ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

NGUYỄN ĐÌNH SÁNG

NGUỒN SỬ LIỆU

VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN

(GIAI ĐOẠN 1802-1884)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử sử học và Sử liệu học

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

NGUYỄN ĐÌNH SÁNG

NGUỒN SỬ LIỆU

VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN

(GIAI ĐOẠN 1802-1884)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử sử học và Sử liệu học

Mã số: 60 22 03 16

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Phƣơng Thảo

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn

của PGS.TS. Phan Phương Thảo.

Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn

gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Sáng

0

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học

của tôi - PGS.TS. Phan Phương Thảo. Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu,

cô đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ công tác tại Khoa

Lịch sử, Phòng Sau đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại

học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I… đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô, chú, anh, chị, em trong Viện Lịch

sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là Bộ môn Lịch sử quân sự Cổ - Trung - Cận đại, đã

giúp đỡ tôi không chỉ về mặt chuyên môn mà còn cả về vật chất và tinh thần. Tôi rất

cảm ơn các bạn bè và luôn biết ơn gia đình đã tin tưởng, động viên, tạo điều kiện để

tôi được theo đuổi niềm đam mê và việc học tập không ngừng của mình!

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Sáng

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC .................................................................................................................. 0 MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 8 6. Bố cục của luận văn ..................................................................................... 8 Chương 1: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN VÀ NGUỒN SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ

TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884) .......................................................... 10 1.1. Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) .......................................... 10 1.1.1. Cơ quan sản xuất và quản lý vũ khí thời Lý - Trần - Hồ - Lê .............. 10 1.1.2. Từ Ngoại Đồ gia (1802-1820) đến Vũ khố (1820-1884) ..................... 13 1.2. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) .............. 14 1.2.1. Châu bản triều Nguyễn ........................................................................ 14 1.2.2. Ngự chế văn .......................................................................................... 17 1.2.3. Đại Nam thực lục ................................................................................. 19 1.2.4. Minh Mệnh chính yếu ........................................................................... 22 1.2.5. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ...................................................... 24 1.2.6. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên ........................................ 26 1.2.7. Đại Nam điển lệ toát yếu ...................................................................... 28 1.2.8. Đại Nam nhất thống chí ....................................................................... 29 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 32 Chương 2: PHÂN LOẠI SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN

1802-1884) ................................................................................................................ 33 2.1. Sử liệu trực tiếp ....................................................................................... 33 2.1.1. Châu bản triều Nguyễn ........................................................................ 33 2.1.2. Ngự chế văn .......................................................................................... 36 2.2. Sử liệu gián tiếp ....................................................................................... 39 2.2.1. Đại Nam thực lục ................................................................................. 39 2.2.2. Minh Mệnh chính yếu ........................................................................... 46 2.2.3. Sách Hội điển ....................................................................................... 48 2.2.4. Đại Nam nhất thống chí ....................................................................... 54

2

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 58 Chương 3: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884) QUA CÁC

NGUỒN SỬ LIỆU .................................................................................................... 62 3.1. Chức năng, nhiệm vụ .............................................................................. 62 3.2. Vũ khố trong bộ máy nhà nước trung ương triều Nguyễn giai đoạn 1802-

1884 ................................................................................................................ 64 3.3. Cơ cấu tổ chức ......................................................................................... 66 3.4. Cơ cấu nhân sự ........................................................................................ 69 3.5. Những quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố.................................... 77 3.5.1. Công đường .......................................................................................... 77 3.5.2. Lương bổng .......................................................................................... 78 3.5.3. Phẩm phục ............................................................................................ 81 3.5.4. Ấn triện ................................................................................................. 87 3.6. Hoạt động ................................................................................................ 88 3.6.1. Hoạt động sản xuất vũ khí .................................................................... 88 3.6.2. Cấp phát vũ khí .................................................................................... 89 3.6.3. Tích chứa vật liệu công ........................................................................ 91 3.6.4. Các hoạt động khác .............................................................................. 92 3.7. Quá trình biến chuyển tên gọi quan lại ở Vũ khố ................................... 94 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 97 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 109

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Triều Nguyễn là triều đại phát triển đỉnh cao và cuối cùng của chế độ

quân chủ tập quyền trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Trong hơn 100 năm, triều

Nguyễn quản lý một lãnh thổ rộng lớn chưa từng có trong lịch sử, trải dài từ ải Nam

Quan tới mũi Cà Mau, với sự đa dạng văn hóa, kinh tế, xã hội của nhiều tộc người,

vùng miền... Tuy nhiên, triều Nguyễn cũng phải đối diện với những bài toán khó

giải trong việc điều hành và quản lý đất nước. Vậy nên, nghiên cứu về triều Nguyễn

đã và đang là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

1.2. Để duy trì nền quân chủ chuyên chế tập quyền, nhà Nguyễn đã dựa trên

một nền quân sự mạnh, điều đó được thể hiện qua việc xây dựng một đội quân với

trang bị vũ khí tương đối hiện đại so với đương thời. Vũ khố, với tư cách là cơ quan

được Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất các loại vũ khí bên cạnh việc coi giữ kho,

đã thực hiện tương đối tốt hoạt động này. Trong thời kỳ này, Vũ khố từ một cơ quan

nội thuộc Bộ Binh (thời Lê) phát triển thành một cơ quan quản lý hành chính độc

lập (thời Nguyễn). Đây là một sự thể nghiệm về chính trị, ngoài ra còn là nét độc

đáo trong tư duy của người đứng đầu nhà nước phong kiến đương thời.

1.3. Trong suốt quá trình tồn tại, triều Nguyễn đã đạt được những thành tựu

nhất định trên lĩnh vực sử học. Triều Nguyễn đã tổ chức bộ máy ghi chép, biên soạn

lịch sử một cách hoàn thiện nhất so với các triều đại trước, do vậy đã đạt được nhiều

thành quả đáng kể, để lại nhiều bộ sử lớn như Minh Mệnh Chính yếu, Ngự chế văn,

Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ tục biên, Đại Nam nhất thống chí… Là một cơ quan hành chính cấp trung

ương, Vũ khố được phản ánh qua các Chiếu, Chỉ, Dụ của các vua triều Nguyễn và

những ghi chép trong các tài liệu chính thức như thực lục, hội điển, chí… của nhà

Nguyễn. Đây là nguồn sử liệu cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác nhất

về Vũ khố triều Nguyễn.

1.4. Hiện nay, khi nghiên cứu về triều Nguyễn, các nhà khoa học có xu

hướng đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực một cách cụ thể để tạo điều kiện cho các

4

nghiên cứu tổng thể, khái quát sau này. Để có thể thực hiện tốt việc nghiên cứu về

triều Nguyễn nói riêng cũng như các vấn đề của lịch sử và thời đại nói chung, cần

phải dựa vào những nguồn sử liệu chính xác. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu các

nguồn sử liệu về Vũ khố, ngoài mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu về Vũ khố,

còn là nguồn tư liệu nghiên cứu về triều Nguyễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu từ góc

độ sử liệu, với những hệ phương pháp và thước đo khác nhau sẽ đem đến một hiểu

biết căn bản về lịch sử phát triển, vị trí, vai trò của Vũ khố - một cơ quan quản lý

hành chính cấp trung ương của nhà nước phong kiến thời bấy giờ.

Từ thực tế đó, nghiên cứu các nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn là một

hướng tiếp cận có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc tái hiện lại một cách đầy

đủ, toàn diện hơn về Vũ khố - nha môn chuyên sản xuất, bảo quản vũ khí và tích chứa

nguyên liệu, vật liệu của nhà nước phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Cùng với quá trình Đổi mới, sự nhìn nhận, đánh giá lại vương triều Nguyễn -

triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc, đã và đang thu hút được sự

quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ những nghiên cứu chung về tổ chức bộ máy

nhà nước, lịch sử kinh tế văn hóa xã hội đến các nghiên cứu cụ thể về triều Nguyễn

đã liên tiếp được thực hiện nhằm góp phần vào công cuộc nhận thức đầy đủ hơn và

đánh giá chính xác hơn về triều đại này. Tuy nhiên các công trình cụ thể nghiên cứu

về nguồn sử liệu triều Nguyễn lại không nhiều.

Từ đầu những năm 1970, trong bộ sách Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm,

Nguồn tư liệu văn học sử Việt Nam (2 tập), Trần Văn Giáp đã giới thiệu, phân loại,

sắp xếp một cách chi tiết về tên sách, số tập, số quyển, tiểu sử tác giả, tóm tắt nội

dung và giá trị của các tác phẩm Hán Nôm trong lịch sử Việt Nam theo nội dung

khoa học. Bộ sách có giá trị như một nguồn tài liệu văn học, sử học Việt Nam, đồng

thời có giá trị đặc biệt về phương pháp thư mục học khoa học. Bộ sách đã cung cấp

khá đầy đủ thông tin các bản in Hán văn các bộ sách lịch sử triều Nguyễn.

Đề tài nghiên cứu Sử liệu học lịch sử Việt Nam (mã số B.93.05-01) công bố

năm 1993, do TS. Phạm Xuân Hằng chủ trì, khái quát các loại hình sử liệu chữ viết,

bước đầu tìm hiểu về quá trình hình thành, đặc điểm của sử liệu viết trong lịch sử

5

Việt Nam, trước hết là những sử liệu hình thành trong quá trình hoạt động của Nhà

nước, xã hội Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có đề cập đến nguồn sử liệu

hình thành trong hệ thống chính quyền các cấp từ năm 1858 đến 1945 - thời kỳ xuất

hiện nhiều bộ sử có giá trị của vương triều Nguyễn.

Bên cạnh đó, một số luận án, luận văn khoa học như Luận án Phó Tiến sĩ

Ảnh - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử (Qua tài liệu ảnh về kháng chiến chống

thực dân Pháp) của Đào Xuân Chúc [12], Luận án Phó Tiến sĩ Nghiên cứu nguồn

sử liệu hiện vật bảo tàng (Qua hiện vật ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam) của

Nguyễn Thị Huệ [32], Luận án Phó Tiến sĩ Phông lưu trữ Ủy ban hành chính Thành

phố Hà Nội (1954-1975) - Nguồn sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô của Hồ

Văn Quýnh [92], Luận án Tiến sĩ Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn

1802-1884) của Vũ Thị Phụng [72] … đã trình bày chi tiết về một số loại nguồn sử

liệu làm cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử.

Ngoài ra, việc nghiên cứu Vũ khố triều Nguyễn còn được thể hiện với tư

cách là đối tượng nghiên cứu của sử học. Một số các công trình nghiên cứu, khảo

cứu về bộ máy hành chính nhà nước triều Nguyễn được thực hiện như Tổ chức

chính quyền dưới thời Nguyễn Sơ (1802-1847) của Nguyễn Sĩ Hải, Tổ chức bộ máy

nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) do Đỗ Bang (Chủ biên), Cải cách hành chính

dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) của Nguyễn Minh Tường, Định chế hành chính

và quân sự triều Nguyễn (1802-1885) của Huỳnh Công Bá (Chủ biên)… Theo các

công trình nghiên cứu trên, ngoài tổ chức bộ máy 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình,

Công) để điều hành các hoạt động chính trong quản lý nhà nước, triều Nguyễn còn

lập các nha gồm các phủ, tự, viện, giám, ty, cục - là những cơ quan chuyên trách

hoạt động thuộc về hành pháp, tư pháp, giám sát ở triều đình, được gọi chung là

Chư Nha, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo đó, Vũ khố là cơ quan

hành chính cấp trung ương phụ trách kho tàng - quân nhu cùng với Phủ Nội vụ và

Thương trường [27, tr.191], [7, tr.81], [6, 149-151], [108, tr.108].

Cùng với việc nghiên cứu các vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, kinh tế, xã

hội, văn hóa, quân sự của triều Nguyễn, nhiều nhà nghiên cứu đã tích cực đi sâu vào

những lĩnh vực cụ thể.

6

Năm 1961, Chu Thiên với bài Vài nét về công thương nghiệp triều Nguyễn

[104, tr.47-62] đã đề cập khái quát tới xưởng sản xuất của nhà Nguyễn với quy mô

lớn, làm nhiệm vụ đúc súng, đóng tàu, đúc tiền… trong bối cảnh kinh tế hàng hóa,

thủ công nghiệp phát triển khá mạnh từ trước thế kỷ XIX và suy yếu dần.

Trong cuốn Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ dưới triều

Nguyễn xuất bản năm 1998, Bùi Thị Tân - Vũ Huy Phúc đã trình bày, phân tích tình

hình thủ công nghiệp và sự phát triển công nghệ dưới triều Nguyễn. Các tác giả đã

đề cập sơ qua tình hình hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí của Vũ khố triều Nguyễn

và đi đến nhận xét “trình độ kỹ thuật của nước ta thời bấy giờ còn thấp so với tiến

bộ của khoa học quân sự thế giới nên súng, đạn xưởng đúc sản xuất ra nhiều nhưng

hiệu quả sử dụng không lớn” [99, tr.55].

Đến năm 2001, Luận án tiến sĩ Quan xưởng ở kinh đô Huế từ năm 1802 đến

1884 của Nguyễn Văn Đăng được công bố, cũng đã đề cập đến quá trình ra đời, cơ

cấu tổ chức, sự thay đổi tên gọi, tình hình hoạt động sản xuất vũ khí và các đồ vật

khác của Vũ khố triều Nguyễn. Theo Nguyễn Văn Đăng, Vũ khố thường được nhà

vua giao cho việc sản xuất vũ khí. Đó là chức trách sản xuất trọng yếu của nha môn

ngoài việc quản lý các kho nguyên vật liệu [17, tr.90].

Như vậy, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến lịch sử Vũ

khố triều Nguyễn với những mức độ khác nhau, song chưa có một công trình nào

nghiên cứu về các nguồn sử liệu liên quan Vũ khố triều Nguyễn. Từ thực tế đó, luận

văn đi vào khảo sát các nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn, một mặt để đánh giá

giá trị sử liệu của từng nguồn phản ánh về cơ quan này, mặt khác để đi đến nhận

thức đầy đủ hơn về Vũ khố trên cơ sở thông tin từ nguồn.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn, bao gồm tất

cả các nguồn tài liệu chữ viết phản ánh về Vũ khố triều Nguyễn, được tập hợp, phân

loại, phân tích đặc điểm hình thức và nội dung, từ đó chỉ ra giá trị sử liệu của từng

nguồn, từng loại nguồn trong việc phản ánh về cơ quan này.

7

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo cứu các nguồn sử liệu về Vũ khố triều

Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, bao gồm cả giai đoạn cơ quan này có tên gọi Ngoại

Đồ gia (1802-1820) và giai đoạn tên gọi Vũ khố chính thức hiện hữu (1820-1884).

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp mô tả lịch sử là phương pháp nghiên cứu truyền thống, hữu

hiệu, được áp dụng triệt để trong việc trình bày quá trình hình thành, phát triển cũng

như đặc điểm của các loại hình sử liệu.

Phương pháp thống kê được áp dụng trong việc phân tích đặc điểm hình thức

và nội dung của từng loại nguồn sử liệu.

Phương pháp so sánh, cả so sánh đồng đại và so sánh lịch đại, có vai trò quan

trọng nhằm làm nổi bật đặc trưng và giá trị của từng loại nguồn sử liệu, cũng như về

đặc điểm của Vũ khố qua từng giai đoạn phát triển.

Phương pháp sử liệu học là phương pháp căn bản được sử dụng để phân tích,

đánh giá giá trị sử liệu của các nguồn sử liệu.

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic được áp dụng nhằm phác dựng

lại hình ảnh cũng như quá trình vận động của Vũ khố triều Nguyễn qua tiến trình

lịch sử.

5. Đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa và giới thiệu khái quát về đặc điểm, nội dung và giá trị các

nguồn sử liệu chữ viết về Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.

- Phục dựng lại chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự và hoạt

động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, qua đó thấy được vai trò, vị trí

và mối quan hệ của Vũ khố với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hệ thống

hành chính triều Nguyễn.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính

của luận văn được chia làm 3 chương:

- Chương 1: Vũ khố triều Nguyễn và nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn

(giai đoạn 1802-1884). Nội dung chủ yếu của chương này giới thiệu về sự hình

8

thành, quá trình vận động của Vũ khố triều Nguyễn và giới thiệu chung các nguồn

sử liệu về Vũ khố, từ quá trình hình thành, đặc điểm đến nội dung… với các bản

chữ Hán và những bản dịch tiếng Việt.

- Chương 2: Phân loại sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-

1884). Trên cơ sở phân tích về hình thức và nội dung của từng nguồn sử liệu về Vũ

khố, rút ra giá trị sử liệu và đánh giá vị trí của các nguồn sử liệu về Vũ khố triều

Nguyễn giai đoạn 1802-1884.

- Chương 3: Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) qua các nguồn sử

liệu. Chương này phục dựng lại chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân

sự và hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 trong hệ thống cơ

quan hành chính cấp trung ương của nhà Nguyễn, nhằm đi sâu làm rõ hơn nữa giá

trị sử liệu về Vũ khố của các nguồn sử liệu chữ viết.

9

Chương 1: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN VÀ NGUỒN SỬ LIỆU VỀ

VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884)

1.1. Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)

1.1.1. Cơ quan sản xuất và quản lý vũ khí thời Lý - Trần - Hồ - Lê

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, hoạt động sản xuất và quản lý vũ khí

của nhà nước hầu hết được giao cho các cơ quan thuộc Bộ Binh hoặc Bộ Công (ty,

cục…) quản lý, điều hành.

Khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt

sử thông giám cương mục cho đến các công trình nghiên cứu như Lịch sử chế độ

khong kiến Việt Nam cho thấy, hoạt động sản xuất vũ khí thời Lý - Trần - Hồ được

giao cho Cục Bách công [40, tr.207], [90, tr.721], [115, tr.124] - cơ quan trực thuộc

Bộ Công quản lý. Sản phẩm tiêu biểu của thời kỳ này chính là Lâu thuyền và Thần cơ sang pháo do Hồ Nguyên Trừng chế tạo ra1.

Sang đến thời Lê, hoạt động chế tạo, sản xuất và tích chứa vũ khí cùng

nguyên vật liệu được giao cho Vũ khố Thanh lại ty. Vũ khố Thanh lại ty là một

trong hai cơ quan chuyên trách trực thuộc Bộ Binh, làm nhiệm vụ trông giữ các loại

khí giới, cờ, trống, chiêng lệnh, áo, mũ, súng ống, thuốc đạn, lưu hoàng, chì, và tất

cả đồ quân dụng chứa ở kho công [45, tr.66]. Bên cạnh việc sản xuất vũ khí, hoạt

động bảo quản, sửa chữa vũ khí cũng được chính quyền triều Lê quy định rõ ràng.

Từ năm 1469, Nhà nước đã có quy định: “Nếu khí giới có hao mòn, khuyết mẻ đều

phải đem đến Vũ khố để tu tạo lại theo như quy thức. Không ai được tự tiện đem

đến các nơi nhà công, nhà lính ở ngoài thành để sửa chữa hoặc làm mới” [90,

1 Minh sử viết: “Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403-1424) đánh nước Giao Chỉ, học được phép đúc súng Thần cơ. Phép chế súng, dùng đồng đỏ, một nửa là đồng còn sống (đồng đỏ), một nửa là đồng đã nấu lẫn lộn (đồng thau). Cũng có thể dùng sắt mà đúc… Súng thần cơ có nhiều kích cỡ, lớn nhỏ không đều, lớn thì kéo bằng xe (sau gọi là pháo hay súng thần công), nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác lên vai (sau gọi là điểu thương hay súng hỏa mai), súng lớn lợi cho việc chiếm giữ (súng cộng đồng), súng nhỏ lợi cho việc chiến đấu (súng cá nhân), tùy tiện mà dùng” [19, tr.229]. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Nguyên Trừng cùng thợ quan xưởng đóng thành công hai loại thuyền lớn, kiểu mới, gọi là Trung tầu tải lương và Lâu thuyền có tải lương. Theo sử cũ mô tả lại thì thuyền có đóng đinh sắt, bên trên có đường sàn đi lại, bên dưới có hai người chèo một mái chèo, rất tiện cho việc chiến đấu [40, tr.207].

tr.1034].

10

Về cơ cấu nhân sự, đứng đầu Vũ khố Thanh lại ty là 1 viên quan Lang trung

trật Chánh lục phẩm, tiếp đến là 1 viên quan Viên Ngoại lang trật Tòng lục phẩm,

giúp việc có các chức Câu kê, Cai bạ, Thủ bạ, Đô lại, nhưng không rõ số lượng là bao nhiêu người1.

Có thể nhận thấy về mặt tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của cơ quan sản xuất

vũ khí thời Lê đã chặt chẽ hơn so với giai đoạn trước, qua đó phản ánh phần nào

tính tập quyền của Nhà nước và đáp ứng được các yêu cầu về quân sự của triều Lê.

Thời Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, hoạt động của cơ quan chế tạo, sản xuất tích

chứa vũ khí về cơ bản không khác thời Lê Sơ, đặt dưới sự quản chế của Binh phiên

bên Phủ chúa Trịnh. Năm 1653, triều đình ban hành sắc dụ: “Tất cả những thợ của

các phường cuộc đúc vũ khí của nhà nước đều phải tập trung lại, một người sẽ được

chỉ định làm quản giám. Mặt khác nhà nước sẽ lựa chọn (những nơi thuận tiện) để

đặt các kho vũ khí, trong đó các thợ có bằng cấp sẽ được giao làm những công việc

chế tạo và sửa chữa cần thiết” [33, tr.328]. Hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí thời

kỳ này cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo Marini, ở Thăng Long

thế kỷ XVII đã có “nhiều xưởng binh khí chế tạo một số lượng lớn các giáo mác,

gươm kiếm, có cả những súng ống, hỏa pháo, súng thần công mà họ đã biết cách

đúc với một sự thành công không thể tưởng tượng nổi” [33, tr.266]. Cuối thế kỷ

XVIII, Nhà nước xét định chức vụ của từng bộ, trong đó có ghi chép về chức trách,

nhiệm vụ của Vũ khố Thanh lại ty thuộc Bộ Binh. Sử cũ chép: “Phàm những đồ

quân dụng, có nhiều hay ít, đủ hay thiếu, để lâu hay mới có, còn bền hay đã hỏng,

Vũ khố Thanh lại ty cũng phải đem ra bàn định, xem xét cho rõ ràng, rồi làm tờ

khai kê xin hay nấu chế, hoặc sửa chữa để chuẩn bị trước” [11, tr.517]. Năm 1787,

vua Lê Chiêu Thống dựa trên quan chế thời Hồng Đức, cho đặt lại số lượng nhân

viên ở 6 Bộ và các Ty. Theo đó, cơ cấu nhân sự ở Vũ khố Thanh lại ty gồm có 1

viên quan Lang trung trật Chánh lục phẩm đứng đầu, thứ hai là 1 viên quan Viên

1 Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú chỉ cho biết số lượng thuộc lại chung của cả Vũ khố Thanh lại ty, Quân vụ Thanh lại ty và Binh bộ Tư Vụ sảnh. Theo đó, số lượng quan giúp việc của các Ty, Sảnh là 128 người. [11, tr.461].

Ngoại lang trật Tòng lục phẩm. Giúp việc có Câu kê, Cai Bạ, Thủ bạ, Đô lại, song

11

cũng giống thời Lê Thánh Tông, số lượng nhân viên của Vũ khố Thanh Lại ty không rõ là bao nhiêu người1.

Dễ nhận thấy rằng các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí của Vũ khố Thanh

lại ty ở Đàng Ngoài thời Lê - Trịnh là sự phát triển tiếp theo từ thời Lê Sơ tại Kinh

thành Thăng Long.

Ở Đàng Trong, năm 1617, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt Nhà đồ, với

nhiệm vụ ban đầu là thu hàng hóa phẩm, và được giao cho Ty Nội lệnh sử giữ,

nhưng không thấy ghi chép về quan chế của cơ quan này. Đại Nam thực lục chép: “Tháng giêng năm Đinh Tỵ (1617), đặt Nhà đồ2, thu các hàng hóa phẩm, giao cho

Nội lệnh sử ty giữ [78, tr.39]. Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn ghi chép chi tiết

hơn. Theo đó, quan chế của Ty Lệnh sử Đồ gia [Nhà đồ], bao gồm 3 viên Câu kê, 3

viên Cai hợp, 3 viên Thủ hợp, 24 viên Thư lại giúp việc, tổng số là 33 người. Nhiệm

vụ chính của Nhà đồ là “giữ việc thu phát dây thau, khối sắt, đồ đồng, ngà voi,

chiêng đồng, phát cho các cục để làm khí giới thuyền ghe, sửa sang tường thành nhà

cửa và giữ các tích dầu sơn, than gỗ, vàng thếp, cùng là kho quân khí” [20, tr.184].

Năm 1787, sau khi từ Xiêm (Thái Lan) trở về, Nguyễn Ánh từng bước chiếm

giữ vùng đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay) làm chỗ đứng chân, nỗ lực củng cố

quyền lực. Nhiều biện pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng một hậu phương

vững chắc, trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh với nhà Tây Sơn được chính

quyền Gia Định thực hiện, từ khuyến khích nông nghiệp, mở rộng thương nghiệp,

cho đến củng cố pháp luật, phát triển quân đội… Năm 1790, Nguyễn Ánh cho đặt

lại cơ quan Đồ gia trực tiếp quản lý 62 ty, cục ở Gia Định [78, tr.257]. Các ngành

được Nguyễn Ánh quan tâm nhất là đóng thuyền, chế tạo vũ khí. Trong cuốn Một

chuyến du hành đến xứ Nam Hà, J. Barrow cho biết: “Một người Anh đã thấy ở Sài

Gòn vào năm 1800 một hạm đội gồm 1200 chiến thuyền do Nguyễn Ánh chỉ huy”

[118, tr.48]. Bên cạnh việc cử quan lại đi mua vũ khí của nước ngoài, chính quyền

1 Lịch triều hiến chương loại chí ghi: “Đặt thêm 4 viên Câu kê, thuộc lại rút xuống 80 người: Cai bạ 10 người, Thủ bạ 10 người, Đô lại 60 người”, (tính cả việc đặt thêm 4 viên Câu kê, tổng số là 80 người). [11, tr.416]. So sánh với thời Hồng Đức, số lượng thuộc lại giúp việc đã giảm 48 người = 37%. (Xem thêm [117, tr.59-65]). 2 Nhà đồ: Nhà chứa cất đồ đạc, phẩm vật, chữ Hán là Đồ gia.

Gia Định đã giành độc quyền mua kim loại và lưu hoàng để sản xuất các loại vũ khí

12

thông thường [78, tr.246]. Những thành tựu có được trong các ngành đóng thuyền,

sản xuất vũ khí, đúc tiền,… đã đóng góp một phần nhất định vào thắng lợi cuối

cùng của Nguyễn Ánh trước vương triều Tây Sơn.

1.1.2. Từ Ngoại Đồ gia (1802-1820) đến Vũ khố (1820-1884)

Sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành quyền lực với nhà Tây Sơn (1778-

1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu Gia Long, lập ra triều Nguyễn

(1802). Trên cơ sở một đất nước thống nhất với thiết chế truyền thống của Nhà

nước quân chủ Đại Việt, cùng việc “tham cứu” mô hình tổ chức nhà nước của các

triều đại phong kiến Minh, Thanh (Trung Quốc), những vị vua đầu triều Nguyễn đã

từng bước điều chỉnh, bổ sung, thay đổi ở các Bộ, Nha, nhằm hướng tới xây dựng

một quy chế vận hành cho bộ máy quản lý hành chính từ Trung ương đến địa

phương ngày càng cụ thể và chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn dân tộc.

Năm Nhâm Tuất (1802), trên cơ sở Ty Lệnh sử Đồ gia, Gia Long cho lập

Ngoại Đồ gia - cơ quan chế tạo, sản xuất và tích chứa vũ khí cùng nguyên vật liệu.

Khi mới thành lập, Ngoại Đồ gia gồm có 7 kho: 1) Kho khí giới, 2) Kho đồng, 3)

Kho tiền, 4) Kho vận lương, 5) Kho thủy, 6) Kho chiếu, 7) Kho than [67, tr.17].

Năm Canh Thìn (1820), sau khi lên ngôi vua, Minh Mệnh cho đổi Ngoại Đồ

gia thành Vũ khố. Cùng với sự thay đổi tên gọi, các kho tàng ở Ngoại Đồ gia cũng

được thay đổi và đặt thêm. Đứng đầu Vũ khố có Thị lang, Lang trung, Viên Ngoại

lang, giúp việc trông coi và quản lý các kho có các quan lại từ Chủ sự, Tư vụ, Thư

lại Chánh bát phẩm, Thư lại Chánh cửu phẩm đến Thư lại Vị nhập lưu. Từ đây, tên

gọi Vũ khố được giữ nguyên, không có sự thay đổi qua mỗi thời kỳ trị vì của các vị

vua khác nhau từ Thiệu Trị, Tự Đức cho đến Kiến Phúc. Sự thay đổi tên gọi ở Vũ

khố nằm trong xu hướng muốn quay trở lại để tiếp nối và phát triển mô hình có từ

thời Lê trước đó trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ về mặt tên

gọi, còn Vũ khố vẫn là một cơ quan độc lập thuộc quản lý của Nhà nước.

Như vậy, Vũ khố có sự phát triển từ ban đầu là một ty của Bộ Binh (Vũ khố

Thanh lại ty thời Lê) thành một cơ quan độc lập thời chúa Nguyễn (Ty Lệnh sử Đồ

gia), được kế tiếp trong thời Gia Long và các vị vua triều Nguyễn về sau.

13

Đối chiếu với cơ quan cùng cấp của nhà nước phong kiến Trung Quốc thời

Minh, Thanh cho thấy tuy giống về tên gọi nhưng khác biệt về tổ chức, quản lý.

Thời Minh (1368-1664), Vũ khố Thanh lại ty là một trong bốn ty trực thuộc Bộ

Binh triều Minh cùng với Võ Tuyển Thanh lại ty, Chức Phương Thanh lại ty, Xa

Giá Thanh lại ty. Dưới triều Thanh (1664-1911), Vũ khố Thanh lại ty là 1 trong 7 ty

trực thuộc Bộ Binh (Binh Tuyển Thanh lại ty, Xa Mã Thanh lại ty, Chức Phương

Thanh lại ty, cùng các Đường Chủ sự, Tư Vụ sảnh, Bút Thiếp thức) [120, tr.358-

359, 389, 404-405, 426].

1.2. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)

1.2.1. Châu bản triều Nguyễn

Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu sớ, sắc, dụ, chiếu, chỉ… cùng những

công văn, tờ trình, sổ sách kê khai, những văn bản ngoại giao… được nhà vua phê

duyệt với những dấu ấn “ngự phê”, “ngự lãm” bằng mực son đỏ và đóng ấn tín của

hoàng đế. Dấu ấn “ngự phê”, “ngự lãm” gồm nhiều loại hình khác nhau từ Châu phê, Châu khuyên, Châu điểm, Châu mạt, tới Châu cải, Châu sổ1.

Tất cả số Châu bản do một cơ quan giữ vai trò như Văn phòng của hoàng đế

đảm nhiệm. Thời Gia Long (1802-1819), Châu bản do các cơ quan Thị thư viện,

Thị hàn viện, Nội hàn viện giữ. Năm Kỷ Sửu (1829), Nội các được thành lập với

chức năng “giữ sổ sách và chầu hầu tả hữu”, do vậy số Châu bản được chuyển về

đây. Trải qua các triều vua Minh Mệnh (1820-1840) đến Thiệu Trị (1841-1847) tổ

chức của Nội các với các cơ quan chuyên trách và số lượng quan chức, nhân viên có

nhiều thay đổi theo hướng quy định chặt chẽ nhiệm vụ văn thư và lưu trữ của triều

đình. Năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị xác định Nội các “chầu hầu nơi cung

cấm, phụng thừa sắc chỉ, tiếp nhận sớ tấu, tuân thừa châu phê, chức vụ rất là quan

trọng” [54, tr.61].

Sau khi được chuyển tới Nội các, Châu bản được sao thêm hai bản phụ (phó

1 Châu khuyên: vòng son đỏ điểm lên tên người hay sự việc mà nhà vua lựa chọn. Châu điểm: chấm son đỏ lên đầu văn bản mà nhà vua chấp thuận. Châu mạt: nét son quẹt lên tên người hay sự việc không được nhà vua chấp thuận. Châu cải, Châu sổ: nét son gạch sổ lên những chỗ biểu thị sự phủ nhận hay cần chữa lại.

bản), ghi thêm một số chữ, đề ngày tháng, đóng dấu (quan phòng)... Tiếp đó, một

14

bản phụ được gửi cho Bộ hoặc Nha liên quan để biết hoặc thực hiện, một bản phụ

đưa đến Quốc Sử quán để làm sử liệu, còn bản chính thức “Châu bản” thì do Nội

các lưu giữ. Sang đến đời Bảo Đại, Châu bản quy tụ về Ngự tiền văn phòng. Năm

1942, triều đình nhà Nguyễn đã cho tổ chức một hội đồng sắp xếp lại các châu bản

do Tổng lý Ngự tiền văn phòng Trần Văn Lý phụ trách. Sau gần hai năm làm việc,

Hội đồng đã sơ bộ chia Châu bản ra từng loại theo thứ tự năm tháng, Bộ Nha... rồi

đóng thành từng tập, mỗi tập có một tiêu đề riêng. Đặc biệt Hội đồng đã lên được

một thư mục gồm 6 phần: Châu bản, Hòa uớc, Quốc thư, Các loại sách, Các quyển

điện thí và Linh tinh [14, tr.XXIX].

Sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), một phần Châu bản và

các loại thư tịch của vương triều bị thất tán. Năm 1959, kho Châu bản triều Nguyễn

được chuyển từ Viện Văn hóa sang Viện Đại học Huế. Tại đây, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam do Giáo sư Trần Kinh Hòa1 làm Tổng thư ký được thành lập để kiểm

tra lại kho tư liệu và tổ chức nghiên cứu, xuất bản. Theo thống kê của Ủy ban, kho

Châu bản lúc đó có 611 tập và nhiều tập rời. Trước năm 1975, kho Châu bản chuyển

lên Đà Lạt rồi chuyển về Sài Gòn. Sau chiến tranh kết thúc, Cục lưu trữ Nhà nước

tiếp quản khối tư liệu này và do Trung tâm lưu trữ Quốc gia II tại thành phố Hồ Chí

Minh quản lý. Năm 1991, kho Châu bản được chuyển ra Hà Nội, do Trung tâm Lưu

trữ Quốc gia I thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước, nay là Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước,

quản lý. Vào thời điểm đó, nhiều tờ Châu bản chưa đóng thành tập, phần lớn bị mốc,

kết dính. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã xây dựng một chương trình cứu vãn

Châu bản nhằm cứu di sản này khỏi nguy cơ bị hủy hoại và hồi phục. Kết quả bảo

quản và kiểm kê Châu bản từ 1959 đến 2012 có thể tóm lược theo bảng sau:

BẢNG 1.1. THỐNG KÊ SỐ TẬP CỦA KHO CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN

STT

TRIỀU ĐẠI

1959

1975

1991

2003

2012

1

5

5

5

7

7

Gia Long (1802-1819)

2

83

81

81

86

86

Minh Mệnh (1820-1840)

1 Trần Kinh Hòa là người Trung Quốc. Năm 1959, Ủy Ban Nghiên cứu Học thuật Đông Á tại Đài Bắc (China Council for Eastern Asian Studies) đã tiến cử Trần Kinh Hòa tham gia chỉ đạo công việc sắp xếp, nghiên cứu, dịch Châu bản cùng Viện Đại học Huế, với cương vị Tổng thư ký Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam.

15

3

51

51

51

53

53

Thiệu Trị (1841-1847)

4

352

345

345

382

382

Tự Đức (1848-1883)

5

1

1

1

1

1

Kiến Phúc (1884)

6

0

0

0

1

1

Hàm Nghi (1884-1885)

7

4

4

4

26

26

Đồng Khánh (1886-1888)

8

74

74

74

98

98

Thành Thái (1889-1907)

9

35

35

35

51

54

Duy Tân (1907-1916)

10

4

4

4

10

10

Khải Định (1917-1925)

11

2

2

2

20

55

Bảo Đại (1926-1945)

611

602

602

735

773

Tổng cộng

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I [43, tr.3-12]

Qua bảng số liệu cho thấy sau một quá trình làm việc liên tục, Cục Văn thư

Lưu trữ Nhà nước thống kê được còn 773 tập Châu bản với khoảng 85.000 văn bản1. Mặc dù vậy, vẫn còn khoảng hơn 3.000 tờ bị kết dính chưa thể xử lý.

Năm 1959, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế đã xuất

bản được hai tập Mục lục Châu bản triều Nguyễn: 1) Mục lục Châu bản triều

Nguyễn, tập I, triều Gia Long, xuất bản năm 1960, giới thiệu 4 tập với 723 phiếu

tức đơn vị văn bản Châu bản thời Gia Long, còn tập 5 phần “Ngự dược nhật ký”

chưa được công bố. 2) Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập II, triều Minh Mệnh,

được xuất bản năm 1962, giới thiệu 971 phiếu tức đơn vị Châu bản trong 5 năm đầu

triều vua Minh Mệnh, từ năm Minh Mệnh 1 (1820) đến năm Minh Mệnh 5 (1824).

Năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập một nhóm biên soạn

gồm Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát, tiến hành tuyển chọn và lược

thuật nội dung một của hơn 1.000 phiếu tức đơn vị châu bản triều Tự Đức được

dịch, sắp xếp và in thành 1 tập với nhan đề Châu bản triều Tự Đức (1848-1883).

Hiện nay, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà

nước đã hoàn thành việc lập phiếu tóm tắt và trích yếu nội dung từng tờ Châu bản

1 Theo ước tính của Giáo sư Trần Kinh Hòa, số Châu bản trải dài suốt gần một thế kỷ rưỡi trị vì của triều Nguyễn, qua 11 đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại còn đến nay chiếm khoảng chưa đến 1/5 khối lượng Châu bản triều Nguyễn. [14, tr.XII].

và đóng thành 13 tập. Kế hoạch công bố dần các tập Mục lục châu bản triều Nguyễn

16

đã được Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tiến hành. Năm 2010, trên cơ sở Mục lục

Châu bản triều Nguyễn Tập I và II đã được xuất bản năm 1960, 1962 tại Huế, bổ

sung thêm những Châu bản của triều vua Gia Long và Minh Mệnh từ năm I đến

năm V (1820-1824) chưa đưa được công bố, Cục văn thư và Lưu trữ nhà nước cùng

Trung tâm Lưu trữ quốc gia I cho xuất bản Mục lục Châu bản triều Nguyễn tập I

với 2279 phiếu tức văn bản Châu bản [14, tr.VII-X]. Trước đó, năm 1998, Mục lục

Châu bản triều Nguyễn, Tập II được xuất bản tại Hà Nội gồm các Châu bản tiếp

theo của triểu vua Minh Mệnh năm 6 (1825) và năm 7 (1826), từ tập 11 đến tập 20

[13, tr.VII] gồm 1.609 đơn vị văn bản.

Là nguồn sử liệu trực tiếp quan trọng nhất để nghiên cứu về triều Nguyễn,

hầu hết các vấn đề quan lại, lương bổng, nhiệm vụ, bổ dụng, cấp phát lương thực,

vũ khí… của Vũ khố triều Nguyễn đã được nêu/trình bày qua các Chiếu, Chỉ, Dụ.

Trước hết là một số Chỉ, Dụ của vua Minh Mệnh về việc đề bạt, thay đổi vị

trí nhân sự quan lại Vũ khố qua các chỉ dụ vào năm Canh Thìn (1820), Quý Mùi

(1823), Giáp Thân (1824).

Ngoài ra, một số Chỉ, Dụ trình bày về việc cung cấp vũ khí, đạn dược ở Vũ

khố cho các tỉnh thành trong cả nước dưới thời Minh Mệnh, Tự Đức.

Bên cạnh đó, còn có những Chỉ, Dụ trực tiếp của vua Tự Đức phản ánh về

các vấn đề như chế tạo vũ khí, thuốc súng ở Vũ khố vào các năm Đinh Tỵ (1857),

Mậu Ngọ (1858), Mậu Thìn (1868) nhằm phục vụ cho các hoạt động quân sự.

Không chỉ dừng lại ở đó, vua Tự Đức còn ban những Chỉ, Dụ thưởng cho quan lại

và thợ chế tạo vũ khí, đạn dược theo kiểu phương Tây vào các năm Mậu Ngọ

(1858), Kỷ Mùi (1859).

1.2.2. Ngự chế văn

Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Ngự chế là văn của vua

làm ra [30, tr.399]. Còn Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Ngự chế có

hai nghĩa, thứ nhất, Ngự chế là của vua làm ra, thứ hai là thi văn của vua làm ra [3,

tr.522]. Như vậy, có thể hiểu Ngự chế văn là tập hợp các đạo dụ do vua Minh Mệnh

ban ra từ năm đầu mới lên ngôi (1820) đến năm ông qua đời (1840).

17

Lên ngôi vua khi đã ở tuổi 29, lại là một người thông minh quyết đoán, ham học

hỏi và được đào tạo khoa cử bài bản, do đó những công văn, tấu bản đều được Minh

Mệnh xem xét cẩn thận trước khi châu phê rồi mới cho thi hành. “Vua sáng suốt, cẩn

thận về chính thể. Những chương sớ trong ngoài tâu lên, nhất nhất xem qua… việc

quan trọng thì phần nhiều vua tự nghĩ hoặc thảo ra, hoặc châu phê” [79, tr.39].

Ngự chế văn tập được lựa chọn, chỉnh lý và khắc in thành Ngự chế văn sơ

tập và Ngự chế văn nhị tập.

Ngự chế văn sơ tập là do Minh Mệnh xem xét bỏ đi 4, 5 phần không quan

trọng trong số các văn bản Ngự chế của ông, sau đó được chép lại đúng sự thực “để

xem chính sự đắc thất thế nào, trước sau siêng năng trễ nải thế nào, để tự mình cố

gắng” [79, tr.316]. Ngự chế văn sơ tập ghi chép lại các chỉ dụ của vua Minh Mệnh

ban ra từ năm Canh Thìn (1820) đến năm Canh Dần (1830) [80, tr.130-131], sau đó

được các đại thần triều Nguyễn như Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Khoa Minh;

Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực; Thượng thư bộ Binh Trương Đăng Quế… biên

tập và khắc in xong vào năm Minh Mệnh 15 (1834). Ngự chế văn sơ tập gồm 2 tập,

14 quyển, trong đó 1 quyển Biểu, 11 quyển Dụ, 1 quyển Tạp kí, 1 quyển Mục lục

với trên 400 bài Dụ và tạp kí, trong đó Dụ chiếm 384 bài [44, tr.14].

Đến năm Tân Sửu (1841), sau khi lên ngôi vua, trên cơ sở các Chỉ, Dụ của

vua Minh Mệnh từ năm Tân Mão (1831) đến năm Canh Tý (1840), vua Thiệu Trị

giao cho một số quan lại trong triều đình như Trương Đăng Quế, Nguyễn Trung

Mậu, Phan Thanh Giản ở viện Cơ Mật; Nguyễn Đình Hưng, Lâm Duy Nghĩa,

Nguyễn Cửu Trường ở Nội Các biên tập thành Ngự chế văn nhị tập. Ngự chế văn

nhị tập được khắc in vào năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) [83, tr29], gồm 10 quyển,

trong đó 1 quyển Mục lục; 8 quyển Dụ; 1 quyển Dụ tế văn với 247 bài, trong đó Dụ

chiếm 204 bài [44, tr.14].

Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu,

bản chữ Hán sách Ngự chế văn của Minh Mệnh đang được lưu giữ tại Thư viện

Viện Nghiên cứa Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Thư

viện Khoa học, dưới các tên và ký hiệu:

Ngự chế văn sơ tập A. 1823/1-3;

18

Minh Mệnh Ngự chế văn A. 118/1-3 (gồm Sơ tập và Nhị tập) VHv.69/1-7

(Sơ tập), VHv.70/1-5 (Nhị tập) [47, tr.464].

Dựa trên bản chữ Hán VHv.69/1-7 (Sơ tập), VHv.70/1-5 (Nhị tập) và có

tham khảo, đối chiếu với bản A. 1723/1-3, Trần Văn Quyền đã dịch ra tiếng Việt

văn bản Ngự chế văn của vua Minh Mệnh. Với bản dịch này, Trần Văn Quyền đã

cung cấp cho các nhà nghiên cứu toàn văn các đạo dụ của Minh Mệnh nhằm góp

một phần vào việc tìm hiểu về Minh Mệnh và triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Qua Ngự chế văn cho thấy, các vấn đề Vũ khố như chế tạo, sửa chữa vũ khí,

thưởng công, trông coi, xử phạt được đề cập đến trong một số Chỉ, Dụ của vua

Minh Mệnh.

1.2.3. Đại Nam thực lục

Theo Việt Nam tự điển, Thực lục là bản sử biên chép những sự thực của riêng

từng đời, từng triều đại như Lê triều thực lục, Đại Nam thực lục, Thanh thực lục,

Minh thực lục… [30, tr.586]. Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Thực

lục là bản sử biên chép những sự tích thuộc về vua chúa [3, tr.838].

Trong lịch sử chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, mỗi

triều đại thường có một cơ quan chép sử, tổ chức biên soạn lịch sử của triều đại mình.

Dưới triều Nguyễn, cơ quan làm sử chính thức của Nhà nước là Quốc Sử quán được

lập vào năm Tân Tỵ (1821). Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Quốc Sử quán triều

Nguyễn đã để lại nhiều công trình sử học có giá trị như Đại Nam thục lục, Đại Nam

liệt truyện, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí…

Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn,

do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi chép về triều đại phong kiến cuối

cùng trong lịch sử Việt Nam. Bộ sách được biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành,

từ khi bắt đầu làm (năm 1821) đến khi khắc in xong những quyển cuối cùng (1909).

Trong lời mở đầu của bộ sách có nói mục đích soạn sách bởi: “Nước có

chính sử, ghi chép công tốt, để lại lâu dài. […]; cho nên chép theo việc ghi truyện

thực, để truyền lại đời sau, tỏ rõ công lao từ đây” [79, tr.5]. Song vượt lên trên đó,

Đại Nam thực lục là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về nhà Nguyễn nói riêng

19

và xã hội Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1558 đến năm 1888 trên tất cả

các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tài chính, ngoại giao,

khí tượng…

Đại Nam thực lục được viết theo thể biên niên, chia thành 2 phần Tiền biên

và Chính biên.

Đại Nam thực lục tiền biên (còn được gọi là Liệt thánh thực lục tiền biên) ghi

chép về sự nghiệp của 9 chúa Nguyễn, bắt đầu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng đế Nguyễn

Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến hết đời Duệ tông Hiếu định hoàng đế

Nguyễn Phúc Thuần (1777). Đại Nam thực lục tiền biên được khởi soạn năm Tân

Mão, (1821), làm xong và hoàn thành việc khắc in năm Giáp Thìn (1844). Tổng tài

của bộ sách Đại Nam thực lục tiền biên là Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.

Đại Nam thực lục chính biên ghi chép về lịch sử vương triều Nguyễn, từ Gia

Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỷ, mỗi kỷ là một đời vua1.

1. Kỷ thứ nhất - Đời Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) từ 1778 đến 1819, gồm

60 quyển và 2 quyển mục lục, được biên soạn từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đến

năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Tổng tài gồm có Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.

2. Kỷ thứ hai - Đời Minh Mệnh (Nguyễn Phúc Đảm) từ 1820 đến 1840, gồm

220 quyển và 2 quyển mục lục, được biên soạn từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841)

đến năm Tự Đức thứ 14 (1861). Tổng tài lần lượt có Trương Đăng Quế rồi đến

Phan Thanh Giản.

3. Kỷ thứ ba - Đời Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) từ 1841 đến 1847,

gồm 72 quyển và 2 quyển mục lục. Sách khắc in năm Tự Đức 32 (1879). Tổng tài

gồm có Trương Đăng Quế, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản.

4. Kỷ thứ tư - Đời Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhiệm) từ 1847 đến 1883,

1 Thực tế, Đại Nam thực lục còn phần Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên và Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ. Trong đó, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên ghi chép về hai đời vua Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) được biên soạn từ năm 1922 đến năm 1942, gồm 29 quyển đóng thành 13 tập với hơn 1.700 trang chữ Hán. Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ ghi chép về vua Khải Định (1916-1925) được biên soạn từ năm 1932 đến năm 1939, gồm 10 quyển với hơn 1.400 trang chữ Hán. Hiện nay, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên và Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ đã được Cao Tự Thanh dịch và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ xuất bản vào năm 2012.

gồm 70 quyển và 1 quyển mục lục. Sách được biên soạn xong vào năm Thành Thái

20

6 (1894) và khắc in năm Thành Thái 11 (1899). Tổng tài gồm có Nguyễn Hữu Độ,

Phan Đình Bình, Nguyễn Trọng Hợp.

5. Kỷ thứ năm - Năm cuối đời Tự Đức và đời Kiến Phúc (Nguyễn Phúc Ưng

Đăng) từ 1883 đến 1885, gồm 8 quyển và 1 quyển mục lục. Sách biên soạn xong

vào năm Thành Thái 12 (1900), khắc in xong năm Thành Thái 14 (1902). Tổng tài

là Trương Quang Đản.

6. Kỷ thứ sáu - Đời Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch) và Đồng Khánh

(Nguyễn Phúc Ưng Xụy) từ 1885 đến 1888, gồm 11 quyển và 1 quyển mục lục.

Sách biên soạn và khắc in xong năm Duy Tân 3 (1909). Tổng tài là Cao Xuân Dục)

[46, tr.506-507], [78, tr.5].

Hiện nay Đại Nam thực lục còn lưu lại một số bản in dưới dạng bản in chữ

Hán và bản in chữ Việt.

Bản in chữ Hán, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội lưu hai bản in mang ký hiệu A.2772/1-67: 26534 tr., 31x20 và

A.27/1-66: 24924 tr., 31x20. Trong đó bản A.2772/1-67 là đầy đủ nhất, bản A.27/1-

66 thiếu phần Đệ lục kỷ. Ngoài ra, bản in tiếng Hán của bộ Đại nam thực lục còn

được lưu giữ ở Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris, Cộng hòa Pháp,

mang ký hiệu MF.610 (A.27/1-66) và Paris. EFEO.MF.II/2/168 (A.27/1-66) ) [46,

tr.506]. Đây là hai bản được sao lại từ bản A.27/1-66: 24924 tr., 31x20, do đó cũng

thiếu phần Đệ lục kỷ.

Từ năm 1961 đến năm 1981 tại Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Ngữ văn và Văn

hóa thuộc Đại học Keio đã cho in và xuất bản bộ Đại Nam thực lục với 20 tập,

8.131 trang bằng chữ Hán. Mặc dù có tên chung là Đại Nam thực lục, nhưng kiểm

tra toàn bộ 20 tập cho thấy bộ sách này gồm Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam

thực lục chính biên (từ Đệ nhất kỷ (Gia Long) đến Đệ lục kỷ (Đồng Khánh)), Đại

Nam liệt truyện tiền biên và Đại Nam liệt truyện chính biên.

Đối với bản tiếng Việt, năm 1962 Viện Sử học cho dịch Đại Nam thực lục.

Đây là một công trình dịch thuật đồ sộ của Tổ phiên dịch Viện Sử học với các thành

viên như Đào Duy Anh, Phạm Huy Giu, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh,

Nguyễn Doanh Chiên, Ngô Hữu Tạo… Sau 16 năm làm việc (1962-1978), và với

21

sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Viện Sử học hoàn thành việc dịch

và xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục gồm 38 tập. Từ năm 2002 đến năm 2006,

Viện Sử học và Nhà xuất bản Giáo dục hợp tác cho tái bản bộ Đại Nam thực lục với

10 tập, trong đó có 9 tập với hơn 9.000 trang nội dung và 1 tập tra cứu.

Là một bộ thông sử của triều Nguyễn, Đại Nam thực lục trình bày về tất cả

các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự… của nhà nước Đại

Nam. Với tư cách là cơ quan quản lý hành chính cấp trung ương, Vũ khố được trình

bày xuyên suốt trong toàn bộ các tập của Đại Nam thực lục từ các vấn đề cơ cấu tổ

chức, cơ cấu nhân sự cho đến chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của Vũ khố.

1.2.4. Minh Mệnh chính yếu

Chính yếu là những chính sách thiết yếu của một triều vua lần lượt được

phụng tấu và phê chuẩn. Thể loại sách “Chính yếu” có nguồn gốc từ Trung Hoa, ghi

chép lại những điều răn dạy, được lấy làm đạo trị nước, hướng cho người dân noi

theo. Minh Mệnh chính yếu là bộ sách lớn do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn

nhằm ghi chép những việc quan trọng, thiết yếu của nền chính trị đất nước: hình

luật, lễ nhạc, ngoại giao, trị an, khai hoang, khẩn hóa… dưới triều vua Minh Mệnh.

Minh Mệnh chính yếu được soạn ra với mục đích “Chính sự thi hành phải có

giềng mối, có pháp độ, có thể chế công bằng và ngay thẳng. Nếu giữ vững được yếu

chỉ ấy thì chẳng phải khó nhọc bao nhiêu mà trị đạo thành công” [74, tr.8], nên ngay

từ ban đầu, triều đình nhà Nguyễn đã ghi chép lại những điều có thực, thiết yếu

trong triều đại vua Minh Mệnh, để lấy đó làm mực thước, cho mọi người noi theo.

Với cách thức biên soạn “phàm những việc lớn thì nên chép rõ, còn những

việc nhỏ chỉ chép lược mà thôi”, và “những việc thuộc triều đại Gia Long, không

liên quan đến chính thể thì bỏ”, vì vậy Minh Mệnh chính yếu đề cập một cách khái

quát các việc đã xảy ra trong thời kỳ trị vì của vua Minh Mệnh.

Minh Mệnh chính yếu được bắt đầu biên soạn từ năm Đinh Dậu (1837) đến

năm Canh Tý (1840) gồm 25 quyển với 22 thiên, ghi chép các chính sách quan

trọng dưới triều Minh Mệnh.

22

Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu,

bản chữ Hán sách Minh Mệnh chính yếu gồm có 7 bản, được lưu trữ ở Thư viện

Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thư

viện Khoa học và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ, Paris, Cộng hòa Pháp,

mang các ký hiệu: 1) VHv.1254/1-12; 2) VHv.195/1-12; 3) A.57/1-11; 4) A.2688/1-

6: 1953 tr., 29x17; 5) Paris.EFEO.VIET/A/Hist.25 (1-8); 6) Paris.BN.A. 107

vietnamien (1-2): 1848 tr.; 7)Paris.MG.FV.56405: 632 tr., in năm 1972 [47, tr.286].

Hiện nay, bản dịch tiếng Việt sách Minh Mệnh chính yếu có 2 bản:

1) Bản thứ nhất do Ủy ban Dịch thuật của Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh

niên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam xuất bản từ năm 1972 đến năm 1974. Bộ sách này gồm 6 tập1.

2) Năm 1994, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã dựa vào bản dịch của Ủy ban

Dịch thuật do Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xuất bản năm 1972-1974 ở Sài Gòn, để hiệu chỉnh lại và in thành 3 tập2. Năm 2009, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã

cho tái bản thành và đóng thành 1 cuốn sách với hơn 2125 trang sách (bao gồm cả

chữ Hán và chữ tiếng Việt), khổ 24x16.

Trong 22 thiên với 25 quyển của Minh Mệnh chính yếu, Vũ khố được trình

bày ở các thiên thứ 6 (kiến quan), quyển 4; thiên thứ 7 (cần chánh), quyển 5; thiên

1 6 tập bao gồm: Tập I: từ quyển 1 đến quyển 4, gồm 224 trang tiếng Việt và 407 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hoàng Du Đồng, Hà Ngọc Xuyển dịch. Tập II: từ quyển 5 đến quyển 7, gồm 146 trang tiếng Việt và 364 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Vũ Quang Khanh và Võ Khắc Văn dịch. Tập III: từ quyển 8 đến quyển 13, gồm 309 trang tiếng Việt và 422 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Võ Khắc Văn và Lê Phục Thiện dịch. Tập IV: từ quyển 14 đến quyển 17, gồm 213 trang tiếng Việt và 246 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Đào Vũ Luyện và Thiện Trai Hồ Tánh dịch. Tập V: từ quyển 18 đến quyển 21, gồm 217 trang tiếng Việt và 362 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hà Ngọc Xuyển và Đào Vũ Luyện dịch. Tập VI: từ quyển 22 đến quyển 25, gồm 397 trang tiếng Việt và 332 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hoàng Văn Hòe và Nguyễn Quang Tô dịch. 2 3 tập gồm: Tập I: từ quyển 1 đến quyển 7, 374tr., khổ 22x14 Tập II: từ quyển 8 đến quyển 17, 475tr., khổ 22x14 Tập III: từ quyển 18 đến quyển 25, 412tr., khổ 22x14.

thứ 10 (sùng kiệm), quyển 10; thiên thứ 13 (chế binh), quyển 14; thiên thứ 14 (thận

23

hình), quyển 16; thiên thứ 15 (tài chánh và thuế khóa), quyển 17; thiên thứ 16 (pháp

độ), quyển 18.

1.2.5. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ

Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Hội điển là sách họp đủ

các chế độ lệ luật của một triều: Đại Nam hội điển, Đại Thanh hội điển, Lê triều hội

điển…[30, tr.247], còn Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Hội điển là

sách chép điển chương, pháp luật của một triều đại [3, tr.315]. Như vậy có thể hiểu,

Hội điển là sách ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến

tổ chức và hoạt động của một triều đại, một Nhà nước.

Trong lịch sử chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, mỗi

triều đại thường tổ chức biên soạn Hội điển của triều đại mình (cách gọi khác là Đại

điển, Chính điển…). Các triều đại của Trung Hoa như Đường, Tống, Nguyên,

Minh, Thanh đều có làm sách Đại điển hoặc Hội điển. Ở Việt Nam, thời Trần, thời

Lê cũng đã có loại sách này như triều Trần có Hoàng triều Đại điển do Trương Hán

Siêu, Nguyễn Trung Ngạn soạn, triều Lê có Quốc triều Hội điển soạn đời Vĩnh Hựu

(1735-1740) và Quốc triều chính điển lục do Bùi Huy Bích soạn.

Dưới triều Nguyễn, bên cạnh Quốc Sử quán - cơ quan viết sử chính thức của

Nhà nước, còn có một cơ quan đã biên chép nhiều công trình và đạt được những

thành tựu nhất định, đó là Nội các, được lập vào năm Kỷ Sửu (1829). Như đã đề cập

ở phần trước, chức năng của Nội các, trước hết chuyên giữ công việc ấn chương,

giấy tờ, sổ sách của các cơ quan trong triều đình. Nhưng Nội các triều Nguyễn còn

được giao một số nhiệm vụ mang tính chất sử học như ghi lại lời nói và việc làm

của nhà vua (được gọi là Khởi cư chú), chép việc làm của các Bộ, Viện… và điển

chế của Nhà nước đã đem thi hành. Trong số những bộ sách do Nội các triều

Nguyễn đã biên soạn và khắc in thì Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là công trình

lớn nhất và có giá trị nhất.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ gồm 262 quyển in bản gỗ, giấy lệnh hội

(32x20) mỗi quyển bình quân 30 tờ, cộng tất cả ước trên 8000 tờ, đóng thành 97

cuốn [25, tr.169-170]. Bộ sách được biên soạn trong thời gian khá dài, kể từ chỉ dụ

đầu tiên của vua Thiệu Trị vào tháng 6 năm Quý Mão (1843) [83, tr.507], đến khi

24

hoàn thành và có chỉ cho phép khắc in của vua Tự Đức, tháng 9 năm Ất Mão (1855)

[81, tr.394], tổng cộng 13 năm. Tiếp đó, bộ sách cần tới 14 năm (1855-1868) mới

khắc in xong [84, tr.1135]. Sách biên chép tất cả các dụ chỉ, sắc lệnh, chiếu chỉ… đã

đem thi hành, kể từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851).

Năm 1886, triều đình nhà Nguyễn cho tổ chức in lại Khâm định Đại Nam hội điển

sự lệ để cung cấp cho các tỉnh phía Bắc. Qua việc làm trên, càng cho thấy tầm quan

trọng của bộ Hội điển đối với công việc quản lý hành chính đất nước ngày đó.

Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,

hiện nay, nguyên bản chữ Hán sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ còn lại 10

bản in, được lưu trữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ở Thư viện của

trường Viễn Đông Bác Cổ, Paris (Pháp), gồm những bản in sau: 1) VHv. 1570/1-

42: 15.916 tr. Khổ 19x18; 2) A. 54/1-3: 17.184 tr. Khổ 30x20; 3) VHv. 65/1-88:

17.144 tr. Khổ 30x20; 4) VHv. 1680/1-94: 17.840 tr. Khổ 30x20; 5) VHv. 1681/1-32:

16.170 tr. Khổ 29x18 (thiếu Q1, 38, 66, 68, 137, 262); 6) VHv. 6611-44: 15.550 tr.

Khổ 30.5x18.5; 7) Paris. MG. FC. 39521; 8) Paris.EFÉO.VIET/A/Hist. 30 (1-69); 9)

Paris. BN.A.8 vietnamien: 1668 tr; 10) Paris. EFEO. MF. II/3/365 [47, tr.19-20].

Đối với bản dịch tiếng Việt, hiện nay có 2 bản in:

Bản dịch thứ nhất xuất hiện ở miền Nam vào những năm 1965-1968, do Bộ

Quốc gia Giáo dục thuộc Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tổ chức dịch và xuất bản.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ đã được trích dịch và xuất bản một phần nhỏ, là

phần Bang giao và Nhu viễn thuộc Bộ Lễ, tức từ quyển 128 đến quyển 136 trong

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.

Bản dịch tiếng Việt thứ hai được xuất bản vào năm 1993. Trước đó, trong

những năm 60 của thế kỷ XX, Viện Sử học đã cho dịch toàn bộ Khâm định Đại

1 Cụ thể như sau: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, Viện Tập Hiền (từ quyển đầu đến quyển 6), 233 trang. Tập II: Bộ Lại (từ quyển 7 đến quyển 17), 357 trang. Tập III: Bộ Lại (từ quyển 18 đến quyển 35), 421 trang. Tập IV: Bộ Hộ (từ quyển 36 đến quyển 52), 602 trang.

Nam hội điển sự lệ, nhưng phải đến năm 1993, bộ sách mới được nhà xuất bản Thuận Hóa in với 15 tập, với gần 8.000 trang nội dung (khổ 14,5x20,5)1.

25

Quá trình biên soạn sách về các Bộ, Nha được ghi theo một thứ tự nhất định.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: “Phủ Tôn nhân trông coi phái hệ Hoàng

gia là đảm nhận chức việc trọng yếu hàng đầu, do đó thứ tự phải ở trước tiên; viện

Cơ Mật, viện Tập Hiền kế theo, rồi đến 6 Bộ, còn nữa là những nha thuộc các Viện,

Các, Tự, Giám, Thương, Khố đều theo thứ tự tấn thân biên chế lần lượt theo sau”

[53, tr.88].

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ dành riêng 4 quyển chép về Vũ khố, từ

quyển 244 đến 247. Bên cạnh đó, Vũ khố còn được đề cập trong các quyển về Bộ

Binh, Bộ Lại, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hộ.

1.2.6. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

Trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ được biên soạn từ năm

Quý Mão (1843) đến năm Ất Mão (1855), ghi chép quy chế rõ ràng đầy đủ của các

Viện, Bộ, Nha, Tự… của triều Nguyễn từ Gia Long năm thứ nhất (1802) đến năm

Tự Đức thứ 4 (1851), triều đình nhà Nguyễn dưới thời vua Thành Thái đã tiếp tục

Tập V: Bộ Hộ (từ quyển 53 đến quyển 68), 569 trang. Tập VI: Bộ Lễ (từ quyển 69 đến quyển 95), 573 trang. Tập VII: Bộ Lễ (từ quyển 96 đến quyển 112), 565 trang. Tập VIII: Bộ Lễ (từ quyển 113 đến quyển 136), 521 trang. Tập IX: Bộ Binh (từ quyển 137 đến quyển 160, 741 trang. Tập X: Bộ Binh (từ quyển 161 đến quyển 178), 601 trang. Tập XI: Bộ Hình (từ quyển 179 đến quyển 192), 541 trang. Tập XII: Bộ Hình (từ quyển 193 đến quyển 204), 529 trang. Tập XIII: Bộ Công (từ quyển 205 đến quyển 223), 541 trang. Tập XIV: Nội các, Viện Đô sát, Ty Thông Chính sứ, Đại Lý Tự, Ty Cẩn Tín, Viện Hàn Lâm, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Phủ Nội Vụ (từ quyển 224 đến quyển 243), 433 trang. Tập XV: Vũ Khố, Ty Chế tạo ở Vũ Khố, Thương Trường, Mộc Thương, Ty Doanh Thiện ở Mộc Thương, Ty Bưu chính, Ty Hỏa pháo, Tào chính, Viện Thái Y, Khâm Thiên Giám, Quốc Tử Giám (từ quyển 244 đến quyển 262), 545 trang. Đến năm 2005, bộ sách được Viện Sử học kết hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản và rút gọn thành 8 tập với khoảng 4.200 trang nội dung, khổ 19x27, số lượng in 500 cuốn/1 tập. Cụ thể như sau: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, Viện Tập Hiền (từ quyển đầu đến quyển 6), Tập II: Bộ Lại (từ quyển 7 đến quyển 35), Tập III: Bộ Hộ (từ quyển 36 đến quyển 68), Tập IVA: Bộ Lễ (từ quyển 69 đến quyển 102), Tập IVB: Bộ Lễ (từ quyển 103 đến quyển 136), Tập V: Bộ Binh (từ quyển 137 đến quyển 178), Tập VI: Bộ Hình (từ quyển 179 đến quyển 204), Tập VII: Bộ Công (từ quyển 205 đến quyển 223), Tập VIII: Nội các, Viện Đô sát, Ty Thông Chính sứ, Đại Lý Tự, Ty Cẩn Tín, Viện Hàn Lâm, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Phủ Nội Vụ, Ty Tiết Thận, Phủ Nội Vụ, Vũ Khố, Ty Chế tạo ở Vũ Khố, Thương Trưòng, Mộc Thương, Ty Doanh Thiện ở Mộc Thương, Ty Bưu chính, Ty Hỏa pháo, Tào chính, Viện Thái Y, Khâm Thiên Giám, Quốc Tử Giám (từ quyển 224 đến quyển 262).

cho biên soạn một bộ Hội điển mới, gọi là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục

26

biên. Sau 7 năm biên soạn (1889-1895) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

được hoàn thành với 61 quyển, dày hơn 6.000 trang chữ Hán, khổ sách 16cm x

28cm. Năm Khải Định thứ hai (1917), bộ sách được khắc in [68, tr.9].

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên được biên soạn nhằm mục đích

bổ sung thêm các điều những điều lệ, những nghị định mới được thi hành từ năm

Tự Đức 5 (1852) đến năm Đồng Khánh 1 (1889).

Hiện nay, bản chữ Hán của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên ở

Việt Nam được lưu giữ ở hai nơi: 1) Bản được lưu giữ tại Viện Sử học {ký hiệu

HV.99 (1-60)} là bản in nguyên gốc và khá đầy đủ (thiếu hai quyển 9 và 10); 2)

Bản lưu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu VHv.2793/1-30) là bản sao còn lại

của Viện Sử học (từ quyển 1 - quyển 43) [47, tr.20].

Tại nước Cộng hòa Pháp cũng có một bản chữ Hán của bộ Khâm định Đại

Nam hội điển sự lệ tục biên, được lưu giữ tại Thư viện của trường Viễn Đông Bác

Cổ, Paris. Đây là bản được in từ năm 1917 và là bản được lưu giữ đầy đủ nhất hiện

nay. Sách mang ký hiệu Paris.EFEO/VIET/A/Litt, 31 (1-26), khổ 28x16 [47, tr.20].

Từ năm 2002, Viện Sử học và Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, liên kết

với Nhà xuất bản Giáo dục đã cho dịch và xuất bản từng tập sách Khâm định Đại

Nam hội điển sự lệ tục biên. Năm 2004, tập I của sách Khâm định Đại Nam hội điển

sự lệ tục biên được in với 134 trang chữ tiếng Việt và 325 trang chữ Hán, khổ

18,5x28, số lượng là 1000 cuốn. Tiếp sau đó là các tập tiếp theo từ tập II đến tập X

được in từ năm 2004 đến năm 2012.

Mặc dù những ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

không chi tiết như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ song bộ sách cũng phản ánh

khá đầy đủ các hoạt động của triều Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX (từ 1852 đến 1889)

1 Ngoài quyển Mục lục gồm các bản Sớ, Tấu của các triều Thành Thái (5 bản), Duy Tân (1 bản) và Khải Định (1 bản) về việc biên soạn và in ấn. Nội dung của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên gồm các quyển sau đây: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, (quyển 1 và quyển 2), 134 trang chữ tiếng Việt và 325 trang chữ Hán.

- thời kỳ làm vua của Tự Đức (1848-1883), Dục Đức (1883), Hiệp Hòa (1883), Kiến Phúc (1884), Hàm Nghi (1885) và Đồng Khánh (1886-1889)1.

27

Là phần tiếp theo của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, vậy nên bộ sách

tiếp tục trình bày về tổ chức, nhân sự, quan lại, phẩm trật, vị trí, vai trò, nhiệm vụ

chức năng của Vũ khố. Theo đó, Vũ khố được trình bày riêng trong quyển thứ 55,

phản ánh tương đối đầy đủ từ cơ cấu tổ chức, nhân sự cho đến các hoạt động thu

chi, cất giữ của Vũ khố giai đoạn từ 1852 đến 1884.

Ngoài ra, Vũ khố mà còn được đề cập trong các quyển về Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ

Hình, Bộ Lễ, Bộ Công trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên.

1.2.7. Đại Nam điển lệ toát yếu

Đại Nam điển lệ toát yếu là cuốn sách ghi vắn tắt về công việc của 6 Bộ triều

Nguyễn (sách tóm lược những điều cốt yếu của nước Đại Nam). Sách được biên

soạn trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định Đại Nam

hội điển sự lệ tục biên.

Bộ sách được các triều thần trong Nội các nhà Nguyễn là Lê Minh Yến,

Trương Du, Đỗ Đức Biểu biên tập, Đỗ Quang Đình, Trần Huy Chước hiệu đính, và

được in năm Duy Tân thứ 3 (1909).

Theo thống kê trong tập I sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,

Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt

Nam và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris (Pháp) lưu trữ 7 bản Hán văn khác nhau1.

Bản dịch tiếng Việt đầu tiên của Đại Nam điển lệ toát yếu do Nguyễn Sĩ

Tập II: Bộ Lại (từ quyển 3 đến quyển 10), 270 trang chữ tiếng Việt và 697 trang chữ Hán. Tập III: Bộ Hộ (từ quyển 11 đến quyển 16), 235 trang chữ tiếng Việt và 629 trang chữ Hán. Tập IV: Bộ Lễ (từ quyển 17 đến quyển 22), 211 trang chữ tiếng Việt và 593 trang chữ Hán. Tập V: Bộ Lễ (từ quyển 23 đến quyển 27), 264 trang chữ tiếng Việt và 684 trang chữ Hán. Tập VI: Bộ Lễ (từ quyển 28 đến quyển 33), 240 trang chữ tiếng Việt và 652 trang chữ Hán. Tập VII: Bộ Binh (từ quyển 34 đến quyển 37), 174 trang chữ tiếng Việt và 446 trang chữ Hán. Tập VIII: Bộ Hình (từ quyển 38 đến quyển 43), 337 trang chữ tiếng Việt và 838 trang chữ Hán. Tập IX: Bộ Công (từ quyển 44 đến quyển 49), 154 trang chữ tiếng Việt và 422 trang chữ Hán. Tập X: Nội Các, Đô Sát Viện, Đại Lý Tự, Thị Vệ Xứ và Cẩm Tín Ty, Phủ Nội vụ, Vũ Khố, Thương Trường, Khâm Thiên Giám, Nha Phụng Hộ, Nha Thông Bảo, Nha Hộ Thành (từ quyển 50 đến quyển 60), 284 trang chữ tiếng Việt và 510 trang chữ Hán. 1 Gồm các bản: 1) VHv. 1684/1-5: 594 tr, 28x16 (Bản này có 2 quyển trùng nhau, là Lễ lệ); 2) VHv. 2412- 2415, VHv. 774/1-3: 484 tr, 28x16; 3) Paris. EE0. VIETAHist. 33/1-3; 4) VHv. 2074: 110 tr, 28x16 (thiếu); 5) VHv. 2075: 138 tr, 28x16 (thiếu); 6) VHv. 1553/1-3: 346 tr, 28x16 (thiếu); 7) VHv. 33/1-2: 484 tr, 28x16 (thiếu) [47, tr.481-482].

Giác dịch và được xuất bản năm 1962 bởi Đại học Sài Gòn và Nhà in Tôn Thất Lễ,

28

sau đó được tái bản vào năm 1993 do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất

bản.

Đại Nam điển lệ toát yếu tóm tắt các điều lệ của bộ Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ (262 quyển), có bổ sung các luật lệ mới. Bên cạnh nhiệm vụ ghi vắn tắt

về công việc của 6 Bộ triều Nguyễn, trong phần đầu của Đại Nam điển lệ toát yếu

khi nói về các Phủ, Viện, Bộ, Các đã đề cập đến nhiệm vụ, chức trách, phẩm trật

quan lại ở Vũ khố một cách sơ lược nhất.

Ngoài ra, Vũ khố còn được đề cập trong các quyển về Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ

trong Đại Nam điển lệ toát yếu.

1.2.8. Đại Nam nhất thống chí

Theo Hán Việt từ điển giản yếu, Chí là sách biên chép các sự vật như địa chí

[3, tr.134]. Có thể hiểu rằng, địa chí hay địa phương chí là những ghi chép tường

tận về các mặt cương vực, hình thế, phong tục… cho đến ruộng đất, hộ khẩu, nhân

vật của một địa phương. Có sách huyện chí chép về một huyện, có sách phủ chí

chép về một phủ, có sách thông chí chép về một tỉnh, lại có sách nhất thống chí

chép về toàn quốc. Việc ghi chép đó nhằm mục đích tìm hiểu mọi mặt các địa

phương để phục vụ cho công việc quản lý, cai trị địa phương của các cấp chính

quyền từ trung ương đến địa phương.

Đến triều Nguyễn, năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai Thượng thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn bộ Nhất thống dư địa chí1. Dưới triều Tự Đức, Quốc Sử quán biên soạn ra Đại Nam nhất thống chí2. Năm Duy Tân thứ 3 (1909), Quốc sử

quán triều Nguyễn soạn lại bộ Đại Nam nhất thống chí mới, khác với bộ Đại Nam

nhất thống chí soạn từ đời Tự Đức được gọi là Đại Nam nhất thống chí cũ. Đại

Nam nhất thống chí mới chỉ nói về các tỉnh thuộc Trung Kỳ, còn đất Nam Kỳ bị coi

là thuộc địa Pháp, đất Bắc Kỳ là đất bảo hộ của Pháp không hề được nói đến.

Đại Nam nhất thống chí là một cuốn sách tổng hợp đầy đủ địa chí các tỉnh và

1 Sách Nhất thống dư địa chí gồm 10 quyển được Lê Quang Định hoàn thành vào năm 1806, ghi chép về giới hạn bờ või, sông biển nguồn lạch, cho đến cầu cống chợ điếm, phong tục thổ sản của cả nước Việt Nam từ Kinh sư vào Nam đến Hà Tiên, ra Bắc đến Lạng Sơn. [78, tr.684]. 2 Năm Nhâm Ngọ (1882), bản thảo sách Đại Nam nhất thống chí được làm xong. [85, tr.533].

đơn vị hành chính tương đương của nước Đại Nam nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế

29

kỷ XX. Đại Nam nhất thống chí được chia ra các mục như: phương vị, phân dã,

kiến trí, duyên cách, phủ huyện, hình thế, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ

khẩu, điền phú, sơn xuyên, quan tấn, dịch trạm, thị lập, từ miếu, tự quán, phân việt,

thổ sản… Ngoài ra, Đại Nam nhất thống chí còn có những quyển chép riêng về Cao

Miên (Campuchia), Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Vạn Tượng.

Theo thống kê trong tập I, sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,

hiện nay, bản in chữ Hán Đại Nam nhất thống chí gồm có các bản in và các bản

chép tay được lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Khoa học và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris (Pháp)1.

Bản in chụp bộ Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn

công bố năm Duy Tân 3 (1909) do Hội Nghiên cứu Đông Dương của Nhật Bản tiến

hành tại Tokyo vào năm Chiêu Hòa 16 (1941) gồm 2 bản: 1) VHv.1571 a/1-7; 2)

VHv.196/1-9: 956 tr, 28x16 [46, tr.489-490].

Đối với bản in tiếng Việt, hiện nay Đại Nam nhất thống chí có bốn bản in

đang được lưu hành:

Từ năm 1959 đến năm 1970, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục thuộc

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lần lượt dịch và xuất bản từng tỉnh hoặc từng phần riêng lẻ của bộ Đại Nam nhất thống chí2.

Một bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính kéo dựa vào

1 Gồm các bản sau: 1) A.853/1-8: 1718 tr., 28x16; 2) A .69/1-12: 2818 tr., khổ 30x16; 3) VHv.1571/1-8: 1572 tr., 28x16; 4) VHu.170811-15: 1572 tr., 28x16; 5) VHu.1814/1-2: 1890 tr., 21x15; 6) Paris.EFEO. VIET/A/Geo. 1 (1-8); 7) Paris.EFEO. VIET/A. Geo.2 (1-11); 8) Paris.EFEO. VIET/A. Geo.3 (1-15); 10) Paris.BN.A. 70 vietnamien. 2 Cụ thể như sau: Lục tỉnh Nam Việt (thượng) xuất bản năm 1959, do Tu trai Nguyễn Tạo dịch. Lục tỉnh Nam Việt (thượng) trình bày địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế… của các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa. Lục tỉnh Nam Việt (tập hạ), xuất bản năm 1959, do Tu trai Nguyễn Tạo dịch, 126 trang. Lục tỉnh Nam Việt (tập hạ) trình bày về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế… của các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Thanh Hóa (thượng), do Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, xuất bản năm 1960 với 122 trang nội dung. Thanh Hóa (hạ) do Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, xuất bản năm 1960 với 177 trang nội dung. 2 tập Thanh Hóa (thượng) và Thanh Hóa (hạ) đề cập đến địa thế, diện tích, cảnh quan, nhân khẩu, đất đai, phong tục, danh thắng của tỉnh Thanh Hóa. Tập X: Thừa Thiên Phủ (thượng) xuất bản năm 1961 do Tu trai Nguyễn Tạo dịch.

bản HV.140 của Thư viện Viện Sử học và bản A.69 của Thư viện Khoa học, kéo dài

30

từ năm 1969 đến năm 1971, sau đó được xuất bản thành 5 tập do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản1.

Năm 1992, Nhà xuất bản Thuận hóa hợp tác với Viện Sử học trên cơ sở bản

dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính đã cho tái bản lần thứ nhất bộ

Đại Nam nhất thống chí với khoảng hơn 2.500 trang nội dung, khổ 13x19cm.

Năm 2006, Nhà xuất bản Thuận hóa hợp tác với Viện Sử học tiếp tục tái bản

lần thứ 2 bộ sách Đại Nam nhất thống chí với khoảng 2.558 trang nội dung, khổ

13x19cm.

Ngoài ba bản dịch kể trên, năm 2004, Hoàng Văn Lâu dựa trên những kết

quả khảo sát, nghiên cứu, dịch thuật của các nhà Sử học, Hán Học, Thư tịch học…

đi trước, đã dịch lại bộ Đại Nam nhất thống chí theo bản khắc in năm 1910, kí hiệu

A.853 và bản chép tay A.69 lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sau đó, bản dịch

này được Nhà xuất bản Lao động kết hợp với Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây xuất

bản thành 2 tập vào năm 2012, với gần 2.000 trang nội dung, khổ 16x24cm.

Đại Nam nhất thống chí là bộ sách tổng hợp đầy đủ địa chí các tỉnh, do các

thế hệ tác giả góp công góp sức biên soạn, hiệu chỉnh, bổ sung, chỉnh lý, cuối cùng

được trùng tu và khắc in vào năm 1910. Đại Nam nhất thống chí là kho sử liệu

phong phú để nghiên cứu về đất nước Việt Nam thời Nguyễn.

Vũ khố được mô tả trong Đại Nam nhất thống chí với các thông tin từ vị trí,

cho đến các cơ sở kho tàng, xưởng sản xuất vũ khí của Vũ khố trong kinh thành

1 5 tập do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản gồm: Tập I: Những tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế... của Kinh sư và phủ Thừa Thiên, với 319 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập II: Những tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế... của các tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tĩnh, tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Nam, Quảng Ngãi, với 427 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập III: Khái quát về địa thế, diện tích, cảnh quan, nhân khẩu, đất đai, phong tục, danh thắng của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Hà Nội, Ninh Bình, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương với 444 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập IV: Khái quát về đặc điểm địa hình, cảnh quan, diện tích, dân số, danh thắng, sản phẩm, phong tục, tập quán sinh hoạt của các tỉnh Quảng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, với 410 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập V: Ghi lại lịch sử địa hình, phong tục, hộ khẩu… của các tỉnh Hà Tiên, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Gia Định với 378 trang nội dung, khổ 19x13cm.

Huế. Vũ khố nằm ở phía nam phường Liêm Năng, phía đông giáp vườn Tịnh Tâm,

31

phía tây giáp cung Khánh Ninh và “Ngự lộ”, phía bắc giáp Tiền khố (tức kho tiền),

phía nam giáp miếu Thanh Thần Tướng quân.

Tiểu kết chương 1

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Vũ khố đóng vai trò là một cơ quan sản

xuất vũ khí và tích chứa nguyên vật liệu. Vũ khố triều Nguyễn có tiền đề là Ty Lệnh

sử Đồ gia thời chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh, trải qua hai giai đoạn phát triển là

Ngoại Đồ gia (1802-1820) và Vũ khố (1820-1884). Trên cơ sở của Ty Lệnh sử Đồ

gia, tham chiếu các mô hình tượng cục của những triều đại trước đó, Gia Long và

các vua kế vị đã cố gắng xây dựng Vũ khố trong giai đoạn 1802-1884 ngày càng

hoàn thiện hơn, trở thành cơ quan quản lý cấp trung ương phụ trách mảng kho tàng

- quân nhu của cả nước cùng với Nội Vụ phủ, Thương trường và Mộc thương.

Hiện còn có một khối lượng tương đối phong phú các nguồn sử liệu về Vũ

khố triều Nguyễn (1802-1884), từ các văn bản hành chính như Chiếu, Chỉ, Dụ,

Sắc… được ghi chép lại trong Châu bản, Ngự chế văn, đến các nguồn tư liệu Thông

sử, Hội điển, Chí (Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm

định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất

thống chí...) ra đời trong quá trình vận động của nhà nước phong kiến cuối cùng

trong lịch sử dân tộc.

Trong các nguồn sử liệu phản ánh về Vũ khố, Châu bản là nguồn tài liệu

xuất hiện sớm nhất và kéo dài nhất (1802-1945). Tiếp đến lần lượt là các nguồn tư

liệu như Ngự chế văn (1820-1840), Đại Nam thực lục (1821-1939), Minh Mệnh chính

yếu (1837-1840), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1843-1855), Đại Nam nhất

thống chí (1864-1909), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (1889-1895). Và

cuối cùng là Đại Nam điển lệ toát yếu (1909). Như vậy, nguồn sử liệu phản ánh về

Vũ khố có khung thời gian biên soạn rõ ràng, tập trung vào thời kỳ Vũ khố được

nghiên cứu. Các thông tin về Vũ khố được phản ánh trong các nguồn sử liệu tương

đối da dạng từ bộ máy tổ chức, cơ cấu nhân sự, chức năng, nhiệm vụ, quy chế vận

hành cho đến các hoạt động sản xuất, bảo quản vũ khí… Dù vậy, các thông tin đó lại

nằm rải rác trong nhiều tập, nhiều phần khác nhau của những nguồn sử liệu.

32

Chương 2: PHÂN LOẠI SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN

(GIAI ĐOẠN 1802-1884)

Phân loại sử liệu một cách khoa học, xác đáng nhằm làm nổi bật tính đặc thù,

đồng thời chỉ ra cách thức sử dụng đúng đắn, hiệu quả đúng là không hề đơn giản vì

mỗi loại hình sử liệu đều có những đặc điểm và quá trình hình thành, phát triển khác

nhau. Trước khối tư liệu tương đối lớn và phong phú về Vũ khố triều Nguyễn,

chúng tôi áp dụng cách phân loại theo đặc trưng phản ánh để nghiên cứu giá trị của

nguồn sử liệu. Trên cơ sở phân tích về mặt hình thức và nội dung của từng nguồn sử

liệu, chúng tôi rút ra giá trị sử liệu cũng như bước đầu đưa ra cách thức xử lý đối

với từng nguồn sử liệu.

2.1. Sử liệu trực tiếp

Theo Marceli Handelsman, sử liệu trực tiếp “là những dấu vết trực tiếp của

sự tồn tại và hành động của con người trong quá khứ còn lại” [121, tr.85]. Như vậy,

có thể hiểu sử liệu trực tiếp là một bộ phận của sự kiện, trực tiếp tham gia vào sự

kiện, cung cấp những thông tin trực tiếp về sự kiện lịch sử. Trong số các nguồn sử

liệu chữ viết về Vũ khố triều Nguyễn (1802-1884), thì Châu bản và Ngự chế văn là

sử liệu trực tiếp, bởi đây chính là các văn bản hành chính như Chiếu, Chỉ, Dụ, hình

thành trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với Vũ khố, phản ánh trực tiếp quá trình

chỉ đạo, giám sát, quản lý của triều Nguyễn đối với hoạt động của cơ quan này.

2.1.1. Châu bản triều Nguyễn

Châu bản là một loại văn bản quản lý hành chính nhà nước của triều

Nguyễn, mang dấu ấn đương thời. Đối với Vũ khố, đây là nguồn sử liệu trực tiếp để

nghiên cứu.

BẢNG 2.1. THỐNG KÊ CÁC CHỈ DỤ ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ

QUA CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN

STT

NGÀY THÁNG

NỘI DUNG

NGUỒN

LOẠI VĂN BẢN

1

Chiếu

Thăng bổ quan lại

[14, tr.596]

2

Chiếu

2 tháng 9 năm Minh Mệnh 1 (1820) Ngày 24 tháng 9

Thăng bổ quan lại

[14, tr.613]

33

3

Tấu

Bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân sự quan lại ở Vũ khố

[14, tr.969- 970]

4

Tấu

[13, tr.564- 565]

Vũ khố cung cấp vũ khí, đạn dược cho các tỉnh thành trong cả nước

5

[10, tr.53]

Tấu

Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng

năm Minh Mệnh 1 (1820) 29 tháng 2 năm Minh Mệnh 5 (1824) 4 tháng 4 năm Minh Mệnh 7 (1826) Ngày 24 tháng 10 năm Tự Đức 10 (1857)

6

[10, tr.81]

Dụ

Ngày 6 tháng 10 năm Tự Đức 12 (1859)

Vua Tự Đức ban thưởng cho quan lại và thợ chế tạo vũ khí, đạn dược theo kiểu phương Tây

7

[10, tr.81]

Dụ

Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng

8

[10, tr.141]

Tấu

Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng

Ngày 9 tháng 10 năm Tự Đức 12 (1859) Ngày 14 tháng 6 năm Tự Đức 21 (1868)

Các loại hình văn bản liên quan đến Vũ khố bao gồm Chiếu, Tấu, Dụ, tức là

“công văn” hai chiều, một từ phía đội ngũ quan lại báo cáo, đề đạt lên trên, và một

bên là quan điểm chỉ đạo của vua từ trên xuống. Vì vậy, trước hết, nguồn Châu bản

phản ánh một cách trực tiếp phần nào hoạt động của Vũ khố ở khía cạnh hành

chính, cũng như vị trí của Vũ khố trong bộ máy quản lý nhà nước, và quan điểm của

người đứng đầu Nhà nước về phía hoạt động của cơ quan này.

Thông tin lịch sử liên quan đến Vũ khố trong Châu bản, như bảng thống kê ở

trên đã chỉ ra, tập trung vào hai khía cạnh chính là bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân

sự, thăng thưởng quan lại ở Vũ khố và hoạt động sản xuất vũ khí của cơ quan này.

Theo Châu bản tờ số 82, tập VIII, năm Minh Mệnh 5 (1824), Ty Thanh thận thuộc

Vũ khố được vua Minh Mệnh chuẩn tấu cho phép tăng thêm 2 viên Chủ sự trật

Chánh lục phẩm, 1 viên Thư lại Chánh bát phẩm. Những viên quan được xét đều là

người “làm việc lâu năm lại siêng năng, cẩn thận” [14, tr.969-970].

34

Bên cạnh việc tăng thêm số lượng nhân sự ở Vũ khố, Châu bản còn cho biết

năm Canh Thìn (1820), một số viên quan ở Vũ khố sau một quá trình thực hiện tốt

chức trách, nhiệm vụ được giao thường được thăng chức làm quan ở Bộ Công như

Cai bạ Đồ gia Trần Đăng Nghi được thăng chức làm Thiêm sự Bộ Công, tước Nghi

Lễ hầu [14, tr.596], hay Câu kê Nguyễn Công Liệu được thăng làm Thiêm sự Bộ

Công, tước Liêu Hòa hầu [14, tr.613].

Vũ khố là nơi chế tạo, đúc mẫu các loại vũ khí khác nhau, vậy nên Châu bản

đã nhiều lần đề cập đến hoạt động của cơ quan này. Năm Đinh Tỵ (1857), Vũ khố

cùng với Bộ Binh đã chế tạo thành công loại Pháo xa theo kiểu Tây Dương để trang

bị cho các thuyền tuần tiễu ngoài biển [10, tr.53]. Cũng trong năm này, Vũ khố tiếp

tục chế tạo thành công và đưa vào sử dụng một số loại vũ khí, đạn dược mới như

hỏa chiến chúc, hỏa đầu dầu chúc, phi hoa, chấn thuyền lôi [10, tr.53]. Tiếp đó, năm

Mậu Thìn (1868), Vũ khố chế tạo thêm 300 khẩu súng đại bác Quá sơn [10, tr.141].

Để khuyến khích hoạt động này, vua Tự Đức thường xuyên ban thưởng cho

những người có công chế tạo vũ khí, đặc biệt trong các lần chế tạo vũ khí kiểu

phương Tây. Năm Kỷ Mùi (1859), đội thợ súng sau khi đúc thành công súng “tam

đoạn loa cơ đồng pháo” [10, tr.81], hay những lần luyện chế thuốc súng loại nhỏ, thí

nghiệm tốt không khác thuốc súng của Châu Âu [10, tr.53] đều được ban thưởng.

Điều này chứng tỏ triều đình Huế rất quan tâm đến thợ sản xuất binh khí nhằm phục

vụ cho nhu cầu quân sự của Nhà nước.

Ngoài việc sản xuất, chế tạo vũ khí, Vũ khố còn có nhiệm vụ cấp phát vũ khí

cho các địa phương trong cả nước. Theo Châu bản ngày 4 tháng 4 năm Minh Mệnh

7 (1826), Vũ khố cấp cho tỉnh Bình Định 200 khẩu súng điểu thương, 40.000 viên

đạn chì, 200 cái túi da đựng thuốc súng, 5 lá cờ ngũ hành, 40 cờ đuôi nheo… [13,

tr.564]. Đến thời Tự Đức, Vũ khố cùng với Ty Pháo đội đã chế tạo 400 cái ống

đồng phun lửa (phi hỏa đồng) để cung cấp cho quân lính ở Quảng Nam và Gia Định

[10, tr.81].

Cùng với các hoạt động chế tạo, sản xuất, cung cấp vũ khí, Vũ khố còn chế

tạo các dụng cụ, đồ nghi trượng cho triều đình và hoàng thất. Theo đó, tháng 6 năm

Bính Tý (1816), Ngoại Đồ gia đã chế tạo mẫu một số đồ nghi trượng: kiệu đề lư,

35

hộp hương, quạt lông, tán, lọng, phất trần… cho bộ phận đường quan ở Bộ Binh

[14, tr.231].

Với tư cách văn bản quản lý hành chính nhà nước của triều Nguyễn, mang

dấu ấn đương thời, có độ tin cậy cao, vậy nên Châu bản là một nguồn sử liệu hết

sức quý giá để nghiên cứu về lịch sử và văn hóa cũng như toàn bộ hoạt động của

triều đình và đời sống xã hội thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX. Và Châu bản cũng là

nguồn tài liệu để biên soạn các bộ sách như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,

Minh Mệnh chính yếu…

2.1.2. Ngự chế văn

Ngự chế văn là nguồn sử liệu trực tiếp. Những đạo dụ liên quan đến Vũ khố

trong sách này chính là những văn bản do vua Minh Mệnh ban ra, phản ánh quan

điểm của vị vua này đối với Vũ khố, đồng thời cung cấp những thông tin trực tiếp

về hoạt động quản lý của nhà nước đối với cơ quan này.

BẢNG 2.2. THỐNG KÊ CÁC DỤ CỦA VUA MINH MỆNH

ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ QUA NGỰ CHẾ VĂN

1

Dụ Trần Đăng Long ở Vũ khố

STT NỘI DUNG BẢN DỤ NGUỒN TÊN BẢN DỤ NGÀY THÁNG

Ngày 5 tháng 8 năm Minh Mệnh 4 (1823)

2

Dụ Bộ Hộ

Ngày 24 tháng 2 năm Minh Mệnh 9 (1828)

[72, tr.110]

3

Dụ Bộ Hình

Ngày 16 tháng 1 năm Minh Mệnh 12 (1831)

[72, tr.258- 259]

4

Dụ Bộ Binh

Ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 17 (1836)

Thưởng cho quan Trần Đăng Long và thợ ở Vũ khố sau khi Vũ khố chế tạo thành công súng điểu thương Dụ của vua Minh Mệnh cho Vũ khố về việc sắp xếp, bảo quản nguyên vật liệu Dụ của vua Minh Mệnh về việc trừng phạt quan lại trông coi kho Vũ khố phạm tội tham ô và gian lận Dụ của vua Minh Mệnh về hoạt động sửa chữa vũ khí ở Vũ khố

[72, tr.320- 322]

[72, tr.339- 340]

Khác với sử liệu liên quan đến Vũ khố trong Châu bản, ở Ngự chế văn hoàn

toàn là các đạo dụ của vua Minh Mệnh, thể hiện thái độ, quan điểm, chỉ đạo cụ thể

36

của người đứng đầu chính quyền nhà nước đương thời đối với hoạt động của cơ

quan này. Theo nghiên cứu của Vũ Thị Phụng, các Dụ thời Nguyễn thường nặng về

bắt buộc, do đó Dụ còn là căn cứ pháp luật để nhà nước tiến hành các biện pháp

trừng phạt, cưỡng chế [72, tr.88]. Tuy vậy, điểm thú vị là các đạo dụ ở đây cũng

liên quan đến hai vấn đề được phản ánh tập trung trong Châu bản là nhiệm vụ của

Vũ khố và vấn đề nhân sự, thăng thưởng.

Trước hết, Ngự chế văn cung cấp thông tin về Dụ ban thưởng của vua Minh

Mệnh cho quan lại và thợ ở Vũ khố sau khi chế tạo thành công súng điểu thương

vào ngày 5 tháng 8 năm Minh Mệnh 4 (1823). Ngự chế văn chép: “Súng Điểu

thương dùng thuốc đạn loại mạnh mới chế là súng do nước ngoài mới chế tạo được,

mà thợ của Vũ khố cũng theo dụ chỉ làm được theo đúng kiểu đó, thật đáng khen

thưởng. Vậy truyền thưởng cho Vũ khố 100 quan tiền và giao cho Trần Đăng Long

thưởng đến tận tay các thợ giỏi, để tỏ rõ sự khen thưởng khuyến khích. Lại lệnh cho

các thợ đều phải trau dồi nghề nghiệp làm cho kỹ nghệ tinh xảo, sẽ có ban thưởng”

[44, tr.110]. Theo đó, sau khi chế tạo thành công súng Điểu thương theo cách thức

của nước ngoài, thợ ở Vũ khố được thưởng 100 quan tiền. Điều này cho thấy sự

quan tâm của người đứng đầu đất nước đối với hoạt động sản xuất vũ khí ở Vũ khố,

mặt khác cho thấy kỹ thuật đúc súng nói riêng, kỹ thuật quân sự thời Minh Mệnh

nói chung tương đối phát triển. Bên cạnh việc khen thưởng, Minh Mệnh cũng mong

muốn thợ ở Vũ khố cũng cần phải luôn luôn trau dồi tay nghề nhằm nâng cao chất

lượng sản phẩm.

Bên cạnh Dụ về chế tạo vũ khí và khen thưởng các thợ ở Vũ khố, vua Minh

Mệnh còn ban một số Dụ về việc sửa chữa và bảo quản vũ khí ở Vũ khố. Tháng 7

năm Bính Thân (1836), thợ sửa chữa và quan lại trông coi làm việc cẩu thả, tắc

trách khi sửa chữa gần 1000 cây súng Điểu thương cũ, do đó đều bị trách phạt nặng.

Ngự chế văn ghi: “Vào tháng 3, trẫm có sai mang gần 1.000 cây điểu thương cũ ở

trong kho ra sửa chữa để khi cần thì dùng. Ngày hôm nay được báo đã sửa xong,

trẫm sai lấy mấy cây trình xem, thấy bề ngoài còn trông được, nhưng đến khi tháo

súng ra xem thì ống đồng cũng rời theo luôn. Rõ ràng là thợ làm cẩu thả tắc trách

mà đến đốc công trông coi, thị vệ nhắc nhở đều không để ý kỹ, nên súng không

37

chắc chắn, khó có thể dùng được. Vậy, ngoài việc đã cho lấy gậy đánh đòn ngay

bọn y và thợ sửa chữa ra, trẫm vẫn nghĩ những cây súng chưa được trình xem khó

đảm bảo được là đều chắc chắn. Vậy truyền cử 1 đường quan Bộ Binh, một viên

sung vào làm việc ở Nội các, tới Vũ khố lấy từng cây điểu thương mới được sửa

chữa ra kiểm tra, nếu có chỗ còn chưa tốt thì tâu rõ sự thực để trừng trị không chút

khoan dung, và còn chiếu theo từng loại bắt bồi thường” [44, tr.340-341].

Qua Dụ này cho thấy, vua Minh Mệnh rất quan tâm, chú ý đến việc bảo quản

vũ khí. Trong quá trình sửa chữa các loại vũ khí, triều đình yêu cầu phải cẩn thận,

nghiêm túc không được phép làm một cách chiếu lệ.

Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại trong triều đình, ngày 9 tháng 11

năm Minh Mệnh 11 (1830), trong lời Dụ của vua Minh Mệnh đã phản ánh về việc

bầu hay giới thiệu quan lại giữ chức Chủ thủ ở Vũ khố nói riêng và các kho tàng

trong Kinh thành phải có năng lực làm việc. Theo bản Dụ này, viên quan Lang

trung Bộ Công Đoàn Văn Phú trước giới thiệu Lê Văn Đức, An Thắng nhưng đều là

những viên quan bình thường, hiểu biết thô sơ, vì vậy Đoàn Văn Phú bị giáng

xuống làm Đốc công Vũ khố [44, tr.310].

Bên cạnh đó, Ngự chế văn còn cho biết đối với quan lại tham ô, gian dối ở

Vũ khố bị trừng trị rất nặng. Tân Mão (1831), Thư lại Vị nhập lưu Hoàng Hữu

Nhận làm giám thủ coi kho ở Vũ khố bị phát hiện tham ô. Vua Minh Mệnh đã “lệnh

cho cho Cẩm y vệ áp giải tội phạm chính là Hoàng Hữu Nhận đến đầu cửa Vũ khố

treo cổ cho đến chết” để nhằm “cảnh cáo kẻ coi thường phép nước, lừa dối vua”

[44, 320-322]. Ngoài ra, những viên quan ở Vũ khố có liên quan cũng bị trừng phạt

theo các mức độ khác nhau. Theo đó “kẻ cùng soạn nhưng không đưa lên là thứ

phạm Dương Trọng Túc, truyền cùm chặt 2 tháng, hết hạn đánh 100 gậy đỏ, đưa đi

làm lính ở đồn canh phòng Ai Lao. Năm tên đồng sự nhưng hôm ấy không can dự là

Tư vụ Lê Viết Chiêm, Thư lại Chánh cửu phẩm Phạm Văn Tố, Thư lại Vị nhập lưu

Trần Mậu Tuấn, Nguyễn Khiêm Thống và Lê Văn Thuật, đều truyền cắt bỏ chức

dịch, cùm chặt 1 tháng, hết hạn đánh 100 gậy, đưa đến làm lính ở phủ Thừa Thiên”

[44, 320-322]. Điều này cho thấy, dưới triều Nguyễn nói riêng, các triều đại khác

nói chung, các kho của Nhà nước như phủ Nội vụ, Vũ khố và các kho ở trong Kinh

38

thành hay ngoài thành, phần lớn đều xảy ra tình trạng tham ô, lừa dối. Mặt khác,

cho thấy pháp luật triều Nguyễn tương đối hà khắc.

* *

*

Nguồn sử liệu trực tiếp mặc dù mức độ thông tin không lớn, lại chỉ tập trung

ở một vài khía cạnh như hoạt động sản xuất vũ khí, thăng bổ quan lại nhưng tất cả

đều có độ tin cậy, đảm bảo tính chính xác cao, đã cung cấp những thông tin trực tiếp

về Vũ khố từ cơ cấu nhân sự, hoạt động sản xuất và bảo quản vũ khí cho đến việc

khen thưởng những người có công hay trừng phạt những người tham ô, vi phạm

pháp luật… Từ những thông tin này cho thấy đây chính là những sinh hoạt thường

ngày ở Vũ khố.

2.2. Sử liệu gián tiếp

Theo Handelsman, “sử liệu gián tiếp là những tài liệu để nhớ những thời đại

đã qua” [121, tr.85]. Như vậy có thể hiểu sử liệu gián tiếp là nguồn tài liệu không

trực tiếp tham gia vào sự kiện, thường ra đời sau sự kiện lịch sử. Nó cung cấp

những thông tin gián tiếp về sự kiện bởi giữa nhà nghiên cứu và lịch sử có vai trò

trung gian của tác giả sử liệu. Những sách chính sử, địa chí, những ghi chép trong

hội điển chính là những nguồn sử liệu gián tiếp về lịch sử Vũ khố triều Nguyễn giai

đoạn 1802-1884.

2.2.1. Đại Nam thực lục

Đại Nam thực lục có thể coi là một trong số những nguồn sử liệu phản ánh

nhiều nhất, đầy đủ nhất về Vũ khố xét từ góc độ số lần đề cập cũng như các khía

cạnh phản ánh và lượng thông tin được phản ánh.

39

BẢNG 2.3. THỐNG KÊ SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884) QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC1

SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ

STT TRIỀU VUA

THỜI GIAN

Tỷ lệ (%)

Tổng số

Cơ cấu tổ chức + nhân sự

Lƣơng bổng, phẩm trật, công đƣờng, ấn tín, quan phục

Hoạt động sản xuất vũ khí, đúc tiền

Thanh tra, hoạt động khác

10

4

2

2

2

1

Gia Long

6,50

1802- 1819

100%

20%

40%

20%

20%

92

16

6

48

22

2

Minh Mệnh

59,74

1820- 1840

100%

19,39%

6,52%

23,91%

50,18

17

0

0

12

5

3

Thiệu Trị

11,04

1841- 1847

100%

0%

0%

29,41

70,59

31

2

1

21

7

4

Tự Đức

20,13

1848- 1883

100%

6,45%

3,22%

22,58%

67,75%

4

2

1

1

0

5

Kiến Phúc

1884

2,59

100%

50%

25%

25%

0%

154

24

10

84

36

6

Tổng số

100

100%

15,58

6,50

23,38

54,54

1 Nội dung chi tiết xem ở phần Phụ lục 1.

40

Qua bảng thống kê cho thấy, trong khoảng thời gian 83 năm từ 1802 đến

1884 có ít nhất 154 sự kiện liên quan đến Vũ khố đã diễn ra, trung bình khoảng

1,86/1 năm, tức là mỗi năm có gần 2 sự kiện liên quan đến Vũ khố được diễn ra.

Tuy nhiên, sự phân bố giữa các triều vua lại không đều. Những sự kiện liên quan

đến hầu hết các vấn đề từ tên gọi, cơ cấu nhân sự, cho đến phẩm trật cùng chức

năng, hoạt động của nha Vũ khố đã được ghi chép lại.

Nhìn một cách tổng quát, bản thân số lần đề cập đến Vũ khố trong Đại Nam

thực lục cũng đã phản ánh phần nào về hoạt động của cơ quan này trong giai đoạn

1802-1884. Từ bảng thống kê có thể thấy, dưới các đời vua triều Nguyễn đều có

những hoạt động liên quan quan đến Vũ khố, tuy nhiên sự phân bố giữa các triều

vua lại không đều.

Trong 154 sự kiện đó, thời vua Minh Mệnh có số sự kiện liên quan diễn ra

nhiều nhất, 92 sự kiện, chiếm 59,74%, tiếp đó lần lượt là đời vua Tự Đức (31 lần,

chiếm 20,13%), Thiệu Trị (17 lần, chiếm 11,04%), Gia Long (10 lần, chiếm 6,50%),

và thấp nhất là thời vua Kiến Phúc (4 sự kiện, chiếm 2,59%). Sự chênh lệch giữa số

sự kiện liên quan diễn ra nhiều nhất và ít nhất khoảng 24 lần.

Đi sâu phân tích cho thấy, thời Minh Mệnh mật độ sự kiện liên quan đến Vũ

khố diễn ra nhiều nhất, trung bình mỗi năm có khoảng 4,38 sự kiện, thấp nhất là

thời vua Gia Long, chỉ có 0,53 sự kiện, tức là khoảng trung bình gần 2 năm mới có

1 sự kiện liên quan đến Vũ khố được diễn ra.

Về mặt hoạt động, số liệu thống kê cho thấy các sự kiện liên quan đến hoạt

động thanh tra và các hoạt động khác diễn ra nhiều nhất với 84 lần, chiếm khoảng

54,54%, tiếp đó là các sự kiện liên quan đến hoạt động sản xuất vũ khí đúc tiền là

36 lần, chiếm 23,38%, sự kiện liên quan đến cơ cấu tổ chức và cơ cấu nhân sự diễn

ra 24 lần, chiếm 15,58%, thấp nhất là các sự kiện liên quan đến lương bổng, phẩm

trật, công đường, ấn tín, quan phục, chỉ chiếm có 6,5% (10 lần).

Từ bảng thống kê, khi đối chiếu với các thời kỳ trị vì của những vị vua triều

Nguyễn khác từ các sự kiện từ cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự cho đến hoạt động 41

thanh tra và các hoạt động khác, thời Minh Mệnh đều chiếm tỉ lệ cao nhất. Điều này

cho thấy hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn diễn ra sôi nổi nhất dưới thời Minh

Mệnh.

So sánh với các nguồn trực tiếp, rõ ràng Đại Nam thực lục là một nguồn sử

liệu phong phú, đa dạng hơn rất nhiều. Những thông tin trong đó phản ánh về mọi

mặt hoạt động của Vũ khố theo chiều lịch đại trong suốt một khoảng thời gian dài.

Chính vì vậy, đây là nguồn sử liệu cung cấp thông tin để phục dựng lại hình ảnh của

Vũ khố với những sự biến chuyển qua thời gian.

Chẳng hạn, dựa trên những thông tin có trong Đại Nam thực lục, nhà nghiên

cứu có thể tìm hiểu được tên gọi của Vũ khố và sự thay đổi tên gọi qua các thời kỳ,

từ Lệnh sử ty Đồ gia khi mới thành lập năm Đinh Tỵ (1617) dưới thời chúa Nguyễn

[78, tr.39], tới Ngoại Đồ gia sau khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn (1802), rồi Vũ

khố (1820) dưới thời Minh Mệnh [79, tr.39].

Tương tự, quá trình biến chuyển cơ cấu nhân sự ở Vũ khố cũng có khả năng

được phác dựng từ ghi chép của nguồn sử liệu gián tiếp này.

BIỂU ĐỒ: QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI NHÂN SỰ Ở VŨ KHỐ

TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

Qua biểu đồ cho thấy cơ cấu nhân sự Vũ khố triều Nguyễn liên tục có sự

thay đổi. Trong vòng hơn 80 năm (1802-1884), đã có ít nhất 10 lần cơ cấu nhân sự

Vũ khố có sự tăng giảm, biến động, trung bình khoảng 8 năm có 1 lần có sự thay

42

đổi. Điều này cho thấy, Vũ khố là một tổ chức động, chứ không hề bất biến, cứng

nhắc, có sự thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự diễn ra nhiều lần nhất là dưới triều vua

Minh Mệnh (5 lần), đặc biệt là trong 10 năm đầu cầm quyền của vị vua thứ 2 triều

Nguyễn: 5 lần, chiếm tới 50% sự thay đổi của toàn bộ cơ cấu nhân sự Vũ khố triều

Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Sự thay đổi này nhằm hướng tới một sự phù hợp hơn

trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn nói chung, nha Vũ khố nói riêng.

Trong cơ cấu nhân sự, năm 1828, Vũ khố có số lượng lớn nhất với 89 người,

năm 1884 thấp nhất là 29 người, chênh lệch 3,07 lần. Cơ cấu nhân sự Vũ khố có số

lượng lớn nhất vào thời vua Minh Mệnh bởi đây là thời kỳ triều đình Huế quản lý

trên một lãnh thổ rộng lớn và phù hợp với xu hướng mở rộng bộ máy quản lý hành

chính trung ương. Dưới thời Kiến Phúc (1884), cơ cấu nhân sự Vũ khố thu hẹp với

số lượng quan lại thấp nhất bởi vì vào giai đoạn này, triều Nguyễn chỉ trực tiếp

quản lý khu vực Trung Kỳ, còn Nam Kỳ là thuộc địa và Bắc Kỳ là đất bảo hộ của

Pháp.

Bên cạnh đó, Đại nam thực lục cũng phản ánh hoạt động sản xuất và vũ khí

ở Vũ khố.

BẢNG 2.4: HOẠT ĐỘNG CHẾ TẠO SÚNG, ĐẠN CỦA VŨ KHỐ

TRIỀU NGUYỄN (1802-1884) QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC

NĂM NGUỒN LOẠI SÚNG, ĐẠN ĐƢỢC CHẾ TẠO

1809 Súng Quá sơn [78, tr.868] TRIỀU VUA GIA LONG

1821 Súng đại bác Uy phúc [79, tr.111]

1822 Súng đồng hạng trung, hạng tiểu [79, tr.206]

1823 Súng tay kiểu Tây dương [79, tr.299]

MINH MỆNH 1824 Súng gang [79, tr.351]

1830 Súng bắn đạn Mẫu tử liên châu [80, tr.60]

1830 Súng gang Hồng y [80, tr.77]

43

[80, tr.520] 1833 Đạn liên tỏa hồ điệp

[81, tr.209] 1834 Pháo Xung tiêu đại đồng

[81, tr.358] 1834 Phá địch thượng tướng quân và Phá địch đại tướng quân

[81, tr.605] 1835 Liên can thiết đạn

[81, tr.796] 1835 Súng Điểu sang

[82, tr.551] 1839 Đạn Liên can và đạn Liên châu

[82, tr.822] 1840 Súng lớn Chấn hải

[82, tr.861] 1840 Súng “Xung tiêu” bằng đồng

1847 Đạn gang chấn địa lôi [83, tr.1002-1003]

THIỆU TRỊ 1847 Thần uy phục viễn đại tướng quân [83, tr.1032]

[84, tr.608] 1859 Chế súng đồng

[84, tr.618] 1859 Súng sắt máy Phật Lan

[84, tr.623] 1859 Súng Quá sơn và đạn

[84, tr.671] 1860 Súng đồng hạng lớn

[84, tr.709] 1861 Súng lớn (lòng súng 1 tấc)

TỰ ĐỨC [84, tr.1047] 1867 Quá sơn thần công

[84, tr.1341] 1872 Súng Quá sơn

1872 Súng Thần công và súng điểu thương [84, tr.1357]

1875 Súng Thần công ngắn [85, tr.138]

1876 Đạn bằng gang [85, tr.244] BẢNG 2.5: MẬT ĐỘ CHẾ TẠO VŨ KHÍ CỦA VŨ KHỐ DƢỚI CÁC TRIỀU VUA NGUYỄN

STT TRIỀU VUA

1 Gia Long MẬT ĐỘ (số lần/ 1 năm) 0,053

2 Minh Mệnh 0,667

3 Thiệu Trị 0,286

4 Tự Đức 0,263

5 Triều Nguyễn (1802-1884) 0,325

44

Trong vòng 83 năm, có ít nhất 27 lần Đại Nam thực lục ghi chép lại các hoạt

động chế tạo, sản xuất súng đại bác, súng tay và đạn ở Vũ khố. Như vậy, bình quân

khoảng 3 năm 1 lần, triều đình Huế lại cho phép Vũ khố đúc súng, đạn với quy mô

lớn nhỏ khác nhau. Điều này phản ánh tần suất hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí ở

Vũ khố diễn ra không quá nhộn nhịp.

Qua bảng số liệu 2.4 cho thấy, hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí của Vũ khố

diễn ra mạnh nhất dưới triều vua Minh Mệnh với 14 lần (chiếm 51,85%), tiếp đó

đến triều Tự Đức (10 lần, chiếm 37,05%), Thiệu Trị (2 lần, chiếm 7,4%), cuối cùng

là thời vua Gia Long, chỉ có 1 lần, chiếm 3,7%. Điều này phản ánh chính xác phần

nào tình hình kinh tế, xã hội dưới các triều vua Nguyễn. Dưới thời Minh Mệnh,

phong trào khởi nghĩa nông dân rộng khắp cả nước. Để ổn định tình hình đất nước

cũng như dập tắt các phong trào nông dân, nhà nước cần một số lượng lớn vũ khí,

đạn dược. Do đó, hoạt động sản xuất chế tạo vũ khí dưới thời Minh Mệnh diễn ra

với quy mô lớn, sôi nổi và nhiều nhất.

Trong những năm có hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí, năm 1859 hoạt động

sản xuất, chế tạo vũ khí diễn ra nhiều nhất (3 lần). Năm 1858, thực dân Pháp nổ

súng xâm lược Đại Nam, để có thể đảm bảo đủ vũ khí đạn dược chống Pháp, triều

đình nhà Nguyễn đã cho Vũ khố chế tạo các loại vũ khí như súng đại bác, súng điểu

thương, và các loại đạn dược tương ứng đi kèm. Do vậy, năm 1859 ở Vũ khố đã có

3 lần diễn ra hoạt động sản xuất chế tạo vũ khí.

Tiếp tục phân tích bảng 2.5 cho thấy mật độ chế tạo vũ khí giữa các triều vua

Nguyễn cho thấy, mật độ trung bình cao nhất diễn ra dưới triều vua Minh Mệnh,

trung bình 0,667 lần/1 năm. So sánh với các triều Thiệu Trị, Tự Đức, Gia Long, thời

Minh Mệnh, mật độ chế tạo vũ khí gấp 2,05 lần so với mật độ trung bình của triều

Nguyễn, và gấp lần lượt 2,33; 2,54; 12,58 lần.

Mặc dù súng, đạn được sản xuất tương đối nhiều, nhưng do trình độ kỹ thuật

còn thấp so với tiến bộ của khoa học quân sự thế giới nhất là đến thời vua Tự Đức

(1848-1883), Kiến Phúc (1884) nên hiệu quả sử dụng không lớn. Các viên đạn được

45

đúc ra cũng chỉ là những khối sắt, gang có kích cỡ phù hợp với nòng súng để thuốc

súng đẩy ra ngoài.

Một điểm cũng cần phải nhắc đến là với đặc điểm biên chép sử theo lối “thực

lục”, Đại Nam thực lục cũng đề cập, tóm tắt, thậm chí chép lại một số văn bản khác

có liên quan đến Vũ khố, chẳng hạn như Hội điển toát yếu. Trong khi chưa có bản

dịch phổ biến của sách Hội điển toát yếu, Đại Nam thực lục trở thành kênh để tiếp

cận với bộ điển lệ có sớm hơn cả trong khối điển lệ triều Nguyễn. Vì vậy, giá trị của

nguồn sử liệu này trong đề tài Vũ khố không chỉ dừng lại ở những sự kiện được biên

chép theo dòng thời gian. Tuy nhiên, chính vì đây chỉ là nguồn sử liệu gián tiếp nên

khi sử dụng, nhà nghiên cứu cần phải có sự so sánh, đối chiếu với những nguồn khác.

2.2.2. Minh Mệnh chính yếu

Thông tin về Vũ khố trong Minh Mệnh chính yếu chủ yếu gồm các đạo dụ

của vua Minh Mệnh liên quan đến hoạt động sản xuất của cơ quan này, cùng với lệ

về vấn đề nhân sự và một số ghi chép cụ thể khác.

BẢNG 2.6. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG

MINH MỆNH CHÍNH YẾU

STT

QUYỂN

THIÊN

TRANG

NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ

1

Quyển 4

Thiên thứ 6

Sự thay đổi tên gọi, chức quan và nhân sự Vũ khố

[77, tr.156, 158-159]

2

Quyển 5

Thiên thứ 7

[77, tr.214]

3

Quyển 10

Thiên thứ 10

[77, tr.762- 763]

4

Quyển 14

Thiên thứ 13

[77, tr.906]

5

Quyển 16

Thiên thứ 14

Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố trong việc sử dụng nguyên vật liệu Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố trong việc sử dụng nguyên vật liệu. Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố về việc sửa chữa vũ khí. Dụ của vua Minh Mệnh trừng trị quan lại tham ô ở Vũ khố

6

Quyển 17

Thiên thứ 15

Lệ thay đổi người đứng đầu ở Vũ khố.

7

Quyển 18

Thiên thứ 16

Vũ khố chế tạo hộc, phương, thăng, đấu và cấp phát cho các địa phương

[77, tr.980- 981] [77, tr.1076] [77, tr.1474]

46

Trước hết, Minh Mệnh chính yếu cung cấp thông tin về việc đặt chức quan

mới ở Vũ khố. Theo đó, năm Ất Dậu (1825), Vũ khố chính thức được đặt chức

Thiêm sự, trật Chánh tứ phẩm [77, tr.161]. Chức quan Thiêm sự lần đầu xuất hiện

trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn vào năm Giáp Tý (1804), khi triều đình Huế bàn

định và ban bố quan chế. Theo quan chế năm Giáp Tý (1804), chức Thiêm sự có

trật Chánh tứ phẩm và chỉ có ở 6 Bộ mà thôi. Việc đặt chức Thiêm sự thể hiện sự

phát triển, mở rộng của nha Vũ khố, vì trước đó, triều đình Huế thường lấy các viên

Thiêm sự ở Bộ để kiêm quản Vũ khố.

Là cơ quan coi giữ của công lớn nhất cả nước, do vậy vua Minh Mệnh có sự

quan tâm đặc biệt tới Vũ khố. Sau khi lên ngôi, Minh Mệnh có những Dụ đối với

Vũ khố. Đầu tiên là Dụ đối với tệ nạn xâm phạm của công. Theo đó, các quan giữ

chức Giám lâm (chủ kho) phải luôn kê cứu, kiểm soát nguyên vật liệu ở kho để

tránh hiện tượng trộm cắp. Quan lại ở Vũ khố cứ 3 tháng 1 lần phải kiểm kê danh

sách thu, chi của kho, sau đó đóng dấu kiềm và chờ khi thanh tra [77, tr.1031].

Ngoài ra, để phòng ngừa việc tham ô, tham nhũng ở Vũ khố, năm Canh Tý

(1840), triều đình Huế cũng đặt ra lệ thay đổi thời gian làm việc của các viên quan

coi giữ các kho Vũ khố. Trước đó, quan lại ở Vũ khố từ chức Chủ sự đến Thư lại

sau khi làm hết một khóa (một khóa = 6 năm), một nửa số đó sẽ được lưu lại. Tính

ra, số nhân viên lưu lại làm việc ở các kho lên tới 12 năm. Điều đó có thể sinh ra

nhiều tệ hại. Do vậy, Nhà nước có quy định mới, từ Chủ thủ đến viên dịch, sau một

khóa làm tất cả đều được chuyển đến nơi khác [77, tr.1076].

Bên cạnh những Chỉ, Dụ nhằm hạn chế việc tham nhũng, xâm phạm của

công, Minh Mệnh còn ban một số Dụ về việc tiết kiệm, tận dụng nguyên vật liệu

trong việc chế tạo các hạng vật mới. Theo đó, việc tiêu dùng hay cấp phát cho các

cơ quan khác đều phả kê rõ từng khoản để xem xét, không để xảy ra việc “dùng vật

thô sơ mà chi phát vật tinh xảo, dùng ít mà chi phát nhiều” [77, tr.762-763]. Ngoài

ra, năm Tân Mão (1831), Vũ khố được triều đình Huế giao cho chế tạo lại các hạng

47

thước đo như hộc, phương, thăng, đấu, bát… để cấp cho các địa phương nhằm hạn

chế việc gian lận trong lúc cân đong hàng hóa, nguyên vật liệu. Minh Mệnh chính

yếu chép: […] các viên lại dịch trong kho thu phát còn nhiều kẻ tay đong nặng nhẹ, vua bèn sai chế thứ hộc phương1 mới, ban cấp cho các kho trong kinh và các địa

phương” [77, tr.1474].

So sánh với nguồn sử liệu được hình thành trong khoảng cùng thời gian là

Ngự chế văn cho thấy, hai nguồn sử liệu này có cung cấp những thông tin giống nhau,

như cùng đề cập đến việc tham ô và bị xử phạt của viên quan Thư lại Vị nhập lưu

Hoàng Hữu Nhận [44, 320-322], [77, tr.980-981]. Ngoài ra, sự kiện này cũng được đề

cập một cách chi tiết trong Đại Nam thực lục [80, tr.132-133]. Tuy nhiên với mục

đích biên soạn sách khác nhau, do vậy những thông tin đề cập đến Vũ khố trong 2

nguồn sử liệu này cũng khác nhau. Ngự chế văn phản ánh các quan điểm, chỉ đạo cụ

thể của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố. Trong Minh Mệnh chính yếu, bên cạnh việc

phản ánh một số quan điểm, thái độ của vị vua thứ 2 triều Nguyễn, còn đề cập đến

các hoạt động sản xuất cùng với vấn đề nhân sự và một số ghi chép khác.

2.2.3. Sách Hội điển

Các sách Hội điển ghi chép lại các điển pháp, quy của chuẩn và các hoạt

động, tổ chức của các Nha, Bộ triều Nguyễn. Do vậy, nguồn sử liệu này phản ánh

các khía cạnh tổ chức, nhân sự, quan lại, phẩm trật, nhiệm vụ chức năng, kho tàng

cho đến trang bị đảm bảo cho quá trình vận hành của Vũ khố như công đường,

phẩm phục, thanh tra giám sát… Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chẳng hạn,

quyển 244 trình bày về cơ cấu tổ chức, nhân sự, phần chưa ở từng kho, thay đổi tên

gọi của các kho ở Vũ khố, phần Cấm lệnh trình bày 10 chỉ dụ của các vua Gia

Long, Minh Mệnh về việc bảo quản nguyên vật liệu ở Vũ khố. Quyển 245 trình bày

1 Theo quy thức mới, hộc, phương có gia cao lên và hẹp hơn, hai bên phụ thêm miếng gỗ cao hơn miệng, ở giữa có cái cầu gỗ bằng với miệng, để người cầm cái gạt trên miệng không nặng nhẹ tay được.

về các vấn đề thu chi, việc chi tiêu và cất giữ của Vũ khố. Những quy định về tiêu

48

hao nguyên liệu trong quá trình chế tạo, thanh tra hoạt động của vũ khố, hay vấn đề

lương ăn, ngạch thợ ở Vũ khố được trình bày ở quyển 246, 247.

Ba bộ sách hội điển cung cấp những thông tin lịch sử phong phú và đa dạng

về quá trình vận động liên tục của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.

BẢNG 2.7. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG

KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ

STT TẬP QUYỂN TRANG

1 II 9 84-88 NỘI DUNG Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố

2 V 156-162 Lương bổng quan lại Vũ khố 57 BỘ BỘ LẠI BỘ HỘ

Phẩm phục quan lại Vũ khố 78 204-206 3 VI BỘ LỄ 84 298-300

4 IX 153 508-512 Ấn tín quan lại Vũ khố Hoạt động trang bị quân dụng và sửa chữa vũ khí của Vũ khố

5 XI 187 391-397 Phẩm phục quan lại Vũ khố

6 XIII 210 152-154 BỘ BINH BỘ HÌNH BỘ CÔNG Công đường và Quan xưởng của Vũ khố

BẢNG 2.8. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG

KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ TỤC BIÊN

STT BỘ TẬP QUYỂN TRANG NỘI DUNG

3 33-38 Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố. 1 II BỘ LẠI 6 104-106 Tuyển chọn Chủ thủ cho Vũ khố

13 93-94 Thanh tra ở Vũ khố 2 III BỘ HỘ 14 137-143 Lương bổng quan lại Vũ khố

3 VIII 40 107-116 Luật về kho chứa ở Vũ khố BỘ HÌNH

49

BẢNG 2.9. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG

ĐẠI NAM ĐIỂN LỆ TOÁT YẾU

STT BỘ PHẦN TRANG NỘI DUNG

1 BỘ LẠI 19-27 I Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố.

221-223 Vũ khố chế tạo hộc, phương, thăng đấu II 2 BỘ HỘ 227-229 Lương bổng quan lại Vũ khố

327 Ấn tín quan lại Vũ khố 3 BỘ LỄ III 323-329 Phẩm phục quan lại Vũ khố

Trước hết, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ tục biên cung cấp thông tin về tổ chức biên chế của Vũ khố triều Nguyễn.

Theo đó, Vũ khố gồm 1 viên Thị lang (trật Chánh tam phẩm) đứng đầu, giúp việc

có 1 viên Lang trung (trật Chánh tứ phẩm) và 2 viên Viên ngoại lang (trật Chánh

ngũ phẩm) [67, tr.11-12], [22, tr.15]. Dưới quyền có Từ Trát tào (tức phòng Văn thư, và hai hiệu (ký hiệu) Kho Giáp, Ất gồm 8 kho1. Đứng đầu Từ Trát tào là 1 viên

Thư lại Chánh bát phẩm. Người đứng đầu các Kho Giáp, Ất là viên 1 viên Chủ sự

1 8 kho: Giáp I, Giáp II, Giáp III, Giáp IV, Ất I, Ất II, Ất III và Ất IV.

(trật Chánh lục phẩm) hoặc Tư vụ (trật Chánh thất phẩm) [67, tr.11-12].

50

Bên cạnh đó, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ còn cung cấp thông tin về

việc mở rộng và thay đổi tên gọi các kho ở Vũ khố. Ban đầu khi Vũ khố mới thành

lập (1802), vua Gia Long cho đặt ra 7 kho khác nhau trông coi vật liệu là (1) Kho

khí giới, (2) Kho đồng, (3) Kho tiền, (4) Kho vận lương, (5) Kho thủy, (6) Kho

chiếu, (7) Kho than [67, tr.17]. Năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mệnh đã cho đổi

Kho khí giới làm Kho Giáp I, Kho đồng làm Kho Giáp II, Kho sắt làm Kho Giáp III,

Kho vận lương làm Kho Giáp IV, Kho thủy làm Kho Ất I, Kho chiếu làm Kho Ất III,

Kho than làm Kho Ất IV, và đặt thêm Kho Ất II, tổng số là 8 kho [67, tr.17-18].

Cùng với việc mở rộng và thay đổi tên gọi ở các kho Vũ khố, Minh Mệnh

cũng quy định chi tiết việc lưu trữ vũ khí và nguyên vật liệu ở các kho. Cụ thể, kho

Giáp I giữ các hạng quân khí. Kho Giáp II giữ các hạng đồng thiếc cùng các khí cụ

bằng đồng, thiếc. Kho Giáp III giữ các hạng sắt gang cùng các khí cụ bằng sắt gang.

Kho Giáp IV giữ các hạng vàng, bạc tiệp, các hạng giấy, cùng những thứ như tạp

liệu sơn, nhuộm,… Kho Ất I giữ các hạng đầu cùng các hạng đèn lồng. Kho Ất II

giữ các hạng song, mây, cùng thừng chão, buồm, rèm. Kho Ất III giữ các hạng da

51

thú, lông chim, cùng khí cụ, vật liệu bằng đồi, đế. Kho Ất IV giữ các hạng gỗ cùng

các khí cụ bằng gỗ… [67, tr.11-12].

Ngoài những quy định về việc cất giữ, Nhà nước còn có những quy định rất

chặt chẽ về cấm lệnh, thu chi, tiêu thủ ở Vũ khố.

Để ngăn ngừa, phòng tránh việc trộm cắp, tham ô, Nhà nước đã có những

quy định rõ ràng đối với những hành vi này. Theo đó, trong kho có đồ bị mất, thì từ

quan giám thủ cho đến quân lính đều phải tố giác, kiểm tra, xem xét lẫn nhau. Căn

cứ vào số tang vật bắt được, Nhà nước thưởng gấp từ 5 đến 10 lần số đó (Chẳng hạn

như bắt được lấy trộm của kho vật gì mà vật ấy đáng giá là 1 quan thì thưởng từ 5

đến 10 quan) [67, tr.18].

Nhà nước cũng có những quy định để hạn chế hành vi tham ô của quan lại ở

Vũ khố. Triều đình Huế quy định quan lại làm việc trong Vũ khố cứ 4 năm một lần

(vào các năm Hợi, Mão, Mùi) sẽ phải thay đổi nhiệm kỳ, chuyển sang cơ quan khác

làm việc. Việc sung bổ các vị trí khuyết sẽ do Nhà nước lấy ở Bộ Lại và Bộ Hình,

mỗi bộ sẽ lấy 1 viên Chủ sự và 1 viên Thư lại Chánh bát phẩm, 7 viên Thư lại Vị

nhập lưu [67, tr.12]. Quan lại làm việc trong Vũ khố không hạn chế quê quán ở

miền Nam hay miền Bắc. Bên cạnh đó, năm Bính Thân (1836), vua Minh Mệnh đưa

ra quy định đối với những người đứng đầu Vũ khố về việc thu, chi nguyên liệu phải

rõ ràng, không được bớt xén, gian dối [67, tr.30].

Những quy định chi tiết của triều đình Huế đã giúp cho việc quản lý, thu phát

vũ khí và nguyên vật liệu của Nhà nước được dễ dàng, quy củ và cùng với đó là

việc hạn chế tình trạng biển thủ, tham ô ở nha Vũ khố.

Cùng với quy chế hoạt động ngày càng được quy định chi tiết, chặt chẽ, các

vị vua triều Nguyễn rất chú trọng, chăm chút các yếu tố vật chất, tinh thần nhằm

bảo đảm cho Vũ khố hoạt động thông suốt và hiệu quả. Trong quá trình hoạt động,

các quy định của Nhà nước liên quan đến tổ chức và hoạt động của Vũ khố được

không ngừng bổ sung, thay đổi nhằm hướng đến sự phù hợp nhất. Các quy định bảo

52

đảm này rất đa dạng và phức tạp, từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế

độ lương bổng…

Đại Nam điển lệ toát yếu (sách tóm lược những điều cốt yếu của điển lệ nước

Đại Nam) là cuốn sách ghi chép vắn tắt về công việc của các Bộ, Nha triều Nguyễn,

được biên soạn trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, do các triều thần trong Nội các triều Nguyễn biên

soạn, được khắc in vào năm 1909 dưới triều vua Duy Tân. Như vậy, ngoài các lệ

được chép theo các bộ Hội điển sự lệ và Hội điển sư lệ tục biên, còn có các lệ sau đó,

kéo dài đến năm 1909. Đây có thể xem là nguồn bổ sung cho hai bộ Hội điển kể trên.

Qua những thông tin trên cho thấy những ghi chép quy định của triều

Nguyễn trong sách Hội điển như Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại

nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu đã phản ánh tương đối phong

phú và khá đầy đủ về Vũ khố. Một số thông tin được phản ánh chi tiết như về Vũ

khố như bộ máy tổ chức, hoạt động bảo quản vũ khí, lương bổng và phẩm phục

quan lại… Tuy vậy, là các loại sách được viết theo thể hội điển, thông tin cung cấp

từ mang tính khái quát và tính thời điểm.

Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thiết chế chính quyền trung

ương thời Nguyễn tuy nhiên khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ

cấu nhân sự của Vũ khố đều chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ. Điều này đúng nhưng chưa đủ.

Thứ nhất, có thể nhận thấy rằng Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách

điển lệ cơ bản và đầy đủ nhất của triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào

năm Tự Đức 4 (1851) với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua

Minh Mệnh: “khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai

nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình

thần duyệt và nhuận sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong Khâm

định Đại Nam hội điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự Đức.

53

Thứ hai, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ra đời sau và dựa vào nguồn tư

liệu là các Châu bản, Đại Nam thực lục để biên soạn. Do đó, giá trị sử liệu của

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ đứng sau Châu bản, Đại Nam thực lục. Vậy nên,

khi nghiên cứu về Vũ khố triều Nguyễn, cần phải dựa vào nguồn sử liệu Châu bản

và Đại Nam thực lục để có thể đối chiếu, so sánh với Khâm định Đại Nam hội điển

sự lệ, Đại Nam hội điển toát yếu… Như vậy, mới đưa ra được những kết quả khách

quan, những nhận định, đánh giá đảm bảo được tính chính xác hơn.

2.2.4. Đại Nam nhất thống chí

Trước hết, Đại Nam nhất thống chí cung cấp thông tin về vị trí của Vũ khố.

Theo đó, Vũ khố nằm ở phía Tây phường Liêm Năng trong kinh thành Huế [89,

tr.72], [50, tr.143]. Đối chiếu với bản đồ Kinh thành Huế được chụp năm 1933 của

Leopol Cadière hay bản vẽ trong Từ điển địa danh thành phố Huế [98, tr.802-803]

cho thấy phường Liêm Năng nằm ở phía Bắc của Hoàng thành Huế.

Mặt trước của Vũ khố, tức nằm ở phía bắc là Tiền khố (tức kho tiền). Ban

đầu kho Tiền được xây dựng dưới thời Gia Long và đặt ở trong Cấm thành. Đến

năm Quý Tỵ (1833), Kho Tiền được chuyển ra đây [50, tr.142].

Phía đông, Vũ khố giáp các đảo và cửa là Dinh Châu đảo, Hạ Huân môn,

Nam Huân môn. Đây là những địa điểm nằm trong quần thể kiến trúc của vườn

Tịnh Tâm [50, tr.146], nơi nghỉ ngơi, thư giãn của hoàng tộc nhà Nguyễn ở bên

ngoài Cấm thành.

Phía nam của Vũ khố là miếu Thanh Thần tướng quân. Miếu thờ hai tượng

đá của hai vị tướng quân Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành [50, tr.158].

Còn phía tây Vũ khố giáp cung Khánh Ninh và “Ngự lộ”. Cung Khánh Ninh

được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), bao gồm nhiều kiến trúc khác

nhau. Sau khi vua Minh Mệnh mất, người con nối ngôi là Thiệu Trị đã đặt long thể

vua cha Minh Mệnh tại điện chính, cho đến lúc ninh lăng. Sau này, điện được đặt

tên là Hiếu Tư điện làm nơi thờ vua Minh Mệnh [50, tr.141].

54

Ngự lộ là đường dành riêng cho nhà vua đi, nối đến nhiều cung điện khác

nhau [50, tr.156-157].

Bên cạnh đó, Đại Nam nhất thống chí còn cho biết lệ đặt chức quan ở Vũ

khố. Người đứng đầu trông coi Vũ khố là quan Thị lang, giúp việc có các quan

Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ và thuộc ti Thư lại. Trong đó, chức Thị

lang trật Chánh tam phẩm, chức Lang trung trật Chánh ngũ phẩm, chức Viên Ngoại

lang trật Chánh ngũ phẩm, chức Chủ sự trật Chánh lục phẩm, chức Tư vụ trật

Chánh thất phẩm, Thư lại Chánh bát phẩm, Thư lại Chánh cửu phẩm, Thư lại Vị

nhập lưu trật Tòng cửu phẩm [89, tr.72]. Như vậy quan lại làm việc ở Vũ khố có

phẩm trật từ Chánh tam phẩm đến Tòng cửu phẩm.

Ngoài ra, Đại Nam nhất thống chí cho biết thêm thông tin quy mô nhà

xưởng, công đường của Vũ khố. Theo đó, Vũ khố có một tòa Công đường, một sở

Chi thu, mặt sau có 10 kho. Sau đó, Vũ khố xây dựng thêm sở Vũ khố Đốc công,

tức là xưởng chế tạo vũ khí. Đến đầu thế kỷ XX, công đường Vũ khố đổi thành

trường Bách công (tức trường hướng nghiệp), còn sở Đốc Công đổi thành trường

Canh nông và Cơ quan Thú y [89, tr.72].

Qua những nội dung về Vũ khố được phản ánh trong Đại nam nhất thống

chí, cho thấy nguồn sử liệu này cung cấp những thông tin hết sức quý báu về địa

điểm, quy mô, cấu trúc của Vũ khố. Đây là những thông tin chưa được đề cập hoặc

mới chỉ được đề cập hết sức khái quát trong các nguồn sử liệu khác như Đại Nam

thực lục hay Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.

* *

*

Có thể nói, mỗi nguồn sử liệu có điều kiện ra đời, cũng như đặc điểm và giá

trị riêng. Không phải tất cả đều là những sử liệu độc lập với nhau mà phần nhiều

được hình thành trên cơ sở tham khảo những sử liệu có trước, do vậy nhiều nội

dung cùng được phản ánh trong các sử liệu khác nhau. Nhà nghiên cứu lịch sử, vì

55

vậy cần phải nắm vững niên đại cũng như nguồn gốc xuất xứ của sử liệu mới có thể

khẳng định được độ tin cậy của thông tin lịch sử khi đem so sánh các nguồn.

Chẳng hạn như khi tìm hiểu chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, Nguyễn Sĩ

Hải trong Tổ chức chính quyền Trung ương thời Nguyễn sơ (1802-1847) đã dựa vào

bộ điển lệ của triều Nguyễn là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và sách địa chí

của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí để cho rằng, Vũ khố: “trước gọi là

Ngoại Đồ gia năm 1820 mới đổi tên Vũ khố, đặt ở phía tây phường Liêm Năng

trong kinh thành, gồm 1 Sở coi việc xuất nạp chi thu và 10 kho quân khí” [27,

tr.197]. Đỗ Bang trong Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-

1884 lại dựa vào sách Đại Nam điển lệ toát yếu và Đại Nam nhất thống chí cho

rằng Vũ khố “trước gọi là Ngoại Đồ gia, đổi tên từ năm 1820, để chứa quân khí, đặt

ở phường Liêm Năng trong Kinh thành” [7, tr.81]. Như vậy, hai ông dựa vào 3

nguồn tư liệu Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam điển lệ toát yếu tân biên

và Đại Nam nhất thống chí nên chỉ coi Vũ khố là cơ quan tích chứa vũ khí và

nguyên vật liệu mà chưa đề cập đến hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí và các hoạt

động khác.

Khảo sát các nguồn tư liệu có liên quan cho thấy trong quyển 244, phần Vũ

khố ở sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có ghi chức năng, nhiệm vụ của Vũ

khố là “nơi coi giữ việc xuất nhập binh khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách điển lệ cơ bản và đầy đủ nhất của

triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào năm Tự Đức 4 (1851) [53, tr.8-10]

với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua Minh Mệnh: “khi dâng

bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với

chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận

sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự Đức.

Đại Nam điển lệ toát yếu khắc in vào năm Duy Tân 3 (1909) do các quan ở

Nội các triều Nguyễn ghi chép vắn tắt những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại

56

Nam, phần về Vũ khố chép: “Vũ khố thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ

khí và các vật liệu chứa ở kho, đều là chức vụ các quan chức coi kho này” [22,

tr.15]. Như vậy, cuốn sách này càng không thể coi là có thể ghi chép chính xác, đầy

đủ chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.

Trong khi đó, tháng 12 năm Quý Tỵ Minh Mệnh 14 (1833), triều vua Minh

Mệnh đã lần đầu tiên hoàn thành một bộ Hội điển toát yếu, gồm 14 quyển “chép về chế độ chức trách của trăm quan”1. Quy trình biên soạn sách là “kịp đến khi dâng

bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với

chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận

sắc. Đến nay, sách xong trình lên vua. Vua dụ Nội các rằng: “Đường lối trị nước

phải có thể chế chủ yếu nêu rõ điển tắc để giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ sách này

mới được sửa lại một lần, dẫu chưa được mười phần hoàn bị, nhưng trong đó phân

từng ngành chia từng mối, cũng có thể đem thi hành được. Vậy ra lệnh cho Bộ Lại

sao chép cấp phát cho các nha môn trong Kinh ngoài trấn tuân theo. Đến sau ngày

khai ấn năm Giáp Ngọ Minh Mệnh thứ 15 [1834] mới bắt đầu thi hành để các quan

chức đều biết rõ nhiệm vụ của mình. Song bộ sách này chỉ mới tóm tắt những điều

cốt yếu, đợi sau này sẽ châm chước thêm bớt tùy theo tiện nghi mà sửa lại để làm

khuôn mẫu cho sau này” [80, tr.915]. Như vậy, Hội điển toát yếu là bộ sách điển lệ

đầu tiên của nhà Nguyễn được biên soạn dưới triều Minh Mệnh, quy định “chế độ

chức trách” được chính thức ban hành và áp dụng từ năm 1834 nhằm “để các quan

chức đều biết rõ nhiệm vụ của mình”. Đại Nam thực lục, khi tóm tắt nội dung của

sách Hội điển toát yếu có chép về Vũ khố như sau “Phàm sự chế tạo binh khí và

1 Việc biên soạn này được tiến hành từ tháng 7 năm Kỷ Sửu (1829), theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh thì “Tôn Nhân phủ và các nha Lục bộ kiểm soạn từ năm Gia Long thứ nhất, đến năm Minh Mệnh thứ 10, tất cả dụ chỉ đã ban, thể lệ đã định, cùng những bản tấu chuẩn của Lục bộ cùng chương tấu của trong ngoài, nhất thiết những văn thư án tập, có quan hệ đến chính sự, chia môn định loại, và theo năm tháng trước sau mà biên thành tập, làm sao cho cương mục rõ ràng, các điều rành mạch, để sẵn mà tra xét và lưu định thức”. [79, tr.880].

tích chứa vật liệu, đều thuộc vào kho Vũ khố” [80, tr.918].

57

Như vậy, khi xem xét chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, cần phải dựa vào

sách Hội điển toát yếu được dẫn trong Đại Nam thực lục, cũng như Khâm định Đại

Nam hội điển sự lệ, còn Đại Nam điển lệ toát yếu chỉ có giá trị tham khảo.

Tương tự, khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Nam thực lục, Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển

lệ toát yếu tân biên thì chỉ có Đại Nam điển lệ toát yếu ghi chép Vũ khố thuộc Bộ

Binh. Sự khác biệt này có lẽ xuất phát từ việc Đại Nam điển lệ toát yếu có niên đại

muộn hơn, vì vậy mà trong đó bao gồm cả những điển lệ xuất hiện sau khi các cuốn

sách khác đã được hoàn thành. Như vậy, thông tin Vũ khố thuộc Bộ Binh chỉ được

xem là phản ánh về một giai đoạn nhất định chứ không phải là một đặc điểm xuyên

suốt lịch sử phát triển của cơ quan này.

Tiểu kết chương 2

Những ghi chép về Vũ khố triều Nguyễn được đề cập tương đối chi tiết qua

các nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp, từ tổ chức, nhân sự, hoạt động cho tới các

quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Những

nguồn này cung cấp nhiều thông tin lịch sử đa dạng, quý báu, đem đến những hiểu

biết sâu sắc và toàn diện về Vũ khố triều Nguyễn. Hơn nữa, những thông tin lịch sử

đó còn góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử nha Vũ khố nói riêng, và rộng

ra là bộ máy tổ chức chính quyền trung ương triều Nguyễn.

Qua khai thác hai nguồn sử liệu trực tiếp về Vũ khố là Châu bản và Ngự chế

văn cho thấy những thông tin do các nguồn này cung cấp không được nhiều, chỉ có

ít nhất khoảng 54 Chiếu, Chỉ, Dụ. Những thông tin từ các Chiếu, Chỉ, Dụ tương đối

tản mát và chỉ phản ánh được một phần các khía cạnh của công tác nhân sự và các

hoạt động chế tạo, sửa chữa, tích chứa vũ khí… ở Vũ khố. Tuy vậy, đây là nguồn sử

liệu rất quan trọng, phản ánh trực tiếp hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là thái

độ, quan điểm của vua Minh Mệnh đối với cơ quan này.

Nhìn lại đặc điểm các nguồn sử liệu gián tiếp cho thấy, một số vấn đề liên

quan Vũ khố như cơ cấu nhân sự, lương bổng, hoạt động chế tạo, bảo quản vũ khí…

58

được phản ánh trong nhiều nguồn sử liệu gián tiếp như Đại Nam thực lục, Khâm

định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất thống chí.

Bên cạnh đó, mỗi loại nguồn sử liệu gián tiếp cũng phản ánh một số khía cạnh cụ

thể liên quan Vũ khố. Trong khi, Đại Nam thực lục cho biết một cách chi tiết rõ

ràng quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức của Vũ khố, các sách Hội

điển lại cung cấp những thông tin cụ thể về quy định của Nhà nước liên quan đến tổ

chức và hoạt động của Vũ khố từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế độ

lương bổng, thanh tra giám sát... Đại Nam nhất thống chí lại cho biết những thông

tin cụ thể về vị trí, quy mô, đặc điểm của Vũ khố. Nguồn sử liệu gián tiếp có số

lượng khá lớn, thông tin về Vũ khố khá đa dạng, phong phú, bao trùm nhiều lĩnh

vực như cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức cho đến các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ

khí cũng như vị trí, địa điểm…

So sánh với nguồn sử liệu trực tiếp, nguồn sử liệu gián tiếp có số lượng tư

liệu phản ánh về Vũ khố nhiều hơn hẳn (6 so với 2), tức là gấp 3 lần, thông tin cũng

đa dạng, phong phú hơn từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức, lương bổng cho đến vị

thế, quy mô, địa điểm của Vũ khố.

Dù phản ánh trực tiếp hay gián tiếp về Vũ khố, các nguồn sử liệu đều có

những giá trị riêng, không nguồn nào có khả năng phản ánh một cách đầy đủ, toàn

diện về Vũ khố. Do vậy, các nhà nghiên cứu cần phải nắm được đặc trưng của từng

loại nguồn. Khi sử dụng để đánh giá, phân tích cần phải sử sụng kết hợp nhiều

nguồn, có kiểm tra, đối chiếu các nguồn với nhau thì kết quả nghiên cứu mới khách

quan, trung thực và có được cái nhìn toàn diện, tổng thể, biện chứng (xem bảng

2.10)

Tổng hợp từ các nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp có thể phục dựng bức

tranh tương đối đầy đủ, toàn diện về Vũ khố, từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức,

các hoạt động của Vũ khố như chế tạo, lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí, vị thế,

quy mô, địa điểm cho đến các quy định đảm bảo như công đường, ấn triện, phẩm

phục, lương bổng…

59

BẢNG 2.10: THỐNG KÊ SO SÁNH NỘI DUNG ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU

HỘI ĐIỂN

NGUỒN SỬ LIỆU

CHÂU BẢN

MINH MỆNH CHÍNH YẾU

KĐĐNHĐSL KĐĐNHĐSLTB ĐNHĐTY

NGỰ CHẾ VĂN

ĐẠI NAM THỰC LỤC

ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ

NỘI DUNG ĐỀ CẬP

Chức năng, nhiệm vụ

x

x

x

x

Cơ cấu nhân sự

x

x

x

x

x

x

x

x

Cơ cấu tổ chức

x

x

x

x

x

x

x

x

x

Chế tạo, sửa chữa vũ khí

x

x

x

x

Lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí

Hoạt động

x

x

x

x

x

Tích chứa vật liệu công

Hoạt động khác

x

x

x

x

Vị trí

x

x

Quy

Công đường

x

x

60

Ấn triện

x

x

x

định đảm bảo

Phẩm phục

x

x

x

Lương bổng

x

x

x

x

Thanh tra

x

x

x

61

Chương 3: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884)

QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU

3.1. Chức năng, nhiệm vụ

Trong sách Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ (1802-1847),

Nguyễn Sĩ Hải đã dựa vào bộ điển lệ của triều Nguyễn là Khâm định Đại Nam hội

điển sự lệ và sách địa chí của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí để cho rằng

nhiệm vụ của Vũ khố là: “trước gọi là Ngoại Đồ gia năm 1820 mới đổi tên Vũ khố,

đặt ở phía tây phường Liêm Năng trong kinh thành, gồm 1 Sở coi việc xuất nạp chi

thu và 10 kho quân khí” [27, tr.197]. Đỗ Bang trong Tổ chức bộ máy nhà nước triều

Nguyễn giai đoạn 1802-1884 lại dựa vào sách Đại Nam điển lệ toát yếu và Đại Nam

nhất thống chí cho rằng Vũ khố “trước gọi là Ngoại Đồ gia, đổi tên từ năm 1820, để

chứa quân khí, đặt ở phường Liêm năng trong Kinh thành” [7, tr.81].

Như vậy, các công trình nghiên cứu trên khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ

của Vũ khố đều dựa vào 3 nguồn tư liệu là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại

Nam điển lệ toát yếu tân biên, Đại Nam nhất thống chí. Và các công trình nghiên

cứu mới chỉ coi Vũ khố là cơ quan tích chứa vũ khí và nguyên vật liệu mà chưa đề

cập đến hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí và các hoạt động khác.

Khảo sát các nguồn tư liệu có liên quan cho thấy trong quyển 244, phần Vũ

khố ở sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có ghi chức năng, nhiệm vụ của Vũ

khố là “nơi coi giữ việc xuất nhập binh khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].

Sách Đại Nam điển lệ toát yếu được Nguyễn Sĩ Giác dịch dựa trên một bản

chữ Hán được khắc in vào năm Duy Tân 3 (1909) do các quan ở Nội các triều

Nguyễn ghi chép vắn tắt những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại Nam, phần về Vũ

khố chép: “Vũ khố thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ khí và các vật liệu

chứa ở kho, đều là chức vụ các quan chức coi kho này” [22, tr.15].

Có thể nhận thấy rằng Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách điển lệ

cơ bản và đầy đủ nhất của triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào năm Tự

Đức 4 (1851) [53, tr.8-10] với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua 62

Minh Mệnh: “khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai

nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình

thần duyệt và nhuận sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự

Đức.

Sách Đại Nam điển lệ toát yếu do Nguyễn Sĩ Giác dịch càng là một tài liệu ra

đời về sau (dựa trên một cuốn sách chữ Hán của Nội các được khắc in vào năm Duy

Tân 3 (1909)) và là một cuốn tóm tắt, tuyển chọn về điển lệ của triều Nguyễn cho

đến thời điểm ra đời thì lại càng không thể coi là có thể ghi chép chính xác, đầy đủ

chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.

Liên quan đến loại sách Hội điển, chính sử triều Nguyễn là Đại Nam thực lục

cho biết vào tháng 12 năm Quý Tỵ Minh Mệnh 14 (1833), triều vua Minh Mệnh đã

lần đầu tiên hoàn thành một bộ Hội điển toát yếu, gồm 14 quyển “chép về chế độ chức trách của trăm quan”1. Đại Nam thực lục cho biết quy trình biên soạn sách này

như sau: “Trước kia, vua sai soạn một bộ sách chép về chế độ chức trách của trăm

quan, gọi là Hội điển toát yếu, kịp đến khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha

thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho

đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận sắc. Đến nay, sách xong trình lên

vua. Vua dụ Nội các rằng: “Đường lối trị nước phải có thể chế chủ yếu nêu rõ điển

tắc để giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ sách này mới được sửa lại một lần, dẫu chưa

được mười phần hoàn bị, nhưng trong đó phân từng ngành chia từng mối, cũng có

thể đem thi hành được. Vậy ra lệnh cho Bộ Lại sao chép cấp phát cho các nha môn

trong Kinh ngoài trấn tuân theo. Đến sau ngày khai ấn năm Giáp Ngọ Minh Mệnh

1 Việc biên soạn này được tiến hành từ tháng 7 năm Kỷ Sửu (1829), theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh thì “Tôn Nhân phủ và các nha Lục bộ kiểm soạn từ năm Gia Long thứ nhất, đến năm Minh Mệnh thứ 10, tất cả dụ chỉ đã ban, thể lệ đã định, cùng những bản tấu chuẩn của Lục bộ cùng chương tấu của trong ngoài, nhất thiết những văn thư án tập, có quan hệ đến chính sự, chia môn định loại, và theo năm tháng trước sau mà biên thành tập, làm sao cho cương mục rõ ràng, các điều rành mạch, để sẵn mà tra xét và lưu định thức”. [79, tr.880].

thứ 15 [1834] mới bắt đầu thi hành để các quan chức đều biết rõ nhiệm vụ của

63

mình. Song bộ sách này chỉ mới tóm tắt những điều cốt yếu, đợi sau này sẽ châm

chước thêm bớt tùy theo tiện nghi mà sửa lại để làm khuôn mẫu cho sau này” [80,

tr.915]. Như vậy, Hội điển toát yếu là bộ sách điển lệ đầu tiên của nhà Nguyễn được

biên soạn dưới triều Minh Mệnh, quy định “chế độ chức trách” được chính thức ban

hành và áp dụng từ năm 1834 nhằm “để các quan chức đều biết rõ nhiệm vụ của

mình”. Đây chính là một loại văn bản pháp quy chế định chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan quản lý hành chính nhà nước của triều Nguyễn.

Cũng trong Đại Nam thực lục, khi tóm tắt nội dung của sách Hội điển toát

yếu có chép: “Vũ khố: Phàm sự chế tạo binh khí và tích chứa vật liệu, đều thuộc vào

kho Vũ khố” [80, tr.918].

Như vậy, khi xem xét chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, cần phải dựa vào

sách Hội điển toát yếu in trong Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự

lệ, còn Đại Nam điển lệ toát yếu chỉ có giá trị tham khảo. Trên cơ sở các nguồn sử

liệu đó, và qua kiểm định thực tế trong hoạt động thực tiễn được ghi chép trong Đại

Nam thực lục, có thể xác định Vũ khố triều Nguyễn thực hiện 4 nhóm chức năng,

nhiệm vụ chính thức sau:

1) Sản xuất binh khí

2) Lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí

3) Tích chứa vật liệu công

4) Hoạt động khác

3.2. Vũ khố trong bộ máy nhà nƣớc trung ƣơng triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884

Khảo sát một số công trình nghiên cứu như Định chế hành chính và quân sự

triều Nguyễn (1802-1885) của Huỳnh Công Bá (Chủ biên) [6, tr.149-151], Tổ chức

bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) [7, tr.108] do Đỗ Bang (Chủ biên), Tổ

chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-1847) của Nguyễn Sĩ Hải [27,

tr.197], Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) [109, tr.108] của

64

Nguyễn Minh Tường, cho thấy ngoài tổ chức bộ máy 6 Bộ để điều hành chính

quyền trung ương, triều Nguyễn còn lập các nha gồm các phủ, tự, viện, giám, ty,

cục - là những cơ quan chuyên trách hoạt động thuộc về hành pháp, tư pháp, giám

sát ở triều đình, được gọi chung là Chư Nha hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác

nhau. Theo đó, Vũ khố cùng với Phủ Nội vụ, Thương trường thuộc nhóm cơ quan phụ trách kho tàng - quân nhu1.

1 Tổ chức bộ máy trung ương triều Nguyễn, ngoài 6 Bộ, còn có nhiều cơ quan khác, được gọi dưới một danh từ chung là “Chư Nha”: Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885), Huỳnh Công Bá (Chủ biên) chia thành 7 nhóm: (1) Nhóm cơ quan phụ trách những công việc trong Hoàng gia và Hoàng cung như Tôn Nhân Phủ, Thị Vệ xứ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện, Tập Hiền viện, Tập Thiện đường, Tôn Học sở và Thái Bộc tự. (2) Nhóm các cơ quan phụ trách kho tàng - quân nhu như Nội Vụ phủ, Vũ khố, Thương trường và Mộc thương. (3) Nhóm cơ quan phụ trách văn phòng mật vụ. Đây là các cơ quan giúp vua trong quá trình giải quyết các công việc có các tổ chức mang tính chất văn phòng, thời Gia Long gọi là Tam Nội viện (gồm Thị Thư viện, Thị Hàn viện và Nội Hàn viện). Bên cạnh đó có một cơ quan coi về ấn tín gọi là Thượng Bửu ty. Về sau gộp chung thành Nội các. Phụ trách về công tác mật vụ có Cơ Mật viện. (4) Nhóm cơ quan phụ trách tư pháp - giám sát như Đô Sát viện, Đại Lý tự. (5) Nhóm cơ quan phụ trách vận tải - liên lạc như Tào Chính ty, Bưu Chính ty và Thông Chính ty. (6) Nhóm cơ quan phụ trách lễ nghi - tế tự: Thái Thường tự và Quang lộc tự. (7) Nhóm cơ quan phụ trách khoa học - giáo dục: Quốc Tử giám, Hàn Lâm viện, Quốc Sử quán, Khâm Thiên giám, Thượng Bảo tự và Hồng Lô tự. [6, tr.106-213]. Tổ chứ bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) do Đỗ Bang (Chủ biên) chia thành 4 nhóm: (1) Nhóm cơ quan phục vụ cho Hoàng cung, Hoàng tộc: Tôn Nhân phủ, Thái Y viện, Xứ Thị vệ, Cẩn Tín ty, Thái Bộc tự. (2) Nhóm cơ quan kho tàng, giao thông, thông tin liên lạc: Nội Vụ phủ, Thương trường, Vũ khố, Mộc thương, Doanh Thiện ty, Kho thuốc nổ và diêm tiêu, Tào Chính ty, Bưu Chính ty, Thông Chính Sứ ty. (3) Nhóm cơ quan văn hóa giáo dục: Quốc Tử giám, Tập Hiền viện, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám, Quốc Sử quán, Thái Thường tự, Quang Lộc tự, Thượng Bảo tự, Hồng Lô tự. Thứ tư: các cơ quan tư pháp và giám sát: Đại Lý tự, Đô Sát viện. [7, tr.77-95]. Nguyễn Sĩ Hải trong Tổ chức chính quyền dưới thời Nguyễn Sơ (1802-1847), chia thành 3 nhóm: (1) Nhóm cơ quan được thiết lập để phục vụ trong Hoàng cung, hay có những hoạt động liên quan đến Hoàng tộc: Tôn Nhân phủ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện. (2) Nhóm cơ quan kho tàng như Phủ Nội Vụ, Thương Trường, Vũ khố. (3) Nhóm công sở có tính cách quốc gia, dưới các danh hiệu Tự, Viện, Giám hoặc Ty. Trong nhóm này, Nguyễn Sĩ Hải tiếp tục chia nhỏ thành:

1/ Cơ quan nghi lễ: Thái Thường Tự và Quang Lộc Tự; 2/ Cơ quan văn hoá: Quốc Tử Giám, Hàn Lâm Viện và Khâm Thiên Giám; 3/ Cơ quan tư pháp: Đại Lý Tự 4/ Cơ quan tạp loại: Thông Chính Sứ Ty và Tào Chính Ty; 5/ Cơ quan giám sát: Đô Sát Viện; [27, tr.195-199]

Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) của Nguyễn Minh Tƣờng chia thành 3 nhóm: (1) Nhóm cơ quan có nhiệm vụ phục vụ đời sống, sinh hoạt trong Hoàng cung hoặc có những hoạt động liên quan đến Hoàng tộc như: Tôn Nhân phủ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện. (2) Nhóm cơ quan chứa đồ đạc của Hoàng cung như: Nội Vụ phủ, Thương trường và Vũ khố. (3) Nhóm cơ quan văn hóa, giáo dục hoặc có những hoạt động liên quan đến văn hóa như: Quốc Tử giám, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám, Quốc Sử quán, Tào Chính ty, Thông Chính Sứ ty, Bưu Chính ty. [109, tr.107-108].

65

Ngoài ra, trong Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885),

Huỳnh Công Bá cho biết thêm Vũ khố là cơ quan ngoại thuộc Bộ Binh [6, tr.102].

Khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển

sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu tân

biên thì chỉ có Đại Nam điển lệ toát yếu ghi chép Vũ khố thuộc Bộ Binh. Theo Đại

Nam điển lệ toát yếu, “Vũ khố: Thống ư Binh bộ. Pháo sang binh trượng quân khí

vật liệu chi tích, tất quan chi. Thị lang nhất, Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự,

Tư vụ, Bát Cửu phẩm Thư lại, vị nhập lưu Thư lại” (Dịch nghĩa: Vũ khố (kho quân

nhu). Thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ khí và vật liệu chứa ở kho, đều

là chức vụ các quan chức coi kho này. Một quan Thị lang (đứng đầu). Thuộc viên

có các chức Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Bát Cửu phẩm Thư lại và

Vị nhập lưu Thư lại” [22, tr.14-15]).

Vậy nên ghi chép về Vũ khố là cơ quan thuộc Bộ Binh trong Đại Nam điển

lệ toát yếu có thể được coi là từ năm 1909 trở về sau cho đến khi có quy định mới.

Như vậy, giai đoạn từ 1802 đến 1884, Vũ khố là một cơ quan hành chính cấp trung

ương quản lý hoạt động sản xuất, bảo quản vũ khí và nguyên vật liệu, đồng thời

cũng là cơ quan độc lập thuộc quản lý của Nhà nước.

3.3. Cơ cấu tổ chức

Từ năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long thiết lập trở lại chế độ quân

chủ tập quyền. Cơ cấu bộ máy chính quyền Nhà nước Trung ương triều Gia Long

có đủ 6 Bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công với nhiệm vụ giữ chính lệnh của

Nhà nước [79, tr.79]. Bên cạnh đó, triều Nguyễn còn lập một loạt các cơ quan

chuyên môn có nhiệm vụ giúp việc như Tôn Nhân phủ, Thái Y viện, Bưu chính ty,

Quốc Tử giám… trong đó có Đồ gia. Trên cơ sở Ty Lệnh sử Đồ gia (Nhà Đồ), năm

Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long đã cho đặt Ty Lệnh sử Ngoại Đồ gia, với nhiệm

vụ “coi giữ việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].

Buổi đầu, Ngoại Đồ gia gồm 7 kho: Kho khí giới, Kho đồng, Kho tiền, Kho

vận lương, Kho thủy, Kho chiếu, kho than. Các kho này do bộ phận quan lại ở Ty

66

Lệnh sử Ngoại Đồ gia quản lý. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết: “Gia

Long năm đầu (1802), xuống Chỉ chuẩn cho làm Ngoại Đồ gia (nhà chứa đồ phía

ngoài) để chứa binh khí cùng đồng thau, kẽm, thiếc và tất cả sản vật của công. Lại

ấn định ở Ngoại Đồ gia đặt ra kho khí giới, kho đồng, kho tiền, kho vận lương, kho thủy, kho chiếu, kho than, tất cả 7 kho” [67, tr.17].

Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), sau khi lên ngôi vua, Minh Mệnh bắt

đầu quá trình cải tổ bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Trong đó, cơ quan chế tạo và

quản lý vũ khí, vật liệu công của triều đình có những chuyển biến khá sớm. Theo

đó, Ngoại Đồ gia được đổi thành Vũ khố [79, tr.39]. Cùng với sự thay đổi tên gọi,

các kho tàng ở Ngoại Đồ gia cũng được thay đổi theo. Khâm định Đại Nam hội điển

sự lệ cho biết “kho khí giới được đổi làm kho Giáp I, kho đồng làm kho Giáp II,

kho sắt làm kho Giáp III, kho vận lương làm kho Giáp IV, kho thủy làm kho Ất I,

kho chiếu làm kho Ất III, kho than làm kho Ất IV, đặt thêm kho Ất II” [67, tr.17].

Tiếp đó tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), Ty Lệnh sử Vũ khố được đổi thành Ty Thanh

thận Vũ khố, với nhiệm vụ quản lý các kho [79, tr.141]. Từ đây, Vũ khố Thanh thận

ty là cơ quan phụ trách cấp phát nguyên vật liệu và thu nộp sản phẩm.

Tại Kinh đô Huế, vào tháng 3 năm Canh Thìn (1820), nhà Nguyễn mở cục

Đúc tiền. Sau đó đến tháng 7 năm Bính Tuất (1826), cục Đúc tiền được đổi tên

thành Cục Bảo hóa (Bảo Hóa kinh cục) và đặt dưới sự quản lý của nha Vũ khố [79,

tr.520]. Ban đầu, Bảo Hóa kinh cục được đặt ở phường Lập Vũ (phía Đông Nam

ngoài Kinh thành Huế), sau đó được chuyển vào trong sở Đốc công Vũ khố. Về tổ

chức, nhà Nguyễn đặt ra 1 viên Giám đốc mang trật Tòng tứ phẩm ngạch quan võ

để điều hành sản xuất [79, tr.660] chứ không có đội ngũ quan viên riêng, thợ sản

xuất lấy từ cục thợ đúc và một số cục thợ khác ở Ty Chế tạo Vũ khố.

Cơ cấu tổ chức của Vũ khố tiếp tục được điều chỉnh vào năm 1829. Năm

1829, nhận thấy sự không hợp lý giữa người Chủ thủ (coi giữ) kho và thợ làm ra vật

phẩm lưu giữ đều từ Vũ khố, điều này dễ dẫn đến những “mối tệ”, vua Minh Mệnh

đã cho đặt công sở ở nha Vũ khố gọi là Ty Chế tạo với nhiệm vụ: “Phàm các công

67

tác thì đốc công sức cho các thợ lãnh hạng ở công sở, chế tạo xong thì giao cho nha

(Vũ khố) thu. Đơn bằng lãnh và nộp thì Đốc công cùng ty lại đối cứu, Bộ Công

nhận thực, giám lâm chủ thủ của nha chiếu theo bằng mà thu phát” [79, tr.924-925].

Từ đó, Ty Chế tạo chính thức ra đời và thuộc sự cai quản của Bộ Công nhưng công

sở làm việc nằm trong khu vực Vũ khố. Cơ cấu nhân sự của Ty Chế tạo bao gồm 1

Lang trung trật Chánh tứ phẩm đứng đầu, tiếp sau là 1 Viên ngoại lang trật Chánh

ngũ phẩm, giúp việc có 2 Chủ sự trật Chánh lục phẩm, 2 Tư vụ trật Chánh thất

phẩm, 3 Thư lại Chánh bát phẩm, 3 Thư lại Chánh cửu phẩm và 25 Thư lại Vị nhập

lưu. Với việc đặt ra Ty Chế tạo là cơ quan ngoại thuộc Bộ Công, nhằm quản lý các

tượng, cục đã thu hẹp cơ cấu tổ chức và quy mô của Vũ khố. Từ đây, nhiệm vụ Vũ

khố được triều đình Huế giao đã giảm bớt đi.

Từ sau năm 1829, trải qua các triều vua Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức

(1848-1883), Kiến Phúc (1884), về cơ bản, cơ cấu tổ chức của Vũ khố được giữ

nguyên, không có sự thay đổi. Phân tích, khảo sát Đại Nam thực lục và Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ cho biết rõ hơn. Theo đó, Vũ khố gồm 1 quan Thị lang đứng

đầu, tiếp đến là 1 Lang trung, bên dưới là cơ quan nội thuộc Thanh Thận ty Vũ khố

với 2 Viên ngoại lang, coi giữ việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật to nặng.

Thuộc quyền có Từ Trát tào (phòng Văn thư) và 8 kho [67, tr.11], [84, tr.182].

Ngoài ra, Vũ khố còn một cơ quan ngoại thuộc là Bảo Hóa kinh cục.

68

3.4. Cơ cấu nhân sự

Khi mới được thành lập (1802), cơ cấu nhân sự của Ngoại Đồ gia chưa được

xác định một cách rõ ràng các chức vụ Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, Bản ty gồm bao

nhiêu người [54, tr.84]. Phải đến 3 năm sau, tức năm Ất Sửu (1805), số nhân viên

làm việc trong Ngoại Đồ gia mới được xác định là 50 người. Đại Nam thực lục

chép: “Định số nhân viên thuộc ty các nha ở Kinh: Ty Lệnh sử Bộ Hộ 80 người, Bộ

Lại, Bộ Binh đều 70 người, ba Bộ Lễ, Hình, Công, Đồ gia, Ngoại Đồ gia, đều 50

người, ty Chiêm hậu lại 30 người” [78, tr.642], [54, tr.84]. Như vậy ở cơ quan

Ngoại Đồ gia, các chức từ Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp cho đến Thư lại vị nhập lưu,

tổng số là 50 người, phụ trách coi việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật nặng.

Trước đó, tháng 4 năm Giáp Tý (1804), triều đình Nguyễn đã bàn định và

ban hành quan chế. Theo quan chế năm 1804 này, quan lại thuộc Ngoại Đồ gia làm

nhiệm vụ quản lý được liệt vào ngạch quan Văn, gồm các chức quan Câu kê ty Lệnh

sử Đồ gia trật Tản giai Tòng ngũ phẩm, Cai hợp ty Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai

Tòng lục phẩm, Thủ hợp ty Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai Tòng thất phẩm, Bản ty ty

69

Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai Tòng bát phẩm, Thư lại vị nhập lưu trật Tản giai Tòng

cửu phẩm. Các quan lại Ngoại Đồ gia có trật Tản giai Tòng ngũ phẩm được phong

tước Bá, trật Tản giai Tòng lục phẩm được phong tước Tử, trật Tản giai Tòng bát

phẩm được phong tước Nam [78, tr.595-598]. Như vậy, về cơ bản, tên gọi các chức

quan như Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp làm nhiệm vụ quản lý ở Ngoại Đồ gia không

thay đổi so với thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chính quyền Nguyễn Ánh.

Các chức quan trên cũng được triều đình Nguyễn sử dụng ở các Nha, Bộ khác trong

bộ máy Nhà nước. Sau đợt ban bố quan chế, cơ cấu nhân sự ở Ngoại Đồ gia được

định hình và duy trì ổn định trong suốt gần 20 năm đầu của thế kỷ XIX.

Trên cơ sở kế thừa cơ cấu tổ chức hành chính của triều Gia Long, ngay sau

khi lên ngôi vua, Minh Mệnh đã từng bước có sự điều chỉnh, thay đổi ở các cơ quan

hành chính nhà nước. Tháng giêng, năm Canh Thìn [1820], vua Minh Mệnh quyết

định “đổi Nội Đồ gia làm Nội Vụ phủ, Ngoại Đồ gia làm Vũ Khố” [79, tr.39]. Một

năm sau, tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mệnh tiếp tục điều chỉnh, bổ sung

cơ cấu nhân sự của Vũ Khố. Theo đó, Vũ khố có 2 viên Lang trung, 2 viên Chủ sự,

2 viên Tư vụ, 8 viên Thư lại Chánh bát phẩm, 8 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 44

viên Thư lại Vị nhập lưu [79, tr.141], tổng cộng là 66 người. Như vậy với sự thay

đổi này, bắt đầu từ tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), Vũ khố được tăng cường thêm nhân

sự cả hàng quan và lại. So sánh với Ngoại Đồ gia triều Gia Long, nhân sự Vũ khố

năm 1821 thời Minh Mệnh đã tăng 16 người (tăng gấp 1,32 lần) so với năm 1805.

70

Tiếp đó, quá trình thay đổi nhân sự ở Vũ khố liên tục được diễn ra vào các

năm 1825, 1828, 1829, 1830. Đại Nam thực lục ghi: Tháng 8 năm Ất Dậu (1825),

vua Minh Mệnh cho đặt thêm quan viên ở Vũ khố. Nguyên trước đó các chức vụ

Lang Trung, Chủ sự, Tư vụ đều có 2 người, nay tăng thêm 2 viên quan nữa cho mỗi

chức vụ trên [79, tr.441]. Sau đó, năm 1828, đến lượt Thư lại Vị nhập lưu được tăng thêm từ 44 người lên tới 60 người1. Qua hai đợt thay đổi nhân sự này dẫn đến số

lượng quan lại Vũ khố lên đến mức cao nhất trong toàn bộ lịch sử vương triều

1 Đại Nam thực lục ghi: “Năm Minh Mệnh thứ 9 [1828], mùa đông, tháng 10, Đặt thêm lại dịch của ty Bưu chính và Vũ Khố. (Vị nhập lưu thư lại, Vũ Khố nguyên số 44 người, thêm 16 người, Bưu chính nguyên số 20 người, thêm 10 người)” [79, tr.779].

Nguyễn (89 người).

71

Đến tháng 12 năm Kỷ Sửu (1929), sau khi triều Nguyễn đặt Ty Chế tạo ở Vũ

khố (nhưng quan lại ở ty Chế tạo được biên chế trực thuộc vào Bộ Công), vua Minh

Mệnh đã cho giảm bớt số lượng nhân sự của Nha. Bên cạnh chức Thị lang giữ chính

lệnh, Vũ khố chỉ lưu lại “Lang trung, Viên Ngoại lang mỗi chức 1 người, Chủ sự,

Tư vụ mỗi chức 3 người, Bát, Cửu phẩm thư lại mỗi chức 4 người, Vị nhập lưu thư

lại 40 người” [79, tr.924-925]. Tuy nhiên mấy tháng sau (tháng 4 năm Canh Dần

(1830)), nhận thấy kho Vũ khố nhiều việc, số nhân viên còn lại không đủ người để

làm, vua Minh Mệnh cho tăng thêm số lượng cả về hàng quan và lại trong Nha.

Theo đó, Chánh bát phẩm Thư tăng 2 người lên thành 6 người, Chánh cửu phẩm

Thư lại tăng lên thành 8 người, Vị nhập lưu Thư lại tăng lên thành 50 người” [80,

tr.51].

Như vậy, trong vòng 11 năm đầu cầm quyền (1820-1830), vua Minh Mệnh

đã liên tục thay đổi cơ cấu nhân sự của Vũ khố (6 lần), nhằm hướng tới một sự ổn

định, phù hợp hơn trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn nói chung, nha Vũ khố nói

riêng. Điều này đã được minh chứng một cách rõ nét, trong 10 năm cầm quyền tiếp

theo của vua Minh Mệnh (1831-1840), chỉ duy nhất 1 lần, cơ cấu nhân sự Vũ khố

72

có sự thay đổi, đó là vào năm 1836, khi Vũ khố được tăng thêm 1 viên quan Chủ sự

và 1 viên quan Tư vụ [81, tr.935]. Vào thời điểm này, Vũ khố gồm có 1 viên Thị

Lang, 1 viên Lang trung, 1 viên Viên Ngoại lang, 4 viên Chủ sự, 4 viên Tư vụ, 6

viên Thư lại Chánh bát phẩm, 8 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 50 viên Thư lại Vị

nhập lưu, tổng số 75 người. So với thời kỳ trị vì của vua Gia Long, nhân sự Vũ khố

năm 1836 đã tăng gấp 1,52 lần. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng mở rộng

quy mô bộ máy quản lý Nhà nước Trung ương thời Minh Mệnh.

Cơ cấu nhân sự Vũ khố được giữ ổn định đến hết triều vua Thiệu Trị (1841-

1847), kéo sang đến thời Tự Đức, được chuẩn định một lần nữa vào tháng 12 năm

Canh Tuất (1850). Đây không chỉ là đợt điều chỉnh riêng ở Vũ khố mà còn được mở

rộng ở các bộ, nha, phủ, viện khác [84, tr.182-186]. Sau khi được chuẩn định, cơ

cấu nhân sự của Vũ khố gồm 1 viên Thị Lang đứng đầu, 1 viên Lang trung, 2 viên

Viên ngoại lang, 4 viên Chủ sự, 4 viên quan Tư vụ, 6 viên Bát phẩm, 8 viên Cửu

phẩm và 50 viên Vị nhập lưu Thư lại [84, tr.182], tổng số là 76 người.

Theo lời tâu của các quan đại thần Trương Đăng Quế và Vương Thế Kiệt

cùng với lời bàn của triều thần thời vua Tự Đức, cơ cấu nhân sự của nha Vũ khố

được giữ nguyên như cũ, tức là không có sự thay đổi so với thời kỳ trước đó [84,

tr.182]. Tuy nhiên khi đối chiếu so sánh với thời điểm thay đổi nhân sự ở nha Vũ

khố gần nhất vào năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), cho thấy nha Vũ khố tăng thêm 1

viên quan Viên ngoại lang. Qua khảo sát Đại Nam thực lục và Khâm định Đại Nam

hội điển sự lệ, trong suốt 14 năm (từ 1837 đến 1850), không thấy năm nào có ghi sự

thay đổi tăng giảm nhân sự của Vũ khố. Song trước đó, vào năm 1833, Nội các triều

Nguyễn biên soạn xong bộ sách Hội điển toát yếu, trong đó có phần quy định nhiệm

vụ, chức năng của Vũ khố đã được ghi vào Đại Nam thực lục có đoạn như sau:

Phàm sự chế tạo binh khí và tích chứa vật liệu, đều thuộc vào kho Vũ khố. Vũ khố

dùng chức Thị lang để giữ chính lệnh. Lang trung và Tham biện để giúp việc Thị

lang, các thuộc viên có Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Thư lại Chánh bát phẩm,

Thư lại Chánh cửu phẩm và Thư lại Vị nhập lưu, cùng chia nhau trông coi đồ vật và

73

sổ sách [80, tr.918]. Qua đây cho biết, ở kho Vũ khố dưới chức Thị lang có Lang

trung và Tham biện giúp việc. Theo quan chế triều Nguyễn nói chung, triều vua

Minh Mạng nói riêng, chức quan “Tham biện” không có trong ngạch phẩm trật

quan văn cũng như quan võ. Khảo cứu một số nguồn tư liệu, “Tham biện” không

phải là tên gọi một chức quan chính thức của triều đình Huế, mà chỉ là một chức

quan giúp việc cho viên quan giữ chính lệnh của một Nha, Bộ thôi. Như vậy, nhiều

khả năng chức Tham biện này chính là một trong hai chức Viên ngoại lang! Cũng từ

thông tin trên, có thể dự đoán muộn nhất đến năm 1833, cơ cấu nhân sự Vũ khố đã

có thêm 1 lần được thay đổi.

Ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công vào Đà

Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, sau đó rút vào đánh chiếm Gia

Định. Tháng 6 năm 1862, triều đình Nguyễn phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng

ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) cho Pháp. Tiếp đó, năm

1867, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) còn lại để tạo

thành một lãnh thổ thuộc địa Cochichine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững

chắc ở Nam Kỳ và để mở rộng ảnh hưởng lên toàn bộ đất nước Đại Nam, từ năm

1873 đến năm 1884, Pháp tiến hành các cuộc chiến tranh ra Bắc Kỳ. Thất bại liên

tiếp trong cuộc chiến tranh với Pháp, triều Nguyễn buộc phải ký các hiệp ước

nhượng đất, bồi thường chiến phí, đã dẫn đến việc thu hẹp trong việc quản lý lãnh

thổ, cùng với đó là giảm sút các nguồn thu. Từ đó, nhà Nguyễn phải tiến hành giảm

bớt số lượng quan lại của các Bộ, Nha. Năm 1868, vua Tự Đức đã cho giảm 139

viên quan với có phẩm trật từ Tứ phẩm trở xuống đến Thư lại Vị nhập lưu ở 24

Nha, Bộ ở Kinh thành. Đối với các tỉnh, đạo, bộ máy chính quyền giảm 142 người

với các viên quan từ hậu bổ đến thông lại, thừa biện [84, tr.1155]. Riêng nha Vũ

khố, cơ cấu nhân sự chỉ còn 1 viên Thị Lang đứng đầu, bên dưới là 1 viên Lang

trung, 8 viên Tư vụ, 10 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 42 Thư lại Vị nhập lưu [84,

tr.1157], tổng cộng là 62 người. Như vậy so với đợt điều chỉnh quan lại gần nhất

(1850), nhân sự Vũ khố đã giảm 14 người.

74

Quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự trong tổ chức bộ máy hành chính quốc gia

dưới triều Nguyễn tiếp tục được tiến hành vào năm Kiến Phúc thứ nhất (1884).

Ngoài chức vụ Thị lang, Vũ khố chỉ lưu lại 4 viên Tư vụ, 7 viên Chánh cửu phẩm,

và 17 viên Thư lại [85, tr.93]. Như vậy, đến năm 1884, cơ cấu nhân sự của Nha môn

Vũ khố từ Thị lang xuống đến Thư lại Vị nhập lưu chính thức còn 27 người. Đây

cũng là sự thay đổi với quy mô lớn nhất ở Vũ khố, giảm tới 35 người (tương đương

56,45%) số lượng quan và lại trong hệ thống nhân sự của Nha này.

Đợt tinh giản quan lại với quy mô lớn này không chỉ diễn ra ở Vũ khố mà

còn ở tất cả các nha, bộ khác trong bộ máy hành chính triều Nguyễn. Nguyên nhân

bởi một mặt do sự thu hẹp trong quản lý lãnh thổ của Nhà nước Đại Nam, mặt khác

bởi, triều đình muốn “đặt quân cốt ở được người giỏi, hậu lương lộc cốt để khuyến

khích người làm quan” [85, tr.91].

75

BẢNG 3.1: THỐNG KÊ QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

1805 1821 1825 1827 1828 1829 1830 1836 1850 1868 1884 Năm Chức/Trật

Chức Thị lang Thiêm sự

Lang trung

Trật1 3a 4a 4a 5a 5a 5b 6a 6b 7a 7b 8a 8b 9a 9b

1 3a: Chánh tam phẩm; 4a: Chánh tứ phẩm; 5a: Chánh ngũ phẩm; 5b: Tòng ngũ phẩm; 6a: Chánh lục phẩm; 6b: Tòng lục phẩm; 7a: Chánh thất phẩm; 7b: Tòng thất phẩm; 8a: Chánh bát phẩm; 8b: Tòng bát phẩm; 9a: Chánh cửu phẩm; 9b: Tòng cửu phẩm

Viên ngoại lang Câu kê Chủ sự Cai hợp Tư vụ Thủ hợp Thư lại Chánh bát phẩm Bản ty Thư lại Chánh cửu phẩm Thư lại vị nhập lưu Tổng số ? ? ? ? ? 50 2 2 2 8 8 44 66 1 3 4 4 8 8 44 72 2 2 4 4 8 8 44 72 1 2 2 4 4 8 8 60 89 1 1 1 3 3 4 4 40 57 1 1 1 3 3 6 8 50 73 1 1 1 4 4 6 8 50 75 1 1 2 4 4 6 8 50 76 1 1 8 10 42 62 1 4 5 17 27

76

3.5. Những quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố

3.5.1. Công đường

Năm Nhâm Tuất (1802), khi triều Nguyễn thành lập, vua Gia Long đã cho

xây dựng các kho để chứa đồ khí giới, kho nguyên liệu chứa đồng, sắt, gang. Đến

năm 1816, Công đường và nhà xưởng Ngoại Đồ gia dời đến phía nam kho thóc

trong Kinh thành Huế và được xây dựng ở đây. Sau khi làm xong, khu công đường

có 8 tòa trong đó có bốn tòa 17 gian, ba tòa 19 gian, một tòa 15 gian, với tổng số

106 gian nhà [65, tr.153].

Đến thời vua Minh Mệnh, quy mô các tòa nhà ở Vũ khố tiếp tục được mở

rộng. Năm 1830, Vũ khố xây thêm hai tòa nhà, mỗi tòa có 17 gian nhà. Một năm

sau (1831), Vũ khố dựng thêm một ngôi nhà 5 gian 2 chái làm nơi thu phát và làm

việc công. Đến năm Bính Thân (1836), triều đình cho dựng tiếp một ngôi nhà 5 gian

lợp ngói phiến cho các thợ làm việc [65, tr.153]. Như vậy, Vũ khố có tất cả 12 tòa

kho công, trong đó có 1 tòa sở Chi thu, 1 tòa sở Đốc công, 2 tòa Giáp I, 2 tòa Ất I,

còn Giáp II, Giáp III, Giáp IV, Ất II, Ất III, Ất IV đều có 1 tòa, thuộc các phường

Vĩnh Trinh và Nhuận Ốc [65, tr.153-154].

Sau khi các tòa nhà ở Vũ khố được xây dựng xong, triều đình Huế cũng quy

định việc chứa vũ khí và nguyên vật liệu ở các kho. Toàn bộ các loại vũ khí triều

Nguyễn được đưa vào kho Giáp I, các loại nguyên liệu chế tạo vũ khí như đồng, thiếc, chì, gang, sắt… được để trong kho Giáp II và Giáp III1. Thời Minh Mệnh, ở

kho Vũ khố có tất cả 10 tòa nhà với 174 gian phòng, trong đó có tới 4 tòa nhà với

68 gian chứa các loại vũ khí và nguyên liệu sản xuất vũ khí [65, tr.152-153]. Trong

Một số loại pháo: pháo thành công, pháo thắng uy tuớng quân bằng đồng, pháo thảo nghịch tướng

Một số loại bạch khí: đao, kiếm, mác, giáo… Một số loại đạn: đạn lan can, đạn chì, đạn đồng, đạn hạt tiêu, đạn hạt kê…

Các loại đồng: đồng đỏ hình nồi, đồng lá, đồng khôi đỏ Tụ Long… Các loại thiếc, chì…

1 Kho giáp I chứa các loại binh khí như: - quân bằng đồng, pháo oanh sơn bằng thép, pháo quá sơn bằng đồng… - - Kho Giáp II chứa một số nguyên liệu chế tạo vũ khí như: - - Kho Giáp III chứa các loại sắt: sắt Hà Sung, sắt Hà Nội, sắt Thái Nguyên, sắt Quảng Nam… [67, tr.14-17, 64-65].

số 10 tòa, Nhà nước đã dành ra gần một nửa kho Vũ khố (4/10 tòa nhà) để chứa các

77

loại vũ khí và nguyên liệu sản xuất vũ khí, điều này cho thấy triều đình Huế rất

quan tâm đến hoạt động sản xuất và bảo quản vũ khí vào thời kỳ này. Có thể thấy,

Vũ khố đã được Nhà nước đảm bảo cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động sản

xuất, bảo quản vũ khí và nguyên vật liệu công.

3.5.2. Lương bổng

Triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, định mức lương bổng của quan lại được

căn cứ theo 4 quy định của triều đình ban hành vào các năm 1818, 1839, 1861 và

1884.

Từ tháng Giêng năm Mậu Dần (1818), vua Gia Long ban hành quy định về

định mức lương bổng và trợ cấp trang phục (Xuân phục) hàng năm cho các quan văn võ cùng với lệ dưỡng liêm cho tri phủ, tri huyện trong bộ máy hành chính1. Đến

tháng 11 năm Kỷ Hợi (1839), triều Nguyễn tiến hành đổi định lệ lương bổng các

quan viên theo xu hướng giảm bớt của các quan có phẩm trật cao và tăng thêm cho

các quan lại có phẩm trật thấp, dự định sẽ bắt đầu thi hành vào tháng Giêng năm Minh Mệnh 21 (1840)2. Tuy nhiên, khi quy định được trình lên vua Minh Mệnh để

ban hành, nhà vua đã quyết định rằng: “Duy có sang năm chính là năm mừng thọ 50

1 Theo quy định này, “Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 600 quan, gạo 600 phương, đồ mặc mùa xuân 70 quan; tòng nhất phẩm, tiền gạo đều 360, đồ mặc mùa xuân 60 quan; chánh nhị phẩm, tiền gạo đều 300, đồ mặc mùa xuân 50 quan; tòng nhị phẩm, tiền gạo đều 150, đồ mặc mùa xuân 30 quan; chánh tam phẩm, tiền gạo đều 120, đồ mặc mùa xuân 20 quan; tòng tam phẩm, tiền gạo đều 90, đồ mặc mùa xuân 16 quan; chánh tứ phẩm, tiền gạo đều 60, đồ mặc mùa xuân 10 quan; tòng tứ phẩm, tiền gạo đều 50, đồ mặc mùa xuân 10 quan; chánh ngũ phẩm, tiền gạo đều 35, đồ mặc mùa xuân 9 quan; tòng ngũ phẩm, tiền gạo đều 30, đồ mặc mùa xuân 8 quan; chánh lục phẩm, tiền gạo đều 25, đồ mặc mùa xuân 7 quan; tòng lục phẩm tiền gạo đều 22, đồ mặc mùa xuân 6 quan; chánh tòng thất phẩm, tiền gạo đều 20, đồ mặc mùa xuân 5 quan; chánh tòng bát phẩm, tiền gạo đều 18, đồ mặc mùa xuân 4 quan; chánh tòng cửu phẩm, tiền gạo đều 16, đồ mặc mùa xuân 4 quan”. [57, tr.158-159]. 2 Theo đó, “Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 400 quan, gạo 300 phương, đồ mặc mùa xuân 70 quan; tòng nhất phẩm, tiền bổng cả năm 300 quan, gạo 250 phương, đồ mặc mùa xuân 60 quan; chánh nhị phẩm, tiền bổng 250 quan, gạo 200 phương, đồ mặc mùa xuân 50 quan; tòng nhị phẩm, tiền bổng 180 quan, gạo 150 phương, đồ mặc mùa xuân 30 quan; chánh tam phẩm, tiền bổng 150, gạo 120 phương, đồ mặc mùa xuân 20 quan; tòng tam phẩm, tiền bổng 120 quan, gạo 90 phương, đồ mặc mùa xuân 16 quan; chánh tứ phẩm, tiền bổng 80 quan, gạo 60 phương, đồ mặc mùa xuân 10 quan; tòng tứ phẩm, tiền bổng 60 quan, gạo 50 phương, đồ mặc mùa xuân 10 quan; chánh ngũ phẩm, tiền bổng 35 quan, gạo 30 phương, đồ mặc mùa xuân 9 quan; tòng ngũ phẩm, tiền bổng 35 quan, gạo 30 phương, đồ mặc mùa xuân 8 quan; chánh lục phẩm, tiền bổng 30 quan, gạo 25 phương, đồ mặc mùa xuân 7 quan; tòng lục phẩm tiền bổng 25 quan, gạo 22 phương, đồ mặc mùa xuân 6 quan; chánh tòng thất phẩm, tiền bổng 22 quan, gạo 20 phương, đồ mặc mùa xuân 5 quan; chánh tòng bát phẩm, tiền bổng 20 phương, gạo 18 phương, đồ mặc mùa xuân 4 quan; chánh tòng cửu phẩm, tiền bổng 18 quan, gạo 16 phương, đồ mặc mùa xuân 4 quan”. [57, tr.162].

của trẫm, sao nỡ vội đem số niên bổng các đại thần giảm bớt ngay, hãy hoãn lại một

78

năm là phải, còn các khoản khác thì theo như lời nghị mà thi hành” [116, tr.609-

611], tức là hoãn lại đến sau năm 1840 mới thực hiện.

Tiếp đó, năm 1861 định mức lương bổng của quan lại triều Nguyễn tiếp tục

có sự thay đổi một lần nữa, tuy nhiên sự thay đổi đối với các viên quan từ Tòng tứ

phẩm trở lên. Theo định mức mới, quan lại Vũ khố được trả lương như sau: Chánh

tam phẩm bổng cả năm 130 quan tiền, 105 phương gạo, Tòng tam phẩm bổng cả

năm 105 quan tiền, 80 phương gạo, Chánh tứ phẩm: bổng cả năm 60 quan tiền, 50

phương gạo, Tòng tứ phẩm bổng cả năm 50 quan tiền, 45 phương gạo. Từ Chánh

ngũ phẩm đến Tòng cửu phẩm, lương bổng của quan lại triều Tự Đức vẫn được giữ

nguyên như định mức lương bổng thời Minh Mệnh và Thiệu Trị [55, tr.137-141].

Năm 1884, triều đình Huế thay đổi lại chế độ lương bổng quan lại trong triều

theo xu hướng tăng mức lương bổng. Việc thay đổi này nhằm “đặt quân cốt ở được

người giỏi, hậu lương lộc cốt để khuyến khích người làm quan”. Tuy nhiên, mức

lương bổng mới này được bắt đầu tính từ năm Ất Dậu (1885) [55, tr.162]. Như vậy,

quan lại ở Vũ khố nói riêng, triều nguyễn nói chung đến năm 1884 vẫn được nhận

lương bổng theo mức cũ từ thời vua Tự Đức.

79

BẢNG 3.2: ĐỊNH MỨC LƢƠNG BỔNG QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

CHỨC/PHẨM TRẬT

LƢƠNG BỔNG

THỜI GIAN

SỐ TT

CHỨC

XUÂN PHỤC (quan)

PHẨM TRẬT

TIỀN (Quan)

GẠO (phƣơng)

120

120

1818-1840

20

1

THỊ LANG

3a

1841-1861

150

120

20

130

105

1862-1884

20

1818-1840

10

60

60

2

4a

1841-1861

10

80

60

LANG TRUNG

1862-1884

10

60

50

1818-1840

9

35

35

3

5a

1841-1861

9

40

25

VIÊN NGOẠI LANG

1862-1884

9

40

30

1818-1840

7

25

25

4

CHỦ SỰ

6a

1841-1861

7

30

25

1862-1884

7

30

25

1818-1840

5

20

20

5

TƯ VỤ

7a

1841-1861

5

22

20

1862-1884

5

22

20

1818-1840

4

18

18

6

8a

1841-1861

4

20

18

THƯ LẠI CHÁNH BÁT PHẨM

1862-1884

4

20

18

1818-1840

4

16

16

7

9a

1841-1861

4

18

16

THƯ LẠI CHÁNH CỬU PHẨM

1862-1884

4

18

16

1818-1840

4

16

16

8

9b

1841-1861

4

18

16

THƯ LẠI VỊ NHẬP LƯU

1862-1884

4

18

16

Nguồn: [57, tr.158, 162], [69, tr.137-141], [22, tr.227-229].

80

Theo quy định ban hành vào các năm 1818, 1839 và 1861, triều đình trả

lương cho quan lại theo định mức hàng năm gồm 3 bộ phận: tiền (tính bằng quan),

gạo (tính bằng phương) và Xuân phục (trả bằng tiền, tính bằng quan). Về cơ bản,

lương của các quan lại được trả một nửa bằng tiền và một nửa bằng gạo, nhận trực

tiếp từ kho công của Nhà nước. Khi cộng thêm khoản Xuân phục (trợ cấp trang

phục hàng năm) được trả bằng tiền, quan lại sẽ nhận được lương bổng hàng năm

gồm tiền và gạo với số lượng quan tiền lớn hơn số lượng phương gạo và mức chênh

lệch khác nhau tùy từng phẩm trật.

Định mức lương bổng hàng năm của quan lại Vũ khố nói riêng, quan lại triều

Nguyễn nói chung cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các chức quan có phẩm trật

khác nhau. Theo bảng lương nói trên, sự chênh lệnh giữa viên quan Thị lang và viên

quan Thư lại vị nhập lưu là từ 7,22 đến 7,5 lần. Khoảng cách lương bổng giữa các

chức quan có phẩm trật gần nhau, như Thị Lang (Chánh tam phẩm) so với Lang

trung (Chánh tứ phẩm), cũng như giữa các chức quan có phẩm trật cách xa nhau,

như Thị Lang (Chánh tam phẩm) so với Thư lại vị nhập lưu (Tòng cửu phẩm), đều

rất cao. Từ hoạt động chi trả lương của Nhà nước cho thấy, sự phân biệt rất rõ ràng

giữa các phẩm hàng quan lại.

Bên cạnh đó, Nhà nước còn có quy định rõ ràng về việc lĩnh lương của quan

lại Vũ khố nói riêng, quan lại triều Nguyễn nói chung. Theo đó, quan viên văn võ từ

Tam phẩm trở lên cả năm lĩnh lương bổng, xuân phục hai lần vào tháng giêng và

tháng bảy. Quan từ Tứ phẩm trở xuống đến Thất phẩm cả năm có 4 kỳ lĩnh lương

vào các tháng 1, 4, 7, 10. Còn quan lại Bát phẩm, Cửu phẩm mỗi tháng lĩnh lương

một lần [57, tr.159].

3.5.3. Phẩm phục

Đối với phẩm phục của quan lại Vũ khố nói riêng, triều Nguyễn nói chung,

Nhà nước sớm có quy định chặt chẽ, ban hành từ tháng 4 năm Bính Dần (1806)

dưới triều vua Gia Long nhằm “danh phận rõ ràng, tôn ty có khác”. Theo đó, phẩm

phục của quan lại gồm phẩm phục đại triều và phẩm phục thường triều. Đến năm Ất

Tỵ (1845), vua Thiệu Trị nhận thấy sự chưa rõ ràng trong quy chế về mũ áo giữa

81

quan Chánh nhất phẩm, Tòng nhất phẩm với quan Chánh nhị phẩm và Tòng nhị

phẩm, do vậy người đứng đầu triều đình Huế đã ban định một quy chế mới về phẩm

phục quan lại trong triều nhằm “cho rõ trật tự mà nghiêm triều nghi” [58, tr.153].

Trong ngạch phẩm trật quan lại triều Nguyễn, quan lại ở Vũ khố cao nhất là chức

Thị lang trật chánh Tam phẩm, thấp nhất là Thư lại vị nhập lưu trật Tòng cửu phẩm,

do đó những quy định mới của vua Thiệu Trị không ảnh hưởng đến. Như vậy, phẩm

phục đại triều và thường triều của quan lại Vũ khố vẫn theo quy định năm Gia Long

thứ 5 (1806), cụ thể như thống kê trong bảng sau:

82

BẢNG 3.3: PHẨM PHỤC ĐẠI TRIỀU CỦA QUAN VIÊN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

PHẨM PHỤC ĐẠI TRIỀU

CHỨC

TRẬT

XIÊM

3a

THỊ LANG

Xiêm thêu cẩm kê, lẫn hoa đỏ

Mũ phốc tròn, trang trí cầu vàng, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng

ÁO BÀO Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo mãng bào các màu xanh, lục, lam, đen

BỔ TỬ Bổ tử thêu mây và chim nhạn, nền đỏ

HIA TẤT Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

4a

LANG TRUNG

Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo hoa bào các màu xanh lục lam, đen

Bổ tử thêu mây và chim nhạn, nền đỏ

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trang trí cầu bạc, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng

Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu công, đều viền gấm

ĐAI Đai thân màu hồng, trang sức bằng vàng, mặt vàng trơn không chạm Đai thân màu hồng, trang sức dùng đồi mồi, mặt trước 3 miếng, hai bên hai miếng dài bọc vàng, ngoài ra đều bọc bạc

5a

VIÊN NGOẠI LANG

Đai thân màu hồng, trang sức dùng mặt đồi mồi bọc bạc

Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu xanh, lục, lam, đen

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trang trí cầu bạc, trước sau đều một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc

Bổ tử thêu chim nhạn trắng, nền đỏ

6a

CHỦ SỰ

Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trước sau đều

Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu

Bổ tử thêu chim

Đai thân màu hồng, trang sức dùng 3 miếng

Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu mây và chim nhạn, đều viền gấm Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục,

Hia kiểu thường, sắc đen mũi

83

một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc

xanh, lục, lam, đen

vuông, bí tất viền gấm

nhạn trắng, nền đỏ

hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu chim nhạn trắng, viền gấm

đồi mồi ở mặt trước, ngoài ra thì mặt sừng đen, đều bọc bạc

7a

TƢ VỤ

Bổ tử thêu con cò, nền đỏ

Đai thân màu hồng, trang sức dùng mặt sừng đen bọc bạc

Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trước sau đều một hoa bạc, hai cánh không viền bọc

Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu xanh, lục, lam, đen

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu cò viền lụa màu

Nguồn: [58, tr.202-206], [83, tr.391-397], [22, tr.323-329].

84

BẢNG 3.4: PHẨM PHỤC THƢỜNG TRIỀU CỦA QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

PHẨM PHỤC THƢỜNG TRIỀU

CHỨC

TRẬT

BỔ TỬ

XIÊM

HIA TẤT

3a

THỊ LANG

Mũ kiểu Văn công, trang sức bằng vàng

Xiêm thêu cẩm kê, lẫn hoa đỏ

Bổ tử thêu cẩm kê, nền vàng

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

ÁO BÀO Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo màu trắng, các màu xanh, lục, lam, đen, hoặc thêu hoa cũng được

4a

LANG TRUNG

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Bổ tử thêu công, nền hồng

Mũ kiểu Đông Pha, trước sau đều một hoa vàng, còn hoa và giao long đều bằng bạc

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu công, đều viền gấm

5a

VIÊN NGOẠI LANG

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Bổ tử thêu mây và nhạn, nền hồng

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu mây và chim nhạn, đều viền gấm

Mũ kiểu Đông Pha, trang sức toàn bạc, đằng trước hai hoa, hai giao long, đằng sau một hoa, hai giao long

6a

CHỦ SỰ

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Mũ kiểu Đông Pha, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long

Bổ tử thêu chim nhạn trắng, nền hồng

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

7a

TƢ VỤ

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Bổ tử thêu cò, nền hồng

Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long

Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm

Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu chim nhạn trắng, viền gấm Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu cò viền lụa màu

85

8a

Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Bổ tử thêu gà lôi, nền xanh

Hia theo phép thường, tất viền lụa màu

THƢ LẠI CHÁNH BÁT PHẨM

9a

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Hia theo phép thường, tất viền lụa màu

THƢ LẠI CHÁNH CỬU PHẨM

Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, phía trước trang trí một hoa bạc

9b

THƢ LẠI VỊ NHẬP LƢU

Mũ Văn tú tài, phía trước trang sức một hoa bạc

Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen

Hia theo phép thường, tất viền lụa màu

Bổ tử thêu chim thuần, nền xanh Bổ tử thêu chim thuần, nền xanh

Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn

Nguồn: [58, tr.202-206], [83, tr.391-397], [22, tr.323-329].

86

3.5.4. Ấn triện

Như các nha, bộ khác ở Kinh thành, Vũ khố cũng được Nhà nước cấp cho các

loại ấn triện. Ấn triện trong quy chế hoạt động của Vũ khố bao gồm ấn triện công của

Vũ khố và ấn triện riêng của quan lại Vũ khố.

Ấn triện công của Vũ khố tức là ấn triện chung dùng cho việc của Vũ khố, gồm

các ấn quan phòng, ấn thông hành (ấn triện dùng khi đi ra ngoài) và con dấu do phòng

Văn thư (Từ Trát tào) giữ [67, tr.11].

Các nguồn sử liệu cho biết ấn thường dùng của Vũ khố được đúc bằng đồng, hình vuông, rộng 1 tấc, có khắc chữ kiểu chữ triện: “Tôn nhân phủ hành ấn”1. Đối với

ấn quan phòng, theo quy định năm Minh Mệnh 9 (1828), ấn được đúc bằng đồng, có

núm chạm con sư tử, dài cũng như ấn của 6 bộ, bề ngang rộng 3 phân [58, tr.310], có

tên là Vũ khố quan phòng.

Bên cạnh ấn thường dùng, ấn quan phòng, Nhà nước còn cấp cho Vũ khố loại

ấn thông hành và con dấu kiềm dùng chất ngà. Ấn thông hành và con dấu kiềm dùng

khi hộ giá trong quá trình nhà vua đi tuần hành hay ra ngoài kinh thành. Sau khi nhà

vua hồi cung, ấn thông hành và con dấu kiềm được giao cho Nội các cất giữ [58,

tr.310].

Đối với ấn quan phòng cấp cho chức quan, sau khi lên nối ngôi, vào năm Bính

Tuất (1826), vua Minh mệnh đã bắt đầu tổ chức chế dấu quan phòng để cấp cho các

quan văn võ đại thần [79, tr.34]. Trong đó, Thị lang Vũ khố được cấp một dấu quan

phòng bằng ngà để làm dấu quan phòng riêng của mình, dùng khi tâu nghị và vâng

chép dụ. Ấn của quan Thị lang dài 1 tấc 2 phân, chiều ngang 1 tấc 1 phân, bên dưới

dùng hộp son đóng ở dưới hàng chữ Nhật dòng viết niên hiệu [22, tr.337]. Như vậy đối

với Vũ khố, ấn triện quan phòng cấp cho chức quan (hay ấn triện quan phòng dành cho

1 Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Ấn thường dùng của các nha Đô sát viện, Thông chính ty, Nội vụ phủ, Vũ khố, Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hàn lâm viện, Khâm thiên giám, Tào chính ty, đều vuông 1 tấc khắc chữ triện: “Tôn nhân phủ hành ấn” (ngoài ra cũng thế). Ấn các phủ: chất đồng núm thẳng, vuông 1 tấc 6 phân 2 ly. [58, tr.300].

chức vụ) chỉ được cấp cho bộ phận đường quan Vũ khố.

87

3.6. Hoạt động

Triều Nguyễn đặc biệt quan tâm đến hoạt động xây dựng đồn ải, tích chứa vũ

khí để bảo vệ, quản lý đất nước. Vua Minh Mệnh từng nói: “Trị nước phải biết lo xa.

Trẫm từ khi thân chính đến nay lo sách lược xây dựng nhà nước lâu dài, […]. Đến như

thành trì các trấn cũng đều lần lượt mà đắp xây. Lại chứa nhiều súng tay để phòng khi

có việc dùng đến” [79, tr.758]. Từ nhu cầu xây dựng cơ sở quốc phòng, trang bị cho

quân đội ngày càng lớn, Nhà nước đã tăng cường tổ chức những hoạt động sản xuất,

chế tạo vũ khí ở Vũ khố.

3.6.1. Hoạt động sản xuất vũ khí

Một trong những nhiệm vụ chính của nha Vũ khố là hoạt động sản xuất, bảo

quản vũ khí. Đại Nam thực lục đã ghi chép khá tỉ mỉ quá trình hoạt động của Vũ khố

qua các triều vua Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh cho đến Kiến Phúc.

Xưởng đúc vũ khí được đặt tại Phường Đúc, kinh thành Huế - nơi các chúa

Nguyễn đã xây dựng từ thế kỷ trước. Công sở này do Vũ khố trực tiếp điều hành, quản

lý có sự tư vấn, giám sát của Bộ Binh. Năm 1836, triều đình cho lấy hai tòa nhà của

kho thóc trong kinh (mỗi tòa 15 gian) làm nơi rèn đúc, sau đó lại dựng một tòa nhà

kho tạm thời phía sau làm nơi chứa than củi [65, tr.154]. Hoạt động chế tạo vũ khí

được phân bổ theo từng bộ phận như thợ đúc, thợ rèn, nơi làm súng, nơi giã thuốc

súng, chế tạo đạn… Nhờ có sự phân chia mang tính chuyên môn hóa cao, Vũ khố đã

chế tạo được một khối lượng súng đại bác khá lớn. Trong vòng gần 40 năm trị vì của hai

vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long (1802-1819) và Minh Mệnh (1820-1840), Nhà

nước đã cho đúc ít nhất 2468 khẩu súng đại bác bằng đồng, gang [67, tr.276-279]. Jonh

Crawfurd đến Huế vào những năm đầu triều Minh Mệnh đã nhận xét về xưởng đúc súng

ở Vũ khố là nơi được tổ chức trật tự và hoàn hảo [2, tr.73-75]. Sang đến thời Thiệu Trị

(1841-1847), Tự Đức (1848-1883), hoạt động đúc súng lớn vẫn được tiếp tục diễn ra

nhưng với số lượng và tần xuất ít hơn. Năm Đinh Mùi (1847), tại công trường Vũ khố,

Nhà nước cho đúc 9 khẩu súng “Thần uy phục viễn đại tướng quân” và 3 khẩu súng

“Bảo đại định công an dân hòa chúng thượng tướng quân” [83, tr.1302-1304].

Cùng với việc sản xuất các loại đại bác khác nhau, Vũ khố cũng được Nhà nước

giao chế tạo các loại đạn tương ứng đi kèm. Năm 1833, chế tạo 1.000 đạn Liên tỏa hồ

88

điệp. Tiếp đó, năm 1835 Vũ khố chế tạo thử “Liên can thiết đạn cho súng Quá sơn và

súng Điểu sang. Đạn súng Quá sơn 1.000 cái, mỗi cái dài 8 tấc, nặng trên dưới 10

lạng. Đạn súng Điểu sang 2.000 cái, dài 7 tấc, nặng 2 lạng 5 đồng cân” [81, tr.605].

Súng tay dưới triều Nguyễn phổ biến là loại súng điểu thương (điểu sang), súng

trường máy đá, súng tay Trung Quốc… Đây là những loại súng có kích thước nhỏ

dùng để trang bị cho cá nhân binh sĩ. Các loại súng này được sản xuất nhiều ở công

trường Vũ khố, ngoài ra còn được sản xuất ở Nghệ An và một số địa phương từ Hà

Tĩnh trở ra Bắc. Năm 1829, vua Minh Mệnh cho biết: “Nước ta chỉ được 100.000 binh

lính tinh nhuệ. Nay Vũ khố trữ súng tay không dưới 30.000 khẩu. Số thuốc đạn gấp

bội, cho đến các thứ tre đặc, cán giáo, cái gì cũng đủ. Vì nước ta dùng binh, giáo và

súng đạn xen nhau, 2 thứ ấy không thể ít được” [79, tr.897]. Như vậy, so với các quốc

gia trong khu vực, quân đội triều Nguyễn thời vua Minh Mệnh được trang bị vũ khí

với một tỉ lệ khá cao và tương đối hiện đại [111, tr.263-281], [111, tr.282-291], [37,

tr.47-49]. Không những vậy, súng Điểu sang dưới triều Minh Mệnh đã từng bước được

cải tiến đáng kể. Chính sử ghi lại, ngay từ năm 1823 vua Minh Mệnh đã sai Vũ khố

chế thứ súng tay thuốc nổ mạnh kiểu Tây dương, thưởng thợ cục 100 quan tiền [79,

tr.299].

Đến thời vua Tự Đức, tại xưởng của Vũ khố cũng vẫn tiếp tục thử nghiệm chế

tạo các loại vũ khí của quân đội phương Tây. Tháng 7 năm Kỷ Mùi (1859), triều đình

giao cho Đốc công Vũ khố đúc 50 khẩu súng theo kiểu Pháp, mỗi khẩu có ổ đạn 9 viên

[84, tr.618].

Từ những hoạt động sản xuất, chế tạo, bảo quản vũ khí cho thấy Vũ khố được

tổ chức khá tốt và mang tính chuyên môn hóa cao. Mặc dù kỹ thuật sản xuất vẫn còn là

thủ công nhưng đã biết phỏng theo kỹ thuật làm súng của phương Tây. Tuy nhiên,

sang đến thời kỳ trị vì của các vua Tự Đức, Kiến Phúc (1848-1884), các loại vũ khí do

Vũ khố sản xuất ra dần không đủ đáp ứng yêu cầu trang bị cho đội quân và chất lượng

không cao, có sự cách biệt rất xa với trình độ kỹ thuật vũ khí của thế giới đương thời.

3.6.2. Cấp phát vũ khí

Bên cạnh việc sản xuất vũ khí, Vũ khố đảm nhiệm việc cấp phát các loại vũ khí

đạn được cho các tỉnh thành trong cả nước. Năm Giáp Ngọ (1834), Vũ khố được Nhà

89

nước giao đúc mẫu một số loại súng như súng Điểu thương. Sau khi đúc xong, mẫu

súng được đưa tới các tỉnh và yêu cầu các tỉnh làm theo kiểu cách đó. Đại Nam thực

lục cho biết: “năm 1834, tỉnh Hà Tĩnh chế 300 khẩu súng Điểu thương, theo mẫu của

Vũ khố đưa đến (làm bằng sắt, dài 2 thước 2 tấc 1 phân; đường kính nòng 3 phân, 7 ly;

đường kính miệng súng 4 phân 9 ly), vát thợ chế tạo. Lại sai tải 10 vạn cân sắt Hà

Sung ở kho Kinh đến tỉnh Nghệ An, cho theo đúng mẫu mà chế thú súng này, cứ mỗi

tháng 2 lần báo về Bộ để liệu cho tải nộp” [81, tr.189].

Không chỉ cung cấp các mẫu vũ khí, đạn dược, Vũ khố còn trực tiếp cung cấp

các loại súng lớn như các súng thần công, súng nhỏ như súng điểu sang cho các tỉnh

trong cả nước. Sử cũ ghi lại: “tháng 10 năm Giáp Tý (1864), Chuẩn cho trích súng lớn,

súng nhỏ ở tỉnh Nghệ An (súng quá sơn 20 cỗ, súng thần công 10 khẩu, súng điểu sang

máy đá ở Vũ khố 300 khẩu) phát giao cho tỉnh Thanh Hoá, để đủ cấp cho các dinh vệ

[84, tr.881]. Tiếp đó, năm Nhâm Thân (1872) nhà nước lại sai Vũ khố chuyển 20.000

viên đạn cho tỉnh Sơn Tây và 10.000 viên cho tỉnh Bắc Ninh [84, tr.1331]. Nhờ những

hoạt động như vậy, loại súng máy Điểu sang này đã được phổ biến rộng rãi đến các

tỉnh trong cả nước.

Bên cạnh việc đúc mẫu, cung cấp vũ khí, đạn dược cho các địa phương, Vũ khố

còn cung cấp trang thiết bị quân sự khác như các loại giáo trường, giáo cờ, cờ đuôi

nheo… Theo Đại Nam thực lục, năm Mậu Tý (1828), nhà nước đã cung cấp một số

lượng lớn các hạng binh khí cần dùng như súng tay, giáo trường, giáo cờ… cho các vệ

cơ đội ở các địa phương Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa,

Bình Thuận, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình.

BẢNG 3.5: THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG CẤP PHÁT SÚNG TAY

TRUNG QUỐC, GIÁO TRƢỜNG, GIÁO CỜ CỦA VŨ KHỐ CHO

MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG NĂM 1828

Loại vũ khí

Tỉnh/ trấn

Súng tay Trung Quốc 720 1230 600 520

Giáo trƣờng 1120 1480 900 720

Giáo cờ 66 203 61 65

Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Định Phú Yên

90

800 1020 660 660 3660 1680 830

1100 1320 860 960 4160 1980 1080

Bình Hòa Bình Thuận Quảng Trị Quảng Bình Nghệ An Thanh Hoa Ninh Bình

102 147 94 74 640 283 120 Nguồn: [79, tr.805-808].

3.6.3. Tích chứa vật liệu công

Với chức năng là nơi để chứa đồ binh khí cùng với các sản vật của công khác

như đồng, thếc, kẽm, sắt… nên hoạt động coi giữ, bảo quản, sửa chữa các loại đồ vật

nói chung, vũ khí nói riêng của Vũ khố rất quan trọng. Đầu tiên là hoạt động phân bố,

sắp xếp vũ khí sao cho gọn gàng, phân loại rõ ràng. Theo Đại Nam thực lục, năm Quý

Tỵ (1833), sau khi đến xem kho Vũ khố, thấy súng điểu sang phần nhiều bỏ lẫn lộn

với các loại vũ khí khác dẫn đến hư hỏng, vua Minh Mệnh liền sai phạt trượng viên

quan giám lâm là Hà Thúc Lương và những viên quan phụ trách khác, yêu cầu phải

sửa chữa, sắp xếp lại. Nhà nước cũng quy định, đối với các quan khoa đạo đi tuần tra

khi gặp phải tình trạng lộn xộn, bừa bãi mà không biết hạch hỏi, vạch ra, thì phải chịu

tội chung [80, tr.792].

Để đảm bảo chất lượng sản phẩm vũ khí khi được đúc ra, triều Nguyễn có

những quy định rõ ràng về việc phân loại các hạng sắt, đồng chứa ở các kho. Theo đó,

các hạng đồng, sắt được chia thành từng loại tốt, xấu để đem nấu luyện, thí nghiệm.

Ngoài ra, năm Mậu Tuất (1838) Nhà nước cho xây dựng thêm các hầm cất chứa đồng,

gang sắt ở Vũ khố, nhằm đảm bảo đồng, sắt không bị hoen rỉ khi mang đi đúc. Đại

Nam thực lục ghi lại: “tại kho Giáp II, cho làm một hầm dài 10 trượng 6 thước 2 tấc,

sâu rộng đều 5 thước, trong hầm được chia làm 3 ngăn, chứa riêng từng hạng đồng:

đồng hạng nhất 40.000 cân, đồng đỏ hạng nhì 50.000 cân, đồng hạng ba 30.000 cân.

Kho Giáp III, cho xây một hầm dài 10 trượng 7 thước 1 tấc, sâu rộng cũng đều 5

thước, trong hầm chia thành 2 ngăn chứa riêng các hạng gang: 450.000 cân, sắt sống

và sắt đã luyện 800.000 cân” [82, tr.364].

91

Hoạt động bảo quản, tổ chức, sắp xếp vũ khí và nguyên vật liệu sản xuất một

cách quy củ và chặt chẽ như thế đã đảm bảo tốt nguồn kim khí để cung cấp cho việc

đúc chế các loại binh khí.

Trong hoạt động bảo quản các loại binh khí, đạn pháo, thuốc súng…, ngoài việc

phân định cất giữ vũ khí ở các kho, Vũ khố còn đảm nhiệm việc sửa chữa. Ngay từ

tháng 11 năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mệnh đã có lệnh cứ 5 năm 1 lần sửa chữa

các loại vũ khí. Trong 5 năm đó, nếu đồ binh khí mà hỏng gẫy hoặc ngoài hạn đó mà

đánh mất hay làm gẫy vỡ, thì những chánh phó vệ úy và quản cơ chuyên biện cùng

những lính cầm giữ binh khí, tùy theo mức độ hư hỏng của vũ khí mà bị tội nặng hay

nhẹ. Những viên quan đại thần quản lãnh che chở, không báo cáo lên cấp trên, nếu xét

ra được thì giao cho bộ bàn xử [79, tr.316-317].

Bên cạnh đó, Nhà nước định lệ phân xử việc để hư hỏng binh khí khi được Vũ

khố cấp. Năm Bính Tuất (1826), triều đình nhà Nguyễn có quy định trong hạn cấp mà

binh khí hư hỏng, một vệ hỏng đến 100 cái, một đội đến 20 cái trở lên, thì đại viên

Chưởng lĩnh cùng Chánh phó quản vệ và Suất đội đều bị phạt 6 tháng lương, một vệ

51 cái, một đội 11 cái trở lên, đều phạt 3 tháng lương, một vệ 10 cái, một đội 3 cái trở

lên, Chưởng lĩnh miễn phạt, Quản vệ và Suất đội phạt 2 tháng lương [79, tr.565].

Đối với việc quân nhu, Nhà nước yêu cầu binh khí cốt phải sắc bén đầy đủ.

Trong quá trình gia cố, sửa chữa các loại vũ khí phải cẩn thận, không được phép làm

qua loa, chiếu lệ. Theo quy định của triều đình Huế, binh khí trong kho hay đã giao

cho binh lính cầm giữ, đều do các quan đốc, phủ, bố, án và lãnh binh đích thân kiểm

soát xem xét, cái nào cũng phải chắc chắn, sắc bén. Nếu bỏ qua không làm đúng phép,

thì những viên quan phụ trách, những binh lính nhận lĩnh, cầm giữ binh khí sẽ bị

nghiêm hặc và trừng trị [81, tr.218]. Trước đó, năm 1831 Quản Thị vệ Vũ Văn Giải và

Nguyễn Trọng Tính đã không đôn đốc các thợ ở Vũ khố sửa hơn 900 cây súng điểu

thương lẫn máy bắn đá cũ một cách cẩn thận nên đã bị khiển trách và mất chức [80,

tr.194-195].

3.6.4. Các hoạt động khác

Cùng với các hoạt động sản xuất vũ khí; lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí;

tích chứa vật liệu công, Vũ khố còn thực hiện nhiệm vụ khác nữa. Năm Bính Thân

92

(1836), Vũ khố chế tạo 30 bộ cân thiên bình lớn, 30 bộ cân thiên bình vừa và 30 cân

thiên bình bộ nhỏ, tổng số là 90 bộ. Việc chế tạo các loại cân “để dùng làm chuẩn đích

cho việc cân các đồ vật và hàng hóa” và được giao phát đi các Nha, Bộ và các tỉnh,

thành [81, tr.1031].

Tháng 3 năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mệnh giao cho Vũ khố làm xe Ngọc kính1 theo cách thức của Tây dương. Sau khi chế tạo thành công xe Ngọc kính, các thợ

chế tạo ở Vũ khố được thưởng 100 quan tiền [79, tr.60]. Tiếp nối thành công đó, năm

Bính Tuất (1826) vua Minh Mệnh giao cho Vũ Khố đóng xe Thuỷ sương, bắt chước

kiểu xe của Tây dương, xuống dụ: “Vương giả lấy điều hay của thiên hạ làm điều hay

của mình; xe ấy dẫu là người ngoại Di chế ra, nhưng khéo lạ có thể dùng được, bắt

chước mà làm cũng không hại gì; nếu bảo là không cần học của họ thì là thô lậu thôi”

[79, tr.519-520].

Bên cạnh việc chế tạo các loại cân thiên bình và xe dùng cho nhà vua, Vũ khố

còn chế tạo các dụng cụ đo đạc như các loại thước may, các dụng cụ cân đong như

hộc, phương, thăng… Nhận thấy không có sự thống nhất thước may bằng đồng và

bằng gỗ, năm Ất Dậu (1825) Minh Mệnh đã giao cho Vũ khố chế tạo thước may và

thước đo bằng đồng, sau đó cấp cho các nha môn ở Kinh và ở các địa phương [79,

tr.498] nhằm thống nhất hệ tiêu chuẩn đo trong cả nước.

Không chỉ quan tâm đến việc thống nhất trong việc đo đạc, triều đình nhà

Nguyễn còn muốn thống nhất trong việc cân đong, đo đếm, vậy nên đã giao cho Vũ

khố chế một loạt hộc, phương, thăng, uyển, bát để dùng trong cả nước. Đại Nam thực

lục chép: “…Vũ Khố chế cấp cho để rõ thể thức nhất định. Duy 5 trấn thành Gia Định

và 11 trấn Bắc Thành do thành chế theo mẫu chế ra để chuyển cấp” [79, tr.734]. Ngoài

tra, triều đình còn quy định vật liệu để chế tạo và sử dụng những hộc, phương, thăng,

bát… vào làm những việc gì: “Phàm hộc, phương đều làm bằng gỗ, thăng, uyển, bát

đều làm bằng đồng. Hộc dùng thu chi thóc công, phương cùng uyển lớn dùng thu chi

gạo lương, trung phương cùng trung uyển dùng thu chi muối, thăng dùng thu chi muối

1 Xe Ngọc kính: Xe lồng kính

gạo, bát dùng thu gạo cước” [79, tr.734].

93

Năm 1820, Cục đúc tiền ở Kinh đô chính thức được thành lập, sau đó đến năm

1826, được đổi thành Bảo hóa Kinh cục, và do Vũ khố kiêm quản” [79, tr.520]. Cục

Bảo hóa đã được Nhà nước giao đúc các loại tiền đồng, tiền kẽm với nhiều kích cỡ

khác nhau, đặc biệt là đúc mẫu để triển khai đúc đồng loạt. Năm 1827, ở Cục Bảo hóa

có 2 đợt đúc tiền đồng lớn “Gia Long thông bảo”, “Minh Mạng thông bảo” với số

lượng lớn 10.000 quan [79, tr.613, 618]. Năm 1830, một loại đồng tiền đồng lớn

“Minh Mạng thông bảo” kèm mỹ hiệu cũng được đúc đến 1 vạn đồng [80, tr.69-70].

Dưới thời Thiệu Trị, Cục vẫn tiếp tục đúc mẫu các loại tiền đồng, tiền kẽm các hạng

theo hiệu mới. Đặc biệt, tiền đồng lớn “Thiệu Trị thông bảo” kèm mỹ hiệu đến 40 hiệu

đúc 1 vạn đồng [81, tr.839-840]. Đối với tiền kẽm, năm 1843 Nhà nước cho đúc tiền

Thiệu Trị, loại dày 6 phân, với số lượng gần 80.000 quan [81, 468]. Đến thời Tự Đức,

hoạt động đúc tiền được đẩy mạnh khi nhà vua mở rộng 15 xưởng đúc như ở Bắc Ninh

(1850) Thái Nguyên (1867), Bình Định (1872). Quá trình hoạt động của cục Bảo hóa

cho thấy vai trò quan trọng nhất của Cục là đúc mẫu và căn cứ vào nhũng lần đúc thử

lớn ở đây để Nhà nước định ra thành phần kim loại, lệ hao phí và tính toán nhân công,

vật liệu cho việc đúc tiền trong cả nước.

3.7. Quá trình biến chuyển tên gọi quan lại ở Vũ khố

Năm Giáp Tý (1804), triều đình Nguyễn bàn định quan chế, theo đó người đứng

đầu cơ quan Đồ gia có chức quan Câu kê, giữ trật Tản giai tòng Ngũ phẩm, sau đó đến

chức quan Cai hợp, giữ trật Tản giai tòng lục phẩm, tiếp theo lần lượt Thủ hợp trật tản

giai tòng thất phẩm, Bản ty trật tản giai tòng bát phẩm, cuối cùng là Thư lại vị nhập

lưu giữ trật Tản giai tòng cửu phẩm [78, tr.595-596].

Năm Tân Tỵ (1821), một năm sau khi nối ngôi, vua Minh Mệnh bắt đầu điều

chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của các bộ, nha, trong đó có Vũ khố. Theo như việc

định ngạch nhân sự mới ở Vũ khố, cho thấy dưới triều vua Minh Mạng, các chức quan

như Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, Bản ty đã không còn, thay vào đó là các chức Lang

trung, Chủ sự, Tư vụ, Thư lại Bát cửu phẩm. Như vậy, có thể hiểu rằng vào đầu năm

1821, khi tiến hành điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của các bộ, nha, vua Minh

Mệnh đã đổi đặt chức danh, đồng thời đặt thêm số người của các chức danh này tại Vũ

94

khố. Theo cách hiểu này, chức Câu kê trật Tản giai Tòng ngũ phẩm bị xóa bỏ1, thay

thế vào đó là chức Lang trung trật Chánh ngũ phẩm, chức Cai hợp Tản giai Tòng lục

phẩm được thay thế bằng chức Chủ sự trật Chánh lục phẩm, chức Thủ hợp Tản giai

Tòng thất phẩm được thay thế bởi chức Tư vụ trật Chánh thất phẩm, chức Bản ty Tản

giai Tòng bát phẩm được thay thế bằng chức Thư lại Chánh bát, cửu phẩm. Việc đặt

các chức mới như Lang trung, Chủ sự, Tư vụ… không chỉ diễn ra ở nha Vũ khố mà ở

các Bộ, Nha khác.

Bên cạnh việc thay thế tên gọi các chức quan ở Vũ khố, năm 1825 vua Minh

Mệnh còn cho đặt thêm chức Thiêm sự ở Nha này. Theo như lời Dụ của vua Minh

Mệnh, công việc của nha Vũ khố trước đó thường lấy thêm các viên quan trật Thiêm

sự ở các Bộ để bổ sung vào làm việc, nay được cho đặt riêng một chức Thiêm sự mới

và do Vũ khố quản lý. Nhưng cũng theo chỉ dụ trên, việc đặt thêm chức Thiêm sự lại

lấy từ chức vụ Lang trung Vũ khố sang. Đại Nam thực lục chép: “Ất Dậu, năm Minh

Mệnh thứ 6 [1825], bắt đầu đặt chức Thiêm sự ở Nội vụ phủ và Vũ Khố. Trước kia

công việc các nha ấy đều lấy những người trật Thiêm sự ở các Bộ sung làm, đến nay

mới đặt riêng. Lấy thự Thiêm sự Hộ bộ là Lê Bá Tư làm Thiêm sự Nội vụ phủ, Lang

trung Vũ Khố giám Tạo các cục Bắc Thành là Trần Văn Hoằng làm Thiêm sự Vũ

Khố” [79, tr.393]. Như vậy, bắt đầu từ năm Ất Dậu (1825), ở kho Vũ khố có thêm 1

chức quan mới là Thiêm sự.

Sau một quá trình điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự trong bộ máy hành chính

nhà nước, vua Minh Mệnh nhận thấy hệ thống quan chế tồn tại từ thời Gia Long đã trở

nên không phù hợp với tình hình mới của đất nước. Do vậy, vị vua thứ hai triều

Nguyễn đã cho hoạch định lại quan chế văn giai, võ giai, kèm theo đó với ý nghĩa “nay

đất nước thăng bình, nhà nước nhàn rỗi, đáng nên tỏ rõ chế độ đời thái bình để mãi về

sau” [79, tr.655]. Và trong cuộc tổng duyệt định lại quan chế năm Đinh Hợi (1827),

vua Minh Mệnh đã cho thay đổi tên gọi và đặt thêm một số chức quan trong bộ máy

hành chính từ trung ương đến địa phương. Đối với nha Vũ khố, triều đình Nguyễn thời

1 Tác giả Đỗ Bang không rõ dựa vào tài liệu nào đã cho rằng: Năm 1827 “bỏ chức Câu kê và đặt chức Viên Ngoại lang” [7, tr.64]. Song trên thực tế, việc bỏ các chức Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp đã được tiến hành từ năm 1821, và muộn nhất là đến năm 1827, kết thúc việc xóa bỏ chức vụ trên.

kỳ vua Minh Mệnh lần đầu cho đặt chức Thị lang Vũ khố giữ làm người đứng đầu kho

95

với trật trật Chánh tam phẩm1. Đây cũng là lần đầu tiên, chức Thị Lang xuất hiện trong

cơ cấu tổ chức quan lại Vũ khố nói riêng và cơ cấu nhân sự các Bộ, Nha trong triều

đình nhà Nguyễn nói chung.

Cùng với việc đặt thêm chức Thị lang vào trong hệ thống quan lại triều Nguyễn,

dẫn đến sự thay đổi phẩm trật ở các chức quan Lang trung và Viên ngoại lang. Sau khi

được đặt mới vào đầu năm 1821, Lang trung có trật Chánh ngũ phẩm, song đến đợt

định quan chế này, chức Lang Trung có trật Chánh tứ phẩm, chức Viên ngoại lang có

trật Chánh ngũ phẩm [79, tr.655-657]. Cũng trong đợt định quan chế văn giai, võ giai

này không thấy nhắc đến chức quan Thiêm sự trong hệ thống quan lại ở nha môn Vũ

khố triều Nguyễn. Theo Đại Nam thực lục, ba tháng sau khi hạch định quan chế mới,

triều đình nhận thấy các chức quan trong ngoài kinh khi được đặt đối chiếu với quan

chế mới định có nhiều chỗ không hợp lý. Do vậy trên cơ sở quan chế mới, triều đình

nhà Nguyễn đã không chỉ đổi lại tên gọi, phẩm trật mà còn cấp văn bằng để cho rõ thứ

tự các ban quan văn võ và tên gọi được chính xác. Theo đó “cho đổi chức Thiêm sự

các nha sáu Bộ làm Lang trung; Lang trung làm Viên ngoại lang…” [79, tr.678]. Như

vậy, chức Thiêm sự, muộn nhất đến năm 1827 đã không còn xuất hiện trong cơ cấu

quan lại Vũ khố triều Nguyễn, và chức vụ này tồn tại chính thức ở Vũ khố, nhiều nhất

cũng chỉ có 3 năm thôi!

Theo Đại Nam thực lục, từ năm Mậu Thìn (1868), cùng với sự tinh giản cơ cấu

nhân sự Vũ khố các chức quan Viên ngoại lang, Chủ sự và Thư lại bát phẩm cũng không còn2. Tiếp đó, đến năm Giáp Thân (1884), chức Lang trung3 không xuất hiện trong các

quan lại ở nha Vũ khố. Như vậy, từ năm Giáp Thân (1884), cơ cấu quan lại ở Vũ khố

chỉ còn lại chức Thị lang làm người đứng đầu, các chức Tư vụ, Thư lại Chánh cửu phẩm

1 Trong đợt định quan chế này (1827), quan lại ở Vũ khố có phẩm trật như sau: - Vũ Khố Thị lang trật Chánh tam phẩm; - Vũ Khố Lang trung trật Chánh tứ phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Viên ngoại lang trật Chánh ngũ phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Chủ sự trật Chánh lục phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Tư vụ trật Chánh thất phẩm; - Thư lại Vũ Khố Thanh thận ty trật Chánh bát phẩm, Chánh cửu phẩm. [79, tr.655-657]. 2 Đến thời điểm này, Vũ khố chỉ còn lưu lại các chức Thị lang, Lang trung, Tư vụ, Thư lại Chánh cửu phẩm, Thư lại Vị nhập lưu. [84, tr.1157]. 3 Năm 1884, Vũ khố tiếp tục thu hẹp lại, do vậy chức Lang trung cũng không còn [86, tr.93].

và Thư lại Vị nhập lưu làm nhiệm vụ phụ trách các kho và giúp việc cho Thị lang.

96

Tiểu kết chương 3

Quá trình biến chuyển về cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý

hành chính của Vũ khố triều Nguyễn đã trải qua các giai đoạn biến đổi từ Gia Long

đến Kiến Phúc. Trong đó, cơ cấu nhân sự trải qua 10 sự thay đổi với xu hướng tăng

trong giai đoạn đầu (1805-1828), và sau đó là một quá trình giảm (1828-1884). Đồng

thời, cơ cấu tổ chức bộ máy có thể xác định trải qua 3 giai đoạn là 1802-1820, 1821-

1829, 1829-1884.

Cùng với quá trình biến chuyển của cơ cấu nhân sự và bộ máy tổ chức là sự thay

đổi tên gọi quan lại ở Vũ khố. Giai đoạn từ năm 1802 đến 1826, Vũ khố thường do một

viên Thiêm sự ở Bộ Binh hoặc Bộ Công kiêm quản. Bắt đầu từ năm 1827, Vũ khố chính

thức do một viên Thị lang trật Chánh tam phẩm đứng đầu, phụ trách tất cả các hoạt động

của Vũ khố. Giúp việc cho Thị lang có các chức Lang trung, Viên ngoại lang.

Trong quá trình hoạt động, các quy định của triều Nguyễn liên quan đến tổ chức

và hoạt động của Vũ khố được không ngừng bổ sung, thay đổi. Các quy định bảo đảm

này rất đa dạng và phức tạp, từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế độ lương

bổng, thanh tra giám sát… Các quy định đó ngày càng chặt chẽ, đảm bảo cho các hoạt

động của Vũ khố được diễn ra với nhịp độ thường xuyên, liên tục và ổn định.

Các hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn tập trung vào các nhóm hoạt động như

sản xuất, chế tạo vũ khí, chi phát vũ khí, tích chứa nguyên vật liệu và các hoạt động

khác… Như vậy, Vũ khố không chỉ là cơ quan chế tạo, tích chứa và phân phát vũ khí,

vật liệu lớn nhất trong cả nước thời bấy giờ, mà còn là nơi thực hiện nhiều nhiệm vụ

khác, từ đúc tiền đến chế tạo các loại dụng cụ cân đong, đo đạc…

97

KẾT LUẬN

1. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) hiện còn lại

khá phong phú, đa dạng. Qua việc phân tích, phê phán các nguồn sử liệu trực tiếp như

Chiếu, Chỉ, Dụ trong Châu bản, Ngự chế văn, hay các nguồn sử liệu gián tiếp như Đại

Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất thống chí

cho thấy đây là những tư liệu có độ tin cậy cao, cung cấp những thông tin khá đầy đủ

và cụ thể về Vũ khố.

2. Mỗi loại sử liệu với tư cách là các dấu tích của quá khứ thường mang những

đặc điểm riêng, chứa đựng những thông tin lịch sử ở nhiều mức độ, trên các lĩnh vực

khác nhau. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Nguồn sử liệu trực tiếp về Vũ khố như Châu bản, Ngự chế văn cung cấp những thông

tin đa dạng, nhưng còn tản mát, chủ yếu tập trung phản ánh các khía cạnh về cơ cấu

nhân sự, hoạt động chế tạo, sửa chữa, tích chứa vũ khí… của Vũ khố. Trong khi đó,

các nguồn sử liệu gián tiếp như Đại Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ

toát yếu, Đại Nam nhất thống chí cung cấp thông tin về Vũ khố có phần phong phú

hơn, từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức cho đến các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí

cũng như vị thế, địa điểm…

3. Vũ khố triều Nguyễn có tiền đề là Ty Lệnh sử Đồ gia thời chúa Nguyễn và

Nguyễn Ánh. Trải qua hai giai đoạn phát triển là Ngoại Đồ gia (1802-1820) và Vũ khố

(1820-1884), cơ quan Vũ khố đã được Gia Long và các vua kế vị không ngừng cố

gắng xây dựng ngày càng kiện toàn hơn, trở thành cơ quan hành chính cấp trung ương

phụ trách kho tàng - quân nhu làm nhiệm vụ chế tạo, tích chứa và phân phát vũ khí,

vật liệu lớn nhất trong cả nước thời bấy giờ. Qua việc phân tích giá trị các nguồn sử

liệu cho thấy, Vũ khố thực sự là một tổ chức “động”, chứ không hề cứng nhắc, bất

biến. Điều này được thể hiện qua một quá trình điều chỉnh, bổ sung từ tên gọi, số

lượng quan lại đến phẩm trật trong cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự của Vũ khố. Cùng

với quá trình đó, các quy định về cơ chế vận hành, quy cách làm việc, chế độ lương

98

bổng, tử tuất, phẩm phục, ấn triện được quy định ngày càng chặt chẽ, chi tiết. Cũng từ

các nguồn sử liệu cho thấy Vũ khố triều Nguyễn có những nhiệm vụ chính thức, từ cơ

quan sản xuất, chế tạo binh khí, lưu trữ, phân phối, chi phát vũ khí, cho đến tích chứa

nguyên vật liệu công. Ngoài ra, Vũ khố còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác, như đúc

tiền, chế tạo cân thiên bình, xe ngọc kính, các dụng cụ đo đạc, cân đong… Điều này

minh chứng Vũ khố triều Nguyễn hoạt động thường xuyên, liên tục.

4. Qua thực tế khảo cứu các nguồn sử liệu trực tiếp cũng như nguồn sử liệu gián

tiếp về Vũ khố triều Nguyễn cho thấy một nguyên tắc quan trọng trong nghiên cứu về

Vũ khố cũng như đối với các công trình nghiên cứu nói chung là cần phải nắm vững

niên đại, nguồn gốc hình thành của các nguồn sử liệu, đồng thời phải kết hợp các nguồn

tài liệu để có thể rút ra được những thông tin lịch sử đáng tin cậy. Khi sử dụng thông tin

để đánh giá, phân tích, người nghiên cứu cần phải kết hợp nhiều nguồn, có kiểm tra, đối

chiếu các nguồn với nhau thì kết quả nghiên cứu mới có thể tiếp cận càng gần đến các

yêu cầu khách quan, trung thực, biện chứng, toàn diện và tổng thể.

5. Nguồn sử liệu về Vũ khố nói riêng, triều Nguyễn nói chung khá phong phú

về nội dung, đa dạng về loại hình, phản ánh quá trình biến chuyển của lịch sử triều

Nguyễn qua các triều vua khác nhau. Đi sâu nghiên cứu kho tàng sử liệu về triều

Nguyễn có thể cung cấp các cơ sở để tiến hành những thao tác xử lý sử liệu học, từ đó

phát hiện, khai thác những thông tin lịch sử quý giá từ kho tàng vô giá ấy. Đây là việc

làm không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, mà còn

trực tiếp ảnh hưởng đến những nhận thức, đánh giá về triều đại phong kiến cuối cùng

trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thuận An (1997), Kiến trúc cố đô Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.

2. Phan Thuận An (1983), B.A.V.H mấy trang nhật ký của John Crawfurd về kinh

thành Huế, Tạp chí Sông Hương, số 4, Tr.75-77.

3. Đào Duy Anh (2005), Hán - Việt từ điển giản yếu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

4. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn,

Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Nguyễn Thế Anh (1974), Nhập môn phương pháp sử học, Sài Gòn.

6. Huỳnh Công Bá, Huỳnh Văn Nhật Tiến (2014), Định chế hành chính và quân sự

triều Nguyễn (1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.

7. Đỗ Bang (Chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884, Nxb Thuận Hóa, Hà Nội.

8. Đỗ Bang (Chủ biên) (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều

Nguyễn, những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế.

9. Hà Duy Biển (2015), Định mức lương bổng của quan lại Bộ Binh dưới triều Minh

Mệnh (1820-1840), Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2 (278), Tr.51-56.

10. Châu bản triều Tự Đức 1848-1883 (Tuyển chọn và lược thuật) (2003), Vũ Thanh

Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ quang Phát tuyển chọn và dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

12. Đào Xuân Chúc (1995), Ảnh - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử (Qua tài liệu

ảnh về kháng chiến chống thực dân Pháp), L.A.T.S Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

13. Cục Lưu trữ nhà nước (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập II, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

14. Cục Lưu trữ nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập I, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

100

15. Phan Đại Doãn (Chủ biên) (1998), Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

16. Phan Tiến Dũng (2005), Vai trò của Bộ Công trong việc xây dựng Kinh đô Huế

dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802-1884), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện Sử học

Việt Nam, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Đăng (2001), Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến 1884, Luận

án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

18. Nguyễn Đình Đầu (1978), Góp phần nghiên cứu vấn đề đo, đong, cân, đếm của

Việt Nam xưa, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 5 (105), Tr.65-71; Số 6 (106),

Tr.40-49.

19. Lê Quý Đôn (2007), Vân đài loại ngữ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

20. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

21. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm mũ áo (Lịch sử trang phục Việt Nam giai

đoạn 1009-1945), Nxb Thế giới, Hà Nội.

22. Nguyễn Sĩ Giác (Phiên âm và dịch nghĩa) (1993), Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Vũ Minh Giang (2015), Lịch sử Việt Nam: Truyền thống và hiện đại, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Vũ Minh Giang, Trần Bá Chí (1993), Bước đầu tìm hiểu chế độ quan chức thời

Nguyễn, Tạp chí Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội, Số 6, Tr.27-31.

25. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm, nguồn tư liệu văn học, sử

học Việt Nam, Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội.

26. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-

1847), Luận án Tiến sĩ pháp lý, Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn.

28. Phạm Xuân Hằng (Chủ trì) (1995), Sử liệu học lịch sử Việt Nam, Khoa Lịch sử,

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

101

29. Lê Thị Thanh Hòa (1995), Việc sử dụng quan lại của vương triều Nguyễn từ

1802 đến 1884, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 3 (280), Tr.56-63.

30. Hội Khai trí Tiến Đức (1954), Việt Nam tự điển, Nxb Trung Bắc tân văn, Sài

Gòn.

31. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2008), Chúa

Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ

XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Huệ (1996), Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng (Qua hiện

vật ở bảo tàng Cách mạng Việt Nam), L.A.T.S Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

33. Nguyễn Thừa Hỷ (2010), Kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long - Hà Nội thế kỷ

XVII-XVIII-XIX, Nxb. Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thị Mai Hoa (2011), Phương pháp phân tích - phê

khảo sử liệu trong nghiên cứu lịch sử (qua trường hợp tìm hiểu quan hệ Việt

Nam - Trung quốc thời kỳ hiện đại, Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2, tr.3-9.

35. Bùi Huy Khiên (2011), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới

triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh, Nxb Lao động, Hà Nội.

36. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

37. Công Phương Khương, Hà Duy Biển (2007), Góp phần tìm hiểu trang bị vũ khí

của quân đội Mãn Thanh, Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2, tr.44-47.

38. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2007), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 8 (Hoạt động

quân sự từ năm 1802 đến năm 1896), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Ngô Đức Lập (2014), Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát

triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học

Khoa học - Đại học Huế, Huế.

40. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Phan Huy Lê (2011), Tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà Nội.

102

42. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2012), Lịch sử Việt Nam, Tập II (Từ cuối thế kỷ XIV

đến giữa thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Phan Huy Lê (2014), Châu bản triều Nguyễn những chứng cớ lịch sử - pháp lý về

chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, Số 7 (459), Hà Nội, Tr.3-12.

44. Minh Mệnh (2000), Ngự chế văn (Dụ văn), Trần Văn Quyền dịch và chú giải, Hà

Nội.

45. Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông

(1460-1497), Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.

46. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -

Thư mục đề yếu, Tập I (A-H), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -

Thư mục đề yếu, Tập II (I-S), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -

Thư mục đề yếu, Tập III (T-Y), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

50. Những người bạn cố đô Huế (BAVH) (2006), Tập XX, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

51. Đỗ Văn Ninh (1992), Tiền cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Đỗ Văn Ninh (1993), Quân đội nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6

(271), Tr.45-53.

53. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập I, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

54. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập II, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

55. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập III, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

56. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập IV, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

103

57. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập V, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

58. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VI, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

59. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VII, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

60. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VIII, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

61. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập IX, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

62. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập X, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

63. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XI, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

64. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XII, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

65. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

66. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIV, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

67. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XV, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

68. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập I,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

69. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập

III, Nxb Thuận Hóa, Huế.

70. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập X,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

104

71. Nguyễn Danh Phiệt (1993), Suy nghĩ về bộ máy Nhà nước quân chủ trung ương tập

quyền nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (271), Tr.13-20.

72. Vũ Thị Phụng (2005), Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn 1802-

1884), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

73. Phạm Ái Phương (1998), Khoa học quân sự triều Minh Mệnh trước ảnh hưởng

của phương Tây, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 5 (300), Tr.40-48.

74. Nguyễn Phương (1974), Phương pháp sử học, Sao Mai xuất bản, Huế.

75. Nguyễn Tường Phượng (1950), Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại,

Nxb Ngày mai, Hà Nội.

76. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884), Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

77. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, Nxb Thuận Hóa, Huế.

78. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

79. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

80. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập III, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

81. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập IV, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

82. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập V, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

83. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VI, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

84. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VII, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

85. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VIII, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

105

86. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập IX, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

87. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục, Chính biên Đệ lục kỷ Phụ

biên (Cao Tự Thanh dịch), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục, Chính biên Đệ thất kỷ

(Cao Tự Thanh dịch), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

89. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập I, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

90. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định việt sử thông giám cương mục,

Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

91. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh địa dư chí, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn

Nguyên, Philippe Papin dịch, Viện Viễn Đông Bác cổ xuất bản, Hà Nội.

92. Hồ Văn Quýnh (1995), Phông lưu trữ Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội

(1954-1975) - nguồn sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô, L.A.T.S Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

93. Lê Đình Sĩ (1999), Việt Nam những sự kiện quân sự thế kỷ XIX, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

94. Trần Đức Anh Sơn (1994), Một số đính chính về niên đại các vua triều Nguyễn,

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 4 (275), Tr.69-72.

95. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, Quyển IV (Từ Tây Sơn mạt điệp đến

Nguyễn sơ), Nxb Đại Nam, Sài Gòn.

96. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1993), Nhà Nguyễn trong lịch sử nửa đầu thế kỷ

XIX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (271), Tr.1.

97. Nguyễn Hữu Tâm (2008), Khái quát tình hình nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn

của các học giả Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, Số 391+392 (11+12), Tr.44-55.

98. Trần Thanh Tâm (Chủ biên) (1998), Từ điển địa danh thành phố Huế, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

106

99. Bùi Thị Tân (1998), Vũ Huy Phúc, Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công

nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

100. Hà Văn Tấn (2007), Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội.

101. Minh Thành (1993), Thư mục về nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6

(271), Tr.70-91.

102. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư

liệu địa bạ, Nxb Thế giới, Hà Nội.

103. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam,

Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

104. Chu Thiên (1961), Vài nét về công thương nghiệp triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên

cứu lịch sử, số 12 (33), Tr.47-62.

105. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển bách

khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

106. Tạ Chí Đại Trường (1973), “Tiền kẽm và cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Nam Hà

vào hậu bán thế kỷ XVIII”, Nghiên cứu Việt Nam, Tập I, Nhà Sùng Chính xuất

bản, Huế.

107. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ

Chí Minh (2012), Sử học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Kỷ

yếu Hội thảo khoa học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

108. Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-

1840), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

109. Nguyễn Minh Tường (2015), Sự ra đời của tiền lương trong lịch sử và chế độ

tiền lương dưới thời quân chủ Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 5 (469);

Tr.3-12; Số 6 (470), Tr.18-26.

110. Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

tại Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn,

Nxb Khoa học xã hội.

107

111. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2009), Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm

1789, Nxb. Quân Đội nhân dân, Hà Nội.

112. Nguyễn Công Việt (2005), Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ

XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

113. Trần Thị Vinh (2002), Thể chế chính trị thời Nguyễn (Dưới triều Gia Long, Minh

Mệnh), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (325), Tr.3-11.

114. Trần Thị Vinh (2004), Thể chế chính quyền ở Đàng Trong dưới thời các chúa

Nguyễn (Thế kỷ XVI-XVIII), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 10 (341), Tr.3-13.

115. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,

Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA TÁC GIẢ NƢỚC NGOÀI

116. Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

117. Emmanuel Poisson (2006), Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam - Một bộ máy hành

chính trước thử thách (1820-1918), Đào Hùng và Nguyễn Văn Sự dịch, Nxb. Đà

Nẵng, Đà Nẵng.

118. John Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

119. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và

XVIII, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

120. Đường Tiến, Trịnh Xuyên Thủy (Chủ biên) (1993 Trung Quốc quốc gia cơ cấu sử

(Lịch sử cơ cấu nhà nước Trung Quốc), Liêu Ninh nhân dân xuất bản xã, Thẩm Dương.

121. Topolsky (1978), Phương pháp luận sử học, tập II, Bộ Đại học và Trung học

chuyên nghiệp xuất bản, Hà Nội.

122. Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Bản

dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh xuất

bản.

108

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)

QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC

SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ

STT TRIỀU VUA

THỜI GIAN

Tổng số

Cơ cấu tổ chức + nhân sự

Hoạt động sản xuất vũ khí, đúc tiền

Thanh tra, hoạt động khác

Lƣơng bổng, phẩm trật, công đƣờng, ấn tín, quan phục

10

3

2

2

3

[78, tr.642]

[78, tr.595-598]

1

Gia Long

[78, tr.633]

[78, tr.573]

1802- 1819

Nguồn

[78, tr.703]

[78, tr.791]

[78, tr.868]

[78, tr.902]

[78, tr.868]

[78, tr.658-661]

92

16

6

22

48

[79, tr.111]

[79, tr.60]

[79, tr.39]

[79, tr.298]

[79, tr.139]

[79, tr.89]

[78, tr.60]

[79, tr.655-657]

2

Minh Mệnh

[79, tr.206]

[79, tr.94]

[79, tr.141]

[80, tr.190]

1820- 1840

Nguồn

[79, tr.299]

[79, tr.112]

[79, tr.141]

[81, tr.661]

[79, tr.140]

[82, tr.565-566]

[79, tr.316-317]

[79, tr.393]

[82, tr.609-611]

[79, tr.351]

[79, tr.203-204]

[79, tr.441]

109

[79, tr.553]

[79, tr.431]

[79, tr.207]

[79, tr.707]

[79, tr.516]

[79, tr.246]

[79, tr.779]

[79, tr.618]

[79, tr.304]

[79, tr.924-925]

[80, tr.77]

[79, tr.360]

[80, tr.51]

[80, tr.325-326]

[79, tr.406]

[80, tr.114]

[80, tr.520]

[79, tr.424]

[80, tr.918]

[80, tr.774]

[79, tr.498]

[81, tr.623]

[81, tr.189]

[79, tr.519-520]

[81, tr.749]

[81, tr.209]

[79, tr.520]

[81, tr.935]

[81, tr.358]

[79, tr.640]

[81, tr.605]

[79, tr.703]

[81, tr.649]

[79, tr.712]

[81, tr.796]

[79, tr.725]

DNTL, V, 551;

[79, tr.734]

DNTL, V, 822;

[79, tr.745]

DNTL, V, 861.

[79, tr.897-898]

[80, tr.60]

[80, tr.157]

[80, tr.171-172]

[80, tr.174]

110

[80, tr.194-195]

[80, tr.313]

[80, tr.317]

[80, tr.446-447]

[80, tr.792]

[80, tr.863]

[81, tr.216]

[81, tr.352]

[81, tr.495-496]

[81, tr.1031]

[82, tr.27]

[82, tr.121]

[82, tr.191]

[82, tr.192]

[82, tr.277]

[82, tr.323]

[82, tr.364]

[82, tr.403]

[82, tr.412-413]

[82, tr.499]

111

[82, tr.639]

[82, tr.756]

[82, tr.870]

17

0

0

5

12

[83, tr.64-65]

[83, tr.370]

[83, tr.380]

[83, tr.89]

[83, tr.394]

[83, tr.468]

[83, tr.480]

3

Thiệu Trị

[83, tr.545]

1841- 1847

Nguồn

[83, tr.521]

[83, tr.1002-1003]

[83, tr.545]

[83, tr.1032-1034]

[83, tr.675]

[83, tr.689]

[83, tr.702]

[83, tr.725]

[83, tr.778-780]

31

2

1

21

7

4

Tự Đức

[84, tr.182]

[84, tr.440]

[84, tr.608]

1848- 1883

Nguồn

[85, tr.420]

[84, tr.1157]

[84, tr.599-600]

[84, tr.618]

112

[84, tr.623]

[84, tr.643]

[84, tr.635]

[84, tr.670-671]

[84, tr.671]

[84, tr.789]

[84, tr.709]

[84, tr.881]

[84, tr.1341]

[84, tr.887]

[84, tr.924]

[84, tr.1094]

[84, tr.1325]

[84, tr.1331]

[84, tr.1367-1368]

[84, tr.1369-1370]

[84, tr.1379]

[85, tr.24-25]

[85, tr.39-40]

[85, tr.67]

[85, tr.127-128]

[85, tr.276-277]

[85, tr.377]

[85, tr.418]

[85, tr.587]

113

[85, tr.597]

4

2

1

0

1

1884

5

Kiến Phúc

[86, tr.94-95]

[86, tr.93]

Nguồn

[86, tr.107]

[86, tr.118]

154

23

11

6

36

84

Tổng số

114

PHỤ LỤC 2: TỜ CHÂU BẢN SỐ 47 TẬP 3

NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM GIA LONG 15 (1816)

115

PHỤ LỤC 3: TỜ CHÂU BẢN SỐ 10 TẬP 17

NGÀY 4 THÁNG 4 NĂM MINH MỆNH 7 (1826)

116

117

118

ẤN TÍN Ở VŨ KHỐ

119

120