VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,

QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,

QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế

Mã: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGÔ THỊ HƯỜNG

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số

liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng;

những phát hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên cứu của chính tác

giả Luận văn.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1. THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN .......... 6 1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự ......................... 6 1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân ............................. 13 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án .................................. 16

Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHẦN NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰTHÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................... 23 2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ....................................................................................... 23 2.2. Thực tiễn thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội .................................................................................. 28 2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân ...................... 46

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH PHẦN NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................................... 53 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thi hành phần NVDS trong Bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân ..................................................................................................... 53 3.2. Giải pháp cụ thể .................................................................................. 55

KẾT LUẬN ................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 69

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Kí hiệu Diễn giải

CNH-HDH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CHV Chấp hành viên

NVDS Nghĩa vụ dân sự

TAND Tòa án nhân dân

THADS Thi hành án dân sự

TP Thành phố

UBND Uỷ ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và

quyết định hình sự trên địa bàn Hà Nội (về số việc) ............................. 28

Bảng 2.3: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và

quyết định hình sự (về số việc) .............................................................. 29

Bảng 2.4: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và

quyết định hình sự (về tiền) ................................................................... 30

Bảng 2.5: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền ở nước ta giai đoạn ....... 30

2016-2018............................................................................................... 30

Bảng 2.6: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản ở nước ta giai

đoạn 2016-2018 ...................................................................................... 32

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án

nhân dân mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã

có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi

hành các hình như phạt tiền, tịch thu tài sản và thi hành các phần quyết định

dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Đó cũng chính là việc

tước bỏ một phần hay toàn bộ tài sản của người bị kết án để sung quỹ Nhà

nước hoặc để thu hồi, khắc phục những hậu quả về vật chất mà người phạm

tội đã gây ra; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, công dân góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình

giải quyết một vụ án, thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình

sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố,

xét xử. Nếu mục đích của thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự không đạt được thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng: điều

tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa.

Thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của

Tòa án từ thực tiến TP. Hà Nội đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa

đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình

hình mới. Do vậy việc nghiên cứu đề tài: "Thi hành nghĩa vụ dân sự trong

các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân từ thực tiễn thành phố

Hà Nội" để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn

và góp phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các qui định thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự.

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến nay các nhà luật học đã có tương đối nhiều công trình nghiên

cứu, bài viết về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự trên

các tài liệu như sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí kiểm sát,

Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học...). Tuy nhiên các công trình,

bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào việc nghiên

cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn.

Trong các giáo trình giảng dạy cũng chỉ đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản.

Tác giả của luận văn có thể nêu một vài ví dụ các công trình, bài viết

sau:

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân

sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010;

Hoàng Thị Sơn: "Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự",

Tạp chí Luật học, số 6, 1998,

Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận

văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001;

Lê Xuân Hồng: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", Luận

văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;

Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân

sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, 2003;

Yến Minh: "Luật thi hành án dân sự còn nhiều bất cập", báo điện tử

Bắc Ninh, ngày 21/8/2012; "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng

mắc, bất cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân

sự - Bộ Tư pháp ngày 13/08/2013;

2

Nguyễn Văn Diễn: “Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết

định hình sự của tòa án ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật-

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.

Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc

thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối

có hệ thống về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của

tòa án và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản

án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân trong phạm vi thành phố Hà Nội

dưới cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu

 Hệ thống hóa lí thuyết qua lí luận chung về thi hành nghĩa vụ dân sự

 Phân tích thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự từ thực tiến tại Hà Nội

 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết

các nhiệm vụ sau:

 Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ

quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong

bản án, quyết định hình sự cũng như lý luận và thực tiễn về thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.

 Đánh giá thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự của tòa án tại TP.Hà Nội; nêu ra mặt được, mặt chưa được của việc

thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.

3

 Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự của tòa án ơt TP. Hà Nội nói riêng và cả

nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật về nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án bao gồm các nghĩa vụ

dân sự phát sinh từ quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết

định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự và thực tiễn áp dụng.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật và thực tiễn

thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong

bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn TP.Hà Nội trong khoảng thời gian từ

năm 2016 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách thi hành nghĩa vụ dân

sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án. Đề tài được thực hiện trên cơ

sở quán triệt các nghị quyết và chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của

Nhà nƣớc về pháp luật hình sự và pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự của tòa án. Cơ sở thực tiễn của các báo cáo chuyên

đề về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án,

của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Vụ Kiểm sát thi

hành án - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao...

Phương pháp luận đề thể hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện

chứng, duy vât lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:

phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê, khảo sát

thực tế, phân tích đánh giá về mặt định tính và định lượng… Đi từ cơ sở lý

4

thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của

luận văn.Đồng thời dựa trên kinh nghiệm của bản thân và tham chiếu quan

điểm của các nghiên cứu đã được công bố để minh chứng cho các lập luận

đưa ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan

trọng đối với hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự của tòa án ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao

hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa

án có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật về thi hành

nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án, hướng dẫn áp

dụng thống nhất các qui định về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự của tòa án, giúp cơ quan thi hành án có các biện pháp

hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích và tái

hòa nhập với xã hội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình

sự đã có hiệu lực của Tòa án

Chương 2:Thực trạng thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án,

quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan

THADS TP.Hà Nội

Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi

hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu

lực của Tòa án nhân dân

5

Chương1

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,

QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN

1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

Trước hết, nghĩa vụ dân sự được hiểu là một quan hệ pháp luật; theo

đặc điểm của đối tượng và đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của Bộ Luật

dân sựhiện hành có thể nhận định: nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp

luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có

quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện

một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích

của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do

có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của các bên có quyền. Chủ

thể mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể

mang quyền.

Tuy nhiên, nghĩa vụ dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự của

Tòa án là một phạm trù có tích chất đặc biệt bởi chủ thể mang nghĩa vụ dân

sự phải thi hành phát xét của Tòa án có tính bắt buộc cao. Nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự khác với các nghĩa vụ dân sự khác bởi đối

tượng phải thi hành án phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

đa phần là đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc án cải tạo không

giam giữ và trong cùng một bản án tồn tại cùng một lúc hai nghĩa vụ phát sinh

là nghiã vụ dân sự và nghĩa vụ hình sự được thực thi bởi hai cơ quan thi hành

án độc lập. Xét về mặt pháp lý, Điều 30, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy

định như sau :Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành

cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải

6

quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh

và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự lúc

này có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy,ta hiểu

nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là phần trách nhiệm dân sự

trong bản án hinh sự mà đối tượng thi hành án phải thi hành đối với khoản thu

NSNN hoặc người được thi hành án bao gồm các khoản: án phí, bồi thường,

các hình phạt bố sung. Và có thể thấy trong quá trình giải quyết các vụ án

hình sự đã phát sinh nghĩa vụ dân sự của chủ thể. Đa phần khi Tòa án đưa ra

phán quyết về các vụ án hình sự luôn kết hợp các nghĩa vụ dân sự trong đó.

Các tội danh hình sự như Tàng tữ trái phép chất ma túy, Đánh bạc,

Tổ chức đánh bạc, Giết người, Lạm dụng quyền hạn, Tham ô tài sản, nhận hối

lộ tài sản… khi đưa ra xét xử ngoài các hình phạt chính như phạt tù, chung

than, tử hình… đều kèm theo một hoặc nhiều hình phạt bổ sung khác về nghĩa

vụ dân sự điển hình như là phạt tiền bổ sung, truy thu tiền sung công quy nhà

nước đối với tội danh Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc; bồi thường thiệt hại đối

với tội giết người hay bồi thường một phần nghĩa vụ dân sự đối với người bị

kết án tội tham ô tài sản, nhận hối lộ tài sản nhằm giảm án.

Khi tòa án ra phán quyết cuối cùng trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tuyên

án bị án không có kháng cáo, bản án quyết định hình sự có hiệu lực thì

chuyển giao cho cơ quan thi hành án hình sự thi hành phần nghĩa vụ hình sự

và cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định

đó.

1.1.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa

vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân

dân đối với công tác thi hành án dân sự

1.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ cơ quan thi hành án dân sự

7

Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số

13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó,

khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành

những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý

đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành

án dân sự trong chế độ mới; tiếp đó ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt

Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi

hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính

phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm

quyền và thể thức thi hành bản án.

Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã

ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ

trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi

hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ

đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán

bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.

Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được

ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức

và hoạt động thi hành án dân sự.

Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý,

tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày

14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm

2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày

09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan

quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công

tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được

8

xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc

từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ

chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.

Ngày 25 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số

17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành hành chính, trong đó giao Bộ

Tư pháp Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp,

kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho

các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công

tác thi hành án hành chính.

Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11

năm 2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ

sung Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm

2015, ngày 20 tháng 7 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số

62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một

số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý

vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công

tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.

Theo quy định pháp luật hiện hành thì cơ quan Thi hành án dân sự là cơ

quan trực tiếp thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Tòa

án. Khi thi hành, cơ quan đã gặp không ít bản án, quyết định thiếu sót, vi

phạm được thể hiện ngay trong bản án, quyết định đó. Chính vì thế, để tạo

điều kiện thuận cho cơ quan thi hành bản án, quyết định một cách nhanh

chóng, đúng pháp luật thì Luật thi hành án dân sự đã quy định rõ nhiệm vụ,

quyền hạn của cơ quan Thi hành án tại điều 14,15,16 Luật Thi hành án dân sự

năm 2008 sửa đổi năm 2014, trong đó:

Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh bao

gồm:

9

- Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương, bao gồm:Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy

định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự;Chỉ đạo hoạt động thi

hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn

nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ

quan thi hành án dân sự trên địa bàn;Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối

với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện…

- Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều

35 của Luật này.

- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối

hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp

hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang

chấp hành hình phạt tù.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền

theo quy định của Luật này.

- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện

hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ

đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn

theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật này.

- Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng

cấp khi có yêu cầu.

Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện bao

gồm:

- Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại

Điều 35 của Luật này.

10

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền

theo quy địnhcủa Luật này.

- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện

hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh.

- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi

hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án

dân sự cấp tỉnh.

- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.

- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo

quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này.

- Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có

yêu cầu.

Trình tự thủ tục thi hành án

- Thụ lý thi hành án: tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy

thác; kiểm tra, xử lý yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy thác; ra quyết định

thi hành án, phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án.

- Tổ chức thi hành án: lập hồ sơ thi hành án; thông báo về thi hành án;

xác minh điều kiện thi hành án; xác minh việc chưa có điều kiện thi hành án,

công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án;

tạm đình chỉ thi hành án , đình chỉ thi hành án, ủy thác thi hành án; miễn giảm

nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách; kiến nghị, xem xét lại

bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; áp dụng biện pháp

đảm bảo thi hành án; ra quyết định cưỡng chế thi hành án; tổ chức cưỡng chế

thi hành án; thực hiện thẩm định giá tài sản; thược hiện bán đấu giá tài sản;

tiêu hủy vật chứng, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung

công quỹ; trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự; thu tiền, thanh toán tiền

11

thi hành án, thu phí thi hành án; xác nhận kết quả thi hành án; rà soát hồ sơ thi

hành án.

- Thẩm tra, lưu trữ hồ sơ thi hành án: Thẩm tra hồ sơ thi hành án; lưu

trữ hồ sơ thi hành án.

1.1.2.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa

vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

Thứ nhất, đảm bảo cho công tác xét xử diễn ra đúng luật, hợp lí. Việc

thi hành nghĩa vụ trong bản án quyết định dân sự chính là góp phần đảm bảo

cho công tác xét xử,thi hành án diễn ra đúng trình tự, thủ tục pháp luật. Thực

hiện điều này góp phần nâng cao pháp chế của nhà nước, đảm bảo trật tự pháp

luật.

Thứ hai, đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thi hành nghĩa vụ

dân sự trong các bản án, quyết định hình sự còn đem lại khoản thu lớn, góp

phần làm tăng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện mở rộng hoạt động thi hành

án. Thi hành nghĩa vụ dân sự điều chỉnh hành vi, giúp cho chủ thể cư sử đúng

luật, đi vào nề nếp, quy củ.

Thứ ba, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp

pháp của công dân.

Thi hành nghĩa vụ dân sự có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ

tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt

động này không những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những

quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp

phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp

phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh

thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ

quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã

12

hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử

lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản

án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân

Tại điều 30 Bộ luật hình sự có nêu: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án

nhân dân quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm

tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương

mại đó.

Như vậy việc thi hành phần dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự là

một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Theo

quy định tại Điều 1 “Phạm vi điều chỉnh” và mục 1 Chương V Luật Thi hành

án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) thì những vụ

việc dân sự phải thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm

quyền của cơ quan THADS bao gồm: hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu

tiền (truy nộp), tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và thi

hành nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm; bồi thường thiệt hại về tài sản…

- Án phí hình sự: là án phí mà người bị xử phạt về hình sự phải nộp vào

ngân sách nhà nước cho án sơ thẩm, án sơ thẩm đồng thời chung thẩm và án

phúc thẩm cùng với việc xét xử về tội phạm, nếu còn xét xử về bồi thường

thiệt hại, thì tòa án quyết định án phí theo số tiền bồi thường thiệt hại dựa vào

mức quy định đối với những việc tranh chấp tài sản có giá trị trong án phí về

dân sự. Nếu vụ án được kháng cáo mà toà phúc thẩm y án sơ thẩm thì người

kháng cáo phải chịu án phí kháng cáo. Nếu tòa án phúc thẩm sửa hoặc huỷ án

sơ thẩm thì ngườikháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.Theo danh

mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số

13

326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy đinh về mức thu,

miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban

thường vụ quốc hội thì mức án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc

thẩm là 200.000 đồng/ bị cáo.

- Phạt tiền: là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người

phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền để sung quỹ nhà

nước. Hình phạt tiền áp dụng với những tội ít nghiêm trọng, được áp dụng là

hình phạt chính khi có điều luật quy định. Ngoài ra phạt tiền được áp dụng là

hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.Xét về nội dung và

giá trị các tác động của hình phạt, phạt tiền tước bỏ một số quyền lợi vật chất

của người bị kết án, tác động đến kinh tế (tình hình tài sản) của họ, và thông

qua đó đạt mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.

Về bản chất, biện pháp phạt tiền trong hình sự và hành chính đều là sự tước

bỏ khoản tiền nhất định của người bị kết án, người vi phạm để sung quỹ Nhà

nước. Biện pháp phạt tiền là hình phạt chính trong pháp luật hành chính, có

thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong pháp luật hình sự. Tuy

nhiên, có thể thấy sự khác biệt rõ nét giữa hình thức phạt tiền trong hình sự và

hành chính nằm ở nguyên tắc và thủ tục áp dụng. Phạt tiền trong pháp luật

hành chính có thể được thể hiện bằng biên bản hoặc không. Phạt tiền trong

pháp luật hình sự thì buộc phải được thể hiện trong bản án. Mức phạt tiền

trong hình sự được áp dụng theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm, đồng

thời có xét đến tình hình tài sản của người đã phạm tội, sự biến động của giá

cả nhưng mức tối thiểu là một triệu đồng thể hiện tính nghiêm khắc của chế

tài hình sự so với chế tài hành chính có mức phạt tiền tối thiểu thấp hơn

nhiều.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với công cụ, phương

tiện dùng vào việc thực hiện phạm tội, đây là những công cụ, phương tiện mà

14

người phạm tội đã sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, như: dao, súng, xe

máy được sử dụng để cướp tài sản; tiền được sử dụng để đánh bạc, đưa hối

lộ,…Vật hoặc tiền có được do việc thực hiện tội phạm, như: xe máy, tiền có

được do trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt,… hoặc

do mua bán, chuyển nhượng, trao đổi với người khác, mang đi cầm xe máy

trộm cắp được, gán nợ, tặng cho,…Vật thuộc loại Nhà nước cấm sản xuất,

tang trữ, vận chuyển, mua bán, lưu hành, như: vũ khí quân dụng, pháo nổ, ma

túy, chất phóng xạ, chất nổ, văn hóa phẩm đồi trụy,… Đây là những vật mà

người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc là đối tượng

của việc thực hiện tội phạm. Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật

cấm lưu hành, là tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ

Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vật không còn giá trị sử dụng, vật cấm lưu hành là

các chất ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy thì tuyên tịch thu nhưng không sung

quỹ Nhà nước mà tịch thu tiêu hủy theo quy định.

- Tịch thu tài sản: là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu

của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.Theo điều 45 Bộ luật hình

sự có nêu: Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội

phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng xâm phạm đến an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham

nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài

sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện để sinh sống. Ví

dụ: Vụ án đường dây ma túy Vũ Xuân Trường được phát hiện ở thời điểm

năm 1996 và đã từng gây chấn động dư luận cả nước. Có 34 đối tượng tham

gia mua bán, vận chuyển hơn 400kg heroin. TAND TP Hà Nội thời điểm ấy

đã tuyên phạt 8 án tử hình và 7 án chung thân trong vụ án này.Là "đệ tử"

trung thành của Vũ Xuân Trường, bản án đã tuyên Đào Xuân Xe mức án tử

hình, ngôi nhà số 184 Khâm Thiên của Xe bị tịch thu sung công quỹ Nhà

15

nước và đã được bàn giao lại cho Sở Tài chính - Vật giá quản lý theo đúng

luật định. Hiện nay, ngôi nhà số 184 Khâm Thiên là trụ sở của cơ quan Thi

hành án dân sự quận Đống Đa.

- Truy nộp: là khoản tiền nộp thêm của người phạm tội mà đáng lẽ phải

nộp trước đó để sung quỹ Nhà nước. Biện pháp truy nộp (truy thu tiền)

thường là hình phạt bổ sung đối với các tội danh như đánh bạc, tổ chức đánh

bạc, môi giới mại dâm...

- Bồi thường thiệt hại: là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên

có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất

về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi

thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế,

được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài

sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm

sút.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành phần

nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án

1.3.1. Pháp luật và thể chế

Pháp luật và thể chế là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến công tác thi

hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Pháp luật tạo cơ sở, nền tảng

pháp lý vững chắc cho hoạt động thi hành án triển khai trên thực tế, ban hành

các quy định về nội dung, trình tực, thủ tục cùng các chế tài nhằm tạo sức răn

đe, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm.

Bên cạnh đó, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

tạo điều kiện cho hoạt động thi hành NVDS đạt hiệu quả. Ngày nay, đường

lối, chủ trương của Đảng gắn với sự nghiệp CNH-HDH đất nước, tập trung

đổi mới, phát triển nền kinh tế đã tạo thuận lợi hơn cho thi hành NVDS, đảm

16

bảo cho công tác thi hành án dân sự nói chung bền vững và đem lại hiệu quả

cao hơn trên thực tế.

1.3.2. Hiệu quả của các hoạt động tố tụng

Các hoạt động tố tụng trong THADS ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công

tác thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Cụ thể, hoạt động tố

tụng diễn ra giúp cho thi hành NVDS được thực hiện đầy đủ, đúng hạn và quy

củ, tránh trường hợp chây ì hay trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm. Sự phối hợp

của các cơ quan trong hoạt động tố tụng là cơ sở giúp cho hoạt động thi hành

án diễn ra đồng bộ, nhịp nhàng, có hiệu quả vì có sự tương tác, hỗ trợ lẫn

nhau.

1.3.3. Tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự

Tổ chức bộ máy cơ qaun THADS càng tinh gọn, đơn giản thì công tác

thi hành NVDS càng đạt được hiệu quả tích cực. Ngược lại, bộ máy rườm rà,

cồng kềnh sẽ là yếu tố kìm hãm chất lượng công tác thi hành NVDS, khiến

cho hoạt động thi hành NVDS rời rạc, thiếu tính liên kết, thậm chí mang lại

kết quả tiêu cực.

Trong xu thế hiện nay, các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan

THADS nói riêng thực hiện tinh giản biên chế, đơn giản hóa bộ máy, tăng

cường hiệu lực, hiệu quả, giảm bớt sự cồng kềnh sẽ là yếu tố tiên phong giúp

cho thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự ngày một nâng cao cả về

lượng cũng như về chất. Tinh giản biên chế giúp giảm tải trình tự, thủ tục trở

nên đơn giản hơn, tránh những sai sót không đáng có, nâng cao hiệu lực bộ

máy nhà nước.

1.3.4. Năng lực của chấp hành viên

Trong thời gian gần đây, công tác thi hành án dân sự (THADS) ngày

càng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Đội ngũ chấp hành viên (CHV) được

tăng cường về số lượng và cả chất lượng. Tuy nhiên, đến nay, THADS vẫn là

17

một vấn đề bức xúc trong lĩnh vực tư pháp bởi lượng án tồn đọng chưa được

thi hành còn nhiều, số lượng đơn thư khiếu nại vượt cấp còn lớn. Điều này

xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản

là do năng lực của CHV trong THADS còn hạn chế. Bởi vậy, trong tiến trình

cải cách tư pháp hiện nay, nâng cao năng lực của CHV trong THADS, giúp

họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra là một vấn đề rất

đáng quan tâm.Năng lực chấp hành viên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác

thi hành NVDS. CHV càng giỏi, chuyên môn cao thì hoạt động thi hành

NVDS càng hiệu quả, chuẩn xác, ngược lại, CHV yếu kém về chuyên

môn,trình độ là yếu tố cản trở công tác thi hành án, gây ra những sai sót, bất

cập lớn.

Năng lực của CHV trong THADS là tổ hợp những khả năng tạo nên

năng lực tư duy lý luận và năng lực hoạt động thực tiễn của người CHV, giúp

họ thực thi pháp luật đúng đắn và đạt được kết quả cao trong việc tổ chức thi

hành các bản án, quyết định của tòa án và các bản án, quyết định khác theo

quy định của pháp luật. Cũng như bất kỳ cán bộ, công chức nào trong bộ máy

nhà nước, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, CHV THADS cũng phải có

năng lực nhất định. Với trách nhiệm là người được Nhà nước trao quyền tổ

chức THA và do tính chất công việc, năng lực của CHV trong THADS được

cấu thành bởi tổ hợp những khả năng như: khả năng nhận thức, khả năng áp

dụng pháp luật, khả năng làm việc độc lập, tính quyết đoán cao, khả năng

kiềm chế và kiên nhẫn, khả năng làm việc với nhiều người và khả năng sáng

tạo, khả năng kiểm tra và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn… Tất cả những khả

năng đó tạo nên hai yếu tố mà mỗi CHV cần phải có khi tổ chức THA là năng

lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. Đây cũng là những

yếu tố quan trọng nhất tạo nên tài năng của mỗi CHV, làm cho CHV này khác

CHV kia.

18

Khi tổ chức THA, CHV phải thường xuyên giao tiếp, làm việc với rất

nhiều cá nhân, tổ chức như người được THA, người phải THA, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới việc THA, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể

nhân dân có nhiệm vụ phối hợp trong việc THA. Vì vậy, CHV phải có khả

năng giao tiếp xã hội, làm việc với tập thể, với nhiều người. Đó là khả năng

hiểu biết con người, nhận biết được khả năng của người khác và có thể khai

thác được lợi thế của họ cho yêu cầu nhiệm vụ của mình; biết xây dựng mối

quan hệ, biết cách làm việc với từng tập thể, từng con người, ứng xử đúng

mực với từng mối quan hệ; biết “đối nhân xử thế”. Đồng thời, biết học tập,

tiếp thu, vận dụng những cái hay, cái tốt của người khác cho sự hoàn thiện

của chính mình và đặc biệt là phải biết cách xử lý khéo léo nhưng đúng pháp

luật những mối quan hệ phức tạp, tế nhị. Nhờ năng lực giao tiếp, làm việc mà

CHV có thể nắm bắt được diễn biến tâm lý, nguyện vọng, dự đoán được hành

vi sắp xảy ra của các đương sự để có những biện pháp THA phù hợp. Có

nhiều vụ việc, qua nghệ thuật giao tiếp của CHV mà người phải THA đang từ

chống đối việc THA chuyển sang tự nguyện THA. Cũng nhờ năng lực giao

tiếp xã hội, làm việc với tập thể, với nhiều người mà CHV có thể thuyết phục

và lôi cuốn, thu hút được mọi người tham gia vào công việc chung, nhất là đối

với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhân dân có nhiệm vụ phối hợp trong việc

THA.

Do phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả THA của mình và do tính

phức tạp của công tác THA, CHV phải có khả năng làm việc độc lập, có tính

quyết đoán. CHV chủ động trong công việc, có thể tự hoạch định chương

trình và trù tính kế hoạch hành động cho mình để thực hiện mục tiêu đã định

mà không trông chờ hay ỷ lại vào người khác. Để có khả năng đó, CHV

không chỉ lao động bền bỉ, cần mẫn tìm tòi, học hỏi với tinh thần trách nhiệm

cao, có kỷ luật tự giác mà còn phải say mê, năng động và tâm huyết với nghề

19

nghiệp. Tính quyết đoán là khả năng phán đoán chính xác tình hình, đưa ra

được quyết định nhanh chóng, dứt khoát nhiều khi là ngay lập tức khi có

những tình huống bất ngờ, cấp bách phát sinh không cho phép chờ đợi để

phân tích dữ kiện cũng như không đủ dữ kiện cần thiết để phân tích nhằm kịp

thời xử lý tình huống (thường gặp trong khi tổ chức cưỡng chế THA), hoặc

trong trường hợp tập thể và các cá nhân còn nhiều bất đồng về con đường,

biện pháp và hình thức tổ chức thực hiện. Tính quyết đoán là sản phẩm của

tính kiên quyết, tính chủ động, sự thận trọng và niềm tin nội tâm nghề nghiệp

dựa trên khả năng nhận biết trước được sự vận động của thực tiễn, biết lắng

nghe và sự tinh thông nghề nghiệp. Nó khác hẳn với bệnh hách dịch, cửa

quyền, phiêu lưu, liều lĩnh. Nhờ có tính quyết đoán, CHV dám chịu trách

nhiệm về quyết định của mình, không đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm, không

sợ va chạm.

Các vụ việc mà CHV phải tổ chức thi hành rất đa dạng, phức tạp… nên

không thể dập khuôn máy móc những biện pháp đã áp dụng ở vụ việc này vào

việc giải quyết vụ việc khác. Vì vậy, thông qua quá trình suy lý, lập luận chân

thực, CHV phải tìm ra cách làm mới, biện pháp mới để giải quyết các vụ việc

khác nhau trên cơ sở quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, CHV phải có khả

năng kiểm tra các đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân và tự kiểm tra lại

quá trình tác nghiệp của mình trong việc thực hiện pháp luật về THA để kịp

thời điều chỉnh những sai lệch, vi phạm pháp luật. Đồng thời, CHV phải có

khả năng tổng kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ của mình, rút ra

những kinh nghiệm thực tiễn có giá trị để vận dụng vào việc giải quyết những

vụ việc tiếp theo.Tuy nhiên, để năng lực của CHV phát huy được tốt trong

thực tế, thì cần có những yếu tố bảo đảm trong THADS như: một nền chính

trị - xã hội ổn định; hệ thống pháp luật chất lượng cao, phù hợp với cuộc sống

và mức lương CHV được hưởng phải tương xứng với công sức họ bỏ ra. Khi

20

có đầy đủ các bảo đảm trên, CHV sẽ thể hiện và phát huy tốt năng lực của

mình trong công việc.

1.3.5. Nhận thức về nghĩa vụ tôn trọng phán quyết của Tòa án

Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm thịnh hành

trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật và sự đánh

giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp lý thực

tiễn.Ý thứ pháp luật trong xã hội là bàn đạp, cơ sở để hoạt động thi hành

NVDS đạt hiệu quả. Ý thức pháp luật phản ánh người dân có ý thức tham gia,

chấp hành pháp luật hay không, cư xử như thế nào, mặt tích cực - tiêu cực ra

sao…Ý thức pháp luật là một trong những nhân tố có ảnh hưởng vô cùng sâu

sắc tới việc thực hiện pháp luật. Phân tích ảnh hưởng của ý thức pháp luật đối

với việc thực hiện pháp luật có thể rút ra những biện pháp nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật từ việc củng cố, bồi dưỡng ý thức pháp luật của cá nhân

mỗi người dân cũng như cộng đồng xã hội.

Trên bình diện cá nhân, ý thức pháp luật thể hiện sự hiểu biết pháp luật

cũng như ý chí, xúc cảm, tình cảm, thái độ của mỗi con người đối với pháp

luật và những hiện tượng pháp lí. Ý thức pháp luật cá nhân được hình thành

và phát triển trong môi trường sống của họ, qua sự giáo dục của gia đình và

trường lớp, giao tiếp hằng ngày, phương tiện truyền thông và các quan hệ

pháp luật mà họ tham gia.Ý thức pháp luật xã hội là những quan điểm, thái

độvề pháp luật và hiện tượng pháp lí chung nhất của toàn xã hội. Nó không

chỉ bao gồm sự đánh giá, tình cảm với pháp luật hiện hành mà bao gồm cả

pháp luật đã qua và những gì pháp luật cần có.Ý thức pháp luật xã hội cũng

không chỉ gồm những hiểu biết, thái độ về pháp luật của một nhà nước nhất

định mà về pháp luật với tư cách là hiện tượng của đời sống xã hội, cũng như

về pháp luật của các nước trên thế giới.

21

Chỉ khi con người nắm chắc những qui định của pháp luật và hiểu rõ

mục đích, ý nghĩa của những qui định đó, họ mới kiềm chế không làm những

điều mà pháp luật cấm, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lí của mình và những

quyền mà mình được trao. Các nhà chức trách cũng phải hiểu rộng và sâu về

pháp luật mới có thể áp dụng pháp luật một cách chính xác và hiệu quả. Trong

nhiều trường hợp, người dân không chấp hành hay thực hiện nghiêm chỉnh

pháp luật là do họ không hiểu được cơ sở, tư tưởng của pháp luật hoặc thực

hiện pháp luật một cách máy móc, gần như chỉ đối phó. Đó là do họ chưa

nhận thức được tính đúng đắn sau mỗi điều luật, không hiểu được ý nghĩa

thực sự của nó. Người dân ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật và càng

hiểu được giá trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Khi cuộc sống người

dân ngày càng nâng cao thì nhu cầu cần được pháp luật bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình cũng từ đó mà tăng lên. Song bên cạnh đó cũng có

không ít những hành vi phạm tội dã man. Điển hình là ở giới trẻ hiện nay, họ

có học thức, họ nhận thức được nhưng tình trạng vi phạm thì tương đối lớn.

Những vụ giết người cướp của rất dã man, hay là đánh bạn theo kiểu “xã hội

đen”… Nhìn chung, tâm lí pháp luật của người dân cũng như cán bộ, nhà

chức trách ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa cao. Mọi người vẫn chưa thực sự

coi “sống và làm việc theo pháp luật” như kim chỉ nam cho mọi hành vi, hoạt

động của mình.

Tiểu kết chương

Tóm lại, chương 1 đã đưa ra hệ thống cơ sở lý luận làm nền tảng cho

việc phân tích ở chương 2: Lịch sử hình thành cơ quan THADS, chứuc năng

nhiệm vụ, vai trò và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự

trong các bản án, quyết định hình sự, các yếu tổ ảnh hưởng đến hiệu quả tổ

chức thi hành… Những cơ sở này tạo điều kiện cho việc đi sâu phân tích thực

trạng thi hành nghĩa vụ dân sự ở chương 2 đúng - trúng - hiệu quả.

22

Chương 2

THỰC TRẠNG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN

ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân

sự thành phố Hà Nội

2.1.1. Cơ cấu tổ chức cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội

Cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung

ương đến địa phương, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất.

Cục Thi hành án dân sự Hà Nội là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi

hành án dân sự -Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự theo quy

định của pháp luật, quản lý công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí,

phương tiện hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội chịu sự chỉ đạo của

UBND thành phố Hà Nội, có tư cách pháp nhân, con dấu hình Quốc huy, tài

khoản riêng.

Cục Thi hành án dân sự bao gồm lãnh đạo Cục và các phòng ban

chuyên môn bao gồm: Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án, phòng giải

quyết khiếu nại và tố cáo, phòng tổ chức cán bộ, phòng kế hoạch tào chính,

văn phòng.

2.1.2. Hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội

Trong thời gian qua, hoạt động của các cơ quan THADS trên địa bàn

thủ đô Hà Nội đã có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Các

quy định về trình tự, thủ tục thi hành án được hoàn thiện theo các yêu cầu cải

cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm góp phần tạo chuyển biến cơ bản

23

trong công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, khắc phục

tình trạng tồn đọng án kéo dài. Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân

sự,kết quả THADS của các cơ quan THADS thành phố Hà Nội trong 8 tháng

đầu năm 2019:

+ Về việc: tổng số thụ lý là 43.290 việc, chiếm 5,65% số việc so với

toàn quốc xếp thứ 02/63. Thi hành xong về việc đạt tỉ lệ 56,48%so với tổng

số vệc có điều kiện thi hành (giảm 1,45% so với cùng kỳ năm 2018), còn

thiếu trên 16,52% so với chỉ tiêu của Tổng cục giao là trên 73,00%.

Kết quả về việc, Cục THADS tp Hà Nội xếp thứ 45/63 tỉnh, thành phố.

+ Về tiền: tổng số thụ lý là 38.874 tỷ 571 triệu 433 nghìn đồng, chiếm

16,07% số tiền thụ lý của toàn quốc, xếp thứ 02/63. Thi hành xong về tiền đạt tỉ

lệ 10,17%so với tổng số tiền có điều kiện thi hành (giảm 0,43% so với cùng kỳ

năm 2018), còn thiếu trên 23,33% so với chỉ tiêu của Tổng cục giao là trên

33,50%

Đối với các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế có giá trị tài sản thu hồi

cho nhà nước lớn, điển hình là các vụ Châu Thị Nga, Hà Văn Thắm, Hứa Thị

Phấn, Giang Kim Đạt, Phạm Bích Lương, Trần Quốc Đông... Việc thu hồi

tiền, tài sản trong các vụ việc này đạt kết quả thấp (tỉ lệ thực thu trên tổng giá

trị phải thi hành), nguyên nhân: hầu hết đối tượng phải thi hành án không có

điều kiện thi hành, xác minh không có tài sản, phải chấp hành án phạt tù dài

hạn; một số trường hợp hiện đang trong quá trình điều tra vụ án khác. Kết quả

6 tháng năm 2019 toàn thành phố: Tổng số việc thụ lý 213 việc, tương ứng

với số tiền phải thi hành 9.619 tỷ 958 triệu 551 nghìn đồng; đã thi hành xong

53 việc (đạt 24,88%), tương ứng với 131 tỷ 798 triệu 811 nghìn đồng (đạt

1,37%) ; còn phải thi hành 160 việc, tương ứng với 9.485 tỷ 951 triệu 354

nghìn đồng. Cụ thể:

- Kết quả thi hành các vụ án hình sự về tham nhũng:

24

Tổng số thụ lý 80 việc, tương ứng với 9.431 tỷ 226 triệu 069 nghìn

đồng; tổng số phải thi hành 80 việc tương ứng với 9.429 tỷ 017 triệu 683

nghìn đồng; số có điều kiện thi hành 70 việc (chiếm 87,50% trong tổng số

việc phải thi hành) tương ứng với 7.392 tỷ 803 triệu 018 nghìn đồng (chiếm

78,40% trong tổng số tiền phải thi hành). Đã thi hành xong 22/70 việc (đạt tỉ

lệ 31,42%), tương ứng với 126 tỷ 974 triệu 566 nghìn đồng (đạt tỉ lệ 1,72%);

chuyển kỳ sau 58 việc, tương ứng với 9.302 tỷ 043 triệu 117 nghìn đồng.

- Kết quả thi hành các vụ án hình sự về kinh tế:

Tổng số thụ lý 133 việc, tương ứng với 188 tỷ 732 triệu 482 nghìn

đồng; tổng số phải thi hành 133 việc tương ứng với 188 tỷ 732 triệu 482

nghìn đồng; số có điều kiện thi hành 125 việc (chiếm 93,98% trong tổng số

việc phải thi hành) tương ứng với 151 tỷ 076 triệu 752 nghìn đồng (chiếm

80,04% trong tổng số tiền phải thi hành). Đã thi hành xong 31/133 việc (đạt tỉ

lệ 23,31%), tương ứng với 4 tỷ 824 triệu 245 nghìn đồng (đạt tỉ lệ 3,19%);

chuyển kỳ sau 102 việc, tương ứng với 183 tỷ 908 triệu 237 nghìn đồng.

Về tổ chức bộ máy, các cơ quan THADS trên địa bàn đã được kiện

toàn, sắp xếp hợp lý và hoạt động hiệu quả. Toàn thành phố đã thực hiện

517/527 chỉ tiêu được giao. Năm 2019, Cục THADS đã điều chỉnh biên chế

của một số đơn vị có khó khăn về nhân sự và thực hiện công tác tuyển dụng,

đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đúng trọng tâm, trọng điểm; đã thực hiện luân

chuyển, bổ nhiệm, điều động, biệt phái cán bộ công chức theo đúng quy định

đảm bảo hiệu quả công tác. Biên chế đã thực hiện 496/505 (thiếu 09 biên chế:

01 cấp tỉnh, 08 cấp huyện). Đội ngũ lãnh đạo các cơ quan THADS trên địa

bàn Thành phố cơ bản được kiện toàn (hiện chưa có Chánh Văn phòng, đang

giao 01 Phó Chánh Văn phòng phụ trách); Các chức danh chuyên môn được

bổ nhiệm đủ điều kiện, tiêu chuẩn, năng lực thực hiện nhiệm vụ.

25

Bên cạnh đó, các cơ quan THADS đã triển khai tổ chức thực hiện

nghiêm túc Quy trình hướng dẫn nghiệp vụ góp phần quan trọng trong việc

nâng cao hiệu quả công tác THADS, nhất là trong công tác chỉ đạo giải quyết

dứt điểm đối với những vụ việc phức tạp; có những vụ việc phức tạp, kéo dài

nhiều năm đã được giải quyết dứt điểm như vụ Châu Thị Nga, Hà Văn Thắm,

Hứa Thị Phấn, Giang Kim Đạt, Phạm Bích Lương, Trần Quốc Đông,

Vinalines (Dương Chí Dũng, Bùi Thị Bích Loan,Mai Văn Phúc trong vụ án

đa số là không còn tài sản, chưa có điều kiện thi hành án); vụ Phan Thị Bích

Lương - Agribank (tổng số phải thi hành trên 2.500 tỷ đồng, nhưng chưa có

điều kiện thi hành là trên 2.000 tỷ đồng).Các vụ việc có giá trị phải thi hành

lớn thường xuyên bị kéo dài, khó xác định quyền sở hữu tài sản, xác minh

không có tài sản hoặc việc kê biên, bán đấu giá, xử lý tài sản sản của người

phải thi hành án cũng gặp nhiều khó khăn. Đối với việc kê biên xử lý tài sản

là vốn góp, cổ phần, cổ phiếu của cá nhân, tổ chức phải thi hành án hiện chưa

có văn bản hướng dẫn chi tiết, chưa quy định rõ đơn vị thẩm định giá tài sản

của doanh nghiệp, giá trị còn lại của doanh nghiệp và giá trị phần vốn góp của

người phải thi hành án, trình tự thủ tục bán...

Hoạt động THADS không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động

tư pháp, làm cho bản án, quyết định của tòa án được chấp hành, góp phần bảo

đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân. Vì vậy, để công tác THADS đạt hiệu quả, thời gian tới, Cục

THADS thành phố Hà Nội sẽ tăng cường xác minh, phân loại án, xây dựng kế

hoạch từng tháng. Trong đó thực hiện đầy đủ, kịp thời, chặt chẽ các thủ tục về

thi hành án và các nội dung chỉ đạo, hướng dẫn chính là biện pháp tích cực

nhất góp phần làm giảm thiểu sự phát sinh các vụ việc có khó khăn, vướng

mắc, phức tạp, kéo dài, nâng cao hiệu quả công tác hướng dẫn nghiệp vụ thi

hành án.

26

Việc tổ chức thi hành án những năm gần đây đạt kết quả tích cực. các

vụ việc thi hành án được giải quyết triệt để, nhanh chóng, áp dụng đúng luật,

ít xảy ra sai sót.Hầu như các vụ việc được giiar quyết chính xác, bảo vệ quyền

lợi chính đáng của đương sự, góp phần thi hành pháp luật có hiệu quả.Việc

thực hiện tốt Quy chế phối hợp với các cơ quan như: công an, viện kiểm sát,

tòa án và đơn vị khác của thành phố trong thời gian qua cơ bản đã khắc phục

và hạn chế những sai sót trong việc ban hành bản án, quyết định của Tòa án;

hỗ trợ cơ quan thi hành án thi hành được những vụ án phức tạp, khó thi hành.

Nhiều địa phương tỷ lệ thi hành án dân sự vượt chỉ tiêu, đạt hiệu quả cao hơn

so với năm trước.

Là một trong các địa phương thực hiện thí điểm thừa phát lại, năm

2015, các văn phòng thừa phát Hà Nội lại đã tống đạt gần 13 ngàn văn bản,

xác minh 85 việc THA; tổ chức THA 15 việc... Các mặt công tác khác như

hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp dân, đôn đốc THA

hành chính, đầu tư cơ sở vật chất, công tác phối hợp đạt nhiều kết quả tích

cực.Theo đánh giá trong nhiệm kỳ qua (2011 - 2015), kết quả thi hành án

xong về việc, về tiền năm sau cao hơn năm trước và ngày càng thực chất, bền

vững. So với năm đầu nhiệm kỳ 2011, số thi hành xong của năm 2015 tăng

2.618 việc = 12% và tăng 4.385 tỷ đồng = 551%. Kết quả phân loại hồ sơ thi

hành án có điều kiện và chưa có điều kiện giải quyết ngày càng bảo đảm

chính xác hơn thông qua các quy định đề cao trách nhiệm của Thủ trưởng cơ

quan thi hành án, Chấp hành viên trong việc xác minh, phân loại hồ sơ thi

hành án và các quy định cụ thể, chặt chẽ về các trường hợp chưa có điều kiện

thi hành án.Tình trạng chậm trễ ra quyết định thi hành án được chấn chỉnh,

khắc phục; kết quả thu cho ngân sách Nhà nước, kết quả thi hành án đối với

phần trách nhiệm dân sự của người phải thi hành án đang chấp hành án tại các

27

trại giam, trại tạm giam, việc xét miễn giảm thi hành án... tiếp tục có tiến bộ

so với các năm trước.

2.2. Thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định

hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án

dân sự thành phố Hà Nội

2.2.1. Tình hình tổ chức thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án,

quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án

Thực tế hiện nay, hiệu quả thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết

định hình sự đạt được là chưa cao, đặc biệt là kết quả thu hồi tài sản trong các

vụ án kinh tế, tham nhũng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo báo cáo tổng kết

số 2052/TCTHADS-NV2 ngày 26/9/2012 của Tổng Cục thi hành án dân sự

tổng kết thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong đó có nêu

số lượng và tiền thi hành án dân sự trong các vụ án hình sự từ 1/7/2016 đến

thời điểm 30/6/2018 là 1.828.263 việc, 48.902.667.840.000 đồng; trong đó, số

việc và tiền đã thi hành xong là 782.813 việc, 7.252.923.966.000 đồng; số

việc và tiền còn tồn đọng, chưa thi hành là 1.045.450 việc,

41.649.743.874.000 đồng. Số việc và tiền phải thi hành có xu hướng tăng lên

theo từng năm; tỉ lệ việc và tiền tồn đọng cao (57,18% về việc và 85,17% về

tiền).

Bảng 2.1: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án

và quyết định hình sự trên địa bàn Hà Nội(về số việc)

Đơn vị tính: Việc

Năm Số việc còn tồn

Số việc phải thi hành 5.355 6.012 6.328 Số việc đã thi hành 2.328 3.004 5.094 3.027 3.008 1.234 2016 2017 2018

(Nguồn: Tổng cục thi hành án dân sự)

28

Bảng 2.2: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án

và quyết định hình sự (về tiền)

Đơn vị tính: 1000 đồng

Năm Số tiền còn tồn

Số tiền phải thi hành 22.320.029 29.500.000 32.895.114 12.314.019 15.496.111 12.880.114 2016 2017 2018

Số tiền đã thi hành 10.006.010 14.003.889 20.015.000 (Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao)

Qua 2 bảng trên ta thấy số việc thi hành và số tiền thi hành đều tăng

qua các năm, lượng án và tiền tồn đọng khá lớn cho thấy việc thi hành nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự chưa được chú trọng, siết chặt

quản lý. Số án khá cao cho thấy tình hình phạm tội gia tăng,thi hành nghĩa vụ

dân sự ngày một nhiều.

Sau đây ta sẽ xem xét bảng sau:

Bảng 2.3: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án

và quyết định hình sự (về số việc)

Đơn vị tính: Việc

Năm Số việc phải thi hành

Số việc đã thi hành 100.287 Số việc còn tồn tại 109.917 2017

56.482 110.03

6 tháng đầu năm 2018

210.204 (Trong đó số việc năm trước chuyển sang là 91.571 việc và số việc thụ lý mới là 118.633 việc) 166.515 (Trong đó số việc năm trước chuyển sang là 89.346 việc và số việc thụ lý mới là 77.169 việc) (Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao)

29

Bảng 2.4: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án

và quyết định hình sự (về tiền)

Số tiền phải thi hành Năm

Đơn vị tính: 1000 đồng Số tiền còn tồn Số tiền đã thi hành

1.215.636.145 7.009.589.25 2017

4

1.801.928.880 7.821.036.10

8 6 tháng đầu năm 2018

8.225.225.399 (Trong đó số tiền năm trước chuyển sang là 6.511.944.908 đồng và số tiền thụ lý mới là 1.713.280.490 đồng) 9.622.964.989 (Trong đó số tiền năm trước chuyển sang là 5.963.937.995 đồng và số tiền thụ lý mới là 3.659.026.993 đồng)

(Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao)

Qua số liệu của hai năm gần đây, so sánh năm 2017 và sáu tháng đầu

năm 2018 cho thấy số việc và tiền tồn của năm trước chuyển sang năm sau

đều tăng thể hiện các việc thi hành về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự tăng về số lượng cũng như giá trị phải thi hành. Điều này cũng

phần nào thể hiện các hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự

khác trong bản án, quyết định hình sự do hành vi phạm tội đã gia tăng.

Hình phạt đảm bảo cho thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự được áp dụng khá nhiều trên thực tế, chiếm 1 tỷ lệ khá cao và

biến động không ngừng. Cụ thể là:

Bảng 2.5: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền ở nước ta giai đoạn

2016-2018

Năm

Số bị cáo bị xét xử sơ thẩm 2.020 3.006 4.154 Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền 359 450 766 2016 2017 2018

(Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao)

30

Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy số bị cáo năm sau cao hơn năm

trước và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền năm sau cũng cao hơn năm trước

nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Điều này cho thấy sự bất cập hiện nay là

trên thực tế các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự và các hình phạt bổ sung

tuy nhiên số bị cáo bị tuyên phạt tiền quá ít, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến

tình trạng quá tải ở các nhà tù của nước ta hiện nay. Về nguyên tắc đa phần

hình phạt chính phải nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung, hình phạt bổ sung

được tuyên là để hỗ trợ, củng cố hiệu lực hình phạt chính. Tuy nhiên, Bộ luật

hình sự qui định chung mức khởi điểm một triệu đồng cho hình phạt tiền

không phân biệt là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung đã ảnh hưởng đến

quá trình cá thể hóa đối với người phạm tội và với mức khởi điểm quá thấp

như trên đã phần nào tạo ra tâm lý coi thường hiệu lực của pháp luật và sẽ

không tự giác chấp hành pháp luật của người bị kết án. Do qui định của Bộ

luật hình sự sửa đổi năm 2017 là tiền phạt có thể được nộp nhiều lần trong

thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án tuy thể hiện tạo điều kiện cho

người bị kết án có điều kiện khó khăn được thi hành làm nhiều lần nhưng

ngược lại cũng tạo ra tâm lý chây ỳ không chịu thi hành án của người bị kết

án. Đa phần người chấp hành án hình sự không có ý thức thi hành phần nghĩa

vụ dân sự như án phí, bồi thường, truy nộp trong các quyết định, bản án hình

sự của Tòa án nhân dân ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả THADS của toàn

thành phố.

Một trong những hình phạt khác đảm bảo cho thi hành nghĩa vụ dân sự

là tịch thu tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy Tòa án rất hạn chế áp dụng hình

phạt tịch thu tài sản, chỉ hiếm hoi mới áp dụng đối với các tội phạm về ma túy

hay các tội xâm phạm trật tự công cộng. Ta có bảng sau:

31

Bảng 2.6: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản ở nước ta

giai đoạn 2016-2018

Năm Số bị cáo bị xét xử sơ Số bị cáo bị áp dụng

thẩm hình phạt tịch thu tài

sản

2016 2.020 112

2017 3.006 128

2018 4.154 201

Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao

Với những số liệu thống kê trên có thể thấy số bị cáo năm sau tăng cao

hơn năm trước và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản năm sau cũng

cao hơn năm trước nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể (trung bình 0,53%).

Điều này cho thấy sự bất cập hiện nay là trên thực tế số bị cáo bị tuyên phạt

tịch thu tài sản rất hiếm. Nguyên nhân của việc Tòa án hạn chế áp dụng hình

phạt tịch thu tài sản là hình phạt này theo quy định của Bộ luật hình sự sửa

đổi năm 2017 là hình phạt bổ sung và được áp dụng tùy nghi không bắt buộc

cùng các hình phạt khác. Nguyên nhân nữa là do trong quá trình tiến hành tố

tụng các cơ quan tố tụng rất khó chứng minh nguồn gốc tài sản là hợp pháp

hay bất hợp pháp cũng như khó chứng minh được quyền sở hữu tài sản của

người bị kết án đối với tài sản.

Trước đây trong một vụ án nổi cộm là vụ án buôn bán trái phép chất ma

túy của Vũ Xuân Trường và đồng phạm, Tòa án đã áp dụng tịch thu tài sản

của nhiều bị cáo trong đó có ngôi nhà 129 đường Giải Phóng, quận Đống Đa

của Vũ Xuân Trường, trừ căn phòng có diện tích 14,72 m2 ở tầng hai cho hai

đứa con. Thế nhưng bản án không thể thi hành bởi chính sự không rõ ràng:

không nói đến việc cho họ sử dụng lối đi, cầu thang, phòng vệ sinh và bếp.

Cơ quan thi hành án đã nhiều lần vận động hai cháu nhỏ và người giám hộ

32

(em gái Trường) bán lại căn phòng để tìm nơi khác thuận tiện hơn nhưng

không được. Hồng Nhung, con gái lớn của Trường nói: “Chúng cháu đã lớn

lên ở căn nhà này cùng bố mẹ, nên bây giờ đã quen và không muốn đi đâu

sống nữa”. Ngoài ra khi thi hành quyết định tịch thu tài sản của các bị cáo

khác cũng đều bị khó khăn thậm chí không thi hành được. Trong thời gian

gần đây việc xét xử các vụ án về tham nhũng đang làm nóng dư luận nhưng

cũng chưa có vụ án về tham nhũng nào bị Tòa án áp dụng hình phạt tịch thu

tài sản đối với bị cáo. Một ví dụ cụ thể điển hình cho việc Tòa án không áp

dụng tịch thu tài sản trong vụ án về tham nhũng mới đây nhất là vụ án xét xử

Dương Chí Dũng và đồng phạm về “Tội tham ô”, Tòa án đã không áp dụng

tịch thu tài sản của Dương Chí Dũng.

Về các quyết định dân sự khác, theo thống kê cho thấy số bị cáo năm

sau tăng cao hơn năm trước và số bị cáo bị áp dụng các quyết định dân sự

năm sau cũng cao hơn năm trước và chiếm tỷ lệ rất lớn (trung bình 99,85%).

Điều này cho thấy trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm

phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con

người, xâm phạm an toàn công cộng thì Tòa án đều quyết định các nghĩa vụ

dân sự về bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản bởi vì đa phần các thiệt hại vật

chất thuộc cấu thành tội phạm. Qua đó cũng cho thấy mức độ gia tăng xâm

phạm đến các quan hệ dân sự của các hành vi phạm tội.

2.2.2. Một số vụ việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án quyết định

hình sự của tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án dân sự thành phố hà

nội

Trong thời gian qua, việc thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự đã đạt được nhiều kết quả. Người phải thi hành án đã có ý

thức trong việc hoàn thành nghĩa vụ dân sự trong và sau thời gian chấp hành

án phạt nhằm miễn giảm án hoặc xóa án tích theo quy định. Bên cạnh đó cũng

33

tồn tại những trường hợp người phải thi hành án khó khăn, ý thức pháp luật

còn hạn chế, không có điều kiện thi hành án, thậm chí một số trường hợp sau

khi khi chấp hành án phạt tù, không trở về nơi cư trú. Bên cạnh đó, việc xác

minh, kê biên, xử lý tài sản chiếm nhiều thời gian. Một số án hình sự có nghĩa

vụ dân sự thi hành lớn, người phải thi hành án liên quan đến nhiều vụ việc

gây khó khăn trong việc giải quyết. Dưới đây là một số vụ việc đã thi hành

xong và đang trong quá trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án quyết

định hình sự của tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án dân sự thành phố

hà nội.

 Bản án hình sư sơ thẩm số 155/2017/HSST ngày 20/6/2017 của

Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Bản án hình sự phúc thẩm số

613/2017/HSPT ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét

xử Trương Đức Cường về tội “Trộm cắp tài sản”

Khoản phải thi hành án: Trương Đức Cường phải chịu án phí HSST:

200.000đ, án phí HSPT: 200.000đ, Tiêu hủy tang vật: 01 con dao gấp đa năng

bằng kim loại màu trắng đen kích thước 01x06cm. Con dao có hai mặt, một

mặt có lưỡi dao, một chiếc kéo nhỏ, một lưỡi cưa nhỏ, hai dụng cụ mở nắp

bia. Mặt còn lại có một đầu xoắn mở nắp rượu, một chiếc rũa móng tay nhỏ,

một đầu tuốc lơ vít loại 4 cạnh, một thanh dẹt nhọn theo Biên bản giao nhận

vật chứng số 227 ngày 26/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống

Đa.

Các khoản đã thi hành: Ngày 21/03/2019, Chi cục Thi hành án dân sự

quận Đống Đa đã ra quyết định thi hành án số 372/QĐ-CCHADS-HS đối với

Triệu Đức Cường với các khoản thi hành như trên. Chấp hành viên phụ trách

hồ sơ đã có công văn gửi Tổng cục cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư

pháp- Bộ công an về nơi chấp hành án hình phạt của người phải thi hành án

và nhận được công văn trả lời Trần Đức Cường đã chấp hành xong án phạt tù

34

và về sinh sống tại địa phương. Chấp hành viên đã có Giấy triệu tập Trần Đức

Cường thực hiện khoản phải thi hành án nộp án phí HSST, án phí HSPT để

làm căn cứ xóa án tích. Ngày 28/3/2019, Trần Đức Cường có mặt tại Chi cục

Thi hành án dân sự quận Đống Đa thực hiện hình phạt bổ sung theo quyết

định thi hành án số 372/QĐ-CCHADS-HS ngày 21/3/2019. Đồng thời, chấp

hành viên tiến hành làm hồ sơ, thủ tục tiêu hủy tang vật chuyển cơ quan Tài

chính quận Đống Đa và kết chuyển tiền án phí nộp ngân sách nhà nước theo

đúng quy định, hồ sơ kết thúc cho vào lưu trữ tháng 04/2019.

Đa phần đối với những bản án hình sự tòa án tuyên nghĩa vụ dân sự bị

cáo phải thi hành là khoản án phí hình sự và tiêu hủy tang vật. Thuận lợi của

hồ sơ 372HS/19 là đối tượng phải thi hành án đã thi hành xong án phạt và

đang sinh sống tạo nơi cư trú nên việc triệu tập, thuyết phục thi hành án diễn

ra dễ dàng. Mặt khác, bản thân người phải thi hành án cũng có ý thức phải thi

hành để được xóa án tích, hòa nhập với xã hội.

 Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2019/HSST ngày 22/03/2019 của

Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử Nguyễn Thị Thu Hà về tội “Môi giới

mại dâm”

Khoản phải thi hành án: Buộc Nguyễn Thị Thu Hà phải chịu 200.000

đồng án phí HSST; tịch thu sung công quỹ số tiền 4.000.000 đồng và 01điện

thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng cùng sim số 0869.867.071

theo Biên bản giao nhận vật chứng số 110 ngày 14.02.2019.

Các khoản đã thi hành: Ngày 12/06/2019, Chi cục Thi hành án dân sự

quận Đống Đa đã ra quyết định thi hành án đối với Nguyễn Thị Thu Hà cùng

các khoản phải thi hành như trên. Chấp hành viên tiền hành trích chuyển số

tiền án phí HSST 200.000 đồng của Nguyễn Thị Thu Hà đã nộp dự phí và

sung công quỹ nhà nước số tiền 4.000.000 đồng vào ngân sách nhà nước theo

quy định đồng thời làm thủ tục chuyển hồ sơ sung công 01 điện thoại di động

35

cùng sim theo biên bản sung công tài sản cho cơ quan tài chính,hồ sơ dự kiến

hoàn thành đưa vào lưu trữ tháng 08/2019.

Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 25/02/2014 của Tòa án

nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử Nguyễn Thế Đức về tội

"tàng trữ trái phép chất ma túy" có tuyên: tịch thu phát mại sung quỹ Nhà

nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 điện thoại Nokia màu xanh.

Theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: "Vật chứng là tiền bạc

hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thusung quỹ Nhà nước" thì tòa án

chỉ cần tuyên "tịch thu sung quỹ Nhà nước" mà không kèm theo "phát mại" là

cơ quan thi hành án đã thi hành được bằng cách chuyển giao các tài sản thuộc

diện sung công cho cơ quan tài chính cùng cấp. Nhưng với cách tuyên như

trong bản án số 18/2014/HSST ngày 25/02/2014 nêu trên thì theo qui định của

pháp luật về thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án lại phải tổ chức định giá

và bán các tài sản thuộc diện phát mại sung công để thu tiền sau đó mới nộp

số tiền thu được do bán tài sản thuộc diện này vào quỹ Nhà nước.

Như vậy cùng một loại tài sản và cùng là thuộc diện sung công nhưng

với hai cách tuyên khác nhau dẫn đến việc thi hành án khác nhau và với cách

tuyên "tịch thu sung quỹ Nhà nước" vừa đúng theo qui định pháp luật vừa

giúp cho việc thi hành trở nên rất đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả hơn nhiều

so với cách tuyên "tịch thu phát mại sung công".

 Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2008/HSST ngày 29/04/2008 của

Tòa án nhân dân dân quận Đống Đa xét xử Lê Thị Vân về tội Tổ chức đánh

bạc.

Các khoản thi hành: Lê Thị Vân phải chịu 50.000đ tiền án phí hình sự

sơ thẩm; phải truy nộp số tiền thu lời bất chính là 2.682.000 đồng để sung quỹ

nhà nước; tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại di động Nokia 7260 có

số thuê bao 0904.719.390 theo biên bản giao nhận ngày 1/4/2008 và tịch thu

36

sung quỹ nhà nước 640.000 đồng theo biên lai thu tiền số 11331 ngày

1/4/2008 tại thi hành án quận đống đa. Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đồng để

sung quỹ nhà nước.

Các khoản thi hành: Thi hành án dân sự quận Đống Đa đã ra quyết định

thi hành án chủ động số 85HS/QĐ-THA ngày 29/09/2008 đối với Lê Thi Vân

cùng các khoản phải thi hành là án phí HSST, Phạt, Truy nộp và sung công

như trên. Do bà Vân được hưởng án treo và về nơi cư trú chấp hành hình phạt

nên chấp hành viên phụ trách hồ sơ đã ra Giấy báo đối với bà Lê Thị Vân để

giải quyết việc thi hành án, đồng thời làm thủ tục chuyển hồ sơ sung công

tang vật theo bản án. Ngày 16/10/2008, Bà Lê Thị Vân đã nộp 50.000 đồng

tiền án phí HSST tại Thi hành án dân sự quận Đống Đa. Chấp hành viên đã

nhiều lần tiến hành vận động, thuyết phục bà Lê Thị Vân thực hiện các nghĩa

vụ dân sự còn lại theo bán án song người phải thi hành án nhiều lần né

tránh.Qua xác minh do chính quyền địa phương cung cấp, bà Vân đang sinh

sống địa chỉ tại số 55 ngõ 46/62 Phạm Ngọc Thạch, phường Phương Liên,

Đống Đa, Hà Nội; không có việc làm ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn,

không có điều kiện thi hành án. Định kỳ chấp hành viên tiến hành xác minh

điều kiện thi hành án tại chính quyền địa phương theo quy định. Ngày

3/7/2014, tại biên bản giải quyết việc thi hành án Chấp hành viên một tiếp tục

vận động thuyết phục bà Lê Thị Vân thi hành các khoản còn lại và hướng dẫn

bà nộp một phần nghĩa vụ để cơ quan thi hành án làm hồ sơ miễn giảm cho

bà. Sau khi được vận động bà đã nộp 100.000 đồng tiền truy nộp. Định kỳ

chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án tại chính quyền địa

phương theo quy định.

Căn cứ điều 44a Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 Xác định việc

chưa có điều kiện thi hành án: “…Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra

quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án khi thuộc một trong các

37

trường hợp sau đây:a) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu

nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà

họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài

sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án

hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi

hành án;...”

Ngày 30/09/2015, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận

Đống Đa ra quyết định về việc chưa có điều kiện bà Lê Thị Vân; khoản chưa

có điều kiện thi hành: phạt + truy nộp là 7.582.000 đồng.

Tại điều 61 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm

2014Điều kiện để miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp

ngân sách nhà nước như sau: Người phải thi hành án được xét miễn nghĩa vụ

thi hành án khi có đủ các điều kiện sau: không có tài sản hoặc có tài sản

nhưng tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án

hoặc không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu

cho người phải thi hành án và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng; đối

vói người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân

sách nhà nước được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi có đủ các

điều kiện sau đây: thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;

hoặc hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần

nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 5.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể

từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ

5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng.

Như vậy kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu đến nay đã hơn

10 năm, bà Vân không có việc làm, không có thu nhập, không có khả năng thi

hành khoản phải thi hành án còn lại. Căn cứ điều 61 Luật Thi hành án dân sự

38

năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 và Thông tư liên lịch số 12/TTLT/BTP-

BTC-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/09/2015. Ngày 24/4/2019, Chi cục

thi hành án dân sự quận Đống Đa có công văn gửi Viện kiểm sát nhân dân

quận Đống Đa, Tòa án nhân dân quận Đống Đa đề nghị xét miễn giảm thi

hành án đối với bà Lê Thị Vân khoản tiền 7.582.000 đồng

(phạt=5.000.000đồng, truy nộp= 2.582.000 đồng). Ngày 07/06/2019,Viện

kiểm sát nhân dân quận Đống Đa có công văn số 53/QĐ-VKS về quan điểm

xét nghĩa vụ thi hành án dân sự: đồng ý miễn giảm nghĩa vụ thi hành án đối

với khoản thu nộp ngân sách nhà nước của bà Lê Thị Vân. Sau khi tiến hành

họp liên ngành (Tòa án – Viện kiểm sát- THADS), Tòa án nhân dân quận

Đống Đa ra quyết định số 50/2019/QĐMGTHA-TA ngày 09/07/2019 về việc

miễn giảm thi hành án dân sự cho bị án Lê Thị Vân khoản thu nộp ngân sách

nhà nước số tiền là 7.582.000 đồng tại Bản án hình sự sơ thầm số

152/2008/HSST ngày 29/4/2008 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa. Ngày

25/7/2019, Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa ra quyết định số 28/QĐ-

CCTHADS về việc đình chỉ thi hành án đối với Lê Thị Vân.

Đối với hồ sơ 85HS/09, người phải thi hành án né tránh, kéo dài thời

gian thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự (hơn 10 năm). Việc thực hiện miễn

giảm thi hành án hình phạt bổ sung thể hiện sự mềm mỏng của pháp luật, hỗ

trợ người phải thi hành án một phần nghĩa vụ khi họ không đủ điều kiện thi

hành án cũng như giảm tải hồ sơ tồn đọng cho Chấp hành viên. Tuy nhiên,

đây cũng là một khó khăn đối với cơ quan thi hành án dân sự bởi những

khoản phải thi hành như truy nộp, phạt, bồi thường…đều có giá trị lớn, người

phải thi hành án đều không có ý thức thực hiện, không về nơi cư trú hoặc

không có nhu cầu xóa án tích dẫn đến thời gian theo dõi hồ sơ kéo dài, gây

tồn đọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả công tác.

39

 Bản án số 298/2018/HSPT ngày 14 tháng 05 năm 2018 của Tòa án

nhân dân cấp cao tại Hà Nội;Bản án số 33/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm

2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đối với vụ án tham ô tài sản,

cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng của Đinh La

Thăng và đồng phạm.

-Đối với hoản thi hành án phần án phí thu cho ngân sách nhà nước:

Cục Thi hành án dân sự TP Hà Nội đã ra quyết định thi hành án chủ động thi

hành các khoản án phí của những người phải thi hành án theo nội dung quyết

định của Bản án. Hiện tại, về khoản thi hành án chủ động còn lại đang thi

hành tạiQuyết định THA chủ động số 1349/QĐ-CTHADS ngày 22 tháng 06

năm 2018 của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự TP Hà Nội, cụ thể:

Khoản phải thi hành

+ Đinh La Thăng phải nộp: 200.000 đồng APHSST; 200.000 đồng

APHSPT; 138.000.000 đồng APDSST;

+ Phùng Đình Thực, Nguyễn Xuân Sơn, mỗi người phải nộp: 200.000

APHSST và phải nộp 115.500.000 đồng APDSST;

+ Nguyễn Quốc Khánh phải nộp: 200.000 APHSST; 200.000 APHSPT

và 115.500.000 đồng APDSST;

+ Ninh Văn Quỳnh phải nộp: 200.000 đồng APHSST; 200.000 đồng

APHSPT và 114.000.000 đồng APDSST;

+ Lê Đình Mậu phải nộp: 200.000 APHSST; 79.218.640 APDSST.

+ Vũ Hồng Chương, Trần Văn Nguyên mỗi người phải nộp: 200.000

APHSST; 200.000 APHSPT và 79.218.640 APDSST.

+ Nguyễn Ngọc Quý, Nguyễn Mạnh Tiến mỗi người phải nộp: 200.000

APHSST và 114.000.000 APDSST;

+ Phạm Tiến Đạt, Trương Quốc Dũng mỗi người phải nộp 200.000

APHSST và 79.218.640 APDSST.

40

Khoản đã thi hành

+ Phùng Đình Thực đã nộp: 115.700.000 đồng

+ Nguyễn Xuân Sơn đã nộp: 115.700.000 đồng

+ Nguyễn Quốc Khánh đã nộp: 115.900.000 đồng

+ Ninh Văn Quỳnh đã nộp: 114.400.000 đồng

+ Lê Đình Mậu đã nộp: 79.418.640 đồng

+ Vũ Hồng Chương đã nộp: 79.618.640 đồng

+ Nguyễn Mạnh Tiến đã nộp: 114.200.000 đồng

+ Phạm Tiến Đạt: đã nộp 79.400.000 đồng

+ Trương Quốc Dũng: đã nộp: 200.000 đồng; 50.000.000 đồng

APDSST

Khoản còn phải thi hành

+ Đinh La Thăng phải nộp: 200.000 APHSST; 200.000 APHSPT;

138.000.000 đồng APDSST;

+ Trương Quốc Dũng phải nộp: 29.400.000 APDSST.

+ Khoản phải THA của Trần Văn Nguyên đã ủy thác đi Chi Cục thi

hành án dân sự thành phố Thái Bình và Nguyễn Ngọc Quý ủy thác Chi Cục

thi hành án dân sự Bà Rịa Vũng Tàu.

Để thi hành quyết định của Bản án đã có hiệu lực pháp luật, thu hành

khoản án phí cho Nhà nước và đảm bảo quyền lợi của người được THA, cơ

quan thi hành án đã liên tục đôn đốc, thuyết phục những người phải thi hành

án và gia đình tự nguyện thi hành án đối với khoản thi hành án chủ động về

án phí; tiến hành xác minh điều kiện thi hành án đối với tài sản của ông Đinh

La Thăng và bà Lê Thị Lê. Cục Thi hành án TP Hà Nội đã có Công văn gửi

Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hà Nội đề nghị cung cấp thông tin về

nhà đất của 09 người phải thi hành án trong bản án và đề nghị không làm thủ

tục chuyển quyền sở hữu cho đến khi có văn bản của cơ quan thi hành án và

41

công văn gửi Sở Tư pháp thành phố Hà Nội ngăn chăn việc chuyển nhượng

trên mạng UCHI.

-Đối với khoản thi hành án bồi thường cho PVN: Ngay sau khi người

được thi hành án nộp đơn yêu cầu THA, Cục Thi hành án dân sự TP Hà Nội

đã ra Quyết định thi hành án số 396/QĐ-CTHADS ngày 26/12/2018 thi hành

khoản bồi thường cho PVN số tiền 117.804.660.196 đồng.

Khoản phải thi hành án:

Buộc Đinh La Thăng, Phùng Đình Thực, Nguyễn Quốc Khánh, Vũ Đức

Thuận, Nguyễn Ngọc Quý, Nguyễn Mạnh Tiến, Ninh Văn Quỳnh, Trần Văn

Nguyên, Vũ Hồng Chương, Lê Đình Mậu cùng với Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn

Xuân Sơn, Phạm Tiến Đạt và Trương Quốc Dũng bồi thường cho Tập đoàn

Dầu Khí Việt Nam (PVN) số tiền 117.804.660.196 đồng.

Tiếp tục duy trì lệnh kê biên tài sản của Cơ quan An ninh điều tra, Bộ

Công an để đảm bảo cho việc thi hành án: Biệt thự số AD02-16 Khu đô thị

sinh thái Vinhomes Riverside, Căn hộ số 15F05, The Costa 32-34 Trần Phú,

thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xe ô tô Mazda CX5 màu trắng, biển

kiểm soát 30A-970.97 đã giao cho Trịnh Hùng Cường (con trai Trịnh Xuân

Thanh) bảo quản và phong tỏa tài khoản, sổ tiết kiệm của vợ, chồng Trịnh

Xuân Thanh, Trần Dương Nga cùng 02 con trai (Trịnh Hùng Cường, Trịnh

Hùng Phương) phong tỏa chứng khoán do Trịnh Xuân Thanh và Trần Dương

Nga (vợ bị cáo Trịnh Xuân Thanh), không cho chuyển nhượng để đảm bảo thi

hành án.

Khoản đã thi hành án và khoản còn phải thi hành án

Tính đến thời điểm 19/02/2019, những người phải thi hành án trên đã

thi hành án khoản bồi thường cho PVN như sau:

42

Khoản

còn phải

STT Người phải THA

Khoản phải THA Khoản đã THA

THA

1

Đinh La Thăng

30,000,000,000

1,000,000,000

29,000,000,000

2

Trịnh Xuân Thanh

30,000,000,000

-

30,000,000,000

3

Phùng Đình Thực

7,500,000,000

1,000,000,000

6,500,000,000

4

Nguyễn Xuân Sơn

7,500,000,000

7,500,000,000

5

Vũ Đức Thuận

7,500,000,000

500,000,000

7,000,000,000

6

Nguyễn Quốc Khánh 5,500,000,000

5,500,000,000

-

7

Nguyễn Ngọc Quý

6,000,000,000

6,000,000,000

8

Nguyễn Mạnh Tiến

6,000,000,000

6,000,000,000

-

9

Ninh Văn Quỳnh

6,000,000,000

300,000,000

5,700,000,000

10

Trần Văn Nguyên

2,360,932,039

2,360,932,039

11

Vũ Hồng Chương

2,360,932,039

2,360,932,039

12

Lê Đình Mậu

2,360,932,039

2,360,932,039

13

Phạm Tiến Đạt

2,360,932,039

40,000,000

2,320,932,039

2,360,932,039

14

Trương Quốc Dũng

2,360,932,039

Tổng

117,804,660,195

101,103,728,156

16,700,932,039

(Nguồn: Vụ thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân Tối cao)

Tổng số tiền những người phải thi hành án đã nộp bồi thường cho PVN

là 16.700.932.039 đồng(Mười sáu tỷ, bảy trăm triệu, chín trăm ba hai nghìn,

không trăm ba chín đồng).

- Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đã làm

thủ tục chuyển số tiền 16.700.932.039 đồng cho PVN, còn lại số tiền

43

300.000.000 đồng của Ninh Văn Quỳnh đã nộp tại Cục THADS TP Hà Nội

do Bản án tuyên số, ngày của biên lai không khớp với số, ngày biên lai thực tế

Ninh Văn Quỳnh đã nộp, do đó, Chấp hành viên chưa xử lý chuyển số tiền

này cho PVN. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đã gửi Công văn cho

Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội để đính chính, sửa đổi bổ sung nội dung

bản án đối với số tiền trên của Ninh Văn Quỳnh.Ngay sau khi có đính chính

của Tòa án, Chấp hành viên sẽ tiến hành thủ tục chuyển trả cho PVN số tiền

trên theo quy định. Đã thu thêm được 860.932.039 đồng của Lê Đình Mậu.

Trong vụ việc này người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Số lượng người phải thi hành án nhiều, phần lớn hiện đang thụ hình tại các

trại giam khác nhau, trên các địa bàn tỉnh khác nhau, vì vậy, Chấp hành viên

khó khăn trong quá trình tiếp xúc, đôn đốc, giải quyết việc thi hành án, dẫn

đến việc tổ chức thi hành án kéo dài. Một số trường hợp người phải THA như

Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Xuân Sơn hiện đang trong quá

trình điều tra vụ án khác, Chấp hành viên muốn tiếp xúc, làm việc phải được

chấp thuận và giám sát của Cơ quan an ninh điều tra.Đối với các tài sản trong

quá trình điều tra, xét xử, cơ quan an ninh điều tra - Bộ Công an đã kê biên,

phong tỏa của những người phải thi hành án, Cục THADS TP Hà Nội chưa

nhận được các tài liệu liên quan để có căn cứ xử lý tài sản thi hành các khoản

thi hành án nêu trên. Nội dung Bản án tuyên nhiều phần chưa rõ, cụ thể: Số

tiền phải thi hành án theo như nội dung quyết định thi hành án tuyên không

rõ, cụ thể: theo như nội dung của Bản án, những người phải thi hành án phải

bồi thường cho PVN số tiền 117.804.660.196 đồng, tuy nhiên, khi cộng tổng

khoản phải thi hành án là 117.804.660.195 đồng, ngày 18/9/2018 Cục Thi

hành án dân sự thành phố Hà Nội đã có công văn gửi Tòa án đính chính, sửa

đổi, bổ sung nội dung bản án.

44

 Bản án hình sự sơ thẩm số 479/2013/HSST ngày 16/12/2013 của Tòa

án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án hình sự phúc thẩm số

235/2014/HSPT ngày 07/5/2014 của Tòa phúc thẩm tại Hà Nội - Tòa án nhân

dân tối cao(gọi chung là vụ Vinalines-Dương Chí Dũng và các đồng phạm

khác - Vụ Vinalines do Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ủy thác cho

Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa, theo Quyết định ủy thác số

160/QĐ.CTHA ngày 08/3/2016).

Khoản còn phải thi hành

Trần Hữu Chiều còn phải bồi thường cho Tổng Công ty Hàng Hải Việt

Nam số tiền 38.419.440.000 đồng và lãi chậm thi hành án.

Kết quả xác minh hiện nay Trần Hữu Chiều không còn tài sản, điều

kiện thi hành án trên địa bàn thành phố Hà Nội.Thực hiện hướng dẫn, chỉ đạo

tại Công văn số 4251/TCTHADS-NV2 ngày 20/11/2017 của Tổng cục Thi

hành án dân sự - Bộ Tư pháp và Công văn số 471/CTHADS ngày 07/12/2017

về thi hành nghĩa vụ liên đới “vụ Vinalines” của Cục Thi hành án dân sự thành

phố Hà Nội, Chi cục THADS quận Đống Đa đã thực hiện ủy thác cho Chi cục

Thi hành án dân sự Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thi hành khoản

còn phải thi hành liên đới bồi thường cho Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam,

với số tiền38.419.440.000 đồng và lãi chậm thi hành án.

Thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự đối với các bản án, quyết định hình

sự còn cho thấy, có những bản án, quyết định của Tòa án đưa ra thi hành còn

vướng mắc do tuyên chưa chính xác, rõ ràng, cụ thể. Cơ quan thi hành án dân

sự đã có văn bản yêu cầu giải thích. Tuy nhiên, Tòa án hoặc giải thích không

đúng nội dung văn bản yêu cầu hoặc không trả lời. Khi ra quyết định thi hành

án hoặc trong quá trình tổ chức thi hành án phát hiện bản án, quyết định của

Tòa án có những vi phạm theo qui định của pháp luật tố tụng, Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự đã có văn bản kiến nghị người có thẩm quyền xem

45

xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự

giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật. Quá thời hạn qui định,

vẫn không nhận được văn bản trả lời của Tòa án hoặc có văn bản trả lời

không đúng thực tế, không có căn cứ. Hy hữu người có thẩm quyền chấp nhận

văn bản kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự để ra quyết định kháng

nghị, mặc dù cơ quan thi hành án dân sự kiến nghị có căn cứ, đúng qui định

của pháp luật. Như vậy, Tòa án chưa làm tròn vai trò, trách nhiệm của mình

trong công tác thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết định hình sự. Hay

nói chính xác hơn, chưa có trách nhiệm đối với bản án, quyết định của mình

đã ban hành

2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thi hành nghĩa vụ dân sự trong các

bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân

2.3.1. Những thuận lợi và các yếu tố tích cực

Nhìn chung, công tác thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự

tại Thành phố Hà Nội được thực hiện đầy đủ, công tâm, đảm bảo quyền lợi

cho đương sự và những người có liên quan, xử lí nghiêm hành vi vi phạm, tạo

sức răn đe, giúp chủ thể dè chừng, hạn chế vi phạm trên thực tế.

Các hình phạt trong thi hành NVDS được áp dụng đồng đều, kịp thời,

đúng lúc đã giúp các chủ thể chấn chỉnh hành vi, nhận thức của mình. Trình

tự, thủ tục thi hành NVDS được thực hiện tuần tự, đúng luật khiến cho công

tác thi hành án được đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Các vụ án oan sai

về bồi thường thiệt hại chưa thỏa đáng giảm đi một cách đáng kể.

Ngoài ra công tác truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính diễn ra chặt

chẽ, có sự phối hợp đồng đều giữa các cơ quan nhà nước cũng như cá nhân

đảm bảo cho công tác này thực sự hiệu quả; công tác xử lý vật chứng nghiêm

ngặt, rõ ràng đã đem lại uy tín cho công tác thi hành án.

46

Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan

liên ngành như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân

tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức thi hành án.

2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế bất cập

Một là, trả lại tài sản là một trong những loại việc chủ động thi hành án

mà các cơ quan thi hành án dân sự thường xuyên phải tổ chức thi hành. Việc

trả lại tài sản được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 36; Điều 47;

Điều 126 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014; Điều 49 Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự ; Điều 13 Thông

tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục

về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự.Có thể

thấy các quy định của pháp luật đã tương đối đầy đủ về vấn đề này, tuy nhiên,

trong thực tiễn việc hoàn trả tài sản thi hành án còn gặp rất nhiều khó

khăn.Thứ nhất, người được trả lại tài sản không đến nhận tài sản. Trong quá

trình giải quyết hồ sơ thi hành án có nhiềutrường hợp bản án tuyên trả lại tài

sản những loại tài sản có giá trị nhỏ (ví dụ như: ví túi xách, ví da đã qua sử

dụng bị trầy bóc, mũ, điện thoại hay những vật dụng có giá trị thấp, đã qua sử

dụng, thậm chí không còn giá trị sử dụng, cá biệt có cả những bản án, quyết

định tuyên trả lại những tài sản có giá trị rất nhỏnhư: ốc vít, chiếc chìa

khóa….dẫn đến đương sự không đến nhận lại tài sản được hoàn trả do “ ngại”

phảibỏ thời gian, công sức để lấy lại. Một số trường hợp đương sự đi tù không

có than nhân ủy quyền đến nhận tài sản, chuyển địa chỉ đi nơi khác hoặc

không thể xác định được địa chỉ của đương sự,… dẫn đến tình trạng cơ quan

thi hành án dân sự báo gọi nhiều lần nhưng đương sự không đến nhận tài sản,

việc tổ chức thi hành án bị kéo dài, gặp nhiều khó khăn.Thứ hai, Thủ tục trả

47

lại tài sản còn bất cập.Về mặt pháp lý, trình tự thủ tục hoàn trả các tài sản có

giá trị nhỏ như con dao, quần áo… hoặc các tài sản có giá trị lớn hơn cho

đương sự đều phải thực hiện theo trình tự thủ tục chung do pháp luật quy

định. Theo quy định tại Điều 126 Luật Thi hành án dân sự, sau khi có quyết

định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời

gian, địa điểm nhận lại tiền, tài sản. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được

thông báo mà đương sự không đến nhận tiền thì Chấp hành viên gửi số tiền đó

theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho đương sự. Hết thời

hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài

sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo quy

định tại các Điều 98, 99 và 101 của Luật Thi hành án dân sự và gửi số tiền thu

được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương

sự. Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có

lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà

nước. Việc quy định một trình tự, thủ tục chung khi trả lại cho các loại tài sản

này gây ra khá nhiều bất cập trong thực tiễn.Vấn đề vướng mắc là thời gian để

xử lý tài sản trong trường hợp đương sự không đến nhận vẫn còn quá dài (hết

thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà

đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý

do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước).

Việc này gây ra không ít khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án, tốn kém

thời gian, công sức của Chấp hành viên.

Hai là, công tác thi hành NVDS còn chưa được đánh giá cao, chưa thể

hiện tính răn đe đối với người phải thi hành án, dẫn đến một số cá nhân khinh

thường pháp luật, không chấp hành nghiêm luật pháp và thực hiện đầy đủ

48

nghĩa vụ của mình. Cơ chế thi hành án chưa thực sự đầy đủ, chặt chẽ đã tạo ra

lỗ hỏng cho việc không thi hành án, thi hành án chậm trễ, rời rạc…

Ba là, trong một vài vụ án, công tác phối hợp giữa cơ quan tố tụng với

cơ quan THADS còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu; việc đính chính, giải

thích bản án, chuyển giao vật chứng, các tài liệu liên quan có trường hợp còn

chưa kịp thời; việc áp dụng các biện pháp chế tài đối với các trường hợp cố ý

không thi hành án hoặc chống đối, tẩu tán tài sản, cản trở thi hành án còn

chưa nghiêm.

Bốn là, công tác phối hợp với cơ quan công an trong việc tống đạt các

quyết định của cơ quanthi hành án, xác minh điều kiện thi hành án trong trại

giam. Bên cạnh đó một số trại giam, trại tạm giam không thông báo hoặc

thông báo chậm trễ việc phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại trại mình

phụ trách cho cơ quan Thi hành án dân sự biết. Do đó rất khó khăn cho các cơ

quan Thi hành án dân sự khi thực hiện việc thông báo về thi hành án; thu tiền,

tài sản, trả lại tài sản… cho người phải thi hành án đang thực hiện hình phạt

tù. Ngoài ra, một số trại giam không phối hợp chặt chẽ, sát sao với cơ quan thi

hành án trong công tác tống đạt các văn bản, quyết định của cơ quan thi hành

án dân sự hoặc việc phạm nhân nộptiền để thi hành án cũng được thông báo

chậm trễ dẫn đến tình trạng kéo dài quá trình tổ chức thi hành án gây mất thời

gian, tồn động hồ sơ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án.

Năm là, số bị cáo bị phạt tiền quá ít, đa phần và chủ yếu là tù có thời

hạn từ thực trạng này gây khó khăn cho cán bộ trong công tác thi hành án dân

sự. Phạt tiền là một trong số những hình phạt bổ sung của bản án, quyết định

hình sự mà cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành, tuy nhiên là không

nhiều song nếu có thì số tiền cũng không hề nhỏ. Những người phải thi hành

án khoản này đều không có ý thức chấp hành án, cố tình chầy ì kéo dài thời

gian mặc cho cơ quan thi hành án vận động, đốc thúc. Bên cạnh đó các hạn

49

chế, khó khăn, vướng mắc trong các vụ việc thi hành án thu hồi tài sản trong

các vụ án hình sự về kinh tế - tham nhũng nói riêng và các vụ việc thi hành

phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án nói chung có giá

trị phải thi hành lớn nhưng chưa thể xác minh được tài sản, điều kiện của

người phải thi hành án, hoặc người phải thi hành án không có điều kiện thi

hành án, hoặc tài sản để thi hành án có giá trị rất nhỏ so với khoản phải thi

hành và là tài sản chung với người khác.

Sáu là, thân nhân của người phải thi hành án khi đến các cơ quan Thi

hành án dân sự nộp tiền, tài sản thay cho người phải thi hành án không cung

cấp Bản án của Toà án, Quyết định thi hành án của cơ quan Thi hành án dân

sự hay các tài liệu khác có liên quan. Điều đó rất khó khăn cho cán bộ, công

chức thi hành án, phải mất nhiều thời gian tra cứu hồ sơ, sổ sách để có đủ cơ

sở thu tiền, tài sản. Do có rất nhiều trường hợp Bản án của Toà án, Quyết định

thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự đã ban hành trên 10 (mười) năm,

thân nhân của người phải thi hành án mới đến nộp tiền, trong khi hiện nay

phần mềm để theo dõi của các cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn mới

đi vào hoạt

2.3.2.2. Nguyên nhân

Thứ nhất, về mặt thể chế,mặc dù Luật Thi hành án Hình sự và Thông tư

liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/2/2013 của Bộ Tư pháp,

Bộ Công an và Bộ Tài chính đã có những quy định về việc phối hợp giữa cơ

quan THADS và cơ quan thi hành án hình sự trong thủ tục thu, nộp, quản lý

tiền, giấy tờ của người phải thi hành án dân sự và trả tiền, giấy tờ cho người

được THADS là phạm nhân. Tuy nhiên, việc thực hiện phối kết hợp giữa hai

hoạt động này vẫn còn những bất cập nhất định, đặc biệt là việc thông tin giữa

trại giam, cơ sở giam giữ về nơi chấp hành hình phạt tù của người phải thi

hành án là phạm nhân đôi lúc còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ. bên cạnh đó

50

một số trại giam, trại tạm giam không thông báo phạm nhân đang chấp hành

hình phạt tù tại trại mình phụ trách cho cơ quan Thi hành án dân sự biết, do

đó rất khó khăn cho các cơ quan Thi hành án dân sự khi thực hiện việc thông

báo về thi hành án; thu tiền, tài sản, trả lại tài sản… cho người phải thi hành

án.

Thứ hai, về cơ chế đảm bảo thi hành án, cần có sự liên kết chặt chẽ

giữa các giai đoạn bắt đầu tố tụng đến giai đoạn THADS. Theo quy định tại

Điều 122 Luật THADS thì vật chứng, tài sản tạm giữ trong bản án, quyết định

hình sự do yêu cầu phục vụ việc xét xử mà chưa được chuyển cho cơ quan

THADS trong giai đoạn truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng

Hình sự thì phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự tại thời điểm Tòa

án chuyển giao bản án, quyết định.

Theo quy định trên thì việc chuyển giao vật chứng tài sản tạm giữ trong

bản án, quyết định hình sự có thể thực hiện cùng thời điểm với thời điểm

chuyển giao bản án, quyết định.Do THADS là giai đoạn tiếp theo của quá

trình tố tụng nên cơ quan THADS cần phải nắm được các thông tin cần thiết

và sớm nhất có thể về tài sản, giấy tờ của các bị can, bị cáo trong các vụ án

hình sự để có cơ sở bảo đảm tổ chức thi hành hiệu quả phần tiền và tài sản có

liên quan trong các bản án, quyết định về hình sự. Do đó, vai trò chủ động của

cơ quan THADS và cơ quan điều tra cần phải được phát huy nhiều hơn nữa

trong việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, vật chứng, tài sản tạm giữ có liên

quan đến vụ án từ cơ quan điều tra trong giai đoạn tố tụng.

Thứ ba, THADS, đặc biệt là thi hành án đối với các đối tượng mà

người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù là một bài toán thật sự

nan giải. Thực trạng không có tiền, tài sản dẫn đến không có điều kiện để thi

hành án được lặp đi lặp lại với hầu hết các vụ việc THADS trong hình sự vẫn

là một trong những khó khăn lớn trong việc tổ chức thi hành đối với các loại

51

bản án, quyết định này, đòi hỏi phải sớm có giải pháp khả thi. Một số trường

hợp là người phải thi hành án thi hành cùng một lúc nhiều bản án hoặc đang

trong thời gian điều tra nhiều vụ việc dẫn đến cơ quan thi hành án dân sự

không thể tiếp xúc được với người phải thi hành cũng như không thể xử lý

được tài sản để thi hành theo pháp luật do sự chồng chéo của bản án cũng như

chức năng của các cơ quan thi hành.

Thứ tư, công tác quản lý nhân khẩu sau khi người phải thi hành án chấp

hành xong hình phạt tù cũng là một vấn đề còn bị bỏ ngỏ. Sau khi mãn hạn tù,

người phải thi hành án bỏ đi lang thang, không xác định được địa chỉ, nơi cư

trú. Đây cũng là một trong số các nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng án tồn

đọng lớn hiện nay.

Tiểu kết chương

Chương 2 đã tập trung làm rõ thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong

các bản án, quyết định hình sự với các số liệu cụ thể, sinh động làm minh

chứng để từ đó đánh giá ưu điểm, hạn chế cũng những nguyên nhân tồn tại.

Những phân tích này làm nền tảng, kim chỉ nam cho việc đề ra các giải pháp

khắc phục, hướng đi thực tế tại chương 3.

52

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ

TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thi

hành NVDS trong Bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án

nhân dân

Để giải quyết một số bất cập trong quy định của pháp luật và những

khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành NVDS

trong các bản án, quyết định hình sự nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của

công tác thi hành án dân sự, tác giả xin đưa ra một số định hướng sau:

Một là, quán triệt quan điểm, định hướng của Đảng về công tác thi

hành án nói chung và thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói

riêng, trên cơ sở Nghị quyết số 49 - NQTW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: Xây dựng cơ chế

bảo đảm mọi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi

hành theo đúng quy định của pháp luật. Theo tinh thần đó, nhiệm vụ thi hành

bản án, quyết định của Tòa án phải được đảm bảo bằng cơ chế mang tính

quyền lực nhà nước, đây được coi như một nguyên tắc mang tính định hướng

cho toàn bộ hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng,

mà trong đó, thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự cũng

cần phải được quan tâm, chú trọng.

Hai là, cần phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về

THADS phù hợp với tình hình mới của đất nước giai đoạn hiện nay, trong đó

có chế định pháp luật về thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định

hình sự và các văn bản pháp luật liên quan, hướng dẫn để áp dụng thuận tiện

53

pháp luật THADS về thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình

sự. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập trật tự và nâng cao hiệu quả

hoạt động THADS; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; phát huy tính tích cực,

chủ động của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và tăng cường sự tham

gia của nhân dân, cùng các tổ chức xã hội vào quá trình thực hiện pháp luật

THADS. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCH Việt Nam và

phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần tiếp tục hoàn thiện

các nguyên tắc, thủ tục thi hành án dân sự nói chung và thi hành phần nghĩa

vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự mang tính đặc thù, nhằm bảo

đảm tính đồng bộ, khả thi, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.

Ba là, tiếp tục đổi mới về tổ chức bộ máy Cơ quan thi hành án dân sự

và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ về số lượng cũng như đảm bảo về

chất lượng. Theo đó, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự cần được thiết kế

hợp lý, khoa học và hiện đại, chuyên nghiệp về cơ cấu tổ chức và điều kiện,

phương tiện làm việc; đặc biệt, cần xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động thi hành án

dân sự. Về đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác thi hành án dân sự,

nhất là người có chức danh tư pháp, cần có quy định cụ thể như đề cao nhiệm

vụ quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về

chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến

thức xã hội đối với từng vị trí chức danh, chức vụ trong công tác quản lý, sử

dụng cán bộ của ngành thi hành án dân sự.

Bốn là, cần tăng cường hoạt động giám sát của Đảng, các cơ quan nhà

nước và nhân dân đối với hoạt động thi hành án dân sự nhằm bảo đảm hiệu

lực, hiệu quả thi hành của bản án, quyết định của Tòa án, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của đương sự và những người có quyền, lợi ích liên quan khác.

Bên cạnh đó, hoạt động thi hành án dân sự nói chung và thi hành NVDS trong

54

các bản án, quyết định hình sự nói riêng còn đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ

đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự hỗ trợ phối hợp chặt chẽ

của các cơ quan, đơn vị có liên quan và của mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Năm là, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự: Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình

phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”. Hiến pháp 2013 đã

có hiệu lực, trong Hiến pháp 2013 đã dành hẳn chương II qui định về quyền

con người và gần đây Quốc hội đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về

chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo

hoặc hạ nhục con người. Mặc dù Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017 đã có

những ưu việt nhất định nhưng vẫn không tránh khỏi những tụt hậu so với

thực tiễn nên cũng cần tiếp tục phải được hoàn thiện để bắt kịp thực tiễn.

Ngày 22 tháng 3 năm 2014 Chính phủ cũng ban hành nghị quyết số 22/NQ-

CP chuyên đề xây dựng pháp luật cũng đã quyết nghị về những định hướng

lớn xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi) hướng tới sao cho có chất lượng, có

tính khả thi cao. Trong đó có định hướng bảo vệ quyền con người, giảm khả

năng áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không

mang tính giam giữ. Các quan điểm chỉ đạo xây dựng Bộ luật hình sự sửa đổi

đều hƣớng tới mục đích tăng phạm vi áp dụng các hình phạt về vật chất, giảm

phạm vi áp dụng các hình phạt tù.

3.2. Giải pháp cụ thể

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật

Để đảm bảo tính khả thi của các hình phạt về vật chất thì theo quan

điểm của tác giả cũng có một số kiến nghị để hoàn thiện như sau:

55

- Đối với hình phạt tiền thì cần phân hóa rạch ròi mức tối thiểu và tối đa

của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và hình phạt bổ sung; cần quy

định rõ thời hạn nộp tiền phạt để hạn chế tình trạng người bị kết án chây ỳ.

- Nhà làm luật trong quá trình soạn thảo cũng nên phân biệt hai trường

hợp không có điều kiện thi hành và trường hợp có điều kiện nhưng cố tình

không thi hành các hình phạt về vật chất. Đối với trường hợp người bị kết án

không có điều kiện thi hành thì cũng nên áp dụng chính sách nhân đạo của

pháp luật để hoãn hay miễn, giảm thi hành đối với họ. Đối với trường hợp

người bị kết án có điều kiện nhưng cố tình không thi hành thì phải quy định rõ

ràng và áp dụng hình thức lao động bắt buộc hoặc phải áp dụng các chế tài

nghiêm khác khắc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội không chấp

hành án” đối với họ nhằm thể hiện tính răn đe của pháp luật.

Thứ nhất, để khắc phục tồn tại, bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống

pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự thì

cầnquán triệt và thể chế hóa chủ trương xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công

tác thi hành án vào Bộ Tư pháp và để kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo

đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết định của Tòa án, của

tổ chức trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh... Chuẩn bị điều

kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống nhất công tác thi

hành án cũng như các Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị liên quan đến công tác thi

hành án; thực hiện việc đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án,

tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Việc giao cho một cơ quan chức

năng giúp Chính phủ quản lý tập trung, thống nhất công tác thi hành án là cần

56

thiết và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo

hướng gọn nhẹ, hợp lý và có hiệu quả.

Hoạt động thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu

thống nhất trong quản lý, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan

thi hành án và các cơ quan hữu quan, hạn chế hiệu quả của mỗi lĩnh vực thi

hành án, nhất là làm cho việc khắc phục án tồn đọng trong thi hành các nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự bị kéo dài. Việc ban hành Bộ luật

thi hành án trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều

chỉnh là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi

hành án trong tình hình hiện nay. Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự,phải coi

bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản

chỉ đạo toàn bộ nội dung của nó; tạo ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu

quả giữa cơ quan thi hành án với Cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát,

chính quyền địa phương trong việc tổ chức thi hành án; quy định rõ và mở

rộng quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thi hành án, chấp hành viên; quy

định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, tổ chức, công dân trong việc

thực hiện các yêu cầu của chấp hành viên trong quá trình thi hành án; xã hội

hóa một số hoạt động thi hành án dân sự; kế thừa, phát triển pháp luật về thi

hành án dân sự của nước ta, đồng thời có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm

của thế giới để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án, đáp ứng

yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thứ hai, việc quy định miễn, giảm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu

tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự đối với

người phải thi hành án thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước. Các quy

định về miễn, giảm chấp hành các hình phạt được qui định trong các văn bản

pháp luật như: Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017; Luật thi hành án dân sự

năm 2008 sửa đổi năm 2014; Thông tư số 10/2010/TTLT và mới đây Nghị

57

định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định người

phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành

được ít nhất bằng 1/50 khoản phải thi hành thì được xét miễn, giảm nghĩa vụ

thi hành. Song, theo phản ánh từ các cơ quan thi hành án, bên cạnh trường

hợp người bị kết án có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực

hiện nghĩa vụ của mình, thì nhiều đối tượng đang chấp hành hình phạt tù

chung thân, có hồ sơ thi hành án đã lâu năm nhưng không có tài sản để thực

hiện dẫn đến tốn kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước như: Người

bị kết án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản

chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy

định của pháp luật không được xử lý để thi hành án. Người không có thu nhập

hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người bị kết án

và gia đình họ, các trường hợp bị thiên tai, lũ lụt mà người bị kết án không

còn tài sản; không xác định được địa chỉ, nơi sinh sống hoặc tài sản của người

bị kết án cũng nằm trong diện được xem xét miễn giảm thi hành án. Chính vì

vậy, nên bổ sung trường hợp không xác định được địa chỉ, tài sản của người

bị kết án thì có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại.

Thứ ba, cần xây dựng các qui định pháp luật để thí điểm, nhân rộng,

tiến tới thực hiện xã hội hóa trên phạm vi cả nước công tác thi hành án theo

chủ trương của Đảng, bước đầu có thể xã hội hóa việc tống đạt các văn bản,

giấy tờ thi hành án dân sự và xác minh tài sản của người bị kết án... nhằm tạo

điều kiện cho các cơ quan thi hành án tập trung vào những công việc thi hành

án chủ yếu, giảm gánh nặng cho các cơ quan này do tình trạng quá tải về công

việc, đồng thời nâng cao tính chất xã hội, làm cho thi hành án trở thành mối

quan tâm chung của xã hội, là trách nhiệm của xã hội.

58

3.2.2. Tăng cường cơ sở vật chất

Cơ quan thi hành án giai đoạn trước đây là bộ phận thuộc Tòa án, đến

năm 1993 mới tách thành cơ quan độc lập nên cơ vật chất đang rất thiếu thốn

và thời gian gần đây mới được Nhà nước quan tâm nên đang dần được hoàn

thiện từng bước. Hiện nay rất nhiều cơ quan thi hành án có trụ sở nhỏ hẹp: ba

bốn chấp hành viên chung một phòng thậm chí bộ phận kế toán chung phòng

với chấp hành viên gây nhiều bất lợi trong công tác, không những thế nhiều

cơ quant hi hành án dân sự còn đang phải đi nhờ, thuê trụ sở ví dụ như trụ sở

ở một địa chỉ nhưng kho tang vật phải đi thuê ở một địa chỉ khác. Trang thiết

bị, phương tiện phục vụ công tác thiếu thốn rất nhiều. Điều này ảnh hưởng rất

lớn đến công tác thi hành nghĩa vụ dân sự nói chung và nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự nói riêng.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và phương tiện hoạt động

thi hành án, đảm bảo sự uy nghiêm và hiệu quả thi hành án, nhất là khi áp

dụng thi hành án bằng biện pháp cưỡng chế. Chú trọng đến việc phân bổ ngân

sách hợp lý cho hoạt động thi hành án, đảm bảo chế độ lương phù hợp nhằm

khuyến khích, động viên, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, nhân viên làm

công tác thi hành án nói chung cũng như cán bộ, chấp hành viên thi hành án

dân sự.

3.2.3. Hoàn thiện về bộ máy tổ chức, con người

Nâng cao năng lực, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng như

điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để trong quá trình chứng minh và giải

quyết trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng đồng thời phải chứng

minh và giải quyết khách quan, chính xác các quan hệ dân sự phát sinh do

hành vi phạm tội. Để nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản

án, quyết định hình sự, ngoài vấn đề hoàn thiện những quy định của pháp luật,

việc sắp xếp tổ chức, bộ máy của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án một

59

cách khoa học, hợp lý là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, cần kiện toàn

tổ chức, bộ máy, bố trí đội ngũ cán bộ các cơ quan này theo hướng sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, kiện toàn tổ chức, bộ máy

cơquan tiến hành tố tụng, cơ quan có nhiệm vụ thi hành án các cấp gắn với

phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể giữa chức năng, quyền hạn và trách

nhiệm giữa Bộ Tư pháp, Tòa án, cơ quan Công an từ cấp huyện, thị xã cho

đến các trại giam có nhiệm vụ cải tạo, giáo dục cho những phạm nhân là

những người phải thi hành nghĩa vụ dân sự.

Thứ hai, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến

thức cho cán bộ tiến hành tố tụng, cán bộ có nhiệm vụ thi hành án. Hiệu quả

hoạt động thi hành phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của cán bộ tiến

hành tố tụng, cán bộ có nhiệm vụ thi hành án. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ tiến hành tố tụng, cán bộ có nhiệm vụ

thi hành án là yêu cầu cấp bách hiện nay. Ngoài ra, không phải chỉ có thẩm

phán, thư ký phiên tòa, cán bộ các trại giam phải được nâng cao trình độ

nghiệp vụ, mà cán bộ làm công việc khác cũng cần được bồi dưỡng, đào tạo

kiến thức về tố tụng và về thi hành án. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống

giáo trình giảng dạy về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình

sự.

Ngoài ra, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Công an là cơ

quan hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo cao nhất về các công tác thi hành án cần

định kỳ mở các lớp tập huấn về thi hành án cho đội ngũ cán bộ thi hành án,

Tòa án, Công an ở các huyện, thị. Trong nội dung tập huấn, ngoài những kiến

thức về pháp luật hình sự, cần đi sâu về nghiệp vụ thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự như trình tự, nội dung, phương pháp thi

hành... nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và phổ biến những kinh

60

nghiệmhay cũng như các bài học thất bại của các địa phương, đơn vị để cùng

nhau học hỏi, rút kinh nghiệm.

Thứ ba, ổn định đội ngũ cán bộ có nhiệm vụ thi hành án theo hướng

chuyên môn hóa. Do đặc điểm của công tác Thi hành án, Tòa án, Công an, đội

ngũ cán bộ nói chung luôn có sự thuyên chuyển, dẫn đến sự xáo trộn về mặt

cán bộ. Số cán bộ theo dõi thi hành án có kinh nghiệm bị điều đi làm việc

khác, số cán bộ mới không tránh khỏi những lúng túng về mặt thủ tục, trình tự

thi hành án, thậm chí có những sai sót, sơ hở đáng tiếc trong quá trình thi

hành án. Vì vậy, để tạo điều kiện cho cán bộ có nhiệm vụ thi hành án có điều

kiện tích lũy kinh nghiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thì ngoài việc

đầu tư cho cho công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, thì việc bố

trí, ổn định cán bộ làm công tác này là một yêu cầu hết sức cần thiết.

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan liên quan

Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự là cơ quan thi hành án dân sự thuộc hệ thống cơ quan hành chính

chứ không thuộc hệ thống cơ quan lực lượng vũ trang nhưng lại thực hiện

nhiệm vụ mang đậm sự cưỡng chế nhà nước nên rất khó khăn khi thi hành

nhiệm vụ bởi không có lực lượng và không có phương tiện, trang thiết bị,

công cụ như ngành lực lượng vũ trang. Trong thực tiễn nhiều trường hợp

người bị kết án trốn tránh, chây ỳ thi hành nghĩa vụ dân sự mặc dù cơ quan thi

hành án dân sự đã áp dụng nhiều phương pháp nhưng vẫn không thi hành

được. Nhưng chỉ cần trại giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự yêu cầu thi

hành thì đối tượng phải thi hành án tìm mọi cách để thi hành xong khoản phải

thi hành. Như vậy, có thể thấy cơ quan thi hành án hình sự có tác động không

nhỏ đến kết quả thi hành án.

Trong công tác thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình

sự thì sự phối hợp của các cơ quan liên quan đóng một vai trò rất quan trọng.

61

Sự phối hợp của trại giam, cơ quan thi hành án hình sự thuộc cơ quan Công

an và sự phối hợp của chính quyền địa phương cũng như vai trò giám sát của

Viện kiểm sát là những tác nhân tích cực và rất hiệu quả. Các quy định hiện

hành về sự phối hợp tuy đã có nhưng chưa đầy đủ, chưa có tính hệ thống

trong đó có Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 cũng

đã quy định về sự phối hợp của các cơ quan này nhưng trong thực tiễn thời

gian qua thì sự phối hợp của các cơ quan này còn nhiều hạn chế đặc biệt là sự

phối hợp của cơ quan Công an vì lẽ đó mà Bộ Tư pháp, Công an đã phải xây

dựng Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/03/2012 của

liên Bộ quy định cụ thể về việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế thi hành án.

Nhưng khi vận dụng thông tư liên tịch này còn nhiều cách hiểu khác nhau.

Hay như liên Bộ Tư pháp, tài chính, Công an đã xây dựng thông tư liên tịch

số 07/2013/TTLT/BTP-BBCA-BTC ngày 06/02/2013 hướng dẫn việc thi

hành nghĩa vụ dân sự đối với các phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù. Về

sự phối hợp của địa phương liên bộ đã xây dựng thông tư liên tịch số

14/2011/TTLTBTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 11/7/2011 hướng

dẫn hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án.

Ngoài ra để xác minh điều kiện thi hành án về tài sản, thu nhập, tài

khoản của người bị kết án, liên bộ còn xây dựng thông tư liên tịch số

02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014. Chi tiết

hơn nữa là quy chế liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP- BCA-

TANDTCVKSNDTC ngày 09/10/2013 của liên Bộ, ngành về phối hợp liên

ngành trong công tác thi hành án dân sự. Tuy giữa Bộ Tư pháp và các Bộ,

ngành liên quan ngành đã xây dựng được khá nhiều quy định liên ngành về

công tác phối hợp trong thi hành án dân sự cũng như thi hành nghĩa vụ dân sự

trong các bản án, quyết định hình sự nhưng vẫn chưa đầy đủ và cũng chưa

62

quy định chế tài đối với sự chậm trễ, bất hợp tác của các cơ quan liên quan

khi được cơ quan thi hành án yêu cầu.

3.2.5. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động truyền đạt, giải thích

rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, lứa tuổi để mọi ngƣời biết các quy định của

pháp luật về thi hành án, vận động họ tuân thủ pháp luật về thi hành án với

tính cách như là một đòi hỏi tất yếu của mỗi công dân trong xã hội văn minh.

Vì vậy, phải coi biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói

chung và pháp luật về thi hành án nói riêng là biện pháp cơ bản thường

xuyên, có ý nghĩa quyết định trong công tác thi hành án.

Bản chất của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi

hành án là hoạt động có tổ chức và có định hướng của chủ thể giáo dục, tác

động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp

luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật về

thi hành án. Muốn nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật về thi hành án, bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm của các

tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức kinh tế, xã hội, cần phải đào tạo, bồi

dưỡng số cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự thuộc Công an, Tư

pháp, Viện Kiểm sát, Tòa án, giáo viên giảng dạy pháp luật, phóng viên, biên

tập viên chuyên mục phổ biến, giáo dục pháp luật của các báo, đài phát thanh,

vô tuyến truyền hình... Chính là việc bồi dưỡng, đào tạo, chuyên môn hóa đội

ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự. Để có thể nâng cao hiệu quả của biện pháp tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật, cần phải xác định rõ các mục đích của biện pháp

này.

63

Theo em, mục đích của biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật là:

- Trang bị tri thức pháp luật hình sự

- Trang bị tri thức pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự.

- Bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng nhân phẩm,

danh dự, sức khỏe của những người bị kết án.

- Hướng dẫn thói quen ứng xử tích cực theo pháp luật về thi hành nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự. Việc xác định đúng nội dung

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản

án, quyết định hình sự cho từng loại đối tượng là yếu tố có ý nghĩa quyết định

cho việc đạt tới mục đích của giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, nội dung tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật không thể tự thân đi vào nhận thức, tình

cảm của người được giáo dục, mà phải qua các kênh truyền tải thông tin, qua

các cách thức và biện pháp tác động nhất định, phù hợp với khả năng tiếp cận

của đối tượng giáo dục.

Theo tác giả luận văn thấy cần phải thực hiện các hình thức tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sau đây:

- Phổ biến, nói chuyện về thi hành án tại các cơ quan nhà nước, tổ chức

xã hội, địa bàn dân cư và các trường học, trong đó phải đặc biệt chú ý các địa

bàn có nhiều người bị kết án và phải thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và

các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự.

- Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin cổ động, các cuộc

thi tìm hiểu pháp luật về thi hành án. Đưa các văn bản pháp luật về thi hành

nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự vào tủ sách pháp luật theo

chương trình của Bộ Tư pháp.

64

- Tuyên truyền pháp luật về thi hành án qua các phương tiện truyền

thông đại chúng. Các báo chí, đài phát thanh, truyền hình nên có chuyên mục

pháp luật về về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân

sự trong bản án, quyết định hình sự nếu thực hiện đúng theo các yêu cầu về

mục đích, nội dung nói trên, thì chắc chắn đối tượng được tác động, giáo dục

sẽ có sự nhận thức đúng đắn về thi hành án.

3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự

Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và thi hành

án nói riêng, hợp tác quốc tế cũng đang trở thành vấn đề bức xúc bởi các lý do

sau:

Thứ nhất, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, xu thế quốc tế

hóa hoạt động phạm tội có tính chất quốc tế cũng đang diễn ra. Tội phạm có

tính chất quốc tế trở thành một hoạt động mang tính toàn cầu với tổ chức rộng

khắp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp. Vì những lẽ đó, số người nước

ngoài phạm tội phải thi hành nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam sẽ tăng lên.

Thứ hai, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN và nhiều tổ

chức quốc tế khác, cho nên hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh chống tội

phạm có tính chất quốc tế và thi hành án vừa là nhu cầu, vừa là nghĩa vụ quốc

tế của chúng ta. Vì vậy, cần tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau

giữa các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án với cơ quan thi hành án các nước

ASEAN, các nước láng giềng có chung biên giới và cơ quan thi hành án các

nước phát triển có kinh nghiệm giáo dục, cải tạo người bị kết án phải thi hành

nghĩa vụ dân sự. Các hoạt động hợp tác quốc tế của các cơ quan có nhiệm vụ

thi hành án phải quán triệt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà

65

nước là củng cố môi trường hòa bình, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế -

xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tiểu kết chương

Như vậy, chương3 đã nêu ra định hướng rõ ràng nâng cao hiệu quả

công tác thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự, tập trung làm nổi

bật các giải pháp thiết thực, hữu ích đối với công tácthi hành án. Các giải

pháp đưa ra là dựa trên thực trạng ở chương 2, giải pháp đầy đủ, bám sát thực

tiễn là vô cùng cần thiết đối với thi hành NVDS trong bản án và quyết định

hình sự.

66

KẾT LUẬN

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự đóng một

vai trò quan trọng. Nó đảm bảo cho bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên chế của

Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử phạm

tội, ngoài việc tước đi quyền tự do của những phần tử này thì Nhà nước còn

tước đi của những phần tử này về vật chất. Việc quy định thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự trong hệ thống pháp luật là nhằm góp

phần tích cực vào việc bảo vệ sự an toàn, vững mạnh của chế độ, bảo vệ tính

mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, danh dự của công dân. Những vi phạm về

trình tự, thủ tục trong quá trình thi hành án đều bị coi là những hành vi vi

phạm pháp luật; chúng không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ

quan có nhiệm vụ thi hành án, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị kết án, mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước. Như vậy, việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự còn đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích hợp

pháp của người bị kết án, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự là một việc làm không đơn giản, không phải là công việc một sớm,

mà phải đòi hỏi sự kiên trì, lâu dài, thường xuyên bằng nhiều biện pháp vừa

mang tính tổng thể vừa riêng biệt, cả ở cấp độ kế hoạch chung cho toàn xã

hội và cấp độ chuyên ngành. Trong những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự, mỗi giải

pháp đều có vai trò, vị trí quan trọng riêng, trong đó cần xác định rõ giải

pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự là giải pháp cơ bản, hàng đầu, giải pháp tuyên truyền, phổ biến,

67

giáo dục pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình

sự là giải pháp tích cực, giải pháp về tổ chức, bộ máy của các cơ quan có

nhiệm vụ thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là giải

pháp then chốt.

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Bộ luật

dân sự , Nxb Lao động, Hà Nội.

3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Bộ luật

Hình sự hiện hành (2016), Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hồ Chí

Minh.

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Thi

hành án dân sự , Nxb Lao động, Hà Nội.

5. Trường Đại học luật Hà Nội (2017), Gíao trình Thi hành án dân sự,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Diễn (2014) Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và

quyết định hình sự của Tòa án ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học,

Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Lê Xuân Hồng (2002) Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự ,

Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

8. Vũ Thị Phương Tú (2017) Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án

dân sự từ thực tiễn tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa,

Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

9. Tổng cục Thi hành án dấn sự (2019) “Báo cáo thông kê thi hành án dân

sự tháng 8 năm 2019”, https://moj.gov.vn/Pages/home.aspx

(21/09/2019).

10. Văn phòng Quốc hội (2014), “ Văn bản hợp nhất luật thi hành án dân

sự số 12/VBHN-VPQH”, http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-

ban-so-12-vbhn-vpqh-3083 (05/04/2019).

11. Ths. Hoàng Thanh Hoa- Ths.Quang Minh (2018), “Một số nguyên nhân

ảnh hưởng hiệu quả thi hành phần dân sự trong Bản án, Quyết định

69

hình sự”, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=2280 (15/7/2019).

12. Th.S Nguyễn Xuân Tùng (2016), “Ngày lịch sử của ngành Tư pháp, cơ

quan THADS”, http://baophapluat.vn/tu-phap/ngay-lich-su-cua-nganh-

tu-phap-co-quan-thi-hanh-an-dan-su-275266.html (05/04/2019).

13. Nguyễn Tuấn (2017), “Công tác phối hợp giữa cơ quan Thi hành án

dân sự và cơ quan Công an trong thi hành án dân sự - Thực trạng và

giải pháp nâng cao hiệu

quả”, http://thads.moj.gov.vn/tuyenquang/noidung/tintuc/lists/thongtink

hac/view_detail.aspx?itemid=67 (15/7/2019).

14. Th.S Hoàng Thị Thanh (2008) “Trả lại tài sản thi hành án- Một số bất

cập từ thực tiễn”,

http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/TuThucTien/View_Detail.

aspx?ItemID=584 (15/07/2019).

15. Tổng cục thi hành án dân (2018)”Một số giải pháp nhằm giải quyết khó

khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành phần dấn sự trong các bản

án hình sự”, Tài liệu hội thảo về những khóa khăn,vướng mắc trong

quá trình thi hành luật THADS và các văn bản hướng dẫn.

16. Cục THADS thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo kêt quả thi hành án

dân sự 9 tháng năm 2019.

17. Bộ Tư Pháp- Bộ Công an- Bộ Tài chính (2013) “Thông tư liên tịch số

07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 Huướng dẫn trình tự

thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải thi hành án dân

sự là phạm nhân”, Hà Nội.

18. Chính phủ (2015) “Nghị định số 62/2015/NĐCP ngày 18/07/2015 Quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật THADS”, Hà Nội

70

19. Chính phủ (2009), Nghị định 58/2009/NĐCP ngày 13/07/2009 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật của

Thi hành án dân sự và thủ tục Thi hành án dân sự, Hà Nội.

20. Chính phủ (2013), Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2103 của

Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 58/2009/NĐCP

ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều luật của Thi hành án dân sự và thủ tục Thi hành án

dân sự, Hà Nội.

21. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc

hội quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án

phí, lệ phí Tòa án, Hà Nội.

HỌC VIÊN

Ý KIẾN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG PGS.TS Bùi Nguyên Khánh

Ý KIẾN NGƯỜI HƯỚNG DẪN PGS.TS Ngô Thị Hường

Nguyễn Thị Thu Huyền

71