VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ XUÂN TIẾN
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ: LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ XUÂN TIẾN
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ TRẦN VĂN BIÊN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan rằng, nội dung được trình bày trong luận văn “ Quảng cáo
thương mại trực tuyến theo pháp luật Việt Nam hiện nay ” là công trình nghiên cứu
khoa học do chính tác giả thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần
Văn Biên và những tư vấn quý báu về chuyên môn của một số chuyên gia đang hoạt
động trong lĩnh vực quảng cáo và các cơ quan quản lý nhà nước.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Xuân Tiến
MỤC LỤC Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: ............................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ......................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................................ 4
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................ 4
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: ................................................................... 5
8. Kết cấu luận văn………………………………………………………………….6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN ................................................................................ 7
1.1. Khái quát về quảng cáo thương mại trực tuyến ................................................... 7
1.1.1. Quảng cáo thương mại ...................................................................................... 7
1.1.2. Quảng cáo thương mại trực tuyến ..................................................................... 8
1.1.2.1. Khái niệm quảng cáo thương mại trực tuyến ................................................. 8
1.1.2.2. Phân loại quảng cáo thương mại trực tuyến ................................................. 9
1.1.2.3. Đặc điểm của quảng cáo thương mại trực tuyến ......................................... 13
1.1.2.4. Lợi ích của quảng cáo thương mại trực tuyến ............................................. 14
1.1.2.5. Vai trò của quảng cáo .................................................................................. 19
1.1.2.6. Chức năng của quảng cáo ............................................................................ 21
1.2. Khái quát pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến ................................. 22
1.2.1. Khái niệm pháp luật quảng cáo thương mại trực tuyến .................................. 23
1.2.2. Cấu trúc pháp luật quảng cáo thương mại trực tuyến. .................................... 24
1.2.2.1. Chủ thể quảng cáo thương mại trực tuyến ................................................... 24
1.2.2.2. Điều kiện kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến ............................. 25
1.2.2.3. Quản lý nhà nước đối với quảng cáo thương mại trực tuyến ...................... 27
1.2.2.3.1. Về thẩm quyền phân cấp quản lý của các bộ ngành trong lĩnh vực quảng
cáo ............................................................................................................................. 27
1.2.2.3.2. Về thẩm quyền theo phân cấp của Ủy ban nhân dân và các cơ sở ở địa
phương....................................................................................................................... 29
1.2.2.3.3. Xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo ................................................ 31
1.2.2.4. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại trực tuyến .......... 31
Tiểu kết chương 1: ..................................................................................................... 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN .............................................................................. 37
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến ................ 37
2.1.1. Quy định về chủ thể quảng cáo thương mại trực tuyến .................................. 37
2.1.2. Quy định về điều kiện kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến ............ 40
2.1.3. Quy định về hợp đồng quảng cáo thương mại trực tuyến ............................... 41
2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước đối với quảng cáo thương mại trực tuyến 42
2.1.5. Quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại
trực tuyến ................................................................................................................... 45
2.1.5.1 Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: ............................................. 47
2.1.5.2. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................. 47
2.1.5.3. Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng .......................................................... 48
2.1.5.4. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch với cá nhân hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh ....................... 48
2.1.5.5. Quyền của người tiêu dùng .......................................................................... 49
2.1.5.6. Các hành vi bị cấm ....................................................................................... 50
2.1.5.7. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ..................... 51
2.1.5.8. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc
cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng ................................. 51
2.1.5.9. Trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa,
dịch vụ cho người tiêu dùng ...................................................................................... 52
2.1.5.10. Thực hiện điều kiện giao dịch chung ......................................................... 53
2.1.5.12. Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện...............................56
2.1.5.13. Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật .............................................. 54
2.1.5.14. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra ................ 55
2.1.6. Một số nhận xét, đánh giá về các quy định pháp luật về quảng cáo thương mại
trực tuyến.................................................................................................................56
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến ............... 60
2.2.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 60
2.2.2. Hạn chế, vướng mắc ...................................................................................... 600
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 63
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................. 64
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
................................................................................................................................... 64
3.1.1. Đảm bảo quyền tự do quảng cáo và quyền tự do kinh doanh của thương nhân
trong quan hệ dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng internet ........... 64
3.1.2. Đảm bảo tính thống nhất của các văn bản pháp luật ....................................... 66
3.1.3.Góp phần thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững 66
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến ................ 67
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quảng cáo thương mại trực
tuyến .......................................................................................................................... 67
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng cáo thương
mại trực tuyến ............................................................................................................ 69
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 71
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 754
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- QCTMTT: Quảng cáo thương mại trực tuyến
- QCTM: Quảng cáo thương mại
- OA(Online Advertising): Quảng cáo trực tuyến
- Internet Advertising: Quảng cáo trực tuyến
- BM (Buzz Marketing): Marketing tin đồn
- WMM (Words Of Mouth Marketing): Marketing truyền miệng
- SEM: Hình thức quảng cáo trực tuyến
- SEO (Search Engine Optimization): Là việc tối ưu hóa,
- PPC (Pay Per Click): Hình thức trả phí để website của mình hiển thị ở đầu kết
quả tìm kiếm
- CPM (Cost Per Thousand): Hình thức tính giá với một mức giá cố định cho
1000 lần hiển thị quảng cáo.
- TMĐT: Thương mại điện tử
- MXH: Mạng xã hội.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cuộc sống hiện đại ngày nay với nền kinh tế mở, toàn cầu hóa và cạnh tranh
ngày càng khốc liệt giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động, sản
xuất, kinh doanh trong cùng một ngành, lĩnh vực. Việc con người không có quá
nhiều thời gian rảnh rỗi khi mà máy tính và internet gắn chặt với mọi hoạt động
sống và làm việc của con người ở mọi lứa tuổi thì online marketing chính là công
cụ, phương tiện không chỉ riêng của nhà doanh nghiệp dùng để quảng bá (công ty,
sản phẩm, dịch vụ…) thông tin rộng rãi ra công chúng thông qua các kênh quảng
cáo của mình, mà những nhà cung cấp, phân phối có thể tìm kiếm khách hàng và
đạt mục tiêu không chỉ trong một vùng lãnh thổ nhất định mà có thể mở rộng phạm
vi trên toàn thế giới.
Thông qua các phương tiện, các kênh quảng cáo trực tuyến còn là công cụ để
người tiêu dùng, khách hàng tiếp cận, tìm hiểu mọi thông tin về nhà sản xuất, nguồn
gốc, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ mà mình quan tâm và chỉ tốn rất ít thời gian, chỉ
bằng một số thao tác đơn giản.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu sâu về lĩnh vực QCTMTT, hiểu rõ cách thức
vận hành của các phương tiện, công cụ, các kênh để thực hiện việc quảng cáo trực
tuyến, điều này cực kỳ quan trọng và góp phần định hướng và ứng dụng vào trong
việc vận hành một doanh nghiệp kinh doanh muốn hoạt động hiệu quả cao phải đẩy
mạnh quảng cáo thông tin ra công chúng thông qua kênh quảng cáo trực tuyến, vừa
hiệu quả cao lại tốn ít chi phí so với các cách thức quảng cáo truyền thống khác.
Với một doanh nghiệp không đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, ít người biết đến
thì không thể ký kết được nhiều hợp đồng, đồng nghĩa với không có hợp đồng sẽ là
không có doanh thu và lợi nhuận, điều này hoàn toàn khác biệt với một công ty mà
phòng (bộ phận) kinh doanh có rất nhiều nhân viên nhưng không làm tốt việc đẩy
mạnh kết nối, tương tác với khách hàng, trong khi đó các công cụ quảng cáo trực
1
tuyến luôn làm việc xuốt ngày đêm 24/24 giờ, thật mạnh mẽ, cung cấp thông tin cần
quảng cáo tới số lượng khách hàng khổng lồ mà có truy cập các thiết bị kết nối với
internet trên phạm vi toàn thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Sau một thời gian dài, từ khi hình thành ý tưởng chọn lĩnh vực “Quảng cáo
thương mại trực tuyến theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và thực
hiện luận văn tốt nghiệp, đến khi triển khai thực hiện việc nghiên cứu đề tài, tác giả
đã tìm hiểu, thu thập, tham khảo thông tin, tài liệu, dữ liệu về lĩnh vực này từ rất
nhiều nguồn khác nhau.
Tác giả đã gặp gỡ với các chuyên gia và những người đang hoạt động trong
lĩnh vực quảng quảng cáo, quản trị mạng, thiết kế web, một số người quản lý trong
các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực quảng cáo…để tìm hiểu và trao trao đổi
những vấn đề về chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động quản lý trong lĩnh vực quảng
cáo, quảng cáo thương mại trực tuyến và hoạt động kinh doanh thương mại điện tử
mà mình đang quan tâm.
Song song với đó, tác giả đã tìm hiểu, tổng hợp, sưu tầm và nghiên cứu các
công trình nghiên cứu1, các bài viết khoa học pháp lý, các văn bản pháp luật đang
điều chỉnh trong lĩnh vực quảng cáo nói chung và lĩnh vực QCTMTT nói riêng để
1 1. Phan Thị Lan Phương, “Pháp luật về quảng cáo - những bất cập và kiến nghị hoàn thiện”:
- Tác giả đã chỉ ra một số bất cập của pháp luật về Quảng cáo ở Việt Nam
- Đưa ra những một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quảng cáo
2. Nguyễn Thị Tâm - Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại”.
Những nội dung chính, nổi cộm của luận án:
Luận án đã làm giàu thêm cơ sở lý luận cho hoạt động QCTM
-
-
Là một trong những nguồn dữ liệu quan trọng trong việc xây dựng các chuẩn mực, định hướng
hướng phát triển pháp luật về QCTM của Việt Nam,là một trong những nguồn dữ liệu quan trọngđể
tham thảo, nghiên cứu hoa học.
- Góp phần quan trọng trong việc hoạch định chính sách thương mại, đề xuất và thực hiện các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về QCTM của Việt Nam.
-
Luận án đã đưa ra những giải pháp và đề xuất góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về
QCTM trong thời gian sắp tới.
2
từ đó tác giả có cái nhìn tổng quát về nghành QCTMTT và pháp luật đang điều
chỉnh như thế nào, tác giả đã dần từng bước thực hiện và hoàn thiện đề tài dưới sự
hướng dẫn khoa học của tiến sĩ Trần Văn Biên và sự đóng góp ý kiến quý báu của
một số chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan đến ngành QCTMTT.
Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo và kế thừa các công trình nghiên cứu khoa
học của các tác giả khác, tác giả nhận thấy rằng mỗi công trình nghiên cứu của các
tác giả khác nhau đều đề cập và tập chung nghiên cứu đến những nội dung, khía
cạnh, góc độ khác nhau trong “phạm trù” của lĩnh vực quảng cáo thương mại mà
các tác giả quan tâm, đam mê. “Quảng cáo thương mại trực tuyến” chỉ là một
“nhánh” nhỏ trong phạm trù “quảng cáo” nói chung và tác giả là người quan tâm,
nghiên cứu để góp phần nhỏ bổ xung thêm, hoàn thiện pháp luật trong phạm trù của
lĩnh vực quảng cáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm ra những bất cập, tồn tại, những lỗ
hổng pháp lý đang điều chỉnh về QCTMTT và đề xuất những phương hướng, kiến
nghị những giải pháp pháp lý cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về QCTMTT nói riêng và pháp luật về quảng cáo nói chung.
Quảng cáo thương mại trực tuyến (Online Advertising) là một trong những thể
loại quảng cáo phổ biến, hiệu quả cao trong thời đại ngày nay. Một hình thức quảng
cáo chi phí lại ít tốn kém hơn quảng cáo cổ điển, truyền thống và mang lại hiệu quả
cao hơn, đó cũng là vấn đề khiến tất cả các nhà kinh doanh quan tâm, nhưng làm thế
nào để thực hiện hiệu quả là vấn đề các nhà quản trị doanh nghiệp phải không
ngừng tìm kiếm, sáng tạo và có chiến lược phù hợp, thực tế hiện nay không phải
doanh nghiệp nào cũng biết và vận dụng, làm tốt việc này. Với sự phủ sóng của
internet trên phạm vi toàn thế giới, trong điều kiện hiện nay môi trường kinh tế toàn
cầu hóa sâu rộng và công nghệ đang phát triển một cách bùng nổ, nhanh chóng sẽ là
nền tảng cho quảng cáo thương mại trực tuyến phát triển mạnh mẽ, là tất yếu, xu thế
3
trong tương lai.
Thông qua đề tài nghiên cứu này, tác giả muốn tìm hiểu rõ hơn về QCTMTT
vai trò của QCTMTT đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và pháp luật
Việt Nam hiện đang điều chỉnh về lĩnh vực này như thế nào.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Một số nhiệm vụ khi nghiên cứu và thực hiện luận văn
được đặt ra là:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về QCTMTT và QCTM
nói chung;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về QCTMTT ở Việt Nam hiện nay;
Thứ ba, đưa ra những kết luận và kiến nghị những giải pháp mang tính khoa
học và có giá trị thực tiễn hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về QCTMTT.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Là pháp luật về QCTMTT nói riêng và QCTM nói chung, thực trạng của việc
thực hiện những quy định này trên thực tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu theo dòng thời gian, tác giả tìm hiểu quá trình phát triển lập pháp
điều chỉnh ngành quảng cáo từ quá khứ tới hiện tại và dự đoán sự phát triển, hoàn
thiện pháp luật quảng cáo TMTT trong tương lai.
Trong không gian vi mô: Tác động từ môi trường doanh nghiệp, pháp luật
quảng cáo có tác động, ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động, sản xuất và kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trong không gian vĩ mô: sự tương tác, ảnh hưởng của ngành quảng cáo trong
cơ cấu của nền kinh tế quốc gia và thị trường quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam
trong sự tương quan với thị trường thế giới.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phương pháp phân tích, so sánh
4
tổng hợp, thống kê, suy luận logic, phương pháp chuyên gia và kỹ thuật, quy nạp, diễn
dịch và có tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực gồm các nhà nghiên cứu
khoa học, nhà quản lý trong lĩnh vực, nghành, các nhà doanh nghiệp, chuyên gia đang
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo. Các phương pháp thu thập, xử lý, phân
tích, tổng hợp thông tin, dữ liệu từ internet và nhiều nguồn khác nhau.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về lĩnh vực quảng cáo nói chung và lĩnh
vực quảng cáo thương mại trực tuyến nói riêng ở góc độ pháp lý, các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành đang điều chỉnh về lĩnh vực này như thế nào.
Đề tài đã hệ thống cơ sở lý luận về hoạt động QCTMTT và cũng đã phân tích
cơ sở khoa học, nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động QCTMTT và những
thực trạng còn bất cập thực tế của pháp luật trong lĩnh vực QCTMTT tại Việt Nam
trong thời gian qua.
Đề tài cũng đánh giá khách quan thực trạng quản lý nhà nước về QCTMTT ở
Việt Nam, đánh giá những mặt được và chưa được trong công tác quản lý, từ đó
phân tích những nguyên nhân, tồn tại trong công tác quản lý lĩnh vực QCTMTT.
Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để góp
phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về QCTMTT.
Đề tài “Quảng cáo thương mại trực tuyến theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” là công trình nghiên cứu chuyên sâu cả vấn đề lý luận và thực tiễn của
QCTMTT và pháp luật về QCTMTT. Dựa vào nội dung và kết quả nghiên cứu của
đề tài, tác giả sẽ sâu chuỗi, hệ thống các quy định pháp luật hiện hành, đưa ra những
kết luận và kiến nghị những giải pháp mang tính khoa học và có giá trị trong thực
tiễn.
Kết quả này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng pháp luật về
QCTMTT, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quảng cáo nói chung và pháp
luật QCTMTT nói riêng nhằm tạo ra hành lang pháp lý trong hoạt động quản lý, bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước và hiệu quả kinh doanh của doanh
5
nghiệp.
Ở góc độ thực tiễn, đề tài nghiên cứu của hoạt động quảng cáo thương mại
trực tuyến ứng dụng hiệu quả vào trong cuộc sống, trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp. Tác giả muốn tìm hiểu về lĩnh vực QCTMTT để thấy
được vai trò, chức năng và tầm quan trọng, ảnh hưởng của quảng cáo như thế nào,
bởi khi không có hoạt động quảng cáo, hoặc coi nhẹ, doanh nghiệp sẽ không có
được nhiều hợp đồng, không có hợp đồng thì doanh nghiệp sẽ không có doanh thu
và lợi nhuận.
Trong thời đại ngày nay công nghệ phát triển như vũ bão, các thiết bị kết nối
với internet ngày càng rẻ và phổ cập, số lượng người sử dụng các thiết bị điện tử ở
mọi lứa tuổi khác nhau ngày càng tăng cao, thông tin đến mọi người nhanh chóng,
kịp thời và online 24/24 giờ, phủ rộng trên phạm vi toàn thế giới, đó là lợi thế vô
cùng lớn của ngành quảng cáo thương mại trực tuyến so với các loại hình quảng cáo
truyền thống, mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp biết tận dụng và vận
hành tốt lợi thế này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trực tuyến
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến ở Việt
6
Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG
CÁO THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN
1.1. Khái quát về quảng cáo thương mại trực tuyến
1.1.1. Quảng cáo thương mại
Pháp luật hiện hành điều chỉnh về quảng cáo thương mại được quy định trong
Luật Thương mại năm 2005 (từ Điều 102 đến Điều 116), Nghị định số
37/2006/NĐ-CP ngày 04-04-2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động
XTTM. Luật quảng cáo, Luật giao dịch điện tử 2005, Luật công nghệ thông tin
2006, Luật an toàn thông tin mạng 2015, Bộ luật dân sự, các Luật chuyên ngành và
nhiều văn bản dưới luật khác…
Hoạt động quảng cáo thương mại, thường là tự giới thiệu thông tin về sản
phẩm, dịch vụ, chỉ là độc thoại không có đối thoại, do đó quảng cáo rất khó kiểm
chứng, đánh giá tính chính xác, trung thực của thông tin. Nếu pháp luật không kiểm
soát, điều chỉnh hợp lý, các nhà quảng cáo, doanh nghiệp sẽ sử dụng quảng cáo để
truyền tải nội dung quảng cáo, phát ngôn tùy ý, có thể gây ra cạnh tranh không lành
mạnh, làm ảnh hưởng tới quyền lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác và của
người tiêu dùng.
Luật thương mại năm 2005 đã định nghĩa: “Quảng cáo thương mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt
động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”. Điều 2, Luật quảng cáo năm 2012
quy định: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công
chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không
có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”.
Hoạt động quảng cáo với mục đích quảng bá về hàng hoá, dịch vụ có mục đích
kinh doanh sinh lời của thương nhân, hoạt động quảng cáo cho thương nhân khác để
thu phí kinh doanh dịch vụ chính là hoạt động quảng cáo thương mại. Như vậy, các
7
cá nhân, tổ chức có nhu cầu quảng cáo thương mại có thể là thương nhân hoặc
không phải thương nhân và hoạt động kinh doanh quảng cáo chỉ có thể được thực
hiện thông qua thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Để thông tin được
truyền tải rộng rãi ra công chúng, người quảng cáo phải chi trả một khoản chi phí
cho công việc đó.
1.1.2. Quảng cáo thương mại trực tuyến
1.1.2.1. Khái niệm quảng cáo thương mại trực tuyến
Quảng cáo trực tuyến (Online Advertising hoặc Internet Advertising) là một
hình thức quảng bá thông tin thông qua các phương tiện kết nối với môi trường
internet để đưa thông điệp Marketing đến khách hàng mục tiêu.
QCTMTT được thực hiện trên nền tảng ứng dụng những công nghệ trực tuyến
mang tính nổi bật và thu hút đông đảo cộng đồng người sử dụng các thiết bị máy
tính, điện thoại và internet, tạo ra và cung cấp những thông tin, sản phẩm chuyên
biệt phục vụ cho mục đích quảng cáo.
QCTMTT là hình thức quảng cáo trực tuyến trên mạng internet, nhằm thúc
đẩy xúc tiến việc bán hàng, quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ, hình ảnh, của
công ty tới rộng rãi cộng đồng sử dụng mạng internet, đến với khách hàng mục tiêu.
Những thuật ngữ thường thấy như: Email Marketing, Quảng cáo trên mạng, Internet
Marketing, ... là hình thức Marketing online hay còn gọi là quảng cáo trực tuyến.
Cũng như các loại hình quảng cáo khác, QCTMTT nhằm cung cấp thông tin
rộng rãi cho người tiêu dùng, góp phần đẩy nhanh, kịp thời cung cấp thông tin, tiến
độ xúc tiến giao dịch giữa người mua và người bán. Hình thức quảng cáo trên một
trang Website thì khác hẳn hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại
chúng khác, cách quảng cáo này giúp cho khách hàng, người tiêu dùng có thể tương
tác với người đăng quảng cáo. Khách hàng có thể nhấn vào mục quảng cáo để lấy
thông tin hoặc đặt mua sản phẩm mà mình quan tâm trên trang quảng online
trên Website.
Các phương tiện thông tin đại chúng quảng cáo khác cũng có khả năng nhắm
chọn khách hàng nhưng rất hạn chế, nhưng chỉ có mạng Internet với sự kết nối của
8
các thiết bị công nghệ cao, trực tuyến đã tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhắm
chính xác vào khách hàng của mình và giúp họ tiến hành quảng cáo theo xu thế của
thời đại, nhắm vào sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng khi họ ngày càng có ít
thời gian rảnh rỗi và với thói quen mua sắm trực tuyến, vừa nhanh và không mất
thời gian đi lại, có thể được giao hàng tận nơi.
1.1.2.2. Phân loại quảng cáo thương mại trực tuyến
Các loại hình quảng cáo trực tuyến thông thường bao gồm các hình thức sau:
E-mail marketing: Đây là hình thức quảng cáo trực tuyến sơ khởi và khá phổ
biến và có hiệu quả cao hơn so với việc gửi E - mail nhưng nó lại có thể giúp tránh
được nguy cơ bị công cụ lọc E - mail và pop-up chặn lại hoặc lạm dụng để phát tán
thư rác… Nó cũng tạo ra nhiều cơ hội cho các công ty viết nội dung quảng cáo và
phổ biến tới khách hàng mục tiêu của mình với chi phí rất rẻ. Gần gũi với hình thức
này nhưng hiện đại hơn là dịch vụ cung cấp thông tin giản đơn RSS (Really Simple
Syndication), được hỗ trợ bởi công cụ tập hợp tin tức từ nhiều trang web và phân
phối tới người sử dụng.
Quảng cáo bằng Email là một cách tuyệt vời để xây dựng lòng trung thành của
khách hàng và tăng doanh thu. Cung cấp cho họ lựa chọn tham gia vào danh sách
gửi thư (lời mời đăng kí nhận email, nút kêu gọi hành động theo dõi website, form
đăng kí thông tin…) khi họ ghé thăm trang web. Đây là cách hữu hiệu để thông báo
cho mọi người về sản phẩm mới hay các thông tin liên quan về dịch vụ. Viết Email
cũng cần một chút nghệ thuật, phải đảm bảo cho chúng vừa ngắn gọn, vừa tạo sự
thân thiết lại phải thực tế. Một thông điệp ngắn gọn thường sẽ giúp khách hàng dễ
hiểu hơn và nhiều khả năng tăng tỷ lệ chuyển đổi hơn.
Quảng cáo banner - logo: Đây là cách quảng cáo được đánh giá là có hiệu
quả cao, phổ biến nhất trong việc quảng bá thương hiệu, đồng thời nhắm cụ thể đến
khách hàng tiềm năng trên Internet. Hình thức quảng cáo này được thực hiện bằng
cách đặt logo hoặc banner chạy quảng cáo trên các trang web có số lượng người
truy cập cao hoặc có thứ hạng cao trên Google.
Text link: Là cách đặt quảng cáo có thể hiện đường dẫn bằng chữ đến địa chỉ
9
một trang web hoặc sản phẩm, dịch vụ nào đó. Lợi ích của hình thức quảng cáo này
là khi người sử dụng các thiết bị kết nối internet truy cập vào các trang tìm kiếm
(search engine) thì nó sẽ tự động cập nhật trang web lên danh mục được tìm.
Quảng cáo với từ khóa: Với bất cứ từ khóa nào liên quan đến dịch vụ, sản
phẩm nào đó, các mẫu quảng cáo sẽ xuất hiện bên phải, trên cùng hoặc dưới cùng
màn hình ở các trang hiển thị kết quả tìm kiếm đầu tiên. Nghĩa là khi khách hàng gõ
một từ khóa bất kỳ, các cỗ máy tìm kiếm lập tức mang một nhà tài trợ (sponsor) có
liên quan đặt ngay lên đầu kết quả tìm kiếm. Đây được xem là hệ thống quảng cáo
có tính năng thông minh, nhắm chọn vào những từ khóa nhất định. Mỗi trang kết
quả tìm kiếm của Google, Yahoo! hoặc Monava của Việt Nam đều có sử dụng hình
thức này.
Quảng cáo “trả theo hành động”: Hình thức này được xem là chỉ phát huy
hiệu quả cao ở môi trường thương mại điện tử tiên tiến, nơi các giao dịch được thực
hiện trực tuyến dễ dàng, tiện lợi và an toàn. Đây là hình thức quảng cáo mới, một
thuật ngữ của Google. Các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo chỉ thu phí quảng cáo của
doanh nghiệp khi khách hàng ghé thăm trang web và có mua hàng hoặc điền phiếu.
Google AdSense: Chủ sở hữu của một trang web có thể tích hợp phần mềm này
để hiển thị các quảng cáo lên trang wed của mình dưới dạng văn bản, hình ảnh hay
video, được Google quản lý và tính giá đối với bên đi quảng cáo trên cơ sở trả cho
mỗi click hay 1.000 click và gần đây là cho mỗi hành động. Google sẽ chia hoa hồng
theo tỷ lệ cho chủ nhân của trang web này chấp nhận đăng quảng cáo của google.
Rich Media/Video: Các công ty quảng cáo có thể đăng xen sản phẩm, dịch vụ
vào các loại hình này đồng thời xây dựng một số thành phần tích hợp liên quan đến
thương hiệu của họ. Hình thức này được dự báo có tốc độ tăng trưởng cao nhất
trong các loại hình quảng cáo trực tuyến trên các phương tiện truyền thông được các
chuyên gia kinh tế đánh giá cao với các video quảng cáo như trên truyền hình.
Những địa chỉ tiện lợi và có hiệu quả cho các loại hình này là các trang web chia sẻ
video, hoạt hình, nhạc trực tuyến và đặc biệt là trò chơi trực tuyến.
Quảng cáo hiển thị (Display advertising): Đây có thể xem là hình thức
10
quảng cáo trực tuyến phổ biến nhất. Bằng cách này, quảng cáo của bạn sẽ hiển thị
trên các trang web của đơn vị khác. Hình thức Quảng cáo này thường truyền tải
thông điệp qua các văn bản, hình ảnh động, video logo, hoặc các phương tiện đồ
hoạ khác. Các nhà quảng cáo cũng có thể phân phối quảng cáo dựa trên vị trí địa lý
nhất định, hành vi, thói quen sử dụng Internet của khách hàng. Quảng cáo hiển thị
nhắm đến mục tiêu người dùng các thiết bị với những đặc điểm riêng biệt để gia
tăng hiệu quả quảng cáo.
Quảng cáo trên các mạng xã hội (Social Media Ads): Sự xuất hiện và phát
triển nhanh chóng của các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, zalo,
Twitter, cùng vô số trang thương mại điện tử… giúp cho người làm quảng cáo có
thêm nhiều cơ hội để tiếp cận cộng đồng. Giống với Display ads, quảng cáo qua
mạng xã hội cũng được thể hiện dưới bất cứ hình thức nào từ banner, hình ảnh đơn
giản đến các video phát tự động. So với hình thức quảng cáo truyền thống, cách làm
này mang lại tính tương tác cao hơn, thu hút được nhiều sự quan tâm hơn từ khách
hàng. Hiện nay có hai loại quảng cáo qua mạng xã hội:
Organic: Hiểu đơn giản là hình thức quảng cáo không trả tiền và chủ yếu liên
quan đến nội dung. Đây là cách để bạn duy trì mối liên kết với khách hàng, tăng
thêm sự hiện diện của thương hiệu hay cung cấp các thông tin về doanh nghiệp
cũng như các thông tin hữu ích khác.
Paid: Quảng cáo phải trả tiền và giúp bạn tiếp cận được với những đối tượng
cụ thể.
E-Marketing trên các công cụ tìm kiếm (Search Engine Marketing-SEM):
Đánh mạnh vào thói quen tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ trước khi mua
của người dùng, đây được coi là hình thức quảng cáo Marketing Online quan trọng
gắn liền với công cụ tìm kiếm Google. Thông qua hình thức quảng cáo trên Internet
bằng cách tìm kiếm, doanh nghiệp có thể hướng tới nhóm khách hàng mục tiêu của
mình, tăng hiệu quả tiếp thị.
Hình thức quảng cáo trực tuyến – SEM: SEM hoạt động dựa trên các từ
11
khoá và được chia làm các nhánh nhỏ:
SEO (Search Engine Optimization): Là việc tối ưu hóa, đảm bảo website của
bạn có thứ hạng cao trên các công cụ tìm kiếm với một vài từ khóa mục tiêu mà
doanh nghiệp nhắm đến.
PPC (Pay Per Click): Hình thức trả phí để website của mình hiển thị ở đầu kết
quả tìm kiếm (tính phí dựa trên số lần click của người dùng).
CPM (Cost Per Thousand): Hình thức tính giá với một mức giá cố định cho
1000 lần hiển thị quảng cáo.
Để tiếp thị hiệu quả bằng hình thức SEM này, cần kết hợp khôn ngoan giữa
SEO, PPC hay CPM.
Quảng cáo tự nhiên (Native advertising): Quảng cáo tự nhiên đang là
một hình thức quảng cáo khá được ưa chuộng với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ
trong ngành quảng cáo trực tuyến. Đặc thù của hình thức quảng cáo trả tiền này là
xuất hiện rất tự nhiên và không làm gián đoạn trải nghiệm của người dùng. Các
quảng cáo sẽ được lồng ghép một cách khéo léo vào những nội dung bình thường
khác để cho người dùng có được trải nghiệm thoải mái nhất.
Quảng cáo bằng hình thức tiếp thị lại (Remarketing): Việc hiệu quả nhất
để tiếp cận lại những khách hàng đã biết về sản phẩm, dịch vụ của bạn chính là nhắc
nhở họ thường xuyên hơn về bạn. Khi một người nào đó ghé thăm website của bạn,
thông tin của họ được lưu lại và cookie được thêm vào danh sách tiếp thị lại. Bằng
cách đó, quảng cáo về doanh nghiệp của bạn sẽ hiển thị với đối tượng đó và gợi nhớ
về thương hiệu của bạn. Hình thức này không quá tốn kém nhưng lại đem về hiệu
quả cao nếu bạn biết sử dụng đúng cách.
Video Ads: Đây là hình thức quảng cáo trực tuyến dễ dàng nhận được sự đón
nhận từ người tiêu dùng. Bằng cách truyền tải kiến thức, video hướng dẫn hay lồng
ghép câu chuyện thực tế qua video, doanh nghiệp dễ nhận được sự đồng cảm hơn.
Nếu khéo léo trong cách xây dựng video quảng cáo, bạn hoàn toàn có thể truyền cảm
hứng và thúc dục hành động từ người xem. Với video quảng cáo, bạn có thể post lên
12
một số kênh có nhiều lượt tương tác như: Facebook,YouTube/ Twitter/ Google..
Mobile Marketing: Quảng cáo kiểu này sử dụng các phương tiện di động như
một kênh truyền thông, giao tiếp, tương tác giữa thương hiệu và người tiêu dùng.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của smartphone, đây chính là mảnh đất béo
bở cho thị trường quảng cáo trực tuyến. Một số hình thức Mobile Marketing phổ
biến hiện nay: SMS marketing và MMS (Multimedia Messaging Service), Push
notification, In-game mobile marketing, QR codes, App-based marketing, quảng
cáo Mobile của Google, Proximity marketing.
Marketing tin đồn (Buzz Marketing): Đây là chiến thuật marketing khuyến
khích khách hàng lan truyền thông tin cần tiếp thị đến những người để họ biết về
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Chi phí thực hiện hình thức quảng cáo trực
tuyến này không quá nhiều nhưng hiệu quả truyền thông lại rất cao. Tuy nhiên, đây
cũng là con dao 2 lưỡi, tiềm ẩn rủi ro nếu sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp
chưa thực sự tốt như cách mà họ quảng cáo cho người tiêu dùng. Marketing tin đồn
(Buzz Marketing), Marketing truyền miệng (Words Of Mouth Marketing), phát tán
kiểu virus (Viral Marketing) được thực hiện thông qua các trang mạng xã hội, blog,
diễn đàn… theo kiểu người này sẽ kể cho người kia nghe về dịch vụ, sản phẩm, họ
thấy hài lòng.
Mạng quảng cáo (Advertising Netword): Hình thức này hiện được nhiều
doanh nghiệp đánh giá cao vì nó vừa giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chí
phí nhân lực. Là hệ thống quảng cáo trực tuyến, trung gian kết nối người mua và
người bán, hỗ trợ người mua quảng cáo tìm thấy website bán quảng cáo phù hợp
với chiến dịch truyền thông của mình từ hàng nghìn website sẵn có.
1.1.2.3. Đặc điểm của quảng cáo thương mại trực tuyến
Quảng cáo thương mại trực tuyến chỉ là một bộ phận cấu thành của hoạt động,
lĩnh vực quảng cáo nói chung. Quảng cáo thương mại trực tuyến dễ phân biệt với
quảng cáo nói chung và với các hoạt động xúc tiến thương mại khác, có các đặc
điểm pháp lý cơ bản sau:
Chủ thể hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến là thương nhân. Đây là
13
đặc điểm cho phép phân biệt quảng cáo thương mại với các hoạt động lan truyền
thông tin, cổ động do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội…thực
hiện nhằm tuyên truyền về chủ trương, đường lối, các chính sách kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước…
Với tư cách là người làm kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, thương nhân thực
hiện quảng cáo thương mại để hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh (bán hàng)
của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng.
Với bản chất là một hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, quảng cáo
thương mại khác biệt với quảng cáo nói chung, mặc dù chúng đều có chung đặc
điểm là một quá trình thông tin rộng rãi ra công chúng.
Về tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần
thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân hoạt động chuyên
nghiệp khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Do quảng cáo có tác động rất lớn đến hoạt
động bán hàng, cung ứng dịch vụ nên thương nhân sử dụng quảng cáo để khuyếch
trương, cung cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình đang kinh doanh, tăng
cường cơ hội thương mại và cơ hội gia tăng lợi nhuận.
Đặc điểm cơ bản của hình thức quảng cáo trực tuyến là khách hàng có thể
tương tác với quảng cáo, có thể click chuột vào quảng cáo để mua hàng, để lấy
thông tin về sản phẩm hoặc có thể so sánh sản phẩm này với sản phẩm khác, nhà
cung cấp này với nhà cung cấp khác…
Quảng cáo trực tuyến sẽ giúp cho các nhà cung cấp có thể lựa chọn được
khách hàng mục tiêu và tiềm năng mà doanh nghiệp mong muốn hướng tới, từ đó
giúp doanh nghiệp cắt giảm được nhiều chi phí, nâng cao hiệu quả của công việc
kinh doanh. Đây là đặc điểm cơ bản nhất mà các loại hình quảng cáo khác không có
được như: quảng cáo Tivi, Raddio, báo giấy…
1.1.2.4. Lợi ích của quảng cáo thương mại trực tuyến
Chi phí rẻ: Đây có lẽ lợi ích mà doanh nghiệp có thể ngay lập tức nhìn thấy.
Thay vì bỏ ra hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu mỗi tháng để xuất hiện với thời
lượng tính bằng giây trên các quảng cáo truyền hình trong giờ vàng, doanh nghiệp
14
chỉ cần bỏ ra vài triệu đồng mỗi tháng để được xuất hiện trên trang web lớn nhất
hành tinh như Google, mạng xã hội số 1 thế giới Facebook, zalo và rất nhiều trang
website khác nếu muốn. Sự lan truyền kỳ diệu của internet đưa hình ảnh của doanh
nghiệp đến với người tiêu dùng trên khắp thế giới.
Dễ dàng tiếp cận khách hàng: Qua khảo sát của Google, hơn 98% người tiêu
dùng (những người truy cập internet) đã sử dụng công cụ mạng để tìm kiếm thông
tin doanh nghiệp, sản phẩm, địa chỉ hoặc thương hiệu. Việc doanh nghiệp xuất hiện
trên các trang web, đặc biệt là Google sẽ là cách thức nhanh nhất, dễ dàng nhất để
được người tiêu dùng biết tới. Thêm vào đó, những người thực sự quan tâm đến
doanh nghiệp, đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ có cơ hội tìm hiểu sâu
hơn bằng cách thông qua quảng cáo truy cập vào website của doanh nghiệp. Như
vậy, bạn không chỉ được biết tới bởi đông đảo người dùng Internet mà còn tiếp cận
được khách hàng mục tiêu. Quảng cáo của bạn đạt được hiệu quả cả về chiều rộng
và chiều sâu.
Tiếp cận thị trường toàn cầu: Với một website và một kế hoạch tiếp thị
(online marketing plan) hợp lý, bạn hoàn toàn có thể đưa hình ảnh doanh nghiệp và
sản phẩm tới các khách hàng tiềm năng trên toàn thế giới, thương mại điện tử giúp
bạn dễ dàng tiếp nhận và xử lý các đơn hàng toàn cầu một cách nhanh chóng và dễ
dàng. Đây là lợi thế rõ rệt nhất về phạm vi tiếp cận khách hàng, tốc độ tiếp cận, thủ
tục, chi phí... Trong khi để làm được điều này marketing truyền thống sẽ tốn của
bạn một khoản tiền không nhỏ.
Khả năng tương tác với khách hàng: Với công nghệ hiện nay, doanh nghiệp
không chỉ xây dựng được website cung cấp được các thông tin của mình tới công
chúng mà thông qua các công nghệ mới, doanh nghiệp còn có thể thu thập ý kiến
của khách hàng, lắng nghe và trả lời phản hồi của khách hàng ngay trên website.
Hơn thế, các trang mạng xã hội cũng được doanh nghiệp sử dụng triệt để, trở thành
một kênh giao tiếp chính thống giữa doanh nghiệp và khách hàng. Nhờ đó, những
quảng cáo của doanh nghiệp trên Internet dễ dàng đón nhận những ý kiến đa chiều
15
của người xem, và đưa ra những cải tiến và điều chỉnh phù hợp. Quảng cáo truyền
hình, phát thanh hay các hình thức khác không dễ gì làm được điều này, hoặc có thì
sẽ phải gánh một mức chi phí khổng lồ.
Dễ dàng theo dõi, kiểm soát tính hiệu quả và tạo ra những thay đổi trong
chiến dịch quảng cáo: Internet thì không hề dễ quản lý. Nhưng việc đăng quảng cáo
trên internet hay các trang web lại được hỗ trợ quản lý rất tốt. Doanh nghiệp có thể
dễ dàng biết được quảng cáo của mình xuất hiện ở những đâu, thời gian nào, có bao
nhiêu người click vào quảng cáo, hiệu quả, tiến độ của quảng cáo theo thời gian ra
sao… Đây là ưu thế vượt trội của quảng cáo trực tuyến so với các hình thức quảng
cáo truyền thống.
Marketing trực tuyến giúp bạn kiểm tra độ hiệu quả của chiến dịch với các báo
cáo chi tiết theo thời gian thực (Vd: bao nhiêu người đã xem quảng cáo của bạn;
lượng truy cập hàng ngày; số người xem sản phẩm A cao hơn hay thấp hơn sản
phẩm B.v.v...). Dựa vào thông tin thu được, bạn có thể thay đổi và điều chỉnh lại
các thành phần, giải pháp trong chiến lược của mình ngay lập tức và rất nhanh
chóng nhằm thu được kết quả mong muốn.
Hiệu quả cao: Với marketing trực tuyến, việc quảng bá tới phân khúc khách
hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng được thực hiện dễ dàng và hiệu quả. Bạn có
thể lựa chọn để đưa thông tin sản phẩm, dịch vụ của mình tập trung tới giới trẻ, khối
văn phòng hoặc những đối tượng khách hàng khác... Cuộc sống hiện đại không có
quá nhiều thời gian rảnh rỗi cho con người, khi máy tính và internet gắn chặt với
mọi hoạt động sống và làm việc và giải trí của con người thì online marketing chính
là lĩnh vực cần khai thác hết tiềm năng và lợi thế của nó để đạt hiệu quả kinh doanh
cao nhất cho các nhà kinh doanh.
Sự hỗ trợ của công nghệ mới: Không một quảng cáo nào trên TV có thể nhảy
ra khỏi màn hình và cười nói với bạn, nhưng chiếc bánh bích quy trên banner có thể
bước ra khỏi khung quảng cáo, nhảy nhót khắp màn hình và hát vang một bài ca vui
vẻ. Giới hạn của quảng cáo trực tuyến là không có giới hạn. Càng sáng tạo, các
16
doanh nghiệp càng có nhiều cơ may thu hút sự chú ý của khách hàng.
Ghi nhận phản ứng khách hàng: Bao nhiêu người nhìn thấy mẩu quảng cáo
sản phẩm của bạn? Bao nhiêu người đã click vào? Họ đã xem những thông tin gì,
lưu lại ở mục nào lâu nhất trong website về sản phẩm? Tất cả những thông tin quan
trọng này chỉ là mơ ước trong quảng cáo truyền thống, nhưng sẽ hiển thị rất rõ ràng
trong bản báo cáo hàng tháng mà doanh nghiệp nhận được từ website đã đặt banner.
Những số liệu này cho phép doanh nghiệp xác định được thị hiếu khách hàng, từ đó
xây dựng chiến lược quảng cáo lâu dài phù hợp với nhu cầu của họ.
Giúp tìm đúng khách hàng tiềm năng: Quảng cáo trực tuyến bao gồm nhiều
hình thức quảng cáo, với mỗi hình thức quảng cáo khác nhau sẽ giúp bạn hướng đến
một nhóm đối tượng khách hàng khác nhau, lựa chọn đúng được khách hàng tiềm
năng sẽ dễ dàng quản lý theo dõi và hỗ trợ, chăm sóc khách hàng hơn. Họ có thể
nhắm vào các công ty, các quốc gia hay khu vực địa lý cũng như họ có thể sử dụng
cơ sở dữ liệu để làm cơ sở cho tiếp thị trực tiếp. Họ cũng có thể dựa vào sở thích cá
nhân và hành vi của người tiêu dùng để nhắm vào đối tượng thích hợp.
Dễ thực hiện và quản lý chiến dịch quảng cáo: Việc vận hành và quản lý các
chiến dịch cũng dễ dàng, bạn có thể chạy chiến dịch 24/24, ở bất kỳ đâu trên thế
giới và có thể ngưng lại bất cứ khi nào bạn muốn. Bạn có thể quản lý được các chi
phí, hoạch định chi phí cho chiến dịch quảng cáo một cách dễ dàng. Trong đó, có
nhiều loại hình quảng cáo trực tuyến như: đăng banner, quảng cáo Google
Adwords, quảng bá bằng dịch vụ SEO… phù hợp với mô hình của các công ty
trong thời điểm hiện nay.
Khả năng theo dõi: Các nhà tiếp thị trên mạng có thể theo dõi hành vi của người
sử dụng đối với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của
những khách hàng triển vọng. Ví dụ, một hãng sản xuất xe hơi có thể theo dõi hành vi
của người sử dụng qua website của họ và xác định xem có nhiều người quan tâm đến
quảng cáo của họ hay không? Các nhà quảng cáo cũng có thể xác định được hiệu quả
của một quảng cáo (thông qua số lần quảng cáo được nhấn, số người mua sản phẩm,
và số lần tiến hành quảng cáo,…) nhưng điều này rất khó thực hiện đối với kiểu
17
quảng cáo truyền thống như trên tivi, báo chí và bảng thông báo.
Tính linh hoạt và khả năng phân phối: Một quảng cáo trên mạng được truyền
tải 24/24 giờ một ngày, cả tuần, cả năm. Hơn nữa, chiến dịch quảng cáo có thể được
bắt đầu cập nhật hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào. Nhà quảng cáo có thể theo dõi tiến độ
quảng cáo hàng ngày, xem xét hiệu quả quảng cáo ở tuần đầu tiên và có thể thay thế
quảng cáo ở tuần thứ hai nếu cần thiết. Điều này khác hẳn kiểu quảng cáo trên báo
chí, chỉ có thể thay đổi quảng cáo khi có đợt xuất bản mới, hay quảng cáo tivi với
mức chi phí rất cao cho việc thay đổi quảng cáo thường xuyên.
Tính tương tác: Mục tiêu của nhà quảng cáo là gắn khách hàng triển vọng với
nhãn hiệu hoặc sản phẩm của họ. Điều này có thể thực hiện hiệu quả trên mạng, vì
khách hàng có thể tương tác với sản phẩm, kiểm tra sản phẩm và nếu thoả mãn thì
có thể mua. Ví dụ, một quảng cáo cho phần mềm máy tính có thể đưa khách hàng
tới nơi trưng bày sản phẩm để lấy thông tin và kiểm tra trực tiếp. Nếu khách hàng
thích phần mềm đó, họ có thể mua trực tiếp. Không có loại hình thông tin đại chúng
nào lại có thể dẫn khách hàng từ lúc tìm hiểu thông tin đến khi mua sản phẩm mà
không gặp trở ngại nào như mạng Internet.
Những hạn chế và rủi ro của quảng cáo trực tuyến:
Khác với các phương tiện quảng cáo khác, để tiếp cận được với quảng cáo trực
tuyến, các đối tượng khách hàng tiềm năng của bạn phải có kỹ năng và thói quen
trình duyệt web và phải thường xuyên dùng các thiết bị kết nối internet như: máy
tính, điện thoại, ipad…
Thông qua hình thức quảng cáo thương mại trực tuyến, mua sắm online tiềm
ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng. Có không ít người mua phàn nàn khi nhận hàng
không giống với quảng cáo. Một rủi ro khác, đó là nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm
rất khó xác định.
Mọi giao dịch được thực hiện trên cơ sở niềm tin, vì vậy, khi gặp người bán
không có uy tín, người tiêu dùng sẽ có nguy cơ mua phải hàng giả, hàng kém chất
lượng. Mua sắm online không thể thiếu dịch vụ chuyển phát. Không ít trường hợp,
người tiêu dùng đã gặp rủi ro về thời gian giao hàng (giao hàng chậm); hàng nhận
18
được bị vỡ, hỏng; mất hàng; chỉ được mở xem hàng sau khi đã thanh toán…
Hiện tại, các văn bản và chính sách pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện,
còn nhiều kẽ hở, nên vẫn có không gian cho lừa đảo trực tuyến phát triển, hành lang
pháp lý cho giải quyết các tranh chấp liên quan đến mạng internet chưa phủ rộng
hết các quan hệ trong QCTMTT, cũng làm giảm độ tin cậy của quảng cáo trực
tuyến. Ở các nước phát triển, việc tin tưởng vào quảng cáo và mua hàng trực tuyến
đang rất phổ biến, còn ở nước ta, đây mới chỉ là xu hướng và chỉ thực sự có hiệu lực
cho một số ngành nghề phù hợp.
1.1.2.5. Vai trò của quảng cáo thương mại trực tuyến
Ngày nay quảng cáo đóng một vai trò vô cùng quan trọng và to lớn với nền
kinh tế. Quảng cáo không đơn thuần là mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Nó còn
đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển chung của xã hội, thay đổi thói quen
cũng như hành vi mua hàng của khách hàng. Vai trò của quảng cáo đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Sự phát triển của ngành công
nghiệp quảng cáo đã chỉ ra rằng quảng cáo đóng một vai trò ngày càng quan trọng.
Không chỉ trong lĩnh vực sản xuất, mà còn với các nhà phân phối, người tiêu dùng
và cung cấp thông tin rộng rãi ra công chúng. Nói chung, quảng cáo là một hoạt
động cần thiết và hữu ích cho nền kinh tế. Nếu không có nó, người tiêu dùng sẽ phải
dành rất nhiều thời gian tìm kiếm thông tin. Vì vậy, sản phẩm sẽ khó tiếp cận người
tiêu dùng hơn.
Đối với doanh nghiệp: Quảng cáo được coi như một công cụ marketing vô
cùng thông minh và hiệu quả có vai trò và ý nghĩa to lớn trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì thế đối với doanh nghiệp thì quảng cáo có các vai trò
chủ yếu như:
Công cụ cạnh tranh hiệu quả: Quảng cáo giúp cho khách hàng dễ dàng hơn
trong việc tạo thị trường vững chắc, khẳng định được thương hiệu và giúp tạo nên
môi trường cạnh tranh công bằng và khốc liệt với các đối thủ.
Công cụ truyền thông và quảng bá: Quảng cáo giúp cho doanh nghiệp có thể
giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng, người tiêu dùng....Từ đó góp phần
19
không nhỏ trong việc củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Công cụ thúc đẩy doanh thu: Quảng cáo giúp doanh nghiệp điều chỉnh được
thị trường, tiếp cận được nhiều khách hàng tiềm năng từ đó cải thiện doanh số tăng
doanh thu cho doanh nghiệp.
Công cụ xây dựng hình ảnh: Các phương thức quảng cáo giúp cho doanh
nghiệp xây dựng được hình ảnh thương hiệu đẹp trong mắt khách hàng từ đó thúc
đẩy việc nhận diện thương hiệu hiệu quả.
Đối với một doanh nghiệp, cụ thể ở đây là doanh nghiệp sản xuất. Hoạt động
quảng cáo được thực hiện trước hoặc sau khi tung sản phẩm dịch vụ ra thị trường.
Quảng cáo đối với các doanh nghiệp là một công cụ tiếp thị quan trọng giúp
doanh nghiệp đạt được mục tiêu truyền thông của họ. Nhờ chức năng thông tin
quảng cáo, doanh nghiệp có thể nhanh chóng thông báo cho thị trường. Ngoài ra,
quảng cáo là một công cụ hiệu quả để hỗ trợ bán hàng và giảm chi phí phân phối
cho doanh nghiệp. Cũng như hỗ trợ cho chiến lược sản phẩm, giá cả và phân phối.
Vai trò của quảng cáo đã góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh, nâng cao chất
lượng, cải thiện thiết kế và dịch vụ.
Trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Các doanh nghiệp không chỉ đối mặt với
bài toán đưa sản phẩm tiếp cận khách hàng (khách hàng đích). Họ còn phải tìm cách
để sản phẩm tiếp cận với các kênh phân phối. Cần phải hiểu rõ rằng kênh phân phối
cũng là một loại khách hàng. Họ lựa chọn nhập sản phẩm cũng dựa trên các hoạt
động truyền thông, quảng cáo của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm là mới và không có
hoạt động quảng cáo, thì sản phẩm rất khó đi vào được các kênh phân phối.
Đối với nhà phân phối
Quảng cáo đối với nhà phân phối là kênh quảng cáo cấp 2. Thông thường khi
đưa sản phẩm ra thị trường các công ty sản xuất đã và đang thực hiện các hoạt động
quảng cáo. Tuy nhiên để có thể kinh doanh, bán hàng dễ dàng hơn các nhà phân
phối tiếp tục thực hiện các chiến dịch quảng cáo. Mỗi nhà phân phối sẽ lựa chọn
cách thức quảng cáo khác nhau. Họ có thể thực hiện quảng bá sản phẩm cụ thể,
quảng cáo cho nhóm sản phẩm hoặc toàn bộ của hàng. Chức năng thông tin của
20
quảng cáo sẽ kéo người tiêu dùng mua sản phẩm. Giúp nhà phân phối bán nhanh
hơn và thuận tiện hơn. Đồng thời giảm chi phí bán hàng, thiết lập mối quan hệ tốt
giữa các nhà phân phối và khách hàng.
Đối với người tiêu dùng
Vai trò của quảng cáo đối với người tiêu dùng là có thể giúp họ dễ dàng tìm
thấy thông tin về hàng hóa và dịch vụ. So sánh giữa các thương hiệu trước khi đưa
ra quyết định mua hàng. Nếu không có quảng cáo, người tiêu dùng sẽ thấy khó khăn
và tốn thời gian để tìm kiếm và mua sắm. Nhờ quảng cáo, quyền lợi người tiêu dùng
sẽ được đảm bảo. Ngoài ra, quảng cáo cũng giúp người tiêu dùng nâng cao trình độ
nhận thức về sản phẩm và dịch vụ đang lưu hành trên thị trường.
Đối với xã hội
Như đã đề cập ở trên, quảng cáo đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã
hội. Không chỉ hỗ trợ phát triển phương tiện truyền thông. Nó còn giúp tạo việc làm
cho hàng trăm nghìn ngành trong xã hội. Bao gồm người sáng tạo, nhà thiết kế, diễn
viên, nhiếp ảnh gia, quay phim, biên kịch, …
Ngày nay, quảng cáo không chỉ là giới thiệu sản phẩm. Nó đòi hỏi bộ phận
sáng tạo thiết kế một thông điệp có giá trị cho khách hàng. Kể từ đó, các quảng cáo
với thông điệp ý nghĩa và hài hước cao. Góp phần tô màu cuộc sống tươi đẹp, giúp
xã hội trở nên tốt hơn.
Vai trò của quảng cáo với chính phủ: Họ thường sử dụng quảng cáo như một
công cụ tuyên truyền cho công chúng để biết thông tin về các chính sách mới hoặc
chỉ đạo ý kiến công chúng. Quảng cáo giúp các chính trị gia thông báo cho công
chúng về các chính sách và cam kết của họ trong các cuộc bầu cử. Kết quả là, mọi
người có thể lựa chọn một cách khôn ngoan nhà lãnh đạo mà họ muốn.
1.1.2.6. Chức năng của quảng cáo thương mại trực tuyến
Quảng cáo là một trong những phương tiện, những công cụ giúp doanh nghiệp
hoàn thành những mục tiêu của mình. Tùy vào mục tiêu cụ thể mà hoạt động quảng
cáo có những chức năng sau:
Làm cho sản phẩm khác biệt với các đối thủ cạnh tranh, làm cho người tiêu
21
dùng phân biệt được sản phẩm của công ty và đâu là sản phẩm cạnh tranh. Đây là
chức năng rất quan trọng của quảng cáo, nó quyết định tính sống còn của sản phẩm
trên thị trường. Để thông tin, hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm. Chức năng này
thường được sử dụng cho những sản phẩm phức tạp, cần có hiều biết nhất định mới
có thể sử dụng được như thuốc, mỹ phẩm, máy móc… Chức năng này được trình
bầy qua các brochure, tờ bướm, catalog…
Mở rộng mạng lưới phân phối. Nếu chúng ta thấy sản phẩm được quảng cáo
trên báo chí hoặc tivi mà sản phẩm đó không xuất hiện ở tiệm tạp hoá gần nhà,
chúng ta có thể sẽ hỏi người chủ tiệm về sản phẩm này, từ nhu cầu của người tiêu
dùng mà các điểm bán lẻ sẽ có nhu cầu trữ hàng và cũng có thể xin được làm đại lý
cho một nhà sản xuất nào đó.
Gia tăng sự yêu chuộng và gắn bó với sản phẩm. Chẳng hạn, hãng điện tử
Sony có rất nhiều đối thủ cạnh tranh tại Việt Nam nhưng danh tiếng của nhãn hiệu
rất phổ biến trong giới tiêu thụ hàng video và audio nhờ các hoạt động quảng cáo
thường xuyên, liên tục và rộng khắp.
1.2. Khái quát pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
Ngành QCTMTT là ngành tương đối đặc thù bởi việc ứng dụng các công nghệ
vào hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo nhằm giới thiệu về sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ của mình đến người tiêu dùng một cách nhanh nhất, đông đảo người
biết đến nhất, đặc biệt QCTMTT có thể nhắm đến một số lượng lớn đối tượng
khách hàng mục tiêu là những người đang sử dụng các thiết bị kết nối với internet
hàng ngày, 24/24 giờ. Bởi vậy, Pháp luật QCTMTT có những đặc điểm sau:
Pháp luật QCTMTT đang điều chỉnh các hoạt động cung cấp thông tin quảng
cáo ra công chúng của các chủ thể tham gia vào trong phạm trù của hoạt động trong
lĩnh vực QCTMTT trong khuôn khổ pháp lý quy định.
Pháp luật về QCTMTT đã điều chỉnh tương đối cụ thể từng nhóm đối tượng
trong những mối quan hệ liên quan lĩnh vực quảng cáo với sự tham gia của nhiều
chủ thể với vai trò và trách nhiệm pháp lý khác nhau, bao gồm người quảng cáo,
người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo, người cho thuê
22
phương tiện quảng cáo .v. v..
Pháp luật QCTMTT hiện được ban hành bởi nhiều cơ quan quản lý chuyên
ngành vì lĩnh vực này có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau trong chức
năng quản lý hoạt động về QCTMTT, nên tính thống nhất thực hiện chưa cao, chưa
đồng bộ và còn nhiều chồng chéo, bất cập.
Trong thời đại ngày nay với nền kinh tế mở và hội nhập, toàn cầu hóa, Việt
Nam đã ký kết và tham gia sâu rộng trong rất nhiều các điều ước quốc tế và khu vực
mậu dịch tự do nên về mặt quản lý nhà nước thì pháp luật về QCTMTT cũng cần
phải được ban hành và tuân thủ theo luật chơi chung và các thông lệ quốc tế, đặc
biệt đối với các vấn đề pháp lý quản lý trong lĩnh vực quảng cáo xuyên biên giới
liên quan đến hạ tầng công nghệ thông tin, thuế, quản trị mạng…
Pháp luật quảng QCTMTT ở một góc độ nào đó còn chưa theo kịp sự phát
triển của khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ mới nên chưa điều chỉnh kịp thời
những mối quan hệ phát sinh và tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hoạt động kinh
doanh QCTMTT và hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
1.2.1. Khái niệm pháp luật quảng cáo thương mại trực tuyến
Quảng cáo thương mại trực tuyến hiện tại là một bộ phận cấu thành của lĩnh
vực dịch vụ quảng cáo thương mại nói chung và đang chịu sự điều chỉnh chung của
pháp luật về quảng cáo, luật thương mại, luật cạnh tranh, bộ luật dân sự, Luật công
nghệ thông tin 2006, Luật an toàn thông tin mạng 2015…và một số pháp luật
chuyên nghành khác cùng các văn bản dưới luật đang hướng dẫn và điều chỉnh hoạt
động này trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Như vậy, có thể hiểu đối tượng của hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến
có thể là hoạt động quảng bá thông tin để kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có khả năng
mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân và cách thức thực hiện khác biệt với các loại
hình quáng cáo truyền thống là dựa trên nền tảng các thiết bị kết nối với mạng internet,
điều này không giống với bất kỳ hình thức quảng cáo truyền thống nào khác.
Trong đó mục đích quảng cáo của thương nhân hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời, hoạt động quảng cáo cho thương nhân khác để
23
thu phí dịch vụ chính là hoạt động quảng cáo thương mại. Nó khác biệt hoàn toàn
với hoạt động quảng bá thông tin nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị, văn hóa,
xã hội nào đó bằng các công cụ truyền thống..., không kết nối với internet.
Quảng cáo thương mại trực tuyến được thực hiện trên nền tảng ứng dụng
những công nghệ trực tuyến mang tính nổi bật, ưu việt, mang tính phổ rộng trên
phạm vi toàn thế giới và thu hút sự quan tâm của đông đảo cộng đồng người sử
dụng các thiết bị kết nối internet như máy tính, điện thoại… bởi nó tạo ra những
thông tin, sản phẩm, dịch vụ chuyên biệt phục vụ cho mục đích quảng cáo và có thể
nhắm đến một số đối tượng tiếp nhận nhận cụ thể.
Vì được ứng dụng trên nền tảng kết nối hạ tầng internet như thế, nên phạm vi
cung cấp thông tin quảng cáo có thể phủ rộng ra trên toàn thế giới, đối tượng muốn
nhắm đến để cung cấp thông tin là những người đang sử dụng các thiết bị kết nối
internet trực tuyến hàng ngày và mục đích của QCTMTT là xúc tiến việc quảng bá
sản phẩm, dịch vụ nhằm đẩy nhanh, mạnh việc bán sản phẩm, dịch vụ đến tay người
tiêu dùng và hoạt động quảng cáo là vì mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp, người
kinh doanh (không giống như nhiều hình thức quảng cáo khác có thể không phải vì
mục tiêu lợi nhuận).
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các thông tin nêu trên, dựa vào hình thức thực
hiện và mục đích cũng như phương tiện thực hiện QCTMTT, tác giả đưa ra khái
niệm luật học của QCTMTT như sau:
“Quảng cáo thương mại trực tuyến là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân, được thực hiện trên nền tảng sử dụng các phương tiện, công cụ có
kết nối trực tuyến với internet nhằm tối ưu hóa việc giới thiệu rộng rãi đến công
chúng các thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình, nhằm đẩy nhanh
việc bán hàng đến tay người tiêu dùng để tìm kiếm lợi nhuận.
1.2.2. Cấu trúc pháp luật quảng cáo thương mại trực tuyến.
1.2.2.1. Chủ thể quảng cáo thương mại trực tuyến
Theo quy định của luật Thương mại 2005, quảng cáo thương mại là hoạt động
xúc tiến thương mại của thương nhân. Do đó, chủ thể có quyền quảng cáo thương mại
24
chỉ có thể là thương nhân. Theo quy định tại Điều 103 Luật thương mại năm 2005:
Quyền quảng cáo thương mại
1. Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh
của thương nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam có
quyền quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc thuê
thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại
cho mình.
2. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoạt
động quảng cáo thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn
phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng
cáo thương mại để thực hiện quảng cáo cho thương nhân mà mình đại diện.
3. Thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo thương mại về hoạt động kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh
dịch vụ quảng cáo thương mại Việt Nam thực hiện.”
Bình luận: Như vậy, Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân
Việt Nam, chi nhánh thương nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại
tại Việt Nam đều có quyền tự mình quảng cáo hoặc thuê thương nhân kinh
doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình. Còn
đối với Văn phòng đại diện của thương nhân và thương nhân nước ngoài thì
quyền quảng cáo bị thu hẹp hơn, đó là không được phép trực tiếp quảng cáo mà
phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo để quảng cáo hàng hóa,
dịch vụ của mình.
1.2.2.2. Điều kiện kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến
Để tiến hành quảng cáo thương mại trực tuyến, Thương nhân phải đáp ứng
đầy đủ các quy định về quảng cáo theo pháp luật hiện hành như sau:
1. Quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải có giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
2. Quảng cáo cho các loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phải có các tài liệu
chứng minh về sự hợp chuẩn, hợp quy của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ theo quy
25
định của pháp luật.
3. Quảng cáo tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải có giấy chứng nhận
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng thì phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản.
4. Quảng cáo cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt phải đảm bảo các điều
kiện sau đây:
a) Quảng cáo thuốc được phép quảng cáo theo quy định của pháp luật về y tế;
phải có giấy phép lưu hành tại Việt Nam đang còn hiệu lực và tờ hướng dẫn sử
dụng do Bộ Y tế phê duyệt;
b) Quảng cáo mỹ phẩm phải có phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm theo quy
định của pháp luật về y tế;
c) Quảng cáo hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh
vực gia dụng và y tế phải có giấy chứng nhận đăng ký lưu hành do Bộ Y tế cấp;
d) Quảng cáo sữa và sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ không thuộc quy
định tại khoản 4 Điều 7 của Luật này phải có giấy chứng nhận tiêu chuẩn, giấy chứng
nhận vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm dinh dưỡng sản xuất trong nước; đối
với sản phẩm dinh dưỡng nhập khẩu thì phải có giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm
của cơ quan có thẩm quyền của nước sản xuất và giấy phép lưu hành;
đ) Quảng cáo thực phẩm, phụ gia thực phẩm phải có giấy chứng nhận đăng ký
chất lượng vệ sinh an toàn đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm thuộc danh mục
phải đăng ký chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc giấy tiếp nhận hồ sơ công
bố tiêu chuẩn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực phẩm, phụ gia thực
phẩm thuộc danh mục phải công bố tiêu chuẩn;
e) Quảng cáo dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh phải có giấy chứng nhận đủ tiêu
chuẩn hành nghề do ngành y tế cấp theo quy định của pháp luật;
g) Quảng cáo trang thiết bị y tế phải có giấy phép lưu hành đối với thiết bị y tế
sản xuất trong nước hoặc giấy phép nhập khẩu đối với thiết bị y tế nhập khẩu;
h) Quảng cáo thuốc bảo vệ thực vật, nguyên liệu thuốc bảo vệ thực vật, vật tư
26
bảo vệ thực vật phải có giấy chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ thực vật. Quảng cáo
sinh vật có ích dùng trong bảo vệ thực vật phải có giấy phép kiểm dịch thực vật do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp;
i) Quảng cáo thuốc thú y, vật tư thú y phải có giấy phép lưu hành sản phẩm và
bản tóm tắt đặc tính của sản phẩm;
k) Quảng cáo phân bón, chế phẩm sinh học phục vụ trồng trọt, thức ăn chăn
nuôi, chế phẩm sinh học phục vụ chăn nuôi phải có giấy chứng nhận chất lượng sản
phẩm hoặc văn bản tự công bố chất lượng sản phẩm.
5. Chính phủ quy định điều kiện quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ đặc biệt khác khi có phát sinh trên thực tế.
1.2.2.3. Quản lý nhà nước đối với quảng cáo thương mại trực tuyến
1.2.2.3.1. Về thẩm quyền phân cấp quản lý của các bộ ngành trong lĩnh vực
quảng cáo
Điều 26 Nghị định 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết thi
hành Luật quảng cáo 2013 có quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về quảng
cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch như sau: “Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
quảng cáo trong phạm vi cả nước, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền cơ chế, chính sách, pháp luật về hoạt động quảng cáo;
2. Hướng dẫn, đôn đốc công tác xây dựng quy hoạch quảng cáo ngoài trời tại
địa phương;
3. Thành lập Hội đồng thẩm định và tổ chức thẩm định sản phẩm quảng cáo;
4. Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, quản lý trong
hoạt động quảng cáo;
5. Thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm về quảng cáo theo quy
định của pháp luật;
6. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quảng cáo;
27
7. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, sau khi Bộ văn hóa - thông tin năm 2007 được phân tách ra thành Bộ
văn hóa, thể thao, du lịch và Bộ thông tin - truyền thông thì Bộ văn hóa, thể thao, du
lịch đã tiếp tục thực hiện chức năng quản lí nhà nước về quảng cáo, trừ việc quản lí
nhà nước đối với hoạt động quảng cáo trên báo chí, trên mạng thông tin máy tính và
trên xuất bản phẩm, do những nội dung công việc này được chuyển giao cho Bộ
thông tin và truyền thông như theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 Nghị định
181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết thi hành Luật quảng cáo
2013 như sau:
“1. Bộ Thông tin và Truyền thông trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện các nhiệm vụ về quản lý quảng cáo trên báo chí, trên môi trường
mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu
chính, viễn thông, công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật;
b) Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi Giấy phép ra kênh, chương trình chuyên
quảng cáo trên báo nói, báo hình;
c) Tiếp nhận thủ tục thông báo ra phụ trương chuyên quảng cáo đối với báo in;
d) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động quảng cáo
trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên
các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin.”
Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, hầu hết các bộ quản lí
ngành đều có thẩm quyền phối hợp với Bộ văn hoá, thể thao và du lịch trong quản lí
nhà nước đối với hoạt động quảng cáo theo quy định tại Khoản 2 Điều 27 Nghị định
181/2013/NĐ – CP ngày 14/11/2013 hướng dẫn thi hành Luật quảng cáo 2013 như
sau:
“2. Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm sau đây:
a) Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước về quảng
cáo; quản lý nhà nước về nội dung quảng cáo đối với các sản phẩm, hàng hóa, dịch
28
vụ đặc biệt thuộc ngành, lĩnh vực được phân công;
b) Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo đối với
các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc phạm vi quản lý của mình;
c) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về quảng cáo thuộc lĩnh vĩnh
vực được phân công quản lý.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo
theo thẩm quyền.”
1.2.2.3.2. Về thẩm quyền theo phân cấp của Ủy ban nhân dân và các cơ sở
ở địa phương
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về quảng cáo tại địa
phương theo phân cấp của Chính phủ. Điều 28 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP quy
định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện:
“1. Cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, thu hồi Giấy phép thành lập Văn phòng đại
diện của doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài;
2. Tổ chức xây dựng, phê duyệt và chỉ đạo thực hiện quy hoạch quảng cáo
ngoài trời trên địa bàn;
3. Tổ chức, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về quảng cáo tại
địa phương;
4. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ về
quảng cáo tại địa phương;
5. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về hoạt động quảng cáo theo thẩm
quyền;
6. Báo cáo định kỳ việc quản lý hoạt động quảng cáo trên địa bàn gửi về Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước ngày 31 tháng 12 hằng năm và báo cáo đột xuất
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
7. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Sở văn hoá – thông tin có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các ngành để
xây dựng quảng cáo trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
29
phê duyệt; tiếp nhận hồ sơ, chủ trì thẩm định và trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của tổ chức
cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài đặt tại địa phương.
Theo pháp luật hiện hành, Sở thông tin và truyền thông không có nhiệm vụ cụ
thể trong quản lí nhà nước đối với hoạt động quảng cáo, mặc dù, quyết định thành
lập Sở thông tin và truyền thông của các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đều khẳng định
Sở thông tin và truyền thông có chức năng tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh về
quảng cáo trên báo chí, mạng máy tính và xuất bản phẩm tại địa phương.
Như vậy, thực trạng phân cấp thẩm quyền quản lí nhà nước đối với hoạt
động quảng cáo có một số nét nổi bật:
Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lí nhà nước đối với hoạt động
quảng cáo.
Thứ hai, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo.
Thứ ba, chức năng quản lí nhà nước về thông tin được giao cho Bộ thông tin
và truyền thông, các nội dung quản lí nhà nước về hoạt động quảng cáo trên báo
chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm được chuyển giao cho Bộ thông tin
và truyền thông, trong đó, có một số hoạt động cấp phép được chuyển giao trực tiếp
từ Bộ văn hoá – thông tin sang cho Bộ thông tin và truyền thông thực hiện;
Thứ tư, mặc dù có sự thay đổi cơ cấu bộ máy của Chính phủ (từ năm 2008)
nhưng Sở văn hoá thể thao và du lịch vẫn tiếp tục thực hiện mọi thẩm quyền quản lí
nhà nước đối với hoạt động quảng cáo tại địa phương. Sở thông tin và truyền thông
không được phân cấp thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo ở địa phương.
Thứ năm, Bộ công thương là cơ quan thống nhất quản lí nhà nước về
thương mại, trong đó bao gồm 4 hoạt động xúc tiến thương mại là khuyến mại,
quảng cáo thương mại, trưng bày, hội chợ triển lãm thương mại. Tuy nhiên,
do Luật thương mại năm 2005 "tránh" các quy định đã và đang tồn tại về phân
cấp thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo nên hầu như Bộ công thương không
trực tiếp tham gia quản lí hoạt động quảng cáo, mặc dù bản chất của các quảng
30
cáo đều là quảng cáo thương mại.
1.2.2.3.3. Xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo
1. Tổ chức có hành vi vi phạm quy định của Luật và các quy định khác của
pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm
hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật và các quy định khác của
pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử
phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo phải chịu trách nhiệm về
quyết định xử lý của mình; trường hợp quyết định sai, gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
4. Chính phủ quy định cụ thể về hành vi, hình thức và mức xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động quảng cáo.
1.2.2.4. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại trực tuyến
Có thể khẳng định, bảo việc quyền lợi người tiêu dùng là một trong những
mục tiêu quan trọng và mang tính chiến lược trong các chính sách pháp luật về
thương mại của nhà nước ta trong những năm qua. Khẳng định điều này, Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng ban hành được đánh giá là có nhiều điểm tiến bộ, phù
hợp và đủ sức mạnh để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cơ quan thực thi pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay là Cục Quản lý cạnh tranh.
Cùng với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì sự có mặt của Luật
Thương mại 2005, Luật Quảng cáo và Luật Cạnh tranh 2018 cũng phần nào nói lên
được quyết tâm của nhà nước ta trong việc hướng đến bảo vệ người tiêu dùng, đối
tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.
Hoạt động thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện
đầu tiên thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các chủ thể kinh
doanh trong lĩnh vực quảng cáo và cho cả người tiêu dùng để họ nhìn nhận được
những sai phạm và kịp thời có yêu cầu giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho mình.
31
Cục Quản lý cạnh tranh thường xuyên có công văn hành chính gửi đến và đề nghị
các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
một số vụ việc khi thực hiện quảng cáo sai sự thật. Thông qua đường dây nóng giải
quyết khiếu nại tố cáo, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận và xử lý rất nhiều vụ
việc liên quan đến quảng cáo thực phẩm chức năng không đúng chất lượng, chất
lượng dịch vụ truyền hình cáp, chất lượng dịch vụ của siêu thị bán hàng…Cục cũng
trực tiếp tổ chức và chủ động thực hiện các đợt thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và
liên ngành đối với những trường hợp quảng cáo nghi ngờ nói quá sự thật và không
có cơ sở khoa học.
Bên cạnh những hoạt động mang tính pháp lý, Cục còn thường xuyên tiến
hành những hoạt dộng mang tính học thuật, thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm
với sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất và đại diện người tiêu dùng nhằm
giúp người tiêu dùng hiểu biết rõ hơn về những quyền và nghĩa vụ của mình khi tiếp
nhận những thông tin quảng cáo, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người tiêu
dùng và nhà sản xuất, từ đó có những ý kiến đề xuất cho quá trình hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.2
Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nguời tiêu dùng, pháp luật đã có
quy định cụ thể đối với từng đối tượng trong phạm vi điều chỉnh. Theo quy định của
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, cụ thể ở các điều như sau:
1.2.2.4.1. Yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
1. Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng thì người
tiêu dùng, tổ chức xã hội có quyền yêu cầu trực tiếp hoặc bằng văn bản đến cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện nơi thực hiện giao
2 Nguyễn Thị Tâm, “Hoàn thiện pháp luật về Quảng cáo thương mại”, Luận án tiến sỹ, tr.119
32
dịch giải quyết.
2. Người tiêu dùng, tổ chức xã hội có nghĩa vụ cung cấp thông tin, bằng chứng
có liên quan đến hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
1.2.2.4.2. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1. Tổ chức xã hội thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo
điều lệ được tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội phải theo
quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.2.2.4.3. Nội dung tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã
hội
1. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các hoạt
động sau đây:
a) Hướng dẫn, giúp đỡ, tư vấn người tiêu dùng khi có yêu cầu;
b) Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng;
c) Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ;
d) Độc lập khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, thử nghiệm chất
lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo cho người tiêu dùng
về hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thông tin, cảnh
báo của mình; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
đ) Tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách, phương hướng, kế
hoạch và biện pháp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
e) Thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao theo quy định tại Điều 29
của Luật này;
g) Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng.
2. Chính phủ quy định điều kiện để tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thực hiện quyền khởi kiện vì lợi ích công cộng quy định tại điểm b
33
khoản 1 Điều này.
1.2.2.4.4. Thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao
1. Khi thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao, tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Nhà nước hỗ trợ kinh phí và các điều
kiện khác theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định cụ thể nhiệm vụ cơ quan nhà nước giao cho tổ chức xã
hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực hiện.
1.2.2.4.5. Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Bộ Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.
1.2.2.4.6. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án,
chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Quản lý hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội, tổ
chức hòa giải; hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung theo quy định tại
Điều 19 của Luật này.
3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; tư vấn, hỗ trợ và nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng; đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nghiệp vụ phục vụ công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
5. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
34
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo thẩm quyền.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
1.2.2.4.7. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng tại địa phương.
2. Quản lý hoạt động về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội,
tổ chức hòa giải tại địa phương.
3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; tư vấn, hỗ trợ và nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại
địa phương.
4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo thẩm quyền.
Tiểu kết chương 1:
Thông qua nội dung phần trình bày của chương 1 nêu trên, chúng ta phần nào
đã thấy được bức tranh tổng thể của hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến
trên bình diện của ngành quảng cáo, thấy được vai trò, chức năng và tầm quan
trọng, ứng dụng của quảng cáo thương mại trực tuyến trong hoạt động kinh doanh.
Ở góc độ quản lý nhà nước và pháp luật hiện nay, hành lang pháp lý đang điều
chỉnh hoạt động của lĩnh vực quảng cáo (bao gồm cả QCTMTT) cũng đã có quy
định bao quát chung và khá đầy đủ về các chủ thể tham gia trong phạm trù của lĩnh
vực. Tuy nhiên, hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến hiện là một bộ phận
cấu thành của lĩnh vực quảng cáo và đang chịu sự điều chỉnh chung của pháp luật
về quảng cáo, luật thương mại.
Lĩnh vực QCTMTT là lĩnh vực đặc thù được thực hiện trên các công cụ,
phương tiện là các thiết bị, công nghệ mới, công nghệ cao được kết nối với internet,
nên chăng cần có hành lang pháp lý riêng cho nó, bởi vì hiện tại có liên quan đến
nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau và hiện đang chịu sự điều chỉnh của nhiều pháp
35
luật chuyên ngành và các văn bản dưới luật chứ không phải chỉ của Luật quảng cáo
và Luật thương mại. Điều này dẫn đến sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn trong hoạt động đổng lý, điều hành chung và còn bỏ ngỏ nhiều quan hệ đặc thù
của công nghệ mạng và quảng cáo trực tuyến, nên chăng cần nghiên cứu sâu hơn nữa
và trong thời gian tới phải hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
36
bằng một văn bản pháp luật để điều chỉnh riêng chuyên sâu về lĩnh vực này.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢNG
CÁO THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
Hiện nay ở nước ta đã có rất nhiều các văn bản pháp luật khác nhau cùng điều
chỉnh về hoạt động quảng cáo, như: Luật Quảng cáo năm 2012; ; Luật Thương
mại năm 2005; Luật Cạnh tranh năm 2018. Bên cạnh đó, hoạt động quảng cáo cũng
được quy định tại các văn bản dưới luật khác bao gồm: Nghị định 181/2013/NĐ-
CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Quảng cáo; Nghị định 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực văn, hóa thể thao, du lịch và quảng cáo; Nghị định
46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 về việc quản lý chất lượng và bảo trì công trình
xây dựng, quy định tại Điều 8 về phân loại công trình xây dựng và phụ lục chi tiết
kèm theo.
Liên quan đến cạnh tranh quảng cáo có Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày
30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định
181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Quảng cáo năm 2012…
2.1.1. Quy định về chủ thể quảng cáo thương mại trực tuyến
Có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến với
mục đích, cách thức và mức độ khác nhau. Theo quy định của pháp luật, trong sự
tương quan, quảng cáo có sự tham gia của các chủ thể sau:
Thứ nhất, Người quảng cáo: Là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc quảng cáo bản thân, tổ chức, cá nhân đó.
người quảng cáo có thể là thương nhân hoặc không phải thương nhân. có nghĩa vụ
cung cấp cho người kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo
những tài liệu cần thiết và chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông
tin trong tài liệu đó; phải bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phù hợp
với nội dung quảng cáo; chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo của mình trong
37
trường hợp trực tiếp thực hiện quảng cáo trên các phương tiện; liên đới chịu trách
nhiệm về sản phẩm quảng cáo trong trường hợp thuê người khác thực hiện; cung
cấp tài liệu liên quan đến sản phẩm quảng cáo khi người tiếp nhận quảng cáo hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Thứ hai, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo: Là tổ chức cá nhân thực hiện
một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng
dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo. Theo quy định của pháp luật người kinh
doanh dịch vụ quảng cáo bắt buộc phải là thương nhân. Quyền và nghĩa vụ của
người kinh doanh dịch vụ quảng cáo được quy định tại Điều 13 Luật quảng cáo
2012. Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo có quyền: Quyết định hình thức và
phương thức kinh doanh dịch vụ quảng cáo; được người quảng cáo cung cấp thông
tin trung thực, chính xác về tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được
quảng cáo; tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng quy hoạch quảng cáo của địa
phương và được cơ quan có thẩm quyền về quảng cáo của địa phương thông tin về
quy hoạch quảng cáo ngoài trời.
Bên cạnh đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo có nghĩa vụ hoạt
động theo đúng phạm vi, lĩnh vực đã được quy định trong giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và tuân thủ quy định của pháp luật về quảng cáo; kiểm tra tài liệu liên
quan đến điều kiện quảng cáo của tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
cần quảng cáo và thực hiện thủ tục có liên quan theo hợp đồng dịch vụ quảng cáo.
Chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo do mình thực hiện, cung cấp tài liệu liên
quan đến sản phẩm quảng cáo khi người tiếp nhận quảng cáo hoặc cơ quan có thẩm
quyền yêu cầu.
Thứ ba, người phát hành quảng cáo: Là tổ chức, cá nhân dùng phương tiện
quảng cáo thuộc trách nhiệm quảng cáo của mình giới thiệu sản phẩm quảng cáo
đến công chúng, bao gồm cơ quan báo chí, nhà xuất bản, chủ trang thông tin điện
tử, người tổ chức chương trình văn hóa, thể thao và tổ chức, cá nhân sử dụng
phương tiện quảng cáo khác. Quan hệ quảng cáo có thể hình thành trên cơ sở hợp
đồng phát hành quảng cáo giữa người quảng cáo hoặc thương nhân kinh doanh dịch
38
vụ quảng cáo với người phát hành quảng cáo.
Người phát hành quảng cáo được quảng cáo trên phương tiện của mình và thu
phí dịch vụ theo quy định của pháp luật; được kiểm tra các tài liệu liên quan đến
điều kiện quảng cáo của tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cần quảng
cáo, người phát hành quảng cáo có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng phát hành quảng
cáo đã ký kết và chịu trách nhiệm trực tiếp về sản phẩm quảng cáo.
Thứ tư, người cho thuê phương tiện quảng cáo: Là tổ chức, cá nhân sở hữu
phương tiện quảng cáo. Người cho thuê phương tiện quảng cáo có thể là thương
nhân hoặc không phải là thương nhân nhưng đều có quyền lựa chọn khách hàng cho
mình và thu phí từ việc cho thuê phương tiện quảng cáo theo thỏa thuận trong hợp
đồng. Đồng thời người cho thuê phương tiện quảng cáo có nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm về căn cứ pháp lý của việc cho thuê địa điểm quảng cáo, phương tiện quảng
cáo và an toàn của phương tiện quảng cáo.
Thứ năm, người tiếp nhận quảng cáo: Là người tiếp nhận thông tin từ sản
phẩm quảng cáo thông qua phương tiện quảng cáo. Đây không phải là chủ thể tham
gia thực hiện quảng cáo mà chủ thể chịu tác động, ảnh hưởng từ hoạt động quảng
cáo. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiếp nhận quảng cáo, pháp luật quy
định cho họ những quyền lợi cơ bản, đó là: Được thông tin trung thực về chất
lượng, tính năng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; được từ chối tiếp nhận quảng
cáo; được yêu cầu người quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo bồi thường
thiệt hại khi sản phẩm hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, số
lượng, chất lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức cá
nhân đã quảng cáo. Được tố cáo, khởi kiện dân sự theo quy định của pháp luật.
Bình luận: Đối với nội dung phần trình bày nêu trên, ta có thể nhận thấy
rằng, các chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến
không hề khác biệt về góc độ pháp lý với các chủ thể tham gia các hình thức
quảng cáo thương mại khác, sự khác nhau ở đây chỉ là hình thức, công cụ thực
39
hiện hoạt động quảng cáo mà thôi.
2.1.2. Quy định về điều kiện kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến
Các quy định pháp luật hiện nay cũng đã và đang dần hoàn thiện về điều kiện
cần thiết để tiến hành kinh doanh kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến qua
mạng internet hoặc có liên quan đến internet.
Kinh doanh TMĐT: Hoạt động TMĐT được hiểu là tiến hành một phần hoặc
toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với
mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Pháp luật về hoạt
động TMĐT đã quy định cụ thể những đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của mình.
Hoạt động kinh doanh qua mạng thường được thực hiện thông qua hai hình
thức chủ yếu là website TMĐT bán hàng và website cung cấp dịch vụ TMĐT, tất cả
đều phải được đăng ký hoặc thông báo đến cơ quan chức năng. Ví dụ, chủ website
TMĐT bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ TMĐT phải thông báo hoặc đăng ký với Bộ
Công Thương theo quy định.
Trang thông tin điện tử, MXH: Một website có các chuyên mục cung cấp
thông tin tổng hợp trên cơ sở trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin chính thống
phải xin cấp giấy phép trang thông tin điện tử tổng hợp (ICP) tại Sở Thông tin và
Truyền thông cấp tỉnh nơi DN đặt trụ sở.
Chủ các website có dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn
(forum), trò chuyện (chat) trực tuyến... phải đăng ký thiết lập MXH tại Bộ Thông
tin và Truyền thông.
Ngoài ra, nếu trang MXH có các hoạt động dưới hình thức sàn giao dịch
TMĐT sẽ phải đăng ký với Bộ Công Thương. Cần lưu ý, với một tên miền, chủ
website chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức là ICP hoặc giấy phép MXH.
Hoạt động quảng cáo (QC) trực tuyến
Việc QC trên báo điện tử có một số quy định cần tuân thủ như: Không được
thiết kế, bố trí phần QC lẫn vào nội dung tin, hoặc đối với những QC không ở vùng
cố định thì phải thiết kế để độc giả có thể chủ động tắt hoặc mở QC, thời gian chờ
40
tắt hoặc mở QC tối đa là 1,5 giây.
Các đơn vị khi thực hiện QC trên mạng thông tin máy tính phải đăng ký với cơ
quan chức năng để xét duyệt nội dung. Không chỉ phải đảm bảo điều kiện kinh
doanh hay điều kiện về sản phẩm, dịch vụ được QC mà trong một số lĩnh vực, các
đơn vị thực hiện dịch vụ QC phải đáp ứng các quy định về hình ảnh, nội dung, thời
lượng, thời gian QC, cách sử dụng từ ngữ...
Nghĩa vụ về thuế trong quảng cáo trực tuyến
Do đặc thù ngành dịch vụ và việc quảng cáo, giao dịch sản phẩm, dịch vụ qua
mạng nên việc tuân thủ quy định về thuế sẽ được xác định trên cơ chế tự khai, tự
nộp của DN. Ngoài ra, khi thông báo, đăng ký thành lập website TMĐT, chủ
website phải đăng ký nhập mã số thuế cá nhân và DN phải nhập mã số thuế DN,
tuân thủ nghĩa vụ về thuế được pháp luật quy định.
Đơn vị nào tham gia quảng cáo trực tuyến, bán hàng trên MXH có hình thức
tương tự như sàn giao dịch TMĐT phải đăng ký với Bộ Công Thương và cũng phải
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Tên miền, quyền sở hữu trí tuệ
Tên miền website được cấp theo nguyên tắc "duy nhất" và "first come, first
served", tức là chủ thể đăng ký trước sẽ có quyền sử dụng trước.
Do vậy, cần phải bảo vệ tên miền bằng cách đăng ký "bao trùm", chẳng hạn
như Công ty CP Kinh Đô đăng ký 63 tên miền .vn, hay eBay đã đăng ký trên 2.500
tên miền có chứa cụm từ "eBay" trên khắp thế giới.
Việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cũng cần thiết cho các đối tượng như bảo hộ
tổ hợp các phần mềm để thực hiện chức năng TMĐT đặc thù, bản quyền đối với nội
dung và hình thức website, nhãn hiệu công ty, bằng sáng chế...
2.1.3. Quy định về hợp đồng quảng cáo thương mại trực tuyến
Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại nói chung và quảng cáo thương mại
trực tuyến nói riêng ra đời để giúp các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong quá trình thực hiện dịch vụ, hoạt động quảng cáo. Việc thuê dịch vụ
quảng cáo thương mại trực tuyến phải được xác lập trên cơ sở hợp đồng bằng văn
41
bản, có tên gọi là hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại. Hợp đồng dịch vụ quảng
cáo thương mại là sự thỏa thuận giữa bên thuê quảng cáo và bên làm dịch vụ quảng
cáo thương mại nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về
quảng cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ thương mại.
Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại tuân thủ nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng cung ứng dịch vụ nói chung. Ngoài điều khoản về chủ thể của hợp đồng (tên,
địa chỉ, điện thoại, FAX, số tài khoản… của các bên), nội dung của hợp đồng dịch
vụ quảng cáo thương mại bao gồm các điều khoản thỏa thuận về sản phẩm quảng
cáo thương mại, phương thức, phương tiện quảng cáo thương mại; thời gian, phạm
vi quảng cáo; phí dịch vụ và các quyền, nghĩa vụ có liên quan của các bên…
Theo Điều 110 Luật thương mại 2005 thì hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương
mại phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý. Điều 6 Luật
quảng cáo 2012 quy định: hoạt động quảng cáo thương mại phải được thông qua
hợp đồng dịch vụ quảng cáo theo quy định của pháp luật vì đây là hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại vẫn mang bản chất của dân sự nên họ đề cao tính thỏa thuận
của các bên.
Tùy thuộc nội dung, phạm vi sử dụng dịch vụ, dịch vụ quảng cáo thương mại
có thể là hợp đồng dịch vụ trọn gói, có thể là hợp đồng phát hành quảng cáo hay
hợp đồng cho thuê phương tiện quảng cáo. Nếu sử dụng dịch vụ trọn gói, thương
nhân kinh doanh dịch vụ sẽ tham gia vào hoạt động quảng cáo ngay từ khâu sáng
tạo ra sản phẩm quảng cáo đến phát hành sản phẩm quảng cáo, sử dụng phương tiện
quảng cáo mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn cũng như các thủ tục pháp lý cần thiết
để giới thiệu, khuyếch trương về hàng hóa dịch vụ kinh doanh trong khoảng thời
gian và không gian mà các bên giao ước. Tuy nhiên, để thực hiện hợp đồng dịch vụ
trọn gói, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo có thể phải kí kết một hoặc
một số hợp đồng với người khác để thực hiện một số công đoạn của hoạt động
quảng cáo như phát hành sản phẩm quảng cáo, thuê phương tiện quảng cáo…
Trường hợp thương nhân tự quảng cáo mà không thuê dịch vụ, hoạt động
42
quảng cáo có thể được tiến hành thông qua hợp đồng phát hành quảng cáo, hợp
đồng thuê phương tiện quảng cáo được kí kết giữa thương nhân quảng cáo với
người phát hành quảng cáo, người cho thuê phương tiện quảng cáo.
2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước đối với quảng cáo thương mại trực
tuyến
2.1.4.1. Nội dung quản lý nhà nước về quảng cáo trực tuyến bao gồm:
1. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
quảng cáo;
2. Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo;
3. Cấp, thu hồi giấy phép thực hiện quảng cáo; giấy phép đặt văn phòng đại
diện quảng cáo, chi nhánh quảng cáo của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ
quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam;
4. Tổ chức, quản lý công tác đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công
nghệ trong lĩnh vực quảng cáo;
5. Thực hiện hợp tác quốc tế về quảng cáo;
6. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về quảng cáo.
2.1.4.2. Cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về quảng cáo.
2. Bộ Văn hoá – Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
43
lý nhà nước về quảng cáo.
3. Bộ Thương mại, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hoá –
Thông tin thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về quảng cáo tại địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
2.1.4.3. Thanh tra quảng cáo
Thanh tra nhà nước về Văn hoá – Thông tin thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành về quảng cáo.
Nhiệm vụ cụ thể của Thanh tra nhà nước về Văn hoá – Thông tin chuyên
ngành quảng cáo do Chính phủ quy định.
2.1.4.4. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại; cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật về quảng cáo.
2. Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhận được khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Đối với hoạt động quản lý nhà nước về Quảng cáo thương mại trực tuyến, qua
các phần nội dung trình bày nêu trên ta có thể thấy rằng hành lang pháp lý cho mọi
hoạt động quản lý đã rất rõ ràng, nội dung điều chỉnh cụ thể từ khâu phân quyền,
phân cấp, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn gắn liền
với việc thực thi pháp luật nhằm điều chỉnh cho hoạt động quảng cáo đi vào trật tự,
nề nếp trong khuôn khổ pháp luật và hướng đến việc bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho
người tiêu dùng.
Phân tích: Ở phần Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo (2.1.4.4)
44
pháp luật chỉ quy định: “Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhận được khiếu nại,
tố cáo có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo”, quy định như thế này có vẻ không hợp lý bởi những sai phạm
trong hoạt động quản lý có thể tùy theo mức độ sai phạm còn có thể xử lý bằng
các văn bản pháp luật khác như xử phạt vi phạm hành chính, bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật,
hay còn có liên quan đến các hoạt động quản lý cán bộ công chức … quy định
như vậy rõ ràng đã giới hạn phạm vi điều chỉnh chỉ nằm trong phạm vi điều
chỉnh của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà thôi. Điều này cần phải sửa đổi, bổ
xung cho phù hợp với thực tế trong thời gian tới. Bên cạnh đó việc thực hiện
pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trên thực tế hiện nay vẫn chưa thật hiệu quả
cao vì nhiều lý do khác nhau.
2.1.5. Quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quảng cáo
thương mại trực tuyến
Người tiêu dùng là những người biết được hay tìm hiểu thông tin về hàng hóa
và dịch vụ thông qua các phương tiện quảng cáo nói chung và quảng cáo trực tuyến
là một phần trong các công cụ quảng cáo đó, là người trực tiếp mua và tiêu dùng các
loại hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị xâm
phạm khi đã bỏ tiền mua hàng hóa dịch vụ.
Trong một nền kinh tế thì người tiêu dùng là người quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Chính vì thế, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
tiêu dùng là sự sống còn đối với doanh nghiệp. Không những thế, quyền lợi của
người tiêu dùng được đảm bảo còn thể hiện sự văn minh của xã hội, và đây là mối
quan tâm ngày càng lớn của các nước trên thế giới. Điều này rất hiển nhiên bởi vì
khi nền kinh tế càng phát triển, ngày càng có nhiều loại hàng hóa, nhiều nhãn hiệu
sản phẩm thì các nhà sản xuất phải cạnh tranh với nhau để giành được thị phần
nhiều nhất. Khi đó, người tiêu dùng có được nhiều nguồn thông tin, có nhiều sự lựa
chọn hơn, có “quyền” nhiều hơn đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đôi khi vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt của người bán hàng nên
45
người tiêu dùng vẫn bị xâm phạm về quyền lợi. Để có thể tiêu thụ được hàng hoá,
cung ứng ngày càng nhiều dịch vụ, các nhà kinh doanh sử dụng nhiều phương thức
khác nhau, trong đó có quảng cáo trực tuyến. Nhưng trong cuộc chạy đua thông tin
này, đôi khi người ta sẵn sàng sử dụng những thủ đoạn xâm phạm một cách trực
tiếp hay gián tiếp đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Ngày 09/05/1985 Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết số
39/948 có tên gọi là Các nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người tiêu dùng -
Guidelines for Consumer Protection, trong đó công bố 8 quyền cơ bản của người
tiêu dùng. Với công bố này, người tiêu dùng đã thực sự trở thành một đối tượng đặc
biệt được quan tâm và bảo vệ không chỉ trong khuôn khổ một quốc gia.
Ở Việt Nam từ sau khi tiến hành cải cách đổi mới thì vị thế của người tiêu
dùng trong xã hội đã thay đổi. Điều 28 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Mọi hoạt động
sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân làm
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của
công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ
quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”.
Đây là lần đầu tiên, quyền lợi người tiêu dùng được quy định trong văn bản có
tính hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Cụ thể hóa Điều 28 Hiến pháp 1992,
trong các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo cũng có những quy
định về vấn đề này. Ví dụ, tại Điều 3 Pháp lệnh Quảng cáo quy định: “Nhà nước
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ
quảng cáo, người phát hành quảng cáo và người tiêu dùng”.
Có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ cũng đã đề cập vấn đề
này trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Báo chí 1990, Pháp lệnh
Chất lượng hàng hoá 1999, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999, Pháp
lệnh Quảng cáo 2001, Luật Thương mại 2005, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và nhiều các luật chuyên ngành cùng các văn bản dưới luật khác… tuy nhiên
những quy định này chưa đầy đủ và do đó chưa thể đảm bảo mọi quyền lợi hợp
46
pháp của người tiêu dùng.
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 59/2010/QH12 ngày 17 tháng 11
năm 2010 với những điều khoản cụ thể hóa để điều chỉnh vấn đề này. Theo quy
định tại các điều cụ thể như sau:
2.1.5.1 Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
1. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và
toàn xã hội.
2. Quyền lợi của người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của
pháp luật.
3. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công
bằng, minh bạch, đúng pháp luật.
4. Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác.
2.1.5.2. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1. Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để
sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lượng.
3. Triển khai thường xuyên, đồng bộ các biện pháp quản lý, giám sát việc tuân
thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Huy động mọi nguồn lực nhằm tăng đầu tư cơ sở vật chất, phát triển nhân
lực cho cơ quan, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
thường xuyên tăng cường tư vấn, hỗ trợ, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn kiến
thức cho người tiêu dùng.
5. Đẩy mạnh hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin, kinh
47
nghiệm quản lý trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2.1.5.3. Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng
1. Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham
gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền yêu cầu.
2. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng
thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:
a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về
mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;
b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng
và phải được người tiêu dùng đồng ý;
c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao
thông tin của người tiêu dùng;
d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông
tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có
sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.1.5.4. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch với cá nhân hoạt
động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh
1. Căn cứ vào quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan,
Chính phủ quy định chi tiết việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch
với cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh
doanh.
2. Căn cứ vào quy định của Luật này, quy định của Chính phủ và điều kiện cụ
thể của địa phương, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, ban quản lý chợ, khu
thương mại triển khai thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo đảm chất lượng, số
lượng, an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
của cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh
48
doanh.
2.1.5.5. Quyền của người tiêu dùng
1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin
cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia
giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội
dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội
dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết.
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ
quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
49
8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
2.1.5.6. Các hành vi bị cấm
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông
tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác về một trong các nội dung sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp;
b) Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
c) Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quấy rối người tiêu dùng
thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng từ 02 lần
trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt bình
thường của người tiêu dùng.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ép buộc người tiêu dùng
thông qua việc thực hiện một trong các hành vi sau đây:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người tiêu dùng;
b) Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai,
dịch bệnh để ép buộc giao dịch.
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện hoạt động xúc tiến
thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có năng lực
hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
5. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người tiêu dùng
thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không có thỏa thuận trước với người
tiêu dùng.
6. Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
50
cá nhân khác.
7. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng hoàn cảnh khó
khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cung cấp hàng hóa,
dịch vụ không bảo đảm chất lượng.
8. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng
gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng.
2.1.5.7. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1. Cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính trong bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
2.1.5.8. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng
1. Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật.
2. Niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn
phòng dịch vụ.
3. Cảnh báo khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính
mạng, tài sản của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa.
4. Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của
hàng hóa.
5. Cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo
51
hành trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ có bảo hành.
6. Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch.
2.1.5.9. Trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng
hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng
1. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông
tin cho người tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm:
a) Bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được
cung cấp;
b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
c) Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc
không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo
quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa,
dịch vụ;
d) Tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
2. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông
tin cho người tiêu dùng thông qua phương tiện truyền thông thì chủ phương tiện
truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm:
a) Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ
do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối người tiêu dùng;
c) Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương
tiện, dịch vụ do mình quản lý nếu việc sử dụng có khả năng dẫn đến quấy rối người
tiêu dùng;
d) Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương
tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối người tiêu dùng theo
52
yêu cầu của người tiêu dùng hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.1.5.10. Thực hiện điều kiện giao dịch chung
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng điều kiện giao dịch
chung có trách nhiệm thông báo công khai điều kiện giao dịch chung trước khi giao
dịch với người tiêu dùng.
2. Điều kiện giao dịch chung phải xác định rõ thời điểm áp dụng và phải được
niêm yết ở nơi thuận lợi tại địa điểm giao dịch để người tiêu dùng có thể nhìn thấy.
2.1.5.11.Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm cung cấp
cho người tiêu dùng hóa đơn hoặc chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch theo
quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của người tiêu dùng.
2. Trường hợp giao dịch bằng phương tiện điện tử thì tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tạo điều kiện cho người tiêu dùng truy
nhập, tải, lưu giữ và in hóa đơn, chứng từ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
2.1.5.12. Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện
Hàng hóa, linh kiện, phụ kiện được bảo hành theo thỏa thuận của các bên hoặc
bắt buộc bảo hành theo quy định của pháp luật. Trường hợp hàng hóa, linh kiện,
phụ kiện được bảo hành, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm:
1. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện do mình
cung cấp;
2. Cung cấp cho người tiêu dùng giấy tiếp nhận bảo hành, trong đó ghi rõ thời
gian thực hiện bảo hành. Thời gian thực hiện bảo hành không tính vào thời hạn bảo
hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa thay thế linh kiện, phụ kiện hoặc đổi hàng hóa mới thì thời hạn bảo hành linh
kiện, phụ kiện hoặc hàng hóa đó được tính từ thời điểm thay thế linh kiện, phụ kiện
hoặc đổi hàng hóa mới;
3. Cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa, linh kiện, phụ kiện tương tự để sử
dụng tạm thời hoặc có hình thức giải quyết khác được người tiêu dùng chấp nhận
53
trong thời gian thực hiện bảo hành;
4. Đổi hàng hóa, linh kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc thu hồi hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện và trả lại tiền cho người tiêu dùng trong trường hợp hết thời gian
thực hiện bảo hành mà không sửa chữa được hoặc không khắc phục được lỗi.
5. Đổi hàng hóa, linh kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc thu hồi hàng hóa và trả
lại tiền cho người tiêu dùng trong trường hợp đã thực hiện bảo hành hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện từ ba lần trở lên trong thời hạn bảo hành mà vẫn không khắc phục
được lỗi;
6. Chịu chi phí sửa chữa, vận chuyển hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đến nơi
bảo hành và từ nơi bảo hành đến nơi cư trú của người tiêu dùng;
7. Chịu trách nhiệm về việc bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện cho người
tiêu dùng cả trong trường hợp ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện việc
bảo hành.
2.1.5.13. Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật
Khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu
hàng hóa có trách nhiệm:
1. Kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp hàng hóa
có khuyết tật trên thị trường;
2. Thông báo công khai về hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi hàng hóa đó ít
nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc 05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền
hình tại địa phương mà hàng hóa đó được lưu thông với các nội dung sau đây:
a) Mô tả hàng hóa phải thu hồi;
b) Lý do thu hồi hàng hóa và cảnh báo nguy cơ thiệt hại do khuyết tật của
hàng hóa gây ra;
c) Thời gian, địa điểm, phương thức thu hồi hàng hóa;
d) Thời gian, phương thức khắc phục khuyết tật của hàng hóa;
đ) Các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình
thu hồi hàng hóa;
3. Thực hiện việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật đúng nội dung đã thông báo
54
công khai và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi;
4. Báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng cấp tỉnh nơi thực hiện thu hồi hàng hóa có khuyết tật sau khi hoàn thành
việc thu hồi; trường hợp việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật được tiến hành trên địa
bàn từ hai tỉnh trở lên thì báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương.
2.1.5.14. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không
biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp quy định tại
Điều 24 của Luật này.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa;
b) Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa;
c) Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu,
chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu
hàng hóa;
d) Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa có khuyết tật cho người tiêu
dùng trong trường hợp không xác định được tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại quy định tại các điểm a, b và c khoản này.
3. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
Bình luận: Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của người tiêu dùng, đúng với
câu nói dân gian mà chúng ta thường nghe “ khách hàng là thượng đế ”, người tiêu
dùng sẽ quyết định, chi phối rất sâu rộng trong mối quan hệ sản xuất, cung cầu, giá
cả, lưu thông và tiêu thụ hàng hóa, quyết định sự phát triển lành mạnh hay không
lành mạnh, bền vững hay không bền vững của nền kinh tế của mỗi quốc gia hay mở
rộng ra là nền kinh tế thị trường thế giới, bởi thế người tiêu dùng là đối tượng rất dễ
bị xâm phạm tới quyền và lợi ích chính đáng của mình, cần được pháp luật bảo vệ bởi
55
trên thực tế người tiêu dùng đã bị xâm phạm rất nhiều về quyền lợi bởi nhiều yếu tố,
lý do khác nhau chẳng hạn mua phải hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng,
mua hớ, giá cao...
Với việc nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng nêu trên, thì phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh đã khá đầy
đủ và chi tiết các quan hệ phát sinh trong mối tương quan giữa người tiêu dùng và
các chủ thể khác tham gia trong chuỗi cung ứng: sản xuất, lưu thông, tiêu dùng và
quản lý nhà nước.
Tuy nhiên trên thực tế thì việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng hiện nay phần nào cũng chưa thể bảo vệ tốt quyền lợi cho người tiêu dùng bởi
nhiều yếu tố khác nhau như: nguồn lực con người hạn chế, các công cụ hỗ trợ và
thực tế còn buông lỏng hoạt quản lý việc thực thi pháp luật trên thực tế…nên quyền
lợi người tiêu dùng còn bị xâm phạm, không được bảo vệ tốt như tinh thần của luật
pháp và sự nhìn nhận của nhà nước, cần sự chung tay và nỗ lực quản lý, điều hành
quyết liệt của các cơ quan chuyên trách thì hoạt động bảo vệ người tiêu dùng mới
được thực thi có hiệu quả cao trên thực tế.
2.1.6. Một số phân tích, nhận xét, đánh giá về các quy định pháp luật về
quảng cáo thương mại trực tuyến
Hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến là một phương thức hoạt động có
tính chất đặc thù riêng, liên quan đến việc sử dụng các công nghệ trực tuyến và các
thiết bị kết nối internet trên phạm vi toàn thế giới, tính pháp lý của nó có liên quan
đến nhiều lĩnh vực, đối tượng và phạm vi điều chỉnh rộng và tiềm ẩn nguy cơ cạnh
tranh không lành mạnh và tác động rất lớn đến xã hội và nền kinh tế. Tuy nhiên với
những văn bản pháp luật đã ban hành đang điều chỉnh lĩnh vực quảng cáo hiện
nay chỉ mang tính điều chỉnh cho các loại hình quảng cáo nói chung, chưa có
văn bản pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực riêng, đặc thù lĩnh vực này mà chỉ đề
cập một số quy định chủ yếu liên quan đến hoạt động internet. Nên chăng cần có
những quy định điều chỉnh cụ thể, chuyên biệt đối với hoạt động QCTMTT này để
56
tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh QCTMTT và quản lý nhà nước.
Do đó, cần xem xét sớm ban hành một văn bản pháp luật để điều chỉnh riêng,
cụ thể và bao trùm và chuyên biệt trong lĩnh vực quảng cáo thương mại trực tuyến,
điều chỉnh quảng cáo thương mại trực tuyến để nâng cao chất lượng hoạt động quản
lý của Nhà nước đối với hoạt động quảng cáo nói chung và hoạt động quảng cáo
thương mại trực tuyến nói riêng. Góp phần giải quyết các “vướng mắc về pháp lý”
khi xử lý các mối quan hệ trong phạm trù QCTMTT, hạn chế các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại, tạo lập môi trường kinh
doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp và sự điều hành, quản lý của nhà nước cũng
dễ dàng, hệ thống và có hành lang pháp lý rõ ràng hơn.
Mặc dù hiện nay đã có nhiều văn bản pháp luật cùng tham gia điều chỉnh hoạt
động quảng cáo, tuy nhiên quy định của pháp luật về quảng cáo vẫn bộc lộ những
bất cập và hạn chế, chưa điều chỉnh hết các vấn đề khách quan tồn tại, cụ thể như
sau:
- Quy định về quảng cáo trên mạng internet còn thiếu cụ thể
Đối với hình thức quảng cáo trên internet: Quảng cáo thông qua các mạng xã
hội như Facebook, Zalo, các trang wed thương mại trực tuyến… hiện đang phát
triển rất mạnh. Internet cung cấp các cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị
hiếu khách hàng, mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp hướng các thông điệp tới
các đối tượng mục tiêu nhưng vẫn thiết kế thông điệp phù hợp với từng nhóm dân
cư và sở thích của mỗi nhóm. Khách hàng có thể xem thông tin của sản phẩm, hoặc
thậm chí đặt mua “online” sản phẩm đó. Điều đó có nghĩa là quảng cáo trên internet
có sự tương tác cao, tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhắm chính xác vào khách
hàng của mình, tiến hành quảng cáo theo đúng sở thích và thị hiếu của người dân.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tình trạng quảng cáo một cách tự phát, tràn lan,
khó kiểm soát vẫn diễn ra phổ biến mà chưa có biện pháp ngăn chặn. Trong khi đó,
tại các điểm a, b, khoản 1, Điều 55 của Nghị định 158/2013/NĐ- CP quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa thể thao, du lịch và quảng cáo lại mới chỉ
quy định chế tài xử phạt vi phạm quảng cáo đối với những hành vi “Không thông
57
báo theo quy định về tên, địa chỉ, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo
Việt Nam thực hiện dịch vụ quảng cáo cho chủ sở hữu trang thông tin điện tử của tổ
chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới.
Ngay tại Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ
internet mới chỉ quy định một trong những hành vi bị cấm có cả “hành vi quảng
cáo, truyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm”. Quy định này cho thấy,
pháp luật mới chỉ đề cập đến những hành vi quảng cáo hàng hóa bị cấm, và còn bỏ
ngỏ đối với việc quảng cáo hàng hóa thông dụng trên các tài khoản cá nhân. Do đó,
rất khó kiểm soát được tính trung thực của thông tin quảng cáo.
- Quy định về các loại hàng hóa đặc biệt bị cấm quảng cáo còn mâu thuẫn
Khoản 3 Điều 7 của Luật Quảng cáo năm 2012 quy định: “Sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ cấm quảng cáo: Rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên”. Quy định này
mâu thuẫn với khoản 4, Điều 109 Luật Thương mại năm 2005, theo đó, “quảng cáo
rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm, hàng hóa chưa được phép lưu
thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm
quảng cáo”. Như vậy, cùng một loại hàng hóa đặc biệt được quảng cáo lại được
điều chỉnh bởi hai quy định trong hai văn bản luật khác nhau, nội dung điều chỉnh
lại không giống nhau. Sự bất cập này vừa gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp,
các phương tiện thông tin đại chúng, vừa gây khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp
luật của cơ quan quản lý nhà nước.
- Quy định về trách nhiệm của đại diện thương hiệu còn bị bỏ ngỏ
Khoản 9 Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012 quy định về một trong những hành
vi bị cấm như sau: “Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh
doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu
dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo
hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố”. Ngoài ra,
khoản 7 Điều 109 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Quảng cáo sai sự thật về
58
một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng xuất xứ
hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hóa
dịch vụ”.
Các quy định nêu trên mới chỉ đề cập đến hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp
quảng cáo. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp sử dụng những hợp đồng thuê hình ảnh
của những người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu sản phẩm của mình. Hình
thức quảng cáo này là được gọi là đại diện thương hiệu. Mỗi lời nói hoặc hành động
của người đại diện thương hiệu là sự bảo đảm chắc chắn về chất lượng, giá, công
dụng… của sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng.
Các nhà sản xuất và doanh nghiệp quảng cáo đã tận dụng triệt để hình thức
này trong hoạt động quảng cáo sản phẩm dịch vụ, hàng hóa của họ. Trong trường
hợp sản phẩm không đúng với thông tin trong quảng cáo, không đạt yêu cầu về chất
lượng, sai công dụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng… thì trách
nhiệm của người đại diện thương hiệu sẽ được đặt ra như thế nào, chế tài xử phạt
đến đâu? Đây là vấn đề vẫn còn bị bỏ ngỏ trong quy định của pháp luật quảng cáo
hiện nay.
- Quy định của văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quảng cáo năm 2012 về
xác nhận nội dung quảng cáo trái với Luật
Luật Quảng cáo năm 2012 và các luật có liên quan đã quy định người đứng
đầu cơ quan báo chí chịu trách nhiệm về nội dung, hình thức, vị trí, thời lượng của
quảng cáo trên phương tiện của mình. Ngoài việc quy định nghĩa vụ của doanh
nghiệp về chất lượng sản phẩm thì cơ quan báo chí trước khi phát, đăng thông tin
quảng cáo cần phải kiểm tra, xác minh các giấy chứng nhận của sản phẩm quảng
cáo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các hợp đồng quảng
cáo ít nhiều đều mang đến lợi ích cho cơ quan báo, đài truyền hình… cho nên việc
quy định cơ quan báo chí tự mình xác nhận chất lượng sản phẩm như hiện nay chưa
thực sự hợp lý, thiếu tính khách quan, dẫn đến dễ xảy ra sai phạm.
Điều 12 Nghị định 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo quy định: “Việc quảng cáo
59
các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt quy định từ Điều 3 đến Điều 11 Nghị định
này chỉ thực hiện sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nội dung
quảng cáo” (Khoản 1); đồng thời giao cho “Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Công thương có trách nhiệm xác nhận nội dung quảng cáo đối với
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc lĩnh vực được phân công quản lý hoặc
theo phân cấp thẩm quyền xác nhận theo quy định” (Khoản 2). Trong khi đó, khoản
2 Điều 19 của Luật Quảng cáo chỉ yêu cầu “Chính phủ quy định về yêu cầu đối với
nội dung quảng cáo các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt”.
Như vậy, Điều 12 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP có nội dung không phù hợp
với quy định tại Điều 19 của Luật Quảng cáo, từ đó tạo ra sự bất cập cho các doanh
nghiệp quảng cáo, làm phát sinh thêm một loại giấy phép quảng cáo, gây khó khăn
cho doanh nghiệp quảng cáo và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, ngược
với nguyên tắc đơn giản về thủ tục hành chính.
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
2.2.1. Ưu điểm
Pháp luật về QCTMTT hiện nay được xem là công cụ pháp lý bảo vệ, định
hướng chủ thể kinh doanh, trên cơ sở quy định của pháp luật các chủ thể xác định
được các quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời cũng tạo ra hành lang pháp lý điều
chỉnh cho mọi hoạt động QCTMTT, cả về góc độ quản lý nhà nước và hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các
doanh nghiệp đang hoạt động hoặc có liên quan trong lĩnh vực QCTMTT.
2.2.2. Hạn chế, vướng mắc
Có thể nhận thấy rằng, Pháp luật quảng cáo TMTT hiện hành về cơ bản chưa
giải quyết được nhu cầu điều chỉnh phủ rộng được hết các quan hệ QCTMTT trên
thực tế. Các ngành chức năng trong phạm vi quản lý của mình, cũng đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các đối tượng trong phạm vi quản lý ngành.
Tuy nhiên pháp luật về QCTMTT còn chưa điều chỉnh kịp thời nhiều vấn đề pháp
60
lý mới phát sinh, còn nhiều bất cập và chưa điều chỉnh phủ rộng hết các mối quan
hệ trong phạm trù của lĩnh vực QCTMTT, đặc biệt pháp lý về thuế, quản trị mạng,
công nghệ thông tin xuyên biên giới.
Các văn bản pháp luật hiện tại chưa điều chỉnh kịp thời, đầy đủ thực tiễn hoạt
động phong phú trong lĩnh vực kinh doanh quảng cáo thương mại trực tuyến, đây là
lỗ hổng của pháp luật hiện nay, bởi thực tế QCTMTT không chỉ tác động đối với
hoạt động thương mại mà còn tác động lên nhiều hoạt động khác của nền kinh tế,
chính trị, văn hóa… Một số bất cập và hạn chế nhất định như sau:
Do trình độ lập pháp của Việt Nam chưa cao, các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh hoạt động QCTMTT từ khâu cấp phép, hoạt động, đối tượng, nội dung,
phương thức QCTMTT không được tập trung thống nhất bởi một văn bản mà nằm
rải rác ở nhiều văn bản khác nhau khó xác định được tính hiệu lực của từng văn
bản, gây khó khăn trong cách hiểu và thực thi pháp luật đối với các chủ thể trong
lĩnh vực QCTMTT.
Điều này tạo nên một sự chồng chéo đôi khi lại mâu thuẫn nhau trong pháp
luật về QCTMTT, quy định của pháp luật về QCTM còn nhiều điểm chưa phù hợp,
tính khả thi chưa cao, chưa phản ánh đúng những nỗ lực và phát triển của nền kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và xu thế phát triển chung của thế giới.
Trình độ và khả năng nhận thức về pháp luật QCTMTT nói riêng của chủ thể
QCTM là chưa cao. Việc chạy theo lợi nhuận của các chủ thể trong lĩnh vực QCTM
đã dẫn đến một sự thật là làm cho các quy định của pháp luật về QCTM trở nên
không thiết thực, hiệu quả. Điều này thể hiện ngay trong cả suy nghĩ và hành động
của các chủ thể trong hoạt động QCTM.
Trình độ quản lý và trang bị thiết bị, cơ sở vật chất của ta còn yếu kém trong
việc quản lý và phát hiện những sai phạm trong lĩnh vực QCTMTT. Vai trò của cơ
quan báo chí, Hội đồng Thẩm định sản phẩm và Hiệp hội QCTM còn quá mờ nhạt,
không phát huy tối đa hiệu quả cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm
pháp luật. Thiếu chế tài mạnh cho các hành vi vi phạm kinh doanh QCTMTT qua
61
mạng xã hội..
Một số trang mạng xã hội và trang thương mại trực tuyến như facebook,
youtube… đặt máy chủ ở nước ngoài, pháp luật hiện chưa điều chỉnh được về nhiều
góc độ do vướng hành lang pháp lý quốc tế, nhà nước không quản lý và kiểm duyệt
được nội dung, trong đó có các nội dung quảng cáo trên mạng không tuân thủ pháp
luật quảng cáo và nhà nước không thể chế tài….
Rất nhiều thông tin, nguồn dữ liệu quản lý hoạt động QCTMTT, cơ quan thuế
sẽ không nắm bắt hoạt động kinh doanh, nhất là các trường hợp xây dựng kho hàng
trên mạng phạm vi kinh doanh trên toàn thế giới trong đó có sự hiện diện trực tuyến
ở Việt Nam của các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh qua mạng đặt trụ ở nước
ngoài mà pháp luật Việt Nam chưa có cơ chế, chế tài, phối hợp giải quyết, từ đó để
áp dụng các biện pháp quản lý thuế, hiện đang thất thu thuế rất lớn.
Hiện nay, việc kê khai đăng ký với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số về
QCTMTT không nhiều. Nguyên nhân, do các văn bản pháp luật có quy định trách
nhiệm đăng ký là của doanh nghiệp mà không siết trách nhiệm kiểm tra, giám sát
của cơ quan nhà nước. Do vậy, đến nay rất nhiều doanh nghiệp “né” trách nhiệm
đăng ký vẫn không bị xử lý.
Việc xử lý các tranh chấp liên quan QCTMTT và TMDĐ hiện nay Bộ luật tố
tụng Dân sự và các văn bản liên quan không có quy định nào về chứng cứ điện tử và
cách thức thu thập chứng cứ điện tử hợp pháp khiến cho cơ quan tố tụng và các bên
đương sự gặp khó khăn và vướng mắc khi xác định chứng cứ để giải quyết các tranh
chấp. Để phát huy thế mạnh của mình đồng thời tạo cơ chế thuận lợi cho việc giải
quyết các tranh chấp, cần bổ sung thêm các quy định pháp luật về công nhận giá trị
pháp lý của chứng cứ điện tử.
Hành lang pháp lý và cách thức quản lý các mạng xã hội kinh doanh Thương
mại điện tử và QCTMTT cũng như những ứng dụng trên nền tảng di động còn
thiếu, còn bỏ xót nhiều đối tượng và phạm vi điều chỉnh. Chưa đưa ra các chế tài
tương ứng với hành vi vi phạm; cần kịp thời xây dựng và thừa nhận tính pháp lý
62
cho cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến.
Tiểu kết chương 2
Đối với sự phát triển như vũ bão của công nghệ ngày nay, sự ứng dụng mạnh
mẽ, có hiệu quả của ngành quảng cáo thương mại trực tuyến, nhu cầu cần có những
quy định pháp luật về QCTMTT mang tính định hướng, dự liệu, điều chỉnh phù hợp
và phát triển bền vững, hạn chế tối đa thay đổi liên tục, điều chỉnh luật, đặc biệt
phải theo kịp sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới là tất yếu.
Những bất cập, tồn tại của pháp luật QCTMTT hiện nay chưa có cơ chế, phối
hợp giải quyết, từ đó để áp dụng các biện pháp quản lý thuế, thiếu chế tài mạnh cho
các hành vi vi phạm kinh doanh QCTMTT. Pháp luật quản lý về QCTMTT không
được tập trung, thống nhất mà còn nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau khó xác
định được tính hiệu lực của từng văn bản, gây khó khăn trong cách hiểu và thực thi
pháp luật đối với các chủ thể, tạo nên một sự chồng chéo đôi khi lại mâu thuẫn nhau
trong pháp luật về QCTMTT, quy định của pháp luật về QCTM còn nhiều điểm
63
chưa phù hợp, tính khả thi chưa cao, khó áp dụng.
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG
MẠI TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại
trực tuyến
3.1.1. Đảm bảo quyền tự do quảng cáo và quyền tự do kinh doanh của
thương nhân trong quan hệ dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến trên
mạng internet
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng lớn mạnh như hiện nay, việc phát
triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tự do hóa thương mại là việc làm cần
thiết. Thế nhưng sự nới lỏng can thiệp của nhà nước đôi khi là con dao hai lưỡi,
nhất là lĩnh vực nhạy cảm như QCTMTT trên mạng internet. Vì vậy để đảm bảo
quyền tự do của thương nhân trong dịch vụ QCTMTT trên mạng internet, hành lang
pháp lý cần có những thay đổi phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của kinh tế xã
hội.
Quyền tự do của thương nhân trong hoạt động QCTMTT trên mạng internet
được thể hiện ở nhiều khía cạnh như: quyền lựa chọn đối tác, quyền tự do cạnh
tranh, quyền tự do thỏa thuận các nội dung trong Hợp đồng, quyền tự do lựa chọn
hình thức quảng cáo trực tuyến trên mạng internet, quyền tự do định đoạt các
phương pháp khi giải quyết tranh chấp, quyền được đề nghị thẩm định các sản phẩm
quảng cáo trực tuyến trên mạng internet, quyền được tham gia các tổ chức hành
nghề…
Bởi các lý do sau (phân tích):
Thứ nhất, thương nhân khi kinh doanh đều hướng tới lợi nhuận, do đó họ luôn
tìm tòi mọi cơ hội, phương pháp mới để áp dụng vào công việc của mình. Nhà nước
khuyến khích các doanh nghiệp sáng tạo và áp dụng cái mới trong hoạt động kinh
doanh. Đó cũng là cách để thị trường Việt Nam luôn cập nhật xu hướng và kịp thời
hội nhật với thế giới. Hơn nữa sự phát triển của công nghệ quảng cáo, công nghệ
64
thông tin và mạng internet diễn ra nhanh chóng, kéo theo các quy phạm pháp luật
thường xuyên bị lạc hậu. Thế nên cái mới không phải lúc nào cũng đúng với chuẩn
pháp luật hiện hành. Vì vậy, để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của thương nhân,
pháp luật cần được sửa đổi, bổ xung kịp thời các quy tắc mới phù hợp với sự phát
triển chung của thị trường. Có như thế thì pháp luật mới tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng internet phát triển phong phú
góp phần vận hành ổn định thị truờng theo hướng hiện đại.
Thứ hai, quyền tự do của thương nhân này có thể ảnh hưởng đến quyền tự do
của thương nhân khác. Bởi thương nhân nào cũng muốn tạo hiệu ứng truyền thông
mạnh mẽ cho sản phẩm QCTMTT trên mạng internet của mình, qua đó nâng cao
hiệu qủa của hoạt động xúc tiến thương mại. Thế nên không thể tránh khỏi hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các bên. Pháp luật lúc này vửa phải đảm bảo sự tự
do kinh doanh quảng cáo cho thương nhân, vừa phải có những quy định để sự tự do
ấy không đi quá giới hạn, không ảnh hưởng đến các chủ thể kinh doanh khác.
Thứ ba, sản phẩm quảng cáo trực tuyến trên mạng internet là tài sản của
thương nhân, đồng thời cũng là trách nhiệm ràng buộc thương nhân. Nguyên tắc
đảm bảo tự do quảng cáo và kinh doanh của thương nhân còn thể hiện ở việc
thương nhân có quyền bảo vệ các lợi ích chính đáng của mình khi có những phản
ánh tiêu cực về sản phẩm QCTMTTtrên internet. Do đó pháp luật phải cho phép
thương nhân bảo vệ sản phẩm quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng internet.
Một trong những cách mà pháp luật ghi nhận quyền năng này là cho phép thương
nhân được yêu cầu thẩm định sản phẩm QCTMTT trên mạng internet từ cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ tư, việc lập ra các tổ chức hành nghề cũng là để thương nhân thể hiện sự
tự do trong hoạt động kinh doanh của mình. Với lĩnh vực QCTMTT trên mạng
internet cũng vậy, tổ chức nghề nghiệp sẽ xây dựng bộ quy tắc ứng xử của mình.
Đây được coi là luật riêng của các thương nhân kinh doanh dịch vụ QCTM trực
tuyến trên mạng internet. Những tổ chức này góp phần ổn định thị trường, giúp các
thương nhân khi cần thiết. Vì vậy pháp luật cần có sự ghi nhận sự tồn tại của các tổ
65
chức này, đồng thời cũng phải quy định các yêu cầu, điều kiện hoạt động.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về quảng cáo nói chung và QCTMTT nói riêng
sẽ tạo ra cán cân pháp lý giúp thương nhân có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
3.1.2. Đảm bảo tính thống nhất của các văn bản pháp luật
Việc sửa đổi, bổ xung các quy định của pháp luật về hoạt động QCTMTT trên
mạng internet cần được thực hiện trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định hiện
hành về quảng cáo, tiếp thu các chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính
thống nhất các ngành luật khác có liên quan, bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn và
tính khả thi khi áp dụng pháp luật hiện hành về dịch vụ QCTMTT trên mạng
internet.
Ở Việt Nam quy định hai nhóm quy phạm pháp luật cùng có hiệu lực pháp lý
để điều chỉnh hoạt động quảng cáo. Một là nhóm văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt
động quảng cáo, bao gồm Luật quảng cáo 2012. Hai là nhóm văn bản điều chỉnh
hoạt động quảng cáo thương mại, bao gồm Luật thương mại 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Luận giải: Như vậy, cùng một hành vi nhưng được điều chỉnh ở nhiều văn
bản pháp luật không chỉ gây khó khăn cho các thương nhân hoạt động quảng cáo
mà còn tạo ra sự chồng chéo thẩm quyền khi quản lý của các cơ quan chức năng.
Chính vì lẽ đó, hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng
internet phải chấm dứt sự tồn tại song song của những quy phạm pháp luật có nội
dung tương tự nhau nhưng nằm ở những văn bản khác nhau. Nhà làm luật cần
thống nhất các văn bản pháp luật điều chỉnh quảng cáo nói chung và QCTMTT nói
riêng. Qua đó góp phần tạo sự rõ ràng, rành mạch cho hệ thống pháp luật, giúp
người dân dễ dàng áp dụng pháp luật trong thực tế.
3.1.3. Góp phần thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát triển
bền vững
Cạnh tranh là nền tảng cho sự vận hành của cơ chế thị trường, thúc đẩy và hợp
lý hóa sản xuất, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và là động lực cho sự phát
66
triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Do tính linh hoạt trong hoạt động cạnh tranh,
trong quan hệ kinh doanh mạnh hơn trong các quan hệ xã hội khác rất nhiều, cơ chế
điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh cũng trở nên tùy nghi và khả biến hơn rất nhiều
xo với cơ chế điều chỉnh của những ngành luật khác. với tinh thần của pháp luật
QCTMTT trên mạng internet và pháp luật về cạnh tranh, chúng ta dễ dàng nhận
thấy sự giao thoa của hai lĩnh vực pháp luật này đó là những quy định của pháp luật
về quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng inetrnet nhằm hạn chế cạnh tranh
không lành mạnh
Có thể khẳng định một lần nữa, rằng QCTMTT trên mạng internet là một hoạt
động mang bản chất cạnh tranh và tiềm ẩn những nguy cơ phát sinh những xâm hại
đến cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Do đó việc áp dụng cơ chế điều chỉnh của
pháp luật cạnh tranh đối với QCTMTT trên mạng internet là cần thiết, nhằm đảm
bảo sự vận hành đầy đủ và hiệu quả của cơ chế cạnh tranh, bảo vệ lợi ích của doanh
nghiệp và người tiêu dùng.
Mặt khác, bản thân pháp luật cạnh tranh, dù có bao gồm chế định về
QCTMTT trên mạng internet hay không vẫn luôn can thiệp vào các hoạt động
thương mại trên nền kinh tế thị trường và luôn hướng tới bảo vệ người tiêu dùng,
ngăn chặn sự tấn công của các thế lực thị trường cũng như những hành vi không
lành mạnh tới quyền lợi chính đáng của họ.
Phân tích: Lý luận và thực tiễn đều cho thấy việc điều chỉnh QCTMTT trên
mạng internet trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh là yêu cầu cần thiết trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Đây cũng chính là vấn đề rất
quan trọng trong lĩnh vực pháp luật về QCTMTT trên mạng internet. Vì vậy việc
ban hành và thực thi pháp luật quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng internet
vẫn phải nhằm thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quảng cáo
67
thương mại trực tuyến
Qua việc nghiên cứu pháp luật quảng cáo hiện hành, tác giả cho rằng, để quản
lý hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến hiệu quả ở Việt Nam, chúng ta cần
thực hiện các biện pháp sau:3
Một là, cần mở rộng đối tượng điều chỉnh đối với phương tiện quảng cáo trực
tuyến. Theo đó, cần quy định rõ quảng cáo tìm kiếm, quảng cáo hiển thị, quảng cáo
trên mạng thông tin máy tính ngoài bao gồm quảng cáo trên trang thông tin điện tử,
còn bao gồm quảng cáo trên trang mạng xã hội, blog… Từ đó dễ dàng xác định loại
hình quảng cáo này thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nào, giúp chủ thể quảng
cáo trực tuyến nói chung có hành lang pháp lý để hoạt động hiệu quả, cơ quan chức
năng cũng dễ dàng quản lý.
Hai là, phân công lại cơ quan có thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo
trực tuyến. Theo đó, cần xác định cơ quan nào phù hợp để chịu trách nhiệm chính
trong hoạt động quảng cáo trực tuyến, từ đó xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan có thẩm quyền quản lý. Nói cách khác, cơ quan có thẩm quyền chủ trì quản lý
hoạt động quảng cáo phải là Bộ Thông tin và Truyền thông. Trên thế giới, công tác
quản lý hoạt động quảng cáo thường được giao cho Bộ Công thương hoặc Bộ
Thương mại - là một bộ kinh tế có các cơ quan chức năng đủ mạnh để quản lý hoạt
động này.
Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù theo quy định của pháp luật hiện hành, lĩnh vực
quảng cáo thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Tuy
nhiên, để bảo đảm chất lượng của các văn bản phục vụ công tác quản lý, Chính phủ
cần phân công Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch
3 Võ Thị Thanh Linh, “ Thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo thương mại trực tuyến tại Anh, Singapore
và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến Việt Nam”, Bài viết đăng tải trên ấn
phẩm Nghiên cứu lập pháp số 23(375)-tháng 12/2018.
68
đồng chủ trì soạn thảo các văn bản pháp luật về quảng cáo thương mại trực tuyến.
Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang quản lý nhiều phương tiện quảng
cáo, đặc biệt là quảng cáo trực tuyến với thị phần lớn, chắc chắn sẽ có nhiều đóng
góp thiết thực cho việc ban hành các văn bản pháp luật đáp ứng được yêu cầu thực
tế của hoạt động quản lý quảng cáo nói chung và quảng cáo trực tuyến nói riêng.
Ba là, quy định bổ sung cơ quan chuyên trách giải quyết khiếu nại về quảng
cáo trực tuyến. Việt Nam hiện nay chưa có cơ quan chuyên trách giải quyết khiếu
nại về quảng cáo thương mại nói chung và quảng cáo trực tuyến trên internet nói
riêng. Nếu Việt Nam có cơ quan chuyên trách như trên, chắc chắn sẽ góp phần giảm
bớt gánh nặng và trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước.
Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao vai trò của Hiệp hội quảng cáo ở Việt Nam. Tại
Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo trên internet
tham gia vào Hiệp hội quảng cáo chưa nhiều. Để xây dựng cơ chế tự quản, Hiệp hội
quảng cáo cần chủ động mở rộng số lượng hội viên và quy mô hoạt động, đồng thời
thực hiện giám sát chương trình quảng cáo của các thành viên. Thông qua việc tự
kiểm tra, giám sát, Hiệp hội quảng cáo sẽ góp phần vào việc quản lý hoạt động
quảng cáo hiệu quả hơn.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng
cáo thương mại trực tuyến
Những giải pháp này sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong điều chỉnh pháp
luật đối với hoạt động quảng cáo, đó là:
Thứ nhất, nên chấm dứt sự tồn tại đồng thời hai loại văn bản pháp luật về
quảng cáo, xóa bỏ tình trạng trùng lặp của nhiều quy định pháp luật, như các quy
định về sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo, các trường hợp hạn chế, cấm
trong quảng cáo, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình quảng
cáo…, xóa bỏ tình trạng thương nhân hoạt động quảng cáo thương mại phải chịu sự
điều chỉnh của cả hai nhóm văn bản pháp luật về quảng cáo, phải tự rà soát và tuân
thủ hai loại văn bản pháp luật về quảng cáo và quảng cáo thương mại, kể cả những
69
điều kiện, giấy phép được coi là “rào cản” của tự do thương mại.
Thứ hai, về quản lý nhà nước, xóa bỏ được tình trạng thương nhân quảng cáo và
thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải chịu sự quản lý của cả hai Cơ quan
quản lý nhà nước về thương mại và Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin,
với hàng loạt các quy định về trình tự, thủ tục do cả hai Cơ quan này quy định.
Thứ ba, do được quy định là một hoạt động thương mại, cải cách khung khổ,
thể chế pháp lý nhằm thực hiện tự do hóa thương mại sẽ áp dụng trong lĩnh vực
quảng cáo trực tuyến như xu hướng đã và đang diễn ra trong mọi lĩnh vực thương
mại và đầu tư.
Thứ tư, nghiên cứu việc sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện
quảng cáo thương mại trực tuyến theo xu hướng cải cách hành chính. Hiện tại, hoạt
động quảng cáo thương mại do Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin
cấp giấy phép trên cơ sở ý kiến thẩm định của nhiều cơ quan có liên quan như xây
dựng, quy hoạch kiến trúc, giao thông công chính. Ngoài ra, nếu quảng cáo thuốc
chữa bệnh, giống cây trồng…còn phải đợi thêm ý kiến của Bộ Y tế, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn hay một số Cơ quan quản lý khác có liên quan.
Quy định thẩm quyền cấp giấy phép quảng cáo thuộc về Cơ quan quản lý nhà
nước về văn hóa – thông tin cho thấy, Nhà nước ta đã quan tâm nhiều đến vấn đề
quảng cáo như thế nào (tức là khâu phát hành quảng cáo, phát tán thông tin quảng
cáo đến cộng đồng). Các quy định hạn chế số trang in, thời lượng, số lần phát
song… trong Pháp lệnh quảng cáo là sự chứng minh cho điều này. Trong khi đó,
quảng cáo không phải là một hoạt động thông tin đơn thuần mà nó là một hoạt động
thương mại, do thương nhân thực hiện.
Cho nên, vấn đề kiểm soát thương nhân quảng cáo cái gì, quảng cáo về hàng
hóa, dịch vụ và hoạt động kinh doanh đó có nội dung cụ thể như thế nào, có ảnh
hưởng đến lợi ích của Nhà nước, đối thủ cạnh tranh và của người tiêu dùng hay
không, có nên bị hạn chế về một số nội dung đã nêu trên hay không… là những vấn
đề cần phải được quan tâm hàng đầu và nghiên cứu, hoàn thiện để hỗ trợ cho hoạt
70
động quảng cáo phát huy hết vai trò của nó trong hoạt động kinh tế.
Do vậy, quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quảng cáo trươc hết và quan
trọng nhất là việc kiểm soát thương nhân dự định quảng cáo những nội dung gì về
hàng hóa, dịch vụ và hoạt động kinh doanh của mình, tức là thẩm định nội dung sản
phẩm quảng cáo thương mại có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh hay không, có
các vi phạm pháp luật khác hay không?
Cùng với việc đổi mới các quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép hoạt
động quảng cáo hiện hành nên nghiên cứu sâu để sớm hoàn thiện. Có nghĩa là, thủ
tục cơ bản mà thương nhân quảng cáo cần thực hiện là đăng ký sản phẩm quảng cáo
tại tại Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Sau khi được sự xác nhận của Cơ
quan này, việc phát hành sản phẩm quảng cáo thương mại sẽ thực hiện theo pháp
luật liên quan đến các phương tiện quảng cáo trực tuyến mà thương nhân sử dụng.
Việc quy định mới về trình tự, thủ tục thực hiện quảng cáo theo giải pháp trên
sẽ mang lại những lợi ích to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Đó là thể hiện rõ nét sự
nhìn nhận đúng đắn bản chất kinh tế của hoạt động quảng cáo trực tuyến, đơn giản
hóa thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động này, xóa bỏ những
rào cản hành chính không cần thiết nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và thống
nhất về thẩm quyền quản lý, cách thức biện pháp quản lý đối với mọi hoạt động xúc
tiến thương mại và bán hàng đến tay người tiêu dùng.
Tiểu kết chương 3
Pháp luật về Quảng cáo hiện hành điều chỉnh hoạt động quảng cáo trực tuyến
chủ yếu chỉ quy định ở các nguyên tắc chung về trình tự, thủ tục, cách thức tiến
hành hoạt động quảng cáo nói chung. Tuy nhiên hoạt động quảng cáo thương mại
trực tuyến là một hoạt động có tính chất đặc thù riêng và tiềm ẩn nguy cơ cạnh tranh
không lành mạnh rất cao, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và đặc thù là ứng
dụng trên nền tảng công nghệ cao bởi các thiết bị kết nối internet, thiết nghĩ cần có
những quy định cụ thể, chuyên biệt đối với hoạt động này.
Do đó, cần xem xét nên chăng sớm phải ban hành một đạo luật để điều chỉnh
riêng, chuyên biệt về quảng cáo thương mại trực tuyến, tạo hành lang pháp lý thống
71
nhất, đồng bộ, để nâng cao chất lượng quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
quảng cáo nói chung và hoạt động quảng cáo thương mại của các doanh nghiệp nói
riêng. Góp phần hạn chế các bất cập pháp của pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo
thương mại trực tuyến hiện nay, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình
đẳng cho các doanh nghiệp và hành lang pháp lý mang lại hiệu quả trên thực tế cao
hơn, cả về phương diện quản lý điều hành của nhà nước và cho hoạt động kinh
72
doanh của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Pháp luật về QCTM nói chung và QCTMTT nói riêng ở Việt Nam trong
những năm qua tuy được ban hành và điều chỉnh tương đối đồng bộ trong lĩnh vực
quảng cáo, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, song còn thiếu tính thống nhất,
thiếu tính khả thi, mâu thuẫn và khó áp dụng. Không phủ nhận sự toàn diện và
thông thoáng trong nội dung điều chỉnh của Luật Thương mại 2005 và Luật Quảng
cáo đem lại.
Qua một thời gian triển khai thực hiện trên thực tế, pháp luật về QCTM,
QCTMTT đã thể hiện rõ những bất cập, các quy định 2 pháp luật cùng điều chỉnh
vẫn còn chưa hợp lý, chồng chéo, khi thiếu, khi thừa, thậm chí là mâu thuẫn nhau;
phạm vi điều chỉnh chưa phủ rộng hết các mối quan hệ trong phạm trù của lĩnh vực
“quảng cáo”, công tác quản lý hoạt động quảng cáo còn gặp rất nhiều khó khăn,
vướng mắc; cơ chế hậu kiểm đặt ra cho cơ quan quản lý nhà nước nhiều gánh nặng
trong khi đó chính sách, cơ chế và đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, trách nhiệm
chưa cao…
Những bất cập này cần phải được nghiên cứu sâu để có những giải pháp pháp
lý phù hợp và kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn thực hiện pháp luật về QCTMTT
và góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Pháp luật về QCTMTT hiện chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền tự do kinh
doanh tự do cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động
QCTMTT.
Mặc dù không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh sản phẩm,
song vai trò hỗ trợ sản xuất và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm của QCTM và QCTMTT
là rất lớn, đặc biệt là việc mở rộng thị phần cho sản phẩm hàng hóa ra thị trường thế
giới. Việc phải sớm hoàn thiện pháp luật về QCTMTT được xem là một trong
những giải pháp cơ bản, cấp bách góp phần quan trọng trong việc tạo hành lang
pháp lý cho hoạt động quản lý của các cơ quan chuyên môn, bảo vệ quyền lợi cho
73
các chủ thể tham gia hoặc có liên quan vào lĩnh vực quảng cáo trực tuyến.
Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đã và đang ứng dụng những lợi thế của hệ
thống quảng cáo trực tuyến vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, có thể nói
quảng cáo trực tuyến là một trong những xu thế dẫn dắt, là tất yếu của hoạt động
quảng cáo của doang nghiệp trong tương lai, khi mà doanh nghiệp có thể giảm thiểu
được chi phí, nhưng hiệu quả mang lại có thể đạt cao hơn nhiều và mở rộng phạm
vi quảng cáo ra toàn cầu so với quảng cáo truyền thống.
Do vậy, để tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ cho hoạt động này phát triển cũng
như tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước thì vấn đề đặt ra là phải sửa
đổi, bổ sung những quy định pháp luật hiện hành, hệ thống hóa, thống nhất nhằm
hoàn thiện những quy định về quảng cáo thương mại trực tuyến trên cơ sở đánh giá
những mặt tồn tại, những điểm chưa phù hợp, bổ xung kịp thời những lỗ hổng của
pháp luật hiện hành.
Việc hoàn thiện các quy định về quảng cáo trực tuyến cần được tiến hành theo
hướng: đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản luật có liên quan và sự phù
hợp với luật pháp quốc tế; bảo vệ quyền lợi người sản xuất, kinh doanh, người tiêu
dùng; hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy quản lý khoa học, hợp lý. Ngoài
ra, pháp luật về quảng cáo còn phải đảm bảo cho hoạt động này không đi ngược lại
với văn hoá, truyền thống, thuần phong mỹ tục và thị hiếu của người Việt Nam.
Với những nội dung nghiên cứu trong luận án này, tác giả chắc chắn sẽ làm
giàu thêm cho lý luận về QCTM, những giải pháp mà tác giả đề xuất sẽ góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về QCTM trong thời gian sắp tới. Qua đây,
tác giả gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS.Trần Văn Biên đã tận tâm
hướng dẫn, định hướng nghiên cứu, đóng góp ý kiến để tác giả hoàn thành đề tài
74
nghiên cứu khoa khọc của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thương mại 2005
2. Luật giao dịch điện tử 2005
3. Luật công nghệ thông tin 2006
4. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
5. Luật Quảng cáo năm 2012.
6. Luật Đất đai năm 2013.
7. Luật Xây dựng năm 2013.
8. Luật an toàn thông tin mạng 2015
9. Bộ luật dân sự 2015
10. Luật Cạnh tranh năm 2018
11. Nghị định 120/2005/NĐ- CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh.
12. Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 quy định chi tiết hướng dẫn một
số điều của luật công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin.
13. Nghị định 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Quảng cáo.
14. Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 về việc quản lý chất lượng và bảo trì
công trình xây dựng, quy định tại Điều 8 về phân loại công trình xây dựng và phụ
lục chi tiết kèm theo.
15. Nghị định 158/2013/NĐ-CP, quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn
hóa thể thao, du lịch và quảng cáo.
16. Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/03/2017 sửa đổi, bổ xung một số điều
của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan và nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử
75
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
17. Nghị định số 142/2016/NĐ-CP ngày 14/10/2016 quy định chi tiết về ngăn chặn
xung đột thông tin trên mạng.
18. Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 sửa đổi, bổ xung một số điều
của Nghị định số185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại, sản xuất, kinh doanh hành giả, hàng cấm và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
19. Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
20. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô
tuyến điện.
21. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 quy định chi tiết về thương mại
điện tử.
22. Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22/05/2018 quy định chi tiết luật thương mại
về hoạt động xúc tiến thương mại.
23. Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch quy
định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Quảng cáo.
24. Thông tư số 19/2013/TT-BXD ngày 31/10/2013 của Bộ Xây dựng về việc ban
hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương tiện quảng cáo ngoài trời.
25. Pháp lệnh về quảng cáo của Uỷ ban thường vụ quốc hội số 39/2001/PL-
UBTVQH 10
26. Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT-BCA-BQP-BTPBTT&TT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/09/2012 hướng dẫn áp dụng quy đinh của bộ luật hình sự về
một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông
27. Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 quy định về quản lý wedsite
76
thương mại điện tử.
28. Thông tư số 10/2014/TT-BCT ngày 12/03/2014 quy định thực hiện cơ chế,
chính sách xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, phát triển công nghiệp hỗ
trợ phục vụ phát triển sản phẩm quốc gia.
29. Thông tư số 12/2013/TT-BCT ngày 20/06/2013, quy định thủ tục thông báo,
đăng ký và công bố thông tin liên quan đến wedsite thương mại điện tử.
30. Thông tư số 40/2012/TT-BCT ngày 21/12/2012 quy định cấp giấy xác nhận nội
dung quảng cáo thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý của bộ công thương.
31. Thông tư số 06/2012/TT-BCT ngày 27/03/2012 quy định chi tiết về thành lập và
hoạt động văn phòng đại diện của tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài tại
Việt Nam.
32. Thông tư số 39/2010/TT-BCT ngày 09/12/2010 quy định việc thực hiện chương
trình xúc tiến thương mại biên giới.
33. Thông tư số 165/2016/TT-BTC ngày 25/10/2016, quy định mức thu, chế độ thu,
nộp lệ phí cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện của doanh nghiệp quảng
cáo nước ngoài tại Việt Nam.
34. Thông tư số 43/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 ban hành danh mục sản phẩm
nội dung thông tin số.
35. Thông tư số 09/2014/TT-BTTTT ngày 19/08/2014 quy định chi tiết về hoạt động
quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội.
36. Thông tư số 110/2015/TT-BTC ngày 28/07/2015, hướng dẫn giao dịch điện tử
trong lĩnh vực thuế.
37. Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL ngày 06/12/2013 quy định chi tiết và
77
hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật quảng cáo