ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
NGUYỄN ĐÌNH SÁNG
NGUỒN SỬ LIỆU
VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN
(GIAI ĐOẠN 1802-1884)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử sử học và Sử liệu học
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
NGUYỄN ĐÌNH SÁNG
NGUỒN SỬ LIỆU
VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN
(GIAI ĐOẠN 1802-1884)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử sử học và Sử liệu học
Mã số: 60 22 03 16
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Phƣơng Thảo
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Phan Phương Thảo.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn
gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Sáng
0
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học
của tôi - PGS.TS. Phan Phương Thảo. Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu,
cô đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ công tác tại Khoa
Lịch sử, Phòng Sau đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I… đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô, chú, anh, chị, em trong Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là Bộ môn Lịch sử quân sự Cổ - Trung - Cận đại, đã
giúp đỡ tôi không chỉ về mặt chuyên môn mà còn cả về vật chất và tinh thần. Tôi rất
cảm ơn các bạn bè và luôn biết ơn gia đình đã tin tưởng, động viên, tạo điều kiện để
tôi được theo đuổi niềm đam mê và việc học tập không ngừng của mình!
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Sáng
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................. 0 MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 8 6. Bố cục của luận văn ..................................................................................... 8 Chương 1: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN VÀ NGUỒN SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ
TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884) .......................................................... 10 1.1. Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) .......................................... 10 1.1.1. Cơ quan sản xuất và quản lý vũ khí thời Lý - Trần - Hồ - Lê .............. 10 1.1.2. Từ Ngoại Đồ gia (1802-1820) đến Vũ khố (1820-1884) ..................... 13 1.2. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) .............. 14 1.2.1. Châu bản triều Nguyễn ........................................................................ 14 1.2.2. Ngự chế văn .......................................................................................... 17 1.2.3. Đại Nam thực lục ................................................................................. 19 1.2.4. Minh Mệnh chính yếu ........................................................................... 22 1.2.5. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ...................................................... 24 1.2.6. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên ........................................ 26 1.2.7. Đại Nam điển lệ toát yếu ...................................................................... 28 1.2.8. Đại Nam nhất thống chí ....................................................................... 29 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 32 Chương 2: PHÂN LOẠI SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN
1802-1884) ................................................................................................................ 33 2.1. Sử liệu trực tiếp ....................................................................................... 33 2.1.1. Châu bản triều Nguyễn ........................................................................ 33 2.1.2. Ngự chế văn .......................................................................................... 36 2.2. Sử liệu gián tiếp ....................................................................................... 39 2.2.1. Đại Nam thực lục ................................................................................. 39 2.2.2. Minh Mệnh chính yếu ........................................................................... 46 2.2.3. Sách Hội điển ....................................................................................... 48 2.2.4. Đại Nam nhất thống chí ....................................................................... 54
2
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 58 Chương 3: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884) QUA CÁC
NGUỒN SỬ LIỆU .................................................................................................... 62 3.1. Chức năng, nhiệm vụ .............................................................................. 62 3.2. Vũ khố trong bộ máy nhà nước trung ương triều Nguyễn giai đoạn 1802-
1884 ................................................................................................................ 64 3.3. Cơ cấu tổ chức ......................................................................................... 66 3.4. Cơ cấu nhân sự ........................................................................................ 69 3.5. Những quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố.................................... 77 3.5.1. Công đường .......................................................................................... 77 3.5.2. Lương bổng .......................................................................................... 78 3.5.3. Phẩm phục ............................................................................................ 81 3.5.4. Ấn triện ................................................................................................. 87 3.6. Hoạt động ................................................................................................ 88 3.6.1. Hoạt động sản xuất vũ khí .................................................................... 88 3.6.2. Cấp phát vũ khí .................................................................................... 89 3.6.3. Tích chứa vật liệu công ........................................................................ 91 3.6.4. Các hoạt động khác .............................................................................. 92 3.7. Quá trình biến chuyển tên gọi quan lại ở Vũ khố ................................... 94 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 97 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 109
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Triều Nguyễn là triều đại phát triển đỉnh cao và cuối cùng của chế độ
quân chủ tập quyền trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Trong hơn 100 năm, triều
Nguyễn quản lý một lãnh thổ rộng lớn chưa từng có trong lịch sử, trải dài từ ải Nam
Quan tới mũi Cà Mau, với sự đa dạng văn hóa, kinh tế, xã hội của nhiều tộc người,
vùng miền... Tuy nhiên, triều Nguyễn cũng phải đối diện với những bài toán khó
giải trong việc điều hành và quản lý đất nước. Vậy nên, nghiên cứu về triều Nguyễn
đã và đang là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
1.2. Để duy trì nền quân chủ chuyên chế tập quyền, nhà Nguyễn đã dựa trên
một nền quân sự mạnh, điều đó được thể hiện qua việc xây dựng một đội quân với
trang bị vũ khí tương đối hiện đại so với đương thời. Vũ khố, với tư cách là cơ quan
được Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất các loại vũ khí bên cạnh việc coi giữ kho,
đã thực hiện tương đối tốt hoạt động này. Trong thời kỳ này, Vũ khố từ một cơ quan
nội thuộc Bộ Binh (thời Lê) phát triển thành một cơ quan quản lý hành chính độc
lập (thời Nguyễn). Đây là một sự thể nghiệm về chính trị, ngoài ra còn là nét độc
đáo trong tư duy của người đứng đầu nhà nước phong kiến đương thời.
1.3. Trong suốt quá trình tồn tại, triều Nguyễn đã đạt được những thành tựu
nhất định trên lĩnh vực sử học. Triều Nguyễn đã tổ chức bộ máy ghi chép, biên soạn
lịch sử một cách hoàn thiện nhất so với các triều đại trước, do vậy đã đạt được nhiều
thành quả đáng kể, để lại nhiều bộ sử lớn như Minh Mệnh Chính yếu, Ngự chế văn,
Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ tục biên, Đại Nam nhất thống chí… Là một cơ quan hành chính cấp trung
ương, Vũ khố được phản ánh qua các Chiếu, Chỉ, Dụ của các vua triều Nguyễn và
những ghi chép trong các tài liệu chính thức như thực lục, hội điển, chí… của nhà
Nguyễn. Đây là nguồn sử liệu cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác nhất
về Vũ khố triều Nguyễn.
1.4. Hiện nay, khi nghiên cứu về triều Nguyễn, các nhà khoa học có xu
hướng đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực một cách cụ thể để tạo điều kiện cho các
4
nghiên cứu tổng thể, khái quát sau này. Để có thể thực hiện tốt việc nghiên cứu về
triều Nguyễn nói riêng cũng như các vấn đề của lịch sử và thời đại nói chung, cần
phải dựa vào những nguồn sử liệu chính xác. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu các
nguồn sử liệu về Vũ khố, ngoài mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu về Vũ khố,
còn là nguồn tư liệu nghiên cứu về triều Nguyễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu từ góc
độ sử liệu, với những hệ phương pháp và thước đo khác nhau sẽ đem đến một hiểu
biết căn bản về lịch sử phát triển, vị trí, vai trò của Vũ khố - một cơ quan quản lý
hành chính cấp trung ương của nhà nước phong kiến thời bấy giờ.
Từ thực tế đó, nghiên cứu các nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn là một
hướng tiếp cận có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc tái hiện lại một cách đầy
đủ, toàn diện hơn về Vũ khố - nha môn chuyên sản xuất, bảo quản vũ khí và tích chứa
nguyên liệu, vật liệu của nhà nước phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với quá trình Đổi mới, sự nhìn nhận, đánh giá lại vương triều Nguyễn -
triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc, đã và đang thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ những nghiên cứu chung về tổ chức bộ máy
nhà nước, lịch sử kinh tế văn hóa xã hội đến các nghiên cứu cụ thể về triều Nguyễn
đã liên tiếp được thực hiện nhằm góp phần vào công cuộc nhận thức đầy đủ hơn và
đánh giá chính xác hơn về triều đại này. Tuy nhiên các công trình cụ thể nghiên cứu
về nguồn sử liệu triều Nguyễn lại không nhiều.
Từ đầu những năm 1970, trong bộ sách Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm,
Nguồn tư liệu văn học sử Việt Nam (2 tập), Trần Văn Giáp đã giới thiệu, phân loại,
sắp xếp một cách chi tiết về tên sách, số tập, số quyển, tiểu sử tác giả, tóm tắt nội
dung và giá trị của các tác phẩm Hán Nôm trong lịch sử Việt Nam theo nội dung
khoa học. Bộ sách có giá trị như một nguồn tài liệu văn học, sử học Việt Nam, đồng
thời có giá trị đặc biệt về phương pháp thư mục học khoa học. Bộ sách đã cung cấp
khá đầy đủ thông tin các bản in Hán văn các bộ sách lịch sử triều Nguyễn.
Đề tài nghiên cứu Sử liệu học lịch sử Việt Nam (mã số B.93.05-01) công bố
năm 1993, do TS. Phạm Xuân Hằng chủ trì, khái quát các loại hình sử liệu chữ viết,
bước đầu tìm hiểu về quá trình hình thành, đặc điểm của sử liệu viết trong lịch sử
5
Việt Nam, trước hết là những sử liệu hình thành trong quá trình hoạt động của Nhà
nước, xã hội Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có đề cập đến nguồn sử liệu
hình thành trong hệ thống chính quyền các cấp từ năm 1858 đến 1945 - thời kỳ xuất
hiện nhiều bộ sử có giá trị của vương triều Nguyễn.
Bên cạnh đó, một số luận án, luận văn khoa học như Luận án Phó Tiến sĩ
Ảnh - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử (Qua tài liệu ảnh về kháng chiến chống
thực dân Pháp) của Đào Xuân Chúc [12], Luận án Phó Tiến sĩ Nghiên cứu nguồn
sử liệu hiện vật bảo tàng (Qua hiện vật ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam) của
Nguyễn Thị Huệ [32], Luận án Phó Tiến sĩ Phông lưu trữ Ủy ban hành chính Thành
phố Hà Nội (1954-1975) - Nguồn sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô của Hồ
Văn Quýnh [92], Luận án Tiến sĩ Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn
1802-1884) của Vũ Thị Phụng [72] … đã trình bày chi tiết về một số loại nguồn sử
liệu làm cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử.
Ngoài ra, việc nghiên cứu Vũ khố triều Nguyễn còn được thể hiện với tư
cách là đối tượng nghiên cứu của sử học. Một số các công trình nghiên cứu, khảo
cứu về bộ máy hành chính nhà nước triều Nguyễn được thực hiện như Tổ chức
chính quyền dưới thời Nguyễn Sơ (1802-1847) của Nguyễn Sĩ Hải, Tổ chức bộ máy
nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) do Đỗ Bang (Chủ biên), Cải cách hành chính
dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) của Nguyễn Minh Tường, Định chế hành chính
và quân sự triều Nguyễn (1802-1885) của Huỳnh Công Bá (Chủ biên)… Theo các
công trình nghiên cứu trên, ngoài tổ chức bộ máy 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình,
Công) để điều hành các hoạt động chính trong quản lý nhà nước, triều Nguyễn còn
lập các nha gồm các phủ, tự, viện, giám, ty, cục - là những cơ quan chuyên trách
hoạt động thuộc về hành pháp, tư pháp, giám sát ở triều đình, được gọi chung là
Chư Nha, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo đó, Vũ khố là cơ quan
hành chính cấp trung ương phụ trách kho tàng - quân nhu cùng với Phủ Nội vụ và
Thương trường [27, tr.191], [7, tr.81], [6, 149-151], [108, tr.108].
Cùng với việc nghiên cứu các vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, kinh tế, xã
hội, văn hóa, quân sự của triều Nguyễn, nhiều nhà nghiên cứu đã tích cực đi sâu vào
những lĩnh vực cụ thể.
6
Năm 1961, Chu Thiên với bài Vài nét về công thương nghiệp triều Nguyễn
[104, tr.47-62] đã đề cập khái quát tới xưởng sản xuất của nhà Nguyễn với quy mô
lớn, làm nhiệm vụ đúc súng, đóng tàu, đúc tiền… trong bối cảnh kinh tế hàng hóa,
thủ công nghiệp phát triển khá mạnh từ trước thế kỷ XIX và suy yếu dần.
Trong cuốn Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ dưới triều
Nguyễn xuất bản năm 1998, Bùi Thị Tân - Vũ Huy Phúc đã trình bày, phân tích tình
hình thủ công nghiệp và sự phát triển công nghệ dưới triều Nguyễn. Các tác giả đã
đề cập sơ qua tình hình hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí của Vũ khố triều Nguyễn
và đi đến nhận xét “trình độ kỹ thuật của nước ta thời bấy giờ còn thấp so với tiến
bộ của khoa học quân sự thế giới nên súng, đạn xưởng đúc sản xuất ra nhiều nhưng
hiệu quả sử dụng không lớn” [99, tr.55].
Đến năm 2001, Luận án tiến sĩ Quan xưởng ở kinh đô Huế từ năm 1802 đến
1884 của Nguyễn Văn Đăng được công bố, cũng đã đề cập đến quá trình ra đời, cơ
cấu tổ chức, sự thay đổi tên gọi, tình hình hoạt động sản xuất vũ khí và các đồ vật
khác của Vũ khố triều Nguyễn. Theo Nguyễn Văn Đăng, Vũ khố thường được nhà
vua giao cho việc sản xuất vũ khí. Đó là chức trách sản xuất trọng yếu của nha môn
ngoài việc quản lý các kho nguyên vật liệu [17, tr.90].
Như vậy, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến lịch sử Vũ
khố triều Nguyễn với những mức độ khác nhau, song chưa có một công trình nào
nghiên cứu về các nguồn sử liệu liên quan Vũ khố triều Nguyễn. Từ thực tế đó, luận
văn đi vào khảo sát các nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn, một mặt để đánh giá
giá trị sử liệu của từng nguồn phản ánh về cơ quan này, mặt khác để đi đến nhận
thức đầy đủ hơn về Vũ khố trên cơ sở thông tin từ nguồn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn, bao gồm tất
cả các nguồn tài liệu chữ viết phản ánh về Vũ khố triều Nguyễn, được tập hợp, phân
loại, phân tích đặc điểm hình thức và nội dung, từ đó chỉ ra giá trị sử liệu của từng
nguồn, từng loại nguồn trong việc phản ánh về cơ quan này.
7
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo cứu các nguồn sử liệu về Vũ khố triều
Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, bao gồm cả giai đoạn cơ quan này có tên gọi Ngoại
Đồ gia (1802-1820) và giai đoạn tên gọi Vũ khố chính thức hiện hữu (1820-1884).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả lịch sử là phương pháp nghiên cứu truyền thống, hữu
hiệu, được áp dụng triệt để trong việc trình bày quá trình hình thành, phát triển cũng
như đặc điểm của các loại hình sử liệu.
Phương pháp thống kê được áp dụng trong việc phân tích đặc điểm hình thức
và nội dung của từng loại nguồn sử liệu.
Phương pháp so sánh, cả so sánh đồng đại và so sánh lịch đại, có vai trò quan
trọng nhằm làm nổi bật đặc trưng và giá trị của từng loại nguồn sử liệu, cũng như về
đặc điểm của Vũ khố qua từng giai đoạn phát triển.
Phương pháp sử liệu học là phương pháp căn bản được sử dụng để phân tích,
đánh giá giá trị sử liệu của các nguồn sử liệu.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic được áp dụng nhằm phác dựng
lại hình ảnh cũng như quá trình vận động của Vũ khố triều Nguyễn qua tiến trình
lịch sử.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa và giới thiệu khái quát về đặc điểm, nội dung và giá trị các
nguồn sử liệu chữ viết về Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.
- Phục dựng lại chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự và hoạt
động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, qua đó thấy được vai trò, vị trí
và mối quan hệ của Vũ khố với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hệ thống
hành chính triều Nguyễn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính
của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Vũ khố triều Nguyễn và nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn
(giai đoạn 1802-1884). Nội dung chủ yếu của chương này giới thiệu về sự hình
8
thành, quá trình vận động của Vũ khố triều Nguyễn và giới thiệu chung các nguồn
sử liệu về Vũ khố, từ quá trình hình thành, đặc điểm đến nội dung… với các bản
chữ Hán và những bản dịch tiếng Việt.
- Chương 2: Phân loại sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-
1884). Trên cơ sở phân tích về hình thức và nội dung của từng nguồn sử liệu về Vũ
khố, rút ra giá trị sử liệu và đánh giá vị trí của các nguồn sử liệu về Vũ khố triều
Nguyễn giai đoạn 1802-1884.
- Chương 3: Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) qua các nguồn sử
liệu. Chương này phục dựng lại chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân
sự và hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 trong hệ thống cơ
quan hành chính cấp trung ương của nhà Nguyễn, nhằm đi sâu làm rõ hơn nữa giá
trị sử liệu về Vũ khố của các nguồn sử liệu chữ viết.
9
Chương 1: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN VÀ NGUỒN SỬ LIỆU VỀ
VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884)
1.1. Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)
1.1.1. Cơ quan sản xuất và quản lý vũ khí thời Lý - Trần - Hồ - Lê
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, hoạt động sản xuất và quản lý vũ khí
của nhà nước hầu hết được giao cho các cơ quan thuộc Bộ Binh hoặc Bộ Công (ty,
cục…) quản lý, điều hành.
Khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt
sử thông giám cương mục cho đến các công trình nghiên cứu như Lịch sử chế độ
khong kiến Việt Nam cho thấy, hoạt động sản xuất vũ khí thời Lý - Trần - Hồ được
giao cho Cục Bách công [40, tr.207], [90, tr.721], [115, tr.124] - cơ quan trực thuộc
Bộ Công quản lý. Sản phẩm tiêu biểu của thời kỳ này chính là Lâu thuyền và Thần cơ sang pháo do Hồ Nguyên Trừng chế tạo ra1.
Sang đến thời Lê, hoạt động chế tạo, sản xuất và tích chứa vũ khí cùng
nguyên vật liệu được giao cho Vũ khố Thanh lại ty. Vũ khố Thanh lại ty là một
trong hai cơ quan chuyên trách trực thuộc Bộ Binh, làm nhiệm vụ trông giữ các loại
khí giới, cờ, trống, chiêng lệnh, áo, mũ, súng ống, thuốc đạn, lưu hoàng, chì, và tất
cả đồ quân dụng chứa ở kho công [45, tr.66]. Bên cạnh việc sản xuất vũ khí, hoạt
động bảo quản, sửa chữa vũ khí cũng được chính quyền triều Lê quy định rõ ràng.
Từ năm 1469, Nhà nước đã có quy định: “Nếu khí giới có hao mòn, khuyết mẻ đều
phải đem đến Vũ khố để tu tạo lại theo như quy thức. Không ai được tự tiện đem
đến các nơi nhà công, nhà lính ở ngoài thành để sửa chữa hoặc làm mới” [90,
1 Minh sử viết: “Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403-1424) đánh nước Giao Chỉ, học được phép đúc súng Thần cơ. Phép chế súng, dùng đồng đỏ, một nửa là đồng còn sống (đồng đỏ), một nửa là đồng đã nấu lẫn lộn (đồng thau). Cũng có thể dùng sắt mà đúc… Súng thần cơ có nhiều kích cỡ, lớn nhỏ không đều, lớn thì kéo bằng xe (sau gọi là pháo hay súng thần công), nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác lên vai (sau gọi là điểu thương hay súng hỏa mai), súng lớn lợi cho việc chiếm giữ (súng cộng đồng), súng nhỏ lợi cho việc chiến đấu (súng cá nhân), tùy tiện mà dùng” [19, tr.229]. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Nguyên Trừng cùng thợ quan xưởng đóng thành công hai loại thuyền lớn, kiểu mới, gọi là Trung tầu tải lương và Lâu thuyền có tải lương. Theo sử cũ mô tả lại thì thuyền có đóng đinh sắt, bên trên có đường sàn đi lại, bên dưới có hai người chèo một mái chèo, rất tiện cho việc chiến đấu [40, tr.207].
tr.1034].
10
Về cơ cấu nhân sự, đứng đầu Vũ khố Thanh lại ty là 1 viên quan Lang trung
trật Chánh lục phẩm, tiếp đến là 1 viên quan Viên Ngoại lang trật Tòng lục phẩm,
giúp việc có các chức Câu kê, Cai bạ, Thủ bạ, Đô lại, nhưng không rõ số lượng là bao nhiêu người1.
Có thể nhận thấy về mặt tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của cơ quan sản xuất
vũ khí thời Lê đã chặt chẽ hơn so với giai đoạn trước, qua đó phản ánh phần nào
tính tập quyền của Nhà nước và đáp ứng được các yêu cầu về quân sự của triều Lê.
Thời Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, hoạt động của cơ quan chế tạo, sản xuất tích
chứa vũ khí về cơ bản không khác thời Lê Sơ, đặt dưới sự quản chế của Binh phiên
bên Phủ chúa Trịnh. Năm 1653, triều đình ban hành sắc dụ: “Tất cả những thợ của
các phường cuộc đúc vũ khí của nhà nước đều phải tập trung lại, một người sẽ được
chỉ định làm quản giám. Mặt khác nhà nước sẽ lựa chọn (những nơi thuận tiện) để
đặt các kho vũ khí, trong đó các thợ có bằng cấp sẽ được giao làm những công việc
chế tạo và sửa chữa cần thiết” [33, tr.328]. Hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí thời
kỳ này cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo Marini, ở Thăng Long
thế kỷ XVII đã có “nhiều xưởng binh khí chế tạo một số lượng lớn các giáo mác,
gươm kiếm, có cả những súng ống, hỏa pháo, súng thần công mà họ đã biết cách
đúc với một sự thành công không thể tưởng tượng nổi” [33, tr.266]. Cuối thế kỷ
XVIII, Nhà nước xét định chức vụ của từng bộ, trong đó có ghi chép về chức trách,
nhiệm vụ của Vũ khố Thanh lại ty thuộc Bộ Binh. Sử cũ chép: “Phàm những đồ
quân dụng, có nhiều hay ít, đủ hay thiếu, để lâu hay mới có, còn bền hay đã hỏng,
Vũ khố Thanh lại ty cũng phải đem ra bàn định, xem xét cho rõ ràng, rồi làm tờ
khai kê xin hay nấu chế, hoặc sửa chữa để chuẩn bị trước” [11, tr.517]. Năm 1787,
vua Lê Chiêu Thống dựa trên quan chế thời Hồng Đức, cho đặt lại số lượng nhân
viên ở 6 Bộ và các Ty. Theo đó, cơ cấu nhân sự ở Vũ khố Thanh lại ty gồm có 1
viên quan Lang trung trật Chánh lục phẩm đứng đầu, thứ hai là 1 viên quan Viên
1 Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú chỉ cho biết số lượng thuộc lại chung của cả Vũ khố Thanh lại ty, Quân vụ Thanh lại ty và Binh bộ Tư Vụ sảnh. Theo đó, số lượng quan giúp việc của các Ty, Sảnh là 128 người. [11, tr.461].
Ngoại lang trật Tòng lục phẩm. Giúp việc có Câu kê, Cai Bạ, Thủ bạ, Đô lại, song
11
cũng giống thời Lê Thánh Tông, số lượng nhân viên của Vũ khố Thanh Lại ty không rõ là bao nhiêu người1.
Dễ nhận thấy rằng các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí của Vũ khố Thanh
lại ty ở Đàng Ngoài thời Lê - Trịnh là sự phát triển tiếp theo từ thời Lê Sơ tại Kinh
thành Thăng Long.
Ở Đàng Trong, năm 1617, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt Nhà đồ, với
nhiệm vụ ban đầu là thu hàng hóa phẩm, và được giao cho Ty Nội lệnh sử giữ,
nhưng không thấy ghi chép về quan chế của cơ quan này. Đại Nam thực lục chép: “Tháng giêng năm Đinh Tỵ (1617), đặt Nhà đồ2, thu các hàng hóa phẩm, giao cho
Nội lệnh sử ty giữ [78, tr.39]. Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn ghi chép chi tiết
hơn. Theo đó, quan chế của Ty Lệnh sử Đồ gia [Nhà đồ], bao gồm 3 viên Câu kê, 3
viên Cai hợp, 3 viên Thủ hợp, 24 viên Thư lại giúp việc, tổng số là 33 người. Nhiệm
vụ chính của Nhà đồ là “giữ việc thu phát dây thau, khối sắt, đồ đồng, ngà voi,
chiêng đồng, phát cho các cục để làm khí giới thuyền ghe, sửa sang tường thành nhà
cửa và giữ các tích dầu sơn, than gỗ, vàng thếp, cùng là kho quân khí” [20, tr.184].
Năm 1787, sau khi từ Xiêm (Thái Lan) trở về, Nguyễn Ánh từng bước chiếm
giữ vùng đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay) làm chỗ đứng chân, nỗ lực củng cố
quyền lực. Nhiều biện pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng một hậu phương
vững chắc, trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh với nhà Tây Sơn được chính
quyền Gia Định thực hiện, từ khuyến khích nông nghiệp, mở rộng thương nghiệp,
cho đến củng cố pháp luật, phát triển quân đội… Năm 1790, Nguyễn Ánh cho đặt
lại cơ quan Đồ gia trực tiếp quản lý 62 ty, cục ở Gia Định [78, tr.257]. Các ngành
được Nguyễn Ánh quan tâm nhất là đóng thuyền, chế tạo vũ khí. Trong cuốn Một
chuyến du hành đến xứ Nam Hà, J. Barrow cho biết: “Một người Anh đã thấy ở Sài
Gòn vào năm 1800 một hạm đội gồm 1200 chiến thuyền do Nguyễn Ánh chỉ huy”
[118, tr.48]. Bên cạnh việc cử quan lại đi mua vũ khí của nước ngoài, chính quyền
1 Lịch triều hiến chương loại chí ghi: “Đặt thêm 4 viên Câu kê, thuộc lại rút xuống 80 người: Cai bạ 10 người, Thủ bạ 10 người, Đô lại 60 người”, (tính cả việc đặt thêm 4 viên Câu kê, tổng số là 80 người). [11, tr.416]. So sánh với thời Hồng Đức, số lượng thuộc lại giúp việc đã giảm 48 người = 37%. (Xem thêm [117, tr.59-65]). 2 Nhà đồ: Nhà chứa cất đồ đạc, phẩm vật, chữ Hán là Đồ gia.
Gia Định đã giành độc quyền mua kim loại và lưu hoàng để sản xuất các loại vũ khí
12
thông thường [78, tr.246]. Những thành tựu có được trong các ngành đóng thuyền,
sản xuất vũ khí, đúc tiền,… đã đóng góp một phần nhất định vào thắng lợi cuối
cùng của Nguyễn Ánh trước vương triều Tây Sơn.
1.1.2. Từ Ngoại Đồ gia (1802-1820) đến Vũ khố (1820-1884)
Sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành quyền lực với nhà Tây Sơn (1778-
1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu Gia Long, lập ra triều Nguyễn
(1802). Trên cơ sở một đất nước thống nhất với thiết chế truyền thống của Nhà
nước quân chủ Đại Việt, cùng việc “tham cứu” mô hình tổ chức nhà nước của các
triều đại phong kiến Minh, Thanh (Trung Quốc), những vị vua đầu triều Nguyễn đã
từng bước điều chỉnh, bổ sung, thay đổi ở các Bộ, Nha, nhằm hướng tới xây dựng
một quy chế vận hành cho bộ máy quản lý hành chính từ Trung ương đến địa
phương ngày càng cụ thể và chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn dân tộc.
Năm Nhâm Tuất (1802), trên cơ sở Ty Lệnh sử Đồ gia, Gia Long cho lập
Ngoại Đồ gia - cơ quan chế tạo, sản xuất và tích chứa vũ khí cùng nguyên vật liệu.
Khi mới thành lập, Ngoại Đồ gia gồm có 7 kho: 1) Kho khí giới, 2) Kho đồng, 3)
Kho tiền, 4) Kho vận lương, 5) Kho thủy, 6) Kho chiếu, 7) Kho than [67, tr.17].
Năm Canh Thìn (1820), sau khi lên ngôi vua, Minh Mệnh cho đổi Ngoại Đồ
gia thành Vũ khố. Cùng với sự thay đổi tên gọi, các kho tàng ở Ngoại Đồ gia cũng
được thay đổi và đặt thêm. Đứng đầu Vũ khố có Thị lang, Lang trung, Viên Ngoại
lang, giúp việc trông coi và quản lý các kho có các quan lại từ Chủ sự, Tư vụ, Thư
lại Chánh bát phẩm, Thư lại Chánh cửu phẩm đến Thư lại Vị nhập lưu. Từ đây, tên
gọi Vũ khố được giữ nguyên, không có sự thay đổi qua mỗi thời kỳ trị vì của các vị
vua khác nhau từ Thiệu Trị, Tự Đức cho đến Kiến Phúc. Sự thay đổi tên gọi ở Vũ
khố nằm trong xu hướng muốn quay trở lại để tiếp nối và phát triển mô hình có từ
thời Lê trước đó trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ về mặt tên
gọi, còn Vũ khố vẫn là một cơ quan độc lập thuộc quản lý của Nhà nước.
Như vậy, Vũ khố có sự phát triển từ ban đầu là một ty của Bộ Binh (Vũ khố
Thanh lại ty thời Lê) thành một cơ quan độc lập thời chúa Nguyễn (Ty Lệnh sử Đồ
gia), được kế tiếp trong thời Gia Long và các vị vua triều Nguyễn về sau.
13
Đối chiếu với cơ quan cùng cấp của nhà nước phong kiến Trung Quốc thời
Minh, Thanh cho thấy tuy giống về tên gọi nhưng khác biệt về tổ chức, quản lý.
Thời Minh (1368-1664), Vũ khố Thanh lại ty là một trong bốn ty trực thuộc Bộ
Binh triều Minh cùng với Võ Tuyển Thanh lại ty, Chức Phương Thanh lại ty, Xa
Giá Thanh lại ty. Dưới triều Thanh (1664-1911), Vũ khố Thanh lại ty là 1 trong 7 ty
trực thuộc Bộ Binh (Binh Tuyển Thanh lại ty, Xa Mã Thanh lại ty, Chức Phương
Thanh lại ty, cùng các Đường Chủ sự, Tư Vụ sảnh, Bút Thiếp thức) [120, tr.358-
359, 389, 404-405, 426].
1.2. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)
1.2.1. Châu bản triều Nguyễn
Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu sớ, sắc, dụ, chiếu, chỉ… cùng những
công văn, tờ trình, sổ sách kê khai, những văn bản ngoại giao… được nhà vua phê
duyệt với những dấu ấn “ngự phê”, “ngự lãm” bằng mực son đỏ và đóng ấn tín của
hoàng đế. Dấu ấn “ngự phê”, “ngự lãm” gồm nhiều loại hình khác nhau từ Châu phê, Châu khuyên, Châu điểm, Châu mạt, tới Châu cải, Châu sổ1.
Tất cả số Châu bản do một cơ quan giữ vai trò như Văn phòng của hoàng đế
đảm nhiệm. Thời Gia Long (1802-1819), Châu bản do các cơ quan Thị thư viện,
Thị hàn viện, Nội hàn viện giữ. Năm Kỷ Sửu (1829), Nội các được thành lập với
chức năng “giữ sổ sách và chầu hầu tả hữu”, do vậy số Châu bản được chuyển về
đây. Trải qua các triều vua Minh Mệnh (1820-1840) đến Thiệu Trị (1841-1847) tổ
chức của Nội các với các cơ quan chuyên trách và số lượng quan chức, nhân viên có
nhiều thay đổi theo hướng quy định chặt chẽ nhiệm vụ văn thư và lưu trữ của triều
đình. Năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị xác định Nội các “chầu hầu nơi cung
cấm, phụng thừa sắc chỉ, tiếp nhận sớ tấu, tuân thừa châu phê, chức vụ rất là quan
trọng” [54, tr.61].
Sau khi được chuyển tới Nội các, Châu bản được sao thêm hai bản phụ (phó
1 Châu khuyên: vòng son đỏ điểm lên tên người hay sự việc mà nhà vua lựa chọn. Châu điểm: chấm son đỏ lên đầu văn bản mà nhà vua chấp thuận. Châu mạt: nét son quẹt lên tên người hay sự việc không được nhà vua chấp thuận. Châu cải, Châu sổ: nét son gạch sổ lên những chỗ biểu thị sự phủ nhận hay cần chữa lại.
bản), ghi thêm một số chữ, đề ngày tháng, đóng dấu (quan phòng)... Tiếp đó, một
14
bản phụ được gửi cho Bộ hoặc Nha liên quan để biết hoặc thực hiện, một bản phụ
đưa đến Quốc Sử quán để làm sử liệu, còn bản chính thức “Châu bản” thì do Nội
các lưu giữ. Sang đến đời Bảo Đại, Châu bản quy tụ về Ngự tiền văn phòng. Năm
1942, triều đình nhà Nguyễn đã cho tổ chức một hội đồng sắp xếp lại các châu bản
do Tổng lý Ngự tiền văn phòng Trần Văn Lý phụ trách. Sau gần hai năm làm việc,
Hội đồng đã sơ bộ chia Châu bản ra từng loại theo thứ tự năm tháng, Bộ Nha... rồi
đóng thành từng tập, mỗi tập có một tiêu đề riêng. Đặc biệt Hội đồng đã lên được
một thư mục gồm 6 phần: Châu bản, Hòa uớc, Quốc thư, Các loại sách, Các quyển
điện thí và Linh tinh [14, tr.XXIX].
Sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), một phần Châu bản và
các loại thư tịch của vương triều bị thất tán. Năm 1959, kho Châu bản triều Nguyễn
được chuyển từ Viện Văn hóa sang Viện Đại học Huế. Tại đây, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam do Giáo sư Trần Kinh Hòa1 làm Tổng thư ký được thành lập để kiểm
tra lại kho tư liệu và tổ chức nghiên cứu, xuất bản. Theo thống kê của Ủy ban, kho
Châu bản lúc đó có 611 tập và nhiều tập rời. Trước năm 1975, kho Châu bản chuyển
lên Đà Lạt rồi chuyển về Sài Gòn. Sau chiến tranh kết thúc, Cục lưu trữ Nhà nước
tiếp quản khối tư liệu này và do Trung tâm lưu trữ Quốc gia II tại thành phố Hồ Chí
Minh quản lý. Năm 1991, kho Châu bản được chuyển ra Hà Nội, do Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia I thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước, nay là Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước,
quản lý. Vào thời điểm đó, nhiều tờ Châu bản chưa đóng thành tập, phần lớn bị mốc,
kết dính. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã xây dựng một chương trình cứu vãn
Châu bản nhằm cứu di sản này khỏi nguy cơ bị hủy hoại và hồi phục. Kết quả bảo
quản và kiểm kê Châu bản từ 1959 đến 2012 có thể tóm lược theo bảng sau:
BẢNG 1.1. THỐNG KÊ SỐ TẬP CỦA KHO CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN
STT
TRIỀU ĐẠI
1959
1975
1991
2003
2012
1
5
5
5
7
7
Gia Long (1802-1819)
2
83
81
81
86
86
Minh Mệnh (1820-1840)
1 Trần Kinh Hòa là người Trung Quốc. Năm 1959, Ủy Ban Nghiên cứu Học thuật Đông Á tại Đài Bắc (China Council for Eastern Asian Studies) đã tiến cử Trần Kinh Hòa tham gia chỉ đạo công việc sắp xếp, nghiên cứu, dịch Châu bản cùng Viện Đại học Huế, với cương vị Tổng thư ký Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam.
15
3
51
51
51
53
53
Thiệu Trị (1841-1847)
4
352
345
345
382
382
Tự Đức (1848-1883)
5
1
1
1
1
1
Kiến Phúc (1884)
6
0
0
0
1
1
Hàm Nghi (1884-1885)
7
4
4
4
26
26
Đồng Khánh (1886-1888)
8
74
74
74
98
98
Thành Thái (1889-1907)
9
35
35
35
51
54
Duy Tân (1907-1916)
10
4
4
4
10
10
Khải Định (1917-1925)
11
2
2
2
20
55
Bảo Đại (1926-1945)
611
602
602
735
773
Tổng cộng
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I [43, tr.3-12]
Qua bảng số liệu cho thấy sau một quá trình làm việc liên tục, Cục Văn thư
Lưu trữ Nhà nước thống kê được còn 773 tập Châu bản với khoảng 85.000 văn bản1. Mặc dù vậy, vẫn còn khoảng hơn 3.000 tờ bị kết dính chưa thể xử lý.
Năm 1959, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế đã xuất
bản được hai tập Mục lục Châu bản triều Nguyễn: 1) Mục lục Châu bản triều
Nguyễn, tập I, triều Gia Long, xuất bản năm 1960, giới thiệu 4 tập với 723 phiếu
tức đơn vị văn bản Châu bản thời Gia Long, còn tập 5 phần “Ngự dược nhật ký”
chưa được công bố. 2) Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập II, triều Minh Mệnh,
được xuất bản năm 1962, giới thiệu 971 phiếu tức đơn vị Châu bản trong 5 năm đầu
triều vua Minh Mệnh, từ năm Minh Mệnh 1 (1820) đến năm Minh Mệnh 5 (1824).
Năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập một nhóm biên soạn
gồm Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát, tiến hành tuyển chọn và lược
thuật nội dung một của hơn 1.000 phiếu tức đơn vị châu bản triều Tự Đức được
dịch, sắp xếp và in thành 1 tập với nhan đề Châu bản triều Tự Đức (1848-1883).
Hiện nay, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà
nước đã hoàn thành việc lập phiếu tóm tắt và trích yếu nội dung từng tờ Châu bản
1 Theo ước tính của Giáo sư Trần Kinh Hòa, số Châu bản trải dài suốt gần một thế kỷ rưỡi trị vì của triều Nguyễn, qua 11 đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại còn đến nay chiếm khoảng chưa đến 1/5 khối lượng Châu bản triều Nguyễn. [14, tr.XII].
và đóng thành 13 tập. Kế hoạch công bố dần các tập Mục lục châu bản triều Nguyễn
16
đã được Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tiến hành. Năm 2010, trên cơ sở Mục lục
Châu bản triều Nguyễn Tập I và II đã được xuất bản năm 1960, 1962 tại Huế, bổ
sung thêm những Châu bản của triều vua Gia Long và Minh Mệnh từ năm I đến
năm V (1820-1824) chưa đưa được công bố, Cục văn thư và Lưu trữ nhà nước cùng
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I cho xuất bản Mục lục Châu bản triều Nguyễn tập I
với 2279 phiếu tức văn bản Châu bản [14, tr.VII-X]. Trước đó, năm 1998, Mục lục
Châu bản triều Nguyễn, Tập II được xuất bản tại Hà Nội gồm các Châu bản tiếp
theo của triểu vua Minh Mệnh năm 6 (1825) và năm 7 (1826), từ tập 11 đến tập 20
[13, tr.VII] gồm 1.609 đơn vị văn bản.
Là nguồn sử liệu trực tiếp quan trọng nhất để nghiên cứu về triều Nguyễn,
hầu hết các vấn đề quan lại, lương bổng, nhiệm vụ, bổ dụng, cấp phát lương thực,
vũ khí… của Vũ khố triều Nguyễn đã được nêu/trình bày qua các Chiếu, Chỉ, Dụ.
Trước hết là một số Chỉ, Dụ của vua Minh Mệnh về việc đề bạt, thay đổi vị
trí nhân sự quan lại Vũ khố qua các chỉ dụ vào năm Canh Thìn (1820), Quý Mùi
(1823), Giáp Thân (1824).
Ngoài ra, một số Chỉ, Dụ trình bày về việc cung cấp vũ khí, đạn dược ở Vũ
khố cho các tỉnh thành trong cả nước dưới thời Minh Mệnh, Tự Đức.
Bên cạnh đó, còn có những Chỉ, Dụ trực tiếp của vua Tự Đức phản ánh về
các vấn đề như chế tạo vũ khí, thuốc súng ở Vũ khố vào các năm Đinh Tỵ (1857),
Mậu Ngọ (1858), Mậu Thìn (1868) nhằm phục vụ cho các hoạt động quân sự.
Không chỉ dừng lại ở đó, vua Tự Đức còn ban những Chỉ, Dụ thưởng cho quan lại
và thợ chế tạo vũ khí, đạn dược theo kiểu phương Tây vào các năm Mậu Ngọ
(1858), Kỷ Mùi (1859).
1.2.2. Ngự chế văn
Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Ngự chế là văn của vua
làm ra [30, tr.399]. Còn Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Ngự chế có
hai nghĩa, thứ nhất, Ngự chế là của vua làm ra, thứ hai là thi văn của vua làm ra [3,
tr.522]. Như vậy, có thể hiểu Ngự chế văn là tập hợp các đạo dụ do vua Minh Mệnh
ban ra từ năm đầu mới lên ngôi (1820) đến năm ông qua đời (1840).
17
Lên ngôi vua khi đã ở tuổi 29, lại là một người thông minh quyết đoán, ham học
hỏi và được đào tạo khoa cử bài bản, do đó những công văn, tấu bản đều được Minh
Mệnh xem xét cẩn thận trước khi châu phê rồi mới cho thi hành. “Vua sáng suốt, cẩn
thận về chính thể. Những chương sớ trong ngoài tâu lên, nhất nhất xem qua… việc
quan trọng thì phần nhiều vua tự nghĩ hoặc thảo ra, hoặc châu phê” [79, tr.39].
Ngự chế văn tập được lựa chọn, chỉnh lý và khắc in thành Ngự chế văn sơ
tập và Ngự chế văn nhị tập.
Ngự chế văn sơ tập là do Minh Mệnh xem xét bỏ đi 4, 5 phần không quan
trọng trong số các văn bản Ngự chế của ông, sau đó được chép lại đúng sự thực “để
xem chính sự đắc thất thế nào, trước sau siêng năng trễ nải thế nào, để tự mình cố
gắng” [79, tr.316]. Ngự chế văn sơ tập ghi chép lại các chỉ dụ của vua Minh Mệnh
ban ra từ năm Canh Thìn (1820) đến năm Canh Dần (1830) [80, tr.130-131], sau đó
được các đại thần triều Nguyễn như Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Khoa Minh;
Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực; Thượng thư bộ Binh Trương Đăng Quế… biên
tập và khắc in xong vào năm Minh Mệnh 15 (1834). Ngự chế văn sơ tập gồm 2 tập,
14 quyển, trong đó 1 quyển Biểu, 11 quyển Dụ, 1 quyển Tạp kí, 1 quyển Mục lục
với trên 400 bài Dụ và tạp kí, trong đó Dụ chiếm 384 bài [44, tr.14].
Đến năm Tân Sửu (1841), sau khi lên ngôi vua, trên cơ sở các Chỉ, Dụ của
vua Minh Mệnh từ năm Tân Mão (1831) đến năm Canh Tý (1840), vua Thiệu Trị
giao cho một số quan lại trong triều đình như Trương Đăng Quế, Nguyễn Trung
Mậu, Phan Thanh Giản ở viện Cơ Mật; Nguyễn Đình Hưng, Lâm Duy Nghĩa,
Nguyễn Cửu Trường ở Nội Các biên tập thành Ngự chế văn nhị tập. Ngự chế văn
nhị tập được khắc in vào năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) [83, tr29], gồm 10 quyển,
trong đó 1 quyển Mục lục; 8 quyển Dụ; 1 quyển Dụ tế văn với 247 bài, trong đó Dụ
chiếm 204 bài [44, tr.14].
Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu,
bản chữ Hán sách Ngự chế văn của Minh Mệnh đang được lưu giữ tại Thư viện
Viện Nghiên cứa Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Thư
viện Khoa học, dưới các tên và ký hiệu:
Ngự chế văn sơ tập A. 1823/1-3;
18
Minh Mệnh Ngự chế văn A. 118/1-3 (gồm Sơ tập và Nhị tập) VHv.69/1-7
(Sơ tập), VHv.70/1-5 (Nhị tập) [47, tr.464].
Dựa trên bản chữ Hán VHv.69/1-7 (Sơ tập), VHv.70/1-5 (Nhị tập) và có
tham khảo, đối chiếu với bản A. 1723/1-3, Trần Văn Quyền đã dịch ra tiếng Việt
văn bản Ngự chế văn của vua Minh Mệnh. Với bản dịch này, Trần Văn Quyền đã
cung cấp cho các nhà nghiên cứu toàn văn các đạo dụ của Minh Mệnh nhằm góp
một phần vào việc tìm hiểu về Minh Mệnh và triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Qua Ngự chế văn cho thấy, các vấn đề Vũ khố như chế tạo, sửa chữa vũ khí,
thưởng công, trông coi, xử phạt được đề cập đến trong một số Chỉ, Dụ của vua
Minh Mệnh.
1.2.3. Đại Nam thực lục
Theo Việt Nam tự điển, Thực lục là bản sử biên chép những sự thực của riêng
từng đời, từng triều đại như Lê triều thực lục, Đại Nam thực lục, Thanh thực lục,
Minh thực lục… [30, tr.586]. Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Thực
lục là bản sử biên chép những sự tích thuộc về vua chúa [3, tr.838].
Trong lịch sử chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, mỗi
triều đại thường có một cơ quan chép sử, tổ chức biên soạn lịch sử của triều đại mình.
Dưới triều Nguyễn, cơ quan làm sử chính thức của Nhà nước là Quốc Sử quán được
lập vào năm Tân Tỵ (1821). Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Quốc Sử quán triều
Nguyễn đã để lại nhiều công trình sử học có giá trị như Đại Nam thục lục, Đại Nam
liệt truyện, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí…
Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn,
do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi chép về triều đại phong kiến cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Bộ sách được biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành,
từ khi bắt đầu làm (năm 1821) đến khi khắc in xong những quyển cuối cùng (1909).
Trong lời mở đầu của bộ sách có nói mục đích soạn sách bởi: “Nước có
chính sử, ghi chép công tốt, để lại lâu dài. […]; cho nên chép theo việc ghi truyện
thực, để truyền lại đời sau, tỏ rõ công lao từ đây” [79, tr.5]. Song vượt lên trên đó,
Đại Nam thực lục là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về nhà Nguyễn nói riêng
19
và xã hội Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1558 đến năm 1888 trên tất cả
các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tài chính, ngoại giao,
khí tượng…
Đại Nam thực lục được viết theo thể biên niên, chia thành 2 phần Tiền biên
và Chính biên.
Đại Nam thực lục tiền biên (còn được gọi là Liệt thánh thực lục tiền biên) ghi
chép về sự nghiệp của 9 chúa Nguyễn, bắt đầu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng đế Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến hết đời Duệ tông Hiếu định hoàng đế
Nguyễn Phúc Thuần (1777). Đại Nam thực lục tiền biên được khởi soạn năm Tân
Mão, (1821), làm xong và hoàn thành việc khắc in năm Giáp Thìn (1844). Tổng tài
của bộ sách Đại Nam thực lục tiền biên là Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.
Đại Nam thực lục chính biên ghi chép về lịch sử vương triều Nguyễn, từ Gia
Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỷ, mỗi kỷ là một đời vua1.
1. Kỷ thứ nhất - Đời Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) từ 1778 đến 1819, gồm
60 quyển và 2 quyển mục lục, được biên soạn từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đến
năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Tổng tài gồm có Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.
2. Kỷ thứ hai - Đời Minh Mệnh (Nguyễn Phúc Đảm) từ 1820 đến 1840, gồm
220 quyển và 2 quyển mục lục, được biên soạn từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841)
đến năm Tự Đức thứ 14 (1861). Tổng tài lần lượt có Trương Đăng Quế rồi đến
Phan Thanh Giản.
3. Kỷ thứ ba - Đời Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) từ 1841 đến 1847,
gồm 72 quyển và 2 quyển mục lục. Sách khắc in năm Tự Đức 32 (1879). Tổng tài
gồm có Trương Đăng Quế, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản.
4. Kỷ thứ tư - Đời Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhiệm) từ 1847 đến 1883,
1 Thực tế, Đại Nam thực lục còn phần Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên và Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ. Trong đó, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên ghi chép về hai đời vua Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) được biên soạn từ năm 1922 đến năm 1942, gồm 29 quyển đóng thành 13 tập với hơn 1.700 trang chữ Hán. Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ ghi chép về vua Khải Định (1916-1925) được biên soạn từ năm 1932 đến năm 1939, gồm 10 quyển với hơn 1.400 trang chữ Hán. Hiện nay, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên và Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ đã được Cao Tự Thanh dịch và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ xuất bản vào năm 2012.
gồm 70 quyển và 1 quyển mục lục. Sách được biên soạn xong vào năm Thành Thái
20
6 (1894) và khắc in năm Thành Thái 11 (1899). Tổng tài gồm có Nguyễn Hữu Độ,
Phan Đình Bình, Nguyễn Trọng Hợp.
5. Kỷ thứ năm - Năm cuối đời Tự Đức và đời Kiến Phúc (Nguyễn Phúc Ưng
Đăng) từ 1883 đến 1885, gồm 8 quyển và 1 quyển mục lục. Sách biên soạn xong
vào năm Thành Thái 12 (1900), khắc in xong năm Thành Thái 14 (1902). Tổng tài
là Trương Quang Đản.
6. Kỷ thứ sáu - Đời Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch) và Đồng Khánh
(Nguyễn Phúc Ưng Xụy) từ 1885 đến 1888, gồm 11 quyển và 1 quyển mục lục.
Sách biên soạn và khắc in xong năm Duy Tân 3 (1909). Tổng tài là Cao Xuân Dục)
[46, tr.506-507], [78, tr.5].
Hiện nay Đại Nam thực lục còn lưu lại một số bản in dưới dạng bản in chữ
Hán và bản in chữ Việt.
Bản in chữ Hán, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội lưu hai bản in mang ký hiệu A.2772/1-67: 26534 tr., 31x20 và
A.27/1-66: 24924 tr., 31x20. Trong đó bản A.2772/1-67 là đầy đủ nhất, bản A.27/1-
66 thiếu phần Đệ lục kỷ. Ngoài ra, bản in tiếng Hán của bộ Đại nam thực lục còn
được lưu giữ ở Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris, Cộng hòa Pháp,
mang ký hiệu MF.610 (A.27/1-66) và Paris. EFEO.MF.II/2/168 (A.27/1-66) ) [46,
tr.506]. Đây là hai bản được sao lại từ bản A.27/1-66: 24924 tr., 31x20, do đó cũng
thiếu phần Đệ lục kỷ.
Từ năm 1961 đến năm 1981 tại Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Ngữ văn và Văn
hóa thuộc Đại học Keio đã cho in và xuất bản bộ Đại Nam thực lục với 20 tập,
8.131 trang bằng chữ Hán. Mặc dù có tên chung là Đại Nam thực lục, nhưng kiểm
tra toàn bộ 20 tập cho thấy bộ sách này gồm Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam
thực lục chính biên (từ Đệ nhất kỷ (Gia Long) đến Đệ lục kỷ (Đồng Khánh)), Đại
Nam liệt truyện tiền biên và Đại Nam liệt truyện chính biên.
Đối với bản tiếng Việt, năm 1962 Viện Sử học cho dịch Đại Nam thực lục.
Đây là một công trình dịch thuật đồ sộ của Tổ phiên dịch Viện Sử học với các thành
viên như Đào Duy Anh, Phạm Huy Giu, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh,
Nguyễn Doanh Chiên, Ngô Hữu Tạo… Sau 16 năm làm việc (1962-1978), và với
21
sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Viện Sử học hoàn thành việc dịch
và xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục gồm 38 tập. Từ năm 2002 đến năm 2006,
Viện Sử học và Nhà xuất bản Giáo dục hợp tác cho tái bản bộ Đại Nam thực lục với
10 tập, trong đó có 9 tập với hơn 9.000 trang nội dung và 1 tập tra cứu.
Là một bộ thông sử của triều Nguyễn, Đại Nam thực lục trình bày về tất cả
các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự… của nhà nước Đại
Nam. Với tư cách là cơ quan quản lý hành chính cấp trung ương, Vũ khố được trình
bày xuyên suốt trong toàn bộ các tập của Đại Nam thực lục từ các vấn đề cơ cấu tổ
chức, cơ cấu nhân sự cho đến chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của Vũ khố.
1.2.4. Minh Mệnh chính yếu
Chính yếu là những chính sách thiết yếu của một triều vua lần lượt được
phụng tấu và phê chuẩn. Thể loại sách “Chính yếu” có nguồn gốc từ Trung Hoa, ghi
chép lại những điều răn dạy, được lấy làm đạo trị nước, hướng cho người dân noi
theo. Minh Mệnh chính yếu là bộ sách lớn do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn
nhằm ghi chép những việc quan trọng, thiết yếu của nền chính trị đất nước: hình
luật, lễ nhạc, ngoại giao, trị an, khai hoang, khẩn hóa… dưới triều vua Minh Mệnh.
Minh Mệnh chính yếu được soạn ra với mục đích “Chính sự thi hành phải có
giềng mối, có pháp độ, có thể chế công bằng và ngay thẳng. Nếu giữ vững được yếu
chỉ ấy thì chẳng phải khó nhọc bao nhiêu mà trị đạo thành công” [74, tr.8], nên ngay
từ ban đầu, triều đình nhà Nguyễn đã ghi chép lại những điều có thực, thiết yếu
trong triều đại vua Minh Mệnh, để lấy đó làm mực thước, cho mọi người noi theo.
Với cách thức biên soạn “phàm những việc lớn thì nên chép rõ, còn những
việc nhỏ chỉ chép lược mà thôi”, và “những việc thuộc triều đại Gia Long, không
liên quan đến chính thể thì bỏ”, vì vậy Minh Mệnh chính yếu đề cập một cách khái
quát các việc đã xảy ra trong thời kỳ trị vì của vua Minh Mệnh.
Minh Mệnh chính yếu được bắt đầu biên soạn từ năm Đinh Dậu (1837) đến
năm Canh Tý (1840) gồm 25 quyển với 22 thiên, ghi chép các chính sách quan
trọng dưới triều Minh Mệnh.
22
Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu,
bản chữ Hán sách Minh Mệnh chính yếu gồm có 7 bản, được lưu trữ ở Thư viện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thư
viện Khoa học và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ, Paris, Cộng hòa Pháp,
mang các ký hiệu: 1) VHv.1254/1-12; 2) VHv.195/1-12; 3) A.57/1-11; 4) A.2688/1-
6: 1953 tr., 29x17; 5) Paris.EFEO.VIET/A/Hist.25 (1-8); 6) Paris.BN.A. 107
vietnamien (1-2): 1848 tr.; 7)Paris.MG.FV.56405: 632 tr., in năm 1972 [47, tr.286].
Hiện nay, bản dịch tiếng Việt sách Minh Mệnh chính yếu có 2 bản:
1) Bản thứ nhất do Ủy ban Dịch thuật của Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh
niên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam xuất bản từ năm 1972 đến năm 1974. Bộ sách này gồm 6 tập1.
2) Năm 1994, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã dựa vào bản dịch của Ủy ban
Dịch thuật do Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xuất bản năm 1972-1974 ở Sài Gòn, để hiệu chỉnh lại và in thành 3 tập2. Năm 2009, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã
cho tái bản thành và đóng thành 1 cuốn sách với hơn 2125 trang sách (bao gồm cả
chữ Hán và chữ tiếng Việt), khổ 24x16.
Trong 22 thiên với 25 quyển của Minh Mệnh chính yếu, Vũ khố được trình
bày ở các thiên thứ 6 (kiến quan), quyển 4; thiên thứ 7 (cần chánh), quyển 5; thiên
1 6 tập bao gồm: Tập I: từ quyển 1 đến quyển 4, gồm 224 trang tiếng Việt và 407 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hoàng Du Đồng, Hà Ngọc Xuyển dịch. Tập II: từ quyển 5 đến quyển 7, gồm 146 trang tiếng Việt và 364 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Vũ Quang Khanh và Võ Khắc Văn dịch. Tập III: từ quyển 8 đến quyển 13, gồm 309 trang tiếng Việt và 422 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Võ Khắc Văn và Lê Phục Thiện dịch. Tập IV: từ quyển 14 đến quyển 17, gồm 213 trang tiếng Việt và 246 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Đào Vũ Luyện và Thiện Trai Hồ Tánh dịch. Tập V: từ quyển 18 đến quyển 21, gồm 217 trang tiếng Việt và 362 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hà Ngọc Xuyển và Đào Vũ Luyện dịch. Tập VI: từ quyển 22 đến quyển 25, gồm 397 trang tiếng Việt và 332 trang chữ Hán, khổ 26x15, do Hoàng Văn Hòe và Nguyễn Quang Tô dịch. 2 3 tập gồm: Tập I: từ quyển 1 đến quyển 7, 374tr., khổ 22x14 Tập II: từ quyển 8 đến quyển 17, 475tr., khổ 22x14 Tập III: từ quyển 18 đến quyển 25, 412tr., khổ 22x14.
thứ 10 (sùng kiệm), quyển 10; thiên thứ 13 (chế binh), quyển 14; thiên thứ 14 (thận
23
hình), quyển 16; thiên thứ 15 (tài chánh và thuế khóa), quyển 17; thiên thứ 16 (pháp
độ), quyển 18.
1.2.5. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Hội điển là sách họp đủ
các chế độ lệ luật của một triều: Đại Nam hội điển, Đại Thanh hội điển, Lê triều hội
điển…[30, tr.247], còn Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, Hội điển là
sách chép điển chương, pháp luật của một triều đại [3, tr.315]. Như vậy có thể hiểu,
Hội điển là sách ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến
tổ chức và hoạt động của một triều đại, một Nhà nước.
Trong lịch sử chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, mỗi
triều đại thường tổ chức biên soạn Hội điển của triều đại mình (cách gọi khác là Đại
điển, Chính điển…). Các triều đại của Trung Hoa như Đường, Tống, Nguyên,
Minh, Thanh đều có làm sách Đại điển hoặc Hội điển. Ở Việt Nam, thời Trần, thời
Lê cũng đã có loại sách này như triều Trần có Hoàng triều Đại điển do Trương Hán
Siêu, Nguyễn Trung Ngạn soạn, triều Lê có Quốc triều Hội điển soạn đời Vĩnh Hựu
(1735-1740) và Quốc triều chính điển lục do Bùi Huy Bích soạn.
Dưới triều Nguyễn, bên cạnh Quốc Sử quán - cơ quan viết sử chính thức của
Nhà nước, còn có một cơ quan đã biên chép nhiều công trình và đạt được những
thành tựu nhất định, đó là Nội các, được lập vào năm Kỷ Sửu (1829). Như đã đề cập
ở phần trước, chức năng của Nội các, trước hết chuyên giữ công việc ấn chương,
giấy tờ, sổ sách của các cơ quan trong triều đình. Nhưng Nội các triều Nguyễn còn
được giao một số nhiệm vụ mang tính chất sử học như ghi lại lời nói và việc làm
của nhà vua (được gọi là Khởi cư chú), chép việc làm của các Bộ, Viện… và điển
chế của Nhà nước đã đem thi hành. Trong số những bộ sách do Nội các triều
Nguyễn đã biên soạn và khắc in thì Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là công trình
lớn nhất và có giá trị nhất.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ gồm 262 quyển in bản gỗ, giấy lệnh hội
(32x20) mỗi quyển bình quân 30 tờ, cộng tất cả ước trên 8000 tờ, đóng thành 97
cuốn [25, tr.169-170]. Bộ sách được biên soạn trong thời gian khá dài, kể từ chỉ dụ
đầu tiên của vua Thiệu Trị vào tháng 6 năm Quý Mão (1843) [83, tr.507], đến khi
24
hoàn thành và có chỉ cho phép khắc in của vua Tự Đức, tháng 9 năm Ất Mão (1855)
[81, tr.394], tổng cộng 13 năm. Tiếp đó, bộ sách cần tới 14 năm (1855-1868) mới
khắc in xong [84, tr.1135]. Sách biên chép tất cả các dụ chỉ, sắc lệnh, chiếu chỉ… đã
đem thi hành, kể từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851).
Năm 1886, triều đình nhà Nguyễn cho tổ chức in lại Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ để cung cấp cho các tỉnh phía Bắc. Qua việc làm trên, càng cho thấy tầm quan
trọng của bộ Hội điển đối với công việc quản lý hành chính đất nước ngày đó.
Theo thống kê trong tập II sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,
hiện nay, nguyên bản chữ Hán sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ còn lại 10
bản in, được lưu trữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ở Thư viện của
trường Viễn Đông Bác Cổ, Paris (Pháp), gồm những bản in sau: 1) VHv. 1570/1-
42: 15.916 tr. Khổ 19x18; 2) A. 54/1-3: 17.184 tr. Khổ 30x20; 3) VHv. 65/1-88:
17.144 tr. Khổ 30x20; 4) VHv. 1680/1-94: 17.840 tr. Khổ 30x20; 5) VHv. 1681/1-32:
16.170 tr. Khổ 29x18 (thiếu Q1, 38, 66, 68, 137, 262); 6) VHv. 6611-44: 15.550 tr.
Khổ 30.5x18.5; 7) Paris. MG. FC. 39521; 8) Paris.EFÉO.VIET/A/Hist. 30 (1-69); 9)
Paris. BN.A.8 vietnamien: 1668 tr; 10) Paris. EFEO. MF. II/3/365 [47, tr.19-20].
Đối với bản dịch tiếng Việt, hiện nay có 2 bản in:
Bản dịch thứ nhất xuất hiện ở miền Nam vào những năm 1965-1968, do Bộ
Quốc gia Giáo dục thuộc Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tổ chức dịch và xuất bản.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ đã được trích dịch và xuất bản một phần nhỏ, là
phần Bang giao và Nhu viễn thuộc Bộ Lễ, tức từ quyển 128 đến quyển 136 trong
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.
Bản dịch tiếng Việt thứ hai được xuất bản vào năm 1993. Trước đó, trong
những năm 60 của thế kỷ XX, Viện Sử học đã cho dịch toàn bộ Khâm định Đại
1 Cụ thể như sau: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, Viện Tập Hiền (từ quyển đầu đến quyển 6), 233 trang. Tập II: Bộ Lại (từ quyển 7 đến quyển 17), 357 trang. Tập III: Bộ Lại (từ quyển 18 đến quyển 35), 421 trang. Tập IV: Bộ Hộ (từ quyển 36 đến quyển 52), 602 trang.
Nam hội điển sự lệ, nhưng phải đến năm 1993, bộ sách mới được nhà xuất bản Thuận Hóa in với 15 tập, với gần 8.000 trang nội dung (khổ 14,5x20,5)1.
25
Quá trình biên soạn sách về các Bộ, Nha được ghi theo một thứ tự nhất định.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: “Phủ Tôn nhân trông coi phái hệ Hoàng
gia là đảm nhận chức việc trọng yếu hàng đầu, do đó thứ tự phải ở trước tiên; viện
Cơ Mật, viện Tập Hiền kế theo, rồi đến 6 Bộ, còn nữa là những nha thuộc các Viện,
Các, Tự, Giám, Thương, Khố đều theo thứ tự tấn thân biên chế lần lượt theo sau”
[53, tr.88].
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ dành riêng 4 quyển chép về Vũ khố, từ
quyển 244 đến 247. Bên cạnh đó, Vũ khố còn được đề cập trong các quyển về Bộ
Binh, Bộ Lại, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hộ.
1.2.6. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
Trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ được biên soạn từ năm
Quý Mão (1843) đến năm Ất Mão (1855), ghi chép quy chế rõ ràng đầy đủ của các
Viện, Bộ, Nha, Tự… của triều Nguyễn từ Gia Long năm thứ nhất (1802) đến năm
Tự Đức thứ 4 (1851), triều đình nhà Nguyễn dưới thời vua Thành Thái đã tiếp tục
Tập V: Bộ Hộ (từ quyển 53 đến quyển 68), 569 trang. Tập VI: Bộ Lễ (từ quyển 69 đến quyển 95), 573 trang. Tập VII: Bộ Lễ (từ quyển 96 đến quyển 112), 565 trang. Tập VIII: Bộ Lễ (từ quyển 113 đến quyển 136), 521 trang. Tập IX: Bộ Binh (từ quyển 137 đến quyển 160, 741 trang. Tập X: Bộ Binh (từ quyển 161 đến quyển 178), 601 trang. Tập XI: Bộ Hình (từ quyển 179 đến quyển 192), 541 trang. Tập XII: Bộ Hình (từ quyển 193 đến quyển 204), 529 trang. Tập XIII: Bộ Công (từ quyển 205 đến quyển 223), 541 trang. Tập XIV: Nội các, Viện Đô sát, Ty Thông Chính sứ, Đại Lý Tự, Ty Cẩn Tín, Viện Hàn Lâm, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Phủ Nội Vụ (từ quyển 224 đến quyển 243), 433 trang. Tập XV: Vũ Khố, Ty Chế tạo ở Vũ Khố, Thương Trường, Mộc Thương, Ty Doanh Thiện ở Mộc Thương, Ty Bưu chính, Ty Hỏa pháo, Tào chính, Viện Thái Y, Khâm Thiên Giám, Quốc Tử Giám (từ quyển 244 đến quyển 262), 545 trang. Đến năm 2005, bộ sách được Viện Sử học kết hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản và rút gọn thành 8 tập với khoảng 4.200 trang nội dung, khổ 19x27, số lượng in 500 cuốn/1 tập. Cụ thể như sau: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, Viện Tập Hiền (từ quyển đầu đến quyển 6), Tập II: Bộ Lại (từ quyển 7 đến quyển 35), Tập III: Bộ Hộ (từ quyển 36 đến quyển 68), Tập IVA: Bộ Lễ (từ quyển 69 đến quyển 102), Tập IVB: Bộ Lễ (từ quyển 103 đến quyển 136), Tập V: Bộ Binh (từ quyển 137 đến quyển 178), Tập VI: Bộ Hình (từ quyển 179 đến quyển 204), Tập VII: Bộ Công (từ quyển 205 đến quyển 223), Tập VIII: Nội các, Viện Đô sát, Ty Thông Chính sứ, Đại Lý Tự, Ty Cẩn Tín, Viện Hàn Lâm, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Phủ Nội Vụ, Ty Tiết Thận, Phủ Nội Vụ, Vũ Khố, Ty Chế tạo ở Vũ Khố, Thương Trưòng, Mộc Thương, Ty Doanh Thiện ở Mộc Thương, Ty Bưu chính, Ty Hỏa pháo, Tào chính, Viện Thái Y, Khâm Thiên Giám, Quốc Tử Giám (từ quyển 224 đến quyển 262).
cho biên soạn một bộ Hội điển mới, gọi là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục
26
biên. Sau 7 năm biên soạn (1889-1895) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
được hoàn thành với 61 quyển, dày hơn 6.000 trang chữ Hán, khổ sách 16cm x
28cm. Năm Khải Định thứ hai (1917), bộ sách được khắc in [68, tr.9].
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên được biên soạn nhằm mục đích
bổ sung thêm các điều những điều lệ, những nghị định mới được thi hành từ năm
Tự Đức 5 (1852) đến năm Đồng Khánh 1 (1889).
Hiện nay, bản chữ Hán của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên ở
Việt Nam được lưu giữ ở hai nơi: 1) Bản được lưu giữ tại Viện Sử học {ký hiệu
HV.99 (1-60)} là bản in nguyên gốc và khá đầy đủ (thiếu hai quyển 9 và 10); 2)
Bản lưu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu VHv.2793/1-30) là bản sao còn lại
của Viện Sử học (từ quyển 1 - quyển 43) [47, tr.20].
Tại nước Cộng hòa Pháp cũng có một bản chữ Hán của bộ Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ tục biên, được lưu giữ tại Thư viện của trường Viễn Đông Bác
Cổ, Paris. Đây là bản được in từ năm 1917 và là bản được lưu giữ đầy đủ nhất hiện
nay. Sách mang ký hiệu Paris.EFEO/VIET/A/Litt, 31 (1-26), khổ 28x16 [47, tr.20].
Từ năm 2002, Viện Sử học và Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, liên kết
với Nhà xuất bản Giáo dục đã cho dịch và xuất bản từng tập sách Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ tục biên. Năm 2004, tập I của sách Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ tục biên được in với 134 trang chữ tiếng Việt và 325 trang chữ Hán, khổ
18,5x28, số lượng là 1000 cuốn. Tiếp sau đó là các tập tiếp theo từ tập II đến tập X
được in từ năm 2004 đến năm 2012.
Mặc dù những ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
không chi tiết như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ song bộ sách cũng phản ánh
khá đầy đủ các hoạt động của triều Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX (từ 1852 đến 1889)
1 Ngoài quyển Mục lục gồm các bản Sớ, Tấu của các triều Thành Thái (5 bản), Duy Tân (1 bản) và Khải Định (1 bản) về việc biên soạn và in ấn. Nội dung của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên gồm các quyển sau đây: Tập I: Chỉ dụ, sớ tấu, phàm lệ, Phủ Tôn Nhân, Viện Cơ Mật, (quyển 1 và quyển 2), 134 trang chữ tiếng Việt và 325 trang chữ Hán.
- thời kỳ làm vua của Tự Đức (1848-1883), Dục Đức (1883), Hiệp Hòa (1883), Kiến Phúc (1884), Hàm Nghi (1885) và Đồng Khánh (1886-1889)1.
27
Là phần tiếp theo của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, vậy nên bộ sách
tiếp tục trình bày về tổ chức, nhân sự, quan lại, phẩm trật, vị trí, vai trò, nhiệm vụ
chức năng của Vũ khố. Theo đó, Vũ khố được trình bày riêng trong quyển thứ 55,
phản ánh tương đối đầy đủ từ cơ cấu tổ chức, nhân sự cho đến các hoạt động thu
chi, cất giữ của Vũ khố giai đoạn từ 1852 đến 1884.
Ngoài ra, Vũ khố mà còn được đề cập trong các quyển về Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ
Hình, Bộ Lễ, Bộ Công trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên.
1.2.7. Đại Nam điển lệ toát yếu
Đại Nam điển lệ toát yếu là cuốn sách ghi vắn tắt về công việc của 6 Bộ triều
Nguyễn (sách tóm lược những điều cốt yếu của nước Đại Nam). Sách được biên
soạn trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ tục biên.
Bộ sách được các triều thần trong Nội các nhà Nguyễn là Lê Minh Yến,
Trương Du, Đỗ Đức Biểu biên tập, Đỗ Quang Đình, Trần Huy Chước hiệu đính, và
được in năm Duy Tân thứ 3 (1909).
Theo thống kê trong tập I sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,
Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris (Pháp) lưu trữ 7 bản Hán văn khác nhau1.
Bản dịch tiếng Việt đầu tiên của Đại Nam điển lệ toát yếu do Nguyễn Sĩ
Tập II: Bộ Lại (từ quyển 3 đến quyển 10), 270 trang chữ tiếng Việt và 697 trang chữ Hán. Tập III: Bộ Hộ (từ quyển 11 đến quyển 16), 235 trang chữ tiếng Việt và 629 trang chữ Hán. Tập IV: Bộ Lễ (từ quyển 17 đến quyển 22), 211 trang chữ tiếng Việt và 593 trang chữ Hán. Tập V: Bộ Lễ (từ quyển 23 đến quyển 27), 264 trang chữ tiếng Việt và 684 trang chữ Hán. Tập VI: Bộ Lễ (từ quyển 28 đến quyển 33), 240 trang chữ tiếng Việt và 652 trang chữ Hán. Tập VII: Bộ Binh (từ quyển 34 đến quyển 37), 174 trang chữ tiếng Việt và 446 trang chữ Hán. Tập VIII: Bộ Hình (từ quyển 38 đến quyển 43), 337 trang chữ tiếng Việt và 838 trang chữ Hán. Tập IX: Bộ Công (từ quyển 44 đến quyển 49), 154 trang chữ tiếng Việt và 422 trang chữ Hán. Tập X: Nội Các, Đô Sát Viện, Đại Lý Tự, Thị Vệ Xứ và Cẩm Tín Ty, Phủ Nội vụ, Vũ Khố, Thương Trường, Khâm Thiên Giám, Nha Phụng Hộ, Nha Thông Bảo, Nha Hộ Thành (từ quyển 50 đến quyển 60), 284 trang chữ tiếng Việt và 510 trang chữ Hán. 1 Gồm các bản: 1) VHv. 1684/1-5: 594 tr, 28x16 (Bản này có 2 quyển trùng nhau, là Lễ lệ); 2) VHv. 2412- 2415, VHv. 774/1-3: 484 tr, 28x16; 3) Paris. EE0. VIETAHist. 33/1-3; 4) VHv. 2074: 110 tr, 28x16 (thiếu); 5) VHv. 2075: 138 tr, 28x16 (thiếu); 6) VHv. 1553/1-3: 346 tr, 28x16 (thiếu); 7) VHv. 33/1-2: 484 tr, 28x16 (thiếu) [47, tr.481-482].
Giác dịch và được xuất bản năm 1962 bởi Đại học Sài Gòn và Nhà in Tôn Thất Lễ,
28
sau đó được tái bản vào năm 1993 do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản.
Đại Nam điển lệ toát yếu tóm tắt các điều lệ của bộ Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ (262 quyển), có bổ sung các luật lệ mới. Bên cạnh nhiệm vụ ghi vắn tắt
về công việc của 6 Bộ triều Nguyễn, trong phần đầu của Đại Nam điển lệ toát yếu
khi nói về các Phủ, Viện, Bộ, Các đã đề cập đến nhiệm vụ, chức trách, phẩm trật
quan lại ở Vũ khố một cách sơ lược nhất.
Ngoài ra, Vũ khố còn được đề cập trong các quyển về Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ
trong Đại Nam điển lệ toát yếu.
1.2.8. Đại Nam nhất thống chí
Theo Hán Việt từ điển giản yếu, Chí là sách biên chép các sự vật như địa chí
[3, tr.134]. Có thể hiểu rằng, địa chí hay địa phương chí là những ghi chép tường
tận về các mặt cương vực, hình thế, phong tục… cho đến ruộng đất, hộ khẩu, nhân
vật của một địa phương. Có sách huyện chí chép về một huyện, có sách phủ chí
chép về một phủ, có sách thông chí chép về một tỉnh, lại có sách nhất thống chí
chép về toàn quốc. Việc ghi chép đó nhằm mục đích tìm hiểu mọi mặt các địa
phương để phục vụ cho công việc quản lý, cai trị địa phương của các cấp chính
quyền từ trung ương đến địa phương.
Đến triều Nguyễn, năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai Thượng thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn bộ Nhất thống dư địa chí1. Dưới triều Tự Đức, Quốc Sử quán biên soạn ra Đại Nam nhất thống chí2. Năm Duy Tân thứ 3 (1909), Quốc sử
quán triều Nguyễn soạn lại bộ Đại Nam nhất thống chí mới, khác với bộ Đại Nam
nhất thống chí soạn từ đời Tự Đức được gọi là Đại Nam nhất thống chí cũ. Đại
Nam nhất thống chí mới chỉ nói về các tỉnh thuộc Trung Kỳ, còn đất Nam Kỳ bị coi
là thuộc địa Pháp, đất Bắc Kỳ là đất bảo hộ của Pháp không hề được nói đến.
Đại Nam nhất thống chí là một cuốn sách tổng hợp đầy đủ địa chí các tỉnh và
1 Sách Nhất thống dư địa chí gồm 10 quyển được Lê Quang Định hoàn thành vào năm 1806, ghi chép về giới hạn bờ või, sông biển nguồn lạch, cho đến cầu cống chợ điếm, phong tục thổ sản của cả nước Việt Nam từ Kinh sư vào Nam đến Hà Tiên, ra Bắc đến Lạng Sơn. [78, tr.684]. 2 Năm Nhâm Ngọ (1882), bản thảo sách Đại Nam nhất thống chí được làm xong. [85, tr.533].
đơn vị hành chính tương đương của nước Đại Nam nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế
29
kỷ XX. Đại Nam nhất thống chí được chia ra các mục như: phương vị, phân dã,
kiến trí, duyên cách, phủ huyện, hình thế, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ
khẩu, điền phú, sơn xuyên, quan tấn, dịch trạm, thị lập, từ miếu, tự quán, phân việt,
thổ sản… Ngoài ra, Đại Nam nhất thống chí còn có những quyển chép riêng về Cao
Miên (Campuchia), Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Vạn Tượng.
Theo thống kê trong tập I, sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu,
hiện nay, bản in chữ Hán Đại Nam nhất thống chí gồm có các bản in và các bản
chép tay được lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Khoa học và Thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris (Pháp)1.
Bản in chụp bộ Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn
công bố năm Duy Tân 3 (1909) do Hội Nghiên cứu Đông Dương của Nhật Bản tiến
hành tại Tokyo vào năm Chiêu Hòa 16 (1941) gồm 2 bản: 1) VHv.1571 a/1-7; 2)
VHv.196/1-9: 956 tr, 28x16 [46, tr.489-490].
Đối với bản in tiếng Việt, hiện nay Đại Nam nhất thống chí có bốn bản in
đang được lưu hành:
Từ năm 1959 đến năm 1970, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục thuộc
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lần lượt dịch và xuất bản từng tỉnh hoặc từng phần riêng lẻ của bộ Đại Nam nhất thống chí2.
Một bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính kéo dựa vào
1 Gồm các bản sau: 1) A.853/1-8: 1718 tr., 28x16; 2) A .69/1-12: 2818 tr., khổ 30x16; 3) VHv.1571/1-8: 1572 tr., 28x16; 4) VHu.170811-15: 1572 tr., 28x16; 5) VHu.1814/1-2: 1890 tr., 21x15; 6) Paris.EFEO. VIET/A/Geo. 1 (1-8); 7) Paris.EFEO. VIET/A. Geo.2 (1-11); 8) Paris.EFEO. VIET/A. Geo.3 (1-15); 10) Paris.BN.A. 70 vietnamien. 2 Cụ thể như sau: Lục tỉnh Nam Việt (thượng) xuất bản năm 1959, do Tu trai Nguyễn Tạo dịch. Lục tỉnh Nam Việt (thượng) trình bày địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế… của các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa. Lục tỉnh Nam Việt (tập hạ), xuất bản năm 1959, do Tu trai Nguyễn Tạo dịch, 126 trang. Lục tỉnh Nam Việt (tập hạ) trình bày về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế… của các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Thanh Hóa (thượng), do Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, xuất bản năm 1960 với 122 trang nội dung. Thanh Hóa (hạ) do Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, xuất bản năm 1960 với 177 trang nội dung. 2 tập Thanh Hóa (thượng) và Thanh Hóa (hạ) đề cập đến địa thế, diện tích, cảnh quan, nhân khẩu, đất đai, phong tục, danh thắng của tỉnh Thanh Hóa. Tập X: Thừa Thiên Phủ (thượng) xuất bản năm 1961 do Tu trai Nguyễn Tạo dịch.
bản HV.140 của Thư viện Viện Sử học và bản A.69 của Thư viện Khoa học, kéo dài
30
từ năm 1969 đến năm 1971, sau đó được xuất bản thành 5 tập do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản1.
Năm 1992, Nhà xuất bản Thuận hóa hợp tác với Viện Sử học trên cơ sở bản
dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính đã cho tái bản lần thứ nhất bộ
Đại Nam nhất thống chí với khoảng hơn 2.500 trang nội dung, khổ 13x19cm.
Năm 2006, Nhà xuất bản Thuận hóa hợp tác với Viện Sử học tiếp tục tái bản
lần thứ 2 bộ sách Đại Nam nhất thống chí với khoảng 2.558 trang nội dung, khổ
13x19cm.
Ngoài ba bản dịch kể trên, năm 2004, Hoàng Văn Lâu dựa trên những kết
quả khảo sát, nghiên cứu, dịch thuật của các nhà Sử học, Hán Học, Thư tịch học…
đi trước, đã dịch lại bộ Đại Nam nhất thống chí theo bản khắc in năm 1910, kí hiệu
A.853 và bản chép tay A.69 lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sau đó, bản dịch
này được Nhà xuất bản Lao động kết hợp với Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây xuất
bản thành 2 tập vào năm 2012, với gần 2.000 trang nội dung, khổ 16x24cm.
Đại Nam nhất thống chí là bộ sách tổng hợp đầy đủ địa chí các tỉnh, do các
thế hệ tác giả góp công góp sức biên soạn, hiệu chỉnh, bổ sung, chỉnh lý, cuối cùng
được trùng tu và khắc in vào năm 1910. Đại Nam nhất thống chí là kho sử liệu
phong phú để nghiên cứu về đất nước Việt Nam thời Nguyễn.
Vũ khố được mô tả trong Đại Nam nhất thống chí với các thông tin từ vị trí,
cho đến các cơ sở kho tàng, xưởng sản xuất vũ khí của Vũ khố trong kinh thành
1 5 tập do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản gồm: Tập I: Những tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế... của Kinh sư và phủ Thừa Thiên, với 319 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập II: Những tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế... của các tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tĩnh, tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Nam, Quảng Ngãi, với 427 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập III: Khái quát về địa thế, diện tích, cảnh quan, nhân khẩu, đất đai, phong tục, danh thắng của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Hà Nội, Ninh Bình, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương với 444 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập IV: Khái quát về đặc điểm địa hình, cảnh quan, diện tích, dân số, danh thắng, sản phẩm, phong tục, tập quán sinh hoạt của các tỉnh Quảng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, với 410 trang nội dung, khổ 19x13cm. Tập V: Ghi lại lịch sử địa hình, phong tục, hộ khẩu… của các tỉnh Hà Tiên, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Gia Định với 378 trang nội dung, khổ 19x13cm.
Huế. Vũ khố nằm ở phía nam phường Liêm Năng, phía đông giáp vườn Tịnh Tâm,
31
phía tây giáp cung Khánh Ninh và “Ngự lộ”, phía bắc giáp Tiền khố (tức kho tiền),
phía nam giáp miếu Thanh Thần Tướng quân.
Tiểu kết chương 1
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Vũ khố đóng vai trò là một cơ quan sản
xuất vũ khí và tích chứa nguyên vật liệu. Vũ khố triều Nguyễn có tiền đề là Ty Lệnh
sử Đồ gia thời chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh, trải qua hai giai đoạn phát triển là
Ngoại Đồ gia (1802-1820) và Vũ khố (1820-1884). Trên cơ sở của Ty Lệnh sử Đồ
gia, tham chiếu các mô hình tượng cục của những triều đại trước đó, Gia Long và
các vua kế vị đã cố gắng xây dựng Vũ khố trong giai đoạn 1802-1884 ngày càng
hoàn thiện hơn, trở thành cơ quan quản lý cấp trung ương phụ trách mảng kho tàng
- quân nhu của cả nước cùng với Nội Vụ phủ, Thương trường và Mộc thương.
Hiện còn có một khối lượng tương đối phong phú các nguồn sử liệu về Vũ
khố triều Nguyễn (1802-1884), từ các văn bản hành chính như Chiếu, Chỉ, Dụ,
Sắc… được ghi chép lại trong Châu bản, Ngự chế văn, đến các nguồn tư liệu Thông
sử, Hội điển, Chí (Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất
thống chí...) ra đời trong quá trình vận động của nhà nước phong kiến cuối cùng
trong lịch sử dân tộc.
Trong các nguồn sử liệu phản ánh về Vũ khố, Châu bản là nguồn tài liệu
xuất hiện sớm nhất và kéo dài nhất (1802-1945). Tiếp đến lần lượt là các nguồn tư
liệu như Ngự chế văn (1820-1840), Đại Nam thực lục (1821-1939), Minh Mệnh chính
yếu (1837-1840), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1843-1855), Đại Nam nhất
thống chí (1864-1909), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (1889-1895). Và
cuối cùng là Đại Nam điển lệ toát yếu (1909). Như vậy, nguồn sử liệu phản ánh về
Vũ khố có khung thời gian biên soạn rõ ràng, tập trung vào thời kỳ Vũ khố được
nghiên cứu. Các thông tin về Vũ khố được phản ánh trong các nguồn sử liệu tương
đối da dạng từ bộ máy tổ chức, cơ cấu nhân sự, chức năng, nhiệm vụ, quy chế vận
hành cho đến các hoạt động sản xuất, bảo quản vũ khí… Dù vậy, các thông tin đó lại
nằm rải rác trong nhiều tập, nhiều phần khác nhau của những nguồn sử liệu.
32
Chương 2: PHÂN LOẠI SỬ LIỆU VỀ VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN
(GIAI ĐOẠN 1802-1884)
Phân loại sử liệu một cách khoa học, xác đáng nhằm làm nổi bật tính đặc thù,
đồng thời chỉ ra cách thức sử dụng đúng đắn, hiệu quả đúng là không hề đơn giản vì
mỗi loại hình sử liệu đều có những đặc điểm và quá trình hình thành, phát triển khác
nhau. Trước khối tư liệu tương đối lớn và phong phú về Vũ khố triều Nguyễn,
chúng tôi áp dụng cách phân loại theo đặc trưng phản ánh để nghiên cứu giá trị của
nguồn sử liệu. Trên cơ sở phân tích về mặt hình thức và nội dung của từng nguồn sử
liệu, chúng tôi rút ra giá trị sử liệu cũng như bước đầu đưa ra cách thức xử lý đối
với từng nguồn sử liệu.
2.1. Sử liệu trực tiếp
Theo Marceli Handelsman, sử liệu trực tiếp “là những dấu vết trực tiếp của
sự tồn tại và hành động của con người trong quá khứ còn lại” [121, tr.85]. Như vậy,
có thể hiểu sử liệu trực tiếp là một bộ phận của sự kiện, trực tiếp tham gia vào sự
kiện, cung cấp những thông tin trực tiếp về sự kiện lịch sử. Trong số các nguồn sử
liệu chữ viết về Vũ khố triều Nguyễn (1802-1884), thì Châu bản và Ngự chế văn là
sử liệu trực tiếp, bởi đây chính là các văn bản hành chính như Chiếu, Chỉ, Dụ, hình
thành trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với Vũ khố, phản ánh trực tiếp quá trình
chỉ đạo, giám sát, quản lý của triều Nguyễn đối với hoạt động của cơ quan này.
2.1.1. Châu bản triều Nguyễn
Châu bản là một loại văn bản quản lý hành chính nhà nước của triều
Nguyễn, mang dấu ấn đương thời. Đối với Vũ khố, đây là nguồn sử liệu trực tiếp để
nghiên cứu.
BẢNG 2.1. THỐNG KÊ CÁC CHỈ DỤ ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ
QUA CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN
STT
NGÀY THÁNG
NỘI DUNG
NGUỒN
LOẠI VĂN BẢN
1
Chiếu
Thăng bổ quan lại
[14, tr.596]
2
Chiếu
2 tháng 9 năm Minh Mệnh 1 (1820) Ngày 24 tháng 9
Thăng bổ quan lại
[14, tr.613]
33
3
Tấu
Bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân sự quan lại ở Vũ khố
[14, tr.969- 970]
4
Tấu
[13, tr.564- 565]
Vũ khố cung cấp vũ khí, đạn dược cho các tỉnh thành trong cả nước
5
[10, tr.53]
Tấu
Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng
năm Minh Mệnh 1 (1820) 29 tháng 2 năm Minh Mệnh 5 (1824) 4 tháng 4 năm Minh Mệnh 7 (1826) Ngày 24 tháng 10 năm Tự Đức 10 (1857)
6
[10, tr.81]
Dụ
Ngày 6 tháng 10 năm Tự Đức 12 (1859)
Vua Tự Đức ban thưởng cho quan lại và thợ chế tạo vũ khí, đạn dược theo kiểu phương Tây
7
[10, tr.81]
Dụ
Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng
8
[10, tr.141]
Tấu
Vũ khố chế tạo vũ khí, thuốc súng
Ngày 9 tháng 10 năm Tự Đức 12 (1859) Ngày 14 tháng 6 năm Tự Đức 21 (1868)
Các loại hình văn bản liên quan đến Vũ khố bao gồm Chiếu, Tấu, Dụ, tức là
“công văn” hai chiều, một từ phía đội ngũ quan lại báo cáo, đề đạt lên trên, và một
bên là quan điểm chỉ đạo của vua từ trên xuống. Vì vậy, trước hết, nguồn Châu bản
phản ánh một cách trực tiếp phần nào hoạt động của Vũ khố ở khía cạnh hành
chính, cũng như vị trí của Vũ khố trong bộ máy quản lý nhà nước, và quan điểm của
người đứng đầu Nhà nước về phía hoạt động của cơ quan này.
Thông tin lịch sử liên quan đến Vũ khố trong Châu bản, như bảng thống kê ở
trên đã chỉ ra, tập trung vào hai khía cạnh chính là bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân
sự, thăng thưởng quan lại ở Vũ khố và hoạt động sản xuất vũ khí của cơ quan này.
Theo Châu bản tờ số 82, tập VIII, năm Minh Mệnh 5 (1824), Ty Thanh thận thuộc
Vũ khố được vua Minh Mệnh chuẩn tấu cho phép tăng thêm 2 viên Chủ sự trật
Chánh lục phẩm, 1 viên Thư lại Chánh bát phẩm. Những viên quan được xét đều là
người “làm việc lâu năm lại siêng năng, cẩn thận” [14, tr.969-970].
34
Bên cạnh việc tăng thêm số lượng nhân sự ở Vũ khố, Châu bản còn cho biết
năm Canh Thìn (1820), một số viên quan ở Vũ khố sau một quá trình thực hiện tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao thường được thăng chức làm quan ở Bộ Công như
Cai bạ Đồ gia Trần Đăng Nghi được thăng chức làm Thiêm sự Bộ Công, tước Nghi
Lễ hầu [14, tr.596], hay Câu kê Nguyễn Công Liệu được thăng làm Thiêm sự Bộ
Công, tước Liêu Hòa hầu [14, tr.613].
Vũ khố là nơi chế tạo, đúc mẫu các loại vũ khí khác nhau, vậy nên Châu bản
đã nhiều lần đề cập đến hoạt động của cơ quan này. Năm Đinh Tỵ (1857), Vũ khố
cùng với Bộ Binh đã chế tạo thành công loại Pháo xa theo kiểu Tây Dương để trang
bị cho các thuyền tuần tiễu ngoài biển [10, tr.53]. Cũng trong năm này, Vũ khố tiếp
tục chế tạo thành công và đưa vào sử dụng một số loại vũ khí, đạn dược mới như
hỏa chiến chúc, hỏa đầu dầu chúc, phi hoa, chấn thuyền lôi [10, tr.53]. Tiếp đó, năm
Mậu Thìn (1868), Vũ khố chế tạo thêm 300 khẩu súng đại bác Quá sơn [10, tr.141].
Để khuyến khích hoạt động này, vua Tự Đức thường xuyên ban thưởng cho
những người có công chế tạo vũ khí, đặc biệt trong các lần chế tạo vũ khí kiểu
phương Tây. Năm Kỷ Mùi (1859), đội thợ súng sau khi đúc thành công súng “tam
đoạn loa cơ đồng pháo” [10, tr.81], hay những lần luyện chế thuốc súng loại nhỏ, thí
nghiệm tốt không khác thuốc súng của Châu Âu [10, tr.53] đều được ban thưởng.
Điều này chứng tỏ triều đình Huế rất quan tâm đến thợ sản xuất binh khí nhằm phục
vụ cho nhu cầu quân sự của Nhà nước.
Ngoài việc sản xuất, chế tạo vũ khí, Vũ khố còn có nhiệm vụ cấp phát vũ khí
cho các địa phương trong cả nước. Theo Châu bản ngày 4 tháng 4 năm Minh Mệnh
7 (1826), Vũ khố cấp cho tỉnh Bình Định 200 khẩu súng điểu thương, 40.000 viên
đạn chì, 200 cái túi da đựng thuốc súng, 5 lá cờ ngũ hành, 40 cờ đuôi nheo… [13,
tr.564]. Đến thời Tự Đức, Vũ khố cùng với Ty Pháo đội đã chế tạo 400 cái ống
đồng phun lửa (phi hỏa đồng) để cung cấp cho quân lính ở Quảng Nam và Gia Định
[10, tr.81].
Cùng với các hoạt động chế tạo, sản xuất, cung cấp vũ khí, Vũ khố còn chế
tạo các dụng cụ, đồ nghi trượng cho triều đình và hoàng thất. Theo đó, tháng 6 năm
Bính Tý (1816), Ngoại Đồ gia đã chế tạo mẫu một số đồ nghi trượng: kiệu đề lư,
35
hộp hương, quạt lông, tán, lọng, phất trần… cho bộ phận đường quan ở Bộ Binh
[14, tr.231].
Với tư cách văn bản quản lý hành chính nhà nước của triều Nguyễn, mang
dấu ấn đương thời, có độ tin cậy cao, vậy nên Châu bản là một nguồn sử liệu hết
sức quý giá để nghiên cứu về lịch sử và văn hóa cũng như toàn bộ hoạt động của
triều đình và đời sống xã hội thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX. Và Châu bản cũng là
nguồn tài liệu để biên soạn các bộ sách như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,
Minh Mệnh chính yếu…
2.1.2. Ngự chế văn
Ngự chế văn là nguồn sử liệu trực tiếp. Những đạo dụ liên quan đến Vũ khố
trong sách này chính là những văn bản do vua Minh Mệnh ban ra, phản ánh quan
điểm của vị vua này đối với Vũ khố, đồng thời cung cấp những thông tin trực tiếp
về hoạt động quản lý của nhà nước đối với cơ quan này.
BẢNG 2.2. THỐNG KÊ CÁC DỤ CỦA VUA MINH MỆNH
ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ QUA NGỰ CHẾ VĂN
1
Dụ Trần Đăng Long ở Vũ khố
STT NỘI DUNG BẢN DỤ NGUỒN TÊN BẢN DỤ NGÀY THÁNG
Ngày 5 tháng 8 năm Minh Mệnh 4 (1823)
2
Dụ Bộ Hộ
Ngày 24 tháng 2 năm Minh Mệnh 9 (1828)
[72, tr.110]
3
Dụ Bộ Hình
Ngày 16 tháng 1 năm Minh Mệnh 12 (1831)
[72, tr.258- 259]
4
Dụ Bộ Binh
Ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 17 (1836)
Thưởng cho quan Trần Đăng Long và thợ ở Vũ khố sau khi Vũ khố chế tạo thành công súng điểu thương Dụ của vua Minh Mệnh cho Vũ khố về việc sắp xếp, bảo quản nguyên vật liệu Dụ của vua Minh Mệnh về việc trừng phạt quan lại trông coi kho Vũ khố phạm tội tham ô và gian lận Dụ của vua Minh Mệnh về hoạt động sửa chữa vũ khí ở Vũ khố
[72, tr.320- 322]
[72, tr.339- 340]
Khác với sử liệu liên quan đến Vũ khố trong Châu bản, ở Ngự chế văn hoàn
toàn là các đạo dụ của vua Minh Mệnh, thể hiện thái độ, quan điểm, chỉ đạo cụ thể
36
của người đứng đầu chính quyền nhà nước đương thời đối với hoạt động của cơ
quan này. Theo nghiên cứu của Vũ Thị Phụng, các Dụ thời Nguyễn thường nặng về
bắt buộc, do đó Dụ còn là căn cứ pháp luật để nhà nước tiến hành các biện pháp
trừng phạt, cưỡng chế [72, tr.88]. Tuy vậy, điểm thú vị là các đạo dụ ở đây cũng
liên quan đến hai vấn đề được phản ánh tập trung trong Châu bản là nhiệm vụ của
Vũ khố và vấn đề nhân sự, thăng thưởng.
Trước hết, Ngự chế văn cung cấp thông tin về Dụ ban thưởng của vua Minh
Mệnh cho quan lại và thợ ở Vũ khố sau khi chế tạo thành công súng điểu thương
vào ngày 5 tháng 8 năm Minh Mệnh 4 (1823). Ngự chế văn chép: “Súng Điểu
thương dùng thuốc đạn loại mạnh mới chế là súng do nước ngoài mới chế tạo được,
mà thợ của Vũ khố cũng theo dụ chỉ làm được theo đúng kiểu đó, thật đáng khen
thưởng. Vậy truyền thưởng cho Vũ khố 100 quan tiền và giao cho Trần Đăng Long
thưởng đến tận tay các thợ giỏi, để tỏ rõ sự khen thưởng khuyến khích. Lại lệnh cho
các thợ đều phải trau dồi nghề nghiệp làm cho kỹ nghệ tinh xảo, sẽ có ban thưởng”
[44, tr.110]. Theo đó, sau khi chế tạo thành công súng Điểu thương theo cách thức
của nước ngoài, thợ ở Vũ khố được thưởng 100 quan tiền. Điều này cho thấy sự
quan tâm của người đứng đầu đất nước đối với hoạt động sản xuất vũ khí ở Vũ khố,
mặt khác cho thấy kỹ thuật đúc súng nói riêng, kỹ thuật quân sự thời Minh Mệnh
nói chung tương đối phát triển. Bên cạnh việc khen thưởng, Minh Mệnh cũng mong
muốn thợ ở Vũ khố cũng cần phải luôn luôn trau dồi tay nghề nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Bên cạnh Dụ về chế tạo vũ khí và khen thưởng các thợ ở Vũ khố, vua Minh
Mệnh còn ban một số Dụ về việc sửa chữa và bảo quản vũ khí ở Vũ khố. Tháng 7
năm Bính Thân (1836), thợ sửa chữa và quan lại trông coi làm việc cẩu thả, tắc
trách khi sửa chữa gần 1000 cây súng Điểu thương cũ, do đó đều bị trách phạt nặng.
Ngự chế văn ghi: “Vào tháng 3, trẫm có sai mang gần 1.000 cây điểu thương cũ ở
trong kho ra sửa chữa để khi cần thì dùng. Ngày hôm nay được báo đã sửa xong,
trẫm sai lấy mấy cây trình xem, thấy bề ngoài còn trông được, nhưng đến khi tháo
súng ra xem thì ống đồng cũng rời theo luôn. Rõ ràng là thợ làm cẩu thả tắc trách
mà đến đốc công trông coi, thị vệ nhắc nhở đều không để ý kỹ, nên súng không
37
chắc chắn, khó có thể dùng được. Vậy, ngoài việc đã cho lấy gậy đánh đòn ngay
bọn y và thợ sửa chữa ra, trẫm vẫn nghĩ những cây súng chưa được trình xem khó
đảm bảo được là đều chắc chắn. Vậy truyền cử 1 đường quan Bộ Binh, một viên
sung vào làm việc ở Nội các, tới Vũ khố lấy từng cây điểu thương mới được sửa
chữa ra kiểm tra, nếu có chỗ còn chưa tốt thì tâu rõ sự thực để trừng trị không chút
khoan dung, và còn chiếu theo từng loại bắt bồi thường” [44, tr.340-341].
Qua Dụ này cho thấy, vua Minh Mệnh rất quan tâm, chú ý đến việc bảo quản
vũ khí. Trong quá trình sửa chữa các loại vũ khí, triều đình yêu cầu phải cẩn thận,
nghiêm túc không được phép làm một cách chiếu lệ.
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại trong triều đình, ngày 9 tháng 11
năm Minh Mệnh 11 (1830), trong lời Dụ của vua Minh Mệnh đã phản ánh về việc
bầu hay giới thiệu quan lại giữ chức Chủ thủ ở Vũ khố nói riêng và các kho tàng
trong Kinh thành phải có năng lực làm việc. Theo bản Dụ này, viên quan Lang
trung Bộ Công Đoàn Văn Phú trước giới thiệu Lê Văn Đức, An Thắng nhưng đều là
những viên quan bình thường, hiểu biết thô sơ, vì vậy Đoàn Văn Phú bị giáng
xuống làm Đốc công Vũ khố [44, tr.310].
Bên cạnh đó, Ngự chế văn còn cho biết đối với quan lại tham ô, gian dối ở
Vũ khố bị trừng trị rất nặng. Tân Mão (1831), Thư lại Vị nhập lưu Hoàng Hữu
Nhận làm giám thủ coi kho ở Vũ khố bị phát hiện tham ô. Vua Minh Mệnh đã “lệnh
cho cho Cẩm y vệ áp giải tội phạm chính là Hoàng Hữu Nhận đến đầu cửa Vũ khố
treo cổ cho đến chết” để nhằm “cảnh cáo kẻ coi thường phép nước, lừa dối vua”
[44, 320-322]. Ngoài ra, những viên quan ở Vũ khố có liên quan cũng bị trừng phạt
theo các mức độ khác nhau. Theo đó “kẻ cùng soạn nhưng không đưa lên là thứ
phạm Dương Trọng Túc, truyền cùm chặt 2 tháng, hết hạn đánh 100 gậy đỏ, đưa đi
làm lính ở đồn canh phòng Ai Lao. Năm tên đồng sự nhưng hôm ấy không can dự là
Tư vụ Lê Viết Chiêm, Thư lại Chánh cửu phẩm Phạm Văn Tố, Thư lại Vị nhập lưu
Trần Mậu Tuấn, Nguyễn Khiêm Thống và Lê Văn Thuật, đều truyền cắt bỏ chức
dịch, cùm chặt 1 tháng, hết hạn đánh 100 gậy, đưa đến làm lính ở phủ Thừa Thiên”
[44, 320-322]. Điều này cho thấy, dưới triều Nguyễn nói riêng, các triều đại khác
nói chung, các kho của Nhà nước như phủ Nội vụ, Vũ khố và các kho ở trong Kinh
38
thành hay ngoài thành, phần lớn đều xảy ra tình trạng tham ô, lừa dối. Mặt khác,
cho thấy pháp luật triều Nguyễn tương đối hà khắc.
* *
*
Nguồn sử liệu trực tiếp mặc dù mức độ thông tin không lớn, lại chỉ tập trung
ở một vài khía cạnh như hoạt động sản xuất vũ khí, thăng bổ quan lại nhưng tất cả
đều có độ tin cậy, đảm bảo tính chính xác cao, đã cung cấp những thông tin trực tiếp
về Vũ khố từ cơ cấu nhân sự, hoạt động sản xuất và bảo quản vũ khí cho đến việc
khen thưởng những người có công hay trừng phạt những người tham ô, vi phạm
pháp luật… Từ những thông tin này cho thấy đây chính là những sinh hoạt thường
ngày ở Vũ khố.
2.2. Sử liệu gián tiếp
Theo Handelsman, “sử liệu gián tiếp là những tài liệu để nhớ những thời đại
đã qua” [121, tr.85]. Như vậy có thể hiểu sử liệu gián tiếp là nguồn tài liệu không
trực tiếp tham gia vào sự kiện, thường ra đời sau sự kiện lịch sử. Nó cung cấp
những thông tin gián tiếp về sự kiện bởi giữa nhà nghiên cứu và lịch sử có vai trò
trung gian của tác giả sử liệu. Những sách chính sử, địa chí, những ghi chép trong
hội điển chính là những nguồn sử liệu gián tiếp về lịch sử Vũ khố triều Nguyễn giai
đoạn 1802-1884.
2.2.1. Đại Nam thực lục
Đại Nam thực lục có thể coi là một trong số những nguồn sử liệu phản ánh
nhiều nhất, đầy đủ nhất về Vũ khố xét từ góc độ số lần đề cập cũng như các khía
cạnh phản ánh và lượng thông tin được phản ánh.
39
BẢNG 2.3. THỐNG KÊ SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884) QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC1
SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ
STT TRIỀU VUA
THỜI GIAN
Tỷ lệ (%)
Tổng số
Cơ cấu tổ chức + nhân sự
Lƣơng bổng, phẩm trật, công đƣờng, ấn tín, quan phục
Hoạt động sản xuất vũ khí, đúc tiền
Thanh tra, hoạt động khác
10
4
2
2
2
1
Gia Long
6,50
1802- 1819
100%
20%
40%
20%
20%
92
16
6
48
22
2
Minh Mệnh
59,74
1820- 1840
100%
19,39%
6,52%
23,91%
50,18
17
0
0
12
5
3
Thiệu Trị
11,04
1841- 1847
100%
0%
0%
29,41
70,59
31
2
1
21
7
4
Tự Đức
20,13
1848- 1883
100%
6,45%
3,22%
22,58%
67,75%
4
2
1
1
0
5
Kiến Phúc
1884
2,59
100%
50%
25%
25%
0%
154
24
10
84
36
6
Tổng số
100
100%
15,58
6,50
23,38
54,54
1 Nội dung chi tiết xem ở phần Phụ lục 1.
40
Qua bảng thống kê cho thấy, trong khoảng thời gian 83 năm từ 1802 đến
1884 có ít nhất 154 sự kiện liên quan đến Vũ khố đã diễn ra, trung bình khoảng
1,86/1 năm, tức là mỗi năm có gần 2 sự kiện liên quan đến Vũ khố được diễn ra.
Tuy nhiên, sự phân bố giữa các triều vua lại không đều. Những sự kiện liên quan
đến hầu hết các vấn đề từ tên gọi, cơ cấu nhân sự, cho đến phẩm trật cùng chức
năng, hoạt động của nha Vũ khố đã được ghi chép lại.
Nhìn một cách tổng quát, bản thân số lần đề cập đến Vũ khố trong Đại Nam
thực lục cũng đã phản ánh phần nào về hoạt động của cơ quan này trong giai đoạn
1802-1884. Từ bảng thống kê có thể thấy, dưới các đời vua triều Nguyễn đều có
những hoạt động liên quan quan đến Vũ khố, tuy nhiên sự phân bố giữa các triều
vua lại không đều.
Trong 154 sự kiện đó, thời vua Minh Mệnh có số sự kiện liên quan diễn ra
nhiều nhất, 92 sự kiện, chiếm 59,74%, tiếp đó lần lượt là đời vua Tự Đức (31 lần,
chiếm 20,13%), Thiệu Trị (17 lần, chiếm 11,04%), Gia Long (10 lần, chiếm 6,50%),
và thấp nhất là thời vua Kiến Phúc (4 sự kiện, chiếm 2,59%). Sự chênh lệch giữa số
sự kiện liên quan diễn ra nhiều nhất và ít nhất khoảng 24 lần.
Đi sâu phân tích cho thấy, thời Minh Mệnh mật độ sự kiện liên quan đến Vũ
khố diễn ra nhiều nhất, trung bình mỗi năm có khoảng 4,38 sự kiện, thấp nhất là
thời vua Gia Long, chỉ có 0,53 sự kiện, tức là khoảng trung bình gần 2 năm mới có
1 sự kiện liên quan đến Vũ khố được diễn ra.
Về mặt hoạt động, số liệu thống kê cho thấy các sự kiện liên quan đến hoạt
động thanh tra và các hoạt động khác diễn ra nhiều nhất với 84 lần, chiếm khoảng
54,54%, tiếp đó là các sự kiện liên quan đến hoạt động sản xuất vũ khí đúc tiền là
36 lần, chiếm 23,38%, sự kiện liên quan đến cơ cấu tổ chức và cơ cấu nhân sự diễn
ra 24 lần, chiếm 15,58%, thấp nhất là các sự kiện liên quan đến lương bổng, phẩm
trật, công đường, ấn tín, quan phục, chỉ chiếm có 6,5% (10 lần).
Từ bảng thống kê, khi đối chiếu với các thời kỳ trị vì của những vị vua triều
Nguyễn khác từ các sự kiện từ cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự cho đến hoạt động 41
thanh tra và các hoạt động khác, thời Minh Mệnh đều chiếm tỉ lệ cao nhất. Điều này
cho thấy hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn diễn ra sôi nổi nhất dưới thời Minh
Mệnh.
So sánh với các nguồn trực tiếp, rõ ràng Đại Nam thực lục là một nguồn sử
liệu phong phú, đa dạng hơn rất nhiều. Những thông tin trong đó phản ánh về mọi
mặt hoạt động của Vũ khố theo chiều lịch đại trong suốt một khoảng thời gian dài.
Chính vì vậy, đây là nguồn sử liệu cung cấp thông tin để phục dựng lại hình ảnh của
Vũ khố với những sự biến chuyển qua thời gian.
Chẳng hạn, dựa trên những thông tin có trong Đại Nam thực lục, nhà nghiên
cứu có thể tìm hiểu được tên gọi của Vũ khố và sự thay đổi tên gọi qua các thời kỳ,
từ Lệnh sử ty Đồ gia khi mới thành lập năm Đinh Tỵ (1617) dưới thời chúa Nguyễn
[78, tr.39], tới Ngoại Đồ gia sau khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn (1802), rồi Vũ
khố (1820) dưới thời Minh Mệnh [79, tr.39].
Tương tự, quá trình biến chuyển cơ cấu nhân sự ở Vũ khố cũng có khả năng
được phác dựng từ ghi chép của nguồn sử liệu gián tiếp này.
BIỂU ĐỒ: QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI NHÂN SỰ Ở VŨ KHỐ
TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
Qua biểu đồ cho thấy cơ cấu nhân sự Vũ khố triều Nguyễn liên tục có sự
thay đổi. Trong vòng hơn 80 năm (1802-1884), đã có ít nhất 10 lần cơ cấu nhân sự
Vũ khố có sự tăng giảm, biến động, trung bình khoảng 8 năm có 1 lần có sự thay
42
đổi. Điều này cho thấy, Vũ khố là một tổ chức động, chứ không hề bất biến, cứng
nhắc, có sự thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự diễn ra nhiều lần nhất là dưới triều vua
Minh Mệnh (5 lần), đặc biệt là trong 10 năm đầu cầm quyền của vị vua thứ 2 triều
Nguyễn: 5 lần, chiếm tới 50% sự thay đổi của toàn bộ cơ cấu nhân sự Vũ khố triều
Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Sự thay đổi này nhằm hướng tới một sự phù hợp hơn
trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn nói chung, nha Vũ khố nói riêng.
Trong cơ cấu nhân sự, năm 1828, Vũ khố có số lượng lớn nhất với 89 người,
năm 1884 thấp nhất là 29 người, chênh lệch 3,07 lần. Cơ cấu nhân sự Vũ khố có số
lượng lớn nhất vào thời vua Minh Mệnh bởi đây là thời kỳ triều đình Huế quản lý
trên một lãnh thổ rộng lớn và phù hợp với xu hướng mở rộng bộ máy quản lý hành
chính trung ương. Dưới thời Kiến Phúc (1884), cơ cấu nhân sự Vũ khố thu hẹp với
số lượng quan lại thấp nhất bởi vì vào giai đoạn này, triều Nguyễn chỉ trực tiếp
quản lý khu vực Trung Kỳ, còn Nam Kỳ là thuộc địa và Bắc Kỳ là đất bảo hộ của
Pháp.
Bên cạnh đó, Đại nam thực lục cũng phản ánh hoạt động sản xuất và vũ khí
ở Vũ khố.
BẢNG 2.4: HOẠT ĐỘNG CHẾ TẠO SÚNG, ĐẠN CỦA VŨ KHỐ
TRIỀU NGUYỄN (1802-1884) QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC
NĂM NGUỒN LOẠI SÚNG, ĐẠN ĐƢỢC CHẾ TẠO
1809 Súng Quá sơn [78, tr.868] TRIỀU VUA GIA LONG
1821 Súng đại bác Uy phúc [79, tr.111]
1822 Súng đồng hạng trung, hạng tiểu [79, tr.206]
1823 Súng tay kiểu Tây dương [79, tr.299]
MINH MỆNH 1824 Súng gang [79, tr.351]
1830 Súng bắn đạn Mẫu tử liên châu [80, tr.60]
1830 Súng gang Hồng y [80, tr.77]
43
[80, tr.520] 1833 Đạn liên tỏa hồ điệp
[81, tr.209] 1834 Pháo Xung tiêu đại đồng
[81, tr.358] 1834 Phá địch thượng tướng quân và Phá địch đại tướng quân
[81, tr.605] 1835 Liên can thiết đạn
[81, tr.796] 1835 Súng Điểu sang
[82, tr.551] 1839 Đạn Liên can và đạn Liên châu
[82, tr.822] 1840 Súng lớn Chấn hải
[82, tr.861] 1840 Súng “Xung tiêu” bằng đồng
1847 Đạn gang chấn địa lôi [83, tr.1002-1003]
THIỆU TRỊ 1847 Thần uy phục viễn đại tướng quân [83, tr.1032]
[84, tr.608] 1859 Chế súng đồng
[84, tr.618] 1859 Súng sắt máy Phật Lan
[84, tr.623] 1859 Súng Quá sơn và đạn
[84, tr.671] 1860 Súng đồng hạng lớn
[84, tr.709] 1861 Súng lớn (lòng súng 1 tấc)
TỰ ĐỨC [84, tr.1047] 1867 Quá sơn thần công
[84, tr.1341] 1872 Súng Quá sơn
1872 Súng Thần công và súng điểu thương [84, tr.1357]
1875 Súng Thần công ngắn [85, tr.138]
1876 Đạn bằng gang [85, tr.244] BẢNG 2.5: MẬT ĐỘ CHẾ TẠO VŨ KHÍ CỦA VŨ KHỐ DƢỚI CÁC TRIỀU VUA NGUYỄN
STT TRIỀU VUA
1 Gia Long MẬT ĐỘ (số lần/ 1 năm) 0,053
2 Minh Mệnh 0,667
3 Thiệu Trị 0,286
4 Tự Đức 0,263
5 Triều Nguyễn (1802-1884) 0,325
44
Trong vòng 83 năm, có ít nhất 27 lần Đại Nam thực lục ghi chép lại các hoạt
động chế tạo, sản xuất súng đại bác, súng tay và đạn ở Vũ khố. Như vậy, bình quân
khoảng 3 năm 1 lần, triều đình Huế lại cho phép Vũ khố đúc súng, đạn với quy mô
lớn nhỏ khác nhau. Điều này phản ánh tần suất hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí ở
Vũ khố diễn ra không quá nhộn nhịp.
Qua bảng số liệu 2.4 cho thấy, hoạt động chế tạo, sản xuất vũ khí của Vũ khố
diễn ra mạnh nhất dưới triều vua Minh Mệnh với 14 lần (chiếm 51,85%), tiếp đó
đến triều Tự Đức (10 lần, chiếm 37,05%), Thiệu Trị (2 lần, chiếm 7,4%), cuối cùng
là thời vua Gia Long, chỉ có 1 lần, chiếm 3,7%. Điều này phản ánh chính xác phần
nào tình hình kinh tế, xã hội dưới các triều vua Nguyễn. Dưới thời Minh Mệnh,
phong trào khởi nghĩa nông dân rộng khắp cả nước. Để ổn định tình hình đất nước
cũng như dập tắt các phong trào nông dân, nhà nước cần một số lượng lớn vũ khí,
đạn dược. Do đó, hoạt động sản xuất chế tạo vũ khí dưới thời Minh Mệnh diễn ra
với quy mô lớn, sôi nổi và nhiều nhất.
Trong những năm có hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí, năm 1859 hoạt động
sản xuất, chế tạo vũ khí diễn ra nhiều nhất (3 lần). Năm 1858, thực dân Pháp nổ
súng xâm lược Đại Nam, để có thể đảm bảo đủ vũ khí đạn dược chống Pháp, triều
đình nhà Nguyễn đã cho Vũ khố chế tạo các loại vũ khí như súng đại bác, súng điểu
thương, và các loại đạn dược tương ứng đi kèm. Do vậy, năm 1859 ở Vũ khố đã có
3 lần diễn ra hoạt động sản xuất chế tạo vũ khí.
Tiếp tục phân tích bảng 2.5 cho thấy mật độ chế tạo vũ khí giữa các triều vua
Nguyễn cho thấy, mật độ trung bình cao nhất diễn ra dưới triều vua Minh Mệnh,
trung bình 0,667 lần/1 năm. So sánh với các triều Thiệu Trị, Tự Đức, Gia Long, thời
Minh Mệnh, mật độ chế tạo vũ khí gấp 2,05 lần so với mật độ trung bình của triều
Nguyễn, và gấp lần lượt 2,33; 2,54; 12,58 lần.
Mặc dù súng, đạn được sản xuất tương đối nhiều, nhưng do trình độ kỹ thuật
còn thấp so với tiến bộ của khoa học quân sự thế giới nhất là đến thời vua Tự Đức
(1848-1883), Kiến Phúc (1884) nên hiệu quả sử dụng không lớn. Các viên đạn được
45
đúc ra cũng chỉ là những khối sắt, gang có kích cỡ phù hợp với nòng súng để thuốc
súng đẩy ra ngoài.
Một điểm cũng cần phải nhắc đến là với đặc điểm biên chép sử theo lối “thực
lục”, Đại Nam thực lục cũng đề cập, tóm tắt, thậm chí chép lại một số văn bản khác
có liên quan đến Vũ khố, chẳng hạn như Hội điển toát yếu. Trong khi chưa có bản
dịch phổ biến của sách Hội điển toát yếu, Đại Nam thực lục trở thành kênh để tiếp
cận với bộ điển lệ có sớm hơn cả trong khối điển lệ triều Nguyễn. Vì vậy, giá trị của
nguồn sử liệu này trong đề tài Vũ khố không chỉ dừng lại ở những sự kiện được biên
chép theo dòng thời gian. Tuy nhiên, chính vì đây chỉ là nguồn sử liệu gián tiếp nên
khi sử dụng, nhà nghiên cứu cần phải có sự so sánh, đối chiếu với những nguồn khác.
2.2.2. Minh Mệnh chính yếu
Thông tin về Vũ khố trong Minh Mệnh chính yếu chủ yếu gồm các đạo dụ
của vua Minh Mệnh liên quan đến hoạt động sản xuất của cơ quan này, cùng với lệ
về vấn đề nhân sự và một số ghi chép cụ thể khác.
BẢNG 2.6. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG
MINH MỆNH CHÍNH YẾU
STT
QUYỂN
THIÊN
TRANG
NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ
1
Quyển 4
Thiên thứ 6
Sự thay đổi tên gọi, chức quan và nhân sự Vũ khố
[77, tr.156, 158-159]
2
Quyển 5
Thiên thứ 7
[77, tr.214]
3
Quyển 10
Thiên thứ 10
[77, tr.762- 763]
4
Quyển 14
Thiên thứ 13
[77, tr.906]
5
Quyển 16
Thiên thứ 14
Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố trong việc sử dụng nguyên vật liệu Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố trong việc sử dụng nguyên vật liệu. Dụ của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố về việc sửa chữa vũ khí. Dụ của vua Minh Mệnh trừng trị quan lại tham ô ở Vũ khố
6
Quyển 17
Thiên thứ 15
Lệ thay đổi người đứng đầu ở Vũ khố.
7
Quyển 18
Thiên thứ 16
Vũ khố chế tạo hộc, phương, thăng, đấu và cấp phát cho các địa phương
[77, tr.980- 981] [77, tr.1076] [77, tr.1474]
46
Trước hết, Minh Mệnh chính yếu cung cấp thông tin về việc đặt chức quan
mới ở Vũ khố. Theo đó, năm Ất Dậu (1825), Vũ khố chính thức được đặt chức
Thiêm sự, trật Chánh tứ phẩm [77, tr.161]. Chức quan Thiêm sự lần đầu xuất hiện
trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn vào năm Giáp Tý (1804), khi triều đình Huế bàn
định và ban bố quan chế. Theo quan chế năm Giáp Tý (1804), chức Thiêm sự có
trật Chánh tứ phẩm và chỉ có ở 6 Bộ mà thôi. Việc đặt chức Thiêm sự thể hiện sự
phát triển, mở rộng của nha Vũ khố, vì trước đó, triều đình Huế thường lấy các viên
Thiêm sự ở Bộ để kiêm quản Vũ khố.
Là cơ quan coi giữ của công lớn nhất cả nước, do vậy vua Minh Mệnh có sự
quan tâm đặc biệt tới Vũ khố. Sau khi lên ngôi, Minh Mệnh có những Dụ đối với
Vũ khố. Đầu tiên là Dụ đối với tệ nạn xâm phạm của công. Theo đó, các quan giữ
chức Giám lâm (chủ kho) phải luôn kê cứu, kiểm soát nguyên vật liệu ở kho để
tránh hiện tượng trộm cắp. Quan lại ở Vũ khố cứ 3 tháng 1 lần phải kiểm kê danh
sách thu, chi của kho, sau đó đóng dấu kiềm và chờ khi thanh tra [77, tr.1031].
Ngoài ra, để phòng ngừa việc tham ô, tham nhũng ở Vũ khố, năm Canh Tý
(1840), triều đình Huế cũng đặt ra lệ thay đổi thời gian làm việc của các viên quan
coi giữ các kho Vũ khố. Trước đó, quan lại ở Vũ khố từ chức Chủ sự đến Thư lại
sau khi làm hết một khóa (một khóa = 6 năm), một nửa số đó sẽ được lưu lại. Tính
ra, số nhân viên lưu lại làm việc ở các kho lên tới 12 năm. Điều đó có thể sinh ra
nhiều tệ hại. Do vậy, Nhà nước có quy định mới, từ Chủ thủ đến viên dịch, sau một
khóa làm tất cả đều được chuyển đến nơi khác [77, tr.1076].
Bên cạnh những Chỉ, Dụ nhằm hạn chế việc tham nhũng, xâm phạm của
công, Minh Mệnh còn ban một số Dụ về việc tiết kiệm, tận dụng nguyên vật liệu
trong việc chế tạo các hạng vật mới. Theo đó, việc tiêu dùng hay cấp phát cho các
cơ quan khác đều phả kê rõ từng khoản để xem xét, không để xảy ra việc “dùng vật
thô sơ mà chi phát vật tinh xảo, dùng ít mà chi phát nhiều” [77, tr.762-763]. Ngoài
ra, năm Tân Mão (1831), Vũ khố được triều đình Huế giao cho chế tạo lại các hạng
47
thước đo như hộc, phương, thăng, đấu, bát… để cấp cho các địa phương nhằm hạn
chế việc gian lận trong lúc cân đong hàng hóa, nguyên vật liệu. Minh Mệnh chính
yếu chép: […] các viên lại dịch trong kho thu phát còn nhiều kẻ tay đong nặng nhẹ, vua bèn sai chế thứ hộc phương1 mới, ban cấp cho các kho trong kinh và các địa
phương” [77, tr.1474].
So sánh với nguồn sử liệu được hình thành trong khoảng cùng thời gian là
Ngự chế văn cho thấy, hai nguồn sử liệu này có cung cấp những thông tin giống nhau,
như cùng đề cập đến việc tham ô và bị xử phạt của viên quan Thư lại Vị nhập lưu
Hoàng Hữu Nhận [44, 320-322], [77, tr.980-981]. Ngoài ra, sự kiện này cũng được đề
cập một cách chi tiết trong Đại Nam thực lục [80, tr.132-133]. Tuy nhiên với mục
đích biên soạn sách khác nhau, do vậy những thông tin đề cập đến Vũ khố trong 2
nguồn sử liệu này cũng khác nhau. Ngự chế văn phản ánh các quan điểm, chỉ đạo cụ
thể của vua Minh Mệnh đối với Vũ khố. Trong Minh Mệnh chính yếu, bên cạnh việc
phản ánh một số quan điểm, thái độ của vị vua thứ 2 triều Nguyễn, còn đề cập đến
các hoạt động sản xuất cùng với vấn đề nhân sự và một số ghi chép khác.
2.2.3. Sách Hội điển
Các sách Hội điển ghi chép lại các điển pháp, quy của chuẩn và các hoạt
động, tổ chức của các Nha, Bộ triều Nguyễn. Do vậy, nguồn sử liệu này phản ánh
các khía cạnh tổ chức, nhân sự, quan lại, phẩm trật, nhiệm vụ chức năng, kho tàng
cho đến trang bị đảm bảo cho quá trình vận hành của Vũ khố như công đường,
phẩm phục, thanh tra giám sát… Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chẳng hạn,
quyển 244 trình bày về cơ cấu tổ chức, nhân sự, phần chưa ở từng kho, thay đổi tên
gọi của các kho ở Vũ khố, phần Cấm lệnh trình bày 10 chỉ dụ của các vua Gia
Long, Minh Mệnh về việc bảo quản nguyên vật liệu ở Vũ khố. Quyển 245 trình bày
1 Theo quy thức mới, hộc, phương có gia cao lên và hẹp hơn, hai bên phụ thêm miếng gỗ cao hơn miệng, ở giữa có cái cầu gỗ bằng với miệng, để người cầm cái gạt trên miệng không nặng nhẹ tay được.
về các vấn đề thu chi, việc chi tiêu và cất giữ của Vũ khố. Những quy định về tiêu
48
hao nguyên liệu trong quá trình chế tạo, thanh tra hoạt động của vũ khố, hay vấn đề
lương ăn, ngạch thợ ở Vũ khố được trình bày ở quyển 246, 247.
Ba bộ sách hội điển cung cấp những thông tin lịch sử phong phú và đa dạng
về quá trình vận động liên tục của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.
BẢNG 2.7. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG
KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ
STT TẬP QUYỂN TRANG
1 II 9 84-88 NỘI DUNG Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố
2 V 156-162 Lương bổng quan lại Vũ khố 57 BỘ BỘ LẠI BỘ HỘ
Phẩm phục quan lại Vũ khố 78 204-206 3 VI BỘ LỄ 84 298-300
4 IX 153 508-512 Ấn tín quan lại Vũ khố Hoạt động trang bị quân dụng và sửa chữa vũ khí của Vũ khố
5 XI 187 391-397 Phẩm phục quan lại Vũ khố
6 XIII 210 152-154 BỘ BINH BỘ HÌNH BỘ CÔNG Công đường và Quan xưởng của Vũ khố
BẢNG 2.8. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG
KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ TỤC BIÊN
STT BỘ TẬP QUYỂN TRANG NỘI DUNG
3 33-38 Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố. 1 II BỘ LẠI 6 104-106 Tuyển chọn Chủ thủ cho Vũ khố
13 93-94 Thanh tra ở Vũ khố 2 III BỘ HỘ 14 137-143 Lương bổng quan lại Vũ khố
3 VIII 40 107-116 Luật về kho chứa ở Vũ khố BỘ HÌNH
49
BẢNG 2.9. THỐNG KÊ THÔNG TIN VỀ VŨ KHỐ TRONG
ĐẠI NAM ĐIỂN LỆ TOÁT YẾU
STT BỘ PHẦN TRANG NỘI DUNG
1 BỘ LẠI 19-27 I Phẩm trật, cơ cấu nhân sự quan lại Vũ khố.
221-223 Vũ khố chế tạo hộc, phương, thăng đấu II 2 BỘ HỘ 227-229 Lương bổng quan lại Vũ khố
327 Ấn tín quan lại Vũ khố 3 BỘ LỄ III 323-329 Phẩm phục quan lại Vũ khố
Trước hết, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ tục biên cung cấp thông tin về tổ chức biên chế của Vũ khố triều Nguyễn.
Theo đó, Vũ khố gồm 1 viên Thị lang (trật Chánh tam phẩm) đứng đầu, giúp việc
có 1 viên Lang trung (trật Chánh tứ phẩm) và 2 viên Viên ngoại lang (trật Chánh
ngũ phẩm) [67, tr.11-12], [22, tr.15]. Dưới quyền có Từ Trát tào (tức phòng Văn thư, và hai hiệu (ký hiệu) Kho Giáp, Ất gồm 8 kho1. Đứng đầu Từ Trát tào là 1 viên
Thư lại Chánh bát phẩm. Người đứng đầu các Kho Giáp, Ất là viên 1 viên Chủ sự
1 8 kho: Giáp I, Giáp II, Giáp III, Giáp IV, Ất I, Ất II, Ất III và Ất IV.
(trật Chánh lục phẩm) hoặc Tư vụ (trật Chánh thất phẩm) [67, tr.11-12].
50
Bên cạnh đó, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ còn cung cấp thông tin về
việc mở rộng và thay đổi tên gọi các kho ở Vũ khố. Ban đầu khi Vũ khố mới thành
lập (1802), vua Gia Long cho đặt ra 7 kho khác nhau trông coi vật liệu là (1) Kho
khí giới, (2) Kho đồng, (3) Kho tiền, (4) Kho vận lương, (5) Kho thủy, (6) Kho
chiếu, (7) Kho than [67, tr.17]. Năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mệnh đã cho đổi
Kho khí giới làm Kho Giáp I, Kho đồng làm Kho Giáp II, Kho sắt làm Kho Giáp III,
Kho vận lương làm Kho Giáp IV, Kho thủy làm Kho Ất I, Kho chiếu làm Kho Ất III,
Kho than làm Kho Ất IV, và đặt thêm Kho Ất II, tổng số là 8 kho [67, tr.17-18].
Cùng với việc mở rộng và thay đổi tên gọi ở các kho Vũ khố, Minh Mệnh
cũng quy định chi tiết việc lưu trữ vũ khí và nguyên vật liệu ở các kho. Cụ thể, kho
Giáp I giữ các hạng quân khí. Kho Giáp II giữ các hạng đồng thiếc cùng các khí cụ
bằng đồng, thiếc. Kho Giáp III giữ các hạng sắt gang cùng các khí cụ bằng sắt gang.
Kho Giáp IV giữ các hạng vàng, bạc tiệp, các hạng giấy, cùng những thứ như tạp
liệu sơn, nhuộm,… Kho Ất I giữ các hạng đầu cùng các hạng đèn lồng. Kho Ất II
giữ các hạng song, mây, cùng thừng chão, buồm, rèm. Kho Ất III giữ các hạng da
51
thú, lông chim, cùng khí cụ, vật liệu bằng đồi, đế. Kho Ất IV giữ các hạng gỗ cùng
các khí cụ bằng gỗ… [67, tr.11-12].
Ngoài những quy định về việc cất giữ, Nhà nước còn có những quy định rất
chặt chẽ về cấm lệnh, thu chi, tiêu thủ ở Vũ khố.
Để ngăn ngừa, phòng tránh việc trộm cắp, tham ô, Nhà nước đã có những
quy định rõ ràng đối với những hành vi này. Theo đó, trong kho có đồ bị mất, thì từ
quan giám thủ cho đến quân lính đều phải tố giác, kiểm tra, xem xét lẫn nhau. Căn
cứ vào số tang vật bắt được, Nhà nước thưởng gấp từ 5 đến 10 lần số đó (Chẳng hạn
như bắt được lấy trộm của kho vật gì mà vật ấy đáng giá là 1 quan thì thưởng từ 5
đến 10 quan) [67, tr.18].
Nhà nước cũng có những quy định để hạn chế hành vi tham ô của quan lại ở
Vũ khố. Triều đình Huế quy định quan lại làm việc trong Vũ khố cứ 4 năm một lần
(vào các năm Hợi, Mão, Mùi) sẽ phải thay đổi nhiệm kỳ, chuyển sang cơ quan khác
làm việc. Việc sung bổ các vị trí khuyết sẽ do Nhà nước lấy ở Bộ Lại và Bộ Hình,
mỗi bộ sẽ lấy 1 viên Chủ sự và 1 viên Thư lại Chánh bát phẩm, 7 viên Thư lại Vị
nhập lưu [67, tr.12]. Quan lại làm việc trong Vũ khố không hạn chế quê quán ở
miền Nam hay miền Bắc. Bên cạnh đó, năm Bính Thân (1836), vua Minh Mệnh đưa
ra quy định đối với những người đứng đầu Vũ khố về việc thu, chi nguyên liệu phải
rõ ràng, không được bớt xén, gian dối [67, tr.30].
Những quy định chi tiết của triều đình Huế đã giúp cho việc quản lý, thu phát
vũ khí và nguyên vật liệu của Nhà nước được dễ dàng, quy củ và cùng với đó là
việc hạn chế tình trạng biển thủ, tham ô ở nha Vũ khố.
Cùng với quy chế hoạt động ngày càng được quy định chi tiết, chặt chẽ, các
vị vua triều Nguyễn rất chú trọng, chăm chút các yếu tố vật chất, tinh thần nhằm
bảo đảm cho Vũ khố hoạt động thông suốt và hiệu quả. Trong quá trình hoạt động,
các quy định của Nhà nước liên quan đến tổ chức và hoạt động của Vũ khố được
không ngừng bổ sung, thay đổi nhằm hướng đến sự phù hợp nhất. Các quy định bảo
52
đảm này rất đa dạng và phức tạp, từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế
độ lương bổng…
Đại Nam điển lệ toát yếu (sách tóm lược những điều cốt yếu của điển lệ nước
Đại Nam) là cuốn sách ghi chép vắn tắt về công việc của các Bộ, Nha triều Nguyễn,
được biên soạn trên cơ sở của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, do các triều thần trong Nội các triều Nguyễn biên
soạn, được khắc in vào năm 1909 dưới triều vua Duy Tân. Như vậy, ngoài các lệ
được chép theo các bộ Hội điển sự lệ và Hội điển sư lệ tục biên, còn có các lệ sau đó,
kéo dài đến năm 1909. Đây có thể xem là nguồn bổ sung cho hai bộ Hội điển kể trên.
Qua những thông tin trên cho thấy những ghi chép quy định của triều
Nguyễn trong sách Hội điển như Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại
nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu đã phản ánh tương đối phong
phú và khá đầy đủ về Vũ khố. Một số thông tin được phản ánh chi tiết như về Vũ
khố như bộ máy tổ chức, hoạt động bảo quản vũ khí, lương bổng và phẩm phục
quan lại… Tuy vậy, là các loại sách được viết theo thể hội điển, thông tin cung cấp
từ mang tính khái quát và tính thời điểm.
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thiết chế chính quyền trung
ương thời Nguyễn tuy nhiên khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ
cấu nhân sự của Vũ khố đều chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ. Điều này đúng nhưng chưa đủ.
Thứ nhất, có thể nhận thấy rằng Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách
điển lệ cơ bản và đầy đủ nhất của triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào
năm Tự Đức 4 (1851) với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua
Minh Mệnh: “khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai
nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình
thần duyệt và nhuận sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự Đức.
53
Thứ hai, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ra đời sau và dựa vào nguồn tư
liệu là các Châu bản, Đại Nam thực lục để biên soạn. Do đó, giá trị sử liệu của
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ đứng sau Châu bản, Đại Nam thực lục. Vậy nên,
khi nghiên cứu về Vũ khố triều Nguyễn, cần phải dựa vào nguồn sử liệu Châu bản
và Đại Nam thực lục để có thể đối chiếu, so sánh với Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ, Đại Nam hội điển toát yếu… Như vậy, mới đưa ra được những kết quả khách
quan, những nhận định, đánh giá đảm bảo được tính chính xác hơn.
2.2.4. Đại Nam nhất thống chí
Trước hết, Đại Nam nhất thống chí cung cấp thông tin về vị trí của Vũ khố.
Theo đó, Vũ khố nằm ở phía Tây phường Liêm Năng trong kinh thành Huế [89,
tr.72], [50, tr.143]. Đối chiếu với bản đồ Kinh thành Huế được chụp năm 1933 của
Leopol Cadière hay bản vẽ trong Từ điển địa danh thành phố Huế [98, tr.802-803]
cho thấy phường Liêm Năng nằm ở phía Bắc của Hoàng thành Huế.
Mặt trước của Vũ khố, tức nằm ở phía bắc là Tiền khố (tức kho tiền). Ban
đầu kho Tiền được xây dựng dưới thời Gia Long và đặt ở trong Cấm thành. Đến
năm Quý Tỵ (1833), Kho Tiền được chuyển ra đây [50, tr.142].
Phía đông, Vũ khố giáp các đảo và cửa là Dinh Châu đảo, Hạ Huân môn,
Nam Huân môn. Đây là những địa điểm nằm trong quần thể kiến trúc của vườn
Tịnh Tâm [50, tr.146], nơi nghỉ ngơi, thư giãn của hoàng tộc nhà Nguyễn ở bên
ngoài Cấm thành.
Phía nam của Vũ khố là miếu Thanh Thần tướng quân. Miếu thờ hai tượng
đá của hai vị tướng quân Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành [50, tr.158].
Còn phía tây Vũ khố giáp cung Khánh Ninh và “Ngự lộ”. Cung Khánh Ninh
được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), bao gồm nhiều kiến trúc khác
nhau. Sau khi vua Minh Mệnh mất, người con nối ngôi là Thiệu Trị đã đặt long thể
vua cha Minh Mệnh tại điện chính, cho đến lúc ninh lăng. Sau này, điện được đặt
tên là Hiếu Tư điện làm nơi thờ vua Minh Mệnh [50, tr.141].
54
Ngự lộ là đường dành riêng cho nhà vua đi, nối đến nhiều cung điện khác
nhau [50, tr.156-157].
Bên cạnh đó, Đại Nam nhất thống chí còn cho biết lệ đặt chức quan ở Vũ
khố. Người đứng đầu trông coi Vũ khố là quan Thị lang, giúp việc có các quan
Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ và thuộc ti Thư lại. Trong đó, chức Thị
lang trật Chánh tam phẩm, chức Lang trung trật Chánh ngũ phẩm, chức Viên Ngoại
lang trật Chánh ngũ phẩm, chức Chủ sự trật Chánh lục phẩm, chức Tư vụ trật
Chánh thất phẩm, Thư lại Chánh bát phẩm, Thư lại Chánh cửu phẩm, Thư lại Vị
nhập lưu trật Tòng cửu phẩm [89, tr.72]. Như vậy quan lại làm việc ở Vũ khố có
phẩm trật từ Chánh tam phẩm đến Tòng cửu phẩm.
Ngoài ra, Đại Nam nhất thống chí cho biết thêm thông tin quy mô nhà
xưởng, công đường của Vũ khố. Theo đó, Vũ khố có một tòa Công đường, một sở
Chi thu, mặt sau có 10 kho. Sau đó, Vũ khố xây dựng thêm sở Vũ khố Đốc công,
tức là xưởng chế tạo vũ khí. Đến đầu thế kỷ XX, công đường Vũ khố đổi thành
trường Bách công (tức trường hướng nghiệp), còn sở Đốc Công đổi thành trường
Canh nông và Cơ quan Thú y [89, tr.72].
Qua những nội dung về Vũ khố được phản ánh trong Đại nam nhất thống
chí, cho thấy nguồn sử liệu này cung cấp những thông tin hết sức quý báu về địa
điểm, quy mô, cấu trúc của Vũ khố. Đây là những thông tin chưa được đề cập hoặc
mới chỉ được đề cập hết sức khái quát trong các nguồn sử liệu khác như Đại Nam
thực lục hay Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.
* *
*
Có thể nói, mỗi nguồn sử liệu có điều kiện ra đời, cũng như đặc điểm và giá
trị riêng. Không phải tất cả đều là những sử liệu độc lập với nhau mà phần nhiều
được hình thành trên cơ sở tham khảo những sử liệu có trước, do vậy nhiều nội
dung cùng được phản ánh trong các sử liệu khác nhau. Nhà nghiên cứu lịch sử, vì
55
vậy cần phải nắm vững niên đại cũng như nguồn gốc xuất xứ của sử liệu mới có thể
khẳng định được độ tin cậy của thông tin lịch sử khi đem so sánh các nguồn.
Chẳng hạn như khi tìm hiểu chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, Nguyễn Sĩ
Hải trong Tổ chức chính quyền Trung ương thời Nguyễn sơ (1802-1847) đã dựa vào
bộ điển lệ của triều Nguyễn là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và sách địa chí
của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí để cho rằng, Vũ khố: “trước gọi là
Ngoại Đồ gia năm 1820 mới đổi tên Vũ khố, đặt ở phía tây phường Liêm Năng
trong kinh thành, gồm 1 Sở coi việc xuất nạp chi thu và 10 kho quân khí” [27,
tr.197]. Đỗ Bang trong Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-
1884 lại dựa vào sách Đại Nam điển lệ toát yếu và Đại Nam nhất thống chí cho
rằng Vũ khố “trước gọi là Ngoại Đồ gia, đổi tên từ năm 1820, để chứa quân khí, đặt
ở phường Liêm Năng trong Kinh thành” [7, tr.81]. Như vậy, hai ông dựa vào 3
nguồn tư liệu Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam điển lệ toát yếu tân biên
và Đại Nam nhất thống chí nên chỉ coi Vũ khố là cơ quan tích chứa vũ khí và
nguyên vật liệu mà chưa đề cập đến hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí và các hoạt
động khác.
Khảo sát các nguồn tư liệu có liên quan cho thấy trong quyển 244, phần Vũ
khố ở sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có ghi chức năng, nhiệm vụ của Vũ
khố là “nơi coi giữ việc xuất nhập binh khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách điển lệ cơ bản và đầy đủ nhất của
triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào năm Tự Đức 4 (1851) [53, tr.8-10]
với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua Minh Mệnh: “khi dâng
bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với
chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận
sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự Đức.
Đại Nam điển lệ toát yếu khắc in vào năm Duy Tân 3 (1909) do các quan ở
Nội các triều Nguyễn ghi chép vắn tắt những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại
56
Nam, phần về Vũ khố chép: “Vũ khố thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ
khí và các vật liệu chứa ở kho, đều là chức vụ các quan chức coi kho này” [22,
tr.15]. Như vậy, cuốn sách này càng không thể coi là có thể ghi chép chính xác, đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.
Trong khi đó, tháng 12 năm Quý Tỵ Minh Mệnh 14 (1833), triều vua Minh
Mệnh đã lần đầu tiên hoàn thành một bộ Hội điển toát yếu, gồm 14 quyển “chép về chế độ chức trách của trăm quan”1. Quy trình biên soạn sách là “kịp đến khi dâng
bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với
chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận
sắc. Đến nay, sách xong trình lên vua. Vua dụ Nội các rằng: “Đường lối trị nước
phải có thể chế chủ yếu nêu rõ điển tắc để giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ sách này
mới được sửa lại một lần, dẫu chưa được mười phần hoàn bị, nhưng trong đó phân
từng ngành chia từng mối, cũng có thể đem thi hành được. Vậy ra lệnh cho Bộ Lại
sao chép cấp phát cho các nha môn trong Kinh ngoài trấn tuân theo. Đến sau ngày
khai ấn năm Giáp Ngọ Minh Mệnh thứ 15 [1834] mới bắt đầu thi hành để các quan
chức đều biết rõ nhiệm vụ của mình. Song bộ sách này chỉ mới tóm tắt những điều
cốt yếu, đợi sau này sẽ châm chước thêm bớt tùy theo tiện nghi mà sửa lại để làm
khuôn mẫu cho sau này” [80, tr.915]. Như vậy, Hội điển toát yếu là bộ sách điển lệ
đầu tiên của nhà Nguyễn được biên soạn dưới triều Minh Mệnh, quy định “chế độ
chức trách” được chính thức ban hành và áp dụng từ năm 1834 nhằm “để các quan
chức đều biết rõ nhiệm vụ của mình”. Đại Nam thực lục, khi tóm tắt nội dung của
sách Hội điển toát yếu có chép về Vũ khố như sau “Phàm sự chế tạo binh khí và
1 Việc biên soạn này được tiến hành từ tháng 7 năm Kỷ Sửu (1829), theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh thì “Tôn Nhân phủ và các nha Lục bộ kiểm soạn từ năm Gia Long thứ nhất, đến năm Minh Mệnh thứ 10, tất cả dụ chỉ đã ban, thể lệ đã định, cùng những bản tấu chuẩn của Lục bộ cùng chương tấu của trong ngoài, nhất thiết những văn thư án tập, có quan hệ đến chính sự, chia môn định loại, và theo năm tháng trước sau mà biên thành tập, làm sao cho cương mục rõ ràng, các điều rành mạch, để sẵn mà tra xét và lưu định thức”. [79, tr.880].
tích chứa vật liệu, đều thuộc vào kho Vũ khố” [80, tr.918].
57
Như vậy, khi xem xét chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, cần phải dựa vào
sách Hội điển toát yếu được dẫn trong Đại Nam thực lục, cũng như Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, còn Đại Nam điển lệ toát yếu chỉ có giá trị tham khảo.
Tương tự, khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Nam thực lục, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển
lệ toát yếu tân biên thì chỉ có Đại Nam điển lệ toát yếu ghi chép Vũ khố thuộc Bộ
Binh. Sự khác biệt này có lẽ xuất phát từ việc Đại Nam điển lệ toát yếu có niên đại
muộn hơn, vì vậy mà trong đó bao gồm cả những điển lệ xuất hiện sau khi các cuốn
sách khác đã được hoàn thành. Như vậy, thông tin Vũ khố thuộc Bộ Binh chỉ được
xem là phản ánh về một giai đoạn nhất định chứ không phải là một đặc điểm xuyên
suốt lịch sử phát triển của cơ quan này.
Tiểu kết chương 2
Những ghi chép về Vũ khố triều Nguyễn được đề cập tương đối chi tiết qua
các nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp, từ tổ chức, nhân sự, hoạt động cho tới các
quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Những
nguồn này cung cấp nhiều thông tin lịch sử đa dạng, quý báu, đem đến những hiểu
biết sâu sắc và toàn diện về Vũ khố triều Nguyễn. Hơn nữa, những thông tin lịch sử
đó còn góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử nha Vũ khố nói riêng, và rộng
ra là bộ máy tổ chức chính quyền trung ương triều Nguyễn.
Qua khai thác hai nguồn sử liệu trực tiếp về Vũ khố là Châu bản và Ngự chế
văn cho thấy những thông tin do các nguồn này cung cấp không được nhiều, chỉ có
ít nhất khoảng 54 Chiếu, Chỉ, Dụ. Những thông tin từ các Chiếu, Chỉ, Dụ tương đối
tản mát và chỉ phản ánh được một phần các khía cạnh của công tác nhân sự và các
hoạt động chế tạo, sửa chữa, tích chứa vũ khí… ở Vũ khố. Tuy vậy, đây là nguồn sử
liệu rất quan trọng, phản ánh trực tiếp hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là thái
độ, quan điểm của vua Minh Mệnh đối với cơ quan này.
Nhìn lại đặc điểm các nguồn sử liệu gián tiếp cho thấy, một số vấn đề liên
quan Vũ khố như cơ cấu nhân sự, lương bổng, hoạt động chế tạo, bảo quản vũ khí…
58
được phản ánh trong nhiều nguồn sử liệu gián tiếp như Đại Nam thực lục, Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất thống chí.
Bên cạnh đó, mỗi loại nguồn sử liệu gián tiếp cũng phản ánh một số khía cạnh cụ
thể liên quan Vũ khố. Trong khi, Đại Nam thực lục cho biết một cách chi tiết rõ
ràng quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức của Vũ khố, các sách Hội
điển lại cung cấp những thông tin cụ thể về quy định của Nhà nước liên quan đến tổ
chức và hoạt động của Vũ khố từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế độ
lương bổng, thanh tra giám sát... Đại Nam nhất thống chí lại cho biết những thông
tin cụ thể về vị trí, quy mô, đặc điểm của Vũ khố. Nguồn sử liệu gián tiếp có số
lượng khá lớn, thông tin về Vũ khố khá đa dạng, phong phú, bao trùm nhiều lĩnh
vực như cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức cho đến các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ
khí cũng như vị trí, địa điểm…
So sánh với nguồn sử liệu trực tiếp, nguồn sử liệu gián tiếp có số lượng tư
liệu phản ánh về Vũ khố nhiều hơn hẳn (6 so với 2), tức là gấp 3 lần, thông tin cũng
đa dạng, phong phú hơn từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức, lương bổng cho đến vị
thế, quy mô, địa điểm của Vũ khố.
Dù phản ánh trực tiếp hay gián tiếp về Vũ khố, các nguồn sử liệu đều có
những giá trị riêng, không nguồn nào có khả năng phản ánh một cách đầy đủ, toàn
diện về Vũ khố. Do vậy, các nhà nghiên cứu cần phải nắm được đặc trưng của từng
loại nguồn. Khi sử dụng để đánh giá, phân tích cần phải sử sụng kết hợp nhiều
nguồn, có kiểm tra, đối chiếu các nguồn với nhau thì kết quả nghiên cứu mới khách
quan, trung thực và có được cái nhìn toàn diện, tổng thể, biện chứng (xem bảng
2.10)
Tổng hợp từ các nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp có thể phục dựng bức
tranh tương đối đầy đủ, toàn diện về Vũ khố, từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức,
các hoạt động của Vũ khố như chế tạo, lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí, vị thế,
quy mô, địa điểm cho đến các quy định đảm bảo như công đường, ấn triện, phẩm
phục, lương bổng…
59
BẢNG 2.10: THỐNG KÊ SO SÁNH NỘI DUNG ĐỀ CẬP ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU
HỘI ĐIỂN
NGUỒN SỬ LIỆU
CHÂU BẢN
MINH MỆNH CHÍNH YẾU
KĐĐNHĐSL KĐĐNHĐSLTB ĐNHĐTY
NGỰ CHẾ VĂN
ĐẠI NAM THỰC LỤC
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ
NỘI DUNG ĐỀ CẬP
Chức năng, nhiệm vụ
x
x
x
x
Cơ cấu nhân sự
x
x
x
x
x
x
x
x
Cơ cấu tổ chức
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Chế tạo, sửa chữa vũ khí
x
x
x
x
Lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí
Hoạt động
x
x
x
x
x
Tích chứa vật liệu công
Hoạt động khác
x
x
x
x
Vị trí
x
x
Quy
Công đường
x
x
60
Ấn triện
x
x
x
định đảm bảo
Phẩm phục
x
x
x
Lương bổng
x
x
x
x
Thanh tra
x
x
x
61
Chương 3: VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802-1884)
QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU
3.1. Chức năng, nhiệm vụ
Trong sách Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ (1802-1847),
Nguyễn Sĩ Hải đã dựa vào bộ điển lệ của triều Nguyễn là Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ và sách địa chí của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí để cho rằng
nhiệm vụ của Vũ khố là: “trước gọi là Ngoại Đồ gia năm 1820 mới đổi tên Vũ khố,
đặt ở phía tây phường Liêm Năng trong kinh thành, gồm 1 Sở coi việc xuất nạp chi
thu và 10 kho quân khí” [27, tr.197]. Đỗ Bang trong Tổ chức bộ máy nhà nước triều
Nguyễn giai đoạn 1802-1884 lại dựa vào sách Đại Nam điển lệ toát yếu và Đại Nam
nhất thống chí cho rằng Vũ khố “trước gọi là Ngoại Đồ gia, đổi tên từ năm 1820, để
chứa quân khí, đặt ở phường Liêm năng trong Kinh thành” [7, tr.81].
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ
của Vũ khố đều dựa vào 3 nguồn tư liệu là Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại
Nam điển lệ toát yếu tân biên, Đại Nam nhất thống chí. Và các công trình nghiên
cứu mới chỉ coi Vũ khố là cơ quan tích chứa vũ khí và nguyên vật liệu mà chưa đề
cập đến hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí và các hoạt động khác.
Khảo sát các nguồn tư liệu có liên quan cho thấy trong quyển 244, phần Vũ
khố ở sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có ghi chức năng, nhiệm vụ của Vũ
khố là “nơi coi giữ việc xuất nhập binh khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].
Sách Đại Nam điển lệ toát yếu được Nguyễn Sĩ Giác dịch dựa trên một bản
chữ Hán được khắc in vào năm Duy Tân 3 (1909) do các quan ở Nội các triều
Nguyễn ghi chép vắn tắt những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại Nam, phần về Vũ
khố chép: “Vũ khố thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ khí và các vật liệu
chứa ở kho, đều là chức vụ các quan chức coi kho này” [22, tr.15].
Có thể nhận thấy rằng Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách điển lệ
cơ bản và đầy đủ nhất của triều Nguyễn, nhưng bộ sách này hoàn thành vào năm Tự
Đức 4 (1851) [53, tr.8-10] với cách thức làm sách điển lệ được định hình từ thời vua 62
Minh Mệnh: “khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha thuộc ở các bộ, các viện ai
nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho đúng, rồi lại giao cho đình
thần duyệt và nhuận sắc” [80, tr.915] thì rõ ràng phần ghi chép liên quan trong
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Tự
Đức.
Sách Đại Nam điển lệ toát yếu do Nguyễn Sĩ Giác dịch càng là một tài liệu ra
đời về sau (dựa trên một cuốn sách chữ Hán của Nội các được khắc in vào năm Duy
Tân 3 (1909)) và là một cuốn tóm tắt, tuyển chọn về điển lệ của triều Nguyễn cho
đến thời điểm ra đời thì lại càng không thể coi là có thể ghi chép chính xác, đầy đủ
chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884.
Liên quan đến loại sách Hội điển, chính sử triều Nguyễn là Đại Nam thực lục
cho biết vào tháng 12 năm Quý Tỵ Minh Mệnh 14 (1833), triều vua Minh Mệnh đã
lần đầu tiên hoàn thành một bộ Hội điển toát yếu, gồm 14 quyển “chép về chế độ chức trách của trăm quan”1. Đại Nam thực lục cho biết quy trình biên soạn sách này
như sau: “Trước kia, vua sai soạn một bộ sách chép về chế độ chức trách của trăm
quan, gọi là Hội điển toát yếu, kịp đến khi dâng bản mẫu, vua truyền cho các nha
thuộc ở các bộ, các viện ai nấy đem đối chiếu với chức vụ mình mà hiệu chính cho
đúng, rồi lại giao cho đình thần duyệt và nhuận sắc. Đến nay, sách xong trình lên
vua. Vua dụ Nội các rằng: “Đường lối trị nước phải có thể chế chủ yếu nêu rõ điển
tắc để giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ sách này mới được sửa lại một lần, dẫu chưa
được mười phần hoàn bị, nhưng trong đó phân từng ngành chia từng mối, cũng có
thể đem thi hành được. Vậy ra lệnh cho Bộ Lại sao chép cấp phát cho các nha môn
trong Kinh ngoài trấn tuân theo. Đến sau ngày khai ấn năm Giáp Ngọ Minh Mệnh
1 Việc biên soạn này được tiến hành từ tháng 7 năm Kỷ Sửu (1829), theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh thì “Tôn Nhân phủ và các nha Lục bộ kiểm soạn từ năm Gia Long thứ nhất, đến năm Minh Mệnh thứ 10, tất cả dụ chỉ đã ban, thể lệ đã định, cùng những bản tấu chuẩn của Lục bộ cùng chương tấu của trong ngoài, nhất thiết những văn thư án tập, có quan hệ đến chính sự, chia môn định loại, và theo năm tháng trước sau mà biên thành tập, làm sao cho cương mục rõ ràng, các điều rành mạch, để sẵn mà tra xét và lưu định thức”. [79, tr.880].
thứ 15 [1834] mới bắt đầu thi hành để các quan chức đều biết rõ nhiệm vụ của
63
mình. Song bộ sách này chỉ mới tóm tắt những điều cốt yếu, đợi sau này sẽ châm
chước thêm bớt tùy theo tiện nghi mà sửa lại để làm khuôn mẫu cho sau này” [80,
tr.915]. Như vậy, Hội điển toát yếu là bộ sách điển lệ đầu tiên của nhà Nguyễn được
biên soạn dưới triều Minh Mệnh, quy định “chế độ chức trách” được chính thức ban
hành và áp dụng từ năm 1834 nhằm “để các quan chức đều biết rõ nhiệm vụ của
mình”. Đây chính là một loại văn bản pháp quy chế định chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước của triều Nguyễn.
Cũng trong Đại Nam thực lục, khi tóm tắt nội dung của sách Hội điển toát
yếu có chép: “Vũ khố: Phàm sự chế tạo binh khí và tích chứa vật liệu, đều thuộc vào
kho Vũ khố” [80, tr.918].
Như vậy, khi xem xét chức năng, nhiệm vụ của Vũ khố, cần phải dựa vào
sách Hội điển toát yếu in trong Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ, còn Đại Nam điển lệ toát yếu chỉ có giá trị tham khảo. Trên cơ sở các nguồn sử
liệu đó, và qua kiểm định thực tế trong hoạt động thực tiễn được ghi chép trong Đại
Nam thực lục, có thể xác định Vũ khố triều Nguyễn thực hiện 4 nhóm chức năng,
nhiệm vụ chính thức sau:
1) Sản xuất binh khí
2) Lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí
3) Tích chứa vật liệu công
4) Hoạt động khác
3.2. Vũ khố trong bộ máy nhà nƣớc trung ƣơng triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884
Khảo sát một số công trình nghiên cứu như Định chế hành chính và quân sự
triều Nguyễn (1802-1885) của Huỳnh Công Bá (Chủ biên) [6, tr.149-151], Tổ chức
bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) [7, tr.108] do Đỗ Bang (Chủ biên), Tổ
chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-1847) của Nguyễn Sĩ Hải [27,
tr.197], Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) [109, tr.108] của
64
Nguyễn Minh Tường, cho thấy ngoài tổ chức bộ máy 6 Bộ để điều hành chính
quyền trung ương, triều Nguyễn còn lập các nha gồm các phủ, tự, viện, giám, ty,
cục - là những cơ quan chuyên trách hoạt động thuộc về hành pháp, tư pháp, giám
sát ở triều đình, được gọi chung là Chư Nha hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Theo đó, Vũ khố cùng với Phủ Nội vụ, Thương trường thuộc nhóm cơ quan phụ trách kho tàng - quân nhu1.
1 Tổ chức bộ máy trung ương triều Nguyễn, ngoài 6 Bộ, còn có nhiều cơ quan khác, được gọi dưới một danh từ chung là “Chư Nha”: Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885), Huỳnh Công Bá (Chủ biên) chia thành 7 nhóm: (1) Nhóm cơ quan phụ trách những công việc trong Hoàng gia và Hoàng cung như Tôn Nhân Phủ, Thị Vệ xứ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện, Tập Hiền viện, Tập Thiện đường, Tôn Học sở và Thái Bộc tự. (2) Nhóm các cơ quan phụ trách kho tàng - quân nhu như Nội Vụ phủ, Vũ khố, Thương trường và Mộc thương. (3) Nhóm cơ quan phụ trách văn phòng mật vụ. Đây là các cơ quan giúp vua trong quá trình giải quyết các công việc có các tổ chức mang tính chất văn phòng, thời Gia Long gọi là Tam Nội viện (gồm Thị Thư viện, Thị Hàn viện và Nội Hàn viện). Bên cạnh đó có một cơ quan coi về ấn tín gọi là Thượng Bửu ty. Về sau gộp chung thành Nội các. Phụ trách về công tác mật vụ có Cơ Mật viện. (4) Nhóm cơ quan phụ trách tư pháp - giám sát như Đô Sát viện, Đại Lý tự. (5) Nhóm cơ quan phụ trách vận tải - liên lạc như Tào Chính ty, Bưu Chính ty và Thông Chính ty. (6) Nhóm cơ quan phụ trách lễ nghi - tế tự: Thái Thường tự và Quang lộc tự. (7) Nhóm cơ quan phụ trách khoa học - giáo dục: Quốc Tử giám, Hàn Lâm viện, Quốc Sử quán, Khâm Thiên giám, Thượng Bảo tự và Hồng Lô tự. [6, tr.106-213]. Tổ chứ bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) do Đỗ Bang (Chủ biên) chia thành 4 nhóm: (1) Nhóm cơ quan phục vụ cho Hoàng cung, Hoàng tộc: Tôn Nhân phủ, Thái Y viện, Xứ Thị vệ, Cẩn Tín ty, Thái Bộc tự. (2) Nhóm cơ quan kho tàng, giao thông, thông tin liên lạc: Nội Vụ phủ, Thương trường, Vũ khố, Mộc thương, Doanh Thiện ty, Kho thuốc nổ và diêm tiêu, Tào Chính ty, Bưu Chính ty, Thông Chính Sứ ty. (3) Nhóm cơ quan văn hóa giáo dục: Quốc Tử giám, Tập Hiền viện, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám, Quốc Sử quán, Thái Thường tự, Quang Lộc tự, Thượng Bảo tự, Hồng Lô tự. Thứ tư: các cơ quan tư pháp và giám sát: Đại Lý tự, Đô Sát viện. [7, tr.77-95]. Nguyễn Sĩ Hải trong Tổ chức chính quyền dưới thời Nguyễn Sơ (1802-1847), chia thành 3 nhóm: (1) Nhóm cơ quan được thiết lập để phục vụ trong Hoàng cung, hay có những hoạt động liên quan đến Hoàng tộc: Tôn Nhân phủ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện. (2) Nhóm cơ quan kho tàng như Phủ Nội Vụ, Thương Trường, Vũ khố. (3) Nhóm công sở có tính cách quốc gia, dưới các danh hiệu Tự, Viện, Giám hoặc Ty. Trong nhóm này, Nguyễn Sĩ Hải tiếp tục chia nhỏ thành:
1/ Cơ quan nghi lễ: Thái Thường Tự và Quang Lộc Tự; 2/ Cơ quan văn hoá: Quốc Tử Giám, Hàn Lâm Viện và Khâm Thiên Giám; 3/ Cơ quan tư pháp: Đại Lý Tự 4/ Cơ quan tạp loại: Thông Chính Sứ Ty và Tào Chính Ty; 5/ Cơ quan giám sát: Đô Sát Viện; [27, tr.195-199]
Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) của Nguyễn Minh Tƣờng chia thành 3 nhóm: (1) Nhóm cơ quan có nhiệm vụ phục vụ đời sống, sinh hoạt trong Hoàng cung hoặc có những hoạt động liên quan đến Hoàng tộc như: Tôn Nhân phủ, Cẩn Tín ty, Thái Y viện. (2) Nhóm cơ quan chứa đồ đạc của Hoàng cung như: Nội Vụ phủ, Thương trường và Vũ khố. (3) Nhóm cơ quan văn hóa, giáo dục hoặc có những hoạt động liên quan đến văn hóa như: Quốc Tử giám, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám, Quốc Sử quán, Tào Chính ty, Thông Chính Sứ ty, Bưu Chính ty. [109, tr.107-108].
65
Ngoài ra, trong Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885),
Huỳnh Công Bá cho biết thêm Vũ khố là cơ quan ngoại thuộc Bộ Binh [6, tr.102].
Khảo sát một số nguồn sử liệu như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu tân
biên thì chỉ có Đại Nam điển lệ toát yếu ghi chép Vũ khố thuộc Bộ Binh. Theo Đại
Nam điển lệ toát yếu, “Vũ khố: Thống ư Binh bộ. Pháo sang binh trượng quân khí
vật liệu chi tích, tất quan chi. Thị lang nhất, Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự,
Tư vụ, Bát Cửu phẩm Thư lại, vị nhập lưu Thư lại” (Dịch nghĩa: Vũ khố (kho quân
nhu). Thuộc dưới quyền Bộ Binh. Súng đạn, các vũ khí và vật liệu chứa ở kho, đều
là chức vụ các quan chức coi kho này. Một quan Thị lang (đứng đầu). Thuộc viên
có các chức Lang trung, Viên Ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Bát Cửu phẩm Thư lại và
Vị nhập lưu Thư lại” [22, tr.14-15]).
Vậy nên ghi chép về Vũ khố là cơ quan thuộc Bộ Binh trong Đại Nam điển
lệ toát yếu có thể được coi là từ năm 1909 trở về sau cho đến khi có quy định mới.
Như vậy, giai đoạn từ 1802 đến 1884, Vũ khố là một cơ quan hành chính cấp trung
ương quản lý hoạt động sản xuất, bảo quản vũ khí và nguyên vật liệu, đồng thời
cũng là cơ quan độc lập thuộc quản lý của Nhà nước.
3.3. Cơ cấu tổ chức
Từ năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long thiết lập trở lại chế độ quân
chủ tập quyền. Cơ cấu bộ máy chính quyền Nhà nước Trung ương triều Gia Long
có đủ 6 Bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công với nhiệm vụ giữ chính lệnh của
Nhà nước [79, tr.79]. Bên cạnh đó, triều Nguyễn còn lập một loạt các cơ quan
chuyên môn có nhiệm vụ giúp việc như Tôn Nhân phủ, Thái Y viện, Bưu chính ty,
Quốc Tử giám… trong đó có Đồ gia. Trên cơ sở Ty Lệnh sử Đồ gia (Nhà Đồ), năm
Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long đã cho đặt Ty Lệnh sử Ngoại Đồ gia, với nhiệm
vụ “coi giữ việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật to nặng” [67, tr.11].
Buổi đầu, Ngoại Đồ gia gồm 7 kho: Kho khí giới, Kho đồng, Kho tiền, Kho
vận lương, Kho thủy, Kho chiếu, kho than. Các kho này do bộ phận quan lại ở Ty
66
Lệnh sử Ngoại Đồ gia quản lý. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết: “Gia
Long năm đầu (1802), xuống Chỉ chuẩn cho làm Ngoại Đồ gia (nhà chứa đồ phía
ngoài) để chứa binh khí cùng đồng thau, kẽm, thiếc và tất cả sản vật của công. Lại
ấn định ở Ngoại Đồ gia đặt ra kho khí giới, kho đồng, kho tiền, kho vận lương, kho thủy, kho chiếu, kho than, tất cả 7 kho” [67, tr.17].
Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), sau khi lên ngôi vua, Minh Mệnh bắt
đầu quá trình cải tổ bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Trong đó, cơ quan chế tạo và
quản lý vũ khí, vật liệu công của triều đình có những chuyển biến khá sớm. Theo
đó, Ngoại Đồ gia được đổi thành Vũ khố [79, tr.39]. Cùng với sự thay đổi tên gọi,
các kho tàng ở Ngoại Đồ gia cũng được thay đổi theo. Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ cho biết “kho khí giới được đổi làm kho Giáp I, kho đồng làm kho Giáp II,
kho sắt làm kho Giáp III, kho vận lương làm kho Giáp IV, kho thủy làm kho Ất I,
kho chiếu làm kho Ất III, kho than làm kho Ất IV, đặt thêm kho Ất II” [67, tr.17].
Tiếp đó tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), Ty Lệnh sử Vũ khố được đổi thành Ty Thanh
thận Vũ khố, với nhiệm vụ quản lý các kho [79, tr.141]. Từ đây, Vũ khố Thanh thận
ty là cơ quan phụ trách cấp phát nguyên vật liệu và thu nộp sản phẩm.
Tại Kinh đô Huế, vào tháng 3 năm Canh Thìn (1820), nhà Nguyễn mở cục
Đúc tiền. Sau đó đến tháng 7 năm Bính Tuất (1826), cục Đúc tiền được đổi tên
thành Cục Bảo hóa (Bảo Hóa kinh cục) và đặt dưới sự quản lý của nha Vũ khố [79,
tr.520]. Ban đầu, Bảo Hóa kinh cục được đặt ở phường Lập Vũ (phía Đông Nam
ngoài Kinh thành Huế), sau đó được chuyển vào trong sở Đốc công Vũ khố. Về tổ
chức, nhà Nguyễn đặt ra 1 viên Giám đốc mang trật Tòng tứ phẩm ngạch quan võ
để điều hành sản xuất [79, tr.660] chứ không có đội ngũ quan viên riêng, thợ sản
xuất lấy từ cục thợ đúc và một số cục thợ khác ở Ty Chế tạo Vũ khố.
Cơ cấu tổ chức của Vũ khố tiếp tục được điều chỉnh vào năm 1829. Năm
1829, nhận thấy sự không hợp lý giữa người Chủ thủ (coi giữ) kho và thợ làm ra vật
phẩm lưu giữ đều từ Vũ khố, điều này dễ dẫn đến những “mối tệ”, vua Minh Mệnh
đã cho đặt công sở ở nha Vũ khố gọi là Ty Chế tạo với nhiệm vụ: “Phàm các công
67
tác thì đốc công sức cho các thợ lãnh hạng ở công sở, chế tạo xong thì giao cho nha
(Vũ khố) thu. Đơn bằng lãnh và nộp thì Đốc công cùng ty lại đối cứu, Bộ Công
nhận thực, giám lâm chủ thủ của nha chiếu theo bằng mà thu phát” [79, tr.924-925].
Từ đó, Ty Chế tạo chính thức ra đời và thuộc sự cai quản của Bộ Công nhưng công
sở làm việc nằm trong khu vực Vũ khố. Cơ cấu nhân sự của Ty Chế tạo bao gồm 1
Lang trung trật Chánh tứ phẩm đứng đầu, tiếp sau là 1 Viên ngoại lang trật Chánh
ngũ phẩm, giúp việc có 2 Chủ sự trật Chánh lục phẩm, 2 Tư vụ trật Chánh thất
phẩm, 3 Thư lại Chánh bát phẩm, 3 Thư lại Chánh cửu phẩm và 25 Thư lại Vị nhập
lưu. Với việc đặt ra Ty Chế tạo là cơ quan ngoại thuộc Bộ Công, nhằm quản lý các
tượng, cục đã thu hẹp cơ cấu tổ chức và quy mô của Vũ khố. Từ đây, nhiệm vụ Vũ
khố được triều đình Huế giao đã giảm bớt đi.
Từ sau năm 1829, trải qua các triều vua Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức
(1848-1883), Kiến Phúc (1884), về cơ bản, cơ cấu tổ chức của Vũ khố được giữ
nguyên, không có sự thay đổi. Phân tích, khảo sát Đại Nam thực lục và Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ cho biết rõ hơn. Theo đó, Vũ khố gồm 1 quan Thị lang đứng
đầu, tiếp đến là 1 Lang trung, bên dưới là cơ quan nội thuộc Thanh Thận ty Vũ khố
với 2 Viên ngoại lang, coi giữ việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật to nặng.
Thuộc quyền có Từ Trát tào (phòng Văn thư) và 8 kho [67, tr.11], [84, tr.182].
Ngoài ra, Vũ khố còn một cơ quan ngoại thuộc là Bảo Hóa kinh cục.
68
3.4. Cơ cấu nhân sự
Khi mới được thành lập (1802), cơ cấu nhân sự của Ngoại Đồ gia chưa được
xác định một cách rõ ràng các chức vụ Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, Bản ty gồm bao
nhiêu người [54, tr.84]. Phải đến 3 năm sau, tức năm Ất Sửu (1805), số nhân viên
làm việc trong Ngoại Đồ gia mới được xác định là 50 người. Đại Nam thực lục
chép: “Định số nhân viên thuộc ty các nha ở Kinh: Ty Lệnh sử Bộ Hộ 80 người, Bộ
Lại, Bộ Binh đều 70 người, ba Bộ Lễ, Hình, Công, Đồ gia, Ngoại Đồ gia, đều 50
người, ty Chiêm hậu lại 30 người” [78, tr.642], [54, tr.84]. Như vậy ở cơ quan
Ngoại Đồ gia, các chức từ Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp cho đến Thư lại vị nhập lưu,
tổng số là 50 người, phụ trách coi việc xuất nhập quân khí cùng các đồ vật nặng.
Trước đó, tháng 4 năm Giáp Tý (1804), triều đình Nguyễn đã bàn định và
ban hành quan chế. Theo quan chế năm 1804 này, quan lại thuộc Ngoại Đồ gia làm
nhiệm vụ quản lý được liệt vào ngạch quan Văn, gồm các chức quan Câu kê ty Lệnh
sử Đồ gia trật Tản giai Tòng ngũ phẩm, Cai hợp ty Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai
Tòng lục phẩm, Thủ hợp ty Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai Tòng thất phẩm, Bản ty ty
69
Lệnh sử Đồ gia trật Tản giai Tòng bát phẩm, Thư lại vị nhập lưu trật Tản giai Tòng
cửu phẩm. Các quan lại Ngoại Đồ gia có trật Tản giai Tòng ngũ phẩm được phong
tước Bá, trật Tản giai Tòng lục phẩm được phong tước Tử, trật Tản giai Tòng bát
phẩm được phong tước Nam [78, tr.595-598]. Như vậy, về cơ bản, tên gọi các chức
quan như Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp làm nhiệm vụ quản lý ở Ngoại Đồ gia không
thay đổi so với thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chính quyền Nguyễn Ánh.
Các chức quan trên cũng được triều đình Nguyễn sử dụng ở các Nha, Bộ khác trong
bộ máy Nhà nước. Sau đợt ban bố quan chế, cơ cấu nhân sự ở Ngoại Đồ gia được
định hình và duy trì ổn định trong suốt gần 20 năm đầu của thế kỷ XIX.
Trên cơ sở kế thừa cơ cấu tổ chức hành chính của triều Gia Long, ngay sau
khi lên ngôi vua, Minh Mệnh đã từng bước có sự điều chỉnh, thay đổi ở các cơ quan
hành chính nhà nước. Tháng giêng, năm Canh Thìn [1820], vua Minh Mệnh quyết
định “đổi Nội Đồ gia làm Nội Vụ phủ, Ngoại Đồ gia làm Vũ Khố” [79, tr.39]. Một
năm sau, tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mệnh tiếp tục điều chỉnh, bổ sung
cơ cấu nhân sự của Vũ Khố. Theo đó, Vũ khố có 2 viên Lang trung, 2 viên Chủ sự,
2 viên Tư vụ, 8 viên Thư lại Chánh bát phẩm, 8 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 44
viên Thư lại Vị nhập lưu [79, tr.141], tổng cộng là 66 người. Như vậy với sự thay
đổi này, bắt đầu từ tháng 6 năm Tân Tỵ (1821), Vũ khố được tăng cường thêm nhân
sự cả hàng quan và lại. So sánh với Ngoại Đồ gia triều Gia Long, nhân sự Vũ khố
năm 1821 thời Minh Mệnh đã tăng 16 người (tăng gấp 1,32 lần) so với năm 1805.
70
Tiếp đó, quá trình thay đổi nhân sự ở Vũ khố liên tục được diễn ra vào các
năm 1825, 1828, 1829, 1830. Đại Nam thực lục ghi: Tháng 8 năm Ất Dậu (1825),
vua Minh Mệnh cho đặt thêm quan viên ở Vũ khố. Nguyên trước đó các chức vụ
Lang Trung, Chủ sự, Tư vụ đều có 2 người, nay tăng thêm 2 viên quan nữa cho mỗi
chức vụ trên [79, tr.441]. Sau đó, năm 1828, đến lượt Thư lại Vị nhập lưu được tăng thêm từ 44 người lên tới 60 người1. Qua hai đợt thay đổi nhân sự này dẫn đến số
lượng quan lại Vũ khố lên đến mức cao nhất trong toàn bộ lịch sử vương triều
1 Đại Nam thực lục ghi: “Năm Minh Mệnh thứ 9 [1828], mùa đông, tháng 10, Đặt thêm lại dịch của ty Bưu chính và Vũ Khố. (Vị nhập lưu thư lại, Vũ Khố nguyên số 44 người, thêm 16 người, Bưu chính nguyên số 20 người, thêm 10 người)” [79, tr.779].
Nguyễn (89 người).
71
Đến tháng 12 năm Kỷ Sửu (1929), sau khi triều Nguyễn đặt Ty Chế tạo ở Vũ
khố (nhưng quan lại ở ty Chế tạo được biên chế trực thuộc vào Bộ Công), vua Minh
Mệnh đã cho giảm bớt số lượng nhân sự của Nha. Bên cạnh chức Thị lang giữ chính
lệnh, Vũ khố chỉ lưu lại “Lang trung, Viên Ngoại lang mỗi chức 1 người, Chủ sự,
Tư vụ mỗi chức 3 người, Bát, Cửu phẩm thư lại mỗi chức 4 người, Vị nhập lưu thư
lại 40 người” [79, tr.924-925]. Tuy nhiên mấy tháng sau (tháng 4 năm Canh Dần
(1830)), nhận thấy kho Vũ khố nhiều việc, số nhân viên còn lại không đủ người để
làm, vua Minh Mệnh cho tăng thêm số lượng cả về hàng quan và lại trong Nha.
Theo đó, Chánh bát phẩm Thư tăng 2 người lên thành 6 người, Chánh cửu phẩm
Thư lại tăng lên thành 8 người, Vị nhập lưu Thư lại tăng lên thành 50 người” [80,
tr.51].
Như vậy, trong vòng 11 năm đầu cầm quyền (1820-1830), vua Minh Mệnh
đã liên tục thay đổi cơ cấu nhân sự của Vũ khố (6 lần), nhằm hướng tới một sự ổn
định, phù hợp hơn trong cơ cấu quan lại triều Nguyễn nói chung, nha Vũ khố nói
riêng. Điều này đã được minh chứng một cách rõ nét, trong 10 năm cầm quyền tiếp
theo của vua Minh Mệnh (1831-1840), chỉ duy nhất 1 lần, cơ cấu nhân sự Vũ khố
72
có sự thay đổi, đó là vào năm 1836, khi Vũ khố được tăng thêm 1 viên quan Chủ sự
và 1 viên quan Tư vụ [81, tr.935]. Vào thời điểm này, Vũ khố gồm có 1 viên Thị
Lang, 1 viên Lang trung, 1 viên Viên Ngoại lang, 4 viên Chủ sự, 4 viên Tư vụ, 6
viên Thư lại Chánh bát phẩm, 8 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 50 viên Thư lại Vị
nhập lưu, tổng số 75 người. So với thời kỳ trị vì của vua Gia Long, nhân sự Vũ khố
năm 1836 đã tăng gấp 1,52 lần. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng mở rộng
quy mô bộ máy quản lý Nhà nước Trung ương thời Minh Mệnh.
Cơ cấu nhân sự Vũ khố được giữ ổn định đến hết triều vua Thiệu Trị (1841-
1847), kéo sang đến thời Tự Đức, được chuẩn định một lần nữa vào tháng 12 năm
Canh Tuất (1850). Đây không chỉ là đợt điều chỉnh riêng ở Vũ khố mà còn được mở
rộng ở các bộ, nha, phủ, viện khác [84, tr.182-186]. Sau khi được chuẩn định, cơ
cấu nhân sự của Vũ khố gồm 1 viên Thị Lang đứng đầu, 1 viên Lang trung, 2 viên
Viên ngoại lang, 4 viên Chủ sự, 4 viên quan Tư vụ, 6 viên Bát phẩm, 8 viên Cửu
phẩm và 50 viên Vị nhập lưu Thư lại [84, tr.182], tổng số là 76 người.
Theo lời tâu của các quan đại thần Trương Đăng Quế và Vương Thế Kiệt
cùng với lời bàn của triều thần thời vua Tự Đức, cơ cấu nhân sự của nha Vũ khố
được giữ nguyên như cũ, tức là không có sự thay đổi so với thời kỳ trước đó [84,
tr.182]. Tuy nhiên khi đối chiếu so sánh với thời điểm thay đổi nhân sự ở nha Vũ
khố gần nhất vào năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), cho thấy nha Vũ khố tăng thêm 1
viên quan Viên ngoại lang. Qua khảo sát Đại Nam thực lục và Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, trong suốt 14 năm (từ 1837 đến 1850), không thấy năm nào có ghi sự
thay đổi tăng giảm nhân sự của Vũ khố. Song trước đó, vào năm 1833, Nội các triều
Nguyễn biên soạn xong bộ sách Hội điển toát yếu, trong đó có phần quy định nhiệm
vụ, chức năng của Vũ khố đã được ghi vào Đại Nam thực lục có đoạn như sau:
Phàm sự chế tạo binh khí và tích chứa vật liệu, đều thuộc vào kho Vũ khố. Vũ khố
dùng chức Thị lang để giữ chính lệnh. Lang trung và Tham biện để giúp việc Thị
lang, các thuộc viên có Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Thư lại Chánh bát phẩm,
Thư lại Chánh cửu phẩm và Thư lại Vị nhập lưu, cùng chia nhau trông coi đồ vật và
73
sổ sách [80, tr.918]. Qua đây cho biết, ở kho Vũ khố dưới chức Thị lang có Lang
trung và Tham biện giúp việc. Theo quan chế triều Nguyễn nói chung, triều vua
Minh Mạng nói riêng, chức quan “Tham biện” không có trong ngạch phẩm trật
quan văn cũng như quan võ. Khảo cứu một số nguồn tư liệu, “Tham biện” không
phải là tên gọi một chức quan chính thức của triều đình Huế, mà chỉ là một chức
quan giúp việc cho viên quan giữ chính lệnh của một Nha, Bộ thôi. Như vậy, nhiều
khả năng chức Tham biện này chính là một trong hai chức Viên ngoại lang! Cũng từ
thông tin trên, có thể dự đoán muộn nhất đến năm 1833, cơ cấu nhân sự Vũ khố đã
có thêm 1 lần được thay đổi.
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công vào Đà
Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, sau đó rút vào đánh chiếm Gia
Định. Tháng 6 năm 1862, triều đình Nguyễn phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng
ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) cho Pháp. Tiếp đó, năm
1867, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) còn lại để tạo
thành một lãnh thổ thuộc địa Cochichine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững
chắc ở Nam Kỳ và để mở rộng ảnh hưởng lên toàn bộ đất nước Đại Nam, từ năm
1873 đến năm 1884, Pháp tiến hành các cuộc chiến tranh ra Bắc Kỳ. Thất bại liên
tiếp trong cuộc chiến tranh với Pháp, triều Nguyễn buộc phải ký các hiệp ước
nhượng đất, bồi thường chiến phí, đã dẫn đến việc thu hẹp trong việc quản lý lãnh
thổ, cùng với đó là giảm sút các nguồn thu. Từ đó, nhà Nguyễn phải tiến hành giảm
bớt số lượng quan lại của các Bộ, Nha. Năm 1868, vua Tự Đức đã cho giảm 139
viên quan với có phẩm trật từ Tứ phẩm trở xuống đến Thư lại Vị nhập lưu ở 24
Nha, Bộ ở Kinh thành. Đối với các tỉnh, đạo, bộ máy chính quyền giảm 142 người
với các viên quan từ hậu bổ đến thông lại, thừa biện [84, tr.1155]. Riêng nha Vũ
khố, cơ cấu nhân sự chỉ còn 1 viên Thị Lang đứng đầu, bên dưới là 1 viên Lang
trung, 8 viên Tư vụ, 10 viên Thư lại Chánh cửu phẩm, 42 Thư lại Vị nhập lưu [84,
tr.1157], tổng cộng là 62 người. Như vậy so với đợt điều chỉnh quan lại gần nhất
(1850), nhân sự Vũ khố đã giảm 14 người.
74
Quá trình thay đổi cơ cấu nhân sự trong tổ chức bộ máy hành chính quốc gia
dưới triều Nguyễn tiếp tục được tiến hành vào năm Kiến Phúc thứ nhất (1884).
Ngoài chức vụ Thị lang, Vũ khố chỉ lưu lại 4 viên Tư vụ, 7 viên Chánh cửu phẩm,
và 17 viên Thư lại [85, tr.93]. Như vậy, đến năm 1884, cơ cấu nhân sự của Nha môn
Vũ khố từ Thị lang xuống đến Thư lại Vị nhập lưu chính thức còn 27 người. Đây
cũng là sự thay đổi với quy mô lớn nhất ở Vũ khố, giảm tới 35 người (tương đương
56,45%) số lượng quan và lại trong hệ thống nhân sự của Nha này.
Đợt tinh giản quan lại với quy mô lớn này không chỉ diễn ra ở Vũ khố mà
còn ở tất cả các nha, bộ khác trong bộ máy hành chính triều Nguyễn. Nguyên nhân
bởi một mặt do sự thu hẹp trong quản lý lãnh thổ của Nhà nước Đại Nam, mặt khác
bởi, triều đình muốn “đặt quân cốt ở được người giỏi, hậu lương lộc cốt để khuyến
khích người làm quan” [85, tr.91].
75
BẢNG 3.1: THỐNG KÊ QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
1805 1821 1825 1827 1828 1829 1830 1836 1850 1868 1884 Năm Chức/Trật
Chức Thị lang Thiêm sự
Lang trung
Trật1 3a 4a 4a 5a 5a 5b 6a 6b 7a 7b 8a 8b 9a 9b
1 3a: Chánh tam phẩm; 4a: Chánh tứ phẩm; 5a: Chánh ngũ phẩm; 5b: Tòng ngũ phẩm; 6a: Chánh lục phẩm; 6b: Tòng lục phẩm; 7a: Chánh thất phẩm; 7b: Tòng thất phẩm; 8a: Chánh bát phẩm; 8b: Tòng bát phẩm; 9a: Chánh cửu phẩm; 9b: Tòng cửu phẩm
Viên ngoại lang Câu kê Chủ sự Cai hợp Tư vụ Thủ hợp Thư lại Chánh bát phẩm Bản ty Thư lại Chánh cửu phẩm Thư lại vị nhập lưu Tổng số ? ? ? ? ? 50 2 2 2 8 8 44 66 1 3 4 4 8 8 44 72 2 2 4 4 8 8 44 72 1 2 2 4 4 8 8 60 89 1 1 1 3 3 4 4 40 57 1 1 1 3 3 6 8 50 73 1 1 1 4 4 6 8 50 75 1 1 2 4 4 6 8 50 76 1 1 8 10 42 62 1 4 5 17 27
76
3.5. Những quy định đảm bảo hoạt động của Vũ khố
3.5.1. Công đường
Năm Nhâm Tuất (1802), khi triều Nguyễn thành lập, vua Gia Long đã cho
xây dựng các kho để chứa đồ khí giới, kho nguyên liệu chứa đồng, sắt, gang. Đến
năm 1816, Công đường và nhà xưởng Ngoại Đồ gia dời đến phía nam kho thóc
trong Kinh thành Huế và được xây dựng ở đây. Sau khi làm xong, khu công đường
có 8 tòa trong đó có bốn tòa 17 gian, ba tòa 19 gian, một tòa 15 gian, với tổng số
106 gian nhà [65, tr.153].
Đến thời vua Minh Mệnh, quy mô các tòa nhà ở Vũ khố tiếp tục được mở
rộng. Năm 1830, Vũ khố xây thêm hai tòa nhà, mỗi tòa có 17 gian nhà. Một năm
sau (1831), Vũ khố dựng thêm một ngôi nhà 5 gian 2 chái làm nơi thu phát và làm
việc công. Đến năm Bính Thân (1836), triều đình cho dựng tiếp một ngôi nhà 5 gian
lợp ngói phiến cho các thợ làm việc [65, tr.153]. Như vậy, Vũ khố có tất cả 12 tòa
kho công, trong đó có 1 tòa sở Chi thu, 1 tòa sở Đốc công, 2 tòa Giáp I, 2 tòa Ất I,
còn Giáp II, Giáp III, Giáp IV, Ất II, Ất III, Ất IV đều có 1 tòa, thuộc các phường
Vĩnh Trinh và Nhuận Ốc [65, tr.153-154].
Sau khi các tòa nhà ở Vũ khố được xây dựng xong, triều đình Huế cũng quy
định việc chứa vũ khí và nguyên vật liệu ở các kho. Toàn bộ các loại vũ khí triều
Nguyễn được đưa vào kho Giáp I, các loại nguyên liệu chế tạo vũ khí như đồng, thiếc, chì, gang, sắt… được để trong kho Giáp II và Giáp III1. Thời Minh Mệnh, ở
kho Vũ khố có tất cả 10 tòa nhà với 174 gian phòng, trong đó có tới 4 tòa nhà với
68 gian chứa các loại vũ khí và nguyên liệu sản xuất vũ khí [65, tr.152-153]. Trong
Một số loại pháo: pháo thành công, pháo thắng uy tuớng quân bằng đồng, pháo thảo nghịch tướng
Một số loại bạch khí: đao, kiếm, mác, giáo… Một số loại đạn: đạn lan can, đạn chì, đạn đồng, đạn hạt tiêu, đạn hạt kê…
Các loại đồng: đồng đỏ hình nồi, đồng lá, đồng khôi đỏ Tụ Long… Các loại thiếc, chì…
1 Kho giáp I chứa các loại binh khí như: - quân bằng đồng, pháo oanh sơn bằng thép, pháo quá sơn bằng đồng… - - Kho Giáp II chứa một số nguyên liệu chế tạo vũ khí như: - - Kho Giáp III chứa các loại sắt: sắt Hà Sung, sắt Hà Nội, sắt Thái Nguyên, sắt Quảng Nam… [67, tr.14-17, 64-65].
số 10 tòa, Nhà nước đã dành ra gần một nửa kho Vũ khố (4/10 tòa nhà) để chứa các
77
loại vũ khí và nguyên liệu sản xuất vũ khí, điều này cho thấy triều đình Huế rất
quan tâm đến hoạt động sản xuất và bảo quản vũ khí vào thời kỳ này. Có thể thấy,
Vũ khố đã được Nhà nước đảm bảo cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động sản
xuất, bảo quản vũ khí và nguyên vật liệu công.
3.5.2. Lương bổng
Triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, định mức lương bổng của quan lại được
căn cứ theo 4 quy định của triều đình ban hành vào các năm 1818, 1839, 1861 và
1884.
Từ tháng Giêng năm Mậu Dần (1818), vua Gia Long ban hành quy định về
định mức lương bổng và trợ cấp trang phục (Xuân phục) hàng năm cho các quan văn võ cùng với lệ dưỡng liêm cho tri phủ, tri huyện trong bộ máy hành chính1. Đến
tháng 11 năm Kỷ Hợi (1839), triều Nguyễn tiến hành đổi định lệ lương bổng các
quan viên theo xu hướng giảm bớt của các quan có phẩm trật cao và tăng thêm cho
các quan lại có phẩm trật thấp, dự định sẽ bắt đầu thi hành vào tháng Giêng năm Minh Mệnh 21 (1840)2. Tuy nhiên, khi quy định được trình lên vua Minh Mệnh để
ban hành, nhà vua đã quyết định rằng: “Duy có sang năm chính là năm mừng thọ 50
1 Theo quy định này, “Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 600 quan, gạo 600 phương, đồ mặc mùa xuân 70 quan; tòng nhất phẩm, tiền gạo đều 360, đồ mặc mùa xuân 60 quan; chánh nhị phẩm, tiền gạo đều 300, đồ mặc mùa xuân 50 quan; tòng nhị phẩm, tiền gạo đều 150, đồ mặc mùa xuân 30 quan; chánh tam phẩm, tiền gạo đều 120, đồ mặc mùa xuân 20 quan; tòng tam phẩm, tiền gạo đều 90, đồ mặc mùa xuân 16 quan; chánh tứ phẩm, tiền gạo đều 60, đồ mặc mùa xuân 10 quan; tòng tứ phẩm, tiền gạo đều 50, đồ mặc mùa xuân 10 quan; chánh ngũ phẩm, tiền gạo đều 35, đồ mặc mùa xuân 9 quan; tòng ngũ phẩm, tiền gạo đều 30, đồ mặc mùa xuân 8 quan; chánh lục phẩm, tiền gạo đều 25, đồ mặc mùa xuân 7 quan; tòng lục phẩm tiền gạo đều 22, đồ mặc mùa xuân 6 quan; chánh tòng thất phẩm, tiền gạo đều 20, đồ mặc mùa xuân 5 quan; chánh tòng bát phẩm, tiền gạo đều 18, đồ mặc mùa xuân 4 quan; chánh tòng cửu phẩm, tiền gạo đều 16, đồ mặc mùa xuân 4 quan”. [57, tr.158-159]. 2 Theo đó, “Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 400 quan, gạo 300 phương, đồ mặc mùa xuân 70 quan; tòng nhất phẩm, tiền bổng cả năm 300 quan, gạo 250 phương, đồ mặc mùa xuân 60 quan; chánh nhị phẩm, tiền bổng 250 quan, gạo 200 phương, đồ mặc mùa xuân 50 quan; tòng nhị phẩm, tiền bổng 180 quan, gạo 150 phương, đồ mặc mùa xuân 30 quan; chánh tam phẩm, tiền bổng 150, gạo 120 phương, đồ mặc mùa xuân 20 quan; tòng tam phẩm, tiền bổng 120 quan, gạo 90 phương, đồ mặc mùa xuân 16 quan; chánh tứ phẩm, tiền bổng 80 quan, gạo 60 phương, đồ mặc mùa xuân 10 quan; tòng tứ phẩm, tiền bổng 60 quan, gạo 50 phương, đồ mặc mùa xuân 10 quan; chánh ngũ phẩm, tiền bổng 35 quan, gạo 30 phương, đồ mặc mùa xuân 9 quan; tòng ngũ phẩm, tiền bổng 35 quan, gạo 30 phương, đồ mặc mùa xuân 8 quan; chánh lục phẩm, tiền bổng 30 quan, gạo 25 phương, đồ mặc mùa xuân 7 quan; tòng lục phẩm tiền bổng 25 quan, gạo 22 phương, đồ mặc mùa xuân 6 quan; chánh tòng thất phẩm, tiền bổng 22 quan, gạo 20 phương, đồ mặc mùa xuân 5 quan; chánh tòng bát phẩm, tiền bổng 20 phương, gạo 18 phương, đồ mặc mùa xuân 4 quan; chánh tòng cửu phẩm, tiền bổng 18 quan, gạo 16 phương, đồ mặc mùa xuân 4 quan”. [57, tr.162].
của trẫm, sao nỡ vội đem số niên bổng các đại thần giảm bớt ngay, hãy hoãn lại một
78
năm là phải, còn các khoản khác thì theo như lời nghị mà thi hành” [116, tr.609-
611], tức là hoãn lại đến sau năm 1840 mới thực hiện.
Tiếp đó, năm 1861 định mức lương bổng của quan lại triều Nguyễn tiếp tục
có sự thay đổi một lần nữa, tuy nhiên sự thay đổi đối với các viên quan từ Tòng tứ
phẩm trở lên. Theo định mức mới, quan lại Vũ khố được trả lương như sau: Chánh
tam phẩm bổng cả năm 130 quan tiền, 105 phương gạo, Tòng tam phẩm bổng cả
năm 105 quan tiền, 80 phương gạo, Chánh tứ phẩm: bổng cả năm 60 quan tiền, 50
phương gạo, Tòng tứ phẩm bổng cả năm 50 quan tiền, 45 phương gạo. Từ Chánh
ngũ phẩm đến Tòng cửu phẩm, lương bổng của quan lại triều Tự Đức vẫn được giữ
nguyên như định mức lương bổng thời Minh Mệnh và Thiệu Trị [55, tr.137-141].
Năm 1884, triều đình Huế thay đổi lại chế độ lương bổng quan lại trong triều
theo xu hướng tăng mức lương bổng. Việc thay đổi này nhằm “đặt quân cốt ở được
người giỏi, hậu lương lộc cốt để khuyến khích người làm quan”. Tuy nhiên, mức
lương bổng mới này được bắt đầu tính từ năm Ất Dậu (1885) [55, tr.162]. Như vậy,
quan lại ở Vũ khố nói riêng, triều nguyễn nói chung đến năm 1884 vẫn được nhận
lương bổng theo mức cũ từ thời vua Tự Đức.
79
BẢNG 3.2: ĐỊNH MỨC LƢƠNG BỔNG QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
CHỨC/PHẨM TRẬT
LƢƠNG BỔNG
THỜI GIAN
SỐ TT
CHỨC
XUÂN PHỤC (quan)
PHẨM TRẬT
TIỀN (Quan)
GẠO (phƣơng)
120
120
1818-1840
20
1
THỊ LANG
3a
1841-1861
150
120
20
130
105
1862-1884
20
1818-1840
10
60
60
2
4a
1841-1861
10
80
60
LANG TRUNG
1862-1884
10
60
50
1818-1840
9
35
35
3
5a
1841-1861
9
40
25
VIÊN NGOẠI LANG
1862-1884
9
40
30
1818-1840
7
25
25
4
CHỦ SỰ
6a
1841-1861
7
30
25
1862-1884
7
30
25
1818-1840
5
20
20
5
TƯ VỤ
7a
1841-1861
5
22
20
1862-1884
5
22
20
1818-1840
4
18
18
6
8a
1841-1861
4
20
18
THƯ LẠI CHÁNH BÁT PHẨM
1862-1884
4
20
18
1818-1840
4
16
16
7
9a
1841-1861
4
18
16
THƯ LẠI CHÁNH CỬU PHẨM
1862-1884
4
18
16
1818-1840
4
16
16
8
9b
1841-1861
4
18
16
THƯ LẠI VỊ NHẬP LƯU
1862-1884
4
18
16
Nguồn: [57, tr.158, 162], [69, tr.137-141], [22, tr.227-229].
80
Theo quy định ban hành vào các năm 1818, 1839 và 1861, triều đình trả
lương cho quan lại theo định mức hàng năm gồm 3 bộ phận: tiền (tính bằng quan),
gạo (tính bằng phương) và Xuân phục (trả bằng tiền, tính bằng quan). Về cơ bản,
lương của các quan lại được trả một nửa bằng tiền và một nửa bằng gạo, nhận trực
tiếp từ kho công của Nhà nước. Khi cộng thêm khoản Xuân phục (trợ cấp trang
phục hàng năm) được trả bằng tiền, quan lại sẽ nhận được lương bổng hàng năm
gồm tiền và gạo với số lượng quan tiền lớn hơn số lượng phương gạo và mức chênh
lệch khác nhau tùy từng phẩm trật.
Định mức lương bổng hàng năm của quan lại Vũ khố nói riêng, quan lại triều
Nguyễn nói chung cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các chức quan có phẩm trật
khác nhau. Theo bảng lương nói trên, sự chênh lệnh giữa viên quan Thị lang và viên
quan Thư lại vị nhập lưu là từ 7,22 đến 7,5 lần. Khoảng cách lương bổng giữa các
chức quan có phẩm trật gần nhau, như Thị Lang (Chánh tam phẩm) so với Lang
trung (Chánh tứ phẩm), cũng như giữa các chức quan có phẩm trật cách xa nhau,
như Thị Lang (Chánh tam phẩm) so với Thư lại vị nhập lưu (Tòng cửu phẩm), đều
rất cao. Từ hoạt động chi trả lương của Nhà nước cho thấy, sự phân biệt rất rõ ràng
giữa các phẩm hàng quan lại.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn có quy định rõ ràng về việc lĩnh lương của quan
lại Vũ khố nói riêng, quan lại triều Nguyễn nói chung. Theo đó, quan viên văn võ từ
Tam phẩm trở lên cả năm lĩnh lương bổng, xuân phục hai lần vào tháng giêng và
tháng bảy. Quan từ Tứ phẩm trở xuống đến Thất phẩm cả năm có 4 kỳ lĩnh lương
vào các tháng 1, 4, 7, 10. Còn quan lại Bát phẩm, Cửu phẩm mỗi tháng lĩnh lương
một lần [57, tr.159].
3.5.3. Phẩm phục
Đối với phẩm phục của quan lại Vũ khố nói riêng, triều Nguyễn nói chung,
Nhà nước sớm có quy định chặt chẽ, ban hành từ tháng 4 năm Bính Dần (1806)
dưới triều vua Gia Long nhằm “danh phận rõ ràng, tôn ty có khác”. Theo đó, phẩm
phục của quan lại gồm phẩm phục đại triều và phẩm phục thường triều. Đến năm Ất
Tỵ (1845), vua Thiệu Trị nhận thấy sự chưa rõ ràng trong quy chế về mũ áo giữa
81
quan Chánh nhất phẩm, Tòng nhất phẩm với quan Chánh nhị phẩm và Tòng nhị
phẩm, do vậy người đứng đầu triều đình Huế đã ban định một quy chế mới về phẩm
phục quan lại trong triều nhằm “cho rõ trật tự mà nghiêm triều nghi” [58, tr.153].
Trong ngạch phẩm trật quan lại triều Nguyễn, quan lại ở Vũ khố cao nhất là chức
Thị lang trật chánh Tam phẩm, thấp nhất là Thư lại vị nhập lưu trật Tòng cửu phẩm,
do đó những quy định mới của vua Thiệu Trị không ảnh hưởng đến. Như vậy, phẩm
phục đại triều và thường triều của quan lại Vũ khố vẫn theo quy định năm Gia Long
thứ 5 (1806), cụ thể như thống kê trong bảng sau:
82
BẢNG 3.3: PHẨM PHỤC ĐẠI TRIỀU CỦA QUAN VIÊN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
PHẨM PHỤC ĐẠI TRIỀU
CHỨC
TRẬT
MŨ
XIÊM
3a
THỊ LANG
Xiêm thêu cẩm kê, lẫn hoa đỏ
Mũ phốc tròn, trang trí cầu vàng, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng
ÁO BÀO Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo mãng bào các màu xanh, lục, lam, đen
BỔ TỬ Bổ tử thêu mây và chim nhạn, nền đỏ
HIA TẤT Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
4a
LANG TRUNG
Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo hoa bào các màu xanh lục lam, đen
Bổ tử thêu mây và chim nhạn, nền đỏ
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trang trí cầu bạc, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng
Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu công, đều viền gấm
ĐAI Đai thân màu hồng, trang sức bằng vàng, mặt vàng trơn không chạm Đai thân màu hồng, trang sức dùng đồi mồi, mặt trước 3 miếng, hai bên hai miếng dài bọc vàng, ngoài ra đều bọc bạc
5a
VIÊN NGOẠI LANG
Đai thân màu hồng, trang sức dùng mặt đồi mồi bọc bạc
Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu xanh, lục, lam, đen
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trang trí cầu bạc, trước sau đều một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc
Bổ tử thêu chim nhạn trắng, nền đỏ
6a
CHỦ SỰ
Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trước sau đều
Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu
Bổ tử thêu chim
Đai thân màu hồng, trang sức dùng 3 miếng
Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu mây và chim nhạn, đều viền gấm Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục,
Hia kiểu thường, sắc đen mũi
83
một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc
xanh, lục, lam, đen
vuông, bí tất viền gấm
nhạn trắng, nền đỏ
hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu chim nhạn trắng, viền gấm
đồi mồi ở mặt trước, ngoài ra thì mặt sừng đen, đều bọc bạc
7a
TƢ VỤ
Bổ tử thêu con cò, nền đỏ
Đai thân màu hồng, trang sức dùng mặt sừng đen bọc bạc
Mũ kiểu phác đầu tròn (tức là mũ cánh chuồn), trước sau đều một hoa bạc, hai cánh không viền bọc
Áo loại cổ tròn, tùy dùng áo sa đoạn các màu xanh, lục, lam, đen
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu cò viền lụa màu
Nguồn: [58, tr.202-206], [83, tr.391-397], [22, tr.323-329].
84
BẢNG 3.4: PHẨM PHỤC THƢỜNG TRIỀU CỦA QUAN LẠI VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
PHẨM PHỤC THƢỜNG TRIỀU
CHỨC
TRẬT
MŨ
BỔ TỬ
XIÊM
HIA TẤT
3a
THỊ LANG
Mũ kiểu Văn công, trang sức bằng vàng
Xiêm thêu cẩm kê, lẫn hoa đỏ
Bổ tử thêu cẩm kê, nền vàng
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
ÁO BÀO Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo màu trắng, các màu xanh, lục, lam, đen, hoặc thêu hoa cũng được
4a
LANG TRUNG
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Bổ tử thêu công, nền hồng
Mũ kiểu Đông Pha, trước sau đều một hoa vàng, còn hoa và giao long đều bằng bạc
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu công, đều viền gấm
5a
VIÊN NGOẠI LANG
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Bổ tử thêu mây và nhạn, nền hồng
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Xiêm tùy dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu mây và chim nhạn, đều viền gấm
Mũ kiểu Đông Pha, trang sức toàn bạc, đằng trước hai hoa, hai giao long, đằng sau một hoa, hai giao long
6a
CHỦ SỰ
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Mũ kiểu Đông Pha, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long
Bổ tử thêu chim nhạn trắng, nền hồng
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
7a
TƢ VỤ
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Bổ tử thêu cò, nền hồng
Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long
Hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm
Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu chim nhạn trắng, viền gấm Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, hai bên hoa tròn, nền đỏ, thêu cò viền lụa màu
85
8a
Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Bổ tử thêu gà lôi, nền xanh
Hia theo phép thường, tất viền lụa màu
THƢ LẠI CHÁNH BÁT PHẨM
9a
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Hia theo phép thường, tất viền lụa màu
THƢ LẠI CHÁNH CỬU PHẨM
Mũ Văn tú tài, trang sức toàn bạc, phía trước trang trí một hoa bạc
9b
THƢ LẠI VỊ NHẬP LƢU
Mũ Văn tú tài, phía trước trang sức một hoa bạc
Áo tùy dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen
Hia theo phép thường, tất viền lụa màu
Bổ tử thêu chim thuần, nền xanh Bổ tử thêu chim thuần, nền xanh
Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn Xiêm tùy dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn
Nguồn: [58, tr.202-206], [83, tr.391-397], [22, tr.323-329].
86
3.5.4. Ấn triện
Như các nha, bộ khác ở Kinh thành, Vũ khố cũng được Nhà nước cấp cho các
loại ấn triện. Ấn triện trong quy chế hoạt động của Vũ khố bao gồm ấn triện công của
Vũ khố và ấn triện riêng của quan lại Vũ khố.
Ấn triện công của Vũ khố tức là ấn triện chung dùng cho việc của Vũ khố, gồm
các ấn quan phòng, ấn thông hành (ấn triện dùng khi đi ra ngoài) và con dấu do phòng
Văn thư (Từ Trát tào) giữ [67, tr.11].
Các nguồn sử liệu cho biết ấn thường dùng của Vũ khố được đúc bằng đồng, hình vuông, rộng 1 tấc, có khắc chữ kiểu chữ triện: “Tôn nhân phủ hành ấn”1. Đối với
ấn quan phòng, theo quy định năm Minh Mệnh 9 (1828), ấn được đúc bằng đồng, có
núm chạm con sư tử, dài cũng như ấn của 6 bộ, bề ngang rộng 3 phân [58, tr.310], có
tên là Vũ khố quan phòng.
Bên cạnh ấn thường dùng, ấn quan phòng, Nhà nước còn cấp cho Vũ khố loại
ấn thông hành và con dấu kiềm dùng chất ngà. Ấn thông hành và con dấu kiềm dùng
khi hộ giá trong quá trình nhà vua đi tuần hành hay ra ngoài kinh thành. Sau khi nhà
vua hồi cung, ấn thông hành và con dấu kiềm được giao cho Nội các cất giữ [58,
tr.310].
Đối với ấn quan phòng cấp cho chức quan, sau khi lên nối ngôi, vào năm Bính
Tuất (1826), vua Minh mệnh đã bắt đầu tổ chức chế dấu quan phòng để cấp cho các
quan văn võ đại thần [79, tr.34]. Trong đó, Thị lang Vũ khố được cấp một dấu quan
phòng bằng ngà để làm dấu quan phòng riêng của mình, dùng khi tâu nghị và vâng
chép dụ. Ấn của quan Thị lang dài 1 tấc 2 phân, chiều ngang 1 tấc 1 phân, bên dưới
dùng hộp son đóng ở dưới hàng chữ Nhật dòng viết niên hiệu [22, tr.337]. Như vậy đối
với Vũ khố, ấn triện quan phòng cấp cho chức quan (hay ấn triện quan phòng dành cho
1 Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Ấn thường dùng của các nha Đô sát viện, Thông chính ty, Nội vụ phủ, Vũ khố, Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hàn lâm viện, Khâm thiên giám, Tào chính ty, đều vuông 1 tấc khắc chữ triện: “Tôn nhân phủ hành ấn” (ngoài ra cũng thế). Ấn các phủ: chất đồng núm thẳng, vuông 1 tấc 6 phân 2 ly. [58, tr.300].
chức vụ) chỉ được cấp cho bộ phận đường quan Vũ khố.
87
3.6. Hoạt động
Triều Nguyễn đặc biệt quan tâm đến hoạt động xây dựng đồn ải, tích chứa vũ
khí để bảo vệ, quản lý đất nước. Vua Minh Mệnh từng nói: “Trị nước phải biết lo xa.
Trẫm từ khi thân chính đến nay lo sách lược xây dựng nhà nước lâu dài, […]. Đến như
thành trì các trấn cũng đều lần lượt mà đắp xây. Lại chứa nhiều súng tay để phòng khi
có việc dùng đến” [79, tr.758]. Từ nhu cầu xây dựng cơ sở quốc phòng, trang bị cho
quân đội ngày càng lớn, Nhà nước đã tăng cường tổ chức những hoạt động sản xuất,
chế tạo vũ khí ở Vũ khố.
3.6.1. Hoạt động sản xuất vũ khí
Một trong những nhiệm vụ chính của nha Vũ khố là hoạt động sản xuất, bảo
quản vũ khí. Đại Nam thực lục đã ghi chép khá tỉ mỉ quá trình hoạt động của Vũ khố
qua các triều vua Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh cho đến Kiến Phúc.
Xưởng đúc vũ khí được đặt tại Phường Đúc, kinh thành Huế - nơi các chúa
Nguyễn đã xây dựng từ thế kỷ trước. Công sở này do Vũ khố trực tiếp điều hành, quản
lý có sự tư vấn, giám sát của Bộ Binh. Năm 1836, triều đình cho lấy hai tòa nhà của
kho thóc trong kinh (mỗi tòa 15 gian) làm nơi rèn đúc, sau đó lại dựng một tòa nhà
kho tạm thời phía sau làm nơi chứa than củi [65, tr.154]. Hoạt động chế tạo vũ khí
được phân bổ theo từng bộ phận như thợ đúc, thợ rèn, nơi làm súng, nơi giã thuốc
súng, chế tạo đạn… Nhờ có sự phân chia mang tính chuyên môn hóa cao, Vũ khố đã
chế tạo được một khối lượng súng đại bác khá lớn. Trong vòng gần 40 năm trị vì của hai
vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long (1802-1819) và Minh Mệnh (1820-1840), Nhà
nước đã cho đúc ít nhất 2468 khẩu súng đại bác bằng đồng, gang [67, tr.276-279]. Jonh
Crawfurd đến Huế vào những năm đầu triều Minh Mệnh đã nhận xét về xưởng đúc súng
ở Vũ khố là nơi được tổ chức trật tự và hoàn hảo [2, tr.73-75]. Sang đến thời Thiệu Trị
(1841-1847), Tự Đức (1848-1883), hoạt động đúc súng lớn vẫn được tiếp tục diễn ra
nhưng với số lượng và tần xuất ít hơn. Năm Đinh Mùi (1847), tại công trường Vũ khố,
Nhà nước cho đúc 9 khẩu súng “Thần uy phục viễn đại tướng quân” và 3 khẩu súng
“Bảo đại định công an dân hòa chúng thượng tướng quân” [83, tr.1302-1304].
Cùng với việc sản xuất các loại đại bác khác nhau, Vũ khố cũng được Nhà nước
giao chế tạo các loại đạn tương ứng đi kèm. Năm 1833, chế tạo 1.000 đạn Liên tỏa hồ
88
điệp. Tiếp đó, năm 1835 Vũ khố chế tạo thử “Liên can thiết đạn cho súng Quá sơn và
súng Điểu sang. Đạn súng Quá sơn 1.000 cái, mỗi cái dài 8 tấc, nặng trên dưới 10
lạng. Đạn súng Điểu sang 2.000 cái, dài 7 tấc, nặng 2 lạng 5 đồng cân” [81, tr.605].
Súng tay dưới triều Nguyễn phổ biến là loại súng điểu thương (điểu sang), súng
trường máy đá, súng tay Trung Quốc… Đây là những loại súng có kích thước nhỏ
dùng để trang bị cho cá nhân binh sĩ. Các loại súng này được sản xuất nhiều ở công
trường Vũ khố, ngoài ra còn được sản xuất ở Nghệ An và một số địa phương từ Hà
Tĩnh trở ra Bắc. Năm 1829, vua Minh Mệnh cho biết: “Nước ta chỉ được 100.000 binh
lính tinh nhuệ. Nay Vũ khố trữ súng tay không dưới 30.000 khẩu. Số thuốc đạn gấp
bội, cho đến các thứ tre đặc, cán giáo, cái gì cũng đủ. Vì nước ta dùng binh, giáo và
súng đạn xen nhau, 2 thứ ấy không thể ít được” [79, tr.897]. Như vậy, so với các quốc
gia trong khu vực, quân đội triều Nguyễn thời vua Minh Mệnh được trang bị vũ khí
với một tỉ lệ khá cao và tương đối hiện đại [111, tr.263-281], [111, tr.282-291], [37,
tr.47-49]. Không những vậy, súng Điểu sang dưới triều Minh Mệnh đã từng bước được
cải tiến đáng kể. Chính sử ghi lại, ngay từ năm 1823 vua Minh Mệnh đã sai Vũ khố
chế thứ súng tay thuốc nổ mạnh kiểu Tây dương, thưởng thợ cục 100 quan tiền [79,
tr.299].
Đến thời vua Tự Đức, tại xưởng của Vũ khố cũng vẫn tiếp tục thử nghiệm chế
tạo các loại vũ khí của quân đội phương Tây. Tháng 7 năm Kỷ Mùi (1859), triều đình
giao cho Đốc công Vũ khố đúc 50 khẩu súng theo kiểu Pháp, mỗi khẩu có ổ đạn 9 viên
[84, tr.618].
Từ những hoạt động sản xuất, chế tạo, bảo quản vũ khí cho thấy Vũ khố được
tổ chức khá tốt và mang tính chuyên môn hóa cao. Mặc dù kỹ thuật sản xuất vẫn còn là
thủ công nhưng đã biết phỏng theo kỹ thuật làm súng của phương Tây. Tuy nhiên,
sang đến thời kỳ trị vì của các vua Tự Đức, Kiến Phúc (1848-1884), các loại vũ khí do
Vũ khố sản xuất ra dần không đủ đáp ứng yêu cầu trang bị cho đội quân và chất lượng
không cao, có sự cách biệt rất xa với trình độ kỹ thuật vũ khí của thế giới đương thời.
3.6.2. Cấp phát vũ khí
Bên cạnh việc sản xuất vũ khí, Vũ khố đảm nhiệm việc cấp phát các loại vũ khí
đạn được cho các tỉnh thành trong cả nước. Năm Giáp Ngọ (1834), Vũ khố được Nhà
89
nước giao đúc mẫu một số loại súng như súng Điểu thương. Sau khi đúc xong, mẫu
súng được đưa tới các tỉnh và yêu cầu các tỉnh làm theo kiểu cách đó. Đại Nam thực
lục cho biết: “năm 1834, tỉnh Hà Tĩnh chế 300 khẩu súng Điểu thương, theo mẫu của
Vũ khố đưa đến (làm bằng sắt, dài 2 thước 2 tấc 1 phân; đường kính nòng 3 phân, 7 ly;
đường kính miệng súng 4 phân 9 ly), vát thợ chế tạo. Lại sai tải 10 vạn cân sắt Hà
Sung ở kho Kinh đến tỉnh Nghệ An, cho theo đúng mẫu mà chế thú súng này, cứ mỗi
tháng 2 lần báo về Bộ để liệu cho tải nộp” [81, tr.189].
Không chỉ cung cấp các mẫu vũ khí, đạn dược, Vũ khố còn trực tiếp cung cấp
các loại súng lớn như các súng thần công, súng nhỏ như súng điểu sang cho các tỉnh
trong cả nước. Sử cũ ghi lại: “tháng 10 năm Giáp Tý (1864), Chuẩn cho trích súng lớn,
súng nhỏ ở tỉnh Nghệ An (súng quá sơn 20 cỗ, súng thần công 10 khẩu, súng điểu sang
máy đá ở Vũ khố 300 khẩu) phát giao cho tỉnh Thanh Hoá, để đủ cấp cho các dinh vệ
[84, tr.881]. Tiếp đó, năm Nhâm Thân (1872) nhà nước lại sai Vũ khố chuyển 20.000
viên đạn cho tỉnh Sơn Tây và 10.000 viên cho tỉnh Bắc Ninh [84, tr.1331]. Nhờ những
hoạt động như vậy, loại súng máy Điểu sang này đã được phổ biến rộng rãi đến các
tỉnh trong cả nước.
Bên cạnh việc đúc mẫu, cung cấp vũ khí, đạn dược cho các địa phương, Vũ khố
còn cung cấp trang thiết bị quân sự khác như các loại giáo trường, giáo cờ, cờ đuôi
nheo… Theo Đại Nam thực lục, năm Mậu Tý (1828), nhà nước đã cung cấp một số
lượng lớn các hạng binh khí cần dùng như súng tay, giáo trường, giáo cờ… cho các vệ
cơ đội ở các địa phương Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa,
Bình Thuận, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình.
BẢNG 3.5: THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG CẤP PHÁT SÚNG TAY
TRUNG QUỐC, GIÁO TRƢỜNG, GIÁO CỜ CỦA VŨ KHỐ CHO
MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG NĂM 1828
Loại vũ khí
Tỉnh/ trấn
Súng tay Trung Quốc 720 1230 600 520
Giáo trƣờng 1120 1480 900 720
Giáo cờ 66 203 61 65
Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Định Phú Yên
90
800 1020 660 660 3660 1680 830
1100 1320 860 960 4160 1980 1080
Bình Hòa Bình Thuận Quảng Trị Quảng Bình Nghệ An Thanh Hoa Ninh Bình
102 147 94 74 640 283 120 Nguồn: [79, tr.805-808].
3.6.3. Tích chứa vật liệu công
Với chức năng là nơi để chứa đồ binh khí cùng với các sản vật của công khác
như đồng, thếc, kẽm, sắt… nên hoạt động coi giữ, bảo quản, sửa chữa các loại đồ vật
nói chung, vũ khí nói riêng của Vũ khố rất quan trọng. Đầu tiên là hoạt động phân bố,
sắp xếp vũ khí sao cho gọn gàng, phân loại rõ ràng. Theo Đại Nam thực lục, năm Quý
Tỵ (1833), sau khi đến xem kho Vũ khố, thấy súng điểu sang phần nhiều bỏ lẫn lộn
với các loại vũ khí khác dẫn đến hư hỏng, vua Minh Mệnh liền sai phạt trượng viên
quan giám lâm là Hà Thúc Lương và những viên quan phụ trách khác, yêu cầu phải
sửa chữa, sắp xếp lại. Nhà nước cũng quy định, đối với các quan khoa đạo đi tuần tra
khi gặp phải tình trạng lộn xộn, bừa bãi mà không biết hạch hỏi, vạch ra, thì phải chịu
tội chung [80, tr.792].
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm vũ khí khi được đúc ra, triều Nguyễn có
những quy định rõ ràng về việc phân loại các hạng sắt, đồng chứa ở các kho. Theo đó,
các hạng đồng, sắt được chia thành từng loại tốt, xấu để đem nấu luyện, thí nghiệm.
Ngoài ra, năm Mậu Tuất (1838) Nhà nước cho xây dựng thêm các hầm cất chứa đồng,
gang sắt ở Vũ khố, nhằm đảm bảo đồng, sắt không bị hoen rỉ khi mang đi đúc. Đại
Nam thực lục ghi lại: “tại kho Giáp II, cho làm một hầm dài 10 trượng 6 thước 2 tấc,
sâu rộng đều 5 thước, trong hầm được chia làm 3 ngăn, chứa riêng từng hạng đồng:
đồng hạng nhất 40.000 cân, đồng đỏ hạng nhì 50.000 cân, đồng hạng ba 30.000 cân.
Kho Giáp III, cho xây một hầm dài 10 trượng 7 thước 1 tấc, sâu rộng cũng đều 5
thước, trong hầm chia thành 2 ngăn chứa riêng các hạng gang: 450.000 cân, sắt sống
và sắt đã luyện 800.000 cân” [82, tr.364].
91
Hoạt động bảo quản, tổ chức, sắp xếp vũ khí và nguyên vật liệu sản xuất một
cách quy củ và chặt chẽ như thế đã đảm bảo tốt nguồn kim khí để cung cấp cho việc
đúc chế các loại binh khí.
Trong hoạt động bảo quản các loại binh khí, đạn pháo, thuốc súng…, ngoài việc
phân định cất giữ vũ khí ở các kho, Vũ khố còn đảm nhiệm việc sửa chữa. Ngay từ
tháng 11 năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mệnh đã có lệnh cứ 5 năm 1 lần sửa chữa
các loại vũ khí. Trong 5 năm đó, nếu đồ binh khí mà hỏng gẫy hoặc ngoài hạn đó mà
đánh mất hay làm gẫy vỡ, thì những chánh phó vệ úy và quản cơ chuyên biện cùng
những lính cầm giữ binh khí, tùy theo mức độ hư hỏng của vũ khí mà bị tội nặng hay
nhẹ. Những viên quan đại thần quản lãnh che chở, không báo cáo lên cấp trên, nếu xét
ra được thì giao cho bộ bàn xử [79, tr.316-317].
Bên cạnh đó, Nhà nước định lệ phân xử việc để hư hỏng binh khí khi được Vũ
khố cấp. Năm Bính Tuất (1826), triều đình nhà Nguyễn có quy định trong hạn cấp mà
binh khí hư hỏng, một vệ hỏng đến 100 cái, một đội đến 20 cái trở lên, thì đại viên
Chưởng lĩnh cùng Chánh phó quản vệ và Suất đội đều bị phạt 6 tháng lương, một vệ
51 cái, một đội 11 cái trở lên, đều phạt 3 tháng lương, một vệ 10 cái, một đội 3 cái trở
lên, Chưởng lĩnh miễn phạt, Quản vệ và Suất đội phạt 2 tháng lương [79, tr.565].
Đối với việc quân nhu, Nhà nước yêu cầu binh khí cốt phải sắc bén đầy đủ.
Trong quá trình gia cố, sửa chữa các loại vũ khí phải cẩn thận, không được phép làm
qua loa, chiếu lệ. Theo quy định của triều đình Huế, binh khí trong kho hay đã giao
cho binh lính cầm giữ, đều do các quan đốc, phủ, bố, án và lãnh binh đích thân kiểm
soát xem xét, cái nào cũng phải chắc chắn, sắc bén. Nếu bỏ qua không làm đúng phép,
thì những viên quan phụ trách, những binh lính nhận lĩnh, cầm giữ binh khí sẽ bị
nghiêm hặc và trừng trị [81, tr.218]. Trước đó, năm 1831 Quản Thị vệ Vũ Văn Giải và
Nguyễn Trọng Tính đã không đôn đốc các thợ ở Vũ khố sửa hơn 900 cây súng điểu
thương lẫn máy bắn đá cũ một cách cẩn thận nên đã bị khiển trách và mất chức [80,
tr.194-195].
3.6.4. Các hoạt động khác
Cùng với các hoạt động sản xuất vũ khí; lưu trữ, phân phối, cấp phát vũ khí;
tích chứa vật liệu công, Vũ khố còn thực hiện nhiệm vụ khác nữa. Năm Bính Thân
92
(1836), Vũ khố chế tạo 30 bộ cân thiên bình lớn, 30 bộ cân thiên bình vừa và 30 cân
thiên bình bộ nhỏ, tổng số là 90 bộ. Việc chế tạo các loại cân “để dùng làm chuẩn đích
cho việc cân các đồ vật và hàng hóa” và được giao phát đi các Nha, Bộ và các tỉnh,
thành [81, tr.1031].
Tháng 3 năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mệnh giao cho Vũ khố làm xe Ngọc kính1 theo cách thức của Tây dương. Sau khi chế tạo thành công xe Ngọc kính, các thợ
chế tạo ở Vũ khố được thưởng 100 quan tiền [79, tr.60]. Tiếp nối thành công đó, năm
Bính Tuất (1826) vua Minh Mệnh giao cho Vũ Khố đóng xe Thuỷ sương, bắt chước
kiểu xe của Tây dương, xuống dụ: “Vương giả lấy điều hay của thiên hạ làm điều hay
của mình; xe ấy dẫu là người ngoại Di chế ra, nhưng khéo lạ có thể dùng được, bắt
chước mà làm cũng không hại gì; nếu bảo là không cần học của họ thì là thô lậu thôi”
[79, tr.519-520].
Bên cạnh việc chế tạo các loại cân thiên bình và xe dùng cho nhà vua, Vũ khố
còn chế tạo các dụng cụ đo đạc như các loại thước may, các dụng cụ cân đong như
hộc, phương, thăng… Nhận thấy không có sự thống nhất thước may bằng đồng và
bằng gỗ, năm Ất Dậu (1825) Minh Mệnh đã giao cho Vũ khố chế tạo thước may và
thước đo bằng đồng, sau đó cấp cho các nha môn ở Kinh và ở các địa phương [79,
tr.498] nhằm thống nhất hệ tiêu chuẩn đo trong cả nước.
Không chỉ quan tâm đến việc thống nhất trong việc đo đạc, triều đình nhà
Nguyễn còn muốn thống nhất trong việc cân đong, đo đếm, vậy nên đã giao cho Vũ
khố chế một loạt hộc, phương, thăng, uyển, bát để dùng trong cả nước. Đại Nam thực
lục chép: “…Vũ Khố chế cấp cho để rõ thể thức nhất định. Duy 5 trấn thành Gia Định
và 11 trấn Bắc Thành do thành chế theo mẫu chế ra để chuyển cấp” [79, tr.734]. Ngoài
tra, triều đình còn quy định vật liệu để chế tạo và sử dụng những hộc, phương, thăng,
bát… vào làm những việc gì: “Phàm hộc, phương đều làm bằng gỗ, thăng, uyển, bát
đều làm bằng đồng. Hộc dùng thu chi thóc công, phương cùng uyển lớn dùng thu chi
gạo lương, trung phương cùng trung uyển dùng thu chi muối, thăng dùng thu chi muối
1 Xe Ngọc kính: Xe lồng kính
gạo, bát dùng thu gạo cước” [79, tr.734].
93
Năm 1820, Cục đúc tiền ở Kinh đô chính thức được thành lập, sau đó đến năm
1826, được đổi thành Bảo hóa Kinh cục, và do Vũ khố kiêm quản” [79, tr.520]. Cục
Bảo hóa đã được Nhà nước giao đúc các loại tiền đồng, tiền kẽm với nhiều kích cỡ
khác nhau, đặc biệt là đúc mẫu để triển khai đúc đồng loạt. Năm 1827, ở Cục Bảo hóa
có 2 đợt đúc tiền đồng lớn “Gia Long thông bảo”, “Minh Mạng thông bảo” với số
lượng lớn 10.000 quan [79, tr.613, 618]. Năm 1830, một loại đồng tiền đồng lớn
“Minh Mạng thông bảo” kèm mỹ hiệu cũng được đúc đến 1 vạn đồng [80, tr.69-70].
Dưới thời Thiệu Trị, Cục vẫn tiếp tục đúc mẫu các loại tiền đồng, tiền kẽm các hạng
theo hiệu mới. Đặc biệt, tiền đồng lớn “Thiệu Trị thông bảo” kèm mỹ hiệu đến 40 hiệu
đúc 1 vạn đồng [81, tr.839-840]. Đối với tiền kẽm, năm 1843 Nhà nước cho đúc tiền
Thiệu Trị, loại dày 6 phân, với số lượng gần 80.000 quan [81, 468]. Đến thời Tự Đức,
hoạt động đúc tiền được đẩy mạnh khi nhà vua mở rộng 15 xưởng đúc như ở Bắc Ninh
(1850) Thái Nguyên (1867), Bình Định (1872). Quá trình hoạt động của cục Bảo hóa
cho thấy vai trò quan trọng nhất của Cục là đúc mẫu và căn cứ vào nhũng lần đúc thử
lớn ở đây để Nhà nước định ra thành phần kim loại, lệ hao phí và tính toán nhân công,
vật liệu cho việc đúc tiền trong cả nước.
3.7. Quá trình biến chuyển tên gọi quan lại ở Vũ khố
Năm Giáp Tý (1804), triều đình Nguyễn bàn định quan chế, theo đó người đứng
đầu cơ quan Đồ gia có chức quan Câu kê, giữ trật Tản giai tòng Ngũ phẩm, sau đó đến
chức quan Cai hợp, giữ trật Tản giai tòng lục phẩm, tiếp theo lần lượt Thủ hợp trật tản
giai tòng thất phẩm, Bản ty trật tản giai tòng bát phẩm, cuối cùng là Thư lại vị nhập
lưu giữ trật Tản giai tòng cửu phẩm [78, tr.595-596].
Năm Tân Tỵ (1821), một năm sau khi nối ngôi, vua Minh Mệnh bắt đầu điều
chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của các bộ, nha, trong đó có Vũ khố. Theo như việc
định ngạch nhân sự mới ở Vũ khố, cho thấy dưới triều vua Minh Mạng, các chức quan
như Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, Bản ty đã không còn, thay vào đó là các chức Lang
trung, Chủ sự, Tư vụ, Thư lại Bát cửu phẩm. Như vậy, có thể hiểu rằng vào đầu năm
1821, khi tiến hành điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của các bộ, nha, vua Minh
Mệnh đã đổi đặt chức danh, đồng thời đặt thêm số người của các chức danh này tại Vũ
94
khố. Theo cách hiểu này, chức Câu kê trật Tản giai Tòng ngũ phẩm bị xóa bỏ1, thay
thế vào đó là chức Lang trung trật Chánh ngũ phẩm, chức Cai hợp Tản giai Tòng lục
phẩm được thay thế bằng chức Chủ sự trật Chánh lục phẩm, chức Thủ hợp Tản giai
Tòng thất phẩm được thay thế bởi chức Tư vụ trật Chánh thất phẩm, chức Bản ty Tản
giai Tòng bát phẩm được thay thế bằng chức Thư lại Chánh bát, cửu phẩm. Việc đặt
các chức mới như Lang trung, Chủ sự, Tư vụ… không chỉ diễn ra ở nha Vũ khố mà ở
các Bộ, Nha khác.
Bên cạnh việc thay thế tên gọi các chức quan ở Vũ khố, năm 1825 vua Minh
Mệnh còn cho đặt thêm chức Thiêm sự ở Nha này. Theo như lời Dụ của vua Minh
Mệnh, công việc của nha Vũ khố trước đó thường lấy thêm các viên quan trật Thiêm
sự ở các Bộ để bổ sung vào làm việc, nay được cho đặt riêng một chức Thiêm sự mới
và do Vũ khố quản lý. Nhưng cũng theo chỉ dụ trên, việc đặt thêm chức Thiêm sự lại
lấy từ chức vụ Lang trung Vũ khố sang. Đại Nam thực lục chép: “Ất Dậu, năm Minh
Mệnh thứ 6 [1825], bắt đầu đặt chức Thiêm sự ở Nội vụ phủ và Vũ Khố. Trước kia
công việc các nha ấy đều lấy những người trật Thiêm sự ở các Bộ sung làm, đến nay
mới đặt riêng. Lấy thự Thiêm sự Hộ bộ là Lê Bá Tư làm Thiêm sự Nội vụ phủ, Lang
trung Vũ Khố giám Tạo các cục Bắc Thành là Trần Văn Hoằng làm Thiêm sự Vũ
Khố” [79, tr.393]. Như vậy, bắt đầu từ năm Ất Dậu (1825), ở kho Vũ khố có thêm 1
chức quan mới là Thiêm sự.
Sau một quá trình điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự trong bộ máy hành chính
nhà nước, vua Minh Mệnh nhận thấy hệ thống quan chế tồn tại từ thời Gia Long đã trở
nên không phù hợp với tình hình mới của đất nước. Do vậy, vị vua thứ hai triều
Nguyễn đã cho hoạch định lại quan chế văn giai, võ giai, kèm theo đó với ý nghĩa “nay
đất nước thăng bình, nhà nước nhàn rỗi, đáng nên tỏ rõ chế độ đời thái bình để mãi về
sau” [79, tr.655]. Và trong cuộc tổng duyệt định lại quan chế năm Đinh Hợi (1827),
vua Minh Mệnh đã cho thay đổi tên gọi và đặt thêm một số chức quan trong bộ máy
hành chính từ trung ương đến địa phương. Đối với nha Vũ khố, triều đình Nguyễn thời
1 Tác giả Đỗ Bang không rõ dựa vào tài liệu nào đã cho rằng: Năm 1827 “bỏ chức Câu kê và đặt chức Viên Ngoại lang” [7, tr.64]. Song trên thực tế, việc bỏ các chức Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp đã được tiến hành từ năm 1821, và muộn nhất là đến năm 1827, kết thúc việc xóa bỏ chức vụ trên.
kỳ vua Minh Mệnh lần đầu cho đặt chức Thị lang Vũ khố giữ làm người đứng đầu kho
95
với trật trật Chánh tam phẩm1. Đây cũng là lần đầu tiên, chức Thị Lang xuất hiện trong
cơ cấu tổ chức quan lại Vũ khố nói riêng và cơ cấu nhân sự các Bộ, Nha trong triều
đình nhà Nguyễn nói chung.
Cùng với việc đặt thêm chức Thị lang vào trong hệ thống quan lại triều Nguyễn,
dẫn đến sự thay đổi phẩm trật ở các chức quan Lang trung và Viên ngoại lang. Sau khi
được đặt mới vào đầu năm 1821, Lang trung có trật Chánh ngũ phẩm, song đến đợt
định quan chế này, chức Lang Trung có trật Chánh tứ phẩm, chức Viên ngoại lang có
trật Chánh ngũ phẩm [79, tr.655-657]. Cũng trong đợt định quan chế văn giai, võ giai
này không thấy nhắc đến chức quan Thiêm sự trong hệ thống quan lại ở nha môn Vũ
khố triều Nguyễn. Theo Đại Nam thực lục, ba tháng sau khi hạch định quan chế mới,
triều đình nhận thấy các chức quan trong ngoài kinh khi được đặt đối chiếu với quan
chế mới định có nhiều chỗ không hợp lý. Do vậy trên cơ sở quan chế mới, triều đình
nhà Nguyễn đã không chỉ đổi lại tên gọi, phẩm trật mà còn cấp văn bằng để cho rõ thứ
tự các ban quan văn võ và tên gọi được chính xác. Theo đó “cho đổi chức Thiêm sự
các nha sáu Bộ làm Lang trung; Lang trung làm Viên ngoại lang…” [79, tr.678]. Như
vậy, chức Thiêm sự, muộn nhất đến năm 1827 đã không còn xuất hiện trong cơ cấu
quan lại Vũ khố triều Nguyễn, và chức vụ này tồn tại chính thức ở Vũ khố, nhiều nhất
cũng chỉ có 3 năm thôi!
Theo Đại Nam thực lục, từ năm Mậu Thìn (1868), cùng với sự tinh giản cơ cấu
nhân sự Vũ khố các chức quan Viên ngoại lang, Chủ sự và Thư lại bát phẩm cũng không còn2. Tiếp đó, đến năm Giáp Thân (1884), chức Lang trung3 không xuất hiện trong các
quan lại ở nha Vũ khố. Như vậy, từ năm Giáp Thân (1884), cơ cấu quan lại ở Vũ khố
chỉ còn lại chức Thị lang làm người đứng đầu, các chức Tư vụ, Thư lại Chánh cửu phẩm
1 Trong đợt định quan chế này (1827), quan lại ở Vũ khố có phẩm trật như sau: - Vũ Khố Thị lang trật Chánh tam phẩm; - Vũ Khố Lang trung trật Chánh tứ phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Viên ngoại lang trật Chánh ngũ phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Chủ sự trật Chánh lục phẩm; - Vũ Khố Thanh thận ty Tư vụ trật Chánh thất phẩm; - Thư lại Vũ Khố Thanh thận ty trật Chánh bát phẩm, Chánh cửu phẩm. [79, tr.655-657]. 2 Đến thời điểm này, Vũ khố chỉ còn lưu lại các chức Thị lang, Lang trung, Tư vụ, Thư lại Chánh cửu phẩm, Thư lại Vị nhập lưu. [84, tr.1157]. 3 Năm 1884, Vũ khố tiếp tục thu hẹp lại, do vậy chức Lang trung cũng không còn [86, tr.93].
và Thư lại Vị nhập lưu làm nhiệm vụ phụ trách các kho và giúp việc cho Thị lang.
96
Tiểu kết chương 3
Quá trình biến chuyển về cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
hành chính của Vũ khố triều Nguyễn đã trải qua các giai đoạn biến đổi từ Gia Long
đến Kiến Phúc. Trong đó, cơ cấu nhân sự trải qua 10 sự thay đổi với xu hướng tăng
trong giai đoạn đầu (1805-1828), và sau đó là một quá trình giảm (1828-1884). Đồng
thời, cơ cấu tổ chức bộ máy có thể xác định trải qua 3 giai đoạn là 1802-1820, 1821-
1829, 1829-1884.
Cùng với quá trình biến chuyển của cơ cấu nhân sự và bộ máy tổ chức là sự thay
đổi tên gọi quan lại ở Vũ khố. Giai đoạn từ năm 1802 đến 1826, Vũ khố thường do một
viên Thiêm sự ở Bộ Binh hoặc Bộ Công kiêm quản. Bắt đầu từ năm 1827, Vũ khố chính
thức do một viên Thị lang trật Chánh tam phẩm đứng đầu, phụ trách tất cả các hoạt động
của Vũ khố. Giúp việc cho Thị lang có các chức Lang trung, Viên ngoại lang.
Trong quá trình hoạt động, các quy định của triều Nguyễn liên quan đến tổ chức
và hoạt động của Vũ khố được không ngừng bổ sung, thay đổi. Các quy định bảo đảm
này rất đa dạng và phức tạp, từ công đường, phẩm phục, ấn triện cho đến chế độ lương
bổng, thanh tra giám sát… Các quy định đó ngày càng chặt chẽ, đảm bảo cho các hoạt
động của Vũ khố được diễn ra với nhịp độ thường xuyên, liên tục và ổn định.
Các hoạt động của Vũ khố triều Nguyễn tập trung vào các nhóm hoạt động như
sản xuất, chế tạo vũ khí, chi phát vũ khí, tích chứa nguyên vật liệu và các hoạt động
khác… Như vậy, Vũ khố không chỉ là cơ quan chế tạo, tích chứa và phân phát vũ khí,
vật liệu lớn nhất trong cả nước thời bấy giờ, mà còn là nơi thực hiện nhiều nhiệm vụ
khác, từ đúc tiền đến chế tạo các loại dụng cụ cân đong, đo đạc…
97
KẾT LUẬN
1. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) hiện còn lại
khá phong phú, đa dạng. Qua việc phân tích, phê phán các nguồn sử liệu trực tiếp như
Chiếu, Chỉ, Dụ trong Châu bản, Ngự chế văn, hay các nguồn sử liệu gián tiếp như Đại
Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại Nam nhất thống chí
cho thấy đây là những tư liệu có độ tin cậy cao, cung cấp những thông tin khá đầy đủ
và cụ thể về Vũ khố.
2. Mỗi loại sử liệu với tư cách là các dấu tích của quá khứ thường mang những
đặc điểm riêng, chứa đựng những thông tin lịch sử ở nhiều mức độ, trên các lĩnh vực
khác nhau. Nguồn sử liệu về Vũ khố triều Nguyễn cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Nguồn sử liệu trực tiếp về Vũ khố như Châu bản, Ngự chế văn cung cấp những thông
tin đa dạng, nhưng còn tản mát, chủ yếu tập trung phản ánh các khía cạnh về cơ cấu
nhân sự, hoạt động chế tạo, sửa chữa, tích chứa vũ khí… của Vũ khố. Trong khi đó,
các nguồn sử liệu gián tiếp như Đại Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam điển lệ
toát yếu, Đại Nam nhất thống chí cung cấp thông tin về Vũ khố có phần phong phú
hơn, từ cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức cho đến các hoạt động sản xuất, chế tạo vũ khí
cũng như vị thế, địa điểm…
3. Vũ khố triều Nguyễn có tiền đề là Ty Lệnh sử Đồ gia thời chúa Nguyễn và
Nguyễn Ánh. Trải qua hai giai đoạn phát triển là Ngoại Đồ gia (1802-1820) và Vũ khố
(1820-1884), cơ quan Vũ khố đã được Gia Long và các vua kế vị không ngừng cố
gắng xây dựng ngày càng kiện toàn hơn, trở thành cơ quan hành chính cấp trung ương
phụ trách kho tàng - quân nhu làm nhiệm vụ chế tạo, tích chứa và phân phát vũ khí,
vật liệu lớn nhất trong cả nước thời bấy giờ. Qua việc phân tích giá trị các nguồn sử
liệu cho thấy, Vũ khố thực sự là một tổ chức “động”, chứ không hề cứng nhắc, bất
biến. Điều này được thể hiện qua một quá trình điều chỉnh, bổ sung từ tên gọi, số
lượng quan lại đến phẩm trật trong cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự của Vũ khố. Cùng
với quá trình đó, các quy định về cơ chế vận hành, quy cách làm việc, chế độ lương
98
bổng, tử tuất, phẩm phục, ấn triện được quy định ngày càng chặt chẽ, chi tiết. Cũng từ
các nguồn sử liệu cho thấy Vũ khố triều Nguyễn có những nhiệm vụ chính thức, từ cơ
quan sản xuất, chế tạo binh khí, lưu trữ, phân phối, chi phát vũ khí, cho đến tích chứa
nguyên vật liệu công. Ngoài ra, Vũ khố còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác, như đúc
tiền, chế tạo cân thiên bình, xe ngọc kính, các dụng cụ đo đạc, cân đong… Điều này
minh chứng Vũ khố triều Nguyễn hoạt động thường xuyên, liên tục.
4. Qua thực tế khảo cứu các nguồn sử liệu trực tiếp cũng như nguồn sử liệu gián
tiếp về Vũ khố triều Nguyễn cho thấy một nguyên tắc quan trọng trong nghiên cứu về
Vũ khố cũng như đối với các công trình nghiên cứu nói chung là cần phải nắm vững
niên đại, nguồn gốc hình thành của các nguồn sử liệu, đồng thời phải kết hợp các nguồn
tài liệu để có thể rút ra được những thông tin lịch sử đáng tin cậy. Khi sử dụng thông tin
để đánh giá, phân tích, người nghiên cứu cần phải kết hợp nhiều nguồn, có kiểm tra, đối
chiếu các nguồn với nhau thì kết quả nghiên cứu mới có thể tiếp cận càng gần đến các
yêu cầu khách quan, trung thực, biện chứng, toàn diện và tổng thể.
5. Nguồn sử liệu về Vũ khố nói riêng, triều Nguyễn nói chung khá phong phú
về nội dung, đa dạng về loại hình, phản ánh quá trình biến chuyển của lịch sử triều
Nguyễn qua các triều vua khác nhau. Đi sâu nghiên cứu kho tàng sử liệu về triều
Nguyễn có thể cung cấp các cơ sở để tiến hành những thao tác xử lý sử liệu học, từ đó
phát hiện, khai thác những thông tin lịch sử quý giá từ kho tàng vô giá ấy. Đây là việc
làm không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, mà còn
trực tiếp ảnh hưởng đến những nhận thức, đánh giá về triều đại phong kiến cuối cùng
trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thuận An (1997), Kiến trúc cố đô Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Phan Thuận An (1983), B.A.V.H mấy trang nhật ký của John Crawfurd về kinh
thành Huế, Tạp chí Sông Hương, số 4, Tr.75-77.
3. Đào Duy Anh (2005), Hán - Việt từ điển giản yếu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
4. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn,
Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Thế Anh (1974), Nhập môn phương pháp sử học, Sài Gòn.
6. Huỳnh Công Bá, Huỳnh Văn Nhật Tiến (2014), Định chế hành chính và quân sự
triều Nguyễn (1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.
7. Đỗ Bang (Chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884, Nxb Thuận Hóa, Hà Nội.
8. Đỗ Bang (Chủ biên) (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều
Nguyễn, những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế.
9. Hà Duy Biển (2015), Định mức lương bổng của quan lại Bộ Binh dưới triều Minh
Mệnh (1820-1840), Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2 (278), Tr.51-56.
10. Châu bản triều Tự Đức 1848-1883 (Tuyển chọn và lược thuật) (2003), Vũ Thanh
Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ quang Phát tuyển chọn và dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
12. Đào Xuân Chúc (1995), Ảnh - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử (Qua tài liệu
ảnh về kháng chiến chống thực dân Pháp), L.A.T.S Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
13. Cục Lưu trữ nhà nước (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập II, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
14. Cục Lưu trữ nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập I, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
100
15. Phan Đại Doãn (Chủ biên) (1998), Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
16. Phan Tiến Dũng (2005), Vai trò của Bộ Công trong việc xây dựng Kinh đô Huế
dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802-1884), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện Sử học
Việt Nam, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Đăng (2001), Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến 1884, Luận
án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
18. Nguyễn Đình Đầu (1978), Góp phần nghiên cứu vấn đề đo, đong, cân, đếm của
Việt Nam xưa, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 5 (105), Tr.65-71; Số 6 (106),
Tr.40-49.
19. Lê Quý Đôn (2007), Vân đài loại ngữ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
20. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
21. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm mũ áo (Lịch sử trang phục Việt Nam giai
đoạn 1009-1945), Nxb Thế giới, Hà Nội.
22. Nguyễn Sĩ Giác (Phiên âm và dịch nghĩa) (1993), Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Vũ Minh Giang (2015), Lịch sử Việt Nam: Truyền thống và hiện đại, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Vũ Minh Giang, Trần Bá Chí (1993), Bước đầu tìm hiểu chế độ quan chức thời
Nguyễn, Tạp chí Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội, Số 6, Tr.27-31.
25. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm, nguồn tư liệu văn học, sử
học Việt Nam, Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội.
26. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-
1847), Luận án Tiến sĩ pháp lý, Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn.
28. Phạm Xuân Hằng (Chủ trì) (1995), Sử liệu học lịch sử Việt Nam, Khoa Lịch sử,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
101
29. Lê Thị Thanh Hòa (1995), Việc sử dụng quan lại của vương triều Nguyễn từ
1802 đến 1884, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 3 (280), Tr.56-63.
30. Hội Khai trí Tiến Đức (1954), Việt Nam tự điển, Nxb Trung Bắc tân văn, Sài
Gòn.
31. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2008), Chúa
Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Huệ (1996), Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng (Qua hiện
vật ở bảo tàng Cách mạng Việt Nam), L.A.T.S Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
33. Nguyễn Thừa Hỷ (2010), Kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long - Hà Nội thế kỷ
XVII-XVIII-XIX, Nxb. Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thị Mai Hoa (2011), Phương pháp phân tích - phê
khảo sử liệu trong nghiên cứu lịch sử (qua trường hợp tìm hiểu quan hệ Việt
Nam - Trung quốc thời kỳ hiện đại, Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2, tr.3-9.
35. Bùi Huy Khiên (2011), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới
triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
37. Công Phương Khương, Hà Duy Biển (2007), Góp phần tìm hiểu trang bị vũ khí
của quân đội Mãn Thanh, Tạp chí Lịch sử quân sự, Số 2, tr.44-47.
38. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2007), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 8 (Hoạt động
quân sự từ năm 1802 đến năm 1896), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Ngô Đức Lập (2014), Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát
triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học
Khoa học - Đại học Huế, Huế.
40. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Phan Huy Lê (2011), Tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà Nội.
102
42. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2012), Lịch sử Việt Nam, Tập II (Từ cuối thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Phan Huy Lê (2014), Châu bản triều Nguyễn những chứng cớ lịch sử - pháp lý về
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, Số 7 (459), Hà Nội, Tr.3-12.
44. Minh Mệnh (2000), Ngự chế văn (Dụ văn), Trần Văn Quyền dịch và chú giải, Hà
Nội.
45. Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông
(1460-1497), Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
46. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -
Thư mục đề yếu, Tập I (A-H), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -
Thư mục đề yếu, Tập II (I-S), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Trần Nghĩa, Francois Gros (Đồng chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam -
Thư mục đề yếu, Tập III (T-Y), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
50. Những người bạn cố đô Huế (BAVH) (2006), Tập XX, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
51. Đỗ Văn Ninh (1992), Tiền cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Đỗ Văn Ninh (1993), Quân đội nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6
(271), Tr.45-53.
53. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập I, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
54. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập II, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
55. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập III, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
56. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập IV, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
103
57. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập V, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
58. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VI, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
59. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VII, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
60. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập VIII, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
61. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập IX, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
62. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập X, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
63. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XI, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
64. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XII, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
65. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
66. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIV, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
67. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XV, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
68. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập I,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
69. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập
III, Nxb Thuận Hóa, Huế.
70. Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Tập X,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
104
71. Nguyễn Danh Phiệt (1993), Suy nghĩ về bộ máy Nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (271), Tr.13-20.
72. Vũ Thị Phụng (2005), Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn 1802-
1884), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
73. Phạm Ái Phương (1998), Khoa học quân sự triều Minh Mệnh trước ảnh hưởng
của phương Tây, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 5 (300), Tr.40-48.
74. Nguyễn Phương (1974), Phương pháp sử học, Sao Mai xuất bản, Huế.
75. Nguyễn Tường Phượng (1950), Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại,
Nxb Ngày mai, Hà Nội.
76. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884), Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, Nxb Thuận Hóa, Huế.
78. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
79. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
80. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập III, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
81. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập IV, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
82. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập V, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
83. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VI, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
84. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VII, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
85. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập VIII, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
105
86. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, Tập IX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
87. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục, Chính biên Đệ lục kỷ Phụ
biên (Cao Tự Thanh dịch), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục, Chính biên Đệ thất kỷ
(Cao Tự Thanh dịch), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
89. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập I, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
90. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định việt sử thông giám cương mục,
Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
91. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh địa dư chí, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn
Nguyên, Philippe Papin dịch, Viện Viễn Đông Bác cổ xuất bản, Hà Nội.
92. Hồ Văn Quýnh (1995), Phông lưu trữ Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội
(1954-1975) - nguồn sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô, L.A.T.S Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
93. Lê Đình Sĩ (1999), Việt Nam những sự kiện quân sự thế kỷ XIX, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
94. Trần Đức Anh Sơn (1994), Một số đính chính về niên đại các vua triều Nguyễn,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 4 (275), Tr.69-72.
95. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, Quyển IV (Từ Tây Sơn mạt điệp đến
Nguyễn sơ), Nxb Đại Nam, Sài Gòn.
96. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1993), Nhà Nguyễn trong lịch sử nửa đầu thế kỷ
XIX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (271), Tr.1.
97. Nguyễn Hữu Tâm (2008), Khái quát tình hình nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn
của các học giả Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, Số 391+392 (11+12), Tr.44-55.
98. Trần Thanh Tâm (Chủ biên) (1998), Từ điển địa danh thành phố Huế, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
106
99. Bùi Thị Tân (1998), Vũ Huy Phúc, Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công
nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
100. Hà Văn Tấn (2007), Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.
101. Minh Thành (1993), Thư mục về nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6
(271), Tr.70-91.
102. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư
liệu địa bạ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
103. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
104. Chu Thiên (1961), Vài nét về công thương nghiệp triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 12 (33), Tr.47-62.
105. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển bách
khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
106. Tạ Chí Đại Trường (1973), “Tiền kẽm và cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Nam Hà
vào hậu bán thế kỷ XVIII”, Nghiên cứu Việt Nam, Tập I, Nhà Sùng Chính xuất
bản, Huế.
107. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh (2012), Sử học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
108. Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820-
1840), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Nguyễn Minh Tường (2015), Sự ra đời của tiền lương trong lịch sử và chế độ
tiền lương dưới thời quân chủ Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 5 (469);
Tr.3-12; Số 6 (470), Tr.18-26.
110. Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
tại Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn,
Nxb Khoa học xã hội.
107
111. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2009), Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm
1789, Nxb. Quân Đội nhân dân, Hà Nội.
112. Nguyễn Công Việt (2005), Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Trần Thị Vinh (2002), Thể chế chính trị thời Nguyễn (Dưới triều Gia Long, Minh
Mệnh), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 6 (325), Tr.3-11.
114. Trần Thị Vinh (2004), Thể chế chính quyền ở Đàng Trong dưới thời các chúa
Nguyễn (Thế kỷ XVI-XVIII), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 10 (341), Tr.3-13.
115. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA TÁC GIẢ NƢỚC NGOÀI
116. Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
117. Emmanuel Poisson (2006), Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam - Một bộ máy hành
chính trước thử thách (1820-1918), Đào Hùng và Nguyễn Văn Sự dịch, Nxb. Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
118. John Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
119. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và
XVIII, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
120. Đường Tiến, Trịnh Xuyên Thủy (Chủ biên) (1993 Trung Quốc quốc gia cơ cấu sử
(Lịch sử cơ cấu nhà nước Trung Quốc), Liêu Ninh nhân dân xuất bản xã, Thẩm Dương.
121. Topolsky (1978), Phương pháp luận sử học, tập II, Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp xuất bản, Hà Nội.
122. Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Bản
dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản.
108
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC
SỐ SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VŨ KHỐ
STT TRIỀU VUA
THỜI GIAN
Tổng số
Cơ cấu tổ chức + nhân sự
Hoạt động sản xuất vũ khí, đúc tiền
Thanh tra, hoạt động khác
Lƣơng bổng, phẩm trật, công đƣờng, ấn tín, quan phục
10
3
2
2
3
[78, tr.642]
[78, tr.595-598]
1
Gia Long
[78, tr.633]
[78, tr.573]
1802- 1819
Nguồn
[78, tr.703]
[78, tr.791]
[78, tr.868]
[78, tr.902]
[78, tr.868]
[78, tr.658-661]
92
16
6
22
48
[79, tr.111]
[79, tr.60]
[79, tr.39]
[79, tr.298]
[79, tr.139]
[79, tr.89]
[78, tr.60]
[79, tr.655-657]
2
Minh Mệnh
[79, tr.206]
[79, tr.94]
[79, tr.141]
[80, tr.190]
1820- 1840
Nguồn
[79, tr.299]
[79, tr.112]
[79, tr.141]
[81, tr.661]
[79, tr.140]
[82, tr.565-566]
[79, tr.316-317]
[79, tr.393]
[82, tr.609-611]
[79, tr.351]
[79, tr.203-204]
[79, tr.441]
109
[79, tr.553]
[79, tr.431]
[79, tr.207]
[79, tr.707]
[79, tr.516]
[79, tr.246]
[79, tr.779]
[79, tr.618]
[79, tr.304]
[79, tr.924-925]
[80, tr.77]
[79, tr.360]
[80, tr.51]
[80, tr.325-326]
[79, tr.406]
[80, tr.114]
[80, tr.520]
[79, tr.424]
[80, tr.918]
[80, tr.774]
[79, tr.498]
[81, tr.623]
[81, tr.189]
[79, tr.519-520]
[81, tr.749]
[81, tr.209]
[79, tr.520]
[81, tr.935]
[81, tr.358]
[79, tr.640]
[81, tr.605]
[79, tr.703]
[81, tr.649]
[79, tr.712]
[81, tr.796]
[79, tr.725]
DNTL, V, 551;
[79, tr.734]
DNTL, V, 822;
[79, tr.745]
DNTL, V, 861.
[79, tr.897-898]
[80, tr.60]
[80, tr.157]
[80, tr.171-172]
[80, tr.174]
110
[80, tr.194-195]
[80, tr.313]
[80, tr.317]
[80, tr.446-447]
[80, tr.792]
[80, tr.863]
[81, tr.216]
[81, tr.352]
[81, tr.495-496]
[81, tr.1031]
[82, tr.27]
[82, tr.121]
[82, tr.191]
[82, tr.192]
[82, tr.277]
[82, tr.323]
[82, tr.364]
[82, tr.403]
[82, tr.412-413]
[82, tr.499]
111
[82, tr.639]
[82, tr.756]
[82, tr.870]
17
0
0
5
12
[83, tr.64-65]
[83, tr.370]
[83, tr.380]
[83, tr.89]
[83, tr.394]
[83, tr.468]
[83, tr.480]
3
Thiệu Trị
[83, tr.545]
1841- 1847
Nguồn
[83, tr.521]
[83, tr.1002-1003]
[83, tr.545]
[83, tr.1032-1034]
[83, tr.675]
[83, tr.689]
[83, tr.702]
[83, tr.725]
[83, tr.778-780]
31
2
1
21
7
4
Tự Đức
[84, tr.182]
[84, tr.440]
[84, tr.608]
1848- 1883
Nguồn
[85, tr.420]
[84, tr.1157]
[84, tr.599-600]
[84, tr.618]
112
[84, tr.623]
[84, tr.643]
[84, tr.635]
[84, tr.670-671]
[84, tr.671]
[84, tr.789]
[84, tr.709]
[84, tr.881]
[84, tr.1341]
[84, tr.887]
[84, tr.924]
[84, tr.1094]
[84, tr.1325]
[84, tr.1331]
[84, tr.1367-1368]
[84, tr.1369-1370]
[84, tr.1379]
[85, tr.24-25]
[85, tr.39-40]
[85, tr.67]
[85, tr.127-128]
[85, tr.276-277]
[85, tr.377]
[85, tr.418]
[85, tr.587]
113
[85, tr.597]
4
2
1
0
1
1884
5
Kiến Phúc
[86, tr.94-95]
[86, tr.93]
Nguồn
[86, tr.107]
[86, tr.118]
154
23
11
6
36
84
Tổng số
114
PHỤ LỤC 2: TỜ CHÂU BẢN SỐ 47 TẬP 3
NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM GIA LONG 15 (1816)
115
PHỤ LỤC 3: TỜ CHÂU BẢN SỐ 10 TẬP 17
NGÀY 4 THÁNG 4 NĂM MINH MỆNH 7 (1826)
116
117
118
ẤN TÍN Ở VŨ KHỐ
119
120