VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ HOÀNG

HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ HOÀNG

HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. HỒ NGỌC HIỂN

Hà Nội - 2019

Đề tài nghiên cứu “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt

Nam hiện nay” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố gắng, nghiêm túc tìm

tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người

hướng dẫn khoa học TS. Hồ Ngọc Hiển

Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết quả

nghiên cứu cá nhân mà tôi đã tiến hành trong thời gian được giao đề tài Luận văn.

Trong công trình nghiên cứu này không hề có bất kỳ sự sao chép nào mà không có

trích dẫn nguồn, tác giả.

Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu

toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 8 năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Học viên

Vũ Hoàng

LỜI CẢM ƠN

Công trình nghiên cứu “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật

Việt Nam hiện nay” được hoàn thành, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi

xin được gửi lời trân trọng cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Hồ Ngọc

Hiển, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình tôi triển khai đề tài và

viết luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng xét duyệt đề tài và đề

luận văn đã góp ý giúp tôi hoàn thiện tốt hơn luận văn của mình và Lãnh đạo Học

viện Khoa học xã hội, Khoa Luật Học viện khoa học xã hội vì đã tạo những điều

kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo chất lượng Giảng viên cho chúng tôi

trong quá trình theo học tại đây.

Học viên

Vũ Hoàng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY PHÁN QUYẾT

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ....................................................................... 10

1.1. Khái quát về phán quyết trọng tài thương mại .................................. 10

1.2. Hủy phán quyết trọng tài thương mại ................................................ 19

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC

THI PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG

MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 26

2.1. Thực trạng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại ở

Việt Nam hiện nay .................................................................................... 26

2.2. Thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về hủy phán quyết

trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay ............................................... 32

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................. 46

3.1. Phương hướng hoàn thiện .................................................................. 46

3.2. Giải pháp hoàn thiện .......................................................................... 50

KẾT LUẬN .................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS Bộ Luật Tố tụng dân sự

BLDS Bộ Luật Dân sự

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

TAND Tòa án nhân dân

VIAC VIAC là tên viết tắt tiếng Anh của cụm

từ “Vietnam International Arbitration

Centre”, tiếng Việt có nghĩa là “Trung

tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam”.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giải quyết tranh chấp dưới ảnh hưởng của gia đình, họ hàng, bạn bè, sử

dụng tập quán và các mối quan hệ để giảm bớt tranh chấp và hy vọng tìm ra

giải pháp khi phát sinh tranh chấp đã là hình thức quen thuộc trong xã hội

Việt Nam từ rất sớm. Tuy nhiên, trọng tài với tư cách là một thiết chế được

thừa nhận rộng rãi để giải quyết các tranh chấp cá nhân thì xuất hiện muộn

hơn nhiều vào thế kỷ XIX, bởi vì tài liệu sớm nhất được tìm thấy là một quyết

định của Toà Phúc thẩm Sài Gòn vào ngày 8/7/1889, trong đó công nhận một

thoả thuận về việc lựa chọn một người nước ngoài làm trọng tài trong một vụ

tranh chấp đất đai trong vụ Dương Thị Lành kiện Võ Văn Thụ [11].

Do những nguyên nhân của lịch sử, một số Bộ luật Dân sự và Tố tụng

dân sự đã được ban hành ở ba miền của Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và 3

thập kỷ đầu thế kỷ 20. Bên cạnh hệ thống tư pháp truyền thống, các toà án

thương mại đã được thành lập ở các thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Hải

Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn). Các quy tắc về trọng tài đã là một phần của các

Bộ luật Tố tụng dân sự phức tạp. Tuy nhiên, các quy tắc này dường như

không mấy tác động đến xã hội Việt Nam bởi vì thực dân Pháp kiểm soát hầu

hết nền công nghiệp và thương mại, chỉ có một số ít người Trung Quốc làm

môi giới trong lĩnh vực phân phối còn đa số người Việt Nam chỉ làm việc với

tư cách là nông dân, thợ thủ công hoặc người bán hàng nhỏ ở các thành phố.

Họ không có cơ hội biết đến khái niệm trọng tài.

Trải qua nhiều thăng trầm cùng với mô hình kinh tế qua các giai đoạn

lịch sử của đất nước sau khi giành được độc lập cho đến nay, chúng ta cũng

chứng kiến sự tồn tại của Uỷ ban Trọng tài Ngoại thương và Uỷ ban Trọng tài

Hàng hải (thành lập vào năm 1963 và 1964), tiếp đó là một hệ thống “trọng

1

tài kinh tế”, theo mô hình pháp luật kinh tế của Liên Xô cũ đã được thành lập

từ quận huyện, tỉnh thành đến trung ương; mô hình Trung tâm trọng tài kinh

tế theo Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ; Trọng tài thương

mại theo Pháp lệnh Trọng tài 2003 và Luật trọng tài thương mại 2010 (“Luật

TTTM 2010”).

Trong gần một thập kỷ qua, cùng với sự mở cửa nền kinh tế, các hoạt

động thương mại ngày càng phát triển cả ở trong nước và ở phạm vi quốc tế.

Để giải quyết tranh chấp về thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam đã ngày

càng tín nhiệm trọng tài nhờ những ưu thế vượt trội của nó so với các hình

thức giải quyết tranh chấp khác. Khác với nhiều hệ thống pháp luật khác trên

thế giới, Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ song các quyết

định và phán quyết của nó có khả năng cưỡng chế thi hành theo pháp luật về

thi hành án dân sự ở Việt Nam mà không qua trình tự công nhận và cho thi

hành của Tòa án. Sở dĩ có quy định này là do các nhà lập pháp Việt Nam đã

thiết kế một thủ tục đặc biệt trong pháp luật về trọng tài thương mại – hủy

phán quyết của Trọng tài thương mại. Theo thông lệ quốc tế, việc không công

nhận và cho thi hành hoặc hủy phán quyết của Trọng tài thương mại chỉ được

thực hiện dựa trên các căn cứ về hình thức, sự vi phạm các quy định về tố

tụng trọng tài mà không dựa trên các căn cứ về nội dung. Nếu yêu cầu này

không được đáp ứng, Tòa án sẽ trở thành cấp phúc thẩm của Trọng tài thương

mại và sẽ phá vỡ nguyên tắc cơ bản của phán quyết của Trọng tài thương mại

là chung thẩm và không thể kháng cáo.

Mặc dù được biện minh với lý do các phán quyết của Trọng tài cần được

giám sát, kiểm tra của Tòa án trước khi được thi hành, song các căn cứ để

hủy phán quyết của Trọng tài thương mại ở Việt Nam bao gồm cả các căn cứ

về hình thức lẫn nội dung. Bởi vậy, bản chất pháp lý của hủy phán quyết của

Trọng tài thương mại của Tòa án là chủ đề tiếp tục cần được nghiên cứu, thảo

luận, đánh giá… trong bối cảnh có nhận thức khác nhau từ phía các nhà lập

2

pháp, Thẩm phán, các nhà khoa học pháp lý và giới thương nhân.

Điều cần nhấn mạnh là, trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật

TTTM 2010 ra đời, tình trạng hủy phán quyết trọng tài (“PQTT”) ngày càng

gia tăng. Điều này đã và đang làm xói mòn lòng tin của các thương nhân, của

các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ đối với việc

giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại mà còn ở hệ thống

tư pháp ở Việt Nam.

So với quy tắc tố tụng của các thiết chế trọng tài quốc tế, cũng như pháp

luật về trọng tài của các nước, thì quy định pháp luật về trọng tài thương mại

của Việt Nam dành một số lượng điều khoản nhiều hơn cả để quy định về vấn

đề huỷ quyết định trọng tài, từ các nguyên tắc huỷ quyết định trọng tài, cho

đến thủ tục, trình tự huỷ quyết định trọng tài. Liệu có hay không những quy

định của pháp luật Việt Nam đã và đang tạo ra sự tùy tiện trong việc hủy

PQTT? So với pháp luật về hủy PQTT của các nước khác, pháp luật Việt

Nam về vấn đề này có những bất cập như thế nào? Giải pháp nào để có thể

hạn chế và giảm thiểu tình trạng hủy PQTT trong thời gian tới, nhằm một mặt

đem lại lòng tin và sự yên tâm cho các doanh nghiệp Việt Nam khi quyết định

lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại, mặt khác

tạo sự tin tưởng để các doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn trọng tài Việt Nam

làm cơ quan giải quyết tranh chấp từ các thương vụ có đối tác Việt Nam?

Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp

luật về hủy phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay là có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Từ các vấn đề phân tích nêu trên, tác giả

chọn “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện

nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Ở nước ngoài, trong số các các công trình nghiên cứu về trọng tài, giải

3

quyết tranh chấp bằng trọng tài, pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng

tài và hủy PQTT, tiêu biểu có công trình của tác giả sau đây:

- Công trình của tác giả Allan H. Goodman - Luật sư, Thẩm phán Cục

Dịch vụ Chung của Hoa Kỳ, Ban Kháng án Hợp đồng – có tên gọi: “Kỹ năng

cơ bản cho trọng tài viên mới” (NXB Solomon Publications 1975, tái bản

năm 1985);

- Công trình có tên gọi: “Law and Practice of International

Commercial Arbitration” của 04 tác giả là Alan Redfern, Martin Hunter,

Nigel Blackgary và Constantine Partasides (do NXB Sweet & Maxwell tại

London xuất bản năm 1986, tái bản lần thứ 4 năm 2004);

- Công trình nghiên cứu có tên gọi: “Choice of law in international

commecial arbitration” của tác giả Okezi Chukwumerjie (NXB Quorum

Books, Westport 1994); công trình của các tác giả Mark Huleatt-James,

Nicolas Gould, Phillip Capper có tên gọi: “International Commercial

Arbitration: a handbook” (NXB LLP London 1996); năm 2009,

-Công trình của tác giả Gary B. Born có nhan đề: “International

commercial arbitration”, bao gồm 02 phần: Phần thứ nhất nghiên cứu về lịch

sử hình thành trọng tài TMQT và phần thứ hai phân tích về hoạt động giải

quyết các tranh chấp về hợp đồng quốc tế của trọng tài quốc tế, trong đó nhấn

mạnh về thủ tục tố tụng khi tranh tụng tại các tổ chức trọng tài TMQT.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, còn có rất nhiều tác giả, nhà

nghiên cứu pháp luật đã có những bài viết đăng trên các tạp chí liên quan đến

vấn đề hủy PQTT. Có thể kể đến công trình: “Trọng tài và Toà án quốc gia –

Xung đột và hợp tác: Mối quan hệ đang thay đổi giữa Toà án quốc gia và

trọng tài thương mại quốc tế” (Arbitration and National Courrts: Conflict

and Cooperation: The Changing Relation of National Courrts and

International Commercial Arbitration) của 02 tác giả W. Michael Reisman

và Heide Iravani đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài quốc tế (The

4

American Review of International Arbitration) năm 2010; Công trình: Nơi

giao nhau giữa tính hợp pháp và quyền năng trọng tài (At the crossroads of

ligitimacy and arbitral autonnomy) đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài

quốc tế (The American Review of International Arbitration) năm 2005 của tác

giả Thomas E. Carbonneau; liên quan đến pháp luật Châu Á về vấn đề hủy

PQTT, năm 2001, tác giả Li Hu có bài viết với nhan đề “Hủy phán quyết

trọng tài ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” (Setting Aside an Arbitral Award

in the People's Republic of China) đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài

quốc tế (The American Review of International Arbitration)…

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã phân tích một cách

tổng quan về hoạt động tố tụng trọng tài, hủy PQTT cũng như công nhận và

thi hành PQTT. Tuy nhiên, các bài viết này chỉ nghiên cứu hủy PQTT như

một bộ phận trong các công trình nghiên cứu chung về trọng tài mà chưa

nghiên cứu vấn đề này một cách độc lập cũng như chưa đề ra được cách giải

quyết cụ thể trong trường hợp một bên không thiện chí thi hành PQTT, cố tìm

cách yêu cầu hủy phán quyết. Mặc dù vậy, đây là các tài liệu rất quý, giúp

cho tác giả Luận văn có cơ sở tham khảo để nghiên cứu những vấn đề lý luận

và thực tiễn về hủy PQTT, cũng như các quy định của pháp luật về hủy PQTT

nhằm thực hiện Luận văn này.

2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hủy PQTT không có nhiều.

Tuy vậy, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:

Bài viết của tác giả Dương Thanh Mai “Mối quan hệ giữa Tòa án và

Trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài” đăng trên Tạp

chí Nhà nước và pháp luật số 12 năm 1997; bài viết của tác giả Dương Đăng

Huệ “Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam: Thực trạng và những

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó” đăng trên Thông tin

Khoa học pháp lý (Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) số 5 năm

5

1999; bài viết của tác giả Nguyễn Am Hiểu có nhan đề “Một số đặc điểm của

pháp luật Trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1997… Các bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại,

cụ thể: bài viết tham luận Hội thảo “Hủy phán quyết trọng tài ở Việt Nam”

vào năm 2015; bài viết “Hủy phán quyết trọng tài ở việt Nam: bất cập và

hướng hoàn thiện”, trình bày trong Kỷ yếu tọa đàm “Hủy phán quyết trọng

tài” ngày 20 tháng 01 năm 2015 do Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

phối hợp tổ chức cùng Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam và TAND Tp.

Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, đáng lưu ý có Luận án tiến sĩ của Phan Thông Anh, “Hủy

phán quyết Trọng tài”, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2016.

Trong công trình này, tác giả cũng đã có nhiều nỗ lực nhằm làm rõ những vấn

đề lý luận và thực tiễn về hủy PQTT và nêu ra những bất cập trong các quy

định của pháp luật Việt Nam về hủy PQTT cùng những vướng mắc trong quá

trình áp dụng, Luận án đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy PQTT

và đưa ra những kiến nghị nhằm hạn chế và giảm thiểu tình trạng hủy PQTT

tại Việt Nam trong thời gian tới.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là, từ việc khảo sát các công trình kể trên vẫn

còn khoảng trống trong nghiên cứu về hoàn thiện khung pháp luật về Trọng

tài thương mại nói chung, về hủy PQTT thương mại nói riêng trong bối cảnh:

xu thế đẩy mạnh sự phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam, Trọng tài

chiếm một tỷ lệ cao trong số các phương thức giải quyết tranh chấp song số

vụ việc giải quyết ở trọng tài không hiệu quả, kéo dài hơn so với Tòa án, tỷ lệ

hủy PQTT thương mại ngày càng tăng và do đó dần làm mất niềm tin trong

mắt khách hàng [45].

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

6

về hủy phán quyết trọng tài thương mại; phân tích, đánh giá thực trạng các

quy định pháp luật và thực tiễn hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt

Nam hiện nay và để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp

luật về hủy phán quyết trọng tại thường mại ở Việt Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng

tài thương mại;

- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về hủy phán quyết trọng tài

thương mại ở Việt Nam hiện nay;

- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về hủy phán quyết

trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay;

- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy phán

quyết trọng tài thường mại ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến hủy

PQTT, đặc biệt là nguyên nhân thực trạng các quy định của pháp luật Việt

Nam về căn cứ hủy PQTT, trình tự, thủ tục hủy PQTT và hệ quả pháp lý của

việc hủy PQTT. Luận văn cũng phân tích các quy định của pháp luật quốc tế

và pháp luật một số quốc gia khác về hủy PQTT.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của luận văn, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung

phân tích các vấn đề sau đây: (i). Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân hủy

PQTT; (ii). Căn cứ hủy PQTT; (iii). Trình tự, thủ tục hủy PQTT; 3 (iv). Hệ

quả pháp lý của việc hủy PQTT.

Về không gian, Luận án tìm hiểu các quy định của pháp luật một số nước

theo Common Law và Civil Law về hủy PQTT và các tài liệu của Ủy ban

7

pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL)

Về thời gian, khi đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về hủy PQTT, Luận

án lấy mốc từ năm 2010 - năm Việt Nam ban hành Luật trọng tài thương mại

cho đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn dựa theo quan điểm biện chứng và duy vật

của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng, của Nhà nước và tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích, so sánh,

tổng hợp, thống kê. Tùy từng chương, mỗi phương pháp sẽ được sử dụng kết

hợp với các phương pháp khác hoặc được sử dụng với vai trò chủ đạo phù

hợp nội dung nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn

Luận văn góp phần hoàn thiện hơn về nhận thức và pháp luật về hủy

phán quyết trọng tài thương mại. Đồng thời là tài liệu tham khảo cho giới luật

học, doanh nghiệp, phục vụ và đáp ứng nhu cầu hiểu biết pháp luật về trọng

tài cho các nhà kinh doanh, giúp họ tin tưởng và sử dụng một cách thường

xuyên phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Các kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho việc học tập, nghiên cứu

và giảng dạy pháp luật về Trọng tài thương mại tại các cơ sở đào tạo khoa học

pháp lý tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại trong

thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm 3 chương:

8

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài thương mại

Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi

pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy phán

quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.

Kết Luận

9

Danh mục tài liệu tham khảo

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát về phán quyết trọng tài thương mại

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phán quyết trọng tài thương mại

Khái niệm phán quyết trọng tài thương mại

Hơn lúc nào hết, tranh chấp và giải quyết tranh chấp đang là vấn đề “nổi

cộm” của nền kinh tế thế giới hiện nay. Có thể khẳng định như vậy bởi lẽ quá

trình hội nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, trong điều kiện

đó mỗi quốc gia không thể đứng ngoài, tự tách mình khỏi quá trình hội nhập

quốc tế. Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, sản phẩm làm ra của mỗi tập

đoàn không còn bó buộc trong một phạm vi và lãnh thổ nhất định, mà được

gắn kết với nền kinh tế toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa diễn

ra ngày càng mạnh mẽ cùng với đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng,

buộc các nhà sản xuất, kinh doanh không những nâng cao chất lượng sản

phẩm, khả năng phục vụ, mà còn mở rộng hợp đồng với rất nhiều đối tác. Quá

trình liên doanh, liên kết, mở rộng hợp đồng, sự phát sinh ngày càng nhiều

các quan hệ tư tất yếu sẽ nảy sinh những vấn đề tranh chấp. Sự ra đời của

trọng tài như là một hệ quả tất yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Pháp luật hoàn toàn cho phép các

nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức có quyền được lựa chọn mô hình mà

mình yêu thích để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Chính điều này đã

tạo cơ sở cho sự ra đời của các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn

(ADR), mà phương thức có vị trí quan trọng nhất trong số đó là giải quyết

tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, ở các nước trên thế giới, ngoài toà án, đều

10

có một cơ quan tài phán khác là trọng tài.

Bản chất phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là nhanh gọn,

bảo mật, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm... Giám đốc Phòng

Thương mại Quốc tế (ICC) khu vực châu Á khuyến cáo: Trong điều kiện hiện

nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trên thế

giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi

mà vấn đề tranh chấp thương mại diễn ra thường xuyên thì ngay từ lúc này,

các doanh nghiệp Việt Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những ưu thế

của trọng tài thương mại.

Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật TTTM 2010, một quyết định

của Hội đồng trọng tài chỉ được coi là phán quyết trọng tài (PQTT) khi nó

chứa đựng hai yếu tố: (1) Quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn

bộ nội dung vụ tranh chấp; và (2) Quyết định này dẫn đến chấm dứt tố tụng

trọng tài.

Bên cạnh đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên là một

trường hợp đặc biệt cần lưu ý. Theo điều 58 Luật TTTM 2010, trong quá trình

tố tụng trọng tài, các bên vẫn được quyền yêu cầu HĐTT tiến hành hòa giải

để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Một thỏa thuận

như vậy sẽ được ghi nhận bằng biên bản hòa giải thành của các bên là chung

thẩm và có giá trị như PQTT. Như vậy, phán quyết trọng tài bao gồm quyết

định công nhận sự thỏa thuận của các bên của Hội đồng trọng tài và phán

quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài.

Tổng hợp những phân tích trên, có thể định nghĩa: “PQTT là quyết định

cuối cùng của HĐTT giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong

đơn kiện, làm chấm dứt tố tụng trọng tài, và có giá trị chung thẩm ràng buộc

đối với các bên theo luật định”

Đặc điểm của phán quyết trọng tài thương mại

Thứ nhất, PQTT giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong

11

đơn kiện (bao gồm đơm kiện của nguyên đơn và đơn kiện lại của bị đơn).

Theo khoản 2, Điều 30 của Luật TTTM, nội dung của một đơn khởi kiện

tại Trọng tài thương mại bao gồm:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;

b) Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;

c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;

d) Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có;

đ) Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;

e) Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề

nghị chỉ định Trọng tài viên.

Cũng cần nhấn mạnh là, bên cạnh việc gửi bản tự bảo vệ theo Điều 35, bị

đơn của vụ kiện cũng có quyền khởi kiện lại nguyên đơn về những vấn đề liên

quan đến vụ tranh chấp theo Điều 36 Luật TTTM 2010. Điều đó có nghĩa là,

khi ra PQTT, HĐTT phải giải quyết đầy đủ, đúng yêu cầu của các bên.

Trong trường hợp HĐTT ra PQTT vượt quá yêu cầu của các bên thì sẽ

khiến cho phán quyết có nguy cơ bị hủy do HĐTT đã vượt quá thẩm

quyền hoặc bỏ sót một hoặc một số yêu cầu của các bên trong phán quyết thì

các bên có thể yêu cầu HĐTT ra phán quyết bổ sung (theo quy định tại khoản

4 điều 63 LuậtTTTM 2010).

Thứ hai, PQTT là kết quả của tố tụng trọng tài và là cơ sở pháp lý chấm

dứt tố tụng trọng tài

Sau khi PQTT được tuyên thì HĐTT hoàn thành nhiệm vụ giải quyết

tranh chấp của mình theo luật định và tố tụng trọng tài chấm dứt. Theo đó,

ngoài việc sửa những lỗi kỹ thuật (chính tả, số liệu…), HĐTT không thể thay

đổi nội dung quyết định của họ trong PQTT. Những vấn đề đã được quyết

định bởi PQTTsẽ không trở thành đối tượng xét xử của bất kỳ cơ quan tài

phán nào, trừ trường hợp PQTT bị hủy bởi Tòa án theo luật định;

Thứ ba, PQTT là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày ban hành và có giá

12

trị bắt buộc với các bên.

Điều 61 khoản 5 Luật TTTM 2010 quy định “PQTT là chung thẩm và có

hiệu lực kể từ ngày ban hành”. Điều đó có nghĩa là PQTT có giá trị hiệu lực

thi hành ngay và không thể xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc

thẩm, tái thẩm như các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân.

PQTT có giá trị pháp lý bắt buộc với các bên. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản

chất của hoạt động Trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và quyền lực các bên

trao cho để giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc này chỉ được thể hiện bằng quy

định: Tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp, phán quyết là chung thẩm, các bên

không có quyền kháng cáo. Các bên chỉ có quyền yêu cầu Toà án huỷ quyết

định trọng tài trong những trường hợp rất hạn chế và Toà án trong trường hợp

này không được quyền xét xử lại vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra tính hợp pháp

của quyết định Trọng tài.

1.1.2 Nội dung, hình thức, thời hạn thi hành phán quyết trọng tài

thương mại

Theo thông lệ trọng tài quốc tế, khi đưa tranh chấp ra trọng tài, các bên cam

kết thi hành phán quyết không chậm trễ và được xem như đã từ bỏ quyền kháng

cáo của mình dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi phán quyết là chung thẩm, tức

phán quyết đã giải quyết chung cuộc các vấn đề và ràng buộc các bên.

Tất cả phán quyết đều là chung thẩm và ràng buộc nếu không có yêu cầu

hủy phán quyết. Tuy nhiên, thuật ngữ phán quyết chung thẩm thường được sử

dụng chỉ những phán quyết mà ở đó, nhiệm vụ của hội đồng trọng tài đã hoàn

thành. Tùy thuộc vào một số trường hợp ngoại lệ nhất định, bằng việc ra phán

quyết chung thẩm, hội đồng trọng tài đã hết trách nhiệm. Điều này sẽ dẫn đến

những hệ quả quan trọng.

Sự phân biệt giữa một “Phán quyết” và “Lệnh” có lẽ không đơn giản như

việc đọc tiêu đề mà HĐTT gán cho văn bản đó. Tòa án phúc thẩm Paris và tòa

13

án Liên bang Mỹ đã phân loại một số quyết định trọng tài mà HĐTT đặt tiêu

đề là “Lệnh” vào nhóm “Phán quyết”. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến các

phán quyết trong quá trình hủy hoặc công nhận và cho thi hành tại các tòa án

quốc gia [2]

Không hội đồng trọng tài nào được trông đợi là có thể đảm bảo phán

quyết của mình sẽ được thi hành tại bất kỳ quốc gia nào thắng kiện lựa chọn

để thi hành phán quyết. Tuy nhiên, hội đồng trọng tài phải nỗ lực hết sức để

phán quyết có thể thi hành được. Để hội đồng trọng tài đạt được tiêu chuẩn

hành động, ban hành một phán quyết trọng tài có thể được thi hành trên phạm

vi quốc tế, hội đồng trọng tài phải đảm bảo rằng mình có thẩm quyền đối với

tất cả các vấn đề được đệ trình tới mình.

Hội đồng trọng tài cũng phải tuân thủ mọi quy tắc tố tụng điều chỉnh quá

trình tố tụng trọng tài. Những quy tắc này thường bao gồm quy định về phân

bổ phí trọng tài, xác định địa điểm trọng tài, thủ tục phê chuẩn chính thức

phán quyết của một trung tâm trọng tài… Hội đồng trọng tài cũng phải ký và

đề ngày tháng tại phán quyết, sắp xếp gửi phán quyết cho các bên theo quy

định pháp luật. Việc công nhận và cho thi hành một phán quyết trọng tài có

thể bị từ chối nếu cơ quan có thẩm quyền “tại quốc gia nơi công nhận” cho

rằng, việc công nhận và cho thi hành phán quyết có thể vi phạm trật tự công

của quốc gia đó [2].

Căn cứ vào nội dung và hình thức của PQTT, trên thế giới, người ta phân

loại các PQTT thành các loại sau:

Phán quyết chung thẩm

Phán quyết chung thẩm thường là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài

được tiến hành từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, phán quyết có thể là thỏa thuận

hòa giải giữa các bên. Trong trường hợp này, phán quyết đó thường được biết

đến như là một phán quyết đồng thuận hoặc phán quyết dựa trên những điều

14

khoản thỏa thuận.

Thời hạn phản đối phán quyết bắt đầu được tính kể từ ngày phán quyết

được ban hành. Khi phán quyết chung thẩm đã được lập, không bên nào có

thể phản đối bất kỳ nội dung nào trong phán quyết này, nếu nội dung lập được

dựa trên một phán quyết từng phần không bị phản đối trước đó. Hơn nữa, chỉ

có một phán quyết mới thỏa mãn điều kiện để được công nhận và cho thi hành

theo các công ước quốc tế có liên quan, bao gồm Công ước New York.

Phán quyết từng phần

Hội đồng trọng tài không nên ban hành phán quyết chung thẩm cho đến

khi cảm thấy hài lòng để thực sự hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu vẫn còn

các vấn đề chưa được giải quyết, thì nên ban hành một phán quyết biểu thị rõ

ràng rằng, đây là một phán quyết từng phần. Loại phán quyết này là một cách

thức hiệu quả nhằm quyết định các vấn đề có thể giải quyết dễ dàng trong quá

trình tố tụng trọng tài, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên. Thẩm quyền

ban hành phán quyết từng phần của hội đồng trọng tài có thể xuất phát từ thỏa

thuận trọng tài hoặc từ pháp luật áp dụng. Trên thực tế, phán quyết từng phần

thường xuyên được lập trong các vụ việc tại ICC (Quy tắc của Phòng Thương

mại Quốc tế), đặc biệt trong trường hợp thẩm quyền bị phản đối hoặc hội

đồng trọng tài phải xác định pháp luật phù hợp.

Một ví dụ về trường hợp mà phán quyết từng phần có thể hữu ích, chẳng

hạn như khi có tranh chấp giữa các bên về luật áp dụng cho nội dung tranh

chấp. Nếu tranh chấp này không được giải quyết dứt điểm ở giai đoạn đầu của

quá trình tố tụng, các bên có thể tìm căn cứ cho vụ việc của mình bằng cách

dẫn chiếu đến các hệ thống pháp luật khác nhau. Thậm chí các bên có thể phải

đưa ra chứng cứ là lời giải thích của các luật sư có kinh nghiệm. Trong các

trường hợp này, hội đồng trọng tài thường nhận thấy việc đưa ra quyết định

15

sơ bộ về luật áp dụng là cần thiết.

Tuy nhiên, sẽ xuất hiện những rủi ro trên thực tế khi cố gắng phân tách

các vấn đề cần quyết định vào giai đoạn đầu của quá trình tố tụng trọng tài.

Bản chất của vụ tranh chấp và cách thức các bên trình bày vụ việc có thể thay

đổi trong quá trình tố tụng trọng tài.

Nhiều quy tắc trọng tài quy định rõ ràng về phán quyết bổ sung. Ngay cả

khi phán quyết bổ sung không được quy định rõ ràng tại các quy tắc trọng tài,

vẫn thường tồn tại một công cụ tố tụng, thông qua đó phán quyết bổ sung vẫn

có thể thực hiện được. Quy tắc của ICC là một ngoại lệ. Quy tắc này có quy

định cả về việc sửa lỗi văn thư hoặc đánh máy cũng như giải thích phán

quyết, nhưng lại không quy định về việc lập một phán quyết dựa trên phản đối

của một bên rằng, hội đồng trọng tài đã không xem xét một vấn đề đã được

trình bày. Điều này rõ ràng là kết quả của thủ tục rà soát của tòa án ICC [2].

Phán quyết mà một bên không tham dự hoặc từ chối tham dự

Một loại phán quyết khác là phán quyết của quá trình tố tụng mà một bên

không tham dự hoặc từ chối tham dự. Trường hợp này, phán quyết đó được

gọi là phán quyết với một bên vắng mặt.

Tính huống này có thể là hoàn toàn không tham gia, nghĩa là ngay từ lúc

bắt đầu tố tụng hoặc có thể xảy ra giữa chừng trong quá trình tố tụng, là kết

quả của việc thay đổi ý kiến hoặc chiến thuật của bên không tham gia. Hội

đồng trọng tài buộc phải giữ vai trò chủ động hơn trong những trường hợp

như thế này, khiến cho nhiệm vụ của hội đồng trọng tài khó khăn hơn. Nếu

hội đồng trọng tài ra phán quyết có lợi cho bên tham gia tố tụng trọng tài, hội

đồng trọng tài sẽ nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng phán quyết có hiệu lực.

Thêm nữa, hội đồng trọng tài phải giải quyết mọi vấn đề về thẩm quyền có

liên quan và nêu rõ trong phán quyết, cho dù các vấn đề đó có được một trong

16

các bên đưa ra hay không.

Phán quyết trong nước và nước ngoài

Sự khác biệt giữa hai phán quyết này có ý nghĩa trong bối cảnh yêu cầu

hủy và cho thi hành phán quyết tại tòa án quốc gia. Tại Ấn Độ, đạo luật phán

quyết nước ngoài năm 1961, định nghĩa phán quyết nước ngoài là phán quyết

được lập tại quốc gia khác nhằm giải quyết bất đồng giữa các bên xuất phát từ

các quan hệ pháp luật. Được hiểu là quan hệ thương mại theo pháp luật, có

hiệu lực tại Ấn Độ dù có hay không có hợp đồng. Tòa án Tối cao Ấn Độ đã

xem xét thuật ngữ “Phán quyết nước ngoài” và quyết định rằng, một vụ kiện

chỉ có thể diễn ra khi tòa án cho rằng, quan hệ giữa các bên có thỏa thuận

trọng tài được xem là mối quan hệ “thương mại”. Thuật ngữ này nên được

quy định với ý nghĩa thuật ngữ bao quát. Ngược lại, Tòa án Tối cao Ấn Độ

quyết định rằng, thuật ngữ “Phán quyết trong nước” có nghĩa là phán quyết

được lập tại Ấn Độ, dù thuộc bối cảnh trong nước thuần túy hay không. Do

đó, định nghĩa này cũng bao hàm một phán quyết “được lập trong nước” dù

quá trình tố tụng trọng tài là ở trong nước hay quốc tế.

Ở Việt Nam, theo khoản 1, Điều 61 Luật TTTM 2010 quy định về nội

dung, hình thức của PQTT như sau:

1. Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các nội dung

chủ yếu sau đây:

a) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết;

b) Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;

c) Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên;

d) Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp;

đ) Căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thoả thuận không cần nêu

căn cứ trong phán quyết;

e) Kết quả giải quyết tranh chấp;

17

g) Thời hạn thi hành phán quyết;

h) Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;

i) Chữ ký của Trọng tài viên

1.1.3. Hiệu lực của phán quyết trọng tài thương mại

Hiệu lực chung thẩm (Res judicata or res iudicata) đối với các bên

Res judicata or res iudicata là thuật ngữ Latin được đề cập đầu tiên trong

tác phẩm “De re iudicata” của Angelo Gambiglioni năm 1579 và sau này

được phổ biến rộng rãi trong hệ thống pháp luật Civil Law và Common Law

như một nguyên tắc pháp luật. Điều này cho thấy, một vụ kiện đã được xét xử

dựa trên quy định của pháp luật thì không thể bị kiện một lần nữa bởi cùng

các bên.

Do được các bên trao thẩm quyền xét xử bằng thỏa ước trọng tài có hiệu

lực, PQTT thương mại là chung thẩm và có giá trị bắt buộc với các bên tham

gia tranh chấp và không thể là đối tượng kháng cáo để xem xét ở một phiên

xét xử khác của Trọng tài hoặc Tòa án. Điều này có nghĩa là, Tòa án sẽ phải

từ chối thụ lý vì vấn đề đã được giải quyết nếu một bên kiện bên kia về cùng

vụ tranh chấp và có cùng yêu cầu như trong tố tụng trọng tài.

Tuy vậy, phán quyết này không thể ràng buộc các bên trong bất kỳ quá

trình tố tụng nào tiếp đó nếu PQTT thuộc một trong những trường hợp bị hủy

bởi Tòa án có thẩm quyền.

Hiệu lực của phán quyết trọng tài thương mại với bên thứ ba

Có thể khẳng định rằng, PQTT không có tính ràng buộc trực tiếp đối với

bên thứ ba. Tuy nhiên, vấn đề gây tranh cãi là PQTT có ảnh hưởng đến bên

thứ ba như thế nào? Thực tiễn cho thấy, PQTT có ảnh hưởng gián tiếp đến

bên thứ ba nếu trong trường hợp bên thứ ba có quyền, nghĩa vụ liên quan hoặc

18

cùng cùng chịu trách nhiệm với một bên tham gia tố tụng trọng tài.

1.2. Hủy phán quyết trọng tài thương mại

1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài thương mại

Theo thông lệ quốc tế, hủy quyết định trọng tài là một thủ tục pháp lý do

Tòa án tiến hành nhằm xem xét lại PQTT thương mại được ban hành có tuân

thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục xét xử của TTTM theo luật định.

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của

Trọng tài viên, pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải quyết bởi

Trọng tài, nếu một bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Toà án nơi Hội

đồng Trọng tài ra quyết định để yêu cầu được huỷ quyết định đó. Tòa án

không xét xử lại việc tranh chấp khi giải quyết vì Tòa án không phải cấp xét

xử thứ hai của Trọng tài, cũng không có quyền kết luận đúng sai về nội dung

phán quyết về việc xác định quyền và nghĩa vụ các bên tham gia tranh chấp,

Tòa án chỉ có quyền xem xét căn cứ ra quyết định hủy hoặc giữ phán quyết

trọng tài. Nếu phán quyết Trọng tài bị hủy thì tranh chấp chưa được giải

quyết, khi đó thì các bên có quyền khởi kiện tại Tòa án.

Hủy PQTT là một chế định của pháp luật TTTM, theo đó, một trong các

bên tranh chấp được quyền yêu cầu tòa án bác PQTT nếu có đủ căn cứ chứng

minh rằng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp bị

hủy theo quy định của pháp luật.

Việc hủy PQTT phải tuân theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ do pháp

luật quy định.

1.2.2 Bản chất, cơ sở pháp lý của hủy phán quyết trọng tài thương

mại Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là

các quy định về hủy phán quyết trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường

hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy

tiện. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc

19

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết

định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện.

Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh

chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật

quốc gia của nhiều nước trên thế giới và Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng

tài thương mại quốc tế (sau đây gọi tắt là Luật mẫu) đều quy định trình tự, thủ

tục hủy PQTT thương mại khi một bên tranh chấp có yêu cầu với những căn

cứ được quy định.

Yêu cầu hủy PQTT là thủ tục khiếu kiện duy nhất

Luật mẫu và các quốc gia sử dụng Luật mẫu chỉ cho phép tiến hành một

thủ tục khiếu kiện duy nhất, nghĩa là loại trừ mọi thủ tục khiếu kiện khác có

thể được quy định trong pháp luật tố tụng của một nước. Điều 34, khoản 1

quy định rằng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là hình thức khiếu kiện duy

nhất được phép; yêu cầu này phải được đưa ra trong thời hạn ba tháng kể từ

ngày bên yêu cầu nhận được phán quyết (khoản 3). Trong khi quy định về các

phương thức “khiếu kiện” (nói cách khác là các biện pháp một bên có thể tiến

hành nhằm tích cực “chống lại” phán quyết trọng tài), Điều 34 của Luật mẫu

không cấm một bên yêu cầu Tòa án kiểm tra phán quyết trọng tài (Điều 35 và

Điều 36). Mặc dù Điều 34 dừng ở quy định khiếu kiện ra Tòa án (tức là một cơ

quan tài phán của Nhà nước) song không có gì ngăn cản việc khiếu kiện ra một

Hội đồng trọng tài cấp phúc thẩm nếu các bên có thỏa thuận như vậy (trường

hợp này khá phổ biến trong lĩnh vực mua bán một số hàng hóa nhất định).

Căn cứ hủy PQTT thương mại

Luật mẫu và pháp luật của các quốc gia tuân theo Luật mẫu đã đưa ra

một danh sách đầy đủ các căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Danh sách các căn

cứ này về cơ bản tương đương với danh sách các căn cứ từ chối công nhận

hoặc thi hành phán quyết trọng tài quy định tại khoản 1, Điều 36 – một điều

khoản dựa theo các quy định tại Điều V của Công ước New Yorlk 1958. Các

20

căn cứ hủy phán quyết trọng tài nêu tại khoản 2, Điều 34 của Luật mẫu được

chia thành hai nhóm:

Nhóm thứ nhất: là những căn cứ phải được một bên chứng minh, bao

gồm các trường hợp sau

- Tình trạng không có năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài của một bên;

- Thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

- Một bên không được thông báo về việc chỉ định trọng tài viên hoặc về

thủ tục tố tụng trọng tài, hoặc một bên không thể thực hiện được việc bảo vệ

quyền lợi của mình;

- Phán quyết trọng tài liên quan đến những vấn đề không được đưa ra

trọng tài giải quyết;

- Việc thành lập hội đồng trọng tài hoặc việc tiến hành tố tụng trọng tài

không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc không phù hợp với quy định

của Luật mẫu nếu các bên không có thỏa thuận.

Nhóm thứ hai: là những căn cứ có thể do Tòa án chủ động xác định,

bao gồm các trường hợp sau

- Vấn đề là đối tượng của tranh chấp không thể được giải quyết bằng

trọng tài;

- Phán quyết trọng tài trái với trật tự công (đây được coi là những trường

hợp vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản về công bằng trong tố tụng)

Tính chất tương đồng giữa các căn cứ hủy phán quyết trọng tài quy định trong

Luật mẫu so với các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết

trọng tài quy định tại Điều V của Công ước New York 1958 gợi lại cách tiếp

cận của Công ước Châu Âu về trọng tài thương mại quốc tế (Geneva, 1961).

Theo Điều IX của Công ước này, việc một Tòa án nước ngoài tuyên hủy phán

quyết trọng tài trên cơ sở một căn cứ khác với những căn cứ quy định tại Điều

V của Công ước New York 1958 không được coi là lý do để từ chối thi hành

phán quyết đó. Như vậy, Luật mẫu đã đi xa hơn theo hướng bằng cách quy

21

định giới hạn trực tiếp các căn cứ hủy phán quyết trọng tài.

Mặc dù các căn cứ hủy phán quyết trọng tài quy định tại khoản 2 Điều

34 gần như tương tự với các căn cứ từ chối công nhận hoặc thi hành phán

quyết trọng tài quy định tại khoản 1, Điều 36, cần lưu ý đến một điểm khác

biệt có ý nghĩa thiết thực. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ

quy định tại khoản 2, Điều 34 chỉ có thể được gửi đến Tòa án của nước nơi

tuyên phán quyết, trong khi đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài có thể

được gửi đến Tòa án của bất kỳ nước nào. Vì vậy, nội dung các căn cứ liên

quan đến trật tự công và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài có thể

sẽ thay đổi tùy thuộc vào luật được Tòa án áp dụng (Tòa án của nước nơi có

yêu cầu hủy hoặc nước nơi yêu cầu thi hành phán quyết).

1.2.3 Quyền yêu cầu và hậu quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài

thương mại

Quyền yêu cầu hủy PQTT

Như đã trình bày trên, với căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 34 Luật mẫu đơn

yêu cầu hủy phán quyết trọng chỉ có thể được gửi đến Tòa án của nước nơi

tuyên phán quyết, cụ thể:

“Một quyết định chỉ có thể bị Toà án theo qui định tại Điều 6 hủy bỏ

trong trường hợp:

(a) Bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng:

(i) Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài theo qui định tại điều 7

không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có

giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của

nước nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ;

hoặc

(ii) Bên phải thi hành quyết định không được thông báo một cách đầy đủ về

việc chỉ định trọng tài viên hoặc tố tụng trọng tài hoặc nói cách khác không

22

thể thực hiện việc tranh tụng của mình; hoặc

(iii) Quyết định giải quyết tranh chấp không được qui định hoặc không

nằm trong phạm vi các điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết,

hoặc quyết định này bao gồm những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm

vi của thoả thuận trọng tài giải quyết với điều kiện là những quyết định về các

vấn đề đưa ra trọng tài giải quyết có thể tách ra khỏi những vấn đề không

được đưa ra trọng tài và chỉ có phần của quyết định chứa đựng các quyết

định về vấn đề không được nêu ra trọng tài giải quyết có thể bị hủy bỏ; hoặc

(iv) Thành phần của hội đồng trọng tài hoặc tố tụng trọng tài không phù

hợp với thoả thuận giữa các bên trừ trường hợp thoả thuận này trái với điều

khoản trong luật này mà các bên không thể vi phạm được, hoặc nếu không có

thoả thuận đó, không phù hợp với luật này; hoặc

(b) Toà án phát hiện rằng:

(i) Theo luật của nước đó, vấn đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết

bằng trọng tài được; hoặc

(ii) Quyết định mâu thuẫn với chính sách công của quốc gia đó”.

Tuy Luật mẫu không quy định, song trên thực tế vẫn cho thấy bên cạnh

nguyên đơn, bị đơn vẫn có sự tham gia của có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

trong các vụ việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM. Vì vậy, cần thêm một

loại chủ thể nữa cũng có quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy PQTT, đó là người

có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan trong vụ tranh chấp.

Theo thông lệ quốc tế, khi một bên biết rằng bất kì điều khoản của Luật

này có thể bị các bên làm tổn hại, hoặc bất kì yêu cầu nào theo thoả thuận trọng

tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà không tuyên bố sự

phản đối của mình về những việc không chấp hành đó trong thời hạn cho phép

thì sẽ xem như đã từ bỏ quyền phản đối của mình (Điều 4, Luật Mẫu)

Hậu quả pháp lý của hủy PQTT

Hậu quả pháp lý đối với các bên tranh chấp

23

Nếu PQTT thương mại bị hủy thì trong trường hợp này, những mục tiêu

mà các bên muốn đạt được khi lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

sẽ vô nghĩa, các bên sẽ phải lựa chọn giải quyết bằng một TTTT mới hoặc

Tòa án gây tốn kém cho cả hai bên tham gia tố tụng.

Hậu quả pháp lý đối với trọng tài viên tham gia xét xử

Luật TTTM 2010 quy định, nếu TTV vi phạm các điều khoản trong thủ

tục tố tụng thì phán quyết trở nên vô nghĩa và sẽ bị hủy. Tuy vậy, trường hợp

nếu phán quyết bị hủy bởi chứng cứ mà các bên cung cấp giả mạo hoặc do

TTTT vô hiệu (không năm trong sự kiểm soát của TTV) thì “phán quyết vô

hiệu” trở thành nghiêm trọng đối với trọng tài. Pháp luật Việt Nam hiện tại

không có bất cứ cơ chế giám sát nào đối với việc hủy PQTT của Tòa án gây

ra tình trạng tùy tiện hủy PQTT là không tránh khỏi. Khiến cho các TTV lo

lắng với kết quả phán quyết của mình, hơn nữa còn làm giảm uy tín của hoạt

động trọng tài nói riêng, và thị trường đầu tư quốc gia nói chung.

Hậu quả pháp lý đối với Tòa án

Khi PQTT bị hủy, một bên có quyền khởi kiện vụ án. Việc hủy PQTT là

nguyên nhân tăng sự quá tải của hệ thống tòa án vốn đã nghiêm trọng nay lại

càng nghiêm trọng hơn. Trong đó, quy định của pháp luật hiện nay về quyết

định của tòa án về việc hủy PQTT có được giám đốc thẩm, tái thẩm hay

không vẫn chưa được minh bạch, rõ rang làm cho các thẩm phán khó khăn khi

có nhiều trường hợp sau khi quyết định hủy phán quyết ban hành, bên thắng

24

trong tố tụng trọng tài khiếu kiện quyết định hủy đó.

Tiểu kết chương 1

1. Việt Nam là quốc gia chịu sự ảnh hưởng của Civil Law, nhưng pháp

luật về Trọng tài cũng có lịch sử phát triển riêng của nó. Vì vậy, dù có những

tương đồng, vẫn không thể áp dụng tất cả nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng Dân

sự hiện hành đối với hoạt động của Trọng tài. Do đó, vẫn cần có pháp luật

Trọng tài thương mại bên cạnh Bộ luật Tố tụng Dân sự với những điểm chung

trong thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tài phán

kinh tế nhưng cũng phải thể hiện những nét riêng trong hoạt động của Trọng

tài với tính chất tài phán phi chính phủ để phân biệt với tài phán nhà nước.

2. Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan niệm trọng tài là mô hình

giải quyết tranh chấp quan trọng có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính

nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm...

Trọng tài Thương mại hoạt động một cách độc lập, với tính chất phi chính

phủ, không có cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền can thiệp vào hoạt

động giải quyết tranh chấp của Trọng tài nếu không có yêu cầu từ phía các

bên tranh chấp.

3. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ

tiện của Trọng tài viên, pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải

quyết bởi Trọng tài, nếu một bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Toà án

nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định để yêu cầu được huỷ quyết định đó. Tòa

án vốn không phải cấp xét xử thứ hai của Trọng tài nên sẽ không xét xử lại

tranh chấp khi giải quyết và cũng không có thẩm quyền kết luận sai hay đúng

về phán quyết Trọng tài trong việc chỉ ra nghĩa vụ hay quyền các bên tranh

chấp. Tòa án chỉ có quyền xem xét để ra quyết định giữ nguyên hay hủy

25

PQTT.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI

PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại ở

Việt Nam hiện nay

2.1.1 Quyền yêu cầu hủy PQTT

Khoản 3 Điều 3, khoản 1 Ðiều 68, khoản 1 Điều 69 của Luật TTTM

2010 quy định; chỉ các bên tranh chấp là nguyên đơn và bị đơn mới có quyền

yêu cầu Tòa án tuyên hủy PQTT.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn cho thấy bên cạnh nguyên đơn, bị đơn vẫn có

sự tham gia của có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ việc giải quyết

tranh chấp bằng TTTM.

Vì thế, người có quyền lợi, nghĩa vụ trong tranh chấp là chủ thể có quyền

yêu cầu Tòa án hủy PQTT cần được bổ sung. Pháp luật hiện hành chưa có

quy định cụ thể về thỏa thuận tự nguyện hạn chế quyền yêu cầu hủy PQTT.

Điểm mới trong Luật TTTM 2010 tiếp thu một khái niệm phổ biến trên

thế giới trong lĩnh vực trọng tài quy định trong Điều 13 là khái niệm mất

quyền phản đối.

Để hướng dẫn thực hiện quy định này, Điều 6 Nghị quyết số

01/2014/HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo có quy

định:“trường hợp Luật TTTM không quy định thời hạn thì thời hạn được xác

định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài. Trường hợp

các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy định thì

việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm HĐTT tuyên phán quyết”.

Còn về hệ quả của việc không phản đối, Nghị quyết quy định theo hướng

26

“trường hợp Tòa án xác định vi phạm đã mất quyền phản đối quy định tại

Điều 13 Luật TTTM và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này thì bên đã mất quyền

phản đối không được quyền khiếu nại quyết định của HĐTT, yêu cầu hủy

PQTT đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó”.

Đơn yêu cầu hủy PQTT

Theo Điều 70, Luật TTTM, đơn yêu cầu hủy PQTT phải có các nội dung

và các tài liệu kèm theo đơn như sau:

“1. Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài phải có các nội dung chủ yếu

sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu;

c) Yêu cầu và căn cứ huỷ phán quyết trọng tài.

2. Kèm theo đơn yêu cầu phải có các giấy tờ sau đây:

a) Bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã được chứng thực hợp lệ;

b) Bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.

Pháp luật hiện hành tại Việt Nam cho thấy nội dung đơn yêu cầu hủy

PQTT cần phải bổ sung các nội dung như: Thông tin của những người có liên

quan đến việc giải quyết đơn, thông tin Tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn.

Nếu người yêu cầu là cá nhân thì phải điểm chỉ hoặc ký tên, là tổ chức, cơ

quan thì người đại diện pháp luật phải đóng dấu, ký tên vào đơn.

Quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật TTTM 2010 chỉ rõ, HĐTT phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trong thời hạn 30 ngày, từ ngày được chỉ định.

2.1.2 Điều kiện hủy phán quyết trọng tài thương mại

Về căn cứ “Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài

vô hiệu”.

Trước khi Luật TTTM 2010 được ban hành, căn cứ này thường được bên

thua kiện lạm dụng để yêu cầu hủy PQTT do cách hiểu về TTTT hoặc TTTT

vô hiệu làm cơ sở cho Tòa án quyết định hủy hay không hủy PQTT không

27

thống nhất và trong nhiều trường hợp là không xác định được.

Hiện nay, những quy định về hình thức của TTTT tại Điều 16, khoản 2

của Luật TTTM 2010 là khá rõ ràng, đầy đủ, đáp ứng với thực tiễn hoạt động

thương mại trong tình hình phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học

công nghệ lần thứ 4. Đây là cơ sở nhằm hạn chế rủi ro việc PQTT bị tuyên hủy.

Về căn cứ quyết định thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố

tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với

các quy định của Luật TTTM

Hội đồng trọng tài phải tiến hành nhiều thủ tục tố tụng trong quá trình

giải quyết chanh chấp nên khó tránh những sai sót. Thực tế từ các vụ việc gần

đây sai sót thường vì những lý do từ thủ tục tố tụng. Có trường hợp phán

quyết bị hủy chỉ vì lỗi văn bản trong thông báo mời hợp sử dụng ngôn từ chưa

phù hợp hoặc những sai sót nhỏ như ghi đơn vị tiền tệ quy đổi chưa đúng, kể

cả các lỗi trong thể thức trình bày cũng là nguyên nhân Tòa án hủy phán

quyết.

Điều 14, khoản 2, điểm b, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao số 01/2014/HĐTP đã có quy định để khắc phục tình trạng

này; “trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài,

quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa

thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định

Luật TTTM 2010 về nội dung này mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm

nghiêm trọng và cần phải hủy nếu HĐTT không thể khắc phục được hoặc

không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật

TTTM thì Tòa án hủy PQTT”.

Về căn cứ quy định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của

Hội đồng trọng tài

Điều 2 Luật TTTM quy định, trường hợp HDTT giải quyết vụ việc tranh

chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài là tranh chấp không

28

thuộc thẩm quyền hoặc HĐTT đưa ra quyết định vượt phạm vi.

Theo quy định của pháp luật, Tòa án chỉ hủy các quyết định không thuộc

quyền hạn của HĐTT mà không hủy PQTT.

Về căn cứ chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn

cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản

hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến

tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài

Tòa án phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài,

thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà HĐTT áp

dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.Với việc giới hạn

các trường hợp có thể hủy PQTT như vừa nêu, khả năng PQTT bị hủy sẽ

giảm và đây là điều đáng khích lệ.

Về căn cứ phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản

của pháp luật Việt Nam

Điểm Đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày

20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi

hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại; “Phán quyết trọng tài trái với

các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các

nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện

pháp luật Việt Nam.

Trong quá trình xử lý yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án cần xác

định phán quyết Trọng tài có vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật, hay

nguyên tắc đó có nằm trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp hay không.

Phán quyết trọng tài chỉ bị hủy bởi Tòa án khi Tòa án chứng minh được

phán quyết đó vi phạm nguyên tắc pháp luật Việt Nam mà HĐTT không chấp

hành khi thực hiện, gây ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và các bên tham gia.

Hiểu thế nào là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hiện cũng là lý do

khiến nhiều phán quyết trọng tài bị hủy. Việc Tòa án hủy phán quyết trọng tài

29

mà chỉ căn cứ vào điểm Đ khoản 2 Điều 68 mà không nêu rõ PQTT sai ở đâu,

vi phạm cụ thể những gì là tình trạng phổ biến.

PQTT sẽ vẫn phải đối mặt với tình trạng bị hủy cao nếu không thể xác

định rõ ràng về khái niệm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Vì vậy, nếu

khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật” không thể xác định được thì

phán quyết trọng tài sẽ tiếp tục đối mặt với nguy cơ cao bị tòa án hủy điều này

đồng nghĩa với việc môi trường kinh doanh lành mạnh bị cản trở phát triển.

Quy định về nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng

Như đã phân tích, quy định này là một trong những điểm mới của Luật

TTTM, mặc dù đã hình thành lâu đời trong hệ thống pháp luật của các nước

tiên tiến.

Điều 13 Luật TTTM 2010 quy định, nếu một bên phát hiện có vi phạm Luật

này hay của TTTT mà không phản đối vi phạm trong thời gian quy định, vẫn

tiếp tục thực hiện thì sẽ mất quyền phản đối tại Tòa án hoặc Trọng tài. Điều

này nhằm ngăn chặn các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.

2.1.3 Trình tự, thủ tục hủy phán quyết trọng tài thương mại

Chủ thể có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thương mại

Quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy PQTT chỉ trao cho các bên tranh chấp

(hai chủ thể là bị đơn và nguyên đơn), quy định tại khoản 3 Điểu 3, khoản 1

Điều 68, khoản 1 Điều 69.

“1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài,

nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra

phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68

của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ

phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải có các

chứng cứ chứng minh, tài liệu thông tin cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

là hợp pháp.

30

2. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có

sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết

trọng tài”.

Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Theo Điều 70, Luật TTTM, đơn yêu cầu hủy PQTT phải có các nội dung

và các tài liệu kèm theo đơn như sau:

“1. Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài phải có các nội dung chủ yếu

sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu;

c) Yêu cầu và căn cứ huỷ phán quyết trọng tài.

2. Kèm theo đơn yêu cầu phải có các giấy tờ sau đây:

a) Bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã được chứng thực hợp lệ;

b) Bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.

Thực trạng pháp luật Việt Nam cho thấy, đơn yêu cầu hủy PQTT cần

phải bổ sung vào nội dung các thông tin như: Thông tin của những người liên

quan, thông tin của tòa án giải quyết đơn yêu cầu. Trong trường hợp người

yêu cầu là cá nhân thì cần điểm chỉ, ký tên. Nếu là tổ chức, cơ quan thì người

đại điện pháp luật ký tên, có đóng dấu vào cuối đơn.

Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được quy định tại khoản 1

Điều 69 Luật TTTM 2010. Từ đây, cũng đặt ra một số vấn đề pháp lý cần

quan tâm như sau:

- Luật TTTM 2010 đã sử dụng cụm từ “làm đơn gửi tòa án có thẩm

quyền” chưa thật sự rõ nghĩa. Do vậy, nên bỏ câu “làm đơn gửi” thay bằng

“gửi đơn” là đủ.

- Điều 190 BLTTDS 2015 quy định rất rõ và hợp lý.

31

Cần có quy định tăng cường phạm vi áp dụng của luật này để áp dụng với cả

đơn yêu cầu trong việc dân sự.

Chứng minh, chứng cứ cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Luật TTTM 2010 phân chia nghĩa vụ chứng minh về căn cứ hủy thành

hai trường hợp: (i) Đối với các căn cứ tại khoản (a), (b), (c) và (d) của Điều

68, khoản 2, bên yêu cầu hủy có nghĩa vụ chủ động xác minh thu thập chứng

cứ để quyết định hủy hay không hủy PQTT; (i) Đối với các căn cứ tại khoản

(đ) của Điều 68, khoản 2, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập

chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Các tài liệu,

chứng cứ phải gửi kèm theo đơn yêu cầu được quy định chi tiết tại Ðiều 70

Luật TTTM 2010.

2.2. Thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về hủy phán

quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay

2.2.1 Thực tiễn hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay

Tính đến hết tháng 01/2019, trên toàn quốc hiện có 23 Trung tâm Trọng

tài thương mại với số Trọng tài viên hiện nay là trên 460 người và được phân

bố không đồng đều tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đăk Lắk.

Số vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài dù thương mại có

xu hướng tăng lên (khoảng 500 vụ trong năm 2018) nhưng vẫn ở mức khiêm

tốn so với nhu cầu thực tiễn, chiếm chưa đến 1% trên tổng số vụ tranh chấp

thương mại được tòa án thụ lý, xét xử hàng năm. Trong khi đó, những năm

gần đây tranh chấp quốc tế đang có xu hướng giảm, ngược lại tranh chấp

trong nước hiện chiếm khoảng 70% và có xu hướng gia tăng, nhất là ở các

doanh nghiệp FDI [47].

Mặc dù trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp

nhanh gọn có nhiều ưu điểm song không ít ý kiến cho rằng họ e ngại việc

phán quyết của trọng tài bị Tòa án hủy. Hiện nay, chưa có thống kế số liệu

32

chính thức của ngành Tòa án nhân dân về số lượng các vụ phán quyết trọng

tài thương mại bị hủy tại Tòa án nhân dân.

Theo Ông Nguyễn Công Phú, Phó chánh tòa kinh tế Tòa án nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh “kể từ khi Luật Trọng tài Thương mại có hiệu lực thi

hành thì vẫn có rất nhiều phán quyết bị Tòa án hủy”. Trong khi đó, tại buổi

tọa đàm về thực trạng “Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam” ngày 20 tháng

1 năm 2015, ông Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký VIAC cho biết từ năm 2003

đến năm 2011 có 26 vụ yêu cầu Tòa án hủy trong đó chỉ có 9 phán quyết bị

hủy chiếm 34,6% tổng số vụ tranh chấp yêu cầu hủy. Từ năm 2011 – 2014,

tức từ khi Luật TTTM 2010 có hiệu lực, có 20 yêu cầu hủy phán quyết Trọng

tài của VIAC thì có đến 10 phán quyết được Tòa án chấp nhận hủy, chiếm

50% trong tổng số vụ tranh chấp yêu cầu Tòa án hủy [48]. Thông tin cụ thể

hơn về số vụ việc phán quyết trọng tài bị hủy tại Hà Nội, ông Nguyễn Đình

Tiến - Phó Chánh tòa kinh tế, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội cho biết: Năm

2015, cơ quan này đã thụ lý 7 vụ, năm 2016 là 11 vụ, năm 2017 với 14 vụ;

riêng 6 tháng đầu năm 2018 thụ lý 5 vụ. Trong đó, yêu cầu về khiếu nại thẩm

quyền của Hội đồng trọng tài (HĐTT) là 4 vụ việc, yêu cầu hủy phán quyết là

26 vụ và công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài là 7 vụ [49].

Từ những con số trên chúng ta thấy được rằng việc có quá nhiều phán

quyết trọng tài bị tuyên hủy như vậy sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý e dè khi

quyết định có chọn Trọng tài hay không, đó cũng là một rào cản khá lớn trong

việc các doanh nghiệp tiếp cận với phương thức giải quyết này, một phương

thức có nhiều ưu điểm và mang lại lợi thế nhiều cho doanh nghiệp.

Việc số lượng phán quyết trọng tài bị Tòa án tuyên hủy tăng khá nhiều

khiến cho không chỉ cộng đồng doanh nghiệp hoang mang mà ngay chính các

Trọng tài viên cũng “đứng ngồi không yên”. Do tình trạng số lượng phán

quyết trọng tài bị hủy cao khiến các Trọng tài viên lo lắng việc “xử mà không

biết phán quyết có bị hủy hay không”. Đây là hiện trạng cần khắc phục, vì bản

33

chất Luật TTTM 2010 là tạo hành lang pháp lý cho phương thức giải quyết

tranh chấp bằng trọng tài phát triển nhưng thực tế thì đang đi ngược lại do số

phán quyết trọng tài bị tuyên hủy thậm chí nhiều hơn so với giai đoạn trước.

Thực tiễn, hai căn cứ thường được Tòa án viện dẫn để hủy phán quyết

trọng tài là căn cứ tại điểm b và điểm đ Điều 68 Luật TTTM, đó là: Thành

phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa

thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này; Phán quyết trọng

tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hai căn cứ này có

phạm vi tương đối rộng khiến Hội đồng trọng tài dễ vi phạm khi giải quyết.

Căn cứ để Tòa án hủy phán quyết có khi chỉ vì mắc lỗi nhỏ trong việc sử dụng

ngôn ngữ trong văn bản chưa hợp lý. Đặc biệt, mặc dù Nghị quyết số

01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày

20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định Luật TTTM (Nghị quyết

01/2014/NQ-HĐTP) đã có giới hạn phạm vi đối với căn cứ "Phán quyết trọng

tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” nhưng Tòa án vẫn

thường dựa vào căn cứ này để ra quyết định hủy phán quyết trọng tài. Tình

trạng các phán quyết trọng tài bị hủy thương xuyên gây ra tâm lý hoang mang

cho cộng đồng doanh nghiệp, phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài mất

đi sự tin cậy.

2.2.1 Nguyên nhân, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về

hủy quyết định trọng tài thương mại

Do quy định về hủy phán quyết trọng tài còn nhiều điểm chồng chéo,

chưa rõ ràng, chưa chặt chẽ, khiến cho việc áp dụng không hiệu quả dẫn đến

tình trạng nhiều phán quyết trọng tài bị hủy.

Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM quy định những căn cứ để hủy PQTT tuy không

nhiều nhưng lại không rõ ràng khiến yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trở nên

dễ được chấp thuận một khi bên yêu cầu đưa ra căn cứ phù hợp với đặc điểm

phán quyết bị hủy. Bên cạnh đó, thủ tục tuyên bố hủy quyết định trọng tài

34

cũng có vấn đề cần bàn:

Thứ nhất, căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản

của Pháp luật Việt Nam” được quy định không rõ ràng, khó tránh khỏi

việc áp dụng một cách tùy tiện.

Hiện trạng cho thấy, hầu hết trong các Bộ luật, Luật tại Việt Nam đều có

những quy định về “nguyên tắc”, khiến cho bên yêu cầu có thể dễ dàng viện dẫn

phán quyết trọng tài “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” sau đó

đưa ra những lý lẽ nhằm thuyết phục Tòa án ra quyết định hủy phán quyết trọng

tài.

Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp Tòa án căn cứ vào điểm Đ

khoản 2 Điều 68 để hủy phán quyết trọng tài. Rất nhiều nguyên tắc cơ bản

hoặc nguyên tắc không cơ bản được Tòa án viện dẫn trong quyết định khi hủy

phán quyết trọng tài đều là các nguyên tắc có nội dung hướng dẫn cách xử sự

của các bên đương sự trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng, chứ không

phải là các nguyên tắc hướng dẫn cách xử sự của cơ quan tài phán. Mặt khác,

hầu hết quyết định của Tòa án khi áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật

TTTM đều xem xét, giải quyết lại nội dung vụ tranh chấp đã được trọng tài

xét xử. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 4 Điều 71

Luật TTTM quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ

vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem

xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng

tài đã giải quyết”.

Nghiên cứu khoản 2 Điều 68 sẽ thấy rõ, đối với các trường hợp thuộc

điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 68 thì người có đơn yêu cầu hủy phán quyết

trọng tài phải xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nếu

không chứng minh được sẽ không được Tòa án chấp nhận. Đây là điểm khác

biệt giữa tố tụng dân sự với Luật TTTM. Vì sao có sự khác biệt đó?

Một là, Tòa án khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không xét lại nội

35

dung vụ tranh chấp. Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ tố tụng (thẩm quyền, thủ

tục tố tụng, thành phần Hội đồng trọng tài…). Nếu đương sự cho rằng, phán

quyết trọng tài vi phạm một trong các trường hợp được quy định từ điểm a

đến điểm d khoản 2 Điều 68 thì phải chứng minh được sự vi phạm đó, không

chứng minh được rõ ràng có sự vi phạm thì không chấp nhận yêu cầu hủy

phán quyết trọng tài;

Hai là, việc tranh chấp là quan hệ riêng tư, lợi ích của các đương sự, của

thương nhân, đó là quan hệ tư, việc của cá nhân các bên trong quan hệ tranh

chấp, chứ không phải là việc “công”, lợi ích “công”. Do đó, các bên phải

chứng minh, phải tự bảo vệ lợi ích của mình, nhà nước (cụ thể là Tòa án)

không làm thay.

Ba là, các bên trong quan hệ tranh chấp thường là các thương nhân, là

đối tượng vừa có điều kiện kinh tế, sự hiểu biết hơn người dân bình thường,

có đủ điều kiện để tự mình hoặc nhờ Luật sư giúp đương sự tự bảo vệ lợi ích

tư của mình, chính các bên trong quan hệ tranh chấp hiểu rõ sự việc hơn ai

hết, biết phải làm gì để tự bảo vệ lợi ích của mình, nên Luật TTTM không quy

định trọng tài hay Tòa án có nghĩa vụ điều tra, thu thập chứng cứ, không có

nghĩa vụ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên trong quan hệ

tranh chấp thay đương sự.

Bốn là, chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,

gia nhập sân chơi chung thì ngoài những điểm đặc thù, về cơ bản Luật TTTM

phải phù hợp với sân chơi chung đó, không thể có lựa chọn khác. Luật TTTM

của các nước, Công ước, luật mẫu… đều quy định trách nhiệm chứng minh

thuộc về đương sự, Luật TTTM của chúng ta cũng đã quy định như vậy.

Do đó, đương sự muốn bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi viện dẫn

một trong các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định từ điểm a đến

điểm d khoản 2 Điều 68 thì các đương sự phải chứng minh trước Tòa án, phán

36

quyết trọng tài vi phạm một hay nhiều các căn cứ đó.

Điểm b khoản 3 Điều 68 Luật TTTM quy định đối với yêu cầu hủy

“phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt

Nam:“…Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh, thu thập chứng cứ để

quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài”.

Không phải do tùy hứng hay ngẫu nhiên mà chỉ có điểm đ khoản 2 Điều

68 Luật TTTM mới quy định khi áp dụng căn cứ này Tòa án phải chủ động

xác minh, thu thập chứng cứ.

Nếu cho rằng đương sự trong vụ tranh chấp muốn bảo vệ quyền và lợi

ích của mình trong trường hợp này gặp khó khăn khi chứng minh phán quyết

trọng tài vi phạm, nên mới quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 như vậy thì

không chỉ vô lý mà còn tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn với các quy định khác

của Luật TTTM, không thể giải thích các quy định của Luật TTTM một cách

nhất quán. Điều đó chứng tỏ “đối tượng” chính mà quy định này hướng đến

để bảo vệ là những giá trị chung có tính cơ bản, bao trùm về kinh tế, chính trị,

xã hội, đạo đức, sự công bằng, nó có thể là lợi ích công, trật tự công, lợi ích

quốc gia, dân tộc, lợi ích nhà nước, đạo đức xã hội… hoặc lợi ích của công

dân, chủ thể khác không liên quan tới quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết

trọng tài đã xâm phạm lợi ích của họ. Đó có thể được coi là sự vi phạm công

lý hiển nhiên không ai có thể chấp nhận được. Do đó, Tòa án phải chủ động

thu thập chứng cứ chứng minh và bảo vệ các đối tượng, các lợi ích đó. Điểm

đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định

của Luật Trọng tài thương mại đã ghi rõ:

“…Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng

phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản

của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc

37

này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm

nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các

bên, người thứ ba…”

Để giúp cho các Thẩm phán hiểu đúng trong trường hợp nào mới áp

dụng cho các đương sự trong việc để hủy phán quyết trọng tài theo quy định

tại điểm đ khoản 2 Điều 68, Hội đồng Thẩm phán đã đưa ra hai ví dụ nhằm

gợi ý cho các Thẩm phán như sau: “Ví dụ 1: Các bên đã tự nguyện thỏa thuận

về việc giải quyết tranh chấp và thỏa thuận này không trái pháp luật, đạo đức

xã hội nhưng Hội đồng trọng tài không ghi nhận sự thỏa thuận đó của các

bên trong phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này phán quyết trọng tài đã

vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong lĩnh vực thương mại quy

định tại Điều 11 Luật Thương mại và Điều 4 của Bộ luật dân sự... Tòa án xem

xét, quyết định việc hủy phán quyết trọng tài này vì trái nguyên tắc cơ bản của

pháp luật Việt Nam đã được Luật Thương mại và Bộ luật dân sự quy định.

Ví dụ 2: Một bên tranh chấp cung cấp chứng cứ chứng minh phán quyết

trọng tài được lập có sự cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ. Trong trường hợp

này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “trọng tài viên phải độc lập,

khách quan, vô tư” quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại”.

Thuật ngữ “người thứ ba” trong hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2014/NQ-

HĐTP không phải là “người” có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án như

quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi,

bổ sung năm 2011), (BLTTDS 2015 là khoản 04 Điều 68).

Người thứ ba được hiểu theo hướng là các tổ chức quốc tế hoặc các

nhóm tổ chức xã hội đại diện cho các lợi ích công cộng mà các tổ chức này là

một bên khởi kiện; ví dụ: Phán quyết trọng tài có tác động liên quan đến sức

khỏe cộng đồng hay phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, lợi ích của người

tiêu dùng. “Người thứ ba” cũng có thể được hiểu là một quốc gia khác có

quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của trọng tài, đặc biệt trong các

38

vụ kiện tranh chấp đầu tư được xử bằng trọng tài vụ việc….

Cách hiểu này cũng phù hợp với giải thích chính sách công quốc tế của

mọi quốc gia theo Khuyến nghị của Hiệp hội pháp luật quốc tế (The

International Law Association -ILA) năm 2002 là:

(i) Các nguyên tắc cơ bản về công bằng và đạo đức, mà quốc gia đó

muốn bảo vệ, kể cả khi quốc gia đó không trực tiếp liên quan

(ii) Các quy tắc được thiết lập để phục vụ cho lợi ích kinh tế, xã hội hay

chính trị của quốc gia, mà được biết với tên gọi các quy tắc về chính sách công

(iii) Nhiệm vụ quốc gia để tôn trọng các nghĩa vụ đối với quốc gia khác

hay các tổ chức quốc tế.

“Người thứ ba” cũng có thể là thể nhân, tổ chức không liên quan gì đến

quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết trọng tài đã xâm phạm lợi ích của họ,

phán quyết vi phạm công lý hiển nhiên.

Từ hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán có thể thấy trong trường hợp nội

dung của phán quyết trọng tài chỉ phân xử trong phạm vi lợi ích của hai bên

đương sự trong quan hệ tranh chấp và phán quyết đó không xâm phạm lợi ích

của các chủ thể khác thì không được sử dụng các nguyên tắc điều chỉnh hành

vi, xử sự của các bên trong quan hệ hợp đồng để xem xét, giải quyết lại nội

dung quan hệ tranh chấp.

Cần phải thống nhất rằng, luật đã quy định rõ, Tòa án không được xem

xét lại nội dung vụ tranh chấp. Đây là một nguyên tắc không được vi phạm khi

áp dụng pháp luật trọng tài, luật tố tụng dân sự khi xét đơn yêu cầu hủy phán

quyết trọng tài. Do đó, dù Hội đồng xét đơn có nhận thấy Hội đồng trọng tài đã

diễn giải sai sự kiện, sai tình tiết, sai nội dung tranh chấp hoặc áp dụng sai pháp

luật nội dung… nhưng không phải do gian lận, không phải do không vô tư,

khách quan thì, đó cũng không phải là căn cứ để hủy phán quyết trọng tài và

càng không phải là cơ sở để áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM.

Trong thời gian qua, một số Hội đồng xét đơn cho rằng, phán quyết trọng

39

tài sai là áp dụng các nguyên tắc cơ bản theo kiểu suy diễn là phán quyết trọng

tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, hoặc không vô tư,

khách quan, nhưng không có chứng cứ rõ ràng, cụ thể mà vẫn hủy phán quyết

trọng tài là sai lầm nghiêm trọng, một kiểu “lạm dụng” luật pháp;

Từ các phân tích của Luận văn có thể rút ra một số vấn đề khi áp dụng

điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM như sau:

Một là, theo quy định: “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ

bản của pháp luật Việt Nam” (điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM). Do đó,

không được áp dụng các nguyên tắc không cơ bản, các điều luật quy định về

quyền và nghĩa vụ của hai bên trong Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại.v.v…

ví dụ như nguyên tắc bồi thường thiệt hại (Điều 605) Bộ luật Dân sự năm

2005, các điều luật quy định về cách tính bồi thường thiệt hại trong Luật

Thương mại để làm cơ sở pháp lý cho việc hủy phán quyết trọng tài.

Hai là, Tòa án không xét lại, giải quyết lại nội dung quan hệ pháp luật

có tranh chấp; không đánh giá quyền, nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng

đã được trọng tài giải quyết đúng hay sai. Dù phán quyết trọng tài có thể giải

quyết chưa đúng quyền, nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng, trong quan hệ

tranh chấp thì Tòa án cũng không được viện dẫn các nguyên tắc cơ bản theo

cách tiếp cận suy diễn như nhiều trường hợp Hội đồng xét đơn đã sử dụng,

làm cơ sở cho việc áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM để hủy phán

quyết trọng tài. Vì làm như vậy là Tòa án đã giải quyết lại nội dung quan hệ

tranh chấp và trái với quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật TTTM.

Ba là, không phải trong mọi trường hợp, khi có vi phạm điểm đ khoản 2

Điều 68 Luật TTTM là hủy toàn bộ phán quyết trọng tài.

Tòa án chỉ hủy toàn bộ phán quyết trọng tài khi toàn bộ phán quyết vi phạm

điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM. Nếu phán quyết có nhiều phần, nhưng

chỉ có một phần của phán quyết vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68, còn các

phần khác của phán quyết không vi phạm, trong khi phần phán quyết có vi

40

phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 độc lập với các phần khác của quyết định thì

không được hủy toàn bộ phán quyết mà chỉ hủy phần phán quyết vi phạm đó

khi Tòa án đã căn cứ vào khoản 7 Điều 71 Luật TTTM, tạo điều kiện cho Hội

đồng trọng tài khắc phục sai sót trong tố tụng, nhằm loại bỏ căn cứ hủy phán

Bốn là, khác với Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan thì Luật TTTM lại không quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan. Sở dĩ như vậy là do Hội đồng trọng tài chỉ giải quyết quan hệ tranh

quyết, nhưng Hội đồng trọng tài không thực hiện được.

chấp được quy định tại Điều 2 Luật TTTM, khi giữa các bên có thỏa thuận

trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài, thì trọng tài không có thẩm

quyền giải quyết về quyền và nghĩa vụ của “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan” đến quan hệ tranh chấp. Phần quyền và lợi ích của người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến quan hệ tranh chấp nếu có tranh chấp sẽ được giải

quyết bằng vụ án khác theo tố tụng dân sự.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trong một số trường hợp cụ thể, có thể người

có quyền và nghĩa vụ liên quan không phải là một bên tham gia ký kết thỏa

thuận trọng tài, nhưng vẫn có thể bị ràng buộc bởi thỏa thuận trọng tài. Khi

đó, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài vẫn được xác lập dựa trên việc giải

thích ý chí các bên. Cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Một bên nộp đơn khởi kiện ra trọng tài và các

bên còn lại (mặc dù có phản đối về phần nội dung quan hệ pháp luật tranh

chấp) nhưng không thể hiện có phản đối việc khởi kiện ra trọng tài, thậm chí

vẫn tham gia tố tụng trọng tài. Như vậy, trường hợp này có thể xem như các

bên đã xác lập một thỏa thuận trọng tài mới sau khi tranh chấp phát sinh.

Thỏa thuận này cũng có thể xem như đã lập thành văn bản là đơn khởi kiện

của nguyên đơn, hoặc quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà

không có phản đối của các bên. (Trường hợp này đã quy định tại Điều 16

41

khoản 2 điểm đ Luật TTTM) như sau: “Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự

bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và

bên kia không phủ nhận”).

Trường hợp thứ hai: Mặc dù không phải bên trực tiếp ký vào hợp đồng,

nhưng vẫn có thể bị ràng buộc bởi thỏa thuận trọng tài, ví dụ: Đại lý thương

mại, công ty kế thừa theo pháp luật (legal succession), bên thứ ba thụ hưởng,

bên bảo lãnh v.v…

Chỉ trong trường hợp đã có cơ sở vững chắc để cho rằng Hội đồng trọng

tài phân xử cả phần quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan không có thỏa thuận trọng tài thì phần này của phán quyết vi phạm điểm

a khoản 2 Điều 68 Luật TTTM; (tức không có thỏa thuận trọng tài mà Hội

đồng trọng tài đã ra phán quyết đối với họ). Tòa án căn cứ vào điểm a khoản 2

Điều 68 Luật TTTM để hủy phần vi phạm này, chứ không căn cứ điểm đ

khoản 2 Điều 68 để hủy phần vi phạm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

Về vấn đề quyết định hủy phán quyết trọng tài có nên được giám đốc thẩm

hay không?

Có kiến nghị cho rằng, nên ban hành quy định về quyết định trọng tài có

thể kháng nghị hoặc bị kháng cao. Điều này dựa trên thực trạng là có nhiều

trường hợp Tòa án quyết định hủy PQTT nhưng lại không đưa ra được lý do

phù hợp hoặc đưa ra những lý do mặc dù không phù hợp nhưng do quy định

của luật pháp về trọng tài thương mại thì hội đồng trọng tài và các bên tranh

chấp không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.

Hậu quả không đảm bảo quyền và lợi ích các bên tham gia, thậm chí còn tạo

nên sự tùy tiện trong việc hủy PQTT của Tòa án. Theo chúng tôi, tới đây cần

chỉnh sửa quy định theo hướng cho phép giám đốc thẩm quyết định của Tòa

án để tránh trường hợp Tòa án tùy tiện hủy phán quyết của trọng tài. Trong

khi chưa sửa đổi quy định, giải pháp tình thế từ kinh nghiệm của nước ngoài

là: Khi được yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án tỉnh phải báo cáo lên

42

Tòa án tối cao và đề xuất hướng xử lý của mình để Tòa án tối cao thẩm định.

Tòa án tối cao trả lời thế nào thì Tòa án tỉnh giải quyết thế đó. Cách này có

thể hạn chế sự tùy tiện, không thống nhất của các Tòa án tỉnh.

Đề xuất việc bỏ quy định tại khoản 8 Điều 71 Luật TTTM, "Trường hợp

Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên có

thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc

một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án".

Thực trạng cho thấy, các bên không có thỏa thuận lại sau khi phán quyết

trọng tài bị hủy nên tranh chấp bắt buộc phải chuyển sang Tòa án xử lý. Tại nhiều

quốc gia, khi thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu thì nó vẫn tồn tại giữa các bên

tham gia tố tụng dù phán quyết trọng tài có bị Tòa án hủy và sau đó vụ tranh chấp

đó vẫn được tiếp tục cho trọng tài giải quyết bằng trình tự mới. Đây là hướng giải

quyết phù hợp, hạn chế việc một bên tham gia tố tụng lợi dụng để tìm cách hủy

PQTT, chuyển vụ việc sang Tòa án.

Thứ hai, một trong những căn cứ khác cũng thường được viện dẫn để

hủy phán quyết trọng tài đó là "...thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp

với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này".

Hội đồng trọng tài phải hoàn thiện nhiều thủ tục trong quá trình tiến

hành giải quyết tranh chấp nên việc mắc sai sót là khó tránh khỏi. Từ các

PQTT bị hủy gần đây nguyên nhân chỉ là những vấn đề liên quan đến thủ tục

tố tụng. [44, tr.72-73].

Nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP đã hướng dẫn chi tiết tại Điều 14 về căn

cứ này. Tòa án sẽ chỉ ra quyết định hủy PQTT khi xem xét thấy đó là những

vi phạm nghiêm trọng và phải hủy nếu phía Hội đồng trọng tài không thể

khắc phục được theo yêu cầu của Tòa án, Khoản 7 Điều 71 Luật TTTM quy

định. Tuy vậy, phải chờ tổng kết quá trình áp dụng mới biết được việc giới

hạn phạm vi này có giúp hạn chế tình trạng phán quyết trọng tài bị hủy hay

không. Ví dụ thực tiễn: Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT của Tòa án nhân

43

dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 12/06/2018 về yêu cầu hủy phán quyết

trọng tài với lý do: “Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài

căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”. Theo đó, Tòa án nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh đã không chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị Mai T về việc

hủy Phán quyết Trọng tài số 75/17 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung

tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập ngày 19/02/2018 tại Thành phố

Hồ Chí Minh (được in chi tiết trong Phụ lục 1 của Luận văn).

Thứ ba, đối với căn cứ hủy phán quyết trọng tài do “không có thỏa

thuận trọng tài” cũng gặp rất nhiều bất cập.

Không hề dễ dàng đối với việc làm rõ có hay không có thỏa thuận trọng

tài, pháp luật hiện hành lại không có quy định cụ thể khiến nhiều PQTT bị

hủy vì Tòa án kết luận “không có thỏa thuận trọng tài”.

Ví dụ thực tiễn: Quyết định số 02/2018/QĐ-KDTM của Tòa án nhân dân

thành phố Hà Nội ngày 25/01/2018 về hủy phán quyết trọng tài của Tòa án

nhân dân thành phố Hà Nội. Theo đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

chấp nhận yêu cầu hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 14/16

được lập ngày 13/7/2017 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế

Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ giấy nhận nợ do thỏa thuận

trọng tài không tuân thủ hình thức theo qui định tại Điều 16 Luật Trọng tài

thương mại Việt Nam (được in chi tiết trong Phụ lục 2 của Luận văn).

Thứ tư, về thủ tục hủy quyết định trọng tài.

Không chỉ ở những rắc rối trong các quy định về căn cứ hủy PQTT, thủ

tục hủy quyết định trọng tài cũng có những bất cập, quyết định hủy phán

quyết trọng tài là quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành, theo khoản 10

Điều 71. Theo đó, các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát

không có quyền kháng nghị, các bên HĐTT không có quyền hạn khiếu nại đối

với quyết định của Tòa án..Theo nội dung quy định này thì trường hợp quyết

định của Tòa án mặc dù chưa thỏa đáng hay vi phạm đi nữa cũng sẽ không có

phương án xử lý, đối với lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng tihf

44

điều này có thực sự phù hợp hay không? [44, tr.74].

Tiểu kết chương 2

1. Qua việc đánh giá, phân tích pháp luật về hủy phán quyết trọng tài ở

Việt Nam hiện nay có thể khẳng định, quy định về hủy phán quyết trọng tài

chứa đựng khá nhiều điểm chưa rõ ràng, chặt chẽ, có thể được hiểu theo nhiều

cách khác nhau, khiến cho việc áp dụng thực sự tùy tiện và hậu quả là dẫn đến

tình trạng phán quyết trọng tài bị hủy nhiều.

2. Các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều

68 Luật TTTM tuy không phải nhiều nhưng lại tương đối rộng và không rõ

ràng khiến cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài dễ dàng được chấp nhận khi

bên yêu cầu đưa ra được căn cứ hợp lý, phù hợp với trường hợp phán quyết bị

hủy theo quy định của pháp luật.

3. Khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài ở

Việt Nam hiện nay có thể khẳng định, việc số lượng phán quyết trọng tài bị

Tòa án tuyên hủy tăng khá nhiều khiến cho không chỉ cộng đồng doanh

nghiệp hoang mang mà ngay chính các Trọng tài viên cũng “đứng ngồi không

yên”. Vì thực trạng số lượng các phán quyết trọng tài bị hủy cao khiến nhiều

Trọng tài viên lo lắng việc “xử mà không biết phán quyết có bị hủy hay

không”. Đây là vấn đề cần xử lý, vì bản chất của Luật TTTM 2010 là tạo đà

cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát triển nhưng ngược

lại, số liệu các phán quyết trọng tài bị tuyên hủy thậm chí nhiều hơn so với

45

giai đoạn trước.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Phương hướng hoàn thiện

Thời buổi hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ

thống pháp luật nói chung, pháp luật về kinh tế nói riêng nhằm đảm bảo tối

ưu hiệu quả tương tác mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc. Bản chất của

Luật TTTM 2010 là ây dựng hàng lang pháp lý đồng bộ

nhằm giải quyết các kiện tụng, tranh chấp thương mại và các vấn đề

liên quan khác. Tuy nhiên, thực tế qua thời gian thi hành từ 2011 đến nay,

Luật TTTM 2010 cũng đã bộc lộ không ít những bất cập gây ảnh hưởng đến

hiệu quả hoạt động và uy tín của phương thức TTTM.

Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM 2010 chưa được thể hiện

rõ ràng, nhất quán.

Điều 1 Luật TTTM 2010 quy định về phạm vi điều chỉnh: “Luật này quy

định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình

thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài;

quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm

quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của

Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài” [36].

Có thể thấy, nội dung quy định trên gây ra hai quan điểm khác nhau về

phạm vi của Luật, tạo ra những khó khăn, vướng mắc khi xác định thẩm

quyền của Trọng tài:

Thứ nhất, Luật TTTM 2010 chỉ áp dụng đối với các quyết định của

Trọng tài trong nước.

46

Thứ hai, Luật TTTM 2010 cũng có thể được áp dụng cả đối với các

PQTT nước ngoài khi quyết định được tuyên tại Việt Nam hoặc địa điểm giải

quyết vụ tranh chấp là tại Việt Nam trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, các quy định về hòa giải, thỏa thuận trọng tài trong Luật

TTTM 2010 còn quá sơ sài.

Thực trạng cho thấy số vụ việc hòa giải thành công khá cao, tạo ảnh

hưởng tích cực trong hoạt động thương mại. Tuy vậy, hệ thống luật pháp quy

định về lĩnh vực hòa giải còn chưa hoàn thiện. Ở các trung tâm trọng tài hiện

nay phần lớn vẫn chưa có quy tắc hòa giải riêng. Vì vậy, việc hòa giải đơn

thuần dựa trên kinh nghiệm và kỹ năng của trọng tài viên, điều này khiến ý

nghĩa của hòa giải giảm sút và tỷ lệ hòa giải không cao. Chưa có quy định cụ

thể về nội dung của TTTT trong luật TTTM 2010. Thực trạng số liệu các

trường hợp hủy PQTT cho thấy, nhiều phán quyết bị hủy vì với nội dung

không rõ ràng.

Thứ ba, Luật TTTM 2010 có nhiều quy định về TTV nhưng lại chưa

có quy định về công nhận TTV.

Một số quy định về tiêu chuẩn đối với TTV chưa thật hợp lý và phù hợp

với thông lệ quốc tế

Thứ tư, Luật TTTM 2010 không quy định về thời hạn giải quyết vụ

tranh chấp từ khi HĐTT được thành lập đến khi ra PQTT

Luật TTTM 2010 quy định về thời gian bầu Chủ tịch HĐTT, thời gian

thành lập HĐTT, thời gian gửi bản báo cáo tự bảo vệ của bị đơn nhưng lại

không có quy định về thời gian giải quyết vụ tranh chấp từ khi hội đồng trọng

tài được thành lập đến khi ra phán quyết trọng tài. Luật TTTM 2010 quy định

về thời gian ra phán quyết trọng tài: Phán quyết trọng tài được ban hành tại

phiên họp hoặc chậm nhất 30 ngày từ ngày kết thúc phiên họp cuối. Bất cập

đạt ra là không có quy định cụ thể về số lượng phiên họp của mỗi vụ kiện, các

phiên họp có thời gian cách nhau thế nào và trong phiên họp và trong các

47

phiên thì hội đồng trọng tài có trách nhiệm công bố cho các bên nội dung để

cùng giải quyết như thế nào. Vì không có quy định cụ thể như vậy nên có

những vụ kiện kéo dài mặc dù các bên tham gia giải quyết tranh chấp thương

mại thường ưu tiên lựa chọn TTTM.

Thứ năm, Luật TTTM 2010 không quy định rõ ràng về biện pháp

khẩn cấp tạm thời

Đối với các bên tranh chấp, hội đồng trọng tài có thể áp dụng một hoặc

nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời, quy định tại Điều 49 Luật TTTM 2010.

Đó là: “Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số

hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá

trình tố tụng trọng tài”. Theo quy định trên thì những hành vi nào được coi là

cản trở quá trình tố tụng? Thực trạng cho thấy nhiều khó khăn khi xác định

những hành vi này, dưới nhều góc độ khác nhau, nó phụ thuộc vào cách đánh

giá chủ quan của mỗi cá nhân.

Thứ sáu, Luật TTTM 2010 không quy định rõ ràng về nội dung trong

kết quả giải quyết tranh chấp của Trọng tài.

Luật TTTM 2010 quy định "Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội

đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng

trọng tài" và một trong những nội dung của phán quyết trọng tài là: "Kết quả

giải quyết của tranh chấp".

Thực trạng có những vụ tranh chấp mà trong quyết định trọng tài chỉ ghi

“không chấp nhận yêu cầu kiện lại của bị đơn” và "không chấp nhận yêu cầu

khởi kiện của nguyên đơn” mà không quy định rõ ràng về nghĩa vụ, quyền

hạn của các bên ra sao. Phán quyết trọng tài như vậy, liệu có đảm bảo quy

định của pháp luật đã ban hành?

Luật TTTM 2010 quy định: "bên được thi hành phán quyết trọng tài có

quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành

phán quyết trọng tài". Mặc dù vậy, với phán quyết như đã phân tích ở trên thì

48

cơ quan thi hành án dân sự sẽ làm như thế nào? Một trong các bên tham gia

tranh chấp bắt buộc sẽ phải thực hiện thủ tục theo yêu cầu của Tòa án hủy

phán quyết trọng tài để bắt đầu khởi kiện lại tại Tòa theo thủ tục tố tụng dân

sự, với phán quyết trọng tài khó có thể thực thi như trên đã nêu. Để yêu cầu

Tòa án hủy phán quyết trọng tài thì cần phải chỉ ra căn cứ cho thấy phán

quyết đó thuộc các trường hợp hủy PQTT theo quy định ban hành tại Điều 68

Luật TTTM 2010.

Từ những phân tích trên và các kết quả nghiên cứu của Luận văn về thực

trạng áp dụng pháp luật về hủy phán quyết của trọng tài thương mại, đã cho

thấy kết quả hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thực tiễn

vừa qua cũng bắt nguồn chính từ các bất cập, khiếm khuyết trong các quy

định pháp luật về trình tự, thủ tục của trọng tài thương mại. Bởi vậy, việc

hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết của trọng tài thương mại cần được

thực hiện theo các hướng sau

Một là, hoàn thiện các quy định về tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho

tổ chức và hoạt đồng của trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian

tới theo hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế

Trong đó, có những vấn đề cấp bách cần phải thực hiện sớm từ: phạm vi

điều chỉnh; hòa giải; thỏa thuận trọng tài; thời hạn giải quyết tranh chấp; biện

pháp khẩn cấp tạm thời; nội dung kết quả giải quyết tranh chấp của trọng tài…

Hai là, hoàn thiện các quy định hủy quyết định trọng tài thương mại ở

Việt Nam hiện nay phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế

Cần khái quát chuẩn mực quốc tế về quy định hủy phán quyết trọng tài,

từ đó dẫn dắt tới phương hướng này.

Đặc biệt, cần xem xét lại quy định: “Phán quyết trọng tài trái với các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” ban hành tại Điểm Đ Khoản 2

Điều 68 Luật TTTM 2010 đã khiến cho thực trạng hủy phán quyết TTTM trở

49

nên khó xác định cụ thể.

3.2. Giải pháp hoàn thiện

3.2.1. Nhóm giải pháp tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho tổ chức và

hoạt đồng của trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới theo

hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế

Thứ nhất, Luật TTTM 2010 cần có quy định rõ về phạm vi điều chỉnh,

điều này sẽ tạo điều kiện tốt cho các chủ thể liên quan và các bên tham gia

tranh chấp xác định đúng về thẩm quyền của TTTM theo hướng thống nhất,

chấm dứt thực trạng có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền của TTTM

như hiện nay.

Thứ hai, trong thủ tục tố tụng, nên xem xét bổ sung quy định cụ thể. Chỉ khi

các bên hòa giải không thành công, Trọng tài đưa mới đưa vụ tranh chấp ra giải

quyết, nâng cao trách nhiệm của TTV. Vì quyền quyết định hòa giải phụ thuộc

hoàn toàn vào các bên nên quy định này cũng không làm mất quyền định đoạt, lựa

chọn của đương sự. Trọng tài vẫn có thể đưa vụ việc tranh chấp ra giải quyết khi

các bên hòa giải không thành công.

Thứ ba, trong luật TTTM cần bổ sung quy định về nội dụng TTTT. Thực

trạng cho thấy có rất nhiều TTTT bị vô hiệu, gây khó khăn cho các bên tranh

chấp không tìm được trọng tài để giải quyết tranh chấp. Luật TTTM 2010 cần

có quy định cụ thể về nội dung của TTTT để khắc phục tình trạng này, như:

Các quy định chung về quyền hạn, nghĩa vụ của TTTT, các quy định về chi

phí, lệ phí trọng tài, ngôn ngữ, quy phạm văn bản, quy tắc tố tụng, cam kết

thực hiện PQTT.

Thứ tư, quy định rõ về chức danh, trách nhiệm và nghĩa vụ khi công

nhận trọng tài viên, khung tiêu chuẩn trọng tài viên. Sự sơ sài, thiếu nhất quán

trong các căn cứ, quy định pháp lý về tiêu chuẩn trọng tài khiến nguồn nhân

sự trong lĩnh vực này khó phát triển mạnh, chất lượng các vụ giải quyết tranh

chấp chưa cao, chưa hiệu quả, gây lãng phí, mất thời gian cho các bên tham

gia và giảm uy tín của hệ thống ngành nghề TTTM Việt Nam với quốc tế.

50

Thứ năm, về thời gian tiến hành tố tụng trọng tài, cẩn bổ sung thêm quy

định. Do không quy định rõ về thời gian giải quyết tranh chấp nên thực trạng

nhiều vụ việc giải quyết tranh chấp trong thời gian bao nhiêu vẫn phụ thuộc

vào trọng tài. Mặc dù điều này đã quy định trong Luật TTTM 2010 nhưng

chưa cụ thể. Vì vậy, thời gian giải quyết tranh chấp từ khi hội đồng trọng tài

được thành lập đến khi ra phán quyết trọng tài cần quy định rõ.

Thứ sáu, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hội đồng trọng tài

thực hiện biện pháp khẩn cấp thạm thời mà không gây ảnh hưởng xấu đến

quyền lợi các bên, cần có quy định cụ thể về những hành vì nào thì được coi

là bất lợi đối với quá trình tố tụng trọng tài.

Thứ bảy, cần bổ sung các quy định pháp lý trong kết quả giải quyết tranh

chấp vào Luật TTTM 2010 nhằm tạo thuận lợi cho các bên thực hiện phán

quyết trọng tài, đẩy mạnh sự phát triển của các tổ chức trọng tài và phương

thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, giảm thiểu tình trạng

tùy tiện hủy hoặc không công nhận phán quyết trọng tài. Cần quy định rõ

nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia, thời gian thực hiện các nghĩa vụ,

quyền hạn đó trong kết quả giải quyết tranh chấp. Nâng cao ý thức thực thi

phán quyết trọng tài của các bên tham gia.

3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định hủy quyết định trọng tài

thương mại ở Việt Nam hiện nay phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế

Thứ nhất, nhằm loại bỏ thực trạng các bên tranh chấp lợi dụng tính

không minh bạch của các căn cứ hủy PQTT để đưa ra yêu cầu hủy PQTT

cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này.

Đối với “phán quyết trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt

Nam”, Nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP dù đã đưa ra phạm vi căn cứ là những

nguyên tắc liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của trọng tài nhưng thực

tế Tòa án vẫn thường viện dẫn căn cứ tại điểm đ khoản 2 Điều 68 để hủy phán

quyết trọng tài trong những trường hợp nào? Có khi nào Tòa án được xem xét

nội dung quan hệ tranh chấp để hủy phán quyết trọng tài? Đây là câu hỏi rất

51

khó, song từ những phân tích của Luận văn có thể đề xuất việc áp dụng như

sau:

Trường hợp thứ nhất: Phán quyết trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng

những nguyên tắc cơ bản, có tính phổ quát được quy định trong luật nội

dung, luật tố tụng, luật trọng tài dẫn đến phán quyết trọng tài không bảo đảm

sự công bằng, hợp lý.

Đây là trường hợp Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã đề cập, các bên đã thỏa

thuận giải quyết tranh chấp; thỏa thuận đó không trái pháp luật, không vi

phạm đạo đức, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, nhưng Hội đồng trọng tài

không chấp nhận. Hội đồng trọng tài đã vi phạm một nguyên tắc quan trọng của

tố tụng trọng tài. Chỉ trong trường hợp này mới coi là phán quyết trọng tài vi

phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt. Đây là nguyên tắc tồn

tại trong rất nhiều luật nội dung và luật hình thức, một nguyên tắc phổ quát.

Việc một số Hội đồng xét đơn của một vài Tòa án đã xem xét hợp đồng,

nếu thấy Hội đồng trọng tài xử không đúng thỏa thuận trong hợp đồng, thì

cho rằng Hội đồng trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa

thuận, định đoạt; phán quyết trọng tài đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của

pháp luật Việt Nam để hủy phán quyết là không đúng. Làm như vậy là Hội

đồng xét đơn đã xét xử lại nội dung quan hệ tranh chấp, vi phạm khoản 4

Điều 71 Luật TTTM.

Trường hợp thứ hai: Thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng hoặc quá

trình thực hiện hợp đồng xâm phạm lợi ích của người thứ ba (có thể là cá

nhân hoặc tổ chức…), hoặc trong biên bản hòa giải thành hai bên đã thỏa thuận

có nội dung xâm phạm lợi ích người thứ ba và người này không có liên quan gì

đến quan hệ tranh chấp của hai bên, nhưng phán quyết trọng tài đã quyết định

công nhận thỏa thuận đó, dẫn đến xâm phạm lợi ích của người thứ ba [36]

Người thứ ba được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các chủ thể khác

52

như đã phân tích ở trên. Song, trong phạm vi của điểm này, việc đề cập người

thứ ba chỉ nhằm mục đích phân biệt và làm rõ hơn người thứ ba không phải là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như trong tố tụng dân sự, hành chính,

trong các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế.

Người thứ ba là người không liên quan đến quan hệ tranh chấp, không

“làm ăn” với hai bên nhưng phán quyết trọng tài xâm phạm lợi ích của họ,

phán quyết trọng tài đã vi phạm công lý hiển nhiên; một phán quyết hết sức

vô lý, không thể hiểu và chấp nhận được. Trường hợp này sau khi xác minh,

thu thập chứng cứ, có đủ căn cứ thì Tòa án được áp dụng điểm đ khoản 2

Điều 68 để hủy phán quyết trọng tài.

Trường hợp thứ ba: Phán quyết trọng tài có thể giải quyết đúng hoặc

không đúng nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ hợp đồng nhưng quan hệ hợp

đồng đó chứa đựng nội dung xâm phạm đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục.

Ví dụ trong một hợp đồng kinh tế, hai bên ký kết có nội dung bên vi phạm

hợp đồng phải giao vợ mình cho bên kia trong một khoảng thời gian nhất

định, hoặc phải biểu diễn khỏa thân… (thỏa thuận này có thể được người vợ

đồng ý) hoặc nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, đó là quyền

và nghĩa vụ của hai bên hàm chứa sự xâm phạm trật tự công, lợi ích công, lợi

ích xã hội. Ví dụ, hai bên thỏa thuận bên không thực hiện đúng hợp đồng phải

giao cho bên kia một quả thận của mình dưới dạng hiến tạng; hoặc hợp đồng

mua bán ma túy, buôn lậu hay bản chất của giao dịch, hợp đồng là để rửa tiền;

hợp đồng dịch vụ nhưng bản chất đó là hợp đồng “chạy án”, hoặc hợp đồng

nhằm thâu tóm, độc quyền, lũng đoạn thị trường, lũng đoạn nền kinh tế.v.v…;

nhưng Hội đồng trọng tài đã căn cứ vào các nội dung hợp đồng để ra phán

quyết công nhận các giao kết, các hợp đồng đó là hợp pháp và giải quyết

quyền, nghĩa vụ của hai bên theo hợp đồng. Phán quyết này vi phạm nguyên

tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, vi phạm điều cấm của pháp luật,

53

vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là: “Trọng tài viên

phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều

cấm và trái đạo đức xã hội”.…

Trường hợp thứ tư: Thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng xâm phạm đến

độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, hoặc thỏa thuận của hai bên

trong hợp đồng nếu được công nhận sẽ ủng hộ về tài chính cho các tổ chức

chống lại dân tộc, chống lại nhà nước Việt Nam, hoặc ủng hộ các cá nhân, tổ

chức khủng bố nhưng phán quyết trọng tài vẫn công nhận hợp đồng đó.

Ví dụ: Liên hiệp quốc đã có lệnh cấm buôn bán với tổ chức khủng bố đó,

nhưng hai bên vẫn ký kết các hợp đồng thương mại, hợp đồng buôn bán vũ

khí… Hội đồng trọng tài khi xét xử đã công nhận tính hợp pháp của các hợp

đồng đó, buộc các bên phải thực hiện hợp đồng.v.v… thì các phán quyết trọng

tài đó được coi là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Dù trường hợp thứ tư vừa nêu trên có thể xuất hiện trong phán quyết của

Trọng tài nước ngoài, còn đối với trọng tài Việt Nam, nó chỉ có ý nghĩa về

mặt lý thuyết, thực tiễn khó có thể xảy ra đối với phán quyết trọng tài Việt

Nam, giải quyết theo luật trọng tài Việt Nam nhưng cũng là một khả năng cần

đề cập.

Trường hợp thứ năm: Là phán quyết trọng tài nếu được thi hành sẽ gây

tổn thương mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam với nước khác, không tôn

trọng các nghĩa vụ, cam kết quốc tế…

Như vậy, các trường hợp từ thứ hai đến thứ năm trong điểm này là

những trường hợp mà Tòa án không chỉ xem xét về mặt tố tụng, mà còn có

thể được xem xét về nội dung quan hệ tranh chấp, xác minh, thu thập tài liệu,

chứng cứ để làm rõ nếu thấy nội dung của phán quyết xâm phạm đến lợi ích

của các chủ thể đó thì có quyền áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM

54

hủy một phần hoặc toàn bộ phán quyết trọng tài.

Trong các trường hợp nói trên cũng không áp dụng quy định tại Điều 13

Luật TTTM về mất quyền phản đối đối với phần phán quyết xâm phạm lợi ích

của các chủ thể khác, xâm phạm trật tự công, đạo đức xã hội….

Thứ hai, áp dụng các căn cứ hủy phán quyết trọng tài phải gắn với

việc áp dụng quy định tại Điều 13, khoản 4 Điều 63, khoản 7 Điều 71 Luật

TTTM

Khi áp dụng các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại

khoản 2 Điều 68 Luật TTTM thì phải hiểu sâu sắc rằng, tố tụng trọng tài có

rất nhiều điểm khác biệt với tố tụng dân sự tại Tòa án. Nếu không nắm vững

tính đặc thù đó rất dễ xét xử lại vụ tranh chấp, hoặc Hội đồng trọng tài có vi

phạm Luật TTTM, vi phạm thỏa thuận trọng tài… nhưng thuộc trường hợp vi

phạm đó không còn là căn cứ để hủy, không được hủy phán quyết. Ví dụ như

việc đã mất quyền phản đối được quy định tại Điều 13 Luật TTTM.

Trong tố tụng dân sự, Thẩm phán hay Hội đồng xét xử vi phạm thủ tục

tố tụng, có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật, dù đương sự có

phản đối hay không có phản đối, khi vi phạm đó là nghiêm trọng thì phán

quyết đó sẽ bị hủy. Nhưng đối với tố tụng trọng tài, nếu trong quá trình giải

quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có vi phạm quy định của Luật TTTM

hoặc thỏa thuận trọng tài một hoặc các bên đều biết, đều phát hiện vi phạm

đó, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội

đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do Luật

TTTM quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với

những vi phạm đã biết đó. Thời hạn được xác định theo quy tắc tố tụng trọng

tài hoặc thỏa thuận của các bên trong trường hợp Luật TTTM không quy

định. Việc phản đối phải được thực hiện trước khi HĐTT tuyên phán quyết

trong trường hợp quy tắc tố tụng trọng tài không quy định hoặc các bên không

55

thỏa thuận.

Như vậy, dù quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có vi

phạm Luật TTTM, vi phạm thỏa thuận trọng tài, nhưng một trong các bên

phát hiện vi phạm mà không phản đối trong thời hạn được quyền phản đối

những vi phạm đó, phải được coi là các bên đã chấp nhận trên thực tế về thẩm

quyền của Hội đồng trọng tài về các hoạt động, cách làm đó của trọng tài.

Một khi được coi là các bên đã chấp nhận hoạt động đó của trọng tài thì

không còn được coi hoạt động đó là vi phạm. Nói khác đi, hoạt động đó của

trọng tài được coi là hợp pháp, có giá trị pháp lý. Sở dĩ trong tố tụng, trong

hoạt động trọng tài điều đó được thừa nhận khi đương sự không thực hiện

quyền phản đối là vì tố tụng trọng tài hết sức mềm dẻo, linh hoạt.

Trong nhiều trường hợp, tố tụng trọng tài là do đương sự lựa chọn, hoặc

do các bên thỏa thuận. Mối quan hệ giữa Hội đồng trọng tài và các bên trong

tranh chấp (quyền và nghĩa vụ của Hội đồng trọng tài và các bên, trong một

vụ việc cụ thể có thể là mối quan hệ hợp đồng. Do đó, các bên có thể tự do

thỏa thuận bằng văn bản (thỏa thuận trọng tài, quy tắc trọng tài hay thỏa thuận

riêng của các bên...) hoặc bằng hành vi cụ thể (biết nhưng im lặng và không

phản đối) đối với tất cả các quyền và nghĩa vụ đó trong giới hạn pháp luật áp

dụng cho phép.

Do đó, biết vi phạm mà không phản đối trong thời hạn thì được coi là

các bên đã lựa chọn, đã đồng ý về thành phần, về tố tụng, về thẩm quyền…

trọng tài. Nó khác hẳn với tố tụng dân sự là tố tụng luật định. Về xử lý sai sót

của phán quyết, giữa tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài cũng rất khác nhau.

Trong tố tụng dân sự, nếu Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã công bố, đã phát

hành phán quyết, dù Thẩm phán, Hội đồng xét xử tự phát hiện ra sai sót hoặc

thông qua khiếu nại, kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát

thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử không tự mình sửa chữa sai sót đó, trừ

56

trường hợp sai sót về lỗi chính tả, tính nhầm. Tùy theo phán quyết đó đã có hiệu

lực pháp luật hay chưa có hiệu lực pháp luật, việc sửa chữa sai sót đó sẽ do Tòa

án ở cấp cao hơn thực hiện theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

Trong tố tụng trọng tài, phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực

kể từ ngày ban hành, không có trình tự xét xử phúc thẩm và không có trình tự

giám đốc thẩm. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 63 Luật TTTM thì quy định:

“Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác, trong thời hạn 30 ngày, kể từ

ngày nhận được phán quyết, một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra

phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố

tụng nhưng không được ghi trong phán quyết và phải thông báo ngay cho bên

kia biết. Nếu Hội đồng trọng tài cho rằng yêu cầu này là chính đáng thì ra phán

quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu” [36].

Thậm chí, khi Tòa đã thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của đương

sự nhưng theo quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM thì: “Theo yêu cầu

của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình

chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời

hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai

sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn

cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án

biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài không

tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy

phán quyết trọng tài” [36].

Có thể thấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt Luật TTTM là ý chí của các bên có

vai trò rất lớn trong hoạt động của trọng tài; các bên đương sự là người kiến

tạo nên thẩm quyền trọng tài (Điều 5), các bên có quyền quyết định chọn địa

điểm giải quyết tranh chấp (Điều 11); đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài

luật áp dụng cũng do các bên lựa chọn (Điều 14), thành phần Hội đồng trọng

tài (Điều 39), hình thức trọng tài (khoản 5 Điều 43), thành phần phiên họp,

57

trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp đối với trọng tài vụ việc cũng do các bên

thỏa thuận (Điều 55).v.v… Điều này cho thấy trong tố tụng trọng tài, ý chí

của các bên tranh chấp có vai trò chi phối, vai trò quyết định rất lớn. Do đó,

khi một trong các bên phát hiện vi phạm của trọng tài mà không phản đối,

được coi là các bên đã lựa chọn hoạt động đó. Mặt khác, mất quyền phản đối

còn có ý nghĩa ngăn chặn sự lợi dụng kéo dài vụ kiện, đồng thời còn đảm bảo

nguyên tắc thiện chí trong giải quyết tranh chấp. Đặc biệt, trong trường hợp

một bên đã biết có vi phạm nhưng không phản đối, chỉ đến khi bị thua kiện tại

trọng tài, không muốn bị ràng buộc bởi phán quyết trọng tài mới đưa ra căn

cứ đó tại Tòa án.

Vì vậy, điều rất đáng lưu ý đối với các Thẩm phán, các Tòa án là trước

khi xem xét yêu cầu của một hoặc các bên về việc có vi phạm quy định Luật

TTTM hoặc thỏa thuận trọng tài, Tòa án phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ,

quy tắc tố tụng trọng tài để xác định đối với yêu cầu đó, một hoặc các bên có

mất quyền phản đối hay không mất quyền phản đối.

Trường hợp quy định tại Điều 13 Luật TTTM, Tòa án xác định vi phạm

đã mất quyền phản đối thì bên đã mất quyền phản đối đó sẽ không được

quyền khiếu nại quyết định của HĐTT hay yêu cầu hủy PQTT đối với những

vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Tòa án không được căn cứ vào các vi

phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để chấp nhận yêu cầu hủy

phán quyết trọng tài của bên yêu cầu.

Tuy nhiên, mất quyền phản đối chỉ áp dụng cho các bên đương sự trong

vụ kiện chứ không thể áp dụng cho những trường hợp phán quyết trọng tài

xâm phạm lợi ích của nhà nước, của dân tộc, lợi ích quốc gia, lợi ích công,

trật tự công… Do đó, khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án

có trách nhiệm xem xét theo quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3

Điều 68 Luật TTTM. Trường hợp xét thấy có đủ căn cứ để khẳng định phán

58

quyết trọng tài đã xâm phạm lợi ích công, trật tự công, lợi ích của nhà nước

và đạo đức xã hội… thì Tòa án có quyền quyết định hủy phán quyết trọng tài

ngay cả khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối.

3.2.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện các giải pháp tổ chức về hủy quyết

định trọng tài mà trước hết nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và

đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Trọng tài viên.

- Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp

của Thẩm phán và Trọng tài viên

Về phía Thẩm phán và Tòa án nhân dân

Thứ nhất, để tránh xảy ra các vụ việc hủy phán quyết hoặc thụ lý sai một

cách đáng tiếc, các Thẩm phán nắm rõ, hiểu đúng các quy định về trọng tài.

Cần học hỏi, cập nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp

chuyên môn tránh những khó khăn khi xem xét đơn hủy PQTT, tránh những

sai lầm khi đưa ra quyết định không đúng. Việc tập huấn, bổ sung kiến thức,

kinh nghiệm và kỹ năng giúp các Thẩm phán hiểu đúng, nắm rõ các quy định

pháp luật là vấn đề cốt yếu, quan trọng. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt

Nam cần có sự phối hợp với Tòa án Nhân dân nhằm tổ chức thường xuyên

các cuộc tập huấn.

Thứ hai, khi đưa ra quyết định hủy phán quyết trọng tài một cách không

chính xác, cần nhận thức và hiểu rõ được hậu quả tệ hại, tiêu cực của quyết

định đó.

Điều này không chỉ đơn thuần là gây thiệt hại cho các bên tranh chấp mà

nó còn ảnh hưởng xấu đến uy tín, kéo theo sự thụt lùi của nền trọng tài nước

nhà. Không dễ dàng để thu hút được đầu tư nước ngoài vào trong nước, trong

khi đó, các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài thường có xu hướng lựa chọn

trọng tài thương mại nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh. Việc đưa ra

quyết định hủy PQTT một cách tùy tiện, thiếu chính xác sẽ làm mất niềm tin

của các bên tham gia tố tụng, dễ thấy nhất là việc bên tham gia là doanh

59

nghiệp nước ngoài sẽ chọn trọng tài nước ngoài để giải quyết, bên tham gia

còn lại nếu là doanh nghiệp Việt Nam thì chỉ việc đi lại, giao dịch ở nước

ngoài thôi cũng đã gây ra phiền phức, thiệt hại lớn.

Thứ ba, cần gắn trách nhiệm cá nhân đối với các chức danh giữ vị trí

càng quan trọng, chủ chốt thì trách nhiệm phải càng cao, đặc biệt là đối với

các vị trí đứng đầu Tòa án, Thẩm phán.

Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh

đối với các cá nhân, tập thể sai phạm, đảm bảo tính răn đe, kỷ cương, thượng

tôn pháp luật ngay từ cán bộ ngành luật.

Về phía Trọng tài viên và Trung tâm trọng tài

Năng lực nghề nghiệp của Hội đồng trọng tài quyết định rất lớn đến việc

phán quyết trọng tài sẽ được thực thi hay bị hủy, làm Trọng tài viên cần nhận

thức sâu sắc điều này. Bên thua kiện sẽ khó có thể tìm ra căn cứ yêu cầu hủy

phán quyết trọng tài nếu hội đồng trọng tài làm việc chuyên nghiệp, thực hiện

đúng quyền hạn của mình, đúng quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng.

Tuy nhiên, từ thực tế các vụ việc gần đây cho thấy, nhiều phán quyết trọng tài bị

hủy chỉ vì trọng tài viên mắc những sai phạm không đáng có trong khi tiến hành

tố tụng. Để khắc phục những sai phạm đó, các Trọng tài viên cần phải:

Thứ nhất, tự trau dồi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của

mình, đặc biệt là nắm vững không chỉ các quy định của pháp luật nội dung

mà cả những trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng khi giải quyết những tranh

chấp đó. Nếu đưa ra một phán quyết không chính xác, bị Tòa án hủy PQTT

thì không chỉ uy tín cá nhân Trọng tài viên bị ảnh hưởng mà còn làm xấu đi

hình ảnh và sự phát triển chung của nền trọng tài nước nhà.

Thứ hai, các trung tâm Trọng tài cần thường xuyên mở các lớp đào tạo

kĩ năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và đưa ra những chương trình

đào tạo vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính khuyến khích các Trọng tài

60

viên theo học. Bên cạnh đó, ở lĩnh vực đào tạo, các trung tâm trọng tài cần có

những Trọng tài viên tên tuổi, kinh nghiệm hoạt động lâu năm hoặc những

chuyên gia nước ngoài giảng dạy sẽ đạt được hiệu quả cao hơn. Việc đào tạo

để nâng cao trình độ chuyên môn và gây dựng hệ thống Trọng tài viên chuyên

nghiệp là nhân tố lớn cho sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài.

Thứ ba, cải thiện chất lượng nhân sự, tuyển dụng đội ngũ Trọng tài viên

thành thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Trong quá trình hội nhập hiện

nay, số lượng các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đầu tư vào nước ta ngày

càng tăng. Do vậy, đối với những tranh chấp của doanh nghiệp nước ngoài,

khi tiến hành thủ tục giải quyết tranh chấp họ có xu hướng lựa chọn ngôn ngữ

tiến hành tố tụng là tiếng Anh. Nếu các Trọng tài viên thành thạo ngoại ngữ,

nhất là tiếng Anh, sẽ tránh những sai sót do hạn chế về ngôn ngữ, nâng cao

hiệu quả công việc.

Thứ tư, tăng cường tuyển dụng Trọng tài viên nước ngoài, góp phần

nâng cao uy tín và chất lượng xét xử, đặc biệt là các vụ tranh chấp có sự tham

gia của doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài.

Thứ năm, chủ động phối kết hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền như Tòa án, các cơ quan thi hành nhằm bảo đảm phán quyết của trọng

tài được thi hành đúng quy định.

Thứ sáu, thực hiện tốt các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp của trọng tài

viên; đó là trung thực, bảo mật, độc lập và minh bạch.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp phải tuân thủ các quy định của

pháp luật, minh bạch về thông tin, tuyệt đối không được phép nhận hối lộ

hoặc lợi dụng quyền hạn làm sai lệch kết quả vụ việc. Các trung tâm trọng tài

cần thành lập ban giám sát, kiểm tra và xử lí nghiêm minh đối với những

Trọng tài viên lợi dụng chức quyền mưu lợi cho bản thân, vi phạm đạo đức

61

nghề nghiệp.

- Nâng cao vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của trọng tài

Phương pháp tố tụng trọng tài có tính linh hoạt và tạo hiệu quả cao.

Những ưu điểm vốn có của tố tụng trọng tài như linh hoạt, nhanh gọn, bảo

mật sẽ mất đi nếu Tòa án áp dụng các quy định của tố tụng dân sự để can

thiệp và quyết định các vấn đề thuộc quyền hạn của trọng tài, trong đó có việc

hủy PQTT.

Các cơ quan Tòa án cần tăng cường sự ủng hộ với hệ thống trọng tài,

giảm thiểu việc hủy phán quyết trọng tài trừ khi rõ ràng có vi phạm được quy

định cụ thể trong Luật TTTM. Cả quá trình làm việc của trọng tài có thể mất

trở nên vô nghĩa nếu như phán quyết bị hủy tại Tòa án vì những lý do không

được quy định cụ thể trong Luật TTTM. Tại các nước mà hệ thống TTTM

phát triển như Anh hay Singapore cho thấy; Cơ quan Tòa án chỉ hủy phán

quyết trọng tài hoặc can thiệp vào tố tụng trong những trường hợp đặc biệt, ví

dụ; phát hiện vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng, thiên vị hoặc vi phạm

những nguyên tắc căn bản của xã hội... Thực tế tại Việt Nam cho thấy, cơ

quan Tòa án chưa có quan điểm thống nhất nhằm ủng hộ hoạt động trọng tài.

“Không tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” được coi là

một trong những lý do rất chung chung khiến nhiều trường hợp phán quyết bị

hủy mà không nêu chi tiết, cụ thể đó là nguyên tắc nào. Tòa án chỉ nên hủy

phán quyết trọng tài khi có sai lầm trong việc thực thi luật nội dung hoặc vi

phạm thủ tục tố tụng làm sai lệch bản chất vụ việc. Về bản chất, nội hàm Luật

TTTM tiến bộ và phát triển phù hợp theo thông lệ quốc tế trong nội dung liên

quan đến các quy định về trọng tài và hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên,

vẫn còn những điểm bất cập, thiếu sót trong khi áp dụng luật đòi hỏi các nhà

làm luật cần có kỹ năng chuyên nghiệp đảm bảo tính khả thi, tránh những sai

phạm không đáng có. Vì vậy, một trong những mục tiêu cấp thiết là nâng cao

62

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của hội đồng trọng tài.

Tiểu kết chương 3

Qua sử dụng các kết quả nghiên cứu tại Chương 2 luận văn đã đề xuất

các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy quyết định trọng tài

thương mại, cụ thể

Một là, hoàn thiện các quy định về tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho tổ

chức và hoạt đồng của trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới

theo hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế

Hai là, hoàn thiện các quy định hủy quyết định trọng tài thương mại ở

Việt Nam hiện nay phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế

Thứ ba, hoàn thiện các giải pháp tổ chức về hủy quyết định trọng tài mà

trước hết nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp

63

của Thẩm phán và Trọng tài viên.

KẾT LUẬN

1. Việt Nam là quốc gia chịu sự ảnh hưởng của Civil Law, nhưng pháp

luật về Trọng tài cũng có lịch sử phát triển riêng của nó. Vì vậy, dù có những

tương đồng, vẫn không thể áp dụng tất cả nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng Dân

sự hiện hành đối với hoạt động của Trọng tài. Do đó, vẫn cần có pháp luật

Trọng tài thương mại bên cạnh Bộ luật Tố tụng Dân sự với những điểm chung

trong thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tài phán

kinh tế nhưng cũng phải thể hiện những nét riêng trong hoạt động của Trọng

tài với tính chất tài phán phi chính phủ để phân biệt với tài phán nhà nước.

2. Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan niệm trọng tài là mô hình

giải quyết tranh chấp quan trọng có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính

nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm…

Trọng tài hoạt động một cách độc lập, với tính chất phi chính phủ, không có

bất kỳ một tổ chức, cơ quan hay cá nhân nào có quyền can thiệp vào hoạt

động giải quyết tranh chấp của Trọng tài nếu không có yêu cầu từ phía các

bên tranh chấp.

3. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ

tiện của Trọng tài viên, pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải

quyết bởi Trọng tài, nếu một bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Toà án

nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định để yêu cầu được huỷ quyết định đó. Vì

không phải cấp xét xử thứ hai của Trọng tài nên khi giải quyết Tòa án sẽ

không xét xử lại vụ việc tố tụng và cũng không có quyền hạn để kết luận sai

hay đúng về PQTT đối với các vấn đề nhằm xác định nghĩa vụ, quyền hạn của

các bên tham gia tranh chấp. Tòa án chỉ có quyền xem xét căn cứ để giữ

nguyên hoặc hủy bỏ PQTT. Các bên tham gia tố tụng có quyền khởi kiện tài

Tòa án khi PQTT bị hủy, điều này đồng nghĩa với việc tranh chấp chưa được

64

giải quyết.

4. Trong bối cảnh pháp luật Việt Nam lại không tồn tại bất cứ cơ chế

giám sát đối với hoạt động hủy PQTT của Tòa án, sự tùy tiện khi ban hành

các quyết định hủy PQTT của Tòa án là không thể tránh khỏi. Hiện tượng này

khiến các Trọng tài viên rơi vào tình trạng “không biết phán quyết của mình

sẽ bị hủy như thế nào”. Việc Tòa án tuyên hủy PQTT trong nước còn khiến

hoạt động trọng tài giảm uy tín và hiệu quả, ảnh hưởng chung đến môi trường

đầu tư, kinh doanh bị giảm sút.

5. Qua việc đánh giá, phân tích pháp luật về hủy phán quyết trọng tài ở

Việt Nam hiện nay có thể khẳng định, quy định về hủy phán quyết trọng tài

chứa đựng khá nhiều điểm chưa rõ ràng, chặt chẽ, có thể được hiểu theo nhiều

cách khác nhau, khiến cho việc áp dụng thực sự tùy tiện và hậu quả là dẫn đến

tình trạng phán quyết trọng tài bị hủy nhiều.

6. Các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều

68 Luật TTTM tuy không phải nhiều nhưng lại tương đối rộng và không rõ

ràng khiến cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài dễ dàng được chấp nhận khi

bên yêu cầu đưa ra được căn cứ hợp lý, phù hợp với trường hợp phán quyết bị

hủy theo quy định của pháp luật.

7. Khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài ở

Việt Nam hiện nay có thể khẳng định, việc số lượng phán quyết trọng tài bị

Tòa án tuyên hủy tăng khá nhiều khiến cho không chỉ cộng đồng doanh

nghiệp hoang mang mà ngay chính các Trọng tài viên cũng “đứng ngồi không

yên”. Do thực trạng số lượng phán quyết trọng tài bị hủy cao, khiến các Trọng

tài viên lo lắng việc “xử mà không biết phán quyết có bị hủy hay không”. Vấn

đề này cần được sớm khắc phục, bản chất của Luật TTTM 2010 là để tạo đà

cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát triển. Tuy nhiên, số

phán quyết trọng tài bị tuyên hủy còn nhiều hơn so với giai đoạn trước.

8. Qua sử dụng các kết quả nghiên cứu tại Chương 2 luận văn đã đề xuất

65

các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy quyết định trọng tài

thương mại, cụ thể:

Một là, hoàn thiện các quy định về tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho tổ

chức và hoạt đồng của trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới

theo hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế

Hai là, hoàn thiện các quy định hủy quyết định trọng tài thương mại ở

Việt Nam hiện nay phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế

Thứ ba, hoàn thiện các giải pháp tổ chức về hủy quyết định trọng tài mà

trước hết nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp

66

của Thẩm phán và Trọng tài viên.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thông Anh (2006), Mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài thương

mại trong quá trình tố tụng trọng tài – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Alan Redfern và Martin Hunter, Trọng tài quốc tế, Ấn bản lần thứ 6, Trung

tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) với sự

hỗ trợ của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) , "Redfern & Hunter -

Trọng tài Quốc tế" (Dịch từ nguyên bản tiếng Anh "Redfern & Hunter -

International Arbitration"), Chương 11.

3. Dương Văn Ân (2000), Giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước

ngoài tại Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia.

4. Chính phủ (1994), Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và

hoạt động của Trọng tài kinh tế.

5. Chính phủ (2011), Nghị định số 63/NĐ-CP ngày 28/7/2011 quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại.

6. Công ước New York năm 1958.

7. Vũ Ánh Dương (2003), Vai trò của Tòa án trọng hoạt động giải quyết

tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam, Luật văn thạc sĩ Luật

học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.

8. Đỗ Văn Đại (2007), Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở

Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6.

9. Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài

thương mại, NXB Chính trị Quốc gia.

10. Đỗ Văn Đại – Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp quốc tế Việt Nam, NXB

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải (2010), Tuyển tập các bản án, quyết định

67

của Tòa án Việt Nam về Trọng tài thương mại, NXB Lao động.

12. Dương Văn Hậu (1999), Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình

đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia.

13. Nguyễn Am Hiểu (1997), Một số đặc điểm của pháp luật trọng tài phi

chính phủ ở Việt Nam hiện nay, Tạp chi Nhà nước và Pháp luật.

14. Trần Thu Hoài – Trương Hồng Quang (2012), Hỏi – đáp về Luật Trọng

tài thương mại năm 2010, NXB Chính trị Quốc gia.

15. Dương Đăng Huệ (2003), Một điển hình của việc xây dựng pháp luật

theo hướng hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6.

16. Dương Đăng Huệ (1999), Những nguyên nhân làm hạn chế tác dụng của

trọng tài kinh tế và những giải pháp khắc phục, Tạp chi Nhà nước và

Pháp luật.

17. Dương Đăng Huệ (1999), Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam -

thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó,

Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý.

18. Nguyễn Ngọc Lâm (2014), Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại

quốc tế: Nhận dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp

giải quyết, NXB Hồng Đức.

19. Nguyễn Ngọc Lâm – Lê Trường Sơn (2013), Tuyển tập một số Điều ước

quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Tòa án, Trọng

tài và công nhận, thi hành bản án của Tòa án, Trọng tài nước ngoài,

NXB Hồng Đức.

20. Hoàng Thê Liên (1993), Hợp đồng kinh tế và vấn đề giải quyết tranh

chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Đặng Thị Bích Liễu (1998), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con

đường trọng tài, NXB Chính trị Quốc gia.

22. Tưởng Duy Lượng (2015), Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án

và việc phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Trọng tài và Tòa

68

án theo quy định của Luật Trọng tài thương mại và Nghị quyết của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16.

23. Nguyễn Thị Hằng Nga (2006), Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

thương mại bằng trọng tài và những lưu ý trong hoạt động thụ lý các

tranh chấp có thỏa thuận trọng tài, Tạp chí Luật học số 7.

24. Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh

chấp tại Tòa án, Trọng tài cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền dân sự, NXB

Lao động.

25. Bùi Thành Trung (2014), Xác định thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài

trong quá trình thụ lý vụ án dân sự giải quyết tranh chấp về kinh doanh,

thương mại tại Tòa án và một số kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Luật học

số 12.

26. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương (2013), Chủ

đề Trọng tài thương mại và Pháp luật về Trọng tài thương mại.

27. Hội đồng nhà nước (1990), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế.

28. Hội đồng nhà nước (1990), Pháp lệnh Trọng tài kinh tế.

29. Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương

mại quốc tế.

30. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự.

31. Quốc Hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự.

32. Quốc hội (2013), Hiến pháp.

33. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp.

34. Quốc hội (1997), Luật Thương mại.

35. Quốc hội (2005), Luật Thương mại.

36. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại.

37. Quốc hội (1995), Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết

định của Trọng tài nước ngoài.

38. Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.

69

39. Hoàng Ngọc Thiết (2002), Tranh chấp từ hoạt động xuất nhập khẩu - án

lệ trọng tài và kinh nghiệm, NXB Chính trị Quốc gia.

40. Thủ tướng Chính phủ (1993), Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 về

ban hành bản Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

41. Thủ tướng Chính phủ (1996), Quyết định số 114/TTg ngày 16/02/1996

về mở rộng thẩm quyền của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

42. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày

31/7/2003 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

43. Thủ tướng Chính phủ (1960), Nghị định số 20/TTg ngày 14/01/1960 về

Trọng tài kinh tế nhà nước.

44. Vũ Thị Hồng Vân (2016), Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các

quy định về hủy phán quyết trọng tài Thương mại và một số giải pháp khắc

phục, Tạp chí Nghề luật, số tháng 5/2016.

45. VIAC phối hợp với KCAB và Seoul IDRC (2017), Kỷ yếu Hội thảo về "Sử

dụng hiệu quả trọng tài thương mại tại Việt Nam, Hàn Quốc"

46. http://bttp.moj.gov.vn/qt/Pages/trong-tai-tm.aspx.

47. http://bttp.moj.gov.vn/qt/Pages/trong-tai-

tm.aspx?Keyword=&Field=&&Page=1.

48. https://lawnet.thukyluat.vn/posts/t2107-thuc-trang-huy-phan-quyet-cua-

trong-tai-thuong-mai-hien-nay.

49. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2018-06-07/so-vu-giai-

70

quyet-qua-trong-tai-van-chua-tao-duoc-nhieu-ky-vong-58411.aspx.

PHỤ LỤC 1

BỔ SUNG VỤ VIỆC

PHỤ LỤC 2 BỔ SUNG VỤ VIỆC