ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

VI THỊ THỎA

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ RABINDRANATH TAGORE LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

VI THỊ THỎA

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ RABINDRANATH TAGORE

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Vi Thị Thỏa

Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của người hướng dẫn khoa học

TS. Hoàng Thị Thập

i

LỜI CẢM ƠN

Bằng tình cảm trân trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn cô giáo,

TS. Hoàng Thị Thập đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong

quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn,

khoa Sau đại học - trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ,

đóng góp nhiều ý kiến quý báu và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời

gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên,

khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Vi Thị Thỏa

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan .................................................................................................................. i

Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................................ iii

Danh mục các bảng ....................................................................................................... iv

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 10

5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 11

6. Dự kiến đóng góp của luận văn ........................................................................... 11

7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 11

Chương 1: THẠCH LAM VÀ R.TAGORE: THỜI ĐẠI - NHỮNG ĐIỂM

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT ........................................................................... 12

1.1. Thời đại ............................................................................................................. 12

1.1.1. Xã hội ......................................................................................................... 12

1.1.2. Văn hóa ....................................................................................................... 15

1.2. Cuộc đời, sự nghiệp của Thạch Lam và R.Tagore ............................................ 20

1.2.1. Cuộc đời, con người ................................................................................... 20

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác ...................................................................................... 25

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 34

Chương 2: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG

TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ R.TAGORE NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................................... 35

2.1. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore .... 35

2.1.1. Khái niệm nhân vật và hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học ........ 35

2.1.2. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore .... 37

2.2. Hình tượng nhân vật phụ nữ ............................................................................. 44

iii

2.2.1. Phụ nữ - hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên ...................................................... 44

2.2.2. Phụ nữ và khát vọng hạnh phúc ................................................................. 48

2.2.3. Phụ nữ - hiện thân của bi thương ............................................................... 51

2.3. Hình tượng nhân vật trẻ em .............................................................................. 55

2.3.1. Trẻ em - hiện thân của sự trong sáng ......................................................... 55

2.3.2. Trẻ em - hiện thân của sự bất hạnh ........................................................... 57

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 60

Chương 3: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG

TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ R.TAGORE NHÌN TỪ PHƯƠNG

DIỆN HÌNH THỨC THỂ HIỆN .............................................................................. 61

3.1. Ngoại hình của nhân vật .................................................................................... 61

3.1.1. Những chân dung ngoại hiện hoàn chỉnh ................................................... 61

3.1.2. Những chân dung ngoại hiện không hoàn chỉnh ........................................ 64

3.2. Tâm lý của nhân vật .......................................................................................... 66

3.2.1. Chân dung tâm lý hoàn chỉnh ..................................................................... 66

3.2.1. Những mảnh vỡ tâm lý ............................................................................... 69

3.3. Giọng điệu kể chuyện ....................................................................................... 74

3.3.1. Giọng điệu thương cảm .............................................................................. 74

3.3.2. Giọng điệu trân trọng ................................................................................. 79

3.3.3. Giọng điệu triêt lý ....................................................................................... 82

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 85

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 89

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam ........... 37

Bảng 2.2: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của R.Tagore ........ 40

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Thạch Lam (1910 - 1942) là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện

đại giai đoạn 1930 - 1945. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tỏa sáng

nhất nhóm Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, khác các nhà văn Tự lực văn đoàn, Thạch

Lam tìm cho mình một hướng đi riêng: kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và lãng

mạn. Hướng đi ấy thể hiện bản lĩnh, cá tính của một cây bút giàu tính nhân văn, một

tâm hồn nhạy cảm, một văn phong trong sáng, tinh tế.

Đóng góp của Thạch Lam khá khiêm tốn về số lượng, nhưng ông đã để lại di sản

văn học quý báu ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký. Làm nên tên tuổi của nhà

văn là truyện ngắn. Những tác phẩm của ông không chỉ khẳng định sự nghiệp của một

nhà văn mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển của văn học Việt Nam.

Ngòi bút Thạch Lam luôn hướng về phía những người nghèo khổ với tấm lòng

trắc ẩn chân thành. Khung cảnh thường thấy trong các truyện ngắn của ông là những

vùng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn, những khu ngoại ô nghèo khổ,

buồn vắng... Trong khung cảnh ấy, nhân vật hiện ra với vẻ thảm đạm, lầm than đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em. Họ không chỉ là hình ảnh nổi bật mà đã trở thành những

hình tượng trong tác phẩm. Qua đó, người đọc cảm nhận được thế giới hiện thực,

thấu hiểu được nhân sinh quan của nhà văn. Nhờ thế, dù truyện ngắn của Thạch Lam

ra đời đã hơn 50 năm vẫn luôn hấp dẫn người đọc và giới nghiên cứu.

Rabindranath Tagore (1861 - 1941) là hiện tượng kiệt xuất của văn học Ấn Độ

thế kỷ XX. Sau khi nhận giải Nobel văn học năm 1913, tên tuổi của R.Tagore được cả

thế giới biết đến. Ông thuộc số không nhiều những vĩ nhân mà tự bản thân họ đã trở

thành biểu tượng cho năng lực sáng tạo của con người trên trái đất. Suốt cuộc đời cầm

bút miệt mài, ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm nhiều thể loại:

thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn... lĩnh vực nào ông cũng thành công xuất sắc. Riêng

truyện ngắn, với hơn 100 tác phẩm, ông được xem là bậc thầy của thể loại truyện ngắn

thế kỷ XX.

Gần giống Thạch Lam, truyện ngắn của R.Tagore viết về nhiều đề tài nhưng

ám ảnh nhiều nhất với độc giả là những truyện viết về phụ nữ, trẻ em. Sinh ra trong

một gia đình quý tộc, nhưng ông đã nhìn cuộc sống của họ không phải bằng sự hiếu

kỳ mà bằng sự quan tâm và mối thiện cảm đặc biệt của một “nhà nhân đạo chủ

nghĩa”. Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về R.Tagore nhưng chủ yếu

1

nghiên cứu về thơ và tiểu thuyết. Các công trình nghiên cứu truyện ngắn chưa nhiều

nên đây vẫn còn là mảnh đất giàu tiềm năng để tiếp tục khai thác.

Đến với truyện ngắn của R.Tagore, người đọc bắt gặp ở đó những thân phận phụ nữ bất hạnh, những đứa trẻ không có được niềm vui dù là nhỏ nhất. Những nhân

vật ấy không chỉ phản ánh hiện thực của một thời mà còn gợi bao ý nghĩa về thân

phận con người nói chung. Nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện

ngắn R.Tagore sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về thiên tài vĩ đại này.

1.2. Văn học so sánh là tên gọi một hệ phương pháp luận, không chỉ cho phép

người nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác nhau theo quan

hệ giao lưu mà còn có thể so sánh văn học theo quan hệ tương đồng. Ấn Độ và Việt

Nam là hai quốc gia Châu Á. Dù có rất nhiều khác biệt nhưng cũng có những điểm

gần giống nhau. Văn học hiện đại của hai nền văn học đều có cơ sở xã hội là những nước thuộc địa của các đế quốc phương Tây. Tuy không hoàn toàn trùng khít thời

gian sinh trưởng, sáng tác nhưng Thạch Lam và R.Tagore đều sáng tác vào những

thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Với tư cách sáng tạo cá nhân, hai nhà văn này thành công

ở thể loại truyện ngắn. Những điều kiện trên là cơ sở cho phép chúng tôi nghiên cứu,

so sánh truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore ở phương diện hình tượng nhân vật

trong quan hệ tương đồng. Thực tế, có thể có những nghiên cứu độc lập về tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore, nhưng đặt hai nhà văn này trong thể đối sánh để thêm

một cách đọc hiệu quả hơn vẫn là chuyện hết sức mới mẻ, cần thiết.

1.3. Tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore đã được đưa vào chương trình Ngữ

văn Trung học cơ sở, Ngữ văn Trung học phổ thông và chuyên ngành văn ở các

trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Trong xu thế đổi mới giáo dục và xu hướng toàn

cầu hóa, việc mở rộng, giao lưu, hội nhập rất quan trọng. Việc dạy - học tác phẩm

trong nhà trường ở Việt Nam không chỉ bó hẹp trong phạm vi các tác phẩm đơn lẻ mà

cần phải mở rộng, tích hợp để tăng hiệu quả thẩm mĩ, giáo dục. Chọn “Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore” làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi muốn góp phần vào việc dạy - học tác phẩm của hai nhà văn này ở Việt Nam một cách hiệu quả hơn.

2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn Thạch Lam

2.1.1. Nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn Thạch Lam Sự xuất hiện của Thạch Lam trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với chặng đường mới trong văn xuôi nghệ thuật nói chung và truyện ngắn nói

2

riêng. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày văn phẩm đầu tay của Thạch Lam ra đời,

nhiều công trình đã nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, tác phẩm của ông. Các công trình đó khẳng định đóng góp của ông vào công cuộc hiện đại hóa văn học nước nhà.

Trong đó, có một số công trình viết về hình tượng phụ nữ và trẻ em. Chúng tôi sẽ

điểm qua một số tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài.

Nguyễn Hoành Khung trong Thạch Lam - một khuynh hướng truyện ngắn

(Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, 1989) nhận xét: “Thạch Lam đặc biệt

quan tâm, cảm thông và xót thương đối với cuộc đời vất vả mỏi mòn và những hy

sinh thầm lặng của người phụ nữ nghèo” [dẫn theo 22, tr.297]. “Họ dường như sinh

ra để yêu thương, nhường nhịn và chỉ sống bằng nhường nhịn, hy sinh, và cuộc đời

chỉ là những chắp vá lo âu, sầu tủi, ngày nọ nối tiếp ngày kia (Cô hàng xén). Họ còn

là nạn nhân thê thảm của những tập tục phong kiến tàn ác, bị hành hạ đến mức phải

tìm đến cái chết, nhưng vẫn cứ phải sống để chịu đựng, chỉ được chết ngay trong lúc

sống” (Hai lần chết, Một đời người) [dẫn theo 22, tr.297].

Nguyễn Công Thắng đã nhận định ở bài viết Thạch Lam trong Gió lạnh đầu

mùa (1992): “Qua lăng kính nhân bản của Thạch Lam, những mẹ Lê, cô Tâm, Lan,

Nga... hiện ra trong dáng vẻ buồn rầu, lặng lẽ nhưng dịu dàng, tha thiết đến kỳ lạ”

[dẫn theo 22, tr.374].

Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp (1994) khẳng định: “Nhân vật nữ

trong truyện ngắn Thạch Lam thường mang vẻ đẹp của sự kín đáo, tế nhị. Có vẻ họ hơi cũ

một tý nhưng thật ra đó là nữ tính đậm đà của người phụ nữ Việt Nam” [dẫn theo 22, tr.353].

Trong Thế giới nhân vật của Thạch Lam (1997), Hà Văn Đức nhận xét:

“Trong tác phẩm của mình, Thạch Lam thường viết về người dân nghèo với một niềm

cảm thương chân thành, man mác. Niềm cảm thương đó trở nên đặc biệt sâu sắc khi

ông nói đến thân phận của những người mẹ, người vợ Việt Nam đảm đang, tần tảo,

giàu đức hy sinh”. Và “Trong tác phẩm của Thạch Lam ta bắt gặp khá nhiều những

khuôn mặt trẻ thơ. Những đứa trẻ ấy mang một kiếp sống nghèo khổ từ tấm bé, cuộc

sống của chúng thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần” [dẫn theo 22, tr.335].

Giáo sư Phong Lê trong Thạch Lam - Tinh tế và đằm thắm tình người (Vẫn

chuyện văn và người, 1999) nhận xét: “Ngòi bút Thạch Lam tinh tế và đằm thắm biết

bao trên những trang văn về người phụ nữ và con trẻ... Từ ngày tập truyện ngắn đầu

tay Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam ra đời cho đến nay, nhiều truyện ngắn của ông

vẫn làm ta xúc động, xót xa, thương cảm cho số phận con người. Dù ở xã hội nào,

người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ hơn cả chính là phụ nữ và trẻ em. Có lẽ bởi vậy

3

mà họ luôn là đối tượng được các thế hệ nhà văn quan tâm nhất. Thạch Lam cũng

vậy, hình ảnh phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của ông luôn khắc sâu vào ký ức

người đọc về sự tồn tại của kiếp người” [dẫn theo 22, tr.289].

Góp tiếng nói vào vấn đề này, Lê Tâm Chính trong Thế giới trẻ thơ qua đôi

mắt Thạch Lam (2000), nhận xét: “Các nhân vật trẻ thơ của Thạch Lam có những

khuôn mặt riêng: đẹp nhưng buồn” [dẫn theo 22, tr.419]; “Những trang viết về trẻ thơ

của Thạch Lam bao giờ cũng man mác một thứ tình âu yếm. Nó nhẹ nhàng mà ám

ảnh. Cái tình âu yếm ấy không chỉ là cái nhìn nhân hậu, yêu thương của người lớn

giành cho lứa tuổi này mà còn là sự hóa thân của nhà văn vào lũ trẻ, là sự ám ảnh của

tuổi thơ Thạch Lam gắn với cái phố huyện Cẩm Giàng” [dẫn theo 22, tr.427]. Lê Tâm

Chính đã chú trọng đến cái nhìn của nhà văn đối với trẻ em trong các sáng tác trữ tình

đượm buồn của tác giả. Theo Lê Tâm Chính, đây cũng chính là nhân tố tạo nên

phong cách, tính nhân văn đằm sâu cho trang viết Thạch Lam.

Luận văn của Nguyễn Thị Mộng Thơ: “Hình tượng nhân vật trẻ em trong các

sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám

1945” (2011) nghiên cứu về mối quan hệ của trẻ em với hoàn cảnh sống và mối quan

hệ với chính mình. Trong đó, Nguyễn Thị Mộng Thơ cho rằng: những đứa trẻ dù

sống trong cảnh lầm than, đói khổ nhưng khao khát, ước mơ của những tâm hồn trẻ

thơ ấy vẫn không bao giờ lụi tắt, cứ âm ỉ chờ dịp phát sáng.

Phạm Thị Quyên trong luận văn: “Người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch

Lam” (2013), đã đi vào khám phá đời sống, thân phận người phụ nữ trong quan hệ

với đời sống xã hội, trong mối quan hệ với gia đình, với tình cảm và khao khát riêng

tư. Tác giả nhận định: “Bằng ngòi bút của mình, Thạch Lam đã cho người đọc hình dung

về cuộc đời chung của những người phụ nữ trong xã hội những năm 1930 - 1945. Ở đó,

người phụ nữ luôn là người chịu nhiều cơ cực, bất hạnh. Chính nét vẽ này khiến văn

Thạch Lam mang chất hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo” [35, tr.63].

2.1.2. Nghiên cứu so sánh Thạch Lam với nhà văn nước ngoài

Việc so sánh truyện ngắn Thạch Lam với các tác giả khác đã được đề cập đến

nhưng so sánh truyện ngắn của Thạch Lam với tác giả nước ngoài còn rất ít công

trình thực hiện. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, phần lớn việc so sánh tác giả

Thạch Lam với các tác giả nước ngoài chỉ tập trung ở một số bài viết, cụ thể như sau:

Nguyễn Công Thắng trong bài: Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa (1992)

nhận định: “Thạch Lam làm ta nhớ đến Tchékhov, Paustovsky, Saroya, chậm rãi

buồn buồn, như thoáng qua mà níu kéo da diết” [dẫn theo 22, tr.372].

4

Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp (1994) nhận xét: “Đọc Thạch Lam,

tôi cứ nghĩ đến câu nói của Rômanth Rôlăng đại ý: có những nhà văn mà tác phẩm của

họ làm thành người”[dẫn theo 22, tr.352]. Và “Đọc Thạch Lam chúng ta thấy văn của

ông tựa hẳn vào cảm giác mà thành. Nhân vật của ông nhận biết thế giới xung quanh

và giao hòa tâm hồn người khác chủ yếu nhờ cảm giác, thông qua cảm giác. Nhân

đọc lại Thạch Lam, chúng tôi nhớ ngay đến Pauxtốpxki (Nga), Hêminhuây (Mỹ),

Môroa (Pháp)... những bậc thầy truyện ngắn mà sức mạnh của ngòi bút chính

nhờ vào trực giác” [dẫn theo 22, tr.357].

Tác giả Thụy Khuê trong bài viết Thạch Lam (2004) đã tìm ra điểm tương đồng

giữa Thạch Lam và Tchekhov: như Tchekhov, Thạch Lam cũng chỉ viết được đoản thiên

(truyện dài duy nhất Ngày mới chỉ là một truyện ngắn kéo dài) và Thạch Lam không viết

luận đề cũng không bịa ra những tình huống éo le cho hợp với “chủ đề”.

Luận văn: Truyện ngắn Thạch Lam - truyện ngắn Pauxtôpxki - sự gặp gỡ về

phong cách nghệ thuật (2010) của tác giả Trần Thị Thắm đã làm rõ những đặc điểm

về quan niệm nghệ thuật, nội dung tự sự trong truyện ngắn của Thạch Lam so sánh

với Pauxtôpxki để thấy sự “giao thoa” trong đặc sắc truyện ngắn giữa họ.

Tác giả Vi Li trong bài viết: Gặp Thạch Lam ở Cẩm Giàng thì nhận định: “Mỗi

truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Mỗi chữ Thạch Lam là sương ngọc, từ

tâm hồn mẫn cảm, nước mắt cho ta thanh lọc tinh thần. Truyện không có chuyện mà

chữ có hồng cầu, Thạch Lam như Ivan Bunin (1870 - 1953) của Nga, văn khiết tình,

thê mỹ” [19, tr.2].

Tác giả Thanh Huyền trong bài viết: Cảm nhận về những em bé trong Gió lạnh

đầu mùa, Trong lòng mẹ, Bố của Xi mông (2014) đã so sánh những nhân vật trẻ em trong

các sáng tác của Thạch Lam với Nguyên Hồng và Mô-pa-xăng để thấy những em bé ấy

đều đáng yêu, đáng quý, đáng thương. Thanh Huyền nhận định: Qua hình ảnh các em,

các nhà văn đã cất lên tiếng nói phê phán xã hội vô nhân đạo đã chà đạp lên cả những

tâm hồn trẻ thơ trong sáng, cướp đi cả cuộc sống và ước mơ bình dị của các em.

Nguyễn Thanh Phong ở bài viết: Cảm nhận về hình tượng người bà trong “Bà

tôi” của M.Goocki và “Về thăm bà” của Thạch Lam (2016) đã so sánh hình tượng

người bà trong hai tác phẩm để chỉ ra điểm giống và khác nhau của người phụ nữ ở

hai nền văn hóa. Tác giả cảm nhận: “Bà ngoại của Mácxim Gooki là người Nga hẳn

khác bà của Thạch Lam về hình thể nhưng lại giống nhau ở tấm lòng nhân hậu, giống

nhau về tình cảm trìu mến, yêu thương giành cho con cháu” [59]. Cuối cùng tác giả

đã nhận định: cả hai hình tượng người bà đều có sức lay động lớn bởi nó chạm được

5

tới nhịp đập nóng hổi của nhân sinh, đánh thức sự rung động trước niềm yêu của bao

người bởi cái tình họ giành cho nhau.

2.2. Tình hình nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn R.Tagore

2.2.1. Nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn R.Tagore ở

nước ngoài

Trên thế giới và ở quê hương R.Tagore, có rất nhiều công trình nghiên cứu về

truyện ngắn của ông nhưng vì trình độ ngoại ngữ có hạn, chúng tôi chưa thể bao quát.

Xét về mặt số lượng, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về ông vô cùng lớn,

điều đó chứng tỏ giới nghiên cứu rất quan tâm tới tác phẩm của R.Tagore. Sự nghiệp

của ông nói chung, thể loại truyện ngắn nói riêng được cả thế giới trân trọng và

ngưỡng mộ.

Các công trình nghiên cứu chuyên sâu truyện ngắn của ông có thể kể đến:

Truyện ngắn Rabindranath Tagore (Rabindranath Tagore’s Short Stories, 1961) của

Nirmalkumar Sidhanta; Nghiên cứu so sánh truyện ngắn của Chekhov và Tagore

(Chekhov and Tagore: A Comperative Study of their Short Stories, 1985) của Sankar

Basu; Tác phẩm viết bằng tiếng Anh của Ấn Độ (Indian writing in English, 2001) của

Srinivasa Iyengar; Nghiên cứu phê bình truyện ngắn Tagore (Tagore’s Short Stories:

A Critical Study, 2004) của Hariom Prasad; Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn

Tagore (Pathos in the Short Stories of Rabindranath Tagore, 2009) của K.V

Dominic… Nhìn chung, các công trình này đều tập trung nghiên cứu chuyên sâu về

mặt nội dung và nghệ thuật truyện ngắn R.Tagore. Nghệ thuật truyện ngắn của ông

được đánh giá rất cao, Sukuma Sen cho rằng: “Tagore là nhà văn đầu tiên viết truyện

ngắn thực sự bằng tiếng Bengali và cho đến nay vẫn là nhà văn viết truyện ngắn hay

nhất”. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định R.Tagore là nhà văn đã khai sinh ra thể

loại truyện ngắn trong nền văn học Ấn Độ vào những năm 90 của thế kỷ XIX. Cũng

chính ông là người đã đưa thể loại này đến đỉnh cao bằng những sáng tác của mình.

B. Chaudhuri nhận định: “Truyện ngắn bằng tiếng Bengali đã có được những

mùa hoa thật rực rỡ đầu tiên trong tác phẩm của Tagore. Văn học hiện đại của Bengal

đã bước vào một kỷ nguyên mới với sự khởi đầu của thời kỳ Rabindranath viết truyện

ngắn” [dẫn theo 9, tr.92]. Lời nhận định này được viết vào những năm 60 của thế kỷ

XX, từ đó đến nay kỹ thuật viết truyện ngắn tại quê hương R.Tagore đã có những

bước tiến rất xa nhưng nền móng ban đầu mà R.Tagore xây dựng cùng vị trí tiên

phong của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị.

6

Giáo sư phê bình người Bengal Promonthonath Bishi năm 1961 cũng góp

tiếng nói khẳng định tài năng của R.Tagore: Không có một nhà văn Bengal nào có thể

tạo ra nhiều nét đặc sắc như R.Tagoge đã làm đối với tác phẩm của mình... không chỉ

là từ việc điểm những con số, mà trong sự khác biệt ở những nét đặc sắc này là cả

một sự sáng tạo tuyệt vời.

Năm 1967, ở bài viết Truyện ngắn của R.Tagore in trong tập Rabindranath

Tagore, do nhà xuất bản Twayne (New York) phát hành, tác giả Mary. M. Lago cho

rằng: truyện ngắn của R.Tagore được xem là những truyện ngắn hiện đại đầu tiên

trong nền văn học Bengal. Ông nêu một vài chủ đề chính trong truyện ngắn của

R.Tagore: Sự tương phản giữa nông thôn và thành thị; giá trị của giáo dục; chủ nghĩa

dân tộc và chính trị; phụ nữ và cộng đồng.

Năm 1989, Bhattacharya trong bài viết của mình đã đề cập đến những yếu tố

siêu nhiên trong 10 truyện ngắn của R.Tagore. Theo ông, điều đó đã tạo nên phong vị

đặc biệt của các câu chuyện. Bhattacharya cho rằng: đằng sau những yếu tố siêu

nhiên đó, R.Tagore muốn đưa độc giả đến một tầm sâu hơn về ý nghĩa xã hội, về mặt

văn hóa. Ông muốn trình bày sự phản kháng của mình đối với những thực tế đang tồn

tại dựa trên sự tàn bạo, nhẫn tâm, vô nhân tính và phi lý của xã hội Ấn Độ và khiến

độc giả nhìn sâu hơn vào thực tế đó.

Lansing Evans Smith năm 1997 đã có bài viết bàn về những yếu tố hoang

đường trong truyện Đá đói của R.Tagore trong sự so sánh với truyện ngắn của

Hoffmann và Charlotte Perkins Gilman.

Qua những tài liệu đã sưu tầm được, chúng tôi thấy: các công trình nghiên cứu đã

phân tích sâu sắc về truyện ngắn R.Tagore nhưng còn rất ít công trình nghiên cứu hình

tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của ông. Đây là vấn đề cần được

nghiên cứu nhiều hơn để có thêm cơ sở khẳng định tầm vóc truyện ngắn của R.Tagore.

2.2.2. Nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của

R.Tagore ở Việt Nam

Từ những năm đầu thế kỷ XX, báo chí Việt Nam đã bắt đầu giới thiệu với bạn

đọc về R.Tagore. Trên tờ báo Tiếng chuống rè (La Cloche Fêlée), số 18 ra ngày

16/6/1924 đăng bài Lòng ái quốc ở R.Tagore. Có lẽ đây là một trong những bài đầu

tiên trân trọng giới thiệu về R.Tagore và phân tích triết luận của ông cho bạn đọc ở

Việt Nam. Từ đó, các sáng tác của ông bắt đầu được dịch và quảng bá rộng rãi với

công chúng Việt Nam.

7

Giữa năm 1929, R.Tagore ghé thăm Sài Gòn ba ngày. Báo chí Việt Nam đã

liên tiếp đăng tin, lời phát biểu của R.Tagore và đăng một số bản dịch luận thuyết, thơ

của ông. Trong đó, các nhà báo đã hết lời ca ngợi tài năng trác việt của R.Tagore.

Năm 1961, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của R.Tagore, việc dịch các tác

phẩm của ông sang tiếng Việt đã được nhiều người quan tâm. Trong năm này đã xuất

hiện liền một lúc hai cuốn sách giới thiệu thân thế, sự nghiệp kèm theo phần tuyển

dịch các tác phẩm của R.Tagore các nhà thơ, dịch giả tham gia dịch, trong đó có

nhiều nhà thơ hàng đầu Việt Nam như Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi,

Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên... Và hai nhà văn - dịch giả hàng đầu Việt Nam

Cao Huy Đỉnh và La Côn. Ngoài ra, việc dịch các tác phẩm của ông được đưa vào kế

hoạch lâu dài của Nhà xuất bản Văn học.

Ngày nay, nhiều tác phẩm của R.Tagore đã được dịch sang tiếng Việt và

được đưa vào chương trình dạy học ở bậc đại học và các bậc học phổ thông, được in

thành các tuyển tập. Cuộc đời và sáng tác của ông được nhiều chuyên gia văn học

nghiên cứu. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua những tài liệu liên

quan trực tiếp đến đề tài:

Trong cuốn Tagore - Văn và Người (2005), Đỗ Thu Hà nhận định: “Trong số

các nhân vật của Tagore, gần như những nhân vật đáng ghi nhớ nhất đều là phụ nữ.

Qua các tác phẩm, R.Tagore đã phản kháng mạnh mẽ một thực tế đáng buồn là những

phẩm chất và tài năng quý báu của người phụ nữ Bengal đã bị bỏ phí và bóp nghẹt

qua nhiều thế hệ. Thật đáng ngạc nhiên là nếu như chúng ta có thể tìm được một đặc

điểm chung của các nhân vật nữ trong các tác phẩm của R.Tagore thì chính là đặc

điểm rằng họ có tính cách mạnh mẽ hơn nam giới” [9, tr.112 - 113].

Lê Thanh Huyền trong luận văn: Thế giới nhân vật trong Mây và Mặt trời -

R.Tagore (2007) nghiên cứu tính cách, số phận nhân vật trẻ em và khám phá vẻ

đẹp của người phụ nữ ở cả hình thức và nội tâm. Tác giả kết luận: “R.Tagore dành

nhiều tình cảm cho nhân vật trẻ em, phụ nữ, những người dân nghèo khổ, những

trí thức Tây học. Ông lên án xã hội với những quan niệm lạc hậu, với sự phân biệt

đẳng cấp, sự bất công cùng sự áp bức, bóc lột của thực dân đã khiến họ phải chịu

bao đau khổ” [13, tr.132].

Nguyễn Thị Thanh Thủy ở bài viết Hình ảnh người phụ nữ mới Ấn Độ trong

văn xuôi Tagore (2011), đã nhận xét: “Hình ảnh phụ nữ trong văn xuôi Tagore luôn ý

thức được giá trị của bản thân, tràn đầy một năng lượng sống và khát khao được yêu

đích thực, thậm chí sẵn sàng tranh đấu để có được tình yêu ấy” [43, tr.95].

8

Năm 2013, Lý Văn Nghĩa trong luận văn: Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn

của Rabinđranath Tagore đã nghiên cứu về nhân vật trẻ em và phụ nữ trong truyện ngắn của R.Tagore. Theo tác giả, những biểu hiện của giá trị nhân đạo trong truyện

ngắn của R.Tagore là tình yêu thương đối với trẻ em và lòng ưu ái đối với phụ nữ.

Tác giả khẳng định: “Trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, R.Tagore đã san sẻ, đã hiểu

nỗi đau thương thầm lặng tràn trề của nhân dân, nhất là những người phụ nữ, những đứa trẻ bơ vơ, những con người cùng cực, khốn khổ, để rồi cùng khóc, cùng đau, cùng bước chung một con đường của nhân vật” [23, tr.110].

Nghiên cứu lịch sử vấn đề Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong

truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore chúng tôi nhận thấy:

1. Về Thạch Lam: Các nhà nghiên cứu đã quan tâm tới nhân vật phụ nữ, trẻ em

trong truyện ngắn của ông và xuất hiện nhiều bài viết, công trình có giá trị. Nhưng đặt

hình tượng nhân vật ấy trong thể so sánh với truyện ngắn của các nhà văn nước ngoài

còn rất ít công trình thực hiện một cách hệ thống, chủ yếu chỉ ở dạng bài viết thể hiện

cảm nhận chung

2. Về R.Tagore: Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của

R.Tagore nghiêng về giới thiệu chung, đánh giá tài năng viết truyện ngắn của ông,

trong đó chủ yếu tập trung vào giá trị nội dung, nghệ thuật. Tại Việt Nam, các nhà

nghiên cứu đã quan tâm tới hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của

ông, nhưng đặt hình tượng nhân vật ấy so sánh với truyện ngắn của Thạch Lam thì

chúng tôi chưa thấy có công trình chuyên biệt nào thực hiện.

Chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến các ý kiến của Hà Văn Đức, Lê Tâm Chính, Đỗ

Thu Hà, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Lê Thanh Huyền... Tất cả những gì thu lượm được

từ quá trình nghiên cứu tổng quan vấn đề, ở mức độ ít nhiều đều là những gợi ý để

chúng tôi có cơ sở vững chắc cho hướng triển khai đề tài. Những phát hiện khoa học của các nhà nghiên cứu sẽ được chúng tôi kế thừa, đồng thời có trao đổi, mở rộng.

Trên cơ sở tìm hiểu thời đại của Thạch Lam và R.Tagore về con người, chủ đề phụ nữ, trẻ em trong sáng tác của hai nhà văn, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em một cách có hệ thống, góp phần khẳng định tầm vóc và đóng góp về thể loại truyện ngắn của hai nhà văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới:

1. Khám phá giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm trong sự so sánh nhân vật phụ

nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore.

9

2. Khẳng định thêm đóng góp của Thạch Lam, R.Tagore ở thể loại truyện ngắn

trong hai nền văn học Việt Nam và Ấn Độ, rộng hơn nữa, trong văn học khu vực Châu Á

và thế giới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của chúng tôi là:

- Khảo cứu cơ sở lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Ấn Độ cuối thế kỷ XIX,

đầu thế kỉ XX trong mối quan hệ với cuộc đời, sáng tác của Thạch Lam và R.Tagore.

- Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore từ phương diện nội dung.

- Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore từ phương diện hình thức.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Như tên đề tài đã thể hiện: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong

truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là

hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore

trong sự so sánh tương đồng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề thuộc hình tượng nhân vật phụ

nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore trong sự so sánh ở một số

phương diện nội dung và nghệ thuật.

- Thực hiện đề tài Hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore chúng tôi tập trung khảo cứu trên các văn bản:

* Với Thạch Lam, chúng tôi khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập:

- Gió lạnh đầu mùa (Tập truyện, NXB Văn học, 2010).

- Thạch Lam tuyển tập (Tập truyện, NXB Văn học, 2012). Gồm 33 truyện ngắn.

* Với R.Tagore, chúng tôi khảo sát trên bản dịch tập R.Tagore - Tuyển tập tác

phẩm, tập II, nhiều người dịch, do Lưu Đức Trung tuyển chọn, giới thiệu, được NXB

Lao động và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội ấn hành năm 2004.

Gồm 37 truyện ngắn.

Trong quá trình khảo cứu truyện ngắn R.Tagore, chúng tôi sẽ so sánh với nguyên

bản tiếng Anh Stories from Tagore (The Macmilan Company, New York, 2010).

10

5. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp:

- Phương pháp so sánh văn học: đặt hình tượng phụ nữ, trẻ em trong truyện

ngắn của Thạch Lam và R.Tagore trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương

đồng, khác biệt. Vì không có căn cứ về mối quan hệ trực tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi

chủ yếu dùng phương pháp so sánh loại hình, lý giải sự tương đồng, khác biệt từ các

hiểu biết về tiểu sử nhà văn, đặc điểm xã hội, môi trường văn hóa mà hai nhà văn sống.

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu

giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng nghiên cứu:

hình tượng nhân vật. Việc khám phá hình tượng nhân vật nhằm đánh giá khách quan giá

trị của một tác phẩm, tránh được những khái quát tư biện.

- Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu

xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản tác phẩm

một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình thức cũng như nội

dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội giúp chúng tôi đánh giá

toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ truyện ngắn của của Thạch Lam và R.Tagore .

- Phương pháp tiểu sử: phương pháp này quan tâm đến cuộc sống và những mối

quan hệ riêng tư của nhà văn. Nguyên tắc của phương pháp này là dùng các yếu tố tiểu

sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn học của nhà văn.

Chúng tôi đồng thời sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: Thống kê -

phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh...

6. Dự kiến đóng góp của luận văn

Đây là luận văn đầu tiên ở Việt Nam tiếp cận hình tượng nhân vật trong truyện

ngắn của Thạch Lam và R.Tagore bằng phương pháp luận văn học so sánh. Thành

công, nó sẽ là tư liệu tham khảo thiết thực cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các

tác phẩm truyện ngắn của hai tác giả ở các trường đại học và phổ thông ở Việt Nam.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận, gồm 3 chương:

Chương 1: Thạch Lam và R.Tagore:

Thời đại - những điểm tương đồng và khác biệt.

Chương 2: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore nhìn từ phương diện nội dung.

Chương 3: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore nhìn từ phương diện hình thức thể hiện.

11

Chương 1

THẠCH LAM VÀ R.TAGORE:

THỜI ĐẠI - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT

1.1. Thời đại

1.1.1. Xã hội

Nửa cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn

tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đặt

ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Vì thế, các nước đế quốc đua nhau xâm lược Châu

Á, châu Phi, Mỹ La Tinh. Việt Nam và Ấn Độ là hai nước nằm trong khu vực châu

Á, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trở thành mục tiêu xâm lược của đế

quốc, thực dân. Năm 1858, thực dân Pháp tiến công quân sự chiếm Việt Nam. Từ

năm 1849, Ấn Độ trở thành thuộc địa của Anh. Dưới chế độ cai trị của thực dân, xã

hội Việt Nam và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng và khác biệt.

1.1.1.1. Những điểm khác biệt

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc

lập có chủ quyền, dưới sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn. Các vua nhà Nguyễn cố

gắng xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia hùng mạnh nhưng chính sách có

nhiều thiếu sót và chưa hợp lý. Đối diện với cuộc xâm lược của Pháp, tình hình trong

nước gặp nhiều khó khăn: nông nghiệp ngày càng sa sút, công thương nghiệp đình

đốn, quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm… Trước một kẻ xâm

lược đến từ phương Tây với sự vượt trội về tất cả các mặt, triều đình nhà Nguyễn lâm

vào tình trạng tù túng vì tiềm lực dân tộc đã bị suy giảm. Việt Nam thời điểm này rơi

vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam,

sau đó chúng vừa tiến hành công cuộc bình định, vừa bắt đầu bộ máy cai trị tại những

vùng chiến lược.

Tại Ấn Độ, trước khi bị người Anh xâm chiếm, tiểu lục địa Ấn Độ nằm dưới

sự thống trị của triều Moghul. Sự thống trị của họ luôn bị những quốc gia địa phương

của người Hinđu đe dọa và luôn xảy ra những cuộc lật đổ vì bạo loạn, âm mưu cung

đình. Là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo nên mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo luôn là vấn đề

nóng của Ấn Độ. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến

càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc, làm suy yếu đất nước, cộng với những tập tục lạc

hậu, lễ nghi phức tạp làm cản trở sự thống nhất Ấn Độ. Dưới thời kì suy tàn của triều

đại Moghul, phong trào đấu tranh của nhân dân chống chế độ phong kiến và sự xâm

12

lược từ bên ngoài đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến Ấn Độ. Sau cuộc

nổi dậy của binh lính Xipay, chính quyền Anh xóa bỏ hoàn toàn triều đại phong kiến

Moghul, giải thể công ty Đông Ấn, đặt thuộc địa dưới quyền cai trị trực tiếp của

chính phủ.

Như vậy, cả Việt Nam và Ấn Độ đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc thực dân.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên trong cách xây dựng chế độ thuộc địa có nhiều

điểm khác nhau.

Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính của Việt Nam rườm rà hơn Ấn Độ:

Tại Việt Nam, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm: Bắc Kỳ,

Trung Kỳ, Nam Kỳ, Campuchia, Lào. Đứng đầu Liên bang có toàn quyền. Cơ quan

quyền lực tối cao là giám đốc các công sở, các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ

sự các phòng thương mại và canh nông. Văn phòng phủ toàn quyền gồm rất nhiều

phòng như: chính trị, hành chính, quân sự, nhân sự, văn thư… Ngoài ra, còn có các

cơ quan như: Hội đồng phòng thủ Đông Dương, Ủy ban tư vấn về mỏ...

Tại Ấn Độ, Anh hoàng giao phó quyền thế cho phó vương Ấn Độ, thay thế cho

vị toàn quyền Ấn Độ cũ và trực thuộc Bộ Ấn Độ, phó vương được phụ tá bởi một hội

đồng hành pháp gồm 6 ủy viên lập nên một Bộ nhỏ với một chuyên viên tài chính,

một nhân viên công chính, một chuyên viên tư pháp và những chuyên viên khác.

Về chính trị: Ở Việt Nam, Pháp tiến hành chia Việt Nam thành 3 xứ với bộ

máy cai trị khác nhau: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, Nam Kỳ là đất thuộc

địa hoàn toàn của Pháp. Ở Trung Kỳ, Pháp vẫn duy trì triều đình nhà Nguyễn nhưng

vua An Nam không có thực quyền mà do Khâm sứ Trung Kỳ nắm quyền, mỗi bộ đều

có một viên chức Pháp với Hội đồng bảo hộ giúp việc. Trong quá trình cai trị, thực

dân Pháp luôn kiểm soát chặt chẽ và đặt những cơ cấu xã hội cũ dưới quyền cai trị

của mình, đồng thời tìm mọi cách cắt xén quyền hành, hạ thấp vai trò của triều đình

Huế. Hành động của thực dân Pháp làm nhân dân Việt Nam cảm thấy bị áp bức, bóc

lột nhiều hơn các thuộc địa khác dẫn đến hàng loạt cuộc đấu tranh chống Pháp nổ ra.

Tại Ấn Độ, sau cải cách năm 1858, Anh đưa đến cho cả ba quận Bengale,

Madras và Bombay những hội đồng lập pháp: quyền lập pháp trong tay quan toàn

quyền ở Calcutta, quyết định cho tất cả Ấn Độ thuộc Anh. Nhiều cải cách quan trọng

khác được thực hiện trong tổ chức quân sự và tư pháp. Các đội quân của công ty

Đông Ấn cũ nay đặt dưới quyền Anh hoàng nhưng chỉ dân bản xứ mới được làm lính

trong các quân đội ấy. Bên cạnh phần lãnh thổ là thuộc địa Anh vẫn còn phần lãnh

thổ thuộc các hoàng gia Ấn. Các tiểu quốc này nằm giữa bán đảo, mỗi tiểu quốc trên

13

nguyên tắc đều độc lập và ràng buộc với Anh bởi một hiệp ước riêng, trong đó xác

định trách nhiệm của nó đối với Anh quốc. Trước nguy cơ chống đối của nhân dân

thuộc địa Ấn, Anh đã tìm cách ràng buộc khéo léo lãnh thổ của các tiểu vương quốc

mà không làm mất đi quyền lợi của chính quốc. Tuy nhiên, tất cả các lãnh thổ tự trị

đều phải thừa nhận sự đứng đầu về mặt “tinh thần” của nữ hoàng Anh. Đây thực chất

là sự thành lập một thứ quyền lực tự trị có kiểm soát được đảm bảo bằng quyền tối

cao của thực dân Anh tại Ấn Độ.

Chính sách “chia để trị” là giống nhau nhưng cách cai trị thuộc địa của thực dân

Pháp tại Việt Nam mang tính trực tiếp, cứng nhắc hơn so với thực dân Anh tại Ấn Độ.

1.1.1.2. Những điểm tương đồng

Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, Anh tác động mạnh mẽ đến xã hội

Việt Nam và Ấn Độ. Hai nước có nhiều chuyển biến ở kết cấu giai tầng, bên cạnh các

giai cấp cũ xuất hiện thêm một số giai cấp mới.

Lực lượng xã hội cũ còn tồn tại ở Việt Nam là giai cấp địa chủ phong kiến đã

tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử, ở Ấn Độ là giai cấp quý tộc phong kiến. Hai

giai cấp này trước đây là giai cấp thống trị, nay trở thành tay sai đắc lực cho Pháp,

Anh để bóc lột nhân dân và công cuộc cai trị của chính quyền thực dân. Bên cạnh

đó, tại Việt Nam và Ấn Độ còn có giai cấp nông dân, giai cấp này bị địa chủ, quý

tộc, thực dân bóc lột nặng nề, cướp đoạt ruộng đất nên họ vừa có mâu thuẫn dân

tộc, vừa có mâu thuẫn giai cấp với đế quốc thực dân và phong kiến tay sai phản

động, trong đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Giai cấp nông dân vì bị cướp đoạt

ruộng đất nên họ phải ra thành phố kiếm sống. Một bộ phận tham gia vào đội ngũ

công nhân nhà máy hoặc đứng ra làm ăn buôn bán nhỏ, từng bước góp phần hình

thành hai lực lượng xã hội mới là công nhân và trí thức tiểu tư sản trong bức tranh

chung của các giai cấp mới hiện đại.

Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân làm xuất hiện thêm một số giai cấp,

tầng lớp mới:

Giai cấp công nhân Việt Nam và Ấn Độ ra đời cùng quá trình bần cùng hóa

giai cấp nông dân dưới chế độ bóc lột của thực dân, phong kiến. Phần lớn họ xuất

thân từ tầng lớp nông dân, bị dồn đến bước đường cùng cơ cực ở quê hương, họ bỏ

lên thành phố mong tìm được việc làm trong các nhà máy, xí nghiệp. Khi thực dân

bắt tay vào công cuộc “công nghiệp hóa” thuộc địa, nhu cầu tuyển mộ nhân công

ngày càng nhiều thu hút hơn nữa số nông dân bị mất đất bỏ quê ra đi, từ đó sản sinh

ra đội ngũ những người vô sản trên chính những miền đất gieo mầm xuất hiện giai

14

cấp tư sản Việt Nam và Ấn Độ. Giai cấp công nhân sau đó trở thành giai cấp tiên

phong trong phong trào giải phóng dân tộc.

Giai cấp tư sản Việt Nam bao gồm: tư sản mại bản, tư sản dân tộc. Tư sản mại

bản có quyền lợi gắn với thực dân Pháp, trở thành đối tượng của cách mạng, còn tư

sản dân tộc bị Pháp chèn ép nên họ có tinh thần chống thực dân Pháp, chống phong kiến nhưng tư tưởng giao động. Giai cấp tư sản Ấn Độ phần lớn xuất thân từ các

Zamindar (địa chủ), các Rajah (vương công), những người buôn bán và cả những

người cho vay lãi nặng. Thực dân Anh không thể tự mình thâu tóm, điều hành các

nhà máy, xí nghiệp, chúng buộc phải cho phép tầng lớp có thế lực ở địa phương làm

chủ. Những nhà tư bản này từ chỗ là những nhà buôn hay những người cho vay nặng lãi đã vươn lên, chớp thời cơ làm ăn với tư bản Anh, trở thành nhóm tư sản mại bản

đầu tiên ở Ấn Độ.

Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm: học sinh, trí thức, viên chức, những

người làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của

tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tư sản Việt Nam bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực

dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào nên đây

là lực lượng có tinh thần cách mạng cao. Được phong trào cách mạng rầm rộ của

công - nông thức tỉnh, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông, đóng vai

trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân nhất là ở thành thị. Tại Ấn

Độ, tầng lớp trí thức tiểu tư sản là những người vừa được trang bị vốn kiến thức hiện

đại, vừa được hấp thu nền văn hóa phương Tây với những tư tưởng tự do, tiến bộ,

đồng thời luôn gìn giữ trong mình những mạch chảy của truyền thống dân tộc. Vì thế,

dù còn ít ỏi về số lượng nhưng họ là một lực lượng vô cùng quan trọng, là bộ phận đi

đầu trong các cuộc vận động dân chủ ở Ấn Độ.

Như vậy, bên cạnh các giai cấp cũ, sự ra đời của các giai cấp mới đã làm thay

đổi cơ bản tình hình chính trị, xã hội ở Việt Nam và Ấn Độ. Các giai cấp này đều mang thân phận những người bị mất nước ở mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột nên đã xảy ra mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh. Các giai cấp này qua quá trình đấu tranh đã đoàn kết với nhau vì mục tiêu chung: chống thực dân, giải phóng dân tộc.

1.1.2. Văn hóa

1.1.2.1. Văn hóa

Mỗi nước thực dân khi xâm lược thuộc địa đều cố gắng áp đặt nền văn hóa

của nước mình lên thuộc địa. Tuy nhiên, văn hóa của mỗi dân tộc khác nhau có

15

những đặc trưng riêng, được hình thành trong quá trình xây dựng, phát triển của dân

tộc. Do đó, khi sự tiếp xúc xảy ra giữa hai nền văn hóa khác nhau sẽ dẫn đến ba khả năng: một là sẽ xảy ra quá trình tiếp biến văn hóa, hai là sự đồng hóa văn hóa, ba là

sự đối kháng giữa các nền văn hóa. Những khả năng này ngoài bị phụ thuộc vào

mức độ tương đồng của hai nền văn hóa tiếp xúc với nhau và quá trình xâm lược

của thực dân, chúng còn phụ thuộc vào cách thức mà các nước đế quốc áp đặt văn hóa lên dân tộc thuộc địa.

* Sự khác biệt

Tại Việt Nam, do vị trí địa lý và điều kiện lịch sử, Nho giáo thâm nhập, bám rễ

sâu chắc vào các tầng lớp nhân dân ở tất cả các lĩnh vực. Trong đó, yếu tố văn hóa

ảnh hưởng rất nặng nề. Sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị, Nho giáo mất dần

ảnh hưởng, song nó vẫn tồn tại lâu dài trong các mối quan hệ xã hội, phong tục tập

quán... Tuy nhiên, nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù

hợp với truyền thống của văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều tôn giáo,

nhiều dân tộc cùng tồn tại trong một lãnh thổ nhưng hầu như trong lịch sử không xảy

ra xung đột về tôn giáo, sắc tộc. Đặc biệt, trong đời sống tinh thần, người Việt coi

trọng thế giới trần tục hơn thế giới bên kia.

Ấn Độ là đất nước có bề dày truyền thống văn hóa. Xã hội luôn tồn tại nhiều

tôn giáo khác nhau, trong đó mạnh nhất là Hindu giáo và Hồi giáo. Hindu giáo phân

chia thành 4 đẳng cấp là: Bàlamôn, Ksatria, Vaixia, Sudra. Vì vậy, Ấn Độ luôn phải

đối mặt với vấn đề quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần đó là tình trạng phức

tạp về dân tộc, tôn giáo và đẳng cấp. Truyền thống Ấn Độ quy định một cách nghiêm

ngặt những người thuộc về quan hệ đẳng cấp khác nhau không được lấy nhau. Đẳng

cấp của mỗi người được thừa kế từ đời này sang đời khác. Chế độ đẳng cấp ảnh

hưởng lâu dài, sâu rộng đến mọi mặt đời sống Ấn Độ. Khác với người Việt Nam,

người Ấn Độ rất coi trọng đời sống tâm linh hướng tới sự giải thoát sau cái chết. Tư

duy luôn luôn hướng về cái tuyệt đối, luôn chiêm nghiệm, hướng nội.

* Sự tương đồng

Sau khi đặt ách thống trị tại Việt Nam, Pháp áp dụng chính sách “đồng hóa”.

Người An Nam từ lâu đã có một hệ thống đạo đức, giáo dục, một thể chế chính trị -

xã hội phức tạp về mặt tổ chức. Người Pháp phải đối mặt với một xã hội hoàn toàn

khác về các quy tắc ứng xử, các giá trị truyền thống. Sự ra đời của những luật lệ mà

Pháp đưa ra thường mâu thuẫn với phong tục đạo đức, xã hội Việt Nam, sự ép buộc

đó làm nhân dân Việt Nam vô cùng thất vọng. Với tinh thần yêu nước và lòng tự

16

trọng dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam, đặc biệt các nhà Nho yêu nước

là chống trả quyết liệt cả về chính trị, văn hóa của thực dân Pháp. Họ không tiếp nhập

chữ quốc ngữ, không học tiếng Tây, không dùng hàng Tây… Tuy nhiên, bằng thái độ

mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để phát triển

văn hóa dân tộc và sử dụng chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành

độc lập dân tộc. Sự tiếp xúc văn hóa Pháp - Việt đã đưa đến sự chuyển biến văn hóa

Việt Nam khá mạnh mẽ, diện mạo văn hóa Việt Nam đã thay đổi trên các phương

diện: Thứ nhất là chữ quốc ngữ từ loại chữ viết chỉ dùng trong nội bộ một tôn giáo đã

được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các phương

tiện văn hóa như: nhà in, máy in ở Việt Nam. Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà

xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ như:

tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa… góp phần hiện đại hóa văn hóa dân

tộc trên mọi phương diện.

Tương tự, tại Ấn Độ, sau khi thực dân Anh tiến hành xâm lược và đặt ách

thống trị, quan hệ tư bản chủ nghĩa sớm phát triển ở Bengal làm xuất hiện giới trí

thức dân tộc - đại diện quyền lợi cho giai cấp tư sản Ấn Độ. Những người tri thức

này đã thấm nhuần nguồn văn hóa cổ Ấn Độ, đồng thời tiếp xúc với nền văn hóa ưu

tú của thế giới, đặc biệt là Anh, Pháp, Nga. Dần dần họ thấy rõ bộ mặt nham hiểm

của thực dân Anh và bất bình với tình trạng nô lệ của đất nước. Người Ấn Độ, đặc

biệt là các tri thức đã ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Anh trong tác phong, lối sống,

cách tư duy, đến trình độ sản xuất, tri thức, khoa học... Nhưng họ lại muốn khôi

phục nền văn hóa cổ huy hoàng của Ấn Độ; họ muốn đem văn hóa Tây phương hòa

hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình để biến văn học thành một

phương tiện giải phóng dân tộc.

Như vậy, cả Việt Nam và Ấn Độ đã trải qua quá trình đấu tranh lặng lẽ, chuyển

hóa dần dần, cuối cùng lựa chọn những tinh hoa văn hóa nhân loại rồi cải biến cho phù

hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa dân tộc. Đó là quá trình hội nhập để bổ sung những

yếu tố mới tiến bộ, hiện đại vào nền văn hóa truyền thống, làm giàu đẹp hơn, phong phú

hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.

Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến

mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Thạch Lam và R.Tagore là những trí

thức Tây học, đã tiếp thu những nét tích cực từ văn hóa phương Tây và kết hợp nhuần

17

nhuyễn với truyền thống dân tộc để biến thành chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của

riêng mình.

1.1.2.2. Văn học

* Sự khác biệt

Văn học Việt Nam và Ấn Độ thời kỳ này đều có sự chuyển biến mạnh mẽ gắn

liền với vận mệnh đất nước, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc nhưng có nhiều

nét khác biệt.

Ở Việt Nam, bên cạnh nền văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm còn xuất

hiện và lan rộng nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ với nhiều thể loại: thơ,

tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Bên cạnh đó, kho tàng văn chương Việt Nam còn

được làm giàu lên nhờ các tác phẩm dịch thuật, nhiều tác phẩm đã gây được ấn

tượng mạnh đối với độc giả. Nền văn học dân tộc đã biết đặt mình vào môi trường

chung của thế giới và xem sự phát triển của mình phụ thuộc vào khả năng thu hút

những tinh hoa tốt đẹp của nhân loại. Tuy nhiên, dù văn học Việt Nam ảnh hưởng

từ văn học Pháp rất lớn nhưng Việt Nam không có dòng văn học bằng tiếng Pháp

mà chỉ có một số bài viết bằng tiếng Pháp in trên các báo: Chuông rè, Tiếng nói của

chúng ta, Tập hợp, Tiến lên… Một số tác giả tiêu biểu thời kỳ này như: nhóm Tự

lực văn đoàn, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố… Trong đó,

Thạch Lam là một trong những trí thức Tây học, ông vừa tiếp nhận cái sáng sủa

mạch lạc rất tiêu biểu của Pháp, vừa thấm nhuần chất duy lý trong văn học Pháp,

dần dần ông kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Đông - Tây tạo nên các tác phẩm

rất độc đáo, trở thành một trong những tác giả có nhiều đóng góp trong việc mang

lại chất nghệ thuật cho văn xuôi và có ảnh hưởng lớn đến quá trình hiện đại hóa văn

học dân tộc.

Ở Ấn Độ, văn học có sự chuyển biến mạnh mẽ gắn với phục hưng đất nước.

Nền văn học lúc này hình thành ba khuynh hướng: bài ngoại, sùng ngoại, dung hòa

văn hóa Đông Tây. Ngoài chống đế quốc, văn học thời này còn đấu tranh chống trào

lưu văn học suy đồi, phản nhân tính. Các tác giả tiêu biểu: Prem Chanđơ, Ôbinđơ

Gôdơ, Valatôn,… đặc biệt là R.Tagore - người đã phất cao ngọn cờ phục hưng, kêu

gọi cách tân văn học, hòa hợp văn hóa Đông Tây và cống hiến nhiều tác phẩm xuất

sắc. Đối với R.Tagore, chống thực dân không phải là chống văn minh châu Âu. Tác

giả quan niệm: Đông và Tây “chỉ là hai bán cầu của trí não nhân loại. Nếu một bên bị

bất toại thì toàn thân thể sẽ bị thoái hóa”. Ông đã đưa nền văn học Bengan và cả nền

văn học Ấn Độ lên đỉnh cao chói lọi. Thơ ca của ông đã cất cao lời kêu gọi “đòi cơm

18

gạo, đòi cuộc sống, đòi ánh sáng và tự do, đòi sinh lực, sức khỏe, niềm vui và lòng

dũng cảm chân thành rộng mở”. Hơn nữa, dưới ảnh hưởng của văn hóa Anh, văn học

Ấn Độ còn hình thành thêm dòng văn học viết bằng tiếng Anh, một số tác phẩm viết

bằng tiếng Bengali của R.Tagore cũng được tác giả dịch sang tiếng Anh.

* Sự tương đồng:

Diễn tiến văn học như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành, tồn tại,

phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Văn học là con đẻ của thời đại, là một phần da

thịt của lịch sử. Nếu ví văn học như một dòng sông uốn mình theo chiều dài lịch

sử dân tộc thì những biến động từ bối cảnh lịch sử đã làm cho dòng sông ấy cuộn

sóng, trào dâng, tạo thành những dòng chảy khác nhau.

Nét đáng chú ý của văn học Việt Nam và Ấn Độ thời kỳ này là sự tồn tại

song song nhiều dòng văn học có những khuynh hướng, tư tưởng khác nhau. Bên

cạnh dòng văn học truyền thống, xuất hiện thêm một số dòng văn học mới chịu

ảnh hưởng của văn học phương Tây và những nền văn học phát triển của nhân

loại, tiêu biểu là dòng văn học lãng mạn và hiện thực.

Cùng với sự du nhập của văn hóa Pháp, văn hóa Anh, triết học, chính trị,

văn học, nghệ thuật Tây phương cũng tràn vào Việt Nam và Ấn Độ tạo thành

nguồn cảm hứng cho những đề tài mới mẻ.

Ở Việt Nam thời kỳ đầu là khuynh hướng văn chương tình cảm, lãng mạn. Từ

truyện Thầy Lazaro Phiền của P.J.B. Nguyễn Trọng Quản đến các tác phẩm của Hồ Biểu

Chánh, Hoàng Ngọc Phách, các tác giả Tự lực văn đoàn... Ngoài truyện ngắn, tiểu

thuyết, phong trào thơ lãng mạn rất thịnh hành, xuất hiện nhiều thi sĩ danh tiếng như:

Xuân Diệu, Chế Lan Viên,... Ở Ấn Độ, dòng văn học này có một số gương mặt tiêu biểu

như: Madusudan Datta, Bankim Sandra… Tình yêu thiên nhiên, con người, tình yêu đất

nước, chủ nghĩa anh hùng là những đề tài ưa thích của những nhà văn này.

Trong dòng văn học hiện thực, cương lĩnh “nghệ thuật vị nhân sinh” đã ăn sâu

vào tư tưởng của các nhà văn, họ kiên quyết chối bỏ sự hấp dẫn của cái đẹp không

tưởng để tìm đến nỗi đau của con người. Bằng bút pháp điển hình hóa, các tác giả

mang đến cho người đọc những số phận con người chân thực nhất, họ đã đi một con

đường khác, tìm ra bản chất sâu xa trong nỗi đau của con người, thể hiện được tinh

thần nhân đạo trong các tác phẩm. Họ cùng đau, cùng khóc với những con người

khốn khổ, cùng đồng cảm và trân trọng những giá trị tốt đẹp bên trong họ. Với dòng

văn học này, ở Việt Nam tiêu biểu là các nhà văn: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,

Nam Cao... Tại Ấn Độ, dòng văn học này một mặt đề cập đến những vấn đề xã hội

19

truyền thống như: vấn đề đẳng cấp, tự do, hôn nhân, quyền sống của người phụ nữ.

Mặt khác, họ đã miêu tả đời sống cực khổ về vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân

dân lao động, đại biểu xuất sắc là Prem Chand.

Một dòng văn học có tính chất chủ đạo, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các dòng văn

học khác là dòng văn học yêu nước. Tại Việt Nam, tiêu biểu là các chí sĩ yêu nước

như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... với các tác phẩm thơ

văn làm vũ khí tuyên truyền cho cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do. Tại Ấn Độ là ông

Mahatma Gandhi - lãnh tụ chính trị vĩ đại của Ấn Độ, người suốt đời đấu tranh cho tự

do và hạnh phúc của nhân dân, đồng thời cũng là một người viết văn; là nữ sĩ Sarojini

Naidu, người được mệnh danh là “con chim họa mi Ấn Độ” đã viết những vần thơ

yêu nước cháy bỏng phục vụ cho các hoạt động chính trị - xã hội của bà…

Tất cả những tinh hoa của các dòng văn học nói trên ở Ấn Độ được tổng hợp

lại trong một hiện tượng văn học độc đáo mang tầm cỡ quốc tế là R.Tagore. Ở ông có

sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tâm linh, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, chủ

nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế. Ông được xem như một biểu tượng tuyệt vời về

sự kết hợp giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Còn ở Việt Nam, việc

xếp tác giả Thạch Lam vào dòng lãng mạn hay hiện thực vẫn còn phân vân. Trong

các tác phẩm của ông, yếu tố lãng mạn và hiện thực đã hòa quyện nhau trên từng

trang viết. Bức tranh hiện thực có sức lay động, ám ảnh người đọc có lẽ bởi đã được

vẽ bằng ngòi bút lãng mạn. Thạch Lam là một trong những tác giả có đóng góp rất

lớn trong việc hiện đại hóa văn học Việt Nam. Còn R.Tagore, với những đóng góp

xuất sắc của ông trên nhiều thể loại, đã góp phần giúp văn học hiện đại Ấn Độ có vị

trí xứng đáng trong nền văn học thế giới.

1.2. Cuộc đời, sự nghiệp của Thạch Lam và R.Tagore

1.2.1. Cuộc đời, con người

1.2.1.1. Thạch Lam - “Cây bút thiên về tình cảm”

Từ điển bách khoa toàn thư có đoạn viết: Thạch Lam là một cây bút thiên về

tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người

nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ. Trong nền văn học Việt Nam

hiện đại, Thạch Lam là một trong những cây bút văn xuôi có tầm vóc, văn ông giàu

chất hiện thực và thể hiện tấm lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc đối với những

cuộc đời bất hạnh nhất là số phận của người phụ nữ và trẻ em. Thạch Lam không

chỉ khám phá, thể hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã, cơ cực của những

người phụ nữ tảo tần vì gia đình; những đứa trẻ sớm phải hứng chịu những bi kịch

20

của đời sống, mà còn phát hiện ở những số phận ấy là vẻ đẹp tâm hồn thánh thiện,

cao quý. Trong các tác phẩm của mình, nhà văn luôn nâng niu, trân trọng những

cảm xúc tinh tế của con người. Bởi vậy, các tác phẩm của ông có sức truyền cảm

lớn, lắng sâu trong lòng người đọc.

Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân. Ông sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910

tại Hà Nội trong một gia đình công chức, quê nội ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng

Nam, quê ngoại ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông sống trong một gia tộc bao đời nổi

tiếng về văn chương: Cha ông là Nguyễn Tường Nhu thông thạo chữ Hán và chữ

Pháp, làm thông phán tòa sứ. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang Thuật,

người đất Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở Cẩm Giàng.

Ông là con thứ sáu trong gia đình gồm bảy anh chị em họ Nguyễn Tường:

Tường Thụy, Tường Cẩm, Tường Tam, Tường Long, Thị Thế, Tường Vinh và Tường

Bách. Trừ người anh cả là Nguyễn Tường Thụy và chị gái Thị Thế không viết văn,

làm báo, còn lại các anh em trong gia đình Thạch Lam đều tham gia vào sự nghiệp

văn chương, nổi bật có Tường Tam (Nhất Linh), Tường Long (Hoàng Đạo), Tường

Vinh (Thạch Lam) là những cây bút chủ lực của trào lưu văn học Tự lực văn đoàn với

những tác phẩm để lại dấu ấn trên văn đàn.

Tuổi thơ Thạch Lam đầy vất vả, cha ông mất sớm, mẹ ông một mình tảo tần

buôn bán nuôi mẹ chồng và bảy người con. Ở Cẩm Giàng, Thạch Lam học tại

trường Nam (nay là trường Tiểu học Tô Hiệu, Hải Dương). Khi người anh cả

Nguyễn Tường Thụy ra trường dạy học ở Tân Đệ (Thái Bình), mẹ ông đã đưa cả

nhà đi theo người con cả, nên Thạch Lam đến học ở Tân Đệ. Ở đây được một năm,

làm vẫn không đủ ăn, mẹ ông dẫn các con về Hà Nội ở thuê, rồi cứ thế lúc ở Hà

Nội, lúc ở Cẩm Giàng. Từ đó, cuộc sống nghèo khổ ở Cẩm Giàng đã thấm vào tâm

hồn rồi vào văn chương Thạch Lam một cách tự nhiên, sau này thành những nhân

vật, những chất liệu văn học trong các tác phẩm. Chứng kiến cảnh nghèo khó và

muốn sớm đỡ đần cho mẹ, cậu bé Lân đã khai tăng tuổi để học ban thành chung.

Sau đó ông thi đỗ vào trường cao đẳng Canh nông ở Hà Nội, rồi vào trường trung

học Albert Sarraut để học và thi tú tài.

Khi đã đỗ tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai anh trai

và gia nhập Tự lực văn đoàn do Nguyễn Tường Tam sáng lập. Ban đầu, ông được phân

công biên tập, sau đó làm chủ bút tuần báo Phong hóa và Ngày nay. Năm 1935, ông

lấy vợ, sống tại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội). Căn nhà đơn

sơ nhìn ra Hồ Tây sóng gợn rất hợp với người hay trầm mặc như Thạch Lam. Đó cũng

21

là nơi khơi nguồn những mạch văn lai láng của ông, Thế Lữ nhận định: “Thạch Lam là

con người trầm lặng, bao nhiêu băn khoăn về nghệ thuật, bao nhiêu tư tưởng cũng như

bao nhiêu tình cảm rung động lúc nào cũng chất chứa dồi dào trong tâm trí: cái kho

tàng cuộc sống bên trong ấy rất sẵn châu báu mà chỉ cầm đến bút, Thạch Lam đã thấy

dàn xếp theo chỉnh thể của lời” [dẫn theo 54, tr.100]. Như vậy, Thế Lữ đã nhận thấy sự

hóa thân sâu sắc và yếu tố cảm xúc trong sáng tác của Thạch Lam.

Thạch Lam là một người nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Các tác phẩm của ông cũng

như con người ông vậy, không gân guốc mà thâm trầm, kín đáo. Qua đó, người đọc

cảm nhận được ở ông có một tâm hồn dịu dàng, nhân ái, biết cảm thông trước những

số phận, những cảnh ngộ bất hạnh. “Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng,

ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái nhỏ nhặt và rất đẹp, những tình cảm, cảm giác con

con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một cách rất tinh vi” [24, tr.8].

Chính vì thế, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nhận xét: “Trong các truyện

ngắn, truyện dài của Thạch Lam, tình cảm đều có vị trí rất đặc biệt” [dẫn theo 24,

tr.9]. Nhiều nhà nghiên cứu rất đồng tình với ý kiến nhận xét ấy và đều khẳng định

“Thạch Lam là cây bút thiên về tình cảm”.

Đời văn Thạch Lam gắn bó với hai địa danh: Hà Nội và vùng quê Cẩm

Giàng, Hải Dương. Cái ga xếp buồn tĩnh lặng với tiếng còi tầu thảng thốt, da diết

trong đêm, những kỷ niệm của ngôi nhà ánh sáng bên đường tàu, những con người

bình dị, mộc mạc của vùng quê nghèo Cẩm Giàng đã làm nên chất thơ lay động,

vừa mơ mộng, vừa man mác kỷ niệm trong những trang văn Thạch Lam. Trong một

bài báo, chính nhà văn đã bộc lộ, cái “lòng quê hương” là niềm nhớ quá vãng vẫn

mãi sống cùng hiện tại trong lòng tác giả. Cùng với các anh chị em trong gia đình,

Thạch Lam đã có những gắn bó sâu đậm với mảnh đất Cẩm Giàng. Từ nơi đây, tác

giả đến với “Hà Nội ba sáu phố phường” và trở thành một trong những cây bút văn

xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Với 32 năm trên cõi dương gian, Thạch Lam đã sống một cuộc đời thanh bạch,

mộc mạc và để lại cho đời những tác phẩm văn xuôi đặc sắc, thấm đẫm chất thơ. Là

một người tâm huyết với văn chương, Thạch Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang

viết cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị.

1.2.1.2. R.Tagore - “Nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại”

R.Tagore là “nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại” (Cố thủ tướng J. Nerhu), là

người đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và cuộc sống hòa bình. Ông

còn là một trong những đại biểu xuất sắc của nền văn học thế giới. “Các tác phẩm

22

của ông đang vượt qua thời gian, đổ bóng xuống thời đại thức tỉnh lương tri của

con người trên khắp trái đất, đồng cảm và an ủi họ trong những ngõ khuất của

những cuộc đời bất hạnh” [43, tr.114].

R.Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 trong một gia đình quý tộc Bàlamôn

gồm mười lăm anh chị em tại Calcutta, bang Ben gan. Các anh chị em của ông nhiều

người trở thành nhân tài của đất nước. Về sau, vì chống lại đẳng cấp nên gia đình ông

bị khai trừ khỏi đẳng cấp, nhưng nhân dân Ấn Độ vẫn vô cùng yêu mến, kính trọng

gia đình ông. Cha của R.Tagore là Đêvenđranath Tagore - một nhà triết học, nhà đạo

đức, nhà cải cách xã hội nổi danh. Ông rất coi trọng đến việc giáo dục con cái, luôn

dạy con sống giản dị, cần cù, biết yêu đất nước. R.Tagore thường đi theo cha du lịch

nhiều nơi, từ rừng núi Himalaya nhiều cảnh đẹp để học sự trầm tư của núi đến bờ

biển phía nam lộng gió, tràn ngập ánh mặt trời. R.Tagore còn theo cha tham dự các

cuộc mít tinh, hội thảo của những nhà cải cách xã hội, chính trị và văn học, nghệ

thuật. Đó là cơ hội bồi đắp thêm lòng yêu đất nước, yêu dân tộc một cách sâu sắc, tạo

tiền đề cho những tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo trong các sáng tác văn

chương của R.Tagore sau này.

Calcutta - quê hương của R.Tagore là mảnh đất kiên cường nổi lên các cuộc

đấu tranh chính trị chống Đế quốc và phong kiến, đây cũng là nơi văn học có truyền

thống nhân đạo chủ nghĩa từ lâu đời. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm của giới trí thức

Ấn Độ, nhiều nhà văn, học giả, nhà viết kịch thường xuyên đến nhà R.Tagore để đàm

luận các vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch.

Những ảnh hưởng của thời đại, quê hương, gia đình đến tư tưởng nghệ thuật

của R.Tagore vô cùng lớn lao, nhưng để trở thành “ngôi sao sáng của Ấn Độ Phục

hưng”, trở thành “nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại” thì bản thân R.Tagore phải là người

giàu ý chí, nghị lực và bản lĩnh.

Thuở nhỏ, R.Tagore là cậu bé thông minh, hiếu học, ba lần gia đình gửi đến ba

trường khác nhau. Với tâm hồn phóng khoáng, cậu bé không hợp với nền giáo dục

khắc nghiệt, đầy tính chất nô lệ ở các trường học của Anh. Cậu bỏ học và tự học

tiếng Sanskrit cổ, tự trau dồi ngôn ngữ, dần dần cậu thông thạo nhiều thứ tiếng.

Tám tuổi, cậu bắt đầu làm thơ, mười ba tuổi đã có thơ được đăng trên tạp chí. Từ

đó, cậu nổi tiếng giỏi văn khắp vùng Belgali. Có thời gian R.Tagore được cha giao

việc trông cai đồn điền của gia đình, tại đây ông có dịp sống cùng giới bình dân

nghèo đói, bệnh tật, ông đã sáng tác rất nhiều truyện ngắn, truyện dài mô tả các khía

cạnh sống của xã hội này.

23

Với mục đích thực hiện một nền giáo dục dân tộc theo tinh thần nhân đạo chủ

nghĩa, năm 1901 R.Tagore thành lập và trực tiếp phụ trách một trường học ở

Xankiniketan. Trong trường, thầy trò bình đẳng, sống chan hòa giữa thiên nhiên,

cùng lao động, cùng góp sức nâng cao đạo đức, trau dồi văn hóa dân tộc. Năm 1905,

phong trào chống thực dân Anh diễn ra sôi nổi, R.Tagore đi diễn thuyết khắp nơi

phản đối thực dân Anh, sáng tác thơ ca và bài hát để động viên quần chúng nhân dân

đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc.

Năm 1916, R.Tagore tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại nhà riêng để hô hào,

chống chiến tranh thế giới và đả kích nền văn minh giả dối phương Tây. Năm 1919

phong trào nông dân xứ Pengiap bị thực dân Anh tàn sát dã man, R.Tagore viết thư

phản đối chuyển thẳng cho viên toàn quyền Anh. Năm 1936, Hội các nhà văn tiến bộ

Ấn Độ thành lập, ông tham gia, tích cực ủng hộ. Năm 1938, ông chủ trì một Đại hội

của các nhà văn tiến bộ ở Calcutta, công khai kêu gọi đấu tranh chống ách nô dịch

của Đế quốc và tàn dư phong kiến. Ông đã làm nhiều thơ phản đối phát xít Nhật xâm

lược Trung Quốc, tố cáo phát xít Ý xâm lược Êtiôpia.

Từ năm 1916 trở đi, R.Tagore lần lượt đi thăm một số nước trên thế giới từ châu

Âu đến châu Á. Ông muốn làm con ong qua muôn xứ sở xa lạ, hút mật ngọt, bồi bổ cho

dân tộc. Đến nơi nào ông cũng phổ biến thông điệp hòa bình, phản đối chiến tranh, kêu

gọi đoàn kết các dân tộc để xây dựng văn minh và hạnh phúc cho toàn nhân loại.

Năm 1924, R.Tagore dừng chân tại Việt Nam ba ngày, ông được giới trí thức yêu

nước tại đây mong chờ bởi từ lâu ông đã được trân trọng về tài năng, nhân cách, tư tưởng

và hành động. Hơn nữa, bởi đặc thù nơi chốn ông sinh trưởng có ít nhiều tương đồng với

hoàn cảnh Việt Nam. Trong tình hình nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân còn đói

khổ, mù chữ, tầng lớp trí thức lạc loài vô phương hướng, hào khí R.Tagore như một

ngọn đèn dẫn dắt thanh niên trí thức, dẫn tới con đường ước vọng cho tương lai dân tộc.

Năm 1930, R.Tagore đến thăm Liên Xô, đất nước giai cấp vô sản đang làm chủ

vận mệnh của mình, nơi đang có cuộc sống rất gần gũi với ước mơ và nguyện vọng của

ông. Từ đó, R.Tagore tích cực tham gia nhiều hoạt động văn hóa, xã hội. Những năm

gần cuối đời, ông vẫn là “chiến sĩ thập tự quân chống phát xít”. Ông tích cực đấu tranh

cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay cả khi bị mù

lòa, nằm trên giường bệnh, ông vẫn hăng hái sáng tác thơ ca lên án chiến tranh đế quốc.

Ngày 7 tháng 8 năm 1941, R.Tagore kết thúc cuộc đời mình nhưng tiếng nói

nhân đạo chủ nghĩa của ông luôn còn mãi. Nhân dân toàn thế giới sẽ nhớ mãi tới ông

- một nghệ sĩ bậc thầy, một nhà nhân đạo cao cả, một người đấu tranh không mệt mỏi

24

cho cuộc sống hòa bình. Ông được mệnh danh là “Nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại”

của toàn nhân loại.

Nhìn lại cuộc đời của Thạch Lam và R.Tagore, chúng ta thấy có nhiều điểm

tương đồng: hai tác giả cùng sinh trưởng trong gia đình có truyền thống văn chương.

Các anh trai Thạch Lam là những nhà văn nổi tiếng, đặc biệt là Nhất Linh, Hoàng

Đạo. Các anh chị của R.Tagore nhiều người là những thiên tài, có nhiều cống hiến

cho sự phát triển của văn hóa Ấn Độ. Sống trong hoàn cảnh xã hội bị đế quốc xâm

lược, tận mắt chứng kiến cảnh khốn cùng lầm than của nhân dân, Thạch Lam và

R.Tagore đã nhìn thấy nhiều vấn đề nóng bỏng của hiện thực. Trong đó, đối tượng

được hai tác giả quan tâm nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em. Qua tác phẩm của hai nhà

văn, những mảnh đời ấy đã làm sống lại một phần hiện thực xã hội Việt Nam, Ấn Độ

thời thực dân Pháp và Anh xâm lược. Dưới ngòi bút của hai tác giả, giữa hiện thực

tăm tối, ngột ngạt vẫn xuất hiện những tia sáng mong manh, niềm hy vọng vào một

tương lai tươi sáng cho những mảnh đời bất hạnh. Thành công của Thạch Lam,

R.Tagore chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và xu hướng hiện thực,

nhân đạo. Điều này tạo cho các tác phẩm của hai nhà văn một sức sống trường tồn

trong lòng độc giả. Tình người của hai nhà văn với mỗi nhân vật đặc biệt là phụ nữ,

trẻ em đã đưa ý nghĩa các tác phẩm lêm một tầng cao mới.

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác

1.2.2.1.Từ quan điểm sáng tác...

Quan điểm sáng tác là cách nhìn, cách cảm, thái độ của nhà văn trước hiện

thực cuộc sống, thể hiện giới hạn tối đa trong cách hiểu của nhà văn về thế giới, con

người và văn học. Có những nhà văn trực tiếp phát biểu quan niệm của mình thành

các luận điểm, cũng có nhiều nhà văn thể hiện quan điểm thực tiễn của mình trên

trang viết. Với Thạch Lam, hầu hết các quan điểm được ông phát biểu trong tiểu luận

Theo dòng. Còn R.Tagore có nhiều phát biểu trực tiếp về quan điểm sáng tác qua một

số bài tiểu luận: Vũ trụ và cá nhân, Tôn giáo của rừng núi, Tôn giáo của nhà thơ,

Nghệ thuật là gì?, Tôn giáo con người, Sự thống nhất sáng tạo... Thạch Lam và

R.Tagore là hai trong số những tác giả xuất sắc đã cụ thể hóa những quan niệm của

mình trong thực tiễn sáng tác. Hai tác giả có sự gặp gỡ trong quan niệm nghệ thuật.

Những quan niệm ấy hé mở với người đọc cái nhìn độc đáo của hai tác giả về thế giới

và con người.

25

Tác phẩm văn chương phải có đủ các giá trị chân, thiện, mỹ

Thạch Lam và R.Tagore đã nhận thức một cách khoa học về các chức năng

văn học. Thạch Lam rất coi trọng chức năng phản ánh, cải tạo xã hội, thanh lọc tâm

hồn con người, hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ - lý luận văn học hiện đại

gọi là chức năng nhân đạo hóa con người. Trong xã hội đầy rẫy bất công đương thời,

Thạch Lam xác định: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà

chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho

lòng người được trong sạch và phong phú hơn” [16, tr.6]. Mỗi tác phẩm của Thạch

Lam là một bức họa đẹp về tâm hồn con người, là một lời đề nghị về lối sống, ông đã

bồi đắp, xây dựng cho nhân vật mình ý thức, đưa họ tới giá trị chân, thiện, mĩ cao đẹp

của cuộc sống. Văn Thạch Lam vì thế trở thành vũ khí sắc bén để thanh lọc và cải tạo

lòng người. Nếu nói nghệ thuật chân chính hướng con người đến chân, thiện, mỹ thì

văn Thạch Lam là một minh chứng hùng hồn. Còn R.Tagore, quan niệm về nghệ

thuật của ông rất phong phú nhưng ông cũng chủ yếu đề cao ba giá trị chân, thiện, mĩ.

Trong tiểu luận “Tôn giáo con người”, tác giả đã lý giải câu hỏi “Nghệ thuật là gì?

Đó là sự trả lời của tâm hồn sáng tạo của con người đáp lại tiếng gọi của hiện thực”

[50, tr.396]. Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực thông qua sự sáng tạo của nhà văn.

Hai tác giả nhấn mạnh vai trò xã hội tốt đẹp của văn chương song không quên chú

trọng tới tác dụng bồi đắp tâm hồn con người của nó. Sự thực được nói tới không hẳn

là hiện thực trần trụi mà là phản ánh hiện thực thông qua tâm hồn sáng tạo của nhà

văn như R.Tagore quan niệm: “Mặt trời nóng bỏng là hiện thực nhưng vẻ đẹp của

bình minh mới là một hiện thực mang tính thi ca”. Văn chương đích thực làm giàu

hơn đời sống tinh thần, khiến cho đời sống con người trở nên trong sáng, phong phú

hơn. Ý thức được thiên chức của người cầm bút và có quan niệm về nghệ thuật rất

tiến bộ, Thạch Lam và R.Tagore đã thổi vào tác phẩm của mình luồng sinh khí mới.

Các tác phẩm phản ánh hiện thực nhưng thấm đẫm chất thơ. Văn chương của hai nhà

văn là những trang hiện thực không có rùng rợn, bão tố, không có sần sùi, gồ ghề,

kịch tính mà là nhẹ nhàng, giản dị. Chính sự nhẹ nhàng đã để lại trong tâm thức

người đọc những băn khoăn, day dứt trước số phận con người.

Văn chương bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống

Giống như cây xanh hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bám rễ sâu

chắc vào mảnh đất cuộc đời, từ đó tỏa ra những tán lá rộng, góp phần làm cuộc sống

tốt đẹp hơn. Đọc các truyện ngắn của Thạch Lam chúng ta thấy, hàng loạt truyện

ngắn: Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Tối ba mươi… là sự phản ánh chân thực cuộc sống.

26

Trong tiểu luận Tôn giáo của nhà thơ, R.Tagore viết: “Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là

nhắn nhủ thế giới rằng chúng ta lớn lên trong hiện thực, bằng cái hiện thực mà chúng

ta thể hiện” [50, tr.381]. “Nghệ thuật nó có cây đũa thần đem lại hiện thực bất tử cho

mọi vật nó chạm vào và kết nối chúng với cái tồn tại cá nhân trong chúng ta. Đứng

trước các sản phẩm của nghệ thuật, ta nói: Ta biết ngươi như biết ta, ngươi là hiện

thực…” [50, tr.374]. Tuy nhiên, cái hiện thực được phản ánh ở các tác phẩm của

Thạch Lam và R.Tagore không xoáy sâu vào những mâu thuẫn xung đột gay cấn, mà

gây xúc động với người đọc bằng ngòi bút điềm tĩnh, nhẹ nhàng. Đối tượng được hai

tác giả quan tâm nhiều hơn cả là tầng lớp dân nghèo, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em với

những diễn biến thường ngày, thầm lặng của cuộc sống. Đó chính là gừng cay muối

mặn, là phù sa cuộc đời, là sự phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống.

Đề cao sự rung động của trái tim, xúc cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời

Trong lời tựa tập Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam viết: “Tôi hết sức diễn tả

cho đúng tất cả sự thực rung động và thi vị của cuộc đời” [16, tr.5]. Cùng quan điểm

ấy, R.Tagore viết: “Khi quả tim chúng ta được hoàn toàn đánh thức trong tình yêu

hoặc trong những cảm xúc cao thì nhân cách chúng ta đang trong triều dâng. Khi

đó, quả tim ta cảm thấy muốn biểu hiện nó vì sự biểu cảm” [50, tr.384]. Văn học là

tiếng nói của tâm hồn, là tình cảm cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc đời, nhà văn

chỉ sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy tiếng nói thôi thúc mãnh liệt từ con tim.

Người đọc sẽ tìm đến tác phẩm bằng sự đồng cảm. Những tư tưởng tâm đắc, tha

thiết nhất mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc

theo hình hài cảm xúc. Một tác phẩm có giá trị hay không xét cho cùng do tình cảm

của người viết có chân thực hay không, có khả năng đánh động tới tình cảm, cảm

xúc của người đọc hay không. Tư tưởng nghệ thuật nào phải một hình thái chết, nó

là những phát hiện, những triết lý riêng của nhà văn, một thứ triết lý nhân sinh đầy

tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu nhiệt huyết của người nghệ sĩ. Khám phá những

tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore sẽ thấy, hai tác giả không chỉ quan tâm đến

những điều nói trên khi phát biểu những gì liên quan đến quan điểm sáng tác mà

còn sử dụng chính tác phẩm văn học như một công cụ hữu hiệu truyền tải đến người

đọc quan điểm văn chương của mình. “Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn

và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo”

[54, tr.127]. Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh nhà mẹ Lê -

người mẹ khốn khổ cùng với mười một đứa con nheo nhóc, đói khát; chúng ta

không quên hình ảnh bé Hiên co ro trong cơn gió lạnh đầu mùa và nỗi day dứt của

27

người mẹ ngày đi mò cua, bắt ốc không kiếm nổi cho con tấm áo, những con người

nhỏ bé với cuộc sống quẩn quanh, bế tắc trong cái “ao đời phẳng lặng” ... chính xúc

cảm của nhà văn đã mang lại cho người đọc những băn khoăn, day dứt. R.Tagore

cũng vô cùng coi trọng yếu tố xúc cảm của nhà văn, trong truyện ngắn Chiến thắng,

tác giả tạo ra cuộc thi tài giữa hai thi sĩ đại diện cho hai quan niệm về nghệ thuật.

Một bên là thi sĩ cung đình Sêkha - nhà thơ xúc cảm khiến người nghe say mê khi

khơi gợi trong tâm hồn con người những cảm thức tế nhị mà mãnh liệt về cuộc

sống. Một bên là thi nhân Punđarik - nhà thơ của lý trí và kiến thức làm người nghe

choáng ngợp với những lý lẽ sắc bén, những cơn lũ kiến thức, những đường đi lắt

léo của ngôn từ. Tại các cuộc tranh tài, Punđarik đều nhận được sự hoan hô nhiệt

liệt của các học giả, còn Sêkha “khiến người nghe rung động một nỗi buồn man

mác, mênh mang của một niềm vui sướng mơ hồ khó tả và họ quên hoan hô chàng”

[50, tr.65]. Cuối cùng, Sêkha cúi đầu chịu thua trên sân điện. Với cách mô tả hiệu

quả mà tác phẩm mang lại cho người nghe thì thấy rõ ràng tình cảm của R.Tagore

nghiêng về phía nhà thơ cung đình Sêkha, nghiêng về phía xúc cảm chứ không phải

về phía lý trí và kiến thức. Kết thúc câu chuyện, R.Tagore để hoàng hậu Ajita đến

quàng vào cổ nhà thơ vòng hoa chiến thắng. Tác giả đã dùng chủ đề của câu chuyện

này phát biểu quan niệm của mình: coi trọng xúc cảm và khơi gợi cảm xúc trong

sáng tạo văn học. Xúc cảm là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với mỗi tác giả,

điều đó lý giải vì sao trong thực tế văn học, có những nhà văn suốt đời không tạo

nên một tác phẩm đích thực, phải ngậm đắng, nuốt cay than thở cho sự bạc bẽo của

nghề văn. Lại có những nghệ sĩ lớn được cả thế giới ngưỡng mộ như R.Tagore, và

có những nghệ sĩ dù sáng tác không nhiều nhưng vẫn để lại ấn tượng sâu sắc mà tác

phẩm sống mãi với thời gian như Thạch Lam.

Với tư cách là những người sáng tạo nghệ thuật chân chính, Thạch Lam và

R.Tagore lên án các tác phẩm văn học “mang đến cho người đọc sự thoát ly hay sự

quên”, những tác phẩm sáng tác theo số đông, không có chiều sâu, xa rời thực tại.

R.Tagore gọi đó là “Thời trang trong văn học”. Ông viết: “Thời trang trong văn học

mà nhanh chóng mệt mỏi với bản thân chúng mấy khi đến từ bề sâu? Chúng thuộc về

sự vui nhộn gấp gáp bề nổi, đòi hỏi ầm ào được thừa nhận ngay tại thời điểm. Loại

văn học đó do chính sức căng của nó, làm kiệt sức sự phát triển bên trong, và nhanh

chóng chuyển sang những thay đổi ở cái vỏ bên ngoài giống như lá mùa thu, để nhờ

nước sơn và mấy mảnh vải vá mà tạo ra một cái thứ cập nhật làm xấu hổ bản thân nó

của mới ngày hôm qua” [50, tr.375]. Trong tiểu luận Theo dòng Thạch Lam cũng bày

28

tỏ: “chỉ có những tác phẩm nào có nghệ thuật chắc chắn, trong đó nhà văn biết đi qua

những phong trào nhất thời để suy xét đến những tính tình bất diệt của loài người, chỉ

những tác phẩm đó mới vững bền mãi mãi”. Như vậy, hai tác giả đều quan niệm

người nghệ sĩ không được phép chạy theo thời thượng nhằm thỏa mãn thị hiếu thấp

hèn của một bộ phận độc giả, càng không được phép bán đứng ngòi bút vì ma lực của

đồng tiền, những tác phẩm văn chương kém chất lượng chỉ tồn tại một thời gian ngắn

sẽ rơi vào quên lãng, cuối cùng bị xóa sổ trên văn đàn.

Thạch Lam và R.Tagore đã mang đến những quan điểm nghệ thuật tích cực từ

quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc. Với 32 năm ngắn ngủi ở trần thế,

Thạch Lam đã khẳng định được vị trí không thể thay thế của mình trong dòng chảy

của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Còn R.Tagore trở thành thiên tài của Ấn Độ và thế

giới. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của hai nhà văn trở thành tấm gương sáng của

người nghệ sĩ chân chính.

1.2.2.2 ... Đến những thành tựu ...

Thạch Lam và R.Tagore là hai là văn đồng đại, cùng được nuôi dưỡng từ nguồn

sữa nghệ thuật của gia đình và mạch nguồn văn hóa dân tộc. Các ông đến với văn chương

như quy luật tất yếu của tình yêu, đam mê. Sự nghiệp văn học của Thạch Lam có thể tính

từ năm 1931, đó là thời điểm ông thôi học, bắt đầu làm báo, viết truyện ngắn. Khi Nhất

Linh sáng lập nhóm Tự lực văn đoàn, Thạch Lam trở thành cây bút chủ chốt của báo

Phong hóa và Ngày nay. Cầm bút sáng tác theo tuyên ngôn của Tự lực văn đoàn, ông vẫn

lặng lẽ kiếm tìm cho mình một hướng đi riêng. Những sáng tác của ông ban đầu không

được công chúng đón nhận bởi nó luôn đi bên lề của “mốt thời thượng”. Tuy vậy, thời

gian là thước đo công bằng, khách quan đã trả lại cho văn chương ông giá trị đích thực vốn

có. Những sáng tác của Thạch Lam khá khiêm tốn về số lượng không chỉ bởi ông viết kỹ,

đến độ “khó tính” mà còn bởi cuộc đời của một nhà văn tài hoa quá ngắn ngủi, nhưng

những gì ông để lại không phải là số lượng đồ sộ mà là một phong cách nghệ thuật độc

đáo.Văn chương của Thạch Lam là những trang văn đẹp. Đến nay nó càng lôi cuốn tâm

hồn những con người đương đại, con người hôm nay tìm về Thạch Lam như nhu cầu tìm

về một cõi hiền hòa, yên tĩnh, dịu dàng, về một cõi mình có thể lắng nghe mình, về thời

gian của “Gió đầu mùa”, không gian của “Nắng trong vườn”, hương vị của “Hà Nội ba

sáu phố phường”.

Các tác phẩm của Thạch Lam hầu hết đã đăng báo trước khi in thành sách. Từ

năm 1933 đến 1940, trên hai tờ báo nổi tiếng Phong hóa, Ngày nay, Thạch Lam đã

viết và in ít nhất hơn 50 truyện ngắn. Trong đó, tác giả tuyển chọn, NXB Đời nay

29

xuất bản các tác phẩm: tập truyện ngắn “Gió đầu mùa” (1937), “Nắng trong vườn”

(1938), “Sợi tóc” (1941), một truyện dài “Ngày mới” (1939), Tiểu luận “Theo dòng”

(1941), Tập tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường” (1943) và một vài truyện viết cho

thiếu nhi in trong “Quyển sách hạt ngọc” (1940).

Trong mười năm ngắn ngủi tham gia công việc văn chương, Thạch Lam chú

ý đến những hình ảnh thơ mộng, đẹp ngấm ngầm của xã hội Việt Nam. Nếu Gió

đầu mùa nói về nông thôn thì Hà Nội băm sáu phố phường mang Thạch Lam lên

một vị trí quan trọng của văn học Việt Nam khi viết về Hà Nội. Thạch Lam không

phải người Hà Nội nhưng những rung động của ông đối với nơi này thật mạnh mẽ

và sâu lắng. Thiếu những yếu tố này chắc chắn chúng ta không có những tác phẩm

mà theo nhiều nhà phê bình văn học đều cho rằng: đây là “hạt ngọc” của nền văn

học Việt Nam hiện đại.

Từ năm 1988 đến nay, lần lượt các nhà biên soạn đã tuyển tập, chọn lọc

phần tác phẩm truyện ngắn Thạch Lam. Trong tình hình lưu trữ mấy chục năm qua

gặp rất nhiều khó khăn, việc tìm lại đầy đủ số truyện ngắn Thạch lam đã viết quả

không dễ dàng. Mặc dù vậy, với số truyện ngắn hiện có cũng đã đem lại cho

Thạch Lam một vị thế xứng đáng, làm rạng rỡ gương mặt truyện ngắn Việt Nam

hiện đại.

Còn R.Tagore, sự nghiệp văn học nghệ thuật của ông rất lớn. Ông để lại cho Ấn

Độ và thế giới 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tập tiểu thuyết và trên 100 truyện ngắn… Trong

đó, đáng chú ý nhất là tập Thơ dâng được giải thưởng Nobel Văn học 1913. Cả thế giới

đánh giá đây là kỳ công thứ hai của văn học Ấn Độ từ khi có Kalidaxa - nhà thơ lớn nhất

của Ấn Độ từ thế kỷ X đến nay. Ở thể loại truyện ngắn, R.Tagore cũng được đánh giá rất

cao. Có thể nói: R.Tagore là nhà văn đã khai sinh ra thể loại truyện ngắn trong nền văn

học Ấn Độ vào những năm 90 của thế kỷ XIX. Ông đã đưa thể loại này đến đỉnh cao

bằng những sáng tác của mình và ông xứng đáng với những lời xưng tụng của các nhà

nghiên cứu: “truyện ngắn bằng tiếng Bengali đã có những mùa hoa thật rực rỡ đầu tiên

trong tác phẩm của R.Tagore. Văn học hiện đại của Bengali đã bước vào một kỷ nguyên

mới, sự khởi đầu của thời kỳ Rabindranath viết truyện ngắn” [9, tr.92].

Không chỉ là một nhà thơ vĩ đại, một cây bút truyện ngắn xuất sắc, R.Tagore

còn rất thành công ở các thể loại: tiểu thuyết, kịch, âm nhạc, hội họa. Ông đã sáng

tác 12 tập bài hát trong đó có Quốc ca của Ấn Độ và Bangladesh. Những năm cuối

đời, R.Tagore sáng tạo hội họa một cách say mê như đã từng say mê thơ ca, sân

khấu và âm nhạc.

30

Trong suốt 65 năm sáng tác không mệt mỏi, R.Tagore đã để lại một gia tài đồ

sộ, phong phú các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ông sáng tác ở nhiều lĩnh vực và lĩnh

vực nào cũng đạt được những thành tựu huy hoàng. Ở bài viết này, chúng tôi chưa thể

đánh giá hết các thành tựu của R.Tagore trên từng lĩnh vực. Chúng tôi xin mượn lời

J.Nehru để bày tỏ sự trân trọng, ngưỡng mộ với tác giả: “trên toàn Ấn Độ, dần dần

R.Tagore đạt tới đỉnh cao không ai thách thức được” [15, tr.203].

Vì nhiều lý do khác nhau, trong đó một phần bởi sự sống quá ngắn ngủi với

một thi sĩ tài hoa, khi đang độ tuổi rực rỡ trên văn đàn nên số lượng tác phẩm và tầm

ảnh hưởng của Thạch Lam “mỏng” hơn so với R.Tagore. Tuy nhiên, riêng lĩnh vực

truyện ngắn, hai tác giả đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Dù số lượng tác phẩm

không nhiều, nhưng có giá trị nghệ thuật cao nên Thạch Lam vẫn được coi là nhà văn

lớn, là người đặt nền móng cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. R.Tagore được nhiều

nhà nghiên cứu khẳng định ông là nhà văn đầu tiên viết truyên ngắn bằng tiếng

Bengan, là người xác lập vị trí rõ ràng cho văn xuôi viết bằng tiếng bản địa trong quá

trình hiện đại hóa văn học Ấn Độ.

1.2.2.3... và đề tài phụ nữ, trẻ em

Dưới ách thống trị của chế độ thực dân, cuộc sống của nhân dân Việt Nam và

Ấn Độ vô cùng điêu đứng, khổ cực. Phụ nữ, trẻ em trong xã hội ấy không những phải

chịu nỗi khổ chung của người dân nô lệ, họ còn là nạn nhân của chế độ phong kiến

hẹp hòi, những hủ tục lạc hậu, khắc nghiệt. Là những người có tấm lòng nhân đạo cao

cả, giàu lòng yêu thương con người, Thạch Lam và R.Tagore đã thấu hiểu, cảm thông

với những kiếp người bất hạnh nhất là phụ nữ, trẻ em trong xã hội ấy. Thông qua đó,

người đọc hình dung phần nào cuộc sống con người trong một giai đoạn lịch sử nhiều

thăng trầm của dân tộc.

Thạch Lam là một trong những tác giả dành nhiều sự trân trọng, yêu

thương đối với người phụ nữ. Họ đi vào tác phẩm của ông một cách tự nhiên, trở

thành hình tượng phản ánh xã hội thực tại. Trong các tác phẩm, Thạch Lam không

chỉ khám phá, thể hiện chân thực cuộc đời cơ cực của họ, mà còn phát hiện ra vẻ

đẹp tâm hồn thánh thiện, cao quý trong những số phận bất hạnh ấy. Qua cách miêu

tả của Thạch Lam, họ rất đỗi dịu hiền, khiêm nhường, chịu thương, chịu khó,

dường như họ sinh ra để yêu thương, hy sinh vì người khác. Cuộc đời họ ngày nọ

nối tiếp ngày kia chỉ là chắp vá những lo âu, sầu tủi (Cô hàng xén). Họ còn là nạn

nhân của những tập tục phong kiến, bị hành hạ đến nỗi phải tìm đến cái chết,

31

nhưng vẫn cứ phải sống, chỉ được chết ngay trong cõi sống (Hai lần chết). Họ

cũng là những người thấm thía cảnh tủi nhục và sự trống rỗng ghê gớm của cuộc

đời (Tối ba mươi)... Thạch Lam với cái nhìn của người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp bao

giờ cũng tìm thấy ở họ những đức tính tốt, những tâm hồn trong sạch. Dù cuộc

sống nghèo khổ, cơ cực nhưng tâm hồn họ vẫn sáng lên những vẻ đẹp tiềm ẩn.

Với R.Tagore, hình ảnh người phụ nữ đã in dấu đậm nét trên những vần

thơ, vở kịch, tiểu thuyết của ông. Trong truyện ngắn, một lần nữa ông khẳng định

tình cảm của bản thân giành cho họ. Trong đời sống cá nhân, dù xuất thân trong

gia đình quý tộc nhưng ông đã vượt qua hàng rào đẳng cấp để kết hôn với nàng

Mrinalim Devi - con gái một tá điền trong trang trại của cha ông. Từ thuở ấu thơ,

ông đã gần gũi với “vương quốc của những người đày tớ”, thấu hiểu cuộc sống

của họ, họ đã góp phần bồi đắp tâm hồn nhân ái cho tác giả. Bởi vậy, ngòi bút của

ông luôn hướng về “những con người nhỏ bé” đặc biệt là người phụ nữ. Họ là nạn

nhân khốn khổ của sự phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, những tập tục lạc hậu.

R.Tagore nhận thức rõ được sự thực cay đắng ấy và phản ánh chân thực, cảm động

trong truyện ngắn của mình. Đó là Mahamaya trong Dàn hỏa thiêu, Kuxum trong

Những bậc bến tắm bên sông, Khirôđa trong Quan chánh án... Dù hiện lên trong

tác phẩm của R.Tagore với nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều có tâm trạng

buồn khổ, cô đơn, tuyệt vọng. Những thân phận ấy trong sáng tác của R.Tagore có

sức tố cáo xã hội mạnh mẽ.

Không chỉ giành tình thương, sự ưu ái đối với số phận người phụ nữ, Thạch

Lam và R.Tagore còn đặc biệt quan tâm đến những đứa trẻ nghèo, những số phận

trẻ thơ cơ nhỡ, những đứa trẻ thiếu vắng tình thương của gia đình, cộng đồng.

Những trang viết về trẻ thơ của Thạch Lam bao giờ cũng man mác một thứ

tình âu yếm, nó nhẹ nhàng mà ám ảnh. Cái tình âu yếm ấy không chỉ là cái nhìn

nhân hậu, yêu thương của người lớn giành cho lứa tuổi này mà còn là sự hóa thân

của nhà văn vào lũ trẻ, sự ám ảnh của tuổi thơ Thạch Lam gắn với phố huyện Cẩm

Giàng. Trong hồi ký của bà Nguyễn Thị Thế (chị gái Thạch Lam) khẳng định:

“Tôi không ngờ chú Sáu có trí nhớ dai thế, như truyện em tôi tả lại chị em thức

đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới đi ngủ. Năm đó tôi mới chín tuổi, em tôi lên tám

32

mà mẹ tôi đã giao cho hai chị em tôi coi hàng...”[dẫn theo 22, tr.344]. Rất nhiều

những nhân vật trẻ thơ như: mười một đứa con trong Nhà mẹ Lê, bé Hiên co ro với

manh áo rách tả tơi trong Gió lạnh đầu mùa, những đứa trẻ lom khom nhặt nhạnh

khi chợ tàn (Hai đứa trẻ)... Tất cả những nhân vật ấy như được tác giả xây dựng

gắn với vùng đất Cẩm Giàng. Viết về nhân vật trẻ thơ, sự cộng hưởng của các cảm

xúc đã mang cho những trang viết của Thạch Lam vừa mang tính lãng mạn, vừa

mang tính hiện thực, nó bảo đảm sức hút da diết, lâu bền.

Còn với R.Tagore, trẻ em là đối tượng được ông khắc họa có chiều sâu.

Ông thường nhìn trẻ thơ từ phương diện trong sáng, thơ ngây, tốt đẹp. Xuất phát

từ “tình cảm chân thành của người ông, người cha, người thầy yêu mến các em, tin

tưởng vào tương lai của các em và giáo dục cho mọi người hãy giữ chân, thiện, mỹ

trong các em” [47, tr.157]. Là người am hiểu tâm lý, tình cảm, ước mơ của trẻ em

nên R.Tagore đã miêu tả sự đa dạng, phong phú về tính cách của chúng. Đó là sự

tinh nghịch, đáng yêu của cô bé Giribala trong Mây và mặt trời, tính cách phóng

khoáng, vui vẻ, hòa đồng của cậu bé Tara trong truyện Kẻ lang thang, tính cách

nhẹ nhàng, tinh tế, luôn biết quan tâm, chia sẻ, chăm sóc những người thân yêu

của cô bé Prôba trong Người chủ bút và Ratan trong Thầy ký bưu điện. Nhưng

cũng có những đứa trẻ luôn khép mình, âm thầm, lặng lẽ như cậu bé Nikanta trong

Đứa trẻ bơ vơ…

Hình tượng phụ nữ, trẻ em đi vào trang văn của Thạch Lam và R.Tagore

như những chứng nhân của một thời đại nhiều biến động. Qua hình tượng ấy, hai

tác giả không tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp, không đi sâu vào sự áp

bức bóc lột nặng nề mà thường lặng lẽ đi vào những bi kịch nhân sinh nho nhỏ

nhưng có sức ám ảnh không dứt. Bằng tài năng nghệ thuật thiên phú, một trái tim

nhân đạo bao la, các tác phẩm viết về phụ nữ, trẻ em của hai tác giả có sức sống

lâu bền qua thời gian, có sức ám ảnh lớn và có khả năng thanh lọc mạnh mẽ tâm

hồn người đọc.

33

Tiểu kết chương 1

Thạch Lam và R.Tagore đều sinh ra và lớn lên trong một thời bão táp gắn với

những sự kiện trọng đại của lịch sử, bao đổi thay lớn lao của dân tộc, thay đổi lớn

nhất là cuộc sống “buổi giao thời” dưới chế độ thực dân thuộc địa. Trong xã hội ấy,

đối tượng bị tác động sâu sắc nhất, chịu nhiều bất công nhất là phụ nữ, trẻ em. Với

tâm hồn nghệ sĩ nhạy bén, luôn sẵn sàng ngân lên trước những rung động của cuộc

sống, Thạch Lam và R.Tagore đã quan tâm tới số phận những con người nhỏ bé trong

cuộc sống đời thường dưới những tác động của hoàn cảnh sống nhất là phụ nữ, trẻ

em. Qua các tác phẩm truyện ngắn, hai tác giả đã tái hiện một cách chân thực, sinh

động số phận con người đặc biệt là số phận phụ nữ, trẻ em dưới ách thống trị của thực

dân phương Tây cùng sự trói buộc của những tập tục lạc hậu, chế độ phong kiến cổ

hủ. Những người phụ nữ bi thương, những đứa trẻ bất hạnh đã tác động sâu sắc tới

trái tim của Thạch Lam và R.Tagore để lại dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm truyện

ngắn của hai tác giả.

Thạch Lam và R.Tagore có những gặp gỡ tình cờ về cuộc đời và nhiều điểm

tương đồng về quan điểm sáng tác. Điều đó đã chi phối sâu sắc đến cách lựa chọn

nội dung, nghệ thuật trong tác phẩm của hai nhà văn. Hệ quả của nó là sự kết hợp tính

“lãng mạn trong thi ca” và tính “hiện thực của truyện ngắn”. Ngoài “bức tranh hiện

thực” về xã hội Việt Nam và Ấn Độ, truyện ngắn của hai nhà văn còn phác họa cho

chúng ta những bức chân dung khác nhau của các nhân vật trung tâm trong xã hội ấy,

tiêu biểu là chân dung phụ nữ, trẻ em. Cao hơn nữa, những bức chân dung ấy được

khái quát thành hình tượng văn học để phản ánh những vấn đề sâu xa của cuộc sống.

34

Chương 2

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM

TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ R.TAGORE

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

2.1. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore

2.1.1. Khái niệm nhân vật và hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học

Văn học phản ánh cuộc sống và con người bằng hình tượng nhân vật cụ thể,

sống động. Nhân vật vừa là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong tác phẩm,

vừa thể hiện sự sống động tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, đồng thời cũng đánh giá

được cá tính sáng tạo của tác giả. Nó chuyển tải quan niệm của nhà văn về con người

và cuộc sống. Nhân vật văn học là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay

thất bại của tác phẩm văn học.

Trong Lý luận nghiên cứu văn học do Phương Lựu chủ biên, các tác giả đã

định nghĩa: “Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học và bằng

phương tiện văn học” [21, tr.227].

Lại Nguyên Ân trong cuốn Thuật ngữ văn học có viết: “Nhân vật văn học là

một thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về

sự tồn tại của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn

học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho

những đặc điểm giống với con người” [2, tr.24].

Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Trần Đình Sử: “Nhân vật văn học là

những con người cụ thể được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn

học. Đó là những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thúc Sinh, Kim Trọng... đó là những

nhân vật không có tên như: thằng bán tơ, một mụ nào ở trong Truyện Kiều... đó là những

con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma

quỷ, những con vật mang đặc điểm và tính cách con người” [10, tr.115].

Các nhà văn, các nhà nghiên cứu cơ bản gặp nhau ở những nội hàm không thể

thiếu của khái niệm này. Thứ nhất: đó phải là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện

bằng những phương tiện văn học. Thứ hai: đó là những con người hoặc những con

vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn con người, là hình ảnh ẩn dụ con người.

Thứ ba: đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực

bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ tài năng.

Dựa vào vai trò của nhân vật trong kết cấu và cốt truyện của tác phẩm, chia ra

ba loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.

35

“Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị

trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên can đến

các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của

mình” [21, tr.283].

Nhân vật trung tâm cũng là những nhân vật chính nhưng có vai trò “là nơi

quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm” và là nơi “thể hiện các vấn đề trung tâm

của tác phẩm” [21, tr.283].

Ngoài các nhân vật chính ra còn lại đều là các nhân vật phụ. Nhân vật phụ

nhiều khi chỉ là một cái tên xuất hiện thoáng qua, song cũng có khi chứa đựng những

tư tưởng quan trọng của tác phẩm.

Dựa vào hệ tư tưởng xã hội, chia ra nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. “Sự

phân biệt chính diện và phản diện gắn liền với những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống

xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập giai cấp và quan điểm tư tưởng” [21, tr.284]. Nhân

vật chính diện theo quan điểm đạo đức của tác giả và thời đại, phải mang trong mình

những phẩm chất lý tưởng, quan niệm tốt đẹp của thời đại mình. Đối lập với nhân vật

chính diện là nhân vật phản diện mang những nét tính cách xấu xa.

Tuy nhiên, văn học càng phát triển, sự khám phá con người càng tinh vi, toàn

diện. Con người là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, trong đó ẩn chứa cả “rồng

phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Vì thế, nhiều khi không dễ dàng tách bạch

nhân vật chính diện và nhân vật phản diện” [21, tr.287]. Phân biệt này chỉ có tính

tương đối. Dựa vào cấu trúc nhân vật, ta có thể chia ra một số kiểu loại khác nhau

như: nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng...

Như vậy, nhân vật văn học có vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm, nó là

hình ảnh nhỏ của con người. Qua cái nhìn của nhà văn, tính cách nhân vật được nhào

nặn ở mức độ nào đó, nhân vật sẽ trở thành hình tượng. Hình tượng được hiểu là sự

phản ánh hiện thực một cách khái quát về nghệ thuật dưới hình thức, hiện tượng cụ

thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính. Hình tượng trong tác

phẩm văn học luôn là phương tiện hình thức để nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và

phong cách nghệ thuật của mình. Mỗi nhà văn khi cầm bút phải không ngừng sáng

tạo, tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu, đặc sắc.

Không phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học, không phải

nhân vật nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để

trở thành hình tượng nhân vật thì nhân vật ấy phải có tính cách điển hình trong hoàn

cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật ấy phải có sức tập trung khái quát cao, phải mang

36

đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp… mà mình đại diện và bối cảnh xã hội của

nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi nào trong một

thời điểm nhất định.

2.1.2. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore

Dù sống ở hai quốc gia có văn hóa khác nhau, nhưng Thạch Lam và R.Tagore

đều trải qua thời gian dài chứng kiến những biến đổi của xã hội thuộc địa. Ở xã hội

đó, người dân mất tự do và những người thiệt thòi nhất là tầng lớp lao động nghèo.

Hai tác giả đã quan tâm phản ánh đời sống của họ, đặc biệt là hai đối tượng dễ bị tổn

thương nhất trong hoàn cảnh đất nước mất tự do là phụ nữ, trẻ em. Để làm rõ được ý

nghĩa của hình tượng phụ nữ, trẻ em, trước hết, chúng tôi tiến hành khảo sát tác phẩm

để thấy được diện mạo bề ngoài của hai kiểu nhân vật này.

Bảng 2.1: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam

Nhân vật phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

Đứa con

5 (Tân, bà đỡ, vú em, vợ

3/5

60%

1/5

20%

1

đầu lòng

Tân, đứa con)

5 (Mẹ Lê, con Tý, con

2

Nhà mẹ Lê

1/5

20%

3/5

60%

Phún, thằng Hy, cậu Phúc)

7 (Thanh, “Tôi” , Người

3 Một cơn giận

phu xe Dư, đội xếp Tây, bà

2/7

28,6%

1/7

14,3%

cụ nhà trọ, vợ Dư, con Dư

4 (Tâm, vợ Tâm, mẹ Tâm,

4

Trở về

3/4

75%

0

0

Trinh)

Tiếng chim

3 (Ba chị em trong gia

5

1/3

33,3%

2/3

66,7%

kêu

đình)

5 (Bình, Bào, bà chủ nhà

6 Người bạn trẻ

1/5

20%

2/5

40%

trọ, hai cậu bé em Bào)

3 (Tôi, Minh, Thầy Khán

7

Cái chân què

0

0

0

0

hộ

8

Đói

3 (Sinh, Mai, Bà Hiếu)

2/3

66,7%

0

0

6 (Liên, Sinh, Tâm, chồng

1

9 Một đời người

Liên, mẹ Chồng, đứa con

3

50

16,7

nhỏ)

37

Nhân vật phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

4 (Tôi, Người bạn, người

10 Người lính cũ

1/4

25%

0

0

lính già, bà cụ bán nước)

4 (Tôi, Khanh, bà vú, Lệ

11 Người bạn cũ

3/4

75%

0

0

Minh)

6 (Dung, cha Dung, mẹ

12

Hai lần chết

Dung, u già, chồng Dung,

4/6

66,7%

0

0

mẹ chồng Dung)

12 (Sơn, Lan, Duyên, mẹ

Gió lạnh đầu

Lan và sơn, vú già, Cúc,

13

3/12

25%

9/12

75%

mùa

Xuân, Tý, Túc, Hiên, Sinh,

mẹ Hiên)

4 (Tôi, bà Đầm, đứa con,

14

Người đầm

1/4

25%

2/4

50%

đứa bé bán kẹo)

8 (Liên, An, chị Tý, cụ Thi,

15

Hai đứa trẻ

bác phở Siêu, vợ chồng bác

3/8

37,5%

3/8

37,5%

Xẩm, thằng con bác Xẩm)

5 (chị Sen, bà cả, ông Cả,

16

Đứa con

3/8

60%

1/8

20%

thầy u chị Sen, đứa con)

Trong bóng

3 ( Diên, Mai, bà mối)

17

2/8

66,7%

0

0

tối buổi chiều

Cuốn sách

3 (Thành, Xuân, thiếu nữ)

18

1/3

33,3%

0

0

bỏ quên

Dưới bóng

3 (Thanh, bà Thanh, Nga)

19

2/3

66,7%

0

0

hoàng lan

3 (Liên, Huệ, người bồi

20

Tối ba mươi

2/3

66,7%

0

0

“săm” )

8 (Tâm, thằng Ái, thằng

21 Cô Hàng xén

Lân, con Bé, bà Tú, ông

3/8

37,5%

3/8

37,5%

Tú, Liên, Bài)

38

Nhân vật phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

10 (ông Cả Vinh, Hòe,

22

Tình xưa

Bình, Lan, Huệ, bà Cả,

4/10

40%

0

0

Bích, Ngạc, Chi, Hoạt)

5 (Thành, Bân, Tôi, Lan,

23

Sợi tóc

2/5

40%

0

0

cô nhân tình của Bân

9 (Nhung, Loan, Minh,

24

Bắt đầu

Bình, bà phán, các cô Lan,

7/9

77,8%

0

0

Hồng, Thu, Bích phù dâu)

5 (Tôi, Tiến, bà cụ bán

25 Bên kia sông

hàng tạp hóa, Thúy, người

2/5

40%

0

0

lái đò)

Bóng người

3 (Vân, Mai, đứa con)

1/3

33,3%

1/3

33,3%

26

xưa

27

Buổi sớm

2 (Bính, mẹ Bính)

1/2

50%

0

0

Cô áo lụa

2 (Hiệp, Lan)

1/2

50%

28

0

0

hồng

5 (Tôi, Bình, Vân, mẹ Vân,

29

Duyên số

2/5

40%

0

0

Bảo)

Đêm trăng

3 (Tuân, Mai, mẹ Tuân)

2/3

66,7%

30

0

0

sáng

7 (Tôi (Bình), ông Ba, bà

Nắng trong

Ba,cậu bé con ông bà Ba,

3/7

42,8%

2/7

28,6%

31

vườn

Hậu, em gái Hậu, con Hậu)

Những ngày

3 (Tân, cô gái thợ gặt, ông

32

1/3

33,3%

0

0

mới

cụ thợ gặt)

6 (Tôi, Tiến, mẹ Tiến,

33

Tiếng sáo

4/6

66,7%

0

0

Liên, bà Hàn, cô Thân)

Trung bình tỷ lệ

163 nhân vật

74/163

45,4%

31/163

19%

39

Bảng 2.2: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của R.Tagore

Nhân vật Phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

Số nhân vật

8 (Giribala, Xasibusan, ông

Harikuma, các anh trai của

Mây và mặt

1

Giribala, viên chúa đất, Quan

0

0

2/8

25%

trời

Xahip, viên Quan Anh, người

hầu, các vị khất sư Visnu)

5 (Hoàng hậu Ajita, Sê Kha

(Nhà thơ cung đình triều vua

2

Chiến thắng

Naranyan), Manjari (nữ tì của

2/5

40%

0

0

hoàng hậu), Đức Vua, Thi nhân

Punđarik)

8 (Nabenđu Sêkha, Arunlêkha,

Pơnenđu Sêkha (bố Nabenđu),

3

Chúng tôi xin

Pramathanat (anh con cả trong

tôn anh lên làm

nhà), Lybanyalêkha (cô chị lớn

4/8

50

0

0

vua

nhất), Kiranlêkha (cô em thứ

ba), Xaxankalêkha (cô thứ 4),

Babu Niratan (chồng Nabanya)

4

(Mahamaya,

Rajib,

4

Dàn hỏa thiêu

Bavanicharan

(anh

trai

1/4

25%

0

0

Mahamaya), ông già Bàlamôn)

Người láng

3 (Tôi, Nabin, người góa phụ

1/3

33,3%

0

0

5

giềng xinh đẹp

trẻ)

6

(Hêmanta, Kuxum, ông

Hariha Miukơji (bố Hêmanta),

Từ con

1/3

16,7%

0

0

6

bác Piri Xanka Gôxan, ông

Biprada Chatơji (Bố Kuxum)

6 (Tôi, Xunêtơra, Aruna (con

gái vợ chồng nv Tôi), Xailen

7

Lá số tử vi

(bạn trai Aruna), Ajit Kuma

3/6

50%

0

0

Battacharia (ông nhạc nhân vật

tôi), Bahibati (bà nhạc)

40

Nhân vật Phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

Số nhân vật

4 (Tôi, cụ Karimkhan, người hầu,

8

Đá đói

2/4

50%

0

0

cô gái Ả Rập, mĩ nhân Ba Tư)

3

(Mritunjay, vị khất

Kho vàng bí

9

(Sanka), Hariha

(ông nội

0

0

0

0

mật

Mritunjay)

5(Babu Môti (lãnh chúa vùng

Katalia), Tara, Anapơcna (vợ

10 Kẻ lang thang

1/5

20%

3/5

60%

babu), Saru (con gái Babu),

Xônamani (con gái bà làm bếp)

4 (Tôi, Bộ xương, anh trai của

11

Bộ xương

cô gái trong hình dạng bộ

1/4

25%

0

0

xương, Sê kha)

6

(Baiđiana, Xunđari

(vợ

12

Của phù vân

Baiđiana), 2 con của Baiđiana,

2/6

33,3%

2/6

33,3%

Vị khất sư, người hầu gái)

8

(Apơcbô, Mrinmayi, mẹ

Apocbo, mẹ Mrinmayi, chú bé

13 Cô dâu bé nhỏ

Rankan, bác Itxhan Mazunđa

4/8

50%

1/8

25%

(bố Mrinmayi), chị gái và anh

rể của Apơcbô)

4 (Sarat, Kiran, mẹ chồng

14 Đứa trẻ bơ vơ

2/4

50%

2/4

50%

Kiran, Xatit (em trai Sarat)

4

:Tôi, Mini, bác Ramun-

Bác hàng rong

15

(người bán hàng rong kabun),

1/4

25%

1/4

25%

người Kabun

mẹ Mini.

7(Xubasini (xuba), hai cô chị

Xuketsini,

Xuhasini,

ông

16

Xuba

Banikantha

(bố Xuba), mẹ

4/7

57,1%

0

0

Xuba, Pratap (con trai út nhà

Gôxên), chồng Xuba)

41

Nhân vật Phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

Số nhân vật

Thầy ký bưu

2 (Thầy ký bưu điện, Rattan (cô bé

17

0

0

1/2

50%

điện

mồ côi giúp thầy những việc vặt)

Những bậc bến

4 (Kuxum, Buban và Xoanô

18

3/4

75%

0

0

tắm bên sông

(bạn của Kuxum), khất sư)

3 (Khirôđa, đứa con trai mới

19 Quan chánh án

lên ba, Môhít Môhan Đút (quan

1/3

33,3%

1/3

33,3%

chánh án)

4 (Tôi, Con gái tiểu vương

20 Ảo ảnh tan vỡ

Gôlam Kađe Khan, Kesáclan,

2/4

50%

0

0

nữ tì người Hinđu)

21

Truyện vĩ đại

2 (Kumi, ông của Kimi)

0

0

1

50

4: Đạo sĩ, cô gái hái củi, vũ nữ

2/4

50

22

Đắc đạo

0

0

Mênêca, Ngọc hoàng

4 (Nhạc sư Acharia, Mađơvi(cô

gái bị bỏ rơi trong rừng được

Bài hát cuối

nhạc sư mang về nuôi), Cumasen

1/4

25%

0

0

23

cùng

(người học trò giỏi nhất của

Acharia), sứ giả của Vua

6: Hoàng tử, nhà Vua, Du

Tiên nữ hiện

24

khách, người con viên đại thần,

1/6

16,7%

0

0

hình

sư thần, Cadôri (cô gái du mục)

3 (Banamali, người đàn bà đứng

25 Nửa mờ nửa tỏ

2/4

66,7%

0

0

tuổi, cô gái chừng đôi mươi)

Người ăn mày

2 (Tu sĩ (người ăn mày), một

50%

1/2

0

0

26

kỳ dị

người đàn bà)

Con ngựa

2 (Ngọc hoàng, vị thần phù tá)

0

0

0

0

27

1/3

Hoàng tử

3 (Hoàng tử, em bé, mẹ em bé)

33,3%

1/3

33,3%

28

4

(Ông

lão

làm búp bê,

Những con búp

Kisenlan (người thợ mới), con

1/4

25%

1/4

25%

29

bê mới và cũ

gái ông lão , cháu gái ông lão)

42

Nhân vật Phụ nữ

Nhân vật trẻ em

TT

Tác phẩm

Tổng số nhân vật

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số nhân vật

Số nhân vật

4 (Minu, Chồng Minu, Tu sĩ

1/4

25%

1/4

25%

30

Minu

Bàlamôn, đứa bé con nhà giàu)

3 (Chị góa chồng, em bé, cụ

1/3

33,3%

1/3

33,3%

31

Giải thoát

già)

5 (Phật, Nhà

triệu phú, vị

32

Cứu đói

tướng, lão địa chủ, Xuria (cô

1/5

20%

0

0

gái ăn mày))

Hiền sĩ

3 (Quan hầu, Vua, Hiền sĩ

0

0

0

0

33

Naratam

Naratam)

4 (Thầy Gôtama, em Ái Chân,

1/4

25%

1/4

25%

34

Em Ái Chân

mẹ em, bọn trẻ)

6 (Raicharan, cậu chủ, mợ chủ,

35

Cậu chủ nhỏ

con trai cậu mợ, vợ Raichanran,

2/4

33,3%

2/4

33,3%

Phailna (con trai Raicharan))

Ngày xửa ngày

3 (Tôi, mẹ nhân vật tôi, bà nhân

36

xưa có một ông

vật tôi)

2/3

66,7%

0

0

vua

37 Người chủ bút 2 (Tôi, Prôba)

0

0

1/5

50%

Trung bình tỷ lệ

157 nhân vật

52/157

33,1% 22/157

14%

Căn cứ kết quả khảo sát, chúng tôi rút ra một số nhận xét:

Nhận xét 1: Về tỷ lệ tác phẩm có nhân vật phụ nữ và trẻ em:

Trong 33 tác phẩm của Thạch Lam có 32 truyện ngắn xuất hiện nhân vật

phụ nữ và trẻ em, chiếm 96,7%. Trong 37 truyện ngắn của R.Tagore có 34 tác

phẩm xuất hiện nhân vật phụ nữ và trẻ em, chiếm 91,2%. Tỷ lệ truyện ngắn có

nhân vật phụ nữ và trẻ em của R.Tagore thấp hơn Thạch lam, nhưng cả hai tác giả

đều có tỷ lệ trên 90%.

Kết quả này cho thấy: phụ nữ, trẻ em là những nhân vật được Thạch Lam và

R.Tagore quan tâm thể hiện. Tuy sự xuất hiện của họ trong các tác phẩm không đồng

đều và vai trò của họ khác nhau nhưng bản thân sự xuất hiện thường xuyên của phụ

43

nữ, trẻ em chứng tỏ cả hai nhà văn dành sự chú ý đặc biệt cho đối tượng này. Chắc

chắn hai kiểu nhân vật này trở thành hình tượng để phản ánh những vấn đề sâu xa.

Nhận xét 2: Về tỷ lệ nhân vật phụ nữ và trẻ em so với nhân vật nam giới:

Truyện ngắn Thạch Lam có tổng số 163 nhân vật, trong đó 74 nhân vật nữ

(trung bình chiếm 45,4%), 31 nhân vật trẻ em (trung bình chiếm 19%). Truyện ngắn

R.Tagore có tổng số 157 nhân vật, trong đó có 52 nhân vật phụ nữ (trung bình chiếm

33,1%), 22 nhân vật trẻ em ( trung bình chiếm 14%).

So với nhân vật nam giới, tỷ lệ nhân vật phụ nữ và trẻ em trong tác phẩm của

R.Tagore thấp hơn tỷ lệ trong tác phẩm của Thạch Lam. Tuy nhiên, nhân vật phụ nữ

và trẻ em trong tác phẩm của R.Tagore cũng lên tới 47,1%, chiếm tỷ lệ không nhỏ

trong tác phẩm.

Như vậy, dù truyện ngắn Thạch Lam và R.Tagore có những điểm khác nhau

về số lượng, tỷ lệ nhân vật. Nhưng cả hai tác giả đều có điểm chung ở sự quan tâm

đến nhân vật phụ nữ, trẻ em. Trong cái nhìn của hai nhà văn, phụ nữ, trẻ em không

chỉ đơn giản là nhân vật mà được cảm nhận sâu xa, được hình tượng hóa để phản ánh

những vấn đề sâu rộng của cuộc sống.

2.2. Hình tượng nhân vật phụ nữ

2.2.1. Phụ nữ - hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên

Như mọi nhà văn khác khi miêu tả nhân vật phụ nữ, Thạch Lam và R.Tagore

đều quan tâm đến vẻ đẹp của họ. Mỗi nhà văn đều có cách miêu tả riêng từ góc nhìn

văn hóa và góc nhìn chủ quan của cá nhân. Tuy nhiên, cả hai tác giả có những quan

niệm về vẻ đẹp mà qua đó người đọc có thể chiêm nghiệm, thấy được tầm khái quát

trong quan niệm về cái đẹp.

Thạch Lam là nhà văn vừa sử dụng bút pháp lãng mạn, vừa sử dụng bút pháp

hiện thực. Trong các truyện ngắn của mình, tác giả ít khi khắc họa vẻ đẹp lộng lẫy

của các nhân vật nữ mà thường miêu tả người phụ nữ với vẻ đẹp nhẹ nhàng, dịu

dàng. Các nhân vật nữ trong tác phẩm của Thạch Lam dù là người bà, người mẹ hay

thiếu nữ đều có điểm chung này. Nhân vật Tâm (Cô hàng xén), Nga (Dưới bóng

hoàng lan), Thúy (Bên kia sông), Mai (Bóng người xưa)... là những nhân vật tiêu

biểu cho vẻ đẹp như thế.

Tâm (Cô hàng xén) là cô gái nết na, xinh đẹp, nổi tiếng một vùng. Tình yêu với

cậu giáo Bài làm Tâm trẻ trung, xinh đẹp hơn “nàng cúi mặt xuống hàng thấy cái nhìn âu

yếm của người con trai ấy đè nặng trên người. Má Tâm phơn phớt đỏ” [34, tr.51]. Khi

mới lấy chồng, vẻ đẹp cô càng thêm tươi tắn “má nàng hồng hơn, môi nàng thắm

44

thêm. Người ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trước” [34, tr.56]. Tuy nhiên, cái đẹp ở

Tâm mà Thạch Lam muốn thể hiện không chỉ ở ngoại hình mà còn ở tâm hồn cô -

một tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ vô ngần. Tâm là chị cả, là con gái đầu, lại là vợ của

một thầy giáo nghèo. Dẫu biết, một con người luôn có nhiều mối quan hệ xã hội,

trong mỗi mối quan hệ lại đóng những vai trò khác nhau. Với Tâm, cô phải hoàn

thành tốt nhiều vai trò cùng một lúc, “ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác,

Tâm còn phải lo kiếm đủ tiền gửi thêm cho các em ăn học” [34, tr.56]. Về nhà chồng

ít lâu, Tâm sinh con, gánh nặng trên vai cô càng “cong xuống và rền rĩ”. Cuộc đời

Tâm toàn những ngày khó nhọc và lo âu “ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ”.

Tâm không muốn có lỗi với bất cứ người thân nào của mình, nên cô đã hy sinh lợi ích

của bản thân để sống vì người khác. Đức hy sinh của Tâm như một bản năng hình thành

từ trong máu thịt, như một lẽ hiển nhiên của cuộc sống. Ở nhân vật Tâm, Thạch Lam bày

tỏ thái độ trân trọng sự tận tụy tự nhiên, vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người phụ nữ.

Nhân vật Nga (Dưới bóng hoàng lan) mang một vẻ đẹp mong manh, nhẹ

nhàng. Trong cảm nhận của Thanh, vẻ đẹp hình thức của Nga hiện lên rất tự nhiên

“chàng nhìn cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ

nhỏ” [34, tr.71]. Vẻ đẹp ấy khiến chàng rung động, “thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi

thắm của Nga, hai má hồng và nụ cười tươi nở [34, tr.72]. Khi Thanh dắt nàng đi

thăm vườn, “có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng hương thơm

như có giắt hoàng lan” [34, tr.73]. Qua nhân vật Nga, Thạch Lam thể hiện cảm nhận

của ông về vẻ đẹp của thiếu nữ, đó là cái đẹp của hồn xưa in dấu trong những câu

chuyện cổ tích, một vẻ đẹp thanh khiết hoàn toàn tự nhiên. Tác giả không chỉ ca ngợi

vẻ đẹp hình thức của nhân vật Nga mà còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của cô, ca ngợi sự

mộc mạc, chân thành. Biết Thanh đi làm xa, “hàng ngày cô chạy sang chơi giúp đỡ bà

cụ giã cối trầu và nói chuyện đến người đi vắng ở trên tỉnh đã lâu không về thăm nhà”

[34, tr.73] cho bà đỡ buồn. Ở Nga còn lấp lánh vẻ đẹp của sự thủy chung. Dù chưa có

lời ước hẹn chính thức nhưng tình cảm của Nga vô cùng sâu sắc, khiến Thanh tin

tưởng “Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước” [34, tr.74]. Vẻ

đẹp và tính cách ấy của Nga khiến một người đàn ông như Thanh nghĩ đến cuộc sống

gia đình, đến “căn nhà như một nơi mát mẻ và sung sướng để chàng thường về nghỉ

sau việc làm”.

Cũng như Thạch Lam, R.Tagore đặc biệt trân trọng vẻ đẹp tự nhiên của người

phụ nữ. Ông nhiều lần tôn vinh vẻ đẹp ấy qua thơ ca và tiểu thuyết. Trong bài thơ số

28 tập Những con chim bay lạc, ông viết:

45

“Hỡi sắc đẹp, hãy tự tìm mình trong tình yêu và đừng nghe những lời nịnh hót

của chiếc gương soi”

Bài thơ ngắn này nói lên quan niệm về tình yêu và vẻ đẹp con người của

R.Tagore. Tình yêu làm nên vẻ đẹp, do vậy vẻ đẹp đó là vẻ đẹp tự nhiên. Chiếc

gương có thể phản chiếu tất cả ngoại hình con người, nhưng nó không thể phản

chiếu chiều sâu tâm hồn và vẻ đẹp trí tuệ. Vẻ đẹp hình thức được phản chiếu qua

chiếc gương chỉ là ảo ảnh, hình thức, rồi sẽ tàn phai theo thời gian, vẻ đẹp tâm hồn

mới tồn tại và được tình yêu tôn vinh. Đó là vẻ đẹp tự nhiên của con người.

Trong truyện ngắn, thêm một lần nữa R.Tagore bộc lộ quan điểm của mình về

vẻ đẹp người phụ nữ. Ông chú ý đến ngoại hình của họ, nhưng ông luôn nhìn thấy

trong đó là một vẻ đẹp nội tâm vô cùng phong phú. Ông viết: “Ở đời ta bắt gặp biết

bao gương mặt, trong đó có một số in sâu vào đầu óc ta mà ta gần như không hay

biết. Không phải vì đẹp chúng ta nhớ lâu mà vì một đức tính khác thì đúng hơn. Phần

nhiều, bản tính con người không được bộc lộ rõ trên mặt, tuy nhiên, có những gương

mặt trên đó cái đức tính bí mật, sâu kín bên trong cứ tự nhiên thể hiện ra. Trong

trường hợp như vậy, gương mặt ấy nổi bật giữa đám nghìn vạn gương mặt khác và

đột nhiên in sâu vào đầu óc ta” [50, tr.197].

Nhân vật Mrinmayi (Cô dâu bé nhỏ ) là một ví dụ tiêu biểu. Cô mang vẻ đẹp rất

khỏe khoắn: “Gương mặt Mrinmayi với nước da roi rói của người sống nhiều ở ngoài

trời giống mặt con trai nhiều hơn, mái tóc cắt ngắn quăn thành búp chỉ rủ xuống đến

vai như một chùm nho chín mọng lẫn trong lớp bụi đường. Đôi mắt to, đen không lộ vẻ

gì là sợ hãi hay e thẹn. Vóc người cao và cân đối, mềm mại và khỏe mạnh” [50, tr.197].

Tính cách của Mrinmayi rất mạnh mẽ và phóng khoáng: “Cô gái như một con nai trong

một vùng không có người đi săn… như một con hươu cái, tự do, phóng khoáng và liều

lĩnh” [50, tr.198]. Vẻ đẹp và tính cách của nhân vật Mrinmayi rất tự nhiên, không cầu

kỳ. Chính điều ấy đã khiến Apơcbô - “một chàng có văn hóa và học vấn cao” vô cùng

ấn tượng và chọn cô làm vợ. R.Tagore còn thể hiện vẻ đẹp nội tâm qua cách ứng xử

của cô. Tuy Mrinmayi rơi vào hoàn cảnh éo le, phải lấy người mà mình chưa yêu, phải

“nhận lời cầu hôn như nhận một bản án tù chung thân” [50, tr.204] với người mẹ chồng

không ưng ý con dâu từ ban đầu. Nhưng qua thời gian, cô đã thay đổi, từ một cô gái

“hiếu động” trở thành “người phụ nữ hiền dịu, sâu sắc”. Cô còn lấp được hố sâu ngăn

cách mẹ chồng - nàng dâu khiến “hai mẹ con hoàn toàn hòa hợp và gắn bó không rời

nhau như hai cành trên cùng một cây” [50, tr.215]. Cuối cùng, cô bảo vệ được hạnh

phúc riêng của mình. Nhân vật Mrinmayi là hình mẫu hoàn hảo của R.Tagore. Cô có

46

một vẻ đẹp khỏe khoắn, tự nhiên, biết điều chỉnh suy nghĩ và hành động để có cuộc

sống tốt đẹp hơn.

Xây dựng hình tượng phụ nữ với vẻ đẹp tự nhiên, Thạch Lam và R.Tagore

quan niệm: mọi cố gắng điểm tô không làm người phụ nữ đẹp lên mà chỉ “giết chết

vẻ đẹp tự nhiên”. Nhân vật Mai (Trong bóng tối buổi chiều) thay đổi cách ăn mặc và

trang điểm theo hướng “Âu hóa” không làm Diên - người yêu nàng xúc động mà

khiến chàng “mở to mắt như người điên” khi thấy “Mai đánh phấn! Đôi môi có vết

son của cô gái trước kia quê mùa mộc mạc làm chàng rùng mình nghĩ đến những bộ

mặt trát phấn, những đôi môi đẫm son như thấm máu mà chàng thường trông thấy

trước cửa những chỗ ăn chơi” [34, tr.242]. Chẳng còn vẻ đẹp mộc mạc, tự nhiên như

xưa, Diên thấy có sức mạnh nào đến chia rẽ Mai và chàng. Cuối truyện là hình ảnh

Diên nấc lên rồi chạy trốn trong bóng tối buổi chiều. Nhân vật Xuba trong truyện

ngắn cùng tên là cô gái “thiếu lời ăn tiếng nói nhưng không thiếu cặp mắt to đen với

hai hàng mi dài” [50, tr.245]. Vẻ đẹp nhân tạo mà mẹ cô cố “chau chuốt cẩn thận để

giết chết vẻ đẹp tự nhiên của cô” [50, tr.251] không làm người đọc xúc động bằng vẻ

đẹp tự nhiên mà cô vốn có. Khirôđa (Quan chánh án) dùng vẻ đẹp nhân tạo làm mặt nạ

che đi nỗi tủi nhục bên trong, cô phải “Gạt nước mắt, tô hai hàng mi, quệt son lên môi,

đánh phấn hồng lên má che giấu tuổi xuân tàn dưới một dáng dấp giả tạo” [50, tr.268].

Nhưng vẻ đẹp ấy không hấp dẫn người đọc bằng hình ảnh của Khirôđa ở tuổi xuân

mười lăm, qua hồi ức của quan chánh án. “Một gương mặt đẫm lệ, chan chứa yêu

thương, rụt rè, nhút nhát” [50, tr.276]. R.Tagore đã để cho ấn tượng về vẻ đẹp năm

xưa xâm chiếm cảm xúc và sống mãi trong lòng độc giả cùng với dư âm khó phai mờ

của phần kết câu chuyện. Nhờ vậy, với người đọc, cô gái điếm Khirôđa vẫn đẹp vẹn

nguyên như người thiếu phụ Hemsasi ngày nào.

Do văn hóa của hai quốc gia có nhiều khác biệt và do cảm nhận cá nhân mỗi

tác giả, nên quan niệm về cái đẹp cũng có những điểm khác nhau: Những nhân vật nữ

của Thạch Lam thường có vẻ đẹp nhẹ nhàng, ngây thơ với hình ảnh thường thấy là

làn da trắng, đôi môi thắm và đôi mắt đen láy. Các nhân vật nữ nữ của R.Tagore lại

hiện ra với vẻ đẹp có phần thô ráp, đầy sức sống. Theo R.Tagore, những cô gái có vẻ

đẹp tự nhiên, khỏe khoắn thường có hậu. Mrinmayi (cô dâu bé nhỏ) với “nước da roi

rói”, “vóc người to cao và khỏe mạnh”, khác hẳn cô gái khuôn mặt đầy son phấn, ăn

vận kín mít, đeo quá nhiều nữ trang mà mẹ Apơcbô kén cho chàng: “cô dâu sắp cưới

tắm rửa sạch sẽ, tô son điểm phấn quấn một chiếc xari màu được dẫn ra, run bần bật

trước mặt Apơcbô. Cô lặng lẽ ngồi vào xó nhà, vạt xari choàng lên đầu, rủ xuống tận

47

cằm, cúi khom người đến mức đầu gần chạm đến gối. Cái khối hình e lệ, mặc quần

áo, đeo đồ nữ trang ấy không thốt ra một câu trả lời nào” [50, tr.200]. Cuối cùng,

Apơcbô bị thu hút bởi vẻ đẹp tự nhiên của Mrinmayi. Dù vẻ đẹp ấy không đúng

chuẩn mực của mẹ chàng, nhưng theo thời gian, cô đã có sự thay đổi lớn lao, trở

thành người phụ nữ chín chắn như Apơcbô và mẹ chồng mong đợi.

Nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore mang vẻ đẹp tự

nhiên, không cầu kỳ. Hơn nữa, cái đẹp mà hai tác giả thiết tha nâng niu là cái đẹp

thuần chất của tâm hồn, nó thể hiện ở tính cách, ứng xử của người phụ nữ với gia

đình và những người xung quanh, đó mới chính là vẻ đẹp tồn tại lâu bền với thời

gian. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ của hai tác giả vẫn còn giá trị vẹn

nguyên trong xã hội hiện nay.

2.2.2. Phụ nữ và khát vọng hạnh phúc

Trong cuộc sống, hạnh phúc là một trạng thái con người luôn khao khát hướng tới

bất kể đàn ông hay phụ nữ, người lớn hay trẻ em. Thạch Lam và R.Tagore là những nhà

văn luôn đấu tranh cho quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Vì thế, không ngạc

nhiên khi tác phẩm của hai ông luôn thể hiện ước mơ, khao khát về một cuộc sống tốt

đẹp. Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn của hai tác giả là những người đẹp từ hình thức

đến tâm hồn, họ luôn khao khát được hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây được hiểu theo nghĩa

rộng: đó là có cuộc sống viên mãn, hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc làm mẹ…

Trong tác phẩm Tối ba mươi, Thạch Lam nói lên tâm trạng của hai cô gái điếm

Liên và Huệ trong nhà săm vắng lặng giữa Hà Nội trong đêm giao thừa. Làm nghề

mua vui cho người khác, bị xã hội khinh rẻ nhưng tâm hồn họ vẫn ánh lên những

khoảng sáng. Cuối năm là thời khắc con người muốn sống trong tình cảm yêu thương

của gia đình, cho dù quanh năm đi đâu, làm gì, gia đình vẫn là nơi thân thương mỗi

người mong ngóng trở về. Liên và Huệ cũng vậy, là những người sống bên rìa xã hội,

hai cô vẫn nhớ tới quê hương, nhớ tới tổ tiên, hồi tưởng những kỷ niệm ngọt ngào

thời thơ ấu. Còn bất hạnh nào hơn khi mong muốn được xum họp với người thân

trong thời khắc giao thừa cũng không được. Lúc này, tâm hồn những con người đáng

thương ấy dâng lên niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và cuộc sống của mình. Dù

bị nhấn chìm xuống đáy cùng của sự bần hàn, nhưng hai cô vẫn đau đáu ngày trở về

trong sự hoàn lương, vẫn khao khát có cuộc sống ấm êm bên gia đình, khao khát

vươn tới cuộc sống hạnh phúc. Như bản năng tốt đẹp, Liên và Huệ luôn hướng thiện.

Không chỉ khao khát về một cuộc sống tốt đẹp hơn, người phụ nữ trong truyện

ngắn Thạch Lam còn ước vọng một cuộc sống bên người họ yêu thương. Liên (Một

48

đời người) luôn bị chồng và gia đình nhà chồng đối xử rất tàn nhẫn. Cô yêu Tâm

nhưng cha mẹ đã gả cô cho Tích. Tâm vì quá đau khổ đã bỏ nhà trốn đi. Tình cờ sau

hơn bảy năm, cô gặp lại Tâm và hai người làm cùng một sở. Tâm vẫn yêu Liên và

ngỏ ý muốn nàng bỏ chồng để lấy chàng. Sau những tháng ngày đau khổ, sống trong

ngôi nhà “địa ngục”, Liên khao khát muốn trốn đi cùng Tâm để thoát khỏi cuộc đời

đen tối, để sống trọn vẹn với tình yêu, để xây dựng cuộc sống mới hạnh phúc. Trận

bạo hành của chồng hôm trước làm khao khát ấy càng trở nên mãnh liệt: “Một sự căm

hờn nổi dậy trong lòng nàng; sao nàng lại không đi với Tâm được? Ai cấm? Mà tội gì

nàng phải ở đây để chịu những nỗi khổ sở như thế vậy? Phải đi, đi để thoát khỏi địa

ngục, đi để hưởng chút hạnh phúc mà nàng có quyền được hưởng ở đời” [34, tr.143].

Hàng loạt những câu hỏi trong tâm trí Liên như thôi thúc cô từ bỏ cuộc sống hiện tại

để xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Dù sau đó Liên “không đủ can đảm để làm

một việc như thế, không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái cay nghiệt gây

nên xung quanh nàng” [34, tr.144], nhưng khao khát về cuộc sống hạnh phúc bên

Tâm sẽ như ngọn lửa âm ỉ trong lòng Liên và có thể bùng cháy lên bất cứ lúc nào.

Cùng một mối quan tâm, R.Tagore cũng có những cảm nhận giống Thạch

Lam, nhưng ở góc nhìn của ông có những điểm khác.

Vấn đề hạnh phúc cho người phụ nữ, đặc biệt là những người góa chồng đã

được R.Tagore đề cập trong nhiều truyện ngắn. Cuộc đấu tranh tìm kiếm hạnh phúc

diễn ra âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt giữa những tư tưởng mới và cũ đối

lập nhau, nhiều khi diễn ra trong tâm trạng của một con người. Trong Giải thoát,

người phụ nữ đang nặn tượng người yêu đã qua đời, mỗi ngày trôi qua, hình ảnh

người yêu chị càng trở nên lu mờ khiến bức tượng càng dần càng không giống hình

ảnh trong trí nhớ của chị. Bên ngoài, những âm thanh cuộc sống mời gọi chị. Chị

khao khát hòa mình vào cuộc sống nhưng phải cố nén lòng vì chị không thể xa rời

bức tượng yêu quý. “Bức tượng” tượng trưng cho sự níu kéo quá khứ. Tiếng bọn trẻ

và người đi chợ tượng trưng cho cuộc sống hiện tại. Cuộc đấu tranh giữa hiện tại và

quá khứ diễn ra quyết liệt trong bản thân người đàn bà góa. Dòng người tràn qua,

cuốn trôi bức tượng - sự sống chiến thắng cái đã mất. Theo tiếng gọi của cuộc sống,

góa phụ bước qua “luống hoa”, nhập vào đoàn người đi trẩy hội. Bên này và bên kia

luống hoa là khoảng cách nhỏ bé nhưng xa vời vợi. Nó tượng trưng cho những định

kiến xã hội, những quy định nghiệt ngã tồn tại trong nếp sống người Ấn Độ. Đoạn

tuyệt với quá khứ đau buồn, góa phụ trong Giải thoát mới chạm chân đến ngưỡng cửa

hạnh phúc. Ràng buộc của quan niệm đạo đức không cho phép phụ nữ tự do định đoạt

49

hạnh phúc nhưng một cách rất tự nhiên, họ đã đấu tranh vượt qua rào cản đó. Khao

khát mãnh liệt giúp họ chiến thắng.

Trong Ảo ảnh tan vỡ, con gái tiểu vương GôLam Kađe Khan là cô gái mạnh

mẽ đã vượt qua rào cản của lễ nghi tôn giáo, của dòng dõi gia đình để đi theo tiếng

gọi của tình yêu. Xuất thân trong một gia đình hồi giáo nhưng nàng đem lòng yêu

Kasáclan, một chàng trai Hinđu giáo. Chế độ phân biệt đẳng cấp không cho phép một

cuộc hôn nhân dị giáo. Giữa việc tuân thủ lễ giáo và hạnh phúc lứa đôi, cô gái đã

chọn tình yêu lứa đôi dù phải đối mặt với sự trừng phạt nặng nề. Nàng đã giành cho

Kasáclan một tình yêu thánh thiện “vừa tôn kính, vừa yêu thương” [50, tr.283]. Với

khao khát hạnh phúc cháy bỏng, nàng đã làm tất cả để đến được với chàng trai Hinđu

giáo. Dù sau những biến cố, tình yêu ấy không được đáp lại nhưng hình ảnh của nàng

là sự bứt phá, đấu tranh mạnh mẽ với tôn giáo, với những quan niệm của lễ giáo

phong kiến để bảo vệ tình yêu, hướng tới hạnh phúc.

Khác hơn một chút, Kuxum (Những bậc bến tắm bên sông) là cô gái góa bụa

từ năm lên tám tuổi. Khi biết chồng vẫn sống, cô luôn khao khát được sống trọn vẹn

với tình yêu. Cô đã bày tỏ tình yêu với chồng mình, nay là khất sư. Nhưng giờ đây,

chồng cô đã thuộc về thế giới khác, không thể xây đắp hạnh phúc gia đình, Kuxum

tuyệt vọng, đau đớn. Trái tim cô luôn khát khao có được tình yêu và sống trong hạnh

phúc, giờ trở thành vô vọng. Cô gieo mình xuống dòng sông để kết thúc cuộc đời,

mang theo những ước vọng. Dù tình yêu của Kuxum không được đáp lại và ước

nguyện hạnh phúc không thành, song những gì nàng làm được như một thông điệp gửi

tới bao người phụ nữ Ấn Độ đương thời: hãy biết dũng cảm bày tỏ tình yêu của mình.

Hình tượng nhân vật phụ nữ với khát khao hạnh phúc mãnh liệt trong truyện

ngắn của Thạch Lam và R.Tagore giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau đớn của họ

khi bị những hệ lụy của xã hội chà đạp. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, những

dấu hiệu của ý thức “nữ quyền” ngày càng được hé lộ. Trên thế giới nói chung, ở Việt

Nam và Ấn Độ nói riêng ý thức “nữ quyền” đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng tình

trạng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại. Nhiều định kiến bất công và tư tưởng cổ

hủ vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật, nhiều phụ nữ vẫn phải chôn vùi cuộc

sống trong những ràng buộc khắt khe mà người đời coi đó là một lẽ hiển nhiên họ

phải chịu đựng, chấp nhận. Việc lên tiếng đấu tranh đòi quyền sống, quyền được

hưởng hạnh phúc trong tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore vẫn còn nguyên giá trị

cho đến ngày nay, nó chứng tỏ tầm nhìn sâu rộng và tinh thần nhân văn cao cả của

hai tác giả.

50

2.2.3. Phụ nữ - hiện thân của bi thương

Đầu thế kỷ XX, tại Việt Nam và Ấn Độ, tư tưởng tự do còn hạn chế, sự phân

biệt nam nữ còn nặng nề, phụ nữ là những người thiệt thòi nhất trong xã hội ấy. Có lẽ

vì thế, hầu hết tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore đều mang màu sắc buồn, nhất là

những tác phẩm viết về phụ nữ.

Thạch Lam dù có cái nhìn nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng các truyện ngắn của

ông nhìn chung đều có giọng điệu buồn. Qua các tác phẩm của ông, người đọc cảm

nhận được dư âm của cái bi thương rất rõ. Hình ảnh Dung (Hai lần chết), Liên, Huệ

(Tối ba mưới), Liên (Một đời người), hay hình ảnh mẹ Lê (Nhà mẹ Lê)… ám ảnh

người đọc. Truyện ngắn Thạch Lam có 74 nhân vật phụ nữ, chỉ 11 nhân vật có cuộc

sống suôn sẻ. Các nhân vật khác (63 nhân vật) ít nhiều đều có những bất hạnh trong

cuộc sống.

Người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau

trong gia đình, xã hội. Là người yêu, người vợ, người mẹ trong gia đình, họ bị thờ ơ,

hắt hủi, hành hạ như những nô lệ. Dung trong Hai lần chết là cô gái sinh ra đã phải

chịu sự ghẻ lạnh của gia đình. Lớn lên, cha mẹ gả cô cho một gia đình giàu có, nhưng

lại gặp phải người chồng “vừa lẩn thẩn, vừa ngu đần”, mẹ chồng thì ác nghiệt, luôn

tìm cách đay nghiến con dâu, còn hai cô em chồng “ghê gớm lắm, thi nhau làm cho

nàng bị mắng thêm” khiến Dung khổ sở vô cùng. Cô muốn tìm chỗ dựa tinh thần ở

nhà bố mẹ đẻ. Nhưng người mẹ lại rũ bỏ trách nhiệm với con bằng thái độ vô cảm,

tàn nhẫn “chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi”. Lần thứ nhất, Dung tự tử

nhưng không chết. Lần thứ hai đáng sợ hơn, Dung phải tiếp tục cuộc sống cũ, đó mới

thực sự là chết không bấu víu vào đâu được, cái chết vì tinh thần ngay trong cõi sống.

Khác với Dung lấy phải anh chồng ngu đần, Liên (Một đời người) lại lấy phải anh

chồng vũ phu, sẵn sàng hành hạ vợ bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Cả chồng và mẹ

chồng đều tàn bạo nên Liên chỉ còn trông vào đứa con lên sáu làm chỗ dựa tinh thần,

nhưng bất hạnh thay “nó cũng xấc láo như bố”. Ngôi nhà với cô như “một cái địa

ngục”, cô không hiểu do đâu “chồng nàng và mẹ chồng lại ác nghiệt với nàng đến

thế”. Đọc những trang truyện này, người đọc như cảm nhận được tâm sự sâu kín, một

lời trách móc âm thầm và thống thiết của nhà văn qua những số phận bất hạnh. Đó là

sự phản đối chế độ gia đình phong kiến cổ hủ - một chế độ vô nhân đạo với những

người phụ nữ ở ngay trong gia đình và do chính những người thân của họ gây ra.

Cuộc đời của Liên, Huệ trong Tối ba mươi là cuộc đời của những con số

không tròn trĩnh: không gia đình, không quê hương, không chốn tựa nương. Lời khấn

51

bái tối giao thừa nghẹn lại vì không biết khấn gì. Lời chúc của người bồi “săm” cũng

không nỡ nói hết vì không biết chúc gì. Mọi nẻo đường dường như đã bị chắn lối.

Hướng về nhà thì Huệ “còn nhà đâu nữa mà về? Mẹ chết rồi, cha đi lấy vợ khác

không biết ở đâu… Liên còn cha mẹ nhưng không dám về” [34, tr.234]. Họ ở lại

trong căn phòng bẩn thỉu với một cái tết lạnh lẽo. Cuộc sống tạm bợ, qua ngày của

Liên, Huệ dưới ngòi bút của Thạch Lam đáng thương hơn đáng giận. Số phận của họ

cũng bi thương như số phận chung của những người phụ nữ trên các trang viết của

Thạch Lam.

Hình ảnh người mẹ trong trang viết của Thạch Lam cũng hiện ra thương tâm

vô cùng, đó là người mẹ nghèo khó tần tảo sớm hôm nuôi con ăn học, lớn lên lại bất

hiếu trong Trở về. Đó là mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) - người đàn bà góa chồng phải nhọc

nhằn, tần tảo nuôi đàn con thơ mười một đứa. Tình thế cùng quẫn, bà phải nhẫn nhục

mang rá vay gạo nhà giàu. Nhưng hai lần đi, hai lần mang rá về không, đau đớn hơn,

bà còn bị chúng xua chó cắn chết. Cuốn phim về cuộc đời mẹ Lê được Thạch Lam

quay lại từ từ trong cơn mê sảng của nhân vật. Cuộc đời mẹ Lê từ quá khứ đến hiện

tại “chỉ toàn là những ngày khổ sở, nhọc nhằn”. Cái chết của mẹ Lê là lời buộc tội sâu

sắc hiện thực xã hội đương thời. Đọc tác phẩm này, ta thấy có sự gặp gỡ ở một mức

độ nào đó giữa Thạch Lam và Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng làm người đọc

xúc động khi gợi lại cái chết thảm thương của cô Mũm (Đây bóng tối). Cô Mũm chết

đi để lại người chồng mù lòa và bốn đứa con thơ dại. Còn mẹ Lê, liệu có nhắm mắt

được dưới suối vàng khi trên dương thế còn đàn con thơ dại trước cuộc đời đầy giông

tố? Trái tim vốn đầy lòng trắc ẩn của nhà văn như run lên khi viết về số phận bi

thương của những con người bất hạnh. Dường như với Thạch Lam, phụ nữ ngoài

thiên chức làm mẹ còn mang trên vai gánh nặng mưu sinh. Cuộc đời họ gắn liền với

khổ sở, buồn đau.

Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam đều đan cài bút pháp lãng mạn và hiện thực.

Giọng điệu thương cảm của ông không chỉ dành riêng cho kiểu nhân vật phụ nữ, vấn

đề nhân đạo được ông triển khai ở mọi phương diện. Tuy nhiên, rất rõ ràng, khi viết

về người phụ nữ, Thạch Lam tập trung phản ánh khía cạnh đau buồn trong cuộc sống

của họ. Nhân vật phụ nữ của Thạch Lam có hạnh phúc nhưng nhiều hơn cả là hình

ảnh, số phận bi thương. Dường như với Thạch Lam, phụ nữ không chỉ là những

người thiệt thòi mà trong cảm nhận và bút pháp của ông, họ là hiện thân của cái bi.

Trong sáng tác của R.Tagore, nhân vật phụ nữ cũng có những điểm giống nhân

vật nữ của Thạch Lam. Tiếp xúc với mỗi nhân vật nữ của R.Tagore, độc giả sẽ gặp

52

một cảnh đời đặc biệt để lại dư âm buồn. Khảo sát truyện ngắn của ông, chỉ có 7/52

(chiếm 13,5%) nhân vật phụ nữ có cuộc sống hạnh phúc, còn lại phần lớn (45 nhân

vật) đều được miêu tả trong cái buồn thương.

Mahamaya (Dàn hỏa thiêu) là cô gái thuộc đẳng cấp Bàlamôn. Vì yêu Rajip,

một chàng trai thuộc đẳng cấp thấp hơn nên cô bị người anh tàn nhẫn, độc ác ép lấy

một người đàn ông cùng đẳng cấp, đang hấp hối. Hôn lễ cử hành trong tiếng lầm rầm

đọc kinh hòa lẫn tiếng rên rỉ của kẻ sắp chết. Hôm sau, nàng trở thành góa phụ, đau

đớn hơn, nàng bị thiêu sống cùng xác chồng (tục sati). Thật chua chát khi các tu sĩ đặt

ra điều cấm kỵ “không được sát sinh” cho dù là một con kiến bé nhỏ nhưng lại cho

phép thiêu sống một góa phụ. May mắn thay, một trận cuồng phong và mưa bão đã

cứu sống tính mạng cô. Tưởng rằng, Mahamaya sẽ được sống hạnh phúc bên người

yêu, nhưng nỗi đau này vừa qua, nỗi đau khác lại đến. “Ngọn lửa của dàn hỏa thiêu

với cái lưỡi háu đói và bạo tàn đã cướp đi cả một phần má trái và để lại những tàn phá

mà cơn thèm khát của nó gây ra” [50, tr.79]. Mặc cảm, buồn tủi cho số phận,

Mahamaya sống mà như đã chết. Nàng không dám nhìn Rajip, không để anh động

đến cô. Tấm khăn trùm đầu như một tấm khăn liệm phần đời còn lại của cô. Một

đêm, Rajip đến mở tấm khăn ra, anh nhìn thấy một vết sẹo đáng sợ trên mặt

Mahamaya. Dù Rajip cầu xin tha thứ nhưng vì quá đau buồn, Mahamaya đã bỏ đi.

Nhân vật Kuxum (Những bậc bến tắm bên sông) bị gả chồng từ khi còn là cô

bé bảy tuổi, mới được gặp chồng một, hai lần thì nhận được bức thư báo tin chồng

chết. “Tám tuổi đã góa bụa, Kuxum xóa bỏ dấu son của người đàn bà có chồng trên

trán, cởi bỏ các vòng đeo ở cổ tay, cổ chân và trở về ngôi nhà cũ bên con sông Hằng”

[50, tr.261]. Từ đó, cô sống cuộc đời thầm lặng, không người thân, không bạn bè.

Mười năm sau, cứ ngỡ hạnh phúc sẽ mỉm cười khi cô gặp lại người chồng tưởng đã

chết sau bao năm xa cách. Nhưng giờ đây, chồng cô đã trở thành khất sư, không còn

là người thuộc về thế giới thực, nơi đó không có chỗ cho tình yêu tồn tại. Cuối cùng,

nàng tìm đến dòng sông Hằng để kết thúc cuộc đời đơn côi, buồn tủi. Số phận của

Mahamaya và Kuxum tiêu biểu cho số phận bi thảm của nhiều cô gái Ấn Độ - nạn

nhân của những tập tục lạc hậu. Qua đó R.Tagore lên án tập tục vô nhân đạo trong

văn hóa Ấn Độ đã kìm hãm, áp bức phụ nữ, không cho họ một con đường sống, một

cơ hội làm người đúng nghĩa.

Cuộc đời Khirôđa (Quan chánh án) bị chà đạp phũ phàng trước thái độ vô cảm

của kẻ thống trị nhân danh luật pháp, đạo đức. Cô góa chồng khi mới mười lăm tuổi.

Với khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc, cô đem lòng yêu say mê Môhít Môhan

53

Đút, nhưng nhận lại là sự dối trá, lọc lừa. Sau những biến cố cuộc đời, Khirôđa trở

thành cô gái tiếp khách làng chơi, mua vui cho kẻ khác bằng những nụ cười nhưng

đằng sau là những giọt nước mắt đầy tủi nhục. Những năm tháng cuối cùng của tuổi

thanh xuân, Khirôđa đã có một mái ấm gia đình. Nhưng tổ ấm bé nhỏ chị hằng mong

đợi phút chốc tan thành mây khói, nó ra đi vĩnh viễn để lại nỗi đau đớn khôn cùng:

“Một buổi sáng, chị thức dậy để nhận ra người tình đã bỏ trốn hồi đêm, cuỗm theo tất

cả tiền bạc và các đồ trang sức của mình. Chị không còn chút gì để trả tiền thuê nhà,

và cả để mua sữa cho đứa con trai mới lên ba” [50, tr.268]. Từ dối lừa này đến dối lừa

khác, cuộc đời của chị gặp phải nhiều tên Sở Khanh đã cướp mất của chị tất cả: tuổi

xuân, tiền bạc, vật chất. Trong phút giây cùng quẫn, bế tắc, chị ôm con vào lòng, lao

xuống giếng tự tử. Thật nghiệt ngã, Khirôđa không chết, chỉ đứa con lên ba của cô

chết. Cô bị quan chánh án nghiêm khắc khép vào tội giết con, oái oăm thay, quan

chánh án lại chính là tên Môhít Môhan ngày trước. Nỗi bất hạnh đau thương vẫn tiếp

tục bám riết số phận của chị như một định mệnh.

Trong truyện ngắn của R.Tagore, ta còn thấy xuất hiện nhân vật phụ nữ không

tên cũng có số phận vô cùng bi thương. Tác giả lấy cái kỳ ảo để nói đến thân phận bất

hạnh của người phụ nữ. Cô gái trong Đá đói xuất hiện với những tiếng nức nở, thổn

thức: “Có một người phụ nữ nằm úp xuống tấm thảm dưới chân giường, những ngón

tay tuyệt vọng giằng rứt mớ tóc dài xõa tung. Từ vầng trán xinh xắn của nàng rỉ ra

một dòng máu, và nàng khi thì bật ra những tiếng cười khàn đục buồn bã, khi thì bật

ra những tiếng nức nở, thổn thức xé lòng” [50, tr.122]. Trong Bộ xương, người đọc lại

chứng kiến cuộc đời đau khổ của một cô gái góa chồng, phải bóp nghẹt trái tim, tuổi

trẻ của mình vì những hủ tục lạc hậu, tàn nhẫn. Họ chỉ là hình ảnh ảo tưởng, nhưng

người đọc vẫn cảm nhận được xã hội tàn nhẫn đối với con người, nạn nhân phần lớn

là những người phụ nữ. R.Tagore là người vô cùng nhạy cảm và sâu sắc. Ông đã xây

dựng nhân vật phụ trở thành những hình tượng đẫm nước mắt. Người đọc cảm thấu

được nỗi đau nhân sinh. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông đánh thức sự

cảm thông, xót xa trong lòng người đọc. Từ đó, tác giả khẳng định quyền được sống,

được hạnh phúc là quyền tối thiểu mà con người cần phải có.

Nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore dường như không

ai giống ai: mỗi người một cuộc đời, một hoàn cảnh, một số phận. Họ là những người có

tâm hồn trong sáng, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc và họ xứng đáng được

hưởng điều đó. Tuy nhiên, sự bất công của xã hội, những đạo luật hà khắc, sự vô cảm

của người đời đã đẩy họ đến hố sâu của sự bất hạnh không có lối thoát. Hai tác giả đã

54

góp tiếng nói vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng phụ nữ - những nạn nhân cùng cực nhất

của xã hội bằng cả trái tim và tình thương yêu vô bờ bến của mình.

2.3. Hình tượng nhân vật trẻ em

2.3.1. Trẻ em - hiện thân của sự trong sáng

Trẻ em luôn là mối quan tâm sâu sắc của một xã hội tiến bộ, là đối tượng được

tất cả mọi người từ gia đình đến cộng đồng xã hội quan tâm, chăm sóc vì chúng là

tương lai, là nguồn hy vọng của đất nước. Nhưng ở xã hội thuộc địa, trẻ em lại là đối

tượng khổ ải nhất. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới đã có những tác phẩm lay động

đến tình cảm người đọc khi viết về đề tài trẻ em như: Không gia đình của Hecto

Malo, Thời thơ ấu của Maxim Goocki, Số phận con người của Sôlôkhốp... Bằng tình

yêu thương đối với trẻ nhỏ, Thạch Lam và R.Tagore cũng có những trang viết cảm

động và tinh tế về thế giới trẻ thơ. Qua đó hai tác giả đã khám phá ra sự thanh khiết

của những “thiên sứ” này.

Truyện Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam mang lại cho người đọc cảm giác

ấm áp khi chứng kiến sự thơm thảo của những tấm lòng trẻ thơ nhân hậu. Mùa đông

là nỗi lo sợ của lũ trẻ nghèo, cái giá lạnh hành hạ chúng, làm “môi chúng tím lại và

qua những chỗ áo rách thịt thâm đi, mỗi cơn gió đến môi chúng lại run lên, hai hàm

răng đập vào nhau” [17, tr.96]. Trong đó, hình ảnh bé Hiên được tác giả mô tả tỉ mỉ

nhất: Hiên đứng co ro bên cột quán “chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và

tay”. Manh áo rách kia không đủ che ấm cho em trong thời tiết mùa đông khắc

nghiệt. Thấy cảnh tượng ấy, Sơn động lòng thương, trong đầu đứa trẻ ngây thơ

thoáng qua một ý nghĩ tốt đẹp và nhân văn biết bao: Sơn bàn với chị Lan lấy chiếc áo

bông cũ là kỷ vật của đứa em gái đã mất cho Hiên. “Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ,

chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy

ấm áp vui vui” [17, tr.97]. Hành động của Lan và Sơn mới đáng quý làm sao, nó vừa

biểu hiện sự ngây thơ, trong sáng của tuổi trẻ, vừa là sự ấm áp của những tấm lòng

nhân hậu. Hành động ấy mãi là những hình ảnh đẹp, đọng lại như những giọt sương

sớm tinh khôi trong lòng bao thế hệ độc giả.

Tiếng chim kêu xoay quanh câu chuyện của hai anh em nói với nhau khi

chúng nằm trong chăn ấm và ngoài trời mưa gió. Vốn có tâm hồn trong sáng, ngây

thơ, tràn đầy tình thương, nghe tiếng tre kĩu kịt ở đầu nhà bị gió lay chúng tưởng

tượng đó là tiếng kêu chiêm chiếp của con chim bị mưa gió đánh bạt đến nơi đây tìm

nơi trú ngụ, chúng động lòng thương, muốn cứu vớt con chim. Rồi chúng nghĩ đến

những người lữ khách giờ này còn phải đi trên con đường vắng “ướt như chuột lột và

55

run như cầy sấy” vội vàng tìm chỗ trú chân. Chúng ái ngại cho những nhà nghèo bên

hàng xóm “vợ chồng, con cái đều phải dậy để chống cái nhà lá mà mỗi cơn gió mạnh

làm lung lay và để đem các chậu thau hứng những chỗ dột nước” [17, tr.58]. Còn gì

cảm động hơn khi chứng kiến tình thương, lòng trắc ẩn, sự vị tha giữa người với

người, giữa người với loài vật ngay trong tâm hồn những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.

Câu chuyện nhẹ nhàng, thức tỉnh lương tri mỗi người khi hiện nay, thái độ “vô cảm”

của con người đang ở mức báo động.

Liên (Hai đứa trẻ) là hiện thân của cô bé giàu lòng nhân hậu, biết cảm thông

những cảnh đời khốn khó. Tận sâu trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt

dào với thiên nhiên và con người. Liên xót thương cho những đứa trẻ nghèo “đi nhặt

nhạnh những thanh tre, thanh nứa” sau mỗi buổi chợ tàn, xót xa cho mẹ con chị Tý,

bác Siêu, gia đình bác Xẩm với gánh nặng mưu sinh trên vai. Cảnh đời khốn khó ấy

không ngoại trừ gia đình Liên nhưng tình yêu đời đã khơi nguồn cho tất cả vẻ đẹp

trong sáng, thánh thiện trong tâm hồn cô. Để tìm sự khuây khỏa, cô bé hướng nỗi

buồn đến những nơi xa xôi, đắm chìm trong trí tưởng tượng giàu mơ mộng: “Liên

lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt đi theo sao ông thần

nông” [34, tr.118]. Liên thả hồn mình theo bầu trời bao la, để đêm tối, để những vì

sao xoa dịu tâm hồn. Cô thấy lòng bớt trĩu nặng khi ánh sáng của “vòm trời ngàn vì

sao ganh nhau lấp lánh” và “vệt sáng của con đom đóm” đã soi vào mắt mình một

chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao. Qua điểm nhìn của Liên - một cô bé

ngây thơ, trong sáng, giúp người đọc có cảm nhận vô cùng tinh tế trước cuộc sống

xung quanh và những con người nơi phố huyện nghèo. Thế giới trẻ em trong truyện

ngắn Thạch Lam không nhiều, nhưng vẻ đẹp tâm hồn của các em luôn sáng lung linh.

Cũng như Thạch Lam, R.Tagore cảm nhận tâm hồn trẻ thơ rất trong sáng, hồn

nhiên. Trong bài thơ Tự do, ông kể lại câu chuyện: một người đàn ông đã từ chối

quyền lực của nhà vua, tiền bạc của một người giàu có, sắc đẹp của một cô gái nhưng

nhận lời mời của một cậu bé “chơi với dăm vỏ ốc”: “Tôi thuê ông với hai bàn tay

trắng” và “Kể từ đó tôi là một người tự do”. Ông quan niệm: trở về thế giới trẻ thơ là

về với tự nhiên. Ở đó, trẻ thơ thoát ra mọi ràng buộc của cuộc sống đời thường và tự

do trong tưởng tượng để bộc lộ sự sự ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong trẻo - một thế giới

mà người lớn không có được. Trong truyện ngắn, một lần nữa ông khẳng định tình

cảm mà mình giành cho trẻ em. Tấm lòng nâng niu, trìu mến của ông đối với trẻ thơ

thấm đẫm trong từng câu chữ và thể hiện qua một số nhân vật như: Mini thời trẻ (Bác

56

bán hàng rong người Kabun), Tara (Kẻ lang thang), Ninkanta (Đứa trẻ bơ vơ), em Ái

Chân trong truyện ngắn cùng tên, những đứa trẻ trong Cô dâu bé nhỏ…

Cô bé Mini trong truyện ngắn Bác bán hàng rong người Kabun khiến người

đọc ấn tượng bởi sự trong sáng, hồn nhiên như những trang giấy trắng. Cô bé sống

trong sự giàu sang và tình cờ gặp bác bán hàng rong nghèo. Với tâm hồn ngây thơ,

cô bé nhìn cuộc đời bằng ánh mắt trong veo, nơi đó không có sự phân biệt giàu -

nghèo, sang - hèn chỉ có sự hòa hợp, bình đẳng, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.

Cô bé đã sưởi ấm tấm lòng bác Ramun và đánh thức trong lòng người lớn những

rung động tình người.

Trong tác phẩm Em Ái Chân, nhân vật chính là một đứa trẻ tội nghiệp. Sự chân

thật, hồn nhiên của em khiến người đọc xúc động, thương cảm. Em sinh ra, lớn lên

trong vòng tay của mẹ và không biết cha mình là ai, thuộc đẳng cấp nào trong xã hội. Khi

thầy Gôtama giảng đạo hỏi Ái Chân về điều đó, Ái Chân không chút ngần ngại trả lời

“Thưa thầy, con không rõ con ở đẳng cấp nào. Để con về hỏi mẹ con đã” [50, tr.333].

Được nghe câu trả lời từ mẹ, em vẫn vô tư, trong sáng như pha lê. Em đến và trả lời

thầy bằng một giọng tự nhiên: “Thưa thầy, mẹ con nói “Thuở còn trẻ mẹ phải

hầu hạ nhiều chủ và con đã ra đời trên cánh tay mẹ Giabala, mẹ của con không

chồng” [50, tr.333]. Chỉ có ở trẻ em ta mới bắt gặp những tâm hồn cao đẹp, trong

trẻo, thánh thiện đến thế, những điều ấy ở thế giới người lớn hay những nhân vật khác

không có được.

Thạch Lam và R.Tagore tuy là hai nhà văn sống ở hai đất nước khác nhau,

chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa khác nhau, nhưng có chung điểm gặp gỡ khi viết

về thế giới trẻ thơ, đó là khao khát trẻ thơ sẽ được sống trong sự bình yên, hòa hợp và

yêu thương. Thạch Lam miêu tả sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ em thông qua những

cử chỉ tốt đẹp của chúng xoay quanh cuộc sống mưu sinh vất vả, tô thắm truyền

thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc, còn R.Tagore, đề cập đến các

vấn đề nóng của xã hội Ấn Độ: phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo... Mỗi tác giả có cách

thể hiện khác nhau nhưng đều nhằm mục đích ca ngợi tâm hồn thánh thiện, trong

sáng của trẻ em, qua đó người đọc thấy được quan niệm nghệ thuật, quan niệm nhân

sinh của hai tác giả về con người, cuộc đời.

2.3.2. Trẻ em - hiện thân của sự bất hạnh

Tháng 6/2015, hình ảnh thi thể em bé Sirya nhỏ xíu, nằm úp mặt xuống cát,

trôi dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ khiến cả thế giới chấn động, đánh thức lòng trắc ẩn

của hàng triệu người. Trước khi đắm mình trong dòng nước Địa Trung Hải, tất cả

57

những gì cậu bé biết về cuộc đời này là chiến tranh và chính nó đã cướp đi mạng sống

của em. Một năm sau, cũng tại Sirya, hình ảnh bé trai năm tuổi mặt dính máu, người

phủ đầy bụi, ánh mắt thẫn thờ ngồi trên xe cứu thương sau trận không kích khiến dư

luận đau xót, em may mắn còn sống nhưng em đã không được trải qua một tuổi thơ

đúng nghĩa. Trẻ em luôn là người thiệt thòi nhất dù bất kỳ ở thời nào, xã hội nào.

Cách đây một thế kỷ, chứng kiến trẻ em phải hứng chịu những bất công, ngang trái,

như nhiều nhà văn trên thế giới, Thạch Lam và R.Tagore không chỉ nhìn thấy sự hồn

nhiên, trong sáng mà còn nhìn thấy sự thiệt thòi, bất hạnh ở trẻ em không phải trong

chiến tranh mà trong cuộc sống đời thường.

Trong sáng tác của Thạch Lam, trẻ em là những người sớm phải hứng chịu

những bi kịch của đời sống. Có những cảnh đời được Thạch Lam tái hiện như những

thước phim lướt nhanh: “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lúi cúi, lom khom trên

mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể

dùng được của các người bán hàng để lại” [34, tr.115](Hai đứa trẻ)... Thì ra gánh

nặng mưu sinh đâu chỉ đè nặng lên vai người lớn, nó còn len vào thời thơ ấu của

những đứa trẻ sinh ra đã không biết đến tuổi thơ. Chỉ cần một cơn gió lạnh (Gió lạnh

đầu mùa), cuộc đời trớ trêu hiện ngay trên thân xác của những đứa trẻ nghèo: da thịt

tím lại, đứng co ro giữa giá rét. Khép lại trang sách, hình ảnh ấy vẫn ám ảnh người

đọc bởi chúng là những nạn nhân đáng thương nhất trong sự đói nghèo của xã hội.

Những đứa trẻ con mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) có hoàn cảnh thật thương tâm. Mùa

rét đến, các ruộng đã gặt hết, mẹ Lê không còn ai mướn làm việc nữa, cả nhà phải

nhịn đói. “Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hi mà con chị nó bế, chúng

nó khóc lả đi mà không có cái ăn” [34, tr.183]. Lũ trẻ đáng thương ấy ngày một gày

còm, ốm yếu. Những ngày giá lạnh và gió mưa lầy lội càng khiến chúng rơi vào

cảnh đói khổ hơn bao giờ hết: “Dưới manh áo rách nát thịt chúng nó thâm tím lại vì

rét, như thịt con trâu chết” [34, tr.183]. Chúng ôm chặt lấy nhau tìm chút hơi ấm mà

vẫn rét run lên, đèn đóm thì không có nữa. Chúng càng bất hạnh hơn khi mẹ Lê

chết. Cái chết ấy dù không nói ra ta vẫn hiểu nó sẽ âm thầm dẫn đến cái chết của

mười một đứa con. Mẹ mất đi, mười một đứa con nhỏ dại không có chỗ bấu víu làm

chúng ta cảm thấy “bàn tay của tử thần sờ trán mỗi đứa nhỏ mỗi lúc một gần trong

từng tích tắc còn lại” [57]. Chúng bơ vơ giữa dòng đời không nơi nương tựa, bấu

víu. Kết thúc câu chuyện, người đọc vẫn còn day dứt, trăn trở với những câu hỏi mà

chưa tìm ra lời giải đáp: mười một đứa trẻ mồ côi, bất hạnh kia sẽ sống bằng gì?

Chúng sẽ đi đâu? Về đâu? Thân phận chúng ra sao?

58

Cùng xây dựng những nhân vật trẻ em gặp nhiều bất hạnh nhưng Thạch Lam

thường đi sâu khai thác sự tác động của bi kịch nhân sinh đối với trẻ em, còn

R.Tagore lại khiến người đọc nghẹn ngào, thương cảm khi viết về những đứa trẻ lang

thang, mồ côi, sống trong sự thiếu vắng tình thương của cộng đồng.

Ninkanta (Đứa trẻ bơ vơ) là một cậu bé mồ côi thuộc đẳng cấp Bàlamôn. Cậu

ở trong một đoàn hát rong, trên đường đi diễn thì gặp bão, cậu bé may mắn bơi được

vào bờ và ở lại với gia đình Sarat - một gia đình giàu có. Tại đây, Ninkanta được sưởi

ấm trong tình yêu thương của người phụ nữ giàu lòng vị tha Kiran. Nhưng cảm giác

êm ấm, hạnh phúc qua nhanh như một giấc mơ khi Ninkanta phải đối mặt với sự lạnh

lùng của từng thành viên trong gia đình Kiran. Họ chỉ muốn tống khứ cậu đi cho

khuất mắt, đau lòng hơn, cậu thường bị Sarat “bợp hoặc véo tai”. Cuộc sống đã dạy

cậu phải chịu đựng và câm lặng. Cậu không biết trách ai và cũng không biết mong

đợi được ai đền bù? Những suy nghĩ ấy khiến cậu bé thêm tổn thương. Cuối cùng,

Ninkanta vẫn là một “đứa trẻ bơ vơ” không chốn nương thân. Gần giống Ninkanta,

Ratan (Thầy ký bưu điện) là cô bé mồ côi, thường đến giúp thầy ký những việc vặt.

Sống lâu trong cảnh một mình ở xa nhà, thầy “muốn ở gần bên bà mẹ, bên cô em gái”

nên thầy phải trở về với gia đình. Ngày thầy ra đi, hình ảnh Ratan “tha thẩn lượn

quanh trạm bưu điện, nước mắt ròng ròng” khiến người đọc xót xa. Sau những tháng

ngày được thầy cưu mang, giờ đây em lại là đứa trẻ bất hạnh người đời không ai

màng đến.

Khác Ninkanta và Ratan, cô bé Prôba (Người chủ bút) sống trong gia đình

nhưng bị đối xử rất “hời hợt”. Mất mẹ từ khi còn rất nhỏ nên em luôn“khao khát đón

nhận tình yêu thương và sự trìu mến vuốt ve của cha” [50, tr.195]. Nhưng mong ước

được cha quan tâm em cũng không có được, cha em do bận rộn, muốn có “danh

tiếng” nên mọi thời gian, tâm sức đều dành để viết “các vở hài kịch với một quyết

tâm sắt đá”. Ông trở nên khó tính, hay cáu gắt với em cũng như với những người đầy

tớ trong nhà, điều đó khiến em tủi thân, mặc cảm. Cô bé đâm ra sợ chính người cha

ruột của mình và thường có cái nhìn u ám, bi quan về cuộc sống. Dường như, chỗ dựa

tinh thần của cô bé không thuộc về người chủ bút nữa, con búp bê câm lặng mới

chính là chỗ dựa tinh thần duy nhất của em. Câu chuyện gióng lên hồi chuông cảnh

tỉnh, những bậc làm cha, làm mẹ đừng để trẻ thơ phải sống cô đơn trong chính ngôi

nhà của mình.

Trẻ em là đối tượng yếu đuối, nhạy cảm và chưa đủ trưởng thành để đương

đầu với những tai ương của cuộc sống. Hình tượng trẻ em trong trang viết của Thạch

59

Lam và R.Tagore đề cập đến bao vấn đề nhức nhối của thời đại: sự ghẻ lạnh của gia

đình và xã hội, sự nghèo đói, bạo hành trẻ về tinh thần và thể xác… Ngày nay, những

vấn đề ấy càng thêm bức thiết cần phải giải quyết bởi nó ảnh hưởng nghiêm trọng tới

tương lai của cả một thế hệ trong mỗi quốc gia.

Tiểu kết chương 2

Sê Khốp từng phát biểu: một nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ

trong cốt tủy. Có lẽ cái thiên bẩm của Thạch Lam và R.Tagore chính là “nhân đạo từ

trong cốt tủy” ấy. Tác phẩm của hai nhà văn mang tinh thần nhân đạo sâu sắc, ánh

sáng của tình thương luôn hiện hữu trong từng trang viết, sưởi ấm trái tim hàng vạn

con người đau khổ trong xã hội đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Viết về hình tượng người phụ nữ, Thạch Lam và R.Tagore có sự gặp gỡ trong

việc hướng đến vẻ đẹp của những con người dung dị bình thường trong cuộc sống.

Thạch Lam phơi bày lên trang văn của mình vẻ đẹp kín đáo của tâm hồn Việt: đảm

đang, tần tảo, giàu đức hy sinh. R.Tagore phát hiện ra ở những người phụ nữ Ấn Độ

nhiều phẩm chất tốt đẹp: giàu tình cảm, thủy chung, tiềm ẩn sức sống mãnh liệt. Nhân

vật người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam dù có khao khát được sống một cuộc

sống hạnh phúc nhưng đa số họ chưa dám thoát ra khỏi hoàn cảnh thực tại để tìm

kiếm hạnh phúc cho bản thân mà vẫn âm thầm chịu đựng. Còn với R.Tagore, ông đã

xây dựng nhiều nhân vật phụ nữ có tính cách mạnh mẽ, dám chống lại đẳng cấp, tôn

giáo, các hủ tục với hy vọng có cuộc sống hạnh phúc hơn.

Viết về hình tượng nhân vật trẻ em, Thạch Lam và R.Tagore luôn nhìn thấy ở

đó những hằng số giá trị người còn nguyên khối, chưa hề bị hao mòn, pha tạp. Chính

nó là “cái thiêng liêng sâu xa của sự sống”, là phần đẹp đẽ nhất của một cuộc đời.

Hơn nữa, chính tình yêu nước thiết tha và tình yêu thương với những con người bất

hạnh là nội lực để hai tác giả, qua những truyện ngắn của mình, xây dựng nên hình

tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em mang “hồn cốt” dân tộc.

Có thể nói rằng, bằng cảm nhận tinh tế, sâu sắc, Thạch Lam và R.Tagore đã

tạo nên những hình tượng có giá trị nhân văn sâu sắc. Hình tượng ấy không chỉ có giá

trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về hình thức nghệ thuật.

60

Chương 3

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM

TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ R.TAGORE

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN HÌNH THỨC THỂ HIỆN

Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập

của những con người sống, mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ

tư tưởng của tác giả. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn lựa chọn những hình thức họ

cho là cần thiết để bộc lộ được quan niệm của mình về con người và hiện thực cuộc

sống. Trong truyện ngắn của mình, Thạch Lam và R.Tagore vẫn tuân thủ những quy

tắc truyền thống trong việc lựa chọn hình thức thể hiện nhân vật thống nhất với nội

dung tư tưởng. Khảo sát truyện ngắn của hai nhà văn này, chúng tôi thấy: cả Thạch

Lam và R.Tagore đều có những tìm tòi, sáng tạo trong việc thể hiện nhân vật. Trong

đó, đáng chú ý hơn cả là ba phương diện: ngoại hình, tâm lý và giọng điệu thể hiện

nhân vật. Trong chương này, chúng tôi muốn làm rõ hình tượng nhân vật phụ nữ và

trẻ em qua ba phương diện trên trong sự thống nhất với nội dung.

3.1. Ngoại hình của nhân vật

Miêu tả ngoại hình là yếu tố đầu tiên khi xây dựng nhân vật. Ngoại hình là

dáng vẻ bên ngoài của nhân vật, bao gồm: y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo… Tác

giả miêu tả ngoại hình nhân vật nhằm cá thể hóa nhân vật, tạo ấn tượng riêng về nhân

vật ấy, không thể lẫn vào nhân vật khác. Qua vẻ bề ngoài, phần nào hé mở tính cách,

bản chất nhân vật. Miêu tả ngoại hình nhân vật không chỉ vì mục đích dựng ra trước

mắt người đọc một nhân vật, mà quan trọng hơn là một cách gián tiếp miêu tả tính

cách vì ngoại hình là dấu hiệu của tính cách.

Thạch Lam và R.Tagore đều là những nhà văn hết sức truyền thống. Tuy

nhiên, cả hai nhà văn này đều có những tìm tòi, sáng tạo trên những nguyên tắc

truyền thống. Nhân vật trong truyện ngắn của họ đều có diện mạo, ngoại hình nhưng

có hai kiểu rõ rệt. Ngoài những nhân vật có ngoại diện hoàn chỉnh còn có những nhân

vật mà ngoại diện của họ không hoàn chỉnh.

3.1.1. Những chân dung ngoại hiện hoàn chỉnh

Trong truyền thống văn học, nhiều tác giả đã rất thành công khi xây dựng

những chân dung ngoại hình hoàn chỉnh, trong tiểu thuyết Ơgiêni Grăngđê của

Balzac, ta không quên được nhân vật Grăngđê được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ về khuôn

mặt, chiều cao, mái tóc... để đặc tả một người giàu có nhưng keo kiệt, bủn xỉn. Trong

61

văn học Việt Nam, những diện mạo nhân vật Chí Phèo, Thị Nở trong truyện Chí Phèo

của Nam Cao, hay Xuân tóc đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng... cũng khiến người

đọc dễ hình dung diện mạo và đoán biết được tính cách nhân vật. Hòa chung vào

dòng chảy ấy, Thạch Lam và R.Tagore đã xây dựng thành công nhiều nhân vật có

ngoại hình hoàn chỉnh.

Tâm (Cô hàng xén) được Thạch Lam miêu tả từ nét mặt, trang phục, hình

dáng. Tâm ý thức được vẻ đẹp ấy khi “biết mình xinh nhất chợ” với đôi má hây hây

hồng, ánh mắt ngại ngùng, e lệ khi gặp cậu giáo Bài cùng dáng điệu nhanh nhẹn trong

mỗi phiên chợ: “những cái uốn cong của đòn gánh bây giờ nhịp với chân cô bước

mau” [34, tr.46]. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ phải cáng đáng gánh nặng hai

gia đình, người đọc nhận ra sự đổi khác của cô. Gò má Tâm không còn hồng hào như

trước, ánh mắt xa xăm lo nghĩ, dáng vẻ nhọc nhằn, vất vả. “Tâm bây giờ không còn là

cô gái xinh xắn hồi trước. Nàng đã già đi nhiều lắm” [34, tr.57]. Thời gian đã làm

Tâm thay đổi, từ cô gái “xinh nhất chợ” làm “bọn con trai cứ quanh quẩn chỗ cô

ngồi”, khi gánh nặng vật chất đè nặng trên vai, qua đôi má, ánh mắt, dáng điệu, cử chỉ

người đọc nhận ra sự thay đổi trong ngoại hình: “Đã lâu nàng không còn chú ý đến

sắc đẹp của mình và không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô ích khi nàng đã có

chồng. Tâm thấy mình già và yên tâm cho sự đứng tuổi” [34, tr.57]. Việc miêu tả tỉ

mỉ ngoại hình theo thời gian khiến người đọc cảm nhận ở Tâm có vẻ đẹp rất tự nhiên,

hơn nữa qua nhân vật Tâm, Thạch Lam còn khắc họa vẻ đẹp nội tâm: đảm đang, tần

tảo, giàu đức hy sinh. Nếu Ngô Tất Tố đã góp vào bảo tàng con người Việt Nam một

chân dung lồng lộng của chị Dậu, thì Thạch Lam cũng đã mang lại cho bảo tàng ấy

một chân dung mang vẻ đẹp dân tộc của Tâm, chắc chắn cô hàng xén sẽ có vị trí

xứng đáng trong bảo tàng ấy.

Nhân vật Nga trong tác phẩm Dưới bóng hoàng lan được vẽ bằng những nét tỉ

mỉ. Dưới con mắt của Thanh, cô hội tụ nhiều vẻ đẹp về ngoại hình: “thiếu nữ xinh

xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen nhánh buông trên cổ nhỏ, lá rau xanh ngắt bên bàn

tay trắng hồng” [34, tr.71]. Vẻ đẹp ngoại hình ấy khiến Thanh không thể rời mắt,

“thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng và nụ cười tươi nở”

[34, tr.72]. Ngoại hình nhân vật được tác giả miêu tả rất ấn tượng để tôn vinh vẻ đẹp

tự nhiên và cách ứng xử khéo léo, tinh tế của nhân vật Nga. Vẻ đẹp ấy khiến Thanh

phải xao xuyến và nghĩ đến căn nhà như một nơi mát mẻ và sung sướng để chàng

thường về nghỉ sau việc làm.

62

Trong truyện ngắn của R.Tagore, nhiều nhân vật cũng được tác giả chú ý miêu tả

ngoại hình, Mrinmayi (Cô dâu bé nhỏ), Mahamaya (Dàn hỏa thiêu), Tara (Kẻ lang

thang)… là những nhân vật được xuất hiện trong tác phẩm với ngoại hình hoàn chỉnh.

Tara trong Kẻ lang thang là một điển hình trong cách xây dựng chân dung

hoàn chỉnh của R.Tagore, cậu bé có “nước da sáng, cặp mắt to, đôi môi tươi tắn,

thanh tú với đường nét tao nhã, chú bé nom khôi ngô lạ lùng. Chú mặc độc một tấm

Đhoti đã sờn lắm, mình để trần, vóc người cân xứng như một kiệt tác điêu khắc…

thân hình chú không còn chút gì là nhục thể, mà chỉ lộ một vẻ đẹp thuần túy

Bàlamôn” [50, tr.147]. Ngoại hình ấy chứa một tâm hồn nhạy cảm, thánh thiện, cậu

bé đi đến nhiều nơi, quen biết nhiều người nhưng không bao giờ nhiễm những tật

xấu. Tara như một bông hoa sen thơm ngát giữa chốn bùn lầy, dù thế nào vẫn giữ

được cốt cách thanh cao. Điều lớn lao hơn, vượt lên trên tính cách của Tara mà ngòi

bút R.Tagore muốn tập trung khắc họa đó là lòng khao khát cháy bỏng tự do. Cậu ưa

cuộc sống tự do, phóng khoáng, không “thừa nhận một sự ràng buộc nào”, “không nô lệ

cho một thói quen nào”. Theo R.Tagore, con người chỉ thực sự tự do khi trở về với bản

tính nguyên sơ, hòa mình vào cuộc đời bình dị trong sự giao cảm chan hòa. Tara là kết

tinh của giá trị chân, thiện, mĩ, trở thành biểu tượng của cuộc sống tự do, phóng khoáng.

Mrinmayi (Cô dâu bé nhỏ) được tác giả tập trung miêu tả ngoại diện: “Gương

mặt Mrinmayi với nước da roi rói của người sống nhiều ở ngoài trời giống mặt con

trai nhiều hơn. Mái tóc cắt ngắn, quăn thành búp chỉ rủ xuống đến vai. Đôi mắt to,

đen không lộ vẻ gì sợ hãi hay e thẹn. Vóc người cao và cân đối, mềm mại và khỏe

mạnh” [50, tr.198]. Qua lời miêu tả của nhà văn, ta hình dung ra một cô gái tinh

nghịch, mạnh mẽ, tính cách phóng khoáng và liều lĩnh. R.Tagore tôn vinh vẻ đẹp đó

bởi tác giả thấy bên trong khuôn mặt giống con trai ấy có “một bản chất phụ nữ phập

phồng, mạnh mẽ, lộ ra sinh động”. Người đọc dự đoán được nhân vật chắc chắn sẽ có

những đổi thay lớn trong tính cách. Quả thật, theo thời gian, Mrinmayi đã có sự

chuyển biến, trở thành người con dâu hiếu thảo, người vợ hết lòng yêu thương chồng

như Apơcbô hằng mong đợi. Hình tượng nhân vật Mrinmayi trở thành mẫu hình phụ

nữ lý tưởng mà R.Tagore dày công xây dựng.

Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Thạch Lam và R.Tagore đã rất thành công ở

các nhân vật có ngoại hình hoàn chỉnh khiến người đọc hình dung ra tính cách nhân

vật bên trong ngoại hình ấy. Nhưng với cảm nhân riêng của cá nhân, mỗi tác giả lại

có cách miêu tả khác nhau: Các nhân vật của Thạch Lam hiện ra với vẻ đẹp ngoại

hình nhẹ nhàng, e lệ, thường được miêu tả gián tiếp qua hành động. Các nhân vật của

63

R.Tagore được miêu tả trực tiếp với vẻ đẹp mạnh mẽ, cá tính. Phần lớn đặc điểm tính

cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài.

3.1.2. Những chân dung ngoại hiện không hoàn chỉnh

Bên cạnh miêu tả chân dung theo cách truyền thống, trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore còn có những nhân vật mà tác giả không hé mở thông tin

đầy đủ để người đọc định hình được ngoại hình nhân vật, chỉ miêu tả một vài nét

ngoại diện hết sức khái lược. Nhiều nhân vật, nếu trông đợi vào tác giả, người đọc sẽ

không thể hình dung ra ngoại diện của họ. Đây là điểm tạo nên điều khác biệt của

Thạch Lam và R.Tagore so với nhiều nhà văn cùng thời.

Nhân vật của Thạch Lam chỉ được gợi lên từ vài nét phác thảo, vài chi tiết

mong manh nhưng cũng đủ sức ảm ảnh lòng người: Dung (Hai lần chết) chỉ được

miêu tả rất khái lược qua dáng vẻ và trang phục. “Dung càng lớn càng gầy gò đi”,

“quần áo lôi thôi lếch thếch, và chân tay lấm bùn… ngày tết các chị em có quần áo

mới vui chơi, còn nàng vẫn phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ta thán

hay kêu ca gì mà nàng biết kêu ca cũng không được gì” [34, tr.125]. Qua vài nét

chấm phá người đọc hình dung ra cô gái có dáng người nhỏ bé nhưng tính cách cam

chịu, an phận và nhẫn nại. Sự cam chịu đã thành tính cách ngấm vào máu Dung từ

thuở bé. Về nhà chồng, cũng có lúc Dung không chịu nổi sự áp bức, bóc lột, mắng

nhiếc của mẹ chồng và các em chồng, nàng trốn vể nhà mẹ đẻ. Sau khi muốn chết mà

không chết được, trở lại nhà chồng, Dung trở thành người chết ngay trong cõi sống.

Chỉ được phác thảo vài nét ít ỏi, Dung vẫn trở thành hình tượng người phụ nữ có số

phận bi thương, bị chính những người thân trong gia đình bạc đãi.

Mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) chỉ được hé mở những thông tin rất ít ỏi: “Bác Lê là người

đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô”

[34, tr.182]. Chỉ bấy nhiêu thôi, người đọc đã hình dung ra một người đàn bà nhọc

nhằn, tần tảo. Những nét ngoại diện sơ lược: hình dáng, nước da, chân tay “như quả

trám khô” như dự báo số phận đáng thương của người mẹ nghèo. Cuộc đời bác từ khi

sinh ra đến khi cận kề cái chết chỉ toàn đói rét, nghèo khổ. Hình ảnh cuối gieo vào

lòng người đọc bao ám ảnh: “Người trong phố góp nhau mua cho bác một cỗ ván

mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ ở đầu làng” [26, tr.188].

Kết thúc một cuộc đời trong đau đớn, xót xa khi bỏ lại đàn con nheo nhóc trên thế

gian. Chỉ vài nét miêu tả ngoại hình nhưng mẹ Lê đã trở thành hình tượng người mẹ

nghèo điển hình của người nông dân trước cách mạng.

64

Cũng như các nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam, một số nhân vật trong

truyện ngắn R.Tagore được tác giả miêu tả rất ấn tượng, đôi khi ngoại hình chỉ được

miêu tả một nét tiêu biểu nhất.

Nhân vật Xuba trong truyện ngắn cùng tên được tác giả miêu tả chỉ qua một

nét ngoại diện duy nhất là đôi mắt: “Xuba thiếu lời ăn tiếng nói nhưng không thiếu

cặp mắt to đen với hai hàng mi dài” [50, tr.244]. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, những

người phụ nữ có đôi mắt đẹp thường là những người có đời sống nội tâm sâu sắc.

Xuba là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng tác giả không tập trung miêu tả vẻ

đẹp ngoại hình mà chỉ khắc họa duy nhất đôi mắt của nhân vật, điều đó sẽ giúp người

đọc nhìn sâu vào thế giới nội tâm với biết bao những cung bậc tình cảm tiềm ẩn của

nhân vật. Đôi mắt ấy được tác giả nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm: “tiếng nói của cặp

mắt xanh huyền với hàng mi dài là ngôn ngữ của thế giới xung quanh” [50, tr.246],

“cặp mắt đen mở to, òa lên khóc” vì bố mẹ đã kiếm cho cô tấm chồng để tống khứ cô

khỏi nhà vì cô như “một sự giáng họa” cho gia đình; “những giọt nước mắt như

những viên ngọc trai” khi ra mắt chú rể tương lai. R.Tagore cho rằng, những giọt

nước mắt sẽ tôn thêm vẻ đẹp của đôi mắt. Xây dựng nhân vật Xuba thiếu lời ăn tiếng

nói, tác giả đã bù đắp lại cho cô đôi mắt được dùng như một thứ ngôn ngữ của tâm

hồn. Người đọc cảm nhận được chiều sâu vẻ đẹp nội tâm của nhân vật thông qua đôi

mắt ấy.

Khác hơn một chút, Kuxum (Những bậc bến tắm bên sông) được miêu tả

ngoại hình gián tiếp qua lời kể của những bậc đá: “Kuxum xóa bỏ dấu son của người

đàn bà có chồng trên trán, cởi bỏ các vòng đeo ở cổ tay, cổ chân và trở về ngôi nhà cũ

bên con sông Hằng” [50, tr.261]. Tác giả không miêu tả khuôn mặt, đôi mắt, nước da,

hình dáng… của Kuxum, nếu người đọc trông chờ vào lời kể thì không thể hình dung

ra ngoại diện. Nhưng khám phá đời sống tinh thần của cô, ở lứa tuổi đã trưởng thành,

với những nét miêu tả ít ỏi ấy ta vẫn hình dung ra Kuxum là một người con gái đẹp

nhưng mang nhiều nỗi buồn. Tương tự như vây, Khirôđa (Quan chánh án) được tác

giả chấm phá rất khái lược “Hôm nay chị lại phải gạt nước mắt, tô hai hàng mi, quệt

son lên môi, đánh phấn hồng lên má… đi bẫy trái tim mới bằng những nụ cười”. Với

vài nét miêu tả ít ỏi, người đọc vẫn hình dung ra một người phụ nữ trải qua nhiều cay

đắng, giờ đây phải dùng cái đẹp nhân tạo để che lấp những tủi nhục, những nỗi chán

chường, tuyệt vọng. Tất cả những con người ấy đều được mô tả bằng một vài nét đơn

sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực. Họ trở thành hình tượng nhân vật hiện

thân của cuộc sống bi thương.

65

Thạch Lam và R.Tagore đều là những người có quan điểm nghệ thuật rất tiến

bộ. Khi để nhân vật phụ nữ và trẻ em xuất hiện với chân dung không hoàn chỉnh

chắc chắn đã có dụng ý. Các nhân vật chỉ được miêu tả vài nét khái lược đã khiêu

khích nhu cầu khám phá của người đọc. Cái tài của Thạch Lam và R.Tagore là ở

chỗ: mỗi nhân vật chỉ được miêu tả một vài nét về ngoại hình trực tiếp hoặc gián

tiếp, người đọc vẫn hình dung ra diện mạo, tâm lý, tính cách của nhân vật. Phải

chăng, sống trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến và chế độ phân biệt

đẳng cấp khắc nghiệt đã gây ra cho con người bao nỗi khổ đau, nên những nhân vật

ấy dù xuất hiện chỉ với vài nét ngoại diện ít ỏi người đọc vẫn cảm nhận được những

bất công, ngang trái và nỗi đau đớn, xót xa mà họ phải chịu đựng. Từ đó, người đọc

thấu hiểu, cảm thông và trân trọng họ.

3.2. Tâm lý của nhân vật

Anna Saghers trong Số phận tiểu thuyết đã viết: chừng nào tâm hồn con người

còn gắng nhận thức một tâm hồn khác, chừng đó, sự miêu tả tâm lý bằng nghệ thuật

còn cần thiết cho con người. Mỗi người nghệ sĩ luôn tìm các cách thức khác nhau để

khai thác những vẻ đẹp, những góc tối, những khía cạnh của tâm hồn, tạo cho mình

một dấu ấn riêng. Thạch Lam cho rằng: “Nhà văn có biệt tài là nhà văn đã diễn tả

đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của người” [dẫn theo 18, tr.1]. Để làm được

điều đó, ông thấy cần phải có một sự quan sát bên trong khiến nghệ sĩ có thể hiểu

được cái ý nghĩa sâu kín của sự việc, cái trạng thái tâm lý của một cử chỉ hay một lời

nói. Còn với R.Tagore, đọc truyện ngắn của ông, ta dễ dàng nhận thấy ông có biệt tài

khai thác những trạng thái tâm lý cùng những biến thái tinh vi của nhân vật. Ít chú

tâm vào miêu tả ngoại hình, nên hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn của Thạch

Lam và R.Tagore là những nhân vật mang đầy tâm trạng.

3.2.1. Chân dung tâm lý hoàn chỉnh

Ngoại hình nhân vật góp phần biểu hiện nội tâm. Đây chính là sự thống nhất

giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên

trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo. Đời

sống bên trong là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lý của nhân

vật trước những cảnh ngộ, những tình huống gặp phải trong cuộc đời. Thạch Lam và

R.Tagore bên cạnh việc xây dựng những nhân vật có ngoại hình hoàn chỉnh cũng đã

xây dựng thành công những chân dung tâm lý rất trọn vẹn, thống nhất.

Cô hàng xén Tâm là một trong số ít nhân vật được Thạch Lam miêu tả hoàn

chỉnh về cả ngoại hình và tâm lý. Bên cạnh hình dung là một cô gái xinh đẹp, đảm

66

đang, Tâm còn được biết đến là một cô gái đa cảm và giàu trách nhiệm: “Tâm cúi mặt

thẹn đỏ hai gò má; nàng tưởng đến cậu giáo, con người xinh trai và nhã nhặn mà mới

buổi gặp lần đầu nàng đã mến yêu ngay. Nhưng bỏ nhà đi lấy chồng thằng Lân và

thằng Ái lấy tiền đâu ra để mua sách vở học? Nghĩ đến mẹ già phải làm lụng vất vả

lòng Tâm lại không nỡ” [34, tr.55]. “Nàng cần gì những cái đó nữa. Bọn trai làng

không còn chòng ghẹo nàng và trong lòng nàng cũng không còn cái tươi vui như

trước. Với nàng cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi. Nàng chỉ còn là

một người đàn bà tảo tần hôm sớm để nuôi chồng” [34, tr.56]. Như vậy, tâm trạng

Tâm chủ yếu được tác giả biểu đạt qua dòng suy tưởng khép kín của nhân vật. Những

ngẫm nghĩ, suy tính, lo toan diễn ra trong lòng Tâm kéo dài suốt con đường từ chợ về

nhà, từ nhà cô đến nhà chồng, lại từ nhà chồng cô đến chợ. Dòng suy tưởng này rải

trên từng bước chân và đi qua suốt cả cuộc đời nhân vật. Nó tạo nên một tầng sống

khuất kín của riêng Tâm, bí mật với tất cả mọi người, ngay cả với người mẹ thân yêu

và gần gũi. Các cảm xúc, tâm tình được liên kết lại làm nổi bật tâm trạng cô đơn, bế

tắc, không lối thoát của nhân vật.

Trong Hai đứa trẻ, với những sáng tạo nghệ thuật của Thạch Lam, nội tâm của

nhân vật Liên hiện lên rất đặc sắc, tinh tế gắn với những tình huống và hoàn cảnh cụ

thể. Tâm trạng của Liên trải qua nhiều giai đoạn, nhiều cung bậc cảm xúc. Khi chiều

tà buông xuống, những âm thanh và màu sắc phố huyện khiến tâm trạng cô lâng lâng,

khó tả, Liên cảm nhận được cái buồn man mác của buổi chiều quê. Khi chợ tàn, cô

xót xa khi nhìn “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất tìm

tòi”, Liên “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng”.

Màn đêm buông xuống, tâm trạng Liên càng buồn hơn khi chứng kiến những con

người phố huyện vất vả với gánh nặng mưu sinh. Biện pháp duy nhất để cô bé tìm

thấy sự khuây khỏa trong tâm hồn là chờ đợi đoàn tàu với tâm trạng háo hức. Tàu

đến, phố huyện như bừng sáng hơn, “Liên lặng theo mơ tưởng” về một “Hà Nội xa

xăm, Hà Nội rực sáng vui vẻ và huyên náo”, đó là Hà Nội trong ký ức tuổi thơ Liên

với những kỷ niệm sâu nặng mà bấy lâu nay Liên thiết tha được sống lại những ngày

hạnh phúc ấy dù chỉ trong khoảnh khắc. Bởi vậy, đêm nào Liên cũng đợi tàu như một

thói quen khó bỏ. “Con tàu như đã mang một chút thế giới khác đi qua” - thế giới của

đô thành sôi động, sầm uất vang dội đủ thứ âm thanh của cuộc sống đời thường, Liên

thấy lòng mình thanh thản, niềm vui nhẹ khẽ len vào lòng. Nhưng Liên không nghĩ

được lâu, mắt chị nặng dần và chìm vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở

trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối. Bằng sự quan sát, miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với

67

nhiều biến đổi tinh vi, phong phú… nhà văn đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về

cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm

hồn Liên lan tỏa nhuốm vào cảnh vật. Tác giả đã dẫn dắt câu chuyện theo mạch tâm

lý của nhân vật Liên, tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc: cảm xúc buồn

man mác, mơ hồ trước bức tranh cuộc sống nghèo của phố huyện lúc chiều muộn,

cảm xúc buồn khắc khoải trong cảnh chờ đợi, mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng

hơn cho cuộc sống nghèo khổ thường ngày, cảm xúc buồn thấm thía, sâu xa về cuộc

sống quẩn quanh, mỏi mòn. Tương ứng với cảnh vật, con người trong từng thời hắc

khác nhau là những tâm trạng, ý nghĩ khác nhau: ban đầu là tâm trạng buồn man mác

trước ngày tàn, sau đó Liên mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ,

Liên lặng theo mơ tưởng và cuối cùng, Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi

như chiếc đèn của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nỗi buồn của Liên cứ

tăng dần lên theo thời gian và tâm trạng. Từ dư âm, dư vị đó mà đưa người đọc vào

tâm trạng buồn vui lẫn lộn trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới

tương lai. Tác giả đã hòa nhập vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để diễn tả những

gì mong manh, mơ hồ, khó tả nhất trong tâm hồn nhân vật.

Cũng như Thạch Lam, một số nhân vật được R.Tagore kịp thời ghi lại những

“khoảnh khắc biến động” trong tâm lý một cách trọn vẹn. Truyện ngắn Cô dâu bé

nhỏ, cô bé Mrinmayi hiện lên với những nét tâm lý biến đổi thật đáng yêu. Mrinmayi

vốn là cô bé tinh nghịch, tính tình phóng khoáng như một con hươu rừng. Chính cá

tính của cô đã làm chàng sinh viên trẻ Apơcbô rung động. Vì Mrinmayi, Apơcbô đã

dũng cảm từ hôn cô gái mà mẹ đã chọn cho chàng để lấy Mrinmayi. Lúc đầu cô

không yêu và không muốn lấy Apơcbô. Nhưng vì tình yêu tha thiết, Apơcbô đã khuất

phục được trái tim của Mrinmayi. Anh đã để lại trong trái tim cô những rung động

đầu tiên. Apơcbô lên Cacutta học tiếp. Anh muốn đưa vợ đi cùng. Nhưng Mrinmayi

không đồng ý. Cô cũng không muốn ở lại nhà với mẹ chồng. Apơcbô đành đưa vợ về

nhà bố mẹ đẻ cô. Tuy nhiên, trở về nhà, Mrinmayi không hề tìm thấy những ngày thơ

ấu vô tư như cô mong đợi. “Cô thấy ngôi nhà và cả làng nữa vắng tanh vắng ngắt.

Mrinmayi không thể hiểu điều gì đã xảy ra và muốn đi Cacutta ngay hôm đó. Cô bé

không biết rằng, trong cái đêm cuối cùng ấy, quãng đời quá khứ non trẻ của cô, cái cô

cố níu lấy, đã thay đổi dạng vẻ và cô không hay. Giờ đây, Mrinmayi có thể dễ dàng

rũ bỏ đi những kỷ niệm như cái cây trút lá khô” [50, tr.213]. Tâm lý của Mrinmayi

giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, “lưỡi gươm của số phận đã chia cắt phần thanh xuân

của Mrinmayi khỏi thời thơ ấu” cô không còn là một cô bé mà đã trở thành người phụ

68

nữ thực thụ. Tâm trạng cô bé vừa ngạc nhiên, vừa buồn lại vừa cảm thấy đau: “Khi

bản năng phụ nữ hiền dịu, sâu sắc, rộng lớn đã nhập vào thể xác và tâm hồn

Mrinmayi, cô cảm thấy đau” [50, tr.215]. Trong tâm trí Mrinmayi lúc này là nhiều

tâm trạng đan xen: vừa nhớ nhung, vừa buồn bã trách cứ, vừa day dứt, trăn trở, vừa

ân hận tiếc nuối của một người vợ xa chồng: “Chính em cũng không hiểu em? Tại sao

anh lại không hiểu em? Tại sao anh không trừng phạt em? Tại sao anh chấp nhận cho

em ở lại đây? Tại sao anh lại nhượng bộ em?” [50, tr.215]. R.Tagore đã rất tài tình

trong việc tái hiện tình cảm và suy nghĩ của lứa tuổi vị thành niên.

Trong truyện ngắn của R.Tagore, ta còn thấy rất nhiều chân dung nhân vật có

tâm lý hoàn chỉnh: Giribala trong Mây và mặt trời, Tara trong Kẻ lang thang, Mini

trong Bác bán hàng rong người Kabun… dưới ngòi bút của R.Tagore, họ hiện lên là

những nhân vật có tâm hồn trong sáng, tinh tế, giàu xúc cảm.

3.2.1. Những mảnh vỡ tâm lý

Trong cách xây dựng nhân vật, Thạch Lam và R.Tagore là những nhà văn hết

sức truyền thống. Các nhân vật trong tác phẩm của hai nhà văn chủ yếu là những

chân dung nhân vật có tâm lý hoàn chỉnh. Người đọc có thể hình dung trọn vẹn tính

cách nhân vật thông qua ngoại hình, hoàn cảnh, tâm lý… Bên cạnh đó, Thạch Lam và

R.Tagore còn là những nhà văn rất hiện đại cho nên trong cảm nhận của hai ông có

những điểm khác biệt truyền thống trong cách thể hiện nhân vật. Trong tác phẩm của

hai nhà văn, có những nhân vật không còn xây dựng hoàn toàn theo khuôn mẫu

truyền thống, hiện thực mà họ phản ánh là hiện thực có ít nhiều đổ vỡ của xã hội hiện

tại. Thế giới con người trong hiện thực ấy không đơn giản một chiều mà có sự phức

hợp trong tâm lý. Điều đó bắt nguồn từ sự bất hạnh, bi thương trong cuộc sống khiến

nhân vật mang nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị tốt, xấu đan cài. Thạch

Lam và R.Tagore đã dám nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch và phản

ánh nó bằng cái nhìn trung thực. Khi hình dung cuộc sống như những mảnh vỡ ta sẽ

nhận thấy sự xen cài của cái cao cả và cái thấp hèn, cái trong suốt lẫn cái phàm tục

trong tâm lý mỗi nhân vật.

Thạch Lam không quan niệm con người một cách đơn giản, sơ lược, mà ông

nhìn nhận con người như một phức thể, có cái cao thượng - thấp hèn, hoàn thiện -

chưa hoàn thiện. Trong tiểu luận Theo dòng, Thạch Lam viết “người ta là người với

tất cả sự cao quý và hèn hạ của người”. Chính quan niệm như vậy đã chi phối sâu sắc

đến cách xây dựng nhân vật của ông. Đọc truyện ngắn Thạch Lam ta bắt gặp những

nhân vật rất chân thực, rất “người”.

69

Nhân vật Liên trong Một đời người khiến người đọc có bao suy nghĩ, trăn trở

và lựa chọn. Tác phẩm mở đầu bằng tâm trạng vui vẻ, thoải mái của Liên bên các bạn

sau giờ làm, khi chỉ còn lại một mình, rảo bước trở về ngôi nhà “địa ngục”, Liên

mang nhiều trạng thái, tâm lý nhưng hầu hết là tâm trạng buồn. Cô hối hận khi nhớ lại

ngày đi lấy chồng: “Liên thở dài nghĩ lại quãng đời nàng từ lúc đi lấy chồng. Bảy,

tám năm qua, mà Liên tưởng như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người. Nàng về

nhà chồng từ năm mười bảy tuổi. Tại sao nàng lại lấy người chồng này mà không lấy Tâm,

người nàng quý mến từ thuở nhỏ và bây giờ cùng làm một sở với nàng” [34, tr.140]. Nàng

tự trách mình đã vội vàng lấy người chồng hiện tại mà không phải là Tâm. Quá khứ

dường như khơi sâu thêm nỗi đau khổ, dằn vặt tâm trạng Liên trong hiện tại, nàng xót

thương cho người nàng yêu khi chứng kiến người ấy đau khổ vì mình: “Trong bảy,

tám năm ở nhà chồng, nàng chịu biết bao nỗi khổ sở, hành hạ mà không dám kêu ca.

Liên chỉ âm thầm đau đớn. Nàng thương hại cho Tâm đã khổ vì nàng” [34, tr.140].

Nàng sung sướng khi tưởng tượng cuộc đời hạnh phúc nếu lấy Tâm. Liên đã phải khổ

sở rất nhiều khi lựa chọn đi với Tâm để được hưởng hạnh phúc ngọt ngào của tình

yêu hay ở lại với chồng con để chịu đầy đoạ. “Liên lờ mờ thấy rằng, nàng không đủ

can đảm làm một việc như thế, không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái

cay nghiệt gây nên xung quanh nàng... bỏ chồng con để lấy Tâm, để được sung sướng

riêng lấy mình nàng, Liên cho như là một việc không bao giờ có thể làm được” [34,

tr.140]. Đạo đức luân lý đã không cho phép nàng bỏ chồng theo trai. Cuối cùng, nàng

rơi vào tâm trạng xót xa khi trở về thực tại “Ngày nọ nối tiếp ngày kia. Liên lại vẫn

chịu cái đời khổ sở, đau đớn mọi ngày” [34, tr.143]. Thạch Lam đã để nhân vật Liên

tự đấu tranh với những trạng thái tâm lý phức tạp, cuối cùng chọn một lối đi thích

hợp. Từ đó, nhân vật lại trở về với những phẩm chất vốn có của người phụ nữ: cam

chịu, hy sinh, sống vì người khác. Những tâm trạng ấy của nhân vật làm người đọc

cảm thấy xót xa cho thân phận người phụ nữ.

Trong Nhà mẹ Lê, tâm trạng mẹ Lê được khắc họa qua hồi tưởng của nhân vật

trong cơn mê sảng trước lúc chết mà người đọc vẫn cảm nhận được nỗi đau đớn,

giằng xé của nhân vật. Đó là nỗi buồn khi cuộc đời từ khi sinh ra đến khi chỉ toàn

những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Trong cuộc sống mưu sinh vất vả, đôi khi mẹ Lê cũng

có tâm trạng vui khi đàn con có cái ăn: “Bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc,

những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc

thằng Hi và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng. Rồi đến những

ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò

70

lúa dưới chân” [34, tr.187], đó là những niềm vui đời thường, rất đáng trân trọng. Rồi

đến những buổi chợ vắng, những ngày nhịn đói như kéo bác về với hiện thực đau

đớn, khi bác phải nhẫn nhục mang rá đi vay gạo nhà giàu, “bác mơ thấy vàng son

chói lọi nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác và tinh nghịch của cậu Phúc, con chó Tây

nhe nanh chồm lên” [34, tr.187]. Tâm trạng của nhân vật như những mảnh vỡ được

ghép nối lại trong sự đau đớn đến tột cùng trước khi qua đời. Tác giả dường như hóa

thân vào nhân vật để ghi lại những lát cắt tâm lý trong từng khoảnh khắc của cuộc

đời, để cảm nhận được những nỗi đắng cay trong cuộc đời mẹ Lê. Chỉ với những

dòng hồi tưởng ngắn ngủi trong cơn mê sảng, ta thấy rõ tâm trạng hỗn độn, phức tạp

của nhân vật. Đằng sau tâm lý đau buồn, xót xa vì gánh nặng trong cuộc sống mưu

sinh vẫn có những lúc thoáng vui. Thạch Lam đã hòa nhập vào dòng người khốn khổ

để cùng vui, cùng buồn với nhân vật, qua đó thể hiện biệt tài của mình khi diễn tả

những cảm xúc trong tâm lý nhân vật.

Cũng như Thạch Lam, R.Tagore rất thành công khi nắm bắt các nét tâm lý

phức hợp ở phụ nữ và trẻ em. Kể cả những trạng thái tâm lý khó nắm bắt nhất cũng

được ông miêu tả một cách dễ dàng.

Nhân vật Xuba trong truyện ngắn cùng tên là cô gái câm mang đầy tâm trạng.

Mỗi con người, ai cũng muốn sinh ra được lành lặn, ai cũng có khao khát tìm thấy

tình yêu đích thực, được sống hạnh phúc bên những người thân yêu. Nhưng cuộc

sống đôi khi khiến người ta thất vọng, đập tan những ước mơ thành những mảnh vụn,

khiến tâm lý nhân vật cũng không được trọn vẹn. R.Tagore xây dựng hình tượng cô

gái với nhiều khuyết tật làm cô luôn mặc cảm, tủi nhục. “Từ thuở ấu thơ, cô đã hiểu

trời cho cô đầu thai vào nhà bố cô như một sự giáng họa, cho nên cô thui thủi xa lánh

mọi người và cố sống riêng biệt một mình” [50, tr.245]. Bất hạnh liên tiếp xảy ra với

cô: cô bị gia đình ghét bỏ, bị những đứa trẻ khác xa lánh. Cô chỉ có bà mẹ thiên nhiên

làm bạn và lên tiếng nói thay cô. “Tiếng suối róc rách, tiếng dân làng, tiếng hát của

những người chở thuyền, tiếng chim và tiếng cây xào xạc hòa làm một với rung rẩy,

xao xuyến của trái tim cô. Những tiếng đó thành một âm ba mênh mông xô vào tâm

hồn rạo rực của cô. Sự chuyển động lao xao ấy của thiên nhiên là ngôn ngữ của cô gái

câm; tiếng nói của cặp mắt huyền với hàng mi dài là ngôn ngữ của thế giới xung

quanh” [50, tr.245]. Khi bế tắc, không thể giãi bày, không tìm được niềm vui, cô gieo

mình xuống đám cỏ bên sông cầu cứu mặt đất như cầu cứu người mẹ duy nhất:

“cô dang hai tay ra ôm lấy Đất - bà mẹ cường tráng, lặng lẽ và tựa hò muốn nói:

Mẹ ơi, đừng để con phải lìa xa mẹ. Mẹ hãy dang tay ôm lấy con như con đang

71

ôm mẹ và ghì chặt lấy con đi mẹ” [50, tr.251]. Câu chuyện toát lên âm hưởng nhẹ

nhàng. Không có những xung đột gay gắt, nhưng nhân vật lại có một thế giới nội tâm

phức tạp, được thể hiện bằng bút pháp thâm trầm, từng trải. R.Tagore đã cảm nhận

một cách tinh tế, sâu sắc nỗi đau của cô gái câm, thấu hiểu chiều sâu tâm lý phức tạp

của con người. Đó là tâm trạng hết sức đau đớn, giằng xé, muốn thốt lên lời, muốn

mọi người hiểu nhưng không thể nào diễn đạt.

Trong truyện ngắn R.Tagore, những trẻ em có cuộc sống bình yên có tâm lý dễ

nắm bắt hơn so với những đứa trẻ bất hạnh. Với sự non nớt về ngôn ngữ, tâm hồn,

hiểu biết xã hội giới hạn nên khả năng tự thể hiện nội tâm của các em bị hạn chế hơn

các nhân vật người lớn. Những trẻ em bất hạnh thường có tâm hồn nhiều dằn vặt, khổ

đau, mâu thuẫn. Vì thế, để người đọc có thể hiểu rõ tâm lý của các em hơn, R.Tagore

thường sử dụng phương thức miêu tả tâm lý trực tiếp. Nhân vật cậu bé Ninkanta trong

Đứa trẻ bơ vơ được tác giả miêu tả rất thành công tâm lý phức tạp, đan xen nhiều tâm

trạng. Cơn bão làm đắm thuyền khiến đoàn hát rong của Ninkanta gặp nạn. Sự may

mắn đã đưa nó đến với gia đình Sarat, mọi người lúc đầu đều chào đón nó, “bản thân

Ninkanta vô cùng sung sướng vì cùng một lúc thoát khỏi hai cái nạn: lão bầu, chủ

gánh hát rong và cái chết, lại được nương tựa vào một gia đình khá giả” [50, tr.222].

Vì nó quá nghịch ngợm, Sarat và bà mẹ anh ta chỉ muốn tống khứ nó đi cho rảnh.

Nó thường bị Sarat bợp tai, vì vậy nó mang tâm lý rất bi quan và đi đến kết luận

“cuộc sống của con người gồm có ăn uống và chịu đòn mà phần chịu đòn là chủ

yếu” [50, tr.223]. Khi Xatit - em trai của Sarat đến, hắn trở thành thú vui, chiếm hết

thời gian và mối quan tâm của Kiran, Nikanta nhanh chóng trở thành kẻ bị bỏ rơi.

Cậu rơi vào tâm trạng ghen tức khi bị đẩy ra ngoài lề: “Thốt nhiên, lòng nó tràn ngập

nỗi cay đắng mà nó cảm thấy phải trút lên đầu ai nỗi cay đắng ấy hoặc một cái gì đó

cho bõ hờn” [50, tr.227]. Đó là nguyên nhân của hàng loạt hành động phá phách vô

lối của nó: nó đánh bạn, đánh chó, đánh cả những cái cây bên đường, nó bỏ ăn và

khóc thầm trong bóng tối. Nó đau khổ, mất phương hướng sau những nỗ lực để Kiran

quan tâm đến mình nhưng vô ích. Nó rơi vào tâm trạng rối bời, vô vọng: “Nó oán

trách gì? Oán trách ai? Và nó mong đợi được ai đền bù? Cuối cùng không có ai đến,

bà Mẹ Giấc Ngủ, bằng những vuốt ve êm ái đã xoa dịu trái tim bị thương của đứa trẻ

không mẹ” [50, tr.228]. Sau việc Xatit mất trộm cái giá bút, Kiran vô tình phát hiện

ra thứ đồ bị mất trong cái rương của nó. Lúc này, Ninkanta mang tâm lý xấu hổ của

72

một kẻ trộm bị phát hiện và tâm lý phẫn uất vì không thể thanh minh cho mọi người

hiểu rằng: mình ăn cắp không phải vì lòng tham và cộng thêm nỗi thất vọng ê chề khi

nghĩ là Kiran - thần tượng của nó đang rình mò nó như một kẻ trộm. Tâm lý phức hợp

ấy được R.Tagore miêu tả rất tài tình, lột tả được sự rối bời, hoảng loạn, đau khổ đến

cực độ: “Nó nhìn thấy tất cả sự việc và nghĩ rằng: Kiran đã lẻn vào như một kẻ trộm

để khám phá việc nó ăn trộm, thế là tội nó đã bị phát hiện. Làm sao nó có thể hy

vọng nổi cho nàng tin được nó không phải là một đứa ăn trộm, mà chỉ do muốn báo

thù nó đã lấy cái giá bút, định bụng hễ có dịp là quẳng ngay xuống sông. Nhưng

trong một phút yếu đuối nó đã nhét chiếc giá ấy vào rương. “Tôi không phải là

thằng ăn cắp”, trái tim nó gào lên. Vậy thì nó là gì? Nó có thể nói được gì? Nó nói

rằng nó đã lấy cắp nhưng nó vẫn không phải là kẻ ăn cắp ư? Không bao giờ nó có

thể giải thích được cho Kiran hiểu là nàng tưởng lầm biết bao và làm sao nó chịu

nổi cái ý nghĩ là chị đã tìm cách dò la nó” [50, tr.232]. Rõ ràng, lý do thúc đẩy

Ninkanta hành động như vậy không phải vì lòng tham mà là sự ghen tị. Ở đây, ta

thấy được những biến đổi tinh tế trong trái tim cậu bé. Chính lòng khao khát tình

cảm là điểm sáng bị che dấu bởi một hành động bột phát của sự ghen tị, trả thù và

tội ác. Tâm lý ảo tưởng, hờn ghen, vỡ mộng... của đứa trẻ bất hạnh đã được

R.Tagore miêu tả một cách tài tình. Nếu như ở ngoài đời, một đứa trẻ như Ninkanta

dễ bị hiểu là đứa trẻ hư hỏng, xấu tính. Nhờ R.Tagore, ta hiểu thêm rằng, những

hành động của các em có nguyên nhân sâu xa từ sự thiếu thốn tình thương, ta sẽ có

cái nhìn bao dung, nhân ái hơn.

Phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore là những nhân

vật mang đầy tâm trạng. Sự bất công của xã hội, những đạo luật hà khắc, sự hững hờ,

lạnh nhạt của người đời đã đẩy họ đến bất hạnh, khiến tâm lý họ như những mảnh vỡ

lắp ghép lại. Họ luôn sống trong tâm trạng buồn đau, day dứt, trăn trở về quá khứ,

hiện tại và tương lai.

Nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam hiện ra với đầy đủ những ưu, nhược

điểm, những giằng xé, mâu thuẫn trong nội tâm, mỗi nhân vật như một tấm gương ai

soi vào đó cũng thấy có mình, với những điểm tốt, xấu, đúng, sai… để hiểu mình,

hiểu người, để cảm thông và sống đẹp hơn. Còn với R.Tagore, cách miêu tả tâm lý

của ông cũng thật tài tình, ông diễn tả một cách chính xác những trạng thái, tâm lý

tình cảm khó nắm bắt. Từ quan niệm con người - vũ trụ của Upanishad, R.Tagore đã

73

xây dựng quan niệm của ông về con người - thần thánh. Ông luôn đề cao, tôn thờ và

đặt niềm tin ở con người. Khi dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của nhân vật,

R.Tagore xây dựng cho ta niềm tin vào bản chất thiện và sự chủ động hướng thiện

của con người.

Với lòng yêu thương con người sâu sắc, Thạch Lam và R.Tagore đã mở rộng

lòng mình để đón nhận, sẻ chia với tất cả những tâm tư, ước nguyện trong cuộc đời

của con người. Qua đó, hai tác giả đã thể hiện khát vọng đưa con người thoát khỏi

trói buộc trong đời sống tinh thần. Các nhân vật được tác giả quan tâm đến từng chi

tiết nhỏ nhất trong sự biến đổi tâm lý. Vì vậy, hình tượng phụ nữ và trẻ em trong

truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.

3.3. Giọng điệu kể chuyện

“Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng trời phú của mỗi tác giả nhưng mang

nội dung khái quát, nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể hiện” [10, tr.134]. Trong văn

học, giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện tài năng và khả năng sáng tạo

của nhà văn. Nó có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng và được coi là “chìa khóa” để

mở tác phẩm. Mỗi nhà văn khi đặt bút bao giờ cũng hết sức thận trọng tìm giọng

điệu phù hợp cho văn phẩm của mình. Mặc dù trong tác phẩm luôn tồn tại những

giọng điệu khác nhau tạo nên sự đa thanh, đa sắc thái, song mỗi tác phẩm bao giờ

cũng có một giọng điệu chủ đạo để liên kết các yếu tố hình thức khác nhau trong

văn bản làm cho tác phẩm cùng mang một âm hưởng, một khuynh hướng nhất

định. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ xét giọng điệu trong truyện ngắn

của Thạch Lam và R.Tagore khi viết về hình tượng phụ nữ và trẻ em.

Thạch Lam là nhà văn của nội tâm và cảm giác vì vậy trữ tình là giọng điệu

chủ đạo trong các truyện ngắn của ông. Còn R.Tagore trước khi là nhà văn ông đã là

nhà thơ nổi tiếng, “một nhà thơ trữ tình tinh tế bậc nhất của Ấn Độ” (I.Erenbua), chất

trữ tình trong thơ đã thấm đượm trong giọng điệu truyện ngắn R.Tagore. Vì thế, hai

tác giả có sự gặp gỡ ở giọng điệu kể chuyện khi viết về phụ nữ và trẻ em, đó là giọng

trữ tình được chia thành hai sắc thái: thương cảm và trân trọng, bên cạnh đó giọng

điệu triết lý được mỗi nhà văn thể hiện ở các mức độ khác nhau.

3.3.1. Giọng điệu thương cảm

“Yêu người như yêu mình” là lẽ sống, là con người của Thạch Lam. Đã có biết

bao câu chuyện cảm động mà những người thân của nhà văn kể lại về tình cảm đó ở

nhà văn. Trong cuộc sống, ông là người giàu lòng trắc ẩn, vì thế khi kể về những số

74

phận bất hạnh, bao giờ Thạch Lam cũng động lòng thương cảm nhất là đối với nhân

vật phụ nữ và trẻ em. Từ lời văn đến giọng điệu ta đều nhận thấy “bàng bạc nỗi buồn

nhân thế” của ông.

Hai đứa trẻ có cấu tứ như một bài thơ trữ tình đượm buồn. Giọng điệu trìu

mến, thương cảm pha lẫn nỗi xót xa là giọng điệu chủ đạo của tác phẩm khi kể về

những số phận đáng thương, mòn mỏi qua cái nhìn của nhân vật Liên. Diện mạo

phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, câu văn miêu tả

thiên nhiên và con người mang đầy tâm trạng: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả

như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.

Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả

thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập dần đầy và cái buồn của buổi chiều quê

thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng

buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” [34, tr.114]. Chất giọng trữ tình

ấy đã diễn tả một cách tinh tế những cung bậc tình cảm của nhân vật Liên - một

nỗi buồn khe khẽ, vẩn vơ, mơ hồ của cô bé trong cảnh chiều tàn của phố huyện.

Dưới con mắt của Liên, con người phố huyện mỗi người một dáng vẻ nhưng tất cả

họ đều sống trong cảnh tẻ nhạt, tù túng đến xót xa. Đó là “Mấy đứa trẻ con nhà

nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh

nứa, thanh tre, hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại.

Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho

chúng nó” [34, tr.115], đó là chị Tý ban ngày mò cua bắt tép tối dọn hàng nước

chè tươi lèo tèo, leo lét ngọn đèn dầu, một gánh phở rong ế khách và một đám hát

xẩm còn ế ẩm hơn, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát…

Trong bức tranh đời buồn thảm ấy, hình bóng hai chị em Liên cũng âm thầm

không kém, cái cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, khách hàng là những người khốn khó,

có khi không có tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ

“uống một hơi cạn sạch”. Khi đoàn tàu đến “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa

xăm, Hà Nội sáng rực và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua.

Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn các vùng sáng ngọn đèn của chị Tý

và ánh lửa bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê và ngoài

kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Chất giọng trầm lắng, có sức gợi sâu xa.

Tác giả đã hóa thân vào nhân vật để nói đến cái cảm quan xót thương của mình.

Qua giọng điệu, ta cảm nhận được sự rung động tinh tế trong tâm hồn tác giả, sự

75

cảm thương đối với những con người nghèo khổ phải sống quẩn quanh, lam lũ, tối

tăm nơi ga xép của phố huyện tỉnh lẻ.

Trong Nhà mẹ Lê, Thạch Lam một lần nữa dường như đã hóa thân vào nhân

vật để miêu tả và cảm nhận nỗi đắng cay trong cuộc đời của họ. Ta thấy cái nhìn

độ lượng, thương cảm của nhà văn khi miêu tả căn nhà tồi tàn của mẹ Lê: “Chừng

ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một

chiếc giường nan đã gãy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm

ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc” [34, tr.183]. Để

đặc tả sự nghèo khó của nhà mẹ Lê, tác giả cho thấy “cách kiếm ăn” khổ cực và bấp

bênh của bà mẹ này: “Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta phải

trở dậy đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng” [34, tr.183]. Đó là những

ngày sung sướng nhất vì còn có người mướn bác làm việc. Những con người ấy

trở nên tội nghiệp hơn khi ngày mùa đi qua, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ. Càng

ngày, sự kiếm ăn càng thêm khó khăn, nhà văn càng xót xa khi chứng kiến cảnh

Bác Lê “đi khắp các nhà trong làng xin làm mướn nhưng các nhà có ruộng không

ai mướn, “Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau, rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối

tăm, vì đèn đóm không có nữa” [34, tr.185]. Cái chết của mẹ Lê ở cuối tác phẩm

làm giọng điệu câu văn chùng xuống bởi quá thương tâm “Bác Lê lên cơn sốt.

Những cái rung mình lạnh lẽo nối tiếp nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách

không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cuộc đời mình, từ

lúc bé đến bây giờ chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không

biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đấy nó cứ theo

liền bác mãi” [34, tr.187]. Cuộc đời mẹ Lê dường như chỉ gói gọn trong chữ nghèo

khiến thân phận rất bi thương. Từ cái bi thương ấy dẫn đến sự bất hạnh cho những

đứa trẻ mồ côi. Cuộc đời chúng rồi sẽ ra sao, chúng sẽ đi về đâu khi bên đời không

còn cha mẹ? Nỗi buồn đau dường như được nén lại trong lòng tác giả rồi tỏa ra âm

điệu buồn cho người đọc suốt câu chuyện.

Trong truyện ngắn của Thạch Lam, ta còn thấy giọng điệu thương cảm ở nhiều

nhân vật phụ nữ và trẻ em khác: Tâm (Cô hàng xén), Liên (Một đời người), Dung

(Hai lần chết)… Thạch Lam gieo vào lòng người đọc sự thương cảm cho những kiếp

người nhọc nhằn. Ngay cả những người lầm lỡ trong chốn bùn lầy của xã hội như

Liên, Huệ (Tối ba mươi) ông cũng miêu tả họ bằng giọng thương cảm chứ không chì

chiết, khinh rẻ. Ông đã đặt mình vào vị trí nhân vật để nói lên cảm nghĩ về số phận

những kiếp người nhỏ bé trong xã hội, từ đó toát lên sự cảm thông sâu sắc với những

76

cảnh đời nghiệt ngã, khổ đau. Giọng điệu buồn trầm gợi niềm thương cảm về số phận

bấp bênh của con người dưới xã hội cũ là nét đặc trưng trong phong cách truyện ngắn

Thạch Lam. Một nỗi buồn man mác nhè nhẹ phủ lên và thấm vào đời sống của các

nhân vật, một nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn mơ hồ. Thạch Lam đã gieo vào lòng người

đọc sự thương cảm cho những kiếp người nhọc nhằn.

Cũng như Thạch Lam, giọng điệu thương cảm được R.Tagore sử dụng để kể

về những con người có số phận bất hạnh đặc biệt là phụ nữ, trẻ em. Nhà văn kể về

câu chuyện của họ trong sự cảm thông, thương xót. PGS. Lưu Đức Trung đã khẳng

định “Những hiện thực mà R.Tagore miêu tả tràn đầy nước mắt, chứa chất nhiều

đau xót, uất hận, thể hiện rõ thái độ đồng tình, bênh vực những người đau khổ…

phụ nữ Ấn Độ được ông quý trọng và miêu tả chân thành, sâu sắc vì họ là nạn nhân

cùng cực nhất của chế độ phân biệt đẳng cấp, là đối tượng bị lễ giáo phong kiế n

giày vò và áp bức thậm tệ” [51, tr.147].

Nhà văn đã cụ thể hóa thân phận của người phụ nữ Ấn Độ nói chung bằng một

số hình tượng nhân vật. Đó là Xuba trong truyện cùng tên, là Mahamaya trong Dàn

hỏa thiêu, là Kuxum trong Những bậc bến tắm bên sông, là Khirôđa trong Quan

chánh án … Giọng điệu xót xa, thương cảm trong các tác phẩm ấy được R.Tagore tạo

bởi những thủ pháp nghệ thuật rất độc đáo.

Trong Những bậc bến tắm bên sông, nhà văn xây dựng nhân vật người kể

chuyện phù hợp đến kỳ lạ, đó là những bậc đá bên sông nơi cô gái nhỏ Kuxum

thường cùng bạn bè đến tắm và lấy nước. Đối với người phụ nữ Ấn Độ, những bậc

đá bên sông rất gần gũi, chúng gắn bó với họ suốt cả cuộc đời và chứng kiến, chia

sẻ những vui buồn trong cuộc đời của họ. Nhà văn đã nhân hóa những bậc bến tắm

bên sông để chúng kể về nỗi bất hạnh của Kuxum - một người góa chồng khi mới

tám tuổi. Nàng tình cờ biết chồng còn sống nhưng giữa hai người đã có hàng rào

ngăn cách không thể vượt qua. Chồng nàng đã trở thành khất sư. Giọng kể của

những bậc đá có nhịp điệu đều đều, trầm buồn: “Tám tuổi đã góa bụa, Kuxum xóa

bỏ dấu son của người đàn bà có chồng trên trán, cởi bỏ các vòng đeo ở cổ tay, cổ

chân và trở về ngôi nhà cũ bên con sông Hằng” [50, tr.261]; “Kuxum mỗi ngày một

lớn lên tới độ đầy đặn nhất của vẻ kiều diễm và tuổi thanh xuân. Nhưng chiếc áo

màu xám xịt, vẻ mặt đăm chiêu, dáng điệu trầm tư lặng lẽ phủ một tấm màn lên tuổi

thanh xuân của cô” [50, tr.261]. Giọng điệu kể chuyện trầm lắng như chính cuộc đời

buồn thảm của Kuxum. Giọng điệu ấy vọng lên từ nỗi xót xa, thương cảm của nhà

văn đối với một nụ hoa chưa nở đã bị chôn vùi.

77

Truyện về cô gái câm Xuba trong truyện ngắn cùng tên lại được một người

trần thuật ẩn tàng kể lại. Xuba bị câm bẩm sinh nên cô không thể giao tiếp. Mọi

người trong gia đình coi cô là gánh nặng, là một sự “giáng họa” nên cô sống thui thủi,

xa lánh mọi người. Sống trong cô đơn, Xuba khát khao hòa nhập với cuộc đời. Người

trần thuật khi thì khách quan kể lại câu chuyện của cô, khi thì như hóa thân, giãi bày,

trần tình hộ nỗi lòng cô gái câm: “Đôi mắt cô đã nói hết tất cả với họ, mặc dù không

một ai hiểu. Cô ngắm mãi bàn tay mà không biết nói thế nào. Cô nhớ những gương

mặt quen thuộc từ nhỏ, gương mặt của những người đã thấu hiểu ngôn ngữ của cô gái

câm. Trong trái tim im lặng của cô, ngân rung hoài bất tận một tiếng khóc vô thanh

mà chỉ có Đấng Thăm Dò Tâm Tưởng mới nghe thấy được” [50, tr.252]. Nhịp điệu

của lời kể không gấp gáp, dồn dập mà chầm chậm, thiết tha, sâu lắng thể hiện một

tình cảm yêu thương, xót xa của nhà văn.

Bên cạnh nhân vật phụ nữ, những đứa trẻ bất hạnh, thiếu vắng tình thương

cũng được R.Tagore giành nhiều tình cảm và thể hiện qua giọng điệu kể chuyện.

Cô bé mồ côi Ratan (Thầy ký bưu điện) thường đến giúp thầy ký những việc

vặt và được thầy ký cưu mang, dạy chữ. Ngày thầy ký phải lên đường, trở về với gia

đình, không làm việc tại vùng quê “xa xôi hẻo lánh” này, không thể tiếp tục cưu

mang em nữa, hình ảnh cô bé hiện ra thật đáng thương: “Cô bé tha thẩn lượn quanh

trạm bưu điện, nước mắt ròng ròng. Có thể cô bé vẫn còn chút hy vọng lởn vởn đâu

trong một góc trái tim rằng, thầy cô sẽ trở lại, và có lẽ cũng vì vậy mà cô bé không

thể rứt đi đâu” [50, tr.259], giọng điệu trầm buồn ám ảnh người đọc về thân phận

đáng thương của cô bé Ratan.

Đứa trẻ bơ vơ Ninkanta được tác giả miêu tả bằng giọng điệu cảm thương khi

nó bị gia đình Sarat ghét bỏ và muốn tống khứ nó đi: “Thằng bé vẫn thường bị Sarat

bợp hoặc véo tai, nhưng vì cái đó chẳng thấm vào đâu so với những gì nó đã quen

hứng chịu khi còn ở trong gánh hát nên nó bất cần. Trong cái kinh nghiệm thế sự

ngắn ngủi của nó, Ninkanta đã đi đến kết luận cuối cùng: cũng như địa cầu gồm có

đất liền và nước, cuộc sống con người gồm có ăn uống và chịu đòn, mà phần chịu

đòn là chủ yếu” [50, tr.223]. Thật đau đớn biết bao khi mới chỉ là đứa trẻ mà

Ninkanta đã có những suy nghĩ tăm tối về cuộc sống như vậy. Em phải đương đầu với

sóng gió cuộc đời quá sớm, tuổi thơ chủ yếu là chịu đòn roi và những bất công ngang

trái. Giọng kể đều đều, trầm lắng làm người đọc day dứt, thương cảm khôn nguôi.

78

Đối tượng miêu tả là phụ nữ và trẻ em góp phần tri phối trong giọng điệu

truyện ngắn của hai tác giả. Thạch Lam lặng lẽ âm thầm phản ánh đời sống hết sức

khốn khó của con người với cái nhìn đôn hậu và đầy thương cảm, còn R.Tagore đã lựa

chọn điểm nhìn rất phù hợp, những vật tưởng như vô tri vô giác cũng hiểu được cảm

xúc của con người, kể lại bằng giọng điệu trầm lắng làm người đọc như thấy nhân vật

hiện ra trước mắt. Trái tim nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn của Thạch Lam và R.Tagore bộc

lộ trong từng trang viết, tạo ra nhịp đập đồng cảm trong trái tim người đọc.

3.3.2. Giọng điệu trân trọng

Không chỉ nhạy cảm với nỗi buồn nhân thế, Thạch Lam và R.Tagore còn rất

tinh tế trong việc tìm kiếm, nâng niu vẻ đẹp con người. Giữa những biến đổi vô

thường của cuộc sống, tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của hai tác giả với cái chân,

thiện, mĩ là bất biến. Thái độ đó của hai tác giả bộc lộ qua giọng điệu trân trọng trong

lời kể.

Phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam là những người chịu nhiều bất hạnh, khổ

đau nhưng họ vẫn hướng tới cái đẹp, vẫn giữ cho mình những nét đẹp trong tâm hồn.

Dù nhìn bề ngoài những người ấy ta không cảm tình với họ, nhưng Thạch Lam hoàn

toàn khác, ông đã mẫn cảm và tìm thấy ở đáy sâu tâm hồn họ những khoảng sáng

thanh cao. Liên, Huệ trong Tối ba mươi là những người làm nghề dưới đáy cùng của

xã hội. Những ngày lễ, tết hai cô vẫn nhớ tới quê hương, làng xóm với một mái nhà

yên ấm, nhớ tới ông bà, tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng của mình, tác giả trân trọng

những ý nghĩ và tình cảm khi hai cô hồi tưởng lại quá khứ: “Huệ nhớ đến cuộc đời

mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái, ở nhà quê. Một buổi sáng mồng một tết, nàng mặc

áo mới, đứng bên thềm nhìn mấy bông hoa đào trước vườn” [34, tr.234]. Từ ký ức

hồi tưởng về quá khứ Liên, Huệ dâng lên niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và

cuộc sống hiện tại của mình. Hai cô luôn mơ ước ngày trở về trong sự hoàn lương.

Thạch Lam trân trọng những khoảng sáng trong tâm hồn của nhân vật: “Những giọt

nước mắt chảy tràn mi, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh

mang tràn ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt

hiện qua trước mắt với những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường”

[34, tr.236]. Thì ra trong cái tâm hồn đọa lạc và đùng đục ấy vẫn sáng lên tình

cảm rất trong lành. Giọng điệu thiết tha, thể hiện sự nâng niu, trân trọng những

khoảng sáng mong manh trong tâm hồn nhân vật có số phận bi thương.

79

Trong Nhà mẹ Lê, giữa cuộc sống tưởng chừng chỉ còn trơ trọi sự bi đát của

những người khốn khổ, Thạch Lam dưới cái nhìn nhân đạo và lòng trắc ẩn mênh

mông vẫn tìm thấy ở cuộc sống nhếch nhác ấy những niềm vui, niềm hạnh phúc đời

thường. Trong cuộc sống mưu sinh vất vả vẫn có những cảnh ấm cúng, Thạch Lam

đã ghi lại những thoáng chốc, những lát cắt tâm trạng trong từng khoảnh khắc:

“Thằng con lớn nhất thì từ sáng đã cùng thằng ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc

hay sau mùa gặt đi mót những bông lúa còn xót lại trong khe ruộng. Thật là sung

sướng nếu chúng đem về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng, bác

Lê đẩy con ra vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc, giã lấy gạo.

Rồi là những bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc

hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh [34, tr.183]. Cuộc sống tuy lúc no,

lúc đói nhưng cũng có những ngày vui vẻ, “những ngày nắng ấm trong năm, hay

những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê ngồi chơi trước cửa nhà. Bác Lê đem thằng

Hi, con Phún ra gọt tóc cho chúng. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ, còn những đứa khác

chơi quanh gần đấy” [34, tr.184]. Khi miêu tả những cảnh tượng ấy, giọng văn của

Thạch Lam đầy chất thơ và những dư vị ngọt ngào của cuộc sống thể hiện sự nâng

niu, trân trọng. Bất cứ con người nào dù khổ đau họ cũng có những niềm vui, niềm

hạnh phúc riêng dù rất nhỏ bé. Thạch Lam là người rất tinh tế đã miêu tả tinh vi

những niềm vui tuy nhỏ bé, giản đơn nhưng vô cùng sâu sắc và đẹp đẽ.

Giọng điệu trân trọng, ngợi ca không chỉ được Thạch Lam dành cho những

người phụ nữ bất hạnh, với nhân vật phụ nữ thuộc tầng lớp địa chủ giàu có, từng đối

xử tàn ác, keo kiệt với người ở, nhưng khi nói tới bản năng của người phụ nữ lại ánh

lên khao khát mãnh liệt. Bà Cả (Đứa con) là người đàn bà ghê gớm, hay bới móc chị

Sen. Khi chị lấy chồng, sinh con “trong mắt bà sáng lên một tia sáng thèm muốn và

ao ước”: “Bà cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang theo đuổi

một ước vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng, không bao giờ bà được biết những nỗi lo sợ

ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, được nâng niu, ấp ủ một cái

mầm sống trong lòng. Không bao giờ… Giá bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa

con! Tôi thấy người bà rung động, một tiếng thở dài sẽ thoát ra môi rồi đôi mắt ráo

của bà bỗng mờ đi như ướt lệ” [34, tr.101]. Phút chứng kiến hạnh phúc của người

khác dù người ấy chỉ là con sen hầu hạ mình đã khiến Bà Cả thay đổi hẳn. Bà nhận ra

rằng giàu có, đủ đầy chưa hẳn đã sung sướng, cuộc đời bà còn thiếu một cái gì đó còn

đáng quý hơn cả của cải. Bằng giọng điệu trân trọng, Thạch Lam đã đi sâu khám phá

vẻ đẹp lẩn khuất bên trong tâm hồn con người.

80

Bên cạnh nhân vật phụ nữ, nhân vật trẻ em cũng được Thạch Lam ngợi ca

những đức tính tốt đẹp, đó là tấm lòng thơm thảo của hai chị em Sơn trong Gió lạnh

đầu mùa: “Sơn bấy giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo chỉ có nghề đi mò

cua bắt ốc, thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng

thương, một ý nghĩ tốt đẹp thoáng qua trong trí, Sơn lại gần chị thì thầm: Hay là

chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ” [17, tr.97]. Đó là lòng trắc ẩn của hai anh

em trong Tiếng chim kêu, chúng yên ấm trong chăn nệm song thổn thức với tiếng

chim khắc khoải trong mưa gió và “muốn cứu vớt nó”. Chúng còn “nghĩ đến và

thương hại cho những người lữ khách vào giờ này hãy còn đi trên con đường vắng,

ướt như chuột lột và run như cầy sấy, đi vội vàng để tìm chỗ trú chân, chúng ái ngại

cho những nhà nghèo bên hàng xóm, giờ này vợ chồng, con cái đều phải dậy chống

cái nhà lá mà mỗi cơn gió mạnh làm lung lay và đem các chậu thau hứng chỗ dột

nước” [34, tr.205]. Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam trân trọng ước mơ, khao khát thoát

khỏi cuộc sống tù đọng nơi phố huyện của chị em Liên và của những người dân

nghèo, tất cả họ chờ đợi chuyến tàu đêm bởi nó mang lại hy vọng, chiếu lên sự tàn lụi

của phố huyện vốn tịch mịch và đầy bóng tối.

Với R.Tagore, đối tượng được ông kể bằng giọng trân trọng, ngợi ca thường là

những người có tâm hồn cao đẹp, có tài năng đích thực. Trong nhiều truyện, giọng

điệu trân trọng được xen kẽ với giọng điệu khác nhưng cũng có những truyện nó

đóng vai trò chủ đạo như Kẻ lang thang, Cô dâu bé nhỏ…

Trong Cô dâu bé nhỏ, Mrinmayi là cô gái có vẻ bề ngoài và tính cách rất mạnh

mẽ. Trải qua thời gia, cô gái ấy đã thay đổi và trở thành một người phụ nữ hiền dịu

như mong mỏi của mẹ chồng nàng và Apơcbô. Người đọc thấy rõ giọng điệu đầy trân

trọng, ngợi ca của tác giả khi thấy sự thay đổi đó, “sự thay đổi không phải diễn ra ở

tất cả mọi người mà phải có sức mạnh bên trong rất lớn mới chuyển biến được như

vậy”. “Một nhà cải tạo vô hình, bằng một phương sách bí mật và ngắn gọn đã cho cô

gái một cuộc đầu thai mới. Giờ đây, cô bé hiểu tấm lòng của mẹ chồng và bà cũng

hiểu con dâu. Hai mẹ con gắn bó không rời nhau như hai cành trên cùng một cành

cây” [50, tr.215]. Tác giả trân trọng, ngợi ca nhân vật có những thay đổi trong hành

động và tính cách để tìm đến với tình yêu, hạnh phúc.

Cậu bé Tara trong Kẻ lang thang là biểu tượng của cuộc sống tự do, phóng

khoáng. R.Tagore trân trọng, ngợi ca nhân vật từ hình thể, tính cách đến trí tuệ. Đặc

biệt, nhân cách tuyệt vời của Tara được tác giả ngợi ca như một bông sen vươn lên

trong bùn lầy: “Nhờ có bản chất tốt đẹp, Tara đã luôn luôn bảo toàn được tư cách.

81

Chú không bao giờ tiêm nhiễm các cung cách, thói tật của những đám người chú

theo. Chú vẫn giữ cho tinh thần được tự do và cách biệt với họ. Tara đã trông thấy và

nghe thấy nhiều điều xấu xa nhưng trong con người chú không có chỗ giành cho

những gì thô tục. Cũng như mọi thứ ràng buộc khác, những dây rợ của thói quen cũng

không bám níu được vào chú. Chú lánh xa những vũng bùn của thế gian như con

thiên nga mặc dầu nhiều khi bị tính tò mò thúc đẩy lao xuống bùn mà lông cánh vẫn

trắng muốt, không bợn một vết nhơ” [50, tr.152]. Để ca ngợi tâm hồn thánh thiện của

Tara, nhà văn đã sử dụng những câu văn lặp nội dung. Nhiều câu cùng diễn đạt một ý

làm tăng tính chất khẳng định, đồng thời cũng khiến cho giọng điệu trở nên nồng nàn.

Ngoài ra, trong rất nhiều truyện ngắn khác, giọng điệu ngợi ca đan xen với các

giọng điệu khác, ta vẫn thấy sự trân trọng của tác giả giành cho nhân vật. Trong Quan

chánh án, R.Tagore trân trọng cảm xúc của thiếu phụ Hemsasi khi trải qua những

biến cố trong đời. “Lúc này, Hemsasi thấy cuộc sống cô đơn và ngôi nhà bé nhỏ của

mình thực sự là thiên đường: têm trầu, tết tóc, quạt cho bố ngồi ăn, nhổ tóc bạc cho

bố những hôm bố nghỉ, chơi đùa với hai thằng em trai, tất cả những điều đó hiện ra

với cô như một hạnh phúc hiếm có, cô đắm chìm trong bầu không khí êm đềm, yên

tĩnh. Cô tự hỏi: tại sao với chừng ấy báu vật trong cuộc đời người ta vẫn còn có thể

cần đến một thứ hạnh phúc khác?” [50, tr.274]. Sự nâng niu, trân trọng trước những

biến đổi trong tâm lý của nhân vật cho thấy khả năng miêu tả và khám phá tâm lý của

nhà văn rất sâu sắc. Nó được bắt nguồn từ sự am hiểu và đồng cảm với những rung

động trong tâm hồn con người, đặc biệt là những con người bất hạnh.

Trong hồi ký của mình, R.Tagore đã từng viết: “Tôi có một lòng tin mạnh mẽ

vào nhân loại, lòng tin đó cũng như mặt trời, chỉ có thể bị mây che chứ không bao giờ

tắt”. Vì thế phần lớn nhân vật của R.Tagore dẫu có phải ngụp lặn trong biển đời để

sống nhưng bao giờ cũng giữ được nét đẹp trong tâm hồn mình. Các nhân vật của

Thạch Lam cũng vậy, những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp

thanh cao, những con người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong

cuộc sống. Cả hai tác giả trân trọng những phẩm chất ấy của nhân vật, từ đó, xây

dựng cho ta niềm tin vào tính thiện của con người.

3.3.3. Giọng điệu triêt lý

Triết lý của nhà văn là những suy ngẫm về cuộc đời, về bản chất con người.

Từ triết lý đó nhà văn sẽ tổng kết, khái quát thành những bài học, chân lý, lẽ sống.

Trong truyện ngắn Thạch Lam và R.Tagore chúng ta thấy cảm hứng trữ tình, triết

luận được hai tác giả quan tâm thể hiện nhưng với mức độ khác nhau.

82

Tác giả Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “Văn Thạch Lam đọng nhiều suy

nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch

Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày” [53, tr.127]. Những suy

nghiệm ấy được Thạch Lam đúc kết thành các hình ảnh và đan xen vào tác phẩm.

Trong Hai đứa trẻ, hình ảnh đợi chuyến tàu đêm đã mang lại nhiều xúc cảm

trong lòng người đọc, hình ảnh ấy được Thạch Lam khái quát thành những dòng triết

lý sâu sắc: “Con tàu như đã mang một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác

hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác

Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng

mênh mang và yên lặng”. Hình ảnh con tàu mang ánh sáng từ Hà Nội phồn hoa đến

với cuộc đời của chị en Liên nơi phố huyện nghèo nàn nói lên triết lý về ý nghĩa của

sự sống, tình trạng sống mòn, sự tự ý thức vươn lên thay đổi cuộc sống tối tăm, tù

đọng của đêm đen trước cách mạng tháng Tám. Ánh sáng của nhà văn nhen lên trong

tâm hồn hai đứa trẻ sẽ trở thành ngọn đuốc soi rọi con người bước qua bóng tối, niềm

tin vào sự đổi thay của cuộc đời chính là chỗ dựa để con người sống có ước mơ, sống

có ý nghĩa.

Cái tên truyện Một đời người đã mang đầy ý nghĩa về kiếp nhân sinh. Định

mệnh cay nghiệt khiến cho Liên lấy phải anh chồng vũ phu, mẹ chồng cay nghiệt, họ

đánh đập, chửi rủa nàng tàn nhẫn, gia đình với nàng là địa ngục. Người yêu cũ (Tâm)

sắp vào Sài Gòn, chàng rủ Liên trốn theo mong nàng thoát khỏi cuộc đời thê thảm ấy.

Sau trận đánh của chồng, Liên ý định hôm sau trốn theo Tâm, nhưng rồi mọi dự định

tiêu tan, nàng ẵm con ra ga tiễn người yêu mang theo cái hy vọng cuối cùng của đời

nàng. Khi đoàn xe đã khuất, Liên thấy bao nỗi khổ đau trỗi dậy ngập lòng, nàng quay

đầu vào chiếc cột sắt rồi òa lên khóc. Liên phải tiếp tục cam chịu cuộc đời cay đắng.

Cuối cùng tác giả kết luận: “Cái mộng cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu

như là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bầy trong tủ kính các cửa hàng, những vật quý

giá mà nàng tưởng không bao giờ thuộc về nàng được” [34, tr.143].

Trong truyện ngắn Thạch Lam, những triết lý về con người, cuộc đời phần lớn

đan xen trong tâm trạng nhân vật, còn với R.Tagore “Đằng sau mỗi câu chuyện hoặc

giữa các đoạn kể thường đan xen vào những nét rất hóm hỉnh để lộ nụ cười của nhà

hiền triết” [38, tr.10].

83

Trong truyện Cô dâu bé nhỏ, sau khi miêu tả gương mặt, ngoại hình của

Mrinmayi, để lý giải lý do vì sao một người có học thức như Apơcbô lại ấn tượng với

một cô gái tinh nghịch như Mrinmayi, tác giả đã có những triết lý: “Ở đời, người ta

gặp biết bao gương mặt, trong đó có một số in sâu vào đầu óc mà ta gần như không

hay biết. Không phải vì đẹp mà chúng ta nhớ lâu, mà vì đức tính nào thì đúng hơn.

Phần nhiều bản tính con người không lộ rõ trên mặt, tuy nhiên, có những gương mặt

trên đó có những đức tính bí mật, sâu kín bên trong cứ tự nhiên thể hiện ra. Trong

trường hợp như vậy, gương mặt ấy nổi bật giữa đám nghìn vạn khuôn mặt khác và

đột nhiên in sâu vào óc ta” [50, tr.197]. Như vậy, qua những lời bình mang đậm màu

sắc triết lý, tác giả đã nêu quan điểm của bản thân về vẻ đẹp tự nhiên của người phụ

nữ, mỗi người sẽ có một điểm cuốn hút riêng thể hiện ở vẻ bên ngoài và chiều sâu

trong tâm hồn, điều đó tạo dấu ấn đẹp khó phai mờ trong tâm trí của những người

xung quanh.

Ở một số truyện, triết lý được lồng vào mạch kể. Truyện Thầy ký bưu điện tiêu

biểu cho đặc điểm này. Sau khi kể chuyện cô bé Ratan hy vọng hão huyền vào sự trở

về của thầy ký, nhà văn đã đưa ra triết lý: “Ôi ngán thay cái bản chất người ngu dại

của chúng ta! Nó cứ một mực mê thích những lầm lỡ. Lý trí phải mất nhiều thời gian

mới khẳng định được quyền lợi tri phối của mình. Trong khi chờ đợi, người ta vẫn

không tin những bằng chứng chắc chắn nhất. Người ta vẫn níu bám một cách tuyệt

vọng vào một niềm hy vọng hão huyền nào đó, kì cho đến một ngày kia, nó hút đến

khô kiệt trái tim, rồi dứt tung mọi ràng buộc ra đi. Sau đó là nỗi cùng khổ ê chề của

sự thức tỉnh, để rồi một lần nữa, lại khao khát ngập chìm vào cái ma trận của những

lỡ lầm” [50, tr.260].

Vốn là một nhà hiền triết, hầu hết truyện ngắn của R.Tagore mang màu sắc

triết lý, qua những trang viết, nhà văn luôn bộc lộ sự suy tư, chiêm nghiệm của mình

về cuộc sống và con người. Triết học của R.Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng

là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Còn với Thạch Lam, ông cũng có

những triết lý về con người và cuộc sống nhưng những triết lý ấy phần lớn được ông

đan xen trong dòng chảy tâm trạng nhân vật. Qua giọng điệu triết lý, hai tác giả đã

phản ánh cuộc sống khốn cùng của nhân vật phụ nữ và trẻ em với niềm cảm thông

sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đòi tự do và hạnh phúc cho con người.

84

Tiểu kết chương 3

Nói về một tác phẩm có giá trị, Biêlinxki cho rằng: khi hình thức là biểu hiện

của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức nếu tách nó ra khỏi nội dung, có

nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại, tách nội dung ra khỏi hình thức có

nghĩa là tiêu diệt hình thức. Tìm hiểu các tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore ta

thấy rằng: nội dung và hình thức trong mỗi tác phẩm luôn thống nhất khăng khít với

nhau, nội dung của tác phẩm quyết định hình thức và hình thức biểu hiện luôn phù

hợp với nội dung, điều đó đã tạo nên sức sống lâu bền trong sáng tác của hai tác giả.

Về cách miêu tả ngoại diện: truyện ngắn Thạch Lam và R.Tagore bên cạnh

những nét truyền thống đã có nhiều đổi mới. Một số nhân vật phụ nữ và trẻ em ít

được chú ý đến miêu tả ngoại hình nhưng người đọc vẫn hình dung ra thế giới nội

tâm phong phú của họ, thấu hiểu được hoàn cảnh thực tại từ đó chia sẻ, cảm thông

với những mảnh đời cơ cực, bất hạnh.

Về tâm lý: Với tâm hồn nhạy cảm, Thạch Lam và R.Tagore đã có những phát

hiện rất tinh tế về tâm lý nhân vật. Những xúc cảm thầm kín luôn lẩn khuất trong

tâm hồn con người mà không phải ai cũng thấy, cũng cảm nhận được. Phải rất

tinh tế và nhạy cảm Thạch Lam và R.Tagore mới chộp được những phút giây

rung động thẳm sâu trong đời sống tâm linh ấy của nhân vật, ghi lại được những

thoáng chốc, những lát cắt tâm trạng nhân vật trong sự tương tranh giữa không

gian, ngoại cảnh và lòng người.

Về giọng điệu: Đối tượng là nhân vật trẻ em, phụ nữ đã tri phối đến cách lựa

chọn giọng điệu trong truyện ngắn của hai tác giả. Với giọng điệu trữ tình, triết lý,

độc giả càng đọc càng bị lôi cuốn, chất giọng ấy diễn tả một cách tinh tế những cung

bậc tình cảm của con người.

85

KẾT LUẬN

1. Đầu thế kỷ XX, văn học thế giới nói chung, văn học Việt Nam và Ấn Độ

nói riêng đã có một khoảng riêng viết về đề tài phụ nữ, trẻ em. Thạch Lam và

R.Tagore là những gương mặt tiêu biểu góp vào khoảng riêng ấy những truyện ngắn

có giá trị. Các tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh đất nước thuộc địa, nhân vật phụ nữ,

trẻ em của hai tác giả không thể không mang hơi thở của thời đại. Chứng kiến con

người phải chịu những bất công Thạch Lam và R.Tagore đã dám nhìn thẳng vào sự

thực, phản ánh bao kiếp người đang quằn quại đau khổ trên các trang viết, đặc biệt là

phụ nữ và trẻ em. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn nhà văn,

khơi gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành. Tìm đến với

tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore, người đọc thêm hiểu những đắng cay, tủi nhục

của phụ nữ và trẻ em trong một giai đoạn lịch sử, từ đó, biết trân trọng, yêu thương,

sẻ chia và đồng cảm với những thân phận bất hạnh.

Tìm hiểu về hình tượng phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và

R.Tagore, ở chừng mực nhất định, chúng tôi có thể chỉ ra một số điểm tương đồng,

khác biệt về văn hóa, đời sống con người trong xã hội Việt Nam và Ấn Độ thời bấy

giờ. Điều đó cho thấy, dù ở bất kỳ quốc gia nào phụ nữ, trẻ em cũng là đối tượng phải

chịu nhiều thiệt thòi nhất. Qua hình tượng nhân vật ấy, người đọc thấy được tấm lòng

nhân đạo bao la của hai tác giả, đồng thời, thấy được khát khao giải phóng phụ nữ, trẻ

em của hai nhà văn.

2. Thạch Lam và R.Tagore là hai tác giả ở hai quốc gia khác nhau nhưng

những tư tưởng của văn hóa phương Đông đã ảnh hưởng trực tiếp đến tâm tư, tình

cảm của hai tác giả. Là những người nghệ sĩ chân chính, có quan niệm nghệ thuật tiến

bộ, hai ông có nhiều điểm tương đồng trong việc lựa chọn nội dung và đối tượng

phản ánh. Thạch Lam vốn sống trong cảnh nghèo khó từ thuở nhỏ, ông sống gần gũi

với tầng lớp bình dân nên thấu hiểu cuộc sống khổ cực của họ trong xã hội. Khác

Thạch Lam, R.Tagore xuất thân từ đẳng cấp quý tộc nhưng ông luôn hướng tới những

người nghèo hèn trong xã hội, luôn đứng về phía họ, bênh vực họ, đó có thể xem là

những biểu hiện vượt lên ý thức thời đại mà không phải ai cũng có được. Hai tác giả

dù có hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng đều gặp nhau ở tình cảm chân

thành đối với người nghèo khổ, trong đó đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em -

những nạn nhân cùng cực nhất của chế độ phong kiến hẹp hòi, những hủ tục lạc hậu,

khắc nghiệt.

86

3. Xây dựng hình tượng phụ nữ, trẻ em, hai tác giả đã miêu tả cuộc sống của

họ trong mối tương quan với cuộc sống xã hội và cuộc sống gia đình. Tình hình chính

trị có nhiều biến động, những tư tưởng phong kiến cũ còn tồn tại, song hành với nó tư

tưởng mới từ phương Tây du nhập vào, xã hội có sự “pha tạp”. Sống trong xã hội

biến động, nhiều luồng tư tưởng ấy, phụ nữ và trẻ em trở thành nạn nhân trực tiếp,

chịu nhiều thiệt thòi nhất.

Về hình tượng nhân vật phụ nữ: Thạch Lam và R.Tagore tập trung miêu tả vẻ

đẹp trong ngoại hình và phẩm chất của nhân vật. Đa số nhân vật phụ nữ trong truyện

ngắn của hai tác giả là hiện thân của sự bi thương. Họ luôn khao khát cuộc sống hạnh

phúc nhưng những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ đã không cho họ một cơ hội làm người

đúng nghĩa. Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam phần lớn cam chịu, hy

sinh, chưa dám đứng lên phản kháng, đấu tranh với những hủ tục trong xã hội. Đôi

khi, ý nghĩ giải thoát, tìm đến với hạnh phúc vụt thoáng trong ý thức nhưng sau đó,

mọi ý nghĩ lại tiêu tan, họ phải chôn vùi tuổi thanh xuân bằng cuộc sống mòn mỏi,

không lối thoát. Các nhân vật nữ trong truyện ngắn của R.Tagore có tính cách mạnh

mẽ hơn. Do ảnh hưởng của văn hóa họ trở thành góa phụ từ rất sớm, nên họ không

chỉ cam chịu mà bắt đầu có ý thức phản kháng, mặc dù theo các nói của ông, chỉ mới

như “những con kiến tỏ ra bạo dạn” nhưng đã báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá

nhân trong cuộc đấu tranh vì quyền sống của con người. Phải yêu, trân trọng và tin

tưởng con người như yêu chính bản thân mình thì Thạch Lam và R.Tagore mới có thể

thấy, đằng sau cuộc sống cơ cực, chịu nhiều bất công, ngang trái là những phẩm chất,

tính cách cao quý giống như sen trong đầm, dù dính bùn lầy nhưng thanh tao, thơm

ngát từ trong cốt cách.

Về hình tượng nhân vật trẻ em: Thạch Lam và R.Tagore ca ngợi sự trong sáng,

ngây thơ và tốt đẹp của chúng, bên cạnh đó cũng bày tỏ sự đau xót với những đứa trẻ

bất hạnh, bị tước đoạt tuổi thơ êm đẹp. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn Thạch Lam

rơi vào bất hạnh chủ yếu do cuộc sống mưu sinh, người ta không thể nghĩ rằng,

những đứa trẻ này lại bị áp lực nhân sinh đè nặng đến vậy, những hình ảnh ấy làm

người đọc ám ảnh không dứt. Thế giới trẻ thơ của R.Tagore được phản ánh ở nhiều

khía cạnh: đó là những đứa trẻ mồ côi, bơ vơ, không nhận được tình thương của gia

đình và xã hội. R.Tagore trăn trở với cuộc sống thực tại, lo âu cho từng số phận đang

phải sống trong một xã hội đầy rẫy những áp bức, bất công. Qua đó, hai tác giả bày tỏ

sự xót xa đối với những đứa trẻ bất hạnh, lên án chế độ thuộc địa gây ra bao đau khổ

cho con người, đồng thời đòi quyền được yêu thương cho trẻ em.

87

4. Nhìn từ phương thức biểu hiện, chúng tôi nhận thấy: nhân vật phụ nữ và trẻ

em được hai tác giả xây dựng từ ngoại hình đến tâm lý. Tuy sự xuất hiện của hai yếu

tố trên không phải lúc nào cũng đồng thời, cân bằng, có nhân vật chỉ được miêu tả rất

khái lược, ít ỏi, nhưng người đọc vẫn hình dung, vẫn thấy thân quen, họ chính là

những người phụ nữ và trẻ em thân thuộc trong cuộc sống hàng ngày bước ra từ

những trang văn. Để biểu đạt hình tượng ấy, hai nhà văn đã sử dụng giọng điệu trữ

tình với giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu tình yêu thương. Bên cạnh đó, giọng

điệu triết lý cũng được hai tác giả sử dụng với các mức độ khác nhau. Những trăn trở,

lo âu của Thạch Lam với con người, cuộc đời chủ yếu được ông bộc lộ suy nghĩ

thông qua tâm trạng của nhân vật. Còn R.Tagore, vốn là nhà hiền triết, những suy

nghĩ về con người, cuộc đời được ông lồng ghép đan xen vào câu chuyện một các tự

nhiên, đậm màu triết lý.

5. Tấm lòng và tài năng - hai yếu tố đó đã làm cho tác phẩm của Thạch Lam

và R.Tagore chịu được sự thử thách của thời gian vốn nghiêm khắc và công minh.

Các tác phẩm của hai ông viết cách đây đã hơn nửa thế kỷ nhưng những vấn đề được

đề cập đến trong tác phẩm vẫn vẹn nguyên giá trị: đó là tư tưởng “trọng nam khinh

nữ”, bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em, những vi phạm vào quyền sống của hạnh phúc

tuổi trẻ, những nỗi cay đắng oan uổng, các hủ tục lạc hậu... Ngày nay, con người vẫn

đang phải đối mặt trong xã hội hiện đại. Các tác phẩm dường như chỉ nói về sự kiện

một thời bão táp của lịch sử mà hôm nay ta vẫn thấy sự tương thông với chúng.

Chừng nào trên trái đất chúng ta vẫn còn những tai họa đối với con người, người đọc

còn nhớ đến tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore.

Để tạo ra những tác phẩm có khả năng tác động đến tình cảm và “thanh lọc”

tâm hồn con người, Thạch Lam và R.Tagore đã kết hợp hài hòa giữa cảm hứng hiện

thực và lãng mạn. Với những tác phẩm như vậy, mọi khám phá đều chưa hoàn kết,

vẫn còn là những vỉa đá ngầm tiềm ẩn bao lớp quặng quý, chờ người đi sau đặt những

mũi khoan.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt nam dưới thời Pháp đô hộ, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn.

2. Lại Nguyên Ân (1999), Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Lê Nguyên Cẩn (Chủ biên) (2006), Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong

nhà trường - Tagore, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

4. Phan Nhật Chiêu, Hoàng Hữu Đản (1991), Tagore - Người tình của cuộc đời,

NXB Hội Nhà văn.

5. Nguyễn Văn Dân (2011), Lý luận văn học so sánh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Đức Đàn (1998), Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa văn học Ấn Độ,

NXB Văn hóa.

7. Nguyễn Tấn Đắc (2000), Văn hóa Ấn Độ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Hà Minh Đức (chủ biên) (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

9. Đỗ Thu Hà (2005), Tagore - Văn và người , NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Rabindranath Tagore với thời kỳ Phục hưng Ấn Độ,

NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.

12. Lê Phụng Hoàng (2009), các bài giảng về lịch sử chế độ thực dân, Khoa Lịch sử

- Đại học Thành phố Hồ Chí Minh

13. Lê Thanh Huyền (2007), Thế giới nhân vật trong Mây và mặt trời - R.Tagore,

Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.

14. Lê Thanh Huyền (2009), “Truyện ngắn Tagore ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và

công nghệ, số 3.

15. J. Nehru (1999), Phát hiện Ấn Độ, tập 2, NXB Văn học Hà Nội.

16. Thạch Lam (2006), Hà Nội băm sáu phố phường, NXB Hội Nhà văn

17. Thạch Lam (2010), Gió lạnh đầu mùa, NXB Văn Học, Hà Nội.

18. Phong Lê (1988), Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học.

19. Vi Li (2013), Gặp Thạch Lam ở Cẩm Giàng, Báo Nhân dân hàng tháng, số ra

ngày 20/9/2013.

89

20. Hà Khúc Linh (2008), Anh em Nguyễn Tường Tam - Nhất Linh: Ánh sáng và

bóng tối, NXB Thanh niên.

21. Phương Lựu (2008), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội

22. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn, 2002), Truyện ngắn Thạch Lam - Tác phẩm và dư

luận, NXB Văn học, Hà Nội.

23. Lý Văn Nghĩa (2013), Giá trị nhân đạo trong tryện ngắn của Rabinđranath

Tagore, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học KHXH&NV Cần Thơ.

24. Nguyễn Minh Ngọc (2008), Đặc trưng phản ánh nghệ thuật của truyện ngắn

Thạch Lam, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Thái Nguyên.

25. Nhiều tác giả (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 - 1945, tập 5), NXB

Khoa học Xã hội.

26. Nhiều tác giả (1990) Tự lực Văn đoàn – Con người và văn chương, NXB Văn

học - Hà Nội

27. Nhiều tác giả (1996), Chuyên đề văn học Ấn Độ, Văn học nước ngoài, số 4.

28. Nhiều tác giả (1996) Tuyển tập truyện ngắn Ấn Độ hiện đại (3 truyện ngắn của

R.Tagore), NXB Trẻ.

29. Nhiều Tác giả (2001) Thạch Lam về tác gia và tác phẩm - NXB Giáo dục

30. Nhiều tác giả (2001),Văn học so sánh- Lý luận và ứng dụng, NXB Khoa học Xã

hội.

31. Nhiều tác giả (2002), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập III, NXB Đại học Sư phạm

Hà Nội.

32. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới.

33. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB Khoa học Xã hội.

34. Dương Phong (2012), Thạch Lam tuyển tập, NXB Văn học.

35. Phạm Thị Quyên (2013), Người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam, Luận văn

thạc sĩ, Đại học KHXH&NV Hà Nội.

36. R.Tagore (1986), Mây và mặt trời, NXB Văn học.

37. R.Tagore (2004), Tuyển tập tác phẩm, NXB Lao động, tập 2

38. Rơ- bin- đờ-ra-nát Ta-go-rơ (1961), Thơ kịch (Cao Huy Đỉnh, La Côn dịch, giới

thiệu), Nxb Thừa Thiên, Huế.

90

39. Trần Đăng Suyền (Chủ biên, 2010), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập 1,

NXB Đại học Sư Phạm Hà Nội, in lần 3.

40. Trần Đình Sử (1986), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục.

41. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

42. Hồ Thanh Tâm (2013), Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt

Nam thời kỳ 186 - 1945, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, trường Đại học sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh.

43. Tạp chí Văn học nước ngoài, số 11 và 12/2011, Hội Nhà văn Việt nam.

44. Nguyễn Thị Mộng Thơ (2011), Hình tượng nhân vật trẻ em trong sáng tác của

Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám 1945, Luận văn

Thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng.

45. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và

phụ nữ, số 3.

46. Lưu Đức Trung (1998) Vài nét truyện ngắn R.Tagore, Báo văn nghệ, số 26

47. Lưu Đức Trung (1998), Văn học Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

48. Lưu Đức Trung (2003), Bước vào vườn hoa văn học Châu Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Lưu Đức Trung (2004), R.Tagore - Tuyển tập tác phẩm, tập I, NXB Lao động và

Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

50. Lưu Đức Trung (2004), R.Tagore - Tuyển tập tác phẩm, tập II, NXB Lao động và

Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

51. Lưu Đức Trung, Đinh Việt Anh (1989), Văn học Ấn Độ, Lào, Campuchia, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Văn Trung (1963), Chủ nghĩa thực dân Pháp - Thực chất và huyền thoại,

Tập I - Văn hóa chính trị, Nam Sơn xuất bản, Huế.

53. Nguyễn Tuân (1988), Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học.

54. Hoàng Trần Vũ (2000), Thạch Lam của cái đẹp, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

55. Hồ ZDếnh - Với Thạch Lam, Tạp chí Sông Hương số 31/1988

II. Tài liệu tiếng Anh

56. R.Tagore (2010), Stories from Tagore, The Macmilan Company, New York.

91

III. Web site:

57. http://thuykhue.free.fr/stt/t/thlam01.html, 2004

58. http://tailieuvanhoc.net/cam-nhan-ve-nhung-em-be-trong-gio-lanh-dau-mua-

trong-long-me-bo-cua-xi-mong/2014

59. http://tapchivan.com/-hinh-tuong-nguoi-ba-trong-truyen-cua-m-gooc-ki-va-thach-

lam10/7/2016

60. http://vhoc.net/khai-quat-cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-nha-van-thach-lam/4/4/2015

92