ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ KIấN CƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2007

1

BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNKT: Công nhân kỹ thuật

GS: Giáo sư

KH-CN: Khoa học - công nghệ

PTCS: Phổ thông cơ sở

PGS: Phó giáo sư

THCN: Trung học chuyên nghiệp

THCS: Trung học cơ sở

3

THPT: Trung học phổ thông

MỤC LỤC

Mở đầu .............................................................................................................. 3

Chƣơng 1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát

triển kinh tế tri thức ............................................................................... 3

1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực................ 3

1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức ........................................ 3

1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực ............... 12

1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức ........................................................................................................ 15

1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam . 16

1.2.2. Nội dung ................................................................................................. 17

1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức của

một số nước ............................................................................................ 19

1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc .................................................................... 19

1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc................................................................. 23

1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam ........................................................ 27

Chƣơng 2. Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở

Việt Nam thời gian qua ........................................................................ 29

2.1. Tình hình phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt

Nam thời gian qua .................................................................................. 29

2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hóa tinh thần

của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay .................................................. 29

2.1.2. Thực trạng giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực

có trình độ ở Việt Nam thời gian qua ..................................................... 34

2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt Nam

4

thời gian qua........................................................................................... 47

2.2. Nhận xét chung.......................................................................................... 51

2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân ........................................................... 51

2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ................................................. 54

2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam ..................................................................................... 57

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để

phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 ............ 64

3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ................................... 64

3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những yêu

cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới

kinh tế tri thức ........................................................................................ 64

3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú trọng

nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có

hàm lượng tri thức cao............................................................................ 65

3.2. Các giải phát phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở

Việt Nam ................................................................................................ 69

3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân

lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam .......................................... 69

3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam ..................................................................................... 76

Kết luận ........................................................................................................... 96

5

Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đã làm cho thế

giới có những đổi thay to lớn, ngày càng ngành sản xuất sử dụng công nghệ tiên

tiến, có hàm lượng tri thức cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,

công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới… Tri thức đã trở thành yếu tố có

vai trò ngày càng quan trọng. Đây là một bước ngoặt lịch sử: nền văn minh loài

người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; nền kinh tế công

nghiệp sang kinh tế tri thức.

Trong kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế là

tri thức và tiềm năng, nguồn tạo ra tri thức. Nguồn nhân lực có trình độ, có hàm

lượng chất xám cao không ngừng học hỏi, sáng tạo chính là chủ thể của tiềm

năng tri thức. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa

các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai thác nguồn lực trí tuệ. Trong cuộc tranh

đua đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam mặc dù có ít ưu thế hơn

so với các nước phát triển nhưng cũng có nhiều cơ hội vươn lên, rút ngắn sự

chênh lệch về khoảng cách phát triển với các nước nếu biết nắm bắt, khai thác

các thành tựu của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại để phát huy nội lực,

tăng cường sức mạnh quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đại hội đại biểu toàn quốc

Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở

mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,

từng bước phát triển kinh tế tri thức” [9].

Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng

nguồn chủ yếu vào chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Nguồn nhân lực đó

phải có những phẩm chất như thế nào? Vai trò của nguồn nhân lực đó trong kinh

tế tri thức thể hiện ra sao? Để có thể tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức phải có

6

điều kiện, tiền đề then chốt nào? Chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển kinh tế

tri thức cần có những bước gì?... những câu hỏi đó đang thật sự là những vấn đề

lý luận và thực tiễn quan trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo nhất là

trong điều kiện nước ta đang thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá

và từng bước phát triển kinh tế tri thức.

Với mong muốn góp phần nhỏ và làm rõ những vấn đề trên, tôi đã lựa

chọn đề tài: “Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam” làm đề

tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề phát triển nguồn nhân lực con người để phát triển kinh tế tri thức

là một vấn đề đang rất được quan tâm. Có một số công trình khoa học, cuốn

sách, bài viết xoay quanh đề tài này như:

- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ tri thức Việt

Nam. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2004, do TS. Đoàn Văn Khái chủ nhiệm đề

tài.

- Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nước ta, GS. TS. Đặng Hữu. Đề tài KX 02.03, H.2003.

- Thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

- Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội của tác giả Phạm Thị

Ngọc Trâm, Tạp chí Triết học, số 1/1993.

- Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của chúng ta, Tạp chí Xã hội học

tháng 2/1999 của Phan Đình Diệu.

- Kinh tế tri thức: xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2000 do Ngô Quý Tùng chủ biên.

- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta.

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 của tác giả Nghiêm Đình Vỳ.

- Để tri thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức, Tạp chí Cộng sản, số 178/2002

7

của Nguyễn Hoàng Hải.

- Động lực cho kinh tế tri thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2003 của

Đặng Hữu.

Các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra những khái niệm cụ thể, phản

ánh tình hình, xu hướng phát triển, những thành công cũng như những tồn tại,

bất cập của nguồn nhân lực phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua.

Tuy vậy kinh tế tri thức và phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức

đối với Việt Nam là một lĩnh vực mới trẻ. Cùng với quá trình phát triển của nền

kinh tế, các quan điểm, chính sách, xu hướng phát triển cũng như những bất cập

và các vấn đề đặt ra trong sự phát triển của nguồn nhân lực, của kinh tế tri thức

có nhiều thay đổi trong tình hình mới mà các công trình, bài viết trên không thể

phản ánh hết được. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống, đưa

ra những định hướng, giải pháp phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện

nay là hết sức cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực trong kinh

tế tri thức và thực trạng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức hiện nay ở

Việt Nam, luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân

lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

* Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ

chủ yếu sau:

+ Thứ nhất, phân tích, hệ thống và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý

luận về nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức, nội dungvà những vấn đề đặt ra đối

8

với phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức.

+ Thứ hai, phân tích đánh giá đúng tình hình nguồn nhân lực hiện nay về

quy mô, chất lượng và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam.

+ Thứ ba, xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển nguồn

nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong vai trò để phát

triển kinh tế tri thức của Việt Nam trên phương diện Kinh tế chính trị.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những lý luận phổ biến hiện nay về

nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức gắn với những đặc điểm, tình hình hiện nay

của nguồn nhân lực Việt Nam, mối quan hệ giữa chúng và dựa trên những đòi

hỏi bức thiết của xu thế phát triển kinh tế tri thức.

- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp lịch sử, phương

pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp biện chứng và các phương pháp

khác như các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hệ

thống hoá để làm rõ thêm những vấn đề cần phải phân tích.

6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn

Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và kinh tế tri

thức, luận văn khắc hoạ vai trò của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức

như là một đặc trưng mới, một chức năng mới của nguồn nhân lực. Và từ đó,

luận văn đề ra một số định hướng, giải pháp mới trong tiến trình đào tạo, bồi

dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của

9

luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát

triển kinh tế tri thức.

Chương 2: Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt

Nam thời gian qua.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát

10

triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010.

Chƣơng 1

KINH TẾ TRI THỨC VÀ NHỮNG YấU CẦU

VỀ NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực

1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức

Theo quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, lực lượng sản xuất

không ngừng phát triển đi lên. Các nền kinh tế lạc hậu, thấp kém trước đó được

thay bởi những nền kinh tế đi sau đạt trình độ phát triển cao hơn. Khởi đầu, kinh

tế tự nhiên, săn bắt hái lượm đã được thay bằng nền kinh tế nông nghiệp. Và đến

lượt kinh tế nông nghiệp cũng trở nên lạc hậu nhường chỗ cho nền kinh tế đại

công nghiệp với quy mô, năng suất vượt trội. Và có một số quan điểm cho rằng

sau kinh tế công nghiệp là xã hội hậu công nghiệp

Ngay từ năm 1973, D.Bell nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra khái niệm “xã hội

hậu công nghiệp”. Năm 1980 A.Top-phơ-lơ bàn luận về kinh tế hậu công nghiệp.

Năm 1982 G. Nei-dơ-bet nhà kinh tế học ngươì Mỹ đưa ra khái niệm “kinh tế

thông tin”. Năm 1986 các nhà kinh tế học Anh đưa ra khái niệm “kinh tế kỹ

thuật cao”. Đến năm 1990, lần đầu tiên Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm “kinh tế

tri thức”. Trong tất cả các khái niệm trên tri thức đều được khẳng định có một

vai trò đặc biệt quan trong. Năm 1995, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

(OECD) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức”.

Thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất phát từ cụm từ tiếng Anh: “knowledge

economy”, bên cạnh đó còn một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng nhưng ít

phổ biến hơn. Trong đó, thuật ngữ nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge

based economy) có mức độ phản ánh rộng rãi hơn, gần với “kinh tế tri thức”

11

hơn.

Mặt khác, từ kinh tế tri thức nhưng theo những phương diện tiếp cận khác

nhau mà có nhiều khái niệm khác như: kinh tế tri thức là nền kinh tế mới nhất,

mới nên người ta cũng gọi là nền kinh tế mới (new economy); kinh tế tri thức

đặc biệt coi trọng việc học tập nên có người gọi là nền kinh tế học hỏi (learnring

economy); kinh tế tri thức coi trọng thông tin, cần nhiều thông tin, sử dụng kỹ

thuật số nên còn có những thuật ngữ nền kinh tế mạng (digital economy), xã hội

thông tin (information society)…

Kể từ đó kinh tế tri thức được quan tâm bàn luận rất nhiều trong giới

nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam. Kinh tế tri thức được ghi nhận,

nhắc đến, bàn luận trong nhiều hội thảo khoa học, bài viết, cuốn sách, và cả

trong văn kiện Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy, kinh tế tri thức là gì?

“Nền kinh tế tri thức” hay khái niệm “kinh tế tri thức” là đối tượng nghiên

cứu còn khá mới mẻ không những ở Việt Nam mà còn với cả thế giới. Nó có vai

trò đặc biệt nên được giới nghiên cứu chú ý bàn luận. Có nhiều quan niệm, cách

hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, còn có quan điểm cho rằng hiện nay chưa

xuất hiện cái gọi là kinh tế tri thức. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu, tiếp cận là

chưa cần thiết.

Có quan điểm cho rằng: kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó tin học

và công nghệ thông tin phát triển sâu rộng. Quan điểm khác thì lý giải rằng: đó là

nền kinh tế mà công nghệ sinh học giữ vai trò chủ đạo. Hay có một quan điểm

khác giải thích: kinh tế tri thức là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở một nền

văn hoá tiên tiến và ở đó người dân hưởng thụ với trình độ cao. Trên đây chỉ là

những cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, nó chưa chỉ ra được những

đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Những ý kiến phản biện như của tác

giả Lê Huy Thục cho rằng: trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay việc một

quốc gia sử dụng công nghệ sinh học, tin học hoá hay cả hai một cách sâu rộng

trong sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có thế thì chưa thể coi là đã có được kinh

12

tế tri thức. Còn có những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, được thiên nhiên

ưu đãi, chỉ cần bán nguyên liệu thô cũng trở nên giàu có, khắp nơi người dân đều

có điều kiện sử dụng những hàm lượng tri thức, chất xám trong các sản phẩm thô

rất thấp nên nền kinh tế như vậy không được coi là kinh tế tri thức (hoặc là tiếp

cận được với kinh tế tri thức).

Các quan điểm trên chưa chính xác bởi đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng

công nghệ cao với nền kinh tế tri thức; tri thức về khoa học công nghệ đã tách ra

khỏi tri thức rộng lớn của con người cũng như tách rời khoa học, công nghệ ra

khỏi môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội nói chung.

Có một định nghĩa khác khái quát hơn của tác giả Nguyễn Ngọc Thành:

“kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng

hoá tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản:Tiền-hàng-tiền được thay thế

bằng công thức Tiền - tri thức - tiền” [22]. Định nghĩa này có điều mới là chỉ ra

được vai trò quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới song ở đây nó mới chỉ

đề cập đến tri thức trong môi trường kinh doanh với tri thức là một dạng hàng

hoá cao cấp, dùng tiền mua đem về sử dụng để kiếm được lợi nhuận lớn hơn số

tiền ban đầu bỏ ra. Định nghĩa này chưa bao quát được vấn đề bởi tri thức không

chỉ tác động đến môi trường kinh tế mà trong nền kinh tế tri thức, tri thức còn

nằm trong sự tương tác với môi trường văn hoá, xã hội, giáo dục…

Năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một

định nghĩa đơn giản nhưng bao quát về kinh tế tri thức trong báo cáo có tên:

“Kinh tế dựa trên tri thức”. Theo đó, “kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp

dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc “kinh tế tri thức là

kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối vối sự phát triển loài người”.

Định nghĩa này có tính khái quát cao, khắc phục hạn chế của nhiều định

nghĩa kể trên; nó vừa cho thấy vị trí, vai trò của tri thức trong nền kinh tế tri thức

vừa chỉ ra được mối quan hệ giữa tri thức và quá trình phát triển kinh tế xã hội

13

của loài người. Đồng thời định nghĩa này đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của

nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh

tế tri thức.

Trước đây khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển nền kinh tế tự nhiên còn

thống trị thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài

nguyên thiên nhiên được ưu đãi và lực lượng lao động thủ công. Quốc gia nào

không sở hữu được nhân tố đó thì không thể có điều kiện để phát triển kinh tế.

Ngày nay, thời kỳ bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, có những

nước nghèo hoặc thậm chí rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao

động không đông song lại đạt được tốc độ phát triển kinh tế rất cao trong nhiều

thập kỷ, trở thành những quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn

Quốc, Hồng Kông, Singapore… Nhân tố quyết định cho sự thành công đó chính

là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi các quốc gia giàu tài nguyên thiên

nhiên khai thác ngày càng cạn kiệt nguồn lực tự nhiên của mình thì nguồn nhân

lực chất lượng cao lại càng có điều kiện phát triển mạnh. Với ưu thế rõ rệt của

mình trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực được

rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu.

Nguồn nhân lực là một khái niệm phức tạp, trong quá trình vận động và

phát triển nó chịu sự tác động của những qui luật sinh tử tự nhiên và những qui

luật xã hội. Bởi vậy, khái niệm nguồn nhân lực được tiếp nhận dưới nhiều góc

độ.

Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội, gần gũi với đối tượng nghiên cứu

của kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho nền

sản xuất xã hội, cung cấp nguồn nhân lực con người cho sự phát triển. Như vậy,

nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư của quốc gia. Hoặc nguồn nhân lực là

khả năng lao động của xã hội, bao gồm tất cả các cá nhân trong độ tuổi lao động

14

tham gia vào quá trình lao động được sử dụng trong quá trình lao động.

Thứ hai, theo cách tiếp cận của môn kinh tế học phát triển thì nguồn nhân

lực là nguồn lực tạo động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng phát

triển hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc cung ứng nguồn nhân lực theo yêu

cầu của nền kinh tế.

Thứ ba, theo thuyết về vốn con người thì nhân tố con người trong nguồn

nhân lực là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất, đứng trước các

nguồn lực vật chất khác. Bởi vậy, việc đầu tư cho nguồn nhân lực theo thuyết

này là rất quan trọng. Nhà kinh tế học người Mỹ đạt giải Nobel năm 1992, Gang

Baken cho rằng: không có một khoản đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu

tư vào nguồn nhân lực. Theo một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới (WB)

công bố thì khi đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồứi vốn chỉ đạt

13% tổng vốn đầu tư trong khi đầu tư cho giáo dục tiểu học, tỷ lệ thu hồi vốn đạt

24%, giáo dục trung học là 17%, giáo dục cao đẳng đại học là 14%. Tổng vốn đầu

tư cho kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có tốc độ phát triển thần kỳ thời

gian qua cho thấy: chìa khoá cho sự thành công vượt bậc đó không phải là nguồn

lực tự nhiên, nguồn lực tài chính hay các nguồn lực vật chất khác mà chính là

nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do vậy, việc đầu tư để phát triển nguồn nhân

lực có chất lượng đang ngày càng được thế giới quan tâm. Tất nhiên. Bên cạnh

nguồn nhân lực, cũng cần phải đầu tư vào các nguồn vốn vật chất tương ứng.

Thứ tư, theo quan niệm của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc

(UNDP) thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực bao gồm năng lực thể

chất và năng lực trí tuệ của con người được huy động vào quá trình sản xuất.

Nguồn năng lực đó của con người gộp thành nguồn nội lực quan trọng hàng đầu

của mọi quốc gia. Những quốc gia có dân số đông sẽ có điều kiện thuận lợi để

phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra động lực to lớn cho sự phát

15

triển kinh tế xã hội của quốc gia mình.

Thứ năm, ở Việt Nam theo quan điểm được sử dụng rộng rãi thì nguồn

nhân lực là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí

tuệ và sức khoẻ, năng lực phẩm chất, tác phong làm việc.

Như vậy, có nhiều quan điểm cách nhìn nhận khác nhau về nguồn nhân

lực trong đó những quan điểm gần gũi với Việt Nam đều nhấn mạnh tới năng lực

lao động, năng lực làm việc hay là năng lực thể chất, tinh thần và trí tuệ tồn tại

trong mỗi con người của lực lượng lao động xã hội. Chất lượng của nguồn nhân

lực vì thế sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng

lao động. Phát triển nguồn nhân lực, bên cạnh quan tâm phát triển số lượng

chính là việc phát triển khả năng của năng lực thể chất, năng lực tinh thần, năng

lực trí tuệ của toàn bộ lực lượng lao động xã hội.

1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực

1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế

Đây là một trong những yêu cầu quan trọng cần phải chú ý khi phát triển

nguồn nhân lực bởi vì ngay từ khi thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cơ

cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và

dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp.

Theo đó, tỉ lệ lao động làm việc trong những ngành này cũng phải có sự

thay đổi tương ứng. Tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm trong sự so sánh tương đối

với công nghiệp và dịch vụ thì số lượng lao động có thể giảm nhưng do sự tiến

bộ của khoa học công nghệ lượng giá trị của nông nghiệp tạo ra có thể còn lớn

hơn, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao hơn, sức cạnh tranh tốt hơn. Muốn

được như vậy, đương nhiên lao động ngành nông nghiệp phải có trình độ chuyên

môn kỹ thuật cao hơn, nhiều trí tuệ hơn. Tương tự, lao động nhóm ngành công

nghiệp, dịch vụ cũng phải tăng lên về số lượng và chất lượng mới có thể đáp ứng

16

được yêu cầu của thị trường lao động và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng đối với việc phát triển nguồn

nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức bởi nếu quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực

không tương thích về số lượng và chất lượng so với yêu cầu về nhân lực của nền

kinh tế sẽ dẫn tới những hậu quả lâu dài cho đất nước. Nguồn nhân lực có trình

độ được đào tạo không đủ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển thì sẽ không

khai thác, sử dụng được hết các nguồn lực vật chất của xã hội, tiềm năng phát

triển không được giải phóng gây ra sự lãng phí, hạn chế sự tăng trưởng và phát

triển kinh tế. Ngược lại, nếu như công tác dự báo nhu cầu nhân lực không chính

xác, đào tạo vượt quá nhu cầu về lao động sẽ gây lãng phí cho nguồn lực của xã

hội trong điều kiện nguồn nhân sách dành cho giáo dục đào tạo còn nhiều hạn

chế như hiện nay. Ngoài ra, nguồn nhân lực đã qua đào tạo mà không có việc

làm có thể dẫn tới một số tác động tiêu cực khác cho xã hội. Chính vì vậy, phát

triển nguồn nhân lực phải gắn liền với công tác dự báo chính xác , theo kịp với

yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

1.1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển của công

nghệ thông tin

Từ những năm cuối của thế kỷ XX, công nghệ thông tin phát triển mạnh

mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, làm thay đổi và xuất hiện

những ngành nghề mới, cách thức tư duy quản lý mới.

Các sản phẩm của công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin đã làm xoá mờ các

khoảng cách về địa lý, thời gian làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn

ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không người lao động, nhất là lao động

có trình độ chuyên môn cao đều phải chịu sự ảnh hưởng của công nghệ thông

tin; phải tiếp xúc và sử dụng các sản phẩm, kỹ thuật của công nghệ thông tin.

17

Điều đó đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải được đào tạo đến một trình độ chuyên

môn nhất định để có thể khai thác các thành tựu của công nghệ hiện đại một cách

có hiệu quả. Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng mà việc phát triển

mà nguồn nhân lực phải hướng đến.

1.1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá

và hội nhập kinh tế quốc tế

Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh

mẽ đã làm mờ đi các biên giới quốc gia. Lao động, các nguồn vốn, công nghệ và

kỹ năng quản lý tiên tiến hiện đại có thể dễ dàng tiếp cận với các quốc gia, các

chủ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh hơn bao giờ hết. Quá trình đó đòi hỏi

phải có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ tay nghề chuyên môn cao,

có kỹ năng tiếp nhận, xử lý và ứng dụng tri thức, công nghệ mới cũng như khả

năng hoà nhập vào môi trường làm việc quốc tế.

Sự mở rộng của thị trường lao động đã mở ra nhiều cơ hội lựa chọn cho

người lao động. Chủ sử dụng lao động của họ có thể là các doanh nghiệp Việt

Nam, doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc

tại bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới. Mỗi năm Việt Nam xuất

khẩu hàng chục ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc tại các quốc gia, hầu

hết có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam và họ nhận được mức lương cao hơn

so với cùng vị trí làm việc tại Việt Nam. Nguồn ngoại tệ gửi về nước hàng năm

lên tới hàng tỷ USD. Đội ngũ lao động này còn được tiếp cận với công nghệ, kỹ

thuật hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến để khi trở về nước họ trở thành những

lao động lành nghề đóng góp năng lực trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động

trong nước cũng như quốc tế đòi hỏi người lao động, nâng cao được sức cạnh

tranh của mình từ học vấn, trình độ chuyên môn, tác phong đến phẩm chất đạo

đức, lối sống công nghiệp mới có thể tìm được vị trí xứng đáng. Lao động Việt

18

Nam khi ra làm việc ở nước ngoài thường được đánh giá cao ở khả năng nhanh

nhẹn, dễ thích nghi, cần cù chịu khó nhưng còn thiếu tác phong công nghiệp,

tính kỷ luật và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ yếu. Đối với lao động trong nước thì

hiện nay được đánh giá là còn thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề; Bộ phận đã

qua đào tạo thì lại chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc thực tế. Còn với nhóm

nhân lực trí tuệ như các nhà quản lý cao cấp, kỹ sư công nghệ thông tin thì được

coi là thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Điều đó đã dẫn tới một thực tế có

nhiều chủ doanh nghiệp phải đưa nhân lực cao cấp từ nước ngoài vào Việt Nam

làm việc. Tình hình nêu trên đòi hỏi công tác phát triển nguồn nhân lực để tiếp

cận, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh toàn cầu

hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay.

1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển

kinh tế tri thức

1.2.1 Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt

Nam

Thứ nhất, nguồn nhân lực phải được đào tạo với trình độ chuyên môn nhất

định, có phẩm chất trí tuệ. Đây được coi là đặc điểm nổi bật nhất của nguồn nhân

lực phục vụ cho tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Bởi có trải

qua quá trình đào tạo, có phẩm chất trí tuệ thì mới có khả năng sáng tạo, áp dụng

những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để sáng chế ra các công nghệ, sản phẩm

mới. Nguồn nhân lực phải có khả năng thu thập, xử lý thông tin, có sự nhạy bén,

thực sự làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Ngoài ra nguồn nhân lực đó

phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghệ nghiệp, có kỹ năng

lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn như

câu ca dao “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề” đã khẳng định.

Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người lao động làm việc

ở vị trí nào cũng phải tinh thông nghiệp vụ: Người đầu bếp thì phải nấu ăn ngon,

19

thầy thuốc thì phải giỏi trị bệnh, người công nhân thì phải giỏi ngành nghề…

Điều đó càng thể hiện rõ trong điều kiện hiện nay khi chúng ta tiến hành sự

nghiệp CNH-HĐH với sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và sự chuyên

môn hoá ngày càng cao của người lao động.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày

càng sâu rộng, sự chuyển dịch lao động quốc tế cũng như công nghệ kỹ thuật

hiện đại dẫn tới sự cạnh tranh quốc tế giữa những người lao động để giành được

những vị trí làm việc tốt. Bởi vậy người lao động phải có khả năng làm việc thực

tế, phải có khả năng xử lý các vấn đề phát sinh trong điều kiện của nền kinh tế

thị trường và của cách mạng khoa học công nghệ; người lao động còn phải có

năng lực tham gia hoạch định chính sách đưa ra giải pháp và tổ chức thực hiện

quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường và phân công

lao động quốc tế. Những khả năng đó chỉ có thể có từ nguồn nhân lực có tri thức,

có trí tuệ và đã được đào tạo. Như vậy, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức phải là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tri thức khoa học và được đào tạo về

chuyên môn kỹ thuật.

Thứ hai, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức có tính quốc tế hoá cao.

Từ khi công nghệ thông tin phát triển bùng nổ, nhất là với sự phát triển

của Internet, đã làm cho không gian, thời gian không chỉ trong phạm vi quốc gia

mà trên phạm vi toàn cầu đã bị rút ngắn, thu hẹp khoảng cách. Các nhân tố tri

thức, công nghệ, vốn, lao động…không còn bị bó hẹp trong biên giới một quốc

gia làm cho hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu. Sự chuyển dịch lao động quốc

tế cũng như công nghệ kỹ thuật hiện đại ngày càng mạnh mẽ dẫn tới sự cạnh

tranh quốc tế giữa những người lao động. Điều đó bắt buộc người lao động phải

học tập, trang bị kiến thức kỹ năng về chuyên môn, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ

mới có thể đáp ứng được yêu câù trong tình hình hiện nay.

Thứ ba, đặc điểm quan trọng của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

20

thức là có tính sáng tạo cao.

Sáng tạo là một đặc điểm quan trọng và nổi bật của nguồn nhân lực hiện

đại. Sáng tạo là cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đồng thời cũng

là động lực cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để thông qua đó kinh tế phát

triển. Cho dù ở bất kỳ hình thái kinh tế nào thì sự sáng tạo của người lao động

đều có vị trí đặc biệt quan trọng. Đối với kinh tế tri thức thì sức sáng tạo của

nguồn nhân lực lại càng được coi trọng và sáng tạo có thể được coi như một tiêu

chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá sự phát triển cuả kinh tế tri

thức.

Nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo mới có thể đưa ra các phương pháp,

cách thức mới để giải quyết một vấn đề cũ hay đưa ra một vấn đề mới, giải pháp

mới. Trong thực tế, năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực có thể được thể hiện

qua các cải tiến, các giải pháp hữu ích hay phát minh ra sản phẩm mới, dịch vụ

hay công nghệ quản lý mới.

Trong kinh tế tri thức, KH-CN có tốc độ phát triển và thay thế rất cao, sản

phẩm có vòng đời ngắn, thậm chí công nghệ phát minh sáng chế cũng có vòng

đời ngắn. Phát triển nguồn nhân lực nếu như không có nguồn nhân lực sáng tạo

thì không những không sáng tạo ra được công nghệ, sản phẩm mới mà còn

không làm chủ được những công nghệ, kỹ thuật trung bình của xã hội và như vậy

sẽ dần đào thải ra khỏi đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao.

Như vậy, sáng tạo là yếu tố, đặc điểm không thể thiếu được của nguồn

nhân lực và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công cũng như trình độ phát

triển của kinh tế tri thức.

1.2.2. Nội dung

- Phát triển nguồn nhân lực để phát triển nguồn tri thức

Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cùng với làn

sóng toàn cầu hoá đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử: nền kinh tế thế giới bước

21

vào giai đoạn quá độ từ nền kinh tế dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật là đại công

nghiệp, cơ khí hoá sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Lúc này tri thức đã trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và việc phát triển nguồn nhân lực của mỗi

quốc gia đóng vai trò sống còn đối với sự phát triển kinh tế xã hội.

Các quốc gia phát triển có nền kinh tế dựa trên một nền sản xuất công

nghệ cao, sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Cơ sở vật chất

kỹ thuật như tự động hoá, tin học hoá đã được hình thành đáp ứng đòi hỏi của

kinh tế tri thức. Lực lượng sản xuất phát triển thể hiện bằng việc xuất hiện một

số lượng đông đảo những lao động trí tuệ ở các nước phát triển và cả những

nước công nghiệp mới (NICs), các nước đang phát triển.

Sự chuyển biến có tính chất bước ngoặt này của lực lượng sản xuất thế

giới khiến cho bất cứ quốc gia nào khi tiến hành công nghiệp hoá phải gắn liền

với hiện đại hoá và đặc biệt muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút

ngắn thì việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để tiếp cận, phát triển

kinh tế kỹ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng.

Phát triển nguồn nhân lực bao gồm hai nội dung phát triển về số lượng và

phát triển về chất lượng nguồn nhân lực. Về số lượng nguồn nhân lực, mỗi thời

kỳ, mỗi nền kinh tế có những yêu cầu khác nhau về số lượng nguồn nhân lực.

Thời kỳ kinh tế phát triển bùng nổ thì số lượng lực lượng lao động mà nền kinh

tế đòi hỏi tăng cao và đi cùng với nó là chất lượng của nguồn nhân lực. Chất

lượng nguồn nhân lực thể hiện thông qua hiệu quả của quá trình lao động do

nguồn lao động thực hiện. Các hoạt động lao động của con người trong quá trình

lao động này được phân thành hai nhóm các hoạt động.

Thứ nhất, người lao động thực hiện những hoạt động đã được lặp đi lặp lại

nhiều lần như những kỹ năng đã được học tập để sản xuất ra các sản phẩm theo

khuôn mẫu tính sẵn.

Thứ hai, người lao động sáng tạo ra các kỹ thuật công nghệ sản xuất mới

22

(trước đó chưa có một khuôn mẫu tính sẵn nào). Những sản phẩm của quá trình

lao động này chứa đựng một hàm lượng giá trị rất cao bởi vì người lao động phải

huy động một năng lực thể chất, năng lực tinh thần, trí tuệ, đạt đến một mức độ

rất cao. Con người lao động phải có đủ trình độ để tìm kiếm, phát hiện thông tin

mới, tri thức mới; từ đó vật chất hoá nó biến nó thành các sản phẩm mới, công

nghệ mới.

Như vậy, phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức yêu cầu:

(i) về số lượng phải cung ứng đủ số lượng nguồn nhân lực theo nhu cầu tăng

trưởng và phát triển nền kinh tế; (ii) về chất lượng cần phát triển năng lực thể

chất, tinh thần sáng tạo, khả năng tìm kiếm phát hiện và vật chất hoá thông tin

thành sản phẩm mới công nghệ mới. Trong số đó, phát triển nguồn nhân lực có

năng lực sáng tạo, năng lực đổi mới thể hiện ra kết quả lao động là những sản

phẩm công nghệ mới là nội dung quan trọng nhất của việc phát triển nguồn nhân

23

lực để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.

1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức của một số nƣớc

Cùng nằm trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á một số quốc gia có nền

kinh tế phát triển thần kỳ, có điền kiện tự nhiên, kinh tế và văn hoá xã hội gần

gũi với Việt Nam. Việc nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế đặc

biệt là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để tiếp cận phát triển nền kinh tế

tri thức có ý nghĩa quan trọng, thông qua đó chúng ta có thể rút ra một số bài học

kinh nghiệm. Trong số các quốc gia đó có thể kể đến Hàn Quốc, Trung Quốc.

1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Từ một nước kém phát triển, nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu những năm 60

của thế kỷ 20, nhưng nhờ có tầm nhìn chiến lược và chính sách đúng đắn về phát

triển con người nên Hàn Quốc đã làm nên một cuộc bứt phá được gọi là “sự thần

kỳ Đông Á” trở thành một nước công nghiệp phát triển. Kinh nghiệm phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao của Hàn Quốc tập chung chủ yếu vào việc nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hai nội dung chính:

Thứ nhất: coi giáo dục đào tạo, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực chất lượng

cao là nhân tố quan trọng hàng đầu phát triển nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri

thức.

Từ bậc tiểu học, cũng giống như các nền kinh tế phát triển khác Hàn Quốc

đã hoàn thành phổ cập hoá tiểu học trước khi tiến hành CNH-HĐH. Ngay từ

những năm 60, tỷ lệ dân số biết chữ của Hàn Quốc đạt 80%, gần 90% dân số

trong độ tuổi tiểu học đã hoàn thành chương trình tiểu học. Năm 1970, tỷ lệ hoàn

thành chương trình tiểu học đã đạt 100%.

Đối với cấp học cao đẳng và đại học, Hàn Quốc cũng có tỷ lệ sinh viên

học đại học rất cao: 80% số học sinh phổ thông trung học đã học đại học (số liệu

24

1995).

Hàn Quốc chủ trương tuyển chọn bồi dưỡng người tài rất rõ ràng ngay từ

rất sớm chính sách này được thực hiện một cách có hệ thống. Các học sinh có

năng khiếu, có năng lực đặc biệt được tuyển chọn vào các lớp năng khiếu. Tốt

nghiệp phổ thông trung học, những sinh viên suất sắc được đưa ra nước ngoài

học tập, tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của những nước phát

triển. Chính nhờ vậy, số sinh viên du học nước ngoài của Hàn Quốc rất đông trên

thế giới chỉ xếp sau Trung Quốc. Lực lượng du học sinh có trình độ cao học đã

góp phần quan trọng nâng cao trình độ khoa học công nghệ Hàn Quốc. Ngay từ

những năm 80 Hàn Quốc đã hoàn thành giai đoạn mô phỏng tiếp thu công nghệ

tiên tiến của nước ngoài, chuyển sang giai đoạn sáng tạo công nghệ mới. Cùng

với đó, năng lực tư duy quản lý hiện đại của nước ngoài được áp dụng linh hoạt,

sáng tạo tại Hàn Quốc. Nhờ đó, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng ổn

định 8% trong suốt thời gian 45 năm, cho tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

Châu Á 1997-1999.

Ngân sách nhà nước của Hàn Quốc dành cho giáo dục không ngừng tăng

lên qua các năm. Năm 1960, ngân sách dành cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ lệ 9-

10%; thập niên 80 là17%; đến thâp niên 90 đã tăng lên mức 27-29% ngân sách

(tương đương 3.5-3.7%GDP).

Giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc chủ yếu do các trường công lập giảng

dạy, có khoảng 70% số học sinh theo học các trường này. Các học sinh ở nông

thôn Hàn Quốc được chính phủ miễn học phí. Chính vì thế, tỷ lệ học sinh theo

học phổ thông trung học ngay từ những năm 1985 đã đạt hơn 90%. (So sánh với

Hồng Kông có cùng trình độ phát triển nhưng tỷ lệ học sinh đi học Trung học

phổ thông chỉ đạt 69%). Bù lại lĩnh vực giáo dục phổ thông khu vực tư nhân ở

Hàn Quốc rất tích cực tham gia vào giáo dục đại học và dạy nghề, tỷ trọng của

khu vực này có lúc chiếm tới 70-90%. Tuy vậy, bên cạnh những tích cực do khu

25

vực tư nhân mang lại cho giáo dục và dạy nghề ở Hàn Quốc thì còn có những

hạn chế khác mang lại: do tư nhân thống lĩnh giáo dục đại học nên mức học phí

rất cao vì vậy nhiều học sinh gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn ít có cơ hội

theo học đại học.

+ Việc sử dụng lao động có trình độ cao của Hàn Quốc

Hàn Quốc không áp dụng hình thức thuê lao động làm việc đến suốt đời

như ở Nhật Bản. Lao động làm việc không tốt sẽ bị sa thải ngay hoặc người làm

công cũng dễ dàng chuyển tới làm việc cho những công ty khác trả lương cao

hơn, điều kiện lao động tốt hơn. Điều này tạo ra một áp lực cạnh tranh nâng cao

trình độ rất cao giữa các nhân viên cũng như sự cạnh tranh giữa chính sách đãi

ngộ nhân tài của chủ sử dụng lao động. Ngoài ra, mức trả lương rất cao tại Hàn

Quốc đối với lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao cũng là một động

lực lớn thu hút nhân tài, khích lệ người lao động nâng cao trình độ. Mức tiền

lương của người có trình độ đại học cao gấp 3-4 lần lao động chỉ có trình độ

PTTH và mức tiền lương còn tăng lên nhiều lần tuỳ theo sự thay đổi của bằng

cấp, trình độ chuyên môn…

Chính sách thu hút nhân tài từ nước ngoài trở về Hàn Quốc làm việc cũng

rất có hiệu quả. Ngay từ năm 1968 Hàn Quốc đã bắt đầu thực hiện chính sách:

“kế hoạch hoá đưa nhân tài về nước”, theo đó có rất nhiều ưu đãi như: nhà ở,

môi trường làm việc hiện đại, trả lương cao… Mức lương mà Hàn Quốc trả cho

lao động có trình độ cao từ các nước đang phát triển về làm việc có thể cao gấp

20-40 lần mức lương cũ. Thậm chí Hàn Quốc cũng đặt các văn phòng chuyên

trách tại nước ngoài, cử các đoàn công tác ra nước ngoài kêu gọi các tài năng

Hàn Quốc trở về nước.

Nhờ những chính sách đúng đắn, linh hoạt như vậy mặc dù là quốc gia

thiếu lao động, phải nhập khẩu lao động nhưng nguồn nhân lực của Hàn Quốc lại

có trình độ tri thức cao, đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật đạt mức độ đẳng

26

cấp thế giới.

Tuy vậy, chính sách sử dụng nguồn nhân lực của Hàn Quốc cũng có

những bất cập do tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Phụ nữ Hàn Quốc đến bậc đại

học không còn cơ hội học tập như nam giới. ở cấp học nay tỷ lệ nữ chỉ chiếm

60% so với nam. Tỷ lệ này là rất thấp so với khu vực và thế giới. Sự bất bình

đẳng trong lao động nữ còn thể hiện khi xin việc làm cũng như mức lương và cơ

hội thăng tiến. Điều này vô hình chung đã bỏ phí nguồn nhân lực quan trọng khi

Hàn Quốc vẫn phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài.

Thứ hai: coi việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, công

nghệ mới vào việc sản xuất kinh doanh như một biện pháp quan trọng để phát

triển tay nghề, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực chất lượng cao.

Việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh đòi

hỏi nguồn nhân lực phải có một trình độ khoa học kỹ thuật tương ứng mới có thể

tiếp nhận và quản lý công nghệ. Khi trình độ của người lao động phát triển đến

một mức độ nhất định, nó lại là cơ sở cho việc tiếp thu công nghệ mới cao hơn,

hiện đại hơn. Đây cũng là một trong những kinh nghiệm quan trọng của Hàn Quốc

để phát triển được một đội ngũ nguồn nhân lực làm chủ các ngành công nghiệp

quan trọng như: sản xuất thép, xe hơi, đóng tàu, điện tử… ở đẳng cấp của những

quốc gia công nghiệp phát triển. Đó cũng là kết quả của chính sách quan tâm đầu

tư thích đáng cho các hoạt động R&D (nghiên cứu và phát triển) của Hàn Quốc.

Hiện nay mức đầu tư cho R&D của Hàn Quốc ở mức cao, chiếm 3% GNP.

Đến năm 1997, Hàn Quốc thông qua Bảng đổi mới khoa học – công nghệ

với tham vọng đến đầu thế kỷ XXI đưa trình độ R&D ngang tầm với các quốc

gia nhóm G7, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghệ cao. Đến năm 2002,

Hàn Quốc đã đầu tư 10.2000 tỷ won vào kết cấu hạ tầng thông tin; 466 tỷ won

được đầu tư vào mạng thông tin siêu tốc. Với sự đầu tư mạnh mẽ như vậy tin học

ở Hàn Quốc đã được sử dụng rất phổ thể hiện qua sự phát triển của chính ngành

27

điện tử, thương mại điện tử.

Năm 1997 có 1,6 triệu người sử dụng Internet, đến năm 1999 có 10,8 triệu

người, năm 2000 lên tới 16,4 triệu và năm 2006 có tới 29 triệu người Hàn Quốc

sử dụng Internet [41].

Việc đón đầu, tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới của Hàn Quốc cũng góp

phần tạo ra cơ hội phát triển trình độ của đội ngũ lao động kỹ thuật cao của Hàn

Quốc. Điển hình như việc nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ CDMA

(công nghệ truyền thông di động băng thông rộng định hướng miền thời gian ba

chiều) do hãng QUANCOM, Mỹ phát minh ra đã biến nước này trở thành một

trong những quốc gia hàng đầu về công nghệ và dịch vụ CDMA. Hiện nay, Hàn

Quốc không những sản xuất các sản phẩm theo hướng công nghệ này để phục vụ

thị trường Hàn Quốc mà còn xuất khẩu sản phẩm, công nghệ và chuyên gia lĩnh

vực này tới cả các quốc gia khoa học kỹ thuật phát triển như Nhật Bản và Bắc

Mỹ (ở Việt Nam là mạng điện thoại di động S-phone). Hiển nhiên, qua đó số

lượng nhân công Hàn Quốc làm việc với công nghệ này có trình độ đẳng cấp thế

giới.

Sự phát triển của công nghệ hiện đại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một

trình độ chuyên môn kỹ thuật tương ứng. Và để có nguồn nhân lực như vậy, Hàn

Quốc đã quan tâm tới giáo dục và đào tạo từ rất sớm và ngay cả từ cấp học thấp

nhất. Bên cạnh đó việc sử dụng, khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý

là những kinh nghiệâm quý báu của Hàn Quốc trong việc phát triển NNL chất

lượng cao để phát triển kinh tế tri thức mà Việt Nam có thể tham khảo.

1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Năm 1978, Trung Quốc bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách và gặt hái

được những thành tựu kinh tế xã hội vang dội, thế giới bắt đầu chú ý và gọi đó là

hiện tượng Trung Quốc.

Từ năm 1978-2006, GDP của Trung Quốc tăng bình quân 8,6% một năm,

28

thu nhập thực tế đầu người tăng 4,7% ở nông thôn; 5,8% ở thành thị; tốc độ tăng

GDP bình quân đầu người tăng trung bình 9,5%/năm. Thậm chí trong thời gian

diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1999 thì tốc độ tăng trưởng kinh

tế giai đoạn 1996-2000 vẫn đạt 8,3%/năm; thu ngân sách tăng 16,5%, kim ngạch

xuất khẩu tăng 67%.

Đến năm 2006, theo Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) thì GDP

của Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng 10,5%, đạt tổng giá trị GDP là 2500 tỷ

USD, trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 thế giới, chỉ xếp sau Mỹ, Nhật, Đức [23].

Những kết quả đạt được trên đây một phần nhờ vào chính sách phát triển

chất lượng NNL Trung Quốc với quan niệm “sự nghiệp hưng suy mấu chốt là

nhờ con người”. Đây là những kinh nghiệm phát triển quý báu mà Việt Nam có

thể tham khảo.

+ Một là, chú trọng đầu tư cho giáo dục, đào tạo để phát triển nguồn nhân lực.

Trung Quốc có tốc độ phát triển kinh tế cao, có những năm tốc độ tăng

GDP đạt trên 2 con số, cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ chuẩn bị tiếp cận

và phát triển kinh tế tri thức đã đặt ra yêu cầu cho Trung Quốc phải phát triển

giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển đang tăng cao.

Trung Quốc coi giáo dục đào tạo là kế hoạch lớn cơ bản để thực hiện hiện

đại hoá đất nước. Theo đó, Trung Quốc đã thực hiện xong chương trình học mới,

xây dựng chế độ học bổng nhân dân, xây dựng được nguồn nhân lực dự bị có

chất lượng.

Ngân sách dành cho giáo dục đào tạo của Trung Quốc không ngừng tăng

lên qua các năm. Những năm 70, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đào tạo là 1-2% GNP.

Đến những năm 80 tỷ lệ này tăng lên 3%, đến những năm 90 tỷ lệ này giảm

xuống nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng do thời kỳ nay GNP tăng rất cao. Từ cuối

những năm 90 đến nay tỷ lệ dành cho giáo dục đào tạo của Trung Quốc lại đạt

29

3% GNP.

Ngoài ngân sách nhà nước, Trung Quốc còn thực hiện xã hội hoá giáo dục

mạnh mẽ cho nên nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ có vốn ngân

sách nhà nước mà còn nguồn vốn vật vật chất, tài chính của các tổ chức phi

chính phủ, các tổ chức quốc tế, xã hội, chính phủ các nước. Nhờ đó mà Trung

Quốc đa dạng hơn được nhiều loại hình đào tạo như:hệ thống các trường công

lập, dân lập, trường dân lập có nhà nước hỗ trợ, các trường liên doanh liên kết

với nước ngoài…

Cũng giống như Hàn Quốc, lượng học sinh ra nước ngoài học tập rất đông

theo nhiều kênh khác nhau như: du học bằng ngân sách nhà nước; du học có học

bổng của các tổ chức, các doanh nghiệp và chính phủ nước ngoài… Tính từ năm

1978 đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc đã có hơn một triệu học sinh ra nước

ngoài học tập và số lượng du học sinh vẫn tăng nhanh hằng năm, năm sau cao

hơn năm trước. Tuy vậy, Trung Quốc cũng phải đối mặt với hiện tượng chảy

máu chất xám. Một lượng lớn du học sinh đã không trở về nước làm việc, đặc

biệt giai đoạn 1978-1984 có 230.000 sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài học

tập nhưng chỉ có 700.000 người về nước để làm việc. Bên cạnh đó, một bộ phận

nhân tài trong nước do tiền lương eo hẹp, điều kiện làm việc khó khăn cũng đi ra

nước ngoài tìm việc làm.

Tính ở thời điểm năm 1995, riêng ở nước Mỹ đã có 45.0000 sinh viên, cán

bộ Trung Quốc du học ở lại làm việc. Tuy nhiên, hiện nay ở Trung Quốc quan

điểm đối với vấn đề chảy máu chất xám cũng có những điểm mới. Khi người ta

cho rằng chính bộ phận có trình độ làm việc ở nước ngoài là nguồn cung cấp

ngoại tệ cũng như khoa học công nghệ quan trọng cho Trung Quốc. Bởi vậy, họ

lại càng có điều kiện tốt hơn để học tập và nâng cao vốn tri thức, trình độ chuyên

môn. Đến khi cần trở về nước đây sẽ là lực lượng lao động chất lượng cao của

Trung Quốc, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế

30

đã chứng minh quan điểm này hoàn toàn đúng đắn. Cùng với chính sách ưu đãi

trải thảm đỏ trong nước, kế hoạch kêu gọi người tài, danh nhân Trung Quốc ở

nước ngoài về nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và làm việc đã đánh đúng

tâm lý quay về nguồn cội quê hương của nhiều thế hệ người Trung Quốc ở nước

ngoài. Làn sóng Hoa kiều trở về nước ngày một tăng, góp phần không nhỏ vào

kết quả đưa nền kinh tế Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới.

Bên cạnh những thành tựu to lớn như vậy, giáo dục và đào tạo của Trung

Quốc cũng còn nhiều hạn chế như: chất lượng giáo dục và đào tạo chưa cao.

Theo thống kê năm 1991 của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ số dân đến tuổi học cao

đẳng đại học của Trung Quốc mới chỉ đạt 6,5%. Trong khi tỷ lệ dân đến tuổi học

đại học cao đẳng ở Hàn Quốc là 40%; Singapore 25%; HồngKông 18%;… Do

phương pháp đào tạo còn nặng về nhồi nhét kiến thức mà chưa chú trọng phát

huy tính tích cực của người học khi trong thực tế tính sáng tạo là một trong

những tố chất quan trọng nhất của đội ngũ nhân lực tiếp cận, phát triển kinh tế tri

thức ở Trung Quốc.

+ Hai là, phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển nguồn

nhân lực.

Với quan điểm phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đến lượt nó, nguồn nhân lực chất lượng

cao lại là cơ sở để nâng tầm trình độ của khoa học công nghệ, Trung Quốc rất

chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật. Chính phủ ưu tiên đặc biệt cho những

ngành khoa học mũi nhọn, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, phổ biến thông

tin để vật chất hoá tri thức trong thực tiễn.

Năm 1999, Trung Quốc đã phóng thành công vệ tinh bốn lần, trong đó đặc

biệt nhất là cuộc phóng thành công con tàu vũ trụ đầu tiên “Thần Châu” do chính

Trung Quốc nghiên cứu chế tạo. Đến năm 2003, Thần Châu 5 đã đưa người lên

31

vũ trụ, Trung Quốc trở thành một trong những cường quốc vũ trụ của thế giới.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực sinh học,

tin học, y học….

Trung Quốc còn thành lập ra quỹ khoa học tự nhiên cung cấp tài chính cho

các nhà nghiên cứu. Trung bình mỗi năm quỹ tài trợ cho hơn 30.000 dự án

nghiên cứu cơ bản; 3000 dự án chủ chốt và 125 dự án cấp nhà nước. Mỗi năm

ngân sách của quỹ tăng 29,9%, cho thấy mức độ quan tâm của nhà nước tới kinh

phí nghiên cứu khoa học. Để tăng tính thực tiễn và hiệu quả kinh tế các dự án

nghiên cứu đều được lồng ghép với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Ngay

từ tháng 3 năm 1986 Trung Quốc đã cho ra đời chương trình, kế hoạch phát triển

và nghiên cứu công nghệ cao quốc gia (Chương trình 863). Theo nội dung của kế

hoạch này, thông tin, an ninh thông tin và vi điện tử sẽ đặc biệt được chú trọng.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chủ trương xây dựng vườn ươm doanh nghiệp, hỗ

trợ các nhà khoa học đưa các thành tựu nghiên cứu khoa học vào ứng dụng trong

thực tiễn. Các phong trào này thu hút được rất đông các nhà khoa học, nhà doanh

nghiệp trong và ngoài Trung Quốc tham gia rộng rãi, tạo ra hiệu ứng tích cực, to

lớn cho việc phát triển nguồn nhân lực.

Với tham vọng đứng vào hàng ngũ các quốc gia phát triển trên thế giới

vào năm 2050, Trung Quốc cần một lượng cán bộ khoa học công nghệ khổng lồ.

Để đáp ứng nhu cầu đó, Trung Quốc ngoài đào tạo trong nước còn rất chú trọng

đưa nhân tài ra nước ngoài đào tạo. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có nhiều

chính sách ưu đãi thu hút người tài bằng các chương trình xây dựng nhà ở, nâng

cao mức lương, thu nhập thực tế, tạo điều kiện làm việc thuận lợi. Việc kêu gọi

đội ngũ cán bộ du học sinh Trung Quốc ở lại các nước phát triển làm việc sau

khi học xong hồi hương cũng rất thành công. Năm 2002, Trung Quốc có 18.000

cán bộ, du học sinh hồi hương, tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Đặc biệt, chiếm

tới 90% số đó có học vị tiến sỹ hoặc thạc sỹ. Năm 2006, số lượng du học sinh,

32

cán bộ trở về Trung Quốc đạt con số kỷ lục 31.000 người [40].

Ngoài ra, mỗi năm Trung Quốc thu hút một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài, có năm lên tới hơn 50 tỷ USD. Điều đó đồng nghĩa với việc công

nghệ kỹ thuật tiên tiến cũng được đưa vào Trung Quốc và đương nhiên trình độ

chuyên môn, tay nghề của lực lượng lao động tiếp nhận, sử dụng những kỹ thuật

công nghệ đó cũng phải được nâng lên tương ứng. Đây cũng chính là một kinh

nghiệm của Trung Quốc để phát triển nguồn nhân lực có chất lương cao phục vụ

cho việc tiếp cận, phát triển kinh tế dựa trên tri thức.

Việc luân chuyển nhân tài cũng rất được Trung Quốc quan tâm, coi đó

như biện pháp để khuyến khích tối đa sức sáng tạo của đội ngũ những nhà khoa

học, giáo dục, làm phong phú hơn tri thức, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển

của đất nước.

1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam

Nguồn nhân lực để tiếp cận, phát triển kinh tế tri thức là nguồn nhân lực

phải có tổng thể các yếu tố năng lực thể chất và tinh thần, có khả năng tìm kiếm,

tiếp nhận và sáng tạo thông tin, vật chất hoá thông tin thành sản phẩm mới, công

nghệ mới. Vì thế, để tiếp cận phát triển thành công kinh tế tri thức thì việc phát

triển nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hoá và tri thức hoá nền kinh tế quốc

tế là rất quan trọng. Và nhân tố hàng đầu để phát triển nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực chính là giáo dục và đào tạo. Cho nên đầu tư cho giáo dục và đào

tạo là đầu tư cho phát triển.

Việt Nam bắt đầu từ một xuất phát điểm thấp, đứng trong nhóm cuối cùng

của các quốc gia phát triển. Vì thế, để hội nhập thành công vào nền kinh tế quốc

tế, việc thực hiện CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức là tất

yếu khách quan. Theo đó, nhu cầu nâng cao chất lượng phát triển nguồn nhân

lực ngày càng cấp thiết. Giải quyết nhu cầu đó, đòi hỏi phải cải cách, phát triển

mạnh mẽ giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, nhấn mạnh đào tạo cao đẳng và

33

đại học.

Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế tri thức của

Trung Quốc, Hàn Quốc cũng đã cho chúng thấy rằng: giáo dục đào tạo đặc biệt

là đào tạo đại học và sau đại học thông qua rất nhiều kênh khác nhau như: đào

tạo bằng ngân sách nhà nước, tiền của cá nhân, tổ chức phi chính phủ, các tổ

chức quốc tế, chính phủ nước ngoài… bằng nhiều hình thức như: đào tạo trong

nước, đào tạo ở nước ngoài, thành lập các trường liên doanh… Bên cạnh đó,

nguồn nhân lực chất lượng cao cũng có thể thu hút từ nước ngoài, đội ngũ các

nhà khoa học, cán bộ và du học sinh đã từng làm việc ở nước ngoài. Để kêu gọi

những người tài Hàn kiều thậm chí Chính phủ Hàn Quốc còn thành lập những

văn phòng chuyên trách ở nước ngoài. Kinh nghiệm xã hội hoá ngành giáo dục

cũng được Hàn Quốc áp dụng rất thành công thể hiện qua tỷ trọng của khu vực

tư nhân cũng như trong kết quả đào tạo giáo dục Hàn Quốc. Kinh nghiệm luân

chuyển người tài, luân chuyển cán bộ ở Trung Quốc cũng là kinh nghiệm tốt với

Việt Nam. Những chính sách này vừa khơi gợi tài năng, sức cống hiến của

nguồn nhân lực có trình độ vừa tránh được những trì trệ trong hoạt động. Đó là

những kinh nghiệm gần gũi và có thể tham khảo trong tiến trình thực hiện CNH-

HĐH rút ngắn và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Chƣơng 2

TèNH HèNH NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

2.1.Tình hình phát triền nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam thời gian qua

2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hoá tinh

thần của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay

Như đã trình bày trong chương 1, nguồn nhân lực là bao gồm tổng hoà

năng lực thể chất và năng lực tinh thần tồn tại trong cơ thể sống của người lao

34

động. Chất lượng nguồn nhân lực cao hay thấp không chỉ phụ thuộc vào năng

lực trí tuệ, năng lực tinh thần của người lao động mà còn do năng lực thể chất,

sức khoẻ của bản thân người lao động quyết định. Người lao động có tài năng, trí

tuệ sáng tạo nhưng tài năng và trí tuệ đó không được đặt vào một cơ thể khoẻ

mạnh thì người lao động đó cũng không thể phát huy được khả năng lao động,

sáng tạo của mình được. Bên cạnh đó, trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay,

nhịp sống hối hả của xã hội công nghiệp khiến cho người lao động phải chịu

nhiều áp lực trong công việc cũng như trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi người

lao động phải có sức khoẻ tốt, sung mãn mới có thể đáp ứng tốt được yêu cầu

của công việc. Chính vì vậy năng lực thể chất của nguồn nhân lực là một trong

những mục tiêu quan trọng của phát triển nguồn nhân lực. Năng lực thể chất

được thể hiện qua chỉ số chiều cao, cân nặng và các chỉ số khác.

Từ những năm 90 của thế kỷ 20, nền kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ

tăng trưởng và phát triển ổn định, điều kiện vật chất, tinh thần của người dân

được nâng lên rõ rệt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự cải thiện về chiều cao, cân

nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ của người dân Việt Nam nói chung và

nguồn nhân lực nói riêng.

Theo kết quả nghiên cứu của đề tài KHXH 04-04 “Chiến lược phát triển

toàn diện con người Việt Nam trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước” thì năm

1985 chiều cao trung bình của nam giới Việt Nam là 159,8cm, của nữ giới là

150,5cm. Đến năm 2000, chiều cao của nam giới đã đạt 162,5cm và của nữ giới

là 152,3cm.

Như vậy, sau 15 năm chiều cao của người Việt Nam cao thêm 2cm, đây là

mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng trung bình của thế giới là cứ 10 năm

tăng thêm 1cm.

Theo một nghiên cứu khác của chương trình quốc gia mang tên “Nâng cao

tầm vóc và thể trạng của người Việt Nam, góp phần phát triển giống nòi và phục

vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” do Viện khoa học Thể dục Thể thao tiến

35

hành thì hiện nay nam thanh niên Việt Nam có chiều cao trung bình là 165,14cm

và cân nặng là 53,19kg, tăng 6,14cm so với năm 1975; chiều cao trung bình của

nữ là 153,88cm và cân nặng 46,02kg, tăng 4,88cm.

Cân nặng của học sinh nam hiện nay nặng hơn thế hệ năm 1975 là 6,2kg,

học sinh nữ nặng hơn 4,2kg.

Như vậy nhờ sự phát triển kinh tế, điều kiện vật chất, điều kiện sống, dinh

dưỡng được cải thiện đáng kể đã góp phần quan trọng trong việc phát triển chiều

cao và cân nặng của nguồn nhân lực Việt Nam.

Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì tốc độ phát triển tầm vóc cơ

thể của người Việt Nam còn rất chậm. Nhật Bản thực hiện chương trình quốc gia

nâng cao thể chất, tầm vóc cơ thể trong 20 năm, chiều cao của người Nhật đã

tăng thêm 17cm, trung bình mỗi năm tăng 0,85cm. Trong khi cũng với thời gian

20 năm, chiều cao của thanh niên Việt Nam mỗi năm chỉ tăng trung bình

0,24cm. Nguyên nhân được giải thích là chương trình quốc gia về nâng cao thể

chất, tầm vóc cơ thể của người Việt Nam chưa được thực hiện và có sự quan tâm

đúng mức, chưa thực hiện được những giải pháp có tính chất đột phá như phát

miễn phí sữa uống cho học sinh trong tất cả các trường học trên toàn quốc. Theo

nghiên cứu của GS.TS Aiyoshi (Nhật Bản) thì chiều cao của con người ngoài

yếu tố di truyền thì có 2 nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đối với chiều cao là dinh

dưỡng (tỷ trọng 31%) và chế độ luyện tập (chiếm tỷ trọng 20%).

Trong khi đó, dinh dưỡng trẻ em Việt Nam thể hiện qua tỷ lệ suy dinh

dưỡng còn khá cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9%

năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000, và 30,1% năm 2002.

Hiện nay Việt Nam còn nằm trong số các nước có mức sống thấp của thế

giới. Theo phân loại của Ngân hàng thế giới thì các nước có thu nhập thấp là

mức 745 USD/ người. Trong khi năm 2006, GDP bình quân đầu người của Việt

Nam mới chỉ đạt 725,3 USD/người/năm [23]. Mức thu nhập thấp như vậy trong

36

khi tốc độ tăng dân số còn cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ lại

thấp nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống. Điều kiện

lao động trong nhiều cơ sở ở các ngành sản xuất cũng như trong một số cơ quan

hành chính sự nghiệp của nước ta còn xấu, có nơi còn rất khắc nghiệt. Môi

trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm, độc hại vượt

quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

tăng. Điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và chất lượng nguồn nhân

lực nói riêng về mặt thể lực, sức khoẻ cũng như điều kiện lao động chưa được

đảm bảo. Nói cách khác, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh dưỡng thiếu

thốn và thể lực hạn chế là hiện trạng chung của nguồn nhân lực Việt Nam hiện

nay.

Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam không chỉ đơn thuần là tổng thể của

năng lực thể chất và năng lực trí tuệ mà còn phải nói đến đạo đức, tư tưởng, văn

hoá nhân cách và tâm lý của người lao động. Đó là những phẩm chất đạo đức,

tinh thần có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân

lực, nó có thể thúc đẩy tính tích cực và làm tăng hiệu quả lao động của con người

hoặc ngược lại.

Người Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng phẩm chất đạo đức, nhân

cách của con người. Điều đó được thể hiện qua các câu tục ngữ như “Cái nết

đánh chết cái đẹp”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng đã từng nói:

Người có tài, mà không có đức là người vô dụng và ngược lại, người có đức mà

không có tài thì làm việc gì cũng khó.

Cái đức ở đây sẽ giúp người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao

với cộng đồng, với xã hội. Từ đó họ sẽ làm việc tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.

+ Về ưu điểm.

Thứ nhất, phẩm chất cơ bản nổi bật nhất của người Việt Nam là tinh thần

yêu nước nồng nàn, ý thức dân tộc, lòng tự tôn dân tộc, tính tự cường, tư tưởng

37

nhân văn, nhân ái trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa các

cộng đồng với nhau, những tư tưởng phẩm chất quan trọng này được thể hiện rất

rõ nét trong lịch sử dân tộc, đó là phẩm chất truyền thống vô cùng quý báu của

người Việt Nam.

Thứ hai, truyền thống cần cù, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ được trui

rèn trong điều kiện làm việc cùng với thiên nhiên khắc nghiệt. Khả năng giỏi

chịu đựng, tính cần cù đã giúp cho người lao động Việt Nam có tính kiên trì,

nhẫn nại, khả năng thích ứng và hoà nhập với môi trường mới rất nhanh. Điều

này đã được chính những chủ sử dụng lao động xuất khẩu Việt Nam ở nước

ngoài ca ngợi.

Thứ ba, người lao động Việt Nam có truyền thống đoàn kết cộng đồng,

ứng xử thông minh, linh hoạt sáng tạo, cương nhu thuần thục. Phẩm chất này có

được từ sự rèn luyện, kinh qua các cuộc chiến tranh giữ nước giành độc lập cho

dân tộc cũng như đối phó với thiên tai, địch hoạ.

Trong quá trình đó, nền văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam đã tiếp

cận, giao lưu với những nền văn hoá của các quốc gia hùng mạnh, những nền

văn minh phát triển bậc nhất thế giới nhưng văn hoá, con người Việt Nam không

những không bị đồng hoá mà còn tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến, ưu

việt của những nền văn hoá nước ngoài đó để làm phong phú, “giàu có” hơn cho

văn hoá, truyền thống người Việt Nam.

Thứ tư, lối sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi hoà đồng với thiên nhiên được

bắt nguồn từ cuộc sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Hoàn cảnh sống của cư

dân nông nghiệp ở nông thôn từ hàng ngàn năm qua cũng đã giúp hình thành tình

cảm “tối lửa tắt đèn có nhau” cùng với sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo đã hình

thành lối sống coi trọng tình nghĩa, tính vị tha, lòng bao dung của người Việt.

Ngoài ra, sự ảnh hưởng tích cực của Nho giáo đã hình thành nên truyền thống hiếu

học, tôn sư trọng đạo “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” của người Việt Nam.

Những phẩm chất tốt đẹp nói trên của người Việt nếu được gìn giữ, kế

38

thừa và phát triển đáp ứng phù hợp với yêu cầu của thời kỳ hội nhập ngày nay sẽ

tạo ra sức mạnh to lớn của nguồn nhân lực Việt Nam. Tuy vậy, bên cạnh những

ưu điểm, phẩm chất tốt đẹp thì còn có những hạn chế, yếu kém trong tính cách,

truyền thống của người Việt Nam.

+ Về nhược điểm:

Thứ nhất, đó là những nhược điểm xuất phát từ tư tưởng, tâm lý tiểu nông

của nền sản xuất nhỏ: Coi trọng địa vị, ngôi thứ, tư tưởng gia trưởng và hình

thức; thiên về tình cảm, coi trọng tình nghĩa hơn lý lẽ, đề cao kinh nghiệm mà

coi nhẹ lý trí và tri thức khoa học, thói quen cư xử dựa theo các mối quan hệ họ

hàng, huyết thống, quên biết mà coi nhẹ sự tôn nghiêm của pháp luật. Điều này

được phản ánh qua câu châm ngôn: “Phép vua thua lệ làng”.

Những tính cách, truyền thống này không phù hợp với những yêu cầu về

phẩm chất người lao động trong thời kỳ CNH-HĐH, nó tạo ra lực cản, sức ì đối

với quá trình tiếp cận khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.

Thứ hai, dấu ấn của thời kỳ bao cấp đã để lại cho người Việt Nam những

thói quen xấu như: Tính thụ động, trông chờ, ỉ lại, dựa dẫm vào Nhà nước và tập

thể; thiếu năng động, ngại tìm tòi, sáng tạo, chưa mạnh dạn áp dụng cái mới vào

hoạt động sản xuất kinh doanh; tư tưởng an phận, bám chắc vào biên chế nhà

nước…

Những thói quen xấu này dần dần cũng được xoá bỏ khi nền kinh tế Việt

Nam chuyển sang cơ chế thị trường nhưng để thay đổi được hoàn toàn những

thói quen xấu đó không phải là công việc một sớm một chiều bởi như Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã từng viết: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch

to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó,

mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [25]. Bên cạnh

đó, mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình mở cửa giao lưu, hội nhập quốc tế

cũng làm nảy sinh nhiều thói hư tật xấu, phá vỡ các giá trị truyền thống, đạo đức

39

tốt đẹp, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam.

2.1.2. Thực trạng Giáo dục và Đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân

lực có trình độ ở Việt Nam thời gian qua

Như đã trình bày trong Chương 1, nguồn nhân lực cho phát triển là nguồn

nhân lực có trí tuệ, có năng lực tiếp nhận và sử dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại

và cao hơn nữa là khả năng sáng tạo, đổi mới sản phẩm, kỹ thuật, công nghệ. Để

có được điều đó, nguồn nhân lực phải được đào tạo, đào tạo liên tục và suốt đời.

Nói cách khác nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn liền với đào tạo và thực

trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực của một quốc gia cũng chính là sự phản

ánh chính xác về tình hình nguồn nhân lực, mức độ chuẩn bị của nguồn nhân lực

để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.

2.1.2.1. Tình hình đầu tư cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam thời gian qua

Với phương châm coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu để tạo ra đội

ngũ nguồn nhân lực có trí tuệ, có trình độ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và

tiến vào kinh tế tri thức, giáo dục đào tạo của nước ta luôn nhận được sự quan

tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước thông qua nhiều chủ trương, chính sách đối

với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhờ đó từ một quốc gia có tới hơn 90% dân

số mù chữ ngành Giáo dục và Đào tạo đã đưa Việt Nam trở thành nước có tỷ lệ

dân số biết chữ cao hàng đầu trong số các nước đang phát triển, đội ngũ nguồn

nhân lực có trình độ thông qua đào tạo ngày càng tăng, có khả năng tiếp nhận,

làm chủ nhiều công nghệ hiện đại, các đội học sinh tham gia các cuộc thi trí tuệ

quốc tế thường dành được giải cao, được bạn bè quốc tế khen ngợi, nhiều nhân

tài người Việt hiện đang làm việc ở nhiều lĩnh vực công nghệ cao ở các quốc gia

phát triển.

Các thành tựu đó có được là nhờ sự quan tâm đầu tư nhân, tài, vật lực

mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Đảng và Nhà

nước ta. Trong nhiều năm qua, ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục đào tạo

40

không ngừng tăng lên.

Bảng 1: Tỷ trọng đầu tƣ cho GD-ĐT trong tổng chi ngân sách của Nhà nƣớc

Năm Tổng chi cho giáo dục Tỷ lệ so với Ngân sách

(tỷ đồng) (%)

2000 23.219 15,00

2001 25.882 15,60

2002 34.088 15,80

2003 37.552 16,20

2004 54.223 17,10

2005 68.968 21,00

2006 55.100 17,00

66.770 20,60 2007 (Kế hoạch)

Nguồn: Website của Bộ tài chính: www.mof.gov.vn 8/10/2007

(Và TS Vũ Quang Việt, chuyên gia thống kê của Liên Hiệp Quốc: Chi tiêu

cho giáo dục, những con số “giật mình”. www.vietnamnet.vn ngày 11/7/2007).

Như vậy, từ năm 2000 đến nay Ngân sách đầu tư cho giáo dục hầu như

năm nào cũng tăng. Năm 2000 tổng chi cho giáo dục là 23.219 tỷ đồng chiếm

15% so với chi ngân sách của Nhà nước thì đến năm 2004 mức tổng chi đã đạt

54.223 tỷ đồng, chiếm 17,1% ngân sách Nhà nước. Năm 2005 tổng mức chi tiêu

là 68.968 tỷ đồng chiếm 21% ngân sách Nhà nước. Đến năm 2007 mức chi tiêu

cho giáo dục có giảm đi chút ít, đạt 66.770 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 20,6% ngân

sách. Trong điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, mức chi tiêu này phản ánh

sự cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân cho sự nghiệp

giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Nếu so sánh với chi tiêu cho giáo dục ở các nước

phát triển thuộc khối OECD thì chi phí cho giáo dục ở Việt Nam là rất lớn. Tỷ lệ chi

cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao như Mỹ, Pháp,

41

Nhật, Hàn Quốc…

Bảng 2: Số liệu so sánh chi tiêu cho GD ở Việt Nam và các nƣớc năm 2005

Việt Nam Mỹ Pháp Nhật Hàn OECD

Quốc

Chi tiêu cho giáo 8.3 7.2 6.1 4.7 7.1 6.1

dục/GDP (%)

Nguồn: TS. Vũ Quang Việt, www.vietnamnet.vn, tài liệu đã dẫn.

Như vậy, có thể nói đây là những nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước và

các tầng lớp nhân dân dành cho giáo dục, đào tạo. Trong đó, một phần được đầu

tư tăng cường cơ sở vật chất cho các trường. Cụ thể, qua các dự án lớn như: Dự

án xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội ở Hoà Lạc trên diện tích 1.000 ha với

mức đầu tư 7.300 tỷ đồng, dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh ở Thủ Đức trên diện tích 600 ha với mức đầu tư 6.800 tỷ đồng. Các trường

đại học trọng điểm và nhiều trường đại học công lập khác cũng được đầu tư hàng

ngàn tỷ đồng để nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật. Dự án giáo dục đại học nhằm

nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học công lập bằng nguồn vốn vay

100 triệu USD của Ngân hàng Thế giới cũng vừa hoàn tất, các thư viện, phòng

thí nghiệm, xưởng sản xuất thử hiện đại cũng đã được xây dựng ở một số trường.

Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm qua cũng

có sự cải tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp.

Các chính sách khuyến khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó

cũng đã được áp dụng như: Chế độ học bổng cho các đối tượng chính sách xã

hội, học bổng cho các sinh viên học giỏi, thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học

phí cho các sinh viên trường sư phạm.

Tuy nhiên, theo tiến sỹ Vũ Quang Việt phần chi trả lương cho giáo viên đã

chiếm đến 80-90% ngân sách, số còn lại mới được đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ

thuật, phát triển đội ngũ nguồn nhân lực trình độ cao cho các cơ sở giáo dục.

42

Tình trạng dạy chay, học chay còn phổ biến do thiếu trang thiết bị, phòng nghiên

cứu, phòng thí nghiệm, số lượng máy tính còn quá ít, sách giáo khoa còn thiếu ở

các vùng sâu, vùng xa. ở thành phố, ngay cả các trường cao đẳng, đại học cũng

thiếu giáo trình cập nhật với trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

2.1.2.2. Tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay

Thông qua tổng kết kinh nghiệm thành công của các quốc gia đã tiến hành

CNH-HĐH, và sớm bước vào phát triển kinh tế tri thức cho thấy rằng, trước khi

bước vào tiến hành công nghiệp hoá thì các quốc gia đó đã hoàn thành phổ cập

giáo dục tiểu học từ rất sớm, tạo đà thuận lợi cho quá trình đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao. Việt Nam, từ kinh nghiệm quốc tế kết hợp với truyền thống

coi trọng học hành của dân tộc, Đảng và Nhà nước từ khi mới ra đời đã rất quan

tâm tới sự nghiệp giáo dục đào tạo. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,

Đảng ta đã xác định coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Sự

quan tâm đầu tư đó đã mang lại những thành tích nhất định. Đến nay, Việt Nam

đã cơ bản xoá được nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tiến trình phổ cập

trung học cơ sở đang được tiến hành. Đến hết năm 2004 đã có 20 tỉnh thành

trong cả nước được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến

năm 2006 con số này đã tăng nên 29 tỉnh thành phố.

Giáo dục phổ thông phát triển được thể hiện ở số trường học xây dựng

mới ngày càng tăng. Năm học 2000-2001 số trường học phổ thông là 24692

trường, đến năm 2003-2004 số trường học tăng lên 26352 trường, năm 2005-

2006 số trường đã là 27227 trường. Và năm học vừa qua 2006-2007 là 27593

trường học.

Như vậy, số trường phổ thông năm nào cũng tăng. Năm học 2000- 2001,

số trường tăng 102,8%; năm 2003-2004 số trường tăng 102% và đến năm 2006-

2007 số trường học tăng đạt mức 101,3%.

Bảng 3: Số trƣờng và lớp học từ năm 2000 đến năm 2006

43

Năm học 2000 2002 2003 2004 2005 2006

- 2001 24692 13859 7741 1258 - 2003 25825 14163 8396 1532 - 2004 26352 14346 8745 1664 - 2005 26817 14518 9041 1828 - 2006 27227 14688 9383 1952 - 2007 27593 14834 9635 2044

509,6 522,2 520,9 519,7 508,7 501,2

Số trƣờng học Tiểu học THCS THPT Số lớp học (Nghìn lớp) Tiểu học THCS THPT 320,1 144,4 45,1 308,8 161,3 52,1 299,4 165,7 55,8 288,9 170,9 59,9 276,6 167,5 64,6 270,0 163,8 67,2

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.516.

Như vậy, số lớp học năm học 2000-2001 là 509600 lớp, đến năm 2002-

2003 tăng lên tới 522200 lớp, tăng 100,7% so với năm học trước. Tuy nhiên tới

năm học 2003-2004, số lớp học phổ thông bắt đầu giảm: 520900 lớp chỉ bằng

99,8% so với năm học trước. Đến năm 2004-2005 còn 519700 lớp; Năm học

2005-2006 còn 508700 lớp, bằng 97,9% so với năm học trước. Và đến năm học

vừa qua, số lớp tiếp tục suy giảm còn 501200 lớp.

Tương ứng với số lớp học giảm, số học sinh phổ thông cũng giảm theo.

Bảng 4: Số học sinh phổ thông từ năm 2000 đến năm 2006.

Đơn vị: Nghìn người

Năm

Số HS 2000 - 2001 17776,1 2002 - 2003 17699,6 2003 - 2004 17505,4 2004 - 2005 17122,6 2005 - 2006 16650,6 2006 - 2007 16256,6

TH 9741,1 8815,7 8346,0 7744,8 7304,0 7029,4

THCS 5863,6 6429,7 6569,8 6616,7 6371,3 6152,0

THPT 2171,4 2454,2 2598,6 2761,1 2975,3 3075,2

44

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.542

Năm học 2000-2001 số học sinh các cấp là 17.776.100 học sinh thì đến

năm học 2002-2003 số học sinh giảm nhẹ còn 17.699.600, chỉ bằng 99% so với

năm học trước; năm học 2003-2004 giảm còn 17.505.400 học sinh; năm học

2005-2006 còn 16.650.600 học sinh, bằng 97,2% so với năm trước đó. Và năm

2006-2007 số học sinh phổ thông tiếp tục giảm chỉ còn 16.256.600 học sinh bằng

97,6% so với năm học 2005-2006.

Như vậy, trong những năm qua số học sinh phổ thông có giảm đi đôi chút

qua các năm có thể do biến động của dân số. Số trường học được xây dựng nhiều

hơn trong khi số học sinh giảm đi đã góp phần xoá bỏ tình trạng thiếu trường

lớp, học sinh phải học ca 3, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Với quan

điểm phải đặt chất lượng giáo dục và đào tạo lên hàng đầu, trong những năm gần

đây Việt Nam đang tăng cường thực hiện cải cách để nâng cao chất lượng giáo

dục. Điều đó được thể hiện qua các chương trình đổi mới nội dung, chương trình,

phương pháp giảng dạy, học tập; đổi mới thi cử và phương pháp đánh giá chất

lượng giáo dục. Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã cho ra đời một cơ quan chuyên

trách để kiểm định chất lượng giáo dục là Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng

giáo dục nhằm có thể có những đánh giá, kiểm tra khách quan khoa học và

chuyên nghiệp hơn về chất lượng dạy và học, qua đó có cơ sở để xây dựng các

biện pháp phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục. Để chất lượng giáo dục phản

ánh đúng thực chất, không chạy theo thành tích, trong năm học vừa qua Bộ giáo

dục và Đào tạo cũng đã đưa ra các cuộc vận động như: “Nói không với bệnh

thành tích và tiêu cực trong thi cử”, “Nói không với tình trạng học sinh ngồi

nhầm chỗ, giáo viên đứng nhầm lớp và vi phạm đạo đức nhà giáo”. Và mới đây

là cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng yêu

cầu của xã hội”. Những cuộc vận động này bước đầu đã mang lại những kết quả

45

tích cực. Đã tạo ra được không khí học tập nghiêm túc và thái độ đúng đắn hơn

của các em học sinh cũng như của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục và đào

tạo.

Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo và từ yêu cầu của các cuộc vận động kể trên, SGK đang được đổi mới theo hướng gắn với yêu cầu phát triển và cập nhật nhiều tri thức mới, xích lại gần hơn với yêu cầu của kinh tế tri thức, tạo cơ sở nội dung để xây dựng các phương pháp dạy học mới: học đi đôi với hành, chú trọng dạy các kỹ năng thực tế, sát sườn với cuộc sống. Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức, khả năng tập luyện thể chất cũng được quan tâm truyền thụ cho học sinh phổ thông nhằm phát triển toàn diện về học vấn, kỹ năng sống, nhân cách cho học sinh, nguồn nhân lực trong tương lai gần của sự nghiệp CNH- HĐH và phát triển kinh tế tri thức.

Để thực hiện thành công những mục tiêu trên, đội ngũ giáo viên có chất lượng đóng vai trò cực kỳ quan trọng bởi “không thầy đố mày làm nên”, sự nghiệp cải cách giáo dục có thành công hay không, các tri thức mới, các phẩm chất đạo đức tốt đẹp có truyền thụ được tới học sinh hay không đều phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng của đội ngũ giáo viên. Có nhiều thầy cô giỏi, mới hy vọng có nhiều học trò giỏi. Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên phổ thông không ngừng tăng lên.

Bảng 5: Số giáo viên phổ thông từ năm 2000-2006

Năm 2000 - 2001 2002 - 2003 2003 - 2004 2004 - 2005 ĐVT: nghìn người 2005 - 2006 2006 - 2007

661,7 723,5 755,4 771,0 780,5 789,6

giáo trực giảng

355,9 233,8 72,0 363,1 271,8 88,6 366,2 290,4 98,8 362,4 302,5 106,1 354,8 310,2 115,5 349,5 314,9 125,2 Số viên tiếp dạy TH THCS THPT

46

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.524

Số liệu thống kê cho thấy số lượng giáo viên trực tiếp giảng dạy ở bậc học phổ thông không ngừng tăng lên qua các năm. Năm học 2000-2001 tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy là 661.700 người, thì đến năm sau, năm học 2002-2003 đã tăng thêm 61.800 người, lên 723.500 người (tỷ lệ tăng 104,2%) . Đến năm 2003-2004 là 755.400 người và đến năm 2006-2007 số giáo viên đã đạt mức 789.600 người.

Bậc tiểu học, số lượng giáo viên trực tiếp giảng dạy tăng nhẹ từ năm 2000-2001 đến năm 2003-2004 và sau đó lại bắt đầu giảm nhẹ cho đến năm 2006-2007. Điều đó xuất phát từ sự suy giảm số học sinh của bậc tiểu học. Tuy nhiên, số lượng giảm sút không đáng kể. Đối với bậc THCS tình trạng tương tự cũng diễn ra; chỉ có bậc THPT số lượng giáo viên tăng đều qua các năm : từ 72.000 người năm 2000-2001 đã tăng lên 125.200 người năm 2006-2007.

Về chất lượng đội ngũ giáo viên, để thực hiện thành công sự nghiệp cải cách của ngành giáo dục đào tạo cũng như của các cuộc vận động gần đây của Bộ Giáo dục đào tạo, đội ngũ giáo viên cũng cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nhất là đối với đội ngũ giáo viên ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo chất lượng còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế này xuất phát ngay từ khâu thi tuyển đầu vào của các trường sư phạm địa phương. Tuy vậy, đây là vấn đề lớn, không thể chỉ giải quyết ngày một ngày hai bởi nó còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của địa phương.

2.1.2.3. Đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề

Từ khi tiến hành sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, nhu cầu của nền kinh tế Việt Nam đối với nguồn nhân lực có trình độ THCN và dạy nghề là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về công nhân kỹ thuật lành nghề, hệ thống đào tạo THCN và dạy nghề của nước ta đã có nhiều thành tựu đáng kể, cung cấp nguồn nhân lực có đào tạo nghề cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy vậy, số lượng đào tạo, chất lượng lao động nghề, cơ cấu đào tạo còn nhiều bất cập, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

47

Bảng 6: Đào tạo THCN và dạy nghề ở Việt Nam thời gian qua 2005 284 Năm Số trường học 2000 253 2002 245 2003 268 2004 285 2006 269

10.1 10.3 11.1 13.9 14.2 14.5

255.4 389.3 360.4 466.5 500.3 468.8 Số giáo viên (nghìn người) Số sinh học (nghìn học sinh)

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.546.

Số liệu thống kê cho thấy số trường THCN và dạy nghề có xu hướng tăng

từ năm 2000: 253 trường; năm 2003 là 268 trường. Đến năm 2004 đạt mức cao

nhất là 285 trường. Tuy nhiên sau đó số trường THCN và dạy nghề đã giảm dần:

Đến năm 2005 là 284 trường và năm 2006 chỉ còn 269 trường. Tuy số trường

THCN và dạy nghề có giảm nhưng số lượng giáo viên và số học sinh vẫn không

ngừng tăng lên qua các năm. Số giáo viên từ 10100 năm 2000 đã tăng lên 14500

người vào năm 2006. Số học sinh cũng tăng liên tục từ 255400 lên 500300 người

vào năm 2005 và sang năm 2006 có giảm đôi chút còn 468800 người.

Tuy vậy, điều đáng quan tâm hơn cả là số lượng công nhân kỹ thuật được

đào tạo ở bậc THCN và dạy nghề trong mối tương quan với số lượng sinh viên

đại học và cao đẳng. Bởi vì trên thế giới các quốc gia khi bước vào thời kỳ CNH-

HĐH thông thường cần một lượng rất lớn công nhân kỹ thuật được đào tạo từ

các trường THCN và dạy nghề. Số lượng công nhân kỹ thuật luôn phải được cung

ứng nhiều hơn nhiều lần số lượng nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học. Tuy vậy,

hiện nay ở Việt Nam, số lượng người học trung học chuyên nghiệp và dạy nghề lại

ít hơn rất nhiều so với số sinh viên đang được đào tạo ở hệ cao đẳng, đại học.

Số lượng từ Tổng cục Thống kê cho thấy nếu như năm 2000 số học sinh

trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có 255400 em thì ở bậc cao đẳng, đại học

số sinh viên là 899500 người (nhiều hơn 3,52 lần). Đến năm 2006, số học sinh

trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có 468800 học sinh thì ở bậc cao đẳng, đại

học có 1666200 sinh viên, nhiều hơn 3,55 lần. Các con số thống kê trên cho thấy

48

cơ cấu đào tạo hiện nay rất bất hợp lý.

Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tình trạng nói trên nhưng có thể

nói rằng hệ đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề chưa nhận được sự

quan tâm đầy đủ. Số học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT đã không được

phân luồng, giáo dục định hướng cộng với tâm lý chuộng khoa cử bằng cấp, học

vị của xã hội đã dẫn đến tình trạng các em học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đổ

xô thi vào các trường đại học, cao đẳng, đi học cao đẳng, đại học bằng mọi giá,

thậm chí có em đi thi không đỗ đã phải tìm đến cái chết do áp lực của gia đình,

xã hội.

Sự bất hợp lý còn thể hiện trong cơ cấu ngành nghề: Có những ngành nghề

được đào tạo ồ ạt theo thị hiếu của người học, theo phong trào, theo “mốt” mà

không quan tâm tới nhu cầu của thị trường lao động. Kết quả là có những ngành

nghề có nhu cầu tuyển dụng lao động lớn, thu nhập cao nhưng lại không có nhân

lực đáp ứng, còn những ngành nghề mà có nhiều lao động được đào tạo thì lại có

nhiều người thất nghiệp. Họ thất nghiệp vì có hai lý do: Thứ nhất, nhu cầu thị

trường lao động thấp trong khi nguồn cung cao. Thứ hai, chất lượng đào tạo

thấp, người lao động không có kỹ năng làm việc thực tế. Trước tình hình đó,

nguyên Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Nguyễn Thị Hằng đã có một phát biểu trên báo

Tuổi Trẻ rằng: Chúng ta đang phải đối diện với nguy cơ: Xuất khẩu lao động phổ

thông, nhập khẩu lao động có tay nghề! Trong thực tế, đây không còn là nguy cơ

mà đã có nhiều trường hợp xảy ra. Các dự án lớn đòi hỏi công nhân kỹ thuật có

tay nghề cao, các chủ đầu tư đã phải nhập khẩu lao động kỹ thuật từ nước ngoài

vào Việt Nam làm việc như các thợ hàn bậc cao làm việc ở dự án đường ống dẫn

khí Nam Côn Sơn, thợ thiết kế mẫu cho ngành may mặc, da giầy, phải đưa từ

Băng-la-đét, Trung Quốc sang…

Ngoài ra, chất lượng giáo viên dạy nghề và THCN cũng chưa đáp ứng

được các yêu cầu đặt ra hiện nay, kỹ năng thực hành yếu, năng lực sử dụng ngoại

49

ngữ không đủ để đọc tài liệu tham khảo nước ngoài… Tóm lại, vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật để phục vụ CNH-HĐH rút ngắn

và phát triển kinh tế tri thức còn nhiều bất cập, tồn tại cần được quan tâm giải

quyết, trong đó nổi cộm lên là các vấn đề về quy mô, cơ cấu và chất lượng đào

tạo.

2.1.2.4. Nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam hiện nay

Như luận văn đã trình bày, nguồn nhân lực để tiếp cận và phát triển kinh tế

tri thức phải là nguồn nhân lực có chất lượng cao hay nói cách khác đó là nguồn

nhân lực khoa học, công nghệ. Chất lượng của nguồn khoa học công nghệ cao

hay thấp phụ thuộc chủ yếu vào quá trình đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học. Nhận

thức được tầm quan trọng của bậc đào tạo cao đẳng, đại học đối với nguồn nhân

lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm

đầu tư cho bậc đào tạo này. Ngân sách Nhà nước dành cho đào tạo đại học, cao

đẳng không ngừng tăng lên. Nhà nước ban hành nhiều văn bản quy định khung

pháp lý cho lĩnh vực đào tạo này. Nhờ thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục,

đã có nhiều đóng góp từ các nguồn vốn khác nhau, các tầng lớp nhân dân, các tổ

chức trong và ngoài nước góp phần phát triển giáo dục đại học cao đẳng trong

thời gian qua.

Bảng 7: Giáo dục cao đẳng, đại học từ 2000 – 2006

2000 178 148 30 2002 202 179 23 2003 214 187 27 2004 230 201 29 2005 255 220 35 2006 299 253 46

(nghìn 32.3 38.7 40.0 47.6 48.6 53.4

899.5 1020.7 1131.0 1319.8 1387.1 1666.2 Năm Số trường học Công lập Ngoài công lập Số giáo viên người) Số sinh viên (nghìn sinh viên)

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.541.

Năm 2000, cả nước có 178 trường đại học, cao đẳng với số giáo viên là

50

32300 người, số sinh viên là 899500 sinh viên. Tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/28.

Đến năm 2003, số trường đại học, cao đẳng tăng lên 214 trường, số giáo viên là

40000 người với 113100 sinh viên, tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/28,3. Đến năm

2006, có 1666200 sinh viên theo học tại 299 trường cao đẳng, đại học với 53400

giáo viên, tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/31,2.

Qua kết quả trên cho thấy năm 2000 cứ 28 sinh viên thì có 1 giáo viên phụ

trách; đến năm 2006 tỷ lệ này là 31,2 sinh viên mới có 1 giáo viên phụ trách.

Như vậy số lượng sinh viên theo học ở bậc cao đẳng, đại học ngày càng tăng

trong khi số lượng giáo viên tăng lên chưa theo kịp tốc độ tăng lên của số lượng

người học. Bởi vì năm 2000, có 899500 sinh viên, đến năm 2006 số sinh viên đã

tăng 1,85 lần, lên 1666200 sinh viên trong khi năm 2000 số giáo viên là 32300

người. Đến năm 2006, số giáo viên chỉ mới tăng lên 1,65 lần, lên 53400 giáo

viên. Các số liệu trên cho thấy yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao ngày

càng tăng lên cùng với tiến trình thực hiện CNH-HĐH và tiếp cận, phát triển

kinh tế tri thức.

Ngoài số lượng sinh viên được đào tạo chính quy kể trên, còn có nhiều

hình thức đào tạo khác như các lớp hệ tại chức, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, học

từ xa… Mỗi năm đào tạo trình độ cao đẳng, đại học cho hàng chục nghìn lượt

cán bộ, sinh viên, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ

thuật cho sự phát triển của các ngành nghề của kinh tế tri thức.

Bên cạnh đó, bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau như ngân sách Nhà

nước, viện trợ của nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, các chính phủ các nước,

các doanh nghiệp cũng như nguồn tài chính của cá nhân tự túc, hàng năm có hàng

ngàn sinh viên Việt Nam được đưa ra nước ngoài học tập, tiếp cận với trình độ

khoa học công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến của các nước phát triển.

Đây là đội ngũ đã và đang có nhiều đóng góp vào việc nâng cao chất lượng nguồn

51

nhân lực cho đất nước, tiếp cận với yêu cầu của phát triển kinh tế tri thức.

Như vậy, về số lượng, cơ bản giáo dục đại học và cao đẳng đã phần nào

đáp ứng được nhu cầu tri thức hoá lực lượng lao động cho nền kinh tế song trong

bối cảnh số lượng sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên rất nhanh thì chất lượng

đào tạo cũng còn nhiều bất cập, nguồn nhân lực trình độ đại học, cao đẳng có

đông mà thiếu “tinh” dẫn tới xuất hiện khoảng cách giữa năng lực trình độ của

nguồn nhân lực với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và phát triển

những ngành nghề có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng KH-CN cao. Điều đó xuất

phát từ cơ sở vật chất, dù đã được quan tâm đầu tư nhưng chưa theo kịp yêu cầu

đào tạo nhân lực trình độ cao đẳng, đại học. Tiếp đó là vấn đề chất lượng của đội

ngũ giáo viên. Các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam có nhiều nguồn tuyển

chọn giáo viên khác nhau nhưng chủ yếu là bằng cách giữ lại những sinh viên tốt

nghiệp loại giỏi của chính trường mình để đào tạo thành giảng viên. Đây là cách

làm hay, tuyển chọn được nhân tài ưu tú trong hàng ngàn, hàng chục ngàn sinh

viên. Tuy nhiên, quá trình đào tạo những sinh viên đó để đến khi có học vị thạc

sỹ, tiến sĩ có khi mất từ 3 tới 5, 6 năm trong khi số lượng sinh viên không ngừng

tăng lên qua mỗi năm. Điều đó đã dẫn tới một thực tế ở nhiều trường đại học

sinh viên mới ra trường đã đứng trên bục giảng dạy cho sinh viên mới nhập

trường mà chúng ta thường có câu nói “Cơm chấm cơm” để phản ánh tình trạng

trên. Vì vậy, chất lượng của nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học đã bị ảnh

hưởng không ít. Số liệu thống kê trong bảng dưới đây phản ánh trình độ của giáo

viên cao đẳng, đại học hiện nay:

Bảng 8: Trình độ chuyên môn của giáo viên cao đẳng, đại học

ở Việt Nam từ 2000 - 2006.

Đơn vị tính: người

Năm 2000 2002 2003 2004 2005 2006

Tổng số 32.357 38.671 39.985 47.613 48.541 53.364

52

Trên đại học 12.656 16.708 17.628 21.284 23.861 24.325

Đại học 19.321 21.302 21.845 25.598 24.169 28.460

Trình độ khác 380 661 512 731 511 579

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.542.

Năm 2000 chúng ta có 32357 giáo viên cao đẳng, đại học thì chỉ có 12656

giảng viên có trình độ sau đại học, còn lại gần 20000 giáo viên chỉ có trình độ

cao đẳng, đại học. Sự chênh lệch giữa giảng viên có trình độ sau đại học và trình

độ cao đẳng, đại học giảm dần qua các năm 2002, 2003, 2004 cho đến năm 2005

số giảng viên có trình độ sau đại học là 23861 người, chiếm tỷ lệ 49,2% và số

giảng viên trình độ đại học, cao đẳng là 24169 người, chiếm tỷ lệ 50,8%.

Như vậy, ở các trường cao đẳng, đại học của Việt Nam, số giảng viên có

trình độ sau đại học trong giai đoạn 2000-2006 chỉ chiếm từ 39-49% tổng số giáo

viên. Số giảng viên có học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa học chỉ mới chiếm tỷ lệ 23,5%

và số giảng viên có học hàm PGS, GS chỉ chiếm khoảng 9%, thậm chí có nhiều

trường còn chưa có một giảng viên nào có học hàm PGS, GS.

Ngoài ra, cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo trong các ngành nghề

không đồng đều nhau. Nguồn nhân lực theo học các ngành khoa học xã hội trong

đó có kinh tế chiếm 56%, khoa học tự nhiên 19%, khoa học nông nghiệp 8%...

Như vậy, mặc dù Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nhưng tỷ lệ

nguồn nhân lực được đào tạo cao đẳng, đại học về nông nghiệp là quá ít. Do vậy,

sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn phải dựa vào sức người lao động

phổ thông là chủ yếu, việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại

vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cán bộ kỹ thuật nghiêm trọng chứ

chưa nói gì đến việc tiếp cận những tri thức của công nghệ sinh học trong kinh tế

tri thức.

Trong các ngành khoa học xã hội thì nhóm ngành kinh tế và luật có mức

tăng trưởng nhanh nhất trong những năm gần đây. Thực tế này xuất phát từ nhu

53

cầu của người học và của xã hội nhưng nếu cứ để tự phát thì mức độ mất cân đối

trong nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn. Hiện tượng

thiếu nhân lực các ngành khoa học công nghệ sẽ là lực cản cho việc tiếp cận

công nghệ mới trong quá trình CNH-HĐH rút ngắn cũng như phát triển kinh tế

tri thức ở Việt Nam.

2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt

Nam thời gian qua

Phần lớn nguồn nhân lực nước, ta tập trung chủ yếu ở ba khu vực: đồng

bằng sông Hồng: 9,89 triệu người chiếm tỷ lệ 19,36% cả nước; đồng bằng sông

Cửu Long có 11,61 triệu người, chiếm tỷ lệ 22,72% cả nước và Đông Nam Bộ là

7,96 triệu người, chiếm tỷ lệ 15,58% cả nước. Trong khi đó, khu vực Tây

Nguyên, Tây Bắc số lượng nguồn nhân lực ít nhất: Tây Nguyên có 1,52 triệu lao

động, chiếm tỷ lệ 2,98% cả nước và Tây Bắc 1,5 triệu lao động chiếm tỷ lệ

2,93% cả nước.

Bảng 9: Số lƣợng lao động phân bố theo vùng lãnh thổ

Đơn vị tính: Nghìn người

54

Vùng 1995 2000 2005

Cả nước 38955 45175 51083

Đông Bắc 5538 6480 7486

Tây Bắc 1238 1253 1492

Đồng bằng sông Hồng 7797 8946 9897

Bắc Trung Bộ 4995 5857 6790

Duyên Hải Nam Trung Bộ 3346 3832 4316

Tây Nguyên 1128 1345 1525

Đông Nam Bộ 6276 7150 7960

8637 Đồng bằng sông Cửu Long 10311 11671

Ngoài ra, sự phân bố nguồn nhân lực ở Việt Nam có đặc điểm là dân số và

lao động nông thôn chiếm tỷ lệ rất lớn từ 65-75%. Năm 2000, dân số nông thôn

chiếm 76%, dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn chiếm 65% tổng số nguồn

nhân lực cả nước. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã làm số lượng lao

động nông thôn giảm nhanh. Tuy nhiên, theo dự báo đến năm 2020 số lao động

trong độ tuổi ở nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn nguồn nhân lực của cả nước.

Đối với lao động kỹ thuật, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng lại phân bổ

không đồng đều giữa các vùng, tỉnh, thành phố. Lao động có trình độ chuyên

môn tập trung chủ yếu ở hai thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và hai

vùng: đồng bằng sông Hồng (18% cả nước), Đông Nam Bộ (37% cả nước). Các

vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm tỷ trọng như

trong tổng số lực lượng lao động kỹ thuật của cả nước. Sự phân bố bất hợp lý

này còn thể hiện giữa các ngành: ngành nông lâm-nghiệp với hơn 65% lao động

chỉ có khoảng 14% tổng số lao động có tình độ chuyên môn kỹ thuật. Khu vực

dịch vụ chiếm hơn 52%; công nghiệp và xây dựng chiếm hơn 34% tổng số lao

động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. trong khi lực lượng lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật phục vụ nông nghiệp đã ít nhưng lại có tới 89% làm việc ở

55

các cơ quan trung ương; 8,9% làm việc ở cấp tỉnh và thành phố; 1,8% làm việc ở

cấp huyện; còn cấp xã hầu như không có. Bên cạnh đó, đa số cán bộ khoa học-

công nghệ làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước

(chiếm 67,3%), trong đó ngành giáo dục chiếm 43%, các ngành kinh doanh chỉ

chiếm 32,7%; trong khi tỷ lệ này ở Hàn Quốc là 48%, ở Thái Lan 58,2% và Nhật

Bản là 64,4%. Trong số các cán bộ có trình độ trên đại học có tới 94% làm việc

ở các trường đại học, các cơ quan trung ương và các thành phố lớn.

Sự mất cân đối trong đào tạo, chất lượng đào tạo chưa cao đã góp phần

làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị và của lao động đã

qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tăng lên

còn do số học sinh các trường đại học và trung học chuyên nghiệp tốt nghiệp ra

trường thường tìm cách ở lại thành phố lớn, làm gia tăng lực lượng thất nghiệp

khu vực thành thị.

Bảng 10: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lƣợng lao động trong độ tuổi khu vực thành

thị.

Đơn vị tính: %

Vùng

Cả nước Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long 2002 6,01 6,64 6,10 5,11 5,82 5,50 4,90 6,30 5,50 2000 6,42 7,34 6,49 6,02 6,87 6,31 5,16 6,16 6,15 2003 5,78 6,38 5,93 5,19 5,45 5,46 4,39 6,08 5,26 2004 5,60 6,03 5,45 5,30 5,35 5,70 4,53 5,92 5,03 2006 4,82 6,42 4,32 3,89 5,50 5,36 2,38 5,47 4,52

2005 5,31 5,61 5,12 4,91 4,98 5,52 4,23 5,62 4,87 Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.57.

Đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ làm công tác nghiên cứu và

56

phát triển thì tỷ lệ có trình độ sau đại học khá thấp. Trong số 13.388 cán bộ thuộc

74 viện nghiên cứu thì số tiến sỹ khoa học và tiến sỹ là 1.299 người, chiếm tỷ lệ

9,7%; số thạc sỹ là 459 người, chiếm tỷ lệ 3,43%; số người mới tốt nghiệp đại

học, cao đẳng là 6573 người chiếm tỷ lệ 49,1%. Số lao động trung cấp là 1399

người chiếm tỷ lệ 10,45%. Các trình độ khác là 2000 người, chiếm 21,57%

(Theo số liệu của Dự án Rapore, Hà Nội, 1999). Như vậy, tỷ lệ cán bộ làm công

tác nghiên cứu sáng tạo như trên thì chưa đáp ứng được nhiều so với yêu cầu đặt

ra của kinh tế tri thức. ở Hàn Quốc, trong các viện nghiên cứu khoa học, công

nghệ thì tỷ lệ cán bộ có trình độ tiến sỹ là 29,48%, thạc sỹ là 45,78%.

Theo một điều tra của Bộ Giáo dục Đào tạo đối với 65 trường đại học, cao

đẳng trong cả nước thì tỷ lệ sinh viên các trường đại học cao đẳng có việc làm

ngay sau tốt nghiệp là 78,2%; 7,25% đang đi học thêm và có tới 14,55% không

có việc làm [4].

Cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng như chất lượng đào tạo thấp cũng là

những nguyên nhân chủ yếu làm ra tăng tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học cao

đẳng không có việc làm hoặc làm trái ngành nghề đào tạo. Điều này thể hiện rõ

nét trong ngành công nghệ thông tin nhu cầu của thị trường lao động cần một số

lượng lớn lao động về công nghệ phần mềm, mạng máy tính với mức lương cao

thế nhưng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành về công nghệ thông tin lại

không đáp ứng được yêu cầu công việc do các chương trình đào tạo ở trường

không bám sát với thực tế. Ngoài ra, do cơ cấu đào tạo bất hợp lý cho nên những

ngành có số lượng đào tạo nhiều thì thị trường lao động lại không tiếp nhận hết

như các ngành thuộc khối kinh tế, quản trị kinh doanh và luật, hàng năm có

khoảng trên 200 ngàn sinh viên tốt nghiệp và có một phần lớn trong số đó làm

không đúng ngành nghề đào tạo. Trong khi những ngành kỹ thuật hiện nay đang

có nhu cầu lớn lại không có đủ lao động. Như vậy, nhân lực nơi thừa vẫn cứ thừa

nơi thiếu vẫn cứ thiếu, gây ra thiệt hại “kép” cho xã hội.

57

2.2. Nhận xét chung

2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân

2.2.1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao có tốc độ phát triển nhanh về số

lượng

Số lượng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam

trong những năm vừa qua không ngừng tăng lên. Tỷ lệ lao động được đào tạo

tăng nhanh, đặc biệt là đào tạo nghề ngày càng được mở rộng.

Bảng 11: Lực lƣợng lao động đƣợc đào tạo từ 2002-2006

Đơn vị tính: Nghìn người

Sơ cấp THCN CĐ-ĐH

Năm

Tổng số LĐ được đào tạo 2002 1528.1 CNKT Tỷ lệ Số (%) lượng 118.1 7.7 Số lượng 42.5 Tỷ lệ (%) 2.8 Tỷ lệ Số (%) lượng 389.3 25.5 Số lượng 1020.7 Tỷ lệ (%) 66.8

2003 1694.0 142.2 8.4 60.4 3.6 360.4 21.3 1131.0 66.8

2004 2005.3 148.0 7.4 71.0 3.54 466.5 23.3 1319.8 65.8

2005 2161 196.8 9.1 76.8 3.6 500.3 23.2 1387.1 64.19

2006 2433.6 208.5 8.6 90.1 3.7 468.8 19.26 1666.2 68.45

Nguồn: Tổng cục tiêu chuẩn Việt Nam (2007), Chuyên san chất lượng

vàng, (2).

Như vậy, lực lượng lao động được đào tạo có tốc độ tăng nhanh. Số lượng

lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên có khoảng 2.318.000 người, riêng

số người có học hàm GS, PGS là hơn 7.000 người. Có hơn 14 nghìn tiến sĩ

chuyên ngành, 70 tiến sĩ khoa học; có hơn 16.000 thạc sỹ, có hơn 60.000 cán bộ

làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, có khoảng 58.000 cán bộ giảng

dạy trong các trường đại học, cao đẳng và THCN. Số sinh viên tốt nghiệp cao

đẳng, đại học hàng năm cũng tăng lên rất nhanh từ 78.500 người năm 1996 tăng

lên 162.500 người năm 2000 và tới năm 2006 con số sinh viên tốt nghiệp cao

58

đẳng, đại học là 230.000 người.

Sự tăng lên khá nhanh của đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật ở

Việt Nam những năm vừa qua cũng như triển vọng phát triển trong giai đoạn tới

là do Đảng và Nhà nước rất quan tâm đầu tư nhân, tài, vật lực cho công tác đào

tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Ngân sách Nhà nước dành cho

giáo dục đào tạo đã tăng dần từ 11% tổng ngân sách Nhà nước năm 1996 lên

15% năm 2000 và đến năm 2006 ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đào tạo

đã đạt 21% tổng ngân sách Nhà nước, đảm bảo đáp ứng hơn 70% nhu cầu cơ bản

của giáo dục đào tạo. Cơ sở trường lớp đào tạo được sửa chữa, xây mới và trang

bị thêm nhiều thiết bị dạy học và nghiên cứu khoa học; đội ngũ cán bộ giảng

viên được tăng thêm cả về số lượng lẫn chất lượng đã nâng cao đáng kể năng lực

đào tạo của các trường.

Năm học 2006 - 2007 tính cả hệ công lập và ngoài công lập cả nước có

139 trường đại học, 160 trường cao đẳng, 269 trường THCN, 196 trường dạy

nghề và 180 trung tâm dạy nghề, hàng năm có thể tiếp nhận đào tạo khoảng hơn

120000 sinh viên đại học, hơn 100000 sinh viên cao đẳng và hàng chục vạn học

sinh học nghề chính quy. Chỉ tiêu đào tạo nghề đã tăng từ 447000 năm 1997 lên

887000 năm 2001 và 1320000 năm 2006, tăng bình quân 18%/năm, trong đó đào

tạo dài hạn tăng 23%/năm.

Từ năm 2002 đến 2006, xét về mặt tương đối số lượng công nhân kỹ thuật

tăng từ 4,68 lên 5,92%, cán bộ trung cấp tăng từ 3,95% lên 4,98% và cán bộ có

trình độ cao đẳng, đại học có mức tăng từ 2,4% lên 3,96%. Đây là xu hướng tăng

trưởng rất tích cực trong phát triển nguồn nhân lực có trình độ phục vụ CNH-

HĐH và kinh tế tri thức ở Việt Nam.

2.2.1.2. Mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được

hình thành và phát triển rộng khắp

Đến năm học 2006-2007, cả nước có 253 trường đại học và cao đẳng công

59

lập, trong đó có 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng và 102 trường đại học đa

ngành và chuyên ngành, 151 trường cao đẳng. Ngoài ra còn có 46 trường đại học

dân lập. Năm học 2006-2007 số sinh viên tuyển mới là 224.226 người, số sinh

viên đang theo học là 898.246 người.

Đối với đào tạo sau đại học, hiện nay nước ta có 135 cơ sở đào tạo tiến sĩ

và thạc sỹ, trong đó có 109 cơ sở đào tạo tiến sĩ với 6 nhóm chuyên ngành: Khoa

học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học y dược, khoa học quân sự, khoa học

nông nghiệp và khoa học kỹ thuật với quy mô tuyển sinh hàng năm đều tăng. Từ

năm 1977 đến nay, chúng ta đã đào tạo và tổ chức bảo vệ luận án, luận văn và

cấp bằng cho 1200 thạc sỹ, 5327 tiến sĩ chuyên ngành, 46 tiến sĩ khoa học [31].

Ngoài ra, chúng ta còn gửi đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là các nước phát

triển nhiều sinh viên giỏi, xuất sắc theo học các chương trình đào tạo thạc sỹ,

tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học nhằm cung cấp đội ngũ nhân lực có trí

tuệ cao phục vụ đắc lực tiến tình CNH-HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam.

2.2.1.3. Đã xây dựng được mối quan hệ với đội ngũ trí thức Việt kiều và

nước ngoài tạo cơ sở thu hút chất xám từ bên ngoài

Hiện nay, có khoảng hơn 400.000 trí thức Việt Nam đang sinh sống và

làm việc ở gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung nhiều nhất ở

các nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển cao như Mỹ, Canada, Nhật,

Pháp, Đức… và một số nước Đông âu.

Do được sống, đào tạo và lao động trong môi trường khoa học công nghệ

hiện đại, tiên tiến của các nước phát triển nên nhiều trí thức Việt kiều có trình độ

khoa học công nghệ cũng như năng lực quản lý rất cao trong nhiều ngành nghề

đòi hỏi trình độ chuyên môn, kể cả những ngành mũi nhọn về KH-CN như tin

học, viễn thông, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, tài

chính ngân hàng, y tế… Hầu hết trí thức Việt kiều có tinh thần dân tộc cao, có

60

lòng yêu nước, gắn bó tình cảm với quê hương, đất nước. Họ mong muốn đóng

góp phần công sức của mình giúp bà con họ hàng của mình phát triển kinh tế và

tiến tới làm giàu. Vì vậy, trong nhiều năm qua nhất là từ khi đất nước thực hiện

công cuộc đổi mới và có nhiều chính sách thông thoáng đối với bà con Việt kiều,

đội ngũ nhân lực người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều đóng góp tham gia

tích cực vào sự nghiệp phát triển và hiện đại hoá đất nước.

2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân

Nhìn chung số lượng nguồn nhân lực có chất lượng tuy tăng nhanh nhưng

chưa đáp ứng được yêu cầu để phát triển kinh tế tri thức.

Tay nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc thực tế của nguồn nhân lực

nước ta còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình CNH-HĐH

và phát triển kinh tế tri thức. Điều đó được lý giải bởi một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, do dân trí thấp, tốc độ nâng cao dân trí diễn ra chậm. Thực tế là

sau vài chục năm, Việt Nam đã nỗ lực để đạt được tỷ lệ hơn 90% dân số biết

chữ, nhưng hiện nay lại đang diễn ra quá trình tái mù chữ nghiêm trọng. Nhất là

ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa có xã số người mù chữ lên tới hơn 70%;

trong số trẻ em ở độ tuổi đi học chỉ có hơn 50% trẻ em học hết cấp I. Trong khi

những trẻ em này trong vòng 1-2 thập kỷ nữa lẽ ra phải trở thành nguồn nhân lực

chính của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và tiến vào kinh tế tri thức.

Thứ hai, tỷ lệ lao động được đào tạo thấp, tình trạng lao động làm việc trái

nghề còn phổ biến. Tính đến cuối năm 2005, số người được đào tạo chỉ mới

chiếm 29,5% tổng số lao động của cả nước và hiện vẫn còn 3,1% lao động không

biết chữ. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các ngành sản xuất của nước ta, đội

ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%, đội ngũ lao động làm công tác

phát minh, sáng chế, đổi mới kỹ thuật, công nghệ chỉ chiếm 18% trong khi tỷ lệ

tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72% [1].

Tỷ lệ lao động được đào tạo thấp dẫn tới chất lượng nguồn nhân lực bị hạn

61

chế. Đó là còn chưa kể đến chất lượng đào tạo. Trong khi số lượng lao động

được đào tạo thấp thì tình trạng đào tạo rồi nhưng không có việc làm hoặc phải

làm trái ngành, trái nghề vẫn tiếp tục diễn ra: Có tới 30% lao động có trình độ

đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp không làm việc đúng ngành nghề

đã đào tạo, 2,2% lao động đã được đào tạo chuyên môn kỹ thuật nhưng chưa có

việc làm. Đặc biệt tỷ lệ lao động làm việc trái ngành nghề đã đào tạo cao nhất là

nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở các trường THCN: Chỉ có trên 40% lao

động làm việc đúng nghề. Đối với sinh viên các khoa này ở các trường đại học

chỉ có 20% là làm việc đúng ngành nghề đào tạo. Trong số lao động chuyển đổi

ngành nghề chỉ có 42,5% lao động được đào tạo lại. Tình trạng này làm cho chất

lượng nguồn nhân lực càng bị hạn chế.

Thứ ba, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước còn bất cập.

Đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước chịu trách nhiệm vận hành,

điều khiển các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Đây là một bộ phận nhân

lực rất quan trọng không thể thiếu đối với sự nghiệp CNH-HĐH và phát triển

kinh tế tri thức. Trong những năm qua, chất lượng đội ngũ cán bộ đã được củng

cố nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác trong tình hình mới. Tuy vậy,

hiện vẫn còn 30% cán bộ, nhân viên nhà nước không đủ trình độ chuyên môn

hoặc làm không đúng chuyên ngành đã được đào tạo mà chủ yếu chỉ dựa vào

kinh nghiệm, thói quen.

Hiện tại còn có 10% công chức chưa tốt nghiệp THPT, 60,51% công chức

tốt nghiệp đại học, cao đẳng, 4,41% công chức có trình độ sau đại học, 14,47%

đã qua đào tạo về quản lý hành chính nhà nước, 27,19% được đào tạo về tin học

và có 37,07% được đào tạo về ngoại ngữ ở các trình độ khác nhau.

Nhìn chung, chất lượng công chức nhà nước hạn chế do số lượng cán bộ

nhân viên được đào tạo chưa cao, trình độ đào tạo lại thấp. Nhiều công chức còn

chịu ảnh hưởng của cách tư duy và làm việc theo cơ chế bao cấp: “Sớm vác ô đi,

tối vác về”. Do vậy, tính năng động, khả năng thích nghi của cán bộ công chức

62

trong cơ chế thị trường và thời kỳ hội nhập quốc tế chưa được nâng cao.

Thứ tư, sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ngũ nguồn nhân lực

kế cận.

Hiện tại, đội ngũ công nhân nước ta có khoảng 1,76 triệu người làm việc

trong khu vực kinh tế quốc doanh và khoảng 3,64 triệu người làm việc ở khu vực

ngoài quốc doanh, trong đó có khoảng gần 2 triệu công nhân kỹ thuật. Đây là lực

lượng lao động quan trọng trực tiếp vận hành thiết bị, máy móc, làm chủ các

công nghệ hiện đại của các ngành kinh tế kỹ thuật trong sự nghiệp CNH-HĐH

đất nước và phát triển kinh tế tri thức. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực

quốc doanh, chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn lại

được tuyển dụng bằng nhiều con đường khác nhau, tuổi đời bình quân của công

nhân tăng lên do những năm gần đây số lượng công nhân trẻ được nhận vào làm

việc ngày càng ít.

Bên cạnh đó là sự lão hoá, giảm đi của số lượng thợ bậc cao, công nhân

lành nghề nhất là trong khu vực kinh tế quốc doanh (công nhân bậc 5, 6, 7 chỉ

chiếm khoảng 3,9% tổng số công nhân). Tuy hiện nay nước ta có gần 70% công

nhân khu vực kinh tế quốc doanh có trình độ học vấn từ PTCS trở nên nhưng nội

dung, kiến thức mà nhà trường trang bị cho họ còn thiếu hụt và lạc hậu, chưa

đảm bảo đủ điều kiện để tiếp cận với công nghệ hiện đại. Đội ngũ công nhân

nước ta nói chung chưa có văn hoá lao động công nghiệp, hạn chế về trình độ tổ

chức, thiếu tính kỷ luật và trách nhiệm nghề nghiệp…

Đội ngũ tri thức, lực lượng nòng cốt của CNH-HĐH và phát triển kinh tế

tri thức tuy chưa nhiều nhưng có tốc độ phát triển khá nhanh. Lao động có trình

độ cao đẳng trở lên tăng từ 1,3 triệu người năm 2000 lên 2,3 triệu người năm

2006. Số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 13500 lên 14000 năm

2006, riêng tiến sĩ khoa học là 70 người, số GS và PGS là hơn 7000 người [39].

Đây là đội ngũ nhân lực nòng cốt của quá trình CNH-HĐH đất nước và

tiến vào kinh tế tri thức. Tuy vậy, nếu như so sánh với các quốc gia khác và so

63

với nhu cầu đặt ra hiện nay thì con số kể trên là chưa đáng kể. Tỷ lệ lao động trí

tuệ cao trên dân số của nước ta còn thấp, trong khi đó có nhiều người hiện nay đã

cao tuổi, sắp tới tuổi nghỉ hưu làm cho sự thiếu hụt lao động chất xám càng

nghiêm trọng hơn.

Đội ngũ trí thức Việt Nam không chỉ ít về số lượng mà nhìn chung chất

lượng của đội ngũ còn hạn chế. Chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ đầu ngành,

chuyên gia giỏi đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Mặt khác, do chính sách

tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ khoa học công nghệ còn thấp cộng với đời

sống thiếu thốn, điều kiện môi trường làm việc khó khăn nên không ít cán bộ

không tập trung toàn lực cho công việc chuyên môn hoặc chuyển sang công tác

khác, hoặc bỏ nghề, thậm chí bỏ ra nước ngoài làm việc khiến cho tình trạng

chảy máu chất xám lên đến mức báo động. Cơ cấu và phân bố đội ngũ cán bộ

KH-CN ở nước ta còn mất cân đối, bất hợp lý. Phần đông tập trung ở các thành

phố lớn, còn ở các vùng nông thôn, miền núi thiếu trầm trọng.

Tình hình trên làm cho sức mạnh của lực lượng trí thức nói chung, của đội

ngũ nhân lực KH-CN nói riêng bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế xã hội của đất nước. Sự hạn chế này do hàng loạt yếu tố, nó không chỉ

thuộc về yếu tố trách nhiệm của bản thân nguồn nhân lực có trình độ mà còn chủ

yếu do cơ chế, chính sách đào tạo và sử dụng chưa hợp lý. Vì vậy chưa tạo ra

được động lực kích thích tính tích cực xã hội của họ.

Nói tóm lại có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là do ở Việt

Nam vị trí và vai trò của trí tuệ chưa thật sự được coi trọng.

2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế

tri thức ở Việt Nam

2.2.3.1. Nguồn nhân lực có trình độ cao còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số

nguồn nhân lực, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội

64

nhập và phát triển kinh tế thị trường

Kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia đi trước cho thấy để đi vào kinh

tế tri thức, chủ động nắm bắt và làm chủ thật sự được kinh tế tri thức thì trước

hết cần có một đội ngũ đông đảo người lao động có đầy đủ năng lực, phẩm chất

của lao động chất lượng cao trong xã hội hiện đại. Trong số các năng lực, phẩm

chất quan trọng nhất là năng lực trí tuệ. Trong khi đó ở nước ta số người lao

động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số người đang ở

độ tuổi lao động. Tại thời điểm 01/7/2002 mới có 1,3 triệu lao động có trình độ

từ cao đẳng trở lên, chiếm tỷ lệ 0,027% tức là trong một nghìn lao động mới có

27 người có trình độ cao đẳng trở lên. Đến năm 2005 tỷ lệ này mới tăng lên được

32 người/1000 lao động [1].

Với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn thấp như vậy đã và đang là một

trở ngại lớn trong quá trình rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với

các quốc gia khác cũng như tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức. Điều đó đặt ra

trách nhiệm to lớn cho ngành giáo dục và đào tạo trong việc tăng quy mô đào tạo

lao động có chuyên môn kỹ thuật. Ngoài vấn đề về số lượng thì chất lượng của

người lao động cũng còn nhiều hạn chế. Đội ngũ lao động kỹ thuật, lao động có

trình độ cao đẳng, đại học dù có được đào tạo nhưng năng lực chuyên môn, trình

độ tay nghề, khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp còn yếu,

chưa đáp ứng được những nhu cầu của CNH-HĐH rút ngắn. Khả năng làm việc

thực tế yếu kém do quá trình đào tạo nặng về lý thuyết, trang thiết bị thực hành

thì cũ kỹ, lạc hậu, khả năng sử dụng ngoại ngữ phục vụ yêu cầu của công việc

còn bất cập.

Đội ngũ trí thức, một trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất để phát

triển kinh tế tri thức và đồng thời đóng vai trò đào tạo dẫn dắt đội ngũ trí thức trẻ

cũng còn nhiều hạn chế về năng lực, trình độ, kỹ năng triển khai và năng lực

thực hành quản lý. Thời gian gần đây, trong xã hội xuất hiện nhiều tình trạng

65

khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp cũng như sự than phiền của những

nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước về sự phiền hà của thủ tục

hành chính cũng chính là một hệ quả tất yếu của sự yếu kém về năng lực lập kế

hoạch, điều hành, quản lý của đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý hành chính.

Đó là chưa kể đến một bộ phận bị suy thoái về phẩm chất, đạo đức và lối sống.

Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định

tới nhân tố của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức cũng có nhiều vấn đề

đang được đặt ra. Số lượng giảng viên đáp ứng được yêu cầu về học hàm, học vị

đối với nhiều trường cao đẳng, đại học còn chưa đạt chuẩn về số lượng chứ chưa

nói gì đến chất lượng. Phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, nặng về thuyết

trình đọc chép, vì thế chưa kích thích, hình thành được tính tích cực chủ động,

sáng tạo của cả giảng viên lẫn sinh viên trong khi những phẩm chất kể trên lại là

những tố chất quan trọng nhất mà người lao động của kinh tế tri thức cần phải

có.

2.2.3.2. Cơ cấu nguồn nhân lực còn bất hợp lý

Đến cuối năm 2006, có khoảng 6,901 triệu lao động có trình độ sơ cấp,

chứng chỉ nghề; 2,62 triệu lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp; khoảng

2,316 triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học; hơn 16000 thạc sỹ; hơn 14000

tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học; có hơn 7000 PGS và GS. Như vậy, tỷ lệ

đại học - THCN - công nhân kỹ thuật là 1-1,13-3. Tỷ lệ này phản ánh sự mất cân

đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động. Trong khi đó, sự mất cân đối

này còn đang có xu hướng gia tăng trong những năm tới do số công nhân kỹ

thuật và THCN được đào tạo trong những năm vừa qua đang giảm dần trong

tương quan so sánh với sự gia tăng của số lượng sinh viên cao đẳng và đại học.

Điều này dẫn tới một thực tế trên danh nghĩa là “thầy” nhiều hơn “thợ”. Tuy vậy,

trong thực tế số lượng “thầy” có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của chủ sử

66

dụng lao động lại không đủ.

Như vậy, vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế

tri thức là hiện nay trong cơ cấu lao động của nguồn nhân lực Việt Nam tỷ lệ lao

động được đào tạo không chỉ thấp mà còn bất hợp lý. Chúng ta thiếu cả cán bộ,

nhân lực có trình độ trên đại học, đại học, THCN và công nhân kỹ thuật lành

nghề song thiếu nghiêm trọng hơn cả là các chuyên gia đầu ngành các lĩnh vực

công nghệ cao.

2.2.3.3. Việc phân công, sử dụng, tạo điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ

đối với nguồn nhân lực có trình độ chưa hợp lý

Sự phân công bố trí việc làm cho đội ngũ lao động có trình độ hiện nay

đang đặt ra những vấn đề về hiệu quả của công tác cán bộ, hiệu quả của vấn đề

sử dụng chất xám, vấn đề khai thác tiềm năng, tiềm lực của lực lượng lao động.

Bởi vì trong thực tế có một số lượng lao động được đào tạo qua đại học nhưng

không kiếm được việc làm hoặc buộc phải làm những công việc không phù hợp

với chuyên môn đã được đào tạo. Có một số lao động tìm được việc làm không

phải do tài năng, trình độ mà do có được những mối quan hệ quen biết, dùng

quyền lực, tiền bạc để được tuyển dụng vào biên chế. Chẳng hạn như ngành toà

án ở nước ta, thường xuyên thiếu nhân lực để bổ xung vào vị trí thẩm phán đến

mức một cán bộ cao cấp ngành toà án nói rằng phải “vơ vét” mới đủ thẩm phán

thì trong khi đó số lượng sinh viên tốt nghiệp các trường luật thất nghiệp hoặc

phải làm việc trái ngành ngày càng tăng. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải có chính

sách tuyển dụng, phân công và sử dụng hợp lý hiệu quả lực lượng lao động nhất

là lao động trẻ đã qua đào tạo để đội ngũ này phát huy được những tri thức đã

được đào tạo góp phần từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Để làm được điều đó, chúng ta phải giải quyết những vấn đề đặt ra về chế

độ đãi ngộ, môi trường điều kiện làm việc của lao động trí tuệ hiện nay. Bởi vì

môi trường, điều kiện, phương tiện làm việc còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt

67

ra của công việc cũng như nhu cầu của nguồn nhân lực nhất là trong các lĩnh vực

khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các nhà nghiên cứu thiếu

phòng thí nghiệm, trang thiết bị để thí nghiệm, sản xuất thử và ứng dụng các kết

quả phát minh, sáng chế vào sản xuất kinh doanh. Các nhà nghiên cứu khoa học

xã hội và nhân văn thì cũng có rất ít cơ hội đi ra nước ngoài nghiên cứu tìm hiểu

và học tập lĩnh hội những tri thức mới. Mới đây, trong hội thảo về giáo dục Việt

Nam tháng 8 năm 2007, các nhà khoa học của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ có

đánh giá rằng các giảng viên đại học ở Việt Nam có quá ít cơ hội ra nước ngoài

học tập, nâng cao trình độ.

Về chế độ đãi ngộ chưa tạo ra được động lực thật sự cho sự phấn đấu học

tập, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực. Trong vài năm qua, Nhà nước đã có nỗ

lực cải cách chế độ tiền lương, nâng cao đời sống vật chất cho người lao động

nhưng mức tăng lương thực tế không được bao nhiêu vì nhiều nguyên nhân khác

nhau như giá tiêu dùng thường tăng cao sau mỗi lần tăng lương. Sự chênh lệch về

thu nhập giữa các ngành nghề, các khu vực kinh tế cũng làm giảm động lực phấn

đấu của nhiều người lao động, chưa kích thích được khả năng sáng tạo, cống hiến

hết mình của nguồn nhân lực, đặc biệt là nhóm có trình độ chuyên môn kỹ thuật

cao.

2.2.3.4. Hình thành dư luận xã hội trong đánh giá, coi trọng vai trò của tri

thức; việc xây dựng mô hình xã hội học tập chưa đáp ứng được yêu cầu của quá

trình tiếp cận, phát triển kinh tế tri thức

Với ảnh hưởng của văn hoá Nho giáo, người Việt Nam vốn có truyền

thống tốt đẹp là coi trọng việc học hành, đánh giá cao vai trò của tri thức trong

các bậc thang giá trị của xã hội. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường,

chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường thì sự đánh giá của dư luận

xã hội đối với học vấn, tri thức, tầng lớp những người lao động có trình độ

chuyên môn ít nhiều đã có sự thay đổi. Sự tôn vinh, coi trọng trí thức nhiều khi

68

phụ thuộc vào vị trí lãnh đạo (chức vụ, quyền lực) hoặc thu nhập (khả năng kiếm

ra nhiều tiền) mà đôi khi coi nhẹ trình độ học vấn, tri thức, phẩm chất đạo đức,

năng lực cống hiến của người lao động. Nhất là trong tình hình hiện nay chế độ

lương thưởng đối với lao động chất xám chưa tương xứng thì mức độ coi trọng

lẽ ra cần phải được dành cho tri thức và nhân tài thì lại chưa được đặt vào đúng

người, đúng chỗ. Bởi trong thực tế, có khi những người có trình độ, có nhiều

đóng góp cống hiến cho xã hội, có năng lực sáng tạo phát minh ra công nghệ sản

phẩm tiên tiến như các cán bộ khoa học đầu ngành, các kỹ sư, anh hùng lao

động… nhưng chưa chắc đã được dư luận xã hội biết đến rộng rãi, được đánh giá

cao và được trả lương cao bằng những ca sĩ hay những cầu thủ bóng đá.

Thực trạng này đã làm giảm đi động lực học tập, nghiên cứu trau dồi trình

độ học vấn và chuyên môn của không những bộ phận lao động trí tuệ mà còn ảnh

hưởng không nhỏ tới tư tưởng chung của xã hội. Điều đó sẽ gây tác động tiêu

cực, là lực cản cho việc thực hiện mô hình xã hội học tập, yếu tố cần có để tạo đà

cho kinh tế tri thức phát triển.

2.2.3.5. Khả năng làm việc tập thể, tinh thần hợp tác đoàn kết của đội ngũ

nhân lực còn yếu

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, người Việt nam có tinh

thần đoàn kết hợp tác cao, đặt lợi ích cộng đồng dân tộc lên trên hết và trung

thành hết mực với lợi ích chung đó. Phẩm chất tuyệt vời này đã tạo nên sức mạnh

kỳ diệu để đánh bại cả những nước đế quốc sừng sỏ nhất. Tuy vậy, trong thời kỳ

thực hiện CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức ngày nay phẩm chất truyền

thống đó ít nhiều đã bị sói mòn. Thực trạng này diễn ra khá phổ biến trong các

thành phần người lao động. Nhiều trí thức, nhà khoa học có trình độ chuyên môn

giỏi nhưng rất khó khăn để tìm tiếng nói chung khi hợp tác, tạo thành một nhóm

làm việc đạt kết quả cao mặc dù ai cũng nhận thức được ý nghĩa của sự đoàn kết

và làm việc tập thể như câu ca dao: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại

69

nên hòn núi cao” đã khẳng định. Đây là một trong những hạn chế cơ bản của

nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, vì vậy chưa tạo ra được sức mạnh cần thiết

để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.

Điều này trong thực tiễn cũng đã được chứng minh bằng sự đoàn kết tập thể của

nguồn nhân lực Hàn Quốc, Nhật Bản, nơi mà người lao động làm việc với nhau

như những thành viên của một gia đình và do đó, họ đã tạo ra được sức mạnh tập

thể to lớn, gạt phăng đi những vật cản trên con đường trở thành quốc gia phát

triển chỉ trong vài thập kỷ, được cả thế giới ngưỡng mộ, ca ngợi như một sự thần

kỳ.

Sự hạn chế về tinh thần hợp tác, gắn kết cộng đồng của nguồn nhân lực

Việt Nam có nhiều nguyên nhân khác nhau như:

- Do cuộc sống vẫn còn gắn liền với nền nông nghiệp truyền thống, sản

xuất nhỏ là phổ biến tính cách tiểu nông, sản xuất nhỏ thậm chí còn tồn tại trong

cả một bộ phận trí thức dẫn tới tâm lý nhỏ nhen, đố kỵ, ghen ghét những người

khác hơn mình như câu châm ngôn: “con gà tức nhau tiếng gáy”. Từ đó, tầm

nhìn thiển cận chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài, quan tâm

tới lợi ích cục bộ mà quên đi lợi ích cộng đồng.

- Do tác động của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường dẫn tới sự cạnh

tranh thiếu lành mạnh, phá hoại tinh thần đoàn kết của tập thể.

- Trong thời kỳ quá độ hiện nay, chúng ta chưa xây dựng được cơ chế

chính sách phù hợp để một mặt, kích thích, thúc đẩy mặt khác, đòi hỏi bắt buộc

người lao động phải hợp tác, liên kết lại với nhau trong công việc. Điều đó có thể

thực hiện thông qua các nội dung giáo dục, đào tạo hoặc những điều kiện bắt

buộc trong công tác tuyển dụng lao động, đánh giá đề bạt, khen thưởng và tiền

lương…

- Hạn chế trên đây của nguồn nhân lực Việt Nam nếu không đựơc khắc

70

phục thì sức mạnh của đội ngũ nhân lực sẽ giảm sút mất đi khả năng cạnh tranh

trong thời kỳ hội nhập cũng như tác động tiêu cực tới tiến trình thực hiện CNH-

71

HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

3.1. Phƣơng hƣớng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực

Việt Nam thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH rút ngắn nhằm tạo ra cơ cở vật

chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu ngành theo từng hình thái phát triển kinh tế các

ngành kỹ thuật cao, tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực. Đó

cũng đồng thời là cơ sở là nền tảng để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức. Như

thế, cơ sở để hình thành các giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển

kinh tế tri thức nằm trong định hướng thực hiện CNH-HĐH rút ngắn và các mục

tiêu mỗi giai đoạn thời kỳ khác nhau. Theo đó, phương hướng cơ bản để phát

triển nguồn nhân lực là:

3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những

yêu cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới kinh

tế tri thức

Phương hướng mục tiêu lớn nhất của Việt Nam hiện nay là thoát khỏi tình

trạng kém phát triển bởi trong bối cảnh quốc tế hiện nay các nền kinh tế đang

chạy đua thực hiện CNH-HĐH, rồi nhanh chóng tiến vào thời kỳ hậu công

nghiệp, thời kỳ phát triển kinh tế tri thức. Việt Nam không nhanh chóng thoát ra

khỏi tình trạng kém phát triển thì khoảng cách phát triển với thế giới ngày càng

xa. Quyết tâm đó được thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng

Cộng sản Việt Nam lần thứ X (Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam

đến năm 2010).

“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống

vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản

72

trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng

lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh

được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được

hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.[10]

Đảng đưa ra mục tiêu cụ thể hơn: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 7,2%;

trong 10 năm liên tục 2001-2010; đến năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp 2 lần so

với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 700-750 USD/người/năm; thoát ra

khỏi danh sách các nước kém phát triển, các nước nghèo trên thế giới. (theo tiêu

chí của Ngân hàng thế giới: các nước nghèo có thu nhập dưới 730

USD/người/năm).

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỷ trọng lao động nông nghiệp

giảm từ 67% (năm 2000) xuống còn 50% (năm 2010); giảm tỷ trọng thất nghiệp

ở thành thị xuống dưới 5%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn

lên 85% (so với hiện nay là trên 75%); nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 4%;

hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi toàn quốc.

Như vậy, theo phương hướng mục tiêu của Đảng ta thì:

- Giai đoạn tới năm 2010: nước ta cơ bản thoát nghèo, phát triển ổn định

và bền vững hơn, hình thành được một số ngành mũi nhọn công nghệ cao nhờ

quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, nguồn nhân lực được

đào tạo có chất lượng cao có thể từng bước tiếp cận kinh tế tri thức.

- Giai đoạn tới năm 2020 Việt Nam có nền sản xuất công nghiệp hiện đại,

nguồn nhân lực phát triển, thực sự tiếp cận được nền kinh tế tri thức.

3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú

trọng nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có

hàm lượng tri thức cao

Phương hướng phát triển nguồn nhân lực ở mỗi giai đoạn của tiến trình

73

CNH-HĐH đều được thể hiện qua những chỉ tiêu cụ thể, phù hợp với tình hình

phát triển kinh tế xã hội của giai đoạn đó. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam có

những chỉ tiêu cụ thể là:

- Với giáo dục phổ thông: phấn đấu đạt tỷ lệ nhập học trong độ tuổi: tiểu

học đạt 100%; trung học cơ sở đạt 80%; trung học phổ thông đạt 45%.

Đối với giáo viên phấn đấu tỷ lệ giáo viên tiểu học có bằng cao đẳng

chiếm 40%; giáo viên trung học cơ sở có bằng đại học chiếm 60%; giáo viên

trung học cơ sở có bằng thạc sỹ chiếm 10%.

- Với giáo dục trung học chuyên nghiệp (THCN), dạy nghề, cao đẳng và

đại học: phấn đấu tỷ lệ nhập học đúng tuổi của trung học chuyên nghiệp và dạy

nghề lên 18%; tỷ lệ sinh viên cao đẳng đại học một vạn dân là: 200 sinh viên/1

vạn dân. Tỷ lệ tăng bình quân hàng năm đến năm 2000 của đào tạo cao đẳng đại

học đạt 5%, đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tăng 11-12% năm.

Giảng viên đại học phấn đấu có bằng thạc sỹ chiếm tỷ lệ 45%, tỷ lệ có bằng tiến

sỹ chiếm 25%.

- Với nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật: tỷ lệ lao động được đào tạo

trung học chuyên nghiệp đạt 8%; tỷ lệ lao động được đào tạo công nhân kỹ thuật

(CNKT) đạt 30%; tỷ lệ lao động được đào tạo cao đẳng, đại học đạt 4%.

- Về phương hướng phát triển nguồn nhân lực theo cơ cấu ngành kinh tế.

+ Đối với nhân lực công nghiệp

Tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2010 có 60-65%

lao động trong ngành công nghiệp được đào tạo, trong đó 7,5% có trình độ cao

đẳng trở lên; 15% THCN và 42,5% CNKT. Ưu tiên đào tạo các ngành công

nghiệp then chốt, khu chế xuất, cho xuất khẩu lao động công nghiệp và cho nông

thôn để thay đổi cơ cấu lao động.

+ Đối với nhân lực nông nghiệp

Đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo trong nông nghiệp là 20-23%;

74

trong đó cao đẳng trở lên 4%, THCN là 7%, CNKT là 9-12%. Xây dựng các

trung tâm lao động hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm

khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… đào tạo nhân lực để phát triển kinh tế

trang trại và các hình thức kinh tế nông nghiệp khác.

+ Đối với nhân lực lĩnh vực dịch vụ

Ngành giao thông vận tải: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là

65%, trong đó cao đẳng trở lên là 4%, THCN là 7%, CNKT là 9-12%. Hiện đại

hoá đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực vận tải đường không, đường biển, đường

sông, đường bộ, xây dựng cầu cảng, đường xá…

Ngành bưu chính viễn thông: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo

là 95%, trong đó cao đẳng trở lên là 25%, THCN là 25%, CNKT là 45%. Ưu tiên

đào tạo nhân lực có trình độ cao, công nhân lành nghề, cán bộ quản lý ngành.

Ngành thương mại: đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng

55- 60%, trong đó cao đẳng trở lên là 13%.

Ngành du lịch: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 80%, trong

đó cao đẳng trở lên đạt 20%.

Lĩnh vực tài chính ngân hàng: thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà

nước gửi đi đào tạo ở nước ngoài để nhanh chóng có đội ngũ chuyên gia giỏi, đội

ngũ cán bộ quản lý tài chính đạt tiêu chuẩn quốc tế. Gấp rút đào tạo nhân lực

phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.

- Về phương hướng phát triển nguồn nhân lực những ngành kinh tế mũi

nhọn.

Kinh tế tri thức phát triển dựa trên các ngành khoa học công nghệ mới,

trình độ cao. Theo giáo sư Ngô Quý Tùng cho rằng kết cấu công nghệ của kinh

tế tri thức bao gồm: công nghệ thông tin chiếm gần 15%; công nghệ sinh học

chiếm gần 10%; công nghệ sạch gần 5%; công nghệ mềm gần 5% [36].

75

+ Đối với công nghệ thông tin

Đây là ngành kinh tế mũi nhọn công nghệ cao, chính tốc độ phát triển

nhanh cho nên nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin tăng mạnh. Ngay cả các

quốc gia phát triển như Mỹ, Đức, Singapore… nhân lực công nghệ thông tin

được dự báo cũng rất thiếu. Vì thế, việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao

đẳng của lĩnh vực công nghệ thông tin không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà

còn có để xuất khẩu ra các quốc gia tiên tiến, thu ngoại tệ và góp phần phát triển

trình độ chuyên môn kỹ thuật của một bộ phận lao động Việt Nam nhanh hơn.

Việt Nam dự kiến đến năm 2010 sẽ cần thêm khoảng 62.000 chuyên gia

về công nghệ thông tin ở các trình độ khác nhau. Cụ thể: giai đoạn 2006- 2010 sẽ

đào tạo mới 35.000 người có trình độ đại học và 29.000 người tốt nghiệp cao

đẳng, đào tạo mới 5.000 thạc sỹ và tiến sỹ. Trong số đó hàng năm sẽ đào tạo 20-

30 người có trình độ Đại học ở nước ngoài trong đó hàng năm đào tạo 20 thạc sỹ

và 10 tiến sỹ ở nước ngoài [4]

+ Đối với công nghệ sinh học

Việc chuẩn bị nguồn nhân lực khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học

trong giai đoạn tới ở nước ta cần chú ý những điểm sau đây:

- Đào tạo đồng bộ về cơ cấu ngành nghề từ các chuyên ngành sinh học cơ

bản đến các kĩnh vực công nghệ chuyên ngành như công nghệ enzim, kỹ thuật

gen, di truyền…

- Ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực có thể phát huy thế mạnh của nền kinh

tế Việt Nam như: nông nghiệp, công nghiệp chế biến, dược phẩm…

- Quan tâm tới chất lượng đào tạo, chuyên gia có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ

được ưu tiên đào tạo ở các nước phát triển.

Dự kiến toàn bộ giai đoạn 2001- 2010 sẽ đào tạo mới 300 thạc sỹ, 50 tiến

sỹ và 800 người có trình độ đại học trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Theo đó,

cơ cấu ngành đào tạo là: 20% công nghệ vi sinh, enzim; 30- 40% các chuyên gia

76

khác còn lại.

+ Đối với công nghệ vật liệu mới:

Việc chuẩn bị nhân lực khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ

vật liệu mới cần bảo đảm các yêu cầu sau:

- Bảo đảm tính đồng bộ về cơ cấu ngành nghề bao gồm cả những lĩnh vực

khoa học cơ bản như: hoá, vật lý và các công nghệ chuyên ngành.

- Tập trung ưu tiên đào tạo nhân lực khoa học cho các hướng vật liệu kim

loại và hợp kim cao cấp, vật liệu cao phân tử, điện tử, y sinh học…

- Ưu tiên đào tạo ở nước ngoài các chuyên gia trình độ thạc sỹ, tiến sỹ.

Dự kiến đến năm 2010 sẽ đào tạo mới khoảng 200 tiến sỹ, 800 thạc sỹ và

1500 người có trình độ đại học về chuyên ngành vật liệu mới.

Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ chung

của rất nhiều ngành chức năng.

Khoa học phải phối hợp với các ngành kinh tế xác định chính xác nhu cầu

đào tạo. Ngành giáo dục đào tạo phải đổi mới được phương pháp đào tạo, nâng

cao chất lượng của đội ngũ giảng viên hình thành được các trường, các trung tâm

đào tạo đủ để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngành tài chính chủ động

chuẩn bị nguồn tài chính, cân đối để phục vụ cho việc đào tạo không những

trong nước mà cả ở nước ngoài…Và trên hết, Chính phủ đóng vai trò điều phối,

chỉ đạo thực hiện mục tiêu chuẩn bị được nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng

yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Các phương hướng chỉ

tiêu, nhiệm vụ đó là cơ sở chủ yếu có thể xây dựng các giải pháp phát triển

nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam

3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển

77

nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

3.2.1.1. Thực hiện CNH-HĐH rút ngắn là cơ sở quan trọng để phát triển

chất lượng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Theo Giáo sư Đặng Hữu: “Công nghiệp hoá ở nước ta phải đồng thời thực

hiện hai nhiệm vụ cực kỳ lớn lao: chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang

nền kinh tế công nghiệp, và từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri

thức”. Hai nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ

trợ nhau, bổ sung cho nhau. Như vậy, khác với các nước phát triển là trở thành

nước công nghi?p hoá rồi tiến vào kinh tế tri thức. Việt Nam đi sau trong bối

cảnh các nước đang tiến vào kỷ nguyên kinh tế tri thức thì phải làm gấp hai lần

lượng công việc so với các nước là điều hiển nhiên nếu không muốn tụt hậu.

Nhưng CNH-HĐH và kinh tế tri thức “bổ sung” “hỗ trợ” nhau như thế

nào? Luận văn tán thành quan điểm của giáo sư Đặng Hữu và cho rằng CNH-

HĐH là tất yếu để tạo cơ sở, tiền đề để tiếp cận và phát triển kinh tế Việt Nam

hay cũng có thể cho rằng: việc đẩy mạnh thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút

ngắn sẽ tạo ra cơ sở và cũng chính là giải pháp để nguồn nhân lực phát triển,

phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Để thực hiện thành công tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cần có các giải

pháp phát triển mạnh mẽ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

+ Đối với ngành nông nghiệp

Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp, tỷ

lệ nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn còn rất lớn.

Do vậy, CNH-HĐH rút ngắn có một nội dung rất quan trọng, đó là công nghiệp

hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Để giảm được tỷ lệ lao động làm

việc trong nông thôn, nông nghiệp cần tiến hành nhanh cơ giới hoá, hiện đại hoá

trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng

dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Các công

78

nghệ mới của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học phải

được quan tâm, nghiên cứu chọn lọc những công nghệ phù hợp để từng bước áp

dụng vào nông nghiệp nông thôn. Từ đó, nguồn nhân lực nông thôn có điều kiện

được nâng cao trình độ học vấn, khả năng nhận thức, năng lực tiếp thu, làm chủ

và sáng tạo công nghệ.

Song song với quá trình phát triển năng suất chất lượng ở khu vực nông

nghiệp nông thôn cần chú trọng phát triển các ngành nghề bổ trợ, bổ sung cho

nông nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

nông thôn trong đó có thể kể đến việc chú trọng phát triển công nghiệp chế biến

nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu nhằm thu được nguồn ngoại tệ lớn và

giúp nông nghiệp chế biến nông sản cũng như đội ngũ nhânlực của công nghiệp

chế biến vươn tới trình độ cao theo đòi hỏi của thị trường quốc tế. Công nghiệp

chế biến có thể được phát triển theo hai hướng như sau:

- Đối với những dây chuyền công nghệ cao, phức tạp, trình độ khoa học

công nghệ trong nước không đủ năng lực chế tạo thì cần làm tốt những khâu lựa

chọn, tiếp nhận và làm chủ dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài.

- Đối với những dây chuyền công nghệ mà trong nước có nhu cầu lớn, có

đủ khả năng chế tạo thì cần tập trung ưu tiên đầu tư nghiên cứu và phát triển để

có công nghệ phù hợp giá cả hợp lý, nhanh chóng ứng dụng sâu rộng vào hoạt

động sản xuất kinh doanh nông nghiệp.

Với vai trò của mình, Nhà nước có thể thành lập các đặc khu chuyên sản

xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo điều kiện ưu đãi về vốn, chính

sách đào tạo, kỹ thuật. Qua đó có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho các tổ chức

doanh nghiệp ở nông thôn có thể tự đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của

lao động trong doanh nghiệp mình.

Ngoài ra, trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, các luồng di chuyển lao

động xuất hiện ngày càng nhiều hơn, lao động dịch chuyển cũng dễ dàng hơn mở

ra nhiều cơ hội tốt cho đội ngũ lao động xuất khẩu. Nhà nước cần kiểm soát chặt

79

chẽ để tránh thiệt thòi cho người lao động, tạo cơ chế thông thoáng để nguồn lao

động dôi dư trong nông thôn có thể ra nước ngoài làm việc, nhất là các thị trường

lao động của các nước phát triển mang lại cho đất nước nguồn thu ngoại tệ đáng

kể. Theo thống kê năm 2006, lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về Việt Nam có

thể đạt 3,5 tỷ USD; gần bằng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt

Nam. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài sẽ góp phần nâng cao

tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động Việt Nam.

+ Đối với nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ

Để giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế cũng

như giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp thì việc phát triển công nghiệp và dịch vụ

giữ vai trò rất quan trọng. Chính phủ cần xác định các lĩnh vực ưu tiên đầu tư để

hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm, tăng thu nhập cho

người lao động tạo ra cơ sở kinh tế- kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực. Cần xác định đúng lĩnh vực ưu tiên đầu tư, cũng như chọn lựa công nghệ

phù hợp bởi vì thực tế có nơi có lúc chúng ta đã chọn sai lĩnh vực ưu tiên đầu tư,

chọn sai công nghệ dẫn tới sự lãng phí nguồn lực vật chất kéo theo nguồn lực

nhân lực; mất đi cơ hội tiếp cận hấp thu trình độ công nghệ hiện đại nâng cao

năng lực, trình độ chuyên môn của mình.

Trong bối cảnh chuẩn bị tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức hiện nay,

Việt Nam cần chú trọng đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực mũi nhọn có thể

tạo ra cú “hích”, tạo tiền đề cho kinh tế tri thức như công nghệ thông tin và viễn

thông, nguyên liệu nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học…

Việc thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn đòi hỏi huy động những

nguồn nhân lực rất lớn, nếu chỉ trông chờ vào nguồn nội lực của Việt Nam thì lộ

trình thực hiện thành công CNH-HĐH rút ngắn khó thành hiện thực. Do vậy,

việc huy động tổng lực các nguồn lực là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, thu hút

nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng là một giải pháp để rút ngắn

tiến trình công nghiệp hoá hiện hoá, rút ngắn và tiếp cận,phát triển kinh tế tri

80

thức. Các công ty có vốn FDI thường là những công ty hùng mạnh về tài chính

(tính đến tháng 11/2007 cả nước đã thu hút được 15 tỷ USD vốn FDI. Năm 2006

là 10,8 tỷ USD), có trình độ khoa học ở đẳng cấp cao. Nếu như Chính phủ có các

chính sách tạo môi trường thuận lợi cho dùng vốn FDI thì năng lực tài chính,

trình độ khoa học của nhóm doanh nghiệp này sẽ góp phần đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao nhanh và hiệu quả. Để thực hiện điều đó, hiện nay Việt Nam

cần đẩy mạnh giải quyết những tồn tại mà các doanh nghiệp FDI thường phàn

nàn nhiều nhất đó là: thủ tục hành chính rườm rà, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu

đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và lao động chuyên môn cao.

3.2.1.2. Tăng cường đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ góp phần

quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở

Việt Nam hiện nay

Giáo dục và đào tạo, phát triển và chuyển giao công nghệ giữ vai trò quyết

định đối với tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức

ở Việt Nam. Trong đó, phát triển và chuyển giao công nghệ có thể giúp Việt

Nam đi nhanh, đi tắt tiếp cận sớm được các công nghệ hiện đại của thế giới, tiết

kiệm được thời gian.

+ Giải pháp về chính sách

Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư khoa học công nghệ cho những

ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, hàng

không, dầu khí…khuyến khích phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào

mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như: sản xuất, kinh doanh, giáo dục đào

tạo, an ninh quốc phòng nhằm để đông đảo dân cư và mọi tầng lớp trong xã hội

có điều kiện để tiếp cận rộng rãi với khoa học công nghệ. Để quá trình tiếp cận

đó đạt hiệu quả cao thì cũng cần có các chính sách đầu tư cho giáo dục và đào

tạo hiện đại nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực tiếp cận và làm chủ khoa học

81

công nghệ của nguồn nhân lực.

Trong quá trình quản lý hoạt động khoa học công nghệ phục vụ cho CNH-

HĐH rút ngắn, Nhà nước có nhiều biện pháp khuyến khích về vật chất cũng như

về tinh thần đối với các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhằm

khích lệ tinh thần nghiên cứu sáng tạo của đội ngũ nhân lực làm khoa học. Tuy

nhiên, bên cạnh chính sách thưởng, Nhà nước cũng cần có những chính sách

ràng buộc, để các doanh nghiệp phải để dành các nguồn lực đầu tư cho nghiên

cứu phát triển. Điều này là hết sức cần thiết bởi vì thực tế có nhiều doanh nghiệp

FDI vì mục tiêu lợi nhuận mà không quan tâm đến nghiên cứu phát triển trong

nước. Họ nhập khẩu linh kiện thiết bị từ các nhà máy ở nước ngoài và đến Việt

Nam chỉ để lắp ráp, khai thác thị trường Việt Nam. Ngành công nghiệp ô tô

trong nước của Việt Nam là ví dụ sinh động, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp

FDI ô tô vào Việt Nam mà công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa sản xuất được gì

nhiều, chủ yếu chỉ là lắp ráp tỷ lệ nội địa hoá rất thấp. Các doanh nghiệp không

cần đầu tư nhiều cho R&D ở Việt Nam mà vẫn thu được lợi nhuận lớn. Thực

trạng đó được giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách lý giải là do bất

cập của chính sách thuế [5]

Ngoài chính sách “thưởng”, “phạt” Nhà nước còn phải tạo lập thị trường

chuyển giao khoa học công nghệ để các thành tựu khoa học công nghệ được ứng

dụng nhanh chóng và sâu rộng vào đời sống sản xuất kinh doanh; Nhà nước định

hướng các nghiên cứu để các sản phẩm công gnhệ có ý nghĩa thực tiễn cao. Việc

tạo lập hành lang pháp lý cho quyền sở hữu trí tuệ được thực thi nghiêm túc ở

Việt Nam cũng là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Quyền sở hữu trí tuệ được

tôn trọng không những kích lệ các nghiên cứu phát minh trong nước mà còn là

cơ sở đảm bảo cho việc chuyển giao các công nghệ sáng chế từ các trung tâm tri

thức của thế giới vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan toả kinh tế tri

thức ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia công ước Bern; ký hợp đồng

82

sử dụng bộ phần mềm MS. Office với Microsoft trong phạm vi các máy tính của

hệ thống hành chính sự nghiệp. Đó là những bước đi đúng đắn, Nhà nước cần

tăng cường giám sát thực hiện theo đúng các cam kết đã ký.

+ Giải pháp phát triển ứng dụng R&D và công nghệ thông tin để phát

triển nguồn nhân lực

Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển bùng nổ, sự cạnh tranh trên

thương trường ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh

với nhau thì đều phải coi khoa học công nghệ là “con át chủ bài” để giành được

ưu thế trong sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải chú trọng

đầu tư cho nghiên cứu và phát triển R&D, và phát triển ứng dụng rộng rãi công

nghệ thông tin. Thông qua quá trình đó nguồn nhân lực có chất lượng cao đã

được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, với vai trò quản lý của mình Nhà nước

phải đứng ra tổ chức, điều phối và khuyến khích các cá nhân tổ chức trong và

ngoài nước, các thành phố kinh tế tham gia đầu tư cho R&D. Hiện nay, mức đầu

tư cho R&D ở Việt Nam rất thấp từ 0,8- 0,9% GDP kém xa các nước trong khu

vực. Thông thường các nước phát triển đầu tư 2-2,5% GDP, cá biệt có nước đầu

tư cho R&D từ 4-5% GDP. Chi phí bình quân trên năm cho một các bộ R&D ở

Việt Nam cũng rất thấp: mới chỉ đạt 1000 USD/năm, trong khi ở Nhật Bản là

194.600 USD/năm, Thái Lan là 18.000 USD/năm. Các thống kê trên cho thấy

nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực R&D ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp bách. Mục

tiêu hiện nay là phấn đấu đến năm 2010, đầu tư của nước ta cho R&D đạt 2%

GDP trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ 50%, còn lại là các thành phần kinh tế khác.

Bên cạnh đó, để các nghiên cứu R&D có điều kiện thuận lợi để phát triển

và lan toả vào đời sống sản xuất kinh doanh thì việc phát triển và ứng dụng rộng

rãi công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng. Hơn nữa công nghệ thông tin

còn là chìa khoá để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức. Muốn thực hiện tiến trình

CNH-HĐH rút ngắn thành công thì phát triển ứng dụng công nghệ thông tin vào

83

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu. Trước mắt, Việt Nam phải

phát triển công nghệ số hoá, xây dựng mạng thông tin quốc gia, gia tăng số

người sử dụng Internet. Qua đó, có cơ sở kinh tế kỹ thuật để phát triển chính phủ

điện tử, giao dịch thương mại điện tử. Trên cơ sở đó các điều kiện công nghệ kỹ

thuật hiện đại sẽ được tạo lập để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Nhà nước cần phát triển được mạng thông tin tốc độ cao hơn, giá rẻ hơn,

sử dụng rộng rãi các công nghệ hiện đại như: vô tuyến, cáp quang, thu phóng vệ

tinh viễn thông nhằm tạo lập hệ thống mạng thông tin trong nước đạt trình độ

tiên tiến của khu vực, kết nối toàn quốc với tốc độ cao, dung lượng lớn, phổ cập

tin học từ cấp tiểu học tiến tới đưa hệ thống thông tin quốc gia và Internet tới tất

cả các xã phục vụ rộng rãi các hoạt động kinh tế xã hội.

Một trở ngại khác trong quá trình phát triển tri thức toàn cầu đó là khả

năng ngoại ngữ của nguồn nhân lực Việt Nam. Bởi ngoại ngữ là chìa khoá để

tiếp cận với khoa học công nghệ và các phương tiện kỹ thuật hiêùn đại, cho nên

hiện nay nhiều quốc gia xác định việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ trong đó

nhất là tiếng Anh như một chiến lược phát triển dài hạn. Trong khu vực Đông

Nam á, Thái Lan đang có kế hoạch tuyển dụng 100.000 giáo viên bản ngữ dạy

tiếng Anh cho học sinh Thái Lan từ cấp tiểu học cho tới đại học và người lao

động. Để không bỏ lỡ cơ hội tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với tri thức của

thế giới, Việt Nam cần có chiến lược cụ thể hơn cho việc đào tạo khả năng sử

dụng ngoại ngữ cho nguồn nhân lực của mình. Tăng cường dạy và học tiếng Anh

trong các lớp phổ thông tạo cơ chế thông thoáng hơn để đón nhận các giáo viên

bản ngữ đến Việt Nam làm việc, đồng thời kiểm tra chất lượng dạy và học ở các

cơ sở đào tạo ngoại ngữ hiện nay. Cùng với đó luôn đặt người lao động với các

môi trường tiếp xúc với ngoại ngữ; xây dựng chế độ thưởng đãi ngộ xứng đáng

cho người lao động sử dụng được ngoại ngữ cho công việc chuyên môn. Làm

84

được điều đó, nguồn nhân lực sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với tri thức công gnhệ

hiện đại nhờ thế họ sẽ có cơ hội học hỏi và không ngừng nâng cao trình độ của

mình.

3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh

tế tri thức ở Việt Nam

3.2.2.1. Giải pháp phát triển thể lực, tầm vóc (năng lực thể chất) của

nguồn nhân lực

Tầm vóc, thể lực (hay còn gọi là năng lực thể chất) là những đặc điểm sinh

thể quan trọng, phản ánh một phần thực trạng của con người, phản ánh khả năng

- năng lực của người lao động. Hiện nay, mức sống của người Việt Nam còn

thấp, thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn chủ yếu là tinh bột, cho nên thể

lực của người lao động chịu ảnh hưởng không tốt.

Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, lao động Việt Nam độ tuổi từ 17- 55

có thể lực thuộc loại trung bình thấp trên thế giới. Để giải quyết được hạn chế

này, Việt Nam phải chú trọng phát triển thể lực cho người dân nói chung thể lực

người lao động nói riêng theo hướng: tăng chiều cao, cân nặng, tăng sức khoẻ,

tăng khả năng làm việc. Phấn đấu tăng khẩu phần dinh dưỡng và cải thiện cơ cấu

bữa ăn hàng ngày của nhân dân đạt mức năng lượng theo nhu cầu và từng bước

hợp lý hóa cơ cấu dinh dưỡng trong đó tăng tỷ lệ chất đạm, chất béo, giảm tinh

bột. Thực hiện được mức dinh dưỡng này sẽ góp phần phát triển thể lực, nâng

cao tầm vóc, khả năng làm việc của người lao động Việt Nam. Phấn đấu đến

năm 2010 giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống còn 20% và

tuổi thọ trung bình tăng lên 71 tuổi [9]. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện và tổ chức

tốt việc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho nhân dân, từ tham quan nghỉ mát đến

thưởng thức nghệ thuật… Như vậy, song song với việc cải thiện đời sống vật

chất, nhu cầu tinh thần của con gnười cũng không ngừng được nâng lên. Việc

85

thoả mãn những yêu cầu đó vừa góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất

sức lao động vừa nâng cao thể lực của nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu ngày

càng cao của thời kỳ hội nhập, tiếp cận kinh tế tri thức.

3.2.2.2. Các giải pháp đẩy mạnh cải cách, phát triển giáo dục và đào tạo là

các giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế tri thức ở Việt Nam

Chương 1, luận văn đã trình bày về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn

nhân lực. Theo đó, chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua các yếu tố như: trình

độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, sức khoẻ thể chất… các yếu

tố này là kết quả của cả một quá trình giáo dục, đào tạo, nuôi dưỡng, rèn luyện.

Chính vì thế giáo dục và đào tạo chính là chìa khoá để phát triển nguồn nhân lực

phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Và các giải pháp cải cách phát triển giáo dục và đào tạo cũng chính là các giải

pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn

và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Chất lượng của giáo dục, đào tạo được kiểm chứng thông qua mức độ đáp

ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội đặt ra đòi hỏi đối với nguồn nhân

lực. Hay nói cách khác chất lượng của nguồn nhân đã qua quá trình giáo dục,

đào tạo phải được thực tiễn chấp nhận và thoả mãn được nhu cầu của thị trường.

Nhưng trên thực tế, nhu cầu của chủ sở hữu lao động lại cần nhân lực có kinh

nghiệm, thạo việc có chuyên môn phù hợp yêu cầucủa sản xuất kinh doanh trong

khi các cơ sở giáo dục đào tạo theo định hướng nghề nghiệp chuyên môn. Đây

chính là hệ thống cơ bản của hệ thống giáo dục, đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Để

rút ngắn được khoảng cách giữa giáo dục và đào tạo với yêu cầu của thực tiễn

tiến hành CNH-HĐH rút ngắn, phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam cần phải tiếp

tục đẩy mạnh cải cách, phát triển hệ thống giáo dục đào tạo với một số giải pháp

như sau:

+ Đổi mới phương pháp giáo dục

- Cần đổi mới cơ bản về tư duy, phương thức quản lý giáo dục theo hướng

86

nâng cao hiện thực quản lý Nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính

chủ động và tự chịu trách nhiệm của các địa phương, của các cơ sở giáo dục để

giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề bức xúc, các hiện tượng tiêu cực

trong giáo dục, đào tạo hiện nay.

- Thực hiện phân cấp mạnh mẽ về quản lý giáo dục cho cán bộ, ngành và

các địa phương, tăng cường quyền quản lý về tổ chức, cán bộ và tài chính của các

cơ quan quản lý giáo dục địa phương. Hiện nay quy chế quản lý hoạt động của các

loại hình thường tăng cường quyền hạn và tránh nhiệm cho các trường đại học,

cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo đồng thời có trách

nhiệm cao hơn trước xã hội, nhân dân về việc thực hiện các mục tiêu giáo dục.

- Tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên

và cung cấp thông tin chính xác về nhu cầu nhân lực của xã hội cho các ngành,

các cấp, các cơ sở giáo dục, đào tạo để có cơ sở điều tiết quy mô, cơ cấu ngành

nghề và trình độ đào tạo sao cho phù hợp với nhu cầu về nguồn nhân lực trong

thực tế.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong giáo dục đào tạo, đổi mới phương

thức quản lý giáo dục, thể chế hoá vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách

nhiệm quản lý giáo dục các cấp, ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm về

giáo dục.

- Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu giáo dục

tiếp tục xây dựng và phát triển lý luận về phát triển nền giáo dục Việt Nam theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ

trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, đổi mới quản lý về nội

dung, phương pháp giáo dục. Thường xuyên đánh giá kết quả thực hiện các chủ

trương chính sách, các giải pháp đổi mới, cải cách giáo dục.

+ Tăng cường nguồn tài chính, đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục đào

tạo.

- Thực tế yếu kém hạn chế nhiều mặt của giáo dục và đào tạo hiện nay có

87

nhiều nguyên nhân. Trong đó có nguyên nhân chính là chính sách đầu tư nhân

tài, vật lực chưa thoả đáng, chưa đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ thực hiện

CNH-HĐH rút ngắn tiếp cận kinh tế tri thức. Hiện nay, các quốc gia trong khu

vực như: Thái Lan, Hàn Quốc, Malaixia đều đầu tư trên 20 % ngân sách Nhà

nước cho giáo dục, đào tạo thì Việt Nam mới đạt khoảng 15%. Vì vậy, để đạt

được các mục tiêu về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì Nhà

nước phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Tranh thủ nguồn vốn vay với

lãi xuất ưu đãi của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ nước ngoài cho giáo

dục. Để có nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,

Nhà nước có thể xem xét tính toán giảm bớt một số công trình đầu tư dài hạn,

quy mô lớn từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước để tăng cường đầu tư cho giáo

dục và đào tạo. Bởi vì, nếu như đầu tư xây dựng cơ bản nhiều mà thiếu nguồn

nhân lực có tay nghề và chuyên môn cao thì hiệu quả đầu tư sẽ thấp. Kinh

nghiệm đầu tư của nhiều quốc gia cho thấy đầu tư cho giáo dục đào tạo chính là

đầu tư cơ bản, đầu tư cho sản xuất, đầu tư cho sự phát triển nhanh, bền vững và

hiệu quả nhất ( Mỹ đầu tư cho giáo dục 1USD lãi 4 USD; ở Nhật Bản đầu tư 1

USD lãi 10 USD) [19].

- Nhà nước cần tập trung ngân sách nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ

cập, cho vùng nông thôn, miền núi, vùng còn nhiều khó khăn, cho đào tạo trình

độ cao, cho những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước.

- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng song song với việc trao

quyền chủ động về tài chính, cần thực hiện chế độ tài chính công khai và chế độ

kiểm toán nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho

giáo dục.

- Phát triển các nguồn thu cho các trường, đẩy mạnh áp dụng kết quả

nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ phục vụ sản xuất đời sống. Phấn đấu

đến năm 2010, 50% các trường đại học kỹ thuật, đại học đa lĩnh vực có doanh

88

nghiệp trường học. Tăng nguồn thu cho các hoạt động chuyển giao khoa học

công nghệ, dich vụ, tư vấn, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu chuyên gia lên

khoảng 20- 30% ngân sách các trường đại học.

- Các địa phương có kế hoạch cụ thể xây dựng thêm trường lớp để đẩy

nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng số lượng học sinh được học

và hoạt động cả ngày tại trường lên 70% nâng tỷ lệ các trường xây dựng theo

chuẩn quốc gia lên 50% (năm 2010). Đặc biệt quan tâm xây dựng trường kiên

cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai. Thực hiện chế độ ưu đãi về

sử dụng đất đai, vay vốn để xây dựng các cơ sở giáo dục.

- Tăng cường hiện đại hoá trang thiết bị thực hiện đổi mới chương trình

nội dung và phương pháp giáo dục. Phấn đấu đến năm 2010, kết nối internet tới

60% khối trường học phổ thông và 100% các trường đại học, cao đẳng. Xây

dựng hệ thống thư viện cho tất cả các trường phổ thông. Xây dựng hệ thống thư

viện điện tử kết nối giữa các trường đại học trong từng vùng tiến tới kết nối các

thư viện trong phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới. Xây dựng các phòng thí

nghiệm quốc gia trong các đại học quốc gia, đại học trọng điểm.

- Tăng cường đầu tư để nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho đội

ngũ giáo viên. Thực tế gần đây Nhà nước cũng đã điều chỉnh tăng bậc lương và

chế độ phụ cấp nghề nghiệp cho giáo viên. Đây là biểu hiện trên thực tế của

chính sách coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy vậy, lương giáo viên

so với các thang bậc lương khác trong ngạch hành chính sự nghiệp không cao

hơn nhiều. Do vậy, Nhà nước, Bộ giáo dục đào tạo cần đưa ra đề án cải cách tiền

lương mới cho giáo viên, đảm bảo mức thu nhập tạo được động lực để đội ngũ

giáo viên toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

+ Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục là một giải pháp quan trọng để phát

triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.

Nhà nước khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham

89

gia phát triển giáo dục và đào tạo. Trước mắt cần làm tốt những công việc sau:

- Hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã

hội hoá giáo dục nhằm tạo sự nhất trí cao trong toàn xã hội về chúnh sách chủ

trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện bổ sung và hoàn thiện những văn

bản pháp quy, các chính sách mạnh mẽ các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân

đầu tư cho phát triển giáo dục.

- Ngoài ngân sách Nhà nước, cần huy động vốn nhiều nguồn với tinh thần

khuyến khích đầu tư cho giáo dục đào tạo. Từ ngân sách địa phương, sự đóng

góp của người học, sự bảo trợ của các tổ chức xã hội, các khoản viện trợ quốc tế.

Để có thêm ngân sách phục vụ cho giáo dục đào tạo Nhà nước có thể sớm

ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo đối với các cơ sở có sử dụng lao động

qua đào tạo, nhất là với những đơn vị không thuộc khu vực Nhà nước. Mọi đóng

góp, tài trợ của doanh nghiệp cho giáo dục và đào tạo được tính vào chi phí hợp

lý của doanh nghiệp cá nhân không phải tính vào thu nhập chịu thuế. Chi phí của

các tổ chức kinh tế trong việc mở trường, lớp đào tạo tại cơ sở hay phối hợp với

các trường, viện nghiên cứu khoa học, cử người đi đào tạo tiếp thu công nghệ

mới phục vụ nhu cầu của đơn vị mình, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nhà

nước cần cho phép và quy định rõ các cơ sở giáo dục được hưởng ưu đãi về

quyền sử dụng đất tín dụng và miễn giảm thuế; khuyến khích và có hình thức

khen thưởng thích hợp các tổ chức, cá nhân tích cực xây dựng trường học, ủng

hộ vật chất cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

- Phát triển hệ thống các trường ngoài công lập, củng cố nâng cao chất

lượng của loại hình trường này. Tỷ lệ học sinh ngoài công lập lên 70%; tỷ lệ sinh

viên ngoài công lập đạt 40% (năm 2010). Bên cạnh việc được đối xử bình đẳng

như các trường công lập, Nhà nước cần hoàn thiện ban hành các chính sách hỗ

trợ các trường ngoài công lập thuê đất, xây trường, hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất.

Nhà nước cũng cần nghiên cứu xem xét chỉ tiêu chuyển một số trường công lập

90

thành trường ngoài công lập khi có đủ điều kiện về xã hội hoá giáo dục.

- Xây dựng mô hình xã hội học tập, đủ sức thu hút mọi cá nhân trong xã

hội tham gia, học tập ở mọi nơi mọi lúc. Để xây dựng mô hình xã hội học tập cần

phải phát triển các trung tâm học tập cộng đồng, cần có các chương trình giáo

dục không chính quy ở mọi trình độ với chương trình đào tạo thay đổi theo

hướng tích luỹ kiến thức liên tục. Chú trọng phát triển và sử dụng các phương

pháp giáo dục và công nghệ dạy và học mới. Các cơ sở tổ chức giáo dục phải có

trách nhiệm đảm bảo chất lượng giáo dục tạo cơ hội bình đẳng trong việc tiếp

cận tri thức của mọi cá nhân trong xã hội.

Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ đưa xã hội trở thành một xã hội

học tập thì một trong số các giải pháp cần thực hiện là đa dạng hoá các loại hình

đào tạo. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo là tạo ra nhiều hình thức đào tạo, với

sự đa dạng về thời gian không gian và nội dung kiến thức đào tạo, đáp ứng nhu

cầu học của đông đảo người dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân

tham gia học tập.

- Đẩy mạnh đào tạo chính quy tập trung là giải pháp đúng đắn bởi những

ưu việt các loại hình đào tạo này mang lại. Với đào tạo tại chức, cần thực hiện

nghiêm minh quy chế đào tạo, coi đào tạo tại chức như đào tạo chính quy, nâng

cao chất lượng đào tạo tại chức. Vấn đề đặt ra là làm cho xã hội thừa nhận chất

lượng đào tạo tại chức không thua kém chất lượng đào tạo chính quy. Như vậy,

đào tạo tại chính mới có chỗ đứng lâu dài được, phục vụ đắc lực cho đào tạo lại

và phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho nền kinh tế quốc dân.

- Với đào tạo từ xa, mục đích là để trợ giúp kiến thức kỹ năng cho những

cá nhân vì điều kiện hoàn cảnh không tham gia được những khoá học đào tạo

chính thức. Với loại hình đào tạo này, cần đẩy mạnh việc đào tạo từ xa theo

hướng liên kết với các trường đào tạo có uy tín trên thế giới, kết hợp với các

chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực đào tạo thu hút các nguồn vốn quốc tế để phục

91

vụ cho đào tạo. Cùng với phát triển hình thức du học, việc tăng cường hình thức

đào tạo từ xa đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo

hướng đi tắt, đón đầu, hội nhập và tiếp cận với kinh tế thức ở Việt Nam.

+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo

- Để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới, ngoài nội

lực của mình, giáo dục đào tạo Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tận

dụng học hỏi được những thành tựu ưu việt của giáo dục và đào tạo thế giới.

Hợp tác song phương, đa phương với các tổ chức, các trường đại học, các quốc

gia có thể được tiến hành dưới hình thức như liên kết đào tạo, trao đổi nhân lực

hợp tác nghiên cứu… Bên cạnh đó, để nguồn nhân lực nhanh chóng nắm bắt

đựơc những kỹ thuật công nghệ hiện đại cần tăng cường gửi nguồn nhân lực đi

đào tạo, học tập, nghiên cứu làm việc ở nước ngoài thông qua nhiều kênh khác

nhau. Đặc biệt chú trọng những lĩnh vực công nghệ cao và mới.

Huy động các nguồn lực từ hợp tác quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất cho

giáo dục phổ thông; nâng cao trình độ giáo viên; đổi mới sách giáo khoa, phương

pháp dạy học. Tranh thủ nguồn vốn vay, vốn viện trợ để đào tạo đội ngũ lao

động kỹ thuật lành nghề, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất

khẩu lao động. Việc tăng cường đưa chuyên gia đi lao làm việc ở nước ngoài

cũng là một giải pháp hay để phát triển nguồn nhân lực. Vì các tiêu chuẩn về

trình độ kỹ thuật chuyên môn của các thị trường nước ngoài đối với lao động

nước ngoài ngày càng cao, đòi hỏi người tham gia xuất khẩu lao động phải tự

đào tạo nâng cao trình độ của mình. Hơn nữa, quá trình làm việc ở nước ngoài,

được tiếp xúc với trình độ khoa học công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến để

khi về nước họ là nguồn nhân lực lao động chất lượng cao.

- Hợp tác với các cơ sở tổ chức giáo dục đào tạo nước ngoài, khai thác

kinh nghiệm quản lý, công nghệ-kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại để tổ chức thực

92

hiện các chương trình giáo dục từ xa phù hợp với người học trong nước.

- Tạo cơ sở môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư của các cá nhân tổ

chức nước ngoài có kinh nghiệm, trình độ để thành lập các cơ sở giáo dục 100%

vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo đại học, đào

tạo nghề, giáo dục từ xa, mở các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, có trình độ khu vực

và quốc tế tại Việt Nam. Xây dựng các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện

thuận lợi cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học tự túc.

- Cần thường xuyên kiểm tra, sát hạch trình độ của đội ngũ giảng viên của

các trường, các cơ sở giáo dục của nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài. Có

chế độ thu hút sinh viên giỏi, có năng lực ở lại các trường cao đẳng đại học làm

việc cùng với chính sách cử đi du học ở các trung tâm khoa học công nghệ lớn

của thế giới.

- Chính sách kêu gọi các chuyên gia giỏi ở nước ngoài và người Việt Nam

ở nước ngoài về đất nước làm việc, cống hiến là một chính sách lớn của Việt

Nam hiện nay.

Thứ nhất: đối với người nước ngoài có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao,

phần lớn nhóm nhân lực này đến Việt Nam không phải vì mục đích tìm kiếm thu

nhập cao mà họ đến vì mục đích khai thác tiềm năng phát triển trong tương lai

hoặc là vì tình cảm yêu mến đặc biệt với đất nước, con người Việt Nam. Vì vậy

chính sách kêu gọi thu hút người nước ngoài có hiệu quả nhất là tạo hành lang

pháp lý, môi trường làm việc đảm bảo, môi trường sống trong lành an toàn và

thân thiện. Thậm chí, Chính phủ Nhà nước cần có riêng chính sách tiếp thị hình

ảnh đất nước đối với người nước ngoài nói chung.

Thứ hai: đối với Việt kiều, Bộ Chính trị đã có riêng một nghị quyết (Nghị

quyết 39) về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó, “người

Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời

của dân tộc Việt Nam…” đã cho thấy sự quan tâm coi trọng của Nhà nước với

93

bộ phận này. Mới đây 9/2007, Nhà nước cũng đã có chính sách miễn Visa (thị

thực) cho người Việt Nam ở nước ngoài về Việt Nam, gia hạn thời gian lưu trú ở

Việt Nam. Đây là những cố gắng, nỗ lực rất lớn tuy nhiên có những chính sách

như cho phép Việt kiều mua nhà ở Việt Nam được thực hiện còn rất chậm, dễ tạo

tâm lý không “an cư”.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tham khảo các kinh nghiệm kêu gọi thu

hút các nhân tài, ngoại kiều về nước làm việc của Trung Quốc, Hàn Quốc và

Singapore… cách làm của Trung Quốc, Hàn Quốc gần gũi với Việt Nam dễ thực

hiện dễ đạt hiệu quả. Những năm gần đây Việt Nam cũng đã chú trọng đến vấn đề

này, tuy nhiên khi thực hiện còn thiếu bài bản và chuyên nghiệp. Nên chăng, Việt

Nam cũng cần thành lập các tổ chức, văn phòng ở nước ngoài để tuyên truyền,

cung cấp thông tin rộng rãi về Việt Nam, tuyên truyền các chính sách thu hút nhân

tài, kêu gọi, khơi gợi tinh thần yêu nước hướng về nguồn cội của người Việt thì sẽ

tận dụng được một lượng không nhỏ người tài đang sinh sống và làm việc ở nước

ngoài, bổ sung vào đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước.

Do có sự tương đồng về văn hoá, lối sống, những Việt kiều cũng như Hoa

kiều dù đi xa và thành công bao nhiêu họ cũng ấp ủ tư tưởng trở về cố quốc sinh

sống làm việc khi có điều kiện thuận lợi. Theo thống kê, trong số những cán bộ

du học sinh được cử ra nước ngoài học tập khi hồi hương có tới 90% có học vị

tiến sỹ. Đây là nguồn nhân lực vô giá đối với sự phát triển kinh tế đất nước bởi

họ đều có sự thông thạo lý thuyết lại dày dạn kinh nghiệm thực tiễn trong quá

trình tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý thực tiễn

của nước ngoài. Điều này đặt ra vấn đề cần có sự thay đổi nhận thức về hiện

tượng các trí thức, du học sinh, cán bộ được cử ra nước ngoài học tập rồi không

trở về (được gọi là hiện tượng chảy máu chất xám). Có nhiều ý kiến trên thế giới

cho rằng chính hiện tượng brain drain (chảy máu chất xám) đó là tiền đề để có

được hiện tượng gain brain (tạm dịch là: chất xám tăng lên) như ở Trung Quốc;

94

đánh dấu bằng sự trở về của nguồn chất xám quý giá có trình độ cao hơn. Đây là

một lối tư duy mới mà Việt Nam cần nghiên cứu để xây dựng được chính sách

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với điều kiện của quốc gia.

+ Tăng cường cải cách tất cả các cấp học, đặc biệt là bậc cao đẳng và đại

học nhằm cung ứng nguồn nhân lực có trình độ cao cho tiến trình CNH-HĐH

rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết, tri thức chính là động lực của quá trình tiếp cận,

hình thành và phát triển của kinh tế tri thức. Tri thức đó là tri thức sáng tạo, sáng

tạo ra bản thân tri thức thành các sản phẩm phục vụ đời sống con người. Tất cả

các tri thức đó gắn liền với con người nhưng không phải con người nói chung mà

ở bộ phận những người lao động sáng tạo ra các của cải vật chất cho đời sống

con người, đó chính là nguồn nhân lực có trình độ cao. Đội ngũ nhân lực này sẽ

quyết định sự thành công hay không của tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và phát

triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Việc xây dựng hình thành đội ngũ nhân lực

được thực hiện chủ yếu thông qua giáo dục cao đẳng đại học và sau đại học. Vì

vậy, cải cách, phát triển đào tạo bậc cao đẳng đại học và sau đại học là giải pháp

quan trọng để tạo ra nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng yêu cầu tiếp cận, phát

triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

Theo kinh nghiệm và các nghiên cứu của quốc tế thì sự phát triển khoa

học công nghệ không thể thiếu được nguồn nhân lực chất lượng cao đào tạo qua

cao đẳng đại học và sau đại học, nếu không muốn nói là cần một số lượng rất

lớn.

Theo Martin Trow, nhà nghiên cứu Mỹ nếu ở một nước có tỷ lệ tuổi đại

học (là tỷ lệ sinh viên đại học so với thanh niên ở độ tuổi 18- 21) dưới 15% thì

giáo dục đại học ở đó còn trong giai đoạn “cho số ít người”; khi tỷ lệ đó vượt

15% thì nền giáo dục đại học bước vào giai đoạn “đại chúng” và được gọi là

“phổ biến” nếu như tỷ lệ đó vượt quá 50%. Theo cách phân chia đó thì tỷ lệ độ

95

tuổi đại học của các nước OECD đạt 51%, còn theo một báo cáo của UNESCO

năm 1995, riêng ở Bắc Mỹ tỷ lệ đạt 82%; các nước thu nhập trung bình đạt 21%,

các nước thu nhập thấp chỉ đạt 6%. Từứ đó, các nhà kinh tế và giáo dục cần rằng

giáo dục đại học cho số ít người chỉ phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp, giáo

dục đại học đại chúng phù hợp với nền kinh tế công nghiệp và giáo dục đại học

phổ cập mới đáp ứng được yêu cầu của kinh tế tri thức.

Còn ở Việt Nam thời gian qua số lượng sinh viên tăng thêm rất nhanh và

cùng với đó là tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp đã dẫn tới có ý kiến

cho rằng không nên đào tạo thêm sinh viên đại học nữa, đã có tình trạng thừa

“thầy” thiếu “thợ”.

Tuy vậy, luận văn này nhìn nhận vấn đề theo một hướng khác. Hiện nay

trên một vạn dân Việt Nam chỉ có khoảng 150 sinh viên và tỷ lệ độ tuổi đại học (

tỷ lệ người đi học đại học trong độ tuổi học đại học) chỉ đạt hơn 8% . Như vậy,

tỷ lệ độ tuổi đại học của Việt Nam chỉ mới đạt một nửa yêu cầu của nền kinh tế

công nghiệp. Đó là còn chưa kể đến thực tế “thầy” (sinh viên tốt nghiệp đại học)

chưa ra “thầy”, không đáp ứng được yêu cầu công việc, “thợ” chưa đạt được

trình độ của thợ. Hơn nữa, ở Việt Nam ngày nay còn xuất hiện nhiều ngành nghề

liên quan đến công nghệ hiện đại, công nghệ mới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực

trình độ đại học và sau đại học.

Do vậy, quan điểm của luận văn cho rằng Việt Nam muốn rút ngắn tiến

trình CNH-HĐH, tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức thì phải đẩy mạnh việc cải

cách, mở rộng quy mô đào tạo bậc đại học và sau đại học trước mắt là để đáp

ứng yêu cầu về số lượng nguồn nhân lực có trình độ cao.

Để tăng quy mô đào tạo cần quy hoạch lại rộng hơn các trường đại học

trong cả nước sao cho phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực trong từng vùng nên

trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Tránh được tình trạng

có những vùng trắng về giáo dục đại học nhưng cũng không để xẩy ra tình trạng

96

tỉnh, thành phố nào cũng muốn phải có trường đại học ngay mà không tính toán

tới thời điểm cơ cấu ngành nghề đào tạo, mức độ phù hợp với nhu cầu nhân lực

có trình độ đại học của từng địa phương.

Đa dạng hoá các loại hình đào tạo đại học nhằm tạo ra cơ hội rộng mở hơn

tới đông đảo các cá nhân trong xã hội, đảm bảo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận

cơ hội học tập lên cao đẳng, đại học cho mọi người. Có thể tham khảo kinh

nghiệm của Trung Quốc trong việc tăng quy mô đào tạo đại học bằng mô hình

“con chim” giáo dục đại học, có thân là các trường đại học công lập chính quy,

hai cánh chim còn lại là hệ thống giáo dục đào tạo từ xa và hệ thống các trường

đại học dân lập.

Chú trọng xây dựng các trường cao đẳng cộng đồng, đa ngành đa hệ tại

ngay các địa phương để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực tại chỗ. Khuyến khích

các tổ chức, đơn vị doanh nghiệp có tiềm lực về vốn khả năng về khoa học công

nghệ tham gia thành lập các trường đại học cao đẳng đặc biệt là các trường

chuyên ngành. Ví dụ thời gian qua tập đoàn FPT đã thành lập Trường đại học

FPT chuyên đào tạo các kỹ sư công nghệ thông tin, đây là mô hình mới vừa giảm

bớt ngân sách Nhà nước trong việc mở rộng quy mô đào tạo cao đẳng đại học lại

vừa góp phần đào tạo ra được nguồn nhân lực có trình độ cao, lành nghề, theo sát

được thực tiễn, thoả mãn được những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình tiếp

cận kinh tế tri thức.

Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ bùng nổ, lượng tri thức mới ngày

càng nhiều đòi hỏi nguồn nhân lực muồn cập nhật được phải có tốc độ lĩnh hội

tri thức mới nhanh hơn và phạm vi học tập, nghiên cứu và lĩnh hội hẹp hơn bởi

đòi hỏi của yêu cầu chuyên môn hoá cao. Trong khi đó các chương trình và nội

dung đào tạo bậc cao đẳng, đại học và sau đại học của Việt Nam được thống kê

rườm rà, phạm vi kiến thức quá rộng, có nhiều môn học cơ cở không cần thiết,

không hữu ích cho chương trình dành cho chuyên ngành đào tạo vẫn được đưa

97

vào chương trình giảng dạy khiến cho chương trình dành cho chuyên môn sâu

của ngành đào tạo bị thu hẹp, dẫn tới chất lượng của sinh viên tốt nghiệp bị giảm

sút. Bên cạnh đó, các bậc đào tạo sau đại học, khối lượng kiến thức trùng lặp

nhiều, gây ra sự lãng phí. Vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải thu gọn

giảm bớt thời lượng của các môn học cơ sở, tăng thời lượng cho các môn học

chuyên sâu. Có như vậy mới đảm bảo tính lành nghề của nguồn nhân lực tốt

nghiệp đại học. Song song với đó cần mởi rộng hình thức đào tạo theo tín chỉ.

Đây là hình thức đào tạo có nhiều ưu điểm giúp người học có thể lựa chọn môn

học, thời điểm học tập phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, qua đó thuận

lợi hơn cho việc lĩnh hội kiến thức chuyên môn.

Phương pháp giảng dạy bậc cao đẳng, đại học và sau đại học ở Việt Nam

hiện nay còn nhiều bất cập. Các phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương

pháp thuyết trình, giảng viên đọc, học viên ghi chép. Các phương pháp dạy và

học hiện đại và tích cực khác được sử dụng rất hạn chế tuỳ thuộc từng trường,

từng ngành học. Do đó, các phương pháp dạy học đã không khích lệ được sự chủ

động, sáng tạo, tích cực, tham gia vào bài giảng của người học. Bên cạnh đó,

người giảng viên cũng không được đưa vào tình trạng phải tranh luận, trao đổi

kiến thức rộng rãi qua lại với sinh viên, vô hình chung người giảng viên cũng

mất đi một trong những động lực chính để không ngừng bổ sung, làm phong phú

thêm tri thức. Do đó, để nâng cao chất lượng của giáo dục cao đẳng đại học theo

hướng kích thích được tính chủ động sáng tạo của sinh viên để người học, người

dạy có cơ hội trao đổi với nhau nhiều hơn nội dung của bài giảng. Muốn làm

được điều đó phải cung cấp đủ loại giáo trình, tài liệu tham khảo và các phương

tiện dạy học hiện đại. Các phương tiện hỗ trợ việc dạy và học rất quan trọng. Thứ

nhất, nó sẽ cung cấp nguồn thông tin, tri thức mới, cập nhật và phong phú. Thứ

hai, nó góp phần chủ yếu rút ngắn thời gian tiếp cận tri thức mới hay nói cách

khác tốc độ tiếp cận tri thức sẽ cao hơn. Điều này rất có ý nghĩa trong thời kỳ

98

bùng nổ thông tin hiện nay. Luận văn chia sẻ quan điểm của PGS.TS Nguyễn

Xuân Xanh về nhu cầu cần thiết phải đầu tư cơ sở vật chất nhiều hơn cho giáo

dục và đào tạo ra người tài khi cho rằng:”phải “đại chúng hoá” khoa học kỹ thuật

bằng nhiều cách: bằng sách vở, nguyệt san, phim ảnh… phải xây dựng các đại

thư viện như phương Tây. Chúng ta chưa có gì hết. Dân không thể giàu, nước

không thể mạnh và đất nước không thể văn minh nếu không có khoa học kỹ

thuật xuyên suốt, ngự trị trong đời sống kinh tế và xã hội như một nền tảng tri

thức vững chắc” [42].

Việc cải cách đổi mới phương pháp dạy và học kể trên sẽ rèn luyện khả

năng thích nghi, sức sáng tạo, tinh thần năng động của người học ngay từ khi

ngồi ở giảng đường đại học sẽ giúp ích cho sinh viên khi tốt nghiệp dễ dàng hơn

trong việc thích ứng với yêu cầu của đời sống việc làm. Bởi vì hiện nay đào tạo

cao đẳng, đại học của Việt Nam vẫn đang phải chạy theo sau yêu cầu về nguồn

nhân lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp, chủ sử dụng lao

động thường sử dụng công nghệ kỹ thuật, trang thiết bị, trình độ quản lý hiện đại

tiên tiến hơn những gì sinh viên được học, được tiếp cận ở trường đại học. Trong

khi đó chưa kể tới tình trạng học không được đi đôi với hành, dẫn tới có một

khoảng cách khá xa giữa năng lực của nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng, đại

học, thậm chí sau đại học với yêu cầu của thực tế. Do đó, để nâng cao chất lượng

của nhóm nhân lực này đáp yêu cầu của thời kỳ tiếp cận phát triển kinh tế tri

thức thì cần đặc biệt chú trọng đầu tư nhiều hơn nhân tài, vật lực vào việc cải tạo

cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ phục vụ dạy và học, chú trọng kỹ năng làm

việc thực tế cho sinh viên, học viên. Ngoài ra, có thể mời các nhà khoa học, lãnh

đạo, quản lý doanh nghiệp nhiều kinh nghiệm thực tiễn tham gia đứng lớp giảng

dạy cũng như thiết kế các chương trình đào tạo, nội dung môn học nhằm làm

phong phú và sinh động, sát hơn, gần gũi hơn với thực tiễn cho các bài giảng.

Một nhân tố khác quyết định tới chất lượng nguồn nhân lực bậc cao đẳng

99

đại học và sau đại học chính là chất lượng đội ngũ giảng viên hiện nay. Mới đây,

tháng 9/2007 trong một buổi hội thảo, trao đổi khoa học về giáo dục đào tạo tại

Hà Nội, Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ đã chỉ ra một số hạn chế của giáo dục

đại học ở Việt Nam. Trong đó có đánh giá chất lượng giảng viên đại học là

“thiếu trình độ, các tiến sỹ không có điều kiện thường xuyên ra nước ngoài học

tập”. Thực tế có trường cao đẳng đại học còn chưa có giảng viên có học hàm GS.

Số giảng viên có học vị tiến sỹ còn rất ít ỏi. Nhiều trường, thậm chí phải dùng cả

các cử nhân mới tốt nghiệp đại học để dạy học ở bậc đại học. Hạn chế này ảnh

hưởng không nhỏ tới chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Hiện nay, Bộ Giáo dục và

Đào tạo đang thành lập đề án đào tạo 20.000 tiến sỹ. Đây là một giải pháp quan

trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ làm khoa học và nghiên cứu giảng dạy ở

Việt Nam, Bộ giáo dục và đào tạo, Chính phủ cần có những nghiên cứu chuẩn bị

kỹ lưỡng làm tốt từ khâu tuyển chọn, đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng của đề

án.

Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các chính sách cấp học

bổng của các tổ chức chính phủ nước ngoài để gửi sinh viên, giảng viên đi nước

ngoài học tập nâng cao trình độ. Cuối cùng để đảm bảo việc đánh giá chất lượng

của việc đào tạo ở bậc cao đẳng đại học và sau đại học cần tăng cường chức năng

hoạt động của cục khảo thí và kiểm định chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo

cũng như các bộ phận giám định khác. Cần thường xuyên kiểm định nội dung

chương trình dạy và học cùng chất lượng đào tạo. Chú trọng kiểm định toàn diện

tất cả các loại hình đào tạo, đào tạo công lập, ngoài công lập, đào tạo từ xa. Phản

hồi từ công tác khảo thí và kiểm định sẽ là những cơ sở quan trọng để xây dựng

các biện pháp phát triển nguồn nhân lực trình độ cao đẳng đại học và sau đại học

phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

+ Khai thác hợp lý sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là giải pháp thúc

đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực cho tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp

100

cận kinh tế tri thức.

Sức mạnh của nguồn nhân lực một quốc gia không chỉ được thể hiện qua

số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lao động mà còn thể hiện qua việc nguồn

nhân lực đó được khai thác, sử dụng như thế nào. Nếu nguồn nhân lực có chất

lượng cao nhưng không được khai thác sử dụng hợp lý thì nó không những làm

ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và tiếp cận kinh tế tri

thức của nền kinh tế quốc dân mà còn làm mai một trình độ của nguồn nhân lực.

Do đó, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chính là một giải pháp

quan trọng để phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt

Nam. Để làm được điều đó, cần đẩy mạnh thực hiện những công việc sau:

+ Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động đã qua

đào tạo.

Việc tuyển dụng lao động nhất là lao động có trình độ vào các hoạt động

sản xuất kinh doanh là vấn đề lớn của quốc gia. Việt Nam hiện nay có tỷ lệ lao

động không có việc làm khá cao. Hơn hai triệu lao động chưa có việc làm

thường xuyên, có hơn 7 triệu chỗ làm việc cho lao động nông nhàn ở nông thôn,

mỗi năm lại tăng thêm 1,2-1,3 triệu lao động mới [14]. Vì vậy, tạo ra nhiều việc

làm cho người lao động, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo, phấn đấu để tỷ lệ

lao động có việc làm ngày càng tăng là nhiệm vụ thiết yếu trong chiến lược phát

triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.

Chính sách lao động và việc làm phải hướng vào việc khai thác triệt để,

hợp lý có hiệu quả nguồn nhân lực của đất nước mà tư tưởng cơ bản của nó là

bảo đảm và tạo điều kiện cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có

việc làm. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tiến hành xã hội hoá công tác giải

quyết việc làm. Mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề, duy trì và phát triển các

nghề truyền thống, mở thêm nhiều ngành nghề mới, phát triển dịch vụ và du lịch,

khuyến khích mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế tự tìm việc làm và đầu tư giải

101

quyết việc làm.

Sử dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất

kinh doanh để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của lao động. Thông

qua việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm cùng với việc ứng dụng sâu rộng khoa học

kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất kinh doanh sẽ đặt người lao động vào tình thế

muốn có việc làm phải tự đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, qua

đó góp phần phát triển chất lượng nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, nhà nước cần thực hiện quyết liệt hơn nữa chính sách kêu

gọi thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường

mở rộng các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhằm góp phần tạo ra thêm nhiều

việc làm. Bởi cùng với quá trình đó, người lao động sẽ được đào tạo và đào tạo

lại nhiều hơn để đáp ứng tiêu chuẩn của các nhà đầu tư sản xuất nước ngoài. Qua

đó, nguồn nhân lực có điều kiện phát triển cả về số lượng và chất lượng.

- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động

Hiện nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu được hàng trăm ngàn lao động

sang các nước có nhu cầu về lao động và tỷ lệ lao động có tay nghề trình độ

chuyên môn ngày càng tăng. Cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động với

nhiều hình htức trên cơ sở kết hợp lợi ích người lao động với lợi ích quốc gia,

đặt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung. Xuất khẩu lao động không

chỉ là giải pháp quan trọng để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cá nhân

người lao động và thu về nguồn ngoại tệ cho đất nước mà nó còn là giải pháp

quan trọng có hiệu quả để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Bởi vì

trong quá trình tiếp xúc và trực tiếp làm việc ở những dây chuyền thiết bị công

nghệ hiện đại, trình độ chuyên môn kỹ thuật năng lực quản lý của người lao

động đã được nâng cao.

Để phát triển thị trường xuất khẩu lao động, phải tăng cường tìm kiếm mở

rộng thị trường lao động ở nước ngoài, nghiê cứu kỹ các thị trường lao động

102

quốc tế để chủ động đào tạo chuẩn bị nguồn nhân lực cho kinh tế, được tham gia

xuất khẩu lao động dưới sự quản lý giám sát chặt chẽ thống nhất của các cơ quan

chuyên trách.

Nhà nước cũng cần coi trọng làm tốt công tác dự báo tình hình phát triển

kinh tế xã hội, phát triển các ngành nghề, nhu cầu lao động, đặc biệt là lao động

có tình độ, qua đó có cơ sở để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu

phát triển kinh tế xã hội.

Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho sự hình thành và

phát triển của thị trường lao động đặc biệt là lao động trình độ cao và thị trường

khoa học công nghệ. Hành lang pháp lý phải đảm bảo cho người lao động được

thuận tiện tìm kiếm nơi làm việc phù hợp, khai thác được hết khả năng sở trường

của họ. Việc hình thành thị trường lao động và khoa học công nghệ góp phần tạo

ra cơ sở cho việc đánh giá đúng đắn năng lực của nhân tài trong xã hội. Khi ấy

tài năng, phẩm chất của người lao động mới có nơi để xã hội đánh giá, thừa

nhận, điều đó sẽ cổ vũ và khích lệ người lao động nỗ lực học tập, nâng cao trình

độ tay nghề chuyên môn của mình. Tuy nhiên, Nhà nước cũng phải mạnh tay

hơn trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm túc kịp

thời các vi phạm nhằm bảo đảm sự phát triển lành mạnh của thị trường lao động

và thị trường khoa học công nghệ.

Chính sách tiền lương của Việt Nam trong những năm gần đây được cải

cách mạnh mẽ theo lộ trình từng năm một mà chưa có bước đột phá. Việc tăng

lương kéo theo việc tăng giá cho nên hệ thống thang bậc lương chưa thật sự phản

ánh được thu nhập thực tế của người lao động, cũng như đánh giá đúng sự cống

hiến sức lao động và chưa tạo ra được động lực khuyến khích người lao động

học hỏi nâng cao trình độ. Kết hợp những ưu đãi vào lương đối với lao động

trong khu vực nhằm thực hiện tiết kiệm tạo điều kiện cho lao động có thêm thu

nhập, chủ động hơn nữa những nhu cầu tiêu dùng trong cuộc sống, yên tâm làm

103

việc cũng như học tập và nâng cao trình độ chuyên môn.

- Cải cách, phát triển hệ thống dạy nghề nhằm nâng cao trình độ nguồn

nhân lực phổ thông cho nền kinh tế tri thức.

Hiện nay nhu cầu về nguồn lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp

và dạy nghề của nền kinh tế Việt Nam là rất lớn đặc biệt là trong bối cảnh Việt

Nam gấp rút thực hiện tiến trình CNH-HĐH. Trong khi nguồn nhân lực này vừa

thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng. Để tạo tiền đề tiếp cận kinh tế tri thức,

trước mắt cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động này thông qua hệ

thống dạy nghề. Nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về lao động trình độ trung học

chuyên nghiệp và dạy nghề, cần chú ý một số giải pháp như sau:

- Hoàn thiện cơ cấu hệ thống dạy nghề với ba cấp đào tạo: trình độ sơ cấp,

trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.

- Phát triển mạng lưới các trường dạy nghề: từng bước hoàn thiện những

trường hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá để tăng năng lực, chất lượng

và hiệu quả nhu cầu đào tạo. Tập trung đầu tư để nâng cấp và phát triển các

trường dạy nghề trình độ trung cấp, các trường dạy nghề trình độ cao đẳng ở các

trung tâm công nghiệp và các vùng kinh tế trọng điểm. Sắp xếp và điều chỉnh lại

hệ thống các cơ sở dạy nghề của các bộ ngành địa phương phù hợp với nhu cầu

chuyển dịch cơ cấu ngành nghề của từng vùng, miền.

Cải cách nội dung chương trình dạy nghề theo hướng tiếp cận sản xuất

công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, từng bước chuyển dịch xây dựng chương trình

học theo biên chế sang chương trình học theo môđun. Chương trình được ứng

dụng vừa có tính hệ thống với các cấp đào tạo, vừa có tính liên thông với các cấp

trình độ giáo dục khác trong hệ thống giáo dục cách tân, tạo điều kiện cho người

lao động có khả năng nhu cầu có thể học suốt đời để nâng cao trình độ hay

chuyển đổi nghề nghiệp khi cần.

Phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về

chất lượng và có cơ cấu ngành nghề hợp lý. Phấn đấu nâng tỷ lệ giáo viên trên

104

học sinh đạt mức 1/15 vào năm 2010. Nâng dần tỷ lệ giáo viên trường nghề có

trình độ đại học, tăng thời lượng học tin học, tiếng Anh để có thể sử dụng tin học

và ngoại ngữ trong giờ cũng như khả năng tự học, tự nghiên cứu các tài liệu

chuyên ngành của học viên.

Tăng cường nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề

nhằm trao đổi kinh nghiệm và có thêm nguồn lực để phát triển dạy nghề. Huy

động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị hiện đại cho các

cơ sở dạy nghề. Tích cực tìm kiếm các dự án tài trợ để nâng cao năng lực dạy

nghề, xây dựng một số trường dạy nghề có trình độ tương đương các trường tốt

trong khu vực và trên thế giới. Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn thành lập

các cơ sở dạy nghề 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các cơ sở trong

nước nhằm tranh thủ tiềm lực về vốn, khoa học công nghệ và trình độ đào tạo

105

nghề của nước ngoài.

KẾT LUẬN

Kinh tế tri thức là một nấc thang phát triển tất yếu của lực lượng sản

xuất, là xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới. Kinh tế tri thức tác

động đến sự phát triển của tất cả các quốc gia với nhiều mức độ khác nhau,

tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như tuỳ thuộc vào thái

độ, sự quan tâm tới kinh tế tri thức của mỗi quốc gia. Kinh tế tri thức mở ra

cơ hội phát triển to lớn cho tất cả các nước, đồng thời cũng mang lại không ít

thách thức, nguy cơ, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt

Nam. Đối với những nước này có thể tiến hành những bước đi tắt, đón đầu,

để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt ở những ngành, lĩnh vực có

thế mạnh. Muốn tiếp cận phát triển kinh tế tri thức thành công chúng ta phải

chủ động xây dựng được các nguồn lực cần thiết, trong đó nguồn nhân lực

có chất lượng là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất, và phát triển nguồn

nhân lực là giải pháp đột phá và đóng vai trò quyết định.

Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức là phải cung

ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng lên về số lượng nguồn nhân lực có trình độ.

Nhất là trong thời kỳ thực hiện tiến trình CNH- HĐH hóa rút ngắn và phát

triển kinh tế tri thức hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó là tăng lên về chất

lượng nguồn nhân lực thể hiện qua việc tăng cường năng lực thể chất và

năng lực trí tuệ của nguồn nhân lực trong việc tìm kiếm, phát hiện thông tin,

sáng tạo thông tin và vật chất hoá thông tin thành các sản phẩm vá công

nghệ mới phục vụ đắc lực đời sống kinh tế xã hội của loài người.

Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức thành công hay

không phần lớn phụ thuộc vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Do vậy phải

quan tâm đầu tư mạnh mẽ nhân tài, vật lực cho giáo dục và đào tạo ở tất cả

các cấp học từ tiểu học cho tới cao đẳng đại học và sau đại học. Trong đó

các bậc học phổ thông đóng vai trò cung cấp kiến thức nền tảng cho việc tiếp

cận kinh tế tri thức. Đối với bậc cao đẳng, đại học và sau đại học tốt hơn.

Việc coi trọng bậc đào tạo cao đẳng đại học và sau đại học sẽ đảm bảo được

nguồn cung ứng nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ cao, là

nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức. Để làm được điều đó phải

106

huy động nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo, đa dạng hoá hình

thức và loại hình đào tạo để cung ứng đầy đủ về số lượng nguồn nhân lực,

nhưng chất lượng giáo dục phải được đặt lên hàng đầu.

Ngoài ra, phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ngoài

việc tăng cường đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục và đào tạo, còn phải quan tâm

tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực bằng việc sử dụng

rộng rãi các thành tựu của công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực khác nhau

của đời sống xã hội. Cũng như phải phổ biến sử dụng công nghệ thông tin

trong các trường học từ bậc tiểu học trở lên. Ngoài công nghệ thông tin, phát

triển công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, vật liệu mới, phân tử…

Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức còn phải đặt

vào bối cảnh Việt Nam đang thực hiện tiến trình CNH-HĐH. Tiến trình này

góp phần tạo ra cơ sở để nguồn nhân lực phát triển và đến lượt mình nguồn

nhân lực phát triển sẽ thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH. Đến đích sớm hơn và

tạo ra được “bệ phóng” quan trọng để kinh tế tri thức tăng tốc.

Việt Nam ngày nay đang đứng trước vận hội to lớn, một cơ hội mà

theo nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng: “ngàn năm có một” để phát

triển đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Phát triển nguồn nhân

lực, tiến hành thành công tiến trình CNH-HĐH rút ngắn, phát triển kinh tế tri

thức là con đường tất yếu và đúng đắn để đi tới mục tiêu đó. Lưỡng lự, chần

chừ, chậm bước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội to

lớn và gánh chịu sự tụt hậu như trước đây hai thế kỷ đã từng bỏ lỡ khi làn

sóng công nghiệp hoá từ phương Tây tràn sang phương Đông. Trình độ của

nguồn nhân lực Việt Nam hiện còn đang ở xuất phát điểm thấp đặc biệt là so

sánh với yêu cầu của phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên, với sự đổi mới tư

duy, nhận thức và hành động đúng đắn được giải phóng mọi năng lực sản

xuất, giải phóng mọi khả năng sáng tạo trong một môi trường được quan tâm

đầu tư đầy đủ, nguồn nhân lực Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng thời cơ,

vượt qua nguy cơ, từng bước phát triển kinh tế tri thức thành công đưa Việt

Nam đứng vào vị trí xứng đáng trên con đường vươn tới sự cường thịnh của

107

các quốc gia trên toàn thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Quang A (2005), Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam? trong cuốn “Để kinh tế Việt Nam phát triển”, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Dự thảo chiến lược nguồn nhân

lực 2001 - 2010, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Chiến lược phát triển giáo dục đào

tạo đến năm 2010, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Qui hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực công

nghệ ưu tiên, Hà Nội.

5. “Câu chuyện giá ô tô không nằm ở Bộ Tài chính” (9/9/2007), Tuổi trẻ

cuối tuần, tr.4-5.

6. Daniel Cohen (2001), Các quốc gia nghèo khó trong một thế giới thịnh

vượng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên, 2001), Những vấn đề của toàn cầu hoá

kinh tế. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Phan Đình Diệu (1999), “Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của

chúng ta”. Tạp chí Xã hội học, 2/1999. Báo cáo tại diễn đàn CNTT,

TP.HCM.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội biểu toàn quốc lần

thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Hữu Đức (7/2006), “Liên kết giữa nhà doanh nghiệp và nhà

trường”. Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

12. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH-

HĐH. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu (chủ biên, 1996), Tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, kế sách trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

108

14. Trần Văn Hoan - Nguyễn Bá Ngọc (2002), Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển

đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2004), Nhân tài trong chiến

lược phát triển quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối với sự

phát triển của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đặng Hữu (2003), Phát triển kinh tế tri thức-rút ngắn quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đề tài KX.02.03, Hà Nội.

19. Đặng Hữu (chủ biên, 2001), Phát triển kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

20. Đoàn Văn Khái (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam, Đề tài khoa học cấp

bộ.

21. Đoàn Văn Khái (2006), Nguồn lực con người trong quá trình CNH-

HĐH ở Việt Nam. Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội.

22. Nguyễn Ngọc Khánh (8/1/2001), Tản mạn về kinh tế tri thức, trên

website www.giaodiem.com

23. “Kinh tế 2006-2007 Việt Nam và thế giới”, Thời báo kinh tế Việt Nam,

(105).

24. Nguyễn Thị Luyến (2005), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức

trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

25. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Lưu Hàm Nhạc - Lê Hữu Tầng (2002), Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

27. Văn Nhật (2006), “Trung Quốc hướng đến nền kinh tế công nghệ”,

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, (17).

28. Lê Du Phong (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nxb. Lý luận

Chính trị, Hà Nội.

109

29. Võ Hồng Phúc (2004), Xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động và bền vững trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế trong cuốn “Toàn cảnh kinh tế Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hoàng Thị Sáu (10/2003), “Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở nước ta: Thành tựu, vấn đề đặt ra và giải pháp”, Tạp chí Lý

luận Chính trị, (57, 58).

31. Tổng cục TCVN (2006), Chuyên san chất lượng vàng, (8).

32. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

33. Tổng cục Thống kê (2002), Thực trạng đội ngũ cán bộ có trình độ tiến

sĩ và tiến sĩ khoa học, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

34. Phạm Thị Ngọc Trầm (1993), “Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát

triển xã hội”. Tạp trí triết học, (1).

35. Lưu Ngọc Trịnh (1997), Chiến lược con người trong “thần kỳ” kinh tế

Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Ngô Quý Tùng (chủ biên, 2000), Kinh tế tri thức: Xu thế mới của xã

hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Viện nghiên cứu Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh (2002), Kỷ yếu hội thảo: Giáo dục vào đào tạo Việt Nam

hướng tới nền kinh tế tri thức.

38. Nghiêm Đình Vỳ (2000), Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho

giáo dục và đào tạo nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Website www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn

40. Website www.wikipedia.com/chinese human resource

41. Website www.wikipedia.com/korea information technology

42. Nguyễn Xuân Sanh (22/9/2007), “Luyện gà nòi hay chim đại bàng?”

110

Tuổi trẻ, (1).