ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ
VŨ KIấN CƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2007
1
BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNKT: Công nhân kỹ thuật
GS: Giáo sư
KH-CN: Khoa học - công nghệ
PTCS: Phổ thông cơ sở
PGS: Phó giáo sư
THCN: Trung học chuyên nghiệp
THCS: Trung học cơ sở
3
THPT: Trung học phổ thông
MỤC LỤC
Mở đầu .............................................................................................................. 3
Chƣơng 1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế tri thức ............................................................................... 3
1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực................ 3
1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức ........................................ 3
1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực ............... 12
1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ........................................................................................................ 15
1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam . 16
1.2.2. Nội dung ................................................................................................. 17
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức của
một số nước ............................................................................................ 19
1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc .................................................................... 19
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc................................................................. 23
1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam ........................................................ 27
Chƣơng 2. Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam thời gian qua ........................................................................ 29
2.1. Tình hình phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam thời gian qua .................................................................................. 29
2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hóa tinh thần
của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay .................................................. 29
2.1.2. Thực trạng giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực
có trình độ ở Việt Nam thời gian qua ..................................................... 34
2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt Nam
4
thời gian qua........................................................................................... 47
2.2. Nhận xét chung.......................................................................................... 51
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân ........................................................... 51
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ................................................. 54
2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam ..................................................................................... 57
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 ............ 64
3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ................................... 64
3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những yêu
cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới
kinh tế tri thức ........................................................................................ 64
3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú trọng
nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có
hàm lượng tri thức cao............................................................................ 65
3.2. Các giải phát phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam ................................................................................................ 69
3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân
lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam .......................................... 69
3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam ..................................................................................... 76
Kết luận ........................................................................................................... 96
5
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đã làm cho thế
giới có những đổi thay to lớn, ngày càng ngành sản xuất sử dụng công nghệ tiên
tiến, có hàm lượng tri thức cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới… Tri thức đã trở thành yếu tố có
vai trò ngày càng quan trọng. Đây là một bước ngoặt lịch sử: nền văn minh loài
người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; nền kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế là
tri thức và tiềm năng, nguồn tạo ra tri thức. Nguồn nhân lực có trình độ, có hàm
lượng chất xám cao không ngừng học hỏi, sáng tạo chính là chủ thể của tiềm
năng tri thức. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa
các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai thác nguồn lực trí tuệ. Trong cuộc tranh
đua đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam mặc dù có ít ưu thế hơn
so với các nước phát triển nhưng cũng có nhiều cơ hội vươn lên, rút ngắn sự
chênh lệch về khoảng cách phát triển với các nước nếu biết nắm bắt, khai thác
các thành tựu của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại để phát huy nội lực,
tăng cường sức mạnh quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức” [9].
Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng
nguồn chủ yếu vào chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Nguồn nhân lực đó
phải có những phẩm chất như thế nào? Vai trò của nguồn nhân lực đó trong kinh
tế tri thức thể hiện ra sao? Để có thể tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức phải có
6
điều kiện, tiền đề then chốt nào? Chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển kinh tế
tri thức cần có những bước gì?... những câu hỏi đó đang thật sự là những vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo nhất là
trong điều kiện nước ta đang thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá
và từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Với mong muốn góp phần nhỏ và làm rõ những vấn đề trên, tôi đã lựa
chọn đề tài: “Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực con người để phát triển kinh tế tri thức
là một vấn đề đang rất được quan tâm. Có một số công trình khoa học, cuốn
sách, bài viết xoay quanh đề tài này như:
- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ tri thức Việt
Nam. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2004, do TS. Đoàn Văn Khái chủ nhiệm đề
tài.
- Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nước ta, GS. TS. Đặng Hữu. Đề tài KX 02.03, H.2003.
- Thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội của tác giả Phạm Thị
Ngọc Trâm, Tạp chí Triết học, số 1/1993.
- Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của chúng ta, Tạp chí Xã hội học
tháng 2/1999 của Phan Đình Diệu.
- Kinh tế tri thức: xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000 do Ngô Quý Tùng chủ biên.
- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 của tác giả Nghiêm Đình Vỳ.
- Để tri thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức, Tạp chí Cộng sản, số 178/2002
7
của Nguyễn Hoàng Hải.
- Động lực cho kinh tế tri thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2003 của
Đặng Hữu.
Các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra những khái niệm cụ thể, phản
ánh tình hình, xu hướng phát triển, những thành công cũng như những tồn tại,
bất cập của nguồn nhân lực phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua.
Tuy vậy kinh tế tri thức và phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức
đối với Việt Nam là một lĩnh vực mới trẻ. Cùng với quá trình phát triển của nền
kinh tế, các quan điểm, chính sách, xu hướng phát triển cũng như những bất cập
và các vấn đề đặt ra trong sự phát triển của nguồn nhân lực, của kinh tế tri thức
có nhiều thay đổi trong tình hình mới mà các công trình, bài viết trên không thể
phản ánh hết được. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống, đưa
ra những định hướng, giải pháp phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện
nay là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực trong kinh
tế tri thức và thực trạng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức hiện nay ở
Việt Nam, luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Thứ nhất, phân tích, hệ thống và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý
luận về nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức, nội dungvà những vấn đề đặt ra đối
8
với phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức.
+ Thứ hai, phân tích đánh giá đúng tình hình nguồn nhân lực hiện nay về
quy mô, chất lượng và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam.
+ Thứ ba, xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển nguồn
nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong vai trò để phát
triển kinh tế tri thức của Việt Nam trên phương diện Kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những lý luận phổ biến hiện nay về
nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức gắn với những đặc điểm, tình hình hiện nay
của nguồn nhân lực Việt Nam, mối quan hệ giữa chúng và dựa trên những đòi
hỏi bức thiết của xu thế phát triển kinh tế tri thức.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp biện chứng và các phương pháp
khác như các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hệ
thống hoá để làm rõ thêm những vấn đề cần phải phân tích.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và kinh tế tri
thức, luận văn khắc hoạ vai trò của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức
như là một đặc trưng mới, một chức năng mới của nguồn nhân lực. Và từ đó,
luận văn đề ra một số định hướng, giải pháp mới trong tiến trình đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của
9
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế tri thức.
Chương 2: Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát
10
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010.
Chƣơng 1
KINH TẾ TRI THỨC VÀ NHỮNG YấU CẦU
VỀ NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực
1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức
Theo quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, lực lượng sản xuất
không ngừng phát triển đi lên. Các nền kinh tế lạc hậu, thấp kém trước đó được
thay bởi những nền kinh tế đi sau đạt trình độ phát triển cao hơn. Khởi đầu, kinh
tế tự nhiên, săn bắt hái lượm đã được thay bằng nền kinh tế nông nghiệp. Và đến
lượt kinh tế nông nghiệp cũng trở nên lạc hậu nhường chỗ cho nền kinh tế đại
công nghiệp với quy mô, năng suất vượt trội. Và có một số quan điểm cho rằng
sau kinh tế công nghiệp là xã hội hậu công nghiệp
Ngay từ năm 1973, D.Bell nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra khái niệm “xã hội
hậu công nghiệp”. Năm 1980 A.Top-phơ-lơ bàn luận về kinh tế hậu công nghiệp.
Năm 1982 G. Nei-dơ-bet nhà kinh tế học ngươì Mỹ đưa ra khái niệm “kinh tế
thông tin”. Năm 1986 các nhà kinh tế học Anh đưa ra khái niệm “kinh tế kỹ
thuật cao”. Đến năm 1990, lần đầu tiên Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm “kinh tế
tri thức”. Trong tất cả các khái niệm trên tri thức đều được khẳng định có một
vai trò đặc biệt quan trong. Năm 1995, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức”.
Thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất phát từ cụm từ tiếng Anh: “knowledge
economy”, bên cạnh đó còn một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng nhưng ít
phổ biến hơn. Trong đó, thuật ngữ nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge
based economy) có mức độ phản ánh rộng rãi hơn, gần với “kinh tế tri thức”
11
hơn.
Mặt khác, từ kinh tế tri thức nhưng theo những phương diện tiếp cận khác
nhau mà có nhiều khái niệm khác như: kinh tế tri thức là nền kinh tế mới nhất,
mới nên người ta cũng gọi là nền kinh tế mới (new economy); kinh tế tri thức
đặc biệt coi trọng việc học tập nên có người gọi là nền kinh tế học hỏi (learnring
economy); kinh tế tri thức coi trọng thông tin, cần nhiều thông tin, sử dụng kỹ
thuật số nên còn có những thuật ngữ nền kinh tế mạng (digital economy), xã hội
thông tin (information society)…
Kể từ đó kinh tế tri thức được quan tâm bàn luận rất nhiều trong giới
nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam. Kinh tế tri thức được ghi nhận,
nhắc đến, bàn luận trong nhiều hội thảo khoa học, bài viết, cuốn sách, và cả
trong văn kiện Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy, kinh tế tri thức là gì?
“Nền kinh tế tri thức” hay khái niệm “kinh tế tri thức” là đối tượng nghiên
cứu còn khá mới mẻ không những ở Việt Nam mà còn với cả thế giới. Nó có vai
trò đặc biệt nên được giới nghiên cứu chú ý bàn luận. Có nhiều quan niệm, cách
hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, còn có quan điểm cho rằng hiện nay chưa
xuất hiện cái gọi là kinh tế tri thức. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu, tiếp cận là
chưa cần thiết.
Có quan điểm cho rằng: kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó tin học
và công nghệ thông tin phát triển sâu rộng. Quan điểm khác thì lý giải rằng: đó là
nền kinh tế mà công nghệ sinh học giữ vai trò chủ đạo. Hay có một quan điểm
khác giải thích: kinh tế tri thức là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở một nền
văn hoá tiên tiến và ở đó người dân hưởng thụ với trình độ cao. Trên đây chỉ là
những cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, nó chưa chỉ ra được những
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Những ý kiến phản biện như của tác
giả Lê Huy Thục cho rằng: trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay việc một
quốc gia sử dụng công nghệ sinh học, tin học hoá hay cả hai một cách sâu rộng
trong sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có thế thì chưa thể coi là đã có được kinh
12
tế tri thức. Còn có những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, được thiên nhiên
ưu đãi, chỉ cần bán nguyên liệu thô cũng trở nên giàu có, khắp nơi người dân đều
có điều kiện sử dụng những hàm lượng tri thức, chất xám trong các sản phẩm thô
rất thấp nên nền kinh tế như vậy không được coi là kinh tế tri thức (hoặc là tiếp
cận được với kinh tế tri thức).
Các quan điểm trên chưa chính xác bởi đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng
công nghệ cao với nền kinh tế tri thức; tri thức về khoa học công nghệ đã tách ra
khỏi tri thức rộng lớn của con người cũng như tách rời khoa học, công nghệ ra
khỏi môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội nói chung.
Có một định nghĩa khác khái quát hơn của tác giả Nguyễn Ngọc Thành:
“kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng
hoá tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản:Tiền-hàng-tiền được thay thế
bằng công thức Tiền - tri thức - tiền” [22]. Định nghĩa này có điều mới là chỉ ra
được vai trò quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới song ở đây nó mới chỉ
đề cập đến tri thức trong môi trường kinh doanh với tri thức là một dạng hàng
hoá cao cấp, dùng tiền mua đem về sử dụng để kiếm được lợi nhuận lớn hơn số
tiền ban đầu bỏ ra. Định nghĩa này chưa bao quát được vấn đề bởi tri thức không
chỉ tác động đến môi trường kinh tế mà trong nền kinh tế tri thức, tri thức còn
nằm trong sự tương tác với môi trường văn hoá, xã hội, giáo dục…
Năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một
định nghĩa đơn giản nhưng bao quát về kinh tế tri thức trong báo cáo có tên:
“Kinh tế dựa trên tri thức”. Theo đó, “kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp
dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc “kinh tế tri thức là
kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối vối sự phát triển loài người”.
Định nghĩa này có tính khái quát cao, khắc phục hạn chế của nhiều định
nghĩa kể trên; nó vừa cho thấy vị trí, vai trò của tri thức trong nền kinh tế tri thức
vừa chỉ ra được mối quan hệ giữa tri thức và quá trình phát triển kinh tế xã hội
13
của loài người. Đồng thời định nghĩa này đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của
nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh
tế tri thức.
Trước đây khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển nền kinh tế tự nhiên còn
thống trị thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên được ưu đãi và lực lượng lao động thủ công. Quốc gia nào
không sở hữu được nhân tố đó thì không thể có điều kiện để phát triển kinh tế.
Ngày nay, thời kỳ bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, có những
nước nghèo hoặc thậm chí rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao
động không đông song lại đạt được tốc độ phát triển kinh tế rất cao trong nhiều
thập kỷ, trở thành những quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Hồng Kông, Singapore… Nhân tố quyết định cho sự thành công đó chính
là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi các quốc gia giàu tài nguyên thiên
nhiên khai thác ngày càng cạn kiệt nguồn lực tự nhiên của mình thì nguồn nhân
lực chất lượng cao lại càng có điều kiện phát triển mạnh. Với ưu thế rõ rệt của
mình trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực được
rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu.
Nguồn nhân lực là một khái niệm phức tạp, trong quá trình vận động và
phát triển nó chịu sự tác động của những qui luật sinh tử tự nhiên và những qui
luật xã hội. Bởi vậy, khái niệm nguồn nhân lực được tiếp nhận dưới nhiều góc
độ.
Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội, gần gũi với đối tượng nghiên cứu
của kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho nền
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn nhân lực con người cho sự phát triển. Như vậy,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư của quốc gia. Hoặc nguồn nhân lực là
khả năng lao động của xã hội, bao gồm tất cả các cá nhân trong độ tuổi lao động
14
tham gia vào quá trình lao động được sử dụng trong quá trình lao động.
Thứ hai, theo cách tiếp cận của môn kinh tế học phát triển thì nguồn nhân
lực là nguồn lực tạo động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng phát
triển hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc cung ứng nguồn nhân lực theo yêu
cầu của nền kinh tế.
Thứ ba, theo thuyết về vốn con người thì nhân tố con người trong nguồn
nhân lực là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất, đứng trước các
nguồn lực vật chất khác. Bởi vậy, việc đầu tư cho nguồn nhân lực theo thuyết
này là rất quan trọng. Nhà kinh tế học người Mỹ đạt giải Nobel năm 1992, Gang
Baken cho rằng: không có một khoản đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu
tư vào nguồn nhân lực. Theo một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới (WB)
công bố thì khi đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồứi vốn chỉ đạt
13% tổng vốn đầu tư trong khi đầu tư cho giáo dục tiểu học, tỷ lệ thu hồi vốn đạt
24%, giáo dục trung học là 17%, giáo dục cao đẳng đại học là 14%. Tổng vốn đầu
tư cho kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có tốc độ phát triển thần kỳ thời
gian qua cho thấy: chìa khoá cho sự thành công vượt bậc đó không phải là nguồn
lực tự nhiên, nguồn lực tài chính hay các nguồn lực vật chất khác mà chính là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do vậy, việc đầu tư để phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng đang ngày càng được thế giới quan tâm. Tất nhiên. Bên cạnh
nguồn nhân lực, cũng cần phải đầu tư vào các nguồn vốn vật chất tương ứng.
Thứ tư, theo quan niệm của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc
(UNDP) thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực bao gồm năng lực thể
chất và năng lực trí tuệ của con người được huy động vào quá trình sản xuất.
Nguồn năng lực đó của con người gộp thành nguồn nội lực quan trọng hàng đầu
của mọi quốc gia. Những quốc gia có dân số đông sẽ có điều kiện thuận lợi để
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra động lực to lớn cho sự phát
15
triển kinh tế xã hội của quốc gia mình.
Thứ năm, ở Việt Nam theo quan điểm được sử dụng rộng rãi thì nguồn
nhân lực là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí
tuệ và sức khoẻ, năng lực phẩm chất, tác phong làm việc.
Như vậy, có nhiều quan điểm cách nhìn nhận khác nhau về nguồn nhân
lực trong đó những quan điểm gần gũi với Việt Nam đều nhấn mạnh tới năng lực
lao động, năng lực làm việc hay là năng lực thể chất, tinh thần và trí tuệ tồn tại
trong mỗi con người của lực lượng lao động xã hội. Chất lượng của nguồn nhân
lực vì thế sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng
lao động. Phát triển nguồn nhân lực, bên cạnh quan tâm phát triển số lượng
chính là việc phát triển khả năng của năng lực thể chất, năng lực tinh thần, năng
lực trí tuệ của toàn bộ lực lượng lao động xã hội.
1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng cần phải chú ý khi phát triển
nguồn nhân lực bởi vì ngay từ khi thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cơ
cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp.
Theo đó, tỉ lệ lao động làm việc trong những ngành này cũng phải có sự
thay đổi tương ứng. Tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm trong sự so sánh tương đối
với công nghiệp và dịch vụ thì số lượng lao động có thể giảm nhưng do sự tiến
bộ của khoa học công nghệ lượng giá trị của nông nghiệp tạo ra có thể còn lớn
hơn, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao hơn, sức cạnh tranh tốt hơn. Muốn
được như vậy, đương nhiên lao động ngành nông nghiệp phải có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao hơn, nhiều trí tuệ hơn. Tương tự, lao động nhóm ngành công
nghiệp, dịch vụ cũng phải tăng lên về số lượng và chất lượng mới có thể đáp ứng
16
được yêu cầu của thị trường lao động và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng đối với việc phát triển nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức bởi nếu quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực
không tương thích về số lượng và chất lượng so với yêu cầu về nhân lực của nền
kinh tế sẽ dẫn tới những hậu quả lâu dài cho đất nước. Nguồn nhân lực có trình
độ được đào tạo không đủ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển thì sẽ không
khai thác, sử dụng được hết các nguồn lực vật chất của xã hội, tiềm năng phát
triển không được giải phóng gây ra sự lãng phí, hạn chế sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Ngược lại, nếu như công tác dự báo nhu cầu nhân lực không chính
xác, đào tạo vượt quá nhu cầu về lao động sẽ gây lãng phí cho nguồn lực của xã
hội trong điều kiện nguồn nhân sách dành cho giáo dục đào tạo còn nhiều hạn
chế như hiện nay. Ngoài ra, nguồn nhân lực đã qua đào tạo mà không có việc
làm có thể dẫn tới một số tác động tiêu cực khác cho xã hội. Chính vì vậy, phát
triển nguồn nhân lực phải gắn liền với công tác dự báo chính xác , theo kịp với
yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển của công
nghệ thông tin
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, công nghệ thông tin phát triển mạnh
mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, làm thay đổi và xuất hiện
những ngành nghề mới, cách thức tư duy quản lý mới.
Các sản phẩm của công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin đã làm xoá mờ các
khoảng cách về địa lý, thời gian làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn
ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không người lao động, nhất là lao động
có trình độ chuyên môn cao đều phải chịu sự ảnh hưởng của công nghệ thông
tin; phải tiếp xúc và sử dụng các sản phẩm, kỹ thuật của công nghệ thông tin.
17
Điều đó đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải được đào tạo đến một trình độ chuyên
môn nhất định để có thể khai thác các thành tựu của công nghệ hiện đại một cách
có hiệu quả. Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng mà việc phát triển
mà nguồn nhân lực phải hướng đến.
1.1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh
mẽ đã làm mờ đi các biên giới quốc gia. Lao động, các nguồn vốn, công nghệ và
kỹ năng quản lý tiên tiến hiện đại có thể dễ dàng tiếp cận với các quốc gia, các
chủ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh hơn bao giờ hết. Quá trình đó đòi hỏi
phải có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ tay nghề chuyên môn cao,
có kỹ năng tiếp nhận, xử lý và ứng dụng tri thức, công nghệ mới cũng như khả
năng hoà nhập vào môi trường làm việc quốc tế.
Sự mở rộng của thị trường lao động đã mở ra nhiều cơ hội lựa chọn cho
người lao động. Chủ sử dụng lao động của họ có thể là các doanh nghiệp Việt
Nam, doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc
tại bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới. Mỗi năm Việt Nam xuất
khẩu hàng chục ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc tại các quốc gia, hầu
hết có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam và họ nhận được mức lương cao hơn
so với cùng vị trí làm việc tại Việt Nam. Nguồn ngoại tệ gửi về nước hàng năm
lên tới hàng tỷ USD. Đội ngũ lao động này còn được tiếp cận với công nghệ, kỹ
thuật hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến để khi trở về nước họ trở thành những
lao động lành nghề đóng góp năng lực trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động
trong nước cũng như quốc tế đòi hỏi người lao động, nâng cao được sức cạnh
tranh của mình từ học vấn, trình độ chuyên môn, tác phong đến phẩm chất đạo
đức, lối sống công nghiệp mới có thể tìm được vị trí xứng đáng. Lao động Việt
18
Nam khi ra làm việc ở nước ngoài thường được đánh giá cao ở khả năng nhanh
nhẹn, dễ thích nghi, cần cù chịu khó nhưng còn thiếu tác phong công nghiệp,
tính kỷ luật và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ yếu. Đối với lao động trong nước thì
hiện nay được đánh giá là còn thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề; Bộ phận đã
qua đào tạo thì lại chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc thực tế. Còn với nhóm
nhân lực trí tuệ như các nhà quản lý cao cấp, kỹ sư công nghệ thông tin thì được
coi là thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Điều đó đã dẫn tới một thực tế có
nhiều chủ doanh nghiệp phải đưa nhân lực cao cấp từ nước ngoài vào Việt Nam
làm việc. Tình hình nêu trên đòi hỏi công tác phát triển nguồn nhân lực để tiếp
cận, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay.
1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế tri thức
1.2.1 Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam
Thứ nhất, nguồn nhân lực phải được đào tạo với trình độ chuyên môn nhất
định, có phẩm chất trí tuệ. Đây được coi là đặc điểm nổi bật nhất của nguồn nhân
lực phục vụ cho tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Bởi có trải
qua quá trình đào tạo, có phẩm chất trí tuệ thì mới có khả năng sáng tạo, áp dụng
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để sáng chế ra các công nghệ, sản phẩm
mới. Nguồn nhân lực phải có khả năng thu thập, xử lý thông tin, có sự nhạy bén,
thực sự làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Ngoài ra nguồn nhân lực đó
phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghệ nghiệp, có kỹ năng
lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn như
câu ca dao “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề” đã khẳng định.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người lao động làm việc
ở vị trí nào cũng phải tinh thông nghiệp vụ: Người đầu bếp thì phải nấu ăn ngon,
19
thầy thuốc thì phải giỏi trị bệnh, người công nhân thì phải giỏi ngành nghề…
Điều đó càng thể hiện rõ trong điều kiện hiện nay khi chúng ta tiến hành sự
nghiệp CNH-HĐH với sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và sự chuyên
môn hoá ngày càng cao của người lao động.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, sự chuyển dịch lao động quốc tế cũng như công nghệ kỹ thuật
hiện đại dẫn tới sự cạnh tranh quốc tế giữa những người lao động để giành được
những vị trí làm việc tốt. Bởi vậy người lao động phải có khả năng làm việc thực
tế, phải có khả năng xử lý các vấn đề phát sinh trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường và của cách mạng khoa học công nghệ; người lao động còn phải có
năng lực tham gia hoạch định chính sách đưa ra giải pháp và tổ chức thực hiện
quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường và phân công
lao động quốc tế. Những khả năng đó chỉ có thể có từ nguồn nhân lực có tri thức,
có trí tuệ và đã được đào tạo. Như vậy, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức phải là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tri thức khoa học và được đào tạo về
chuyên môn kỹ thuật.
Thứ hai, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức có tính quốc tế hoá cao.
Từ khi công nghệ thông tin phát triển bùng nổ, nhất là với sự phát triển
của Internet, đã làm cho không gian, thời gian không chỉ trong phạm vi quốc gia
mà trên phạm vi toàn cầu đã bị rút ngắn, thu hẹp khoảng cách. Các nhân tố tri
thức, công nghệ, vốn, lao động…không còn bị bó hẹp trong biên giới một quốc
gia làm cho hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu. Sự chuyển dịch lao động quốc
tế cũng như công nghệ kỹ thuật hiện đại ngày càng mạnh mẽ dẫn tới sự cạnh
tranh quốc tế giữa những người lao động. Điều đó bắt buộc người lao động phải
học tập, trang bị kiến thức kỹ năng về chuyên môn, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ
mới có thể đáp ứng được yêu câù trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, đặc điểm quan trọng của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
20
thức là có tính sáng tạo cao.
Sáng tạo là một đặc điểm quan trọng và nổi bật của nguồn nhân lực hiện
đại. Sáng tạo là cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đồng thời cũng
là động lực cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để thông qua đó kinh tế phát
triển. Cho dù ở bất kỳ hình thái kinh tế nào thì sự sáng tạo của người lao động
đều có vị trí đặc biệt quan trọng. Đối với kinh tế tri thức thì sức sáng tạo của
nguồn nhân lực lại càng được coi trọng và sáng tạo có thể được coi như một tiêu
chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá sự phát triển cuả kinh tế tri
thức.
Nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo mới có thể đưa ra các phương pháp,
cách thức mới để giải quyết một vấn đề cũ hay đưa ra một vấn đề mới, giải pháp
mới. Trong thực tế, năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực có thể được thể hiện
qua các cải tiến, các giải pháp hữu ích hay phát minh ra sản phẩm mới, dịch vụ
hay công nghệ quản lý mới.
Trong kinh tế tri thức, KH-CN có tốc độ phát triển và thay thế rất cao, sản
phẩm có vòng đời ngắn, thậm chí công nghệ phát minh sáng chế cũng có vòng
đời ngắn. Phát triển nguồn nhân lực nếu như không có nguồn nhân lực sáng tạo
thì không những không sáng tạo ra được công nghệ, sản phẩm mới mà còn
không làm chủ được những công nghệ, kỹ thuật trung bình của xã hội và như vậy
sẽ dần đào thải ra khỏi đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao.
Như vậy, sáng tạo là yếu tố, đặc điểm không thể thiếu được của nguồn
nhân lực và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công cũng như trình độ phát
triển của kinh tế tri thức.
1.2.2. Nội dung
- Phát triển nguồn nhân lực để phát triển nguồn tri thức
Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cùng với làn
sóng toàn cầu hoá đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử: nền kinh tế thế giới bước
21
vào giai đoạn quá độ từ nền kinh tế dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật là đại công
nghiệp, cơ khí hoá sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Lúc này tri thức đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và việc phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia đóng vai trò sống còn đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Các quốc gia phát triển có nền kinh tế dựa trên một nền sản xuất công
nghệ cao, sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Cơ sở vật chất
kỹ thuật như tự động hoá, tin học hoá đã được hình thành đáp ứng đòi hỏi của
kinh tế tri thức. Lực lượng sản xuất phát triển thể hiện bằng việc xuất hiện một
số lượng đông đảo những lao động trí tuệ ở các nước phát triển và cả những
nước công nghiệp mới (NICs), các nước đang phát triển.
Sự chuyển biến có tính chất bước ngoặt này của lực lượng sản xuất thế
giới khiến cho bất cứ quốc gia nào khi tiến hành công nghiệp hoá phải gắn liền
với hiện đại hoá và đặc biệt muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút
ngắn thì việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để tiếp cận, phát triển
kinh tế kỹ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm hai nội dung phát triển về số lượng và
phát triển về chất lượng nguồn nhân lực. Về số lượng nguồn nhân lực, mỗi thời
kỳ, mỗi nền kinh tế có những yêu cầu khác nhau về số lượng nguồn nhân lực.
Thời kỳ kinh tế phát triển bùng nổ thì số lượng lực lượng lao động mà nền kinh
tế đòi hỏi tăng cao và đi cùng với nó là chất lượng của nguồn nhân lực. Chất
lượng nguồn nhân lực thể hiện thông qua hiệu quả của quá trình lao động do
nguồn lao động thực hiện. Các hoạt động lao động của con người trong quá trình
lao động này được phân thành hai nhóm các hoạt động.
Thứ nhất, người lao động thực hiện những hoạt động đã được lặp đi lặp lại
nhiều lần như những kỹ năng đã được học tập để sản xuất ra các sản phẩm theo
khuôn mẫu tính sẵn.
Thứ hai, người lao động sáng tạo ra các kỹ thuật công nghệ sản xuất mới
22
(trước đó chưa có một khuôn mẫu tính sẵn nào). Những sản phẩm của quá trình
lao động này chứa đựng một hàm lượng giá trị rất cao bởi vì người lao động phải
huy động một năng lực thể chất, năng lực tinh thần, trí tuệ, đạt đến một mức độ
rất cao. Con người lao động phải có đủ trình độ để tìm kiếm, phát hiện thông tin
mới, tri thức mới; từ đó vật chất hoá nó biến nó thành các sản phẩm mới, công
nghệ mới.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức yêu cầu:
(i) về số lượng phải cung ứng đủ số lượng nguồn nhân lực theo nhu cầu tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế; (ii) về chất lượng cần phát triển năng lực thể
chất, tinh thần sáng tạo, khả năng tìm kiếm phát hiện và vật chất hoá thông tin
thành sản phẩm mới công nghệ mới. Trong số đó, phát triển nguồn nhân lực có
năng lực sáng tạo, năng lực đổi mới thể hiện ra kết quả lao động là những sản
phẩm công nghệ mới là nội dung quan trọng nhất của việc phát triển nguồn nhân
23
lực để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức của một số nƣớc
Cùng nằm trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á một số quốc gia có nền
kinh tế phát triển thần kỳ, có điền kiện tự nhiên, kinh tế và văn hoá xã hội gần
gũi với Việt Nam. Việc nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế đặc
biệt là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để tiếp cận phát triển nền kinh tế
tri thức có ý nghĩa quan trọng, thông qua đó chúng ta có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm. Trong số các quốc gia đó có thể kể đến Hàn Quốc, Trung Quốc.
1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Từ một nước kém phát triển, nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu những năm 60
của thế kỷ 20, nhưng nhờ có tầm nhìn chiến lược và chính sách đúng đắn về phát
triển con người nên Hàn Quốc đã làm nên một cuộc bứt phá được gọi là “sự thần
kỳ Đông Á” trở thành một nước công nghiệp phát triển. Kinh nghiệm phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao của Hàn Quốc tập chung chủ yếu vào việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hai nội dung chính:
Thứ nhất: coi giáo dục đào tạo, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực chất lượng
cao là nhân tố quan trọng hàng đầu phát triển nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri
thức.
Từ bậc tiểu học, cũng giống như các nền kinh tế phát triển khác Hàn Quốc
đã hoàn thành phổ cập hoá tiểu học trước khi tiến hành CNH-HĐH. Ngay từ
những năm 60, tỷ lệ dân số biết chữ của Hàn Quốc đạt 80%, gần 90% dân số
trong độ tuổi tiểu học đã hoàn thành chương trình tiểu học. Năm 1970, tỷ lệ hoàn
thành chương trình tiểu học đã đạt 100%.
Đối với cấp học cao đẳng và đại học, Hàn Quốc cũng có tỷ lệ sinh viên
học đại học rất cao: 80% số học sinh phổ thông trung học đã học đại học (số liệu
24
1995).
Hàn Quốc chủ trương tuyển chọn bồi dưỡng người tài rất rõ ràng ngay từ
rất sớm chính sách này được thực hiện một cách có hệ thống. Các học sinh có
năng khiếu, có năng lực đặc biệt được tuyển chọn vào các lớp năng khiếu. Tốt
nghiệp phổ thông trung học, những sinh viên suất sắc được đưa ra nước ngoài
học tập, tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của những nước phát
triển. Chính nhờ vậy, số sinh viên du học nước ngoài của Hàn Quốc rất đông trên
thế giới chỉ xếp sau Trung Quốc. Lực lượng du học sinh có trình độ cao học đã
góp phần quan trọng nâng cao trình độ khoa học công nghệ Hàn Quốc. Ngay từ
những năm 80 Hàn Quốc đã hoàn thành giai đoạn mô phỏng tiếp thu công nghệ
tiên tiến của nước ngoài, chuyển sang giai đoạn sáng tạo công nghệ mới. Cùng
với đó, năng lực tư duy quản lý hiện đại của nước ngoài được áp dụng linh hoạt,
sáng tạo tại Hàn Quốc. Nhờ đó, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng ổn
định 8% trong suốt thời gian 45 năm, cho tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á 1997-1999.
Ngân sách nhà nước của Hàn Quốc dành cho giáo dục không ngừng tăng
lên qua các năm. Năm 1960, ngân sách dành cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ lệ 9-
10%; thập niên 80 là17%; đến thâp niên 90 đã tăng lên mức 27-29% ngân sách
(tương đương 3.5-3.7%GDP).
Giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc chủ yếu do các trường công lập giảng
dạy, có khoảng 70% số học sinh theo học các trường này. Các học sinh ở nông
thôn Hàn Quốc được chính phủ miễn học phí. Chính vì thế, tỷ lệ học sinh theo
học phổ thông trung học ngay từ những năm 1985 đã đạt hơn 90%. (So sánh với
Hồng Kông có cùng trình độ phát triển nhưng tỷ lệ học sinh đi học Trung học
phổ thông chỉ đạt 69%). Bù lại lĩnh vực giáo dục phổ thông khu vực tư nhân ở
Hàn Quốc rất tích cực tham gia vào giáo dục đại học và dạy nghề, tỷ trọng của
khu vực này có lúc chiếm tới 70-90%. Tuy vậy, bên cạnh những tích cực do khu
25
vực tư nhân mang lại cho giáo dục và dạy nghề ở Hàn Quốc thì còn có những
hạn chế khác mang lại: do tư nhân thống lĩnh giáo dục đại học nên mức học phí
rất cao vì vậy nhiều học sinh gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn ít có cơ hội
theo học đại học.
+ Việc sử dụng lao động có trình độ cao của Hàn Quốc
Hàn Quốc không áp dụng hình thức thuê lao động làm việc đến suốt đời
như ở Nhật Bản. Lao động làm việc không tốt sẽ bị sa thải ngay hoặc người làm
công cũng dễ dàng chuyển tới làm việc cho những công ty khác trả lương cao
hơn, điều kiện lao động tốt hơn. Điều này tạo ra một áp lực cạnh tranh nâng cao
trình độ rất cao giữa các nhân viên cũng như sự cạnh tranh giữa chính sách đãi
ngộ nhân tài của chủ sử dụng lao động. Ngoài ra, mức trả lương rất cao tại Hàn
Quốc đối với lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao cũng là một động
lực lớn thu hút nhân tài, khích lệ người lao động nâng cao trình độ. Mức tiền
lương của người có trình độ đại học cao gấp 3-4 lần lao động chỉ có trình độ
PTTH và mức tiền lương còn tăng lên nhiều lần tuỳ theo sự thay đổi của bằng
cấp, trình độ chuyên môn…
Chính sách thu hút nhân tài từ nước ngoài trở về Hàn Quốc làm việc cũng
rất có hiệu quả. Ngay từ năm 1968 Hàn Quốc đã bắt đầu thực hiện chính sách:
“kế hoạch hoá đưa nhân tài về nước”, theo đó có rất nhiều ưu đãi như: nhà ở,
môi trường làm việc hiện đại, trả lương cao… Mức lương mà Hàn Quốc trả cho
lao động có trình độ cao từ các nước đang phát triển về làm việc có thể cao gấp
20-40 lần mức lương cũ. Thậm chí Hàn Quốc cũng đặt các văn phòng chuyên
trách tại nước ngoài, cử các đoàn công tác ra nước ngoài kêu gọi các tài năng
Hàn Quốc trở về nước.
Nhờ những chính sách đúng đắn, linh hoạt như vậy mặc dù là quốc gia
thiếu lao động, phải nhập khẩu lao động nhưng nguồn nhân lực của Hàn Quốc lại
có trình độ tri thức cao, đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật đạt mức độ đẳng
26
cấp thế giới.
Tuy vậy, chính sách sử dụng nguồn nhân lực của Hàn Quốc cũng có
những bất cập do tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Phụ nữ Hàn Quốc đến bậc đại
học không còn cơ hội học tập như nam giới. ở cấp học nay tỷ lệ nữ chỉ chiếm
60% so với nam. Tỷ lệ này là rất thấp so với khu vực và thế giới. Sự bất bình
đẳng trong lao động nữ còn thể hiện khi xin việc làm cũng như mức lương và cơ
hội thăng tiến. Điều này vô hình chung đã bỏ phí nguồn nhân lực quan trọng khi
Hàn Quốc vẫn phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài.
Thứ hai: coi việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, công
nghệ mới vào việc sản xuất kinh doanh như một biện pháp quan trọng để phát
triển tay nghề, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh đòi
hỏi nguồn nhân lực phải có một trình độ khoa học kỹ thuật tương ứng mới có thể
tiếp nhận và quản lý công nghệ. Khi trình độ của người lao động phát triển đến
một mức độ nhất định, nó lại là cơ sở cho việc tiếp thu công nghệ mới cao hơn,
hiện đại hơn. Đây cũng là một trong những kinh nghiệm quan trọng của Hàn Quốc
để phát triển được một đội ngũ nguồn nhân lực làm chủ các ngành công nghiệp
quan trọng như: sản xuất thép, xe hơi, đóng tàu, điện tử… ở đẳng cấp của những
quốc gia công nghiệp phát triển. Đó cũng là kết quả của chính sách quan tâm đầu
tư thích đáng cho các hoạt động R&D (nghiên cứu và phát triển) của Hàn Quốc.
Hiện nay mức đầu tư cho R&D của Hàn Quốc ở mức cao, chiếm 3% GNP.
Đến năm 1997, Hàn Quốc thông qua Bảng đổi mới khoa học – công nghệ
với tham vọng đến đầu thế kỷ XXI đưa trình độ R&D ngang tầm với các quốc
gia nhóm G7, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghệ cao. Đến năm 2002,
Hàn Quốc đã đầu tư 10.2000 tỷ won vào kết cấu hạ tầng thông tin; 466 tỷ won
được đầu tư vào mạng thông tin siêu tốc. Với sự đầu tư mạnh mẽ như vậy tin học
ở Hàn Quốc đã được sử dụng rất phổ thể hiện qua sự phát triển của chính ngành
27
điện tử, thương mại điện tử.
Năm 1997 có 1,6 triệu người sử dụng Internet, đến năm 1999 có 10,8 triệu
người, năm 2000 lên tới 16,4 triệu và năm 2006 có tới 29 triệu người Hàn Quốc
sử dụng Internet [41].
Việc đón đầu, tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới của Hàn Quốc cũng góp
phần tạo ra cơ hội phát triển trình độ của đội ngũ lao động kỹ thuật cao của Hàn
Quốc. Điển hình như việc nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ CDMA
(công nghệ truyền thông di động băng thông rộng định hướng miền thời gian ba
chiều) do hãng QUANCOM, Mỹ phát minh ra đã biến nước này trở thành một
trong những quốc gia hàng đầu về công nghệ và dịch vụ CDMA. Hiện nay, Hàn
Quốc không những sản xuất các sản phẩm theo hướng công nghệ này để phục vụ
thị trường Hàn Quốc mà còn xuất khẩu sản phẩm, công nghệ và chuyên gia lĩnh
vực này tới cả các quốc gia khoa học kỹ thuật phát triển như Nhật Bản và Bắc
Mỹ (ở Việt Nam là mạng điện thoại di động S-phone). Hiển nhiên, qua đó số
lượng nhân công Hàn Quốc làm việc với công nghệ này có trình độ đẳng cấp thế
giới.
Sự phát triển của công nghệ hiện đại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một
trình độ chuyên môn kỹ thuật tương ứng. Và để có nguồn nhân lực như vậy, Hàn
Quốc đã quan tâm tới giáo dục và đào tạo từ rất sớm và ngay cả từ cấp học thấp
nhất. Bên cạnh đó việc sử dụng, khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý
là những kinh nghiệâm quý báu của Hàn Quốc trong việc phát triển NNL chất
lượng cao để phát triển kinh tế tri thức mà Việt Nam có thể tham khảo.
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Năm 1978, Trung Quốc bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách và gặt hái
được những thành tựu kinh tế xã hội vang dội, thế giới bắt đầu chú ý và gọi đó là
hiện tượng Trung Quốc.
Từ năm 1978-2006, GDP của Trung Quốc tăng bình quân 8,6% một năm,
28
thu nhập thực tế đầu người tăng 4,7% ở nông thôn; 5,8% ở thành thị; tốc độ tăng
GDP bình quân đầu người tăng trung bình 9,5%/năm. Thậm chí trong thời gian
diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1999 thì tốc độ tăng trưởng kinh
tế giai đoạn 1996-2000 vẫn đạt 8,3%/năm; thu ngân sách tăng 16,5%, kim ngạch
xuất khẩu tăng 67%.
Đến năm 2006, theo Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) thì GDP
của Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng 10,5%, đạt tổng giá trị GDP là 2500 tỷ
USD, trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 thế giới, chỉ xếp sau Mỹ, Nhật, Đức [23].
Những kết quả đạt được trên đây một phần nhờ vào chính sách phát triển
chất lượng NNL Trung Quốc với quan niệm “sự nghiệp hưng suy mấu chốt là
nhờ con người”. Đây là những kinh nghiệm phát triển quý báu mà Việt Nam có
thể tham khảo.
+ Một là, chú trọng đầu tư cho giáo dục, đào tạo để phát triển nguồn nhân lực.
Trung Quốc có tốc độ phát triển kinh tế cao, có những năm tốc độ tăng
GDP đạt trên 2 con số, cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ chuẩn bị tiếp cận
và phát triển kinh tế tri thức đã đặt ra yêu cầu cho Trung Quốc phải phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển đang tăng cao.
Trung Quốc coi giáo dục đào tạo là kế hoạch lớn cơ bản để thực hiện hiện
đại hoá đất nước. Theo đó, Trung Quốc đã thực hiện xong chương trình học mới,
xây dựng chế độ học bổng nhân dân, xây dựng được nguồn nhân lực dự bị có
chất lượng.
Ngân sách dành cho giáo dục đào tạo của Trung Quốc không ngừng tăng
lên qua các năm. Những năm 70, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đào tạo là 1-2% GNP.
Đến những năm 80 tỷ lệ này tăng lên 3%, đến những năm 90 tỷ lệ này giảm
xuống nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng do thời kỳ nay GNP tăng rất cao. Từ cuối
những năm 90 đến nay tỷ lệ dành cho giáo dục đào tạo của Trung Quốc lại đạt
29
3% GNP.
Ngoài ngân sách nhà nước, Trung Quốc còn thực hiện xã hội hoá giáo dục
mạnh mẽ cho nên nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ có vốn ngân
sách nhà nước mà còn nguồn vốn vật vật chất, tài chính của các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức quốc tế, xã hội, chính phủ các nước. Nhờ đó mà Trung
Quốc đa dạng hơn được nhiều loại hình đào tạo như:hệ thống các trường công
lập, dân lập, trường dân lập có nhà nước hỗ trợ, các trường liên doanh liên kết
với nước ngoài…
Cũng giống như Hàn Quốc, lượng học sinh ra nước ngoài học tập rất đông
theo nhiều kênh khác nhau như: du học bằng ngân sách nhà nước; du học có học
bổng của các tổ chức, các doanh nghiệp và chính phủ nước ngoài… Tính từ năm
1978 đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc đã có hơn một triệu học sinh ra nước
ngoài học tập và số lượng du học sinh vẫn tăng nhanh hằng năm, năm sau cao
hơn năm trước. Tuy vậy, Trung Quốc cũng phải đối mặt với hiện tượng chảy
máu chất xám. Một lượng lớn du học sinh đã không trở về nước làm việc, đặc
biệt giai đoạn 1978-1984 có 230.000 sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài học
tập nhưng chỉ có 700.000 người về nước để làm việc. Bên cạnh đó, một bộ phận
nhân tài trong nước do tiền lương eo hẹp, điều kiện làm việc khó khăn cũng đi ra
nước ngoài tìm việc làm.
Tính ở thời điểm năm 1995, riêng ở nước Mỹ đã có 45.0000 sinh viên, cán
bộ Trung Quốc du học ở lại làm việc. Tuy nhiên, hiện nay ở Trung Quốc quan
điểm đối với vấn đề chảy máu chất xám cũng có những điểm mới. Khi người ta
cho rằng chính bộ phận có trình độ làm việc ở nước ngoài là nguồn cung cấp
ngoại tệ cũng như khoa học công nghệ quan trọng cho Trung Quốc. Bởi vậy, họ
lại càng có điều kiện tốt hơn để học tập và nâng cao vốn tri thức, trình độ chuyên
môn. Đến khi cần trở về nước đây sẽ là lực lượng lao động chất lượng cao của
Trung Quốc, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế
30
đã chứng minh quan điểm này hoàn toàn đúng đắn. Cùng với chính sách ưu đãi
trải thảm đỏ trong nước, kế hoạch kêu gọi người tài, danh nhân Trung Quốc ở
nước ngoài về nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và làm việc đã đánh đúng
tâm lý quay về nguồn cội quê hương của nhiều thế hệ người Trung Quốc ở nước
ngoài. Làn sóng Hoa kiều trở về nước ngày một tăng, góp phần không nhỏ vào
kết quả đưa nền kinh tế Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới.
Bên cạnh những thành tựu to lớn như vậy, giáo dục và đào tạo của Trung
Quốc cũng còn nhiều hạn chế như: chất lượng giáo dục và đào tạo chưa cao.
Theo thống kê năm 1991 của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ số dân đến tuổi học cao
đẳng đại học của Trung Quốc mới chỉ đạt 6,5%. Trong khi tỷ lệ dân đến tuổi học
đại học cao đẳng ở Hàn Quốc là 40%; Singapore 25%; HồngKông 18%;… Do
phương pháp đào tạo còn nặng về nhồi nhét kiến thức mà chưa chú trọng phát
huy tính tích cực của người học khi trong thực tế tính sáng tạo là một trong
những tố chất quan trọng nhất của đội ngũ nhân lực tiếp cận, phát triển kinh tế tri
thức ở Trung Quốc.
+ Hai là, phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển nguồn
nhân lực.
Với quan điểm phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đến lượt nó, nguồn nhân lực chất lượng
cao lại là cơ sở để nâng tầm trình độ của khoa học công nghệ, Trung Quốc rất
chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật. Chính phủ ưu tiên đặc biệt cho những
ngành khoa học mũi nhọn, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, phổ biến thông
tin để vật chất hoá tri thức trong thực tiễn.
Năm 1999, Trung Quốc đã phóng thành công vệ tinh bốn lần, trong đó đặc
biệt nhất là cuộc phóng thành công con tàu vũ trụ đầu tiên “Thần Châu” do chính
Trung Quốc nghiên cứu chế tạo. Đến năm 2003, Thần Châu 5 đã đưa người lên
31
vũ trụ, Trung Quốc trở thành một trong những cường quốc vũ trụ của thế giới.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực sinh học,
tin học, y học….
Trung Quốc còn thành lập ra quỹ khoa học tự nhiên cung cấp tài chính cho
các nhà nghiên cứu. Trung bình mỗi năm quỹ tài trợ cho hơn 30.000 dự án
nghiên cứu cơ bản; 3000 dự án chủ chốt và 125 dự án cấp nhà nước. Mỗi năm
ngân sách của quỹ tăng 29,9%, cho thấy mức độ quan tâm của nhà nước tới kinh
phí nghiên cứu khoa học. Để tăng tính thực tiễn và hiệu quả kinh tế các dự án
nghiên cứu đều được lồng ghép với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Ngay
từ tháng 3 năm 1986 Trung Quốc đã cho ra đời chương trình, kế hoạch phát triển
và nghiên cứu công nghệ cao quốc gia (Chương trình 863). Theo nội dung của kế
hoạch này, thông tin, an ninh thông tin và vi điện tử sẽ đặc biệt được chú trọng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chủ trương xây dựng vườn ươm doanh nghiệp, hỗ
trợ các nhà khoa học đưa các thành tựu nghiên cứu khoa học vào ứng dụng trong
thực tiễn. Các phong trào này thu hút được rất đông các nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp trong và ngoài Trung Quốc tham gia rộng rãi, tạo ra hiệu ứng tích cực, to
lớn cho việc phát triển nguồn nhân lực.
Với tham vọng đứng vào hàng ngũ các quốc gia phát triển trên thế giới
vào năm 2050, Trung Quốc cần một lượng cán bộ khoa học công nghệ khổng lồ.
Để đáp ứng nhu cầu đó, Trung Quốc ngoài đào tạo trong nước còn rất chú trọng
đưa nhân tài ra nước ngoài đào tạo. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có nhiều
chính sách ưu đãi thu hút người tài bằng các chương trình xây dựng nhà ở, nâng
cao mức lương, thu nhập thực tế, tạo điều kiện làm việc thuận lợi. Việc kêu gọi
đội ngũ cán bộ du học sinh Trung Quốc ở lại các nước phát triển làm việc sau
khi học xong hồi hương cũng rất thành công. Năm 2002, Trung Quốc có 18.000
cán bộ, du học sinh hồi hương, tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Đặc biệt, chiếm
tới 90% số đó có học vị tiến sỹ hoặc thạc sỹ. Năm 2006, số lượng du học sinh,
32
cán bộ trở về Trung Quốc đạt con số kỷ lục 31.000 người [40].
Ngoài ra, mỗi năm Trung Quốc thu hút một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, có năm lên tới hơn 50 tỷ USD. Điều đó đồng nghĩa với việc công
nghệ kỹ thuật tiên tiến cũng được đưa vào Trung Quốc và đương nhiên trình độ
chuyên môn, tay nghề của lực lượng lao động tiếp nhận, sử dụng những kỹ thuật
công nghệ đó cũng phải được nâng lên tương ứng. Đây cũng chính là một kinh
nghiệm của Trung Quốc để phát triển nguồn nhân lực có chất lương cao phục vụ
cho việc tiếp cận, phát triển kinh tế dựa trên tri thức.
Việc luân chuyển nhân tài cũng rất được Trung Quốc quan tâm, coi đó
như biện pháp để khuyến khích tối đa sức sáng tạo của đội ngũ những nhà khoa
học, giáo dục, làm phong phú hơn tri thức, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển
của đất nước.
1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam
Nguồn nhân lực để tiếp cận, phát triển kinh tế tri thức là nguồn nhân lực
phải có tổng thể các yếu tố năng lực thể chất và tinh thần, có khả năng tìm kiếm,
tiếp nhận và sáng tạo thông tin, vật chất hoá thông tin thành sản phẩm mới, công
nghệ mới. Vì thế, để tiếp cận phát triển thành công kinh tế tri thức thì việc phát
triển nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hoá và tri thức hoá nền kinh tế quốc
tế là rất quan trọng. Và nhân tố hàng đầu để phát triển nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực chính là giáo dục và đào tạo. Cho nên đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư cho phát triển.
Việt Nam bắt đầu từ một xuất phát điểm thấp, đứng trong nhóm cuối cùng
của các quốc gia phát triển. Vì thế, để hội nhập thành công vào nền kinh tế quốc
tế, việc thực hiện CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức là tất
yếu khách quan. Theo đó, nhu cầu nâng cao chất lượng phát triển nguồn nhân
lực ngày càng cấp thiết. Giải quyết nhu cầu đó, đòi hỏi phải cải cách, phát triển
mạnh mẽ giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, nhấn mạnh đào tạo cao đẳng và
33
đại học.
Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế tri thức của
Trung Quốc, Hàn Quốc cũng đã cho chúng thấy rằng: giáo dục đào tạo đặc biệt
là đào tạo đại học và sau đại học thông qua rất nhiều kênh khác nhau như: đào
tạo bằng ngân sách nhà nước, tiền của cá nhân, tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức quốc tế, chính phủ nước ngoài… bằng nhiều hình thức như: đào tạo trong
nước, đào tạo ở nước ngoài, thành lập các trường liên doanh… Bên cạnh đó,
nguồn nhân lực chất lượng cao cũng có thể thu hút từ nước ngoài, đội ngũ các
nhà khoa học, cán bộ và du học sinh đã từng làm việc ở nước ngoài. Để kêu gọi
những người tài Hàn kiều thậm chí Chính phủ Hàn Quốc còn thành lập những
văn phòng chuyên trách ở nước ngoài. Kinh nghiệm xã hội hoá ngành giáo dục
cũng được Hàn Quốc áp dụng rất thành công thể hiện qua tỷ trọng của khu vực
tư nhân cũng như trong kết quả đào tạo giáo dục Hàn Quốc. Kinh nghiệm luân
chuyển người tài, luân chuyển cán bộ ở Trung Quốc cũng là kinh nghiệm tốt với
Việt Nam. Những chính sách này vừa khơi gợi tài năng, sức cống hiến của
nguồn nhân lực có trình độ vừa tránh được những trì trệ trong hoạt động. Đó là
những kinh nghiệm gần gũi và có thể tham khảo trong tiến trình thực hiện CNH-
HĐH rút ngắn và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Chƣơng 2
TèNH HèNH NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1.Tình hình phát triền nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hoá tinh
thần của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
Như đã trình bày trong chương 1, nguồn nhân lực là bao gồm tổng hoà
năng lực thể chất và năng lực tinh thần tồn tại trong cơ thể sống của người lao
34
động. Chất lượng nguồn nhân lực cao hay thấp không chỉ phụ thuộc vào năng
lực trí tuệ, năng lực tinh thần của người lao động mà còn do năng lực thể chất,
sức khoẻ của bản thân người lao động quyết định. Người lao động có tài năng, trí
tuệ sáng tạo nhưng tài năng và trí tuệ đó không được đặt vào một cơ thể khoẻ
mạnh thì người lao động đó cũng không thể phát huy được khả năng lao động,
sáng tạo của mình được. Bên cạnh đó, trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay,
nhịp sống hối hả của xã hội công nghiệp khiến cho người lao động phải chịu
nhiều áp lực trong công việc cũng như trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi người
lao động phải có sức khoẻ tốt, sung mãn mới có thể đáp ứng tốt được yêu cầu
của công việc. Chính vì vậy năng lực thể chất của nguồn nhân lực là một trong
những mục tiêu quan trọng của phát triển nguồn nhân lực. Năng lực thể chất
được thể hiện qua chỉ số chiều cao, cân nặng và các chỉ số khác.
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, nền kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ
tăng trưởng và phát triển ổn định, điều kiện vật chất, tinh thần của người dân
được nâng lên rõ rệt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự cải thiện về chiều cao, cân
nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ của người dân Việt Nam nói chung và
nguồn nhân lực nói riêng.
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài KHXH 04-04 “Chiến lược phát triển
toàn diện con người Việt Nam trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước” thì năm
1985 chiều cao trung bình của nam giới Việt Nam là 159,8cm, của nữ giới là
150,5cm. Đến năm 2000, chiều cao của nam giới đã đạt 162,5cm và của nữ giới
là 152,3cm.
Như vậy, sau 15 năm chiều cao của người Việt Nam cao thêm 2cm, đây là
mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng trung bình của thế giới là cứ 10 năm
tăng thêm 1cm.
Theo một nghiên cứu khác của chương trình quốc gia mang tên “Nâng cao
tầm vóc và thể trạng của người Việt Nam, góp phần phát triển giống nòi và phục
vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” do Viện khoa học Thể dục Thể thao tiến
35
hành thì hiện nay nam thanh niên Việt Nam có chiều cao trung bình là 165,14cm
và cân nặng là 53,19kg, tăng 6,14cm so với năm 1975; chiều cao trung bình của
nữ là 153,88cm và cân nặng 46,02kg, tăng 4,88cm.
Cân nặng của học sinh nam hiện nay nặng hơn thế hệ năm 1975 là 6,2kg,
học sinh nữ nặng hơn 4,2kg.
Như vậy nhờ sự phát triển kinh tế, điều kiện vật chất, điều kiện sống, dinh
dưỡng được cải thiện đáng kể đã góp phần quan trọng trong việc phát triển chiều
cao và cân nặng của nguồn nhân lực Việt Nam.
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì tốc độ phát triển tầm vóc cơ
thể của người Việt Nam còn rất chậm. Nhật Bản thực hiện chương trình quốc gia
nâng cao thể chất, tầm vóc cơ thể trong 20 năm, chiều cao của người Nhật đã
tăng thêm 17cm, trung bình mỗi năm tăng 0,85cm. Trong khi cũng với thời gian
20 năm, chiều cao của thanh niên Việt Nam mỗi năm chỉ tăng trung bình
0,24cm. Nguyên nhân được giải thích là chương trình quốc gia về nâng cao thể
chất, tầm vóc cơ thể của người Việt Nam chưa được thực hiện và có sự quan tâm
đúng mức, chưa thực hiện được những giải pháp có tính chất đột phá như phát
miễn phí sữa uống cho học sinh trong tất cả các trường học trên toàn quốc. Theo
nghiên cứu của GS.TS Aiyoshi (Nhật Bản) thì chiều cao của con người ngoài
yếu tố di truyền thì có 2 nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đối với chiều cao là dinh
dưỡng (tỷ trọng 31%) và chế độ luyện tập (chiếm tỷ trọng 20%).
Trong khi đó, dinh dưỡng trẻ em Việt Nam thể hiện qua tỷ lệ suy dinh
dưỡng còn khá cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9%
năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000, và 30,1% năm 2002.
Hiện nay Việt Nam còn nằm trong số các nước có mức sống thấp của thế
giới. Theo phân loại của Ngân hàng thế giới thì các nước có thu nhập thấp là
mức 745 USD/ người. Trong khi năm 2006, GDP bình quân đầu người của Việt
Nam mới chỉ đạt 725,3 USD/người/năm [23]. Mức thu nhập thấp như vậy trong
36
khi tốc độ tăng dân số còn cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ lại
thấp nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống. Điều kiện
lao động trong nhiều cơ sở ở các ngành sản xuất cũng như trong một số cơ quan
hành chính sự nghiệp của nước ta còn xấu, có nơi còn rất khắc nghiệt. Môi
trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm, độc hại vượt
quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
tăng. Điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và chất lượng nguồn nhân
lực nói riêng về mặt thể lực, sức khoẻ cũng như điều kiện lao động chưa được
đảm bảo. Nói cách khác, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh dưỡng thiếu
thốn và thể lực hạn chế là hiện trạng chung của nguồn nhân lực Việt Nam hiện
nay.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam không chỉ đơn thuần là tổng thể của
năng lực thể chất và năng lực trí tuệ mà còn phải nói đến đạo đức, tư tưởng, văn
hoá nhân cách và tâm lý của người lao động. Đó là những phẩm chất đạo đức,
tinh thần có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân
lực, nó có thể thúc đẩy tính tích cực và làm tăng hiệu quả lao động của con người
hoặc ngược lại.
Người Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng phẩm chất đạo đức, nhân
cách của con người. Điều đó được thể hiện qua các câu tục ngữ như “Cái nết
đánh chết cái đẹp”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng đã từng nói:
Người có tài, mà không có đức là người vô dụng và ngược lại, người có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Cái đức ở đây sẽ giúp người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao
với cộng đồng, với xã hội. Từ đó họ sẽ làm việc tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
+ Về ưu điểm.
Thứ nhất, phẩm chất cơ bản nổi bật nhất của người Việt Nam là tinh thần
yêu nước nồng nàn, ý thức dân tộc, lòng tự tôn dân tộc, tính tự cường, tư tưởng
37
nhân văn, nhân ái trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa các
cộng đồng với nhau, những tư tưởng phẩm chất quan trọng này được thể hiện rất
rõ nét trong lịch sử dân tộc, đó là phẩm chất truyền thống vô cùng quý báu của
người Việt Nam.
Thứ hai, truyền thống cần cù, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ được trui
rèn trong điều kiện làm việc cùng với thiên nhiên khắc nghiệt. Khả năng giỏi
chịu đựng, tính cần cù đã giúp cho người lao động Việt Nam có tính kiên trì,
nhẫn nại, khả năng thích ứng và hoà nhập với môi trường mới rất nhanh. Điều
này đã được chính những chủ sử dụng lao động xuất khẩu Việt Nam ở nước
ngoài ca ngợi.
Thứ ba, người lao động Việt Nam có truyền thống đoàn kết cộng đồng,
ứng xử thông minh, linh hoạt sáng tạo, cương nhu thuần thục. Phẩm chất này có
được từ sự rèn luyện, kinh qua các cuộc chiến tranh giữ nước giành độc lập cho
dân tộc cũng như đối phó với thiên tai, địch hoạ.
Trong quá trình đó, nền văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam đã tiếp
cận, giao lưu với những nền văn hoá của các quốc gia hùng mạnh, những nền
văn minh phát triển bậc nhất thế giới nhưng văn hoá, con người Việt Nam không
những không bị đồng hoá mà còn tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến, ưu
việt của những nền văn hoá nước ngoài đó để làm phong phú, “giàu có” hơn cho
văn hoá, truyền thống người Việt Nam.
Thứ tư, lối sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi hoà đồng với thiên nhiên được
bắt nguồn từ cuộc sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Hoàn cảnh sống của cư
dân nông nghiệp ở nông thôn từ hàng ngàn năm qua cũng đã giúp hình thành tình
cảm “tối lửa tắt đèn có nhau” cùng với sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo đã hình
thành lối sống coi trọng tình nghĩa, tính vị tha, lòng bao dung của người Việt.
Ngoài ra, sự ảnh hưởng tích cực của Nho giáo đã hình thành nên truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” của người Việt Nam.
Những phẩm chất tốt đẹp nói trên của người Việt nếu được gìn giữ, kế
38
thừa và phát triển đáp ứng phù hợp với yêu cầu của thời kỳ hội nhập ngày nay sẽ
tạo ra sức mạnh to lớn của nguồn nhân lực Việt Nam. Tuy vậy, bên cạnh những
ưu điểm, phẩm chất tốt đẹp thì còn có những hạn chế, yếu kém trong tính cách,
truyền thống của người Việt Nam.
+ Về nhược điểm:
Thứ nhất, đó là những nhược điểm xuất phát từ tư tưởng, tâm lý tiểu nông
của nền sản xuất nhỏ: Coi trọng địa vị, ngôi thứ, tư tưởng gia trưởng và hình
thức; thiên về tình cảm, coi trọng tình nghĩa hơn lý lẽ, đề cao kinh nghiệm mà
coi nhẹ lý trí và tri thức khoa học, thói quen cư xử dựa theo các mối quan hệ họ
hàng, huyết thống, quên biết mà coi nhẹ sự tôn nghiêm của pháp luật. Điều này
được phản ánh qua câu châm ngôn: “Phép vua thua lệ làng”.
Những tính cách, truyền thống này không phù hợp với những yêu cầu về
phẩm chất người lao động trong thời kỳ CNH-HĐH, nó tạo ra lực cản, sức ì đối
với quá trình tiếp cận khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.
Thứ hai, dấu ấn của thời kỳ bao cấp đã để lại cho người Việt Nam những
thói quen xấu như: Tính thụ động, trông chờ, ỉ lại, dựa dẫm vào Nhà nước và tập
thể; thiếu năng động, ngại tìm tòi, sáng tạo, chưa mạnh dạn áp dụng cái mới vào
hoạt động sản xuất kinh doanh; tư tưởng an phận, bám chắc vào biên chế nhà
nước…
Những thói quen xấu này dần dần cũng được xoá bỏ khi nền kinh tế Việt
Nam chuyển sang cơ chế thị trường nhưng để thay đổi được hoàn toàn những
thói quen xấu đó không phải là công việc một sớm một chiều bởi như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng viết: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch
to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó,
mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [25]. Bên cạnh
đó, mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình mở cửa giao lưu, hội nhập quốc tế
cũng làm nảy sinh nhiều thói hư tật xấu, phá vỡ các giá trị truyền thống, đạo đức
39
tốt đẹp, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam.
2.1.2. Thực trạng Giáo dục và Đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân
lực có trình độ ở Việt Nam thời gian qua
Như đã trình bày trong Chương 1, nguồn nhân lực cho phát triển là nguồn
nhân lực có trí tuệ, có năng lực tiếp nhận và sử dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại
và cao hơn nữa là khả năng sáng tạo, đổi mới sản phẩm, kỹ thuật, công nghệ. Để
có được điều đó, nguồn nhân lực phải được đào tạo, đào tạo liên tục và suốt đời.
Nói cách khác nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn liền với đào tạo và thực
trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực của một quốc gia cũng chính là sự phản
ánh chính xác về tình hình nguồn nhân lực, mức độ chuẩn bị của nguồn nhân lực
để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
2.1.2.1. Tình hình đầu tư cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam thời gian qua
Với phương châm coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu để tạo ra đội
ngũ nguồn nhân lực có trí tuệ, có trình độ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và
tiến vào kinh tế tri thức, giáo dục đào tạo của nước ta luôn nhận được sự quan
tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước thông qua nhiều chủ trương, chính sách đối
với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhờ đó từ một quốc gia có tới hơn 90% dân
số mù chữ ngành Giáo dục và Đào tạo đã đưa Việt Nam trở thành nước có tỷ lệ
dân số biết chữ cao hàng đầu trong số các nước đang phát triển, đội ngũ nguồn
nhân lực có trình độ thông qua đào tạo ngày càng tăng, có khả năng tiếp nhận,
làm chủ nhiều công nghệ hiện đại, các đội học sinh tham gia các cuộc thi trí tuệ
quốc tế thường dành được giải cao, được bạn bè quốc tế khen ngợi, nhiều nhân
tài người Việt hiện đang làm việc ở nhiều lĩnh vực công nghệ cao ở các quốc gia
phát triển.
Các thành tựu đó có được là nhờ sự quan tâm đầu tư nhân, tài, vật lực
mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Đảng và Nhà
nước ta. Trong nhiều năm qua, ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục đào tạo
40
không ngừng tăng lên.
Bảng 1: Tỷ trọng đầu tƣ cho GD-ĐT trong tổng chi ngân sách của Nhà nƣớc
Năm Tổng chi cho giáo dục Tỷ lệ so với Ngân sách
(tỷ đồng) (%)
2000 23.219 15,00
2001 25.882 15,60
2002 34.088 15,80
2003 37.552 16,20
2004 54.223 17,10
2005 68.968 21,00
2006 55.100 17,00
66.770 20,60 2007 (Kế hoạch)
Nguồn: Website của Bộ tài chính: www.mof.gov.vn 8/10/2007
(Và TS Vũ Quang Việt, chuyên gia thống kê của Liên Hiệp Quốc: Chi tiêu
cho giáo dục, những con số “giật mình”. www.vietnamnet.vn ngày 11/7/2007).
Như vậy, từ năm 2000 đến nay Ngân sách đầu tư cho giáo dục hầu như
năm nào cũng tăng. Năm 2000 tổng chi cho giáo dục là 23.219 tỷ đồng chiếm
15% so với chi ngân sách của Nhà nước thì đến năm 2004 mức tổng chi đã đạt
54.223 tỷ đồng, chiếm 17,1% ngân sách Nhà nước. Năm 2005 tổng mức chi tiêu
là 68.968 tỷ đồng chiếm 21% ngân sách Nhà nước. Đến năm 2007 mức chi tiêu
cho giáo dục có giảm đi chút ít, đạt 66.770 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 20,6% ngân
sách. Trong điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, mức chi tiêu này phản ánh
sự cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân cho sự nghiệp
giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Nếu so sánh với chi tiêu cho giáo dục ở các nước
phát triển thuộc khối OECD thì chi phí cho giáo dục ở Việt Nam là rất lớn. Tỷ lệ chi
cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao như Mỹ, Pháp,
41
Nhật, Hàn Quốc…
Bảng 2: Số liệu so sánh chi tiêu cho GD ở Việt Nam và các nƣớc năm 2005
Việt Nam Mỹ Pháp Nhật Hàn OECD
Quốc
Chi tiêu cho giáo 8.3 7.2 6.1 4.7 7.1 6.1
dục/GDP (%)
Nguồn: TS. Vũ Quang Việt, www.vietnamnet.vn, tài liệu đã dẫn.
Như vậy, có thể nói đây là những nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước và
các tầng lớp nhân dân dành cho giáo dục, đào tạo. Trong đó, một phần được đầu
tư tăng cường cơ sở vật chất cho các trường. Cụ thể, qua các dự án lớn như: Dự
án xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội ở Hoà Lạc trên diện tích 1.000 ha với
mức đầu tư 7.300 tỷ đồng, dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh ở Thủ Đức trên diện tích 600 ha với mức đầu tư 6.800 tỷ đồng. Các trường
đại học trọng điểm và nhiều trường đại học công lập khác cũng được đầu tư hàng
ngàn tỷ đồng để nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật. Dự án giáo dục đại học nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học công lập bằng nguồn vốn vay
100 triệu USD của Ngân hàng Thế giới cũng vừa hoàn tất, các thư viện, phòng
thí nghiệm, xưởng sản xuất thử hiện đại cũng đã được xây dựng ở một số trường.
Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm qua cũng
có sự cải tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp.
Các chính sách khuyến khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó
cũng đã được áp dụng như: Chế độ học bổng cho các đối tượng chính sách xã
hội, học bổng cho các sinh viên học giỏi, thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học
phí cho các sinh viên trường sư phạm.
Tuy nhiên, theo tiến sỹ Vũ Quang Việt phần chi trả lương cho giáo viên đã
chiếm đến 80-90% ngân sách, số còn lại mới được đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ
thuật, phát triển đội ngũ nguồn nhân lực trình độ cao cho các cơ sở giáo dục.
42
Tình trạng dạy chay, học chay còn phổ biến do thiếu trang thiết bị, phòng nghiên
cứu, phòng thí nghiệm, số lượng máy tính còn quá ít, sách giáo khoa còn thiếu ở
các vùng sâu, vùng xa. ở thành phố, ngay cả các trường cao đẳng, đại học cũng
thiếu giáo trình cập nhật với trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
2.1.2.2. Tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Thông qua tổng kết kinh nghiệm thành công của các quốc gia đã tiến hành
CNH-HĐH, và sớm bước vào phát triển kinh tế tri thức cho thấy rằng, trước khi
bước vào tiến hành công nghiệp hoá thì các quốc gia đó đã hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học từ rất sớm, tạo đà thuận lợi cho quá trình đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao. Việt Nam, từ kinh nghiệm quốc tế kết hợp với truyền thống
coi trọng học hành của dân tộc, Đảng và Nhà nước từ khi mới ra đời đã rất quan
tâm tới sự nghiệp giáo dục đào tạo. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta đã xác định coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Sự
quan tâm đầu tư đó đã mang lại những thành tích nhất định. Đến nay, Việt Nam
đã cơ bản xoá được nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tiến trình phổ cập
trung học cơ sở đang được tiến hành. Đến hết năm 2004 đã có 20 tỉnh thành
trong cả nước được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến
năm 2006 con số này đã tăng nên 29 tỉnh thành phố.
Giáo dục phổ thông phát triển được thể hiện ở số trường học xây dựng
mới ngày càng tăng. Năm học 2000-2001 số trường học phổ thông là 24692
trường, đến năm 2003-2004 số trường học tăng lên 26352 trường, năm 2005-
2006 số trường đã là 27227 trường. Và năm học vừa qua 2006-2007 là 27593
trường học.
Như vậy, số trường phổ thông năm nào cũng tăng. Năm học 2000- 2001,
số trường tăng 102,8%; năm 2003-2004 số trường tăng 102% và đến năm 2006-
2007 số trường học tăng đạt mức 101,3%.
Bảng 3: Số trƣờng và lớp học từ năm 2000 đến năm 2006
43
Năm học 2000 2002 2003 2004 2005 2006
- 2001 24692 13859 7741 1258 - 2003 25825 14163 8396 1532 - 2004 26352 14346 8745 1664 - 2005 26817 14518 9041 1828 - 2006 27227 14688 9383 1952 - 2007 27593 14834 9635 2044
509,6 522,2 520,9 519,7 508,7 501,2
Số trƣờng học Tiểu học THCS THPT Số lớp học (Nghìn lớp) Tiểu học THCS THPT 320,1 144,4 45,1 308,8 161,3 52,1 299,4 165,7 55,8 288,9 170,9 59,9 276,6 167,5 64,6 270,0 163,8 67,2
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.516.
Như vậy, số lớp học năm học 2000-2001 là 509600 lớp, đến năm 2002-
2003 tăng lên tới 522200 lớp, tăng 100,7% so với năm học trước. Tuy nhiên tới
năm học 2003-2004, số lớp học phổ thông bắt đầu giảm: 520900 lớp chỉ bằng
99,8% so với năm học trước. Đến năm 2004-2005 còn 519700 lớp; Năm học
2005-2006 còn 508700 lớp, bằng 97,9% so với năm học trước. Và đến năm học
vừa qua, số lớp tiếp tục suy giảm còn 501200 lớp.
Tương ứng với số lớp học giảm, số học sinh phổ thông cũng giảm theo.
Bảng 4: Số học sinh phổ thông từ năm 2000 đến năm 2006.
Đơn vị: Nghìn người
Năm
Số HS 2000 - 2001 17776,1 2002 - 2003 17699,6 2003 - 2004 17505,4 2004 - 2005 17122,6 2005 - 2006 16650,6 2006 - 2007 16256,6
TH 9741,1 8815,7 8346,0 7744,8 7304,0 7029,4
THCS 5863,6 6429,7 6569,8 6616,7 6371,3 6152,0
THPT 2171,4 2454,2 2598,6 2761,1 2975,3 3075,2
44
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.542
Năm học 2000-2001 số học sinh các cấp là 17.776.100 học sinh thì đến
năm học 2002-2003 số học sinh giảm nhẹ còn 17.699.600, chỉ bằng 99% so với
năm học trước; năm học 2003-2004 giảm còn 17.505.400 học sinh; năm học
2005-2006 còn 16.650.600 học sinh, bằng 97,2% so với năm trước đó. Và năm
2006-2007 số học sinh phổ thông tiếp tục giảm chỉ còn 16.256.600 học sinh bằng
97,6% so với năm học 2005-2006.
Như vậy, trong những năm qua số học sinh phổ thông có giảm đi đôi chút
qua các năm có thể do biến động của dân số. Số trường học được xây dựng nhiều
hơn trong khi số học sinh giảm đi đã góp phần xoá bỏ tình trạng thiếu trường
lớp, học sinh phải học ca 3, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Với quan
điểm phải đặt chất lượng giáo dục và đào tạo lên hàng đầu, trong những năm gần
đây Việt Nam đang tăng cường thực hiện cải cách để nâng cao chất lượng giáo
dục. Điều đó được thể hiện qua các chương trình đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, học tập; đổi mới thi cử và phương pháp đánh giá chất
lượng giáo dục. Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã cho ra đời một cơ quan chuyên
trách để kiểm định chất lượng giáo dục là Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng
giáo dục nhằm có thể có những đánh giá, kiểm tra khách quan khoa học và
chuyên nghiệp hơn về chất lượng dạy và học, qua đó có cơ sở để xây dựng các
biện pháp phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục. Để chất lượng giáo dục phản
ánh đúng thực chất, không chạy theo thành tích, trong năm học vừa qua Bộ giáo
dục và Đào tạo cũng đã đưa ra các cuộc vận động như: “Nói không với bệnh
thành tích và tiêu cực trong thi cử”, “Nói không với tình trạng học sinh ngồi
nhầm chỗ, giáo viên đứng nhầm lớp và vi phạm đạo đức nhà giáo”. Và mới đây
là cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng yêu
cầu của xã hội”. Những cuộc vận động này bước đầu đã mang lại những kết quả
45
tích cực. Đã tạo ra được không khí học tập nghiêm túc và thái độ đúng đắn hơn
của các em học sinh cũng như của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục và đào
tạo.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo và từ yêu cầu của các cuộc vận động kể trên, SGK đang được đổi mới theo hướng gắn với yêu cầu phát triển và cập nhật nhiều tri thức mới, xích lại gần hơn với yêu cầu của kinh tế tri thức, tạo cơ sở nội dung để xây dựng các phương pháp dạy học mới: học đi đôi với hành, chú trọng dạy các kỹ năng thực tế, sát sườn với cuộc sống. Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức, khả năng tập luyện thể chất cũng được quan tâm truyền thụ cho học sinh phổ thông nhằm phát triển toàn diện về học vấn, kỹ năng sống, nhân cách cho học sinh, nguồn nhân lực trong tương lai gần của sự nghiệp CNH- HĐH và phát triển kinh tế tri thức.
Để thực hiện thành công những mục tiêu trên, đội ngũ giáo viên có chất lượng đóng vai trò cực kỳ quan trọng bởi “không thầy đố mày làm nên”, sự nghiệp cải cách giáo dục có thành công hay không, các tri thức mới, các phẩm chất đạo đức tốt đẹp có truyền thụ được tới học sinh hay không đều phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng của đội ngũ giáo viên. Có nhiều thầy cô giỏi, mới hy vọng có nhiều học trò giỏi. Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên phổ thông không ngừng tăng lên.
Bảng 5: Số giáo viên phổ thông từ năm 2000-2006
Năm 2000 - 2001 2002 - 2003 2003 - 2004 2004 - 2005 ĐVT: nghìn người 2005 - 2006 2006 - 2007
661,7 723,5 755,4 771,0 780,5 789,6
giáo trực giảng
355,9 233,8 72,0 363,1 271,8 88,6 366,2 290,4 98,8 362,4 302,5 106,1 354,8 310,2 115,5 349,5 314,9 125,2 Số viên tiếp dạy TH THCS THPT
46
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.524
Số liệu thống kê cho thấy số lượng giáo viên trực tiếp giảng dạy ở bậc học phổ thông không ngừng tăng lên qua các năm. Năm học 2000-2001 tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy là 661.700 người, thì đến năm sau, năm học 2002-2003 đã tăng thêm 61.800 người, lên 723.500 người (tỷ lệ tăng 104,2%) . Đến năm 2003-2004 là 755.400 người và đến năm 2006-2007 số giáo viên đã đạt mức 789.600 người.
Bậc tiểu học, số lượng giáo viên trực tiếp giảng dạy tăng nhẹ từ năm 2000-2001 đến năm 2003-2004 và sau đó lại bắt đầu giảm nhẹ cho đến năm 2006-2007. Điều đó xuất phát từ sự suy giảm số học sinh của bậc tiểu học. Tuy nhiên, số lượng giảm sút không đáng kể. Đối với bậc THCS tình trạng tương tự cũng diễn ra; chỉ có bậc THPT số lượng giáo viên tăng đều qua các năm : từ 72.000 người năm 2000-2001 đã tăng lên 125.200 người năm 2006-2007.
Về chất lượng đội ngũ giáo viên, để thực hiện thành công sự nghiệp cải cách của ngành giáo dục đào tạo cũng như của các cuộc vận động gần đây của Bộ Giáo dục đào tạo, đội ngũ giáo viên cũng cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nhất là đối với đội ngũ giáo viên ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo chất lượng còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế này xuất phát ngay từ khâu thi tuyển đầu vào của các trường sư phạm địa phương. Tuy vậy, đây là vấn đề lớn, không thể chỉ giải quyết ngày một ngày hai bởi nó còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của địa phương.
2.1.2.3. Đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
Từ khi tiến hành sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, nhu cầu của nền kinh tế Việt Nam đối với nguồn nhân lực có trình độ THCN và dạy nghề là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về công nhân kỹ thuật lành nghề, hệ thống đào tạo THCN và dạy nghề của nước ta đã có nhiều thành tựu đáng kể, cung cấp nguồn nhân lực có đào tạo nghề cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy vậy, số lượng đào tạo, chất lượng lao động nghề, cơ cấu đào tạo còn nhiều bất cập, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
47
Bảng 6: Đào tạo THCN và dạy nghề ở Việt Nam thời gian qua 2005 284 Năm Số trường học 2000 253 2002 245 2003 268 2004 285 2006 269
10.1 10.3 11.1 13.9 14.2 14.5
255.4 389.3 360.4 466.5 500.3 468.8 Số giáo viên (nghìn người) Số sinh học (nghìn học sinh)
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.546.
Số liệu thống kê cho thấy số trường THCN và dạy nghề có xu hướng tăng
từ năm 2000: 253 trường; năm 2003 là 268 trường. Đến năm 2004 đạt mức cao
nhất là 285 trường. Tuy nhiên sau đó số trường THCN và dạy nghề đã giảm dần:
Đến năm 2005 là 284 trường và năm 2006 chỉ còn 269 trường. Tuy số trường
THCN và dạy nghề có giảm nhưng số lượng giáo viên và số học sinh vẫn không
ngừng tăng lên qua các năm. Số giáo viên từ 10100 năm 2000 đã tăng lên 14500
người vào năm 2006. Số học sinh cũng tăng liên tục từ 255400 lên 500300 người
vào năm 2005 và sang năm 2006 có giảm đôi chút còn 468800 người.
Tuy vậy, điều đáng quan tâm hơn cả là số lượng công nhân kỹ thuật được
đào tạo ở bậc THCN và dạy nghề trong mối tương quan với số lượng sinh viên
đại học và cao đẳng. Bởi vì trên thế giới các quốc gia khi bước vào thời kỳ CNH-
HĐH thông thường cần một lượng rất lớn công nhân kỹ thuật được đào tạo từ
các trường THCN và dạy nghề. Số lượng công nhân kỹ thuật luôn phải được cung
ứng nhiều hơn nhiều lần số lượng nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học. Tuy vậy,
hiện nay ở Việt Nam, số lượng người học trung học chuyên nghiệp và dạy nghề lại
ít hơn rất nhiều so với số sinh viên đang được đào tạo ở hệ cao đẳng, đại học.
Số lượng từ Tổng cục Thống kê cho thấy nếu như năm 2000 số học sinh
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có 255400 em thì ở bậc cao đẳng, đại học
số sinh viên là 899500 người (nhiều hơn 3,52 lần). Đến năm 2006, số học sinh
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có 468800 học sinh thì ở bậc cao đẳng, đại
học có 1666200 sinh viên, nhiều hơn 3,55 lần. Các con số thống kê trên cho thấy
48
cơ cấu đào tạo hiện nay rất bất hợp lý.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tình trạng nói trên nhưng có thể
nói rằng hệ đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề chưa nhận được sự
quan tâm đầy đủ. Số học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT đã không được
phân luồng, giáo dục định hướng cộng với tâm lý chuộng khoa cử bằng cấp, học
vị của xã hội đã dẫn đến tình trạng các em học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đổ
xô thi vào các trường đại học, cao đẳng, đi học cao đẳng, đại học bằng mọi giá,
thậm chí có em đi thi không đỗ đã phải tìm đến cái chết do áp lực của gia đình,
xã hội.
Sự bất hợp lý còn thể hiện trong cơ cấu ngành nghề: Có những ngành nghề
được đào tạo ồ ạt theo thị hiếu của người học, theo phong trào, theo “mốt” mà
không quan tâm tới nhu cầu của thị trường lao động. Kết quả là có những ngành
nghề có nhu cầu tuyển dụng lao động lớn, thu nhập cao nhưng lại không có nhân
lực đáp ứng, còn những ngành nghề mà có nhiều lao động được đào tạo thì lại có
nhiều người thất nghiệp. Họ thất nghiệp vì có hai lý do: Thứ nhất, nhu cầu thị
trường lao động thấp trong khi nguồn cung cao. Thứ hai, chất lượng đào tạo
thấp, người lao động không có kỹ năng làm việc thực tế. Trước tình hình đó,
nguyên Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Nguyễn Thị Hằng đã có một phát biểu trên báo
Tuổi Trẻ rằng: Chúng ta đang phải đối diện với nguy cơ: Xuất khẩu lao động phổ
thông, nhập khẩu lao động có tay nghề! Trong thực tế, đây không còn là nguy cơ
mà đã có nhiều trường hợp xảy ra. Các dự án lớn đòi hỏi công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao, các chủ đầu tư đã phải nhập khẩu lao động kỹ thuật từ nước ngoài
vào Việt Nam làm việc như các thợ hàn bậc cao làm việc ở dự án đường ống dẫn
khí Nam Côn Sơn, thợ thiết kế mẫu cho ngành may mặc, da giầy, phải đưa từ
Băng-la-đét, Trung Quốc sang…
Ngoài ra, chất lượng giáo viên dạy nghề và THCN cũng chưa đáp ứng
được các yêu cầu đặt ra hiện nay, kỹ năng thực hành yếu, năng lực sử dụng ngoại
49
ngữ không đủ để đọc tài liệu tham khảo nước ngoài… Tóm lại, vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật để phục vụ CNH-HĐH rút ngắn
và phát triển kinh tế tri thức còn nhiều bất cập, tồn tại cần được quan tâm giải
quyết, trong đó nổi cộm lên là các vấn đề về quy mô, cơ cấu và chất lượng đào
tạo.
2.1.2.4. Nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam hiện nay
Như luận văn đã trình bày, nguồn nhân lực để tiếp cận và phát triển kinh tế
tri thức phải là nguồn nhân lực có chất lượng cao hay nói cách khác đó là nguồn
nhân lực khoa học, công nghệ. Chất lượng của nguồn khoa học công nghệ cao
hay thấp phụ thuộc chủ yếu vào quá trình đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học. Nhận
thức được tầm quan trọng của bậc đào tạo cao đẳng, đại học đối với nguồn nhân
lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đầu tư cho bậc đào tạo này. Ngân sách Nhà nước dành cho đào tạo đại học, cao
đẳng không ngừng tăng lên. Nhà nước ban hành nhiều văn bản quy định khung
pháp lý cho lĩnh vực đào tạo này. Nhờ thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục,
đã có nhiều đóng góp từ các nguồn vốn khác nhau, các tầng lớp nhân dân, các tổ
chức trong và ngoài nước góp phần phát triển giáo dục đại học cao đẳng trong
thời gian qua.
Bảng 7: Giáo dục cao đẳng, đại học từ 2000 – 2006
2000 178 148 30 2002 202 179 23 2003 214 187 27 2004 230 201 29 2005 255 220 35 2006 299 253 46
(nghìn 32.3 38.7 40.0 47.6 48.6 53.4
899.5 1020.7 1131.0 1319.8 1387.1 1666.2 Năm Số trường học Công lập Ngoài công lập Số giáo viên người) Số sinh viên (nghìn sinh viên)
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.541.
Năm 2000, cả nước có 178 trường đại học, cao đẳng với số giáo viên là
50
32300 người, số sinh viên là 899500 sinh viên. Tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/28.
Đến năm 2003, số trường đại học, cao đẳng tăng lên 214 trường, số giáo viên là
40000 người với 113100 sinh viên, tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/28,3. Đến năm
2006, có 1666200 sinh viên theo học tại 299 trường cao đẳng, đại học với 53400
giáo viên, tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/31,2.
Qua kết quả trên cho thấy năm 2000 cứ 28 sinh viên thì có 1 giáo viên phụ
trách; đến năm 2006 tỷ lệ này là 31,2 sinh viên mới có 1 giáo viên phụ trách.
Như vậy số lượng sinh viên theo học ở bậc cao đẳng, đại học ngày càng tăng
trong khi số lượng giáo viên tăng lên chưa theo kịp tốc độ tăng lên của số lượng
người học. Bởi vì năm 2000, có 899500 sinh viên, đến năm 2006 số sinh viên đã
tăng 1,85 lần, lên 1666200 sinh viên trong khi năm 2000 số giáo viên là 32300
người. Đến năm 2006, số giáo viên chỉ mới tăng lên 1,65 lần, lên 53400 giáo
viên. Các số liệu trên cho thấy yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao ngày
càng tăng lên cùng với tiến trình thực hiện CNH-HĐH và tiếp cận, phát triển
kinh tế tri thức.
Ngoài số lượng sinh viên được đào tạo chính quy kể trên, còn có nhiều
hình thức đào tạo khác như các lớp hệ tại chức, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, học
từ xa… Mỗi năm đào tạo trình độ cao đẳng, đại học cho hàng chục nghìn lượt
cán bộ, sinh viên, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cho sự phát triển của các ngành nghề của kinh tế tri thức.
Bên cạnh đó, bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau như ngân sách Nhà
nước, viện trợ của nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, các chính phủ các nước,
các doanh nghiệp cũng như nguồn tài chính của cá nhân tự túc, hàng năm có hàng
ngàn sinh viên Việt Nam được đưa ra nước ngoài học tập, tiếp cận với trình độ
khoa học công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Đây là đội ngũ đã và đang có nhiều đóng góp vào việc nâng cao chất lượng nguồn
51
nhân lực cho đất nước, tiếp cận với yêu cầu của phát triển kinh tế tri thức.
Như vậy, về số lượng, cơ bản giáo dục đại học và cao đẳng đã phần nào
đáp ứng được nhu cầu tri thức hoá lực lượng lao động cho nền kinh tế song trong
bối cảnh số lượng sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên rất nhanh thì chất lượng
đào tạo cũng còn nhiều bất cập, nguồn nhân lực trình độ đại học, cao đẳng có
đông mà thiếu “tinh” dẫn tới xuất hiện khoảng cách giữa năng lực trình độ của
nguồn nhân lực với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và phát triển
những ngành nghề có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng KH-CN cao. Điều đó xuất
phát từ cơ sở vật chất, dù đã được quan tâm đầu tư nhưng chưa theo kịp yêu cầu
đào tạo nhân lực trình độ cao đẳng, đại học. Tiếp đó là vấn đề chất lượng của đội
ngũ giáo viên. Các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam có nhiều nguồn tuyển
chọn giáo viên khác nhau nhưng chủ yếu là bằng cách giữ lại những sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi của chính trường mình để đào tạo thành giảng viên. Đây là cách
làm hay, tuyển chọn được nhân tài ưu tú trong hàng ngàn, hàng chục ngàn sinh
viên. Tuy nhiên, quá trình đào tạo những sinh viên đó để đến khi có học vị thạc
sỹ, tiến sĩ có khi mất từ 3 tới 5, 6 năm trong khi số lượng sinh viên không ngừng
tăng lên qua mỗi năm. Điều đó đã dẫn tới một thực tế ở nhiều trường đại học
sinh viên mới ra trường đã đứng trên bục giảng dạy cho sinh viên mới nhập
trường mà chúng ta thường có câu nói “Cơm chấm cơm” để phản ánh tình trạng
trên. Vì vậy, chất lượng của nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học đã bị ảnh
hưởng không ít. Số liệu thống kê trong bảng dưới đây phản ánh trình độ của giáo
viên cao đẳng, đại học hiện nay:
Bảng 8: Trình độ chuyên môn của giáo viên cao đẳng, đại học
ở Việt Nam từ 2000 - 2006.
Đơn vị tính: người
Năm 2000 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng số 32.357 38.671 39.985 47.613 48.541 53.364
52
Trên đại học 12.656 16.708 17.628 21.284 23.861 24.325
Đại học 19.321 21.302 21.845 25.598 24.169 28.460
Trình độ khác 380 661 512 731 511 579
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.542.
Năm 2000 chúng ta có 32357 giáo viên cao đẳng, đại học thì chỉ có 12656
giảng viên có trình độ sau đại học, còn lại gần 20000 giáo viên chỉ có trình độ
cao đẳng, đại học. Sự chênh lệch giữa giảng viên có trình độ sau đại học và trình
độ cao đẳng, đại học giảm dần qua các năm 2002, 2003, 2004 cho đến năm 2005
số giảng viên có trình độ sau đại học là 23861 người, chiếm tỷ lệ 49,2% và số
giảng viên trình độ đại học, cao đẳng là 24169 người, chiếm tỷ lệ 50,8%.
Như vậy, ở các trường cao đẳng, đại học của Việt Nam, số giảng viên có
trình độ sau đại học trong giai đoạn 2000-2006 chỉ chiếm từ 39-49% tổng số giáo
viên. Số giảng viên có học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa học chỉ mới chiếm tỷ lệ 23,5%
và số giảng viên có học hàm PGS, GS chỉ chiếm khoảng 9%, thậm chí có nhiều
trường còn chưa có một giảng viên nào có học hàm PGS, GS.
Ngoài ra, cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo trong các ngành nghề
không đồng đều nhau. Nguồn nhân lực theo học các ngành khoa học xã hội trong
đó có kinh tế chiếm 56%, khoa học tự nhiên 19%, khoa học nông nghiệp 8%...
Như vậy, mặc dù Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nhưng tỷ lệ
nguồn nhân lực được đào tạo cao đẳng, đại học về nông nghiệp là quá ít. Do vậy,
sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn phải dựa vào sức người lao động
phổ thông là chủ yếu, việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại
vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cán bộ kỹ thuật nghiêm trọng chứ
chưa nói gì đến việc tiếp cận những tri thức của công nghệ sinh học trong kinh tế
tri thức.
Trong các ngành khoa học xã hội thì nhóm ngành kinh tế và luật có mức
tăng trưởng nhanh nhất trong những năm gần đây. Thực tế này xuất phát từ nhu
53
cầu của người học và của xã hội nhưng nếu cứ để tự phát thì mức độ mất cân đối
trong nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn. Hiện tượng
thiếu nhân lực các ngành khoa học công nghệ sẽ là lực cản cho việc tiếp cận
công nghệ mới trong quá trình CNH-HĐH rút ngắn cũng như phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam.
2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt
Nam thời gian qua
Phần lớn nguồn nhân lực nước, ta tập trung chủ yếu ở ba khu vực: đồng
bằng sông Hồng: 9,89 triệu người chiếm tỷ lệ 19,36% cả nước; đồng bằng sông
Cửu Long có 11,61 triệu người, chiếm tỷ lệ 22,72% cả nước và Đông Nam Bộ là
7,96 triệu người, chiếm tỷ lệ 15,58% cả nước. Trong khi đó, khu vực Tây
Nguyên, Tây Bắc số lượng nguồn nhân lực ít nhất: Tây Nguyên có 1,52 triệu lao
động, chiếm tỷ lệ 2,98% cả nước và Tây Bắc 1,5 triệu lao động chiếm tỷ lệ
2,93% cả nước.
Bảng 9: Số lƣợng lao động phân bố theo vùng lãnh thổ
Đơn vị tính: Nghìn người
54
Vùng 1995 2000 2005
Cả nước 38955 45175 51083
Đông Bắc 5538 6480 7486
Tây Bắc 1238 1253 1492
Đồng bằng sông Hồng 7797 8946 9897
Bắc Trung Bộ 4995 5857 6790
Duyên Hải Nam Trung Bộ 3346 3832 4316
Tây Nguyên 1128 1345 1525
Đông Nam Bộ 6276 7150 7960
8637 Đồng bằng sông Cửu Long 10311 11671
Ngoài ra, sự phân bố nguồn nhân lực ở Việt Nam có đặc điểm là dân số và
lao động nông thôn chiếm tỷ lệ rất lớn từ 65-75%. Năm 2000, dân số nông thôn
chiếm 76%, dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn chiếm 65% tổng số nguồn
nhân lực cả nước. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã làm số lượng lao
động nông thôn giảm nhanh. Tuy nhiên, theo dự báo đến năm 2020 số lao động
trong độ tuổi ở nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn nguồn nhân lực của cả nước.
Đối với lao động kỹ thuật, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng lại phân bổ
không đồng đều giữa các vùng, tỉnh, thành phố. Lao động có trình độ chuyên
môn tập trung chủ yếu ở hai thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và hai
vùng: đồng bằng sông Hồng (18% cả nước), Đông Nam Bộ (37% cả nước). Các
vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm tỷ trọng như
trong tổng số lực lượng lao động kỹ thuật của cả nước. Sự phân bố bất hợp lý
này còn thể hiện giữa các ngành: ngành nông lâm-nghiệp với hơn 65% lao động
chỉ có khoảng 14% tổng số lao động có tình độ chuyên môn kỹ thuật. Khu vực
dịch vụ chiếm hơn 52%; công nghiệp và xây dựng chiếm hơn 34% tổng số lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. trong khi lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật phục vụ nông nghiệp đã ít nhưng lại có tới 89% làm việc ở
55
các cơ quan trung ương; 8,9% làm việc ở cấp tỉnh và thành phố; 1,8% làm việc ở
cấp huyện; còn cấp xã hầu như không có. Bên cạnh đó, đa số cán bộ khoa học-
công nghệ làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước
(chiếm 67,3%), trong đó ngành giáo dục chiếm 43%, các ngành kinh doanh chỉ
chiếm 32,7%; trong khi tỷ lệ này ở Hàn Quốc là 48%, ở Thái Lan 58,2% và Nhật
Bản là 64,4%. Trong số các cán bộ có trình độ trên đại học có tới 94% làm việc
ở các trường đại học, các cơ quan trung ương và các thành phố lớn.
Sự mất cân đối trong đào tạo, chất lượng đào tạo chưa cao đã góp phần
làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị và của lao động đã
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tăng lên
còn do số học sinh các trường đại học và trung học chuyên nghiệp tốt nghiệp ra
trường thường tìm cách ở lại thành phố lớn, làm gia tăng lực lượng thất nghiệp
khu vực thành thị.
Bảng 10: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lƣợng lao động trong độ tuổi khu vực thành
thị.
Đơn vị tính: %
Vùng
Cả nước Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long 2002 6,01 6,64 6,10 5,11 5,82 5,50 4,90 6,30 5,50 2000 6,42 7,34 6,49 6,02 6,87 6,31 5,16 6,16 6,15 2003 5,78 6,38 5,93 5,19 5,45 5,46 4,39 6,08 5,26 2004 5,60 6,03 5,45 5,30 5,35 5,70 4,53 5,92 5,03 2006 4,82 6,42 4,32 3,89 5,50 5,36 2,38 5,47 4,52
2005 5,31 5,61 5,12 4,91 4,98 5,52 4,23 5,62 4,87 Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.57.
Đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ làm công tác nghiên cứu và
56
phát triển thì tỷ lệ có trình độ sau đại học khá thấp. Trong số 13.388 cán bộ thuộc
74 viện nghiên cứu thì số tiến sỹ khoa học và tiến sỹ là 1.299 người, chiếm tỷ lệ
9,7%; số thạc sỹ là 459 người, chiếm tỷ lệ 3,43%; số người mới tốt nghiệp đại
học, cao đẳng là 6573 người chiếm tỷ lệ 49,1%. Số lao động trung cấp là 1399
người chiếm tỷ lệ 10,45%. Các trình độ khác là 2000 người, chiếm 21,57%
(Theo số liệu của Dự án Rapore, Hà Nội, 1999). Như vậy, tỷ lệ cán bộ làm công
tác nghiên cứu sáng tạo như trên thì chưa đáp ứng được nhiều so với yêu cầu đặt
ra của kinh tế tri thức. ở Hàn Quốc, trong các viện nghiên cứu khoa học, công
nghệ thì tỷ lệ cán bộ có trình độ tiến sỹ là 29,48%, thạc sỹ là 45,78%.
Theo một điều tra của Bộ Giáo dục Đào tạo đối với 65 trường đại học, cao
đẳng trong cả nước thì tỷ lệ sinh viên các trường đại học cao đẳng có việc làm
ngay sau tốt nghiệp là 78,2%; 7,25% đang đi học thêm và có tới 14,55% không
có việc làm [4].
Cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng như chất lượng đào tạo thấp cũng là
những nguyên nhân chủ yếu làm ra tăng tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học cao
đẳng không có việc làm hoặc làm trái ngành nghề đào tạo. Điều này thể hiện rõ
nét trong ngành công nghệ thông tin nhu cầu của thị trường lao động cần một số
lượng lớn lao động về công nghệ phần mềm, mạng máy tính với mức lương cao
thế nhưng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành về công nghệ thông tin lại
không đáp ứng được yêu cầu công việc do các chương trình đào tạo ở trường
không bám sát với thực tế. Ngoài ra, do cơ cấu đào tạo bất hợp lý cho nên những
ngành có số lượng đào tạo nhiều thì thị trường lao động lại không tiếp nhận hết
như các ngành thuộc khối kinh tế, quản trị kinh doanh và luật, hàng năm có
khoảng trên 200 ngàn sinh viên tốt nghiệp và có một phần lớn trong số đó làm
không đúng ngành nghề đào tạo. Trong khi những ngành kỹ thuật hiện nay đang
có nhu cầu lớn lại không có đủ lao động. Như vậy, nhân lực nơi thừa vẫn cứ thừa
nơi thiếu vẫn cứ thiếu, gây ra thiệt hại “kép” cho xã hội.
57
2.2. Nhận xét chung
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân
2.2.1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao có tốc độ phát triển nhanh về số
lượng
Số lượng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam
trong những năm vừa qua không ngừng tăng lên. Tỷ lệ lao động được đào tạo
tăng nhanh, đặc biệt là đào tạo nghề ngày càng được mở rộng.
Bảng 11: Lực lƣợng lao động đƣợc đào tạo từ 2002-2006
Đơn vị tính: Nghìn người
Sơ cấp THCN CĐ-ĐH
Năm
Tổng số LĐ được đào tạo 2002 1528.1 CNKT Tỷ lệ Số (%) lượng 118.1 7.7 Số lượng 42.5 Tỷ lệ (%) 2.8 Tỷ lệ Số (%) lượng 389.3 25.5 Số lượng 1020.7 Tỷ lệ (%) 66.8
2003 1694.0 142.2 8.4 60.4 3.6 360.4 21.3 1131.0 66.8
2004 2005.3 148.0 7.4 71.0 3.54 466.5 23.3 1319.8 65.8
2005 2161 196.8 9.1 76.8 3.6 500.3 23.2 1387.1 64.19
2006 2433.6 208.5 8.6 90.1 3.7 468.8 19.26 1666.2 68.45
Nguồn: Tổng cục tiêu chuẩn Việt Nam (2007), Chuyên san chất lượng
vàng, (2).
Như vậy, lực lượng lao động được đào tạo có tốc độ tăng nhanh. Số lượng
lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên có khoảng 2.318.000 người, riêng
số người có học hàm GS, PGS là hơn 7.000 người. Có hơn 14 nghìn tiến sĩ
chuyên ngành, 70 tiến sĩ khoa học; có hơn 16.000 thạc sỹ, có hơn 60.000 cán bộ
làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, có khoảng 58.000 cán bộ giảng
dạy trong các trường đại học, cao đẳng và THCN. Số sinh viên tốt nghiệp cao
đẳng, đại học hàng năm cũng tăng lên rất nhanh từ 78.500 người năm 1996 tăng
lên 162.500 người năm 2000 và tới năm 2006 con số sinh viên tốt nghiệp cao
58
đẳng, đại học là 230.000 người.
Sự tăng lên khá nhanh của đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật ở
Việt Nam những năm vừa qua cũng như triển vọng phát triển trong giai đoạn tới
là do Đảng và Nhà nước rất quan tâm đầu tư nhân, tài, vật lực cho công tác đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Ngân sách Nhà nước dành cho
giáo dục đào tạo đã tăng dần từ 11% tổng ngân sách Nhà nước năm 1996 lên
15% năm 2000 và đến năm 2006 ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đào tạo
đã đạt 21% tổng ngân sách Nhà nước, đảm bảo đáp ứng hơn 70% nhu cầu cơ bản
của giáo dục đào tạo. Cơ sở trường lớp đào tạo được sửa chữa, xây mới và trang
bị thêm nhiều thiết bị dạy học và nghiên cứu khoa học; đội ngũ cán bộ giảng
viên được tăng thêm cả về số lượng lẫn chất lượng đã nâng cao đáng kể năng lực
đào tạo của các trường.
Năm học 2006 - 2007 tính cả hệ công lập và ngoài công lập cả nước có
139 trường đại học, 160 trường cao đẳng, 269 trường THCN, 196 trường dạy
nghề và 180 trung tâm dạy nghề, hàng năm có thể tiếp nhận đào tạo khoảng hơn
120000 sinh viên đại học, hơn 100000 sinh viên cao đẳng và hàng chục vạn học
sinh học nghề chính quy. Chỉ tiêu đào tạo nghề đã tăng từ 447000 năm 1997 lên
887000 năm 2001 và 1320000 năm 2006, tăng bình quân 18%/năm, trong đó đào
tạo dài hạn tăng 23%/năm.
Từ năm 2002 đến 2006, xét về mặt tương đối số lượng công nhân kỹ thuật
tăng từ 4,68 lên 5,92%, cán bộ trung cấp tăng từ 3,95% lên 4,98% và cán bộ có
trình độ cao đẳng, đại học có mức tăng từ 2,4% lên 3,96%. Đây là xu hướng tăng
trưởng rất tích cực trong phát triển nguồn nhân lực có trình độ phục vụ CNH-
HĐH và kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2.2.1.2. Mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được
hình thành và phát triển rộng khắp
Đến năm học 2006-2007, cả nước có 253 trường đại học và cao đẳng công
59
lập, trong đó có 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng và 102 trường đại học đa
ngành và chuyên ngành, 151 trường cao đẳng. Ngoài ra còn có 46 trường đại học
dân lập. Năm học 2006-2007 số sinh viên tuyển mới là 224.226 người, số sinh
viên đang theo học là 898.246 người.
Đối với đào tạo sau đại học, hiện nay nước ta có 135 cơ sở đào tạo tiến sĩ
và thạc sỹ, trong đó có 109 cơ sở đào tạo tiến sĩ với 6 nhóm chuyên ngành: Khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học y dược, khoa học quân sự, khoa học
nông nghiệp và khoa học kỹ thuật với quy mô tuyển sinh hàng năm đều tăng. Từ
năm 1977 đến nay, chúng ta đã đào tạo và tổ chức bảo vệ luận án, luận văn và
cấp bằng cho 1200 thạc sỹ, 5327 tiến sĩ chuyên ngành, 46 tiến sĩ khoa học [31].
Ngoài ra, chúng ta còn gửi đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là các nước phát
triển nhiều sinh viên giỏi, xuất sắc theo học các chương trình đào tạo thạc sỹ,
tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học nhằm cung cấp đội ngũ nhân lực có trí
tuệ cao phục vụ đắc lực tiến tình CNH-HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam.
2.2.1.3. Đã xây dựng được mối quan hệ với đội ngũ trí thức Việt kiều và
nước ngoài tạo cơ sở thu hút chất xám từ bên ngoài
Hiện nay, có khoảng hơn 400.000 trí thức Việt Nam đang sinh sống và
làm việc ở gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung nhiều nhất ở
các nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển cao như Mỹ, Canada, Nhật,
Pháp, Đức… và một số nước Đông âu.
Do được sống, đào tạo và lao động trong môi trường khoa học công nghệ
hiện đại, tiên tiến của các nước phát triển nên nhiều trí thức Việt kiều có trình độ
khoa học công nghệ cũng như năng lực quản lý rất cao trong nhiều ngành nghề
đòi hỏi trình độ chuyên môn, kể cả những ngành mũi nhọn về KH-CN như tin
học, viễn thông, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, tài
chính ngân hàng, y tế… Hầu hết trí thức Việt kiều có tinh thần dân tộc cao, có
60
lòng yêu nước, gắn bó tình cảm với quê hương, đất nước. Họ mong muốn đóng
góp phần công sức của mình giúp bà con họ hàng của mình phát triển kinh tế và
tiến tới làm giàu. Vì vậy, trong nhiều năm qua nhất là từ khi đất nước thực hiện
công cuộc đổi mới và có nhiều chính sách thông thoáng đối với bà con Việt kiều,
đội ngũ nhân lực người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều đóng góp tham gia
tích cực vào sự nghiệp phát triển và hiện đại hoá đất nước.
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Nhìn chung số lượng nguồn nhân lực có chất lượng tuy tăng nhanh nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu để phát triển kinh tế tri thức.
Tay nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc thực tế của nguồn nhân lực
nước ta còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình CNH-HĐH
và phát triển kinh tế tri thức. Điều đó được lý giải bởi một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do dân trí thấp, tốc độ nâng cao dân trí diễn ra chậm. Thực tế là
sau vài chục năm, Việt Nam đã nỗ lực để đạt được tỷ lệ hơn 90% dân số biết
chữ, nhưng hiện nay lại đang diễn ra quá trình tái mù chữ nghiêm trọng. Nhất là
ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa có xã số người mù chữ lên tới hơn 70%;
trong số trẻ em ở độ tuổi đi học chỉ có hơn 50% trẻ em học hết cấp I. Trong khi
những trẻ em này trong vòng 1-2 thập kỷ nữa lẽ ra phải trở thành nguồn nhân lực
chính của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và tiến vào kinh tế tri thức.
Thứ hai, tỷ lệ lao động được đào tạo thấp, tình trạng lao động làm việc trái
nghề còn phổ biến. Tính đến cuối năm 2005, số người được đào tạo chỉ mới
chiếm 29,5% tổng số lao động của cả nước và hiện vẫn còn 3,1% lao động không
biết chữ. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các ngành sản xuất của nước ta, đội
ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%, đội ngũ lao động làm công tác
phát minh, sáng chế, đổi mới kỹ thuật, công nghệ chỉ chiếm 18% trong khi tỷ lệ
tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72% [1].
Tỷ lệ lao động được đào tạo thấp dẫn tới chất lượng nguồn nhân lực bị hạn
61
chế. Đó là còn chưa kể đến chất lượng đào tạo. Trong khi số lượng lao động
được đào tạo thấp thì tình trạng đào tạo rồi nhưng không có việc làm hoặc phải
làm trái ngành, trái nghề vẫn tiếp tục diễn ra: Có tới 30% lao động có trình độ
đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp không làm việc đúng ngành nghề
đã đào tạo, 2,2% lao động đã được đào tạo chuyên môn kỹ thuật nhưng chưa có
việc làm. Đặc biệt tỷ lệ lao động làm việc trái ngành nghề đã đào tạo cao nhất là
nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở các trường THCN: Chỉ có trên 40% lao
động làm việc đúng nghề. Đối với sinh viên các khoa này ở các trường đại học
chỉ có 20% là làm việc đúng ngành nghề đào tạo. Trong số lao động chuyển đổi
ngành nghề chỉ có 42,5% lao động được đào tạo lại. Tình trạng này làm cho chất
lượng nguồn nhân lực càng bị hạn chế.
Thứ ba, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước còn bất cập.
Đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước chịu trách nhiệm vận hành,
điều khiển các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Đây là một bộ phận nhân
lực rất quan trọng không thể thiếu đối với sự nghiệp CNH-HĐH và phát triển
kinh tế tri thức. Trong những năm qua, chất lượng đội ngũ cán bộ đã được củng
cố nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác trong tình hình mới. Tuy vậy,
hiện vẫn còn 30% cán bộ, nhân viên nhà nước không đủ trình độ chuyên môn
hoặc làm không đúng chuyên ngành đã được đào tạo mà chủ yếu chỉ dựa vào
kinh nghiệm, thói quen.
Hiện tại còn có 10% công chức chưa tốt nghiệp THPT, 60,51% công chức
tốt nghiệp đại học, cao đẳng, 4,41% công chức có trình độ sau đại học, 14,47%
đã qua đào tạo về quản lý hành chính nhà nước, 27,19% được đào tạo về tin học
và có 37,07% được đào tạo về ngoại ngữ ở các trình độ khác nhau.
Nhìn chung, chất lượng công chức nhà nước hạn chế do số lượng cán bộ
nhân viên được đào tạo chưa cao, trình độ đào tạo lại thấp. Nhiều công chức còn
chịu ảnh hưởng của cách tư duy và làm việc theo cơ chế bao cấp: “Sớm vác ô đi,
tối vác về”. Do vậy, tính năng động, khả năng thích nghi của cán bộ công chức
62
trong cơ chế thị trường và thời kỳ hội nhập quốc tế chưa được nâng cao.
Thứ tư, sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ngũ nguồn nhân lực
kế cận.
Hiện tại, đội ngũ công nhân nước ta có khoảng 1,76 triệu người làm việc
trong khu vực kinh tế quốc doanh và khoảng 3,64 triệu người làm việc ở khu vực
ngoài quốc doanh, trong đó có khoảng gần 2 triệu công nhân kỹ thuật. Đây là lực
lượng lao động quan trọng trực tiếp vận hành thiết bị, máy móc, làm chủ các
công nghệ hiện đại của các ngành kinh tế kỹ thuật trong sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước và phát triển kinh tế tri thức. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực
quốc doanh, chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn lại
được tuyển dụng bằng nhiều con đường khác nhau, tuổi đời bình quân của công
nhân tăng lên do những năm gần đây số lượng công nhân trẻ được nhận vào làm
việc ngày càng ít.
Bên cạnh đó là sự lão hoá, giảm đi của số lượng thợ bậc cao, công nhân
lành nghề nhất là trong khu vực kinh tế quốc doanh (công nhân bậc 5, 6, 7 chỉ
chiếm khoảng 3,9% tổng số công nhân). Tuy hiện nay nước ta có gần 70% công
nhân khu vực kinh tế quốc doanh có trình độ học vấn từ PTCS trở nên nhưng nội
dung, kiến thức mà nhà trường trang bị cho họ còn thiếu hụt và lạc hậu, chưa
đảm bảo đủ điều kiện để tiếp cận với công nghệ hiện đại. Đội ngũ công nhân
nước ta nói chung chưa có văn hoá lao động công nghiệp, hạn chế về trình độ tổ
chức, thiếu tính kỷ luật và trách nhiệm nghề nghiệp…
Đội ngũ tri thức, lực lượng nòng cốt của CNH-HĐH và phát triển kinh tế
tri thức tuy chưa nhiều nhưng có tốc độ phát triển khá nhanh. Lao động có trình
độ cao đẳng trở lên tăng từ 1,3 triệu người năm 2000 lên 2,3 triệu người năm
2006. Số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 13500 lên 14000 năm
2006, riêng tiến sĩ khoa học là 70 người, số GS và PGS là hơn 7000 người [39].
Đây là đội ngũ nhân lực nòng cốt của quá trình CNH-HĐH đất nước và
tiến vào kinh tế tri thức. Tuy vậy, nếu như so sánh với các quốc gia khác và so
63
với nhu cầu đặt ra hiện nay thì con số kể trên là chưa đáng kể. Tỷ lệ lao động trí
tuệ cao trên dân số của nước ta còn thấp, trong khi đó có nhiều người hiện nay đã
cao tuổi, sắp tới tuổi nghỉ hưu làm cho sự thiếu hụt lao động chất xám càng
nghiêm trọng hơn.
Đội ngũ trí thức Việt Nam không chỉ ít về số lượng mà nhìn chung chất
lượng của đội ngũ còn hạn chế. Chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ đầu ngành,
chuyên gia giỏi đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Mặt khác, do chính sách
tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ khoa học công nghệ còn thấp cộng với đời
sống thiếu thốn, điều kiện môi trường làm việc khó khăn nên không ít cán bộ
không tập trung toàn lực cho công việc chuyên môn hoặc chuyển sang công tác
khác, hoặc bỏ nghề, thậm chí bỏ ra nước ngoài làm việc khiến cho tình trạng
chảy máu chất xám lên đến mức báo động. Cơ cấu và phân bố đội ngũ cán bộ
KH-CN ở nước ta còn mất cân đối, bất hợp lý. Phần đông tập trung ở các thành
phố lớn, còn ở các vùng nông thôn, miền núi thiếu trầm trọng.
Tình hình trên làm cho sức mạnh của lực lượng trí thức nói chung, của đội
ngũ nhân lực KH-CN nói riêng bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Sự hạn chế này do hàng loạt yếu tố, nó không chỉ
thuộc về yếu tố trách nhiệm của bản thân nguồn nhân lực có trình độ mà còn chủ
yếu do cơ chế, chính sách đào tạo và sử dụng chưa hợp lý. Vì vậy chưa tạo ra
được động lực kích thích tính tích cực xã hội của họ.
Nói tóm lại có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là do ở Việt
Nam vị trí và vai trò của trí tuệ chưa thật sự được coi trọng.
2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam
2.2.3.1. Nguồn nhân lực có trình độ cao còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số
nguồn nhân lực, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội
64
nhập và phát triển kinh tế thị trường
Kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia đi trước cho thấy để đi vào kinh
tế tri thức, chủ động nắm bắt và làm chủ thật sự được kinh tế tri thức thì trước
hết cần có một đội ngũ đông đảo người lao động có đầy đủ năng lực, phẩm chất
của lao động chất lượng cao trong xã hội hiện đại. Trong số các năng lực, phẩm
chất quan trọng nhất là năng lực trí tuệ. Trong khi đó ở nước ta số người lao
động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số người đang ở
độ tuổi lao động. Tại thời điểm 01/7/2002 mới có 1,3 triệu lao động có trình độ
từ cao đẳng trở lên, chiếm tỷ lệ 0,027% tức là trong một nghìn lao động mới có
27 người có trình độ cao đẳng trở lên. Đến năm 2005 tỷ lệ này mới tăng lên được
32 người/1000 lao động [1].
Với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn thấp như vậy đã và đang là một
trở ngại lớn trong quá trình rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với
các quốc gia khác cũng như tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức. Điều đó đặt ra
trách nhiệm to lớn cho ngành giáo dục và đào tạo trong việc tăng quy mô đào tạo
lao động có chuyên môn kỹ thuật. Ngoài vấn đề về số lượng thì chất lượng của
người lao động cũng còn nhiều hạn chế. Đội ngũ lao động kỹ thuật, lao động có
trình độ cao đẳng, đại học dù có được đào tạo nhưng năng lực chuyên môn, trình
độ tay nghề, khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp còn yếu,
chưa đáp ứng được những nhu cầu của CNH-HĐH rút ngắn. Khả năng làm việc
thực tế yếu kém do quá trình đào tạo nặng về lý thuyết, trang thiết bị thực hành
thì cũ kỹ, lạc hậu, khả năng sử dụng ngoại ngữ phục vụ yêu cầu của công việc
còn bất cập.
Đội ngũ trí thức, một trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế tri thức và đồng thời đóng vai trò đào tạo dẫn dắt đội ngũ trí thức trẻ
cũng còn nhiều hạn chế về năng lực, trình độ, kỹ năng triển khai và năng lực
thực hành quản lý. Thời gian gần đây, trong xã hội xuất hiện nhiều tình trạng
65
khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp cũng như sự than phiền của những
nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước về sự phiền hà của thủ tục
hành chính cũng chính là một hệ quả tất yếu của sự yếu kém về năng lực lập kế
hoạch, điều hành, quản lý của đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý hành chính.
Đó là chưa kể đến một bộ phận bị suy thoái về phẩm chất, đạo đức và lối sống.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định
tới nhân tố của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức cũng có nhiều vấn đề
đang được đặt ra. Số lượng giảng viên đáp ứng được yêu cầu về học hàm, học vị
đối với nhiều trường cao đẳng, đại học còn chưa đạt chuẩn về số lượng chứ chưa
nói gì đến chất lượng. Phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, nặng về thuyết
trình đọc chép, vì thế chưa kích thích, hình thành được tính tích cực chủ động,
sáng tạo của cả giảng viên lẫn sinh viên trong khi những phẩm chất kể trên lại là
những tố chất quan trọng nhất mà người lao động của kinh tế tri thức cần phải
có.
2.2.3.2. Cơ cấu nguồn nhân lực còn bất hợp lý
Đến cuối năm 2006, có khoảng 6,901 triệu lao động có trình độ sơ cấp,
chứng chỉ nghề; 2,62 triệu lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp; khoảng
2,316 triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học; hơn 16000 thạc sỹ; hơn 14000
tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học; có hơn 7000 PGS và GS. Như vậy, tỷ lệ
đại học - THCN - công nhân kỹ thuật là 1-1,13-3. Tỷ lệ này phản ánh sự mất cân
đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động. Trong khi đó, sự mất cân đối
này còn đang có xu hướng gia tăng trong những năm tới do số công nhân kỹ
thuật và THCN được đào tạo trong những năm vừa qua đang giảm dần trong
tương quan so sánh với sự gia tăng của số lượng sinh viên cao đẳng và đại học.
Điều này dẫn tới một thực tế trên danh nghĩa là “thầy” nhiều hơn “thợ”. Tuy vậy,
trong thực tế số lượng “thầy” có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của chủ sử
66
dụng lao động lại không đủ.
Như vậy, vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế
tri thức là hiện nay trong cơ cấu lao động của nguồn nhân lực Việt Nam tỷ lệ lao
động được đào tạo không chỉ thấp mà còn bất hợp lý. Chúng ta thiếu cả cán bộ,
nhân lực có trình độ trên đại học, đại học, THCN và công nhân kỹ thuật lành
nghề song thiếu nghiêm trọng hơn cả là các chuyên gia đầu ngành các lĩnh vực
công nghệ cao.
2.2.3.3. Việc phân công, sử dụng, tạo điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ
đối với nguồn nhân lực có trình độ chưa hợp lý
Sự phân công bố trí việc làm cho đội ngũ lao động có trình độ hiện nay
đang đặt ra những vấn đề về hiệu quả của công tác cán bộ, hiệu quả của vấn đề
sử dụng chất xám, vấn đề khai thác tiềm năng, tiềm lực của lực lượng lao động.
Bởi vì trong thực tế có một số lượng lao động được đào tạo qua đại học nhưng
không kiếm được việc làm hoặc buộc phải làm những công việc không phù hợp
với chuyên môn đã được đào tạo. Có một số lao động tìm được việc làm không
phải do tài năng, trình độ mà do có được những mối quan hệ quen biết, dùng
quyền lực, tiền bạc để được tuyển dụng vào biên chế. Chẳng hạn như ngành toà
án ở nước ta, thường xuyên thiếu nhân lực để bổ xung vào vị trí thẩm phán đến
mức một cán bộ cao cấp ngành toà án nói rằng phải “vơ vét” mới đủ thẩm phán
thì trong khi đó số lượng sinh viên tốt nghiệp các trường luật thất nghiệp hoặc
phải làm việc trái ngành ngày càng tăng. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải có chính
sách tuyển dụng, phân công và sử dụng hợp lý hiệu quả lực lượng lao động nhất
là lao động trẻ đã qua đào tạo để đội ngũ này phát huy được những tri thức đã
được đào tạo góp phần từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Để làm được điều đó, chúng ta phải giải quyết những vấn đề đặt ra về chế
độ đãi ngộ, môi trường điều kiện làm việc của lao động trí tuệ hiện nay. Bởi vì
môi trường, điều kiện, phương tiện làm việc còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
67
ra của công việc cũng như nhu cầu của nguồn nhân lực nhất là trong các lĩnh vực
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các nhà nghiên cứu thiếu
phòng thí nghiệm, trang thiết bị để thí nghiệm, sản xuất thử và ứng dụng các kết
quả phát minh, sáng chế vào sản xuất kinh doanh. Các nhà nghiên cứu khoa học
xã hội và nhân văn thì cũng có rất ít cơ hội đi ra nước ngoài nghiên cứu tìm hiểu
và học tập lĩnh hội những tri thức mới. Mới đây, trong hội thảo về giáo dục Việt
Nam tháng 8 năm 2007, các nhà khoa học của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ có
đánh giá rằng các giảng viên đại học ở Việt Nam có quá ít cơ hội ra nước ngoài
học tập, nâng cao trình độ.
Về chế độ đãi ngộ chưa tạo ra được động lực thật sự cho sự phấn đấu học
tập, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực. Trong vài năm qua, Nhà nước đã có nỗ
lực cải cách chế độ tiền lương, nâng cao đời sống vật chất cho người lao động
nhưng mức tăng lương thực tế không được bao nhiêu vì nhiều nguyên nhân khác
nhau như giá tiêu dùng thường tăng cao sau mỗi lần tăng lương. Sự chênh lệch về
thu nhập giữa các ngành nghề, các khu vực kinh tế cũng làm giảm động lực phấn
đấu của nhiều người lao động, chưa kích thích được khả năng sáng tạo, cống hiến
hết mình của nguồn nhân lực, đặc biệt là nhóm có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao.
2.2.3.4. Hình thành dư luận xã hội trong đánh giá, coi trọng vai trò của tri
thức; việc xây dựng mô hình xã hội học tập chưa đáp ứng được yêu cầu của quá
trình tiếp cận, phát triển kinh tế tri thức
Với ảnh hưởng của văn hoá Nho giáo, người Việt Nam vốn có truyền
thống tốt đẹp là coi trọng việc học hành, đánh giá cao vai trò của tri thức trong
các bậc thang giá trị của xã hội. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường,
chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường thì sự đánh giá của dư luận
xã hội đối với học vấn, tri thức, tầng lớp những người lao động có trình độ
chuyên môn ít nhiều đã có sự thay đổi. Sự tôn vinh, coi trọng trí thức nhiều khi
68
phụ thuộc vào vị trí lãnh đạo (chức vụ, quyền lực) hoặc thu nhập (khả năng kiếm
ra nhiều tiền) mà đôi khi coi nhẹ trình độ học vấn, tri thức, phẩm chất đạo đức,
năng lực cống hiến của người lao động. Nhất là trong tình hình hiện nay chế độ
lương thưởng đối với lao động chất xám chưa tương xứng thì mức độ coi trọng
lẽ ra cần phải được dành cho tri thức và nhân tài thì lại chưa được đặt vào đúng
người, đúng chỗ. Bởi trong thực tế, có khi những người có trình độ, có nhiều
đóng góp cống hiến cho xã hội, có năng lực sáng tạo phát minh ra công nghệ sản
phẩm tiên tiến như các cán bộ khoa học đầu ngành, các kỹ sư, anh hùng lao
động… nhưng chưa chắc đã được dư luận xã hội biết đến rộng rãi, được đánh giá
cao và được trả lương cao bằng những ca sĩ hay những cầu thủ bóng đá.
Thực trạng này đã làm giảm đi động lực học tập, nghiên cứu trau dồi trình
độ học vấn và chuyên môn của không những bộ phận lao động trí tuệ mà còn ảnh
hưởng không nhỏ tới tư tưởng chung của xã hội. Điều đó sẽ gây tác động tiêu
cực, là lực cản cho việc thực hiện mô hình xã hội học tập, yếu tố cần có để tạo đà
cho kinh tế tri thức phát triển.
2.2.3.5. Khả năng làm việc tập thể, tinh thần hợp tác đoàn kết của đội ngũ
nhân lực còn yếu
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, người Việt nam có tinh
thần đoàn kết hợp tác cao, đặt lợi ích cộng đồng dân tộc lên trên hết và trung
thành hết mực với lợi ích chung đó. Phẩm chất tuyệt vời này đã tạo nên sức mạnh
kỳ diệu để đánh bại cả những nước đế quốc sừng sỏ nhất. Tuy vậy, trong thời kỳ
thực hiện CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức ngày nay phẩm chất truyền
thống đó ít nhiều đã bị sói mòn. Thực trạng này diễn ra khá phổ biến trong các
thành phần người lao động. Nhiều trí thức, nhà khoa học có trình độ chuyên môn
giỏi nhưng rất khó khăn để tìm tiếng nói chung khi hợp tác, tạo thành một nhóm
làm việc đạt kết quả cao mặc dù ai cũng nhận thức được ý nghĩa của sự đoàn kết
và làm việc tập thể như câu ca dao: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại
69
nên hòn núi cao” đã khẳng định. Đây là một trong những hạn chế cơ bản của
nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, vì vậy chưa tạo ra được sức mạnh cần thiết
để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Điều này trong thực tiễn cũng đã được chứng minh bằng sự đoàn kết tập thể của
nguồn nhân lực Hàn Quốc, Nhật Bản, nơi mà người lao động làm việc với nhau
như những thành viên của một gia đình và do đó, họ đã tạo ra được sức mạnh tập
thể to lớn, gạt phăng đi những vật cản trên con đường trở thành quốc gia phát
triển chỉ trong vài thập kỷ, được cả thế giới ngưỡng mộ, ca ngợi như một sự thần
kỳ.
Sự hạn chế về tinh thần hợp tác, gắn kết cộng đồng của nguồn nhân lực
Việt Nam có nhiều nguyên nhân khác nhau như:
- Do cuộc sống vẫn còn gắn liền với nền nông nghiệp truyền thống, sản
xuất nhỏ là phổ biến tính cách tiểu nông, sản xuất nhỏ thậm chí còn tồn tại trong
cả một bộ phận trí thức dẫn tới tâm lý nhỏ nhen, đố kỵ, ghen ghét những người
khác hơn mình như câu châm ngôn: “con gà tức nhau tiếng gáy”. Từ đó, tầm
nhìn thiển cận chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài, quan tâm
tới lợi ích cục bộ mà quên đi lợi ích cộng đồng.
- Do tác động của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường dẫn tới sự cạnh
tranh thiếu lành mạnh, phá hoại tinh thần đoàn kết của tập thể.
- Trong thời kỳ quá độ hiện nay, chúng ta chưa xây dựng được cơ chế
chính sách phù hợp để một mặt, kích thích, thúc đẩy mặt khác, đòi hỏi bắt buộc
người lao động phải hợp tác, liên kết lại với nhau trong công việc. Điều đó có thể
thực hiện thông qua các nội dung giáo dục, đào tạo hoặc những điều kiện bắt
buộc trong công tác tuyển dụng lao động, đánh giá đề bạt, khen thưởng và tiền
lương…
- Hạn chế trên đây của nguồn nhân lực Việt Nam nếu không đựơc khắc
70
phục thì sức mạnh của đội ngũ nhân lực sẽ giảm sút mất đi khả năng cạnh tranh
trong thời kỳ hội nhập cũng như tác động tiêu cực tới tiến trình thực hiện CNH-
71
HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
3.1. Phƣơng hƣớng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH rút ngắn nhằm tạo ra cơ cở vật
chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu ngành theo từng hình thái phát triển kinh tế các
ngành kỹ thuật cao, tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực. Đó
cũng đồng thời là cơ sở là nền tảng để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức. Như
thế, cơ sở để hình thành các giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế tri thức nằm trong định hướng thực hiện CNH-HĐH rút ngắn và các mục
tiêu mỗi giai đoạn thời kỳ khác nhau. Theo đó, phương hướng cơ bản để phát
triển nguồn nhân lực là:
3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những
yêu cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới kinh
tế tri thức
Phương hướng mục tiêu lớn nhất của Việt Nam hiện nay là thoát khỏi tình
trạng kém phát triển bởi trong bối cảnh quốc tế hiện nay các nền kinh tế đang
chạy đua thực hiện CNH-HĐH, rồi nhanh chóng tiến vào thời kỳ hậu công
nghiệp, thời kỳ phát triển kinh tế tri thức. Việt Nam không nhanh chóng thoát ra
khỏi tình trạng kém phát triển thì khoảng cách phát triển với thế giới ngày càng
xa. Quyết tâm đó được thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ X (Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
đến năm 2010).
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
72
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng
lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh
được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.[10]
Đảng đưa ra mục tiêu cụ thể hơn: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 7,2%;
trong 10 năm liên tục 2001-2010; đến năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp 2 lần so
với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 700-750 USD/người/năm; thoát ra
khỏi danh sách các nước kém phát triển, các nước nghèo trên thế giới. (theo tiêu
chí của Ngân hàng thế giới: các nước nghèo có thu nhập dưới 730
USD/người/năm).
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỷ trọng lao động nông nghiệp
giảm từ 67% (năm 2000) xuống còn 50% (năm 2010); giảm tỷ trọng thất nghiệp
ở thành thị xuống dưới 5%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
lên 85% (so với hiện nay là trên 75%); nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 4%;
hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy, theo phương hướng mục tiêu của Đảng ta thì:
- Giai đoạn tới năm 2010: nước ta cơ bản thoát nghèo, phát triển ổn định
và bền vững hơn, hình thành được một số ngành mũi nhọn công nghệ cao nhờ
quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, nguồn nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao có thể từng bước tiếp cận kinh tế tri thức.
- Giai đoạn tới năm 2020 Việt Nam có nền sản xuất công nghiệp hiện đại,
nguồn nhân lực phát triển, thực sự tiếp cận được nền kinh tế tri thức.
3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú
trọng nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có
hàm lượng tri thức cao
Phương hướng phát triển nguồn nhân lực ở mỗi giai đoạn của tiến trình
73
CNH-HĐH đều được thể hiện qua những chỉ tiêu cụ thể, phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội của giai đoạn đó. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam có
những chỉ tiêu cụ thể là:
- Với giáo dục phổ thông: phấn đấu đạt tỷ lệ nhập học trong độ tuổi: tiểu
học đạt 100%; trung học cơ sở đạt 80%; trung học phổ thông đạt 45%.
Đối với giáo viên phấn đấu tỷ lệ giáo viên tiểu học có bằng cao đẳng
chiếm 40%; giáo viên trung học cơ sở có bằng đại học chiếm 60%; giáo viên
trung học cơ sở có bằng thạc sỹ chiếm 10%.
- Với giáo dục trung học chuyên nghiệp (THCN), dạy nghề, cao đẳng và
đại học: phấn đấu tỷ lệ nhập học đúng tuổi của trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề lên 18%; tỷ lệ sinh viên cao đẳng đại học một vạn dân là: 200 sinh viên/1
vạn dân. Tỷ lệ tăng bình quân hàng năm đến năm 2000 của đào tạo cao đẳng đại
học đạt 5%, đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tăng 11-12% năm.
Giảng viên đại học phấn đấu có bằng thạc sỹ chiếm tỷ lệ 45%, tỷ lệ có bằng tiến
sỹ chiếm 25%.
- Với nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật: tỷ lệ lao động được đào tạo
trung học chuyên nghiệp đạt 8%; tỷ lệ lao động được đào tạo công nhân kỹ thuật
(CNKT) đạt 30%; tỷ lệ lao động được đào tạo cao đẳng, đại học đạt 4%.
- Về phương hướng phát triển nguồn nhân lực theo cơ cấu ngành kinh tế.
+ Đối với nhân lực công nghiệp
Tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2010 có 60-65%
lao động trong ngành công nghiệp được đào tạo, trong đó 7,5% có trình độ cao
đẳng trở lên; 15% THCN và 42,5% CNKT. Ưu tiên đào tạo các ngành công
nghiệp then chốt, khu chế xuất, cho xuất khẩu lao động công nghiệp và cho nông
thôn để thay đổi cơ cấu lao động.
+ Đối với nhân lực nông nghiệp
Đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo trong nông nghiệp là 20-23%;
74
trong đó cao đẳng trở lên 4%, THCN là 7%, CNKT là 9-12%. Xây dựng các
trung tâm lao động hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… đào tạo nhân lực để phát triển kinh tế
trang trại và các hình thức kinh tế nông nghiệp khác.
+ Đối với nhân lực lĩnh vực dịch vụ
Ngành giao thông vận tải: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là
65%, trong đó cao đẳng trở lên là 4%, THCN là 7%, CNKT là 9-12%. Hiện đại
hoá đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực vận tải đường không, đường biển, đường
sông, đường bộ, xây dựng cầu cảng, đường xá…
Ngành bưu chính viễn thông: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo
là 95%, trong đó cao đẳng trở lên là 25%, THCN là 25%, CNKT là 45%. Ưu tiên
đào tạo nhân lực có trình độ cao, công nhân lành nghề, cán bộ quản lý ngành.
Ngành thương mại: đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng
55- 60%, trong đó cao đẳng trở lên là 13%.
Ngành du lịch: đến năm 2010 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 80%, trong
đó cao đẳng trở lên đạt 20%.
Lĩnh vực tài chính ngân hàng: thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước gửi đi đào tạo ở nước ngoài để nhanh chóng có đội ngũ chuyên gia giỏi, đội
ngũ cán bộ quản lý tài chính đạt tiêu chuẩn quốc tế. Gấp rút đào tạo nhân lực
phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
- Về phương hướng phát triển nguồn nhân lực những ngành kinh tế mũi
nhọn.
Kinh tế tri thức phát triển dựa trên các ngành khoa học công nghệ mới,
trình độ cao. Theo giáo sư Ngô Quý Tùng cho rằng kết cấu công nghệ của kinh
tế tri thức bao gồm: công nghệ thông tin chiếm gần 15%; công nghệ sinh học
chiếm gần 10%; công nghệ sạch gần 5%; công nghệ mềm gần 5% [36].
75
+ Đối với công nghệ thông tin
Đây là ngành kinh tế mũi nhọn công nghệ cao, chính tốc độ phát triển
nhanh cho nên nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin tăng mạnh. Ngay cả các
quốc gia phát triển như Mỹ, Đức, Singapore… nhân lực công nghệ thông tin
được dự báo cũng rất thiếu. Vì thế, việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
đẳng của lĩnh vực công nghệ thông tin không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà
còn có để xuất khẩu ra các quốc gia tiên tiến, thu ngoại tệ và góp phần phát triển
trình độ chuyên môn kỹ thuật của một bộ phận lao động Việt Nam nhanh hơn.
Việt Nam dự kiến đến năm 2010 sẽ cần thêm khoảng 62.000 chuyên gia
về công nghệ thông tin ở các trình độ khác nhau. Cụ thể: giai đoạn 2006- 2010 sẽ
đào tạo mới 35.000 người có trình độ đại học và 29.000 người tốt nghiệp cao
đẳng, đào tạo mới 5.000 thạc sỹ và tiến sỹ. Trong số đó hàng năm sẽ đào tạo 20-
30 người có trình độ Đại học ở nước ngoài trong đó hàng năm đào tạo 20 thạc sỹ
và 10 tiến sỹ ở nước ngoài [4]
+ Đối với công nghệ sinh học
Việc chuẩn bị nguồn nhân lực khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học
trong giai đoạn tới ở nước ta cần chú ý những điểm sau đây:
- Đào tạo đồng bộ về cơ cấu ngành nghề từ các chuyên ngành sinh học cơ
bản đến các kĩnh vực công nghệ chuyên ngành như công nghệ enzim, kỹ thuật
gen, di truyền…
- Ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực có thể phát huy thế mạnh của nền kinh
tế Việt Nam như: nông nghiệp, công nghiệp chế biến, dược phẩm…
- Quan tâm tới chất lượng đào tạo, chuyên gia có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ
được ưu tiên đào tạo ở các nước phát triển.
Dự kiến toàn bộ giai đoạn 2001- 2010 sẽ đào tạo mới 300 thạc sỹ, 50 tiến
sỹ và 800 người có trình độ đại học trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Theo đó,
cơ cấu ngành đào tạo là: 20% công nghệ vi sinh, enzim; 30- 40% các chuyên gia
76
khác còn lại.
+ Đối với công nghệ vật liệu mới:
Việc chuẩn bị nhân lực khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ
vật liệu mới cần bảo đảm các yêu cầu sau:
- Bảo đảm tính đồng bộ về cơ cấu ngành nghề bao gồm cả những lĩnh vực
khoa học cơ bản như: hoá, vật lý và các công nghệ chuyên ngành.
- Tập trung ưu tiên đào tạo nhân lực khoa học cho các hướng vật liệu kim
loại và hợp kim cao cấp, vật liệu cao phân tử, điện tử, y sinh học…
- Ưu tiên đào tạo ở nước ngoài các chuyên gia trình độ thạc sỹ, tiến sỹ.
Dự kiến đến năm 2010 sẽ đào tạo mới khoảng 200 tiến sỹ, 800 thạc sỹ và
1500 người có trình độ đại học về chuyên ngành vật liệu mới.
Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ chung
của rất nhiều ngành chức năng.
Khoa học phải phối hợp với các ngành kinh tế xác định chính xác nhu cầu
đào tạo. Ngành giáo dục đào tạo phải đổi mới được phương pháp đào tạo, nâng
cao chất lượng của đội ngũ giảng viên hình thành được các trường, các trung tâm
đào tạo đủ để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngành tài chính chủ động
chuẩn bị nguồn tài chính, cân đối để phục vụ cho việc đào tạo không những
trong nước mà cả ở nước ngoài…Và trên hết, Chính phủ đóng vai trò điều phối,
chỉ đạo thực hiện mục tiêu chuẩn bị được nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng
yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Các phương hướng chỉ
tiêu, nhiệm vụ đó là cơ sở chủ yếu có thể xây dựng các giải pháp phát triển
nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam
3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển
77
nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
3.2.1.1. Thực hiện CNH-HĐH rút ngắn là cơ sở quan trọng để phát triển
chất lượng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Theo Giáo sư Đặng Hữu: “Công nghiệp hoá ở nước ta phải đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ cực kỳ lớn lao: chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, và từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri
thức”. Hai nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ
trợ nhau, bổ sung cho nhau. Như vậy, khác với các nước phát triển là trở thành
nước công nghi?p hoá rồi tiến vào kinh tế tri thức. Việt Nam đi sau trong bối
cảnh các nước đang tiến vào kỷ nguyên kinh tế tri thức thì phải làm gấp hai lần
lượng công việc so với các nước là điều hiển nhiên nếu không muốn tụt hậu.
Nhưng CNH-HĐH và kinh tế tri thức “bổ sung” “hỗ trợ” nhau như thế
nào? Luận văn tán thành quan điểm của giáo sư Đặng Hữu và cho rằng CNH-
HĐH là tất yếu để tạo cơ sở, tiền đề để tiếp cận và phát triển kinh tế Việt Nam
hay cũng có thể cho rằng: việc đẩy mạnh thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút
ngắn sẽ tạo ra cơ sở và cũng chính là giải pháp để nguồn nhân lực phát triển,
phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Để thực hiện thành công tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cần có các giải
pháp phát triển mạnh mẽ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
+ Đối với ngành nông nghiệp
Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp, tỷ
lệ nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn còn rất lớn.
Do vậy, CNH-HĐH rút ngắn có một nội dung rất quan trọng, đó là công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Để giảm được tỷ lệ lao động làm
việc trong nông thôn, nông nghiệp cần tiến hành nhanh cơ giới hoá, hiện đại hoá
trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Các công
78
nghệ mới của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học phải
được quan tâm, nghiên cứu chọn lọc những công nghệ phù hợp để từng bước áp
dụng vào nông nghiệp nông thôn. Từ đó, nguồn nhân lực nông thôn có điều kiện
được nâng cao trình độ học vấn, khả năng nhận thức, năng lực tiếp thu, làm chủ
và sáng tạo công nghệ.
Song song với quá trình phát triển năng suất chất lượng ở khu vực nông
nghiệp nông thôn cần chú trọng phát triển các ngành nghề bổ trợ, bổ sung cho
nông nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn trong đó có thể kể đến việc chú trọng phát triển công nghiệp chế biến
nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu nhằm thu được nguồn ngoại tệ lớn và
giúp nông nghiệp chế biến nông sản cũng như đội ngũ nhânlực của công nghiệp
chế biến vươn tới trình độ cao theo đòi hỏi của thị trường quốc tế. Công nghiệp
chế biến có thể được phát triển theo hai hướng như sau:
- Đối với những dây chuyền công nghệ cao, phức tạp, trình độ khoa học
công nghệ trong nước không đủ năng lực chế tạo thì cần làm tốt những khâu lựa
chọn, tiếp nhận và làm chủ dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài.
- Đối với những dây chuyền công nghệ mà trong nước có nhu cầu lớn, có
đủ khả năng chế tạo thì cần tập trung ưu tiên đầu tư nghiên cứu và phát triển để
có công nghệ phù hợp giá cả hợp lý, nhanh chóng ứng dụng sâu rộng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Với vai trò của mình, Nhà nước có thể thành lập các đặc khu chuyên sản
xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo điều kiện ưu đãi về vốn, chính
sách đào tạo, kỹ thuật. Qua đó có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho các tổ chức
doanh nghiệp ở nông thôn có thể tự đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của
lao động trong doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, các luồng di chuyển lao
động xuất hiện ngày càng nhiều hơn, lao động dịch chuyển cũng dễ dàng hơn mở
ra nhiều cơ hội tốt cho đội ngũ lao động xuất khẩu. Nhà nước cần kiểm soát chặt
79
chẽ để tránh thiệt thòi cho người lao động, tạo cơ chế thông thoáng để nguồn lao
động dôi dư trong nông thôn có thể ra nước ngoài làm việc, nhất là các thị trường
lao động của các nước phát triển mang lại cho đất nước nguồn thu ngoại tệ đáng
kể. Theo thống kê năm 2006, lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về Việt Nam có
thể đạt 3,5 tỷ USD; gần bằng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài sẽ góp phần nâng cao
tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động Việt Nam.
+ Đối với nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ
Để giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế cũng
như giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp thì việc phát triển công nghiệp và dịch vụ
giữ vai trò rất quan trọng. Chính phủ cần xác định các lĩnh vực ưu tiên đầu tư để
hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm, tăng thu nhập cho
người lao động tạo ra cơ sở kinh tế- kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Cần xác định đúng lĩnh vực ưu tiên đầu tư, cũng như chọn lựa công nghệ
phù hợp bởi vì thực tế có nơi có lúc chúng ta đã chọn sai lĩnh vực ưu tiên đầu tư,
chọn sai công nghệ dẫn tới sự lãng phí nguồn lực vật chất kéo theo nguồn lực
nhân lực; mất đi cơ hội tiếp cận hấp thu trình độ công nghệ hiện đại nâng cao
năng lực, trình độ chuyên môn của mình.
Trong bối cảnh chuẩn bị tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức hiện nay,
Việt Nam cần chú trọng đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực mũi nhọn có thể
tạo ra cú “hích”, tạo tiền đề cho kinh tế tri thức như công nghệ thông tin và viễn
thông, nguyên liệu nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học…
Việc thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn đòi hỏi huy động những
nguồn nhân lực rất lớn, nếu chỉ trông chờ vào nguồn nội lực của Việt Nam thì lộ
trình thực hiện thành công CNH-HĐH rút ngắn khó thành hiện thực. Do vậy,
việc huy động tổng lực các nguồn lực là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng là một giải pháp để rút ngắn
tiến trình công nghiệp hoá hiện hoá, rút ngắn và tiếp cận,phát triển kinh tế tri
80
thức. Các công ty có vốn FDI thường là những công ty hùng mạnh về tài chính
(tính đến tháng 11/2007 cả nước đã thu hút được 15 tỷ USD vốn FDI. Năm 2006
là 10,8 tỷ USD), có trình độ khoa học ở đẳng cấp cao. Nếu như Chính phủ có các
chính sách tạo môi trường thuận lợi cho dùng vốn FDI thì năng lực tài chính,
trình độ khoa học của nhóm doanh nghiệp này sẽ góp phần đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao nhanh và hiệu quả. Để thực hiện điều đó, hiện nay Việt Nam
cần đẩy mạnh giải quyết những tồn tại mà các doanh nghiệp FDI thường phàn
nàn nhiều nhất đó là: thủ tục hành chính rườm rà, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu
đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và lao động chuyên môn cao.
3.2.1.2. Tăng cường đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ góp phần
quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam hiện nay
Giáo dục và đào tạo, phát triển và chuyển giao công nghệ giữ vai trò quyết
định đối với tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức
ở Việt Nam. Trong đó, phát triển và chuyển giao công nghệ có thể giúp Việt
Nam đi nhanh, đi tắt tiếp cận sớm được các công nghệ hiện đại của thế giới, tiết
kiệm được thời gian.
+ Giải pháp về chính sách
Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư khoa học công nghệ cho những
ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, hàng
không, dầu khí…khuyến khích phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như: sản xuất, kinh doanh, giáo dục đào
tạo, an ninh quốc phòng nhằm để đông đảo dân cư và mọi tầng lớp trong xã hội
có điều kiện để tiếp cận rộng rãi với khoa học công nghệ. Để quá trình tiếp cận
đó đạt hiệu quả cao thì cũng cần có các chính sách đầu tư cho giáo dục và đào
tạo hiện đại nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực tiếp cận và làm chủ khoa học
81
công nghệ của nguồn nhân lực.
Trong quá trình quản lý hoạt động khoa học công nghệ phục vụ cho CNH-
HĐH rút ngắn, Nhà nước có nhiều biện pháp khuyến khích về vật chất cũng như
về tinh thần đối với các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhằm
khích lệ tinh thần nghiên cứu sáng tạo của đội ngũ nhân lực làm khoa học. Tuy
nhiên, bên cạnh chính sách thưởng, Nhà nước cũng cần có những chính sách
ràng buộc, để các doanh nghiệp phải để dành các nguồn lực đầu tư cho nghiên
cứu phát triển. Điều này là hết sức cần thiết bởi vì thực tế có nhiều doanh nghiệp
FDI vì mục tiêu lợi nhuận mà không quan tâm đến nghiên cứu phát triển trong
nước. Họ nhập khẩu linh kiện thiết bị từ các nhà máy ở nước ngoài và đến Việt
Nam chỉ để lắp ráp, khai thác thị trường Việt Nam. Ngành công nghiệp ô tô
trong nước của Việt Nam là ví dụ sinh động, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp
FDI ô tô vào Việt Nam mà công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa sản xuất được gì
nhiều, chủ yếu chỉ là lắp ráp tỷ lệ nội địa hoá rất thấp. Các doanh nghiệp không
cần đầu tư nhiều cho R&D ở Việt Nam mà vẫn thu được lợi nhuận lớn. Thực
trạng đó được giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách lý giải là do bất
cập của chính sách thuế [5]
Ngoài chính sách “thưởng”, “phạt” Nhà nước còn phải tạo lập thị trường
chuyển giao khoa học công nghệ để các thành tựu khoa học công nghệ được ứng
dụng nhanh chóng và sâu rộng vào đời sống sản xuất kinh doanh; Nhà nước định
hướng các nghiên cứu để các sản phẩm công gnhệ có ý nghĩa thực tiễn cao. Việc
tạo lập hành lang pháp lý cho quyền sở hữu trí tuệ được thực thi nghiêm túc ở
Việt Nam cũng là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Quyền sở hữu trí tuệ được
tôn trọng không những kích lệ các nghiên cứu phát minh trong nước mà còn là
cơ sở đảm bảo cho việc chuyển giao các công nghệ sáng chế từ các trung tâm tri
thức của thế giới vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan toả kinh tế tri
thức ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia công ước Bern; ký hợp đồng
82
sử dụng bộ phần mềm MS. Office với Microsoft trong phạm vi các máy tính của
hệ thống hành chính sự nghiệp. Đó là những bước đi đúng đắn, Nhà nước cần
tăng cường giám sát thực hiện theo đúng các cam kết đã ký.
+ Giải pháp phát triển ứng dụng R&D và công nghệ thông tin để phát
triển nguồn nhân lực
Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển bùng nổ, sự cạnh tranh trên
thương trường ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh
với nhau thì đều phải coi khoa học công nghệ là “con át chủ bài” để giành được
ưu thế trong sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải chú trọng
đầu tư cho nghiên cứu và phát triển R&D, và phát triển ứng dụng rộng rãi công
nghệ thông tin. Thông qua quá trình đó nguồn nhân lực có chất lượng cao đã
được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, với vai trò quản lý của mình Nhà nước
phải đứng ra tổ chức, điều phối và khuyến khích các cá nhân tổ chức trong và
ngoài nước, các thành phố kinh tế tham gia đầu tư cho R&D. Hiện nay, mức đầu
tư cho R&D ở Việt Nam rất thấp từ 0,8- 0,9% GDP kém xa các nước trong khu
vực. Thông thường các nước phát triển đầu tư 2-2,5% GDP, cá biệt có nước đầu
tư cho R&D từ 4-5% GDP. Chi phí bình quân trên năm cho một các bộ R&D ở
Việt Nam cũng rất thấp: mới chỉ đạt 1000 USD/năm, trong khi ở Nhật Bản là
194.600 USD/năm, Thái Lan là 18.000 USD/năm. Các thống kê trên cho thấy
nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực R&D ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp bách. Mục
tiêu hiện nay là phấn đấu đến năm 2010, đầu tư của nước ta cho R&D đạt 2%
GDP trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ 50%, còn lại là các thành phần kinh tế khác.
Bên cạnh đó, để các nghiên cứu R&D có điều kiện thuận lợi để phát triển
và lan toả vào đời sống sản xuất kinh doanh thì việc phát triển và ứng dụng rộng
rãi công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng. Hơn nữa công nghệ thông tin
còn là chìa khoá để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức. Muốn thực hiện tiến trình
CNH-HĐH rút ngắn thành công thì phát triển ứng dụng công nghệ thông tin vào
83
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu. Trước mắt, Việt Nam phải
phát triển công nghệ số hoá, xây dựng mạng thông tin quốc gia, gia tăng số
người sử dụng Internet. Qua đó, có cơ sở kinh tế kỹ thuật để phát triển chính phủ
điện tử, giao dịch thương mại điện tử. Trên cơ sở đó các điều kiện công nghệ kỹ
thuật hiện đại sẽ được tạo lập để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nhà nước cần phát triển được mạng thông tin tốc độ cao hơn, giá rẻ hơn,
sử dụng rộng rãi các công nghệ hiện đại như: vô tuyến, cáp quang, thu phóng vệ
tinh viễn thông nhằm tạo lập hệ thống mạng thông tin trong nước đạt trình độ
tiên tiến của khu vực, kết nối toàn quốc với tốc độ cao, dung lượng lớn, phổ cập
tin học từ cấp tiểu học tiến tới đưa hệ thống thông tin quốc gia và Internet tới tất
cả các xã phục vụ rộng rãi các hoạt động kinh tế xã hội.
Một trở ngại khác trong quá trình phát triển tri thức toàn cầu đó là khả
năng ngoại ngữ của nguồn nhân lực Việt Nam. Bởi ngoại ngữ là chìa khoá để
tiếp cận với khoa học công nghệ và các phương tiện kỹ thuật hiêùn đại, cho nên
hiện nay nhiều quốc gia xác định việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ trong đó
nhất là tiếng Anh như một chiến lược phát triển dài hạn. Trong khu vực Đông
Nam á, Thái Lan đang có kế hoạch tuyển dụng 100.000 giáo viên bản ngữ dạy
tiếng Anh cho học sinh Thái Lan từ cấp tiểu học cho tới đại học và người lao
động. Để không bỏ lỡ cơ hội tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với tri thức của
thế giới, Việt Nam cần có chiến lược cụ thể hơn cho việc đào tạo khả năng sử
dụng ngoại ngữ cho nguồn nhân lực của mình. Tăng cường dạy và học tiếng Anh
trong các lớp phổ thông tạo cơ chế thông thoáng hơn để đón nhận các giáo viên
bản ngữ đến Việt Nam làm việc, đồng thời kiểm tra chất lượng dạy và học ở các
cơ sở đào tạo ngoại ngữ hiện nay. Cùng với đó luôn đặt người lao động với các
môi trường tiếp xúc với ngoại ngữ; xây dựng chế độ thưởng đãi ngộ xứng đáng
cho người lao động sử dụng được ngoại ngữ cho công việc chuyên môn. Làm
84
được điều đó, nguồn nhân lực sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với tri thức công gnhệ
hiện đại nhờ thế họ sẽ có cơ hội học hỏi và không ngừng nâng cao trình độ của
mình.
3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam
3.2.2.1. Giải pháp phát triển thể lực, tầm vóc (năng lực thể chất) của
nguồn nhân lực
Tầm vóc, thể lực (hay còn gọi là năng lực thể chất) là những đặc điểm sinh
thể quan trọng, phản ánh một phần thực trạng của con người, phản ánh khả năng
- năng lực của người lao động. Hiện nay, mức sống của người Việt Nam còn
thấp, thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn chủ yếu là tinh bột, cho nên thể
lực của người lao động chịu ảnh hưởng không tốt.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, lao động Việt Nam độ tuổi từ 17- 55
có thể lực thuộc loại trung bình thấp trên thế giới. Để giải quyết được hạn chế
này, Việt Nam phải chú trọng phát triển thể lực cho người dân nói chung thể lực
người lao động nói riêng theo hướng: tăng chiều cao, cân nặng, tăng sức khoẻ,
tăng khả năng làm việc. Phấn đấu tăng khẩu phần dinh dưỡng và cải thiện cơ cấu
bữa ăn hàng ngày của nhân dân đạt mức năng lượng theo nhu cầu và từng bước
hợp lý hóa cơ cấu dinh dưỡng trong đó tăng tỷ lệ chất đạm, chất béo, giảm tinh
bột. Thực hiện được mức dinh dưỡng này sẽ góp phần phát triển thể lực, nâng
cao tầm vóc, khả năng làm việc của người lao động Việt Nam. Phấn đấu đến
năm 2010 giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống còn 20% và
tuổi thọ trung bình tăng lên 71 tuổi [9]. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện và tổ chức
tốt việc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho nhân dân, từ tham quan nghỉ mát đến
thưởng thức nghệ thuật… Như vậy, song song với việc cải thiện đời sống vật
chất, nhu cầu tinh thần của con gnười cũng không ngừng được nâng lên. Việc
85
thoả mãn những yêu cầu đó vừa góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất
sức lao động vừa nâng cao thể lực của nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thời kỳ hội nhập, tiếp cận kinh tế tri thức.
3.2.2.2. Các giải pháp đẩy mạnh cải cách, phát triển giáo dục và đào tạo là
các giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế tri thức ở Việt Nam
Chương 1, luận văn đã trình bày về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn
nhân lực. Theo đó, chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua các yếu tố như: trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, sức khoẻ thể chất… các yếu
tố này là kết quả của cả một quá trình giáo dục, đào tạo, nuôi dưỡng, rèn luyện.
Chính vì thế giáo dục và đào tạo chính là chìa khoá để phát triển nguồn nhân lực
phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Và các giải pháp cải cách phát triển giáo dục và đào tạo cũng chính là các giải
pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn
và tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Chất lượng của giáo dục, đào tạo được kiểm chứng thông qua mức độ đáp
ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội đặt ra đòi hỏi đối với nguồn nhân
lực. Hay nói cách khác chất lượng của nguồn nhân đã qua quá trình giáo dục,
đào tạo phải được thực tiễn chấp nhận và thoả mãn được nhu cầu của thị trường.
Nhưng trên thực tế, nhu cầu của chủ sở hữu lao động lại cần nhân lực có kinh
nghiệm, thạo việc có chuyên môn phù hợp yêu cầucủa sản xuất kinh doanh trong
khi các cơ sở giáo dục đào tạo theo định hướng nghề nghiệp chuyên môn. Đây
chính là hệ thống cơ bản của hệ thống giáo dục, đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Để
rút ngắn được khoảng cách giữa giáo dục và đào tạo với yêu cầu của thực tiễn
tiến hành CNH-HĐH rút ngắn, phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam cần phải tiếp
tục đẩy mạnh cải cách, phát triển hệ thống giáo dục đào tạo với một số giải pháp
như sau:
+ Đổi mới phương pháp giáo dục
- Cần đổi mới cơ bản về tư duy, phương thức quản lý giáo dục theo hướng
86
nâng cao hiện thực quản lý Nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính
chủ động và tự chịu trách nhiệm của các địa phương, của các cơ sở giáo dục để
giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề bức xúc, các hiện tượng tiêu cực
trong giáo dục, đào tạo hiện nay.
- Thực hiện phân cấp mạnh mẽ về quản lý giáo dục cho cán bộ, ngành và
các địa phương, tăng cường quyền quản lý về tổ chức, cán bộ và tài chính của các
cơ quan quản lý giáo dục địa phương. Hiện nay quy chế quản lý hoạt động của các
loại hình thường tăng cường quyền hạn và tránh nhiệm cho các trường đại học,
cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo đồng thời có trách
nhiệm cao hơn trước xã hội, nhân dân về việc thực hiện các mục tiêu giáo dục.
- Tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên
và cung cấp thông tin chính xác về nhu cầu nhân lực của xã hội cho các ngành,
các cấp, các cơ sở giáo dục, đào tạo để có cơ sở điều tiết quy mô, cơ cấu ngành
nghề và trình độ đào tạo sao cho phù hợp với nhu cầu về nguồn nhân lực trong
thực tế.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong giáo dục đào tạo, đổi mới phương
thức quản lý giáo dục, thể chế hoá vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm quản lý giáo dục các cấp, ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm về
giáo dục.
- Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu giáo dục
tiếp tục xây dựng và phát triển lý luận về phát triển nền giáo dục Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, đổi mới quản lý về nội
dung, phương pháp giáo dục. Thường xuyên đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương chính sách, các giải pháp đổi mới, cải cách giáo dục.
+ Tăng cường nguồn tài chính, đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục đào
tạo.
- Thực tế yếu kém hạn chế nhiều mặt của giáo dục và đào tạo hiện nay có
87
nhiều nguyên nhân. Trong đó có nguyên nhân chính là chính sách đầu tư nhân
tài, vật lực chưa thoả đáng, chưa đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ thực hiện
CNH-HĐH rút ngắn tiếp cận kinh tế tri thức. Hiện nay, các quốc gia trong khu
vực như: Thái Lan, Hàn Quốc, Malaixia đều đầu tư trên 20 % ngân sách Nhà
nước cho giáo dục, đào tạo thì Việt Nam mới đạt khoảng 15%. Vì vậy, để đạt
được các mục tiêu về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì Nhà
nước phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Tranh thủ nguồn vốn vay với
lãi xuất ưu đãi của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ nước ngoài cho giáo
dục. Để có nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
Nhà nước có thể xem xét tính toán giảm bớt một số công trình đầu tư dài hạn,
quy mô lớn từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước để tăng cường đầu tư cho giáo
dục và đào tạo. Bởi vì, nếu như đầu tư xây dựng cơ bản nhiều mà thiếu nguồn
nhân lực có tay nghề và chuyên môn cao thì hiệu quả đầu tư sẽ thấp. Kinh
nghiệm đầu tư của nhiều quốc gia cho thấy đầu tư cho giáo dục đào tạo chính là
đầu tư cơ bản, đầu tư cho sản xuất, đầu tư cho sự phát triển nhanh, bền vững và
hiệu quả nhất ( Mỹ đầu tư cho giáo dục 1USD lãi 4 USD; ở Nhật Bản đầu tư 1
USD lãi 10 USD) [19].
- Nhà nước cần tập trung ngân sách nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ
cập, cho vùng nông thôn, miền núi, vùng còn nhiều khó khăn, cho đào tạo trình
độ cao, cho những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước.
- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng song song với việc trao
quyền chủ động về tài chính, cần thực hiện chế độ tài chính công khai và chế độ
kiểm toán nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho
giáo dục.
- Phát triển các nguồn thu cho các trường, đẩy mạnh áp dụng kết quả
nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ phục vụ sản xuất đời sống. Phấn đấu
đến năm 2010, 50% các trường đại học kỹ thuật, đại học đa lĩnh vực có doanh
88
nghiệp trường học. Tăng nguồn thu cho các hoạt động chuyển giao khoa học
công nghệ, dich vụ, tư vấn, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu chuyên gia lên
khoảng 20- 30% ngân sách các trường đại học.
- Các địa phương có kế hoạch cụ thể xây dựng thêm trường lớp để đẩy
nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng số lượng học sinh được học
và hoạt động cả ngày tại trường lên 70% nâng tỷ lệ các trường xây dựng theo
chuẩn quốc gia lên 50% (năm 2010). Đặc biệt quan tâm xây dựng trường kiên
cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai. Thực hiện chế độ ưu đãi về
sử dụng đất đai, vay vốn để xây dựng các cơ sở giáo dục.
- Tăng cường hiện đại hoá trang thiết bị thực hiện đổi mới chương trình
nội dung và phương pháp giáo dục. Phấn đấu đến năm 2010, kết nối internet tới
60% khối trường học phổ thông và 100% các trường đại học, cao đẳng. Xây
dựng hệ thống thư viện cho tất cả các trường phổ thông. Xây dựng hệ thống thư
viện điện tử kết nối giữa các trường đại học trong từng vùng tiến tới kết nối các
thư viện trong phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới. Xây dựng các phòng thí
nghiệm quốc gia trong các đại học quốc gia, đại học trọng điểm.
- Tăng cường đầu tư để nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho đội
ngũ giáo viên. Thực tế gần đây Nhà nước cũng đã điều chỉnh tăng bậc lương và
chế độ phụ cấp nghề nghiệp cho giáo viên. Đây là biểu hiện trên thực tế của
chính sách coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy vậy, lương giáo viên
so với các thang bậc lương khác trong ngạch hành chính sự nghiệp không cao
hơn nhiều. Do vậy, Nhà nước, Bộ giáo dục đào tạo cần đưa ra đề án cải cách tiền
lương mới cho giáo viên, đảm bảo mức thu nhập tạo được động lực để đội ngũ
giáo viên toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
+ Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục là một giải pháp quan trọng để phát
triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Nhà nước khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham
89
gia phát triển giáo dục và đào tạo. Trước mắt cần làm tốt những công việc sau:
- Hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã
hội hoá giáo dục nhằm tạo sự nhất trí cao trong toàn xã hội về chúnh sách chủ
trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện bổ sung và hoàn thiện những văn
bản pháp quy, các chính sách mạnh mẽ các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân
đầu tư cho phát triển giáo dục.
- Ngoài ngân sách Nhà nước, cần huy động vốn nhiều nguồn với tinh thần
khuyến khích đầu tư cho giáo dục đào tạo. Từ ngân sách địa phương, sự đóng
góp của người học, sự bảo trợ của các tổ chức xã hội, các khoản viện trợ quốc tế.
Để có thêm ngân sách phục vụ cho giáo dục đào tạo Nhà nước có thể sớm
ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo đối với các cơ sở có sử dụng lao động
qua đào tạo, nhất là với những đơn vị không thuộc khu vực Nhà nước. Mọi đóng
góp, tài trợ của doanh nghiệp cho giáo dục và đào tạo được tính vào chi phí hợp
lý của doanh nghiệp cá nhân không phải tính vào thu nhập chịu thuế. Chi phí của
các tổ chức kinh tế trong việc mở trường, lớp đào tạo tại cơ sở hay phối hợp với
các trường, viện nghiên cứu khoa học, cử người đi đào tạo tiếp thu công nghệ
mới phục vụ nhu cầu của đơn vị mình, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nhà
nước cần cho phép và quy định rõ các cơ sở giáo dục được hưởng ưu đãi về
quyền sử dụng đất tín dụng và miễn giảm thuế; khuyến khích và có hình thức
khen thưởng thích hợp các tổ chức, cá nhân tích cực xây dựng trường học, ủng
hộ vật chất cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
- Phát triển hệ thống các trường ngoài công lập, củng cố nâng cao chất
lượng của loại hình trường này. Tỷ lệ học sinh ngoài công lập lên 70%; tỷ lệ sinh
viên ngoài công lập đạt 40% (năm 2010). Bên cạnh việc được đối xử bình đẳng
như các trường công lập, Nhà nước cần hoàn thiện ban hành các chính sách hỗ
trợ các trường ngoài công lập thuê đất, xây trường, hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất.
Nhà nước cũng cần nghiên cứu xem xét chỉ tiêu chuyển một số trường công lập
90
thành trường ngoài công lập khi có đủ điều kiện về xã hội hoá giáo dục.
- Xây dựng mô hình xã hội học tập, đủ sức thu hút mọi cá nhân trong xã
hội tham gia, học tập ở mọi nơi mọi lúc. Để xây dựng mô hình xã hội học tập cần
phải phát triển các trung tâm học tập cộng đồng, cần có các chương trình giáo
dục không chính quy ở mọi trình độ với chương trình đào tạo thay đổi theo
hướng tích luỹ kiến thức liên tục. Chú trọng phát triển và sử dụng các phương
pháp giáo dục và công nghệ dạy và học mới. Các cơ sở tổ chức giáo dục phải có
trách nhiệm đảm bảo chất lượng giáo dục tạo cơ hội bình đẳng trong việc tiếp
cận tri thức của mọi cá nhân trong xã hội.
Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ đưa xã hội trở thành một xã hội
học tập thì một trong số các giải pháp cần thực hiện là đa dạng hoá các loại hình
đào tạo. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo là tạo ra nhiều hình thức đào tạo, với
sự đa dạng về thời gian không gian và nội dung kiến thức đào tạo, đáp ứng nhu
cầu học của đông đảo người dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân
tham gia học tập.
- Đẩy mạnh đào tạo chính quy tập trung là giải pháp đúng đắn bởi những
ưu việt các loại hình đào tạo này mang lại. Với đào tạo tại chức, cần thực hiện
nghiêm minh quy chế đào tạo, coi đào tạo tại chức như đào tạo chính quy, nâng
cao chất lượng đào tạo tại chức. Vấn đề đặt ra là làm cho xã hội thừa nhận chất
lượng đào tạo tại chức không thua kém chất lượng đào tạo chính quy. Như vậy,
đào tạo tại chính mới có chỗ đứng lâu dài được, phục vụ đắc lực cho đào tạo lại
và phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho nền kinh tế quốc dân.
- Với đào tạo từ xa, mục đích là để trợ giúp kiến thức kỹ năng cho những
cá nhân vì điều kiện hoàn cảnh không tham gia được những khoá học đào tạo
chính thức. Với loại hình đào tạo này, cần đẩy mạnh việc đào tạo từ xa theo
hướng liên kết với các trường đào tạo có uy tín trên thế giới, kết hợp với các
chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực đào tạo thu hút các nguồn vốn quốc tế để phục
91
vụ cho đào tạo. Cùng với phát triển hình thức du học, việc tăng cường hình thức
đào tạo từ xa đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo
hướng đi tắt, đón đầu, hội nhập và tiếp cận với kinh tế thức ở Việt Nam.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo
- Để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới, ngoài nội
lực của mình, giáo dục đào tạo Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tận
dụng học hỏi được những thành tựu ưu việt của giáo dục và đào tạo thế giới.
Hợp tác song phương, đa phương với các tổ chức, các trường đại học, các quốc
gia có thể được tiến hành dưới hình thức như liên kết đào tạo, trao đổi nhân lực
hợp tác nghiên cứu… Bên cạnh đó, để nguồn nhân lực nhanh chóng nắm bắt
đựơc những kỹ thuật công nghệ hiện đại cần tăng cường gửi nguồn nhân lực đi
đào tạo, học tập, nghiên cứu làm việc ở nước ngoài thông qua nhiều kênh khác
nhau. Đặc biệt chú trọng những lĩnh vực công nghệ cao và mới.
Huy động các nguồn lực từ hợp tác quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất cho
giáo dục phổ thông; nâng cao trình độ giáo viên; đổi mới sách giáo khoa, phương
pháp dạy học. Tranh thủ nguồn vốn vay, vốn viện trợ để đào tạo đội ngũ lao
động kỹ thuật lành nghề, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất
khẩu lao động. Việc tăng cường đưa chuyên gia đi lao làm việc ở nước ngoài
cũng là một giải pháp hay để phát triển nguồn nhân lực. Vì các tiêu chuẩn về
trình độ kỹ thuật chuyên môn của các thị trường nước ngoài đối với lao động
nước ngoài ngày càng cao, đòi hỏi người tham gia xuất khẩu lao động phải tự
đào tạo nâng cao trình độ của mình. Hơn nữa, quá trình làm việc ở nước ngoài,
được tiếp xúc với trình độ khoa học công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến để
khi về nước họ là nguồn nhân lực lao động chất lượng cao.
- Hợp tác với các cơ sở tổ chức giáo dục đào tạo nước ngoài, khai thác
kinh nghiệm quản lý, công nghệ-kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại để tổ chức thực
92
hiện các chương trình giáo dục từ xa phù hợp với người học trong nước.
- Tạo cơ sở môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư của các cá nhân tổ
chức nước ngoài có kinh nghiệm, trình độ để thành lập các cơ sở giáo dục 100%
vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo đại học, đào
tạo nghề, giáo dục từ xa, mở các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, có trình độ khu vực
và quốc tế tại Việt Nam. Xây dựng các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học tự túc.
- Cần thường xuyên kiểm tra, sát hạch trình độ của đội ngũ giảng viên của
các trường, các cơ sở giáo dục của nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài. Có
chế độ thu hút sinh viên giỏi, có năng lực ở lại các trường cao đẳng đại học làm
việc cùng với chính sách cử đi du học ở các trung tâm khoa học công nghệ lớn
của thế giới.
- Chính sách kêu gọi các chuyên gia giỏi ở nước ngoài và người Việt Nam
ở nước ngoài về đất nước làm việc, cống hiến là một chính sách lớn của Việt
Nam hiện nay.
Thứ nhất: đối với người nước ngoài có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao,
phần lớn nhóm nhân lực này đến Việt Nam không phải vì mục đích tìm kiếm thu
nhập cao mà họ đến vì mục đích khai thác tiềm năng phát triển trong tương lai
hoặc là vì tình cảm yêu mến đặc biệt với đất nước, con người Việt Nam. Vì vậy
chính sách kêu gọi thu hút người nước ngoài có hiệu quả nhất là tạo hành lang
pháp lý, môi trường làm việc đảm bảo, môi trường sống trong lành an toàn và
thân thiện. Thậm chí, Chính phủ Nhà nước cần có riêng chính sách tiếp thị hình
ảnh đất nước đối với người nước ngoài nói chung.
Thứ hai: đối với Việt kiều, Bộ Chính trị đã có riêng một nghị quyết (Nghị
quyết 39) về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó, “người
Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời
của dân tộc Việt Nam…” đã cho thấy sự quan tâm coi trọng của Nhà nước với
93
bộ phận này. Mới đây 9/2007, Nhà nước cũng đã có chính sách miễn Visa (thị
thực) cho người Việt Nam ở nước ngoài về Việt Nam, gia hạn thời gian lưu trú ở
Việt Nam. Đây là những cố gắng, nỗ lực rất lớn tuy nhiên có những chính sách
như cho phép Việt kiều mua nhà ở Việt Nam được thực hiện còn rất chậm, dễ tạo
tâm lý không “an cư”.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tham khảo các kinh nghiệm kêu gọi thu
hút các nhân tài, ngoại kiều về nước làm việc của Trung Quốc, Hàn Quốc và
Singapore… cách làm của Trung Quốc, Hàn Quốc gần gũi với Việt Nam dễ thực
hiện dễ đạt hiệu quả. Những năm gần đây Việt Nam cũng đã chú trọng đến vấn đề
này, tuy nhiên khi thực hiện còn thiếu bài bản và chuyên nghiệp. Nên chăng, Việt
Nam cũng cần thành lập các tổ chức, văn phòng ở nước ngoài để tuyên truyền,
cung cấp thông tin rộng rãi về Việt Nam, tuyên truyền các chính sách thu hút nhân
tài, kêu gọi, khơi gợi tinh thần yêu nước hướng về nguồn cội của người Việt thì sẽ
tận dụng được một lượng không nhỏ người tài đang sinh sống và làm việc ở nước
ngoài, bổ sung vào đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước.
Do có sự tương đồng về văn hoá, lối sống, những Việt kiều cũng như Hoa
kiều dù đi xa và thành công bao nhiêu họ cũng ấp ủ tư tưởng trở về cố quốc sinh
sống làm việc khi có điều kiện thuận lợi. Theo thống kê, trong số những cán bộ
du học sinh được cử ra nước ngoài học tập khi hồi hương có tới 90% có học vị
tiến sỹ. Đây là nguồn nhân lực vô giá đối với sự phát triển kinh tế đất nước bởi
họ đều có sự thông thạo lý thuyết lại dày dạn kinh nghiệm thực tiễn trong quá
trình tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý thực tiễn
của nước ngoài. Điều này đặt ra vấn đề cần có sự thay đổi nhận thức về hiện
tượng các trí thức, du học sinh, cán bộ được cử ra nước ngoài học tập rồi không
trở về (được gọi là hiện tượng chảy máu chất xám). Có nhiều ý kiến trên thế giới
cho rằng chính hiện tượng brain drain (chảy máu chất xám) đó là tiền đề để có
được hiện tượng gain brain (tạm dịch là: chất xám tăng lên) như ở Trung Quốc;
94
đánh dấu bằng sự trở về của nguồn chất xám quý giá có trình độ cao hơn. Đây là
một lối tư duy mới mà Việt Nam cần nghiên cứu để xây dựng được chính sách
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với điều kiện của quốc gia.
+ Tăng cường cải cách tất cả các cấp học, đặc biệt là bậc cao đẳng và đại
học nhằm cung ứng nguồn nhân lực có trình độ cao cho tiến trình CNH-HĐH
rút ngắn và tiếp cận phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, tri thức chính là động lực của quá trình tiếp cận,
hình thành và phát triển của kinh tế tri thức. Tri thức đó là tri thức sáng tạo, sáng
tạo ra bản thân tri thức thành các sản phẩm phục vụ đời sống con người. Tất cả
các tri thức đó gắn liền với con người nhưng không phải con người nói chung mà
ở bộ phận những người lao động sáng tạo ra các của cải vật chất cho đời sống
con người, đó chính là nguồn nhân lực có trình độ cao. Đội ngũ nhân lực này sẽ
quyết định sự thành công hay không của tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Việc xây dựng hình thành đội ngũ nhân lực
được thực hiện chủ yếu thông qua giáo dục cao đẳng đại học và sau đại học. Vì
vậy, cải cách, phát triển đào tạo bậc cao đẳng đại học và sau đại học là giải pháp
quan trọng để tạo ra nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng yêu cầu tiếp cận, phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Theo kinh nghiệm và các nghiên cứu của quốc tế thì sự phát triển khoa
học công nghệ không thể thiếu được nguồn nhân lực chất lượng cao đào tạo qua
cao đẳng đại học và sau đại học, nếu không muốn nói là cần một số lượng rất
lớn.
Theo Martin Trow, nhà nghiên cứu Mỹ nếu ở một nước có tỷ lệ tuổi đại
học (là tỷ lệ sinh viên đại học so với thanh niên ở độ tuổi 18- 21) dưới 15% thì
giáo dục đại học ở đó còn trong giai đoạn “cho số ít người”; khi tỷ lệ đó vượt
15% thì nền giáo dục đại học bước vào giai đoạn “đại chúng” và được gọi là
“phổ biến” nếu như tỷ lệ đó vượt quá 50%. Theo cách phân chia đó thì tỷ lệ độ
95
tuổi đại học của các nước OECD đạt 51%, còn theo một báo cáo của UNESCO
năm 1995, riêng ở Bắc Mỹ tỷ lệ đạt 82%; các nước thu nhập trung bình đạt 21%,
các nước thu nhập thấp chỉ đạt 6%. Từứ đó, các nhà kinh tế và giáo dục cần rằng
giáo dục đại học cho số ít người chỉ phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp, giáo
dục đại học đại chúng phù hợp với nền kinh tế công nghiệp và giáo dục đại học
phổ cập mới đáp ứng được yêu cầu của kinh tế tri thức.
Còn ở Việt Nam thời gian qua số lượng sinh viên tăng thêm rất nhanh và
cùng với đó là tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp đã dẫn tới có ý kiến
cho rằng không nên đào tạo thêm sinh viên đại học nữa, đã có tình trạng thừa
“thầy” thiếu “thợ”.
Tuy vậy, luận văn này nhìn nhận vấn đề theo một hướng khác. Hiện nay
trên một vạn dân Việt Nam chỉ có khoảng 150 sinh viên và tỷ lệ độ tuổi đại học (
tỷ lệ người đi học đại học trong độ tuổi học đại học) chỉ đạt hơn 8% . Như vậy,
tỷ lệ độ tuổi đại học của Việt Nam chỉ mới đạt một nửa yêu cầu của nền kinh tế
công nghiệp. Đó là còn chưa kể đến thực tế “thầy” (sinh viên tốt nghiệp đại học)
chưa ra “thầy”, không đáp ứng được yêu cầu công việc, “thợ” chưa đạt được
trình độ của thợ. Hơn nữa, ở Việt Nam ngày nay còn xuất hiện nhiều ngành nghề
liên quan đến công nghệ hiện đại, công nghệ mới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực
trình độ đại học và sau đại học.
Do vậy, quan điểm của luận văn cho rằng Việt Nam muốn rút ngắn tiến
trình CNH-HĐH, tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức thì phải đẩy mạnh việc cải
cách, mở rộng quy mô đào tạo bậc đại học và sau đại học trước mắt là để đáp
ứng yêu cầu về số lượng nguồn nhân lực có trình độ cao.
Để tăng quy mô đào tạo cần quy hoạch lại rộng hơn các trường đại học
trong cả nước sao cho phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực trong từng vùng nên
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Tránh được tình trạng
có những vùng trắng về giáo dục đại học nhưng cũng không để xẩy ra tình trạng
96
tỉnh, thành phố nào cũng muốn phải có trường đại học ngay mà không tính toán
tới thời điểm cơ cấu ngành nghề đào tạo, mức độ phù hợp với nhu cầu nhân lực
có trình độ đại học của từng địa phương.
Đa dạng hoá các loại hình đào tạo đại học nhằm tạo ra cơ hội rộng mở hơn
tới đông đảo các cá nhân trong xã hội, đảm bảo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận
cơ hội học tập lên cao đẳng, đại học cho mọi người. Có thể tham khảo kinh
nghiệm của Trung Quốc trong việc tăng quy mô đào tạo đại học bằng mô hình
“con chim” giáo dục đại học, có thân là các trường đại học công lập chính quy,
hai cánh chim còn lại là hệ thống giáo dục đào tạo từ xa và hệ thống các trường
đại học dân lập.
Chú trọng xây dựng các trường cao đẳng cộng đồng, đa ngành đa hệ tại
ngay các địa phương để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực tại chỗ. Khuyến khích
các tổ chức, đơn vị doanh nghiệp có tiềm lực về vốn khả năng về khoa học công
nghệ tham gia thành lập các trường đại học cao đẳng đặc biệt là các trường
chuyên ngành. Ví dụ thời gian qua tập đoàn FPT đã thành lập Trường đại học
FPT chuyên đào tạo các kỹ sư công nghệ thông tin, đây là mô hình mới vừa giảm
bớt ngân sách Nhà nước trong việc mở rộng quy mô đào tạo cao đẳng đại học lại
vừa góp phần đào tạo ra được nguồn nhân lực có trình độ cao, lành nghề, theo sát
được thực tiễn, thoả mãn được những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình tiếp
cận kinh tế tri thức.
Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ bùng nổ, lượng tri thức mới ngày
càng nhiều đòi hỏi nguồn nhân lực muồn cập nhật được phải có tốc độ lĩnh hội
tri thức mới nhanh hơn và phạm vi học tập, nghiên cứu và lĩnh hội hẹp hơn bởi
đòi hỏi của yêu cầu chuyên môn hoá cao. Trong khi đó các chương trình và nội
dung đào tạo bậc cao đẳng, đại học và sau đại học của Việt Nam được thống kê
rườm rà, phạm vi kiến thức quá rộng, có nhiều môn học cơ cở không cần thiết,
không hữu ích cho chương trình dành cho chuyên ngành đào tạo vẫn được đưa
97
vào chương trình giảng dạy khiến cho chương trình dành cho chuyên môn sâu
của ngành đào tạo bị thu hẹp, dẫn tới chất lượng của sinh viên tốt nghiệp bị giảm
sút. Bên cạnh đó, các bậc đào tạo sau đại học, khối lượng kiến thức trùng lặp
nhiều, gây ra sự lãng phí. Vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải thu gọn
giảm bớt thời lượng của các môn học cơ sở, tăng thời lượng cho các môn học
chuyên sâu. Có như vậy mới đảm bảo tính lành nghề của nguồn nhân lực tốt
nghiệp đại học. Song song với đó cần mởi rộng hình thức đào tạo theo tín chỉ.
Đây là hình thức đào tạo có nhiều ưu điểm giúp người học có thể lựa chọn môn
học, thời điểm học tập phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, qua đó thuận
lợi hơn cho việc lĩnh hội kiến thức chuyên môn.
Phương pháp giảng dạy bậc cao đẳng, đại học và sau đại học ở Việt Nam
hiện nay còn nhiều bất cập. Các phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương
pháp thuyết trình, giảng viên đọc, học viên ghi chép. Các phương pháp dạy và
học hiện đại và tích cực khác được sử dụng rất hạn chế tuỳ thuộc từng trường,
từng ngành học. Do đó, các phương pháp dạy học đã không khích lệ được sự chủ
động, sáng tạo, tích cực, tham gia vào bài giảng của người học. Bên cạnh đó,
người giảng viên cũng không được đưa vào tình trạng phải tranh luận, trao đổi
kiến thức rộng rãi qua lại với sinh viên, vô hình chung người giảng viên cũng
mất đi một trong những động lực chính để không ngừng bổ sung, làm phong phú
thêm tri thức. Do đó, để nâng cao chất lượng của giáo dục cao đẳng đại học theo
hướng kích thích được tính chủ động sáng tạo của sinh viên để người học, người
dạy có cơ hội trao đổi với nhau nhiều hơn nội dung của bài giảng. Muốn làm
được điều đó phải cung cấp đủ loại giáo trình, tài liệu tham khảo và các phương
tiện dạy học hiện đại. Các phương tiện hỗ trợ việc dạy và học rất quan trọng. Thứ
nhất, nó sẽ cung cấp nguồn thông tin, tri thức mới, cập nhật và phong phú. Thứ
hai, nó góp phần chủ yếu rút ngắn thời gian tiếp cận tri thức mới hay nói cách
khác tốc độ tiếp cận tri thức sẽ cao hơn. Điều này rất có ý nghĩa trong thời kỳ
98
bùng nổ thông tin hiện nay. Luận văn chia sẻ quan điểm của PGS.TS Nguyễn
Xuân Xanh về nhu cầu cần thiết phải đầu tư cơ sở vật chất nhiều hơn cho giáo
dục và đào tạo ra người tài khi cho rằng:”phải “đại chúng hoá” khoa học kỹ thuật
bằng nhiều cách: bằng sách vở, nguyệt san, phim ảnh… phải xây dựng các đại
thư viện như phương Tây. Chúng ta chưa có gì hết. Dân không thể giàu, nước
không thể mạnh và đất nước không thể văn minh nếu không có khoa học kỹ
thuật xuyên suốt, ngự trị trong đời sống kinh tế và xã hội như một nền tảng tri
thức vững chắc” [42].
Việc cải cách đổi mới phương pháp dạy và học kể trên sẽ rèn luyện khả
năng thích nghi, sức sáng tạo, tinh thần năng động của người học ngay từ khi
ngồi ở giảng đường đại học sẽ giúp ích cho sinh viên khi tốt nghiệp dễ dàng hơn
trong việc thích ứng với yêu cầu của đời sống việc làm. Bởi vì hiện nay đào tạo
cao đẳng, đại học của Việt Nam vẫn đang phải chạy theo sau yêu cầu về nguồn
nhân lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp, chủ sử dụng lao
động thường sử dụng công nghệ kỹ thuật, trang thiết bị, trình độ quản lý hiện đại
tiên tiến hơn những gì sinh viên được học, được tiếp cận ở trường đại học. Trong
khi đó chưa kể tới tình trạng học không được đi đôi với hành, dẫn tới có một
khoảng cách khá xa giữa năng lực của nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng, đại
học, thậm chí sau đại học với yêu cầu của thực tế. Do đó, để nâng cao chất lượng
của nhóm nhân lực này đáp yêu cầu của thời kỳ tiếp cận phát triển kinh tế tri
thức thì cần đặc biệt chú trọng đầu tư nhiều hơn nhân tài, vật lực vào việc cải tạo
cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ phục vụ dạy và học, chú trọng kỹ năng làm
việc thực tế cho sinh viên, học viên. Ngoài ra, có thể mời các nhà khoa học, lãnh
đạo, quản lý doanh nghiệp nhiều kinh nghiệm thực tiễn tham gia đứng lớp giảng
dạy cũng như thiết kế các chương trình đào tạo, nội dung môn học nhằm làm
phong phú và sinh động, sát hơn, gần gũi hơn với thực tiễn cho các bài giảng.
Một nhân tố khác quyết định tới chất lượng nguồn nhân lực bậc cao đẳng
99
đại học và sau đại học chính là chất lượng đội ngũ giảng viên hiện nay. Mới đây,
tháng 9/2007 trong một buổi hội thảo, trao đổi khoa học về giáo dục đào tạo tại
Hà Nội, Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ đã chỉ ra một số hạn chế của giáo dục
đại học ở Việt Nam. Trong đó có đánh giá chất lượng giảng viên đại học là
“thiếu trình độ, các tiến sỹ không có điều kiện thường xuyên ra nước ngoài học
tập”. Thực tế có trường cao đẳng đại học còn chưa có giảng viên có học hàm GS.
Số giảng viên có học vị tiến sỹ còn rất ít ỏi. Nhiều trường, thậm chí phải dùng cả
các cử nhân mới tốt nghiệp đại học để dạy học ở bậc đại học. Hạn chế này ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Hiện nay, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đang thành lập đề án đào tạo 20.000 tiến sỹ. Đây là một giải pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ làm khoa học và nghiên cứu giảng dạy ở
Việt Nam, Bộ giáo dục và đào tạo, Chính phủ cần có những nghiên cứu chuẩn bị
kỹ lưỡng làm tốt từ khâu tuyển chọn, đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng của đề
án.
Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các chính sách cấp học
bổng của các tổ chức chính phủ nước ngoài để gửi sinh viên, giảng viên đi nước
ngoài học tập nâng cao trình độ. Cuối cùng để đảm bảo việc đánh giá chất lượng
của việc đào tạo ở bậc cao đẳng đại học và sau đại học cần tăng cường chức năng
hoạt động của cục khảo thí và kiểm định chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng như các bộ phận giám định khác. Cần thường xuyên kiểm định nội dung
chương trình dạy và học cùng chất lượng đào tạo. Chú trọng kiểm định toàn diện
tất cả các loại hình đào tạo, đào tạo công lập, ngoài công lập, đào tạo từ xa. Phản
hồi từ công tác khảo thí và kiểm định sẽ là những cơ sở quan trọng để xây dựng
các biện pháp phát triển nguồn nhân lực trình độ cao đẳng đại học và sau đại học
phục vụ tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
+ Khai thác hợp lý sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là giải pháp thúc
đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực cho tiến trình CNH-HĐH rút ngắn và tiếp
100
cận kinh tế tri thức.
Sức mạnh của nguồn nhân lực một quốc gia không chỉ được thể hiện qua
số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lao động mà còn thể hiện qua việc nguồn
nhân lực đó được khai thác, sử dụng như thế nào. Nếu nguồn nhân lực có chất
lượng cao nhưng không được khai thác sử dụng hợp lý thì nó không những làm
ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và tiếp cận kinh tế tri
thức của nền kinh tế quốc dân mà còn làm mai một trình độ của nguồn nhân lực.
Do đó, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chính là một giải pháp
quan trọng để phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam. Để làm được điều đó, cần đẩy mạnh thực hiện những công việc sau:
+ Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động đã qua
đào tạo.
Việc tuyển dụng lao động nhất là lao động có trình độ vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh là vấn đề lớn của quốc gia. Việt Nam hiện nay có tỷ lệ lao
động không có việc làm khá cao. Hơn hai triệu lao động chưa có việc làm
thường xuyên, có hơn 7 triệu chỗ làm việc cho lao động nông nhàn ở nông thôn,
mỗi năm lại tăng thêm 1,2-1,3 triệu lao động mới [14]. Vì vậy, tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo, phấn đấu để tỷ lệ
lao động có việc làm ngày càng tăng là nhiệm vụ thiết yếu trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Chính sách lao động và việc làm phải hướng vào việc khai thác triệt để,
hợp lý có hiệu quả nguồn nhân lực của đất nước mà tư tưởng cơ bản của nó là
bảo đảm và tạo điều kiện cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có
việc làm. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tiến hành xã hội hoá công tác giải
quyết việc làm. Mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề, duy trì và phát triển các
nghề truyền thống, mở thêm nhiều ngành nghề mới, phát triển dịch vụ và du lịch,
khuyến khích mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế tự tìm việc làm và đầu tư giải
101
quyết việc làm.
Sử dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất
kinh doanh để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của lao động. Thông
qua việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm cùng với việc ứng dụng sâu rộng khoa học
kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất kinh doanh sẽ đặt người lao động vào tình thế
muốn có việc làm phải tự đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, qua
đó góp phần phát triển chất lượng nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, nhà nước cần thực hiện quyết liệt hơn nữa chính sách kêu
gọi thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường
mở rộng các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhằm góp phần tạo ra thêm nhiều
việc làm. Bởi cùng với quá trình đó, người lao động sẽ được đào tạo và đào tạo
lại nhiều hơn để đáp ứng tiêu chuẩn của các nhà đầu tư sản xuất nước ngoài. Qua
đó, nguồn nhân lực có điều kiện phát triển cả về số lượng và chất lượng.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động
Hiện nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu được hàng trăm ngàn lao động
sang các nước có nhu cầu về lao động và tỷ lệ lao động có tay nghề trình độ
chuyên môn ngày càng tăng. Cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động với
nhiều hình htức trên cơ sở kết hợp lợi ích người lao động với lợi ích quốc gia,
đặt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung. Xuất khẩu lao động không
chỉ là giải pháp quan trọng để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cá nhân
người lao động và thu về nguồn ngoại tệ cho đất nước mà nó còn là giải pháp
quan trọng có hiệu quả để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Bởi vì
trong quá trình tiếp xúc và trực tiếp làm việc ở những dây chuyền thiết bị công
nghệ hiện đại, trình độ chuyên môn kỹ thuật năng lực quản lý của người lao
động đã được nâng cao.
Để phát triển thị trường xuất khẩu lao động, phải tăng cường tìm kiếm mở
rộng thị trường lao động ở nước ngoài, nghiê cứu kỹ các thị trường lao động
102
quốc tế để chủ động đào tạo chuẩn bị nguồn nhân lực cho kinh tế, được tham gia
xuất khẩu lao động dưới sự quản lý giám sát chặt chẽ thống nhất của các cơ quan
chuyên trách.
Nhà nước cũng cần coi trọng làm tốt công tác dự báo tình hình phát triển
kinh tế xã hội, phát triển các ngành nghề, nhu cầu lao động, đặc biệt là lao động
có tình độ, qua đó có cơ sở để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội.
Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho sự hình thành và
phát triển của thị trường lao động đặc biệt là lao động trình độ cao và thị trường
khoa học công nghệ. Hành lang pháp lý phải đảm bảo cho người lao động được
thuận tiện tìm kiếm nơi làm việc phù hợp, khai thác được hết khả năng sở trường
của họ. Việc hình thành thị trường lao động và khoa học công nghệ góp phần tạo
ra cơ sở cho việc đánh giá đúng đắn năng lực của nhân tài trong xã hội. Khi ấy
tài năng, phẩm chất của người lao động mới có nơi để xã hội đánh giá, thừa
nhận, điều đó sẽ cổ vũ và khích lệ người lao động nỗ lực học tập, nâng cao trình
độ tay nghề chuyên môn của mình. Tuy nhiên, Nhà nước cũng phải mạnh tay
hơn trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm túc kịp
thời các vi phạm nhằm bảo đảm sự phát triển lành mạnh của thị trường lao động
và thị trường khoa học công nghệ.
Chính sách tiền lương của Việt Nam trong những năm gần đây được cải
cách mạnh mẽ theo lộ trình từng năm một mà chưa có bước đột phá. Việc tăng
lương kéo theo việc tăng giá cho nên hệ thống thang bậc lương chưa thật sự phản
ánh được thu nhập thực tế của người lao động, cũng như đánh giá đúng sự cống
hiến sức lao động và chưa tạo ra được động lực khuyến khích người lao động
học hỏi nâng cao trình độ. Kết hợp những ưu đãi vào lương đối với lao động
trong khu vực nhằm thực hiện tiết kiệm tạo điều kiện cho lao động có thêm thu
nhập, chủ động hơn nữa những nhu cầu tiêu dùng trong cuộc sống, yên tâm làm
103
việc cũng như học tập và nâng cao trình độ chuyên môn.
- Cải cách, phát triển hệ thống dạy nghề nhằm nâng cao trình độ nguồn
nhân lực phổ thông cho nền kinh tế tri thức.
Hiện nay nhu cầu về nguồn lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề của nền kinh tế Việt Nam là rất lớn đặc biệt là trong bối cảnh Việt
Nam gấp rút thực hiện tiến trình CNH-HĐH. Trong khi nguồn nhân lực này vừa
thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng. Để tạo tiền đề tiếp cận kinh tế tri thức,
trước mắt cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động này thông qua hệ
thống dạy nghề. Nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về lao động trình độ trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề, cần chú ý một số giải pháp như sau:
- Hoàn thiện cơ cấu hệ thống dạy nghề với ba cấp đào tạo: trình độ sơ cấp,
trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
- Phát triển mạng lưới các trường dạy nghề: từng bước hoàn thiện những
trường hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá để tăng năng lực, chất lượng
và hiệu quả nhu cầu đào tạo. Tập trung đầu tư để nâng cấp và phát triển các
trường dạy nghề trình độ trung cấp, các trường dạy nghề trình độ cao đẳng ở các
trung tâm công nghiệp và các vùng kinh tế trọng điểm. Sắp xếp và điều chỉnh lại
hệ thống các cơ sở dạy nghề của các bộ ngành địa phương phù hợp với nhu cầu
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề của từng vùng, miền.
Cải cách nội dung chương trình dạy nghề theo hướng tiếp cận sản xuất
công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, từng bước chuyển dịch xây dựng chương trình
học theo biên chế sang chương trình học theo môđun. Chương trình được ứng
dụng vừa có tính hệ thống với các cấp đào tạo, vừa có tính liên thông với các cấp
trình độ giáo dục khác trong hệ thống giáo dục cách tân, tạo điều kiện cho người
lao động có khả năng nhu cầu có thể học suốt đời để nâng cao trình độ hay
chuyển đổi nghề nghiệp khi cần.
Phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng và có cơ cấu ngành nghề hợp lý. Phấn đấu nâng tỷ lệ giáo viên trên
104
học sinh đạt mức 1/15 vào năm 2010. Nâng dần tỷ lệ giáo viên trường nghề có
trình độ đại học, tăng thời lượng học tin học, tiếng Anh để có thể sử dụng tin học
và ngoại ngữ trong giờ cũng như khả năng tự học, tự nghiên cứu các tài liệu
chuyên ngành của học viên.
Tăng cường nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề
nhằm trao đổi kinh nghiệm và có thêm nguồn lực để phát triển dạy nghề. Huy
động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị hiện đại cho các
cơ sở dạy nghề. Tích cực tìm kiếm các dự án tài trợ để nâng cao năng lực dạy
nghề, xây dựng một số trường dạy nghề có trình độ tương đương các trường tốt
trong khu vực và trên thế giới. Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn thành lập
các cơ sở dạy nghề 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các cơ sở trong
nước nhằm tranh thủ tiềm lực về vốn, khoa học công nghệ và trình độ đào tạo
105
nghề của nước ngoài.
KẾT LUẬN
Kinh tế tri thức là một nấc thang phát triển tất yếu của lực lượng sản
xuất, là xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới. Kinh tế tri thức tác
động đến sự phát triển của tất cả các quốc gia với nhiều mức độ khác nhau,
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như tuỳ thuộc vào thái
độ, sự quan tâm tới kinh tế tri thức của mỗi quốc gia. Kinh tế tri thức mở ra
cơ hội phát triển to lớn cho tất cả các nước, đồng thời cũng mang lại không ít
thách thức, nguy cơ, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt
Nam. Đối với những nước này có thể tiến hành những bước đi tắt, đón đầu,
để tiếp cận phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt ở những ngành, lĩnh vực có
thế mạnh. Muốn tiếp cận phát triển kinh tế tri thức thành công chúng ta phải
chủ động xây dựng được các nguồn lực cần thiết, trong đó nguồn nhân lực
có chất lượng là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất, và phát triển nguồn
nhân lực là giải pháp đột phá và đóng vai trò quyết định.
Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức là phải cung
ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng lên về số lượng nguồn nhân lực có trình độ.
Nhất là trong thời kỳ thực hiện tiến trình CNH- HĐH hóa rút ngắn và phát
triển kinh tế tri thức hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó là tăng lên về chất
lượng nguồn nhân lực thể hiện qua việc tăng cường năng lực thể chất và
năng lực trí tuệ của nguồn nhân lực trong việc tìm kiếm, phát hiện thông tin,
sáng tạo thông tin và vật chất hoá thông tin thành các sản phẩm vá công
nghệ mới phục vụ đắc lực đời sống kinh tế xã hội của loài người.
Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức thành công hay
không phần lớn phụ thuộc vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Do vậy phải
quan tâm đầu tư mạnh mẽ nhân tài, vật lực cho giáo dục và đào tạo ở tất cả
các cấp học từ tiểu học cho tới cao đẳng đại học và sau đại học. Trong đó
các bậc học phổ thông đóng vai trò cung cấp kiến thức nền tảng cho việc tiếp
cận kinh tế tri thức. Đối với bậc cao đẳng, đại học và sau đại học tốt hơn.
Việc coi trọng bậc đào tạo cao đẳng đại học và sau đại học sẽ đảm bảo được
nguồn cung ứng nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ cao, là
nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức. Để làm được điều đó phải
106
huy động nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo, đa dạng hoá hình
thức và loại hình đào tạo để cung ứng đầy đủ về số lượng nguồn nhân lực,
nhưng chất lượng giáo dục phải được đặt lên hàng đầu.
Ngoài ra, phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ngoài
việc tăng cường đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục và đào tạo, còn phải quan tâm
tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực bằng việc sử dụng
rộng rãi các thành tựu của công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Cũng như phải phổ biến sử dụng công nghệ thông tin
trong các trường học từ bậc tiểu học trở lên. Ngoài công nghệ thông tin, phát
triển công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, vật liệu mới, phân tử…
Phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức còn phải đặt
vào bối cảnh Việt Nam đang thực hiện tiến trình CNH-HĐH. Tiến trình này
góp phần tạo ra cơ sở để nguồn nhân lực phát triển và đến lượt mình nguồn
nhân lực phát triển sẽ thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH. Đến đích sớm hơn và
tạo ra được “bệ phóng” quan trọng để kinh tế tri thức tăng tốc.
Việt Nam ngày nay đang đứng trước vận hội to lớn, một cơ hội mà
theo nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng: “ngàn năm có một” để phát
triển đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Phát triển nguồn nhân
lực, tiến hành thành công tiến trình CNH-HĐH rút ngắn, phát triển kinh tế tri
thức là con đường tất yếu và đúng đắn để đi tới mục tiêu đó. Lưỡng lự, chần
chừ, chậm bước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội to
lớn và gánh chịu sự tụt hậu như trước đây hai thế kỷ đã từng bỏ lỡ khi làn
sóng công nghiệp hoá từ phương Tây tràn sang phương Đông. Trình độ của
nguồn nhân lực Việt Nam hiện còn đang ở xuất phát điểm thấp đặc biệt là so
sánh với yêu cầu của phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên, với sự đổi mới tư
duy, nhận thức và hành động đúng đắn được giải phóng mọi năng lực sản
xuất, giải phóng mọi khả năng sáng tạo trong một môi trường được quan tâm
đầu tư đầy đủ, nguồn nhân lực Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng thời cơ,
vượt qua nguy cơ, từng bước phát triển kinh tế tri thức thành công đưa Việt
Nam đứng vào vị trí xứng đáng trên con đường vươn tới sự cường thịnh của
107
các quốc gia trên toàn thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang A (2005), Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam? trong cuốn “Để kinh tế Việt Nam phát triển”, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Dự thảo chiến lược nguồn nhân
lực 2001 - 2010, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Chiến lược phát triển giáo dục đào
tạo đến năm 2010, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Qui hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực công
nghệ ưu tiên, Hà Nội.
5. “Câu chuyện giá ô tô không nằm ở Bộ Tài chính” (9/9/2007), Tuổi trẻ
cuối tuần, tr.4-5.
6. Daniel Cohen (2001), Các quốc gia nghèo khó trong một thế giới thịnh
vượng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên, 2001), Những vấn đề của toàn cầu hoá
kinh tế. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Phan Đình Diệu (1999), “Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của
chúng ta”. Tạp chí Xã hội học, 2/1999. Báo cáo tại diễn đàn CNTT,
TP.HCM.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội biểu toàn quốc lần
thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Hữu Đức (7/2006), “Liên kết giữa nhà doanh nghiệp và nhà
trường”. Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
12. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH-
HĐH. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu (chủ biên, 1996), Tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, kế sách trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
108
14. Trần Văn Hoan - Nguyễn Bá Ngọc (2002), Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2004), Nhân tài trong chiến
lược phát triển quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối với sự
phát triển của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đặng Hữu (2003), Phát triển kinh tế tri thức-rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đề tài KX.02.03, Hà Nội.
19. Đặng Hữu (chủ biên, 2001), Phát triển kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. Đoàn Văn Khái (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam, Đề tài khoa học cấp
bộ.
21. Đoàn Văn Khái (2006), Nguồn lực con người trong quá trình CNH-
HĐH ở Việt Nam. Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội.
22. Nguyễn Ngọc Khánh (8/1/2001), Tản mạn về kinh tế tri thức, trên
website www.giaodiem.com
23. “Kinh tế 2006-2007 Việt Nam và thế giới”, Thời báo kinh tế Việt Nam,
(105).
24. Nguyễn Thị Luyến (2005), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức
trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Lưu Hàm Nhạc - Lê Hữu Tầng (2002), Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
27. Văn Nhật (2006), “Trung Quốc hướng đến nền kinh tế công nghệ”,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, (17).
28. Lê Du Phong (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nxb. Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
109
29. Võ Hồng Phúc (2004), Xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động và bền vững trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế trong cuốn “Toàn cảnh kinh tế Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hoàng Thị Sáu (10/2003), “Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở nước ta: Thành tựu, vấn đề đặt ra và giải pháp”, Tạp chí Lý
luận Chính trị, (57, 58).
31. Tổng cục TCVN (2006), Chuyên san chất lượng vàng, (8).
32. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
33. Tổng cục Thống kê (2002), Thực trạng đội ngũ cán bộ có trình độ tiến
sĩ và tiến sĩ khoa học, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
34. Phạm Thị Ngọc Trầm (1993), “Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát
triển xã hội”. Tạp trí triết học, (1).
35. Lưu Ngọc Trịnh (1997), Chiến lược con người trong “thần kỳ” kinh tế
Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Ngô Quý Tùng (chủ biên, 2000), Kinh tế tri thức: Xu thế mới của xã
hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Viện nghiên cứu Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh (2002), Kỷ yếu hội thảo: Giáo dục vào đào tạo Việt Nam
hướng tới nền kinh tế tri thức.
38. Nghiêm Đình Vỳ (2000), Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho
giáo dục và đào tạo nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Website www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
40. Website www.wikipedia.com/chinese human resource
41. Website www.wikipedia.com/korea information technology
42. Nguyễn Xuân Sanh (22/9/2007), “Luyện gà nòi hay chim đại bàng?”
110
Tuổi trẻ, (1).