ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CHU HẢI YẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC KINH - TÀY QUA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CHU HẢI YẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC KINH - TÀY QUA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quốc Tuấn THÁI NGUYÊN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Mối quan hệ giữa văn học

Kinh - Tày qua một số truyện Thơ Nôm Tày và truyện Thơ Nôm Kinh có

cùng cốt truyện” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình

nào khác.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2020

Tác giả luận văn

Chu Hải Yến

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

MỤC LỤC ............................................................................................................. ii

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 5

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 6

5. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 7

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 7

NỘI DUNG ........................................................................................................... 9

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................................................ 9

1.1. Về khái niệm giao lưu - tiếp biến văn hóa ..................................................... 9

1.2. Truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh ........... 10

1.2.1. Tình hình khảo cứu, sưu tầm, dịch thuật ................................................... 10

1.2.2. Tác giả của truyện thơ Nôm Tày ............................................................... 11

1.2.3. Giới thiệu tóm tắt một số truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh

có cùng cốt truyện ............................................................................................... 12

Chương 2: NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁ TRÌNH GIAO LƯU - TIẾP

BIẾN GIỮA CÁC TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ

NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN ........................................................ 21

2.1. Những diễn tiến của lịch sử văn hóa, nguyên nhân của sự giao lưu - tiếp

biến ...................................................................................................................... 21

2.2. Phương pháp sáng tác thời trung đại và ảnh hưởng của nó đến các truyện

thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện ................................ 26

2.2.1. Sự thể hiện con người trong văn học trung đại Việt Nam và con người

trong truyện thơ Nôm Tày ................................................................................... 26

ii

2.2.2. Bút pháp ước lệ tượng trưng của văn học trung đại và sự thể hiện trong

truyện thơ Nôm Tày ............................................................................................ 32

2.3. Giao lưu - tiếp biến trong sự đồng điệu tâm hồn của hai dân tộc Kinh

- Tày .................................................................................................................... 37

2.3.1. Đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc làm nên sự sáng tạo nghệ thuật ..... 37

2.3.2. Đồng điệu trong khát vọng về một kết thúc viên mãn .............................. 42

Chương 3: GIAO LƯU VĂN HỌC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG,

NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ

TRUYỆN THƠ NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN ............................ 47

3.1. Sự đồng điệu ở giá trị nội dung .................................................................... 47

3.1.1. Hình tượng con người của núi rừng Bắc bộ .............................................. 47

3.1.2. Thiên nhiên của núi rừng Bắc bộ .............................................................. 62

3.2. Giao lưu và tiếp biến trên phương diện nghệ thuật ...................................... 68

3.2.1. Kết cấu và thể thơ ...................................................................................... 68

3.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ...................................................................... 76

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 93

PHỤ LỤC ........................................................................................................... 97

iii

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1 Nghiên cứu giao lưu văn hóa, văn học là hướng đi đã và đang mang

lại nhiều thành tựu có giá trị trong khoa học xã hội hiện nay. Việc so sánh những

tác phẩm cùng trong một quốc gia, khu vực sẽ giúp người nghiên cứu có cái nhìn

tổng thể và toàn diện hơn về nền văn hóa - văn học đó.

Ở Việt Nam đã từ lâu, các nhà nghiên cứu đã nhận định trong nền văn hóa

văn học đa dạng và phong phú của 54 dân tộc anh em, rất dễ nhận thấy có ảnh

hưởng qua lại giữa các nền văn hóa văn học, đặc biệt giữa các nền văn hóa văn

học lâu đời có chiều dài phát triển trong lòng văn hóa văn học.

Trong 54 dân tộc ở Việt Nam thì văn hóa văn học người Kinh có vai trò

trung tâm giữ vai trò ảnh hưởng chi phối đến các văn hóa văn học các dân tộc

khác, nhưng nó không phải là sự ảnh hưởng một chiều, bất biến mà ngược lại văn

hóa văn học ít người cũng có sự ảnh hưởng, tác động trở lại đối với văn hóa văn

học Kinh. Vì vậy nghiên cứu Mối quan hệ giữa văn học Kinh - Tày qua một số

truyện Thơ Nôm Tày và truyện Thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện sẽ giúp chúng

tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn về văn học của hai dân tộc này.

1.2. Trong những năm gần đây nghiên cứu giao lưu văn học của hai dân Kinh

- Tày đã được quan tâm, tuy nhiên so với hiện nay việc đặt các tác phẩm truyện thơ

Nôm Kinh - Tày có cùng cốt truyện sát lại nhau để thông qua đó tìm hiểu sự giao

lưu của nền văn học hai dân tộc chỉ rõ cơ chế của cuộc “giao duyên” này thì cần

phải được tiếp tục lí giải. Cho đến thời điểm hiện tại do các rào cản về văn hóa,

ngôn ngữ, đa số những nghiên cứu về truyện thơ Nôm Tày thời trung đại còn nhiều

hạn chế. Như vậy, đặt vấn đề nghiên cứu Mối quan hệ giữa văn học Kinh - Tày

qua một số truyện Thơ Nôm Tày và truyện Thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện,

chúng tôi muốn làm rõ mối quan hệ giao lưu giữa nền văn học dân tộc qua một hiện

tượng cụ thể: Truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh. Vì

vậy, có thể coi đây là đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

1

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Nghiên cứu về truyện thơ Nôm Kinh

Trong dòng chảy văn học Việt Nam truyện thơ Nôm được coi là một hiện

tượng khá phức tạp nhưng cũng rất thú vị, đến nay đã có rất nhiều những công

trình nghiên cứu về truyện thơ Nôm, trong đó có thể kể đến một số chuyên luận

cũng như giáo trình tiêu biểu như: Văn học dân gian của hai tác giả Đinh Gia

Khánh, Chu Xuân Diên, được xuất bản năm 1972; năm 1976 tác giả Cao Huy

Đỉnh cho công bố công trình Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam;

Tác giả Nguyễn Lộc công bố Văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỉ XVIII - đến

hết thế kỉ XIX vào năm 2001; Thi pháp truyện Kiều của giáo sư Trần Đình Sử

được nhà xuất bản năm 2003; trước đó, năm 1995, giáo sư Trần Đình Sử cũng

giới thiệu tiểu luận Những thế giới nghệ thuật thơ; Bên cạnh đó, cũng phải kể

đến các công trình như Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của giáo sư Đặng

Thanh Lê xuất bản năm 1979; Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể

loại của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch xuất bản năm 2007… Tuy nhiên những

nghiên cứu kể trên vẫn tồn tại nhiều vấn đề tranh luận, không thống nhất, chẳng

hạn từ việc xác định thể loại truyện Nôm. Có nhà nghiên cứu cho rằng truyện thơ

Nôm thuộc loại hình văn học dân gian, nhưng các nhà nghiên cứu lại xác định

đây là thể loại hình văn học viết, có rất nhiều cách định danh truyện Nôm: truyện

Nôm bình dân, truyện Nôm bác học, truyện Nôm khuyết danh, truyện Nôm có tên

tác giả,…

Nhìn chung, những nghiên cứu về truyện thơ Nôm đã tập trung làm rõ một

số vấn như là: Thể loại truyện Nôm; Phương pháp sáng tác; Nguồn gốc; Kết cấu;

Nhân vật; Ngôn ngữ; Chủ đề; Đề tài; Văn bản truyện Nôm;…

Tuy nhiên, việc nghiên cứu truyện thơ Nôm vẫn là một công việc rất

cần thiết vì tính phức tạp của thể loại sự phong phú và đa dạng của bản thể

truyện Nôm.

2

2.2. Nghiên cứu về truyện thơ Nôm Tày

Như đã trình bày ở trên do các rào cản về văn hóa ngôn ngữ,…Cho đến

hiện nay truyện thơ các dân tộc ít người và truyện thơ Nôm Tày chưa được quan

tâm nghiên cứu một cách đầy đủ đúng mức. Với quan điểm dựa trên những thành

tựu nghiên cứu khoa học đã công bố, chúng tôi xin điểm một số công trình nghiên

cứu về truyện thơ Nôm Tày như sau:

Năm 1964, tác giả Nông Quốc Chấn giới thiệu cuốn Truyện thơ Tày -

Nùng. Trong bài giới thiệu của cuốn sách, tác giả đã đưa ra những nhận xét

có thể coi là đầu tiên về kết cấu cốt truyện cũng như nghệ thuật của truyện thơ

Tày - Nùng.

Trong phần này, chúng tôi điểm đến nhận định của các nhà nghiên cứu:

Nông Quốc Chấn, Lục Văn Pảo, Phan Đăng Nhật, Võ Quang Nhơn, Lê Trường

Phát, Vũ Anh Tuấn...

Năm 1972, sau nhiều năm dày công sưu tầm và nghiên cứu, tác giả Lục

Văn Pảo đã công bố một danh mục tương đối đầy đủ về truyện thơ Nôm Tày.

Tuy nhiên theo chính tác giả, con số này còn xa hơn hơn nhiều so với thực tại.

Tác giả Phan Đăng Nhật sau quá trình nghiên cứu, đến năm 1981, đã công

bố công trình Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây có thể được coi là

được một bước phát triển mới trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân tộc thiểu

số Việt Nam nói chung và truyện thơ Nôm Tày nói riêng.

Năm 1983, giáo trình Văn học các dân tộc ít người Việt Nam của tác giả

Võ Quang Nhơn được giới thiệu. Trong giáo trình, tác giả đã dành một chương

để bàn về truyện thơ. Ông coi truyện thơ như là “một dấu nối giữa văn học truyền

miệng và văn học thành văn”.

Năm 1997, tác giả Lê Trường Phát cho ra mắt chuyên luận Đặc điểm thi

pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số, trên cơ sở khảo sát 6 truyện thơ Thái và

19 truyện thơ Tày - Nùng, đồng thời đặt nó trong bối cảnh truyện thơ các dân tộc

Đông Nam Á. Sáu năm sau, nhà văn, nhà nghiên cứu Hoàng Triều Ân công bố

3

hai công trình nghiên cứu rất có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu truyện thơ Nôm

Tày. Đó là Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại và Chữ Nôm Tày và thể loại truyện

thơ đều được nhà xuất bản Văn học - Trung tâm nghiên cứu quốc học ấn hành.

Nằm trong mạch nghiên cứu truyện thơ Tày đó, một năm sau, năm 2004, nhà

nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cho ra mắt chuyên luận Truyện thơ Tày, nguồn gốc,

quá trình phát triển và thi pháp thể loại. Đây là một công trình nghiên cứu rất

công phu và có giá trị, tác giả đã lý giải về nguồn gốc thể loại truyện thơ Tày và

làm sáng tỏ thi pháp của thể loại trên ba phương diện: cấu trúc, nhân vật và lời

văn nghệ thuật.

Nhìn chung, nghiên cứu về truyện thơ Nôm Tày còn tương đối ít ỏi so với

quy mô của mảng văn học này, gần đây dưới sự hỗ trợ một số trí thức bản tộc

trong đó có người Tày đã tiến hành sưu tầm nghiên cứu dịch thuật các tác phẩm

truyện thơ Nôm Tày, bao gồm cả nhóm truyện thơ cùng cốt truyện với truyện

thơ Nôm Kinh sang tiếng Kinh. Đây là một dự án rất có ý nghĩa đối với lĩnh vực

nghiên cứu văn hóa văn học dân tộc ít người nói chung và nghiên cứu văn hóa

văn học dân tộc Tày trong đó có truyện thơ Nôm Tày.

2.3. Những nghiên cứu về truyện thơ Nôm Kinh và truyện thơ Nôm Tày có

cùng cốt truyện

Cho đến nay về cơ bản những truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với

truyện thơ Nôm Kinh được dịch sang tiếng Việt, tuy nhiên việc tiếp cận, nghiên

cứu các tác phẩm này còn nhiều bất cập. Chúng tôi tiếp tục khảo sát những nhận

định của các nhà nghiên cứu sau: Nông Quốc Chấn, Hoàng Triều Ân, Vũ Anh

Tuấn, Phạm Quốc Tuấn...

Năm 1971, Nông Quốc Chấn công bố bài viết Tính chất dân tộc của một

nền văn học nhiều dân tộc. Trong bài viết này, lần đầu tiên tác giả đã cho thấy

sự ảnh hưởng, giao thoa của nền văn học các dân tộc anh em Kinh, Tày, Thái,

Mường. Tiếp mạch tìm hiểu nguồn gốc và đặc điểm thể loại của nhóm truyện thơ

4

Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, năm 1992, nhà nghiên

cứu Lục Văn Pảo cho biết nhóm này gồm 6 truyện: Mạc Đĩnh Chi, Tổng Tân,

Phạm Tử, Lưu Bình - Dương Lễ, Thạch Sanh, Hoàng Trừu, và ông cũng cho rằng

truyện Mạc Đĩnh Chi có thể coi là truyện Tày hoàn toàn.

Nhà nghiên cứu Hoàng Triều Ân trong chuyên luận Chữ Nôm Tày và thể

loại truyện thơ ngoài phần lý giải về nguồn gốc một bộ phận trong kho tàng

truyện thơ Nôm Tày, ông còn cho biết đôi nét về phương pháp sáng tác, thời

điểm xuất hiện và nguyên nhân vì sao một số tác phẩm truyện thơ Nôm Kinh lại

được lựa chọn để “Tày hóa”.

Chuyên luận Truyện thơ Tày - nguồn gốc quá trình phát triển và thi pháp

thể loại của giáo sư Vũ Anh Tuấn cũng đề cập đến các truyện thơ Nôm Tày cùng

cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh.

Năm 2014, Phạm Quốc Tuấn bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài

Nghiên cứu so sánh một số truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện

thơ Nôm Kinh tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án này là một chuyên

luận nghiên cứu tương đối tỉ mỉ và công phu về sự giao thoa văn học, đặc biệt ở

lĩnh vực truyện Nôm của hai dân tộc Kinh - Tày.

Các nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh cùng cốt

truyện đã bước đầu đã lí giải được sự tương đồng và dị biệt của các tác phẩm

này. Tuy nhiên, để làm rõ hơn mối quan hệ giao lưu văn học Kinh Tày và lí giải

được nguyên nhân và cơ chế của nó thì vẫn cần đến một công trình nghiên cứu

chuyên biệt, cụ thể. Hy vọng, hướng nghiên cứu của chúng tôi sẽ ít nhiều trả lời

được câu hỏi này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài là nghiên cứu sự giao lưu của hai nền văn học Kinh -

Tày thông qua một hiện tượng cụ thể: Các truyện thơ Nôm Tày và Nôm Kinh có

5

cùng cốt truyện. Trên cơ sở so sánh đối chiếu giữa các văn bản chúng tôi sẽ chỉ

rõ những nét tương đồng và dị biệt trong nhóm tác phẩm này. Quan trong hơn là

phải làm rõ, lí giải được những nguyên nhân, cơ chế dẫn đến hiện tượng đó. Từ

đó, góp phần khẳng định sự sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật của hai

dân tộc Kinh - Tày trong suốt chiều dài lịch sử.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ chính của đề tài là nghiên cứu về phương diện nội dung và nghệ

thuật truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, nhằm

nắm rõ dấu ấn nội dung, thành tựu nghệ thuật thể hiện riêng của chúng. Trong

quá trình nghiên cứu, chúng tôi trình bày các vấn đề sau:

- Nghiên cứu những vấn đề chung liên quan đến truyện thơ Nôm Tày và

truyện thơ Nôm Kinh.

- Nghiên cứu nội dung; nghệ thuật 3 truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ

Nôm Kinh có cùng cốt truyện.

- So sánh, lí giải nguyên nhân xuất hiện sự tương đồng và khác biệt giữa

truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện được đề cập.

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những truyện thơ Nôm Tày và

truyện thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện.

Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số tài liệu mang tính chất lí luận và

những công trình, chuyên luận nghiên cứu về truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ

Nôm Kinh có cùng cốt truyện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4.2.1. Nhóm truyện thơ Nôm Tày

Văn bản do nhóm tác giả: Hoàng Triều Ân, Dương Nhật Thanh, Phạm

Quốc Tuấn sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa gồm các tác phẩm: Tổng Tân -

Cúc Hoa (2008); Thạch Seng (2008); Phạm Tử - Ngọc Hoa (2010), Nxb Đại

học Thái Nguyên.

6

4.2.2. Nhóm truyện thơ Nôm Kinh

- Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam (2000), 2 tập, Nxb Văn

học, Hà Nội, (trong đó có các tác phẩm: Tống Trân - Cúc Hoa; Phạm Tải -

Ngọc Hoa; Thạch Sanh).

Trong những tác phẩm kể, trên chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu, so sánh cụ

thể các vấn đề phương pháp sáng tác và lưu truyền những nét tương đồng dị biệt

về nội dung và giá trị nghệ thuật của hai tác phẩm. Khái quát cơ chế và lí giải,

chỉ ra được sự giao lưu sâu rộng giữa 2 nhóm tác phẩm này.

5. Đóng góp của luận văn

- Về mặt khoa học, luận văn góp phần giải quyết vấn đề: tìm hiểu, so sánh

để bước đầu đánh giá giá trị văn học của một số dân tộc thiểu số trongcác dân

tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.

Tổng hợp, khái quát, khẳng định giá trị truyện thơ Nôm Tày trong lịch sử

văn học trung đại dân tộc Tày và lịch sử văn học trung đại Việt Nam từ cơ sở so

sánh đối chiếu với những truyện thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện

- Kết quả nghiên cứu trong luận văn cho thấy được tài năng, sự sáng tạo

của người Tày khi tái tạo truyện thơ Nôm Tày trên cơ sở kế thừa, tiếp thu tác

phẩm truyện thơ Nôm Kinh.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng những phương pháp

nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp loại hình

- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu liên nghành

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận thư mục này được tham khảo, luận văn chia

làm ba chương:

7

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Chương 2: NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁ TRÌNH GIAO LƯU - TIẾP

BIẾN GIỮA CÁC TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM

KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN

Chương 3: GIAO LƯU VĂN HỌC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI

DUNG, NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ

TRUYỆNTHƠ NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN

8

NỘI DUNG

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Về khái niệm giao lưu - tiếp biến văn hóa

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, giao lưu và tiếp biến văn hóa là một

vấn đề được rất nhiều những nhà xã hội học quan tâm. Liên quan đến khái niệm

tương đối mới này, đã có một số những định nghĩa và nhận xét đáng chú ý.

Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa: “giao lưu văn hóa

là sự tiếp xúc văn hóa, trao đổi ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các nền văn

hóa của các dân tộc khác nhau”. Trong định nghĩa này, có thể thấy hai điểm đáng

chú ý như sau: thứ nhất, để có được giao lưu văn hóa cần có ít nhất hai nền văn

hóa của các dân tộc khác nhau tác động qua lại với nhau; thứ hai, sự tác động

qua lại đó dẫn đến hệ quả là sự trao đổi và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các

nền văn hóa. Từ định nghĩa cơ bản trên có thể hiểu một cách đơn giản: Giao lưu

văn hóa là quá trình tiếp xúc, trao đổi, lựa chọn, tiếp nhận và chuyển hóa các

giá trị văn hóa khác nhau, có thể (hoặc không) dẫn đến sự biến đổi văn hóa của

mỗi chủ thể trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Song song với khái niệm Giao lưu văn hóa là khái niệm Tiếp biến văn

hóa. Tiếp biến văn hóa là quá trình mà trong đó các thành viên của nhóm văn

hóa thông qua niềm tin và hành vi của các nhóm khác, chuyển từ lối sống riêng

của mình để thích ứng. Định nghĩa về Tiếp biến văn hóa được đưa ra ở cuộc họp

UNESCO châu Á tại Teheran năm 1978 như sau: “Tiếp biến văn hóa đó là sự

tiếp xúc giữa những nhóm người khác nhau về văn hóa, do đó sinh ra những sự

thay đổi về văn hóa (ứng xử, giao tiếp, tư duy…) ở trong mỗi nhóm”. Tiếp biến

văn hóa là quá trình một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp xúc trực tiếp và

liên tục với một nhóm khác, tiếp thụ (tự nguyện hay bắt buộc, toàn bộ hay từng

bộ phận) nền văn hóa của nhóm này. So với định nghĩa Giao lưu văn hóa, định

9

nghĩa Tiếp biến văn hóa nhấn mạnh vào một điểm đó là sự thay đổi về văn hóa.

Hiện nay, khái niệm tiếp biến văn hóa được quan niệm đơn giản hơn: Tiếp biến

văn hóa là quá trình một cá nhân khi tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một cộng

đồng hay một cá nhân khác (có hoặc không có ý thức) hấp thụ nhiều hay ít nền

văn hóa của cộng đồng hay các cá nhân này. Tiếp biến văn hóa có thể xảy ra

theo con đường kinh tế, tôn giáo, tư tưởng, văn hóa nghệ thuật….Trong bối cảnh

hòa bình hay gắn với áp đặt về chính trị.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, giao lưu và tiếp biến văn hóa thường

đi đôi với nhau tạo thành một tổ hợp khái niệm giao lưu - tiếp biến văn hóa. Giao

lưu - tiếp biến văn hóa trong tiếng Anh được định danh bằng các từ như:

Acculturation, Cultural contacts hoặc Cultural exchanges. Tác giả của Đề cương

những bài giảng giao lưu, tiếp biến văn hóa trong lịch sử Việt Nam, đưa ra

khái niệm về thuật ngữ “giao lưu - tiếp biến văn hóa” với nghĩa là hiện tượng xảy

ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau, gặp nhau (tiếp xúc trực tiếp và

lâu dài), gây ra sự biến đổi về mô thức văn hóa so với ban đầu của hai chủ thể.

Như vậy có thể thấy, giao lưu - tiếp biến văn hóa bắt nguồn từ sự tiếp xúc giữa

các nền văn hóa, và thể hiện ở sự thay đổi trong quá trình tiếp xúc đó. Hiện tượng

này là quy luật có tính phổ biến trong tiến trình lịch sử và văn hóa của nhân loại.

Sự tồn tại, phát triển của các cộng đồng, dân tộc dù ở bình diện nào cũng gắn với

kế thừa, giao lưu, tiếp xúc, tiếp biến văn hóa. Trên thực tế, có thể điểm qua một

số vùng văn hóa có sự giao lưu và tiếp biến nổi bật như: vùng văn hóa Á Đông

(Trung Quốc, Hà Quốc, Nhật Bản…), vùng văn hóa Nam Á (Ấn Độ), Vùng văn

hóa Đông Nam Á (các quốc gia trong khối Asean), vùng văn hóa Châu Âu, vùng

văn hóa Bắc Mỹ, vùng văn hóa Mỹ Latin…

1.2. Truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh

1.2.1. Tình hình khảo cứu, sưu tầm, dịch thuật

Đầu tên, chúng ta biết đến Phạm Tử - Ngọc Hoa, Thạch Sanh, Tống Tân

- Cúc Hoa, Nhị Độ Mai,…Trong bài viết “Mấy ý nghĩ về truyện thơ cổ Tày -

10

Nùng”, do nhà thơ Nông Quốc Chấn giới thiệu, xuất bản năm 1964. Trong bài

viết này, tác giả đã đánh giá và có những nhận xét vô cùng quan trọng về nền

văn văn học Tày - Nùng, có hai nội dung chủ yếu của những truyện thơ trên (thứ

nhất là tính cách anh hùng, chí khí dũng cảm, tinh thần vượt khó khăn gian khổ

để vươn tới đích; thứ hai, thiết tha với quyền sống của con người lao động, yêu

quý chính nghĩa và điều kiện, căm thù phi nghĩa và tội ác, những yếu tố tiêu cực).

Bài viết còn có những nhận định quan trọng về hình thức nghệ thuật của truyện

thơ như: cách bố cục câu truyện, bút pháp mô tả, thể thơ và thơ.

Theo nghiên cứu về truyện thơ Nôm của tác giả Lục Văn Pảo, năm 1992,

trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 đã có bài viết “Truyện Nôm Tày”. Ông đã

đưa ra những lý lẽ thuyết phục rằng: “Truyện thơ Tày là sản phẩm song trùng,

một mặt là sản phẩm của một loaị hình thức văn học dân tộc ra đời, song cũng

là sản phẩm được sinh ra bởi chữ Nôm. Không có chữ Nôm Tày thì không có

truyện thơ Nôm Tày tồn tại như ngày nay”. Tác giả đã đưa ra một danh mục

truyện thơ Tày được sưu tầm trong nhiều năm, hồm có 47 truyện (trong đó có 39

truyện thuộc nhóm truyện do người Tày sáng tác, 06 truyện bắt nguồn từ các

truyện Nôm Kinh, 02 truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian Trung Quốc), đây

là số lượng tác phẩm có quy mô đồ sộ mà ít dân tộc nào sánh được. Ở đó trong

bài viết tác giả đã khẳng đinh rằng: “Xét về nội dung, những truyện thơ này phản

ánh cuộc sống của người Tày khá phong phú, đa dạng. Việc tìm hiểu tư tưởng

xã hội người Tày trong lịch sử, nhất là bộ phận phong tục tập quán, nếp sống đã

qua thì kho tàng này dường như chiếm được vị trí độc tôn nếu không muốn nói

là duy nhất…”[36,17].

1.2.2. Tác giả của truyện thơ Nôm Tày

Các nhà nghiên cứu có rất nhiều cách đánh giá nhận xét, đánh giá các tiêu

chí đưa ra để khẳng định một tác phẩm nào đó thuộc loại hình văn học dân gian

hay không hay nó là văn học viết. Theo quan niệm truyền thống, một tác phẩm

được coi là văn học dân gian khi nó mang những đặc trưng sau đây: sáng tác của

11

tập thể, hình thức truyền miệng, có tính dị bản, hay sự phân chia thành các tuyến

nhân vật đối lập (thiện - ác) trong một vài thể loại của văn học dân gian - đặc biệt

trong truyện cổ tích cũng là một tiêu chí nhận diện, phân loại. Gần đây, khi

nghiên cứu một số truyện thơ Nôm Tày nói chung và truyện thơ Nôm Tày có

cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh nói riêng, chúng tôi thấy không phải

như vậy. Có nhiều ý kiến cho rằng: “Truyện Nôm khuyết danh (kể cả Nôm Kinh

hay Nôm Tày) đều là những sáng tác dân gian”. Trên thực tế, điều này cần phải

được xem xét một cách có hệ thống mới có thể đưa ra những kết luận chính xác.

Đầu tiên, người ta cho rằng: “Bản quyền các sáng tác dân gian (ca dao,

dân ca, tục ngữ, câu đố, hò, vè, truyền thuyết, cổ tích thuộc về tập thể…) đều là

những sáng tác của tập thể trong thời gian dài. Nhưng vì tập thể là rất lớn, không

phải là một cá nhân nào cụ thể, nên sáng tác tập thể lại được gắn cho một cách

gọi khác đó là “vô danh” hay “khuyết danh” và “tác phẩm khuyết danh” thường

được coi là sáng tác của người bình dân”. Do nhận định như vậy, nên các tác

phẩm truyện Nôm khuyết danh của người Kinh còn có cách gọi khác là “truyện

Nôm bình dân” [36,18] . Tuy nhiên, ở các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày lại có

chỗ khác biệt.

Theo chúng tôi, người viết truyện thơ Nôm Tày chắc chắn là các nho sĩ,

vì nếu không được học hành, đào tạo bài bản về chữ Hán, chữ Nôm thì không

thể biết chữ Nôm Tày và từ đó không thể sáng tác ra truyện thơ Nôm Tày - loại

truyện thơ của người Tày được viết bằng văn tự Nôm Tày (được trí thức bản tộc

người Tày sáng tạo ra trên cơ sở chữ Hán, chữ Nôm và lối phát âm của người

Tày nhằm văn bản hóa tiếng Tày). Thêm vào đó, theo một số nhà nghiên cứu về

văn hóa dân gian Tày, người bình dân chỉ có thể sáng tác ra những câu Sli, lượn

hay ca dao Tày mà thôi, khó có thể đủ trình độ để sáng tác truyện thơ như nho

sĩ. Như vậy, coi truyện thơ Nôm Tày là những sáng tác của người bình dân thì

phần khiên cưỡng.

1.2.3. Giới thiệu tóm tắt một số truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh

có cùng cốt truyện

12

Khi nghiên cứu riêng nhóm các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt

truyện với truyện thơ Nôm Kinh, có một điều dễ nhận thấy khi sáng tác các truyện

thơ này trên cơ sở cốt truyện của người Kinh, các tác giả người Tày để lại nhiều

dấu ấn sáng tạo riêng biệt.

Các truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh,

chúng tôi giới thiệu ba tác phẩm truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa,

Thạch Seng, Tống Tân - Cúc Hoa trong tương quan so sánh với truyện thơ Nôm

Kinh có cùng cốt truyện, tất cả truyện thơ đều mang giá trị nghệ thuật sâu sắc.

Về cốt truyện, tác phẩm này cơ bản giống với truyện thơ Nôm của người Kinh

song khác về hình thức thể hiện. Truyện thơ Nôm Kinh dùng thể thơ lục bát còn

truyện thơ Nôm Tày dùng thể thơ thất ngôn trường thiên và được viết bằng chữ

Nôm Tày, thêm vào đó, bản sắc văn hóa Tày thể hiện rất rõ nét trong tác phẩm.

Đọc những truyện thơ trên, không chỉ thấy được những phẩm chất tốt đẹp của

con người dân tộc Tày, họ đã để lại những dấu ấn riêng biệt, thể hiện phong cách

sáng tạo độc đáo, để từ đó các tác phẩm văn học của người Kinh đã chuyển hóa

vào văn học Tày một cách tự nhiên và mang màu sắc riêng biệt, tạo cho nó một

chỗ đứng nhất định trong nền văn học dân tộc.

Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa

Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ

truyện thơ Nôm Kinh Tống Trân - Cúc Hoa. Truyện thơ của đồng bào Tày dài

3002 câu thơ, chia làm 17 đoạn, được viết bằng chữ Nôm Tày và thể thơ thất ngôn

trường thiên. Vì vay mượn nên cơ bản cốt truyện của truyện thơ Nôm Tày Tổng

Tân - Cúc Hoa không khác nhiều so với truyện thơ Nôm Kinh. Sự sáng tạo của

tác giả người Tày thể hiện ở việc thêm bớt, lược bỏ và bổ sung một số tình tiết.

Kết thúc của bản Tày và bản Kinh gần giống nhau, đều là những kết thúc có hậu,

viên mãn và làm hài lòng người đọc. Ở bản Nôm Kinh, kết thúc truyện ở việc

Tống Trân trở về được vua Việt ban thưởng, được chọn làm Phò mã, nhưng Hoàng

hậu bị lao, cần ăn thịt hươu để chữa bệnh. Tống Trân đi săn hươu, đến một khu

13

rừng thì gặp công chúa Bạch Hoa, trên đường từ Tần quốc sang nước Việt tìm

chồng là Tống Trân, bị bão dạt vào khu rừng hoang nhiều hươu. Tống Trân đi săn

gặp được nàng và rước về nhà. Nhưng vì ở nhà chàng đã có vợ là Cúc Hoa, nên

Tống Trân đã tổ chức một cuộc thi để chọn chính thê, cả hai nàng đều ngang tài

ngang sức ở cuộc thi may vá và làm bánh, nhưng đến cuộc thi nấu cơm, nhờ chước

lạ nàng Cúc Hoa đã giành phần thắng, nhờ đó nàng trở thành chính thê. Cả gia

đình sống sum vầy hạnh phúc. Đoạn kết có câu:

Phúc to lại được vợ hiền,

Vinh hoa như Tống Trạng nguyên mấy người?

Đó cũng là ước mơ của bao thế hệ người Việt về một cuộc sống gia đình

đoàn viên, hạnh phúc.

Trở lại với phần kết ở bản Nôm Tày, quan Trạng Tống Trân trở về kinh

đô bản quốc, được vua trọng dụng, cùng bàn luận việc nước. Chàng Tống Trân

đoàn tụ với hiền thê Cúc Hoa sau bao năm xa cách. Cuộc sống viên mãn sum

vầy, và không có cuộc thi nào diễn ra.

Vợ chồng vạn đại được bình an,

Lưu truyền truyện thế gian cùng biết.

Tóm tắt cốt truyện Tổng Tân - Cúc Hoa

Tổng Tân sinh ra trong một gia đình hiếm muộn, lên mười tuổi thì cha qua

đời, chàng phải cùng mẹ đi ăn xin đây đó. Một hôm đến nhà trưởng giả ăn xin,

chàng gặp được Cúc Hoa, con gái út của trưởng giả. Cúc Hoa đem bốn bát gạo

cho chàng đồng thời hỏi han chàng về gia cảnh, nghe xong nàng động lòng cảm

thương. Trưởng giả nhìn thấy cảnh tượng đó không vui bèn ép gả Cúc Hoa cho

Tổng Tân. Cúc Hoa ngậm ngùi theo mẹ con Tổng Tân trở về quê chàng. Vì được

mẹ giấu cho mười lạng vàng mang theo nên nàng tìm cách trang trải đón thầy về

dạy cho chồng chữ nghĩa. Tổng Tân sáng dạ, thông minh nên học nhanh và chẳng

mấy chốc đã “đủ tinh tường thông cả vũ văn”. Đến ngày triều đình mở khoa thi,

Tổng Tân lên đường vào kinh ứng thí nhưng hết sạch gạo tiền, Cúc Hoa định

14

đem dải yếm bán đi để chồng lấy lộ phí lên đường, nhưng Tổng Tân khuyên can,

nàng đành giữ lại. Hai vợ chồng bàn nhau về nhà Trưởng giả cha nàng để xin

tiền lộ phí nhưng về đến nơi thì bị ông từ chối thẳng thừng. Tống Trân lên kinh

dự thi, vượt qua bao khó khăn, vượt qua nỗi xấu hổ, cuối cùng chàng đỗ Trạng

nguyên.

Tổng Tân được vinh quy bái tổ, sum họp với gia đình. Nhưng sau đó,

chàng được lệnh phải đi sứ nước Tần 10 năm. Cúc Hoa lại phải gạt nước mắt

chia tay chồng và ở nhà chăm lo cho mẹ chồng. Ở nước bạn, sau khi vượt qua

được thử thách của vua Tần, Tổng Tân và phái đoàn rất được lòng vua nước bạn.

Chàng được trọng dụng và cùng vua xử lý một số việc công. Tổng Tân đã bộc lộ

tài năng khi xử các vụ án thiếu phụ giết chồng, án kiện cành đa, và đặc biệt Tổng

Tân đã thành công trong việc thu phục Sơn Tinh Lý Vì.

Sau nhiều năm xa cách, Cúc Hoa bị cha mình ép bỏ Tổng Tân để gả cho kẻ

nhà giàu Trương Đình. Cúc Hoa một mực từ chối và tìm đến cái chết, nàng được

thần núi cứu và được Lý Vì bảo vệ. Lý Vì đến báo tin cho Tổng Tân, chàng nhận

được tin mà nóng lòng muốn trở về nhưng niên hạn chưa hết. Sau đó Lý Vì cùng

sơn thần khuyên nàng trở về. Trưởng giả cha Cúc Hoa một mực ép gả nàng cho

Trương Đình, kịp ngày cưới Tổng Tân cũng đến hạn trở về, chàng hóa trang thành

người ăn mày vào xin ăn ở đám cưới, được hai chị vợ là Cảnh Nữ và Thị Tây giúp

đỡ, lén đem cho đồ ăn. Chàng được nghe mẹ đẻ kể về những nỗi uất ức mà bà và

Cúc Hoa phải chịu cũng như sự chung thủy của Cúc Hoa. Cuối cùng Tổng Tân đã

trừng trị những kẻ tham lam, tàn ác là trưởng giả và Trương Đình. Chàng đoàn tụ

với Cúc Hoa. Vì thời gian ở nước Tần, Tổng Tân được lòng vua nên đã được vua

Tần gả công chúa Bạch Hoa cho. Nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến hạnh

phúc gia đình chàng mà trái lại còn khiến cho hạnh phúc gia đình thêm viên mãn

và trở thành câu chuyện lưu truyền thế gian.

Truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa

Truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa có cốt truyện vay mượn từ

15

truyện thơ Nôm Kinh Phạm Tải - Ngọc Hoa. Văn bản truyện thơ Nôm Tày

Phạm Tử - Ngọc Hoa hiện đang được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán

Nôm Việt Nam. Truyện dài 927 câu thơ, được chia làm 5 đoạn, viết bằng chữ

Nôm Tày theo thể thơ thất ngôn trường thiên. Cốt truyện khá sát với truyện thơ

Nôm Kinh Phạm Tải - Ngọc Hoa. So với bản Kinh, bản của người Tày thể hiện

sự sáng tạo của người bản xứ, đặc biệt là trong những đoạn miêu tả thiên nhiên,

ngoại cảnh và diễn biến tâm trạng nhân vật. Nội dung của Phạm Tử - Ngọc Hoa

cho thấy được dấu vết của các phong tục tập quán, quan niệm về thế giới của

người Tày.

Tóm tắt truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa

Tướng công họ Trần ở huyện Thanh Hà đã nhiều tuổi mới có một con gái

đặt tên là Ngọc Hoa. Phạm Tử, người Sơn Tây, mồ côi cha mẹ, phải đi ăn xin để

tiếp tục việc học. Một lần chàng đến gõ cửa nhà Trần công xin ăn gặp được Ngọc

Hoa, từ đó Ngọc Hoa đem lòng thương yêu Phạm Tử. Vợ chồng tướng công họ

Trần chiều ý con gái, cho Phạm Tải và Ngọc Hoa kết duyên. Trong làng gã nhà

giàu tên là Biện Điền vốn tính vô lại, từng hỏi cưới Ngọc Hoa không được từ đó

đem lòng oán ghét, nay thấy nàng lấy chồng thì lòng thù oán lại tăng lên, bèn tạc

tượng Ngọc Hoa đem dâng lên Trang Vương. Trang Vương vốn là tên vua hiếu

sắc, thấy dung nhan tượng Ngọc Hoa mười phần xinh đẹp bèn sai quan quân đến

bắt nàng với mong muốn lấy nàng làm vợ. Giữa triều đình, Trang Vương ép

Ngọc Hoa lấy hắn, nhưng bị nàng cự tuyệt. Hắn lại thương lượng với Phạm Tử

nhường vợ cho hắn, nhưng Ngọc Hoa vẫn kiên quyết không chịu. Trang Vương

liền đầu độc Phạm Tử, bức bách Ngọc Hoa. Để được trở về quê cũ, nàng viện cớ

chồng chết, đạo làm vợ phải để tang ba năm mới nói chuyện tái giá. Trang Vương

vì không muốn động lòng dân đành đồng ý để nàng hồi hương.

Ngọc Hoa đưa thi hài chồng về quê an táng. Hết ba năm chịu tang, vì muốn

giữ trọn trinh tiết với chồng, Ngọc Hoa tìm đến cái chết. Nàng chết xuống âm

phủ, gặp Phạm Tử, cùng với chồng làm đơn kiện Trang Vương. Diêm Vương có

16

quan hệ với Trang Vương, nhưng sau khi xét hỏi đành phải tuyên án Trang

Vương và ra lệnh ném hắn vào vạc dầu. Phạm Tử và Ngọc Hoa được cải tử hoàn

sinh trở lại dương thế đoàn tụ với gia đình, không những vậy, Phạm Tử còn kế

thừa cai quản cơ nghiệp của Trang Vương khiến cho dân tứ phương an hưởng

thái bình.

Truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng

Khác với hai truyện thơ Phạm Tử - Ngọc Hoa và Tổng Tân - Cúc Hoa

đã được xác định rõ ràng là có nguồn gốc vay mượn từ cốt truyện thơ Nôm Kinh,

truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng vẫn còn nhiều nghi vấn về nguồn gốc. Giáo sư

Cao Huy Đỉnh cho rằng đề tài dũng sĩ diệt đại bàng xuất hiện ở rất nhiều nước

cả trên thế giới và khu vực Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật lại

cho rằng: “có thể truyện thơ Thạch Sanh ra đời ngay trên đất Cao Bằng mà trung

tâm là Cao Bình - Hòa An theo con đường chuyển hóa từ truyện cổ tích đánh Dạ

Đìn, sau đó được lưu hành rộng rãi trên toàn quốc” [26, 35]. Ông chỉ ra tính

chất “liên dân tộc” của truyện: “Thạch Sanh là kết quả công lao bồi đắp của miền

núi và miền xuôi, qua quá trình lịch sử lâu dài cùng đoàn kết chiến đấu bên nhau

với tinh thần sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau (Hồ Chí

Minh) giữa dân tộc Việt - Tày cùng các dân tộc thiểu số khác” [26, 39].

Nhận định của Phan Đăng Nhật dẫn đến một điều rằng, có thể, đề tài dũng

sĩ diệt đại bàng có trong văn học của nhiều dân tộc khu vực Đông Nam Á. Mỗi

một dân tộc khi tiếp thu đề tài này lại thể hiện một cách khác nhau. Riêng ở Việt

Nam, văn học hai dân tộc Kinh - Tày đã cho thấy điều đó. Thậm chí truyện Thạch

Sanh của người Kinh và truyện Thạch Seng của người Tày lại có sự bổ sung và

hoàn thiện cho nhau, chứng minh sự giao lưu và gắn bó mật thiết giữa các nền

văn hóa, giữa hai dân tộc. Mặc dù nguồn gốc của truyện thơ Thạch Seng vẫn là

vấn đề cần giới nghiên cứu xác minh cụ thể hơn nhưng chúng tôi vẫn xếp truyện

thơ này vào đối tượng nghiên cứu trong đề tài.

Truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng dài 2005 câu thơ, được viết bằng chữ

Nôm Tày theo thể thơ thất ngôn trường thiên. Truyện cũng có kết cấu lắp ghép

17

giống như truyện thơ Nôm Kinh. Sự sáng tạo của người Tày chủ yếu tập trung

vào các tình tiết. Tác giả người Tày tập trung vào xây dựng nhân vật bằng một

số nội dung miêu tả ngoại hình và diễn biến tâm trạng nhân vật. Sự độc đáo của

Thạch Seng được thể hiện chủ yếu ở không gian miền núi, thiên nhiên miền núi

được miêu tả trong truyện.

Tóm tắt truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng

Quận Cao Bình có vợ chồng Thạch Nghĩa, gia cảnh thanh bần nhưng

chuyên tâm làm điều thiện, ngặt nỗi tuổi đã cao mà chưa có con. Ngọc Đế cảm

động chân tình ấy bèn phái Thái tử xuống đầu thai làm con họ Thạch. Đứa trẻ

ra đời khi cha đã mất, mẹ chàng đặt tên là Thạch Seng. Thạch Seng sống với

mẹ, nhưng chẳng bao lâu sau, mẹ chàng cũng qua đời. Chàng một thân côi cút

trong một túp lều dưới gốc đa, làm nghề đốn củi sớm hôm đổi gạo sống qua

ngày.

Khi đó có người làm nghề nấu rượu tên là Lý Thông, sống cùng mẹ già,

trong một chuyến đi tình cờ đến gốc đa, gặp gỡ và kết nghĩa anh em với Thạch

Seng. Thông mời Thạch Seng về nhà làm việc đỡ đần hai mẹ con. Trong vùng

có một con Chằn tinh thường bắt người ăn thịt, nên dân lập miếu thờ và hàng

năm phải nộp cho nó một mạng người, mới được nó để cho yên ổn làm ăn.

Năm ấy, đến lượt Lý Thông phải nộp mạng. Hắn bèn tính kế lừa Thạch

Seng thế mạng cho mình. Thạch Seng không mảy may nghi ngờ liền đi đến miếu

Chằn tinh, chàng chiến đấu và giết chết được Chằn tinh, cắt đầu mang về. Nhưng

về đến nhà chàng lại bị Lý Thông đoạt công. Nhờ công trừ Chằn tinh, Lý Thông

được vua phong làm đô đốc và hưởng bổng lộc triều đình. Bấy giờ, vua Viễn

Vương có công chúa Quỳnh Nga xinh đẹp đang tuổi kén chồng, một hôm bị con

yêu tinh Đại bàng cắp đi mất. Nhà vua truyền cho Lý Thông đi tìm, và hứa khi

tìm được sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lúc Đại bàng tinh bay qua, Thạch

Seng đang ở bên gốc đa, liền giương cung bắn trúng một cánh. Lần theo vết máu,

Thạch Sanh biết được cái hang ẩn náu của Đại bàng.

Để cứu công chúa, Lý Thông nghĩ ra cách mở gánh hát mong tìm được

18

Thạch Seng. Hai người gặp lại nhau và cùng đi cứu công chúa. Đến hang Đại

bàng Thạch Seng ròng dây xuống hang đưa được công chúa lên trước. Lý Thông

khi cứu được công chúa bèn cho quân lính lấy đá lấp kín cửa hang, mưu giết chết

Thạch Seng. Trong hang, Thạch Seng đã giao tranh với Xà vương (Đại bàng

tinh), giết chết được yêu tinh và cứu được thái tử con vua Thủy Tề. Để đền ơn,

Thái tử con vua Thủy Tề mời Thạch Seng xuống thủy cung chơi. Khi Thạch Seng

trở về, vua Thủy Tề tặng chàng vô số châu báu nhưng chàng chỉ xin một cây đàn

thần và một cái niêu thần.

Vì oán Thạch Seng, hồn Chằn tinh và Xà vương trộm châu báu trong cung

rồi vu họa cho chàng. Thạch Seng bị tống giam. Trong ngục, chàng lấy cây đàn

thần ra gảy để bày tỏ nỗi lòng.

Về phần công chúa Quỳnh Nga, vì thấy Lý Thông sai lính lấp hang, mưu

hại Thạch Seng, nên nàng đã uất ức hóa câm. Nay nghe được tiếng đàn của Thạch

Seng, công chúa bỗng cất lời cười nói. Nghe con tâu bày, nhà vua cho vời Thạch

Seng đến. Sau khi rõ mọi chuyện, nhà vua truyền lệnh bắt giam mẹ con Lý

Thông, nhưng được Thạch Seng xin tha và cho về quê cũ. Trên đường trở về, mẹ

con Lý Thông bị trời đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.

Thạch Seng được Viễn Vương gả công chúa Quỳnh Nga cho. Tức giận vì

trước đây bị công chúa từ chối lời cầu hôn, thái tử mười tám nước chư hầu cùng

kéo quân sang quấy nhiễu. Thạch Seng lại đem cây đàn thần ra gảy, tiếng đàn

làm quân đối phương rã rời tự tan rã. Trước khi rút về nước, đội quân đông đảo

ấy còn được Thạch Seng cho ăn một bữa cơm. Niêu cơm tuy nhỏ nhưng ăn bao

nhiêu cũng không hết. Về sau Thạch Seng sống hạnh phúc cùng công chúa

Quỳnh Nga và cùng cai trị vương quốc.

* Tiểu kết chương 1

Do những ảnh hưởng của lịch sự phát triển tộc người, đời sống vật chất và

tinh thần, nhu cầu tự thân trong đời sống cộng đồng, sự giao lưu văn hóa giữa

các dân tộc đã dẫn đến sự ra đời của truyện thơ Nôm Tày. Trong kho tàng truyện

19

thơ Nôm Tày có hiện tượng khá đặc biệt, một số tác phẩm có cùng cốt truyện với

truyện thơ Nôm Kinh. Tìm hiểu về những truyện thơ này, chúng tôi rút ra nhận

xét như sau:

Nền văn hóa tộc người có bề dày vững chắc và đội ngũ nhân sĩ đông đảo,

hùng hậu, có tri thức trình độ cao đã giúp cho văn hóa, văn học Tày tiếp nhận

văn hóa, văn học Kinh khá nhanh chóng, dễ dàng. Nhưng văn học Tày không chỉ

tiếp nhận một cách thụ động mà đây là sự chịu ảnh hưởng mang tính chất tái tạo

và nâng cao. Đặc biệt hơn nữa, chữ Nôm Tày xuất hiện từ rất sớm, gần như song

song với sự xuất hiện của chữ Nôm Kinh, do đó, những giá trị văn hóa của người

Tày đã sớm được ghi chép lại bằng chính thứ văn tự ghi âm tiếng nói của dân tộc

họ. Sự xuất hiện sớm của chữ thơ Nôm Tày dẫn đến sự xuất hiện sớm của văn

học Nôm Tày.

Nội dung cốt truyện của các tác phẩm chúng tôi khảo sát, về cơ bản không

có sự thay đổi nhiều so với bản gốc. Với quan điểm kế thừa, tiếp thu, các tác giả

người Tày gần như giữ nguyên cốt truyện có sẵn. Nhưng cũng có tác phẩm, người

Tàu sáng tạo thêm một số đoạn mà người Kinh không có (chẳng hạn như đoạn 8

của Tống Tân - Cúc Hoa) tuy nhiên những nội dung như thế không nhiều, chủ

yếu sự sáng tạo của người Tày nằm ở những tình tiết. Bởi vì, các tác giả người

Tày không thể thoát ra khỏi sự chi phối của các phương pháp sáng tác đương đại.

Trong bối cảnh hòa nhập giao lưu văn hóa, sự giao lưu - tiếp biến văn học là điều

không thể tránh khỏi. Văn học người Tày giao lưu và tiếp biến với văn học người

Kinh tạo nên sự phong phú trong tổng thể văn học Việt Nam. Sự giao lưu và tiếp

biến văn học đó là biểu hiện của một cuộc sống đại đồng trên toàn vẹn lãnh thổ

Việt Nam.

20

Chương 2

NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁ TRÌNH GIAO LƯU - TIẾP BIẾN GIỮA

CÁC TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ NÔM KINH CÓ

CÙNG CỐT TRUYỆN

Ở chương 1, chúng tôi đã trình bày khái quát về khái niệm giao lưu - tiếp

biến văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong chương này, chúng tôi

tập trung phân tích nguyên nhân cũng như cơ chế của quá trình giao lưu - tiếp

biến văn hóa cũng như văn học giữa hai dân tộc Kinh - Tày trong lịch sử cũng

như ở bối cảnh hiện nay.

2.1. Những diễn tiến của lịch sử văn hóa, nguyên nhân của sự giao lưu - tiếp

biến

Trên một địa bàn rộng lớn, các dân tộc cùng chung sống, việc xảy ra hiện

tượng giao lưu - tiếp biến văn hóa là điều tất yếu. Trong số các dân tộc anh em

trên lãnh thổ Việt Nam, người Kinh và người Tày có những sự giao lưu và tiếp

biến trong văn hóa, đặc biệt là văn học. Minh chứng cho điều đó là những tác

phẩm truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh mà chúng

tôi đang khảo sát, nghiên cứu. Diễn tiến lịch sử được coi là nguyên nhân chính

dẫn đến sự giao lưu và tiếp biến văn hóa, trong đó có văn học.

Người Tày vốn là một cộng đồng dân tộc thiểu số có số dân đứng thứ hai

trên toàn quốc (sau người Kinh). Địa bàn cư trú của đồng bào Tày rải rác ở nhiều

nơi trên toàn quốc nhưng tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao

Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang…Theo các

sử liệu, sự giao lưu văn hóa Kinh - Tày được thể hiện rõ nhất qua chính sách của

các triều đình phong kiến, cụ thể là chính sách “phiên thần” của nhà Lê và chính

sách “lưu quan” của nhà Nguyễn. Theo đó, triều đình cử những viên quan đi trấn

ải biên giới, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong những cuộc “tuần hành” làm nhiệm

vụ quốc gia đó, các vị quan dưới xuôi mang theo gia đình, đồng thời mang theo

văn hóa người Kinh ở đồng bằng lên miền ngược. Từ đó xuất hiện những sự giao

21

thoa văn hóa giữa người Kinh và người Tày như giao thoa trong phương thức

sản xuất, kinh nghiệm sản xuất, đời sống văn hóa….

Như chúng ta đã biết, Cao Bằng là một trong những trung tâm của văn hóa

Tày. Đại đa số truyện thơ Nôm Tày được phát hiện ở Cao Bằng, thậm chí mở

đầu truyện Thạch Seng, tác giả người Tày đã khẳng định về quê quán rõ ràng

của chàng trai họ Thạch:

Xưa có người ở quận Cao Bình

Người nhân đức có tên Thạch Nghĩa

Chuyên bán củi làm kế sinh nhai

Kết nàng hiền người ngay Dương thị

(Thạch Seng, câu 1 - 4)

Cao Bình là địa danh thuộc tỉnh Cao Bằng, nay thuộc địa phận huyện Hòa

An. Cao Bằng là nơi tập trung đông đảo cộng đồng người Tày và có nền văn hóa

bản địa phát triển hết sức phong phú. Khảo qua các lát cắt lịch sử có thể thấy sự

giao lưu văn hóa Kinh - Tày ở Cao Bằng là một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến sự xuất hiện của các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện

với truyện thơ Nôm Kinh.

Theo nhiều nguồn sử liệu cho thấy, người Kinh đã lên Cao Bằng từ lâu đời

nhưng rõ nhất là giai đoạn nhà Mạc chạy loạn lên Cao Bằng. Năm 1592, Trịnh

Tùng tiến đánh Thăng Long, vua nhà Mạc khi đó là Mạc Mậu Hợp phải bỏ chạy

về Kim Thành (Hải Dương). Trong tình thế cấp bách, Mạc Mậu Hợp nhường

ngôi lại cho con trai là Mạc Toàn sau đó tự mình thống lĩnh quân đội chống lại

quân họ Trịnh. Tuy nhiên, Mậu Hợp thất bại, bị bắt và bị hành hình. Không lâu

sau Mạc Toàn cũng bị bắt, triều Mạc kết thúc. Tuy nhiên, hậu duệ và thế lực của

họ Mạc vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, họ chạy khỏi Thăng Long cũng như miền

xuôi để lên cát cứ những vùng đất biên ải, trong đó có Cao Bằng. Theo Đại Việt

sử ký toàn thư, cho đến thế kỷ 17 thì các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao

Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính

22

Cung, Mạc Kính Khoan đều là con cháu thuộc chi của Mạc Kính Điển.

Liên quan đến nhà Mạc lên cát cứ Cao Bằng, dân gian vẫn lưu truyền câu

chuyện về sấm Trạng Trình. Vào những năm cuối đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh

Khiêm đã lâm bệnh nặng, trước vận mệnh quốc gia đang suy yếu, vua Mạc Mậu

Hợp sai con đến hỏi Trạng về sách lược kéo dài triều đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm

đã nói: “Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế” (Đất Cao Bằng tuy nhỏ hẹp nhưng

cũng có thể kéo dài được mấy đời). Về sau quả nhiên nhà Mạc lên cát cứ Cao

Bằng và kéo dài thêm mấy mươi năm. Tuy là dữ liệu dã sử nhưng từ đó cũng có

thể thấy sự kiện nhà Mạc lên Cao Bằng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giao

lưu văn hóa của dân tộc Tày miền núi và dân tộc Kinh miền xuôi.

Trong thời gian nhà Mạc chiếm giữ Cao Bằng, tranh chấp giữa các thế lực

phong kiến vẫn diễn ra khiến cho nhân dân chịu không ít lầm than. Dân gian vẫn

có câu ca:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng

(Ca dao)

Sau khi chiếm cứ được Cao Bằng và các vùng đất lân cận, nhà Mạc định

đô ở Cao Bằng, thời gian nhà Mạc duy trì ở Cao Bằng kéo dài 85 năm (1592 -

1677) trải qua ba đời vua: Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ.

Mạc Kính Cung là em thứ 7 của Mạc Kính Chỉ, sau khi Kính Chỉ mất,

Kính Cung lên ngôi và lấy hiệu là Càn Thống. Ông trấn giữ cả một vùng rộng

lớn từ sông Nhị Hà trở về Bắc, cả vùng trung du và miền núi như các tỉnh Tuyên

Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Các tướng lĩnh về tập hợp, nhân dân đi theo ông

rất đông. Ông chấn chỉnh kỷ cương mọi mặt, an phục nhân tâm mở trường dạy

học, mở khoa thi, thu nạp nhân tài, khuyến khích phát triển nông nghiệp, mở các

ngành nghề, đường sá chợ búa, thương mại phát đạt, chiêu binh mãi mã…. Ngày

23

đêm luyện tập quân đội tề chính uy nghi. Bên cạnh đó, ông chăm lo sửa sang

thành trì, đắp nhiều thành nhỏ ở nơi hiểm yếu tạo thành địa thế thuận lợi tiến

thoái lưỡng tiện. Giảm sưu thuế, phạt nặng quan tham, giữ được cách sống hòa

đồng giữa bản thân với nhân dân. Những chính sách của Mạc Kính Cung có thể

nói là tương đối tích cực trong công cuộc trị dân của ông. Tuy nhiên vì lực lượng

của quân Trịnh quá đông và hùng mạnh nên Mạc Kính Cung cuối cùng đã chịu

bại vong và tử trận năm 1625.

Những năm sau đó, cháu nội của Mạc Kính Điển, cháu gọi Mạc Kính Cung

là chú, Mạc Kính Khoan lên ngôi lấy hiệu là Long Thái. Cũng giống như tiền

nhân, Kính Khoan thi hành những chính sách tích cực như chăm chỉ cho binh

lính tập luyện cố gắng gây dựng một đội quân hùng hậu, trên thực tế quân đội

của Long Thái cũng đã từng uy hiếp kinh thành Thăng Long, tuy nhiên do tương

quan lực lượng quá chênh lệch, ông vẫn thất bại trước quân Trịnh, cuối cùng

đành rút về Cao Bằng. Năm Mậu Dần 1638, ông mất ở Cao Bằng. Trong thời

gian ở ngôi, Mạc Kính Khoan chú ý đến bồi dưỡng nhân tài, ông mở trường học

và tổ chức nhiều khoa thi, lấy được nhiều Tiến sĩ, và tuyển chọn nhiều nhân tài

phụng sự cho triều đình nhà Mạc. Đây là một điểm đáng chú ý và có đóng góp

không nhỏ trong cuộc giao thoa văn hóa Kinh - Tày.

Năm 1638, con trai trưởng của Mạc Kính Khoan là Mạc Kính Vũ lên ngôi,

lấy hiệu là Thuận Đức. Kế tục truyền thống cha ông, vị vua này cho tập duyệt

quân đội, sắc lệnh rõ rành, thưởng phạt nghiêm minh, chiêu binh mãi mã. Bên

cạnh việc chú trọng vũ trang, ông cũng quan tâm đến việc phát triển nhân tài,

ông mở nhiều khoa thi tuyển chọn người phụng sự. Trong số các khoa thi, có

Trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ là nữ Trạng nguyên đầu tiên và cũng là duy nhất

trong lịch sử nước ta. Để vỗ về nhân dân, Mạc Kính Vũ giảm nhẹ sưu thuế, mở

cửa giao lưu buôn bán với Trung Quốc, cho tự do sản xuất đồ mỹ nghệ, khuyến

khích nông dân phát triển nông nghiệp. Và điều quan trọng nhất cũng giống như

các bậc cha anh, ông lại tuyên chiến với quân Trịnh. Cuộc chiến dòng dã 40 năm,

24

thắng bại thăng trầm. Khi thắng thế, quân Mạc tiến xuống phía nam, khi thất trận

quân Mạc lại lùi về cố thủ căn cứ. Ông từng giúp Ngô Tam Quế chống Thanh,

sau bị rơi vào thế gọng kìm của nhà Thanh và quân Trịnh, cuối cùng thất bại. Sau

Mạc Kính Vũ, nhà Mạc ở Cao Bằng còn kéo duy trì được hai đời nữa là Mạc

Kính Hỷ và Mạc Kính Quang, sự duy trì yếu ớt và kết thúc triều đại vào năm

1683.

Có thể nói sự kiện nhà Mạc lên trấn thủ và cát cứ Cao Bằng là một tiền đề

vô cùng quan trọng trong sự giao thoa hai nến văn hóa Kinh - Tày. Kinh đô Cao

Bằng của nhà Mạc là trung tâm giao lưu của văn hóa, với gần một thế kỉ tồn tại,

nơi đây đã trở thành nơi hội tụ tinh hoa của đồng bào Tày. Sự giao lưu và tiếp

biến thể hiện trên mọi mặt như: kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ….Nhận

định về sự giao lưu văn hóa này, Giáo sư Trần Quốc Vượng từng nói: “Khi nhà

Mạc ở Cao Bằng mòn mỏi đi vì các cuộc đánh phá của nhà Lê - Trịnh và mất

ngôi hẳn từ năm 1677 thì các ca công, nhạc công của triều đình Mạc tản mát vào

dân và Tày hóa. Trước và sau đó, do có hiểu biết về âm nhạc cung đình, họ dạy

cho dân, cho các ông mo then nhiều bài hát bản nhạc. Những làn điệu đó đã dược

Tày hóa, dân gian hóa thành các bài Bụt, bài Giàng. Song người pháp sư Tày vẫn

nhớ ơn họ và thờ họ làm tổ sư với các tên Quản Nhạc, Lý Quỳnh Văn…”

Trong cuộc giao lưu và tiếp biến văn hóa đó, một số giá trị văn hóa người

Tày đã được “Kinh hóa”, hay một số giá trị văn hóa người Kinh đã được “Tày

hóa”. Sự giao lưu và tiếp biến đó diễn ra một cách tự nhiên đến khó phân định

minh bạch. Trong nhóm 3 truyện thơ Nôm Tày mà luận văn của chúng tôi chọn

làm đối tượng, có thể thấy rõ ràng truyện Tổng Tân - Cúc Hoa và Phạm Tử -

Ngọc Hoa là hai truyện vay mượn cốt truyện từ người Kinh, tuy nhiên truyện

Thạch Seng có phải là truyện vay mượn từ văn học người Kinh hay không thì

vẫn còn là vấn đề được giới học thuật quan tâm và đánh giá lại. Sự “vay mượn”

này chắc chắn có cơ sở từ sự đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc Kinh - Tày, và

xuất phát từ những sự tương đồng trong văn hóa.

25

Có thể nói tiến trình lịch sử, đặc biệt là công cuộc xây dựng cơ sở cát cứ

của nhà Mạc khi bỏ chạy khỏi Thăng Long là một yếu tố vô cùng quan trọng

trong quá trình giao lưu văn hóa Kinh – Tày. Vua tôi nhà Mạc mang đến Cao

Bằng văn hóa đồng bằng, cụ thể là văn hóa dân tộc Kinh, giao lưu tiếp xúc với

văn hóa của người Tày bản địa. Trên cơ sở của sự giao lưu tiếp xúc đó, văn hóa

Kinh – Tày có tác động tương hỗ nhau, có thể văn hóa Kinh ảnh hưởng đến văn

hóa Tày hoặc cũng có thể văn hóa Tày tác động lại văn hóa Kinh, sự tác động có

tính chất hai chiều. Đó là cơ sở ra đời của những truyện thơ Nôm Tày và Nôm

Kinh có cùng cốt truyện. Sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa giữa hai tộc người

Kinh – Tày là rất lớn và trên nhiều phương diện, trong nhiều lĩnh vực, và truyện

thơ chỉ là một lĩnh vực nhỏ.

2.2. Phương pháp sáng tác thời trung đại và ảnh hưởng của nó đến các

truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện

Thoạt nghe, luận điểm này có vẻ phi lý vì văn học Trung đại Việt Nam đại

đa số được sáng tác bởi đông đảo đội ngũ tri thức Hán học, tác phẩm được thể

hiện bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, như vậy có nghĩa tác phẩm văn học trung đại

Việt Nam là những tác phẩm có tác giả rõ ràng, được phân định với tác phẩm

văn học dân gian (trong đó có truyện Nôm dân gian). Tuy nhiên, cũng cần nhớ

lại rằng, ở thời kì nào thì văn học cũng có những luồng riêng giữa nguồn chung,

tức là song song với sự phát triển của văn học viết vẫn là sự tồn tại và phát triển

của văn học dân gian. Hai dòng văn học này cùng tồn tại, cùng phát triển, do đó

không tránh khỏi những giao thoa, ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, sự tác động

của phương pháp sáng tác văn học trung đại đến truyện thơ Nôm là điều không

thể không diễn ra.

2.2.1. Sự thể hiện con người trong văn học trung đại Việt Nam và con người

trong truyện thơ Nôm Tày

Chúng ta đều biết, văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học cổ

trung đại Á Đông nói chung đều chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng triết học

26

phương Đông trong đó có ba hệ tư tưởng lớn Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.

Do đó con người trong văn học trung đại cũng mang triết thuyết của ba học thuyết

này, chẳng hạn như thuyết phi ngã của Nho gia, thuyết vô ngã của đạo Phật và

thuyết vong ngã của Lão - Trang. Tuy vậy, theo giáo sư Trần Đình Sử “cả tam

giáo Nho - Phật - Đạo đều chủ trương lý thuyết phá ngã, vô ngã, vô kỷ, nhưng

không hề là một sự diệt ngã tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều dựa vào phẩm chất cá

nhân để giải phóng cái ngã nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới

khác, không gò bó, không tạm bợ.” [40,203]. Điều này cũng có thể thấy từ trong

cái chết của Phạm Tử và Ngọc Hoa, khi bị thế lực thống trị đè nén đến mức phải

đến đường cùng, Phạm Tử bị ép phải từ giã cõi đời, từ giã người vợ yêu thương

trong bữa tiệc “thuốc độc” của Trang Vương. Cái chết đó của chàng bị tác động

dữ dội từ ngoại cảnh, còn Ngọc Hoa thì tìm đến cái chết bằng một ý thức nội

tâm. Nàng tự tìm đến cái chết để bảo toàn lòng trinh bạch thủy chung với chồng,

đồng thời cũng là một lời phản kháng mạnh mẽ với thế lực xã hội đang chà đạp

lên hạnh phúc của dân lành. Ở một khía cạnh nào đó, cái chết của Ngọc Hoa là

minh chứng rõ ràng cho một sự vong ngã để tìm đến một thế giới khác, thế giới

có người nàng yêu. Có thể nàng không chắc rằng nơi thế giới bên kia sẽ có một

cuộc sống hạnh phúc nhưng ít nhất, nơi đó sẽ được ở bên người nàng yêu thương

- Phạm Tử.

Triết thuyết vô ngã, phi ngã khiến cho văn học trung đại chịu sự quy định

chặt chẽ của tính quy phạm, tuy vậy con người cá nhân vẫn được thể hiện một

cách phong phú, sinh động. Tổng Tân hay Thạch Seng là đại diện cho người anh

hùng của dân tộc Tày, một mẫu người anh hùng mang trong mình cảm hứng sử

thi của cả một dân tộc. Tuy nhiên, Tổng Tân và Thạch Seng ở một phần nào đó

trong con người họ vẫn là họ, tồn tại những nét riêng biệt trong cái chung tổng

thể. Có thể nói, bên trong người anh hùng đánh bại lang sói, hùm beo trừ hại cho

dân lành vẫn là một chàng Tổng Tân quan trạng tài hoa phong nhã, bên trong

một người anh hùng đại diện cộng đồng diệt chằn tinh, xà vương vẫn là một

27

chàng Thạch Seng chất phác, thật thà, rũ bỏ danh lợi thủy cung để về với gốc đa

thân thuộc, trọn đạo hiếu thờ phụng xuân huyên.

Chịu sự chi phối của hệ thống thi pháp trung đại, đồng thời không ngừng

sáng tạo theo tiếng gọi của cảm xúc bản ngã, nhà sáng tác thời trung đại giống

như “người nghệ sĩ múa một tay còn tay kia bị cột vào truyền thống”. Nếu áp

dụng vào truyện thơ Nôm Tày, có thể thấy được điều này tương đối rõ nét.

Con người trong văn học trung đại theo đó cũng có sự thay đổi theo nhiều

chiều kích khác nhau, lúc nghiêm trang trong vòng khuôn thước kinh điển, lúc

bứt phá dữ dội để tâm hồn rung động và thăng hoa bằng những cảm xúc chân

thật và mãnh liệt vốn có của con người. Điều này, có thể dễ dàng nhận thấy

thông qua các nhân vật, đặc biệt là những nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm

Tày. Ngọc Hoa vượt qua những khuôn thước “môn đăng hộ đối” để quyết lấy

cho được chàng Phạm Tử hàn nho cũng bởi cảm tình ngay từ buổi đầu gặp mặt,

đó là sự chiến thắng của tình yêu với khuôn phép xã hội. Nhưng nàng vẫn giữ

trọn đạo vợ chồng, chịu tang ba năm khi chồng mất, giữ lòng trung trinh đến

nỗi quyên sinh theo chồng. Có thể nói ở Ngọc Hoa, sự kết hợp giữa cảm xúc cá

nhân vượt qua khuôn rào lễ giáo và sự chuẩn mực trong đạo lý nhân sinh được

thể hiện một cách rõ nét nhất. Quỳnh Nga vì trả ơn cứu mạng đã tự mình kết

ngãi cùng Thạch Seng, nàng công chúa lầu ngọc gác son đã vượt qua hàng rào

cung cấm để đến với chàng tiều phu côi cút, đó là sự vượt phá lễ giáo, chuẩn

mực nhưng xét theo cảm xúc nội tại mỗi người thì lại hoàn toàn có cơ sở.

Con người cá nhân, cá thể trong văn học trung đại thường không được thể

hiện một cách phóng khoáng, cởi mở như trong văn học hiện đại. Song điều đáng

quý là mặc dù chịu sự chi phối của tính quy phạm, người ta vẫn nhìn thấy trong

văn học trung đại những tâm hồn nghệ sĩ phá cách; biết yêu, say, rung động trước

vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và con người; biết sống bằng những cảm xúc

riêng tư từ trong thẳm sâu con tim mình.

Khi nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy hai dòng

28

riêng giữa một dòng chung. Một dòng hướng về những chuẩn mực, hướng về

những chủ đề, quan niệm mang tính công thức. Dòng này tạo nên kiểu văn học

mang tính quan phương, cung đình, chủ yếu là tụng ca vua sáng tôi hiền, đề cao

lễ nghĩa Nho giáo.

Người sáng tác quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”, văn chương

xoay quanh những chủ đề quen thuộc của đạo đức nhà Nho. Con người xuất hiện

trong dòng văn học này, lẽ dĩ nhiên là con người cộng đồng, con người quân

quốc… mang lí tưởng “trí quân trạch dân”, mang khát vọng xây dựng một xã hội

Nghiêu Thuấn. Minh chứng cho luận điểm này có thể dễ dàng tìm thấy trong các

sáng tác của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm….

Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn,

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền.

(Nguyễn Trãi, Tự thán 4)

Dòng thứ hai vượt thoát ra ngoài khuôn phép, luật lệ để những cảm xúc

thật, những tình cảm thật được thăng hoa. Ở dòng thứ hai này, con người cá nhân

có dịp bứt phá, quẫy đạp bằng một cái tôi mạnh mẽ, phóng khoáng.

Nếu lấy những quy tắc, điển phạm trong mỹ học phong kiến làm tâm thì

có thể xem dòng văn học thứ nhất là “dòng văn học hướng tâm” và dòng văn học

thứ hai là “dòng văn học ly tâm” như PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn đã dùng.

Lịch sử văn học chứng minh rằng, chỉ khi nào văn học ly tâm thì mới xuất

hiện những tiếng nói nghệ thuật đích thực, mới xuất hiện những tác giả văn học

lớn. Những kiệt tác để đời của những đấng tài hoa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,

Hồ Xuân Hương… phần lớn được sáng tạo trong những giây phút ly tâm của tâm

hồn họ. Vượt thoát ra khỏi những khuôn phép là lúc cảm xúc con người được

thăng hoa và hiện thực hóa bằng tác phẩm văn chương. Nhà nghiên cứu Nguyễn

Hữu Sơn từng nói: “Trong những trạng huống bức xúc, những cảnh ngộ dễ khơi

gợi niềm trắc ẩn trong tâm hồn nhà nghệ sĩ… sẽ là lúc bột khởi những rung động

nghệ thuật đích thực, từ đó khởi động những suy cảm cá nhân” [39,58]. Sự thể

hiện con người trong văn học trung đại theo chiều hướng tâm hay ly tâm gắn liền

29

với cá tính sáng tạo của nhà văn, đồng thời gắn liền với sự vận động của lịch sử.

Mỗi thời đại văn học với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa riêng sẽ hình

thành quan niệm nghệ thuật về con người của riêng thời đại ấy.

Trở lại với nhóm ba truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện

thơ Nôm Kinh, có thể thấy những nhân vật đều thể hiện được tính “ly tâm” cũng

như “hướng tâm”. Tổng Tân “hướng tâm” ở thực hiện trách nhiệm cao cả với

quốc gia đại sự, và “ly tâm” ở khát vọng với hạnh phúc tình yêu; Ngọc Hoa

“hướng tâm” ở lòng hiếu thảo và sự thủy chung, nhưng cũng “ly tâm” ở sự phản

kháng Trang Vương mãnh liệt…Như vậy, bản thân trong mỗi nhân vật đã có

những sự “hướng tâm” và “ly tâm”, hai thái cực này luôn tồn tại cùng nhau, đan

xen nhau, và nó chính là bản thân nguồn gốc của sự phát triển.

Hình tượng con người trong văn học trung đại Việt Nam còn được thể hiện

qua các nguồn cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo.

Hai cảm hứng sáng tác này bao trùm nền văn học và hòa quyện nhau không thể

tách rời. Tuy nhiên mỗi cảm hứng thể hiện rõ nét ở một giai đoạn lịch sử nhất

định và quy định đặc trưng văn học của mỗi giai đoạn đó.

Cảm hứng yêu nước được thể hiện rõ nét trong văn học giai đoạn đầu (thế

kỉ X - XV), sau đó trở lại trong văn học cuối thế kỉ XIX (khi thực dân Pháp xâm

lược). Cảm hứng nhân đạo thể hiện rõ trong văn học từ thế kỉ XVIII - nửa đầu

thế kỉ XIX. Sự vận động của văn học đi từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng

nhân đạo bắt đầu từ sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người để rồi

chính quan niệm này quy định sáng tác của nhà văn, chi phối việc lựa chọn ngôn

ngữ, thể loại, bút pháp…

Từ thế kỉ X - thế kỉ XV là giai đoạn phục hưng và phát triển đất nước sau

nghìn năm Bắc thuộc, giai đoạn này cũng là giai đoạn mà dân tộc ta không ngừng

đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm phương Bắc để gìn giữ bờ cõi. Chính vì

thế, cảm hứng chính trong văn học là cảm hứng yêu nước, con người được đề

cao trong văn học là con người cộng đồng - con người hướng tâm, tức là những

30

con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của cộng đồng (thời trung đại

chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo). Hiện thực giai đoạn đầu đơn giản, không

rối rắm, phức tạp nên con người trong văn học cũng không có nhiều băn khoăn,

day dứt; cũng không thể hiện nhiều những ham muốn, khát vọng cá nhân.

Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người hùng tráng

với tư thế lẫm liệt, lí tưởng lớn lao, khát vọng cháy bỏng, nhân cách cao đẹp

trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão; con người bi tráng dù rơi vào hoàn cảnh

bi kịch nhưng nhiệt tâm cứu nước vẫn không lúc nào vơi cạn trong Cảm hoài

của Đặng Dung; con người ưu ái, suốt đời lo nghĩ cho nước cho dân trong thơ

Nguyễn Trãi…

Từ thế kỉ XVI về sau, hiện thực trở nên phức tạp hơn rất nhiều, xã hội

phong kiến rơi vào khủng hoảng, các thế lực phong kiến chém giết, tàn hại lẫn

nhau. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trở nên căng thẳng hơn

bao giờ hết. Vận mệnh, quyền sống của con người bị đặt bên bờ vực thẳm. Lúc

này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu thương, trân

trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng yêu nước sang cảm

hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con người cá

nhân.

Có thể nói, quá trình vận động của hình tượng con người trong văn học

trung đại đi từ chỗ giản đơn đến phức tạp, từ con người cộng đồng đến con người

cá nhân với nhiều biểu hiện đa dạng đã khiến văn học có những bước phát triển

vượt bậc theo hướng từ bỏ dần các yếu tố quan phương, cung đình để tìm đến

với những cảm xúc chân thật, những rung động tế vi trong thẳm sâu tâm hồn.

Những con người có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo phong

kiến; những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà Nho,

cảm nhận được sự cô độc, lạc lõng đồng thời không ngừng khát khao về tình yêu

và hạnh phúc.

Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người bi kịch,

31

con người khát vọng trong Đoạn trường tân thanh, Chinh phụ ngâm, Cung

oán ngâm, thơ Nôm Hồ Xuân Hương…; con người khủng hoảng niềm tin trong

thơ chữ Hán Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát; con người tự phản tỉnh trong Cung

oán ngâm, thơ Nguyễn Công Trứ….

Với truyện thơ Nôm Tày, nhân vật trong những tác phẩm truyện thơ Nôm

Tày không thể hiện nhiều qua cảm hứng, nhất là hai cảm hứng chủ đạo của văn

học trung đại Việt Nam. Nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày gần giống với kiểu

nhân vật của văn học dân gian, những nhân vật mang tính đại biểu cho cả cộng

đồng. Như chúng tôi đã trình bày, tính đại biểu đó thể hiện chất sử thi. Nếu xét

về chất sử thi có thể thấycác nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày biểu lộ rõ hơn

so với các nhân vật trong truyện thơ Nôm Kinh. Những Tổng Tân, Thạch Seng

có phần thể hiện rõ chất sử thi hơn với những Tống Trân, Thạch Sanh, đặc biệt

là ở những đoạn các nhân vật này chiến đấu với cái ác, bảo vệ công bằng và lẽ

phải.

2.2.2. Bút pháp ước lệ tượng trưng của văn học trung đại và sự thể hiện trong

truyện thơ Nôm Tày

2.2.2.1. Ước lệ trong văn học nói chung

Trong đời sống xã hội, ước lệ là một quy ước có tính cộng đồng. Ước lệ

là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự vật

và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích quy ước và đúng với cách hiểu của

cả cộng đồng. Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính

ước lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng

bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của

nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ

thẩm mỹ có tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, một dòng văn học

nhất định.

2.2.2.2. Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam

Trong văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc

32

và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới bằng hệ thống

nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của văn học. Đặc

trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến và cảm quan

thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học. Ước lệ bao gồm ba tính chất: Tính uyên

bác và cách điệu hóa cao độ; tính sùng cổ; tính phi ngã.

Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ

Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mệnh

danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi như

thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học

và người tiếp nhận cũng rất bác học. Văn chưong chính thống thời phong kiến

mang tính quy phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ

quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường

hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn

Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:

Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

(Khóc Dương Khuê)

Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người

sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kinh sử, điển cố, điển

tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất

hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính

nghệ thuật cao.

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông

(Nguyễn Du)

Hay:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

33

(Nguyễn Trãi)

Văn chương của tao nhân mặc khách có khuynh hướng lý tưởng hóa, “văn

chương hóa”. Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác

với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang văn thời này

luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách

điệu hóa càng đẹp.

Quan niệm này đã làm nảy sinh thái độ xem thường văn xuôi, trong thơ

ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi

gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu

tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc

mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,... Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa

như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:

Hài văn lần bước dặm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

Chàng Vương quen mặt ra chào

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa

(Nguyễn Du)

Tạo vật thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như

mai, cúc, tùng, bách, liễu,...

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

(Bà Huyện Thanh Quan)

Nhìn chung, văn chương thời trung đại không chú ý tả thực. Tả thực nếu có,

chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh,

Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:

Thoắt trông nhờn nhợt màu da

34

Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao?

(Nguyễn Du)

Người ta quan niệm con người không hoàn thiện, hoàn mỹ bằng tạo hóa,

không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa đều phải được

so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của con

người. Còn người tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của chúng.

Tính sùng cổ

Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân

tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn

mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa

muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ

nhân, của lịch sử xa xưa. Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố.

Mẫu mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những

thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,...

Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi

tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đánh giá

là “đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng;

tác phẩm của họ rất giàu giá trị.

Tính phi ngã

Như trên đã trình bày, tính phi ngã là một trong những đặc trưng của văn

học trung đại Việt Nam, đặc biệt là trong việc xây dựng hình tượng nhân vật.

Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Hầu hết ý thức cá

nhân thuộc về cái phi ngã, thậm chí vong ngã, phản ngã. Chính điều kiện xã hội

ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật có tính

phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và

bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo

2.2.2.3. Ước lệ trong truyện thơ Nôm Tày

35

Trong phạm vi nội dung luận văn, chúng tôi tập trung vào tính cách điệu

hóa của văn học trung đại Việt Nam, từ đó quy chiếu sang truyện thơ Nôm Tày

để thấy được sự giao thoa cũng như tiếp biến của hai nền văn học dân tộc. Nếu

như tính uyên bác đại đa số tập trung ở những tác phẩm văn học viết, có tác giả

là những danh sĩ uyên thâm Hán học thì tính cách điệu hóa lại linh động hơn. Nó

có thể xuất hiện nhiều cả ở văn truyền miệng cũng như văn học viết.

Trong truyện thơ Nôm Tày sự ảnh hưởng của chất ước lệ tượng trưng được

thể hiện ở việc xây dựng hình tượng nhân vật. Người Tày có một tín ngưỡng tôn

thờ hoa, đặc biệt là những loài hoa linh thiêng như hoa vặc viền, hoa ban

chủ….Và hoa đã trở thành một biểu tượng đại diện cho nhan sắc của người con

gái. Qua ba hình tượng nhân vật nữ chính Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Quỳnh Nga có

thể thấy rõ điều này.

Một mĩ nữ mãn nguyệt chào đời

Dung nhan tựa sao trời tỏa sáng

Vợ chồng vui cùng ngắm bông hoa

Trông đẹp tựa ngọc ngà đáng yêu.

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 20 - 24)

Chân nàng xỏ đôi hài đẹp đẽ

Tai đeo khuyên vàng chóe một đôi

Thắt lưng ong, trên người yếm thắm

Trên mình mặc áo gấm thật sang

Ngực căng đầy như bông hoa nở.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 46 - 50)

Quỳnh Nga da nõn trắng như tiên

Trắng muốt như vặc viền vách núi

(Thạch Seng, câu 1884 - 1885)

Biểu tượng hoa vặc viền (loài hoa chúa) tượng trưng cho vẻ đẹp thanh tao,

tinh khiết và linh thiêng của thiên nhiên miền núi cũng chính là vẻ đẹp con người.

36

Đó là sự kết tinh cái đẹp, là cái đẹp của cái đẹp trong tư tưởng, quan niệm của

con người miền núi, được cụ thể hóa qua hình ảnh dung nhan người phụ nữ trong

truyện thơ mà ở đây, chúng ta khó có thể phân tích, tách biệt rạch ròi đâu là hình

ảnh thiên nhiên, đâu là hình ảnh con người. Đó cũng chính là sự ước lệ trong

miêu tả, khắc họa hình tượng nhân vật.

2.3. Giao lưu - tiếp biến trong sự đồng điệu tâm hồn của hai dân tộc Kinh

- Tày

Trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, sự đồng điệu trong tâm hồn

hai dân tộc Kinh - Tày là điều tất yếu. Có thể nói sự đồng điệu trong tâm hồn hai

dân tộc Kinh - Tày là một trong những nét đặc trưng nổi bật trong giao lưu và

tiếp biến văn hóa của hai dân tộc này. Xét trên sự đồng điệu này chúng tôi nhận

thấy có hai đặc điểm cơ bản đó là: đồng điệu làm nên sự sáng tạo nghệ thuật,

thoát khỏi được việc phiên dịch đơn thuần giữa các ngôn ngữ và đồng điệu trong

khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc viên mãn.

2.3.1. Đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc làm nên sự sáng tạo nghệ thuật

Nhà Mạc lên Cao Bằng lập phiên triều đã tạo điều kiện không thể thuận

lợi hơn cho văn hóa hai dân tộc Kinh - Tày được giao lưu và tiếp xúc. Những tri

thức người Kinh mang đến cho dân tộc Tày những tích truyện miền xuôi và nhân

dân bản địa cũng góp cho phong tục đặc sắc. Trong bối cảnh giao lưu văn hóa

ấy, đồng bào người Tày đã tiếp nhận tích truyện miền xuôi để diễn đạt bằng tiếng

Tày, ghi lại bằng chữ Nôm Tày, nhưng đó là một sự sáng tạo, không đơn thuần

chỉ là “phiên dịch” từ tiếng nói của dân tộc này sang tiếng nói của dân tộc khác.

Chẳng hạn khi xét truyện Tổng Tân - Cúc Hoa, đối chiếu hai tác phẩm,

truyện Tổng Tân - Cúc Hoa bản Nôm Tày mới sưu tầm được, với truyện Nôm

khuyết danh Việt Nam Tống Trân - Cúc Hoa, chúng tôi thấy bản Nôm Tày

không phải là bản dịch hoàn toàn từ truyện dân gian của người Kinh. Bản Nôm

Kinh có 1695 câu, bản Nôm Tày có 3002 câu, chênh nhau 1307 câu mặc dù tích

truyện vẫn là một, kết thúc gần giống nhau. Trong bản Nôm Kinh ở kết thúc

37

truyện, Tống Trân trở về được vua Việt ban thưởng, được chọn làm Phò mã;

nhưng Hoàng hậu bị lao, cần ăn thịt hươu để chữa bệnh. Tống Trân đi săn hươu,

đến một khu rừng gặp công chúa Bạch Hoa, trên đường từ Tần quốc sang nước

Việt tìm chồng là Tống Trân bị bão dạt vào khu rừng hoang nhiều hươu. Tống

Trân đi săn hươu gặp nàng và rước về.

Tống Trân tổ chức cuộc thi để chọn một trong hai người làm chính thê.

Thi may áo, thi làm bánh, ở hai nàng không ai phân hơn kém. Đến cuộc thi nấu

cơm, vào giờ mang cơm lên để chấm giải, người ta mới biết Bạch Hoa bỏ cuộc,

cố ý nhường cho Cúc Hoa làm chính thê. Cả nhà sống hạnh phúc.

Bản Nôm Tày kết thúc, nhà vua Việt cho quân rước Trạng về kinh, ngày

ngày luận bàn việc nước; gia đình Tổng Tân sum vầy hạnh phúc.

Ở phương diện xây dựng nhân vật, nếu như bản Nôm Kinh nói đến các

nhân vật một cách chung chung không có họ tên cụ thể thì bản Nôm Tày lại khắc

họa một cách cụ thể hơn bằng cách thêm cho nhân vật những tên gọi. Bản Nôm

Kinh có nói đến người lái hương, người Đình trưởng, Sơn Tinh….Nhưng với

bản Nôm Tày, người lái hương có tên cụ thể là Mai Hương, người Đình trưởng

có tên là Trương Đình, Sơn Tinh có tên là Lý Vì….Đã là nhân vật, truyện sẽ xây

dựng nhiều tình tiết, nhiều quan hệ nhân vật. Ví như Lý Vì nguyên xưa là Trạng

Nguyên:

Thật là trang nam nhi tài ngọ

Tinh thông, người học giỏi văn chương

Đi hỏi nàng họ Lương làm vợ

Cha nàng quyết không gả cho chàng

Lý Vì liền gây oan cô ả

Nửa đêm vừa bán dạ canh ba

Lý Vì đến trung gia sát hại

Mất thân nàng con gái họ Lương

38

Phách lạc lên thượng giới Ngọc Hoàng

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 1363 - 1372)

Vì gây tội lỗi nên Lý Vì bị Phật bắt hóa thành kiếp hổ. Về sau chính Tổng

Tân đã hàng phục được Lý Vì bằng bức thư dụ hàng.

Nhìn chung, tư tưởng ở hai phiên bản tác phẩm giống nhau. Xây dựng

nhân vật có nhiều tình tiết khác nhau, cho nên hai bản truyện Nôm không phải là

sự sao chép, sự dịch thuật mà là sự sáng tạo phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của

từng dân tộc. Đây là một sự biểu hiện rõ nét nhất của sự giao lưu và tiếp biến

trong văn học hai dân tộc Kinh - Tày. Chi tiết cụ thể sẽ được chúng tôi trình bày

rõ hơn ở chương sau của luận văn.

Tương tự đối với truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa, trong quá

trình khảo cứu, chúng tôi cũng xác định không có sự dịch thuật đơn thuần giữa

truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa và truyện thơ Nôm Kinh Phạm Tải

- Ngọc Hoa. Sự đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc Kinh - Tày dẫn đến sự tiếp

biến trong hai phiên bản tác phẩm. Nhan đề người Tày đặt cho tác phẩm là Phạm

Tử - Ngọc Hoa, nhan đề của người Kinh là Phạm Tải - Ngọc Hoa.

Theo Phạm Tải - Ngọc Hoa, nếu chỉ coi tờ đơn kiện của hai vợ chồng

Phạm Tải trình lên Diêm Vương là một dòng thì tác phẩm có 932 dòng. Tờ đơn

kiện như sau: “Quán Sơn Tây xứ, Huê Đường phủ, Văn Ấp huyện, Ngọc Tháp

xã, nho sĩ Phạm Tải, thú thê biệt xứ, danh Trần Ngọc Hoa, ơn đức Diêm La, công

liêm quảng ý, tình trạng vị hỷ, bản quốc Trang Vương, thị kỳ phú cường, hoang

dâm hiếu sắc, cương thường bất thức, thiêu thính nịnh thần, hiếp thú thê nhân,

thậm kỳ vi phản.

Kim thần Phạm Tải, thú thê Thanh Hà, danh Trần Ngọc Hoa, phu thê hòa

hợp. Duyên hài thủ tiết, đắc kỳ bán niên, thích kiến binh quyền, lệnh truyền tiến

nạp, bất cứ luật pháp, khủng sự thần chung, phó kinh nhập điện. Trang Vương

bất chính, bất thính đình thần, cố tâm dâm hiếp. Ngọc Hoa trinh tiết, bất sự nhị

phu, Trang Vương mưu thù, hoang dâm nghịch đẳng, sát phu hiếp phụ, thậm ư

oan khốc. Phục vọng thánh đức cao minh, lượng tình gia sự, giám kỳ nội trạng,

39

chiếu luật thi hành. Tróc thu tính danh, đồng lai tra vấn.

Cẩn cáo” [18, 42 - 43]

Tạm dịch:

“Tôi là Phạm Tải, quê ở xã Ngọc Tháp, huyện Văn Ấp, phủ Huê Đường,

xứ Sơn Tây, lấy vợ ở quê khác, tên là Trần Ngọc Hoa, đội ơn Diêm La lấy lòng

công bình mà xét cho như sau: Vua Trang Vương nước tôi ỷ quyền, hiếu sắc,

không biết cương thường, chỉ nghe kẻ nịnh, bắt hiếp vợ người, dã man hết sức.

Nay tôi Phạm Tải, lấy vợ ở Thanh Hà, tên là Ngọc Hoa, vợ chồng rất hòa

hợp, lấy nhau được nửa năm thì vua truyền gọi vào cung. Trang Vương thấy mặt,

hỏi rõ ngọn ngành, không nghe đình thần, cố tình ức hiếp. Vợ tôi trinh tiết, chẳng

lấy hai chồng. Trang Vương mưu thù giết chồng hiếp vợ. Sự này oan quá. Xin

đấng cao minh soi xét, chiếu luật bắt bị cáo xuống hỏi. Nay kính” [18, 43].

Trong khi đó, truyện Phạm Tử - Ngọc Hoa không có tờ đơn kiện đệ lên

Diêm Vương, toàn bộ tác phẩm có 927 câu.

Trong lịch sử Văn học Việt Nam, truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa đã được

ghi chép và đánh giá rất lâu, ở dòng truyện Nôm khuyết danh. Còn truyện Phạm

Tử - Ngọc Hoa, ngoài bìa đề dòng chữ “Việt Nam dân chủ cộng hòa - Độc lập

tự do hạnh phúc, tứ niên nhị thập nhị nhật” (tức là năm 1948) không ghi chủ

nhân, hoặc tác giả, khổ giấy 21 x 29,5 có 103 trang (trừ trang bìa).

Giới thiệu gia cảnh tướng công họ Trần và sinh nở Ngọc Hoa, truyện

Phạm Tải - Ngọc Hoa viết:

Tăm kình cáo thỏ sạch không

Có nhà Trần thị xứ Đông, Thanh Hà,

Tướng công quan đại phú gia,

Xuân thu đỉnh thịnh tên là Thúc Thông

Chưa ai kế hậu nối dòng,

Đêm ngày phiền muộn trong lòng lo âu.

Trai già bỗng nở hạt châu,

40

Mới hay như ý sở cầu bấy nay,

Sinh ra một gái tốt thay,

Má đào, mặt ngọc, tóc mây rườm rà.

Tướng công yến ẩm xướng ca,

Mừng vui cây ngọc nở ra nụ vàng,

Mai sau hương hỏa từ đường,

Vô nam dụng nữ, thế gian cũng đầy,

Nâng niu vàng ngọc trên tay,

Vàng kia ve vuốt, ngọc này giấu thương.

(Phạm Tải - Ngọc Hoa, câu 9 - 24)

Toàn bộ có 15 dòng, trong khi đó truyện Phạm Tử - Ngọc Hoa viết từ

dòng 8 đến dòng 25, tổng cộng 18 dòng như sau:

Có nhà kia ở xứ Hà Đông,

Thanh Hà huyện, tướng công họ Trần

Cửa nhà giàu phú quý có thừa

Tuổi đã nhiều xuân thu con hiếm

Không có con nam, nữ một ai

Mai mốt lấy ai người kế nghiệp

Vợ chồng lo thảm thiết đêm ngày

Trên trời tọa giường ngân thương hại

Kim cương con thượng giới trời cao

Sáu mươi tuổi thời trai có ngọc

Đức phật trao cho một nữ nhi

Nhà tướng công mừng vui khôn xiết

Một mĩ nữ mãn nguyệt chào đời

Dung nhan tựa sao trời tỏa sáng

Vợ chồng vui cùng ngắm bông hoa

Trông đẹp tựa ngọc ngà đáng yêu

Xưa đã nói không nam dùng nữ

Mai sau được phụng sự tổ tông.

41

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 8 - 25)

Nội dung đoạn văn gần giống nhưng đối chiếu từng câu, truyện Phạm Tử

- Ngọc Hoa tuyệt đối không phải là bản dịch thuật từ truyện Phạm Tải - Ngọc

Hoa.

Khi đối chiếu truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng với truyện thơ Nôm Kinh

Thạch Seng, chúng tôi cũng đi đến kết luận, hai phiên là sự giao lưu - tiếp biến

của hai nền văn học, tuyệt nhiên không có sự phiên dịch đơn thuần.

Nhìn chung, sự đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc Kinh - Tày là cơ sở

của việc tiếp thu tích truyện của hai dân tộc này, nhưng sự tiếp thu ấy không phải

đơn giản là sự chuyển ngữ hay phiên dịch, mà đó là sản phẩm của sự sáng tạo

mang dấu ấn văn hóa từng dân tộc.

2.3.2. Đồng điệu trong khát vọng về một kết thúc viên mãn

Văn học hướng thiện luôn hướng đến một kết thúc viên mãn, chính nghĩa

chiến thắng gian tà, người ngay được hưởng phúc, kẻ ác bị trừng trị. Và ước mơ

muôn đời của nhân dân lao động là có một cuộc sống thái hòa no đủ, trên có

minh quân, dưới có trung thần, trong nhà có sự thuận hòa êm ấm.

Đoạn kết của những truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh có cùng

cốt truyện ít nhiều cũng đáp ứng được khát vọng này của nhân dân. Có thể nói

đây là một biểu hiện rõ nét nhất của sự đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc Kinh

- Tày.

Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa kết thúc bằng cảnh sum vầy

hạnh phúc của vợ chồng quan Trạng Tổng Tân cũng như sự trừng phạt đích đáng

cho đại diện của cái xấu xa: trưởng giả, Trương Đình.

Vợ chồng vạn đại được bình an

Lưu truyền truyện thế gian cùng biết

Sinh ở thế ngẫm nghĩ truyện xưa

Truyện đã đặt độ lượng muôn đời

42

(Tổng Tân - Cúc Hoa)

Tác giả dân gian người Kinh kết lại thiên tình sử Tống Trân - Cúc Hoa

bằng bốn câu sau:

Phúc to lại được vợ hiền,

Vinh hoa như Tống Trạng nguyên mấy người?

Nhân khi thong thả thư trai,

Giờ xem truyện cũ, đặt bài quốc âm.

(Tống Trân - Cúc Hoa)

Trong truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa, sau khi đại diện cho

cái ác là Trang Vương bị trừng trị, là cuộc hoàn sinh của vợ chồng Cúc Hoa.

Phạm Tử kế thừa sản nghiệp của chính Trang Vương để lại, tạo dựng một nền

thái bình dài lâu. Đó chính là khát vọng của người Kinh, người Tày và nhân dân

lao động nói chúng. Và khi kết lại câu chuyện đầy nước mắt nhưng cũng trọn

niềm vui ấy, tác giả người Tày viết:

Hết rồi truyện làm ăn vui thú

Đã hết truyện hiếp phụ gian tâm

Đặt truyện cho ngày sau sẽ đọc

(Phạm Tử - Ngọc Hoa)

Ở bản Nôm Kinh, tác giả dân gian viết:

Đâu đâu huyền quản xướng ca,

Muôn đời phụng sự quốc gia vững bền.

Nhân rồi, cất lấy bút nghiên,

Chép làm quốc ngữ để truyền hậu lai.

(Phạm Tải - Ngọc Hoa)

Tác giả người Tày như muốn nhắc nhở câu chuyện kết thúc đẹp nhưng

cuộc sống hiện thực vẫn phải tiếp tục.Và để nuôi dưỡng cũng như thực hiện giấc

mơ, mọi người cần tiếp tục vui thú làm ăn, câu chuyện trên đây chỉ là động lực

cho khát vọng cuộc sống.

43

Kết thúc của truyện Thạch Seng là khát vọng về một hạnh phúc muôn đời

của đồng bào Tày:

Trời chẳng phụ người ngay nhân nghĩa

Chia hoa lan hoa quế tỏa hương

Hai năm đủ lộng chương, lộng ngõa

Công chúa sinh đẻ cả gái trai

Hạnh phúc đời tiếp đời hậu duệ.

(Thạch Seng)

Trong phiên bản Nôm Kinh Thạch Sanh lại chép:

Mới hay người ở thực thà,

Giời kia chẳng phụ, ắt là thanh tao.

Cứ trong tích cũ chép sao,

Viện triều yên mối, Nam giao vững vàng.

Bút hoa ghi chép tỏ tường,

Chuyện này thong thả thư đường mà xem.

(Thạch Sanh)

Xét sự tương quan giữa kết thúc giữa các phiên bản Kinh - Tày của ba tích

truyện có thể thấy tác giả người Kinh nhấn mạnh vào thời điểm kể (chép) những

câu chuyện này, đó là thời điểm nhàn rỗi, qua các từ: thong thả thư trai, nhân rồi

(nhân lúc rảnh rỗi), thong thả thư đường. Điều này chứng tỏ, người Kinh đề cao

chất “giải trí” của những tích truyện. Theo đó, truyện Nôm dân gian được người

Kinh kể cho nhau nghe sau những giờ lao động vất vả, để quên đi cực nhọc

thường ngày, hướng đến cuộc sống hạnh phúc về sau. Trong khi đó, tác giả người

Tày trong cả ba truyện thơ Nôm có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh ở

trên lại hầu như không nhắc đến thời điểm nhàn rỗi để kể chuyện, chép

truyện…Cái tác giả người Tày nhấn mạnh là sự hạnh phúc bền lâu và lưu truyền

hậu thế: Hạnh phúc đời tiếp đời hậu duệ (Thạch Seng); Đặt truyện cho ngày sau

sẽ đọc (Phạm Tử - Ngọc Hoa); Truyện đã đặt độ lượng muôn đời (Tổng Tân -

44

Cúc Hoa). Có thể coi sự khác biệt này là một biểu hiện của tiếp biến văn học

trên cơ sở của đồng điệu tâm hồn.

Nhìn chung, trong sự đồng điệu của hai dân tộc Kinh – Tày vẫn bao hàm

cả sự tương đồng và dị biệt. Mặc cả hai dân tộc đều có sự tương đồng trong khát

vọng về một kết thúc viên mãn nhưng người Tày vẫn có những sáng tạo riêng.

Tách khỏi lớp truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh,

thử xét riêng một vài tác phẩm thuần túy của người Tày, chúng ta cũng có thể

nhận thấy điều này. Ở một truyện thơ Nôm Tày có nội dung gần giống với Tổng

Tân – Cúc Hoa, truyện Lưu Đài – Hán Xuân cũng là một câu chuyện thể hiện

được ước mơ, khát vọng của người Tày. Từ một chàng trai nghèo mồ côi Lưu

Đài đến làm người ở cho nhà thầy đồ, với bản tính ham học , Lưu Đài thường

lén nghe lén thầy đồ giảng bài. Về sau chàng được Hán Xuân, cô gái con nhà

giàu sang, tài sắc vẹn toàn, cảm mến và yêu thương. Khi vua mở khoa thi, Lưu

Đài thi đỗ và cưới Hán Xuân làm vợ. Nhưng không lâu sau, chàng phải đi sứ,

Hán Xuân xin theo chồng mặc dù đang mang thai. Thuyền của Lưu Đài đến giữa

biển thì gặp nạn, Lưu Đài bị bắt xuống thủy phủ ép gả cho con gái Long vương,

trong khi Hán Xuân bị sóng đánh dạt vào đất quỷ, nàng quỷ vương ép cưới làm

vợ nhưng không chịu, cuối cùng nàng bị đánh và bị bỏ rơi. Nàng và con trai lạc

đến mường tiên, được Phật truyền cho nhiều phép thần thông. Sau đó Hán Xuân

trở về cứu chồng về lại dương gian. Khi quân Tần cùng các nước chư hầu tấn

công, nhà vua sai Lưu Đài ra chống địch. Được sự giúp đỡ của vợ, Lưu Đài đánh

lui được quân Tần và các nước chư hầu. Từ đó vợ chồng Lưu Đài, Hán Xuân

cùng sống hạnh phúc đến hết đời.

* Tiểu kết chương 2

Trong tiến trình lịch sử, sự kiện nhà Mạc lên lập phiên triều tại Cao Bằng

là nguyên nhân chính của giao lưu - tiếp biến văn hóa. Trong sự giao lưu và tiếp

biến chung đó, một yếu tố không thể thiếu và dường như tất yếu là giao lưu - tiếp

biến trong truyện thơ Nôm. Truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện

45

thơ Nôm Kinh chịu sự ảnh hưởng, tác động, cũng như tiếp nhận, áp dụng những

phương thức sáng tác của văn học trung đại người Kinh, nhưng hiện hữu dưới

lăng kính thẩm mĩ của tác giả người Tày. Từ đó tạo nên sự độc đáo và riêng biệt

của những truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh.

Những phiên bản Nôm Tày đó không phải là sự phiên dịch hoặc chuyển

ngữ đơn thuần từ ngôn ngữ của dân tộc này qua ngôn ngữ của dân tộc khác mà

nó đại biểu cho sự sáng tạo nghệ thuật của một dân tộc. Nếu như người Kinh nói

riêng và người Việt Nam nói chung tự hào với sự chuyển thể xuất thần cốt truyện

Kim Vân Kiều truyện thành Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du thì người

Tày cũng tự hào với những truyện thơ Nôm có cốt truyện từ truyện dân gian của

người Kinh.

Bản thơ Nôm Tày so với bản thơ Nôm Kinh là một sự sáng tạo. Sự sáng

tạo ấy được nảy sinh trên nền tảng đồng điệu, cụ thể đó là sự đồng điệu trong

tâm hồn hai dân tộc Kinh - Tày. Sự đồng điệu này xuất phát từ ý thức nội tại của

mỗi cộng đồng dân tộc, đó là khát vọng về một cuộc sống đủ đầy, viên mãn.

Trong cả truyện thơ Nôm Kinh và truyện tho Nôm Tày, người đọc đều hài lòng

với những cái kết có hậu. Cái kết đẹp đó không phải chỉ là giấc của một cộng

đồng, một dân tộc, mà đó là giấc mơ của toàn nhân loại. Dù người miền ngược

hay người miền xuôi, dù người da vàng hay người da trắng.v.v. đều mơ ước đến

một cuộc sống hạnh phúc. Có thể nói, sự đồng điệu trong hai dân tộc Kinh, Tày

là một cách biểu hiện cho sự giao lưu - tiếp biến văn học.

46

Chương 3

GIAO LƯU VĂN HỌC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG, NGHỆ

THUẬT CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY VÀ TRUYỆN THƠ

NÔM KINH CÓ CÙNG CỐT TRUYỆN

Đặc điểm cũng như những giá trị nội dung và nghệ thuật của nhóm truyện

thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh sẽ được chúng tôi

trình bày cụ thể trong chương này. Với đối tượng nghiên cứu là ba truyện thơ:

Tổng Tân - Cúc Hoa, Phạm Tử - Ngọc Hoa và Thạch Seng, chúng tôi tập trung

vào phiên bản Tày để làm sáng tỏ một số đặc điểm cơ bản, đồng thời trên cơ sở

phân tích đó sẽ hướng đến sự so sánh với phiên bản Kinh để thấy được sự giao

lưu văn học giữa hai dân tộc có bề dày văn hóa này.

3.1. Sự đồng điệu ở giá trị nội dung

Xét về giá trị nội dung của truyện thơ Nôm Tày cũng như truyện thơ Nôm

Kinh có thể đến rất nhiều, nhưng với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng

tôi chỉ xét đến những nội dung tiêu biểu thể hiện được sự giao lưu văn học bao

gồm: Hình tượng con người và Thiên nhiên núi rừng Bắc bộ.

3.1.1. Hình tượng con người của núi rừng Bắc bộ

3.1.1.1. Hình tượng người phụ nữ

Trong những truyện thơ Nôm nói chung, và truyện thơ Nôm Tày nói riêng

hình ảnh người phụ nữa là một phần không thể thiếu. Với loại hình nhân vật này,

chúng tôi phân ra làm hai tuyến: nhân vật nữ chính và nhân vật nữ phụ. Những

nhân vật nữ chính có thể kể đến như: nàng Cúc Hoa (trong Tổng Tân - Cúc

Hoa), nàng Ngọc Hoa (trong Phạm Tử - Ngọc Hoa) và công chúa Quỳnh Nga

(trong Thạch Seng), bên cạnh đó là sự góp mặt của những vai nữ phụ như: mẹ

của Tổng Tân, mẹ Cúc Hoa, công chúa Chương Đài, công chúa Bạch Hoa, hai

chị gái Cảnh Nữ, Thị Tây (trong truyện Tổng Tân - Cúc Hoa); mẹ Thạch Seng

(trong truyện Thạch Seng)…

47

Nhóm nhân vật nữ chính: Quỳnh Nga, Cúc Hoa, Ngọc Hoa

Có thể nói nhóm nhật vật nữ chính trong truyện thơ Nôm Tày có vai trò

rất quan trọng, ở một số truyện thơ Nôm Tày họ còn đóng vai trò trung tâm như:

Nàng Hán, Nàng Kim…. Trong quá trình phân tích, chúng tôi có thể khái quát

được những đặc điểm cơ bản trong tính cách nhân vật từ đó nhận định được phần

nào dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian người Tày.

Quỳnh Nga, Cúc Hoa, Ngọc Hoa đều là con nhà quyền quý, nếu như

Quỳnh Nga là công chúa con vua Viễn Vương thì Cúc Hoa và Ngọc Hoa cũng

đều là những tiểu thư đài các. Mặc dù vậy ý trung nhân của họ không phải là

những hoàng tử cao sang hoặc thiếu gia đại phú, mà là những chàng hàn sĩ ăn

xin hoặc những chàng mồ côi có địa vị thấp kém trong xã hội. Quỳnh Nga vì cảm

kích trước ơn cứu mạng mà muốn nên nghĩa vợ chồng với Thạch Seng. Trong

khi đó Cúc Hoa và Ngọc Hoa gần như không có một nguyên do nào cam tâm từ

bỏ cửa rộng quyền quý để nguyện kết duyên với những chàng trai bần hàn, nghèo

khó như Tổng Tân và Phạm Tử. Có thể xem đây là những mối duyên trời định,

mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận tình cảm xuất phát từ chính trái tim của

các cặp đôi. Nhưng ẩn sâu trong đó, có thể thấy khát vọng cũng như mơ ước của

người Tày về tình yêu vượt qua mọi khoảng cách, địa vị, đó là thứ tình yêu trong

như nước suối Cao Bằng, đẹp như sắc hoa vặc viền hay bất tử như núi non đất

Việt.

Mối lương duyên của các cặp đôi trong các truyện thơ Nôm Tày đến một

cách hết sức tự nhiên. Những hoàn cảnh bình thường tạo nên một mối lương

duyên lạ thường. Khi chàng ăn xin Tổng Tân đến nhà Trưởng giả (cha Cúc Hoa)

xin ăn, Trưởng giả thấy con gái út Cúc Hoa có ý lưu luyến Tổng Tân, ông đã gọi

chàng đến, và sau vài ba câu chuyện hỏi về gia cảnh chàng, Trưởng giả đã quyết

định gả con gái cho Tổng Tân:

48

Trưởng giả cười nói năng khoan nhặt

Cúc Hoa thương mặt ngọc Tống Trân.

Số các con được phân hạ giới,

Duyên phận định phân phối cả hai.

Trưởng giả nói đôi lời nghiêm chỉnh,

Ta gả con bay định kết đôi.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 136 - 141)

Để khắc họa sự rung động của Cúc Hoa với chàng nho sĩ nghèo Phạm Tử,

tác giả người Tày đã dành một đoạn thơ dài đến 15 câu để miêu tả (từ câu 110 -

124):

Từ hôm nàng thấy chàng nho sĩ,

Tự nhiên buồn chán cả chân tay,

……

Trưa tối chẳng nhớ ăn buồn bã.

Có thể nói những cuộc nhân duyên đến một cách tự nhiên nhưng dường

như nằm trong sự sắp đặt của đấng cao xanh. Từ đó cũng phá bỏ được quan niệm

“cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” vốn đã tồn tại cố hữu trong hệ ý thức phong kiến

nghìn năm. Tuy nhiên khi bỏ đi yếu tố “ý trời” thì những mối lương duyên này

lại hết sức tự nhiên, mang đậm dấu ấn và sự chủ động của người phụ nữ. Người

phụ nữ chủ động yêu thương, chủ động trong việc tìm kiếm hạnh phúc, vượt qua

ranh giới và khoảng cách địa vị xã hội.

Bên cạnh sự chủ động trong việc tìm kiếm hạnh phúc cá nhân, những cô

gái trong truyện thơ Nôm Tày vẫn giữ được phẩm chất cao quý đáng trân trọng

đó là vẹn tròn chữ hiếu và thủy chung chữ tình.

Ngọc Hoa vì muốn lo cho cha mẹ nên vẫn chưa vội vàng thành thân.

Thương song thân già yếu, nàng lại là con duy nhất trong nhà, Cúc Hoa chưa thể

yên tâm theo chồng. Có lẽ do vậy mà Ngọc Hoa muốn tìm một đấng lang quân

nào đó để có thể về sống chung với gia đình vợ với mong muốn cùng chồng chăm

49

sóc cha mẹ già cho đến cuối đời. Và trong hoàn cảnh đó, người phù hợp hơn cả

là chàng học trò mồ côi Phạm Tử. Cảnh kết duyên của đôi trẻ diễn ra vô cùng

vui tươi, rộn rã: Ba ngày tiệc xa gần vui thú/ Ngọc Hoa cùng Phạm Tử kết hôn/

Khách nườm nượp én ương loan phượng/ Đêm ngày đàn ca xướng vui thay

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 222 - 225)

Không giống như Ngọc Hoa, Cúc Hoa thể hiện chữ hiếu bằng việc thay

chồng chăm sóc mẹ chồng. Tiễn chồng lên kinh ứng thí, một mình nàng chăm

sóc lão mẫu già yếu, cơm ăn bữa đói bữa no, thậm chí nàng còn phải đi ăn xin

để lấy gạo nuôi mẹ. Những lúc không có đủ gạo ăn, nàng đành nhịn đói hoặc ăn

cám thay cơm: Hết gạo lại lên đường dạo bản/ Được gạo nhờ bản quán hương

lân/ Đem về nuôi lão thân già cả/ Nàng Cúc Hoa mọi nhẽ đảm đang/ Cơm thì

nàng để dành lão mẫu/ Trưa chiều nàng cơm độn cám vàng/ Để cho mẹ của

chồng no bụng (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 238 - 244) Tấm lòng hiếu thảo của

nàng cảm động lòng người và thấu đến trời xanh. :

Nào vía hỡi con mình có đạo

Mười lời khen dâu thảo phân minh

Mẹ con ta cùng ăn chớ nhịn

Trưa chiều ta có bát ăn lưng.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 252 - 255)

Bản thân Cúc Hoa vốn là con nhà giàu, từ nhỏ đã sống trong lụa là no đủ

nay bỗng chốc chịu trăm đắng nghìn cay chăm sóc mẹ chồng già yếu, từ vất vả

đường trường đến bữa cơm chăng chớ, tuy vậy nàng vẫn không oán than nửa lời,

không luyến tiếc cuộc sống phồn hòa mà cam tâm chịu đựng. Trong những tháng

ngày nuôi chồng đèn sách, Cúc Hoa luôn thể hiện sự tôn kính với thầy, thảo hiền

với mẹ và yêu thương với chồng, thậm chí đến lúc Tổng Tân đi thi, khi tất cả tiền

bạc đã cạn, nàng đành phải bán đi dải yếm hồng cho chàng làm lộ phí. Những

phẩm hạnh đó mới thật đáng quý biết bao: Cúc Hoa lệ hai hàng tuôn chảy/ Gạo

thời dùng hết thảy, vò không/ Nuôi thầy qua ba năm đã hết/ Cả tiền bạc khánh kiệt

50

còn đâu/ Mọi vật đều sạch làu vẹn vẹn/ Giờ em còn cái yếm hai dây/ Có thể đem

bán ngay ngoài chợ (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 357 - 362).

Bên cạnh sự hiền thục, hết lòng yêu thương chăm sóc người thân, những

người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày còn thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ

với những thế lực cường quyền chà đạp lên hạnh phúc cá nhân con người hay lễ

giáo phong kiến hà khắc với quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cô gái, chàng

trai. Để biểu thị sự phản kháng ấy, nhân vật nữ thậm chí còn đánh đổi cả bằng

mạng sống của mình. Nếu Cúc Hoa mạnh mẽ chống lại những áp đặt vô lý, hám

giàu sang của cha mình bằng sự dứt khoát bảo vệ cuộc hôn nhân với Tổng Tân

thì Ngọc Hoa nguyện quyên sinh theo chồng để chống lại âm mưu chia loan rẽ

thúy của Trang Vương. Những hành động ấy thật đáng quý và đáng trân trọng,

nó như những tấm gương sáng về lòng chung thủy, nghĩa tao khang chồng vợ

trong xã hội Việt Nam mọi thời đại.

Kết thúc của mỗi truyện thơ Nôm, các nhân vật nữ: Quỳnh Nga, Cúc Hoa,

Ngọc Hoa đều có được cuộc sống hạnh phúc, viên mãn. Tuy nhiên, đúng như

quy luật của cuộc sống, không có con đường nào êm ái để đi đến hạnh phúc cuối

cùng, để có được một kết cục đẹp, Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Quỳnh Nga, ba cô gái

ấy đã phải vượt qua vô vàn sóng gió, thậm chí vượt qua ải Diêm Vương. Bằng

bút pháp tài tình, giọng kể chuyện mang âm hưởng sử thi, người Tày đã đêm đến

cho độc giả những bức tranh đẹp về hành trình theo đuổi hạnh phúc của người

Tày nói riêng và nhân loại nói chung.

Nhóm nhân vật nữ phụ

Trong truyện thơ Nôm, nhân vật nữ phụ có thể là lão mẫu, thị tì, hoặc chị

em trong nhà của những nhân vật chính. Khi khảo sát nhóm 3 truyện thơ Nôm

Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh: Tổng Tân - Cúc Hoa, Phạm

Tử - Ngọc Hoa, Thạch Seng, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện và đóng góp của

những nhân vật nữ phụ không nhiều tuy nhiên cũng cần đề cập đến.

51

Trong truyện Tổng Tân - Cúc Hoa, sự góp mặt của ba nhân vật nữ phụ

bao gồm: lão mẫu mẹ của Tổng Tân, hai chị gái của Cúc Hoa là Cảnh Nữ và Thị

Tây có những điểm rất đáng chú ý. Có thể nói những nhân vật này là tấm gương

phản chiếu rõ ràng và khách quan nhất phẩm chất cao đẹp nhân vật nữ chính Cúc

Hoa. Những tháng ngày thay chồng nuôi mẹ của Cúc Hoa đã được chính lão mẫu

mẹ Tổng Tân nhận xét và đánh giá:

Nàng Cúc Hoa mặt ngọc mĩ miều

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 2499)

Rét không đủ áo mặc che thân

Đói chẳng có gì ăn lót dạ

Chỉ còn trông nhờ cậy Cúc Hoa

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 2506 - 2509)

Nàng hai bữa trưa chiều nuôi nấng

Không thì tôi đã chết còn đâu

Ai hơn đạo con dâu chăm sóc

Ơn nàng tôi mới được sống lâu

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 2512 - 2515)

Những lời tâm huyết trên của một bà lão đã thêm một lần nữa khẳng định

sự tận tâm, tận hiếu của Cúc Hoa.

Như vậy, để tìm hiểu phẩm chất nữ chính ngoài việc thông qua lời kể của

tác giả dân gian, còn một kênh thông tin nữa để tiếp cận, đó chính là nhân vật nữ

phụ, cụ thể ở đây là lão mẫu, mẹ của Tổng Tân. Từ đó có thể thấy nét đẹp, phẩm

hạnh của người phụ nữ được phản chiếu trên nhiều phương diện và từ nhiều nhân

vật.

Khác với lão mẫu mẹ của Tổng Tân, hai chị gái của Cúc Hoa không làm

vai trò “phản chiếu” phẩm chất của em gái, mà là một mảng màu đẹp đẽ đại diện

chung cho những cô gái Tày, giàu tình thương và lòng nhân ái. Thương xót em

gái vì bị cha ép gả cho Trương Đình, thương em rể vì “bặt vô âm tín”, hai nàng

đã không kìm được nước mắt khóc thương và xin cha hãy suy nghĩ lại.

52

Cảnh Nữ cùng người chị Thị Tây

Thương em nước mắt đầy lai láng

Mười lời đều khóc vọng khóc tìm

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 2107 - 2107)

Nhìn chung, trong truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa, nhân vật nữ

đại đa số đều là những người lương thiện, nếu nhân vật nữ không đại diện cho

phẩm chất tốt đẹp thì họ cũng hiện lên một cách khá mờ nhạt, chẳng hạn như

công chúa Chương Đài. Chương Đài vì muốn có được Tổng Tân làm chồng nên

đã nhờ vua cha ép chàng phải kết duyên, khi không được đáp ứng thì nàng bèn

nghĩ cách để Tổng Tân phải đi sứ nước Tần.

Việc tạo dựng một phần không nhỏ những nhân vật nữ phụ với phẩm chất

tốt đẹp phải chăng thể hiện được tư duy thẩm mĩ của người Tày. Với họ những

cô gái trẻ trung lương thiện ấy như những bông hoa pan chủ, vặc viền của rừng

núi, những bông hoa ấy vây quanh cùng khoe sắc, cùng tỏa hương cho cuộc sống

muôn màu. Họ là đại diện cho quan niệm thẩm mĩ của người Tày nói riêng, vừa

tinh khiết, nguyên sơ lại vừa ngạt ngào hương sắc. Họ cũng là những người phù

hợp nhất để sánh đôi với các nhân vật anh hùng nam giới trong mỗi truyện thơ

Nôm.

3.1.1.2. Hình tượng nam giới

Trong văn hóa, văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam, cảm hứng sử thi

là nguồn cảm hứng chính để các tác giả khuyết danh cũng như hữu danh xây

dựng nên hình ảnh nhân vật nam chính diện. Những chàng trai ấy mang trong

mình hơi thở của núi rừng, tâm hồn của dân tộc và đại biểu cho toàn thể nhân

dân của một cộng đồng hoặc một tộc người. Đó là những chàng trai thông minh,

gan dạ, tài năng hoặc có một sức mạnh phi thường sẵn sàng bảo vệ lẽ phải, bảo

vệ công lý và là tấm lá chắn che chở cho buôn dân khắp chốn. Mặc dù được vay

mượn hoặc có ảnh hưởng từ nhân vật của người Kinh song sự tồn tại của họ trong

mỗi tác phẩm truyện thơ Nôm Tày vẫn mang được bản sắc riêng cho cộng đồng

53

họ đại diện. Các nhân vật nam chính như: Phạm Tử, Thạch Seng hay Tổng Tân

được xây dựng khá sát và tương đồng với hình tượng ở bản Nôm Kinh song bằng

những biện pháp sáng tác đặc thù, quan niệm truyền thống và văn hóa tộc người,

Nho sĩ và đồng bào người Tày đã biến họ trở thành những chàng trai của núi

rừng. Họ là đại biểu cho sức mạnh và ý chí cộng đồng mang âm hưởng của người

Tày nơi núi rừng Bắc bộ…

Vẻ đẹp đầu tiên cần nhắc đến trong những nhân vật nam chính này là ý thức

về danh dự cá nhân và phẩm giá con người. Điểm tương đồng lớn nhất giữa các

nhân vật nam chính: Tổng Tân, Thạch Seng, Phạm Tử là xuất thân mồ côi, nghèo

khó. Tổng Tân mồ côi cha, dặm trường ăn xin nuôi mẹ; Phạm Tử mất cả cha lẫn

mẹ phải ở đợ cho nhà cậu; Thạch Seng mất cha ngay từ khi còn trong bụng mẹ,

không lâu sau mẹ chàng cũng qua đời, chàng côi cút đốn củi kiếm ăn qua ngày.

Hoàn cảnh của ba chàng trai ấy vạn phần đều không tương xứng với những tiểu

thư lá ngọc cành vàng như Cúc Hoa, Ngọc Hoa, hay công chúa đài trang Quỳnh

Nga. Và dường như ý thức được điều đó nên khi được gợi ý về các mối lương

duyên, cả ba chàng đều nhất loạt từ chối.

Tổng Tân thoái thác lời của Trưởng giả bằng những câu như:

Con mồ côi bần tiện khó thay

Nồi nhỏ sánh chảo trâu sao được?

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 151 - 152)

Nàng là vóc lụa hồng cao giá

Sánh vải thô thực đã nực cười.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 158 - 159)

Tổng Tân tính sâu sắc nhiều bề

Ăn thịt lo thịt ngon đau dạ

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 173 - 174)

Thạch Seng từ chối lời ngỏ ý kết duyên của Quỳnh Nga bằng sự so sánh

bản thân chàng với công chúa hoa ngọc, chàng tự ví mình là chim chích, gà rừng,

trâu - là những con vật tầm thường dân dã - không sánh được với sánh nổi với

54

phượng hoàng, chim công, rồng con - những con vật cao quý, ẩn dụ cho Quỳnh

Nga. Về phần Phạm Tử, chàng cũng khẳng khái từ chối lời gả con gái của tướng

công họ Trần :

Phạm Tử vội đứng lên bày tỏ

“Là học trò tứ cố vô thân

Làm sao xứng bạn cùng cao quý? ”

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 216 - 218)

Theo lẽ thường, khi đứng trước những cơ hội vào làm rể những nhà quyền

quý cao sang, những chàng trai bần hàn thường coi đó là một may mắn, thậm chí

là diễm phúc lớn, nhưng ở những chàng trai trong truyện thơ Nôm Tày lại một

mực từ chối. Đó là phẩm chất đáng quý về sự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân

trong mỗi người, cũng có thể coi đó là lòng tự trọng của mỗi đấng nam nhi.Và

chỉ khi có ý thức về giá trị bản thân như vậy, cộng với sự lương thiện luôn thường

trực trong nội tại, mỗi chàng trai mới đủ sức mạnh để vượt qua trăm ngàn cay

đắng đi đến hạnh phúc cuối cùng.

So sánh tình tiết này trong bản thơ Nôm Kinh, chúng ta cũng có thể thấy

được đôi chút khác biệt, đơn cử như lời Thạch Seng từ chối kết duyên cùng nàng

Quỳnh Nga. Trong bản Nôm Tày, chàng dũng sĩ đã hết lời từ chối công chúa vì

sự chênh lệch địa vị xã hội:

Công chúa nàng con ngọc Viễn Vương

Tôi là người rừng xanh ngàn dã

Phượng hoàng sao bạn với gà rừng

Chim chích bạn chim công không đáng

Rồng con sao rơi vũng trâu đầm”

(Thạch Seng, câu 966 - 970)

Chàng Thạch Seng của người Tày đã dùng những lời lẽ và hình ảnh ví von

rất chân thực để Quỳnh Nga thấy được sự đối lập trong hoàn cảnh của hai người.

như: công chúa nàng con ngọc >< người rừng xanh ngàn dã; phượng hoàng ><

gà rừng; chim công >< chim chích; rồng >< trâu. Và từ đó đi đến mục đích cuối

55

cùng là thoái thác lời ngỏ ý kết duyên của Quỳnh Nga. Tuy nhiên trong bản Kinh,

Thạch Sanh từ chối Quỳnh Nga chỉ là do e ngại mắc lỗi đệ huynh với Lý Thông.

Vả tôi là nghĩa bạn bè,

Nếu ăn ở thế lỗi nghì đệ huynh.

(Thạch Sanh)

Sự khác biệt này là một biểu hiện trong giao lưu văn học Kinh - Tày. Trong

lời của Thạch Sanh ở bản Kinh, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy ý thức hệ Nho

giáo. Lời nói đó của Thạch Sanh cho thấy chàng là người trọng nghĩa khí, đề cao

tình bạn. Còn trong bản Tày, lời nói của chàng Thạch Seng dường như không một

chút ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia, đó là lời nói hoàn toàn tự nhiên như cỏ cây

chim muông rừng núi. Có lẽ Thạch Seng cũng có tình cảm với Quỳnh Nga nhưng

vì nỗi băn khoăn quá lớn về khoảng cách và địa vị xã hội nên đành phải thoái thác.

Chi tiết này thể hiện một cách rõ nhất sự giao lưu văn học Kinh - Tày ở phương

diện tương đồng nhưng vẫn giữ được độc đáo.

Ngoài sự ý thức về giá trị bản thân, những chàng trai trong truyện thơ Nôm

Tày còn bộc lộ vẻ đẹp qua ý chí, nghị lực kiên cường, vượt qua khó khăn để khổ

luyện thành tài, hướng đến một ngày đăng quang vinh hiển.

Nhắc đến biểu tượng cho sự vượt khó vươn lên, dùi mài kinh sách phải kể

đến Tổng Tân. Mồ côi cha từ nhỏ, ngày qua ngày phải xin ăn nuôi mẹ, chàng trai

trẻ Tổng Tân, hơn ai hết, ý thức được hoàn cảnh bản thân, tu rèn ý chí. Khi gặp

được người vợ hiền Cúc Hoa, được nàng chu cấp tiền ăn học, chàng đã gia công

đêm ngày, rũa rèn ý chí, miệt mài đèn sách để đợi đến ngày lên kinh ứng thí. Với

bản tính thông minh, Tổng Tân nhanh chóng học thông kinh sử, thành thạo văn

chương, từ đó tiếng tăm nổi lên như cồn:

Ở trường tập thơ phú thi văn,

Thông minh chẳng ai người đuổi kịp,

Tiếng tăm nổi như thể sóng cồn,

Mọi tập sách chàng đều thông hết.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 317 - 320)

Tổng Tân được tác giả truyện thơ Nôm Tày xây dựng nhân vật với cảm

56

hứng ngợi ca, tác giả người Tày đã sử dụng những ngôn từ hoa mỹ, phóng đại,

khi viết về họ. Các tình tiết ở bản Tày nếu so với bản Kinh đã được khai thác,

mở rộng để làm rõ thêm phẩm chất, tài năng nhân vật qua từng sự kiện. Chỉ với

năm câu thơ miêu tả năng lực của Tổng Tân trong kì thi, người đọc có thể thấy

được niềm tự hào của người Tày khi nói về một người con của họ:

Chàng Tổng Tân vốn dĩ khôn ngoan

Vào thi được ba ngày cửa trướng

Đua tài thêm đua thưởng cấp khoa

Chấm vào lại chấm ra bài vở

Chữ Tổng Tân rực rỡ như hoa.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 467 - 471)

Và như một điều tất yếu, Tổng Tân sau những ấm ức trường thi cuối cùng

cũng được bảng vàng treo tên: Bảng vàng treo cửa vua trình tấu/ Tổng Tân người

phủ xã Thanh Hoa (câu 474 - 475). Chàng là niềm tự hào cũng như niềm kiêu

hãnh của dân bản một phương. Sự khác biệt giữa bản Kinh và bản Tày trong việc

miêu tả sự tài hoa của Tổng Tân - Tống Trân cũng là một minh chứng cho sự

giao lưu và tiếp biến văn học Kinh - Tày. Có những lúc người Kinh chú trọng

giá trị tượng trưng thì cũng có những lúc người Tày đưa những giá trị đó hiện

hữu qua những sự vật cụ thể.

Chưa dừng lại ở đó, sự thông minh tài trí của Tổng Tân còn được thể hiện

khi chàng đi sứ nước bạn. Sau khi vượt qua những lần thử thách của Tần Vương,

Tổng Tân tiếp tục bộc lộ tài năng qua hai lần xử án: vụ dâm phụ giết chồng và

thương lái kiện cành đa. Bên cạnh sự thông minh tài trí, Tổng Tân còn thể hiện

được sức mạnh và mưu lược khi hàng phục được hổ tướng Lý Vì, khiến Lý Vì

khuất phục và kết giao hảo hữu với chàng, từ đó đem lại bình yên cho dân cư

một vùng rộng lớn. Ngày tiễn biệt sơn quân hổ tướng, Lý Vì đã tiễn chàng bằng

phép thuật để chớp mắt chàng đã từ nơi rừng núi về đến kinh đô Tần quốc: Sơn

quân cắt người ra tiễn Trạng/ Quan cưỡi hổ thay ngựa về trời/ Một đêm đến kinh

57

đô Tần quốc/ Lại vào trầu vua nước Tần bang (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 1790

- 1793). Có thể nói, đến đây âm hưởng sử thi đã được thể hiện một cách rõ nét

nhất, hình ảnh quan Trạng Tổng Tân cưỡi hổ bay về kinh đô lại đại biểu cho sự

chiến thắng, là hình ảnh đẹp lung linh kì vĩ, là đại diện cho chiến công của con

người trong cuộc chiến chống lại thiên nhiên hung dữ.

Không giống như Tổng Tân đăng khoa đỗ đạt, tài trí bang giao, Thạch Seng

lại thuộc về phần phóng khoáng của núi rừng, nhưng cũng thể hiện rõ bản thân

là một người thông minh tài trí. Năm mười ba tuổi, người thân duy nhất là mẹ

chàng qua đời, Thạch Seng phải côi cút sống giữa thiên nhiên đồi núi, kiếm củi

đổi cơm. Ngọc Hoàng sai tiên ông Lý Tĩnh xuống trần gian dạy phép thuật cho

chàng, chỉ trong một thời gian ngắn, Thạch Seng đã thông làu binh pháp, thành

thạo côn quyền: Bao nhiêu phép tiên ông dạy cả/ Thạch Seng thật sáng dạ thông

minh/ Đêm ngày cố nhập tâm học phép/ Hết khóa học tốt nghiệp các môn (Thạch

Seng, câu 236 - 240). Chỉ bằng bốn câu thơ, tác giả người Tày đã khái quát được

sự thông minh, sáng dạ của chàng trai họ Thạch.

Đi đôi với sự chăm chỉ, vượt khó và trí thông minh là phẩm chất của một

người anh hùng đại diện cho cả một cộng đồng đứng lên bảo vệ nhân dân, chống

lại cái ác. Phẩm chất này đều hội tụ cả ở Thạch Seng và Tổng Tân, minh chứng

rõ ràng nhất là ở những chiến công của họ.

Thạch Seng sinh ra ở núi rừng, sống nương nhờ vào thiên nhiên nhưng chính

chàng cũng là người đứng lên chống lại những thế lực đen tối xuất phát từ thiên

nhiên mà đại biểu là Xà vương và Chằn tinh. Chàng Thạch Seng mặc dù vẫn

mang đâu đó bóng dáng của một chàng trai của truyện thơ Nôm Kinh nhưng cũng

phần nào thể hiện được phẩm chất của một dũng sĩ người Tày. Không gian xảy

ra những cuộc chiến là đại ngàn bao la, những loại yêu quái đều xuất phát từ rừng

sâu. Chặng đường Thạch Seng đi đến miếu mãng xà được người Tày miêu tả như

sau: Một mình qua rừng núi vượt non/ Cảnh âm u bốn phương vắng ngắt/ Dù gai

cào quần rách cũng đi/ Dù đường bao dặm xa cũng bước (Thạch Seng, câu 492

58

- 495).

Nhân vật nam giới đi từ truyện cổ tích vào truyện Nôm một cách khá tự

nhiên. Nhiều khi truyện Nôm chỉ là tái hiện nhân vật cổ tích bằng văn vần, cho

nên nhân vật trong những truyện Nôm kiểu này dù được khoác lên tấm áo truyện

thơ nhưng vẫn chỉ là những người nông dân hiền lành, chất phác, dung dị. Những

nhân vật nam giới đi từ truyện thơ Nôm Kinh đến truyện thơ Nôm Tày đều mang

trong mình cảm hứng sử thi đại diện cho cả cộng đồng người ở vùng miền núi

Bắc bộ, những con người mang phẩm chất cao quý, đại diện cho chính nghĩa,

chống lại cường quyền, chống lại những thế lực dữ dội từ thiên nhiên để bảo vệ

cho bản thân và cả cộng đồng. Những chàng trai ấy thân thuộc với người Tày

đến nỗi họ cho rằng Tổng Tân, Phạm Tử, Thạch Seng là hiện thân cho những

người con của dân tộc họ, và theo lẽ đó các tác phẩm truyện Nôm cũng là sáng

tác của riêng họ.

Trong mối quan hệ giao lưu văn học, những nhân vật nam chính trong các

truyện thơ Nôm Tổng Tân - Cúc Hoa của người Tày với Tống Trân - Cúc Hoa

của người Kinh; Phạm Tử - Ngọc Hoa của người Tày với Phạm Tải - Ngọc Hoa

của người Kinh; Thạch Seng của người Tày và Thạch Sanh của người Kinh đều

là những nhân vật lý tưởng. Họ giống nhau ở tính cách, phẩm chất; giống nhau

ở việc đại diện cho cả cộng đồng chống lại cái ác, bảo vệ hạnh phúc cá nhân và

sự bình yên cho cộng đồng; giống nhau ở âm hưởng anh hùng ca mà họ được các

tác giả ký thác. Đó là sự đồng điệu trong tâm hồn hai dân tộc Kinh - Tày. Tuy

nhiên dù ít dù nhiều, các nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày vẫn có những điểm

khác biệt, đặc biệt họ mang hơi hướng của đồng bào miền núi. Có thể thấy điều

này trong mỗi chặng đường đời của họ, mỗi chiến công của Thạch Seng hay

Tổng Tân đều gắn liền với không gian và sự vật đậm chất núi rừng, mỗi bước đi

của Tổng Tân đều có yếu tố thiên nhiên. Đây là một điểm khác biệt trong truyện

thơ Nôm Tày làm cho nó thoát khỏi được “cái bóng” của truyện thơ Nôm Kinh.

Có thể nhận thấy đây là một biểu hiện của sự tiếp biến trong giao lưu văn học

59

Kinh - Tày.

3.1.1.3. Tuyến nhân vật phản diện

Trong xã hội bao giờ cũng tồn tại song song hai phe thiện - ác và trong

truyện thơ Nôm cũng vậy, đại diện cho phái thiện là những con người chính trực,

nhân vật chính diện; đại diện cho cái ác, là những kẻ xấu xa, nhân vật phản diện.

Nhân vật phản diện là một phần của hiện thực xã hội người Tày nói riêng và nhân

loại nói chung. Ở quan niệm của người Tày, nhân vật phản diện thường là những

kẻ cường hào, trưởng giả, ác bá…họ mang trong mình những bản chất tham lam,

kiêu ngạo, tàn ác, nham hiểm, dâm dục…. Trong chuyên luận của mình, TS Phạm

Quốc Tuấn từng nhận xét: “Cần phải nói thêm rằng, không phải đến các truyện

thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh kiểu nhân vật này mới

xuất hiện. Trong truyện thơ Nôm Tày nói chung, nhân vật loại này khá phổ biến.

Có thể kể đến các nhân vật vua chúa trong các tác phẩm Tam Mậu Ngọ, Nho

Hương, Nàng Ngọc Long, Thạch Sùng trong Nhân Lăng, Hoàng Thằng trong

Chiêu Đức, Điêu Thuyền, Trịnh Tử trong Lý Thế Khanh, Ngô Cương trong Lưu

Đài - Hán Xuân…” [44, 81].

Xét đến nhóm truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm

Kinh, nhân vật phản diện cũng được xây dựng với các hình tượng như Trang

Vương, Biện Điền (Phạm Tử - Ngọc Hoa); Trưởng giả, Trương Đình… (Tổng

Tân - Cúc Hoa); mẹ con Lý Thông, Xà Vương, Đại bàng tinh, Hồ li tinh…

(Thạch Seng).

Nhân vật phản diện đầu tiên phải nhắc đến là Biện Điền trong Phạm Tử -

Ngọc Hoa, hắn đại diện cho kiểu người có tính cách thấp hèn, nhỏ nhen, đố kị.

Biện Điền say đắm vẻ đẹp của Ngọc Hoa, muốn hỏi cưới nàng nhưng bị cự tuyệt.

Đem lòng thù hận hắn quyết tâm trả thù. Ban đầu hắn sai người đến ám sát Phạm

Tử, nhằm chiếm đoạt Ngọc Hoa nhưng âm mưu bị thất bại, hắn bèn tạc tượng

Ngọc Hoa để dâng lên Trang Vương. Với bản tính háo sắc, Trang Vương say mê

Ngọc Hoa và mong muốn chiếm đoạt nàng. Để có được người đẹp, Trang Vương

đã hạ độc Phạm Tử. Kết cục đôi trẻ đành chịu cảnh “âm dương chia cắt”. Xây

60

dựng lại nhân vật Trang Vương, Biện Điền từ tác phẩm của người Kinh, người

Tày muốn phản ánh một thực trạng cũng đang diễn ra trong xã hội của họ, những

thế lực thổ hào, bạo chúa miền núi sẵn sàng chà đạp lên tình yêu lứa đôi, hà hiếp

dân lành, bất chấp luân thường đạo lí. Chân dung Biện Điền và Trang Vương

được khắc họa trong những câu thơ sau

Khi nhắc đến nhân vật phản diện trong truyện thơ Nôm Tày, không thể

không nhắc đến nhân vật Trưởng giả, cha ruột của Cúc Hoa (trong Tổng Tân -

Cúc Hoa). Lão đại diện một lối sống khác trong xã hội người Tày. Trưởng giả là

kẻ hám lợi, thấy lợi quên nghĩa, vong ân bạc nghĩa. Lão thẳng tay đẩy con gái vào

vòng cơ cực, khi gả chồng mà không mảy may cho Cúc Hoa một chút của hồi

môn ; ngoảnh mặt làm ngơ khi Cúc Hoa đến xin giúp đỡ cho chồng lên kinh ứng

thí ; vô sỉ khi ép Cúc Hoa tái giá với Trường Đình, một kẻ phú hào ở địa phương ;

và lật mặt khi thấy Tổng Tân vinh quy trở về. Dường như ở Trưởng giả hội tụ tất

cả những gì xấu xa nhất của con người. Hắn đại diện cho mặt trái của xã hội, cần

bị lên án và khai trừ. Loại người này không chỉ xuất hiện trong truyện thơ Tổng

Tân - Cúc Hoa mà còn có mặt trong nhiều tác phẩm khác.

Trưởng giả dạ bất chính ép duyên

Nhi đồ tân đại tham mại thú,

Thấy chàng đi sứ sự không về

Liền gả nàng Cúc Hoa cho họ.

(Tống Tân - Cúc Hoa, câu 2501 - 2504)

Ở một thế giới khác, trong truyện thơ Thạch Seng, đại diện cho cái xấu,

cái ác là hai mẹ con Lý Thông. Cũng giống như Trưởng giả trong Tổng Tân -

Cúc Hoa, Biện Điền, Trang Vương trong Phạm Tử - Ngọc Hoa, hai mẹ con Lý

Thông cũng bộc lộ những thói xấu xa, độc ác. Ngay từ khi kết nghĩa với Thạch

Seng, trong đầu Lý Thông đã có suy nghĩ sẽ lợi dụng sự thật thà và sức khỏe của

chàng. Khi nhận được “án tử”, hai mẹ con họ Lý đã rắp tâm lừa gạt Thạch Seng

thế thân đi vào chỗ chết : Thạch Seng ở làm công làm việc/ Cho nó đi chết tiệt

chẳng sao/ Nhược nó chết khi vào trong miếu/ Thí thêm một chút của gia tài/

61

Thêm bữa cỗ với vài chén rượu/ Đón thầy về cúng tế lo chi/ Mẹ không được nói

đi nói lại/ Lý mẫu nghe lời nói Lý Thông/ Mổ gà vịt làm mâm chờ đợi (Thạch

Seng, câu 425 - 433).

Ở vị trí của một người mẹ, theo lẽ thường mẹ Lý Thông sẽ phải dạy con

theo những điều tử tế, nhưng ở đây bà lại đồng tình với con trai. Hai mẹ con Lý

Thông tham lợi, hám danh, tham sống sợ chết và rất mực nham hiểm. Có thể nói,

sự chất phác, thật thà của Thạch Seng là “mảnh đất màu mỡ” để mẹ con Lý

Thông lừa chàng hết lần này đến lần khác. Hai mẹ con Lý Thông là tiêu biểu cho

những kiểu người gian tham, lọc lừa, phản trắc. Đối với những nhân vật này, TS

Phạm Quốc Tuấn từng nhận định “họ là những mảng màu tối trong truyện thơ

Nôm Tày ”. [44, 83]

Nhìn chung, nhân vật phản diện với những tính cách xấu xa, thấp hèn trở

thành đối trọng của phe chính nghĩa, làm nên một cuộc đấu tranh giữa thiện - ác,

chính - tà. Trong quan niệm của nhân dân muôn đời, tà không thể thắng chính,

cái ác phải nằm dưới chân cái thiện. Và kết cục của những kẻ như Biện Điền,

Trang Vương, Trưởng giả, mẹ con Lý Thông phải chuốc lấy là những kết cục

làm hài lòng quần chúng nhân dân. Biện Điền phải đền mạng, Trang Vương mất

đi cả giang san ; Trưởng giả cả đời sống trong tủi nhục, cay đắng ; mẹ con Lý

Thông phải hóa thân thành sinh vật cả đời vùi mình trong những thứ nhơ bẩn ;

Chằn tinh, Đại bàng tinh, Hồ li tinh bị tiêu diệt trả lại cuộc sống bình yên cho

dân lành. Những chiến thắng này là khát vọng muôn đời của bao thế hệ người

Việt nói chung và người Tày nói riêng.

3.1.2. Thiên nhiên của núi rừng Bắc bộ

Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước như Hoàng

Triều Ân, Dương Nhật Thanh, Nông Quốc Chấn… và đặc biệt là nghiên cứu của

TS Phạm Quốc Tuấn trong Luận án Nghiên cứu so sánh một số truyện thơ Nôm

Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, chúng tôi tổng hợp một số đặc

điểm về khung cảnh núi rừng Bắc bộ, hay thiên nhiên miền núi trong cảm quan

62

thế giới của người Tày để từ đó đi đến những nhận định về đặc sắc trong nội

dung một số truyện thơ Nôm Tày giao thoa cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh.

3.1.2.1. Thiên nhiên núi rừng gắn bó với đời sống con người và mang hơi hướng

tâm linh

Người Tày ở phía Bắc Việt Nam sống trong một địa bàn trải rộng qua

nhiều tỉnh, địa hình chủ yếu là trung du và miền núi. Với đặc điểm sinh hoạt phụ

thuộc vào thiên nhiên nên cũng như người Kinh, người Tày luôn mang trong

mình sự tôn trọng và tôn thờ tự nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên là sự mong

muốn và cũng là phương châm hành xử của người Tày tự ngàn đời. Bởi thế, thiên

nhiên đi vào tác phẩm của họ bình dị, gần gũi và nó phản ánh một phần đời sống

tâm linh của dân tộc Tày.

Người Tày sinh ra trong môi trường miền núi, họ cư trú, sinh sống trong

hoàn cảnh miền núi nên cuộc sống của họ luôn gắn liền với không gian rừng cây,

núi đá. Trong những bức tranh thiên nhiên của người Tày, núi rừng hiện ra hoang

sơ, huyền bí nhưng lại gần gũi với cuộc sống của mỗi buôn làng, mỗi cá nhân. Ở

truyện Thạch Seng, thiên nhiên núi rừng đồng hành với mỗi chặng đường đời

của chàng trai trẻ. Theo thống kê của TS Phạm Quốc Tuấn, tác phẩm này có đến

hơn 50 câu, đoạn miêu tả cảnh thiên nhiên. Thạch Seng sinh ra nơi rừng già ngàn

tuổi. Rừng núi chứng kiến nỗi đau mất cha mẹ của chàng. Đó cũng là nơi sau khi

giết Chằn tinh, bị Lý Thông tranh công, và cũng là nơi Thạch Seng quay về

nương náu sau khi bị lừa gạt:

Lại trốn về ở gốc cây đa

Chốn suối sâu rừng già xa lắc

Làm bạn cùng hươu hoẵng nuôi thân

Ngày gánh củi lần lần nuôi miệng

(Thạch Seng, câu 600 - 604)

Những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn Thạch Seng lại chia sẻ với người bạn

đại ngàn. Khi Thạch Seng ra đi, cây cỏ héo hon, buồn bã, lúc chàng trở về sau

63

bao biến cố, cả núi rừng như bừng sáng đón chào. Dường như giữa Thạch Seng

và cỏ cây, hoa lá có một mối đồng cảm, tương giao đặc biệt:

Từ ngày Thạch Seng lại về đây

Hoa đua nở lá tươi mùa mới.

(Thạch Seng, câu 1418 - 1419)

Ngoài ra, thiên nhiên đại ngàn cũng là nơi Thạch Seng rèn luyện bản lĩnh

để sau này lập được những chiến công hiển hách. Sinh ra, lớn lên ở núi rừng Bắc

bộ, Thạch Seng là đại diện đầy tự hào của núi rừng.

Truyện Phạm Tử - Ngọc Hoa cũng có một số đoạn miêu tả thiên nhiên khá

đặc sắc. Mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của bản Kinh song qua sự biến tầu

của tác giá người Tày, khung cảnh thiên nhiên miền núi vẫn có những màu sắc

riêng của núi rừng Bắc bộ. Chẳng hạn như những câu thơ sau :

Thảo mộc, trúc, vườn hoa sáng rực

Có hoành phi câu đối hoành tương

Bên ngoài trồng bóng dương liễu trúc

Ngoài thềm thêm mọi thứ loài hoa

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 634 - 637).

Ở một khía cạnh khác, thiên nhiên như biết lắng nghe, đồng cảm, sẻ chia

với nỗi lòng tình cảm con người. Điều này chứng tỏ năng lực sáng tạo đặc biệt

của tác giả truyện thơ Nôm Tày trong quá trình tìm cách “Tày hóa” tác phẩm

người Kinh. Khảo sát truyện thơ Nôm Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm

Kinh nói riêng và tác phẩm truyện Nôm bình dân, tác phẩm truyện thơ Nôm Tày

đã được chuyển dịch ra tiếng Việt nói chung thì đây là hiện tượng rất hiếm gặp.

Chẳng hạn khung cảnh thiên nhiên trong Tổng Tân - Cúc Hoa (đoạn từ câu 849

đến câu 880). Đoạn thơ này miêu tả tâm trạng của Tổng Tân trên đường đi sứ

sau khi từ biệt mẹ già và Cúc Hoa. Vừa giành được ngôi vị Trạng nguyên, vì từ

chối làm phò mã, chàng bị nhà vua bắt đi sứ nước Tần. Mặc dù ngàn vạn lần

không muốn ra đi nhưng vì lệnh vua xuống, không thể chối từ, Tổng Tân đành

64

gác lại tư gia lên đường vì việc nước. Trên bước đường đi sứ của chàng, thiên

nhiên như cùng lắng nghe và chia sẻ, đặc biệt là tiếng chim khảm khắc. Tiếng

chim này như tấu lên bản nhạc buồn của Tổng Tân :

Khảm khắc hót xa gần ngàn dã

Trạng nguyên quan nhớ mẹ nhớ nàng

Khảm khắc gọi tiếng vang cao thấp

Tiếng vẳng xa đưa lọt êm tai

Quan nghe thấy buồn thay lại oán

Khảm khắc hót thanh thản ngàn xa

Mẹ ta ở lại nhà tuổi lão.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 872 - 878)

Người đọc bị ấn tượng mạnh bởi hình ảnh và âm thanh của con chim khảm

khắc. Khảm khắc là một loài chim sống trong rừng sâu nơi núi rừng Việt Bắc,

loài chim này rất thân thuộc với người dân nơi đây, tiếng kêu của nó báo hiệu

thời khắc sang canh. Hình ảnh chim khảm khắc cũng gợi lên nỗi nhớ mẹ già và

người vợ đảm của chàng Trạng nguyên trẻ Tổng Tân. Nó nhắc nhở chàng thời

gian đang trôi chảy đằng đẵng, và cũng như báo hiệu một thời gian dài nữa mới

đến được ngày đoàn viên với gia đình. Người miền núi tâm sự qua sự liên tưởng

với những gì thân quen, so sánh với những gì dễ hình dung nhất ngay trong cuộc

sống của họ.

Hơi hướng tâm linh là một đặc điểm quan trọng của thiên nhiên trong

truyện thơ Nôm Tày.

Mỗi một dân tộc đều có những tín ngưỡng riêng thuộc về bản sắc văn hóa.

Người Tày cũng vậy, họ có một tín ngưỡng khá đặc biệt, đó là tín ngưỡng “hoa”.

Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày, các tác giả cho biết về tín ngưỡng này như

sau: “Về tín ngưỡng Hoa, có thể nêu lên một huyền thoại phổ biến trong dân gian

Tày về bông hoa chúa: Hoa vặc viền (hay pặc piền). Bông hoa được mô tả rực

rỡ giữa muôn hồng ngàn tía, chói lọi trong thẳm xanh rừng núi. Có điều lí thú là:

65

người Tày Cao Bằng nói đó là bông hoa chúa treo trên vách đá Hồ Ba Bể, người

Tày ở vùng hồ Ba Bể lại nói ở Na Hang (Tuyên Quang)…

Trong hệ thống thần thoại Pựt luông có nhều chi tiết kể lại việc Pựt nhuộm

hoa muôn màu… từ loại hoa cao quý như hoa van chư, van ví, đến hoa rồm, hoa

mạ, hoa phón, hoa ke tóm… lấm tấm nở trong mắt người dân dã. Trong tín

ngưỡng Tày cũng ghi nhận một số hoa như vặc viền, van chư, van ví là hoa

thiêng, hoa thanh cao, tương truyền là con của Pựt luông mà con người chịu dày

ơn huệ. Song song với tín ngưỡng thờ mẹ Pựt như nói ở trên, dường như là tín

ngưỡng thờ mẹ Then, mẹ Hoa cùng tồn tại… Tục ngữ Tày có câu:

Mẹ Then ở trên cao

Mẹ Hoa ở trên trời.

Nhưng cũng có câu:

Mẹ Hoa sinh ra

Mẹ Hoa đặt lại.

Đối chiếu câu khấn ở trên của các Pựt mỗi khi hành lễ, ta thấy rất có khả

năng mẹ Hoa là tên gọi chuyển hóa của mẹ Then trước cả mẹ Pựt xích ca. Trong

các lễ cầu yên giải hạn, người Tày khấn mẹ Hoa, và dùng hoa làm vật cúng với

biểu tượng là trái tim (tương tự như biểu tượng quả trứng). Trong lễ này, bà Then

làm hai ngăn chòi bằng tám cọng lá chuối, ngăn trên để vài bông hoa rừng, ngăn

dưới đặt mấy miếng thịt và bà tự giải thích: đây là thân người, trên là tim gan,

dưới là ruột và bao tử. Trong lễ hồn hoa (khoăn bjoóc), người ta cũng hình dung

ra một cảnh tượng thật kì thú: Nàng hoa đi qua ba mươi cửa, cùng khắp sáu mươi

chợ trên mường trời, lại qua một trăm hai mươi chợ dưới mường người để ban

phát nụ cười cho khắp thế gian. Như vậy, Hoa là biểu tượng của niềm vui sống

và sự sung túc no đủ” [43, 166 - 167]. Từ trích dẫn này có thể thấy, vai trò của

hoa vô cùng quan trọng và đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Tày.

Thể hiện tinh thần này, ngay ở câu mở đầu truyện Phạm Tử - Ngọc Hoa

hình ảnh hoa đã được nhắc đến:

Đặt nên truyện hoa lạ

66

Nói đến truyện hoa vàng

Theo Phạm Quốc Tuấn, “Hoa lạ, hoa vàng” ở đây chính là hoa “vặc viền”

- một loài hoa tồn tại trong trí tưởng tưởng của người Tày. Bông hoa này nở

trên vách núi vào mùa xuân. Mỗi khi hoa nở thường có từng đàn ong bướm bay

lượn xung quanh làm nên những đám mây ong. Nhưng khi con người lên đến

nơi thì bông hoa đã biến mất. Đó cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên

nhiên miền núi. Một vẻ đẹp mà người ta chỉ có thể vừa quan sát vừa cảm nhận

mới thấy. Vẻ đẹp ấy vừa thực tế lại siêu nhiên và mang màu sắc tâm linh. Hình

ảnh hoa (bjoóc) không chỉ xuất hiện một lần mà được nói tới khá nhiều trong

các tác phẩm. Có khi, hình ảnh thiên nhiên lại được “hóa thân” trong vẻ đẹp

con người.

3.1.2.2. Thiên nhiên hung dữ và đối nghịch với con người

Bên cạnh bức tranh thiên nhiên gần gũi, quen thuộc, mang màu sắc tâm

linh thì thiên nhiên trong truyện thơ Nôm Tày còn hiện lên đầy hung dữ, đối

nghịch với con người. Để tồn tại giữa thiên nhiên rừng thiêng nước độc với bao

hiểm nguy rình rập, con người buộc phải chiến đấu và chiến thắng. Đấu tranh

với những thử thách của thiên nhiên để tồn tại là công việc mà đồng bào các dân

tộc miền núi phía Bắc trong đó có dân tộc Tày đã làm từ bao đời nay. Cuộc đấu

tranh giữa cái hữu hạn (con người) và cái vô hạn (thiên nhiên) để vươn tới một

cuộc sống tốt đẹp hơn là ước mơ, khát vọng của con người dân tộc Tày. Cuộc

đấu tranh ấy cũng là nơi họ thể hiện bản lĩnh, ý chí và sức mạnh của những người

con sinh ra từ núi. Thiên nhiên càng khắc nghiệt, hung bạo bao nhiêu thì ý chí

con người càng rắn rỏi, kiên cường bấy nhiêu. Tất cả những điều đó đã được tác

giả người Tày phản ánh vào trong truyện thơ Nôm của dân tộc mình. Thiên nhiên

miền núi được miêu tả trong các truyện thơ Thạch Seng, Tổng Tân - Cúc Hoa

ít nhiều mang nội dung trên.

Khung cảnh thiên nhiên miền núi lúc Thạch Seng chuẩn bị vượt qua thử

67

thách đầu tiên được miêu tả rất hoang lạnh, âm u thoáng chút huyền bí, ghê rợn.

Thiên nhiên dự cảm con đường phía trước đầy bất trắc và hiểm nguy:

Một mình qua rừng núi vượt non

Cảnh âm u bốn phương vắng ngắt

Dù gai cào quần rách cũng đi

Dù đường bao dặm xa cũng bước

…Bốn phương trời tối bưng mắt bịt

Da trời đen như mực trên nghiên

(Thạch Seng, câu 471 - 477)

Đại diện cho thiên nhiên hung bạo trong truyện Tổng Tân - Cúc Hoa là

tiếng hổ gầm, từng đàn ác thú tung hoành gây hại cho cuộc sống dân lành, bên

cạnh đó còn có núi rừng âm u như muốn nhấn chìm những con người bé nhỏ.

Thên nhiên như dàn trải trên những trang thơ Tày, và đồng hành cùng mỗi chặng

đường đời nhân vật. Xét trong mối quan hệ giao lưu - tiếp biến văn học, truyện

thơ Nôm Kinh cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Tày chưa chú ý đến việc miêu

tả thiên nhiên, và theo đó những hình ảnh thiên nhiên không thường xuyên xuất

hiện trong tác phẩm. Ngược lại trong các truyện thơ Nôm Tày, thiên nhiên đã trở

thành không gian, môi trường hoạt động gắn bó chặt chẽ với đời sống con người.

Thiên nhiên nhiều khi là nơi nhân vật ký thác tâm trạng, nỗi niềm của bản thân.

Ngoài tác dụng tạo ra không khí miền núi đặc trưng cho tác phẩm, việc tăng

cường miêu tả cảnh thiên nhiên càng làm cho tính cách, phẩm chất nhân vật được

bộc lộ. Đây là nét riêng biệt của truyện thơ Nôm Tày trong tương quan so sánh

với truyện thơ Nôm Kinh. Và có lẽ đây là một trong những điểm nổi bật của sự

tiếp biến văn học.

3.2. Giao lưu và tiếp biến trên phương diện nghệ thuật

3.2.1. Kết cấu và thể thơ

3.2.1.1. Kết cấu lồng ghép giữa tự sự và trữ tình

68

Ở truyện thơ Nôm Kinh, đặc biệt là truyện thơ Nôm bình dân, kết cấu truyện

chủ yếu là kết cấu tự sự. Cuộc đời các nhân vật được tác giả dân gian người Kinh

trần thuật lại trên những dòng thơ. Tuy nhiên trong truyện thơ Nôm Tày, kết cấu

đã có phần khác, khi yếu tố tự sự được tác giả người Tày lồng ghép vào với yếu

tố tự sự, tạo thành một kiểu kết cấu truyện khác đặc trưng: kết cấu trữ tình - tự

sự ở giai đoạn đầu và kết cấu tự sự - trữ tình ở giai đoạn sau. GS Vũ Anh Tuấn

cho rằng ở dạng truyện thơ có kết cấu trữ tình - tự sự, “đặc trưng thơ còn chi

phối sự tạo thành cốt truyện… được kết thúc theo chiều hướng bi kịch”[43, 132].

Còn ở truyện thơ có kết cấu tự sự - trữ tình thì tình tiết, sự kiện mới là yếu tố

chính tạo thành cốt truyện, hầu hết các câu chuyện đều kết thúc có hậu). Khảo

sát kiểu kết cấu tự sự lồng ghép trong trữ tình, trong giới hạn phạm vi của luận

văn, chúng tôi tập trung vào ba điểm chính: chất trữ tình bộc lộ qua cốt truyện;

chất trữ tình bộc lộ qua tâm trạng nhân vật và chất trữ tình bộc lộ qua cảnh thiên

nhiên.

- Chất trữ tình bộc lộ qua cốt truyện

Trong quan niệm truyền thống, mỗi khi nhắc đến truyện, hoặc chuyện kể

người ta thường nhắc đến cốt truyện đầu tiên. Mỗi tác phẩm được hình thành trên

cơ sở một hay nhiều câu chuyện. Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa là

kiểu truyện có kết cấu lồng ghép, truyện ở trong thơ và thơ lồng trong truyện. Vì

là truyện nên tác phẩm này nằm trong quỹ đạo của loại hình tự sự. Cốt truyện

Tổng Tân - Cúc Hoa được xây dựng trên những mâu thuẫn phức tạp của đời

sống của cộng đồng người. Đó có thể là những nghịch cảnh, nghịch lý trớ trêu

diễn ra trong cuộc sống thường ngày hay trong tiến trình lịch sử. Nghịch cảnh,

nghịch lý ấy được trần thuật trên nền tảng của chất trữ tình. Có thể hiểu, “Tự sự”

là thể xác, phần ngoại biểu, “trữ tình” là linh hồn, phần tiềm ẩn. “Tự sự” và “trữ

tình” có lúc giao hòa với nhau, có lúc lại phân tách rạch ròi.Trên nền tảng của sự

lồng ghép “tự sự” và “trữ tình”, mỗi chi tiết, hành động của nhân vật đều biểu thị

những trạng thái tình cảm cộng đồng người Tày nói chung.

69

Ở truyện Nôm Tổng Tân - Cúc Hoa, có khá nhiều đoạn gắn kết được giữa

yếu tố “tự sự” và “trữ tình”. Sự kiện Tổng Tân đi sứ đại biểu cho chất “tự sự”,

và trong sự kiện đó, mạch suy nghĩ của nhân vật chính là chất “trữ tình”. Mạch

suy nghĩ này tuần hành từ những bước đi đầu tiên chàng rời xa đất mẹ cho đến

tháng ngày chàng lưu lại nơi đất khách. Trong thời gian đi sứ, không lúc nào

Tổng Tân nguôi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ hình ảnh mẹ già gầy hao và người

vợ trẻ hiền thục. Tâm trạng này được miêu tả ít nhất 5 lần, trong đó có những

đoạn vô cùng sâu sắc và cảm động, chẳng hạn đoạn Tổng Tân chia tay mẹ già và

người vợ hiền để lên đường đi sứ. Ở bản Nôm Tày, tác giả đã dùng đến 114 câu

để miêu tả tâm trạng của chàng Tổng Tân. Với hơn 100 câu thơ, tâm trạng của

đôi vợ chồng trẻ Tổng Tân, Cúc Hoa được miêu tả một cách chi tiết giúp người

đọc hình dung rõ hơn về hoàn cảnh và số phận nhân vật. Phẩm chất, tính cách,

chân dung nhân vật cũng được hiện lên gần gũi, chân thật hơn. Có thể nói đây là

đoạn thơ chia tay đầy nước mắt. Ra đi nhưng trong lòng canh cánh, quan Trạng

trẻ tuổi Tổng Tân ngổn ngang trăm bề. Điều đầu tiên chàng nghĩ đến là thương

mẹ già tuổi đã cao không ai chăm sóc. Tiếp đến, chàng thương người vợ hiền đã

tảo tần nuôi mẹ, mời thầy, nuôi chồng. Người vợ ấy trải qua bao tháng ngày khó

khăn tủi cực, nay mới được một chút niềm lại nghẹn ngào xa cách. Cả đoạn thơ

chứa chan nước mắt với những từ ngữ đầy buồn đau như: thảm hại, lệ tuôn lai

láng, thảm thương lo ngại, nước mắt rơi lã chã, thảm thiết, xót xa… Ngày ra đi,

Tổng Tân nghẹn ngào:

Tổng Tân dặn lời với Cúc Hoa

Nàng hãy quay về nhà cùng mẹ

Chăm sóc bao xuân hạ chờ anh

Nàng khóc ta không đành đường trảy

Làm sao phải thế vậy, trời ơi?

Hai người nói những lời xa cách

70

Thân nàng về lầu các mái hiên

Dõi theo bóng Trạng nguyên xa khuất..

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 829 - 836)

Trong một tác phẩm, nội dung luôn được phản ánh thông qua hình thức

nghệ thuật. Nội dung có thể được trải dài qua những câu văn vần, hoặc văn xuôi

tự sự, nhưng có khó khi lắng đọng trong yếu tố đầy cảm xúc của chất trữ tình.

Sự hòa quện, giao hòa giữa chất “tự sự” và “trữ tình” tạo cho cốt truyện của mỗi

tác phẩm văn học nói chung và mỗi truyện thơ Nôm Tày nói riêng có được sự

mềm mại, uyển chuyển, lôi cuốn người đọc, đồng thời cũng là nền tảng của

những giá trị bền lâu.

- Chất trữ tình bộc lộ qua tâm trạng nhân vật

Có lẽ không yếu tố nào biểu thị rõ ràng hơn chất trữ tình trong từng tác

phẩm văn học bằng tâm trạng của những nhân vật qua tác phẩm ấy. Tâm trạng

của nhân vật trữ tình thể hiện trong từng sự kiện, hữu “Sự” (tự sự) hữu “Tình”

(trữ tình), chúng quấn quýt với nhau khó tách bạch. Cũng chỉ khi “Sự” và “Tình”

đi liền nhau thì truyện thơ mới có được sự mạch lạc và trở thành một thể thống

nhất trọn vẹn. Trong mạch chảy tự sự của truyện thơ Tổng Tân - Cúc Hoa, yếu

tố trữ tình được xuất hiện trong nhiều phân đoạn. Toàn bộ câu chuyện trở nên

mềm mại, uyển chuyển hơn bởi những dòng tâm trạng, cảm xúc, yếu tố trần thuật

cũng từ đó mà bớt khô cứng, nặng nề. Chất trữ tình làm sống dậy thế giới hiện

thực khách quan, giúp người đọc đi sâu vào thế giới của những suy tư, nỗi niềm

tâm trạng trong nhân vật.

Gặp gỡ nhau từ thuở niên thiếu, chàng trai trẻ Tổng Tân và cô gái cô gái

đẹp Cúc Hoa đã chớm có những rung động đầu tiên. Nhưng trớ trêu cảnh gặp gỡ

đầu tiên của đôi trẻ lại không như mộng, nó không diễn ra ở một không gian lãng

mạn với những chim muông hoa lá, mà diễn ra ở hoàn cảnh éo lẽ giữa một người

hành khất và một người phát tâm. Tổng Tân dẫn mẹ lưu lạc xin ăn đến cửa nhà

Trưởng giả thì gặp cô con gái út nhà giàu Cúc Hoa. Tuy nhiên cuộc gặp gỡ nặng

71

nề địa vị xã hội đó không ảnh hưởng đến những rung cảm từ trái tim của họ. Tình

yêu và sự đồng cảm đã giúp họ vượt qua tất cả, nếu như ở Tổng Tân là sự ngượng

ngùng vì ý thức địa vị bản thân thì ở Cúc Hoa lại là sự thuận tình không màng

đẳng cấp mà đến với người yêu. Sau cuộc gặp gỡ trời định ấy, Cúc Hoa đã đem

lòng thương nhớ Tổng Tân : Chàng Tổng Tân trở ra lững thững/ Cúc Hoa nàng

lòng nặng sầu tây/ Lã chã lệ tuôn rơi buồn khổ (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 86 -

88). Và khi bị cha ép lấy chàng trai nghèo ở làng Kim Hoa ấy, Cúc Hoa đã ưng

thuận nhưng một lẽ ưng thuận ý trời : Cúc Hoa thương mặt ngọc Tổng Tân/ Số

các con được phân hạ giới/ Duyên phận định phân phối cả hai (Tổng Tân - Cúc

Hoa, câu 127 - 139).

Yếu tố chính làm nên chất trữ tình đậm nét của tác phẩm Tổng Tân - Cúc

Hoa là diễn biến tâm trạng hai nhân vật này. Từ những khó khăn trong cuộc

sống, đôi trẻ đã dũng cảm vượt qua và vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, hướng

đến hạnh phúc, hướng đến thực hiện được giấc mơ. Hoàn cảnh càng khắc nghiệt

bao nhiêu thì hạnh phúc càng ngọt ngào bấy nhiêu, và theo đó chất trữ tình cũng

được thể hiện rõ ràng hơn. Người đọc có lẽ khó cầm được nước mắt khi đọc đến

những đoạn kể Cúc Hoa trải bao đắng cay nuôi mẹ chồng : Đói bụng nàng chẳng

ăn nhịn đói/ Rét thì nàng đành chịu thân run ; Cúc Hoa bị ép duyên với Trường

Đình bởi chính cha ruột ; hay Tổng Tân khắc khoải nhớ quê hương, nhớ mẹ hiền

vợ thảo…Nhưng cũng rất dễ hài lòng với đoạn Trạng nguyên từ nước bạn trở về

giải cứu được vợ, trả được ân oán nơi quê nhà, trừng phạt những kẻ ác….Có lẽ

để đánh giá hiệu quả của chất trữ tình không gì có thể xác đáng hơn những nhận

định từ độc giả.

Tâm trạng nhân vật được viết theo kiểu tâm tình thương nhớ, rất giàu chất

trữ tình, tuy diễn ra trong nhiều tình huống cụ thể nhưng nó như đã phá vỡ lằn

ranh giữa tự sự và trữ tình để phát huy tối đa khả năng diễn tả cảm xúc của nhân

vật. Tuy vậy, sự phá vỡ này chưa đạt đến độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn toàn ranh

giới của hai yếu tố tự sự và trữ tình.

72

So với hai truyện Nôm còn lại (Phạm Tử - Ngọc Hoa và Thạch Seng),

truyện Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa thể hiện rõ nhất chất trữ tình bộc lộ qua

tâm trạng nhân vật. Do đó, để lấy đại biểu minh chứng cho luận điểm này, chúng

tôi tập trung chủ yếu vào truyện Tổng Tân - Cúc Hoa để phân tích.

- Chất trữ tình bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên

Thiên nhiên là yếu tố thường xuyên xuất hiện và đóng vai trò quan trọng

trong truyện thơ Nôm Tày nói chúng. Trong truyện Tổng Tân - Cúc Hoa, sự xuất

hiện của thiên nhiên có mối quan hệ chặt chẽ và giữ vai trò đặc biệt trong việc thể

hiện tâm tình con người. Sau khi Cúc Hoa xin đi sứ cùng chồng nhưng không

được, Tổng Tân đành giã biệt ra đi trong màn mưa nước mắt của mẹ và vợ. Trên

hành trình vượt nghìn trùng xa cách đến chốn kinh đô nước bạn, thiên nhiên xuất

hiện và dường như đã nói giúp chàng nội tâm đầy thương nhớ, u sầu:

Ong ve cứ râm ran ca xướng,

Buồn quá quan ngồi xuống nghỉ chân

Khảm khắc hót xa gần ngàn dã

Trạng nguyên quan nhớ mẹ, nhớ nàng.

Khảm khắc gọi tiếng vang cao thấp.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 870 - 875)

Trong Tổng Tân - Cúc Hoa, thiên nhiên như trở thành một nhân vật làm

chứng cho tình yêu giữa Tổng Tân và Cúc Hoa. Thiên nhiên có thể là tiếng ong,

tiếng chim để nói thay cho tiếng lòng khắc khoải của Tổng Tân : “Khi lại thấy

chuồn chuồn bay lượn/ Thầy tớ cùng nhìn ngắm cho vui/… Ong ve gọi lân la

điềm gở/ Buồn lòng chàng ngồi nghỉ gọi là/... Khảm khắc hót gần xa ngàn lạ/

Trạng nguyên thân nhớ mẹ nhớ nàng”. Tiếng chim khảm khắc vọng lên giữa

chốn núi cao rừng sâu thật dễ khiến lòng người rung động : tiếng khảm khắc nhớ

mẹ, tiếng khảm khắc thương vợ, và tiếng khảm khắc vọng cố hương. Trên mỗi

bước đường Tổng Tân đi dường như đều có tiếng hót, tiếng kêu của chim muôn,

73

ong bướm, có lẽ đó cũng là hồn quê trong lòng chàng.

Khác với thơ tình, thiên nhiên trong truyện thơ không mang màu sắc lãng

mạn hay thơ mộng mà hòa theo cảm xúc của nhân vật, hay nói cách khác thiên

nhiên là một phần biểu thị cảm xúc của nhân vật, một phần thể hiện chất trữ tình.

Trong truyện thơ, thiên nhiên vẫn là những cảnh ngày đêm vần chuyển, vẫn là

cảnh trăng hoa mây khói, vẫn là cảnh núi non rừng rậm, nhưng tất thảy đều được

khai thác ở chiều sâu đa diện, có hình khối, có âm thanh và quan trọng hơn cả là

biểu thị một cách có hiệu quả tâm trạng nhân vật. Ở Tổng Tân - Cúc Hoa, Phạm

Tử - Ngọc Hoa hay Thạch Seng, thiên nhiên có một vai trò quan trọng trong việc

thể hiện tình cảm lứa đôi hơn cả một thiên nhiên đơn thuần.

Tóm lại, xét về mặt kết cấu, trên cơ sở tiếp thu kết cấu cốt truyện theo

phương thức: gặp gỡ - tai biến - lưu lạc - đoàn viên của người Kinh, bằng việc

thêm vào một số đoạn thơ miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật, người Tày đã

biến đổi kết cấu tác phẩm có khuynh hướng tự sự là chủ yếu thành tác phẩm

mang khuynh hướng kết cấu tự sự - trữ tình lồng ghép.

3.2.1.2. Thể thơ thất ngôn trường thiên của người Tày

Truyện thơ Nôm Tày mang nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật đặc

sắc. Cốt truyện cơ bản giống với truyện thơ Nôm Kinh song khác nhau về hình

thức thể hiện. Riêng về thể thơ, truyện thơ Nôm Kinh sử dụng thể thơ lục bát còn

truyện thơ Nôm Tày dùng thể thơ thất ngôn trường thiên. Lý giải hiện tượng này

có thể viện dẫn nhiều nguyên nhân, theo chúng tôi, để giải thích cho hiện tượng

này có thể dựa vào một số yếu tố sau:

Thứ nhất, do đặc trưng kết cấu cốt truyện. Nếu như truyện thơ Nôm của

người Kinh chủ yếu có khuyng hướng tự sự, các sự kiện tiếp nối nhau, đan cài

vào nhau, có đôi lúc xen lẫn với một vài yếu tố trữ tình thì truyện thơ Nôm của

người Tày lại được tác giả thể hiện kết cấu bằng sự lồng ghép yếu tố tự sự và trữ

tình. Kết cấu cốt truyện kiểu tự sự - trữ tình cho thấy đan xen giữa các tình tiết

sự kiện là những phân đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Sự kiện liên

74

tục phát triển làm cho câu chuyện diễn biến khá dàn trải, thậm chí có lúc còn rơi

vào trạng thái triền miên dẫn đến căng thẳng thì những đoạn trữ tình lại làm cho

mạch diễn biến trầm xuống, lắng đọng qua cảm xúc suy tư của nhân vật. Giọng

điệu tâm tình giúp cho cốt truyện phát triển một cách uyển chuyển, mềm mại. Để

phù hợp với cốt truyện này thì thể thơ thất ngôn trường thiên là tương đối phù

hợp. Vì vậy, trong đại đa số truyện thơ Nôm Tày, đại biểu là ba tác phẩm được

chúng tôi tập trung nghiên cứu trong luận văn, đều dùng thể thơ này để thể hiện.

Thơ thất ngôn trường thiên trong truyện Nôm Tày dùng cả vần chân (cước vận,

tức vần ở cuối câu) và vần lưng (yêu vận, tức vần ở giữa câu) để gieo. Khi vận

dụng thể thơ thất ngôn trường thiên gieo cả vần lưng và vần chân, người Tày

tuyệt đối tuân thủ cách gieo vần của thể thơ này. Chẳng hạn:

Lại gạ đoạn Phạm Tử Sơn Tây/ Lại kể đoạn Phạm Tử Sơn Tây

Vỏ mẻ lểu thai pây hoẻng tả/ Cha mẹ đều chết rồi bỏ mặc.

Dẳng vừa đảy síp hả pi gần/ Tuổi chàng vừa mới được mười lăm

Quan vần vạy cô thân một mỉnh/ Đã mồ côi cô thân một mình.

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 59 - 62)

Xét về hiệu quả âm luật của lối thơ thất ngôn trường thiên có thể thấy rõ

trong cách gieo vần chân và vần lưng, tuy nhiên nhiều khi vì tác giả dân gian

người Tày quá chú ý đến cách gieo vần để tránh không bị thất vận, dẫn đến một

số câu thơ rườm rà, tối nghĩa, thậm chí rất khó hiểu. Các sự kiện, tình tiết đan cài

vào nhau một cách khó hiểu, chẳng hạn:

Hồ Vương vùa miện duyên khỉn tỏi/ Vua Hồ còn mến thương đòi tới

Phua mìa phuối luận hội xiết xa/ Vợ chồng cùng bàn luật thiết tha

Chiêu Quân pyảc Hán gia nàng hảy/ Chiêu Quân biệt Hán gia nàng khóc

Y như là tự nẩy soong duyên/ Giờ này ta chẳng khác hai duyên

Khất bút quan tạng nguyên liển chép/ Cầm bút quan Trạng nguyên liền chép

Mộ niên khởi nhật nguyệt giao thư/ Mỗ niên khởi nhật nguyệt giao thư

Nam quốc nhậm Ngô châu sứ sự/ Nam quốc nhận Ngô châu việc sứ

75

Ngò kết duyên công chúa Tần Vương/ Ngộ kết duyên công chúa Tần vương

Lộ đồ quân dùa căn nhật dạ/ Lộ đồ xa cho gần nhật dạ

Xuất tốc rườn Bắc Hà Sơn Tây/ Về Bắc Hà xuất tốc Sơn Tây

Chắc kỷ dậm xẩư quây dẳng lót/ Biết bao dặm đường xa mới lọt

Tạng nguyên quan lo xót buồn thân/ Trạng nguyên quan lo xót buồn thân.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 2235 - 2246 )

Nếu như truyện thơ Nôm Kinh đa phần dùng để kể, thì truyện thơ Nôm

Tày còn được dùng để hát. Người Tày kể và hát truyện Nôm của họ theo những

làn điệu của sli, lượn đặc trưng của dân tộc họ. Do đó, nhiều khi truyện thơ Nôm

Tày được chia thành các phân đoạn rõ ràng. Những phân đoạn đó thường bắt đầu

bằng cụm từ : “Lại gạ đoạn” (lại kể đoạn) ví như: Lại kể đoạn thượng các tiến

công/ Sai Lý Tĩnh xuống vùng dương thế (Thạch Seng, câu 214 - 215); Lại kể

đoạn Phạm Tử Sơn Tây/ Cha mẹ đều chết rồi bỏ mặc (Phạm Tử - Ngọc Hoa,

câu 59 - 60); Lại kể đoạn Tổng Tân hành lộ/ Một thân chàng đơn độc bước chân

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 432 - 433 ). Và vì lý do để hát nên thể thơ thất ngôn

trường thiên được người Tày sử dụng là phù hợp hơn cả trong sáng tác truyện

thơ. Đó đồng thời cũng là lý do tại sao truyện thơ Nôm Tày có một sức sống

mãnh liệt và trường cửu trong đời sống tinh thần của đồng bào vùng núi rừng

Bắc bộ.

Sự khác nhau giữa các thể thơ thể hiện truyện Nôm đã nói lên đặc trưng

văn hóa của các dân tộc. Nếu như thể thơ lục bát, vốn quen thuộc trong ca dao,

được người Kinh sử dụng để kể truyện thơ Nôm thì thể thơ thất ngôn trường

thiên được người Tày vận dụng vừa để kể vừa để hát truyện thơ.

3.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật

3.2.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật

Đại đa số nhân vật trong truyện thơ Nôm đều là nhân vật lý tưởng nên tác

76

giả thường ít khi chú ý đến miêu tả ngoại hình nhân vật, đa phần các nhân vật chỉ

được giới thiệu. Chẳng hạn, khi giới thiệu về gia đình Ngọc Hoa, tác giả truyện

thơ Nôm Kinh viết: Có nhà Trần thị xứ Đông, Thanh Hà/ Tướng công quan lại

phú gia/ Xuân thu đỉnh thịnh tên là Thúc Thông (Phạm Tải - Ngọc Hoa, câu 10 -

12). Tuy nhiên trong truyện thơ Nôm Tày, tác giả rất quan tâm đến việc miêu tả

ngoại hình nhân vật. Điều này làm cho nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày xuất

hiện với một diện mạo tương đối rõ ràng, cụ thể. Nhân vật không chỉ là những con

người chung chung, lý tưởng, phiếm chỉ, tượng trưng mà chân dung của họ được

khắc họa sinh động, rõ nét. Trong truyện thơ Nôm Tày, các nhân vật đều được

khoác lên một diện mạo mới. Diện mạo đó mang đặc trưng thẩm mĩ của người

Tày, phù hợp với quan điểm thẩm mĩ của người Tày.

Đối chiếu với nghệ thuật miêu tả nhân vật chính trong các truyện thơ Nôm

Kinh : Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa, Thạch Seng, có thể thấy

được một số điểm khác biệt trong bản nôm Tày. Trong Phạm Tải - Ngọc Hoa,

vẻ đẹp dung mạo của Ngọc Hoa được miêu tả ngắn gọn trong vài câu thơ: Sinh

ra một gái tốt thay/ Má đào mặt ngọc tóc mây rườm rà (câu 17 - 18), hay : Loa

truyền đòi Ngọc Hoa lên/ Trang Vương thấy mặt ngỡ tiên non Bồng (câu 383 -

384). Có thể thấy tác giả truyện thơ Nôm Kinh đã vận dụng phép ước lệ, giản

ước về câu chữ và khái quát cao độ nội dung so sánh bằng những câu chữ như :

má đào, mặt ngọc, tóc mây, tiên non Bồng. Công thức miêu tả ước lệ tượng trưng

này tiếp tục có mặt trong truyện Thạch Sanh khi tác giả người Kinh miêu tả

ngoại hình Quỳnh Nga công chúa: Quỳnh Nga công chúa sắc phong/ Hoa

nhường nguyệt thẹn, mặn nồng thiên hương/ Viện vương sinh có một nàng/ Nâng

niu quý hóa ngọc vàng kém xa. Có thể thấy tác giả người truyện thơ Nôm Kinh

không quá quan tâm đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Điều này có thể lý

giải là do nhân vật của họ thuần túy chỉ là nhân vật chức năng và gần như là

những nguyên mẫu của cổ tích được chuyển vào truyện thơ. Trái lại, sang đến

truyện thơ Nôm Tày, các nhân vật đều được xây dựng với hình thức bên ngoài

77

sinh động, rõ nét. Chân dung nhân vật có mặt trong tác phẩm trở nên gần gũi với

người đọc bởi họ có diện mạo riêng. Không chỉ được giới thiệu một lần mà có

những nhân vật, cứ mỗi lần xuất hiện thì yếu tố ngoại hình lại được quan tâm

khắc họa. Điều đó làm cho các nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày dễ được tiếp

nhận. Những câu thơ tác giả người Tày dùng để khắc họa nhân vật giống như

những nét vẽ rất tinh tế trên một bức tranh giàu màu sắc. Qua đó, dường như các

tác giả truyện thơ Nôm Tày muốn người đọc cảm nhận và chiêm ngưỡng mỗi tác

phẩm truyện Nôm giống như một bức họa bằng thơ.

Trong Phạm Tử - Ngọc Hoa tác giả người Tày đã miêu tả dung nhan nhân

vật nữ chính bằng câu từ rất tự nhiên, chân thực nhưng cũng đầy hoa mĩ:

Mãn nguyệt sinh thiếu nữ như hoa

Dung nhan tựa sao trời toả sáng

Vợ chồng vui cùng ngắm bông hoa

Trông đẹp tựa ngọc ngà đáng yêu

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 20 - 24)

Sinh ra trong một gia đình quyền quý lại có dung nhan bội phần xinh đẹp

nên vào độ tuổi cập kê, Ngọc Hoa đã được rất nhiều người để ý và mong muốn

cưới về làm vợ. Ở một góc độ nào đó, Cúc Hoa giống như một bông hoa rực rỡ

nhất của núi rừng Việt Bắc, một cô gái mà bất kì chàng trai nào cũng muốn hỏi

cưới làm vợ. Thế nhưng, vốn dĩ cuộc sống có nhiều ghen thua, lẽ đời nhiều khi

đố kị, vẻ đẹp của Ngọc Hoa cũng chính là một phần gây nên tai họa, sóng gió

đời nàng. Biện Điền vì say mê dung nhan ấy mà đòi cưới Ngọc Hoa, hắn si mê

đến nỗi định làm điều bất nhân “sát phu soán phụ”. Và khi kế hoạch không thành

hắn rắp tâm tiến cử nàng cho Trang Vương. Mặc dù chỉ nhìn thấy hình vẽ Ngọc

Hoa nhưng Trang Vương cũng không giữ nổi sự bình tĩnh cũng như sự trang

nghiêm của người đứng đầu một nước mà mê đắm nàng:

Càng ngắm càng thấy duyên yểu điệu

Cả ba trăm niên thiếu phi tần

78

Ngồi hai bên không ai sánh kịp

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 372 - 374)

Giống như Ngọc Hoa, vẻ đẹp của nàng Cúc Hoa trong Tổng Tân - Cúc

Hoa cũng được tác giả người Tày miêu tả rất cụ thể và chi tiết, vẻ đẹp ấy được

trang hoàng thêm với những phục trang tươi tắn:

Chân giầy xỏ hoa tươi vội vội

Hoa tai đeo sáng chói đủ đôi

Yếm trắng thắt lưng sồi cẩn thận

Mặc trên mình áo gấm dải dài

Hai tà tựa hoa khai đang nhụy

Môi hồng thêm vòng quý kiềng vàng

Lông mày ngắm cao sang bút vẽ

Điểm trang đầy mùi quế hương lan

Y tiên lạc Vu san nào khác

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 40 - 48)

Rõ ràng có thể thấy chân dung Cúc Hoa đang được tác giả miêu tả với cảm

quan thẩm mĩ miền núi. Những câu từ tươi tắn, mang hơi hướng núi rừng như:

lưng sồi, vòng quý kiềng vàng, mùi quế hương lan làm toát lên vẻ đẹp lộng lẫy

thơm ngát mùi hương và lung linh sắc màu miền sơn cước. Từ vẻ đẹp hình thể

trong truyện thơ Nôm Kinh, cô gái trong truyện thơ Nôm Tày đã khoác lên một

diện mạo “bản địa” để trở thành một nhân vật đại diện cho vẻ đẹp người Tày. Có

thể nói đây là một trong những sự thành công nổi bật của các tác giả người Tày

khi chuyển ngữ những truyện thư Nôm Kinh sang bản Tày. Điều này vừa tạo nên

nét riêng biệt cho truyện thơ Nôm Tày đồng thời mang lại cho tác phẩm tính dân

tộc sâu sắc.

Bên cạnh hai “bông hoa” rực rỡ của núi non Việt Bắc, Quỳnh Nga trong

Thạch Seng cũng được tác giả truyện thơ Nôm Tày miêu tả một cách vô cùng

sinh động bằng những mĩ từ mang đậm âm hưởng miền núi:

Tên thì gọi là ả Quỳnh Nga

79

Tuổi thanh xuân như hoa đang độ

Đạo nhân luân tùy ý hợp duyên

Hình dung tựa nàng tiên thượng giới.

Như mẫu đơn hoa nở thanh tao

Lông mày đẹp như hoa tươi nở

Vua có một nàng đó kình châm

Xem quý hơn kim ngân bảo bối

(Thạch Seng, câu 655 - 662)

Trong cảm quan thẩm mĩ của người Tày, hoa là một đại diện tiêu biểu cho

cái đẹp, là biểu tượng của sự linh thiêng của đại ngàn. Người Tày yêu hoa, quý

hoa và tôn sùng hoa. Một đoạn thơ 8 câu mà tác giả nhắc đến từ “hoa” 3 lần, đủ

để thấy vẻ đẹp của Quỳnh Nga được nhấn mạnh như thế nào. Vẻ đẹp ấy thật

xứng là “tiên thượng giới”, và thực đáng quý hơn cả “kim ngân bảo bối”. Vẻ đẹp

của Quỳnh Nga tiếp tục được đặc tả, và lần này nàng được ví với loài hoa chủ

trong tín ngưỡng người Tày: Quỳnh Nga da nõn trắng như tiên/ Trắng muốt như

vặc viền vách núi (Thạch Seng, câu 1884 - 1885). Quỳnh Nga trắng như tiên,

nhưng như tiên thôi chưa đủ, vẻ trắng muốt đó còn như sự thuần khiết và thiêng

liêng của bông hoa chủ vặc viền.

Nhìn chung, vẻ đẹp ngoại hình của Ngọc Hoa, Cúc Hoa hay Quỳnh Nga

đều tiêu biểu cho vẻ đẹp người phụ nữ dân tộc Tày. Tác giả truyện thơ Nôm Tày

đã thực hiện một bước chuyển hóa, chuyển những cô gái trong tác phẩm của

người Kinh sang thành những cô gái mang đặc trưng thẩm mĩ của văn hóa Tày.

Những chân dung nhân vật ước lệ trong tác phẩm người Kinh đã được tái một

cách cụ thể trong và sinh động hơn ở các truyện thơ Nôm Tày bằng thủ pháp so

sánh, ví von mang đậm phong cách miền núi. Người phụ nữ được khắc họa theo

quan điểm của những nghệ sĩ Tày là con người đẹp hoàn mĩ từ diện mạo, trang

phục, trang sức cho đến tổng thể. Những cô gái ấy là những bông hoa đẹp nhất

80

của núi rừng, thuần khiết và linh thiêng như những bông hoa chúa của các loài

hoa. Vẻ đẹp người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày có nguồn gốc sâu xa từ tín

ngưỡng dân gian Tày. Đối với người Tày, hoa là biểu tượng của vẻ đẹp và tình

yêu. Quỳnh Nga, Cúc Hoa hay Ngọc Hoa đều là sản phẩm được thoát thai trực

tiếp từ tín ngưỡng về hoa được hiện thực hóa trong truyện thơ Nôm Tày. Người

nghệ sĩ Tày trên cơ sở tín ngưỡng truyền thống bản địa đã tạo cho những người

phụ nữ ấy vóc dáng, hình hài mang đậm phong cách miền núi. Bởi vậy, dù bị ảnh

hưởng sâu sắc của phương pháp sáng tác thời trung đại song tác giả người Tày

đã tạo được một loạt những chân dung nhân vật độc đáo, không bị hòa lẫn vào

số đông nhân vật mà ngoại hình hiện lên khá mờ nhạt như trong truyện thơ Nôm

Kinh. Điều này càng góp phần khẳng định sự khác biệt của tác phẩm vay mượn

trên một phương diện nghệ thuật cụ thể: miêu tả ngoại hình nhân vật.

Có thể nói tác giả truyện thơ Nôm Tày đã thành công trong miêu tả nhân vật

mang bản sắc dân tộc họ. Thành công thứ nhất là ở phương diện đặc tả ngoại hình

nhân vật. Những nhật vật trong truyện thơ Nôm Tày hiện lên là sản phẩm độc đáo

của họ, những ví dụ về nhân vật nữ ở trên chỉ là một phần minh chứng. Bản sắc của

người Tày cũng được thể hiện nhiều trong các nhân vật nam giới, mà đặc điểm nổi

bật là cảm hứng sử thi trong mỗi chàng trai mà chúng tôi đã phân tích ở trên. Song

song với việc miêu tả ngoại hình nhân vật, tác giả truyện thơ Nôm Tày còn thành

công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật.

3.2.2.2. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật

Nhân vật văn học luôn tồn tại với hai phần: ngoại hình và nội tâm. Nếu

như ngoại hình dễ dàng được người đọc nhận thấy thông qua câu từ miêu tả, thì

nội tâm, người đọc muốn cảm nhận được phải suy nghĩ sâu thêm về các câu từ.

Khi nhận xét về quá trình tiếp nhận, kế thừa và phát triển truyện thơ Nôm Kinh

của tác giả người Tày, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn đã cho rằng: “Thậm chí, do

ý thức tự giác tộc người trong quá trình sáng tạo các giá trị văn hóa dân gian các

nghệ nhân (và sau này là các nho sĩ bình dân) bản tộc, ở một mức độ nhất định,

81

họ còn tỏ ra vượt trội các tác giả sáng tác truyện Nôm bình dân của tộc người

Kinh trong việc miêu tả, khắc họa tính cách, tâm trạng nhân vật chính trong thế

giới nhân vật truyện thơ Tày. Không những thế, họ còn sáng tạo lại các nhân vật

chính trong truyện Nôm Kinh (Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa,

Hoàng Trừu, Lý Công, Phương Hoa,…) trở thành những nhân vật có thể tính

cách và điệu tâm hồn Tày rất tự nhiên” [43, 180]. Đây là một nhận định xác đáng

và quan trọng, đồng thời cũng là định hướng cho việc nghiên cứu diễn biến tâm

lý nhân vật trong tác phẩm truyện thơ Nôm Tày.

Đối chiếu giữa các phiên bản truyện thơ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Kinh

có cùng cốt truyện cũng có thể nhận thấy được những điểm khác biệt giữa các

phiên bản này. Trong truyện thơ Nôm Kinh nói chung, diễn biến cốt truyện là sự

kiện nối tiếp sự kiện. Tính cách nhân vật được bộc lộ chủ yếu thông qua hành

động và lời nói. Và trong nhóm truyện Nôm bình dân, nhân vật dường như không

được khắc họa từ chiều sâu tâm lí, đa phần được dịch chuyển nguyên vẹn từ

nguyên mẫu trong các câu chuyện cổ sang. Nếu là nhân vật nam giới thì sẽ được

đặc biệt mang những phẩm chất như: “tài trí tuyệt vời, có sức mạnh vô địch

nhưng giản dị như đất màu, chất phác như đồng nội” [43, 181]. Mặt khác, trong

truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, hầu như các

nhân vật chính đều được tác giá chú tâm vào khắc họa diễn biến tâm lí. Nhân vật

được miêu tả với ngoại hình kết hợp với nội tâm, từ đó hiện lên bằng một hình

ảnh tương đối toàn diện. Quá trình nhân vật dịch chuyển từ bản Kinh sang bản

Tày, là một quá trình thay đổi trên sự sáng tạo mang tính chủ quan và đặc trưng

tộc người của tác giả người Tày.

Dưới những câu thơ bảy chữ, diễn biến tâm lý nhân vật trong truyện thơ

Nôm Tày được miêu tả bằng nhiều cách khác nhau. Tâm trạng nhận vật có thể

được nhận ra qua lời của người kể chuyện, qua lời thoại của các nhân vật hay sự

độc thoại nội tâm của chính nhân vật đó. Theo khảo sát của TS Phạm Quốc Tuấn,

trong tác phẩm Tổng Tân - Cúc Hoa, có đến 14 phiến đoạn mà tâm trạng nhân

82

vật được tập trung miêu tả. Mỗi đoạn, tâm trạng nhân vật lại có trạng thái tình

cảm, cảm xúc khác nhau, đó là các đoạn: Khi Tổng Tân và mẹ rời đi, Cúc Hoa

thương nhớ khôn nguôi; Vợ chồng Tổng Tân, Cúc Hoa động viên nhau vượt qua

hoàn cảnh khó khăn; Tình cảnh của Tổng Tân và Cúc Hoa trước khi Tổng Tân

lên đường đi thi Tâm trạng buồn bã đan xen hi vọng của Cúc Hoa khi Tổng Tân

đi thi; Tổng Tân chia tay vợ, mẹ để lên đường đi sứ; Tâm trạng của Tổng Tân

trên đường đi sứ; Tổng Tân nhớ Cúc Hoa, nhớ mẹ già; Cúc Hoa nhớ Tổng Tân;

Tổng Tân nhớ mẹ, nhớ Cúc Hoa; Tổng Tân nhớ mẹ, nhớ Cúc Hoa; Lời từ biệt

của Tổng Tân trước khi lên đường về nước; Tâm sự của Tổng Tân về gia cảnh

của mình với quan quân nước Tần trên đường hồi hương; suy nghĩ của Tổng Tân

khi đã nắm được hoàn cảnh thực tại; Tâm trạng của nàng Cúc Hoa thể hiện rõ

nét sự chung thủy của Cúc Hoa.

Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi không thể phân tích hết nghệ

thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật trong từng phiến đoạn mà tác giả Phạm

Quốc Tuấn đã thống kê, chúng tôi chỉ tập trung đi sâu vào một số tình tiết cụ thể,

có ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến tâm lý nhân vật trong truyện thơ Nôm Tày

có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh.

Nhận lệnh vua ban, Tổng Tân vừa đỗ Trạng nguyên đã phải lên đường đi

sứ. Thời gian đi sứ là trọn vẹn một thập niên, mười năm nơi đất khách ấy, tâm

hồn Tổng Tân luôn thường trực nỗi nhớ về mẹ già và người vợ hiền yêu dấu. .

Mỗi lần nhớ về gia đình, tâm trạng của chàng lại được hiện hữu qua những câu

thơ chất nặng sầu thương. Những bước đi đầu tiên của Tổng Tân nặng như đeo

chì, lại cộng với âm thanh của núi rừng nghe càng não nề, u uất hơn:

Ong ve ran tiếng ngọt rừng sâu

Trạng nguyên dạ âu sầu ấm ức

Bỗng nhớ thương nàng ngọc Cúc Hoa

Hai hàng lệ cứ sa chẳng ráo

Nhớ mẹ già lão mẫu thân sinh

83

Quan Trạng nguyên nhấc chân không được

Gượng đi là một khóc nhớ nàng

Mải ôn cố Trạng nguyên thê thảm

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 857 - 864)

Âm thanh thường gặp trong truyện thơ Nôm Tày là tiếng chim khảm

khắc. Loài chim này theo quan niệm của người Tày là loài chim có tiếng kêu

báo hiệu thời gian, báo thời điểm sang canh. Chim khảm khắc là dấu hiệu của

thời gian nên nó rất phù hợp để họa theo tâm trạng con người, thậm chí còn

có lúc loài chim này trở thành người bạn tâm sự của con người. Tổng Tân đã

từng tâm sự với loài chim này như sau: Khảm khắc hỡi rừng cả ngàn sâu/ Mẹ

già ta buồn rầu đầy dạ/ Nếu như còn mạnh khỏe bình an/ Nàng Cúc Hoa chính

chuyên chờ đợi/ Hót lời ngay chim hỡi ta nghe (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 877

- 881). Sang nước bạn một thời gian, mặc dù được vua lân bang yêu quý, quần

thần tôn trọng, sống trong giàu sang phú quý nhưng Tổng Tân vẫn không

nguôi nỗi nhớ nhà, trước là nhớ lão mẫu thân sinh, hai là nhớ vợ hiền thục nữ:

Nhật vãng thêm nguyệt lai hưởng lạc

Thoảng nhớ về cung các Cúc Hoa.

Nhớ mẹ già lệ sa chẳng ráo,

Nhớ đến mẹ lão mẫu thân sinh.

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 1032 - 1035 )

Trong tâm trạng nhớ nhung ấy, có lẽ Tổng Tân không mong muốn gì hơn

ngoài việc mong cho thời gian trôi nhanh, kì hạn mau đáo để lại được trở về đoàn

tụ với mẹ hiền vợ thảo. Một câu thường được Tổng Tân đặt ra để tự vấn chính

mình hoặc tự vấn trời xanh liệu rằng mẹ chàng có còn khỏe mạnh, liệu vợ chàng

vẫn giữ tiết trinh: Quan Trạng nguyên đọc kinh thêm nhớ/ Cúc Hoa còn giữ tiết

chính minh?/ Lão mẫu sống an ninh hay chẳng?/ Ngày đêm những lo lắng buồn

thân/ Mình ta nhậm mường Nồng đất Hác/ Bỏ mẹ già đói khát cùng dâu/ Thời

gian những mười năm đi chậm. (Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 1036 - 1042).

84

Thông qua những đoạn thơ miêu tả tâm trạng Tổng Tân, tác giả truyện thơ

Nôm Tày đã giúp người đọc nhận ra một điều, Tổng Tân không chỉ tài trí, mưu

lược, thông minh, chính trực mà còn là người giàu tình cảm, hết mực thương mẹ,

yêu vợ. Mười năm xa nhà mặc dù sống trong giàu sang nhung lụa nhưng Tổng

Tân luôn hướng về quê hương. Mỗi lúc rời công sự, trong lòng chàng lại ngổn

ngang những suy nghĩ, và bao trùm hơn cả là nỗi nhớ. Xét trong sự logic thì nỗi

nhớ ấy là tất yếu tồn tại trong một người con xa quê hương, nhớ về cội nguồn

yêu thương, nhớ về những người thân thuộc. Dòng suy nghĩ đó làm cho nhân vật

hiện ra gần gũi và tự nhiên hơn. Việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật đã mang

lại cho nghệ thuật kể chuyện trong bản Tày những đặc sắc riêng. Độc thoại nội

tâm của Tổng Tân được miêu tả bằng lời nửa trực tiếp (lời người kể chuyện cũng

là lời nhân vật). Đây là sáng tạo độc đáo đáng ghi nhận trong truyện thơ Nôm

Tày. Sự lặp đi lặp lại các trạng thái cảm xúc trong nhiều không gian và thời gian

khác nhau càng làm cho tính cách, phẩm chất nhân vật được bộc lộ. Biện pháp

trùng điệp góp phần làm tâm trạng nhân vật được thể hiện sâu sắc hơn. Điều này

làm cho nhân vật không còn giản dị như đất màu, chất phác như đồng nội mà

trở nên đa diện, nhiều chiều với chiều sâu tâm lý.

Bên cạnh việc miêu tả diễn biến tâm lý của Tổng Tân, tác giả truyện thơ

Nôm Tày cũng nhiều lần miêu tả diễn biến tâm trạng Cúc Hoa. Có thể kể đến

trích đoạn đặc tả nỗi buồn thương khi Cúc Hoa tiễn chồng đi sứ, hoặc sau một

thời gian xa vắng bóng chồng như:

Chàng đi sứ Tần đông xa cách

Thân nàng tự lo xót buồn phiền

Bữa ăn bữa chẳng cơm vào miệng

Ngày ngày nuôi lão mẫu tự lo

Sáng sớm như chiều tà chiếc bóng

Thương chồng nàng nuôi mẹ thay chàng

Giữ tiết chờ Trạng ông hiền hậu.

85

(Tổng Tân - Cúc Hoa, câu 1083 - 1088)

Lời tâm sự của Cúc Hoa dường như đã muốn nhắn gửi đến Tổng Tân yên

tâm nơi đất khách về phẩm hạnh của nàng cũng như sức khỏe của mẹ chàng.

Nhưng dường như nói với Tổng Tân cũng là nàng đang tự nói với chính mình.

Trong tâm trạng nhớ nhung sầu muộn như vậy, nàng phát sinh những trạng thái

và hành động rất đỗi tự nhiên như: mong ngóng, cầu nguyện, đếm thời gian trôi

để mong ngày đoàn tụ.

Với độ dài chỉ bằng gần một phần ba truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc

Hoa, nhưng truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa cũng có nhiều phân đoạn

đặc tả được diễn biến tâm trạng của nhân vật nữ chính Ngọc Hoa. Trong tác phẩm,

Ngọc Hoa không những được miêu tả là cô gái có nhan sắc tuyệt trần mà còn được

tác giả người Tày miêu tả với chiều sâu nội tâm, đặc biệt là sự thủy chung, son sắt

với chồng là Phạm Tử. Câu chuyện là một chuỗi những bi kịch của đôi trẻ nhưng

vẫn có một kết thúc có hậu làm hài lòng độc giả.

Trong mối lương duyên trời định giữa Ngọc Hoa và Phạm Tử, Ngọc

Hoa là người chủ động với tâm trạng nhớ thương, cảm mến ngay từ sau lần

gặp đầu tiên:

Từ ngày gặp hiền nhân nho sĩ

Tự nhiên buồn chán cả chân tay

Kim chỉ lười thêu thùa may vá

Đêm ngày một trông ngóng yêu đương

Phấn sáp chẳng điểm trang bỏ cả

Đêm nằm mơ sĩ nho hiện diện

Ngày đêm nàng đứt ruột tương tư

Mong được đón nho sĩ lại nhà

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 110 - 117).

Đoạn thơ trên miêu tả một cách chân thực diễn biến tình cảm của một cô

gái mới buổi đầu rung động yêu đương. Lời lẽ bình dị nhưng phản ánh chân thực

86

và rõ ràng nỗi tương tư mong nhớ. Nỗi nhớ đi vào cả trong giấc mơ của cô gái

trẻ. Có lẽ những rung động đầu tiên này sẽ báo hiệu một tình yêu lớn, nhưng có

lẽ cũng dự báo cho một cuộc tình đầy gian truân. Và thực tế, nàng đã sớm phải

lìa xa người chồng vô cùng yêu quý. Khi Phạm Tử qua đời, Ngọc Hoa vô cùng

thương tiếc:

Nàng vào nhà khóc chàng than thở,

Hồn phách chàng về chốn âm cung,

Chàng Phạm Tử mệnh chung hóa xác,

Ngọc Hoa than trong các hết hơi

...

Ngọc Hoa vẫn than vọng kêu trời,

Thân nhân chẳng một người lúc chết.

Nàng vực chàng tắm táp tấm thân

Thay áo mặc cho chàng khuất núi,

Đặt chàng trên chăn gối nghỉ ngơi.

(Phạm Tử - Ngọc Hoa, câu 485 - 494)

Có lẽ đây là trích đoạn đau thương và thấm đẫm nước mắt nhất trong truyện

thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa. Ngọc Hoa chứng kiến tận mắt cái chết của

chồng nhưng với tình yêu thương chồng vô hạn, nàng không dám tin chồng nàng

đã qua đời. Nàng coi như chàng vẫn đang tồn tại, vẫn đang bên nàng nên nàng vẫn

chăm sóc chàng như lúc chàng còn sống. Có lẽ nỗi đau đớn nhất của một con

người là tận mắt chứng kiến người thân ra đi nhưng không chấp nhận sự lìa xa ấy.

Cuối cùng nàng đã chấp nhận quyên sinh để giữ mãi tấm lòng trinh bạch với chồng.

Tác giả người Tày đã thành công trong việc đặc tả nội tâm nhân vật Ngọc Hoa, và

trích đoạn trên đấy là một minh chứng rõ ràng nhất.

* Tiểu kết chương 3

Xét trên phương diện nội dung và nghệ thuật, truyện thơ Nôm Tày có cùng

cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh vẫn có những giá trị riêng, độc đáo. Nếu

87

trên phương diện nội dung, tác giả người Tày thổi vào tác phẩm một phần linh

hồn của núi rừng miền Bắc thì ở phần nghệ thuật họ lại trải ra những tinh túy của

thể thơ, ca từ giọng điệu mang đậm màu sắc bản địa.

Nội dung của truyện thơ Nôm Tày mang đậm màu sắc của thiên nhiên núi

rừng Bắc bộ, từ khung cảnh, sinh hoạt đến những sự vật, cỏ cây. Mỗi “ngã rẽ”

trong cuộc đời của nhân vật đều ít nhiều có dấu ấn của thiên nhiên rừng núi. Con

người vừa hòa đồng với thiên nhiên nhưng cũng đứng lên chống lại thiên nhiên

khi thiên nhiên đứng ở phía đối nghịch với cuộc sống bình yên của con người.

Nhân vật nam chính trong truyện thơ Nôm Tày đại diện cho chính nghĩa, cho

một bản anh hùng cả của cộng đồng người Tày, và họ là những chàng trai xứng

đáng nhất để sánh duyên với những cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết, đại diện

cho những bông hoa đẹp nhất của núi rừng Bắc bộ.

Trong quan niệm của người Tày, con người và thiên nhiên miền núi giống

như một phần không thể thiếu. Nó tạo nên được sự độc đáo của những truyện thơ

Nôm Tày có cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh. Con người miền núi

mang trong mình hào khí núi rừng, phẩm chất núi rừng, và thể hiện khát vọng

cộng đồng, như những bông hoa rực rỡ của núi rừng. Nhân sinh quan của đồng

bào miền núi tạo nên một thế giới mang màu sắc hùng thiêng của những cây

rừng, tán lá….Tất cả được thể hiện qua kết cấu đặc trưng “tự sự” kết hợp “trữ

tình”.

Nếu như người Kinh chuộng thơ lục bát thì người Tày lại chuộng thể thơ

bảy chữ, chuộng những điệu hát sli, lượn…và chuộng âm nhạc. Nếu nói thể thơ

là lời kể thì âm nhạc, câu ca lại là “tiếng tâm tư”. Sự kết hợp độc đáo giữa yếu tố

kể và yếu tố giãi bày, hay nói cách khác, sự kết hợp của yếu tố tự sự và yếu tố

trữ tình tạo nên màu sắc riêng cho những truyện thơ Nôm Tày. Từ đó có thể thấy

rằng, đối với người Tày, truyện thơ Nôm không đơn giản là những lời tự sự,

những câu chuyện kể mà còn là tiếng hát trải bày nội tâm.

Xét trong sự giao lưu và tiếp biến văn học, nội dung và nghệ thuật của

truyện thơ Nôm Tày là những biểu hiện rõ nét nhất cho sự giao lưu và tiếp biến.

88

Nếu như nội dung là sự giao lưu, thì nghệ thuật đại biểu cho sự tiếp biến. Nhưng

cũng có khi sự giao lưu và tiếp biến đó tồn tại song song khó tách rời trong giá

trị nội dung cũng như nghệ thuật của những truyện thơ Nôm Tày có cùng cốt

truyện với truyện thơ Nôm Kinh.

89

KẾT LUẬN

Trên dải đất hình chữ S của dân tộc Việt Nam, biết bao thế hệ những người

Kinh, người Tày, người Thái, người Ê đê… đã cùng nhau sinh sống, cùng nhau

bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ, cùng nhau chống giặc ngoại xâm và cùng nhau phát

triển. Bất luận dân tộc thiểu số hay dân tộc đa số, hễ cùng tồn tại trên lãnh thổ

này đều mang hai tiếng Việt Nam trong huyết mạch. Họ đem những giá trị văn

hóa bản sắc riêng để hòa vào cái chung trở thành giá trị văn hóa bền vững ngàn

đời.

Truyện thơ Nôm là di sản văn hóa phi vật thể vô cùng quý giá của dân tộc

Việt Nam nói chung và của mỗi dân tộc sở hữu truyện thơ Nôm nói riêng. Trong

bối cảnh giao lưu văn hóa Kinh - Tày, truyện thơ cũng tồn tại như một bộ phận

không thể thiếu, trong đó đáng chú ý nhất là những truyện thơ Nôm Tày và truyện

thơ Nôm Kinh có cùng cốt truyện. Sự lưu văn hóa Kinh - Tày xuất phát từ diễn

trình của lịch sử. Khi người Kinh có những cuộc “di dân” để hòa hợp với người

Tày ở vùng núi cao Bắc bộ đã mang theo văn hóa miền xuôi hòa hợp với văn hóa

miền núi, sự hòa hợp đó dẫn đến những tích truyện dân gian được diễn lại và

sáng tạo bằng tiếng nói của hai dân tộc. Những tích truyện đó có thể là của người

Tày vay mượn của người Kinh như: Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc

Hoa, Lưu Bình - Dương Lễ, hoặc ngược lại. Nhưng cho dù dân tộc nào vay

mượn cốt truyện của dân tộc nào đi chăng nữa thì đó cũng là biểu hiện rõ nét của

giao lưu văn hóa Kinh - Tày, và tuyệt nhiên không phải là sự “phiên dịch” đơn

thuần từ ngôn ngữ của dân tộc này sang ngôn ngữ của dân tộc khác, mà đáng quý

hơn cả đó là sự sáng tạo mang đặc trưng riêng của mỗi dân tộc. Trên cơ sở đó,

truyện thơ Nôm Tày vẫn giữ được vẻ đẹp của truyện thơ Nôm Tày và không lẫn

vào giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm Kinh.

Truyện thơ Nôm Tày dù vay mượn tích truyện của người Kinh nhưng vẫn

90

thể hiện được sự sáng tạo trong cả nội dung và nghệ thuật. Ở nội dung, hình ảnh

con người và thiên nhiên miền núi được tác giả người Tày nhấn mạnh với những

chàng trai đậm chất sử thi và những cô gái mang giá trị thẩm mĩ tượng trưng cho

núi rừng Bắc bộ. Thiên nhiên miền núi làm cho truyện thơ Nôm Tày mang đậm

dấu ấn của đồng bào Tày, những người làm bạn với núi rừng ngay từ khi chào

đời cho đến khi tạ thế. Nào là chàng Thạch Seng dũng cảm phi thường, nào là

chàng Tổng Tân thông minh mưu trí…họ sinh ra là con của núi rừng mang phẩm

chất núi rừng. Đọc truyện thơ Nôm Tày, người đọc có thể cảm nhận được một

bức tranh đa màu sắc của núi rừng Bắc bộ, mỗi tác phẩm dường như là sự hòa

hợp của những bức tranh từ đơn sắc đến đa sắc đến từ những phân đoạn truyện

thơ. Đó có thể là bức tranh của lung linh sắc màu của chàng Tổng Tân lên kinh

ứng thí, hay là bức tranh núi rừng đầy rẫy hiểm nguy của con đường Cúc Hoa đi

tìm chồng; đó có thể là bức tranh hùng vĩ bao la của chốn gốc đa Thạch Seng

sinh sống, hay cảnh tối tăm ghê sợ của hang đại bàng….Và có lẽ quan trọng hơn

cả, truyện thơ Nôm Tày chính là một bức tranh phản chiếu một cách chân thực

nhất đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày nơi vùng cao Bắc bộ.

Thể thơ người Tày sử dụng để kể cho các đời nghe tích truyện thơ Nôm

là thể thơ bảy chữ, kết hợp với kết cấu tự sự trữ tình đặc trưng mang đến cho

người đọc những ấn tượng khó phai mờ mỗi khi được nghe hoặc được đọc truyện

thơ Nôm Tày. Những mang âm điệu của bao điệu lượn Tày, mang bóng dáng của

chàng trai cô gái Tày, và như những bông hoa vặc viền nở rộ giữa một vườn hoa

văn hóa Tày. Trong khi đó, thể thơ của người Kinh dùng để sáng tác truyện Nôm

lại là thể lục bát, thể thơ thường gặp trong ca dao. Lục bát hay thất ngôn trường

thiên đều là đặc trưng thể thơ của mỗi dân tộc. Người Tày hát thơ Nôm thì người

Kinh ngâm lục bát. Sự giao lưu và tiếp biến văn học trên phương diện thể thơ

chịu sự chi phối rất lớn từ đặc trưng văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc.

Nhìn một cách tổng thể, giá trị của truyện thơ Nôm Tày có thể xếp ngang

hàng với truyện thơ Nôm Kinh, đều đại diện cho văn hóa cũng như văn học của

mỗi dân tộc và đại diện cho văn hóa phi vật thể Việt Nam. Việc bảo lưu, gìn giữ

91

truyện thơ Nôm Tày cũng như truyện thơ Nôm Kinh là việc cần thiết và lâu dài.

Thiết nghĩ, công việc này không phải của cá nhân hay tập thể nào, mà là công

việc chung của cộng đồng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Triều Ân (1994), Truyện thơ Nôm Tày (tập 1), Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà

Nội.

2. Triều Ân, Hoàng Quyết (sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu) (1996), Từ điển

thành ngữ - tục ngữ dân tộc Tày, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

3. Triều Ân (2003), Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, Nxb Văn học - Trung

tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

4. Triều Ân (2003), Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ, Nxb Văn học -

Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

5. Hoa Bằng (1957), Khảo luận về truyện Thạch Sanh, Nxb Văn - Sử - Địa,

Hà Nội.

6. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và

Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nông Quốc Chấn (giới thiệu) (1964), Truyện thơ Tày Nùng, Nxb Văn học,

Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

9. Trần Trí Dõi (2000), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (2011), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Bích Hà (1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện

cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể

loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

14. Vi Hồng (1979), Sli - lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

93

15. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

16. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1972), Văn học dân gian (tập 1), Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội

17. Đinh Thị Khang (1992), Ngôn ngữ đối thoại trong truyện thơ Nôm, Tạp

chí Văn hóa Dân gian (số 4).

18. Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam (2000), 2 tập, Nxb Văn

học, Hà Nội.

19. Đặng Thanh Lê (1977), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

20. Đặng Thanh Lê (1979), Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong

mối quan hệ khu vực, Tạp chí văn học (số 1).

21. Nguyễn Đăng Na (1999), Đoạn trường tân thanh, một mã khoá vào thế

giới nghệ thuật của Nguyễn Du, Tạp chí Văn học (số 5).

22. Lê Hoài Nam (1960), Phạm Tải - Ngọc Hoa - một truyện Nôm khuyết

danh có giá trị, Tạp chí Văn học (số 8).

23. Bùi Văn Nguyên (1960), Truyện Nôm khuyết danh - một hiện tượng đặc

biệt của văn học Việt Nam, Tạp chí Văn học (số 7).

24. Nguyễn Thị Nhàn (2002), Mô hình kết cấu truyện Nôm - Qua một số tác

phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian, Tạp chí Văn học (số 3).

25. Nguyễn Thị Nhàn, (2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và truyện

Kiều, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

26. Phan Đăng Nhật (1972), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn

hóa Dân tộc, Hà Nội.

27. Phan Đăng Nhật (1972), Tìm hiểu Thạch Sanh ở Cao Bình - Hòa An -

Cao Bằng, Tạp chí văn học số 6.

28. N.I.Niculin (1973), Sự tiến triển của truyện thơ cổ điển Việt Nam và sự

vay mượn cốt truyện, Tạp chí Văn học (số 3).

94

29. Nhiều tác giả (1993), Ca dao tục ngữ dân tộc Tày, Hội Văn học Nghệ thuật

Bắc Thái, Thái Nguyên.

30. Nhiều tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Nhiều tác giả (2007), Nông Quốc Chấn - cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

32. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở văn hóa thông tin Thái

Nguyên, Thái Nguyên.

33. Nhiều tác giả (2010), Truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa, NXB

Đại học Thái Nguyên.

34. Nhiều tác giả (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

36. Lục Văn Pảo (1992), Truyện Nôm Tày, Tạp chí Văn hoá Dân gian (số 3).

37. Lục Văn Pảo (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

38. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Luận án Phó Tiến sỹ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

39. Nguyễn Hữu Sơn (1998), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, NXb Giáo dục, Hà Nội.

40. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

42. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và

thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

95

44. Phạm Quốc Tuấn (2014), Nghiên cứu so sánh một số truyên thơ Nôm Tày

cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

45. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008 - 2013), Tổng tập truyện thơ Nôm các

dân tộc thiểu số Việt Nam, (tập 1 đến tập 19), Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

47. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn

chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Lê Thu Yến (2001), Văn học Việt Nam trung đại những công trình

nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

96

PHỤ LỤC

Ảnh trang bìa truyện thơ Nôm Kinh Tống Trân - Cúc Hoa,

Phúc Văn Đường tàng bản. Bản lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam

97

Ảnh trang bìa truyện thơ Nôm Kinh Ngọc Hoa cổ tích truyện,

Phúc Văn Đường tàng bản. Bản lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam

98

Ảnh trang đầu truyện thơ Nôm Tày Thạch Seng.

Bản hiện lưu giữ tại gia đình ông Hoàng Triều Ân.

99

Ảnh trang bìa truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa.

Bản hiện lưu giữ tại gia đình ông Hoàng Triều Ân.

100

Ảnh trang đầu truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa.

Bản hiện lưu giữ tại gia đình ông Hoàng Triều Ân.

101

Ảnh trang bìa truyện thơ Nôm Tày Phạm Tử - Ngọc Hoa.

Bản hiện lưu giữ tại gia đình ông Hoàng Triều Ân.

102