VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DIỄM

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DIỄM

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn

chưa công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.

Tác giả

Nguyễn Thị Diễm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN ..................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu ...................................................................... 7

1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ............................................... 13

1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ....................................... 18

1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước trên thế giới ................................................................................................................... 27

1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ........... 29

Chương 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................. 34

2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn .......................................... 34

2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ............................... 40

2.3. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn .................... 46

2.4. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu do nhầm lẫn ............................................................................... 55

2.5. Bất cập về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lần và nguyên nhân ........................................................................... 56

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN ................................................... 60

3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn .................................................................................................................... 60

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn .......................................................................................................... 67

KẾT LUẬN .................................................................................................... 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự BLDS

Hồ Chí Minh HCM

Hợp đồng vô hiệu HĐVH

Kinh doanh thương mại KDTM

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm 2005 ................................................................................................................. 35

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc

gia nào, chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng

vào bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh

hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Đã từ lâu pháp luật về

hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,

bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay

nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp

đồng. Vấn đề HĐVH là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay của chế

định hợp đồng. Đây là một vấn đề phức tạp, còn nhiều vướng mắc cần được

trả lời sớm nhằm tạo niềm tin cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng. Khi

xây dựng pháp luật về HĐVH, các nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định

về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về xử lý HĐVH. Các quy định này có

tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng

đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp

đồng. Do vậy, các quy định về HĐVH phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống,

đảm bảo sự hài hòa giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng,

Nhà nước nói chung.

Tuy nhiên, hiện nay các quy định về HĐVH nói chung và HĐVH do

nhầm lần vẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc,

chưa đầy đủ, có quy định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống

nhất. Chẳng hạn như: các căn cứ để tuyên bố HĐVH còn có nhiều điểm chưa

rõ ràng; hậu quả pháp lý của HĐVH còn quy định chung chung, khó áp dụng.

Quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa

đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.

1

Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp

đồng, những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều

khó khăn, lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới HĐVH do nhầm

lẫn. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan chức

năng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên thực tế, cũng

không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn hoặc cố ý

nhầm lẫn, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình.

Với thực trạng đó, các quy định pháp luật về HĐVH cần sớm được hoàn

thiện đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới sự bảo đảm an toàn và lẽ công

bằng cho các chủ thể, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.

Một cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý thông thoáng

không những là yêu cầu chính đáng của người dân, của các doanh nghiệp để họ

thực hiện hoạt động kinh doanh và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình mà còn là

điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng,

nhiệm vụ mà nhà nước giao. Hơn thế nữa, cần phải khẳng định rằng việc nhận

thức đúng về bản chất của HĐVH và việc xử lý chúng để từ đó xây dựng các

quy định về HĐVH một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cũng sẽ góp

phần hoàn thiện chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật của nước ta.

Từ những lý do trên, với mong muốn được góp phần hoàn thiện các

quy định của pháp luật về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn nói riêng,

tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật

Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Việc nghiên cứu về HĐVH, việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp

đồng, giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm trong

các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã được đề

2

cập tới trong Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học

Quốc gia, Trường đại học Kiểm sát.

Các vấn đề liên quan còn được đề cập trong một số công trình nghiên

cứu như: Luận án tiến sĩ“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của

hợp đồng kinh tế vô hiệu” của Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP.

HCM, năm 2009; Luận án tiến sĩ“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết

hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”của Nguyễn Văn Cường, Khoa

luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Luận văn thạc sĩ“Xử lý

HĐVH theo pháp luật dân sự Việt Nam”của Nguyễn Thị Thanh, Trường Đại

học Luật Hà Nội, năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Những vấn đề lý luận và thực

tiễn về xử lý HĐVH ở Việt Nam”của Cao Thị Thùy Dương, Trường Đại học

Luật Hà Nội, năm 2014; …

Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết của các tác giả như: Phạm Nguyễn

Linh (2018), Xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí luật học số

11/2018; Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả HĐVH, Tạp

chí Tòa án nhân dân số 21/2011; …

Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan

thì tác giả thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của

BLDSnăm 2005, nhất là việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp

trong thực tiễn, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về pháp luật hợp

đồng thương mại vô hiệu do nhầm lẫntrong những năm gần đây, nhất là trong

điều kiện BLDS năm 2015 đã được Quốc hội có hiệu lực.

Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định về HĐVH do

nhầm lẫn có ý nghĩa quan trọng. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế

xã hội, các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, vấn

đề xử lý HĐVH do nhầm lẫn cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi

phải có sự sửa đổi, bổ sung.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp

phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVH do nhầm lẫn.

Với mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm

lẫn như: khái niệm nhầm lẫn và khái niệm HĐVH do nhầm lẫn; đặc điểm của

HĐVH do nhầm lẫn; điều kiện của HĐVH do nhầm lẫn; xử lý hậu quả pháp

lý của HĐVH do nhầm lẫn.

- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về

HĐVH do nhầm lẫn.

- Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể tham

gia kí kết hợp đồng và của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án có

liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn.

- Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định

HĐVH do nhầm lẫn và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về

hợp đồng của pháp luật dân sự hiện hành.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung vào các đối tượng nghiên

cứu sau:

- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐVH, mà cụ thể là tập

trung vào các quy định về HĐVH do nhầm lẫn trong BLDS năm 2005, 2015

và các văn bản hướng dẫn, đặt trong tương quan một số quy định của Luật

thuơng mại, Luật doanh nghiệp… và các công ước, văn bản pháp luật quốc tế

điều chỉnh vấn đề này.

- Thực tiễn áp dụng các quy định về HĐVH do nhầm lẫn.

Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật,

tác giả luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về HĐVH

4

do nhầm lẫn. Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá quy định pháp luật về

HĐVH do nhầm lẫn đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng các quy định nêu

trên kể từ thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp

luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,

tổng hợp, so sánh… kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận

về hợp đồng và HĐVH do nhầm lẫn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu

mới của luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng, HĐVH, HĐVH do nhầm lẫn; đưa ra

những đánh giá nhận xét về tính hợp lý, logic, độ phù hợp với thực tiễn của các

quy định này và nêu quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện

pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn ở nước ta hiện nay.

Dưới góc độ thực tiễn, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc

trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật, đồng thời có những kiến nghị giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện pháp luật về HĐVH do

nhầm lẫn tại Việt Nam, góp phần cải thiện, nâng cao ý thức pháp luật nói

chung, thích ứng với hội nhập quốc tế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn

5

Chương 2. HĐVH do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật Việt Nam

và thực tiễn áp dụng

Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về

HĐVH do nhầm lẫn

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN

1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu

1.1.1. Khái niệm hợp đồng

Hợp đồng là một công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và

người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy

không chỉ hình thành trong dân sự mà còn cả trong lĩnh vực thương mại, lao

động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Trong mỗi loại hợp đồng, trong

mỗi lĩnh vực có những đặc điểm rất riêng và do đó, được chi phối bởi những

quy định riêng [45, tr.26]. Tuy nhiên là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả

các hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước

và những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một

hệ thống các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết

ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng.

Theo quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)

quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa

các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [32].

Tuy nhiên, quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những

quan hệ về đầu tư, lao động, kinh doanh thương mại, bảo hiểm… Theo đó,

nếu trong khái niệm về hợp đồng từ “dân sự” được đặt đằng sau hai từ “hợp

đồng” và sau hai từ nghĩa vụ thì điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật

có cách hiểu rằng những quy định của BLDS hiện hành chỉ liên quan đến hợp

đồng dân sự. Do đó, mà tại BLDS năm 2015 các nhà làm luật đã có những

chỉnh sửa liên quan đến khái niệm “hợp đồng” để khắc phục bất cập trên.

Cụ thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa

thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ

7

dân sự”. So với BLDS hiện hành thì BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự”

sau hai từ “hợp đồng”. Quy định mới về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 của

BLDS năm 2015 là điểm mới quan trọng, đáng chú ý không những về mặt kỹ

thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực tiễn áp dụng

[43, tr.46]. Trong phạm vi luận văn, thì hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận

có hiệu lực pháp luật hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của hai hay nhiều

bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ.

1.1.2. Hợp đồng vô hiệu

Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chưa có một khái niệm thống nhất

về HĐVH mà chỉ nêu căn cứ xác định HĐVH hoặc có hiệu lực.

Người làm luật không định nghĩa cụ thể như thế nào là HĐVH mà chỉ

xác định hệ quả của sự vô hiệu. Theo khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2005 quy

định “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập” [32].

Trên cơ sở khái niệm hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu, trong phạm vi

nghiên cứu của luận văn: Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng khi giao kết

và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự,

hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan.

Phân loại HĐVH:

Căn cứ váo thủ tục tố tụng có HĐVH tuyệt đối và HĐVH tương đối

- HĐVH tuyệt đối: Là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu

do việc xác lập hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước

hoặc lợi ích công cộng. Hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị

coi là vô hiệu tuyệt đối:

+ HĐVH do giả tạo

+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật

+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội

8

Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa

án cho các bên thời hạn để thực hiện đúng quy định về hình thức này nhưng

hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc trường hợp pháp luật có

quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp

đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu [47].

Một HĐVH tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của các bên.

Mọi trường hợp đều giải quyết theo quy định của pháp luật và không được

hòa giải, không có quyền công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng trong quá

trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về hợp đồng hoặc các nội dung pháp lý

có liên quan [47].

- HĐVH tương đối: Là những hợp đồng được xác lập, nhưng có thể bị

Tòa án tuyên bố là vô hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên

quan. Sự vô hiệu tương đối là ở chỗ: giao dịch dân sự đó “có thể vô hiệu” hay

“không đương nhiên bị xem là vô hiệu” vì nó chỉ xâm hại trực tiếp tới quyền

lơi hợp pháp của cá nhân của từng bên chủ thể tham gia. Do đó, hợp đồng này

nếu không có sự xem xét của Tòa án thì vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp

muốn tiêu hủy hợp đồng này, các bên phải yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ

tục tư pháp thông thường chứ hợp đồng không đương nhiên bị xem là vô hiệu.

Trên thế giới, hiện có ba cách thức xây dựng quy tắc pháp lý để xác

định HĐVH, cụ thể:

Thứ nhất, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo đó,

những HĐVH được xác định là hợp đồng không thoả mãn những điều kiện có

hiệu lực. Các nước quy định theo cách này là các nước theotruyền thống pháp

luật La Mã. Cách thức quy định này cho thấy sự can thiệp mạnh của Nhà nước

đến quan hệ hợp đồng.

9

Thứ hai, liệt kê các trường hợp vô hiệu của hợp đồng và việc xác định

hợp đồng có hiệu lực bằng phương pháp loại suy. Quy định theo cách này là

các nước như Nhật bản, Cộng hoà Liên bang Đức.

Thứ ba, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và quy định

những trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Quy định theo cách này có vẻ đảm

bảo cả về lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng, tuy nhiên, đã thể hiện sự can

thiệp quá sâu vào quan hệ luật tư vốn dĩ “cốt ở đôi bên”. Việt Nam là nước có

quy định về HĐVH theo cách này [54].

Ba cách thức xây dựng quy này hoặc xuất phát từ những đặc điểm

chung mang tính bản chất của hợp đồng và ý chí của nhà làm luật. Tuỳ theo

điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội và nhu cầu cường thịnh của quốc gia hay khu

vực mà nhà làm luật can thiệp nhiều hay ít vào quan hệ hợp đồng. Ví dụ,

Cộng Hoà Pháp, Trung Quốc… không can thiệp vào quan hệ hợp đồng bằng

cách quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Thái Lan, Việt

Nam... vẫn ghi nhận hình thức là điều kiện có hợp đồng; Châu Âu không có

sự can thiệp nào liên quan đến hình thức của hợp đồng “Hợp đồng có thể

được chứng minh bằng bất kì cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Nghiên

cứu các quy định về HĐVH theo ba cách trên cho thấy việc xác định HĐVH

theo các dấu hiệu sau [54, tr.38-39]:

Năng lực giao kết của các chủ thể: Chủ thể là một trong những yếu tố

cấu thành quan hệ pháp luật nói chung hay quan hệ hợp đồng nói riêng, trong

quan hệ hợp đồng tối thiểu phải có hai chủ thể. Các chủ thể là cá nhân có thể

tự nhân danh chính mình hoặc thông qua người đại diện để xác lập hợp đồng;

chủ thể là tổ chức xác lập hợp đồng thông qua người đại diện. Như vậy, việc

giao kết hợp đồng buộc phảithông qua hành vi của con người cụ thể. Hành vi

hợp pháp thì được pháp luật thừa nhận và ngược lại, do đó, khi tham gia giao

kết hợp đồng chủ thể phải có năng lực để nhận biết về hành vi của mình, đó

10

chính là năng lực hành vi - một trong những yếu tố căn bản để tạo lên thẩm

quyền giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân khi tự nhân danh mình tham gia

quan hệ hợp đồng năng lực hành vi của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích

của họ. Một cá nhân luôn được coi là có thể thiệt hại khi khi họ tham gia quan

hệ hợp đồng tại thời điểm bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi hoặc

năng lực hành vi chưa đầy đủ. Trên cơ sở đó, pháp luật cho phép bên bị thiệt

hại gây ra sự vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích một cách công bằng. Đối với tổ chức,

pháp nhân thì thẩm quyền giao kết hợp đồng được xác định kết hợp giữa năng

lực hành vicủa người đại diện và điều kiện, phạm vi kinh doanh...thẩm quyền

và năng lực thiết lập thoả thuận là do pháp luật quy định hoặc được ghi nhận

trên cơ sở pháp luật. Do vậy, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ những thoả

thuận do chủ thể có thẩm quyền giao kết. Ngược lại, thoả thuận đó sẽ không

được công nhận, không có hiệu lực pháp luật - vô hiệu [54].

Sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể: Một thoả thuận được coi là hình

thành khi có sự thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc nhiều vấn đề. Quá

trình đàm phán và thiết lập thoả thuận thực chất là việc tuyên bố ý chí và chấp

nhận ý chí của các bên tham gia. Trong quan hệ hợp đồng, việc tuyên bố ý chí

gọi là đề nghị giao kết hợp đồng và việc chấp nhận ý chí gọi là xác lập quan

hệ hợp đồng. Sự thống nhất ý chí chỉ được coi là đích thực khi các bên tham

gia thực hiện hành vi của mình một cách tự nguyện, chính thuật ngữ “thoả

thuận” đã thể hiện rõ bản chất nguyên tắc tự nguyện. Pháp luật các nước trên

thế giới đều ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc tự nguyện trong quan hệ hợp đồng

và có thể nói rằng điều kiện bắt buộc đối với việc giao kết hợp đồng là phải

đảm bảo nguyên tắc tự nguyện - tự nguyện được hiểu là tự nguyện tuyên bố ý

chí và chấp nhận ý chí. Ý chí của các bên không thể coi là được thống nhất

khi ý chí đó được tuyên bố hoặc chấp nhận một cách không tự nguyện. Các

thoả thuận được hình thành một cách thiếu tự nguyện - không có sự thống

11

nhất ý chí sẽ không được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác thoả thuận này bị

vô hiệu và đương nhiên là không được đảm bảo thi hành [54].

Hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các bên xâm phạm trật tự

công: Nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không

cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các nước đều thừa nhận nguyên tắc

này. Nhật bản -BLDS điều 90; Cộng hoà liên bang Đức -BLDS điều 134...

Việt Nam, trong lĩnh vực kinh doanh, Luật thương mại và Luật doanh nghiệp

quy định về vấn đề này cụ thể như sau: “Thương nhân có quyền hoạt động

thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo

các phương thức mà pháp luật không cấm”; “Doanh nghiệp thuộc mọi thành

phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.

Tự do là một giá trị chung của nhân loại, tự do là một nguyên tắc căn bản

trong quan hệ hợp đồng luôn được pháp luật tôn trọng. Trong xã hội có pháp

luật, việc xác định phạm vi hành xử của một người không có nghĩa là hạn chế

sự tự do của họ mà có nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh

giới đó thì quyền tự do của họ luôn bị đe doạ xâm phạm và có thể dẫn đến

không có tự do, vì bản tính tập thể của con người, "tính bắt buộc" phải sống

trong xã hội của nó; con người không có khả năng trở nên hạnh phúc và thậm

chí đơn giản là tồn tại khi thiếu những người khác. Do đó, khi các bên tham

gia thoả thuận thực hiện hành vi mà pháp luật cấm luôn bị coi là xâm phạm

đến những giá trị mà pháp luật bảo vệ [54].

Thoả thuận không tuân thủ quy định về hình thức: Hiện tại, pháp luật

của một số quốc gia vẫn còn quy định hình thức của hợp đồng là một trong

những điều kiện có hiệu lực, ví dụ: BLDS và Luật thương mại Thái Lan, tại

điều 115 quy định “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định

thì vô hiệu”, còn Việt Nam BLDS năm 1995 quy định về hình thức tương tự

như Thái Lan. BLDS năm 2015 có sửa đổi một cách mềm dẻo hơn “Hình thức

12

giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp

luật có quy định” tuy nhiên về bảnchất không có gì thay đổi - vẫn ghi nhận

hình thức là điều kiện có hiệu lực. Mặc dù quy định tuân thủ hình thức không

phải là dạng quy phạm cấm, tuy nhiên, khi pháp luật không thừa nhận thì thoả

thuận và bảo đảm thi hành thì thoả thuận không tuân thủ hình thức bị vô hiệu

kể từ thời điểm giao kết. Xét đến cùng thì có lẽ nhà làm luật đặt ra quy định

này nhằm đảm bảo trật tự công, mặc dù trên thực tế quy định này thường ban

phát lợi ích tư (nếu không có lợi có lẽ không ai yêu cầu tuyên vô hiệu) và đặc

biệt hơn là quy định này có thể làm tăng chi phí giao dịch và hạn chế sự sinh

lời của tài sản và quyền của chủ tài sản [54].

Trong phạm vi luận văn thì HĐVH được hiểu là thoả thuận không có

hiệu lực pháp luật kể từ khi giao kết, do một hoặc các bên chủ thể không có

thẩm quyền xác lập hoặc các bên chủ thể không có sự thống nhất ý chí đích

thực hoặc hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các chủ thể bị pháp

luật cấm hoặc xâm phạm trật tự công hoặc thoả thuận không được pháp luật

thừa nhận do không tuân thủ hình thức.

1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

1.2.1. Định nghĩa

Trong thực tế không hiếm trường hợp sự ưng thuận có “tì vết” và yếu

tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng là một “tì vết” mà luật đã dự liệu để cho

phép tuyên bố HĐVH. Nhìn chung vấn đề quy định về nhầm lẫn trong giao

kết hợp đồng được quy định lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự và

BLDS năm 1995. Cụ thể, theo khoản 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự,

HĐVH “khi một bên hợp đồng nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng”

và Điều 141 BLDS năm 1995 về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn: “Khi

một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch,

thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch đó, nếu bên kia

13

không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì có quyền yêu cầu

Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Khi giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn

thì bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường” [32].

Theo quy định tại điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định:

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,

thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ quy định tại điều luật này

có thể xác định: kết quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh,

thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ

pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn

phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả

pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan

hệ pháp luật dân sự [38].

Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích

nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể

tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.

Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho

các chủ thể trong giao lưu dân sự.

So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS 2005, BLDS

2015 có bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.

Đây là quy định cần thiết, bởi lẽ các quy định về điều kiện có hiệu lực của

BLDS để áp dụng cho đa số các trường hợp nhằm đảm vảo quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc vô hiệu giao

dịch dân sự là không cần thiết. Thực tế, cho thấy giao dịch có thể thiếu điều

kiện quy định tại Điều 117 BLDS 2015 nhưng vẫn không vô hiệu. Chẳng hạn

như quy định tại điểm a khoản 2 điều 125 BLDS 2015, giao dịch dân sự của

14

người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu

cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì không bị xem là giao dịch dân sự vô

hiệu. Sự bổ sung quy định này thể hiện sự linh hoạt trong các quy định của

pháp luật [43, tr.61-62].

Hiện nay các nhà làm luật vẫn không đưa ra một khái niệm cụ thể nên

nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là việc các bên trong giao dịch hình dung sai về

nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc

bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từnhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về

đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào

nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bị nhầm lẫn chứng minh

được sự nhẫm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.

1.2.2. Đặc điểm

Nhầm lẫn đã tồn tại trong hai BLDS nhưng lại không đưa ra định nghĩa

chính xác thế nào là nhầm lẫn nên rất khó khăn khi xác định sự tồn tại của

nhầm lẫn. Nhầm lẫn trong ngôn ngữ pháp lý là sự nhận định không chính xác

về cái có thật, tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Nhầm lẫn là sự khác

biệt giữa nhận thức của một bên về vấn đề và thực tế của vấn đề. Ví dụ anh A

xác lập hợp đồng mua bán xe máy với giá 30 triệu với anh B nhưng không

biết rằng xe máy đó là tang vật trong một vụ án hình sự cướp tài sản (ở đây

anh B cũng được mua lại từ anh D và không biết tình trạng thật của chiếc xe).

Điều này có nghĩa là đối với bên mua có sự khác nhau về nhận thức của họ về

chiếc xe và thực tế về chiếc xe này. Bất kỳ sự khác nhau nào giữa nhận thức

và thực tế đều có thể được coi là nhầm lẫn. Và nhầm lẫn phải tồn tại ở thời

điểm xác lập giao dịch. Điều đó có nghĩa là nhận thức của bên nhầm lẫn về

hợp đồng và sự thật về hợp đồng này phải được xác định tại thời điểm xác lập

hợp đồng. Nhầm lẫn khác với giả tạo ở chỗ trong hợp đồng có sự nhầm lẫn thì

bản thân người xác lập hợp đồng không biết được điều đó còn giả tạo trong

15

hợp đồng thì người thể hiện ý chí muốn xác lập hợp đồng biết việc đó không

đúng với sự thể hiện ý chí đích thực của họ với sự thể hiện thực tế trong hợp

đồng. Nhưng để đánh giá nhận thức của bên bị nhầm lẫn thực chất là rất khó vì

nó liên quan đến vấn đề nội tâm. Nếu các bên không ghi rõ trong hợp đồng về

nhận thức của mình thì rất khó để xác định. Phân tích ví dụ trên vì người mua

không biết về tình trạng thật của chiếc xe. Ở đây chúng ta nên dùng phương

pháp suy đoán bằng cách xác định nhận thức của một người bình thường trong

hoàn cảnh tương tự vì nếu một người bình thường nếu biết chiếc xe đó là tang

vật của một vụ hình sự thì có lẽ họ sẽ không mua với giá như thế [43].

Thực tế áp dụng pháp luật Việt Nam vẫn chưa tổng kết được các trường

hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung. Và một

vấn đề đặt ra là các quy định của pháp luật chỉ nói đến nhầm lẫn về nội dung

vậy nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng thì như phải giải quyết như thế nào? Ví

dụ: C là nhà thiết kế thời trang nổi tiếng, có người khác cũng tên là C cũng

làm nghề thiết kế thời trang nhưng không nổi tiếng, nhưng D không biết

tưởng nhầm người đó là C nên ký kết hợp đồng thiết kế hàng mẫu cho Công

ty mình. Ở đây, D có nhầm lẫn về chủ thể và C không biết D đã nhầm lẫn mà

nghĩ D cần mình thật. Và trên thực tế nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng

không phải là ít. Mặc dù trong một số trường hợp tòa án tuyên bố vô hiệu,

nhưng xét về gốc độ văn bản để áp dụng luật về tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn

thì thiếu cơ sở pháp lý. Thiết nghĩ về lâu dài BLDS cần bổ sung thêm trường

hợp này [43].

Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp một bên có thể nhầm lẫn mà

không do lỗi của bên kia, có nghĩa là bên kia cũng không có lỗi vô ý hay cố ý.

Tiếp theo ví dụ về chiếc xe máy ở trên ta thấy thực chất chiếc xe máy của anh

B bán cho anh A không phải của anh mà là tang vật trong một vụ cướp mà

anh cũng không biết. Dù Tòa án có tuyên hợp đồng này vô hiệu nhưng không

16

thể coi ai trong hai anh là có lỗi cả. Ngoài ra luật cũng không quy định về

trường hợp sự nhầm lẫn đó là do chính bên bị nhầm lẫn gây ra ví dụ như sự

cẩu thả, trình độ hiểu biết thấp của chính họ gây ra. Vì có trường hợp do sự

chủ quan chưa xem xét kỹ hợp đồng họ đãchấp nhận xác lập hoặc ngay từ khi

giao kết họ đã biết mình bị nhầm lẫn nhưng vẫn để mặc rồi sau này xem xét

lại thấy không có lợi gì cho mình thì mới yêu cầu Tòa tuyên bố HĐVH do

mình đã nhầm lẫn. Ở đây nếu như không quy định cụ thể về vấn đề này sẽ dẫn

đến khiếu nại tràn lan do người hiểu lầm cứ tưởng họ có quyền khiếu nại để

tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn bất cứ lúc nào miễn là còn thời hạn khởi kiện từ

đó dẫn đến tình trạng lạm dụng để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của bên bị

nhầm lẫn. Vì vậy thiết nghĩ BLDS cần sửa đổi hoàn thiện hơn quy định về

vấn đề này [51].

Vậy trong lừa dối cũng có yếu tố của nhầm lẫn. Nhầm lẫn và lừa dối

đều có một điểm chung là bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối đều đã hiểu sai

lệch về chủ thể, về tính chất của đối tượng...nên đã xác lập giao dịch. Vì vậy

để tuyên bố HĐVH do lừa dối thì phải chứng minh có một bên bị nhầm lẫn và

sự nhầm lẫn này phải do hành vicố ý của bên kia gây ra. Và việc tuyên bố một

HĐVH do nhầm lẫn vì việc xác định hành vicố ý là rất khó phải cần nhiều

giai đoạn xác minh, làm rõ các chứng cứ đưa ra của đương sự điều này tùy

thuộc nhiều vào phán quyết của Thẩm phán xử lý vụ việc đó [51].

Giải pháp tuyên bố HĐVH không phải là giải pháp tối ưu được ưu tiên

áp dụng trong các trường hợp vô hiệu tương đối dạng này. Vì hợp đồng được

xác lập nhằm mục đích đem lại một lợi ích hợp pháp nào đó cho các bên và

được pháp luật bảo vệ nếu như nó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Cho

nên trong trường hợp này Tòa án không triệt tiêu hợp đồng nếu như hợp đồng

vẫn có thể khắc phục được. Giải pháp này tương đối khả thi đối với trường

hợp hai bên đều nhầm lẫn. Hai bên có thể thỏa thuận sửa đổi lại nội dung hợp

17

đồng hoặc lập ra một hợp đồng mới hoàn toàn. Còn chỉ một bên nhầm lẫn bên

kia biết mà không thông báo, để mặc cho hợp đồngđược ký kết thì đó lại là

một dạng của hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Ngoài ra quy định này

chỉ cho phép vô hiệu nếu bên nhầm lẫn yêu cầu mà bên kia không chấp nhận.

Và bên không chấp nhận có khả năng thay đổi mà không thay đổi được thì

mới có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Nhưng nếu bên đó cũng không thể

thay đổi, khắc phục được thì sao? Tương tự ví dụ chiếc xe máy ở trên thì cả

hai anh A và B đều không thể thay đổi được hoàn cảnh, không thể biến chiếc

xe bất hợp pháp thành hợp pháp dù ý chí của anh B có muốn chiếc xe mình

trở thành hợp pháp hay không cũng không được. Vì vậy thiết nghĩ, BLDS cần

bổ sung thêm quy định này để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong giao

kết hợp đồng.HĐVH do bị nhầm lẫn thuộc trường hợp vô hiệu tương đối vì

vậy nếu không có yêu cầu của bên bị nhầm lẫn thì hợp đồng vẫn có giá trị thi

hành đối với các bên giao kết [51, tr.66].

1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

Hợp đồng là sự thoả thuận, sự thoả thuận này dựa trên nguyên tắc tự do

hợp đồng, có nghĩa là ý chí của các bên được thể hiện một cách tự do, không

chịu bất kỳ một sự tác động nào. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường

hợp các bên hoặc một trong các bên khi đàm phán, ký kết hợp đồng ý chí của

họ được hình thành một cách không tự nguyện, tức là họ không được tự do

trong việc thể hiện ý chí của mình hoặc xuất phát từ những ý niệm không xác

thực. Pháp luật gọi các trường hợp này là hợp đồng được ký kết trái nguyên

tắc tự do tự nguyện thoả thuận. Những trường hợp này là: nhầm lẫn, lừa dối

và đe doạ [43].

Theo quy định của pháp luật của tất cả các nước, nhầm lẫn có thể được

coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH, tuy nhiên thế nào là nhầm

lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau.

18

Pháp luật của các nước hầu như không ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa

học pháp lý, về vấn đề này có nhiều cách nhìn khác nhau.

Có quan đỉểm cho rằng, nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được

ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì

nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi

điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần

phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người

thứ ba. Ý kiến khác cho rằng, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết

không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết

quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Có thể nói, nhầm

lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn

thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối.

Việc coi nhầm lẫn là căn cứ tuyên bố HĐVH gặp phải hai vấn đề phức

tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Một mặt, trên xuất phát từ

thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí

đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu. Mặt

khác nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích

thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự

trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại- điều mà

không ai muốn. Chính vì vậy nên pháp luật cũng như Toà án cẫn phải thận

trọng trong việc xem xét HĐVH. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ

trên cần phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý,

tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và nhầm lẫn có ý nghĩa

pháp lý-là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH. Như vậy không phải

mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn. Điều này là nhất

quán trong mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn việc phân biệt

19

hai loại nhầm lẫn nói trên là việc không đơn giản, trong khi đó hậu quả pháp

lý của chúng lại khác nhau [52].

Có thể nói rằng, nhầm lẫn, nhìn từ góc độ là điều kiện để yêu cầu Toà

án tuyên bố HĐVH là một trong những vấn đề phức tạp nhất của pháp luật

hợp đồng và gây nhiều khó khăn cho người học khinghiên cứu vấn đề này.

Người bán hàng bán cho người mua một bình gốm Trung Quốc với giá

rẻ vì cho rằng, đó là bình gốm giả cổ do người địa phương làm ra. Sau đó

người mua phát hiện ra rằng đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá được làm

từ thời Nhà Minh. Trong trường hợp này người bán có quyền yêu cầu toà án

tuyên bố HĐVH và đòi lại bình cổ với lý do đã không đánh giá chính xác giá

trị của chiếc bình hay không? Có hay không có ý nghĩa việc người bán là

chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đố cổ và có thể đánh giá đúng giá trị của

chiếc bình nhưng đã bất cẩn khi thực hiện việc đánh giá? Có quan trọng hay

không việc người mua biết chính xác hoặc đoán biết được đó là bình cổ

nhưng đã giấu người bán? Sẽ như thế nào nếu cả người bán và người mua của

hợp đồng ban đầu đều là các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đồ cổ? Có ý

nghĩa hay không việc người mua, vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã bỏ ra

một khoản tiền lớn để phục hồi chiếc bình với mục đích bán lại, hoặc đã bán

lại cho người khác? Nếu người mua, một cách trung thực cam kết với người

mua rằng, đó là bình giả cổ và yêu cầu người bán thực hiện hợp đồng? Và

cuối cùng, nếu người bán yêu cầu người mua trả lại bình, người mua đồng ý

nhưng yêu cầu trả mức chênh lệch giá? Để trả lời câu hỏi nói trên cần phải

xem xét một số điều kiện của sự nhầm lẫn [57].

Phạm vi của nhầm lẫn: Điều 126 BLDS năm 2015 về “giao dịch dân sự

vô hiệu do bị nhầm lẫn” quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia

nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị

nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu

20

bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên

bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia

nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều

132 của Bộ luật này” [37]. Như vậy theo pháp luật của Việt Nam hiện hành,

nhầm lẫn chỉ có thể liên quan đến nội dung của hợp đồng mà không quy định

nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nội dung, tuy

nhiên có thể hiểu rằng, trong nội dung của hợp đồng có rất nhiều vấn đề, ví

dụ, đối tượng của hợp đồng, tính chất của hàng hoá, công việc.

Không quy định nhầm lẫn về chủ thể có phải là khiếm khuyết của pháp

luật hợp đồng Việt Nam hay không? Và việc thiếu vắng quy định của pháp luật

trong trường hợp này gây ra những hậu quả pháp lý như thế nào? Có tác giả

cho rằng, pháp luật quy định như vậy là chưa đủ, bởi lẽ trong thực tế, hoàn toàn

có thể xảy ra nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng và mặc dù pháp

luật chưa quy định nhưng thực tiễn xét xử đã thừa nhận nhầm lẫn về chủ thể.

Tính chất của nhầm lẫn phải nghiêm trọng. Điều 126 BLDS năm 2015

chỉ quy định sự nhầm lẫn liên quan đến nội dung của giao dịch mà không quy

định mức độ, tính chất của nhầm lẫn. Thật ra pháp luật của nhiều nước không

quy định những tiêu chí để xác định một sự nhầm lẫn nào đó là nghiêm trọng

hay không nghiêm trọng, mà việc xác định này tuỳ thuộc vào từng điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể cũng như khả năng nhận biết của chủ thể về đối tượng nhầm

lẫn. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, sự thừa nhận án lệ của pháp luật

nhiều nước có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Trong ví dụ mua bán bình cổ

nói trên, nếu người bán là chuyên gia trong lĩnh vực đồ cổ thì sự nhầm lẫn

không thể coi là nghiêm trọng. Bởi lẽ người bán biết hoặc buộc phải biết về

đối tượng của hợp đồng. Nếu người mua là chuyên gia đồ cổ, còn người bán

là người bình thường thì sự nhẫm lẫn của người bán có thể coi là nghiêm

trọng. Nhầm lẫn chỉ có ý nghĩa nếu nó là động lực chủ yếu để bên bị nhầm lẫn

21

ký kết hợp đồng. Với tư cách là động lực chủ yếu nhầm lẫn chỉ được xem xét

nếu nó là cơ sở duy nhất để bên bị nhầm lẫn ký hợp đồng. Nếu còn có khả

năng ký hợp đồng với những điều kiện khác thì không thể coi nhầm lẫn là

động lực chủ yếu. Thực tiễn xét xử của nhiều nước không coi HĐVH nếu

nhầm lẫn là do động cơ thông thường. Nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý chỉ trong

trường hợp, nếu sự nhầm lẫn đó có liên quan đến đặc tính, vì nó mà các bên

đạt được sự thoả thuận một cách trực tiếp [43].

Có thể nhận thấy, việc pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng

nhầm lẫn đến mức nào thì có ý nghĩa pháp lý trong xác định hiệu lực của hợp

đồng cộng với việc pháp luật không thừa nhận án lệ sẽ làm cho Toà án gặp

nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử. Bởi lẽ khó có tiêu chí rõ ràng khi đánh

giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn. Một vấn đề nữa cần phải được xem

xét một cách thận trọng dưới góc độ pháp lý khi xác định nhầm lẫn là có cần

thiết phải xác định lỗi của một bên là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của

bên kia hay không. Vấn đề này được xem xét không giống nhau trong pháp

luật của các nước khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành , nhầm lẫn

phải do hành vi lỗi vô ý của một bên gây ra. Điều đó có thể hiểu rằng, nếu

không có lỗi của một bên thì không có sự nhầm lẫn hay nhầm lẫn (nếu có) sẽ

không có ý nghĩa pháp lý và không thể là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố

HĐVH . Cũng có thể hiểu rằng, các nhà làm luật Việt Nam không loại trừ

nhầm lẫn không phải do lỗi bên kia, tuy nhiên họ chỉ cho rằng, nhầm lẫn do

lỗi của bên kia mới có thể có ý nghĩa pháp lý và có thể được coi là điều kiện

để tuyên bố HĐVH. Khoản 2 Điều 126 BLDS năm 2015 quy định, trong

trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của

giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này. Có

lẽ vì quy định này nằm trong Điều 126 BLDS dưới tên gọi “Giao dịch dân sự

vô hiệu do bị nhầm lẫn” [37] nên có tác giả cho rằng, BLDS năm 2015 dự liệu

22

hai trường hợp nhầm lẫn của một bên: nhầm lẫn do lỗi vô ý hay cố ý của bên

kia và thực tế cho thấy hai loại nhầm lẫn này hoàn toàn có thể tồn tại.Ở đây,

BLDS năm 2015 không coi nhầm lẫn là do lỗi cố ý của một bên mà bằng

khoản 2 chỉ nhấn mạnh rằng, nếu một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia hiểu sai

về nội dung của giao dịch thì bị coi là lừa dối. Thật vậy khi một bên có hành

vicố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung cả hợp đồng tức là trong hành vi

đó bao gồm các thủ đoạn gian dối. Một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai bởi

lẽ biết rằng, nếu không như vậy thì bên kia hiểu đúng về nội dung của hợp

đồng thì sẽ không bao giờ ký [43].

Cùng nhầm lẫn: Pháp luật Việt Nam có xem xét trường hợp khi cả hai

bên cùng nhầm lẫn hay không? Đây là vấn đề đã có tác giả đặt ra trong khoa

học pháp lý Việt Nam . Không riêng gì pháp luật Việt Nam mà pháp luật của

nhiều nước không đề cập đến vẫn đề này một cách trực tiếp, ví dụ, BLDS của

Đức, Pháp, Liên bang Nga và chỉ có pháp luật của một số nước và Nguyên

tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu lại

quy định vấn đề này khá cụ thể. Và việc pháp luật có quy định cả hai bên

cùng nhầm lẫn một cách trức tiếp hay không ít có ý nghĩa pháp lý bởi lẽ:

Thứ nhất, mặc dù không quy định trực tiếp nhưng điều đó không có

nghĩa pháp luật các nước không có sự điều chỉnh loại nhầm lẫn này. Rõ ràng,

với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 nhiều người có thể hiểu rằng,

theo pháp luật Việt Nam chỉ có một bên trong giao dịch bị nhầm lẫn. Tôi cho

rằng, với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 cũng có thể hiểu rằng,

hoàn toàn có thể có truờng hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn. Đó là những trường

hợp cả hai bên đều có hành vi vô ý và làm cho bên kia hiểu nhầm. Và trong

những trường hợp này cả hai bên đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố

HĐVH [43] [45].

23

Thứ hai, theo quan điểm của tôi thì pháp luật quốc gia cũng không nhất

thiết quy định rõ trường hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn, bởi lẽ vấn đề này có

thể được giải quyết bằng các công cụ pháp lý khác. Để làm sáng rõ loại nhầm

lẫn này người ta thường lấy ví dụ: A và B, khi giao kết hợp đồng bán một xe

hơi thể thao, đều không thể biết hay không thểbiết thực sự là chiếc xe hơi này

là xe hơi bị ăn cắp.Việc huỷ bỏ hợp đồng này là chấp nhận được. Trong thực

tiễn xét xử của Việt Nam có một bản án tương tự. Anh Mạnh mua xe của anh

Thắng, anh Thắng mua xe của anh Quang, sau một thời gian thì mới biết rằng,

xe là tang vật của một vụ cướp tài sản. Toà án tuyên HĐVH do bị nhầm lẫn

bởi lẽ cho rằng cả A và B đều nhầm lẫn. Trong khoa học pháp lý Việt Nam có

người đồng tình với cách giải quyết nói trên của Toà án.

Thứ ba, ở nhiều nước, mặc dù pháp luật không quy định trực tiếp, tuy

nhiên sự khiếm khuyết này của pháp luật được khắc phục bằng thực tiễn xét

xử của Toà án. Trong thực tiễn xét xử của một số nước cả hai bên cùng nhầm

lẫn là những trường hợp, ví dụ, tại thời điểm ký kết hợp đồng tài sản là đối

tượng của hợp đồng không còn tồn tại, hoặc trường hợp các bên trong hợp

đồng bảo hiểm nhân thọ tại thời điểm ký kết hợp đồng không biết người được

bảo hiểm đã chết.

Sự tồn tại các điều kiện nói trên chỉ là điều kiện cần để HĐVH mà chưa

phải là điều kiện đủ.

Để tuyên bố HĐVH do bị nhầm lẫn, theo ý kiến của tôi, ngoài các điều

kiện nói trên còn cần phải có các điều kiện đủ. Liên quan đến vấn đề này

trong pháp luật Việt Nam chỉ có một quy định mang tính chất chung tại khoản

1 Điều 136 BLDS 2005, nếu bên bị nhầm lẫn không yêu cầu Toà án tuyên bố

HĐVH trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm ký hợp đồng thì mất quyền

viện dẫn Điều 131. Tôi cho rằng, sự để ngỏ này sẽ tạo ra nhiều cách hiểu khác

24

nhau khi áp dụng Điều 131 BLDS năm 2005, nhất là khi chức năng giải thích

pháp luật của thẩm phán bị hạn chế và án lệ không được thừa nhận [43].

Khác với pháp luật của Việt Nam, vấn đề này được pháp luật và thực

tiễn xét xử của các nước giải quyết triệt để, thấu đáo hơn tuỳ thuộc vào các

điều kiện cần sau đây: Thứ nhất, nhận thức của bên bị nhầm lẫn, trong mọi

trường hợp không phụ thuộc vào nguyên nhân bị nhầm lẫn, bên bị nhầm lẫn

mất quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH nếu bên bị nhầm lẫn biết và buộc phải

biết về sự nhầm lẫn. Thứ hai, nhận thức của bên không nhầm lẫn, nhầm lẫn

liên quan đến nội dung chủ yếu của hợp đồng là điều kiện để HĐVHnếu

chứng minh được rằng, bên kia, với tư cách là người bình thường, biết hoặc

buộc phải biết về sự nhầm lẫn này nếu thể hiện được sự chú ý, cẩn trọng. Thứ

ba, thời điểm thông báo cho bên kia (bên không bị nhầm lẫn), bên bị nhầm

lẫn phải thông báo kịp thời về sự nhầm lẫn của mình cho bên kia. Kịp thời có

nghĩa là phải thống báo trước thời điểm bên kia, vì tin vào hiệu lực của hợp

đồng đã có những hành việcụ thể, ví dụ, bán lại, sửa chữa vật…Ví dụ, theo

quy định tại Điều 871 BLDS Áo, trong trường hợp người bán nhầm lẫn về đặc

tính của hàng hoá thì người bán mất quyền viện dẫn đến nhầm lẫn nếu hàng

hoá đã được người mua bán lại hoặc đã cho thuê, ngoại trừ trường hợp người

mua biết về sự nhầm lẫn hoặc có hành vi làm cho người bán nhầm lẫn [12].

Thật khó có thể đưa ra một định nghĩa pháp lý về nhầm lẫn. Theo một

số luật gia, nhầm lẫn là “niềm tin không phù hợp với thực tế”, một số luật gia

khác lại cho rằng nhầm lẫn là “sự khác biệt giữa ý chí nội tâm và ý chí biểu

hiện bên ngoài”. Tựu chung lại, sự nhầm lẫn làm cho sự thể hiện ra bên ngoài

của ý chí một trong các bên không phù hợp với ý chí đích thực bên trong của

họ khiến cho sự thỏa thuận đạt được đã bị khiếm khuyết, và vì vậy, về nguyên

tắc, mọi sự nhầm lẫn đều làm cho HĐVH vì đã không có sự thống nhất ý chí

giữa các bên. Tuy nhiên, nhằm mục đích bảo đảm sự ổn định của giao lưu dân

25

sự, nhà làm luật chỉ chấp nhận nhầm lẫn là nguyên nhân khiến HĐVH trong

một số trường hợp nhất định. Luật pháp một số nước thường chia sự nhầm lẫn

- nguyên nhân khiến HĐVH ra ba loạiHĐVH [12]:

- Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ là B cho mình

mượn tài sản, B lại nghĩ mình gửi giữ tài sản cho A);

- Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ

bán cho B lô đất 1, trong khi B lại nghĩ A bán cho mình lô đất 2; hoặc A và B

ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa, A tưởng phải giao hàng hóa tại địa

điểm X, trong khi B nghĩ A phải giao hàng tại địa điểm Y…).

- Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa

thuận của các bên (thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ

nào đó khiến một người muốn ký kết hợp đồng). Về nguyên tắc, nhầm lẫn về

một yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận giữa các bên chủ

thể là nguyên nhân khiến HĐVH khi yếu tố này đã được bên kia chú ý tới, trừ

phi, căn cứ vào bản chất hợp đồng và hoàn cảnh cụ thể, đó là một yếu tố hiển

nhiên. Vì vậy, một người mua một bức tượng chỉ vì anh ta nhầm tưởng rằng

bức tượng này đã từng được tác giả trưng bày ở salon chỉ có thể yêu cầu Tòa

án tuyên HĐVH nếu anh ta đã từng nói tại sao anh ta lại có ý định mua bức

tượng đó với người bán.

Không theo cách tiếp cận bằng việc phân chia các loại nhầm lẫn, BLDS

tại Điều 131, chỉ quy định khi một bên, do lỗi vô ý của bên kia, nhầm lẫn về

nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch thì có quyền yêu cầu bên kia thay

đổi nội dung của giao dịch đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi

của bên bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố

giao dịch vô hiệu. Như vậy, theo luật Việt Nam, bên bị nhầm lẫn phải chứng

minh được nguyên nhân dẫn đến nhầm lẫn là do lỗi của bên kia [12].

26

1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước

trên thế giới

Có thể thấy rằng việc phân loại HĐVH như trên được hình thành cùng

với lịch sử phát triển của Luật La Mã, xuất phát từ tư tưởng phân chia pháp

luật theo luật công và luật tư, thông thường các quan hệ thuộc lĩnh vực công

sẽ chịu sự can thiệp sâu hơn của Nhà nước.

Nếu xét các quy định về HĐVH tuyệt đối trong hệ thống pháp luật của

các quốc gia khác nhau, nhận thấy rằng trong BLDS Cộng hòa Pháp ghi

nhậnloại hợp đồng này dưới tên gọi hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc trong

BLDS của Cộng hòa Liên bang Đức, BLDS Nhật Bản, Luật Hợp đồng Công

hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng khái niệm vô hiệu (void). Trong khi đó, luật

hợp đồng của các nước theo hệ thống common law như Anh, Mỹ… ghi nhận

loại hợp đồng này là “hợp đồng không thể thực thi” (unenforceable). Mặc dù

về tên gọi khác nhau nhưng bản chất là như nhau.

Còn đối với loại hợp đồng thương mại vô hiệu tương đối mà các yếu tố

dẫn đến sự vô hiệu như: hợp đồng giao kết do bị lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn,…

thì chúng cũng có những tên gọi khác nhau theo quy định của các nước

khácnhau. Theo quy định của BLDS Cộng hòa Pháp loại hợp đồng này có tên

gọi là “HĐVH có điều kiện”, hoặc theo quy định của pháp luật một số nước

theo hệ thống thông luật (Common law) hợp đồng thương mại vô hiệu tương

đối có tên gọi là “hợp đồng có thể vô hiệu” (voidable).

Về hợp đồng thương mại vô hiệu do bị đe dọa, pháp luật Việt Nam

không phân biệt rõ hành vi đe dọa xảy ra lúc nào và mức độ như thế nào thì

hợp đồng thương mại bị coi là vô hiệu. Do đó, nếu đe dọa ở giai đoạn thực

hiện hợp đồng để buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng

thương mại lúc này có bị tuyên bố vô hiệu hay không? Giải quyết vấn đề đó,

luật của Pháp có khái niệm “đe dọa không chính đáng” để phân biệt với khái

27

niệm “gây sức ép chính đáng”, là sự đe dọa không dẫn đến khả năng vô hiệu

hóa các hợp đồng. Một trong những trường hợp gây sức ép chính đáng là việc

thực hiện một quyền hợp pháp kèm theo yêu cầu đánh đổi quyền này với sự

ưng thuận của người bị đe dọa trong việc xác lập hợp đồng với những điều

kiện hoàn toàn bình thường. Chính đáng bởi vì, một là, việc gây sức ép không

bao gồm một dự tính trái pháp luật; hai là, người gây sức ép không thu nhận

các lợi ích bất thường, lợi ích quá đáng từ hợp đồng và người bị gây sức ép

cũng không bị thiệt hại do việc thực hiện hợp đồng đó [1].

Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Ở Việt Nam, điều kiện có hiệu

lực của giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng được quy định tại

Điều 122 BLDS 2005, theo đó, một giao dịch có hiệu lực khingười tham gia

giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch

không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham

gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Nếu pháp luậtcó quy định hình thức hợp

đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực thì cũng phải tuân thủ quy định này

[32] [1].

Như vậy, về cơ bản, trừ điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, các điều kiện

hợp đồng có hiệu lực của Hoa Kỳ và Việt Nam khá tương đồng với nhau.

Liên quan đến hợp đồng không có hiệu lực thi hành, pháp luật Hoa Kỳ chia

thành 3 loại là HĐVH (void), có thể vô hiệu (voidable) và không thể thực thi

(unenforceable). HĐVH là hợp đồng bị coi là không tồn tại, không được toà

án công nhận và không được thực thi (loại hợp đồng này giống HĐVH tuyệt

đối theo quan niệm trong khoa học pháp lí của Việt Nam). Hợp đồng có thể bị

vô hiệu là hợp đồng mà một bên có quyền lựa chọn chấm dứt hợp đồng, ví dụ

hợp đồng kí sai thẩm quyền (loại hợp đồng này cũng giống HĐVH tuyệt đối ở

Việt Nam). Hợp đồng không thể thực thi là hợp đồng mà không bên nào có

thể thực thiệnghĩa vụ hợp đồng, ví dụ ở Hoa Kỳ, một số loại hợp đồng bắt

28

buộc phải kí bằng văn bản, nếu các bên không tuân thủ quy định này thì hợp

đồng bị coi là không thể thực thi. BLDS năm 2005 của Việt Nam cũng lần

đầu tiên đưa ra căn cứ HĐVH do có đối tượng không thể thực hiện được

(Điều 411). Tuy vậy, với cách quy định tại Điều 411 “Trong trường hợp ngay

từ khi kí kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách

quan thì hợp đồng này bị vô hiệu” có thể tạo ra sự hiểu nhầm là trong mọi

trường hợp, khi có lí do khách quan làm cho đối tượng của hợp đồng không

thể thực hiện được thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu. Ví dụ: A kí hợp đồng

mua hàng của B nhưng không may, số hàng này gặp hỏa hoạn và bị tiêu huỷ

toàn bộ. Rõ ràng đối tượng của hợp đồng này không thể thực hiện được

nhưng không thể nói hợp đồng bị vô hiệu. Hợp đồng vẫn có hiệu lực, bên bán

vi phạm hợp đồng(không giao được hàng cho bên mua) nhưng do gặp phải lí

do bất khả kháng nên được miễn trách nhiệm hợp đồng [1] [2].

1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

1.5.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ hợp đồng bằng pháp luật

Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào

nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau

những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định

nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng và là tất

yếu đối với đời sống xã hội. Song, việc chuyển giao các lợi ích này không

phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vicó ý chí của của

chủ thể, như C. Mác đã từng nói: "Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị

trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau,

thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí

nằm trong các vật đó”. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí

giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và

được gọi là hợp đồng.

29

Hợp đồng chưa xuất hiện trong xã hội nguyên thủy bởi vì khi ấy lực

lượng sản xuất còn kém phát triển, còn tồn tại hình thức sở hữu chung về tư

liệu sản xuất. Khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân công lao động trong xã

hội thì nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa con người đòi hỏi phải có sự thống

nhất ý chí của những người chủ hàng hóa ấy mà hình thức của nó là bản giao

kèo. Đây chính là hợp đồng hay khế ước. Vì vậy, có thể khẳng định những

điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra

đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức cơ bản của mối quan hệ trao đổi sản

phẩm hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể pháp luật trong xã hội. Nhưng cùng

với sự phát triển của xã hội loài người thì hợp đồng không chỉ dừng lại ở hình

thức biểu đạt cho nhu cầu trao đổi sản phẩm mà nó còn phát triển vượt ra

ngoài phạm vi của mối quan hệ này. Bản thân việc trao đổi sản phẩm giữa

những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng cũng

không còn mang tính ngẫu nhiên mà nó đã dần chuyển hóa thành một nghề

độc lập - nghề thương mại. Ban đầu, khi tiến hành các hoạt động thương mại,

giữa các thương nhân hình thành những quy tắc xử sự mang tính nghề nghiệp.

Qua thời gian, các quy tắc này được lưu truyền và dần dần hình thành

tập quán được các thương nhân thừa nhận rộng rãi, gọi là tập quán thương mại.

Các tập quán này lại dần được pháp điển hóa trong các bộ luật, đạo luật đơn

hành hoặc được cấu thành những phần riêng trong pháp luật dân sự. Những văn

bản pháp luật này lần lượt ra đời ở một số nước Châu Âu, những nước có điều

kiện kinh tế, địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và giao lưu buôn bán

như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ…

Chế định hợp đồng từ chỗ chỉ là tập hợp những hợp đồng cụ thể trực

tiếp xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ đã dần dần trở thành một chế

định pháp lý thực sự với một khái niệm về hợp đồng tương đối chặt chẽ và

hoàn chỉnh. Từ thời La Mã, hợp đồng đã được định nghĩa là căn cứ làm phát

30

sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng

không thể thiếu: thứ nhất, phải có sự thỏa thuận (convention, consensus); thứ

hai, phải có mục đích (căn cứ pháp lý) nhất định (causa) mà các bên hướng

tới. Pháp luật về hợp đồng ngày càng được khẳng định cùng với sự ra đời của

các Bộ dân luật. Trong pháp luật tư sản, chế định hợp đồng tồn tại trong lĩnh

vực công pháp và tư pháp, song đặc biệt phát triển trong lĩnh vực tư pháp.

Điều 1101 BLDS La Mã quy định, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên,

theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc

chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Trên cơ sở

kế thừa những hạt nhân hợp lý, khoa học của khái niệm này, tại Điều 1101

BLDS Pháp hiện hành cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy vềhợp đồng.

Theo quy định của Điều 1101 BLDS Pháp năm 1804 thì “Hợp đồng là sự thỏa

thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm

một công việc”. Hoặc theo quy định của Điều 420 BLDS Liên Bang Nga năm

1994 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập,

thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”…

Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng xuất hiện từ khi có các định nghĩa

khái quát về khế ước trong các Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ (năm 1883), Bộ

Dân luật Bắc Kỳ (năm 1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (năm 1936)3. Tuy

nhiên, khái niệm khế ước không để lại dấu ấn sâu đậm và không có ảnh

hướng lớn đến hệ thống pháp luật về hợp đồng sau này. Trong bối cảnh hiện

nay nhiều nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã chuyển từ nền

kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì quan hệ trao đổi

hàng hóa mà hình thức của nó là hợp đồng ngày càng phức tạp, có nhiều sắc

thái biến động khiến các chủ thể kinh doanh không thể lường trước được. Sự

ra đời của pháp luật về hợp đồng là kim chỉ nam, là công cụ hữu hiệu nhất

điều hòa mối quan hệ thương mại mang tính hai mặt này. Như vậy, các quy

31

phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại

nói riêng là điều rất cần thiết cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các

thương nhân, giữa thương nhân với chủ thể kinh doanh.

1.5.2. Mục đích và ý nghĩa của quy định về HĐVH

Quy định về HĐVH, có thể xuất phát từ những quan niệm khác nhau,

hoặc chủ yếu từ nguyên tắc căn bản “nguyên tắc tự do ý chí” hoặc kết hợp

giữa tự do ý chí và ý chí Nhà nước. Tuy nhiên, quan niệm tôn trọng sự tự do ý

chí luôn được mong đợi hơn, sự tự do được hiểu là tự do của “con người xã

hội” không phải là “con người tự nhiên”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài

người, một sản phẩm lịch sử được hình thành do quan niệm tự do hoặc những

học thuyết tự do đó là “nguyên tắc tự do ý chí”. Theo đó, một chủthể sẽ bị

ràng buộc khi tuyên bố ý chí hoặc chấp nhận ý chí một cách tự nguyện và

không chống lại lợi ích công. “Nghĩa vụ tự do ý chí của các người kết ước mà

có. Lẽ dĩ nhiên, hiệu lực bắt buộc của nghĩa vụ cũng căn cứ vào nguyên tắc ý

chí tự do. Tuy nhiên, ở trên nguyên tắc này cần tôn trọng ích lợi chung và trật

tự công cộng”. Nhà nước chỉ luật hoá nguyên tắc tự do thành luật và ở chừng

mực nào đó quy định hoặc chấp nhận những giá trị được gọi là chuẩn mực

chung cần bảo vệ, buộc các chủ thể phải tôn trọng những chuẩn mực xã hội

đó - tự do giao kết nhưng không được xâm phạm trật tự công hoặc lợi ích của

chủ thể khác.

Xuất phát từ mục tiêu điều chỉnh của pháp luật, việc bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng là tất yếu và việc

bảo vệ của pháp luật luôn đặt ra đối với hợp đồng hợp pháp và HĐVH. Pháp

luật dân sự Cộng Hoà Pháp có quy định “Hợp đồng được giao kết hợp pháp

có giá trị là luật đối với các bên giao kết”; tương tự, BLDS hiện hành của Việt

Nam cũng thể hiện sự bảo vệ này, “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực

bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể

32

khác tôn trọng”. Đối với HĐVH, pháp luật không những bảo vệ quyền lợi của

các bên tham gia mà còn bảo vệ trật tự công cộng và các giá trị chung của xã

hội như đạo đức, thuần phong mỹ tục...Đây chính là nội dung thể hiện mục

đích và ý nghĩa của việc quy định HĐVH.

Tiểu kết chương

Kết quả nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn đã nêu lên những nét

khái quát nhất về khái niệm cũng như đặc thù của HĐVH do nhầm lẫn, từ đó

bước đầu có nhận thức chung về HĐVH do nhầm lẫn qua việc phân tích khái

niệm, phân loại HĐVH do nhầm lẫn, đặc điểm của HĐVH do nhầm lần. Cuối

cùng, sau khi đã nắm được những kiến thức cơ bản về HĐVH do nhầm lẫn,

tác giả bắt đầu tìm hiểu chung về cấu trúc và nội dung của pháp luật khi quy

định về vấn đề này để giới hạn được phạm vi tìm hiểu của đề tài. Kết quả

nghiên cứu lý luận tại chương 1 của luận văn giúp tác giả định hướng các

nghiên cứu về quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy

định của pháp luật trong thực tế về HĐVH do nhầm lẫn.

33

Chương 2

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

Trong quá trình xây dựng và ký kết hợp đồng, người soạn thảo cần lưu

ý đến điều kiện của hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp vô hiệu của hợp

đồng nhằm tránh các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong quá trình hai bên thực

hiện hợp đồng. Điều 388 BLDS năm 2015 quy định: Hợp đồng dân sự là sự

thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa

vụ dân sự. Như vậy hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của

các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp

đồng có hiệu lực khi đáp ứng đủ 4 điều kiện [37]:

Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường

các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là

xuất phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp

đồng đó.

Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Đối tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm

thực hiện. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì việc

xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa

vụ trong hợp đồng mà không thể thực hiện được thì hợp đồng cũng không

được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ.

Thứ tư, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể

thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại

34

hợp đồng. Hợp đồng không đáp ứng được một trong các điều kiện trên sẽ dẫn

đến vô hiệu.

Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm

2005

BLDS 2015 BLDS 2005

Chủ thể có năng lực pháp luật dân Người tham gia giao dịch

có năng lực hành vi dân sự Năng lực sự, năng lực hành vi dân sựphù

xác lập hợp với giao dịch dân sự được xác

giao dịch lập(theo hướng thêm điều kiện

năng lực pháp luật)

Mục đích và nội dung của giao Mục đích và nội dung của

dịch dân sự không vi phạm điều giao dịch không vi phạm

cấm của luật điều cấm của pháp luật,

(khắc phục sự hạn chế tự do như

Điều cấm quy định BLDS 2005, và theo như

của luật tinh thần điều 123 BLDS 2015

điều cấm của luật là những quy

định luật không cho phép chủ thể

thực hiện những hành vi nhất

định)

Mục đích và nội dung của giao Mục đích của giao dịch dân

Mục đích dịch dân sự không vi phạm điều sự là lợi ích hợp pháp mà

cấm của luật của giao các bên mong muốn đạt

dịch được khi xác lập giao dịch (điều 118, BLDS 2015)

đó. (Điều 123 BLDS 2005)

35

Hình thức của giao dịch dân sự là Hình thức giao dịch dân sự

Giới hạn tự điều kiện có hiệu lực của giao là điều kiện có hiệu lực của

do về hình dịch dân sự trong trường hợp luật giao dịch trong trường

thức hợp pháp luật có quy định có quy định. (làm hẹp đi yêu cầu

về hình thức)

Giao dịch dân sự thông qua Giao dịch dân sự thông qua

phương tiện điện tử dưới hình phương tiện điện tử dưới

thức thông điệp dữ liệu theo quy hình thức thông điệp dữ

định của pháp luật về giao dịch liệu được coi là giao dịch

bằng văn bản điện tử được coi là giao dịch bằng

Loại hình văn bản.(Đề cập đến luật giao

thức của dịch điện tử)

giao dịch + Bỏ hình thức văn bản không có

công chứng chứng thực như: văn

bản viết tay, văn bản đánh máy

+ không coi xin phép là một hình

thức nữa.

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

Do hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự nên theo quy định

tại Điều 407 BLDS 2015 về HĐVH đã liên hệ áp dụng các quy định về giao

dịch dân sự vô hiệu quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLDS năm 2015.

Theo quy định tại Điều 126 của BLDS năm 2015 thì giao dịch dân sự

vô hiệu do bị nhầm lẫn:

36

“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho

một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì

bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,

trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong

trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc

các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc

xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37]

Theo Điều 131 BLDS 2005, nếu một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ

yếu của hợp đồng mà đã giao kết hợp đồng thì có quyền yêu cầu bên kia thay

đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có

quyền yêu cầu tòa án tuyên bố HĐVH. Điều này khác với quy định của một

số nước theo truyền thống thông luật, về nguyên tắc, việc một hoặc cả hai bên

nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.

Nếu cả hai bên nhầm lẫn về một nội dung chủ yếu khi giao kết hợp đồng thì

HĐVH. Trong từng trường hợp cụ thể, tòa án sẽ xác định những nội dung nào

được gọi là nội dung chủ yếu. Nhầm lẫn của hai bên về luật áp dụng, nhầm

lẫn về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng hoặc nhầm lẫn về các khoản lợi

thu được từ hợp đồng về nguyên tắc không làm cho HĐVH. Nếu một bên

không tiết lộ thông tin, và vì thế bên kia đã giao kết hợp đồng thì hợp đồng

vẫn có hiệu lực. Tương tự, nếu một bên vô tình đưa ra một thông tin sai lệch

không vì mục đích lừa đảo và bên kia dựa vào đó đã giao kết hợp đồng thì

hợp đồng cũng không vì thế mà đương nhiên trở thành vô hiệu [2].

BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn nhưng lại khẳng

định nhầm lẫn về nội dung chủ yếu là yếu tố có thể đưa đến giao dịch vô hiệu.

Chính điều này đã gây ra không ít khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố

giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn có thể là do sự vô ý của

37

một bên hoặc của cả hai bên, và thực chất, cả hai bên đều mong muốn giao kết

một hợp đồng nghiêm túc, đúng pháp luật. Ví dụ: Khi ký kết hợp đồng mua

bán chén, ông A là người miền bắc (bên bán), ông B là người miền nam (bên

mua), khi hợp đồng được ký kết, ông A giao hàng thì lúc đó hai bên đã phát

hiện ra sự nhầm lẫn do sử dụng từ địa phương. Bởi vì “chén” theo tiếng miền

Nam có nghĩa là “bát” (dùng để ăn cơm, đựng canh,…) còn “chén” theo tiếng

miền Bắc là “chén uống nước”. Do đó, hợp đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu

một trong hai bên có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH [2].

Tuy nhiên. nếu một người do kém hiểu biết, không chịu tìm hiểu thông

tin mà mua một chiếc xe máy hiệu Spacy của Trung Quốc với giá 60 triệu

đồng và tưởng rằng đó là xe Nhật, thì không thể dựa vào sự nhầm lẫn đó mà

đòi trả lại xe máy cho cửa hàng; trừ trường hợp giá xe trên thị trường đã gần

như cố định và người bán hàng biết (hoặc đáng lẽ phải biết) nhầm lẫn của

người mua.

Từ những bức tranh nhái các danh họa nổi tiếng bày bán khắp nơi, đồ

giả cổ, cho đến hàng tiêu dùng, điện máy… hàng giả và thông tin thất thiệt

tràn ngập thị trường Việt Nam, làm cho cơ hội của người thiếu thông tin có

thể khởi kiện để hủy hợp đồng do bị nhầm lẫn, như được thiết kế trong Điều

131 BLDS năm 2005 dường như trở nên xa lạ và lạc lõng [43].

Giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015 được quy định tại

Điều 126 có rất nhiều thay đổi so với BLDS 2005, cụ thể:

“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho

một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì

bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,

trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong

trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc

38

các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc

xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37]

Như vậy, BLDS năm 2015 không còn quy định về lỗi vô ý của một bên

dẫn đến việc nhầm lẫn nữa mà thay vào đó chỉ xác định có sự nhầm lẫn của

một bên hoặc các bên và tiêu chuẩn để xác định hợp đồng có vô hiệu do nhầm

lẫn hay không còn được xem xét ở việc: kết quả (hay mục đích) của việc xác

lập giao dịch đã đạt được hay chưa hoặc các bên có tự khắc phục được nhầm

lẫn hay không?Quả thực, khiếu kiện để hủy bỏ nghĩa vụ hợp đồng do nhầm

lẫn là một trong những vấn đề phức tạp; các nghiên cứu ở phương Tây tuy

nhiều, song vẫn chưa thể đưa ra một lý thuyết hợp lý để xác định những tình

huống nhầm lẫn có thể dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng. Giới luật học nước ta

cũng chỉ đưa ra một vài lời bình luận khái quát mà chưa thể tổng kết thực tiễn

và đưa ra lý thuyết hữu dụng giúp thẩm phán tuyên bố HĐVH do nhầm

lẫn.Những tình huống nhầm lẫn này chưa được phân xử rõ ràng theo pháp luật

hợp đồng và thực tiễn xét xử ở nước ta. Dù các bên thận trọng đến tối đa cũng

không thể tuyệt đối tránh được nhầm lẫn, mà mọi sự nhầm lẫn nhỏ đều có thể

gây ra tranh chấp lớn.

Trong ngày 18 tháng 10 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân

dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số

702/2006/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2006 “Tranh chấp giữa

Thành viên của Công ty về hợp đồng góp vốn”, theo Quyết định đưa vụ án ra

xét xử số 1800/2007/QĐST - KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2007 giữa các

đương sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh căn cứ

theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định có cơ sở để xác định Hợp

đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời

điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao

dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ Điều 137

39

Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên

khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu

không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền [40].

2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

Hợp đồng bị vô hiệu có thể vì nhiều lý do khác nhau, tức là do vi phạm

các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện có hiệu

lực của hợp đồng có đặc trưng riêng. Chính vì lẽ đó nên theo nguyên tắc, bên

cạnh hậu quả pháp lý chung khi HĐVH (như hợp đồng không có hiệu lực kể từ

ngày ký, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…) còn có những hậu quả

pháp lý đặc thù, chỉ đặc trưng cho loại HĐVH đó (ví dụ như bồi thường thiệt

hại) và đương nhiên tính đặc thù này phải được thể hiện trong pháp luật. Rõ

ràng, hậu quả pháp lý khi HĐVH do bị nhầm lẫn không thể hoàn toàn giống

với hậu quả pháp lý khi HĐVH vì những lý do khác. Trong khi đó, BLDS năm

1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều quy định hậu quả pháp lý khi

HĐVH chung cho tất cả các trường hợp.

Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn, thì

hoặc là bên bị nhầm lẫn chịu thiệt hại hoặc bên kia chịu thiệt hại. Vậy ai sẽ

bồi thường những thiệt hại đó? Vấn đề có vẻ như đã được giải quyết, vì theo

quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì trong trường hợp

HĐVH, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhưng thực tế lại không

như vậy. Quy định nói trên chỉ có thể được áp dụng cho trường hợp HĐVH

do nhầm lẫn theo quy định của BLDS năm 2005, vì nhầm lẫn theo quy định

tại Điều 131 BLDS năm 2005 là do lỗi vô ý của bên không nhầm lẫn. Mặc dù

khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 cũng quy định như vậy nhưng không thể

được áp dụng để xác định ai phải bồi thường thiệt hại, vì nhầm lẫn theo quy

định tại Điều 126 BLDS năm 2015 không đề cập đến lỗi.Như vậy, khi hợp

40

đồng bị tuyên bố vô hiệu do bị nhầm lẫn và vì HĐVH nên một hoặc các bên

bị thiệt hại nhưng không thể xác định được lỗi, thì việc áp dụng khoản 4 Điều

131 BLDS năm 2015 là không thể [43].

Chúng ta có thể xem xét hai trường hợp: Một là, bên bị nhầm lẫn chịu

thiệt hại; hai là, bên không nhầm lẫn chịu thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô

hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn.

Trường hợp bên bị nhầm lẫn bị thiệt hại: Như đã đề cập ở trên, nhầm

lẫn có thể do hành vi của một bên và cũng có thể tự nhầm lẫn. Nếu bên bị

nhầm lẫn tự nhầm lẫn thì phải chịu thiệt hại do HĐVH. Vì trong trường hợp

này họ có hai sự lựa chọn là yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH hoặc không. Việc

họ chọn phương án yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH có nghĩa là họ đã chấp

nhận thiệt hại đó.

Trong trường hợp nhầm lẫn do bên còn lại cung cấp thông tin không

chính xác, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên cung cấp thông tin phải

bồi thường thiệt hại, mặc dù bên cung cấp không biết và không buộc phải biết

thông tin mà họ cung cấp là không chính xác. Ví dụ: Để bảo đảm cho khoản

vay của Công ty Y tại Ngân hàng, bà H đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài

sản gắn liền với đất mang tên bà H và chồng là ông T cho Ngân hàng (trước

đó, ông T đã có giấy ủy quyền cho bà H được quyền sử dụng giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn làm ăn). Do Công ty Y không trả được

nợ nên Ngân hàng khởi kiện và đề nghị Tòa án kê biên phát mại toàn bộ tài

sản của bên thứ ba đã được thế chấp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng

theo hợp đồng thế chấp.

Ông T khởi kiện và cho rằng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và

tài sản gắn liền với đất được ký kết giữa bà H và Ngân hàng bị vô hiệu do bà

H đã thực hiện không đúng phạm vi ủy quyền, bởi ông T chỉ đồng ý thế chấp

41

khi chính bà H vay tiền không phải cho bà H thế chấp để bảo lãnh cho khoản

vay của Công ty Y.

Lẽ ra, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

được ký giữa bà H và Ngân hàng tuy ghi là hợp đồng thế chấp nhưng thực

chất là hợp đồng bảo lãnh; đến thời hạn trả nợ mà Công ty Y không trả được

số tiền còn nợ thì Ngân hàng có quyền được tiếp tục quản lý tài sản của người

thứ ba đã thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty Y

như cam kết trong hợp đồng thế chấp. Mặc dù, trong giấy ủy quyền giữa ông

T và bà H có nêu rằng, bà H được quyền sử dụng giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất để thế chấp vay vốn làm ăn nhưng phía Ngân hàng đã nhầm lẫn là

ông T đã đồng ý để bà H dùng quyền sử dụng đất để thế chấp cho Ngân hàng,

bà H không thực hiện quá phạm vi ủy quyền. Do đó, Ngân hàng có quyền yêu

cầu bà H phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, bên không nhầm

lẫn bị thiệt hại. Nếu bên yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH bị nhầm lẫn do hành

vi của bên không nhầm lẫn thì rõ ràng, bên không nhầm lẫn phải chịu thiệt hại

đó. Vì nhầm lẫn có nguồn gốc từ hành vi của họ, cho dù họ không biết và

không buộc phải biết, hành vi của họ làm cho bên kia nhầm lẫn nên đã giao

kết hợp đồng, thực hiện giao dịch. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi bên không

nhầm lẫn bị thiệt hại do Tòa án tuyên bố HĐVH theo yêu cầu của bên bị

nhầm lẫn (do tự nhầm lẫn).

Ví dụ, người mua yêu cầu Tòa án tuyền bố HĐVH theo quy định tại

Điều 126 BLDS năm 2015 do người mua bị nhầm lẫn theo kiểu tự nhầm lẫn.

Vì hợp đồng bị tuyên vô hiệu nên người bán bị thiệt hại. Người mua bị nhầm

lẫn không phải do lỗi của người bán, vì vậy nếu bắt buộc người bán phải chịu

thiệt hại đó thì không hợp lý và thiếu cơ sở. Người mua hoàn toàn không có

lỗi khi họ bị nhầm lẫn, vì vậy không thể bắt buộc người mua bồi thường thiệt

hại cho người bán theo quy định tại khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015.

42

Trong tình huống này, thiệt hại của người bán được giải quyết và xử lý như

thế nào?

Như đã nói ở trên, trường hợp này sự nhầm lẫn xuất phát từ phía người

mua (người mua tự nhầm lẫn). Do đó, khingười mua tự nhầm lẫn nên không

đạt được mục đích của giao dịch (hợp đồng) thì họ có hai sự lựa chọn và

tương ứng hai hậu quả đối với người bán: Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì

người mua bị thiệt hại, người bán không bị thiệt hại; nếu yêu cầu Tòa án

tuyên bố HĐVH thì người mua không bị thiệt hại (hoặc tránh thiệt hại lớn

hơn), người bán bị thiệt hại. Trên thực tế, sẽ là không hợp lý nếu bắt người

bán phải chịu thiệt hại đó, bởi lẽ như vậy thì người bán phải chịu hậu quả do

hành vi của người khác gây ra. Trong tình huống này thì người mua phải bồi

thường thiệt hại cho người bán là hợp lý.

Như vậy, BLDS cần thiết phải phân định rõ trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của các chủ thể liên quan khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm

lẫn. Việc quy định rõ ràng như vậy bắt buộc bên bị nhầm lẫn phải có sự cân

nhắc kỹ trước khi yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH, qua đó đảm bảo được trật

tự cho lưu thông dân sự và hoạt động thương mại.

Từ những phân tích và lập luận nói trên, sẽ thuyết phục và hợp lý hơn

nếu Điều 126 BLDS năm 2015 có những nội dung như: (i) Bên nhầm lẫn về

thông tin hoặc pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự có thể yêu cầu

Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, nếu sự nhầm lẫn là nghiêm trọng và

lớn đến mức mà một người bình thường, trong hoàn cảnh tương tự sẽ không

giao kết hoặc chỉ giao kết với điều kiện hoàn toàn khác nếu người này đã biết

rõ tình trạng thực tế; (ii) Bên nhầm lẫn không được quyền yêu cầu Tòa án

tuyên bố HĐVH nếu buộc phải biết về sự nhầm lẫn nhưng đã không tìm hiểu

kỹ thông tin; buộc phải biết rằng nhầm lẫn là đặc trưng của loại giao dịch đó;

(iii) Bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên còn lại bồi thường thiệt hại nếu

43

chứng minh được rằng nhầm lẫn xuất phát từ hành vi hay những thông tin do

bên đó cung cấp; (iv) Bên bị nhầm lẫn phải bồi thường thiệt hại cho bên còn

lại nếu không chứng minh được nhầm lẫn là do lỗi của bên còn lại PG.

Ngày 19 tháng 03 năm 2010, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối

cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo

Quyết định số 01/KN-GĐT-V12 ngày 18/01/20010 của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án kinh doanh, thương mại

phúc thẩm số 05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh

VL, giữa các đương sự: Nguyên đơn: NĐ-Công ty TNHH thương mại dịch vụ

Thành Đô; Bị đơn: BĐ-Đại lý thức ăn tôm Thanh Tâm;

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST

ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã VL áp dụng các Điều 167, 168,

319 Luật Thương mại; các Điều 137, 305. Bộ luật Dân sự và quyết định:

“Tuyên bố Hợp đồng số 012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 vô hiệu. Công

nhận sự tự nguyện của bà Lưu Thị Tuyết về việc trả nợ cho NĐ-Công ty

Thành Đô số tiền 9.897.750 đồng Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà

Lưu Thị Tuyết đòi NĐ-Công ty Thành Đô bồi thường thiệt hại 1.998.284.000

đồng. LQ-Huỳnh Ngọc Minh Quyên, LQ-Nguyễn Quốc Thiên không phải

chịu trách nhiệm gì đối với NĐ-Công ty Thành Đô cũng như đối với bà Lưu

Thị Tuyết”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm nêu trên còn quyết định về án phí kinh

doanh, thương mại sơ thẩm mà nguyên đơn và bị đơn phải chịu. Ngày

14/12/2008, bà Lưu Thị Tuyết có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Tại

Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2009/KDTM-PT ngày

11/08/2009, Tòa án nhân dân tỉnh VL quyết định: “Chấp nhận một phần yêu

cầu kháng cáo của bị đơn bà Lưu Thị Tuyết. Sửa một phần Bản án kinh doanh,

thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân

dân thị xã VL (nay là thành phố VL) về việc tranh chấp hợp đồng đại lý.

44

Công nhận Hợp đồng mua bán số 012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008

giữa NĐ-Công ty TNHH thương mại dịch vụ Thành Đô và BĐ-Đại lý thức ăn

tôm Thanh Tâm là hợp đồng hợp pháp. Buộc NĐ-Công ty TNHH thương mại

dịch vụ Thành Đô do ông Phạm Văn Nga làm giám đốc có trách nhiệm bồi

thường cho bà Lưu Thị Tuyết - Đại diện BĐ-Đại lý thức ăn tôm Thanh Tâm số

tiền 858.285.000 đồng trừ dư nợ Công ty 198.750.000 đồng, còn trả

660.535.000 đồng”. Sau khi xét xử phúc thẩm, NĐ-Công ty Thành Đô có đơn

khiếu nại đề ngày 01/9/2009 đối với bản án phúc thẩm nêu trên [42].

Về xử lý hậu quả của HĐVH, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 137 Bộ

luật Dân sự năm 2005 là đúng. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định

lỗi của các bên tham gia ký kết dẫn đến hợp đồng này bị vô hiệu là ngang

nhau là không thuyết phục bởi vì nguyên nhân chính là cho Hợp đồng mua

bán số 012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 bị vô hiệu như đã phân tích ở

trên là do bà Tuyết. NĐ-Công ty Thành Đô cũng có lỗi khi không tìm hiểu về

chủ thể ký hợp đồng với mình. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định

được thiệt hại thực tế xảy ra từ việc vô hiệu hợp đồng, chưa làm rõ việc bà

Tuyết bị thiệt hại khoản 44.000.000 đồng do nhận hàng của Công ty theo hợp

đồng phải bán lỗ vì NĐ-Công ty Thành Đô đã bán mặt hàng thuốc thủy sản

Prawnbac vào thị trường mà Công ty giao cho bà Tuyết phân phối độc quyền;

chưa làm rõ thuốc Prawnbac 454 gam là loại thuốc dùng cho cá hay tôm vì

theo Catalogue về thuốc Prawnbac (BL98) do NĐ-Công ty Thành Đô xuất

trình thì đây là “chế phẩm sinh học của Hoa Kỳ mạch sống cho đầm nuôi

tôm”, từ đó chưa làm rõ khiếu nại của bà Tuyết cho rằng trong thời hạn thực

hiện Hợp đồng mua bán số 012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008, NĐ-Công

ty Thành Đô đã bán sản phẩm này cho một số tổ thức, cá nhân trên địa bàn

tỉnh VL là bán thức ăn cho tôm hay cá (BL 259-269). Ngoài ra, theo hồ sơ vụ

án thì bà Tuyết thừa nhận còn nợ tiền hàng là 198.750.000 đồng theo đơn đặt

45

hàng ngày 10/5/2008, nên theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm

2005 thì phát sinh khoản tiền lãi do bà Tuyết chậm thanh toán. Các khoản

thiệt hại thực tế phải được xác định để phân chia thiệt hại theo tỷ lệ lỗi của

mỗi bên nhằm xử lý hậu quả từ việc Hợp đồng số 012 nêu trên bị vô hiệu.

Mặt khác, theo hồ sơ vụ án thì sau khi xét xử sơ thẩm, bà Tuyết đã có đơn

kháng cáo (BL 364-365), theo yêu cầu của Tòa án cấp sơ thẩm, ngày

17/12/2008, bà Tuyết nộp tạm ứng án phí phúc thẩm là 50.000 đồng theo Biên

lai số 02793 (BL 362). Tuy nhiên, việc nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nêu

trên của bà Tuyết là không đúng với quy định tại Điều 16; Khoản 2 Điều 17

Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên; Căn cứ vào Khoản 2 Điều 291; Khoản 3 Điều 297;

Khoản 1, 3 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hủy Bản án kinh doanh,

thương mại phúc thẩm số 05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa án

nhân dân tỉnh VL và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số

05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã VL (nay là

thành phố VL). Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố VL để xét

xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật [42].

2.3. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

Liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, BLDS năm

2005 quy định: Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung

của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu

cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận

thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu;

trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của

giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này

(Điều 131 BLDS năm 2005) [32].

46

Còn theo quy định BLDS năm 2015, thì trường hợp giao dịch dân sự

được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được

mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa

án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2

Điều này; giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong

trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc

các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc

xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được (Điều 126 BLDS năm 2015). Do đó,

theo BLDS năm 2005, muốn xác định HĐVH do bị nhầm lẫn phải có 3 căn

cứ: Thứ nhất, có lỗi vô ý của chủ thể gây ra nhầm lẫn; thứ hai, có sự nhầm lẫn

về nội dung của hợp đồng; thứ ba, bên gây ra nhầm lẫn không chấp nhận sửa

đổi hợp đồng theo yêu cầu của bên nhầm lẫn. Còn theo quy định của BLDS

năm 2015 thì nhầm lẫn là điều kiện cần, không đạt được mục đích của giao

dịch là điều kiện đủ để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Như vậy,

BLDS năm 2015 chỉ quan tâm đến hậu quả của việc nhầm lẫn dẫn đến không

đạt được mục đích của giao dịch. Thực chất nhầm lẫn trong giao dịch dân sự

“là sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người

thể hiện ý chí” [37]. Có thể thấy rằng, nếu như quy định của BLDS năm 2005

là quá đơn giản, chưa đề cập đến mọi khía cạnh của nhầm lẫn, thì quy định

của BLDS năm 2015 là không rõ ràng và thiếu tính hợp lý, vì quy định không

cho biết thế nào là nhầm lẫn và không thể chỉ căn cứ vào việc có đạt được

mục đích của giao dịch hay không để yêu cầu tuyên vô hiệu [2].

Chúng ta biết rằng, mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể

mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Thiết nghĩ, đây là quy định

mang tính khái quát cao và có thể được áp dụng đối với mọi giao dịch dân sự.

Đối với hợp đồng dân sự (cả hợp đồng thương mại), thì lợi ích mà chủ thể

mong muốn đạt được khi ký kết hợp đồng là những lợi ích vật chất, có tính tài

47

sản. Trong trường hợp này, lợi ích được hiểu như vậy vì quan hệ hợp đồng là

quan hệ tài sản nên lợi ích mà các bên mong muốn đạt được phải có tính tài

sản và trong Luật Thương mại năm 2005 lợi ích được hiểu là có tính tài sản.

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, vi phạm cơ bản nghĩa

vụ hợp đồng là vi phạm của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm

cho bên kia không đạt được mục đích của việc ký kết hợp đồng. Vậy có tồn

tại trường hợp các bên đạt được mục đích của hợp đồng nhưng việc hợp đồng

được ký kết là do một trong các bên nhầm lẫn? Để giải quyết vấn đề này

chúng ta hãy phân tích tình huống [2]:

Ngày 01/4/2015, anh A (ở TP. Hồ Chí Minh) mua xe hơi Toyota

Corola Altis mới 100% với giá 950 triệu đồng. Mục đích mua xe của ông A là

để làm phương tiện di chuyển phục vụ cho công việc của cá nhân ông A.

Ngày 15/5/2015, ông A được điều chuyển ra Hà Nội làm việc. Chưa bán được

xe vì vội ra Hà Nội nên ông A cho bạn mình là ông B mượn sử dụng. Trong

thời gian sử dụng, ông B gặp tai nạn và xe bị hỏng phần đầu. Ông B không

thông báo cho ông A về tai nạn đó, tự sửa chữa. Ngày 20/7/2015, ông A vào

TP. Hồ Chí Minh với mục đích bán xe. Biết ông C có nhu cầu mua xe để làm

phương tiện đi lại, ông A bán chiếc xe đó cho ông C và nói với ông C rằng, xe

mới mua gần 4 tháng, chưa bị sửa chữa lần nào và vì không có nhu cầu sử

dụng nên bán lại. Giá xe ông A bán cho ông C là 850 triệu đồng. Có thể nói

rằng, việc ông C mua xe và xe được sử dụng tốt là đã đạt được mục đích của

hợp đồng. Sau khi mua 02 tháng, ông C tình cờ biết được xe của ông đã một

lần bị hỏng đầu và đã được sửa chữa. Vấn đề đặt ra ở đây là ông C có quyền

yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH hay không? [2]

Trong ví dụ nói trên có 03 khả năng sau đây: (i) Nếu khi bán xe cho

ông C, ông A không nói với ông C rằng, xe mới mua và chưa bị hư hỏng và

sửa chữa lần nào thì khả năng ông C yêu cầu tuyên bố HĐVH khó có thể xảy

48

ra; (ii) Nếu ông A biết hoặc buộc phải biết xe bị hư hỏng vì tại nạn và được

sửa chữa nhưng không nói cho ông C biết, thì ông C có quyền yêu cầu HĐVH

do bị lừa dối (ông A lừa dối ông C về tình trạng của xe); (iii) Ông A không

biết và không buộc phải biết về tình trạng của xe nên cam kết với ông C như

đã nói ở trên, trong trường hợp này thì sự nhầm lẫn của ông C có nguyên

nhân từ thông tin do ông A cung cấp và đương nhiên có ông C có quyền yêu

cầu tòa án tuyên bố HĐVH. Rõ ràng, mặc dù mục đích của hợp đồng vẫn đạt

được nhưng nếu ông C biết được thông tin xe bị tai nạn thì sẽ không mua

hoặc nếu mua thì với giá thấp hơn rất nhiều. Và chắc chắn rằng, ông A biết,

buộc phải biết rằng ông C nếu biết được sự thật đã không ký kết hợp đồng

mua xe hoặc mua nhưng với các điều khoản hoàn toàn khác.

Qua việc xem xét tình huống nói trên, chúng tôi cho rằng, không nên

chỉ lấy tiêu chí đạt hay không đạt được mục đích của giao dịch dân sự để xác

định nhầm lẫn là điều kiện để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, mà

còn cần phải xem xét vấn đề người mua và những người bình thường khác có

ký kết hợp đồng hay không nếu họ biết được tình trạng thực tế liên quan đến

hợp đồng.

Ngay cả khi lấy tiêu chí có hay không đạt được mục đích của giao dịch

dân sự để xác định nhầm lẫn là điều kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch

dân sự vô hiệu, thì vấn đề đặt ra là có phải trong mọi trường hợp, khi một

hoặc các bên của giao dịch không đạt được mục đích của giao dịch thì đều có

quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và không có ngoại lệ

cho trường hợp này? Chúng tôi cho rằng, có nhiều lý do dẫn đến nhầm lẫn

làm cho một hoặc các bên không đạt được mục đích của việc ký kết hợp đồng

và đều có thể là căn cứ để yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH. Cụ thể:

Thứ nhất, một bên bị nhầm lẫn do bên kia cung cấp thông tin không xác

thực nhưng bên đó đã không biết và không buộc phải biết những thông tin mà

49

họ cung cấp là không xác thực. Loại nhầm lẫn này được quy định rõ trong

Nguyên tắc luật hợp đồng thương mại quốc tế và trong Nguyên tắc luật hợp

đồng của châu Âu [3]. Trong ví dụ trên, ông A không biết và không buộc phải

biết về việc xe bị hư hỏng nên đã cam kết với ông C. Như vậy ở đây, ông C

nhầm lẫn là do thông tin do ông A cung cấp. Trong trường hợp này, cam kết

của ông A làm cho ông C tự tin hơn, tin tưởng hơn vào đối tượng của hợp

đồng nên đã thực hiện giao dịch. Giả định nếu không có sự cam kết của ông A

thì rất có thể ông C sẽ không thực hiện giao dịch với ông A. Loại nhầm lẫn

này, như đã đề cập ở trên, cho dù mục đích hợp đồng có thể đạt được thì vẫn

có thể là căn cứ để yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH.

Thứ hai, nhầm lẫn do bên bị nhầm lẫn không biết và không buộc phải

biết rằng họ bị nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng và hậu quả là họ không đạt

được mục đích của hợp đồng. Sự nhầm lẫn này có thể xuất phát từ điều kiện,

hoàn cảnh hoặc khả năng nhận thức của bên bị nhầm lẫn. Trong trường hợp

này, bên bị nhầm lẫn có thể có quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH, bởi lẽ họ

không nhận thức được hậu quả của hành vi.

Thứ ba, bên bị nhầm lẫn biết hoặc buộc phải biết rằng họ bị nhầm lẫn

khi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, bên bị nhầm lẫn mặc dù không

biết nhưng xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể họ buộc phải biết về khả

năng họ bị nhầm lẫn nhưng đã không có những hành vi, biện pháp để khắc

phục (trong tình huống này, những người bình thường khác sẽ không ký kết

hợp đồng, thực hiện giao dịch). Như vậy, mặc dù không đạt được mục đích

của hợp đồng nhưng bên bị nhầm lẫn không có quyền yêu cầu tuyên bố

HĐVH. Điều này được lý giải rằng, bên bị nhầm lẫn theo nguyên tắc buộc

phải nhận thức được hậu quả của hành vi.

Thứ tư, có những lĩnh vực của hoạt động thương mại, có những hành vi

được đặc trưng bởi sự nhầm lẫn, có nghĩa là nhầm lẫn thường xuyên xảy ra

50

trong những tình huống đó và các bên của giao dịch biết và buộc phải biết về

những tình huống này. Ví dụ, trên thị trường mua bán ô tô đã qua sử dụng thì

người mua cần phải ý thức và phải biết rằng, nhầm lẫn là điều không tránh

khỏi. Nhận thức được như vậy nhưng họ vẫn ký kết hợp đồng mua bán có

nghĩa là họ chấp nhận rủi ro. Điều này cũng có nghĩa là họ nhận thức được

hậu quả của hành vi và việc không đạt được mục đích của giao dịch không

được coi là căn cứ yêu cầu tuyên bố HĐVH.

Từ những phân tích và luận giải ở trên, có thể nói rằng, nhầm lẫn không

chỉ nên xác định căn cứ vào mục đích của giao dịch có đạt được hay không và

không phải mọi nhầm lẫn làm cho một hoặc các bên không đạt được mục đích

của giao dịch đều là căn cứ để yêu cầu toàn án tuyên bố giao dịch (hợp đồng)

vô hiệu.

Trong ngày 27 tháng 7 năm 2006 và ngày 01 tháng 8 năm 2006 tại trụ

sở Tòa án nhân dân Thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý

số149/KTST ngày 06 tháng 6 năm 2005 về “tranh chấp hợp đồng mua bán”

theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1149/2006/QĐXX-ST ngày 30 tháng

6 năm 2006 giữa các đương sự: Nguyên đơn: NĐ-Công ty trách nhiệm hữu hạn

(TNHH) dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường. Người đại diện hợp pháp

của nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Thịnh. Bị đơn: BĐ-Công ty TNHH Tocoro

Mall. Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Nguyễn Nhật Tuấn.

Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 01 năm 2004 và tờ giải trình ngày

22/11/2005 của NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc

Hường thì ngày 07/7/2003 NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất

Ngọc Hường và BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall có ký Hợp đồng mua bán số

241/03-VU và số 243/03-VU với nội NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại

sản xuất Ngọc Hường mua của BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall 26.160 kg

hóa chất Myflame 84527E trị giá là 75.864 USD.

51

Thực hiện hai hợp đồng mua bán trên, sau khi nhận hàng NĐ-Công ty

TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã sử dụng lô hóa chất nhập

về để gia công 100.000 m vải có phủ chất chống cháy theo tiêu chuẩn BS5852

theo Hợp đồng gia công số 086/07-2003-VG-GCDI ngày 18/7/2003 với Xí

nghiệp may BT thuộc LQ-Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập

khẩu Ái Nhân. Thực hiện hợp đồng gia công trên, NĐ-Công ty TNHH dịch

vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã giao cho Xí nghiệp may BT 100.000

m vải có phủ chất chống cháy, nhưng khi kiểm tra chất lượng hàng Xí nghiệp

may BT đã từ chối thanh toán tiền gia công với lý do chất chống cháy phủ

trên vải không đạt chất lượng vì bị dính và không khô. BĐ-Công ty TNHH

Tocoro Mall đã bán cho NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất

Ngọc Hường hóa chất Myflame 84527E không đạt chất lượng dẫn đến việc

NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường bị thiệt hại

121.000USD. Đây là số tiền gia công mà NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương

mại sản xuất Ngọc Hường đã thực hiện gia công 100.000m vải nhưng đã bị Xí

nghiệp may BT từ chối thanh toán. Ngày 05/11/2003 NĐ-Công ty TNHH

dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường có văn bản yêu cầu BĐ-Công ty

TNHH Tocoro Mall khắc phục hậu quả thiệt hại nhưng không được BĐ-Công

ty TNHH Tocoro Mall giải quyết. Do đó, NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương

mại sản xuất Ngọc Hường đã làm đơn khởi kiện yêu cầu BĐ-Công ty TNHH

Tocoro Mall phải bồi thường thiệt hại cho NĐ-Công ty TNHH dịch vụ

thương mại sản xuất Ngọc Hường số tiền là 121.000USD.

Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 245/KTST ngày 28/9/2004 Tòa án nhân

dân Thành phố HCM đã: Bác yêu cầu của nguyên đơn (NĐ-Công ty TNHH

dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường) trong việc yêu cầu bị đơn là BĐ-

Công ty TNHH Tocoro Mall bồi thường thiệt hại số tiền là 110.000USD.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall, buộc NĐ-

52

Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường phải trả cho BĐ-

Công ty TNHH Tocoro Mall số tiền là 80.842,35 USD. Trong đó có nợ tiền

hàng của hai hợp đồng là 75.864 USD và lãi phát sinh 4.978,35USD. NĐ-

Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường kháng cáo. Tại bản

án phúc thẩm số 37/KTPT ngày 12/5/2005 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân

dân tối cao tại Thành phố HCM đã tuyên: Huỷ bản án số 245/KTST ngày

28/9/2004 của Tòa án nhân dân Thành phố HCM đã xét xử vụ tranh chấp hợp

đồng kinh tế giữa nguyên đơn NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản

xuất Ngọc Hường và bị đơn BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall và người có

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là LQ-Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh

xuất nhập khẩu Ái Nhân. Giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân Thành phố

HCM để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung. Tòa án nhân dân thành phố

HCM đã tổ chức cho các bên đương sự hòa giải để giải quyết tranh chấp trên,

nhưng do các bên không thống nhất với nhau về cách giải quyết bằng hòa giải

nên Tòa án đã lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử theo

luật định [41].

Về thời hiệu khởi kiện: Xét trong việc thực hiện hai hợp đồng 241/03 -

VU ký ngày 07/7/2003 và 243/03 - VU ký ngày 11/7/2003, sau khi nhận hàng

và đưa vào sản xuất và phát hiện hàng kém chất lượng nên ngày 07 tháng 01

năm 2004 NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã

làm đơn khởi kiện. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án kinh tế và Khoản 3, Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đơn khởi

kiện của nguyên đơn nằm trong thời hiệu khởi kiện [41]

Việc xử lý HĐVH đối với sản phẩm Myflame 84527E căn cứ vào Điều

39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế để xử lý như sau: “Các bên có nghĩa vụ hoàn

trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong

trường hợp không thể trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền… Thiệt hại

53

phát sinh, các bên tự gánh chịu”. Xét trong việc thực hiện hợp đồng trên, BĐ-

Công ty TNHH Tocoro Mall giao cho NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương

mại sản xuất Ngọc Hường 109 thùng Myflame 84527E trị giá 75.864USD.

NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã sử dụng 73

thùng và làm mất 3 thùng tổng cộng là 76 thùng trị giá là 52.896USD (76 x

240kg x 2,9USD/kg = 52.896USD). Do đó NĐ-Công ty TNHH dịch vụ

thương mại sản xuất Ngọc Hường có nghĩa vụ hoàn trả BĐ-Công ty TNHH

Tocoro Mall 33 thùng Myflame 84527E hiện đang tồn kho và số tiền là

52.896USD, trị giá của 67 thùng Myflame 84527E mà NĐ-Công ty TNHH

dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã sử dụng.

Từ việc xử lý HĐVH nói trên, Hội đồng xét xử bác yêu cầu của NĐ-

Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường trong việc đòi BĐ-

Công ty TNHH Tocoro Mall bồi thường thiệt hại 1.845.328.082 đồng. Chấp

nhận một phần yêu cầu phản tố của BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall, buộc

NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường có nghĩa vụ

hoàn trả BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall 33 thùng Myflame 84527E hiện

đang tồn kho và số tiền là 52.896USD, trị giá của 67 thùng Myflame 84527E

mà NĐ-Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã sử dụng.

Chính vì sự nhầm lẫn về tên gọi PO và PU trong Hợp đồng 214 và 243,

khi có tranh chấp về chất lượng BĐ-Công ty TNHH Tocoro Mall vẫn cho

mình đã giao hàng đúng chất lượng trong hợp đồng, còn NĐ-Công ty TNHH

dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường cho rằng lô hàng kém chất lượng

cần phải giữ lại lô hàng để kiểm tra chất lượng, dẫn đến việc lô hàng hết hạn

sử dụng. Do đó, việc Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho

rằng: Tại phiên Tòa ngày 27/7/2006, các bên đã thừa nhận có sự nhầm lẫn

giữa tên gọi sản phẩm PO và PU để hợp đồng có giá trị pháp lý là không có

cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận [41].

54

2.4. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi hợp

đồng bị tuyên bố là vô hiệu do nhầm lẫn

Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch

dân sự vô hiệu được áp dụng cả trong trường hợp HĐVH. Điều 133 BLDS

năm 2015 quy định: Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ

ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy

định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi

dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi

phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Từ nội dung điều luật có thể thấy các nội dung chính:

Về hợp đồng được giao kết vì lợi ích của người thứ ba có các điều kiện

riêng biệt là: Trong mối quan hệ giữ hai bên giao kết hợp đồng, phải có một

bên trao quyền lợi của minh theo hợp đồng cho một người khác không tham

gia giao kết (người thứ ba) và bên kia cam kết thực hiện một nghĩa vụ nào đó

cho người thứ ba (hợp đồng có đền bù); Người thứ hai được hưởng các lợi ích

trong phạm việcác điều kiện do hợp đồng quy định; Người thứ ba không phải

là một người xác định, tuy nhiên không cần thiết tồn tại vào thời điểm giao

kết hợp đồng, nhưng phải tồn tại vào thời điểm có hiệu lực của sự thực hiện

hợp đồng vì lợi ích của họ.

Ngày 09 tháng 04 năm 2012, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân

tối cao tại thành phố HCM xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số

83/20T1/TLPT-DS ngày 12 tháng 12 năm 2011 về việc “Tranh chấp đòi lại

tài sản là quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DS-ST

ngày 14 tháng 11 năm 2011 của Tòa án nhân dân tỉnh TN bị kháng cáo. Theo

Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 170/2012/QĐ-DS ngày 12 tháng

01 năm 2012 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Ông NĐ-Lý Thanh Tiền, sinh

năm 1938 (có mặt); Bị đơn: Ông BĐ_Hà Huyền Minh, sinh năm 1958 (vắng

mặt). Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2011/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm

2011 của Tòa án nhân dân tỉnh TN đã quyết định:Không chấp nhận yêu cầu

55

khởi kiện của ông NĐ-Lý Thanh Tiền đối với ông BĐ_Hà Huyền Minh về

việc tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất. Ông BĐ-Hà Huyền Minh

được tiếp tục sử dụng phần đất tranh chấp diện tích 272,4 m2, thuộc thửa đất

số 92, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại đường THĐ, khu phố 4, phường 2, thị xã

TN. Đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; số CH 00185 cấp ngày

11/02/2011 do ông BĐ_Hà Huyền Minh đứng tên.

Theo Bản án sơ thẩm thì có thể nhận thấy những thiếu sót về tố tụng

nhưng không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương

sự. Thiếu sót của cấp sơ thẩm được cấp phúc thẩm khắc phục bằng cách triệu

tập bà Giang và các con bà đến phiên tòa phúc thẩm. Các đương sự có mặt tại

phiên tòa xét xử phúc thẩm và trình bày ý kiến của mình về giao dịch chuyển

nhượng quyền sử dụng diện tích 272,4m2 đất thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ

số 23, tọa lạc tại đường THĐ, khu phố 4, phường 2, thị xã TN, tỉnh TN giữa

bà Giang với ông NĐ-Tiền, bà Giang với ông BĐ-Minh. Do đó không cần

thiết hủy bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện Kiểm sát.Giao dịch giữa ông

BĐ-Minh với bà Giang vô hiệu, diện tích đất tranh chấp (có miếu thờ) được

giao cho ông NĐ-Tiền, người bỏ vốn đầu tư. Lẽ ra buộc ông NĐ-Tiền phải

hoàn trả các khoản phí, lệ phí đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật mà

ông BĐ-Minh đã chi và công sức bảo quản tài sản cho ông BĐ-Minh nhưng

do người đại diện cho ông BĐ-Minh không yêu cầu nên chưa có cơ sở xem

xét. Tuy nhiên để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của ông BĐ-Minh, Hội

đồng xét xử dành cho ông quyền khởi kiện đối với ông NĐ-Tiền theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi cần thiết.

2.5. Bất cập về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp

đồng vô hiệu do nhầm lần và nguyên nhân

2.5.1. Bất cập

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ, một số Bộ luật, luật

quan trọng còn có nhiều lỗ hổng, bất cập, hạn chế, chồng chéo giữa các quy

56

định…Trong giai đoạn từ năm 2014 - 2018 bên cạnh BLDS và Bộ luật tố tụng

dân sự mới được ban hành còn có rất nhiều những Bộ luật, luật quan trọng

được sửa đổi, ban hành mới có thể kể đến như: Hiến pháp 2013, Luật hôn

nhân và gia đình năm 2013, Luật đất đai năm 2014, Bộ luật hình sự năm

2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hành chính năm

2015… Những văn bản pháp luật mới được ban hành đã khắc phục được

những thiếu sót của văn bản pháp luật cũ, đáp ứng tốt những yêu cầu áp dụng

pháp luật để giải quyết các tranh chấp hiện nay. Cụ thể:

- Hậu quả pháp lý khi tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu còn nhiều

vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn xét xử.

- Khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch

dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người

thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực

hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Khó khăn liên quan đến

việc áp dụng quy định nêu trên trước hết chính là phải hiểu thuật ngữ “chuyển

giao” như thế nào cho đúng? Liệu việc đưa tài sản vào trong giao dịch thế

chấp hay cầm cố có được xem như là việc chuyển giao tài sản hay không?

2.5.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan:

- Sự phối hợp của một số cơ quan, tổ chức với Tòa án trong công tác

giải quyết, xét xử các loại vụ án hiệu quả chưa cao, thậm chí chưa làm hết

trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp đầy đủ,

kịp thời các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu cầu Tòa án.

- Chế độ kinh phí, tài chính đối với hoạt động xét xử còn chưa được

quan tâm, chú trọng và chưa tương xứng với tính chất đặc thù của công tác và

đòi hỏi yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Tòa án.

57

- Tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân còn nhiều yếu

kém; Chất lượng, kỹ năng xét xử của Hội thẩm nhân dân còn thấp. Chế độ,

chính sách đối với Hội thẩm còn hạn chế.

Nguyên nhân chủ quan

- Chưa thật sự chủ động trong công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ;

chạy theo chỉ tiêu về số lượng giải quyết nên làm ảnh hưởng tới chất lượng

giải quyết án.

- Một số Thẩm phán và Hội đồng xét xử còn chủ quan, chưa thận trọng

nghiên cứu kĩ hồ sơ, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện.

Việcứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án chưa được quan

tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao, chậm ứng dụng công nghệ thông tin để kịp

thời cập nhật những văn bản pháp luật hiện hành trong áp dụng giải quyết án.

- Công tác kiểm tra, hướng dẫn hoạt động nghiệp vụ và thực thi công

vụ của cán bộ, công chức, viên chức chưa thường xuyên.

- Mặt khác, do trình độ, nhận thức về pháp luật của người tham gia tố

tụng còn thấp nên việc tranh luận, tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chưa đạt

hiệu quả.

Tiểu kết chương

Chương 2 của luận văn tập trung làm rõ các quy định của pháp luật về

HĐVH do nhầm lẫn tại BLDS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng

thời, nôi dung chương 2 cũng làm rõ các tình huống cụ thể nhằm thể hiện rõ

các điều chỉnh quy định về HĐVH trong thực tế. Với các tình huống thực tế

đã phân tích trên đây cho thấy pháp luật về HĐVHdo nhầm lẫn chưa thể bao

quát hết sự đa dạng muôn màu của cuộc sống. Bên cạnh các quy định khá rõ

ràng và chặt chẽ như quy định về trường hợp HĐVH do nhầm lẫn thì còn

nhiều quy định chưa đủ “sức nặng” để điều khiển đến mọi góc cạnh của thực

tiễn như quy định về HĐVH do không có đăng ký kinh doanh, vô hiệu do vi

58

phạm về hình thức…hay quy định về hậu quả pháp lý của HĐVH do nhầm

lẫn. Chính việc không đủ đầy trong nội dung của các quy định pháp luật về

HĐVH đã tạo nên những lỗ hổng cho các chủ thể kinh doanh lợi dụng gây bất

lợi cho đối tác. Do đó, việc phân tích thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp

luật về HĐVH là cần thiết để từ đó có những phương hướng cụ thể hoàn thiện

pháp luật về hợp đồng nói chung về HĐVH do nhầm lẫn nói riêng ở Việt

Nam hiện nay.

59

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN

3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu

do nhầm lẫn

3.1.1. Các quy định về HĐVHdo nhầm lẫn cần được đặt trong mối

quan hệ với các quy định về HĐVH của BLDS

Hợp đồng là một dạng đặc thù của giao dịch dân sự. Mọi hợp đồng dù

nhằm phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay tiêu dùng sinh hoạt đều chịu sự

điều chỉnh chung của BLDS. Hiện tại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, pháp

luật Việt Nam có BLDS năm 2015. Xét từ mối quan hệ chung - riêng giữa

hợp đồng và các giao dịch dân sự, tác giả cho rằng cần luôn tuân thủ nguyên

tắc của mối quan hệ chung – riêng giữa, nghĩa là những gì đã được quy định

tương đối cụ thể tại BLDS thì không cần đề cập đến trong pháp luật về hợp

đồng ở các văn bản khác nữa. Cái chung về HĐVH mà BLDS đã đề cập: một

là, các yếu tố đưa đến vô hiệu hợp đồng; hai là, hậu quả pháp lý của HĐVH;

ba là, các nguyên tắc xử lý tài sản trong trường hợp vô hiệu hợp đồng. Về

nguyên tắc, chúng ta có thể thừa nhận các quy định về hợp đồng nêu trên của

BLDS và áp dụng chúng. Tuy nhiên, bên cạnh các quy định mang tính nguyên

tắc như vậy vẫn cần những về HĐVH do nhầm lẫn cụ thể với những đặc thù

rất riêng của nó. Nhiệm vụ của pháp luật về HĐVH nói chung và pháp luật về

HĐVHdo nhầm lẫn nói riêng đề cập đến các quy định riêng phù hợp với đặc

điểm và bản chất của từng loại hợp đồng mà không nhắc lại những quy định

có tính chất chung đã được đề cập trong BLDS.

60

3.1.2. Sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành về

HĐVH do nhầm lẫn theo hướng xây dựng hoàn thiện các quy định về hợp

đồng trong BLDS

Sự ra đời của BLDS năm 2015 với những kế thừa các quy định pháp

luật trước đây về HĐVH, cùng với sự tiếp thu kinh nghiệm pháp luật trên thế

giới đã phần nào khắc phục được những thiếu sót của Pháp lệnh hợp đồng

kinh tế trước đó. Hơn nữa, một loạt các văn bản chuyên ngành có liên quan

đến vấn đề hợp đồng cũng được ban hành như Luật thương mại 2005, Luật

doanh nghiệp, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng, Luật xây

dựng cũng tạo ra một diện mạo mới cho hệ thống pháp luật về HĐVH. Tuy

nhiên, bên cạnh những tiến bộ, một số quy định không rõ ràng và cách vận

dụng pháp luật thiếu linh hoạt đã dẫn đến tình trạng Nhà nước can thiệp quá

mức vào tự do hợp đồng, gây không ít hậu quả xấu cho các bên liên quan,

nhiều vướng mắc phát sinh trong HĐVH do nhầm lẫn chưa giải quyết được

triệt để. Do đó, để tuyên bố và giải quyết HĐVH một cách chính xác, có sức

thuyết phục, cần hướng tới các vấn đề sau:

Thứ nhất, tôn trọng tự do hợp đồng

Để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật hợp đồng của một quốc gia,

người ta thường xem xét các giá trị của tự do hợp đồng. Tự do hợp đồng được

hiểu là khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên được tự do lựa chọn đối tác,

tự do chọn loại hình hợp đồng thích hợp để đạt mục tiêu, tự do xác lập các

điều khoản và tự do quyết định có giao kết hợp đồng hay không.Một số người

cho rằng để bảo vệ quyền tự do của người khác và lợi ích của cộng đồng nên

phải hạn chế tự do hợp đồng. Và tự do hợp đồng bị vô hiệu khi các bên tham

gia hợp đồng có thỏa thuận vi phạm trật tự công, đạo đức xã hội hoặc các bên

tham gia hợp đồng không hoàn toàn tự nguyện. Nhưng có lẽ tự do hợp đồng

chỉ có một giá trị nổi bật nhất là hạn chế sự can thiệp của cơ quan có thẩm

61

quyền vào tự do của công dân. Do đó, cần đảm bảo tự do hợp đồng của các

bên trong quan hệ hợp đồng, đồng thời cónhững quy định pháp luật hạn chế ở

mức thích đáng tự do hợp đồng nhằm bảo đảm trật tự công và đạo đức xã hội.

Thứ hai, xác định sự can thiệp vào tự do hợp đồng:

Cải cách pháp luật hợp đồng, hoàn thiện những quy định liên quan đến

HĐVH cần xác định sự can thiệp vào tự do hợp đồng. Trong xu hướng hoàn

thiện pháp luật, sửa đổi BLDS năm 2015 cần có những quy định về HĐVH

không chỉ bảo đảm sự quản lý nhà nước mà cần đặt lợi ích của các bên tham

gia hợp đồng làm mục tiêu ưu tiên. Điều này nhằm mục đích Nhà nước thực

sự trở thành bàn tay nâng đỡ cho các quan hệ tự do kinh doanh, tự do thỏa

thuận để thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó, từ hình thức, nội

dung, các điều kiện có hiệu lực cho đến các trường hợp vô hiệu của hợp đồng

cần được tư duy theo hướng tăng cường tự do hợp đồng, hạn chế sự can thiệp

không cần thiết vào quan hệ hợp đồng. Khi đã chứng minh được có sự tự do

thỏa thuận và thỏa thuận đó trở thành “luật” đối với các bên tham gia hợp

đồng thì cần phải được tôn trọng ngay cả từ phía cơ quan nhà nước. Tòa án

đại diện cho cơ quan nhà nước chỉ nên can thiệp khi quan hệ hợp đồng vi

phạm trật tự công, đạo đức xã hội chứ không nên tuyên vô hiệu [2].

Thứ ba, trật tự công thay cho điều cấm của pháp luật:

Trong quá trình xét xử, tòa án cần thu nạp những giá trị công lý, thuần

phong mỹ tục vào phán quyết của mình để giải thích thuật ngữ “trật tự công”

và giúp những hợp đồng bị tuyên vô hiệu trở nên hợp tình hợp lý hơn.

Thứ tư, sử dụng án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn

Án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu nói chung và HĐVH do nhầm lẫn là

các bản án, quyết định của tòa án được thừa nhận và trở thành khuôn mẫu

điển hình để các tòa án vận dụng giải quyết trong những trường hợp tương tự.

Ở nước ta, án lệ về HĐVH vẫn chưa được thừa nhận là nguồn chính thức của

62

pháp luật nhưng các luật sư và thẩm phán vẫn tìm thấy ở đó những quy phạm

bổ sung cho sự thiếu hụt của văn bản pháp luật. Để tuyên bố một HĐVH, các

thẩm phán không chỉ tuân thủ và áp dụng những quy định trong BLDS 2015

mà còn cần có quyền sáng tạo và giải thích pháp luật. Đa dạng hóa các nguồn

pháp luật hợp đồng, sử dụng án lệ hợp đồng dân sự vô hiệu cho những trường

hợp tương tự sẽ dẫn đến các tuyên bố vô hiệu hợp đồng chính xác hơn, đảm

bảo các quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng và của người khác.

Bởi vậy, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu

nên trao cho thẩm phán quyền linh hoạt sáng tạo để phù hợp với từng trường

hợp cụ thể. Có thế, thẩm phán có thể tạo ra một loại quy phạm đặc biệt gần

gũi với thực tế đời sống - những quy phạm được các thẩm phán thiết lập qua

quá trình áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án về hợp đồng dân sự. Những

quy phạm này cần được xem là một nguồn quy phạm bổ sung trong quá trình

áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án về hợp đồng dân sự vô hiệu.

3.1.3. Đảm bảo thể chế hóa đường lối đổi mới chính sách kinh tế của

Đảng và Nhà nước đồng thời tạo ra sự tương thích với pháp luật quốc tế về

HĐVH do nhầm lẫn trong điều kiện hội nhập

Để có phương hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

HĐVH do nhầm lẫn cần thấy rõ những đặc điểm của nên kinh tế thị trường

nước ta và xu hướng phát triển trong thời gian tới. Chúng ta phải xây dựng

vàhoàn thiện trên cơ sở các quan điểm mới về kinh tế thị trường của nước ta

trong điều kiện hiện nay vẫn là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển. Trong

khi đó, tri thức của chúng ta về việc vận hành nền kinh tế trị trường còn quá ít

ỏi. Từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng , chúng ta chưa đầy đủ

các tiền đề cần thiết để xây dựng khung pháp luật về hợp đồng kinh tế trong đó

có chế định về HĐVH, xử lý hợp đồng một cách đồng bộ và hoàn chỉnh. Các

quy định về HĐVHdo nhầm lẫn hiện hành còn mang tính chất quá độ. Chính vì

63

vậy, trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu

rộng đòi hỏi pháp luật về hợp đồng nói chung, HĐVHdo nhầm lẫn nói riêng

phải linh hoạt, mềm dẻo, có tính thích nghi cao đáp ứng được nhu cầu phát

triển thị trường và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Xu hướng phát triển cơ bản của pháp luật hợp đồng ở các nước trên thế

giới là sự quốc tế hóa. Sự hội nhập của Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế

giới trong điều kiện tự do hóa thương mại là xu thế không thể đảo ngược.

Quốc tế hóa pháp luật hợp đồng được thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Mở rộng, tăng cường sự tác động của pháp luật quốc tế vào luật hợp

đồng của từng quốc gia. Hiện nay ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào

các hiệp ước quốc tế về vận tải biển, hàng không, hàng hải, bởi vậy các quốc

gia cần phải có sự thay đổi pháp luật hợp đồng trong nước.

- Thống nhất hóa việc điều chỉnh pháp luật của hợp đồng mang tính

toàn cầu hoặc khu vực.

- Xu thế tương đồng không những trong nội dung hợp đồng ở các nước

mà còn được thể hiện trong cả nguồn luật và các khái niệm pháp lý.

Trong xu hướng đó, việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng nói chung và

HĐVH nói riêng cần phải có sự nghiên cứu, tham khảo pháp luật về hợp đồng

các nước, để tạo sự tương thích của pháp luật hợp đồng ở nước ta với pháp

luật về hợp đồng ở các nước trên thế giới, đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản pháp luật hướng

dẫn giải thích áp dụng pháp luật:

+ Sửa đổi giải quyết hậu quả HĐVH (khôi phục lại tình trạng ban đầu,

trả cho nhau những gì đã nhận trong thực tế rất khó áp dụng).

+ Sửa đổi Điều 126 BLDS về HĐVH do nhầm lẫn BLDS 2015 chưa

quy định đầy đủ phạm vi hành vi được xem là nhầm lẫn.

64

Yêu cầu đặt ra là: nội dung các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng phải

hội tụ đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng, phải khoa học,

tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Do vậy, chúng ta cần phải gạt rangoài

những yếu tố không thể ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng và Bộ luật dân sự

cũng như Luật thương mại cần phải có những quy định chung không được đòi

hỏi quá nhiều về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Từ thực tiễn cho thấy,

để hợp đồng có hiệu lực chỉ cần thỏa mãn các điều kiện sau:

- Các bên giao kết thỏa thuận một cách tự nguyện

- Các bên giao kết có đầy đủ năng lực để giao kết hợp đồng

- Căn cứ giao kết hợp đồng phải hợp pháp, không trái đạo đức xã hội.

Về hình thức của hợp đồng, không nên coi đây là một trong các điều

kiệncó hiệu lực của hợp đồng. Bởi lẽ, về bản chất, hầu hết các hợp đồng vi

phạm hình thức chỉ là những hợp đồng đã mắc phải những “lỗi kỹ thuật”, do

đó nó chưa phát sinh hiệu lực chứ không thể vô hiệu. Đặc biệt là trong xã hội

thương mại hiện nay, khi mà hình thức của hợp đồng đã phát triển theo hướng

ngày càng linh động hơn, và luật pháp hiện đại có xu hướng theo “nguyên tắc

phi chính thức” (principle of informality), chỉ đòi hỏi có sự chỉ định đặc biệt

về hình thức đối với một số hợp đồng (như hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tặng

cho,…) thì việc quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp

đồng là không thuyết phục, không phản ánh được cái phổ biến. Hơn thế nữa,

Bộ luật dân sự của Việt Nam không nên quy định hình thức văn bản cho quá

nhiều loại hợp đồng. Ngoài ra cũng không nên quan niệm văn bản hợp đồng

chỉ là một văn bản do các bên cùng ký và được đóng dấu mà nên hiểu rộng

hơn. Tất cả văn bản có thể giúp chứng minh được quan hệ hợp đồng đều được

coi là văn bản hợp đồng.

Tựu chung lại, về vấn đề hình thức của hợp đồng, pháp luật có thể quy

định như sau: “Một hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng văn bả hoặc bằng

65

hành vi. Trong trường hợp luật định, quy định này được coi là đã thực hiện

nếu những điều khoản của hợp đồng được ghi lại theo bất cứ hình thức nào có

thể thấy được hoặc những điều khoản hợp đồng được lưu trữ bằng hìnhthức

điện tử hay hình thức trung gian nào khác có thể phục hồi được dưới cácdạng

nhất định”. Trường hợp HĐVH do nhầm lẫn. Tại Điều 126BLDS có quy

định: nếu một bên nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập

giao dịch thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó,

nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì bên bị

nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và bên có lỗi

trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường thiệt hại. Nhầm lẫn là sự hình

dung sai về đối tượng hay về một điều khoản của hợp đồng. Quy định này đã

xác định cụ thể quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH và việc xử lý HĐVH do bên

có lỗi chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật chỉ nên coi

nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng là yếu tố có thể làm cho HĐVH; bởi vì,

các nhầm lẫn về số lượng, chất lượng, giá cả tuy cũng là nhầm lẫn về nội

dung chủ yếu của hợp đồng, song nội dung đó là những vấn đề nằm trong khả

năng kiểm soát của chủ thể và đòi hỏi chủ thể phải tìm hiểu trước khi giao kết

hợp đồng.

Pháp luật cũng cần có sự phân biệt giữa nhầm lẫn do một bên và nhầm

lẫn do hai bên để xác định hậu quả của hợp đồng đó, vì hợp đồng là sự thỏa

thuận ý chí của hai bên, nếu hai bên cùng nhầm lẫn thì ý muốn đích thực của

hai bên không đạt được nên khả năng vô hiệu của hợp đồng là lớn hơn. Hơn

nữa, phải xác định rõ các điều kiện cụ thể để nhầm lẫn được coi là yếu tố vô

hiệu của hợp đồng vì nhầm lẫn là do chính bản thân chủ thể, việc xác định

chúng là khó khăn, nếu quy định các điều kiện chặt chẽ thì sẽ hạn chế được sự

lợi dụng của chủ thể yêu cầu tuyên bố HĐVH, trốn tránh thực hiện hợp đồng.

Một điều nữa cần bổ sung vào quy định này là xác định thời điểm phát sinh

66

nhầm lẫn nhằm phân biệt nhầm lẫn dẫn đến HĐVH với quy định liên quan

đến việc vi phạm hợp đồng, góp phần hạn chế tình trạng lợi dụng nhầm lẫn để

tránh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.

Hoàn thiện quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH. Trước

hết, về vấn đề tuyên bố hợp đồng thương mại vô hiệu: BLDS và Luật thương

mại đều không xác định ai có quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH. Do đó, cần

phải quy định cụ thể để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể liên quan

như sau:

- Với trường hợp vô hiệu tuyệt đối, do ảnh hưởng đến lợi ích công nên

ngoài các bên tham gia giao kết hợp đồng, thì người thứ ba, viện kiểm sát, các

tổ chức xã hội cũng có quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH để khôi phục quyền

lợi bị xâm phạm.

- Với các trường hợp HĐVH tương đối thì chỉ các bên giao kết hợp

đồng là những người được pháp luật bảo vệ mới có quyền yêu cầu tuyên bố

vô hiệu.

Từ thực tiễn xét xử tại các Tòa án về xử lý hậu quả pháp lý của HĐVH,

có thể thấy, hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu thường thuộc hai dạng sau:

Thứ nhất, hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu vì bản thân hợp đồng không

đem lại lợi ích cho ít nhất một bên chủ thể như mong muốn của họ. Ví dụ

như: HĐVH do một bên bị lừa dối, bị nhầm lẫn, bị đe dọa.

Thứ hai, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu bởi một lý do, nhưng lý do này

không làm ảnh hưởng đến lợi ích mà các bên mong muốn.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng vô

hiệu do nhầm lẫn

Qua những phân tích trên, xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc

phục những bất cập của thực trạng ký kết và áp dụng pháp luật về HĐVH

do nhầm lẫn:

67

Thứ nhất, xây dựng pháp luật đồng bộ về hợp đồng dân sự vô hiệu, hợp

đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn và hệ thống pháp luật có liên quan. Các nhà

làm luật cần có hướng hoàn thiện pháp luật, giúp cho việc áp dụng pháp luật

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người dân được thuận lợi. Bên

cạnh đó, cần có định hướng hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan

như: Luật Công chứng; Luật đất đai; Luật nhà ở… để có hệ thống pháp luật

đồng bộ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này.

Thứ hai, nâng cao vai trò, trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức được

giao chức năng thực thi pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý.

Sự cần thiết phải có phương hướng nâng cao chất lượng hoạt động xét

xử án về HĐVH do nhầm lẫn, chất lượng công tác công chứng trên một số

lĩnh vực như chuyển nhượng nhà đất, vay vốn tín dụng, vay tài sản... thông

qua việc đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm các công tác này. Với

tình hình thực tiễn ký kết HĐVH do nhầm lẫn có xu hướng tăng lên, tính chất

vụ việc phức tạp thì đỏi hỏi trình độ của những người thực hiện công tác pháp

luật. HĐVH do nhầm lẫn phải không ngừng được nâng cao. Đối với các thẩm

phán, bên cạnh trình độ chuyên môn về luật pháp cần có một niềm tin nội tâm

của thẩm phán.

Bên cạnh đó, cần nâng cao nghiệp vụ của công chứng viên. Khi làm thủ

tục công chứng nếu thấy dấu hiệu bất thường hay một bên bị ép buộc thì họ

phải đặt các câu hỏi nghi vấn, thậm chí là hoàn lại để tìm hiểu rõ. Công chứng

viên nên giải thích rõ về hậu quả pháp lý nếu các bên cố tình xác lập HĐVH

do nhầm lẫn. Có khi vì sự nghingờ của công chứng viên mà được sự bị buộc

phải thú nhận. Khi ấy HĐVH do nhầm lẫn có thể bị ngăn chặn.

Thứ ba, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật trong

xã hội. Cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong

nhân dân. Khuyến khích họ có ý thức tuân thủ pháp luật. Tự bảo vệ các quyền

68

lợi chính đáng của mình và của người khác. Chống lại những hành vi xâm

phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Từ đó hạn chế tối đa việc

xác lập HĐVH do nhầm lẫn. Chính từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật người dân có sự hiểu biết về hậu quả pháp lý của HĐVH do

nhầm lẫn xác lập có yếu tố giả tạo theo đó họ tự ý thức được việc tuân thủ

pháp luật sẽ mang lại nhiều lợi ích cho họ hơn là sử dụng thủ đoạn trốn tránh,

lách luật. Việc tuyên truyền phải được thực hiện theo kế hoạch cụ thể, sử

dụng phối hợp các phương pháp, hình thức khác nhau để việc tuyên truyền đạt

hiệu quả cao.

Tiểu kết chương

Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến HĐVH do nhầm

lẫn và thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy

định của pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn. Đồng thời trên cơ sở các yêu cầu

của việc hoàn thiện các quy định về HĐVH do nhầm lẫn thì Chương 3 luận

văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về HĐVH như:

nhất quán pháp luật về hợp đồng, định hướng sửa đổi một số vấn đề trong

BLDS của Việt Nam, hài hòa lợi ích trong nước và hội nhập quốc tế thì

chương 3 còn dành khá nhiều dung lượng để đưa ra các giải pháp cụ thể cho

quy định pháp luật về từng vấn đề xung quanh toàn bộ quy định pháp luật về

HĐVH do nhầm lẫn. Các giải pháp đó sẽ góp phần vào tiến trình hoàn thiện

hệ thống pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam.

69

KẾT LUẬN

Trong phạm vi luận văn này, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ khái

niệm, đặc điểm của HĐVH do nhầm lẫn trên cơ sở đó nhằm thống nhất nhận

thức các quy định của pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn Luận văn cũng xác

định rõ các trường hợp vô hiệu của hợp đồng không chỉ được quy định trong

BLDS 2015 mà còn được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành

như LTM 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật kinh doanh bảo hiểm 2010,

Luật xây dựng 2014….

Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn.

Trong luận văn này, tác giả cũng đi sâu tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy

định pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn của các nhà thực thi pháp luật và các

chủ thể kinh doanh. Từ đó tìm ra các điểm hạn chế trong quy định của pháp

luật về hợp đồng thương mại hiện nay, đó là: có quy định còn chung chung,

chưa bao quát được các trường hợp HĐVH, các quy định có phần cứng nhắc,

có chỗ còn thiếu không theo kịp cuộc sống. Cụ thể là: Trong quy định cụ thể

vẫn có những nội dung chưa thật sự hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc

sống, chưa rõ ràng như trường hợp HĐVH do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay

vô hiệu do không thỏa mãn điều kiện về hình thức hợp đồng... Đường lối giải

quyết hậu quả HĐVH do nhầm lẫn còn cứng nhắc, chưa đảm bảo sự công

bằng cho các đương sự. Do vậy, việc áp dụng pháp luật gặp rất nhiều khó

khăn, thiếu chính xác. Các quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố

HĐVH do nhầm lẫn chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ

thể giao kết hợp đồng. Với thực trạng đó, các quy định về xử lý HĐVH do

nhầm lẫn cần phải được hoàn thiện để những quy định này mang tính khả thi

hơn, phù hợp với thực tế và quan trong hơn là tạo điều kiện để hợp đồng phát

huy hết vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường.

70

Với mong muốn được góp phần hoàn thiện các quy định về HĐVH do

nhầm lẫn, trong chương 3 của luận văn này, tác giả đã đưa ra một số phương

hướng, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện vấn đề này từ góc độ xây dựng pháp

luật và việc áp dụng pháp luật của các thẩm phán.

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thị Lan Anh (2008), Hợp đồng thương mại và pháp luật về hợp

đồng thương mại của một số nước trên thế giới, Tạp chí luật học, số 11

năm 2008.

2. PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ, PGS.TS. Trần Thị Huệ (Đồng Chủ biên,

2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

3. PGS.TS. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp đồng phần

chung, nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2013

4. Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải

quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ

luật học, Trường đại học luật Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Cường (2004), Một số vướng mắc trong việc áp dụng các

văn bản pháp luật về việc tuyên bố HĐVH và giải quyết hậu quả của

HĐVH, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 12/2004,

tr. 19-23.

6. Nguyễn Thị Chính (2000), Bàn về hiệu lực của hợp đồng lao động và

việc xử lý HĐVH, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Số

8/2000, tr.19-25.

7. Chính phủ (2007), Nghị định của Chính phủ số 23/2007/NĐ-CP ngày

12 tháng 2 năm 2007 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động

mua bán hàng hóa và các loại hoạt động liên quan trực tiếp đến mua

bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam.

8. Chính phủ (2013), Nghị định của chính phủ số 187/2013/NĐ-CP ngày

20 tháng 11 năm 2013 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về

hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán,

gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.

9. Nguyễn Thị Dung (2008), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và

đầu tư - Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

10. Cao Thùy Dương (2004), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý

HĐVH ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

11. TS. Đỗ Văn Đại (2010), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình

luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

12. PGS.TS Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của

Bộ luật dân sự năm 2015, nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt

nam, Hồ Chí Minh.

13. Phạm Bá Đông (2013), Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu -

thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận Văn Thạc sỹ, Khoa Luật – Đại

học Quốc gia Hà Nội.

14. Lê Thị Vân Hà (2002), Thực trạng pháp luật hợp đồng kinh tế vô hiệu

và phương hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường đại

học Luật Hà Nội.

15. Nguyễn Tất Hiếu (2012), Liên ngành tư pháp trung ương cần sớm

hướng dẫn chế định “thời hiệu khởi kiện”, “HĐVH” trong việc giải

quyết các tranh chấp về đất đai, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, số 24/2012, tr 61-63.

16. Dương Đặng Huệ (2002), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt

Nam, tạp chí NNPL số 6/2002, tr13-23.

17. Lê Huy Hùng (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng

dân sự vô hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, Trường đại

học Luật Hà Nội, Hà Nội.

18. Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quan điểm của Bộ

luật dân sự 2005, Luận án tiến sĩ luật học, Trường đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh.

19. Bùi Thị Thu Huyền (2010), Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều

kiện ý chí chủ thể, Luận văn thạc sĩ luật học, Truờng đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Khế (1997), Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết

tranh chấp kinh tế, Nxb Đồng Nai.

21. Hoàng Thế Liên, Phạm Hữu Nghị, Trần Hữu Quỳnh (1993), Hợp đồng

kinh tế và vấn đề giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay,

NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.

22. PGS.TS. Hoàng Thế Liên (2009), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự

năm 2005, phần II,Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Nguyễn Linh (2008), Xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại,

Tạp chí luật học, Số 11 năm 2008.

24. Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả HĐVH, Tạp chí

Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 21/2011, tr. 22-24.

25. C. Mác, Tư bản, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, H.1973.

26. Phạm Ngọc Minh (2006), Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý

của hợp đồng dân sự vô hiệu, Luận Văn Thạc sỹ, Khoa Luật – Đại học

Quốc gia Hà Nội.

27. Nguyễn Hải Ngân (2015), Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo, Luận

văn thạc sĩ luật học, trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

28. TS. Lê Đình Nghị (2011), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập

một,NxbGiáo dục Việt Nam, Hà Nội.

29. Phạm Duy Nghĩa (2014), Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Dân Trí, tái bản

lần thứ nhất.

30. Phạm Duy Nghĩa(2000), Tìm hiểu luật thương mại Việt Nam, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội (1989), Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989

32. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự năm 2005

33. Quốc hội (2005), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005

34. Quốc hội (2005), Luật thương mại năm 2005

35. Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp năm 2014

36. Quốc hội (2014), Luật phá sản năm 2014

37. Quốc hội (2014), Luật xây dựng năm 2014

38. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015

39. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

40. Tòa án nhân dân TP. HCM (2018), Bản án số 702/2006/TLST-KDTM

ngày 16 tháng 10 năm 2006 “Tranh chấp giữa Thành viên của Công ty

về hợp đồng góp vốn”.

41. Tòa án nhân dân TP. HCM (2018), Bản án số149/KTST ngày 06 tháng

6 năm 2005 về “tranh chấp hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa

vụ án ra xét xử số 1149/2006/QĐXX-ST ngày 30 tháng 6 năm 2006.

42. Tòa án Kinh tế, Tòa án nhân dân tối cao (2018), Bản án kinh doanh,

thương mại phúc thẩm số 05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa

án nhân dân tỉnh VL.

43. TS. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản Tư

pháp, Hà Nội.

44. Nguyễn Thái (2010), Những nội dung cơ bản của luật kinh tế, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

45. Bùi Thị Kim Thanh (2015), Chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu và

hướng hoàn thiện, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

46. Phan Minh Thanh (2015), HĐVH – từ quy định hiện tại đến Dự thảo

Bộ luật dân sự (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu

lập pháp, Số 16/2015, tr. 37-43.

47. Lê Thị Bích Thọ (2001), Phân loại HĐVH theo pháp luật Việt Nam,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật, số

10/2001, tr27-35.

48. Lê Thị Bích Thọ (2004), Hợp đồng kinh tế vô hiệu, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

49. Lê Thị Bích Thọ (2009), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý

của hợp đồng kinh tế vô hiệu, Luận án tiến sĩ luật học, Truờng đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

50. Lê Thị Bích Thọ (2011), Lừa dối – yếu tố vô hiệu hợp đồng kinh tế,

Tạp chí KHPL số 4.2001.

51. Trường đại học Luật Hà Nội (2007), Chế định hợp đồng trong BLDS

Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

52. Trường đại học Luật Hà Nội (2012), Một số hợp đồng đặc thù trong

hoạt động thương mại và kỹ năng đàm phán, soạn thảo, Nxb Công an

nhân dân.

53. Trường đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

54. Hoàng Anh Tuấn (2007), Phân loại HĐVH, Luận văn thạc sĩ luật học,

Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

55. Nguyễn Viết Tý (2008), Vấn đề áp dụng bộ luật dân sự trong điều

chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại, Tạp chí luật học, Số 11 năm 2008.

56. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Bộ luật Dân sự Cộng hòa

Liên bang Đức, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội

57. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Luật Hợp đồng Trung

Quốc năm 1999, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội

58. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), Bộ luật Dân sự Quebec

(Canada), (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội

59. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội

60. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông

tin

61. Thái Thị Hải Yến (2013), Thực hiện hợp đồng dân sự - Những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.