điểm gần giống với phƣơng thức tống đạt trực tiếp trong PLTTDS Việt Nam,

việc tống đạt cho cá nhân hay tổ chức trong các trƣờng hợp phải có sự xác

nhận của ngƣời thực hiện tống đạt để làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự,

pháp luật Nga cũng đƣa ra quy định thế nào thì đƣợc coi là tống đạt hợp lệ tuy

nhiên chƣa bao quát đƣợc trong các trƣờng hợp ví dụ nhƣ việc tống đạt thông

qua ngƣời thứ ba – ngƣời thành niên của gia đình, pháp luật không quy định

việc ngƣời này phải ký xác nhận về việc đã nhận VBTT và có trách nhiệm

chuyển giao văn bản hay không. Ngoài ra đối với trƣờng hợp đƣơng sự từ

chối tiếp nhận thì Toà án không yêu cầu phải nêu rõ lý do, ngƣời đƣợc tống

đạt coi nhƣ đã đƣợc thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời

gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng, điều này là chƣa thực sự phù

hợp và không có cơ sở rõ ràng.

b. Tống đạt thay thế

Ở Mỹ, nếu tống đạt trực tiếp cho cá nhân không khả thi hoặc không

hiệu quả, tòa án một số khu vực cho phép chủ thể thực hiện chuyển giao tài

liệu theo các phƣơng pháp khác. Một lựa chọn có thể là giao các giấy tờ cho

26

một ngƣời thành niên hợp pháp, ngƣời này phải hiểu đƣợc trách nhiệm của

việc nhận giấy tờ. Chủ thể tống đạt cũng đƣợc phép giao các tài liệu đến nơi

cƣ trú hoặc nơi làm việc của bị đơn, sau đó gửi kèm một bản sao đến địa chỉ

của họ. Một số tòa án khu vực cho phép chủ thể thực hiện gửi các giấy tờ đơn

giản bằng cách sử dụng hộp thƣ đã đăng ký. Các tòa án khu vực khác nhau

cho phép thực hiện các phƣơng pháp tống đạt khác nhau, vì vậy điều quan

trọng là phải kiểm tra các quy định của pháp luật trƣớc khi tiến hành tống đạt

thay thế.

Ở Đức, việc tống đạt có thể đƣợc thực hiện thông qua luật sƣ sau đó

luật sƣ xác nhận về việc đã nhận văn bản (Điều 174 BLTTDS của Đức). Việc

tống đạt cũng có thể đƣợc thực hiện giữa các luật sƣ với nhau. Trƣờng hợp

luật sƣ của các bên sƣ phải thực hiện tống đạt một tài liệu cho đồng nghiệp

của mình (Điều 671 đến 673 BLTTDS của Đức). Điều này thƣờng diễn ra tại

Tòa án theo một trong hai cách: tống đạt chính thức - yêu cầu sự can thiệp của

một ngƣời đƣợc ủy quyền đóng dấu và chữ ký trên tài liệu và bản sao hoặc

tống đạt trực tiếp - đƣợc thực hiện bằng cách giao hai bản sao của tài liệu cho

luật sƣ mà ngƣời đó tham gia giải quyết vụ án dân sự, sau đó gửi lại để Toà án

xem xét, lƣu hồ sơ.

Tại BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga có quy định việc chuyển

VBTTDS (gồm giấy gọi và giấy báo) có thể đƣợc thực hiện thông qua ngƣời

đƣợc Toà án uỷ nhiệm. Theo đó, nếu đƣợc ngƣời tham gia tố tụng đồng ý,

thẩm phán có thể trao giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án cho ngƣời đó để tống

đạt cho ngƣời đƣợc thông báo hoặc ngƣời đƣợc triệu tập. Ngƣời đƣợc Toà án

uỷ nhiệm chuyển giấy gọi hoặc giấy báo có nghĩa vụ gửi lại Toà án cuống

biên lai của giấy gọi hoặc bản sao giấy báo có chữ ký xác nhận của ngƣời

đƣợc tống đạt (khoản 2 Điều 115).

c. Tống đạt qua dịch vụ bưu chính

27

Ở Đức, việc tống đạt VBTT có thể đƣợc thực hiện thông qua dịch vụ

bƣu chính. Thuật ngữ “dịch vụ bƣu chính” có nghĩa là các công ty đƣợc Cơ

quan mạng Liên bang (Bundesnetzagentur) cấp phép cung cấp dịch vụ bƣu

chính.

Theo pháp luật TTDS của Pháp, phƣơng thức này đƣợc thực hiện bằng

cách sử dụng một phong bì có niêm phong hoặc thƣ (Điều 667 của BLTTDS

Pháp). Nhân viên bƣu điện khi thực hiện chuyển giao tài liệu, giấy tờ phải ký

nhận hoặc ghi vào giấy biên nhận. Trên phong bì hoặc thƣ phải có đầy đủ các

thông tin liên quan đến ngƣời nhận và ngƣời gửi. Đối với ngƣời gửi phải ghi

rõ họ tên hoặc công ty hoặc tên doanh nghiệp cũng nhƣ văn phòng đăng ký

hoặc nơi cƣ trú của ngƣời này. Ngƣời nhận phải là ngƣời đƣợc chỉ định cụ thể

(Điều 665). Tất cả những chi tiết này là yêu cầu bắt buộc nếu không việc tống

đạt sẽ trở nên vô hiệu (Điều 693).

Trƣờng hợp ngƣời nhận là cá nhân, việc tống đạt đƣợc thực hiện tại nơi

cƣ trú của ngƣời đó hoặc ở bất kỳ nơi nào khác nếu đƣợc yêu cầu hoặc ngay

tại địa chỉ tống đạt nếu đƣợc chấp nhận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu

ngƣời có liên quan là pháp nhân, việc tống đạt đƣợc thực hiện tại địa điểm

kinh doanh của cơ quan, tổ chức đó hoặc tống đạt trực tiếp cho một nhân viên

của cơ quan, tổ chức – ngƣời có chức năng hoặc đƣợc phép nhận các VBTT

đó. Đối với ngƣời thực hiện tống đạt, việc tống đạt đƣợc coi là hoàn thành kể

từ khi thƣ đƣợc gửi đi, ngày gửi đƣợc hiển thị trên tem của văn phòng bƣu

chính nơi gửi. Đối với ngƣời đƣợc tống đạt, ngày đƣợc tống đạt thành công là

ngày nhận đƣợc thƣ. Trong trƣờng hợp thƣ đã đăng ký có xác nhận về việc đã

nhận, ngày hoàn thành việc tống đạt là ngày tƣơng ứng với thƣ đƣợc chuyển

cho ngƣời nhận và có xác nhận của cơ quan bƣu chính. Ở đây, có thể hiểu

rằng việc tống đạt qua dịch vụ bƣu chính bao gồm hai hình thức gần giống với

hình thức gửi thƣ tại Việt Nam, đó là gửi thƣờng và gửi bảo đảm.

28

Một số quốc gia khác nhƣ Nga cũng sử dụng phƣơng pháp tống đạt

thông qua dịch vụ bƣu chính để chuyển giao VBTTDS cho đƣơng sự. Điều

115 BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga quy định: “Giấy gọi và giấy báo

của Toà án đƣợc chuyển theo bƣu điện hoặc thông qua ngƣời đƣợc Toà án uỷ

nhiệm. Thời hạn tống đạt giấy báo cho ngƣời nhận đƣợc xác định theo cách

thức của cơ quan bƣu điện hoặc dựa trên giấy báo lại cho Toà án”.

d. Tống đạt công khai (tống đạt bằng việc xuất bản)

Đây đƣợc coi là phƣơng sách cuối cùng bởi nó là phƣơng án không

hiệu quả nhất và ít có khả năng nhất trong việc truyền đạt văn bản tố tụng tới

đƣợc bị đơn. Chủ thể thực hiện có thể công bố thông báo trên một tờ báo

đƣợc phát hành ở địa điểm có khả năng là địa chỉ của bị đơn hoặc vị trí của

Tòa án, hoặc cả hai. Ở Mỹ, hầu hết các tòa án khu vực yêu cầu thông báo phải

đƣợc công bố trong nhiều tuần để đảm bảo khả năng bị đơn thấy đƣợc thông

báo. Bởi vì hầu hết các bị đơn sẽ không bao giờ đọc báo. Phƣơng pháp này

chỉ đƣợc phép áp dụng khi không còn cách nào khác để liên lạc với bị đơn.

Nó không chỉ tốn kém tiền bạc mà còn không đáng tin cậy bởi sau này bị đơn

có thể tuyên bố rằng họ đáng lẽ đã có thể đƣợc tống đạt trực tiếp với tƣ cách cá

nhân (không đại diện bởi ngƣời khác).

Năm 1950, quyết định của Tòa án Tối cao trong vụ án Mullane và

Ngân hàng Trung ƣơng Hannover & Trust Co. cho thấy nƣớc Mỹ có sự thay

đổi mạnh mẽ [49]. Toà án chấp thuận việc xuất bản nhƣ một phƣơng tiện

thông báo đƣợc cho phép theo Hiến pháp khi không có phƣơng pháp hợp lý

nào khác có thể đƣợc sử dụng và khi nơi của những ngƣời đƣợc thông báo là

không rõ ràng. Theo phán quyết trong vụ Mullane, công nghệ và tống đạt tiếp

tục phát triển. Tòa án đã đƣa ra quyết định cho phép các phƣơng pháp tống

đạt thay thế phù hợp với với sự phát triển của công nghệ. Đáng chú ý là các

phƣơng pháp này đã không thay thế các phƣơng thức dịch vụ truyền thống

29

nhƣng đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng sách cuối cùng khi các nỗ lực đã đƣợc

thực hiện để xác định nơi ở của bị đơn.

e. Tống đạt thông qua mạng xã hội truyền thông và phương tiện điện tử

Không thể phủ nhận rằng, những tiến bộ khoa học công nghệ đã mở ra

một thế giới hoàn toàn mới cho việc áp dụng các phƣơng pháp tống đạt

VBTTDS. Đôi khi nguyên đơn phải cố gắng thực hiện việc tống đạt thông qua

nhiều hình thức, phƣơng tiện khác nhau sao cho phù hợp, đặc biệt trong

trƣờng hợp ngƣời bị kiện cố tình trốn tránh hoặc không có địa chỉ thƣờng trú

rõ ràng. Thông thƣờng trong trƣờng hợp này khó có thể tống đạt trực tiếp cho

cá nhân. Do đó đòi hỏi cần có một giải pháp lý tƣởng thông qua việc ứng

dụng các công nghệ tiến bộ để giải quyết vấn đề. Qua thực tiễn áp dụng pháp

luật cho thấy một số phƣơng pháp tống đạt thông qua phƣơng tiện điện tử hay

mạng xã hội truyền thông đƣợc các nƣớc trên thế giới chấp nhận và sử dụng,

thậm chí đƣợc coi là án lệ trở thành khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có

tính chất tƣơng tự về sau phải kể đến các phƣơng pháp đó là:

 Tống đạt bằng phương tiện điện tử

Sự ra đời của các công nghệ mới trong hệ thống tƣ pháp đã dẫn đến sự

thay đổi của các điều khoản và điều kiện cho việc tống đạt chính thức bằng

phƣơng tiện điện tử. Điều 748-1 của Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định

việc gửi, giao tống đạt các thủ tục tố tụng, giấy tờ, thông báo, cảnh báo hoặc

triệu tập, báo cáo, báo cáo chính thức và bản sao, bản gốc giấy tờ tài liệu để

thi hành bản án có thể đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức điện tử.

Quá trình tống đạt VBTT giữa các luật sƣ cũng có thể đƣợc thực hiện

thông qua mạng xã hội dành riêng cho Luật sƣ (Réseau Privé Virtuel Avocats,

RPVA), phƣơng tiện này cũng đƣợc sử dụng để tiến hành trao đổi thủ tục

giữa luật sƣ và tòa án. Ngoài ra, trong các trƣờng hợp và điều kiện đƣợc xác

định rõ ràng, một số tài liệu có nguồn gốc từ cơ quan đăng ký (nhƣ thông báo

30

về phiên họp của tòa án, giấy triệu tập...) có thể đƣợc gửi tới một bên bằng e-

mail (Điều 748-8 và 748-9 của BLTTDS Pháp). Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời

nhận tài liệu phải đồng ý rõ ràng việc sử dụng các phƣơng tiện giao tiếp điện tử.

 Tống đạt qua email

Có thể nói, sự ra đời của Internet đã mở rộng đáng kể việc sử dụng e-

mail, nó cho phép mọi ngƣời có thể truy cập vào công nghệ mới này một cách

dễ dàng. Ngƣời dùng có thể “Gửi và nhận dữ liệu kỹ thuật số từ một số lƣợng

vô hạn nguồn” [48]. Email nhanh chóng trở thành phƣơng pháp giao tiếp

chính và trong năm 2011, số lƣợng tài khoản e-mail trên toàn thế giới đƣợc

ƣớc tính vào khoảng 3,1 tỷ. Tại Mỹ, 60 tòa án vào năm 2000 đƣợc cho phép

thực hiện tống đạt thông qua phƣơng pháp này.

Năm 2000, Tòa án phá sản Hoa Kỳ trong “In re INTERNATIONAL

TELEMEDIA ASSOCIATES, INC” giữa nguyên đơn là Herbert C.

Broadfoot và bị đơn là Arjuna Diaz, đã cho phép tống đạt một bản sao của

Lệnh triệu tập và khiếu nại khi bị đơn ở nƣớc ngoài bằng fax, e-mail và thƣ

đến địa chỉ đƣợc biết cuối cùng của bị đơn. Vào thời điểm đó nguyên đơn đã

không đƣợc tống đạt các văn bản khiếu nại và không đƣợc thực hiện bất kỳ sự

xuất hiện nào. Bị đơn từ chối cung cấp địa chỉ gửi thƣ nhƣng đã cung cấp một

bản fax, số điện thoại, địa chỉ e-mail và nói rằng ông muốn sử dụng chúng

trong thƣ từ tƣơng lai. Trong trƣờng hợp này, tòa án thấy rằng Diaz chỉ đơn

giản cung cấp cho ngƣời uỷ thác của nguyên đơn một địa chỉ điện tử thay vì

địa chỉ bƣu điện hay địa chỉ đƣờng phố truyền thống và chỉ ra rằng đây là

những phƣơng thức liên lạc ƣa thích của anh ta. Vì vậy, ngƣời đƣợc ủy thác

đã yêu cầu ủy quyền thực hiện tống đạt văn bản cho Diaz bằng các phƣơng

tiện thay thế đó. Tòa án cũng tuyên bố rằng việc ủy quyền tống đạt bằng e-

mail và phƣơng tiện thay thế khác có ít hoặc không có tiền lệ nào. Hơn nữa,

31

tòa án cũng nhận thấy đƣợc sự cần thiết phải thích ứng cùng với sự phát triển

của công nghệ đang ngày một hiện đại [51].

Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực thứ chín cũng đã chấp thuận tống đạt

qua Internet trong vụ Rio Properties, Inc. Trong vụ Rio, tòa án cho phép tống

đạt qua e-mail trong trƣờng hợp bị đơn ở nƣớc ngoài. Nguyên đơn không thể

tống đạt cho bị đơn tại Mỹ và không thể tìm thấy địa chỉ thực tế tại Costa

Rica. Địa chỉ duy nhất có sẵn là một địa chỉ e-mail, mà bị đơn đƣợc chỉ định

làm phƣơng pháp liên lạc ƣa thích. Tòa án nói rằng tống đạt qua e-mail là phù

hợp trong hoàn cảnh này bởi nó "Đƣợc tính toán hợp lý để đƣa ra thông báo

và cơ hội để trả lời” [48]. Hơn nữa, tòa án đã tuyên bố rằng trong trƣờng hợp

này tống đạt qua email là phƣơng pháp khả thi nhất để tiếp cận bị đơn vì bị

đơn do tính chất kinh doanh của mình chỉ có thể liên lạc qua e-mail. Tuy

nhiên đối với e-mail, không có xác nhận rằng giao tiếp điện tử đã thực sự

nhận đƣợc. Thêm vào đó, sự gia tăng trong số lƣợng e-mail đƣợc gửi và nhận

mỗi ngày đã chậm lại do sự phát triển của các hình thức giao tiếp khác, đặc

biệt là sự xuất hiện của nhiều mạng xã hội. Trên thực tế, việc ứng dụng những

ƣu thế của truyền thông xã hội là cần thiết, góp phần quan trọng trong cuộc

sống hàng ngày và tăng tiềm năng của nó nhƣ một công cụ hữu ích cho hệ

thống pháp luật.

Bên cạnh email, ngày nay máy fax vẫn đƣợc sử dụng nhƣng không

nhiều do sự phát triển của khoa học công nghệ. Có thể nói việc sử dụng email

trở nên đáng tin cậy hơn so với truyền fax trong nhiều trƣờng hợp bởi khi một

tài liệu đƣợc gửi qua fax, không có cách nào để xác nhận những ngƣời thực sự

nhận đƣợc fax và thời điểm chính xác nó đã đƣợc nhận vì một biên nhận fax

chỉ xác nhận rằng tài liệu đã đƣợc gửi.

 Tống đạt qua mạng xã hội truyền thông Facebook

32

Facebook là trang web mạng xã hội lớn nhất và đƣợc tạo ra để cho

phép ngƣời dùng kết nối với các mục đích khác nhau. Khi sử dụng phƣơng

thức tống đạt này, nguyên đơn có thể tìm thấy mạng xã hội của bị đơn bằng

cách sử dụng thông tin cá nhân đƣợc liệt kê trên tiểu sử, xác nhận rằng những

thông tin đó thuộc về bị đơn. Ví dụ, Facebook có chính sách mà ngƣời dùng

cung cấp tên thật và thông tin và bảo lƣu quyền xóa tài khoản của ngƣời dùng

nếu vi phạm chính sách này. Việc tống đạt tài liệu, giấy tờ đƣợc thực hiện

bằng cách đính kèm với thƣ đƣợc gửi tới hộp thƣ đến liên kết với hồ sơ cá

nhân của bị đơn. Tính năng của phƣơng tiện truyền thông xã hội sẽ phát hành

một "biên lai đọc" (read receipt) [48], danh sách ngày và giờ tin nhắn đƣợc

đọc. Thông thƣờng mỗi ngƣời dùng Facebook hiện có tài khoản e-mail hoạt

động giống nhƣ hộp thƣ đến tài khoản e-mail truyền thống. Các tệp đính kèm,

chẳng hạn nhƣ thông báo chính thức có thể đƣợc đính kèm vào thƣ Facebook,

giống nhƣ với e-mail. Nguyên đơn có thể xác minh danh tính của hồ sơ mạng

xã hội trực tuyến bằng cách so sánh thông tin đã biết với thông tin đƣợc liệt

kê trong hồ sơ. Với một tài khoản truyền thông xã hội, thông tin cá nhân có

thể đƣợc so sánh để thấy rằng tài khoản rất có thể thuộc về bị đơn.

Bởi sự phổ biến của truyền thông xã hội, hệ thống pháp luật sẽ không

thể bỏ qua công nghệ mới này nhƣ một phƣơng tiện để thực hiện tống đạt khi

các phƣơng thức khác không có hiệu quả. Điều này cũng làm nảy sinh một số

vấn đề gây tranh luận rằng hệ thống pháp luật có nên thừa nhận giá trị của

truyền thông xã hội và cho phép việc tống đạt đƣợc thực hiện thông qua nó

hay không. Thực tế cho thấy, phƣơng tiện truyền thông xã hội cho phép ngƣời

dùng liên kết với nhau bằng công nghệ, tƣơng tác xã hội và kết nối cộng tác.

Ngƣời dùng thƣờng là cá nhân, doanh nghiệp hay các tổ chức khác cũng tham

gia vào mạng xã hội. Để tạo một tài khoản trên hầu hết các trang web mạng

hoặc facebook, ngƣời dùng phải nhập cá nhân thông tin, chọn mật khẩu và

33

nhập địa chỉ e-mail và đôi khi là số điện thoại để tài khoản có thể đƣợc xác

minh.

Để tham gia Facebook, ví dụ, một ngƣời dùng tạo ra một "hồ sơ" trực

tuyến bằng cách nhập tên, ngày sinh, giới tính và e-mail của họ. Sau đó phải

xác nhận địa chỉ e-mail bằng cách truy cập vào tài khoản e-mail đƣợc liệt kê

trong quá trình đăng ký. Sau khi ngƣời dùng xác nhận tài khoản e-mail, họ

phải xác minh bằng cách liệt kê một số điện thoại và xác nhận các thông tin

cần thiết cho việc tạo lập tài khoản facebook. Ngƣời dùng có thể bắt đầu kết

nối với những ngƣời dùng khác trên trang web, mạng xã hội và chia sẻ thông

tin, có thể sử dụng tài khoản để thêm bạn bè, đăng bài viết, tải ảnh, thêm

thông tin cá nhân, thay đổi cài đặt bảo mật, cập nhật trạng thái bài đăng và gửi

tin nhắn riêng đến những ngƣời dùng khác... Các tính năng tƣơng tác này, kết

hợp với tính dễ sử dụng đã làm cho mạng xã hội ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Trên trang “Archer Attorneys at law” với tựa đề “Estate & Trust

litigation law blog” có viết: Toà thƣợng thẩm New Jersey đã tổ chức thực

hiện tống đạt văn bản thông qua nền tảng truyền thông xã hội mà Facebook

cho phép sau khi việc tống đạt qua thƣ đƣợc cho là không hiệu quả [50]. Theo

quy định của Tòa án bang New Jersey tại Điều 4 - 4(a), nguyên đơn phải tự

mình khiếu nại và triệu tập đơn kiện. Tuy nhiên, nếu những nỗ lực hợp lý và

trung thực của nguyên đơn để thực hiện tống đạt cho cá nhân chứng minh

rằng nó không đạt đƣợc hiệu quả thì nguyên đơn có thể cố gắng thực hiện

tống đạt văn bản bằng các phƣơng pháp thứ cấp đƣợc quy định trong Điều 4 - 3(b).

Trên thế giới, một số quốc gia đã cho phép thực hiện quá trình tống đạt

thông qua truyền thông xã hội trong đó Australia là quốc gia đầu tiên. Năm

2008, Tòa án tối cao của Australia cho phép tống đạt qua Facebook trong một

thủ tục tịch thu nhà do không thể thực hiện tống đạt bằng phƣơng pháp truyền

thống cho các bị đơn bởi họ đã chuyển nơi ở, chuyển việc làm và thay đổi số

34

điện thoại. Cả tống đạt cá nhân và tống đạt bằng phƣơng thức công bố công

khai đều không có kết quả. Tòa án Australia đã yêu cầu thực hiện tống đạt

bằng cách gửi một tin nhắn Facebook riêng tƣ với các tài liệu pháp lý gắn liền

với cả hai tài khoản Facebook của bị đơn. Phƣơng pháp này đƣợc cho phép

bởi vì Quy tắc tố tụng dân sự thống nhất của Australia bao gồm các quy tắc

rộng hơn quy tắc 4 (e) của FRCP của Hoa Kỳ quy định về quá trình tống đạt.

Quy tắc của Australia thực sự khá giống với tiêu chuẩn trong vụ Mullane.

Theo quy định của Úc, nếu một tài liệu không thể đƣợc tống đạt cho cá nhân

hoặc cho một ngƣời theo cách thức mà pháp luật quy định, "tòa án có thể theo

lệnh, chỉ đạo rằng, thay vì tống đạt, các bƣớc đƣợc thực hiện theo trình tự quy

định với mục đích đƣa tài liệu để thông báo cho những ngƣời liên quan” [57].

Sau khi sử dụng một trong những phƣơng pháp trên, chủ thể thực hiện

phải gửi một bản khai cung cấp chi tiết về việc chuyển giao tài liệu. Nếu Tòa

án thấy rằng chủ thể thực hiện đƣa ra báo cáo sai về việc chuyển giao, có thể

gây hậu quả nghiêm trọng. Nếu vụ án đã qua hết thời hiệu thì nguyên đơn

không có quyền khởi kiện nữa. Việc tống đạt là một bƣớc quan trọng trong

mọi vụ kiện và phải đƣợc thực hiện chính xác.

Rõ ràng là trong vài thập kỷ qua, các phƣơng pháp tống đạt VBTT trên

thế giới đã có sự thay đổi đáng kể, đồng thời cung cấp các phƣơng tiện giao

tiếp mới có thể đƣợc sử dụng để thực hiện tống đạt. Mạng xã hội là địa chỉ lý

tƣởng để thực hiện thủ tục này bởi nó có khả năng đƣa ra thông báo. Cơ quan

Tòa án nên tận dụng cơ hội để ứng dụng các công nghệ mới này và không bị

hạn chế bởi các phƣơng pháp truyền thống thông thƣờng. Qua đó khẳng định

tầm quan trọng của truyền thông xã hội và tiện ích của nó đối với việc tống

đạt VBTT.

35

1.3. Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự

Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945

Giai đoạn trƣớc năm 1945, nƣớc ta là thuộc địa của Pháp, Pháp trực

tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ,

coi 6 tỉnh Nam Kỳ nhƣ một hạt, mỗi tỉnh đƣợc coi nhƣ một quận của nƣớc

Pháp. Sau đó, bằng bản Hiệp ƣớc ngày 06/06/1884, nƣớc Việt Nam trở thành

một nƣớc bảo hộ của Pháp. Quyền tƣ pháp vẫn thuộc về Hoàng đế nhƣng bị

hạn chế bởi sự kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp. Do đó pháp luật Việt

Nam nói chung và pháp luật về tố tụng dân sự Việt Nam nói riêng chƣa đƣợc

hình thành, tuy nhiên đã xuất hiện chế định thừa phát lại. Những công việc

của thừa phát lại nhƣ trát đòi hầu toà, truyền phiếu...vẫn do các sứ giả của

Vua thực hiện. Mô hình Thừa phát lại đã đƣợc quy định chính thức trong một

số văn bản nhƣ: “BLTTDS Nam Việt” ban hành kèm Nghị định ngày

16/03/1910 (ở Nam Kỳ); “Bộ dân luật Trung năm 1936 - 1939”, ban hành

kèm Bộ hộ sự, thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942 (ở Trung kỳ); “Bộ dân

luật Bắc năm 1931”, kèm Bộ dân sự tố tụng Bắc năm 1917 (ở Bắc kỳ). Hầu

hết các quy định trong các bộ luật này đều theo khuôn mẫu của mô hình thừa

phát lại của Pháp thể hiện trong Bộ dân luật Pháp năm 1804 và Bộ dân sự tố

tụng Pháp năm 1807.

Ngày 08/03/1949 Thoả ƣớc Việt – Pháp đƣợc ký kết dƣới thời vua Bảo

Đại. Các chế định về Thừa phát lại ngày càng đƣợc quy định chi tiết, cụ thể

hơn, đƣợc thể hiện tại: Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 do Tổng

trƣởng Bộ tƣ pháp ban hành quy định chi tiết về tổ chức, chức năng, nhiệm,

vụ, quyền hạn của Thừa phát lại; Bộ luật dân sự và thƣơng sự tố tụng ban

hành năm 1972 bởi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên sau khi chính

quyền Thiệu sụp đổ thì Thừa phát lại cũng không đƣợc sử dụng nữa.

36

1.3.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

Đây là giai đoạn nƣớc ta vừa giành đƣợc độc lập, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng

hoà, hệ thống pháp luật Việt Nam dần đƣợc xây dựng và hoàn thiện để đáp

ứng nhu cầu phát triển đất nƣớc. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bấy giờ

vẫn chƣa có một văn bản pháp lý nào quy định về thủ tục tố tụng dân sự. Hình

thức của thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng lần đầu tiên đƣợc đề cập

đến và đƣợc ghi nhận tại Công văn số 363 ngày 17/04/1961 trong đó có nêu:

“Việc niêm yết công khai giấy gọi đương sự ra phiên tòa, niêm yết trích lục

bản án”. Tuy nhiên nội dung này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, mang tính

chất chung chung, quy định về thủ tục thông báo, cấp, tống đạt VBTTDS

chƣa đƣợc thể hiện rõ ràng, cụ thể.

Đến năm 1977, Thông tƣ số 53/TATC ngày 23/06/1977 đƣợc

TANDTC ban hành, đƣa ra hƣớng dẫn về thủ tục tống đạt. Đây đƣợc coi là

văn bản pháp luật đầu tiên của nƣớc ta quy định cụ thể về tống đạt văn bản tố

tụng. Nội dung Thông tƣ cũng xác định rõ những loại giấy tờ cần phải tống

đạt cho những ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có nghĩa vụ tống đạt, thủ tục

tống đạt, hƣớng dẫn cách làm giấy tờ tống đạt, quy định cách giải quyết trong

trƣờng hợp tống đạt đƣơng sự vắng mặt hoặc không hợp tác, có tình trốn

tránh hoặc giấu địa chỉ… Kèm theo Thông tƣ này là một số mẫu biên bản

hƣớng dẫn để Tòa án sử dụng trong quá trình thực hiện hoạt động tống đạt.

Trong quan hệ quốc tế, ngày 12/10/1982, Việt Nam tham gia ký kết

“Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa nƣớc

CHXHCN Việt Nam và nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc”. Trong

đó quy định việc tống đạt văn bản có yếu tố nƣớc ngoài (Điều 7, Điều 8), các

cơ quan tƣ pháp giữa hai nƣớc tƣơng trợ nhau trong việc lập, chuyển và tống

đạt giấy tờ.

37

Nhìn chung trong giai đoạn này do nƣớc ta vẫn đang còn bị ảnh hƣởng

bởi chiến tranh, pháp luật tố tụng dân sự ở thời kỳ đầu chƣa đƣợc hoàn thiện

và quan tâm đúng mức dẫn đến hoạt động cấp, tống đạt và thông báo

VBTTDS này vẫn chƣa đƣợc chú trọng. Ngày 30/04/1975, miền Nam hoàn

toàn đƣợc giải phóng, chiến tranh kết thúc. Sau khi đất nƣớc đƣợc thống nhất

thì hoạt động này đã đƣợc quan tâm, chú trọng hơn. Tuy nhiên, do mới bắt

đầu đƣợc xây dựng nên các quy định vẫn chƣa đầy đủ, rõ ràng, tƣơng xứng

với vai trò của nó trong thời kỳ mới.

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay

Thời kỳ này, Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày 07/12/1989 của Hội

đồng nhà nƣớc về thủ tục giải quyết các vụ án vụ án dân sự đƣợc ban hành đã

xác định rõ thẩm quyền của Toà án cũng nhƣ trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên

toà các cấp. Tuy nhiên quy định về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS

lại không đƣợc đề cập đến. Sau đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao đã đƣa ra hƣớng dẫn việc áp dụng một số quy định của Pháp lệnh số 27

tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 những cũng chỉ dừng lại ở việc

hƣớng dẫn niêm yết giấy triệu tập phiên toà đối với bị đơn. Cho đến Công văn

số 29/NCPL ngày 6/4/1992 của TANDTC hƣớng dẫn giải quyết các vụ án ly

hôn với một bên đƣơng sự đang ở nƣớc ngoài mới đề cập đến việc thông báo

và lấy lời khai đƣơng sự qua cơ quan ngoại giao của nƣớc ta ở nƣớc ngoài.

Ngày 15/6/2004, tại kỳ họp Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khoá XI, BLTTDS đƣợc thông qua. Sau đó Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLTTDS năm 2004 đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày

29/3/2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012). Qua lần sửa đổi này, các

chế định về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS hầu nhƣ không có gì

thay đổi so với nguyên bản của nó. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng trên

thực tế, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong thời gian này đã bộc

lộ những hạn chế nhất định. Do đó, để phù hợp với điều kiện, tình hình mới,

38

BLTTDS năm 2015 đƣợc Quốc hội ban hành và thông qua ngày 25/11/2015,

có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2016. So với BLTTDS năm 2004 (sửa

đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 quy định về cấp, tống đạt, thông

báo VBTT gồm 12 điều (từ Điều 70 đến Điều 181), trong đó giữ nguyên 2

điều, mới 1 điều, sửa đổi 9 điều. Nội dung các điều luật đã có sự quy định rõ

ràng về trách nhiệm tống đạt VBTTDS do các cơ quan tiến hành tố tụng thực

hiện cũng nhƣ trình tự, thủ tục tống đạt hợp lệ. Các phƣơng thức cấp, tống

đạt, thông báo văn bản tố tụng cũng có những điểm mới, đó là: thừa nhận

phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng mới bằng phƣơng tiện

điện tử theo yêu cầu của đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác phù hợp

với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và quy định cụ thể cấp, tống

đạt, thông báo bằng phƣơng thức khác cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài theo quy

định tại Chƣơng XXXVIII (Điều 173); việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản

tố tụng qua dịch vụ bƣu chính phải bằng thƣ bảo đảm và có xác nhận của

ngƣời nhận văn bản tố tụng (Điều 175).

Ở một khía cạnh khác, ngày 14/11/2008, Nghị quyết số 24/2008/QH12

do Quốc hội ban hành về việc thi hành Luật THADS có nêu rõ việc thực hiện

thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phƣơng nhằm xã hội hoá công

việc liên quan đến THADS. Việc thí điểm đƣợc thực hiện từ ngày 01/07/2009

đến ngày 01/07/2012. Căn cứ vào Nghị quyết số 24/2008/QH12, ngày

19/02/2009 Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Quyết định số 224/QĐ-TTg phê duyệt

đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí

Minh”. Theo Quyết định này, việc thực hiện đề án là nhằm xác định sự cần

thiết và tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tƣ pháp, xác định khả

năng áp dụng mô hình này trong toàn quốc. Sau khi phê duyệt đề án, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 quy định về tổ

chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí

Minh. Ngoài ra, Bộ tƣ pháp đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng

39

ban hành một số văn bản hƣớng dẫn nhƣ: Thông tƣ liên tịch số

04/2009/TTLT-BTP-BTC ngày 15/10/2009, Thông tƣ số 03/2009/TT-BTP

ngày 30/09/2009, Thông tƣ liên tịch số 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC.

Có thể nói, việc ra đời chế định thừa phát lại đã phần nào giảm tải đáng kể

khối lƣợng công việc cho ngành Toà án và THADS, giúp cho việc giải quyết

các vụ việc dân sự đƣợc diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Sau hơn hai

năm thực hiện thí điểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng

11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII

đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội về việc tiếp tục thực

hiện thí điểm chế định thừa phát lại đồng thời mở rộng phạm vi thí điểm ra

các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng. Tại Hà Nội, Bộ tƣ pháp đã có văn

bản phê duyệt đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại thành phố Hà

Nội thông qua Quyết định số 2531/QĐ-BTP ngày 21/10/2013. Tiếp đó là

Quyết định số 6236/QĐ-UBND về việc ban hành đề án “Thực hiện thí điểm

chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà Nội” ngày 15/10/2013 do UBND

thành phố Hà Nội ban hành. Đến ngày 03/04/2014, Kế hoạch triển khai thực

hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà Nội đƣợc chính thức

ban hành kèm theo Quyết định số 1790/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân

thành phố Hà Nội. Trong quá trình thực hiện chƣơng trình thí điểm tại thành

phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, các chế định về thừa phát lại cũng nhƣ thủ tục

thực hiện công việc mà trọng tâm đó là thực hiện chức năng cấp, tống đạt,

thông báo VBTTDS giúp Toà án và cơ quan THADS đã đƣợc quy định khá

chi tiết, cụ thể tại các văn bản pháp luật và văn bản hƣớng dẫn thực hiện của

cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động của tổ chức thừa phát lại sẽ là một giải

pháp hữu hiệu để thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá hoạt động tƣ pháp mà Đảng

và Nhà nƣớc ta đã đề ra.

Có thể thấy rằng trong mỗi giai đoạn, pháp luật TTDS nƣớc ta có

những thay đổi, chuyển biến tích cực hơn. Các thủ tục TTDS dần đƣợc hoàn

40

thiện, mở rộng phƣơng thức tống đạt, từng bƣớc thực hiện xã hội hoá. Theo

đó, không chỉ có cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức khác cũng đƣợc nhà nƣớc

trao quyền thực hiện một số hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi, quyền

hạn mà pháp luật cho phép. Qua các thời kỳ, hoạt động tống đạt VBTT ngày

càng đƣợc chú trọng, cùng với đó là sự ra đời của chế định Thừa phát lại đã

tạo cho ngƣời dân có thêm sự lựa chọn phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo

VBTT một cách phù hơp, giảm tải công việc cho hoạt động của các cơ quan

nhà nƣớc. Thông qua hoạt động của Thừa phát lại, ngƣời dân có thể chủ động

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với các cơ quan tiến hành tố

tụng, việc thực hiện xã hội hoá thủ tục tố tụng, chuyển giao cho tổ chức Thừa

phát lại đảm nhiệm việc tống đạt các văn bản, giấy tờ đã phần nào giải toả

đƣợc những ách tắc, quá tải trong hoạt động của các cơ quan xét xử và

THADS, đồng thời đây cũng là sự bổ sung góp phần hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTDS nói riêng.

Kết luận chƣơng 1

Qua việc tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về cấp, tống đạt, thông

báo VBTTDS đã cho ta thấy tống đạt văn bản tố tụng là một trong những vấn

đề hết sức quan trọng, nếu hoạt động này diễn ra thuận lợi sẽ giúp cho việc

giải quyết vụ án đƣợc nhanh chóng kịp thời. Để thực hiện tống đạt VBTT

theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải

đáp ứng các điều kiện về nguồn nhân lực cũng nhƣ thời gian để thực hiện.

Trong khi khối lƣợng công việc tống đạt là rất lớn, thậm chí vƣợt quá khả

năng của các cơ quan này thì việc chuyển giao công việc cho một tố chức có

chức năng tống đạt với mục đích chia sẻ công việc là cần thiết. Vì vậy, chế

định về thừa phát lại quy định trở lại là tất yếu và hoàn toàn phù hợp với thực

tế. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nƣớc, hệ thống pháp luật TTDS đã

có những thay đổi nhất định phù hợp với nhu cầu xã hội, cùng với đó các

41

phƣơng thức tống đạt đƣợc mở rộng và đa dạng hơn, tạo điều kiện cho quá trình

thực hiện và áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng.

Bên cạnh đó, từ việc nghiên cứu, so sánh pháp luật TTDS các quốc gia

trên thế giới có thể thấy rằng mỗi quốc gia tƣơng ứng với hệ thống pháp luật

khác nhau lại có những nét đặc trƣng trong mô hình TTDS, đặc biệt là vấn đề

về chủ thể, đối tƣợng và phƣơng thức tống đạt VBTT. Cùng với sự phát triển

của khoa học công nghệ, các quốc gia phát triển đã có những phƣơng pháp

hợp lý trong quá trình thực hiện tống đạt VBTT. Xuất phát từ thực tế áp dụng

pháp luật và kinh nghiệm quốc tế, pháp luật Việt Nam cần học hỏi kinh

nghiệm một cách có chọn lọc, kết hợp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ

nhằm đa dạng hoá phƣơng thức tống đạt, phù hợp với sự phát triển của đất

nƣớc. Việc sử dụng các phƣơng pháp mới ngoài những phƣơng pháp truyền

thống sẽ đem lại nhiều sự lựa chọn hơn, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt

động tố tụng.

CHƢƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CẤP,

TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1. Các văn bản tố tụng phải đƣợc cấp, tống đạt, thông báo theo quy

định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

2.1.1.Văn bản tố tụng dân sự do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo

Có thể thấy rằng Điều 171 BLTTDS năm 2015 đã liệt kê cụ thể một số

loại văn bản tố tụng, giấy tờ do Tòa án thực hiện việc cấp, tống đạt, thông

báo. Ngoài ra tại khoản 5 của Điều luật này còn có quy định mang tính chất

mở, đó là “các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định”. Sở dĩ các

nhà lập pháp đƣa ra điều luật này là do trong quá trình thực hiện các giai

đoạn, thủ tục tố tụng dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ban hành

nhiều văn bản tố tụng khác nhau. Do vậy việc liệt kê các văn bản sẽ là không

42

đủ để có bao quát hết cũng nhƣ làm giới hạn phạm vi văn bản tố tụng mà cơ

quan có thẩm quyền sẽ ban hành. Khoản 5 điều luật quy định mở sẽ góp phần

hạn chế đƣợc tính lạc hậu của quy phạm, đồng thời đáp ứng nhu cầu bổ sung

các văn bản tố tụng trong tƣơng lai một cách dễ dàng và khoa học. Trên thực

tế, các loại văn bản tố tụng do Tòa án ban hành bao gồm:

- Các bản án: đây là văn bản tố tụng thể hiện kết quả xét xử của Tòa án

về một vụ việc dân sự. Trong bản án phải nêu rõ: thời gian mở phiên tòa,

thành phần HĐXX, các bên tham gia tố tụng, nội dung sự việc, nhận định và

quyết định của Tòa án. Thông thƣờng nếu phân loại theo cấp xét xử thì bản án

có hai loại là bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm.

- Trích lục bản án: là sao chép lại nguyên văn những nội dung cần thiết

trong bản án theo quy định của pháp luật (thông thƣờng nội dung sao chép là

phần quyết định trong bản án). Trích lục chỉ có giá trị pháp lý khi đƣợc cơ

quan hoặc ngƣời có thẩm quyền chứng thực. Theo quy định của pháp luật, sau

khi tuyên án, Tòa án phải cấp trích lục bản án cho đƣơng sự, ngƣời có quyền

lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ khi có yêu

cầu. Ngoài ra Tòa án cũng có thể cấp trích lục bản án cho cơ quan, cá nhân

khác nếu có yêu cầu nếu xét thấy việc cấp trích lục bản án là cần thiết để có

cơ sở giải quyết những việc có liên quan đến vụ án.

- Các loại quyết định nhƣ: Quyết định đƣa vụ án ra xét xử; Quyết định

tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết

định công nhận sự thoả thuận của các đƣơng sự; Quyết định chuyển vụ án;

Quyết định định giá tài sản; Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ; Quyết

định thay đổi, áp dụng, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định giải

quyết việc dân sự; Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm... Trong đó, Quyết

định của tòa án là văn bản tố tụng dân sự thể hiện nhận định và ý chí của Tòa

án về một vấn đề cụ thể đang đƣợc xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự;

43

đƣợc áp dụng một lần với một hay một số ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời

tham gia tố tụng, ngƣời có liên quan.

- Các loại thông báo nhƣ: Thông báo yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện;

Thông báo trả lại đơn khởi kiện; Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí

định giá, giám định; Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm

tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; Thông báo thời

gian, địa điểm mở lại phiên tòa; Thông báo về việc kháng cáo; Thông báo về

việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo kháng nghị phúc thẩm ... Việc ban hành

các thông báo này nhằm truyền tải thông tin đến ngƣời nhận, báo cho đƣơng

sự, những ngƣời tham gia tố tụng đƣợc biết nội dung chính mà Toà án sẽ tiến

hành làm việc để giải quyết vụ việc cụ thể nào đó.

- Các loại giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự. Đây

là các văn bản tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án ban

hành; đƣợc cấp, tống đạt hoặc thông báo đến ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có

liên quan để biết và thực hiện. Giữa các văn bản này khác nhau ở điểm:

+ Đối với giấy báo, đây là văn bản tố tụng mang tính chất truyền tải

thông tin từ cơ quan tiến hành tố tụng,cơ quan thi hành án đến ngƣời tiếp

nhận để họ đƣợc biết và sử dụng các thông tin đó. Các loại giấy báo nhƣ: giấy

báo nhận đơn, giáo báo đƣơng sự tham gia phiên họp tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải…

+ Giấy triệu tập là văn bản tố tụng mang tính cƣỡng chế, buộc ngƣời

tiếp nhận phải thực hiện đúng theo nội dung văn bản. Trƣờng hợp không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải các chế tài hành chính hoặc nặng

nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy thuộc vào tính chất, mức độ cụ thể

của hành vi. Các loại giấy triệu tập nhƣ: Giấy triệu tập lấy lời khai, Giấy triệu

tập tham gia hòa giải, Giấy triệu tập tham gia phiên toà xét xử...

44

+ Giấy mời đƣợc coi là văn bản tố tụng dễ chịu hơn giấy triệu tập. Đây

là lời mời từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THA đề nghị ngƣời tiếp

nhận cùng hợp tác giải quyết vụ việc dân sự hoặc thi hành án dân sự. Với văn

bản tố tụng này, ngƣời tiếp nhận có quyền từ chối và không phải chịu bất cứ

trách nhiệm nào. Các loại giấy mời nhƣ: Giấy mời Hội thẩm nhân dân, Giấy

mời Kiểm sát viên tham gia phiên toà; Giấy mời tham gia định giá tài sản.

- Đơn khởi kiện, đơn kháng cáo. Trong đó: đơn khởi kiện là văn bản tố

tụng do cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm

bởi một hoặc nhiều chủ thể khác hay ngƣời đại diện hợp pháp của họ yêu cầu

Tòa án có thẩm quyền công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó.

Quy định về đơn khởi kiện đƣợc quy định tại các Điều 189, 190 BLTTDS.

Còn đơn kháng cáo là văn bản tố tụng do đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại

Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng

cáo. Đơn kháng cáo hợp lệ là đơn đáp ứng đầy đủ các quy định tại Điều 272

BLTTDS năm 2015.

- Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị xem

xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám

đốc thẩm. Mục đích của loại văn bản này là nhằm xác nhận sự việc đƣơng sự

đã nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị tại cơ quan Toà án cùng với

các giấy tờ, tài liệu kèm theo để làm căn cứ cho yêu cầu giải quyết vụ việc

dân sự của họ. Trong nội dung của giấy xác nhận, thông thƣờng Toà án cũng

nêu rõ thời gian, địa điểm mà đƣơng sự có thể đến nhận kết quả trả lời đơn.

- Các loại biên bản nhƣ: biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, biên bản phiên toà, biên bản hòa giải

thành, biên bản về việc giao nhận chứng cứ, biên bản làm việc, biên bản xác

minh, biên bản lấy lời khai... Bằng việc lập biên bản, thẩm phán hoặc thƣ ký

45

ghi chép lại những sự việc thực tế đã và đang xảy ra trong quá trình giải quyết

vụ việc, các biên bản này sẽ đƣợc lƣu vào hồ sơ vụ án và sử dụng chúng để

làm căn cứ chứng minh cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng theo trình tự

luật định. BLTTDS năm 2015 cũng đƣa ra quy định cụ thể về thẩm quyền, nội

dung, hình thức đối với việc lập biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; biên bản phiên toà tại Điều 211 và

Điều 236. Bởi đây là 2 loại văn bản quan trọng trong việc đánh giá sự thật

khách quan của vụ việc, là căn cứ để thẩm phán ra các quyết định theo đúng

quy định pháp luật.

Trong quá trình áp dụng pháp luật, để soạn thảo và ban hành đúng,

thống nhất các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại

Toà án, ngày 13/01/2017 Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành 93 biểu

mẫu trong TTDS, đƣợc quy định rõ tại Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP (có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/02/2017). Điều này hoàn toàn phù hợp với

thực tế, giúp cho các cơ quan tố tụng khỏi lúng túng trong việc ban hành

VBTTDS theo thẩm quyền.

Tùy từng loại văn bản tố tụng khác nhau mà thời hạn thực hiện việc

cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là khác nhau. Tại Điều 269

BLTTDS năm 2015 thì các đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện

đƣợc Toà án cấp trích lục bản án trong thời hạn 03 ngày làm việc ngày kết

thúc phiên toà. Đối với Thông báo về việc thụ lý vụ án phải đƣợc thực hiện

trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các loại

Quyết định nhƣ: Quyết định đƣa vụ án ra xét xử phải đƣợc gửi cho đƣơng sự

và VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định

(Điều 220); Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải đƣợc cấp

cho đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong

thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định (khoản 2 Điều 214, khoản

46

3 Điều 217); Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự phải đƣợc gửi cho

đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong thời

hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án không

còn (Điều 216). Đối với đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo

ngay bằng văn bản cho VKS cùng cấp và đƣơng sự có liên quan đến kháng

cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà ngƣời

kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo sau khi nhận đƣợc đơn kháng cáo hợp lệ

(Điều 277).

2.1.2.Văn bản tố tụng dân sự do Viện kiểm sát cấp, tống đạt, thông báo

Theo quy định của BLTTDS, đối tƣợng văn bản đƣợc VKS thông báo

bao gồm:

- Quyết định kháng nghị (Điều 281)

Quyết định kháng nghị là văn bản tố tụng do VKS cùng cấp với Tòa án

cấp sơ thẩm hoặc VKS cấp trên trực tiếp, yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp

xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành theo thủ

tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. VKS ra quyết định kháng nghị

phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đƣơng sự có liên quan đến kháng

nghị đƣợc biết (khoản 1 Điều 281 BLTTDS năm 2015).

- Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 331, 336)

Giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có

hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật

nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 336

BLTTDS năm 2015 thì ngay sau khi ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm,

VKS phải gửi ngay quyết định đó cho Toà án đã ra bản án, quyết định; các

đƣơng sự; cơ quan THADS; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

kháng nghị. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể thời gian VKS

phải gửi quyết định cho đƣơng sự và các cơ quan có thẩm quyền theo luật

47

định mà chỉ quy định chung chung rằng “phải gửi ngay” (tƣơng tự quy định

tại khoản 1 Điều 281). Điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong

quá trình áp dụng pháp luật cũng nhƣ trong việc xác định thời điểm mà VKS

thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.

- Quyết định kháng nghị tái thẩm (Điều 354)

Tái thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Toà án nhƣng bị kháng nghị do phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi

cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án không biết đƣợc khi ra bản

án, quyết định đó. Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS năm 2015 thì “các

quy định khác về thủ tục tái thẩm đƣợc thực hiện nhƣ các quy định về thủ tục

giám đốc thẩm”. Do vậy quyết định kháng nghị tái thẩm cũng là VBTTDS mà

Viện kiểm sát thực hiện cấp, tống đạt, thông báo. Sau khi nhận đƣợc quyết

định, bản án của Tòa án, nếu có căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm

hay tái thẩm thì trong thời hạn luật định, VKS phải thông báo quyết định

kháng nghị cho Tòa án có thẩm quyền và các đƣơng sự có liên quan trong vụ án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTDS năm 2015 thì trong thời

hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các

đƣơng sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và VKS cùng cấp. Thời hạn kháng nghị

đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15 ngày, của

VKS cấp trên trực tiếp là 01 tháng kể từ ngày tuyên án (Điều 280). Việc quy

định về thời hạn kháng nghị nhƣ trên trên thực thế còn tồn tại một số bất cập

bởi liên hệ với Điều 269 ta có thể thấy thời hạn gửi hoặc chuyển giao Bản án

của Tòa án cấp sơ thẩm cho VKS cùng cấp là 10 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trƣờng hợp sau khi tuyên án, Tòa án không gửi ngay Bản án cho VKS

mà đến hạn vào ngày thứ 10 theo quy định Tòa án mới gửi Bản án cho VKS,

nhƣ vậy, VKS chỉ còn lại 05 ngày để xem xét bản án và ra quyết định kháng

nghị, thậm chí thời hạn này sẽ chỉ còn lại là 03 ngày nếu nhƣ ngày thứ 10 Tòa

48

án gửi Bản án cho VKS nhƣng lại là ngày thứ sáu trong tuần (vì VKS sẽ mất

thêm 2 ngày nghỉ vào thứ 7 và chủ nhật). Nhƣ vậy việc xem xét, đánh giá bản

án, quyết định của Toà án để từ đó VKS đƣa ra quyết định kháng nghị sẽ

không đƣợc đảm bảo về mặt thời gian nghiên cứu để có thể đánh giá một cách

toàn diện, khách quan.

2.1.3.Văn bản tố tụng dân sự do cơ quan Thi hành án dân sự cấp, tống đạt,

thông báo

Nếu BLTTDS dành hẳn 1 chƣơng để quy định về cả 3 hoạt động cấp,

tống đạt, thông báo VBTTDS thì Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 lại

chỉ tập trung quy định về hoạt động thông báo văn bản với 05 điều luật. Hiện

nay, thông báo về thi hành án dân sự đƣợc quy định cụ thể tại Điều 39 đến

Điều 43 Luật Thi hành án dân sự, Điều 2 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và

Điều 2 Thông tƣ liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày

01/8/2015 của Bộ Tƣ pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên

ngành trong thi hành án dân sự, Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ

quan thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số 273/QĐ-

TCTHADS ngày 22/02/2017 của Tổng cục trƣởng Tổng cục Thi hành án dân

sự, với nhiều công việc phải thực hiện thông báo nhƣ: thông báo cƣỡng chế

thi hành án, thông báo về việc kê biên tài sản, thông báo bán đấu giá tài sản

(kể cả thông báo đấu giá quyền sử dụng đất), thông báo về việc giao nhận tài

sản (theo văn bản bán đấu giá hoặc biên bản thoả thuận của đƣơng sự), thông

báo về việc giải toả kê biên tài sản (theo Điều 105 Luật Thi hành án dân sự),

thông báo về việc nhận tiền, tài sản… nhằm đảm bảo các quyền của đƣơng sự

đƣợc thực hiện một cách công khai, minh bạch.

49

Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm

2014 thì cơ quan THA phải thực hiện thông báo đối với 03 loại văn bản tố

tụng, đó là:

- Quyết định về thi hành án nhƣ: quyết định THA, quyết định hoãn

THA, quyết định tạm đình chỉ THA, quyết định trả đơn yêu cầu THA, quyết

định khôi phục thời hiệu THA, quyết định cƣỡng chế THA ….

- Các giấy báo thi hành án: nhƣ giấy báo tự nguyện THA, giấy báo

đƣơng sự đến giải quyết việc THA...

- Giấy triệu tập thi hành án: Đây là văn bản do Chấp hành viên ban

hành để triệu tập đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải

quyết việc THA. Căn cứ để ban hành giấy triệu tập về THA dựa trên cơ sở,

nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật

THADS.

- Ngoài ra còn có các văn bản khác có liên quan đến việc THA nhƣ:

Thông báo từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án, thông báo tạm đình chỉ thi

hành án, thông báo cƣỡng chế thi hành án...

Các văn bản này đƣợc ban hành nhằm thông báo cho các đƣơng sự biết

nội dung thông tin về THA từ đó giúp họ biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ

của mình. Hình thức và nội dung văn bản tố tụng đƣợc quy định cụ thể theo

mẫu thống nhất tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Thông tƣ số 01/2016/TT-

BTP ngày 01/02/2016 về Hƣớng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành

chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS (Điều 32).

2.2. Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy

định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà mỗi cơ quan

tiến hành tố tụng ban hành các loại VBTTDS khác nhau, phù hợp với từng đối

tƣợng cụ thể trong các trƣờng hợp nhất định. Do đó, chủ thể cấp, tống đạt,

50

thông báo văn bản tố tụng dân sự gồm có chủ thể thực hiện và chủ thể đƣợc

cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự (hay còn gọi là chủ thể nhận

văn bản).

2.2.1. Chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân

sự

a. Các cơ quan có nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Cấp, tống đạt, thông báo VBTT là công cụ hữu ích giúp các cơ quan

tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án giải quyết vụ việc và đƣa nội dung văn

bản tố tụng vào thi hành đƣợc nhanh chóng và đúng đắn. Hơn thế nữa nó còn

bảo đảm cung cấp các thông tin cần thiết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên

quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về nguyên tắc, cơ quan

nào ban hành ra VBTTDS thì cơ quan đó có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống

đạt, thông báo cho đƣơng sự và những ngƣời tham gia tố tụng. Nhƣng các cơ

quan này không đƣợc thực hiện nghĩa vụ một cách tuỳ tiện.

Bên cạnh đó, có những trƣờng hợp ngƣời tham gia, thực hiện cấp, tống

đạt, thông báo văn bản TTDS không phải là ngƣời thuộc các cơ quan ban

hành ra VBTTDS mà họ chỉ tham gia với tƣ cách hỗ trợ, giúp đỡ các cơ quan

này. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng nhƣ thực hiện chủ trƣơng cải cách tƣ

pháp đƣợc nêu tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nội dung: “Tiếp

tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu và phát triển các loại hình

dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu

thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…từng

bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao

cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi

hành án” mà chế định về Thừa phát lại quy định trở lạimang tính tất yếu, phù

hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển của đất nƣớc. Thừa phát lại là hoạt

51

động theo yêu cầu của công dân để ghi nhận các sự kiện pháp lý, lập các vi

bằng làm chứng bảo vệ quyền lợi của ngƣời yêu cầu hoặc tổ chức thi hành

quyền lợi của đƣơng sự theo phán quyết của Tòa án. Nhƣ vậy, thông qua hoạt

động của thừa phát lại, ngƣời dân có thể chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Thừa phát lại ra đời đã tạo cho ngƣời dân có thêm điều kiện

lựa chọn phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng một cách phù

hợp, giảm tải cho hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Căn cứ Điều 146

BLTTDS, LTHA và Điều 1, Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày

24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực

hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì chủ thể có nghĩa vụ cấp, tống đạt,

thông báo VBTTDS gồm Toà án, VKS, cơ quan THA, văn phòng Thừa phát

lại. Trong đó việc thành lập, cơ cấu tổ chức và hoạt động của văn phòng Thừa

phát lại đƣợc thực hiện theo những quy định và tiêu chuẩn cụ thể mà pháp

luật quy định.

b. Những người tham gia vào hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản

tố tụng dân sự

Trƣớc hết, ngƣời tham gia vào quá trình cấp, tống đạt, thông báo văn

bản tố tụng là ngƣời tiến hành tố tụng của cơ quan ban hành VBTTDS đƣợc

giao nhiệm vụ cấp,tống đạt, thông báo VBTTDS. Đối với cơ quan Toà án,

ngƣời có thẩm quyền ký ban hành văn bản tố tụng gồm có: Chánh án, Phó

chánh án, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ cấp,

tống đạt, thông báo văn bản tố tụng chủ yếu là Thƣ ký toà án, trong một số

trƣờng hợp Thẩm phán cũng có thể trực tiếp thực hiện việc cấp, tống đạt,

thông báo VBTTDS. Nếu nhƣ ở Toà án nhiệm vụ này đƣợc coi là công việc

thƣờng xuyên của thƣ ký thì tại ở cơ quan thi hành án, nhiệm vụ này do các

chấp hành viên và công chức làm công tác thi hành án đảm nhiệm, VKS có

Kiểm sát viên. Còn đối với văn phòng Thừa phát lại, thƣ ký nghiệp vụ đƣợc

52

coi là “ngƣời có chức năng tống đạt” (khoản 5 Điều 172 BLTTDS năm 2015)

thực hiện tống đạt VBTT khi đƣợc Trƣởng văn phòng giao nhiệm vụ.

Tiếp đó, tại Điều 172 BLTTDS năm 2015, các nhà làm luật có nêu ra

một số chủ thể tham gia vào hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS

gồm có: UBND cấp xã nơi ngƣời tham gia TTDS cƣ trú hoặc cơ quan, tổ

chức nơi ngƣời tham gia TTDS làm việc khi Toà án yêu cầu; đƣơng sự, ngƣời

đại diện của đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đƣơng sự; nhân viên tổ chức dịch vụ bƣu chính. Đối với công tác THADS,

ngoài chấp hành viên và công chức làm công tác THA thì một số chủ thể khác

đƣợc thực hiện việc thông báo về THA bao gồm: bƣu tá; ngƣời đƣợc cơ quan

THA uỷ quyền; tổ trƣởng tổ dân phố; trƣởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn,

phum, sóc; Ủy ban nhân dân, công an cấp xã; Thủ trƣởng cơ quan, đơn vị;

Giám thị trại giam, trại tạm giam; Thủ trƣởng cơ quan thi hành án hình sự;

Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc thông báo có địa chỉ, cƣ trú, công tác,

chấp hành hình phạt tù giao văn bản cần thông báo cho ngƣời đƣợc thông báo

(theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 quy

định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS). Mặc dù

pháp luật tố tụng dân sự quy định đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự

hoặc ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là ngƣời thực hiện

việc tống đạt văn bản tố tụng tuy nhiên gần nhƣ không có điều luật nào quy

định hay hƣớng dẫn rõ ràng về các trƣờng hợp đƣơng sự, ngƣời đại diện của

đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đƣợc thực

hiện việc tống đạt văn bản tố tụng. Điều này có thể dẫn đến những vƣớng

mắc, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật.

2.2.2. Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Căn cứ vào vị trí, vai trò của chủ thể đối với vụ việc dân sự, ta có thể

phân loại chủ thể đƣợc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thành 03 nhóm sau:

53

- Thứ nhất: chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng, có quyền và lợi ích

liên quan đến vụ việc dân sự. Bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, ngƣời yêu cầu,

ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

- Thứ hai: chủ thể không tham gia vào hoạt động tố tụng, không có

quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nhƣng phải thực hiện cấp, tống

đạt, thông báo văn bản để làm rõ nội dung, tình tiết sự việc, đảm bảo quá trình

giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật. Bao gồm: ngƣời đại diện, ngƣời bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, tổ chức giám

định, cơ quan định giá tài sản.... Ví dụ: Khi vụ án có ngƣời đại diện hoặc

ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Toà án có thể giao trực tiếp

VBTT để họ giao lại cho đƣơng sự. Khi giao văn bản, Toà án phải lập biên

bản và yêu cầu họ thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đƣợc giao.

- Thứ ba: chủ thể nhận văn bản chính là cơ quan tiến hành tố tụng.

Theo quy định của pháp luật, các cơ quan này phải thực hiện việc giao VBTT

cho cơ quan khác để thực hiện việc giám sát hoạt động của cơ quan ban hành

văn bản hoặc để các cơ quan có thẩm quyền thi hành các văn bản đƣợc ban

hành. Ví dụ: VKS là cơ quan nhận thông báo thụ lý vụ án, các quyết định

(nhƣ quyết định đƣa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà, quyết định

đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự), bản án của Toà án. Ngƣợc lại,

Toà án cũng là chủ thể nhận các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái

thẩm của VKS hoặc các thông báo THA của cơ quan THADS. Cơ quan

THADS nhận Bản án của Toà án để thi hành.

2.3. Các phƣơng thức và thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các cơ quan tiến hành tố

tụng, cơ quan thi hành án ban hành rất nhiều các văn bản tố tụng khác nhau

nhƣ: giấy triệu tập đƣơng sự, giấy báo, thông báo thụ lý vụ án, quyết định áp

54

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định đình chỉ vụ án, bản án… Đối

với mỗi loại văn bản lại đòi hỏi phƣơng thức cấp, tống đạt hoặc thông báo

phù hợp để đạt đƣợc hiệu quả truyền tải thông tin một cách tốt nhất. Hiện nay

có nhiều phƣơng thức hiện đại đƣợc sử dụng để chuyển giao văn bản và đem

lại kết quả tốt trên thực tế.

2.3.1. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trực tiếp

a. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cá nhân

Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng là cá

nhân thì ngƣời thực hiện phải có nghĩa vụ giao trực tiếp văn bản tố tụng tại

nơi cƣ trú của họ. Ngƣời nhận văn bản phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ

giao nhận văn bản tố tụng, đây là cơ sở để xác định tính hợp pháp của hoạt

động tống đạt. Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng

nếu ngƣời tiếp nhận từ chối nhận văn bản thì ngƣời thực hiện phải lập biên

bản, nêu rõ lý do của việc từ chối và phải đƣợc tổ trƣởng tổ dân phố, Ủy ban

nhân dân, công an xã, phƣờng, thị trấn nơi cƣ trú của ngƣời đó xác nhận. Quy

định này là hoàn toàn hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời thực hiện việc

tống đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Theo Luật cƣ trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì nơi cƣ trú

của công dân là chỗ ở hợp pháp mà ngƣời đó thƣờng xuyên sinh sống, là nơi

thƣờng trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phƣơng tiện hoặc nhà

khác mà công dân sử dụng để cƣ trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở

hữu của công dân hoặc đƣợc cá nhân, cơ quan, tổ chức cho thuê, cho mƣợn,

cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Nơi thƣờng trú là nơi công dân sinh

sống thƣờng xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã

đăng ký thƣờng trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi thƣờng

trú và đã đăng ký tạm trú. Trong trƣờng hợp không xác định đƣợc nơi cƣ trú

55

của công dân theo các quy định nói trên thì nơi cƣ trú của công dân là nơi

ngƣời đó đang sinh sống.

Tại thời điểm chuyển giao văn bản tố tụng, ngƣời tiếp nhận vắng mặt

(đƣợc hiểu vắng mặt trong một thời gian ngắn và xác định đƣợc thời gian trở

về) thì ngƣời thực hiện thông báo, cấp, tống đạt văn bản có thể giao văn bản

đó cho ngƣời thân thích có cùng nơi cƣ trú nhƣ: ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng,

anh, chị, em… có đủ năng lực hành vi dân sự (tức là khả năng của cá nhân

bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự); yêu

cầu ngƣời này ký nhận và cam kết sẽ chuyển giao lại cho ngƣời có nghĩa vụ

tiếp nhận. Ngày chuyển giao văn bản tố tụng là ngày ngƣời thân thích của

ngƣời tiếp nhận ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng.

Trong một trƣờng hợp khác, nếu ngƣời tiếp nhận văn bản tố tụng không có

ngƣời thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cƣ trú hoặc có nhƣng

không chịu nhận hộ thì văn bản tố tụng sẽ đƣợc chuyển giao cho tổ trƣởng tổ

dân phố (hoặc trƣởng thôn, làng, ấp, bản), Ủy ban nhân dân, công an xã,

phƣờng, thị trấn nơi ngƣời tiếp nhận cƣ trú. Cá nhân, cơ quan. tổ chức có

trách nhiệm chuyển giao văn bản tố tụng phải ký nhận và cam kết giao lại tận

tay cho ngƣời tiếp nhận. Việc thông báo, cấp, tống đạt gián tiếp qua ngƣời

thân thích có cùng nơi cƣ trú hoặc thông qua tổ trƣởng tổ dân phố, trƣởng

thôn, Ủy ban nhân dân xã, phƣờng…nơi ngƣời tiếp nhận văn bản cƣ trú phải

đƣợc lập thành văn bản. Trong biên bản phải thể hiện rõ ngƣời tiếp nhận vắng

mặt nêu rõ lý do, văn bản tố tụng đã đƣợc chuyển giao cho ai, quan hệ giữa họ

với nhau, thời gian giao văn bản, cam kết và chữ ký của ngƣời nhận chuyển

giao văn bản, ngƣời thực hiện và ngƣời chứng kiến.

Trên thực tế, việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ đƣợc thực

hiện một cách dễ dàng, thuận lợi khi xác định đƣợc địa chỉ nơi cƣ trú của

ngƣời tiếp nhận văn bản, kể cả trong trƣờng hợp ngƣời đó vắng mặt vì lý do

56

khách quan. Vậy nếu trong trƣờng hợp ngƣời tiếp nhận vắng mặt tại nơi cƣ

trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ cƣ trú thì việc thông

báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ đƣợc thực hiện bằng cách nào? Để giải

quyết vấn đề này, pháp luật tố tụng dân sự đã đƣa ra hai trƣờng hợp ngƣời

thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng phải lập biên bản về

việc không chuyển giao văn bản tố tụng đƣợc. Đó là khi có căn cứ cho rằng

ngƣời tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ.

Trƣờng hợp thứ nhất là ngƣời đƣợc tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời

điểm trở về đƣợc hiểu là đã xác định đƣợc địa chỉ của ngƣời tiếp nhận nhƣng

ngƣời đó không có mặt tại địa chỉ này vì lý do nào đó nhƣ đi tìm việc, đi làm

ăn xa… và điều quan trọng là thông tin về việc lúc nào ngƣời đó sẽ quay trở

lại địa chỉ này lại hoàn toàn không có. Đây không phải là việc vắng mặt trong

thời gian ngắn một vài ngày mà thời gian vắng mặt tƣơng đối dài, không thể

xác định đƣợc. Trƣờng hợp thứ hai, ngƣời tiếp nhận vắng mặt trong một thời

gian dài vì lý do nào đó, không thông báo cho cơ quan hành chính địa phƣơng

và không thể xác định đƣợc địa chỉ mới của ngƣời đó. Để xác định tính xác

thực của thông tin và chịu trách nhiệm về thông tin mà mình cung cấp, ngƣời

cung cấp thông tin về hai trƣờng hợp trên phải ký nhận vào biên bản không

chuyển giao văn bản tố tụng đƣợc và nêu rõ lý do.

b. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức

Ngƣời tham gia tố tụng ngoài cá nhân có thể là cơ quan, tổ chức. Vì

vậy, thủ tục thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho những đối

tƣợng này đòi hỏi phải có những quy định riêng và phù hợp.

Khi thực hiện chuyển giao văn bản, ngƣời thực hiện phải giao cho

ngƣời đại diện theo pháp luật (thông thƣờng là Thủ trƣởng hoặc Giám đốc

công ty) hoặc ngƣời có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó

(thƣờng là bộ phận văn thƣ). Nếu có ngƣời đại diện quyền và lợi ích hợp pháp

57

của cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng thì văn bản cần thông báo,

cấp, tống đạt đƣợc chuyển giao cho ngƣời đó. Ngoài ra, ngƣời thực hiện có

thể thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho ngƣời đƣợc cơ quan cử đại

diện nhận văn bản tố tụng. Tuy vậy pháp luật không quy định cụ thể việc cử

ngƣời đại diện này có thể thực hiện bằng hình thức lời nói hay buộc phải lập

thành văn bản; hay khi chuyển giao văn bản họ có phải cung cấp Giấy ủy

quyền hay không. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền

của ngƣời tiếp nhận văn bản và tính hợp lệ của việc thông báo, cấp, tống đạt

văn bản tố tụng dân sự. Để có cơ sở xác minh văn bản tố tụng đã đƣợc cấp,

tống đạt hoặc thông báo đến đúng ngƣời, đúng thời điểm và hợp lệ, việc lập

biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản và sự ký nhận của ngƣời tiếp nhận là rất

cần thiết. Vì vậy pháp luật quy định ngày ký nhận là ngày đƣợc cấp, tống đạt

hoặc thông báo.

2.3.2. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự qua dịch vụ bưu

chính hoặc người thứ ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo

Xét về bản chất thì đây là 2 phƣơng thức tống đạt VBTT qua trung

gian. Tuy nhiên phƣơng thức tống đạt qua ngƣời thứ ba đƣợc uỷ quyền

BLTTDS vẫn chƣa có quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục mà chỉ quy định

cấp, tống đạt, thông báo VBTT qua ngƣời thân thích, tổ trƣởng tổ dân phố,

UBND hoặc Công an cấp xã. Điều này đã gây không ít khó khăn cho ngƣời

có trách nhiệm tống đạt cũng nhƣ ảnh hƣởng đến quyền và nghĩa vụ của

ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo VBTT.

Đa số các vụ việc dân sự đƣợc thụ lý giải quyết tại Toà án, cơ quan tiến

hành tố tụng thƣờng thực hiện tống đạt cho đƣơng sự thông qua con đƣờng

bƣu chính. Bởi đây là phƣơng thức chuyển giao văn bản tố tụng tƣơng đối

nhanh chóng, giảm thiểu đƣợc chi phí tống đạt trong điều kiện Toà án không

đủ nhân lực và hoạt động của cơ quan thừa phát lại vẫn còn đang đƣợc thí

58

điểm tại một số địa phƣơng ở nƣớc ta hiện nay. Thực tế cho thấy trong những

trƣờng hợp đƣơng sự vắng mặt tại Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng rất khó

khăn trong việc xác định văn bản tố tụng đƣợc chuyển giao cho đƣơng sự

thông qua bƣu điện có phải là tống đạt hợp lệ hay không.

Thông thƣờng Toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự

qua dịch vụ bƣu chính dƣới ba hình thức, đó là: gửi thƣờng, gửi đảm bảo và

chuyển phát nhanh. Đối với hình thức gửi thƣờng thì thời gian mà VBTT

đƣợc chuyển đến ngƣời cần tống đạt khá lâu, thậm chí có trƣờng hợp bị thất

lạc do sơ suất của nhân viên bƣu tá khi mà khối lƣợng bƣu phẩm phải vận

chuyển hiện nay là tƣơng đối lớn, mức độ ƣu tiên về mặt thời gian chƣa thực

sự đƣợc đảm bảo. Khác với gửi thƣờng, chuyển phát nhanh là hình thức đƣợc

lựa chọn nhiều hơn, ngƣời nhận có thể nhận đƣợc bƣu phẩm dễ dàng và

nhanh chóng trong khoảng thời gian từ 1-2 ngày tuỳ theo phạm vi địa lý từng

khu vực. Tuy nhiên, cả 2 hình thức gửi thƣờng và chuyển phát nhanh đều chỉ

đƣợc xác nhận bằng Vận đơn gửi. Các thông tin trên Vận đơn này chỉ mang

tính chất xác nhận sự việc ngƣời gửi đã thực hiện việc gửi thƣ hoặc bƣu phẩm

tới ngƣời tiếp nhận tại bƣu cục gửi mà không đề cập đến việc ngƣời nhận có

thực sự nhận đƣợc chúng hay không. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn,

vƣớng mắc trong việc xác định việc gửi VBTTDS tại thời điểm nào thì đƣợc

coi là tống đạt hợp lệ. Bên cạnh đó cũng phải kể đến việc sử dụng các mẫu

văn bản dùng trong bƣu chính cần phải đƣợc áp dụng thống nhất. Tại các bƣu

cục khác nhau, đôi khi việc sử dụng các mẫu vận đơn, mẫu gửi mới thay thế

cho các mẫu văn bản cũ lại không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên hoặc đã không

còn đƣợc sử dụng nữa. Bởi các lý do trên mà pháp luật tố tụng dân sự quy

định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thông qua dịch vụ bƣu chính phải

đƣợc gửi bằng thƣ bảo đảm và có xác nhận của ngƣời nhận văn bản. Văn bản

có xác nhận phải đƣợc chuyển lại cho Tòa án. Thời điểm để tính thời hạn tố

59

tụng là ngày họ xác nhận đã nhận đƣợc văn bản tố tụng do tổ chức dịch vụ

bƣu chính chuyển đến (Điều 175 BLTTDS năm 2015). Khi thực hiện gửi đảm

bảo, ngoài việc chuyển bƣu phẩm đến đúng địa chỉ của ngƣời đƣợc tống đạt

do ngƣời gửi cung cấp, nhân viên bƣu điện còn phải yêu cầu ngƣời nhận ký

tên xác nhận về việc đã nhận bƣu phẩm thông qua Phiếu báo phát. Nội dung

Phiếu báo phát có ghi rõ thông tin ngƣời gửi, ngƣời nhận bƣu phẩm và có dấu

xác nhận của bƣu cục phát.

Nhìn chung, việc lựa chọn hình thức chuyển giao văn bản nào trong 3

hình thức này tuỳ thuộc vào tính chất của từng vụ việc dân sự cụ thể. Thời

điểm đƣơng sự đƣợc tống đạt hợp lệ căn cứ vào dấu xác nhận của bƣu điện

gửi VBTT. Đây cũng là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định thời

hạn tố tụng theo quy định của pháp luật.

2.3.3. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự bằng phương tiện

điện tử

Để phù hợp với điều kiện, tình hình mới, BLTTDS năm 2015 đã thừa

nhận phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hoàn toàn mới, đó

là cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phƣơng tiện điện tử theo yêu cầu của

đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp

luật về giao dịch điện tử. Theo khoản 6 Điều 4 Luật giao dịch điện tử năm

2005 thì:

“Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”;

“Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện

tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công

nghệ tương tự”.

Ngày 30/12/2016, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị

quyết số 04/2016/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 15/02/2017) hƣớng dẫn thi

hành một số quy định về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp,

60

tống đạt, thông báo VBTT bằng phƣơng tiện điện tử. Theo đó, Pháp luật

TTDS cho phép ngƣời khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến Toà án thông qua gửi

trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Toà án theo

một trong các hình thức sau: Gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa

án; Chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo.

Về điều kiện thực hiện giao dịch điện tử, ngƣời khởi kiện, ngƣời tham

gia tố tụng (các cá nhân, cơ quan, tổ chức) lựa chọn gửi và nhận thông điệp

dữ liệu điện tử với Tòa án phải có các điều kiện sau:

- “Có địa chỉ thư điện tử để gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử đến

và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án;

- Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn

hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận...”. (khoản 1

Điều 5 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP)

Đƣơng sự đƣợc đăng ký một số điện thoại di động để nhận mã xác thực giao

dịch điện tử qua tin nhắn và đƣợc đăng ký một địa chỉ thƣ điện tử chính thức

để nhận tất cả văn bản tố tụng trong quá trình thực hiện giao dịch điện tử với

tòa.

Nội dung đơn khởi kiện có ghi rõ fax và địa chỉ thƣ điện tử (nếu có).

Ngày khởi kiện là ngày gửi đơn thành công. Tòa gửi thông báo nhận đơn khởi

kiện điện tử đến đƣơng sự qua cổng thông tin điện tử của tòa chậm nhất 15

phút sau khi nhận đƣợc đơn khởi kiện điện tử. Khi thực hiện tống đạt theo

hình thức này, Tòa án phải lập biên bản ghi nhận sự đồng ý của đƣơng sự và

địa chỉ thƣ điện tử để tống đạt. Về phía Tòa án cũng phải có một địa chỉ email

để sử dụng chung. Thƣ ký chụp hình các văn bản tố tụng đã đƣợc ký, đóng

dấu rồi gửi cho đƣơng sự qua email. Khi nhận đƣợc các văn bản tống đạt,

đƣơng sự phải gửi thƣ xác nhận đã nhận đƣợc qua email cho ngƣời gửi.

61

Có thể nói phƣơng thức này đem lại khá nhiều sự tiện lợi, giúp cho việc

tống đạt, thông báo đƣợc thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng, ít chi phí.

Tuy nhiên, để việc áp dụng trở nên phổ biến thì cũng cần có một khoảng thời

gian nhất định bởi ngƣời dân không phải ai cũng quen giao dịch trên mạng,

nhất là ở những vùng có điều kiện, kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Chƣa

kể, các Tòa án cũng cần có thời gian đầu tƣ xây dựng cổng thông tin điện tử

của cơ quan mình cùng nền tảng công nghệ cần thiết giúp cho việc thực hiện

giao dịch điện tử với đƣơng sự. Bên cạnh đó, muốn phát huy đƣợc hiệu quả

trên thực tế còn đòi hỏi nhà nƣớc phải có một hệ thống pháp luật với những

quy định đủ chặt chẽ, khoa học và rõ ràng.

2.3.4. Niêm yết công khai

Hiểu theo cách khái quát, niêm yết công khai là việc dán (treo) văn bản

tố tụng cần đƣợc truyền tải thông tin lên một vị trí nhất định để thông báo cho

công chúng và cho ngƣời tiếp nhận biết. Về mặt lý luận, có thể nhận thấy việc

niêm yết công khai VBTT mang lại hiệu quả thấp hơn so với thủ tục tống đạt

trực tiếp, do đó pháp luật quy định trong những trƣờng hợp không thể tống

đạt trực tiếp đƣợc thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng thủ tục

niêm yết công khai. Khi thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng

hình thức này, Tòa án có thể tự mình trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận thực

hiện. Theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về

tổ chức hoạt động của Thừa phát lại thì hiện nay việc chuyển văn bản tố tụng

đến ngƣời có nghĩa vụ tiếp nhận có thể đƣợc ủy quyền cho tổ chức Thừa phát

lại thực hiện.

Theo quy định của BLTTDS, có 3 địa điểm thực hiện việc niêm yết

công khai văn bản tố tụng là Trụ sở TAND đang thụ lý giải quyết vụ án, trụ

sở UBND cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời đƣợc tống

62

đạt và nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời đƣợc tống đạt. Việc

niêm yết văn bản tố tụng tại trụ sở Tòa án là cần thiết bởi đây là nơi mà hàng

ngày ngƣời tham gia tố tụng, ngƣời có liên quan trong quá trình giải quyết vụ

việc dân sự thƣờng đến liên hệ làm việc. Hơn nữa, thông tin về văn bản đƣợc

niêm yết tại trụ sở thể hiện sự minh bạch, công khai với công chúng về hoạt

động tố tụng nói chung và văn bản tố tụng đó nói riêng. Nơi niêm yết công

khai thứ hai là tại trụ sở UBND cấp xã nơi cƣ trú hoặc nơi cƣ trú cuối cùng

của ngƣời tiếp nhận. Điều này rất dễ hiểu bởi đây là cơ quan quản lý hành

chính nhà nƣớc tại địa phƣơng, là nơi gần dân nhất, hàng ngày giải quyết các

công việc của công dân trên địa bàn cơ sở, do đó việc niêm yết tại các cơ quan

này sẽ phần nào đảm bảo cơ hội cho ngƣời cần đƣợc tống đạt tiếp cận với

nguồn thông tin. Văn bản niêm yết còn cần đƣợc niêm yết tại nơi cƣ trú hoặc

nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận và đƣợc xác định theo Luật cƣ trú và

văn bản hƣớng dẫn thi hành. Việc niêm yết tại nơi cƣ trú, nơi cƣ trú cuối cùng

cũng là cơ hội để họ đƣợc biết về văn bản tố tụng. Nhƣ vậy, việc niêm yết tại

trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cƣ trú, nơi cƣ trú cuối cùng và tại nơi cƣ

trú, nơi cƣ trú cuối cùng của ngƣời tiếp nhận về cơ bản là trùng nhau, cùng

trên địa bàn cấp xã.

Về thủ tục niêm yết công khai, điều luật quy định khi thực hiện niêm

yết công khai thì ngƣời thực hiện niêm yết phải lập biên bản về việc niêm yết

đó. Trong biên bản phải ghi rõ thời gian, ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày,

tháng, năm, tên của văn bản thông báo, có chữ ký của ngƣời chứng kiến. Sở

dĩ pháp luật đòi hỏi ngƣời thực hiện niêm yết phải thực hiện thủ tục này là để

có cơ sở khẳng định việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng đã đƣợc

thực hiện chính xác và vì biên bản sẽ đƣợc lƣu vào hồ sơ tố tụng. Đối với việc

niêm yết tại trụ sở Tòa án, thông thƣờng Tòa án lập biên bản niêm yết riêng,

biên bản này do Thƣ ký tòa án lập và đƣợc Thẩm phán, Cán bộ văn phòng ký

63

tên, đóng dấu xác nhận. Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là 15

ngày kể từ ngày đƣợc niêm yết. Thời gian niêm yết đƣợc đặt ra nhƣ trên nhằm

đảm bảo cơ hội cho ngƣời đƣợc tống đạt có điều kiện tiếp nhận thông tin một

cách chính xác, kịp thời. Về mặt pháp lý, ngày cuối cùng của thời hạn niêm

yết là ngày xác định việc ngƣời đƣợc tống đạt đã tiếp nhận đƣợc những thông

tin cần thiết và tạo cơ sở cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một

cách hợp pháp.

2.3.5.Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng

Việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng chỉ đƣợc thực hiện

khi pháp luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai

không đảm bảo cho ngƣời đƣợc tống đạt nhận đƣợc thông tin về văn bản cần

đƣợc tống đạt. Nhƣ vậy khi các phƣơng thức tống đạt trực tiếp, tống đạt thông

qua ngƣời thứ ba hoặc thủ tục niêm yết công khai không đạt hiệu quả, pháp

luật cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng thủ tục truyền đạt thông tin văn

bản tố tụng qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, từ đó thông tin có thể

đến với ngƣời cần đƣợc tống đạt văn bản tố tụng. Thông tin đại chúng theo

trƣờng hợp này đƣợc hiểu là một quá trình truyền đạt thông tin văn bản tố

tụng thông qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng, đến các nhóm cộng

đồng trong xã hội, trong đó có đối tƣợng cần tiếp nhận thông tin. Phƣơng thức

thông báo này xác định phạm vi địa lý để phổ biển thông tin lớn hơn so với

các phƣơng thức khác, cũng nhƣ mở rộng hơn về số lƣợng ngƣời tiếp cận

thông tin, với mong muốn ngƣời cần đƣợc tống đạt sẽ có điều kiện tiếp cận

thông tin một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Bởi nếu nhƣ thông báo, cấp, tống

đạt văn bản tố tụng trực tiếp thì chỉ đối tƣợng cần tiếp nhận hoặc ngƣời đại

diện của họ có thể tiếp cận đƣợc thì đến niêm yết công khai phạm vi đƣợc mở

rộng ra nơi cƣ trú của ngƣời đó, cùng với đó là số lƣợng ngƣời biết về thông

tin trong văn bản tố tụng cũng tăng lên. Trên thực tế áp dụng thì phƣơng thức

64

này thƣờng đem lại kết quả thấp và không xác định đƣợc rõ ràng. Ngoài

những lý do trên, thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng đƣợc

sử dụng nếu có yêu cầu của đƣơng sự khác, lệ phí liên quan sẽ do ngƣời yêu

cầu chịu.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS năm 2015 thì việc thông

báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin

điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của Trung ƣơng trong

ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của

Trung ƣơng ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Có thể thấy rằng trong điều kiện

kinh tế của nƣớc ta hiện nay, ở các đô thị lớn, mạng lƣới truyền thông,

internet phát triển mạnh mẽ giúp cho việc cập nhật thông tin đƣợc thực hiện

nhanh chóng. Tuy nhiên đối với các khu vực vùng xâu vùng xa, vùng nông

thôn kinh tế khó khăn, ngƣời dân không có những điều kiện thuận lợi để tiếp

cận các phƣơng tiện thông tin hiện đại. Vì vậy, pháp luật quy định việc đăng

tải thông tin trên các phƣơng tiện truyền thông chính thống của quốc gia, gần

gũi với ngƣời dân là báo hàng ngày của Trung ƣơng, Đài phát thanh hoặc Đài

truyền hình của Trung ƣơng nhằm đảm bảo cho việc mở rộng phạm vi lan

truyền và số lƣợng ngƣời tiếp nhận thông tin, từ đó bảo đảm cơ hội cao hơn

để thông tin đến đƣợc với ngƣời cần đƣợc tống đạt. Hiện nay, chƣa có quy

định nào của pháp luật, từ Luật Báo chí năm 2016 đến các văn bản hƣớng dẫn

thi hành Luật này đƣa ra tiêu chí xác định thế nào là báo trung ƣơng hay báo

địa phƣơng. Trên thực tế, việc xác định báo trung ƣơng hay báo địa phƣơng

thƣờng căn cứ dựa trên cơ quan chủ quản báo chí, nếu cơ quan chủ quản của

tờ báo là cấp trung ƣơng thì tờ báo họ quản lý là cấp trung ƣơng và tƣơng tự

nhƣ vậy đối với báo địa phƣơng. Căn cứ vào đơn vị chủ quản của báo chí, Bộ

thông tin và truyền thông đã phân loại một số cơ quan báo chí và công bố

công khai trên website của Bộ, theo đó, một số cơ quan báo chí trung ƣơng

65

nhƣ: đối với đơn vị chủ quản là Ban chấp hành trung ƣơng có Báo Nhân dân,

tạp chí Cộng sản; đơn vị chủ quản là Trung ƣơng Đoàn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh có Báo Tiền phong, Báo Thanh niên; đơn vị chủ quản là Tổng

Liên đoàn lao động Việt Nam có Báo Lao động... Ngoài tiêu chí cơ quan chủ

quản của tờ báo là cấp trung ƣơng thì việc thông báo trên phƣơng tiện thông

tin đại chúng còn phải đảm bảo tiêu chí rằng đó là tờ báo đƣợc phát hành

hàng ngày.

Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình trung ƣơng là các đài phát thanh

và truyền hình trực thuộc trung ƣơng, có phạm vi phát sóng trên toàn quốc.

Đài truyền hình Việt Nam là đài truyền hình quốc gia, là cơ quan thuộc Chính

phủ thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc và cung ứng các dịch vụ công. Đài Tiếng nói

Việt Nam là đài phát thanh quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ có chức

năng thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nƣớc, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân

dân và công chúng. Ngoài ra, việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại

chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Quy định này

nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin thƣờng xuyên trong lĩnh vực tƣ pháp

nói chung và hoạt động của ngành Toà án nói riêng. Mặt khác, qua việc đăng

tải thông báo trên kênh thông tin này, đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có

liên quan có thể nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận thông tin về vụ việc đang

đƣợc toà án thụ lý giải quyết.

2.3.6.Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong trường hợp

đương sự ở nước ngoài

Ngày này, với việc hội nhập quốc tế mạnh mẽ và rộng khắp thế giới,

các giao lƣu dân sự, thƣơng mại giữa các quốc gia ngày càng phổ biến dẫn

đến các tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh mà Toà án cần

66

phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều. Các tranh chấp, yêu cầu này đƣợc gọi

là vụ việc có yếu tố nƣớc ngoài. Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc

ngoài, nếu một trong các bên đƣơng sự ở nƣớc ngoài thì hoạt động cấp, thông

báo, tống đạt VBTTDS phải đƣợc thực hiện thông qua một thủ tục riêng gọi là

tƣơng trợ tƣ pháp. Trong Giáo trình Luật TTDS của Trƣờng Đại học Luật Hà

Nội có nêu: “sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các Toà án, cơ quan có

thẩm quyền của các nước được gọi là tương trợ tư pháp”. Từ đó, có thể hiểu

rằng tƣơng trợ tƣ pháp là việc Toà án của một nƣớc nhờ Toà án của nƣớc

ngoài thực hiện giúp hành vi tố tụng nhất định, cần thiết để đảm bảo giải

quyết đƣợc các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Xem xét quy định tại

Điều 13 Luật tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền

của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài thực hiện tƣơng trợ tƣ pháp trong các

trƣờng hợp sau đây: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho ngƣời đang ở nƣớc

đƣợc yêu cầu; Triệu tập ngƣời làm chứng, ngƣời giám định ở nƣớc đƣợc yêu

cầu; Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nƣớc đƣợc yêu cầu để giải quyết vụ việc

dân sự tại Việt Nam và các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật Việt

Nam. Nhƣ vậy, hoạt động cấp, thông báo, tống đạt các VBTTDS cho đƣơng

sự ở nƣớc ngoài là một trong những hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp. Hoạt động

này đƣợc thực hiện dựa trên những nguyên tắc chung của tƣơng trợ tƣ pháp

đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can

thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với

Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là

thành viên. Trong trƣờng hợp giữa Việt Nam và nƣớc ngoài chƣa ký kết điều

ƣớc quốc tế thì có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong hoạt động ủy thác

tƣ pháp nhƣng không đƣợc trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và

tập quán quốc tế (Điều 4 Luật tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007).

67

Ngoài những quy định về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong quá

trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc quy định tại chƣơng

XXXVIII của BLTTDS năm 2015, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cũng

đã ban hành một số văn bản hƣớng dẫn thực hiện hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp

nói chung và hoạt động tống đạt, thông báo VBTTDS cho đƣơng sự ở nƣớc

ngoài nói riêng. Đặc biệt, khi Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài

giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (gọi

tắt là Công ước Tống đạt) đƣợc thông qua ngày 15/11/1965 tại phiên họp lần

thứ 10 của Hội nghị La Hay về tƣ pháp quốc tế, có hiệu lực đối với Việt Nam

kể từ ngày 01/10/2016. Là thành viên của Công ƣớc Tống đạt, Việt Nam sẽ có

quyền yêu cầu các quốc gia thành viên khác thực hiện các yêu cầu tống đạt

giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp của mình theo quy định tại Công ƣớc. Đồng

thời, Việt Nam cũng có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu tống đạt giấy tờ của

các quốc gia thành viên khác phù hợp với phạm vi, yêu cầu và quy trình thủ

tục đƣợc quy định tại Công ƣớc này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tống

đạt văn bản tố tụng theo phƣơng thức quy định tại các điều ƣớc quốc tế mà

Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ƣớc Tống đạt và phƣơng thức ngoại

giao, ngày 19/10/2016, Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối

cao đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC

“Quy định về trình tự, thủ tục tƣơng trợ tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự”, có

hiệu lực từ ngày 06/12/2016. Đây là văn bản thay thế cho Thông tƣ liên tịch

số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tƣ pháp, Bộ

Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Hƣớng dẫn áp dụng một số quy định

về tƣơng trợ tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tƣơng trợ tƣ pháp” trƣớc

đó. Thông tƣ liên tịch số 12 đã nội luật hoá Công ƣớc Tống đạt, hƣớng dẫn

chi tiết về cách thức, trình tự thực hiện hồ sơ uỷ thác tƣ pháp về dân sự phù

hợp với quy định của BLTTDS năm 2015 và quy định về cơ chế thu, nộp chi

68

phí uỷ thác tƣ pháp về dân sự (tại Thông tƣ số 203/2016/TT-BTC ngày

09/11/2016). Ngày 21/2/2017, TANDTC ban hành Công văn số

33/TANDTC-HTQT quy định về việc tống đạt VBTT cho đƣơng sự ở nƣớc

ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nhằm hƣớng dẫn việc thực

hiện đúng và thống nhất các nội dung của Thông tƣ liên tịch số 12/2016/TLT-

BTP-BNG-TANDTC.

Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong trƣờng hợp đƣơng

sự ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện bằng các phƣơng thức sau:

Thứ nhất, theo phƣơng thức đƣợc quy định tại điều ƣớc quốc tế mà

Việt Nam là thành viên, các thành viên tham gia điều ƣớc phải có nghĩa vụ

tuân thủ các quy định chung đã đƣợc ký kết.

Thứ hai, thông qua cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền của mỗi quốc gia.

Bằng hình thức này, các yêu cầu về uỷ thác tƣ pháp sẽ đƣợc chuyển cho cơ

quan trung ƣơng của mỗi quốc gia, cơ quan này sẽ nhận và chuyển tiếp tới các

cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

Thứ ba, bằng con đƣờng ngoại giao, theo đó, các yêu cầu về uỷ thác tƣ

pháp đƣợc chuyển giao cho cơ quan ngoại giao của mỗi quốc gia, cơ quan này

sẽ nhận và chuyển tiếp tới cơ quan có thẩm quyền.

Thứ tư, thông qua văn phòng đại diện, chi nhánh của cơ quan, tổ chức

nƣớc ngoài tại Việt Nam.

Thứ năm, theo đƣờng dịch vụ bƣu chính, VBTTDS có thể đƣợc gửi đến

địa chỉ của đƣơng sự đang cƣ trú ở nƣớc ngoài nhƣng phải đƣợc pháp luật

nƣớc đó cho phép. Ngoài ra, phƣơng thức tống đạt này đƣợc sử dụng để tống

đạt cho đƣơng sự là công dân Việt Nam ở nƣớc ngoài thông qua cơ quan đại

diện của Việt Nam ở nƣớc ngoài (cơ quan lãnh sự, đại sứ quán); cho ngƣời

đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền tại Việt Nam của đƣơng

sự ở nƣớc ngoài. Các quy định về hồ sơ và chi phí tống đạt VBTT theo đƣờng

69

bƣu chính đƣợc pháp luật quy định cụ thể tại mục II của Công văn số

33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017.

Thứ sáu, bằng hình thức niêm yết công khai trong trƣờng hợp 5 phƣơng

thức tống đạt nêu trên không có kết quả. Khi đó, Toà án tiến hành niêm yết

công khai tại trụ sở cơ quan đại diện của Việt Nam ở nƣớc ngoài, Toà án đang

giải quyết vụ việc hoặc tại nơi cƣ trú cuối cùng của đƣơng sự tại Việt Nam

trong thời hạn 01 tháng và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Toà án

(nếu có), cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nƣớc

ngoài. Trƣờng hợp cần thiết, Toà án có thể thông báo qua kênh dành cho

ngƣời nƣớc ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ƣơng ba

lần trong 03 ngày liên tiếp. Hiện nay, ở nƣớc ta, Bộ tƣ pháp là cơ quan có

thẩm quyền nhận các văn bản uỷ thác và tài liệu liên quan đến tƣơng trợ tƣ

pháp của các Toà án địa phƣơng, sau đó các văn bản, tài liệu này sẽ đƣợc

chuyển cho Bộ Ngoại giao để Bộ Ngoại giao chuyển cho Toà án nƣớc ngoài

và ngƣợc lại. Thực tế cho thấy rằng việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS

cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài phụ thuộc vào sự hợp tác của các cơ quan tƣ pháp

nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp nếu họ không thực hiện giúp việc tống đạt thì

ta khó có thể biết đƣợc và cũng không có biện pháp nào buộc họ phải thực

hiện việc uỷ thác.

Tóm lại, việc cấp, thông báo, tống đạt VBTTDS cho đƣơng sự ở nƣớc

ngoài hiện nay đƣợc thực hiện trên cơ sở tuân theo quy định trong các hiệp

định tƣơng trợ tƣ pháp giữa nƣớc đó với Việt Nam. Trong trƣờng hợp giữa

nƣớc đó với Việt Nam không có hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp thì sẽ tuân theo

nguyên tắc có đi có lại nhƣng không đƣợc trái với pháp luật Việt Nam và

Điều ƣớc quốc tế.

2.4. Thông báo kết quả việc cấp, tống đạt, hoặc thông báo văn bản tố

tụng

70

Tại Điều 181 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong trƣờng hợp ngƣời

thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng không phải là Tòa án

hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán bộ của các cơ quan đó thì

ngƣời thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông

báo văn bản tố tụng cho Tòa án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng đó”.

Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng vì một số lý do

nào đó mà không thể thực hiện đƣợc. Để đảm bảo văn bản tố tụng đã đƣợc

chuyển đến đúng ngƣời, đúng thời hạn luật định cũng nhƣ giúp cơ quan tiến

hành tố tụng nhanh chóng xử lý các trƣờng hợp làm chậm trễ việc chuyển

giao, ngƣời thực hiện phải thông báo ngay kết quả làm việc đến thủ trƣởng cơ

quan, tổ chức hoặc ngƣời trực tiếp giao nhiệm vụ nơi mình công tác. Nếu

ngƣời thực hiện không phải là cán bộ làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng

thì ngoài trách nhiệm nêu trên, ngƣời này còn có trách nhiệm thông báo ngay

kết quả chuyển giao văn bản tố tụng cho cơ quan đã ban hành văn bản đó. Vì

ý nghĩa quan trọng của hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng,

đồng thời nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của ngƣời thực hiện, nếu không

vì lý do khách quan mà ngƣời chuyển giao vi phạm nghĩa vụ thông báo kết

quả cấp, tống đặt hoặc thông báo văn bản tố tụng thì tùy theo tính chất, mức

độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng. Tuy nhiên căn cứ để xử

lý trƣờng hợp này lại gặp vƣớng mắc, khó khăn vì pháp luật quy định việc

thông báo kết quả phải đƣợc thực hiện ngay nhƣng lại không quy định sau

bao lâu từ thời điểm “ngay” đó đƣợc coi là vi phạm trách nhiệm và đƣợc tính

là cơ sở áp dụng các biện pháp xử phạt đối với ngƣời có nghĩa vụ thực hiện.

Kết luận chƣơng 2

Có thể thấy rằng, VBTTDS rất đa dạng, mỗi văn bản đƣợc ban hành

chứa đựng những nội dung, mục đích khác nhau và đƣợc áp dụng đối với từng

71

đối tƣợng cụ thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tuỳ từng trƣờng

hợp mà các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn các phƣơng thức thông báo,

cấp, tống đạt VBTT sao cho phù hợp để đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất. Việc

BLTTDS năm 2015 quy định thêm một số phƣơng pháp mới về cấp, tống đạt,

thông báo VBTTDS đã giúp cho hoạt động tố tụng đƣợc thực hiện một cách

linh hoạt và khoa học hơn. Cùng với đó, sự gia nhập Công ƣớc Tống đạt đã

mở ra cơ hội mới cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và giao lƣu quốc tế.

Nó tạo cơ sở pháp lý đa phƣơng để Việt Nam đề nghị nƣớc ngoài thực hiện

các yêu cầu tống đạt giấy tờ nhằm giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố

nƣớc ngoài liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng cần có nhận

thức rõ rằng là thành viên của Công ƣớc Tống đạt đồng nghĩa với việc Việt

Nam sẽ tiếp nhận các yêu cầu tống đạt từ các quốc gia thành viên khác. Vì

vậy, cần có sự đầu tƣ, tăng cƣờng nguồn lực (cơ sở vật chất, cán bộ) cho công

tác tƣơng trợ tƣ pháp và đẩy mạnh sự phối hợp giữa Cơ quan Trung ƣơng với

các cơ quan địa phƣơng để đảm bảo thực hiện tốt Công ƣớc.

CHƢƠNG 3

THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN

TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp

luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Có thể thấy rằng từ khi BLTTDS năm 2015 đƣợc ban hành, với các quy

định tƣơng đối cụ thể và rõ ràng về hoạt động tống đạt VBTTDS, việc thực

hiện các công việc liên quan đến giao các VBTTDS diễn ra một cách khoa

học, chặt chẽ và quy củ hơn, giảm thiểu những sai sót trong quá trình thực

72

hiện nhiệm vụ. Thực tế ngành Toà án cho thấy trong những năm gần đây, các

vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động do Toà

án nhân dân các cấp giải quyết ngày càng gia tăng về số lƣợng, điều này đồng

nghĩa với việc số vụ việc Toà án cần thực hiện các hoạt động tống đạt văn bản

tố tụng ngày càng tăng. Việc BLTTDS dành riêng một chƣơng để quy định về

thủ tục tống đạt văn bản tố tụng đã góp phần quan trọng nâng cao chất lƣợng

giải quyết các vụ việc dân sự, tạo nên một khung pháp lý tƣơng đối hoàn

chỉnh cho hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù số lƣợng vụ việc dân sự

cần phải giải quyết không ngừng gia tăng qua các năm, nhƣng tỉ lệ vụ việc

đƣợc giải quyết của Toà án năm sau luôn cao hơn năm trƣớc. Trong quá trình

giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án nhân dân các cấp, những trƣờng hợp bản

án, quyết định dân sự bị huỷ, sửa chiếm tỷ lệ không quá cao. Theo thống kê

của ngành Toà án, trong 6 tháng đầu năm 2017, TAND hai cấp thành phố Hà

Nội đã thụ lý 18.010 vụ án, giải quyết 11.947 vụ, đạt tỉ lệ 66,3%. Số vụ án bị

huỷ, sửa giảm so với cùng kỳ năm 2016. Về chất lƣợng xét xử đƣợc nâng lên,

số án bị huỷ 57 vụ (giảm 27 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016), án sửa 280 vụ

(giảm 62 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016) [15]. Nhìn chung, hoạt động tống

đạt văn bản tố tụng đƣợc các cơ quan chức năng thực hiện một cách khách

quan, vô tƣ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Nhiều vƣớng

mắc trong hoạt động tống đạt trƣớc đây chƣa đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ, nay đã

đƣợc Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và phát huy hiệu quả áp dụng trên thực

tế. Bên cạnh đó, những quy định của BLTTDS đã phần nào khẳng định vị thế

của cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức

có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức này hoàn thành tốt

nhiệm vụ đƣợc giao.

Trong quá trình công tác, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,

các cơ quan tiến hành tố tụng đã không ngừng bồi dƣỡng, nâng cao trình độ

73

chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức; chú ý đến sự phối hợp

giữa các cơ quan nhà nƣớc trong quá trình thực hiện hoạt động tống đạt văn

bản; không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan

của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các cơ quan ban ngành liên quan trong hoạt

động tố tụng. Thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự chứng minh những điều

này đã tạo tiền đề quan trọng để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động

tống đạt văn bản tố tụng.

Cho đến nay vẫn chƣa có thống kê chính thức về số lƣợng bản án, quyết

định dân sự, kinh doanh thƣơng mại, lao động của Toà án bị huỷ do vi phạm

quy định pháp luật về tống đạt văn bản tố tụng, tuy nhiên có thể nhận thấy

trên thực tiễn có rất nhiều bản án, quyết định bị toà án cấp trên huỷ vì lý do vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trong đó các vi phạm về tống đạt văn bản

tố tụng là tƣơng đối phổ biến. Thực trạng này dẫn đến yêu cầu đƣợc đặt ra là

cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động tống đạt văn bản để

đảm bảo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời cũng đảm bảo quyền, lợi ích hợp

pháp của các đƣơng sự khi tham gia tố tụng.

3.1.2. Những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định

của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

3.1.2.1. Đối với thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương

tiện thông tin đại chúng

a - Việc áp dụng thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng

còn thiếu thống nhất

Theo quy định pháp luật có ba trƣờng hợp phải thực hiện thủ tục thông

báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng. Một là, khi pháp luật có quy định.

Hai là, có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời

đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,

74

tống đạt, thông báo. Các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

có sử dụng phƣơng thức thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng đó là:

yêu cầu thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú, yêu cầu tuyên bố

một ngƣời mất tích và yêu cầu tuyên bố một ngƣời là đã chết. Tuy nhiên, căn

cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo thì lại không có hƣớng

dẫn cụ thể dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các Toà án.

Ví dụ: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vƣợng VPBank (gọi tắt là

Ngân hàng VPBank) khởi kiện ông Lê Văn H ra Toà án nhân dân huyện Phúc

Thọ về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Quá trình xác minh, thông tin,

địa chỉ của ông H theo địa chỉ mà Ngân hàng cung cấp, công an xã Vân Hà

xác minh nhƣ sau: “Ông Lê Văn H và gia đình còn đăng ký hộ khẩu tại xã

Vân Hà, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, ông H hiện đã đi đâu

không rõ.” Trong trƣờng hợp này, có ý kiến cho rằng ông Lê Văn H còn đăng

ký hộ khẩu tại địa phƣơng và gia đình ông hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ

này. Do đó chỉ cần cấp, tống đạt, thông báo cho ngƣời thân của ông H để họ

thông báo lại với ông và thực hiện thủ tục niêm yết công khai thì đã “đảm

bảo” mà không cần thiết thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông

tin đại chúng. Bên cạnh đó, một quan điểm khác lại cho rằng do ông H đã đi

khỏi địa phƣơng, không rõ thời điểm trở về, không rõ địa chỉ nơi cƣ trú mới

nên việc niêm yết công khai tại địa phƣơng sẽ không đảm bảo việc ông H biết

đƣợc việc Ngân hàng VPBank khởi kiện đối với ông. Vì vậy, trƣờng hợp này

cần phải thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng.

Đối với hai quan điểm nêu trên, tác giả nghiêng về quan điểm thứ nhất. Theo

đó, chỉ cần thực hiện thủ tục niêm yết công khai mà không cần phải thực hiện

thủ tục thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng. Bởi lẽ ngƣời thân của

ông H còn cƣ trú tại địa chỉ trên và Toà án đã thông báo về việc thụ lý vụ án

cho gia đình ông H đƣợc biết. Đồng thời, ông H đi khỏi địa phƣơng mà không

75

thực hiện thủ tục khai báo tạm trú, tạm vắng theo quy định của pháp luật. Do

đó, có cơ sở xác định ông H cố tình trốn tránh việc khởi kiện nên chỉ cần thực

hiện thủ tục niêm yết công khai.

Trên thực tế, nhiều trƣờng hợp đƣơng sự bỏ trốn khỏi địa phƣơng, cố

tình trốn tránh việc tống đạt mặc dù vẫn biết việc khởi kiện, gia đình ngƣời

thân không hợp tác cung cấp thông tin, địa chỉ của đƣơng sự dẫn đến việc giải

quyết vụ án kéo dài, gây khó khăn cho đƣơng sự khác mà chủ yếu là ngƣời

khởi kiện. Đa số các vụ án phải tiến hành thủ tục thông báo trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng thì trong thời gian 04 tháng kể từ ngày thông báo, Toà án

mới tiếp tục giải quyết vụ việc. Mặt khác, chi phí để thực hiện thủ tục thông

báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng khá cao mà thông thƣờng lệ phí này

do đƣơng sự có yêu cầu thông báo chịu.Vì vậy, việc đƣơng sự (chủ yếu là

ngƣời bị kiện) không phải chịu chi phí thông báo sẽ dẫn đến việc cố tình trốn

tránh việc khởi kiện, cản trở tố tụng tƣ pháp. Các đƣơng sự cùng tham gia

trong vụ án cũng có thể yêu cầu thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng, Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ việc sẽ xem xét

có chấp nhận thực hiện thủ tục này hay không. Nếu đƣợc chấp nhận thì đƣơng

sự yêu cầu phải chịu lệ phí thông báo.

b - Quy định về việc thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại

chúng chưa cụ thể

Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS 2015 thì việc thông báo

trên phƣơng tiện thông tin đại chúng phải đƣợc đăng trên Cổng Thông tin

điện tử của Toà án. Thực tế cho thấy, thông báo của một số Toà án tỉnh/thành

phố có Cổng thông tin điện tử thực hiện việc đăng thông báo trên Cổng thông

tin của Toà án cấp tỉnh đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết

của Toà án cấp huyện và tỉnh nơi đó. Tuy nhiên, một số Toà án địa phƣơng

chƣa có Cổng thông tin điện tử nên việc thông báo của Toà án lại đƣợc đăng

76

trên Cổng thông tin của TANDTC dẫn đến việc tra cứu thông báo không

thống nhất, gây khó khăn, không mang lại hiệu quả, đặc biệt là khi thông báo

trên Cổng thông tin điện tử của Toà án địa phƣơng nhƣng đƣơng sự không

còn có mặt tại địa phƣơng. Vì vậy cần có quy định rõ đối với vấn đề này để

đem lại hiệu quả đối với việc thực hiện mục đích của quy định trên.

c - Quy định về nghĩa vụ chịu lệ phí thông báo còn nhiều bất cập

Theo quy định tại điều 180 BLTTDS năm 2015 thì đƣơng sự phải chịu lệ

phí thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng nếu đƣơng sự có yêu cầu.

Đồng thời đối với trƣờng hợp áp dụng thủ tục thông báo trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng mà pháp luật có quy định thì lệ phí thực hiện theo quy

định cũng do đƣơng sự phải chịu. Tuy nhiên, đối với trƣờng hợp mà pháp luật

không có quy định và đƣơng sự không có yêu cầu mà có căn cứ xác định việc

niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo

nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp, tống đạt thì lại không có quy

định ai là ngƣời phải chịu lệ phí thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại

chúng. Trƣờng hợp này Toà án có phải chịu lệ phí hay không và nếu chịu thì

lấy tiền từ đâu, quyết toán nhƣ thế nào hay do đƣơng sự phải chịu thì chƣa có

hƣớng dẫn cụ thể. Bất cập này dẫn đến các hậu quả pháp lý sau: Thứ nhất,

trƣờng hợp đƣơng sự đi khỏi địa phƣơng và có căn cứ xác định việc niêm yết

công khai không đảm bảo cho ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc

thông tin về văn bản cần đƣợc cấp, tống đạt nhƣng các Toà án thƣờng chỉ

dừng lại ở thủ tục niêm yết công khai hoặc thực hiện khi đƣơng sự có yêu cầu.

Điều này khiến việc thực hiện thủ tục cấp, tống đạt, thông báo cho đƣơng sự

không đƣợc đảm bảo. Thứ hai, một số toà án ra thông báo yêu cầu đƣơng sự

phải chịu lệ phí thông báo để thực hiện thủ tục thông báo trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng gây bất lợi cho đƣơng sự khi mà lệ phí thực hiện thủ tục

thông báo không nhỏ gây nên tâm lý ngại đi kiện, vì không biết có giải quyết

77

đƣợc không nhƣng lại bỏ ra một khoản lệ phí khá cao để giải quyết và tạo

điều kiện cho đƣơng sự trốn tránh việc khởi kiện. Tuy nhiên cũng có một số

toà án lại chịu lệ phí thực hiện thông báo gây nên bất nhất trong quá trình tố

tụng.

3.1.2.2. Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua dịch vụ bưu

chính

BLTTDS quy định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS qua dịch vụ

bƣu chính đƣợc coi là hợp lệ khi VBTT đƣợc gửi bằng thƣ đảm báo và phải

có chữ ký của ngƣời nhận VB mà không quy định rõ trình tự, thủ tục tiến

hành khiến cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng. Các

văn bản thể hiện việc chuyển giao giữa Tòa án và bƣu điện không có các mục

ghi thông tin hay phần nội dung để Tòa án có thể ghi số hiệu, thời gian ban

hành văn bản, thời gian triệu tập, mời đƣơng sự, ngƣời tham gia tố tụng khác,

cũng không có mục nêu rõ trách nhiệm của nhân viên bƣu điện phải giao tận

tay cho ngƣời cần đƣợc tống đạt. Đa số nhân viên bƣu điện do am hiểu pháp

luật còn hạn chế nên không tuân thủ các quy định về thủ tục tống đạt. Hơn

nữa, quá trình chuyển giao văn bản phải thực hiện qua nhiều khâu trung gian

khiến cho VBTT thƣờng đƣợc chuyển qua nhiều ngƣời nên thực tế ngƣời giao

tận tay cho ngƣời đƣợc tống đạt văn bản tố tụng không phải là ngƣời nhận văn

bản từ cán bộ Tòa án ban đầu. Khi chuyển giao văn bản tố tụng, nhân viên

bƣu điện thƣờng chỉ chú ý đến chuyển giao đến đúng địa chỉ ghi trên bì thƣ

mà không quan tâm đến việc ai là ngƣời ký nhận cũng nhƣ các điều kiện khác

để đảm bảo cho việc tống đạt đƣợc xem là hợp lệ. Đối với đƣơng sự ở các

vùng nông thôn không có số nhà, tên đƣờng cụ thể mà chỉ có địa chỉ là thôn,

xóm, huyện, xã...; nhân viên bƣu điện có khi chuyển giao bƣu phẩm trực tiếp

cho ngƣời nhận, nhƣng cũng có khi chỉ giao cho tổ trƣởng tổ dân phố khu vực

đó mà không báo lại cho Toà án biết. Hoặc có nhiều trƣờng hợp bƣu phẩm

78

đƣợc ngƣời khác nhận thay nhƣng nhân viên bƣu điện không ghi rõ ngƣời

nhận là ai, quan hệ nhƣ thế nào với ngƣời đƣợc tống đạt. Do đó, rất khó để

xác định việc ngƣời đƣợc tống đạt đã nhận đƣợc văn bản tố tụng nếu đến thời

gian đƣợc triệu tập, họ không có mặt tại Toà án.

3.1.2.3. Về hoạt động niêm yết công khai văn bản tố tụng dân sự

Một số Toà án khi giải quyết các vụ việc dân sự đã áp dụng không đúng

các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục niêm yết văn bản

tố tụng, dẫn đến bản án, quyết định bị Toà án cấp trên huỷ vì vi phạm thủ tục

tố tụng. Có thể kể đến hai bản án sau đây:

Bản án thứ nhất: Ngày 28/3/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã

mở phiên toà phúc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa

nguyên đơn là Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Đại Á và bị đơn là Công ty

trách nhiệm hữu hạn MTV NQP. Tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản tiền

vay theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết gồm: 02 Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất do bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Đinh Văn D là chủ sở

hữu. Ngày 08/8/2017, 08 ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án

là bà Nguyễn Thị Mỹ H, bà Nguyễn Thị Hoàng Anh K, ông Nguyễn Xuân Th,

bà Nguyễn Thị Mỹ L, ông Nguyễn Quốc Q, bà Nguyễn Thị Ch, ông Nguyễn

Quốc K và bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số

35/2017/KDTM-ST ngày 18/07/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [58].

Nhận xét về thủ tục tố tụng, Toà án cấp phúc thẩm cho rằng Toà án cấp

sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng theo Điều 179 BLTTDS

năm 2015 khi thực hiện việc triệu tập bị đơn thông qua thủ tục niêm yết

không đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể, tại biên bản niêm yết ngày

21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết Giấy triệu tập làm việc số 75/GTT

ngày 15/10/2015 cho công ty NQP tại trụ sở công ty NQP (địa chỉ 138H, tổ 4,

ấp 2, xã An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân

79

dân xã An Hòa, thành phố Biên Hòa nhƣng không niêm yết tại trụ sở Tòa án;

Tại biên bản niêm yết ngày 21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết giấy

triệu tập làm việc số 72/GTT ngày 15/10/2015 đối với ông Đinh Văn D và bà

Phạm Thị Thu Th tại nơi cƣ trú (địa chỉ 138H, tổ 4, ấp 2, xã An Hòa, thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân dân xã An Hòa, thành

phố Biên Hòa nhƣng không niêm yết tại trụ sở Tòa án. Ngày niêm yết là

21/10/2015, triệu tập làm việc vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 02/11/2015 là

không đủ 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc Thẩm phán tính toán thời hạn

niêm yết VBTT là không chính xác. Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên

hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Tp. Biên Hòa giải

quyết lại theo thủ tục chung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Qua vụ án trên có thể thấy rằng niêm yết công khai là một hoạt động tố

tụng quan trọng. Từ việc không nắm chắc các quy định của pháp luật đã dẫn

đến việc áp dụng sai trình tự, thủ tục tố tụng. Các trƣờng hợp vi phạm thƣờng

gặp đó là niêm yết VBTT không đúng địa điểm, không đủ thời gian 15 ngày

mà nguyên nhân chính là do Thẩm phán tính toán thời hạn niêm yết không

chính xác theo đúng quy định và hƣớng dẫn của TANDTC.

Bản án thứ hai: Ngày 21/03/2018, TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc

thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 232/2017/TLPT-DS ngày 06/12/2017

về việc “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Th và bị đơn là ông

Nguyễn Minh H. Do bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày

31/7/2017 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột bị ông H kháng cáo (ngày

14/10/2017).

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và ngƣời đại diện theo uỷ

quyền của bị đơn cho rằng khi xét xử sơ thẩm, ông TR và ông P (là ngƣời có

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) không đƣợc Toà án triệu tập tham gia phiên

toà và Toà án cấp sơ thẩm thực hiện niêm yết VBTT tại nơi ở của ông H

80

không đúng dẫn đến việc ông H không nhận đƣợc Quyết định đƣa vụ án ra xét

xử và Bản án sơ thẩm, làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông

H. Tại phiên toà, đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk trình bày quan điểm: Ông H

đang ở địa chỉ đƣờng Y, Thôn A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, nhƣng Tòa án

cấp sơ thẩm xác định ông H đang ở thôn B và tống đạt, niêm yết văn bản tố

tụng tại thôn B là không đúng quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015.

Đồng thời khi tiến hành niêm yết văn bản tố tụng Tòa án không thực hiện việc

lập biên bản trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt

và không đƣa ông H vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68, Điều 177

BLTTDS năm 2015. Do đó có thể thấy toà án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng dân sự.

Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình

bày của các đƣơng sự, HĐXX nhận định việc tống đạt, niêm yết các văn bản

của Tòa án thì cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết nhƣng không đúng theo quy

định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Việc ông Nguyễn Minh H cho rằng

ông không nhận đƣợc các văn bản của Tòa án cấp sơ thẩm là có cơ sở. Do đó

HĐXX quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày

31/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và

chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Qua vụ án trên ta thấy, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định không đúng địa

chỉ nơi ở của ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, dẫn đến

việc họ không nhận đƣợc các VBTT. Thêm nữa, việc niêm yết VBTT đƣợc

tiến hành không đúng thủ tục, trình tự luật định bởi cán bộ thực hiện niêm yết

không lập biên bản trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc cấp, tống đạt, thông báo

vắng mặt (theo quy định tại Điều 177 BLTTDS năm 2015) là vi phạm thủ tục

tố tụng. Trong trƣờng hợp này, ông H vắng mặt tại nơi cƣ trú, không rõ thời

điểm trở về thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành lập biên bản về việc không

81

thực hiện đƣợc việc cấp, tống đạt, thông báo VBTT, có xác nhận của đại diện

tổ dân phố hoặc Công an xã/phƣờng; đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết

công khai.

3.1.2.4. Về việc xác định nơi cư trú của đương sự

Có thể thấy rằng việc xác định đúng địa chỉ nơi cƣ trú của đƣơng sự có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thủ tục tống đạt văn bản tố tụng,

nhằm đảm bảo cho đƣơng sự có khả năng tiếp cận với thông tin của văn bản

tố tụng cần tống đạt và là cơ sở để xác định tính hợp pháp, tính hiệu quả của

hoạt động tống đạt. Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc xác định địa chỉ nơi

cƣ trú của đƣơng sự còn là một số khó khăn vƣớng mắc, biểu hiện cụ thể

trong 2 vụ án dƣới đây:

Vụ án thứ nhất: về “Yêu cầu cấp dƣỡng” giữa nguyên đơn là ông Trần

Thái D và bị đơn là ông Nguyễn Hữu P. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông

Trần Thái D xác định địa chỉ của bị đơn Nguyễn Hữu P ở tại số 21 Lĩnh Nam,

Hoàng Mai, Hà Nội. Toà án sơ cấp thẩm đã tiến hành xác minh địa chỉ cƣ trú

của bị đơn và đƣợc chính quyền địa phƣơng xác nhận tại biên bản xác minh

ngày 15/07/2015 với nội dung nhƣ sau: “ông Nguyễn Hữu P đăng ký hộ khẩu

thƣờng trú tại số 8 Lĩnh Nam nhƣng ở tại số 21 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà

Nội. Hiện nay đƣơng sự không có mặt tại địa phƣơng, đi làm ăn xa ở Vũng

Tàu, không có địa chỉ cụ thể”. Vì nguyên đơn không cung cấp thêm địa chỉ

nào khác của bị đơn nên Toà án cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn chƣa đủ

điều kiện khởi kiện và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau khi nguyên đơn có

đơn kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét và cho rằng, trong trƣờng

hợp này nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Vậy thế

nào thì đƣợc coi là “đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ nơi cƣ trú”? Theo hƣớng

dẫn tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017

của HĐTP TANDTC thì: ngƣời khởi kiện đã cung cấp địa chỉ nơi cƣ trú của

82

ngƣời bị kiện cho Toà án theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm nộp

đơn khởi kiện mà đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có

căn cứ khác chứng minh rằng đó đó là địa chỉ của ngƣời bị kiện thì đƣợc coi

là đã ghi đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Nhƣ vậy, trong vụ án này, tại thời

điểm ông Trần Thái D nộp đơn khởi kiện, chính quyền địa phƣơng đã xác

nhận địa chỉ nơi ở của ông Nguyễn Hữu P (bị đơn) tại 21 Lĩnh Nam, Hoàng

Mai, Hà Nội mà ông D đã cung cấp cho Toà án là đúng và đƣợc coi là đã ghi

đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện. Mặt khác, ông Nguyễn Hữu P thay đổi nơi cƣ

trú mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo

quy định của pháp luật về cƣ trú. Lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các

thủ tục tống đạt các thông báo và quyết định đƣa ra vụ án xét xử để giải quyết

vụ án theo trƣờng hợp ngƣời bị kiện cố tình giấu địa chỉ chứ không đƣợc đình

chỉ giải quyết vụ án. Theo đó, Toà án phải tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết

theo thủ tục chung theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm

2015 và hƣớng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP. Do

đó Toà án cấp phúc thẩm đã huỷ quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của

Toà án sơ thẩm.

Vụ án thứ hai: về việc “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đoàn Lệ

H và bị đơn là anh Nguyễn Hoàng A. Tóm tắt nội dung vụ án nhƣ sau:

“Chị Đoàn Lệ H và anh Nguyễn Hoàng A kết hôn trên cơ sở tự nguyện,

có đăng ký kết hôn ngày 06/09/1998 tại UBND phƣờng Q, quận B, thành phố

Hà Nội. Đến năm 2013, anh A bỏ nhà đi không có tin tức gì, không ai biết

hiện anh đang ở đâu. Chị H đã có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự

về việc tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú đối với anh A. Ngày

29/12/2015, Tòa án nhân dân quận B đã ra Quyết định chấp nhận yêu cầu

thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú của chị H đối với anh A.

Sau khi ra Quyết định giải quyết việc dân sự nêu trên, Tòa án nhân dân quận

83

B đã thực hiện đúng quy định tại Điều 385 BLTTDS năm 2015 về thông báo

tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú, nhƣng anh H vẫn không trở về nhà và

cũng không có tin tức gì. Ngày 10/9/2016, chị H có đơn khởi kiện xin ly hôn

với anh A và cùng ngày Tòa án nhân dân quận B thụ lý vụ án. Quá trình giải

quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết công khai các văn bản

tố tụng theo quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Ngày 25/10/2016,

Tòa án tiến hành xét xử đối với vụ án và tuyên chị H đƣợc ly hôn anh A. Toàn

bộ quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi kiện đến khi xét xử, không có tin tức

gì của anh A và không biết đƣợc anh A đang cƣ trú ở đâu”.

Tại thời điểm chị H làm đơn khởi kiện thì anh A không có mặt tại địa

chỉ cƣ trú mà chị H đã cung cấp cho Tòa án; địa chỉ mà chị H cung cấp cho

Tòa án là nơi đăng ký hộ khẩu thƣờng trú của anh A, còn địa chỉ nơi ở hiện tại

của anh A thì chị H không biết và không cung cấp đƣợc. Việc xác minh địa

chỉ của anh A không đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận và chị H

cũng không có căn cứ nào khác để chứng minh đó là địa chỉ của anh A. Theo

quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 và hƣớng dẫn tại

Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC về

Hƣớng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số

92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án thì

đây là trƣờng hợp phải trả lại đơn khởi kiện vì chƣa có đủ điều kiện khởi kiện.

Do đó việc Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của anh A là sai quy định. Hơn nữa,

vì anh A không có mặt tại địa chỉ mà chị H cung cấp nên anh A không nhận

đƣợc thông báo thụ lý vụ án của Tòa án; mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm

yết công khai và thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, nhƣng anh A

vẫn không biết về việc khởi kiện của nguyên đơn và việc thụ lý giải quyết vụ

án của Tòa án cấp sơ thẩm. Bởi vậy, không có căn cứ để cho rằng anh A cố

84

tình giấu địa chỉ nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung là

không đúng.

Theo quy định tại các Điều 64, 65, 66, 67 của Bộ luật dân sự năm 2015

về Thông báo tìm kiếm ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú thì chỉ quy định về việc

quản lý tài sản của ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú mà không quy định về việc

Tòa án giải quyết cho ly hôn trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn. Việc

giải quyết cho ly hôn chỉ có thể đƣợc Tòa án giải quyết theo quy định tại

khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 về tuyên bố một ngƣời mất tích.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có quy định nào về việc giải

quyết cho ly hôn đối với ngƣời vắng mặt tại nơi cƣ trú mà chỉ có quy định đối

với trƣờng hợp tuyên bố mất tích, cụ thể khoản 2 điều 56 Luật này quy định:

“Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích yêu

cầu ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Để ly hôn với ngƣời mất tích

trƣớc hết vợ hoặc chồng cần phải thực hiện thủ tục yêu cầu Toà án tuyên bố

vợ hoặc chồng mất tích sau đó mới thực hiện thủ tục ly hôn. Nhƣ vậy, đối với

vụ án này Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị H là không

có căn cứ pháp luật, mà cần hƣớng dẫn chị H thực hiện thủ tục giải quyết việc

dân sự về tuyên bố anh A mất tích, sau đó mới có thể giải quyết về quan hệ

hôn nhân.

Từ hai vụ án nói trên cho thấy trong các trƣờng hợp nguyên đơn khởi

kiện mà vì lý do nào đó không xác định đƣợc địa chỉ hiện tại của bị đơn. Cấp

phúc thẩm cho rằng trong trƣờng hợp bị đơn có đăng ký hộ khẩu thƣờng trú

tại địa phƣơng nhƣng họ thƣờng xuyên vắng mặt tại địa chỉ thƣờng trú mà

không thông báo cho ngƣời khởi kiện thì đƣợc xem nhƣ trƣờng hợp họ cố tình

giấu địa chỉ. Trƣờng hợp này, Toà án cấp sơ thẩm cần tiến hành tống đạt các

văn bản tố tụng để tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

85

Trở lại với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số

04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân

dân tối cao, ta có thể nhận thấy: Bộ luật Tố tụng dân sự xác định tên, địa chỉ

của ngƣời bị kiện là một trong những nội dung chính của đơn khởi kiện.

Trong trƣờng hợp nguyên đơn không ghi đúng tên, địa chỉ của ngƣời bị kiện

thì Toà án yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ghi đúng và đầy đủ

các thông tin đƣợc yêu cầu; nếu họ không thực hiện, Toà án không đƣợc thụ

lý vụ án mà phải trả lại đơn khởi kiện cho họ. Nếu ngƣời khởi kiện không biết

hoặc không ghi đúng địa chỉ của ngƣời bị kiện, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan thì họ phải thực hiện việc tìm và xác minh địa chỉ của những ngƣời

nói trên. Chỉ trong trƣờng hợp ngƣời khởi kiện ghi đúng, đầy đủ địa chỉ của

ngƣời bị kiện nhƣng ngƣời bị kiện không có nơi cƣ trú ổn định, thƣờng xuyên

thay đổi nơi cƣ trú mà không thông báo địa chỉ mới cho ngƣời khởi kiện, cho

Toà án, nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với ngƣời khởi

kiện thì đƣợc coi là trƣờng hợp cố tình giấu địa chỉ và Toà án tiến hành thụ lý

giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày

05/5/2017 cũng đƣa ra hƣớng dẫn về việc xác định thế nào là “ghi đầy đủ và

đúng địa chỉ” tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết. Thực tiễn cho thấy có rất

nhiều trƣờng hợp ngƣời dân đăng ký hộ khẩu thƣờng trú ở một nơi nhƣng vì

lý do học tập, công tác...mà họ có thể sinh sống ở một địa phƣơng khác. Do

đó, để có căn cứ cho việc thụ lý vụ án, kèm theo các giấy tờ, tài liệu và đơn

khởi kiện, một số Toà án thƣờng yêu cầu ngƣời khởi kiện cung cấp thêm Giấy

xác nhận cƣ trú của ngƣời bị kiện do cơ quan Công an tại địa phƣơng mà bị

đơn có hộ khẩu thƣờng trú, tạm trú hoặc đang sinh sống xác nhận. Điều này

giúp cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng đƣợc diễn ra một cách chặt chẽ và

trình tự hơn.

86

3.1.2.5. Về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho đương sự ở nước

ngoài

Vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án Việt Nam đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 469 BLTTDS năm 2015.

Tuy nhiên, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và việc xác

định việc phải ủy thác tƣ pháp trong một số trƣờng hợp khá phức tạp và

không phải vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài nào Tòa án cũng phải tiến

hành ủy thác tƣ pháp và ngƣợc lại. Nhiều vụ việc dân sự khi Tòa án tiến hành

thụ lý, giải quyết thì không phải là “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và

không phải tiến hành ủy thác tƣ pháp nhƣng sau đó một hoặc nhiều đƣơng sự

ra nƣớc ngoài công tác, học tập, lao động dẫn đến Tòa án phải tiến hành ủy

thác tƣ pháp. Do đó, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” để

xác định việc Tòa án có phải tiến hành việc ủy thác tƣ pháp hay không chỉ

mang tính chất tƣơng đối. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán phải

căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể mà mình đang giải quyết để xác định xem

có cần tiến hành hoạt động tố tụng ở nƣớc ngoài hay không, từ đó, xác định

việc có phải tiến hành việc ủy thác tƣ pháp ra nƣớc ngoài hay không.

Theo thống kê tại Báo cáo công tác Tƣơng trợ tƣ pháp của Chính phủ

trình Quốc hội hàng năm, từ năm 2013 đến năm 2017, các cơ quan có thẩm

quyền Việt Nam đã gửi đi nƣớc ngoài tổng cộng 15.485 yêu cầu UTTP, đã

tiếp nhận 3921 yêu cầu TTTP của nƣớc ngoài vào Việt Nam [5]. Trong đó

năm 2017 đã tiếp nhận, xử lý 1.920 hồ sơ ủy thác tƣ pháp về dân sự do các cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi đi nƣớc ngoài; 787 hồ sơ của cơ quan

thẩm quyền nƣớc ngoài gửi tới Việt Nam [8]. Trong đó, yêu cầu tống đạt giấy

tờ, tài liệu, bản án chiếm đến hơn 80% các yêu cầu uỷ thác tƣ pháp. Từ số liệu

thực tế trên đây, có thể thấy rằng số lƣợng yêu cầu uỷ thác tƣ pháp về dân sự

là rất lớn. Sau nhiều năm thực hiện, với khối lƣợng lớn hàng năm các yêu cầu

87

TTTP, Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao, Toà án và cơ quan THADS cấp tỉnh,

thành phố trên cả nƣớc đã có nhiều nỗ lực để thực hiện các quy định pháp luật

trong nƣớc cũng nhƣ các ĐƢQT về TTTP trong lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên

vẫn còn những tồn tại, hạn chế, cụ thể là:

- Thứ nhất, thực tiễn cho thấy khi giải quyết các vụ án có yếu tố nƣớc

ngoài có hoạt động uỷ thác tƣ pháp (tống đạt các văn bản tố tụng, lấy lời khai

đƣơng sự ở nƣớc ngoài,...), việc thực hiện uỷ thác tƣ pháp chiếm rất nhiều

thời gian, làm ảnh hƣởng đến thời hạn chuẩn bị xét xử. Thêm vào đó, một số

lƣợng hồ sơ UTTP gửi ra nƣớc ngoài còn chƣa đáp ứng yêu cầu (về biểu mẫu,

ngôn ngữ …) nên bị trả lại để bổ sung, hoàn thiện khiến thời gian thực hiện

UTTP bị kéo dài.

- Thứ hai, một số cơ quan thực hiện hồ sơ ủy thác còn chƣa nắm rõ các

kênh thực hiện (theo Công ƣớc Tống đạt hay theo kênh Hiệp định song

phƣơng hoặc áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo kênh ngoại giao) để lựa

chọn phƣơng án phù hợp.

Những hạn chế, tồn tại này làm giảm hiệu quả thực hiện TTTP, ảnh

hƣởng đến việc giải quyết các vụ việc dân sự, thi hành án có yếu tố nƣớc

ngoài.

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống

đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Trên cơ sở các vƣớng mắc, bất cập đã phân tích ở trên, ngƣời viết xin

đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị giải quyết nhƣ sau:

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo văn bản

tố tụng dân sự

 Đối với trường hợp cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

cho cá nhân thông qua người thân thích của họ

88

Để hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục tống đạt trong trƣờng hợp

ngƣời đƣợc tống đạt vắng mặt và toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng

thông qua ngƣời thân thích của họ, pháp luật tố tụng dân sự cần có quy định

cụ thể về “ngƣời thân thích”. Theo đó, ngƣời thân thích của đƣơng sự, ngoài

vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con nuôi, con đẻ; ông bà nội, ông bà

ngoại, anh chị em ruột, chú bác ruột, cậu cô ruột, dì ruột, cháu ruột thì còn

bao gồm cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, con dâu, con rể. Nếu những ngƣời này có

đầy đủ năng lực hành vi dân sự và ở cùng nơi cƣ trú của đƣơng sự thì họ có

thể nhận thay văn bản tố tụng cần đƣợc tống đạt và cam kết chuyển giao lại

cho ngƣời đƣợc tống đạt.

 Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện

thông tin đại chúng

Thứ nhất, cần có hƣớng dẫn cụ thể, chi tiết đối với trƣờng hợp đƣợc

xem là “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời

đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,

tống đạt, thông báo” để việc áp dụng đƣợc thống nhất.

Thứ hai, đối với việc đăng thông báo trên Cổng thông tin điện tử cần có

hƣớng dẫn cụ thể. Theo tác giả, thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại

chúng phải đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để đảm bảo

việc thông tin đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất.

Thứ ba, việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại chúng nên đƣợc

thực hiện một lần theo trình tự thủ tục BLTTDS quy định và cần đảm bảo các

nội dung nhƣ sau: thông báo cho ngƣời cần đƣợc thông tin biết về việc khởi

kiện, nội dung khởi kiện của nguyên đơn, toà án thụ lý vụ việc, dự kiến thời

gian hoà giải, thời gian mở phiên toà và ấn định một khoảng thời gian phù

hợp để ngƣời đƣợc thông báo liên hệ với toà án có thẩm quyền giải quyết

tranh chấp. Điều này nhằm hạn chế việc ngƣời yêu cầu thông báo phải gánh

89

chịu một chi phí quá lớn cho việc thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại

chúng và cũng đảm bảo đƣợc thời gian giải quyết vụ việc dân sự, tránh tình

trạng án quá hạn kéo dài.

Thứ tư, đối với nghĩa vụ phải chịu lệ phí trong trƣờng hợp Toà án xác

định “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho ngƣời

đƣợc cấp, tống đạt, thông báo nhận đƣợc thông tin về văn bản cần đƣợc cấp,

tống đạt, thông báo” cần đƣợc quy định rõ. Theo quan điểm của ngƣời viết, đa

số ngƣời bị yêu cầu thông báo tìm kiếm đều là đối với ngƣời bị kiện và đều

không thực hiện việc khai báo tạm trú, tạm vắng khi đi khỏi địa phƣơng, một

số nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ. Do đó cần xem xét buộc họ phải

chịu lệ phí thông báo nhƣ đối với án phí trong trƣờng hợp yêu cầu của ngƣời

khởi kiện đƣợc Toà án chấp thuận. Ngoài ra pháp luật tố tụng dân sự cần bổ

sung quy định xác định trách nhiệm chịu chi phí thông báo trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng trong trƣờng hợp Toà án có trách nhiệm giải quyết vụ

việc dân sự là cơ quan chịu chi phí cho việc đăng tải thông tin ở các báo, đài

phát thanh hoặc đài truyền hình trung ƣơng theo quy định. Đồng thời cần có

hƣớng dẫn bổ sung thủ tục quyết toán các khoản chi phí này cho Toà án nhân

dân các địa phƣơng.

 Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua đường bưu

điện

Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Thông tin và truyền thông cần sớm ban

hành văn bản liên tịch hƣớng dẫn việc tống đạt văn bản tố tụng qua đƣờng

bƣu điện để đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản tố tụng do Tòa án ban hành.

Theo đó, cần hƣớng dẫn và thống nhất về một số vấn đề nhƣ: nội dung biên

bản chuyển giao văn bản tố tụng giữa Toà án và bƣu điện (có số hiệu, ngày

tháng năm ban hành văn bản cũng nhƣ thời gian triệu tập, mời đƣơng sự); đề

ra quy chế phối hợp để nâng cao ý thứ trách nhiệm của nhân viên bƣu điện

90

trong quá trình chuyển giao văn bản tố tụng (ví dụ: trách nhiệm về việc thông

tin cho cơ quan ban hành văn bản tố tụng biết về việc văn bản không đƣợc

chuyển giao trực tiếp cho ngƣời nhận mà có thể đƣợc chuyển giao cho tổ

trƣởng tổ dân phố hoặc ngƣời khác...). Đồng thời, hƣớng dẫn rõ trƣờng hợp

tống đạt trực tiếp cho ngƣời đƣợc tống đạt, qua ngƣời thân, chính quyền địa

phƣơng cũng nhƣ thể hiện đầy đủ các thông tin trong trƣờng hợp không tống đạt

đƣợc. Mục đích của việc này là nhằm tạo điều kiện cho Toà án chủ động các

hoạt động tống đạt tiếp theo khi đƣơng sự không có mặt tại Toà án theo yêu

cầu.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo

văn bản tố tụng dân sự

 Về hoạt động phối hợp tống đạt văn bản giữa cơ quan tiến hành tố

tụng và các cơ quan chức năng khác

Từ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về ngƣời thực hiện hoạt động

tống đạt văn bản tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy: ngoài việc trực tiếp thực

hiện hoạt động tống đạt văn bản, Toà án có thể phối hợp với UBND cấp xã

nơi cƣ trú của ngƣời tham gia tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời

tham gia tố tụng làm việc để chuyển giao văn bản tố tụng cho ngƣời này trong

những trƣờng hợp cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể về

trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ

quan này phải phối hợp thực hiện khi Toà án có yêu cầu. Đồng thời, theo Luật

tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND các cấp thì hoạt động tống đạt văn bản

không đƣợc xem thuộc chức năng của UBND cấp xã, và ở một khía cạnh nhất

định, hoạt động này có phần là gia tăng áp lực công việc đối với lực lƣợng

cán bộ tƣ pháp của cấp xã, phƣờng, mặc dù nó chỉ đƣợc xem là hoạt động

phối hợp giữa UBND và cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quy định thủ tục

tống đạt trong nhiều trƣờng hợp phải có con dấu xác nhận của UBND xã

91

phƣờng thị trấn nơi cƣ trú của đƣơng sự khiến cho việc tống đạt hợp lệ phải

trải qua nhiều thủ tục, kéo dài gây mất thời gian, công sức của các bên. Thực

tiễn quá trình thực hiện hoạt động tống đạt của cán bộ Toà án cho thấy, có đôi

lúc các UBND và cơ quan Công an xã phƣờng ở địa phƣơng cho rằng việc

thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng là nghĩa vụ, trách nhiệm của Toà

án, họ không phải là cơ quan có chức năng giao văn bản thay cho Toà án nên

thái độ hợp tác thiếu tích cực, đồng thời khi cần sự xác nhận của UBND trong

các trƣờng hợp nhƣ đƣơng sự từ chối nhận văn bản tố tụng mất rất nhiều thời

gian vì chính quyền cấp xã hẹn cán bộ Toà án đi lại rất nhiều lần mới có thể

nhận đƣợc biên bản xác nhận có con dấu của chính quyền địa phƣơng. Điều

này đã phần nào làm hạn chế hiệu quả của việc tống đạt văn bản tố tụng cho

đƣơng sự.

Vì vậy, để hoạt động tống đạt văn bản tố tụng diễn ra thông suốt, thuận

lợi đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc, TANDTC

cần phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện hoạt động tống

đạt văn bản theo quy định của BLTTDS và về lâu dài cần quy định bổ sung

thêm quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, chính

quyền địa phƣơng trong việc phối hợp thực hiện các hoạt động bổ trợ tƣ pháp

khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu. Theo đó, cần quy định cụ thể về

trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ

quan này phải phối hợp thực hiện khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu

thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự. Đồng thời cũng

cần xem xét hỗ trợ một phần chi phí bồi dƣỡng cho cán bộ thực hiện công tác

tống đạt văn bản tố tụng nhằm nâng cao chất lƣợng tống đạt.

 Về tống đạt VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài

Cần tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các thiết chế đa phƣơng trong lĩnh

vực tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự, tích cực tham gia quá trình đàm phán, ký kết

92

và thực thi các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp. Tăng cƣờng vai trò tránh nhiệm

của các cơ quan trung ƣơng và sự phối hợp giữa cơ quan trung ƣơng và địa

phƣơng trong việc triển khai thực hiện pháp luật về tƣơng trợ tƣ pháp với mục

tiêu giải quyết hiệu quả, kịp thời các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài;

đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việt Nam và nâng cao

vị thế của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Trong trƣờng hợp cần thiết, có

thể xem xét xây dựng một chƣơng riêng của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định

về trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện hoạt động uỷ thác tƣ pháp ra nƣớc

ngoài và cách thức xử lý những trƣờng hợp uỷ thác không có kết quả (trong

đó có hoạt động uỷ thác tống đạt văn bản tố tụng cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài).

Có nhƣ vậy mới đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động uỷ thác tƣ

pháp trong lĩnh vực dân sự trên thực tế.

Hiện nay thời gian hoàn thành một hồ sơ yêu cầu uỷ thác tống đạt văn

bản tố tụng cho đƣơng sự ở nƣớc ngoài kéo dài trung bình từ 4 đến 6 tháng,

do đó quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị xét xử

là không phù hợp khi áp dụng cho các trƣờng hợp này. Pháp luật cần bổ sung

thêm quy định riêng về thời hạn giải quyết các vụ việc dân sự có đƣơng sự ở

nƣớc ngoài theo hƣớng tăng thời hạn chuẩn bị xét xử để đảm bảo tính hợp lý

không làm gia tăng áp lực về thời gian đối với các Toà án giải quyết những vụ

việc này.

 Đa dạng hoá phương thức tống đạt dựa trên tiến bộ khoa học công

nghệ

Từ thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy, pháp luật Việt Nam cần

nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm và đa dạng hoá các phƣơng thức tống đạt

phù hợp với sự phát triển của xã hội và của khoa học công nghệ. Những năm

gần đây, việc sử dụng truyền thông xã hội ngày càng tăng nhanh, vai trò của

nó trong xã hội hiện đại có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và

93

có tiềm năng để trở thành một công cụ hữu ích cho hệ thống pháp luật bởi

tính kết nối sâu rộng và dễ sử dụng. Theo đó, các nhà làm luật có thể xem xét

và xây dựng quy định cho phép thực hiện tống đạt, uỷ thác tƣ pháp cho bị đơn

ở trong nƣớc và ở nƣớc ngoài bằng phƣơng tiện điện tử fax, e-mail hoặc

thông qua mạng xã hội trong trƣờng hợp việc thực hiện các phƣơng pháp khác

không đem lại hiệu quả hay không thể thực hiện đƣợc. Đối với mạng xã hội

Facebook, phƣơng thức này có đầy đủ các tính năng nhƣ kết nối ngƣời dùng

khác thông qua tin nhắn riêng, tin nhắn cũng có khả năng đính kèm tệp hay

file tài liệu trong thƣ để VBTT có thể đính kèm và gửi trong tin nhắn. Ở một

số quốc gia cho phép sử dụng phƣơng pháp tống đạt này (nhƣ Australia),

nguyên đơn phải cung cấp đầy đủ lƣợng thông tin trong hồ sơ cá nhân để có

thể xác minh tài khoản của mình chẳng hạn nhƣ giáo dục, nghề nghiệp, sở

thích, bạn bè, tuổi, quê hƣơng... Facebook cũng thiết lập các trạng thái, thông

báo đƣợc coi là bằng chứng cho việc ngƣời dùng có sử dụng trang web hay

không. Nếu tần suất sử dụng không thể hiển thị hoặc tài khoản của ngƣời

dùng đã đƣợc cài đặt riêng tƣ thì việc tống đạt sẽ không đƣợc phép thực hiện.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây có không ít những vụ rò rỉ thông tin cá

nhân, ngƣời dùng Facebook bị khai thác và sử dụng thông tin cá nhân một

cách trái phép. Nguyên nhân chủ yếu là do ngƣời dùng thƣờng chia sẻ thông

tin ở chế độ công khai thay vì chỉ hạn chế ở chế độ riêng tƣ hoặc chỉ dành cho

bạn bè. Mặt khác, nhiều ngƣời thƣờng cài đặt các ứng dụng trên Facebook mà

không quá chú ý đến chức năng và quyền hạn của các ứng dụng này có thể

khai thác thông tin mà họ chia sẻ trên mạng xã hội. Trƣớc tình trạng trên,

Facebook đã thay đổi hàng loạt các chính sách để bảo vệ thông tin ngƣời dùng

[59]. Bên cạnh những nỗ lực từ phía nhà mạng, bản thân ngƣời dùng cũng cần

có những giải pháp tự bảo vệ thông tin của mình trên mạng xã hội để trong

một tƣơng lai không xa, nhờ những tiến bộ của khoa học công nghệ có thể

94

ứng dụng thực hiện tống đạt thông qua mạng xã hội một cách nhanh chóng và

hiệu quả.

Việc thực hiện tống đạt bằng phƣơng pháp này đòi hỏi pháp luật cần

quy định các yếu tố mang tính bắt buộc để xác thực thông tin và danh tính của

ngƣời dùng đồng thời phải có hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, phù hợp

với điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên (trong trƣờng hợp tống đạt

cho bị đơn ở nƣớc ngoài).

 Về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và hành vi

không làm đúng trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố

tụng.

Một trong những nguyên nhân khiến hoạt động tống đạt văn bản tố

tụng của toà án còn phát sinh nhiều khó khăn, vƣớng mắc chính là việc chƣa

có những quy định thật sự hiệu quả về biện pháp xử lý đối với các đƣơng sự

có hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và ngƣời không thực thi đúng

trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù BLTTDS năm

2015 dành hẳn một chƣơng (chƣơng XL) để quy định việc xử lý hành vi cản

trở hoạt động tố tụng nhƣng quy định về việc xử lý hành vi cản trở việc cấp,

giao, nhận, tống đạt, thông báo VBTT của Toà án (Điều 493) cũng chỉ đƣợc

quy định một cách chung chung, chƣa cụ thể. Điều luật chỉ dừng lại ở việc

đƣa ra các trƣờng hợp bị coi là có hành vi gây cản trở hoạt động cấp, tống đạt,

thông báo VBTT mà không quy định các biện pháp xử lý hoặc chế tài đối với

các hành vi vi phạm đó. Trong thực tế, rất hiếm trƣờng hợp những hành vi

cản trở hoạt động tống đạt văn bản tố tụng của đƣơng sự hoặc hành vi không

thực hiện đúng trách nhiệm tống đạt của ngƣời có thẩm quyền bị xử lý. Muốn

khắc phục tình trạng này, theo tác giả pháp luật cần quy định:

95

- Các căn cứ cụ thể để xác định hành vi thế nào bị coi là cản trở, không

làm đúng trách nhiệm trong việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo

VBTTDS.

- Xác định cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý các hành vi vi

phạm nói trên.

- Đƣa ra biện pháp, chế tài xử lý (các biện pháp xử lý hành chính/hình

sự) đối với hành vi không thực hiện đúng trách nhiệm trong hoạt động tống

đạt văn bản tố tụng; hành vi cản trở tố tụng dân sự của ngƣời tham gia tố

tụng.

Ở đây, yêu cầu đƣợc đặt ra là cần đảm bảo các tiêu chí rõ ràng, cụ thể

đối với các căn cứ xác định hành vi vi phạm và áp dụng chế tài đủ tính chất

răn đe đối với những hành vi đó để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nƣớc và

nâng cao trách nhiệm của ngƣời dân cũng nhƣ của các cơ quan có thẩm quyền

trong hoạt động tống đạt VBTTDS.

Kết luận chƣơng 3

Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động tống đạt văn bản tố

tụng dân sự ở nƣớc ta hiện nay ngày càng đƣợc hoàn thiện theo hƣớng đồng

bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi,với sự kế thừa của các quy định pháp

luật trƣớc đó và sự dày công nghiên cứu của cá nhà lập pháp. Tuy nhiên, xuất

phát từ đặc trƣng của nên kinh tế nƣớc ta đang trong thời kỳ hội nhập, hệ

thống pháp luật vẫn còn trong quá trình hoàn thiện nên không thể tránh khỏi

nhiều vấn đề bất cập, vƣớng mắc, chƣa hợp lý, khiến cho hoạt động tống đạt

văn bản tố tụng gặp phải nhiều khó khăn khi thực hiện trên thực tế, làm ảnh

hƣởng đến chất lƣợng và thời gian giải quyết các tranh chấp dân sự tại toà án.

KẾT LUẬN

Có thể nói, trong hoạt động tố tụng dân sự việc chuyển giao và nhận

thông tin của các văn bản tố tụng chiếm một vai trò rất quan trọng. Cấp, tống

96

đạt, thông báo VBTT là hoạt động gắn liền với các việc tiến hành tố tụng của

Toà án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Nhận thức sâu sắc về ý

nghĩa cũng nhƣ tầm quan trọng của thủ tục tố tụng này, các nhà lập pháp đã

xây dựng tƣơng đối hoàn chỉnh bộ khung pháp lý đối với hoạt động tống đạt

văn bản tố tụng, giúp cho hoạt động tống đạt ngày càng đi vào quy củ, khoa

học, dân chủ và minh bạch hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm của pháp

luật vẫn còn tồn tại không ít khó khăn vƣớng mắc phát sinh trong thực tiễn

thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những khó khăn, vƣớng mắc

này cần đƣợc nhanh chóng nhận diện và khắc phục để tạo môi trƣờng công

bằng, bình đẳng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho tất cả những ngƣời

tham gia tố tụng, đồng thời cũng nâng cao vị thế của các cơ quan tiến hành tố

tụng, hƣớng đến mục tiêu thể chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của bộ chính trị về cải cách tƣ pháp vào các quy định cảu pháp luật

tố tụng dân sự.

Với đề tài “Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản theo BLTTDS

năm 2015”, tác giả đã cố gắng khái quái một cách cơ bản cơ sở lý luận, các

quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân

sự, phân tích thực trạng áp dụng và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả của hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những giải pháp này có thể

chƣa thật sự toàn diện, chƣa giải quyết đƣợc toàn bộ những vƣớng mắc phát

sinh trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng, nhƣng tác giả hy vọng có thể

góp phần giải quyết những vấn đề bất cập chủ yếu, nổi bật của hoạt động tống

đạt văn bản trong quá trình tố tụng tại Toà án; từ đó tạo nên một hệ thống

pháp luật về dân sự tố tụng chặt chẽ, đồng bộ và khả thi, thúc đẩy phát triển

nền kinh tế xã hội của nƣớc ta hiện nay.

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 203/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016

quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý phí thực hiện uỷ thác tư pháp về

dân sự có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.

3. Bộ Tƣ pháp - Bộ Ngoại giao – Toà án nhân dân tối cao (2011), Thông

tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 hướng dẫn

áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật

Tương trợ tư pháp, Hà Nội.

4. Bộ Tƣ pháp – Bộ Tài chính – TANDTC (2010), Thông tư liên tịch số

12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày 24/06/2010 hướng dẫn một số điều

của Nghị định số 61/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và

hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh

liên quan đến chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại và chế độ tài

chính đối với văn phòng thừa phát lại, Hà Nội.

5. Bộ Tƣ pháp - Vụ pháp luật quốc tế (tháng 01/2018), Sổ tay hướng dẫn

thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự tại Việt Nam, tr. 7, Hà Nội.

6. Bộ Tƣ pháp (2009), Thông tư số 03/2009/TT-BTP ngày 30/09/2009

hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày

24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực

hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.

7. Bộ Tƣ pháp (2013), Quyết định số 2531/QĐ-BTP ngày 21/10/2013 về việc

phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hà

Nội”, Hà Nội.

98

8. Bộ Tƣ pháp (2018), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 về Tổng

kết công tác tư pháp năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công

tác năm 2018, tr. 20, Hà Nội.

9. Chính phủ (2009), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 về

tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

10. Chính phủ (2013), Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa

đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày

24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực

hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.

11. Đèo Thị Thủy (2013), Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng dân sự

- Thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật

Hà Nội.

12. Dƣơng Quốc Thành (2007), “Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

theo quy định của BLTTDS năm 2004: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn

thiện”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 52-57, Hà Nội.

13. Học viện Tƣ pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

14. Hội đồng Nhà nƣớc (1989), Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 ngày

07/12/1989 về thủ tục giải quyết các vụ án vụ án dân sự, Hà Nội.

15. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội kỳ họp thứ 4, khoá XV (2017),

Báo cáo số 1301/BC-VP ngày 13/6/2017 về Kết quả công tác 6 tháng đầu

năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2017 của hai cấp TAND TP.Hà Nội, Hà

Nội.

16. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2017), Nghị quyết số

01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 về việc ban hành một số biểu mẫu trong

tố tụng dân sự, Hà Nội.

99

17. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (1990), Nghị quyết số 03/HĐTP ngày

19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án dân sự, Hà Nội.

18. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2016), Nghị quyết số 04/2016/NQ-

HĐTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS số

92/2015/QH13, Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn

khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phương

tiện điện tử, Hà Nội.

19. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng

dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Khoa Luật - Trƣờng ĐH New York (tháng 12/2007), Những vấn đề cơ

bản của Luật pháp Mỹ (Fundamentals of American Law), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

21. Lâm Vƣơng Mỹ Linh (2015), Hoạt động tống đạt văn bản theo pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh.

22. Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nhà nƣớc pháp quyền là tinh thần pháp

luật hay là đúng quy trình?”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 30 (1), trang 54-

61.

23. Nguyễn Kim Giang (2014), Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

dân sự, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. PGS. TS Nguyễn Thị Hoài Phƣơng chủ biên (2016), Bình luận những

điểm mới trong BLTTDS năm 2015, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia VN, Hà

Nội.

25. Praha (1982), Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và

hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Tiệp Khắc.

100

26. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

27. Quốc hội (2005), Luật giao dịch điện tử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

28. Quốc hội (2006), Luật cư trú, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc hội (2007), Luật tương trợ tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

30. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

31. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về

việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Luật số 36/2013/QH13 ngày 20/06/2013 sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật cư trú, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

34. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

35. Quốc hội (2016), Luật báo chí, Hà Nội.

36. ThS. Nguyễn Thị Thu Hà (2011), “Pháp luật TTDS Hoa Kỳ và khả

năng ứng dụng vào việc hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam”, Tạp chí Luật

học, (01), trang 55-62, Hà Nội.

37. Thủ tƣớng Chính phủ (2009), Quyết định số 224/QĐ –TTg ngày

19/02/2009 phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại

thành phố Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

38. Toà án nhân dân tối cao (2017), Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày

21/02/2017 về việc tống đạt VBTT cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ

việc dân sự, vụ án hành chính, Hà Nội.

39. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (201207), Giáo trình Luật tố tụng dân sự

Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

101

40. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật tố tụng dân sự

Việt Nam, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

41. TS. Nguyễn Ngọc Khanh chủ biên (tháng 12/2005 ), Bộ luật TTDS

Liên Bang Nga, Chƣơng X, Điều 113-120, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

42. TS. Trần Anh Tuấn (2007) , Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015,

Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

43. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 1790/QĐ-

UBND ngày 03/04/2014 về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện thí

điểm chế định thừa phát lại tại thành phố Hà Nội, Hà Nội.

44. Uỷ ban nhân thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 6236/QĐ-UBND

ngày 15/10/2013 về việc ban hành đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa

phát lại tại thành phố Hà Nội”, Hà Nội.

45. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, tr.779, Nxb. Tƣ

pháp, Hà Nội.

46. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, tr. 124, Nxb. Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

47. Viện Nhà nƣớc và pháp luật (2012), Bình luận khoa học Bộ luật TTDS

sửa đổi, bổ sung 2011, chƣơng X, trang 261-278, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.

Tiếng Anh

48. Keely Knapp (2014), “Accepting Social Media for Service of Process

in the 21st Century”, Louisiana Law Rewiew, pp. 547 – 579.

49. Glannon, Perlman & Raven-Hansen (2011), Civil Procedure: A

Coursebook, Wolters Kluwer Law & Business, New York.

Website

50. https://www.archerestatelaw.com/hot-trends/nj-court-permits-service-

of-process-through-facebook/

102

51. https://www.courtlistener.com/opinion/1926914/in-re-international-

telemedia-associates-inc/

52. https://en.wikipedia.org/wiki/Pennoyer_v._Neff

53. https://www.federalrulesofcivilprocedure.org/frcp/title-ii/

54. https://www.hg.org/legal-articles/methods-of-service-of-process-31553

55. https://ipkey.eu/en/china/ip-information

56. https://www.johnmarshall.edu/.../Fundamental-Principles-of-Civil-

Procedure

57. http://torrilegalservices.com/service-process-facebook/

58. http://vksdongnai.gov.vn/Pages/noi-dung

tin.aspx?NewsID=1149&TopicID=1

59. https://dantri.com.vn/suc-manh-so/500000-nguoi-dung-facebook-viet-

nam-bi-ro-ri-thong-tin-ca-nhan-20180406064716935.htm

103