VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ VÂN TRANG

PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH

THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ VÂN TRANG

PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH

THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

Ngành: Quản lý kinh tế

Mã số: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN PHƯỢNG LÊ

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số

liệu đã được sử dụng trong bản luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa

hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.

Tôi xin cam đoan rằng các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này

đã được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Tác giả

Tạ Thị Vân Trang

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Học viện Khoa

học xã hội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và

làm đề tài. Với những kiến thức đã được học và theo mong muốn nghiên

cứu, cùng với tình hình thực tiễn đặt ra, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển cây

cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững”

làm luận văn thạc sĩ của mình.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Phượng Lê,

người hướng dẫn khoa học, đã định hướng và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

làm đề tài.

Tôi cũng xin được trân trọng cảm ơn Sở Nông nghiệp và phát triển

nông thôn tỉnh Hòa Bình; Ủy ban nhân dân xã, huyện; Các cán bộ, hộ nông

dân đã giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra.

Do các giới hạn về kiến thức và thời gian nghiên cứu, chắc chắn luận

văn còn có những thiếu sót và hạn chế. Tôi mong nhận được sự chỉ dẫn, góp

ý, của thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn và

các quý vị đại biểu, xin kính chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt.

Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Tác giả

Tạ Thị Vân Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN

BỀN VỮNG ...................................................................................................... 7

1.1 Cơ sở lý luận ......................................................................................... 7

1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 21

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH...................................... 29

2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Cao phong, tỉnh Hòa Bình 29

2.2 Thực trạng phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh

Hòa Bình ................................................................................................... 37

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH THEO HƯỚNG

BỀN VỮNG .................................................................................................... 54

3.1 Quan điểm, định hướng phát triển cây cam ........................................ 54

3.2 Một số giải pháp phát triển cây cam trên địa bàn huyện cao Phong,

tỉnh Hòa Bình ............................................................................................ 55

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANLT: An ninh lương thực

BĐKH: Biến đổi khí hậu

BVTV: Bảo vệ thực vật

DN: Doanh nghiệp

GlobalGap: Global Good Agricultural Practice_Thực hành nông nghiệp tốt

toàn cầu

GTNT: Giao thông nông thôn

HĐND: Hội đồng Nhân dân

HTX: Hợp tác xã

HU: huyện ủy

KH&CN: Khoa học và công nghệ

KT-XH: Kinh tế - Xã hội

NN&PTNT: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NTM: Nông thôn mới

SX-KD: Sản xuất – Kinh doanh

UBND: Ủy ban Nhân dân

VietGAP: Vietnamese Good Agricultural Practices_Thực hành sản xuất

nông nghiệp tốt ở Việt Nam

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 Điều kiện thích hợp trồng cây có múi ............................................. 22

Bảng 1.2 Sản lượng Cam, quýt Việt Nam giai đoạn 2007-2016 .................... 27

Bảng 1.3 Chất lượng cảm quan, cơ lý và sinh hóa của cam Cao Phong ........ 38

Bảng 2.1 Diện tích, cơ cấu các loại đất năm 2010 và năm 2015 .................... 32

Bảng 2.2 Liều lượng phân bón đa lượng cần bón cho cây cam ...................... 43

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cao Phong là một trong số các huyện vùng cao của tỉnh Hoà Bình, có

đường ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bôi, phía tây giáp huyện Tân Lạc,

phía bắc giáp huyện Đà Bắc và thị xã Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc

Sơn, đều thuộc tỉnh Hoà Bình. Tuy là một huyện vùng cao nhưng trên địa bàn

huyện Cao Phong lại có ít núi cao. Nhìn chung, địa hình của huyện có cấu

trúc thoai thoải, độ dốc trung bình của đồi núi khoảng 10-15o, chủ yếu là đồi

dạng bát úp, thấp dần theo chiều từ đông nam đến tây bắc. Đa số các loại đất

ở Cao Phong có độ phì cao, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây khác

nhau, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả cũng như phát triển chăn nuôi. Khí

hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng mưa khá và tương đối điều hòa.

Việt Nam có dân số đông nên nhu cầu về số lượng, chủng loại cây ăn

quả là rất lớn. Đặc biệt là các loại quả có chất lượng cao như cam (trong các

loại cây ăn quả có múi thì giá trị hàng hoá của cam quýt cao hơn, do màu sắc

trái cây và vị ngọt hấp dẫn, lượng sinh tố dồi dào [1]. Hàm lượng Vitamin A

trong cam tới 0,465mg/100 g thịt quả, hơn hẳn nhiều loại khác như chuối

0,225mg, dứa 0,035mg, bơ 0,205 mg, ổi 0,075 mg, na 0,005 mg, sầu riêng

0,01 mg; Hàm lượng Vitamin B1 trong cam 0,09 mg, chuối 0,03 mg, xoài

0,06 mg, dứa 0,06 mg; Vitamin C trong cam 0,42 mg, chuối 0,14 mg, xoài

0,36 mg, dứa 0,22 mg, bơ 0,08 mg) phục vụ các vùng tập trung dân cư đông

và có mức sống cao như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí

Minh, Cần Thơ... Điều đó đã đặt ra cho ngành sản xuất hoa quả của nước ta

phải phát triển mạnh hơn, không những chỉ nhằm phục vụ nhu cầu trong nước

mà còn phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Quả cam quýt dùng để ăn tươi, làm

mứt, chế biến đồ hộp giải khát. Sản phẩm cam quýt còn được dùng nhiều

trong y học cổ truyền, trong công nghiệp thực phẩm, hoá mỹ phẩm...

1

Với địa hình, nguồn tài nguyên đất đai mầu mỡ và khí hậu trên, huyện

Cao Phong có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật

nuôi với nhiều hình thức canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau. Thực

hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cao Phong lần thứ XXVI, nhiệm kỳ

2010 - 2015, huyện xác định cây ăn quả là một trong những loại cây trồng chủ

lực và có tiềm năng lớn. Trong đó cây cam là một cây trồng chủ lực của

huyện Cao Phong, là cây góp phần mang lại thu nhập cao, ổn định cho người

dân trên địa bàn huyện. Theo thông báo của UBND huyện Cao Phong, vụ sản

xuất cam, quýt năm 2018-2019 toàn huyện Cao Phong có 3.015,6 ha cam,

quýt các loại, trong đó cam, quýt thời kỳ kinh doanh trên 1.344,6 ha, sản

lượng đạt trên 35.000 tấn heo thống kê, hiện tại bình quân 1 ha cam, quýt có

tổng giá trị thu nhập gần 600 triệu đồng, trừ chi phí người nông dân thu lãi

ròng đạt 2/3.

Tuy nhiên, phát triển cây Cam trên địa bàn huyện Cao Phong hiện nay

chưa bền vững. Việc phát triển cây Cam ở huyện Cao Phong, vẫn còn nhiều

vấn đề cần được đưa ra nghiên cứu giải quyết, đó là:

- Về mặt kinh tế: tăng trưởng không ổn định, đầu ra của sản phẩm chưa

ổn định. Diện tích trồng cam và sản lượng đang tăng lên nhanh chóng qua

mỗi năm nhưng không chủ động điều tiết được sản lượng cam hợp lý theo

mức cầu của thị trường, trong vụ thu hoạch thường xảy ra tình trạng cung

vượt quá cầu.

+ Công tác đăng ký thương hiệu hàng hoá, quản lý chất lượng sản phẩm

quả bằng thương hiệu còn nhiều bất cập. Chưa có sự đầu tư thoả đáng cho chế

biến. Thị trường tiêu thụ cục bộ, chất lượng thấp.

- Việc làm, thu nhập của người dân không ổn định, nguyên nhân: một

phần do nội lực của người dân còn hạn chế; một phần do sự quan tâm đầu tư

2

của Chính phủ đối với nhân dân như: Công tác đào tạo; ứng dụng chuyển giao

khoa học công nghệ; hỗ trợ về SX, thương mại…còn hạn chế;

- Về môi trường, sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường do khả năng

tiếp cận khoa học công nghệ phục vụ sản xuất và vai trò trách nhiệm của mỗi

cá nhân đối với cộng đồng còn hạn chế, dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc bảo

vệ thực vật bừa bãi, thiếu khoa học, gây ảnh hưởng không tốt đến vệ sinh an

toàn thực phẩm, sức khỏe con người và môi trường sinh thái.

Việc nghiên cứu đề tài “Phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao

Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững” sẽ góp phần giải quyết các vấn

đề nêu trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thời gian qua đã có một số công trình, báo cáo đánh giá, bài viết

liên quan đến đề tài nêu trên với mục đích phát triển cây ăn quả nói chung và

cây cam nói riêng theo hướng bền vững.

Có thể điểm qua một số văn bản, công trình, bài viết tiêu biểu như:

* Công trình, bài viết về cây ăn quả:

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, “Phát triển cây có múi bền

vững”. Cuốn sách giới thiệu kỹ thuật trồng, chăm sóc các loại cây có múi, áp dụng

biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp và sản xuất hữu cơ chính là nền tảng sản xuất

cây có múi bền vững. Sản xuất bền vững để giữ cân bằng sinh thái nông nghiệp.

- Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát

triển cây ăn quả theo hướng bền vững trên địa bàn huyện lục ngạn tỉnh Bắc

Giang”, luận văn thạc sĩ trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại

học Thái Nguyên. Tôi đã phân tích thực trạng sản xuất, phát triển cây ăn quả

theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Lục Ngạn từ đó đưa ra một số giải pháp

nhằm phát triển cây ăn quả theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Lục Ngạn.

* Công trình, bài viết về cây cam:

3

- Nguyễn Đăng Thực (2009), “Các giải pháp phát triển sản xuất cây

cam Canh trên địa bàn huyện Đan Phượng - Thành phố Hà Nội”, luận văn

thạc sĩ kinh tế trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội. Luận văn đã hệ thống

hóa những vấn đề lý luận chủ yếu về phát triển sản xuất cây cam Canh, đánh

giá thực trạng sản xuất cây cam canh và xác định tiềm năng phát triển sản

xuất cây cam Canh từ đó đưa ra những giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm tiếp

tục phát triển sản xuất cây cam Canh một cách hợp lý trên địa bàn huyện Đan

Phượng - Thành phố Hà Nội.

- Nguyễn Thị Phương Loan, Trần Thị Tuyết Thu, Đặng Thanh An

(2016), “Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam tại huyện

Cao Phong, tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học

Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 1S (2016) 260-266. Nghiên cứu trên đã

tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam theo phương thức

thâm canh truyền thống và theo VietGAP để làm cơ sở cho việc phát triển bền

vững cây cam ở Cao Phong.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là đánh giá thực trạng phát triển cây

cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình. Trên cơ sở đó xây dựng

những quan điểm, phương hướng có cơ sở khoa học để đề ra một số giải pháp

khả thi cho việc phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa

Bình theo hướng bền vững.

3.2 Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Hệ thống hoá các vấn đề khoa học về phát triển khi đánh giá tăng trưởng,

phát triển kinh tế nói chung và cây cam theo quan điểm bền vững.

4

- Nghiên cứu đánh giá thực trạng về kết quả, hiệu quả kinh tế và phát triển

cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao

Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung vào nghiên cứu về những vấn đề làm gì để phát triển cây

cam; những tác động từ các chính sách của Nhà nước đến phát triển cây cam theo

hướng bền vững.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

4.2.1 Phạm vi về không gian Trong quá trình nghiên cứu đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát

triển cây cam và các chính sách nhằm phát triển cây cam trên địa bàn huyện

Cao Phong theo hướng bền vững.

4.2.2 Phạm vi về thời gian Các số liệu chung được tập hợp trong giai đoạn từ năm 2015-2019.

Các số liệu điều tra kinh tế hộ thực hiện trong năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận

Luận văn đưa ra một số khái niệm, nội dung cơ bản về phát triển bền

vững và các yếu tố chủ yếu phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững qua đó

thấy được ý nghĩa của việc phát triển cây ăn quả theo hướng bền vững.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê, tổng hợp tài liệu: nhằm thống kê, tổng hợp các

tài liệu hiện có về phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững đối với

cây ăn quả có múi nói chung và cây cam nói riêng;

5

- Phương pháp kế thừa: Tổng hợp và kế thừa các kết quả nghiên cứu hiện

có về phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững đối với cây cam hiện có tại

Việt Nam;

- Phương pháp thu thập thông tin và hồi cứu số liệu: thông tin sẽ được

thu thập qua nhiều kênh khác nhau như mạng internet, hệ thống các thư viện

thuộc các trường, viện nghiên cứu và các bộ/ngành, báo chí và phương tiện

truyền thông đại chúng

- Phương pháp phân tích kinh tế và đánh giá tổng hợp: Sau khi có đầy đủ

các thông tin, tiến hành phân tích và đánh giá tổng hợp để đưa ra những đề

xuất phù hợp;

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn tiếp cận vấn đề phát triển cây cam theo hướng bền vững từ góc

độ của chuyên ngành Quản lý kinh tế, một góc độ tiếp cận hoàn toàn khác so

với các nghiên cứu trước đây. Cụ thể là:

- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về phát triển cây cam theo hướng bền vững.

- Luận văn tập trung vào nghiên cứu tình hình phát triển cây Cam, trên cơ sở

điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình sản xuất, tại một số vùng trên địa

bàn huyện, rút ra những nhận xét, kết luận và đề suất một số giải pháp khả thi

nhằm phát triển cây cam theo hướng bền vững cho huyện Cao Phong.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững.

Chương 2: Thực trạng phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong,

tỉnh Hòa Bình.

Chương 3: Một số giải pháp phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao

Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững.

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1.1 Cơ sở lý luận

1.1.1 Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1 Khái niệm về cây cam

Cây cam thuộc họ cam Rutaceae, họ phụ cam quýt Aurantiodeae,

chi Citrus có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Châu á.

Họ cam Rutaseae bao gồm cam, bưởi, chanh, quýt. Cam là loại quả cao cấp

có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Trong thành phần thịt quả có 6-

12% đường (chủ yếu đường Saccaroza) hàm lượng Vitamin C từ 40-

90mg/100g tươi, các axit hữu cơ từ 0,4 đến 1,2%, trong đó có nhiều loại axit

có tính sinh học cao cùng với các khoáng chất và tinh dầu thơm. Quả dùng để

ăn tươi, làm mứt, nước giải khát và chữa bệnh. Tinh dầu cất từ vỏ quả, lá, hoa

được dùng nhiều trong công nghiệp thực phẩm và chế mỹ phẩm.

Cây cam là loài cây lâu năm, được phát triển qua 2 giai đoạn: kiến

thiết cơ bản và kinh doanh. Giai đoạn kiến thiết cơ bản thường kéo dài từ 3-4

năm chỉ có chi phí và chưa có thu hoạch. Nếu giai đoạn này nếu được đầu tư

chăm sóc đúng mức chẳng những rút ngắn được giai đoạn kiến thiết cơ bản

mà còn cho năng suất cao và kéo dài giai đoạn kinh doanh. Giai đoạn kinh

doanh dài, ngắn với năng suất và sản lượng tăng dần theo tuổi cây và mật độ

trồng đến đỉnh cao rồi lại giảm dần. Giai đoạn kinh doanh dài hay ngắn tùy

thuộc vào giống cây ăn quả và mức đầu tư thâm canh. Nhìn chung, cây cam

đều phải trải qua giai đoạn non trẻ, thời kì thuần thục và cuối cùng là già cỗi.

Tương ứng với các giai đoạn này là các thời kì mà cả quá trình sinh trưởng

lẫn ra hoa kết quả cũng dần ngưng lại. Từ đặc điểm này, khả năng tạo ra sản

phẩm có giá trị kinh tế của cây cam chịu sự chi phối của môi trường khác

nhau ở các giai đoạn và sự đầu tư thâm canh ở các giai đoạn cũng khác nhau.

7

1.1.1.2 Khái niệm về phát triển

Trong thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội, “Phát triển” được

biểu hiện dưới nhiều quan niệm và trạng thái khác nhau; song tựu chung lại

“Phát triển” được hiểu là một thuật ngữ chứa đựng các chỉ tiêu phản ánh kết

quả gia tăng, tiến bộ, sau quá trình vận động biến đổi của một hay nhiều hoạt

động Kinh tế - Xã hội trong một giai đoạn, một thời kỳ nhất định. Phát triển

kinh tế là kết quả gia tăng về số lượng, quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ,

sự tiến bộ về chất lượng, cơ cấu kinh tế xã hội.

Theo Gerard Crellet thì “Phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thoả

mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản” [19]. Tác giả Raaman Weitz

cho rằng “Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng mức sống của

con người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã

hội”. Với Ngân hàng Thế giới, phát triển với ý nghĩa rộng hơn bao gồm

những thuộc tính có liên quan đến hệ thống giá trị của con người đó là: “Sự

bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do công dân...”.

Phát triển là một khái niệm chung song mỗi chủ thể kinh tế, hoạt động

kinh tế đều có riêng một tiêu trí phát triển dựa theo khả năng, trình độ và công

nghệ của từng chủ thể. Kết quả phát triển Kinh tế - Xã hội mang lưỡng tính,

gồm cả chủ quan và khách quan vì: Khi một chủ thể kinh tế xây dựng kế

hoạch phát triển đều phải phải căn cứ vào các điều kiện chủ quan, khách quan ở

quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời trong quá trình vận động biến đổi chúng

luôn ảnh hưởng và chi phối một cách chặt chẽ với nhau; mặt khác, trong mối liên

hệ xã hội chủ thể này luôn là yếu tố khách quan của chủ thể kia.

1.1.1.3 Khái niệm về phát triển bền vững

Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc

tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International

Union for Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu

của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ

8

các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập

tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt

sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.

Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế

giới về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment

and Development) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa

là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương

khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn

tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá

trình phát triển. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu

các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm

năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988,

GS. Grima Lino).

Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng

đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil)

năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về

Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002:

"Phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài

hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng

kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói

giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc

phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy

và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời

sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc

nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần

9

thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng

đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de

Janeiro đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát

triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu

của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu

của thế hệ tương lai”.

Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba

bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công

bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên

được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức

cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả

“ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.

Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có

được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở

thành mục tiêu thiên niên kỷ.

1.1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển bền vững

Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn,

chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống

kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều

kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các

hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở

đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung

mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái

cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.

Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản:

Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua

công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ

10

không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong

tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là,

xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công

nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng).

Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1)

Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu

nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp

càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện

hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có

biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí

đánh giá phát triển bền vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch

vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền

vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không

chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí,

như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã

hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống

xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng

giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại;

chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.

Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người

(HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân

đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về

văn hóa, văn minh.

Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn

cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho

tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống

11

chấp nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính:

Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị;

Hai là, giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng

cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng

giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của

công chúng vào các quá trình ra quyết định.

Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng

nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực

đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng

các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được

bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian

địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và

thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc

quốc tế.

Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường

và cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường

đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự

khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục

đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất

định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các

sinh vật sống trên trái đất.

Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là,

sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là,

phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa

dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí

nhà kính; Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm

12

thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải

thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…

1.1.3 Các yếu tố chủ yếu phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững

Có thể chia những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông nghiệp

thành bốn nhóm sau đây:

Thứ nhất, những yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên

Trong các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên, nhân tố đầu tiên phải kể

đến đó là điều kiện đất đai. Các tiêu thức của đất đai cần được phân tích, đánh

giá về mức độ thuận lợi hay khó khăn cho sản xuất hàng hoá trong nông

nghiệp là: Tổng diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp; đặc điểm về chất đất

(nguồn gốc đất, hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong đất, khả năng mà

cây trồng các loại có thể sử dụng các chất dinh dưỡng đó, độ PH của đất...);

đặc điểm về địa hình, về cao độ của đất đai.

Điểm cơ bản cần lưu ý khi đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn của

đất đai là phải gắn với từng loại cây trồng cụ thể. Rất có thể một đặc điểm nào

đó của đất đai là khó khăn cho phát triển loại cây trồng này, nhưng lại là

thuận lợi cho phát triển loại cây khác.

Đồng thời cũng cần xem xét trong từng thời vụ cụ thể trong năm về ảnh

hưởng của đất đai đốivới sản xuất một loại cây trồng cụ thể.

Đối với sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, đất đai tuy thường được

xem xét trước, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó đến sản xuất hàng hoá không

mang tính quyết định bằng điều kiện khí hậu. Những thông số cơ bản của khí

hậu như: Nhiệt độ bình quân hàng năm, hàng tháng; nhiệt độ cao nhất, thấp

nhất hàng năm, hàng tháng; lượng mưa hàng năm, hàng tháng; lượng mưa

bình quân cao nhất, thấp nhất; độ ẩm không khí; thời gian chiếu sáng, cường

độ chiếu sáng; chế độ gió; những hiện tượng đặc biệt của khí hậu như sương

muối, mưa đá, tuyết rơi, sương mù... đều phải được phân tích, đánh giá về

mức độ ảnh hưởng đến phát triển của từng loại cây trồng cụ thể.

13

Ngoài đất đai và khí hậu, nguồn nước cũng cần được xem xét. Nguồn

nước bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, hoặc khả năng đưa nước từ nơi

khác đến vùng sản xuất mà chúng ta đang xem xét.

Tóm lại, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên được xem như cơ sở tự

nhiên của phân công lao động trong nông nghiệp. Đa phần những chuyên môn

hoá theo vùng trong nông nghiệp cho đến thời đại ngày nay đều xuất phát từ

sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, trong đó chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt

về khí hậu và nguồn nước. Chính vì vậy, đối với phát triển nông nghiệp, đòi

hỏi phải nghiên cứu tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt,

thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Mặt khác, sự khác biệt về

điều kiện tự nhiên giữa các vùng lãnh thổ đã hình thành nên các vùng cây con

đặc sản có lợi thế cạnh tranh rất cao. Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh

hưởng đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, cần phải nghiên cứu để tận dụng

tối đa điều kiện tự nhiên trong sản xuất hàng hóa nông nghiệp.

Thứ hai, các chủ thể sản xuất

Hiện nay, các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp là các doanh nghiệp và

phần đông là các hộ nông dân. Một thực trạng là điều kiện sản xuất của các

chủ thể, nhất là các hộ nông dân còn rất non yếu.. Tiến hành sản xuất, kinh

doanh trong điều kiện mới, các chủ thể sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều

khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường… Để sản xuất nông nghiệp phát triển,

mang tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, nhà nước cần phải tiếp tục

hỗ trợ cho người nông dân trên nhiều lĩnh vực nhằm phát huy hết vai trò chủ

thể trong sản xuất nông nghiệp.

Thứ ba, yếu tố về thị trường

Do sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp có mục đích chính là sản xuất

ra nông sản hàng hoá, nên điều kiện về thị trường giữ vị trí quyết định đến sự

tồn tại và phát triển của người sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Thị

trường vừa là điều kiện, vừa là môi trường của kinh tế hàng hóa; nó thừa nhận

14

giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, khối lượng nông sản hàng hóa tiêu thụ

trên thị trường, nó điều tiết (thúc đẩy hoặc hạn chế) quan hệ kinh tế của cả

người quản lý, nhà sản xuất và người tiêu dùng thông qua tín hiệu giá cả thị

trường. Chính giá cả thị trường sẽ cung cấp tín hiệu, thông tin nhanh nhạy để điều

tiết hành vi kinh tế của các chủ thể kinh tế sao cho có lợi nhất. Thông qua sự vận

động của giá cả, thị trường có tác dụng định hướng cho người sản xuất điều chỉnh

quy mô sản xuất, thay đổi mặt hàng, thay đổi kỹ thuật sản xuất cho phù hợp với

nhu cầu của thị trường. Thị trường ngày càng phát triển sẽ góp phần làm cho sản

phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú. Thị trường cũng lựa chọn, đòi

hỏi cao về số lượng và chất lượng, phong phú về chủng loại nông sản hàng hóa.

Điều kiện về thị trường bao gồm cả thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất

nông nghiệp và thị trường sản phẩm đầu ra.

Thị trường đầu vào bao gồm đất đai, lao động, khoa học, công nghệ sản

xuất, vốn... trong đó đặc biệt là thị trường đất và lao động.

- Trong nông nghiệp, đất đai tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ra

sản phẩm, nó là đối tượng lao động không thể thay thế được; hiệu quả của sản

xuất nông nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng đất đai. Việc cho phép

nông dân được quyền sử dụng đất sản xuất lâu dài thì nguồn tài nguyên đất

đai mới sử dụng có hiệu quả, được bảo vệ và phát triển độ màu mỡ trong quá

trình khai thác, phát huy hết khả năng kinh doanh nông nghiệp của mình. Mặt

khác, quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến đất đai vận động

theo hướng tập trung, hình thành nên các trang trại, đồn điền, có quy mô sản

xuất hàng hóa phù hợp, đem lại lợi nhuận cao.

Bên cạnh đó, với các điều kiện khác như nhau, nếu chỉ tiêu đất đai nông

nghiệp, đất canh tác trên một nhân khẩu, một lao động càng cao, sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông

nghiệp hình thành và phát triển. Chỉ tiêu này không hoàn toàn cố định, nó

15

không phải là điều kiện bất biến như các điều kiện tự nhiên, nó chịu sự tác

động mạnh mẽ của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật. Trong quá trình công nghiệp

hoá, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, sẽ làm tăng chỉ tiêu đất

đai bình quân một nhân khẩu, hay một lao động. Đồng thời, tiến bộ của khoa học

và công nghệ cũng sẽ làm cho chỉ tiêu này ngày càng ít quan trọng hơn đối với

sản xuất hàng hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.

- Cũng như đất đai, sức lao động là một trong hai yếu tố cơ bản cấu

thành quá trình sản xuất và tái sản xuất nông nghiệp. Mở rộng thị trường lao

động chính là môi trường tạo nên sự chuyển dịch người lao động từ nơi thừa

đến nơi thiếu, từ việc làm không hiệu quả sang việc làm có hiệu quả hơn, tạo

điều kiện để phân bố sức lao động hợp lý, phù hợp với khả năng, trình độ của

người lao động trong nông nghiệp. Chính sự phân công lao động và chuyên

môn hóa lao động trong nông nghiệp là cơ sở và là điều kiện để hình thành và

phát triển nông nghiệp hàng hóa. Thị trường lao động có được phát triển hay

không, nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào trình độ dân trí, khả năng lao

động, kỹ năng nghề nghiệp, tính chất cần cù, thông minh… của người lao

động. Trên trực tế, trình độ của người sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp

hàng hóa phải cao hơn người sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế tự nhiên,

biểu hiện họ là những người dám kinh doanh làm giàu cho mình và cho xã

hội, họ dám bỏ sức lực và tiền của vào sản xuất loại hàng hóa có hiệu quả

nhất. Để thực hiện điều đó, người sản xuất cần phải có những kiến thức cơ

bản về khoa học - công nghệ, về quản trị kinh doanh, biết tiếp cận và nghiên

cứu thị trường, nhận biết nhu cầu của thị trường, từ đó biết lựa chọn những

cây, con nào được người tiêu dùng đánh giá cao và có sức mua lớn.

- Khoa học - công nghệ cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong

việc thúc đẩy quá trình chuyển từ nền nông nghiệp tự cung, tự cấp sang nền

16

nông nghiệp hàng hóa. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ có vai

trò ngày càng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển sản xuất hàng

hoá nông nghiệp. Nhận định đó được thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu

sau đây:

Những tiến bộ trong khâu sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi

mới. Các loại giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt cho

phép tăng qui mô sản lượng hàng hoá mà không cần mở rộng diện tích trong

nông nghiệp. Các loại giống mới có sức kháng chịu dịch bệnh cao giúp ổn

định năng suất cây trồng, vật nuôi; ổn định sản lượng sản phẩm hàng hoá.

Đặc biệt, trong công nghệ ghép mắt của cây trồng đã trưởng thành vào

gốc cây trồng non đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các vùng chuyên

canh cây trồng dài ngày mau chóng cho sản phẩm, rút ngắn thời kỳ kiến thiết

cơ bản của vườn cây, ổn định tính năng di truyền những phẩm chất tốt của cây

cung cấp mắt ghép, đồng thời lại có sức sinh trưởng cao của gốc cây non. Với

công nghệ mới đó, các loại cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp dài ngày

đang có những bước tăng trưởng cao trong những năm gần đây. Bên cạnh

những tiến bộ trên về công tác giống, còn phải kể đến xu hướng lai tạo, bình

tuyển các giống cây trồng cho sản phẩm phù hợp với kinh tế thị trường: Chịu

được va đập trong quá trình vận chuyển, giữ được độ tươi ngon dài hơn trong

quá trình vận chuyển. Có thể nói xu thế tuyển tạo các loại giống phù hợp với

yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không lưu ý đến khả

năng chịu được những tác động của sự vận chuyển sản phẩm đi xa, trong thời

gian ngày càng dài hơn. Bên cạnh tiến bộ công nghệ trong sản xuất cây con

mới, hệ thống qui trình kỹ thuật tiên tiến cũng được hoàn thiện và phổ biến

nhanh đến người sản xuất nông nghiệp.

Sự phát triển của qui trình công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm

đang tạo ra những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển sản phẩm đi

17

tiêu thụ tại những thị trường xa xôi. Điều đó cũng đã có ý nghĩa to lớn để mở

rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của từng vùng chuyên canh, xét về không

gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở vùng lân cận quanh

vùng chuyên môn hoá, thì nay sản phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị

trường cách vùng sản xuất hàng ngàn, hàng vạn km nhờ công nghệ bảo quản

và chế biến nông sản tiên tiến.

Đồng thời, cuộc cách mạng trong lĩnh vực này cũng tạo điều kiện để mở

rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của vùng chuyên môn hoá xét về thời gian.

Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một khoảng thời gian ngắn vào

thời vụ thu hoạch, thì nay, ngày càng có điều kiện để tiêu thụ nông sản loại

nào đó ngày càng dài hơn, thậm chí là quanh năm. Công nghệ chế biến cũng

mở rộng thị trường nông sản vùng chuyên canh, làm đa dạng hoá sản phẩm

tiêu dùng cuối cùng. Trong nghiên cứu công nghệ chế biến nông sản, cần

hướng tới những mục tiêu cụ thể như, đa dạng hoá sản phẩm tiêu dùng cuối

cùng, kéo dài thời gian tiêu dùng sản phẩm trong năm, tăng dung lượng sản

phẩm nông nghiệp được tiêu thụ..., ngoài mục tiêu truyền thống là tăng giá trị

nông sản thông qua quá trình chế biến.

- Trong nền sản xuất hàng hóa, vốn cũng là một trong những yếu tố quan

trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh. Vốn ở đây được xét theo nghĩa hẹp,

nó được biểu hiện một lượng tiền mặt nào đó, nó có thể biến thành một nguồn

lực cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh. Do đó, vốn và việc sử dụng

vốn có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đối với

doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hoặc hộ nông dân, muốn nâng cao trình

độ sản xuất hàng hóa thì không những cần có lượng vốn đầu tư đủ lớn mà

quan trọng là cần phải biết cách nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn.

Nhưng trên thực tế cả hai vấn đề này các chủ thể sản xuất kinh doanh trong

nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; hộ nông dân là những người có ít vốn

18

đầu tư, trình độ sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý thấp. Do vậy, muốn

đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp hàng hóa đòi hỏi phải có sự đầu tư

hỗ trợ của Tỉnh thông qua hệ thống tài chính, tín dụng và các hình thức huy

động vốn khác. Có như vậy mới tạo ra sự đột phá để đẩy nhanh sự phát triển

nông nghiệp hàng hóa.

Thị trường đầu ra: Việc xây dựng thị trường đầu ra cho nông nghiệp

hàng hóa là cơ sở để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Trong nền sản

xuất hàng hóa, sản phẩm sản xuất ra là nhằm để bán và trao đổi trên thị

trường. Do vậy, điều kiện cơ bản để các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp

tiến hành hoạt động kinh doanh của mình là phải xác định được thị trường đầu

ra, tìm kiếm được khách hàng và lựa chọn được phương thức tiêu thụ sản

phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp rất đa dạng và phong

phú, đó có thể là các doanh nghiệp công nghiệp (các cơ sở công nghiệp chế

biến nông sản), các doanh nghiệp thương mại (các nhà bán buôn, bán lẻ, các

đại lý...) và những người tiêu dùng, nông lâm sản thông qua các chợ, các đại

lý tiêu thụ, các cơ sở chế biến công nghiệp tiêu thụ ở thị trường các tỉnh lân

cận và nước ngoài thông qua các nhà xuất khẩu các hợp đồng kinh tế, khả

năng khai thác và mở rộng thị trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh nông

nghiệp là nhân tố hết sức quan trọng quyết định quy mô và trình độ phát triển

nông nghiệp hàng hóa.

Thứ tư, nhóm nhân tố thuộc về thể chế, chính sách kinh tế vĩ mô

Chính sách kinh tế vĩ mô có ý nghĩa tạo ra môi trường kinh doanh để

hình thành nền nông nghiệp hàng hóa. Vì thế, nếu chính sách đúng đắn, thích

hợp nó sẽ phát huy được tính năng động của các chủ thể sản xuất - kinh

doanh, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy sự

phát triển nông nghiệp hàng hóa; ngược lại nếu các chính sách kinh tế vĩ mô

của không đúng đắn, không thích hợp nó sẽ trở thành yếu tố kìm hãm sự phát

19

triển nông nghiệp hàng hóa, thông qua các chính sách để điều tiết thị trường

theo định hướng xã hội chủ nghĩa như:

Chính sách đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách khoa học-

công nghệ, chính sách tiêu thụ nông sản... Các chính sách này vừa tạo điều

kiện phát triển sản xuất, vừa tạo điều kiện thu hút, đầu tư để thúc đẩy sự hình

thành và phát triển nông nghiệp hàng hóa.

Phát triển khoa học- công nghệ, cung cấp dịch vụ thông tin, đầu tư xây

dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (hệ thống đường giao thông, điện, thủy lợi, hệ

thống thông tin liên lạc...), cung cấp vốn, tín dụng… là nhân tố không thể

thiếu được để nền nông nghiệp hàng hóa phát triển bền vững.

Tóm lại, các nhóm yếu tố nêu trên cùng thúc đẩy phát triển kinh tế nông

nghiệp bền vững, trong mỗi nhóm yếu tố đều có mặt tích cực riêng song nếu

giải quyết không đồng bộ thì sản xuất hàng hoá hoặc không phát triển được

hoặc không bền vững.

1.1.4 Ý nghĩa của việc phát triển cây ăn quả theo hướng bền vững

Phát triển bền vững cây ăn quả giữ một vai trò quan trọng, không thể

tách rời trong phát triển nông nghiệp bền vững. Sản xuất và phát triển cây ăn

quả đã chuyển hoá được những khó khăn về địa hình thổ nhưỡng của một

vùng đất thành tiềm năng lợi thế mang lại lợi ích cho con người, trong khi loại

đất đó nếu trồng những cây trồng khác mang lại hiệu quả kinh tế thấp hoặc

không mang lại hiệu quả kinh tế.

Sản xuất và phát triển cây ăn quả là điều kiện tạo ra việc làm và thu nhập

cho người lao động, tăng trưởng GDP, từng bước góp phần phát triển công

nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và đô thị hoá nông thôn. Đồng thời

tham gia tích cực vào chương trình quốc gia về phủ xanh đất trống đồi trọc,

tăng độ che phủ đất, cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái.

20

1.2. Kinh nghiệm thực tiễn

1.2.1 Một vài nét về phát triển cây ăn quả trên thế giới

1.2.1.1 Sản lượng cây ăn quả của một số nước trên thế giới

Sản xuất quả có múi (Citrus) trên thế giới vẫn tăng do giá trị kinh tế, giá

trị dinh dưỡng cao và do tăng trưởng thu nhập của các nền kinh tế mới nổi.

Tổng sản lượng quả có múi hàng năm trên thế giới dao động vào khoảng 123

- 131 triệu tấn trong giai đoạn 5 năm từ 2011 đến 2016 (FAO, 2017), trong đó

cam chiếm trên 50% tổng sản lượng. Sản xuất quả Citrus vẫn đang tiếp tục

tăng do thu nhập của người dân ở một số quốc gia tăng nhanh như Trung

Quốc, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, các nước Đông Âu, các nước ASEAN...

Trung Quốc vươn lên chiếm vị trí thứ 2 về sản lượng quả có múi, chỉ sau

Brazil. Ở Trung Quốc, diện tích và sản lượng quả có múi liên tục tăng trong

suốt 40 năm qua. Năm 2008, tổng sản lượng quả có múi ở Trung Quốc lục địa

là khoảng 21,7 triệu tấn, 5 năm sau (2013) sản lượng tăng lên 34,3 triệu tấn;

năm 2016 đạt khoảng 32,7 triệu tấn (trong đó chủ yếu là quýt). Bình quân

khoảng 23,7 kg/người với dân số 2016 vào khoảng 1,379 tỷ người (FAO,

2017).

Tiêu thụ cam toàn cầu đạt 71,416 triệu tấn trong năm 2015. Từ năm

2007 đến 2015, mức tăng trưởng đáng chú ý nhất về tiêu thụ cam đã đạt được

ở Trung Quốc (tăng trung bình 11%/năm). Sự gia tăng mức sống ở Trung

Quốc đã thúc đẩy nhu cầu về một chế độ ăn uống đa dạng và bổ dưỡng, dẫn

đến sự gia tăng nhập khẩu trái cây. Trong 8 năm gần đây, lượng nhập khẩu

trái cây vào Trung Quốc tăng hơn 3 lần lên 3,8 triệu tấn năm 2015, trong đó

có nhập khẩu cam. Sự gia tăng nhập khẩu chủ yếu đến từ vùng nhiệt đới và

nam bán cầu.

Mexico là một cường quốc sản xuất và xuất khẩu quả có múi; nằm ở vĩ

độ Bắc 10o - 24o, có vị trí địa lý, khí hậu tương tự với Việt Nam. Mexico ở sát

21

nước lớn là Mỹ, Việt Nam ở sát Trung Quốc. Cả Mỹ và Trung Quốc là 2

nước lớn hàng đầu trong sản xuất, tiêu thụ và nhập khẩu quả có múi. Sản

lượng quả có múi của Mexico năm 2016 là 6,634 triệu tấn; với dân số xấp xỉ

130 triệu người. Bình quân sản lượng quả có múi vào khoảng 51,0 kg/người.

Diện tích trồng cam cả nước không thay đổi trong 10 năm (2000 - 2010), tổng

diện tích là 342.000ha, sản xuất mỗi năm khoảng 4,1 triệu tấn cam; chỉ sau

Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ. Niên vụ 2016/2017, Mexico sản xuất khoảng

4,3 triệu tấn cam, năng suất trung bình toàn quốc khoảng 14,3 tấn/ha. [19]

1.2.1.2 Kinh nghiệm về phát triển cây cam, quýt của các nước trong khu vực và trên thế giới

Bảng 1.1 Điều kiện thích hợp trồng cây có múi

Yêu cầu sinh trưởng Tối ưu 23 - 29 ( o C )

12 - 39oC , (totb > 15 oC ) (Bưởi chịu

rét tốt hơn)

- Độ ẩm: Đất: 60%; K.khí: 70-80% - Đất đủ ẩm trong mùa hè, hạn nhẹ tháng 12-2.

- Ưa ẩm,chịu hạn yếu, rất sợ úng (Bưởi chịu úng, hạn tốt hơn) - Lượng mưa/ năm:1500-2500 mm - Ưa đầy đủ ánh sáng (Cần ánh sáng khác nhau: Cam, Bưởi>Quýt >Chanh )

Yếu tố Nhiệt độ Ẩm độ Ánh sáng -Nhiều ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ.

- Hầu hết các loại đất, pH: 4 - 8, trừ đất sét nặng (phù sa, bồi tụ, rừng mới khai phá,...) - Mực nước ngầm sâu hơn 80 cm

Đất đai

Gió - Hạn chế gió bão lớn và gió Tây nóng.

- Đất tương đối bằng phẳng, xốp nhẹ, nhiều màu, - Tầng đất dày > 1m, thoát nước tốt, pH: 5,5 - 6 - Tốc độ gió vừa phải - Nên có đai phòng hộ

rừng

(Nguồn: Sách Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cam an toàn theo VietGAP)

* Kinh nghiệm chung

22

Khuyến khích sản xuất ra nông sản hàng hóa: Chính phủ Đài Loan

khuyến khích nông dân hình thành các vùng chuyên canh các loại nông sản

hàng hóa có giá trị kinh tế cao như vùng chuyên rau, vùng chuyên cây ăn quả,

vùng trồng hoa cây cảnh xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan mở rộng các vùng

sản xuất nông sản hàng hóa ở các vùng ngoại vi.

Trợ giá đầu vào cho nông dân: ở các nước phát triển tuy ngân sách dành cho

nông dân hạn hẹp nhưng hầu hết các chính phủ đều trợ giá đầu vào cho nông

dân. Các nước này đều cho rằng đại bộ phận nông dân là những người sản

xuất nhỏ, thiếu vốn để mua vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, do đó cần có

sự hỗ trợ của Nhà nước.

Về khuyến nông: Nông dân không thể tiếp thu chính xác các tiến bộ về

kỹ thuật canh tác nếu không có trình độ văn hóa và không có sự hướng dẫn

thường xuyên của cơ quan khuyến nông.

Về bảo quản chế biến: Các nước đều cho rằng sản xuất nông nghiệp

hàng hóa không thể phát triển nếu bảo quản và chế biến không tiêu chuẩn hóa,

vì phần lớn nông sản là những sản phẩm dễ hỏng, do đó Chính phủ ở các

nước đã có chính sách hỗ trợ để hiện đại hóa trang thiết bị bảo quản, phát

triển công nghệ sau thu hoạch và phát triển cơ sở chế biến.

Về tiêu thụ sản phẩm, giá cả và thị trường: Các nước đang phát triển đều

cho rằng, sản xuất nhỏ phân tán và manh mún ở các hộ gia đình là nguyên

nhân gây ra sự không đồng đều về sản phẩm và gây khó khăn cho việc thu

gom tiêu thụ. Hệ thống marketing do tư nhân đảm nhiệm chưa làm tốt chức

năng phân phối lưu thông. Để ổn định giá và lưu thông nông sản, Chính phủ

đã thực hiện chương trình đảm bảo giá tiêu thụ theo hợp đồng hoặc thu mua

trực tiếp, điều chỉnh thị trường bán buôn, ổn định cung qua kế hoạch sản xuất

và dự trữ như các nước: Mỹ, Đài Loan, Thái Lan,...

* Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực

23

- Trung Quốc:

Nhận thức được vai trò to lớn của FDI trong quá trình phát triển của nền

kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng, chính phủ Trung Quốc đã có

nhiều chiến lược và chính sách thu hút đầu tư FDI có hệ thống vào ngành

nông nghiệp ngay từ khi mở cửa nền kinh tế. Trọng tâm của chính sách này

được thể hiện:

Đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông, lâm, ngư

nghiệp: chính phủ Trung Quốc thực hiện chính sách ưu đãi và khuyến khích

đầu tư, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về thuế: ưu đãi về thuế thu nhập

doanh nghiệp đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (các mức thuế cũng

được phân chia theo lĩnh vực đầu tư, vũng lãnh thổ đầu tư, công nghệ sử

dụng, tỷ trọng lao động, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm... mà áp dụng các mức thuế

suất, mức miễn giảm thuế khác nhau). Chính sách này có tác dụng to lớn khi

tác động trực tiếp đến lợi nhuận mong muốn mà các nhà đầu tư hy vọng nhận

được, nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực mà chính phủ

mong muốn phát triển nhưng chưa có điều kiện, ngành nông nghiệp là ngành

có nhiều sự ưu tiên khi có mức miễn giảm thuế, đặc biệt đối với vùng khó

khăn còn được miễn thuế hoàn toàn. Các chính sách miễn giảm thuế cũng phụ

thuộc vào độ dài của dự án đầu tư, do đó mà làm tăng tính bền vững và hiệu

quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Thực hiện nguyên tắc tự do hóa đầu tư. Với chính sách này chính phủ

Trung Quốc tạo điều kiện cho nhà đầu tư vào các lĩnh vực mà trước đây vẫn

còn chưa mở cửa. Với chính sách này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy

được đối xử công bằng so với các nhà đầu tư trong nước, tạo môi trường đầu

tư tự do và lành mạnh.

24

Chính phủ Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến bảo vệ môi trường, đặc biệt

không cấp phép cho những dự án đầu tư có tác động đến nguồn tài nguyên và

ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Cùng với chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài,

đặc biệt vào lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc cũng có những

chính sách nhằm kiểm soát mạnh mẽ, đảm bảo cho các dự án đầu tư mang lại

lợi ích tối đa mà không gây ảnh hưởng đến an ninh lương thực, sản xuất trong

nước, văn hóa dân tộc và tài nguyên môi trường, đảm bảo sự phát triển tự chủ

của nền nông nghiệp trong nước.

- Thái Lan:

Trong những năm 1980, ngành nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng nhất

với đất nước này. Là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam,

nhưng Thái Lan đã sớm có những nhận thức đúng đắn về nguồn vốn đầu tư nước

ngoài và đã tận dụng nó để phát triển đất nước. Sau năm 1998, nền kinh tế Thái

Lan đi vào giai đoạn phục hồi sau ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế Châu

Á. Ngành nông nghiệp Thái Lan đã có sự tăng trưởng trở lại, phát triển hơn và

trở thảnh một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập

khẩu đối với các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông

nghiệp. Các dự án FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập

khẩu đối với các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan

quản lý đầu tư công nhận là thuộc loại thiết bị được khuyển khích đầu tư. Riêng

đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất

khẩu, được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm.

Thái Lan đã vươn lên trở thành một nước đứng đầu xuất khẩu và với giá

trị nông sản xuất khẩu cao hơn hẳn Việt Nam. Nguyên nhân có được điều đó

là do Thái Lan đã biết định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khai thác

25

đặc sản của từng vùng, thậm chí cả những vùng khó khăn nhất. Chính sách

này đã làm cho nông nghiệp Thái Lan có được những lợi thế về chất lượng và

giá cả trên thị trường nông sản thế giới và hơn nữa, nông sản Thái Lan đã tạo

được một thương hiệu tốt trên thị trường, điều mà nông sản Việt Nam vẫn

đang tìm kiếm.[11]

- Nhật Bản:

Thông qua các hợp tác xã, Chính phủ Nhật bản giáo dục, hướng dẫn nông

dân trồng những giống cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao cũng như giúp họ kỹ

năng quản lý hoạt động sản xuất: lập chương trình sản xuất cho nông dân, thống

nhất trong nông dân sử dụng nông cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến.

Mục tiêu là giúp nông dân tiêu thụ hàng hóa có lợi nhất. Mục tiêu của chính

sách không phải vì lợi nhuận cho Chính phủ mà đặt mục tiêu hàng đầu là trợ

giúp nông dân. Nông dân có thể ký gửi hàng hóa cho cơ quan quản lý Nhà nước

với một mức phí nhỏ hoặc có thể bán cho Nhà nước theo giá thực tế.

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, Chính phủ để nghị nông

dân sản xuất theo kế hoạch với chất lượng và tiêu chuẩn thống nhất với nhau

và ưu tiên bán cho Nhà nước.

Nhà nước cung cấp hàng hóa, vật tư cho nông dân theo giá cả thống nhất

và hợp lý, nhờ đó giúp cho nông dân ở những vùng xa xôi có thể có được vật

tư mà không chịu cước phí quá đắt.

Nhà nước còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp và chế biến

nông sản để tạo điều kiện cho nông dân sử dụng các phương tiện này hiệu quả

nhất, hạn chế sự chi phối của tư nhân.

Đối với chính sách xuất khẩu nông sản nói chung và cam quýt nói riêng,

chính phủ Nhật Bản đã ký kết các hiệp định thương mại song phương với các

nước như Thái Lan có hiệu lực từ cuối năm 2007, theo ước tính, hiệp định này

sẽ tăng lượng trái cây của Nhật Bản xuất khẩu vào thị trường Thái Lan từ

26

30%-50%; thuế suất đối với chanh sẽ giảm xuống 0% vào năm 2009, sản

phẩm cam sẽ được miễn thuế vào năm 2012, việc cắt giảm thuế trên sẽ hạ giá

và đồng nghĩa giúp nâng cao tính cạnh tranh cho trái cây Nhật Bản trên thị

trường Thái Lan. Trái cây Nhật Bản có lợi thế cạnh tranh nhờ kích cỡ, chủng

loại đa dạng và mùi thơm tự nhiên.

Hiện tại và định hướng của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào 3 thị trường

chính là Đài Loan, Mỹ và Singapore là nơi có thu nhập cao yêu cầu quả có

chất lượng cao, số lượng lớn.

Như vậy tuy là một nước có diện tích nhỏ lại là nước công nghiệp phát

triển nhưng bằng những chính sách quan tâm đến nông nghiệp, nông dân của

chính phủ Nhật Bản từ khâu sản xuất, phân phối và tiêu thụ đã giúp cho nông

dân yên tâm sản xuất, giúp Nhật Bản trở thành một trong những nước xuất

khẩu rau quả hàng đầu thế giới.[9]

1.2.2 Tình hình phát triển cây ăn quả ở Việt Nam

Bảng 1.2 Sản lượng Cam, quýt Việt Nam giai đoạn 2007-2016

2011 2012

2009 2010

2013

2014

2007

2008

Đơn vị tính: Nghìn tấn

2015 2016 Năm Sản lượng 654,7 678,6 693,5 728,6 702,7 704,1 706,0 758,9 727,4 799,5

[Nguồn: Tổng cục thống kê]

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017, sản lượng cây ăn quả tăng cả về diện

tích và sản lượng. Sản lượng cam đạt 772,6 nghìn tấn, tăng 20,4% so với năm

trước; bưởi đạt 571,3 nghìn tấn, tăng 13,4%; quýt đạt 175,5 nghìn tấn, tăng

6,3%. Tốc độ và tỷ lệ % tăng trưởng trên đây thể hiện khá rõ ưu thế và xu hướng

thị trường của 2 cây cam và bưởi. Tuy nhiên, tổng sản lượng quả có múi cả nước

mới đạt thấp, khoảng 1.519.400 tấn; tính bình quân đầu người năm 2017 mới đạt

trung bình khoảng 16kg (tính trên dân số khoảng 95 triệu người). [19]

27

Tiểu kết chương 1

Chương này nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận và thực

tiễn về phát triển bền vững. Đồng thời cũng giới thiệu một vài nét về phát

triển cây ăn quả trên thế giới và Việt Nam. Từ ý nghĩa của việc phát triển cây

ăn quả theo hướng bền vững và từ việc học tập kinh nghiệm phát triển cây ăn

quả của một số nước trên thế giới, luận văn có thể rút ra bài học kinh nghiệm

về phát triển cây cam theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Cao Phong,

tỉnh Hòa Bình.

28

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH

2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Cao phong, tỉnh Hòa Bình

2.1.1 Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1 Đặc điểm địa lý

Cao Phong là một huyện thuộc Thành phố Hòa Bình. Năm 2001, để phù

hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Hoà

Bình nói riêng, Chính phủ đã có Nghị định số 95/2001/NĐ-CP chia huyện Kỳ

Sơn thành hai huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong. Kể từ đây, huyện Cao Phong

chính thức ra đời với 13 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 12 xã.

Huyện Cao Phong ở vào toạ độ địa lý 105o10’ - 105o25’12” vĩ bắc và

20o35’20” - 20o46’34” kinh đông. Cao Phong là một trong số các huyện vùng

cao của tỉnh Hoà Bình.

Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 254 km2 (chiếm 5,4% tổng

diện tích tự nhiên của tỉnh Hoà Bình), dân số trung bình là 40.170 người

(chiếm 5,1% dân số toàn tỉnh), mật độ dân số là 158 người/km2 (chỉ bằng 0,9

lần mật độ dân số cả tỉnh). Độ cao trung bình của toàn huyện là 399 m. Tuy là

một huyện vùng cao nhưng trên địa bàn huyện Cao Phong lại có ít núi cao.

Nhìn chung, địa hình của huyện có cấu trúc thoai thoải, độ dốc trung bình của

đồi núi khoảng 10-15o, chủ yếu là đồi dạng bát úp, thấp dần theo chiều từ

đông nam đến tây bắc.

Căn cứ vào địa hình, có thể phân chia huyện Cao Phong thành ba vùng:

vùng núi cao (gồm 2 xã: Yên Thượng, Yên Lập), vùng giữa (gồm 8 xã: Dũng

Phong, Nam Phong, Tây Phong, Tân Phong, Đông Phong, Xuân Phong, Thu

Phong, Bắc Phong và thị trấn Cao Phong) và vùng ven sông Đà (gồm 2 xã:

Bình Thanh và Thung Nai). Địa hình đa dạng và phức tạp gây khó khăn cho

29

huyện Cao Phong trong việc thiết kế, xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng

của các công trình thủy lợi và các cơ sở hạ tầng khác.

2.1.1.2 Thời tiết khí hậu

Khí hậu Cao Phong thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm,

mùa hè nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình hàng

năm từ 22 đến 24oC. Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao, dao động từ

1.800 đến 2.200 mm. Tuy vậy, lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập

trung chủ yếu trong các tháng 7, 8 và 9 nên dễ gây úng lụt, ảnh hưởng xấu

đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Nhìn một cách tổng thể, khí hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng

mưa khá và tương đối điều hòa. Điều kiện khí hậu như vậy đã tạo điều kiện

thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi với nhiều hình thức

canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau.

2.1.1.3 Địa hình, thổ nhưỡng

Trên địa bàn huyện Cao Phong có nhiều loại đất khác nhau. Ở vùng địa

hình đồi núi có các loại đất: nâu vàng, đỏ vàng, nâu đỏ và mùn đỏ vàng. Vùng

địa hình thấp có các loại đất: phù sa, dốc tụ... Nhìn chung, đa số các loại đất ở

Cao Phong có độ phì cao, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây khác nhau,

nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả cũng như phát triển chăn nuôi.

Trong cơ cấu sử dụng đất của huyện Cao Phong, tính đến cuối năm

2002, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn (16,4%), trong khi đó, đất chưa

sử dụng chiếm tỷ lệ khá cao (51,31%), chủ yếu là đất đồi núi. Đây chính là

tiềm năng cho việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả... và cũng đặt ra

nhiệm vụ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc cho địa phương.

Trên địa bàn huyện Cao Phong có sông Đà và hàng chục con suối lớn

nhỏ chảy qua. Tuy nhiên, do nền địa chất nơi đây nằm trong miền hoạt động

30

cacxtơ hoá mạnh, cộng với tình trạng tàn phá rừng đầu nguồn, nên vào mùa

khô, nhiều suối có lưu lượng nước rất ít hoặc bị cạn kiệt.

Cao Phong có thảm thực vật tương đối đa dạng, bao gồm nhiều loại: gỗ,

tre, nứa và gần đây trồng thêm các loại cây ăn quả, keo lá tràm... Tính đến

cuối năm 2002, trên địa bàn huyện có 6.200,25 ha đất lâm nghiệp có rừng,

chiếm tỷ trọng 24,38% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong số đó, đất có rừng tự

nhiên là 3.448,73 ha, tập trung nhiều ở các xã ven hồ sông Đà và các xã vùng

cao. Đất có rừng trồng là 2.751,52 ha và đất ươm cây giống có 1,5 ha.

Theo kết quả điều tra thăm dò gần đây, Cao Phong có một số loại

khoáng sản chính như: đất sét, cát, sỏi, quặng perit, quặng đồng, than...

Ngoài các mỏ đất sét và vật liệu xây dựng dễ khai thác và thuận tiện

trong việc vận chuyển, còn các mỏ khoáng sản khác thì cần tiếp tục khảo sát,

đánh giá cụ thể về trữ lượng và khả năng khai thác. [19]

2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

2.1.2.1 Tình hình sử dụng đất đai

Theo số liệu (bảng 2.1) đất trồng cây lâu năm tăng từ 564,03ha lên

2688,37ha và đất trồng cây hàng năm khác tăng từ 2.252,04ha lên 4.868,23ha.

Ngược với đó, đất chuyên trồng lúa nước và đất nuôi trồng thủy sản giảm mạnh.

31

Bảng 2.1 Diện tích, cơ cấu các loại đất năm 2010 và năm 2015

STT Chỉ tiêu Hiện trạng 2010 Hiện trạng 2015

Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu

(ha) (%) (ha) (%)

DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 25.527,83 100,00 25.600,25 100,00

1 Đất nông nghiệp 17.669,16 69,22 21.636,63 84,52

Trong đó:

1.1 Đất lúa nước 1.147,82 4,50 1.043,64 4,08

Trong đó: Đất chuyên trồng 770,01 3,02 387,16 1,51

lúa nước

1.2 Đất cây hàng năm khác 2.252,04 8,82 4.868,23 19,02

1.3 Đất trồng cây lâu năm 564,03 2,21 2.688,37 10,50

1.4 Đất rừng phòng hộ 7.427,05 29,09 5.721,36 22,35

1.5 Đất rừng đặc dụng

1.6 Đất rừng sản xuất 6.200,49 24,29 7.263,76 28,37

1.7 Đất nuôi trồng thủy sản 77,73 0,30 28,16 0,11

23,12 0,09 1.8 Đất nông nghiệp khác

Đất phi nông nghiệp 4.436,43 17,38 3.716,00 14,52 2

Trong đó:

0,05 14,02 0,06 2.1 Đất xây dựng trụ sở cơ quan 13,94

1,45 349,23 1,36 369,34 2.2 Đất quốc phòng

0,76 91,63 0,36 193,23 2.3 Đất an ninh

2.4 Đất khu công nghiệp - -

Đất xây dựng khu công

nghiệp

Đất xây dựng cụm công

32

nghiệp

0,19 40,39 0,16 2.5 Đất cơ sở sản xuất kinh doanh 47,99

0,12 19,32 0,08 2.6 Đất SXVL xây dựng 29,73

0,21 8,3 0.03 2.7 Đất cho hoạt động khoáng sản 53,30

- 10,34 0,04 2.8 Đất di tích danh thắng -

0,01 3,91 0,02 2.9 Đất xử lý, chôn lấp chất thải 2,33

0,01 4,69 0,02 2.10 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 1,93

2.11 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 106,70 192,24 0,42 0,75

2.12 Đất có mặt nước chuyên dùng 1.444,12 5,66 0,43

2.13 Đất phát triển hạ tầng 472,95 1.85 1.436,62 5,61

Trong đó:

1.38 Đất giao thông 352,45

0,18 Đất thủy lợi 45,30

0,02 Đất công trình năng lượng 4.03

0,00 Đất CT bưu chính viễn thông 0,56

0.05 10,66 0,04 Đất cơ sở văn hóa 12,66

0,02 Đất cơ sở y tế 4,19

0,13 Đất cơ sở giáo dục - đào tạo 32,82

0.07 Đất cơ sở thể dục - thể thao 18,06

0,01 Đất chợ 2,88

0,66 124,67 0,49 2.14 Đất ở đô thị 167,61

2.15 Đất ở nông thôn 1.533,10 6,01 1.145,81 4,48

221,22 0,86 2.16 Đất sông, ngòi, suối

0,35 2.17 Đất phi nông nghiệp khác

(Nguồn: Báo cáo số 240/BC-UBND kết quả thực hiện dồn điền, đổi thửa đất

sản xuất Nông nghiệp từ năm 2015-2018 trên địa bàn huyện Cao Phong

33

2.1.2.2 Đặc điểm dân số và lao động

Từ việc tập trung đầu tư phát triển, mở rộng diện tích trồng cam, đến nay

toàn huyện có trên 50 hộ gia đình có mức thu đạt từ 1 tỷ đồng/ năm trở lên,

thậm chí có những gia đình có mức thu từ 7 - 10 tỷ đồng/ năm từ trồng cam...

Thị trường tiêu thụ cam Cao Phong ngày càng được mở rộng đặc biệt là sau khi

được cấp Chỉ dẫn địa lý vào năm 2014, vinh dự lọt vào top 10 thương hiệu, nhãn

hiệu nổi tiếng năm 2016. Với hiệu quả kinh tế mà cây cam mang lại cho địa

phương đã góp phần nâng cao mức thu nhập bình quân của người dân đạt 32,8

triệu đồng vào năm 2016 và phấn đấu đạt 48 triệu đồng vào năm 2020.

Hiệu quả kinh tế từ cây cam mang lại đã tạo đà cho KT-XH của huyện

phát triển. Sức trẻ của một “thanh niên” tuổi 15 với sức sống căng tràn đã và

đang làm thay đổi căn bản diện mạo của huyện từ khu vực trung tâm thị trấn

đến các xã vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt, năm 2016, huyện Cao Phong vinh dự

xếp thứ nhì khối thi đua các huyện, thành phố. Đây là một nỗ lực, cố gắng

không nhỏ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện.

Đồng chí Võ Ngọc Kiên, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Cao Phong nhấn

mạnh: Kết quả này có được là do thời gian qua, HU, HĐND, UBND huyện đã

tích cực quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sát sao cộng với sự đồng thuận

cao của nhân dân. Đời sống của người dân luôn được cấp ủy, chính quyền các

cấp quan tâm, tạo điều kiện để họ có cuộc sống ổn định, có mức sống năm sau

cao hơn năm trước. Nhờ vậy, đến nay, toàn huyện chỉ còn 21,87% tỷ lệ hộ

nghèo, 12,12% tỷ lệ hộ cận nghèo (tính theo cách tiếp cận chuẩn nghèo đa

chiều). Huyện phấn đấu mỗi năm giảm ít nhất 3% tỷ lệ hộ nghèo theo Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVII đã đề ra.

Một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh KT-XH của huyện không thể

không nhắc tới là thành công trong xây dựng NTM. Đến nay, toàn huyện đã

có 3 xã đạt chuẩn NTM, trong đó, xã Dũng Phong là địa phương đầu tiên về

đích của tỉnh. Bình quân mỗi xã trên địa bàn toàn huyện đạt 12,83 tiêu chí.

34

Năm 2017, bên cạnh việc duy trì và nâng cao chất lượng xây dựng NTM bền

vững tại 3 xã đạt chuẩn, huyện phấn đấu có thêm 1 xã đạt chuẩn, nâng mức

bình quân 14,42 tiêu chí/ xã. Diện mạo NTM cơ bản được hình thành từ sự

thay đổi trong nhận thức của mỗi người dân. Đời sống của người dân được

nâng cao hơn trước cả về vật chất lẫn tinh thần.

2.1.2.3 Cơ sở hạ tầng xã hội

Là địa phương nằm dọc Quốc lộ 6 và đường 12B cùng với hệ thống cảng

thủy nội địa trên sông Đà thuận lợi đã mang lại những diện mạo mới trong hạ

tầng phát triển giao thông của huyện Cao Phong trong những năm gần đây.

Huyện có 367,2 km đường giao thông các loại, trong đó có 42 km đường

huyện, 81,9km đường xã, 114,3km đường thôn, xóm.

Năm 2016, mạng lưới GTNT trên địa bàn huyện đã cơ bản đáp ứng nhu

cầu đi lại và giao thương hàng hóa của nhân dân các dân tộc.

Số hộ sử dụng điện lưới Quốc gia là 99,6%, số hộ sử dụng nước sạch

hợp vệ sinh là 88%, số hộ đạt gia đình văn hóa đạt 72,67%. Tỷ lệ hộ nghèo ở

mức 18,17%. Giải quyết việc làm cho 1.374 lao động. Tỷ lệ người dân tham

gia BHYT đạt 98,96%.

2.1.3 Một số thuận lợi, khó khăn chung của điều kiện kinh tế - xã hội với

tình hình phát triển cây cam trên địa bàn huyện cao Phong, tỉnh Hòa Bình

2.1.3.1 Thuận lợi

- Đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn:

Cao Phong có điều kiện tự nhiên đa dạng, phức tạp rất thuận lợi để hình

thành nền nông nghiệp đa dạng. Tầng đất canh tác trên địa bàn huyện dày, hàm

lượng dinh dưỡng cao, màu mỡ là điều kiện cho cây cam, quýt phát triển tốt.

Khí hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng mưa khá và tương đối điều

hòa. Điều kiện khí hậu như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển

nhiều loại cây trồng, vật nuôi với nhiều hình thức canh tác hoặc mô hình chăn

nuôi khác nhau. Cây cam là cây Á Nhiệt đới, thích hợp từ Vĩ tuyến 22 đến 26,

35

khí hậu mát mẻ. Nhiệt độ của huyện Cao Phong thấp hơn nơi khác từ 3-4°C,

địa bàn huyện Cao Phong ở độ cao trên 250m so với mực nước biển, xung

quanh được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi, do vậy đã tạo nên một tiểu khí

hậu riêng rất phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cây cam, quýt.

- Năng lực, kinh nghiệm sản xuất:

Cây cam, quýt được phát triển tại huyện Cao Phong từ đầu những năm

1960, do Nông trường Cao Phong (nay là Công ty TNHH 1 thành viên Cao

Phong) đưa vào trồng đại trà, các giống cam du nhập trồng chủ yếu là Cam xã

Đoài, Cam Sông Con và một số giống nhập nội khác như cam Naven, cam

Valenxia, quýt Ôn Châu…

Nông trường Cao Phong có bề dày lịch sử về sản xuất, phát triển cây cam,

là trung tâm, nòng cốt chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các hộ nông dân.

- Thương hiệu:

Tháng 11/2014, sản phẩm cam của huyện Cao Phong được Cục Sở hữu trí

tuệ cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý. Theo đó, chứng nhận bảo hộ Chỉ dẫn địa

lý Cam cho 4 giống cam của huyện Cao Phong gồm: CS1, Xã Đoài lùn, Xã Đoài

cao và Cam Canh. Đây là các giống cam có nguồn gốc di thực từ cam Xã Đoài

(Nghệ An), cam Canh (Vân Canh) nhưng do hợp đất, hợp nước nên khi được

trồng trên đất Cao Phong. Các giống cam này cho chất lượng đặc trưng khác với

các giống gốc như: mọng nước hơn, vị ngọt nhẹ, vỏ quả màu vàng óng đẹp mắt và

được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, thậm chí hơn cả giống cam gốc.

Đây chính là các tiêu chuẩn chất lượng đặc thù được tạo nên bởi điều

kiện tự nhiên, con người tại địa phương, Trong quá trình xây dựng Chỉ dẫn

địa lý cho sản phẩm cam của huyện Cao Phong, các nhà nghiên cứu đã thực

hiện điều tra về danh tiếng của sản phẩm, xác định nguồn gốc, đặc tính sản

phẩm, tính chất đặc thù, các yếu tố ngoại cảnh, xây dựng bản đồ khu vực địa

lý, xây dựng logo và nhãn mác sản phẩm.

36

Việc sản phẩm cam của huyện Cao Phong được bảo hộ chỉ dẫn địa lý là

bước ngoặt mang tính chiến lược, là kết quả quan trọng trong chiến lược phát

triển KT-XH của huyện và là tiền đề quan trọng để tiếp tục xây dựng và phát

triển thương hiệu Cam Cao Phong.

2.1.3.2 Khó khăn

Hạn chế lớn nhất của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp là nạn thiếu

nước vào mùa khô, đặc biệt là ở những vùng chưa có các công trình thủy lợi.

Về mùa đông, bên cạnh sự khô hạn, các yếu tố khí hậu khác như: nhiệt độ

xuống thấp, sương muối, không đủ ánh sáng cũng ảnh hưởng đến sự phát

triển của cây trồng, vật nuôi, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển.

Công nghiệp chế biến chưa được đầu tư phát triển. Năng lực sản xuất,

khả năng tiếp cận và ứng dụng Khoa học- Công nghệ vào sản xuất của nhân

dân, căn bản còn nhiều hạn chế.

2.2 Thực trạng phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh

Hòa Bình

2.2.1 Sơ lược về cây cam huyện Cao Phong

Cây cam, quýt được phát triển tại huyện Cao Phong từ đầu những năm

1960, do Nông trường Cao Phong (nay là Công ty TNHH 1 thành viên Cao

Phong) đưa vào trồng đại trà, các giống cam du nhập trồng chủ yếu là Cam xã

Đoài, Cam Sông Con và một số giống nhập nội khác như cam Naven, cam

Valenxia, quýt Ôn Châu…

Trong chu kỳ 1 của cây cam, diện tích cam của Nông trường Cao Phong

lên tới 900 ha, sản lượng cao nhất năm 1976 đạt 3.000 tấn và được xuất khẩu

sang thị trường Liên Xô cũ gần 50% sản lượng. Tuy nhiên do nhiều nguyên

nhân, nhất là do cơ chế quan liêu bao cấp, không hiệu quả, diện tích, năng

suất sản lượng cam giảm dần.

37

Bắt đầu từ năm 1990, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, nhất là thực hiện cơ

chế khoán hộ trong sản xuất, thúc đẩy lợi ích kinh tế, tạo động lực cho các hộ

nhận khoán phát triển sản xuất. Các hộ nông nhân đã mạnh dạn đầu tư, thâm canh,

áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy cây cam, quýt trên toàn

huyện tăng mạnh cả về diện tích, năng xuất và chất lượng sản phẩm.

Chỉ tính riêng vài năm trở lại đây, diện tích, sản lượng cam liên tục tăng.

Bảng 1.3 Chất lượng cảm quan, cơ lý và sinh hóa của cam Cao Phong

(Nguồn: Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam tại

huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình)

2.2.2 Một số nhân tố sản xuất, phát triển cây cam trên địa bàn huyện

Cao phong

2.2.2.1 Diện tích, sản lượng

Diện tích đất trồng cam được mở rộng qua các năm từ năm 2015 đến

năm 2019. Sản lượng cam liên tục tăng cao từ 20.000 tấn vụ cam năm 2015-

2016 lên 35.000 tấn năm 2018-2019.

38

BIỂU ĐỒ: SẢN LƯỢNG THU HOẠCH CAM CAO PHONG QUA CÁC GIAI ĐOẠN

Sản lượng

Diện tích

35,000 tấn

33,000 tấn

23,000 tấn

20,000 tấn

1,234 ha

1,344 ha

925 ha

750 ha

2015-2016

2016-2017

2017-2018

2018-2019

Hiện tại, sản phẩm cam, quýt tươi bán từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau.

Do thực hiện tốt cơ cấu giống hợp lý như: các loại giống chín sớm, giống chín

chính vụ, giống chín muộn để rải vụ thu hoạch, nâng cao giá trị hàng hóa,

tăng thu nhập cho các hộ nông dân. Cơ cấu giống cây ăn quả có múi chủ lực

của huyện Cao Phong, gồm:

- Nhóm chín sớm (thu hoạch từ tháng 9 đến tháng 11) có các giống như:

Quýt Ôn Châu, Cam BH, Cam CS1 chiếm khoảng 30% diện tích trồng và

khoảng 20% diện tích kinh doanh.

- Nhóm chính vụ (thu hoạch cuối tháng 11 đến tháng 02 năm sau) bao

gồm các giống như: quýt Hà Giang, cam Canh, cam Sông con, cam Xã Đoài,

bưởi đỏ, bưởi diễn, bưởi Da Xanh, chiếm khoảng 40% diện tích trồng nhưng

chiếm khoảng 60% diện tích kinh doanh.

- Nhóm chín muộn (thu hoạch tháng 2 đến tháng 4 năm sau) có Cam V2

chiếm khoảng 30% diện tích trồng và khoảng 20% diện tích kinh doanh.

39

2.2.2.2 Giá bán sản phẩm, tình hình tiêu thụ

Tháng 11/2014, sản phẩm cam của huyện Cao Phong được Cục Sở hữu

trí tuệ cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý. Trước khi có chỉ dẫn địa lý, giá

Cam Cao Phong chỉ có 5.000 – 7.000đồng /kg mà vẫn khó bán. Từ khi được

cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý, giá Cam Cao Phong tại vườn trung bình là

25.000 – 40.000 đồng/kg vào tùy từng thời điểm.

Thị trường tiêu thụ của cam Cao Phong chủ yếu là các tỉnh, thành phố

như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Thanh Hóa, Nam Định,

Nghệ An và các tỉnh lân cận...thông qua một số doanh nghiệp được thành lập và

tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh như: Công ty cam Cao Phong Việt

Nam, Công ty TNHH Cam Cao Phong - Tây Phong, Doanh nghiệp tư nhân

Quang Hà, Tổng Công ty sông Hồng, Tổng công ty thương mại Hà Nội (Hapro).

Hiện nay, tuy không còn tình trạng được mùa, mất giá như một số năm

trước nhưng sản phẩm cam Cao Phong vẫn tiêu thụ phụ thuộc vào bán lẻ và tư

thương là chủ yếu. Lượng cam tiêu thụ trong chuỗi siêu thị còn chưa nhiều.

Vì vậy, trong những năm tới lượng cam cho thu hoạch ngày càng lớn thì khâu

tiêu thụ sẽ gặp khó khăn.

Sơ đồ kênh tiêu thụ cam của huyện Cao Phong

Người thu gom Thương nhân, DN

Người tiêu dùng nội địa Hộ sản xuất cam

Đại lý, nhà phân phối

Nhà máy chế biến hoa quả

40

Các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước (các cấp chính quyền địa phương) gồm:

Các cấp chính quyền địa phương phối hợp tổ chức Lễ hội Cam Cao

Phong và Hội chợ Thương mại huyện Cao Phong để quảng bá, giới thiệu nhãn

hiệu, thương hiệu cam của huyện Cao Phong đã được Cục Sở hữu trí tuệ công

nhận chỉ dẫn địa lý. Thông qua lễ hội nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức,

trách nhiệm và tạo sự chuyển biến tích cực của các cấp và các ngành và toàn

xã hội trong việc bảo vệ và phát triển thương hiệu cam Cao Phong. Quảng bá

sâu rộng về xuất xứ địa lý, thương hiệu "Cam Cao Phong” và quảng bá hình

ảnh huyện Cao Phong nói riêng, tỉnh Hòa Bình nói chung với các tỉnh bạn.

Huyện Cao Phong cũng đang thực hiện quản lý tốt chỉ dẫn địa lý Cam

Cao Phong; tổ chức cho các tổ chức, cá nhân buôn, bán cam, quýt Cao Phong

ký cam kết không vì hám lợi trước mắt nhập cam, quýt từ nơi khác vào địa

bàn, trà trộn với Cam Cao Phong để tiêu thụ kiếm lời làm ảnh hưởng đến

thương hiệu cam, quýt Cao Phong.

Tiếp nhận có chọn lọc các loại phân bón và chế phẩm sinh học phù hợp

với thực tế địa phương phục vụ cho việc trồng, chăm sóc, bảo quản sản phẩm

sau thu hoạch và chế biến phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Các chế phẩm

sinh học xử lý ô nhiễm môi trường.

Chú trọng khuyến khích các nông hộ, tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã,

doanh nghiệp đầu tư vào ứng dụng các công nghệ sinh học. Nhân rộng thêm

nhiều vườn cam, quýt theo tiêu chuẩn VietGAP đảm bảo an toàn thực phẩm

đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, ổn định và phát triển bền vững.

2.2.2.3 Thực trạng về công tác quản lý chất lượng sản phẩm

Các ngành chức năng của huyện đã quan tâm đến công tác tập huấn

chuyển giao khoa học kỹ thuật chăm sóc cây cam nhằm duy trì sản lượng

hàng năm và nâng cao chất lượng sản phẩm cho cây cam như: Quy trình chăm

sóc theo từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây cam; chương trình

41

chăm sóc, quản lý phòng trừ dịch bệnh tổng hợp (IPM)…

Tuy nhiên việc quản lý chất lượng sản phẩm quả của huyện vẫn chưa có

chiều sâu, chủ yếu vẫn dựa vào sự tự giác của người sản xuất; chưa xây dựng

được quy trình quản lý chất lượng sản phẩm quả để làm căn cứ bảo vệ thương

hiệu hàng hoá. Do vậy sản phẩm quả của huyện bị các loại sản phẩm cùng

loại ở địa phương khác trà trộn, cạnh tranh trên thị trường, vì người tiêu dùng

không có căn cứ tin cậy để nhận ra sản phẩm chính hiệu.

2.2.3 Hiệu quả kinh tế của sản xuất phát triển cây cam

Mỗi hecta đất trồng cam ở huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình đã tạo ra được

việc làm cho 2 lao động, với mức thu nhập là 62,5 triệu đồng/người/năm. Năng

suất cam ở Cao Phong hiện đã tăng đáng kể nhờ áp dụng thâm canh, đạt trung

bình đạt 35 tấn/ha/năm, cao 50 tấn/ha/năm. Năm 2015, lợi nhuận trung bình của

các vườn đều đạt trên 500 triệu đồng/ha/năm.[6]

2.2.4 Hiệu quả xã hội từ sản xuất phát triển cây cam

Phát triển CAQ đã góp phần đẩy mạnh phong trào phủ xanh đồi trọc,

biến đồi trọc thành tư liệu sản xuất, từ đó đã tạo ra nhiều việc làm tại chỗ,

tăng thu nhập đáng kể cho người lao động; đồng thời CAQ tạo điều kiện

thuận lợi cho các ngành kinh tế: Công nghiệp - Xây dựng, Thương mại- Dịch

vụ phát triển.

Cây cam đã mang đến nhiều lợi ích cho người dân trên toàn xã, đời sống được

nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt.

Tuy nhiên trong thời gian qua, nhiều hộ gia đình giàu lên từ cam dẫn đến

tình trạng tệ nạn xã hội gia tăng. Cây cam tại một số hộ gia đình cho thu nhập

chưa ổn định mà mất nhiều thời gian chăm sóc dẫn tới nhiều hộ dân không có

khả năng thanh toán đáo hạn các khoản nợ vay.

42

2.2.5 Những ảnh hưởng của phát triển cây cam đối với môi trường sinh thái

2.2.5.1 Những ảnh hưởng tích cực

Từ năm 2010 đến năm 2015, đất trồng cây lâu năm tăng từ 564,03 ha lên

2.688,37 ha, đất rừng sản xuất tăng từ 6.200,49 ha lên 7.263,76 ha. Diện tích

đất trồng cây lâu năm và đất rừng sản xuất tăng làm tăng độ tre phủ đất, tạo

sinh khối, tăng độ phì cho đất, bảo vệ lý tính của đất.

2.2.5.2 Những ảnh hưởng tiêu cực

Xuất phát từ việc trong quá trình trồng trọt chưa thể thoát li được với

việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật để chăm sóc cây trồng. Do đó

trong quá trình chăm sóc cây ăn quả người dân một phần kém hiểu biết, vì lợi

trước mắt, nên không tôn trọng các quy trình chăm sóc, theo khuyến cáo của

các Nhà khoa học; lạm dụng thuốc BVTV, không sử dụng đúng thuốc BVTV

theo danh mục quy định, chăm sóc và BVTV theo phong trào và kinh nghiệm.

- Sử dụng phân bón hóa học:

Bảng 2.2 Liều lượng phân bón đa lượng cần bón cho cây cam

Tuổi cây (năm) N P2O5 K2O Ghi chú

hoặc năng suất (kg)

Cây mới trồng/tơ (1-3) 75 75 75 Tất cả các công thức bón

đều sử dụng bổ sung Cây mới trồng/tơ (4-5) 150 150 150

50kg phân chuồng hoai Cây trưởng thành (40kg) 500 250 375

mục/gốc hoặc phân vi Cây trưởng thành (60kg) 600 300 450

sinh phân ủ tương Cây trưởng thành (90kg) 800 400 600

đương. Và 1 kg vôi Cây trưởng thành (120kg) 1.000 500 750

bột/gốc Cây trưởng thành (150kg) 1.200 600 900

(Nguồn: Sổ tay sản xuất cây có múi giành cho nông dân Châu Á)

Bón phân chuồng mất nhiều thời gian, công lao động và phức tạp hơn nhiều

so với bón phân vô cơ nên người dân không trú trọng việc sử dụng phân chuồng.

43

Việc không sử dụng phân chuồng và thay phân chuồng bằng phân hoá

học, đất dần dần sẽ bị trai cứng, độ ẩm trong đất thấp, do thiếu mùn, và các

điều kiện khác, để cho các loại vi sinh vật hữu hiệu hoạt động làm tơi xốp đất,

tăng lượng oxy cho đất.... Những kết quả đó sẽ làm ảnh hưởng đến bộ rễ cây

trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, dẫn tới năng suất và hiệu

quả kinh tế của cây trồng sẽ bị suy giảm dần theo thời gian canh tác.

- Sử dụng thuốc BVTV và thuốc trừ cỏ:

Phòng trừ dịch hại trên cây có múi phải đảm bảo 2 yêu cầu cơ bản là

hiệu quả và an toàn, trên cơ sở của phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp

(IPM) với mục tiêu giữ gìn sự cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng bằng 2 biện

pháp chính là trồng cây khoẻ và bảo vệ thiên địch. IPM cũng là 1 tiêu chí kĩ

thuật cần thiết trong thực hành nông nghiệp tốt (GAP) để cho ra các sản phẩm

chất lượng và an toàn.

Các loài dịch hại chủ yếu thường có trên cây có múi gồm nhiều loài sâu,

nhện và bệnh. Về sâu hại, đáng chú ý là sâu vẽ bùa, rầy chổng cánh, rệp, bọ

trĩ, sâu đục quả. Về bệnh có các bệnh thán thư, ghẻ, loét vi khuần, nứt thân xì

mủ, vàng lá gân xanh, vàng lá thồi rễ. Nhóm nhện hại cũng rất quan trọng,

gồm các loài nhện đỏ, nhện trắng, nhện vàng.

Thành phần thiên địch trên các cây có múi cũng rất phong phú, gồm các

loài ăn thịt như nhện, kiến vàng, bọ rùa, các loài ong kí sinh và nhiều loài vi

sinh vật đối kháng với nguồn bệnh. Các loài thiên địch có vai trò đặc biệt

quan trọng trong việc hạn chế dịch hại.

Đề có cây trồng khoẻ và bảo vệ thiên địch cần áp dụng tổng hợp nhiều biện

pháp cụ thể, thích hợp với đặc điểm sinh thái và tập quán canh tác từng vùng.

Tuy nhiên trên thực tế do người dân một phần còn thiếu hiểu biết, một

phần do công tác hướng dẫn, khuyến cáo các quy trình BVTV của các cơ

quan chuyên môn còn hạn chế. Qua kết quả điều tra kinh tế hộ, tính trung

44

bình số lần sử dụng thuốc BVTV một năm đối với cây có múi sử dụng 10 lần.

Chất lượng thuốc không kiểm soát được 100% theo đúng danh mục quy định

của Bộ NN&PTNT, do trên thị trường có rất nhiều các loại thuốc trôi nổi.

Nếu so sánh giữa thực tế với quy trình IPM thì người dân đã sử dụng quá 30-

35% lượng thuốc BVTV không cần thiết cho cây trồng.

Thuốc bảo vệ thực vật khi được đưa vào đồng ruộng, một phần được cây

và các loại sâu bọ hấp thụ; một phần sẽ bay hơi hoà vào không khí, gây ô

nhiễm không khí; một phần thẩm thấu xuống đất gây ô nhiễm đất, ô nhiễm

nguồn nước ngầm; một phần theo dòng chảy của nước về các giếng khoan,

giếng đào, ao hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nguồn nước

ngầm; một phần do sử dụng nhiều lần, các hoá chất chưa kịp phân huỷ, còn

tồn đọng lại trên quả, có thể làm dư lượng kháng sinh tồn tại trên quả vượt

quá mức cho phép.

Sử dụng thuốc trừ cỏ: Theo khuyến cáo của quy trình GAP và IPM sản

xuất cây ăn quả an toàn, một năm chỉ nên sử dụng thuốc trừ cỏ tối đa một lần,

cách tốt nhất là dùng phương pháp thủ công (cắt, sới) để tạo sinh khối tăng độ

tơi xốp đất. Tuy nhiên trên thực tế, các hộ dân thường sử dụng 02 lần trên 01

năm, kết quả đó hoàn toàn không có lợi cho lý tính và hoá tính của đất.

Những tác động tiêu cực một mặt tác động trực tiếp đến những người thường

xuyên tham gia sản xuất và chất lượng sản phẩm hàng hoá; mặt khác qua thời

gian sẽ gây suy giảm năng xuất, hiệu quả kinh tế của vật nuôi cây trồng; đồng

thời sẽ tác động một cách vô hình và từ từ đến sức khoẻ, đời sống của cộng

đồng trong tương lai.

2.2.6 Những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình phát triển và hiệu

quả kinh tế sản xuất cây cam

2.2.6.1 Quy hoạch đất đai

45

Việc giao khoán đất sản xuất nông, lâm nghiệp đã tạo động lực cho

người lao động yên tâm, chủ động hơn trong đầu tư sản xuất và có ý thức

trong sử dụng bền vững tài nguyên đất rừng. Qua đó, giá trị và hiệu quả sử

dụng đất được nâng lên. Diện tích khoán theo Nghị định số 01/NĐ-CP cơ bản

đã được chuyển đổi khoán theo Nghị định số 135/NĐ-CP của Chính phủ. Các

công ty sau khi được sắp xếp đã có nhiều đổi mới trong công tác tổ chức,

nâng cao hiệu quả SX-KD. Điển hình như Công ty TNHH MTV Cao Phong

đã cung cấp khá tốt dịch vụ đầu vào, tổ chức vay vốn tín dụng cho các hộ

nhận khoán thực hiện khảo nghiệm, cung ứng giống cam, quýt tiến bộ; cung

cấp vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu; hướng dẫn quy trình kỹ thuật, cải tạo

đồng ruộng, đầu tư thuỷ lợi, giao thông nội đồng phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, việc giao khoán sử dụng đất tại các công ty còn một số hạn

chế như: diện tích giao khoán còn manh mún, nhỏ lẻ nên khó hình thành vùng

sản xuất tập trung, cánh đồng mẫu lớn. Cơ chế quản lý của các công ty chậm

đổi mới, sức cạnh tranh thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Các hộ nhận khoán

hoàn toàn tự chủ trong sản xuất nên mang tính tự phát cao, khó định hướng về

sản phẩm và thị trường. Các biện pháp kỹ thuật thâm canh, phương pháp quản

lý mới đảm bảo cho năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường rất

khó được phổ cập. Việc chuyển đổi công ty, đặc biệt là bàn giao lại diện tích

đất không có nhu cầu sử dụng, đất công trình phúc lợi công cộng, đất ở của

người dân về địa phương quản lý còn chậm, gây ách tắc sản xuất và tạo ra

nhiều điểm nóng tranh chấp trong nhân dân. Phần được giao, thuê còn lại các

công ty cũng chưa có chiến lược, kế hoạch SX-KD phù hợp, tạo sự chuyển

biến rõ nét trong thực hiện các nhiệm vụ đã xây dựng, hiệu quả sử dụng đất

chưa cao. Chưa lập quy hoạch sử dụng đất đối với diện tích giữ lại tại các

công ty trình cấp thẩm quyền phê duyệt.

46

Công tác quản lý đất đai còn lỏng lẻo, không cập nhật sổ sách, bản đồ

theo dõi theo hệ thống. Còn tình trạng khoán trắng cho người sử dụng đất dẫn

đến hiện tượng người sử dụng đất tự chuyển đổi loại cây trồng, loại đất không

tuân thủ theo phương án sản xuất và mục đích sử dụng đất đã xây dựng. Một

số hộ sử dụng đất chưa đúng mục đích, lãng phí đất đai, xây dựng chuyển

nhượng đất trái quy định. Tình trạng lấn chiếm tranh chấp đất giữa hộ dân với

nông, lâm trường còn xảy ra. Diện tích đất do các công ty bàn giao về địa

phương phần lớn là đất công trình công cộng, đất ở xen kẽ, manh mún, không

tập trung. Việc thiết lập hồ sơ quản lý hiện đang vướng mắc do các hộ không

nộp tiền sử dụng đất theo quy định.

2.2.6.2 Các yếu tố đầu tư chăm sóc

- Phân bón: Cây cam của huyện được phát triển với một tốc độ nhanh

và diện tích lớn, ngành chăn nuôi không kịp phát triển tương xứng, nên không

đáp ứng được đủ nguồn phân hữu cơ cho cây ăn quả, người dân chủ yếu dựa

vào phân vô cơ;

- Bảo vệ thực vật: công tác bảo vệ thực vật là khâu quan trọng đối với

cây cam, trong quá trình sản xuất nhân dân vì lợi trước mắt; trách nhiệm với

cộng đồng thấp, nên đã tuỳ tiện trong việc sử dụng thuốc BVTV. Công tác

quản lý nhà nước về chất lượng các loại vật tư đầu vào chưa được các ngành

chức năng quan tâm kiểm soát chặt chẽ.

Với thực trạng các yếu tố đầu tư chăm sóc cây cam tại địa phương hiện

nay, muốn đạt được năng xuất phải đầu tư tăng thêm chi phí: phân bón, thuốc

BVTV cho cây ăn quả. Do độ mầu mỡ ngày một suy giảm và sâu bệnh có sức

đề kháng với thuốc BVTV ngày càng cao hơn. Điều đó đã và đang ảnh hưởng

đến sự mầu mỡ của đất, ảnh hưởng đến lý tính, hoá tính của đất, chi phí đầu

tư cho cây cam.

2.2.6.3 Công tác chế biến, bảo quản sau thu hoạch và thị trường

47

HTX Hà Phong đã chủ động đầu tư nhà xưởng, máy móc, thiết bị để

chế biến sâu các sản phẩm từ cam như rượu cam, mứt cam, sirô cam, tinh dầu

cam, nước cam lên men, xà phòng cam… Đến nay, HTX Hà Phong đã đưa ra

thị trường 9 sản phẩm chế biến từ cam. Đây cũng chính là những sản phẩm

đầu tiên thực hiện theo mô hình sản xuất theo chuỗi các sản phẩm từ cam của

huyện Cao Phong. Tuy nhiên HTX đang gặp khó khăn về vốn.

Thị trường tiêu thụ: Cho đến nay, các chủ vườn vẫn tự tìm mối tiêu thụ,

trông chờ vào các tư thương đến tận vườn thu mua. Cũng bởi vậy mà có

những năm cam được mùa nhưng bị tư thương ép giá. Các chủ vườn chưa kết

nối được với các chợ đầu mối, các hệ thống siêu thị, mà chủ yếu là qua tư

thương. Cam Cao Phong hiện nay chưa được xuất khẩu.

Dịch vụ Tài chính, Ngân hàng: Nhìn chung xuất phát từ việc kém hiểu

biết và thiếu thông tin, tư vấn, nhiều hộ dân khi tiếp cận vay vốn của các tổ

chức Tín dụng, Ngân hàng còn lúng túng, “đi đường vòng”, nên phải chịu

thêm một số chi phí ngoài lãi suất cố định. Bên cạnh đó do việc thẩm định các

dự án vay của một số cán bộ ngân hàng đối với đối tượng vay còn bị buông

lỏng, do vậy dẫn đến việc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích,

nhiều trường hợp không đủ điều kiện thanh toán đáo hạn.

2.2.6.4 Phương thức sản xuất

Tổ chức quản lý và sản xuất theo mô hình kinh tế hộ, trên địa bàn toàn

huyện mới có một số nhỏ doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Với

phương thức tổ chức quản lý sản xuất như hiện nay, đương nhiên tồn tại việc

"mạnh ai người ấy làm". Đây là một nguyên nhân chính dẫn đến việc không

điều tiết và kiểm soát được sản lượng và chất lượng sản phẩm theo cầu của thị

trường; đồng thời với mô hình kinh tế hộ, các chủ hộ không đủ điều kiện đầu

tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

48

2.2.7 Những ảnh hưởng của cơ chế chính sách Nhà nước và khoa học

công nghệ đối với phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao phong

2.2.7.1 Chính sách kinh tế- xã hội

Trong những năm qua, huyện đã tích cực hỗ trợ người dân phát triển

sản xuất, kinh doanh thông qua nhiều mô hình, chương trình ưu tiên, ưu đãi từ

các nguồn vốn, tổ chức tín dụng trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn…

Trong các mô hình tín dụng, hiệu quả nhất phải kể đến sự hoạt động

của Ngân hàng Chính sách xã hội huyện. Qua 15 năm hoạt động đến

31/7/2017 dư nợ đạt 231.805 triệu đồng, tăng 217.123 triệu đồng, gấp 17,8

lần so với năm 2002, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 22,4% với 12 chương

trình tín dụng chính sách đang triển khai. Chất lượng tín dụng ngày càng được

củng cố; tỷ lệ nợ quá hạn thấp, chỉ chiếm 0,07%/tổng dư nợ.

Từ nguồn vốn tín dụng chính sách đã có 37.973 lượt hộ nghèo, cận

nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn là 510.267 triệu đồng,

góp phần tạo việc làm cho 1.277 lao động nông thôn; hỗ trợ chi phí cho 282

người đi xuất khẩu lao động; giúp cho 2.431 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh

khó khăn được vay vốn đi học; xây dựng 8.161 công trình nước sạch và vệ sinh

môi trường góp phần nâng cao đời sống sinh hoạt, sức khỏe cho người dân; xây

dựng 1.350 ngôi nhà cho hộ nghèo... góp phần tích cực vào việc giải quyết vấn

đề an sinh xã hội và thực hiện mục tiêu xây dựng NTM tại huyện nhà.

Bên cạnh đó, với việc lấy cam là cây đặc sản thế mạnh, Cao Phong đã

mở rộng diện tích trồng cam. Đến nay toàn huyện có trên 50 hộ gia đình có

mức thu đạt từ 1 tỷ đồng/năm trở lên, thậm chí có những gia đình có mức thu từ

7 đến 10 tỷ đồng/năm từ trồng cam... Với hiệu quả kinh tế mà cây cam mang lại

cho địa phương đã nâng cao mức thu nhập bình quân của người dân đạt 32,8

triệu đồng/năm (năm 2016) và phấn đấu đạt 48 triệu đồng vào năm 2020.

49

Toàn huyện đã có 3 xã đạt chuẩn NTM, trong đó, xã Dũng Phong là địa

phương đầu tiên được tỉnh công nhận. Bình quân mỗi xã trên địa bàn toàn

huyện đạt 12,83 tiêu chí. Năm 2017, bên cạnh việc duy trì và nâng cao chất

lượng xây dựng NTM bền vững tại 3 xã đã đạt chuẩn, huyện phấn đấu có

thêm 1 xã đạt chuẩn và nâng mức bình quân 14,42 tiêu chí/xã. Toàn huyện chỉ

còn 21,87% tỷ lệ hộ nghèo, 12,12% tỷ lệ hộ cận nghèo (tính theo cách tiếp

cận chuẩn nghèo đa chiều). Huyện tiếp tục có những hỗ trợ người dân bằng

những chương trình, dự án, việc làm cụ thể, phấn đấu mỗi năm Cao Phong

giảm ít nhất 3% tỷ lệ hộ nghèo theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần

thứ XXVII đã đề ra. [5]

2.2.7.2 Chính sách khoa học – công nghệ

Chiến lược đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ vào sản

xuất của Đảng và Nhà nước đã có tác động mạnh mẽ đến sản suất và đời sống

của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được tiếp cận với Khoa

học và Công nghệ như các chính sách:

Chính sách đầu tư xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ KH & CN

phục vụ phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi, nhằm thực thi chỉ thị số

63/2002/CT-TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương II khoá VI lần

2, tăng cường đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ phát triển nông nghiệp

nông thôn. Chính sách này đã triển khai nhiều dự án xây dựng các mô hình

ứng dụng KH-CN vào sản xuất tại địa phương, tạo điều kiện cho nhân dân

được tiếp cận với những giống cây trồng, vật nuôi mới, các quy trình công

nghệ mới phụ vụ sản xuất.

Chính sách khuyến nông, khuyến lâm đã tạo điều kiện cho nhà khoa học

và người dân được tiếp cận nhau, cùng nhau trao đổi về Khoa học kỹ thuật,

kinh nghiệm sản xuất, giúp nhân dân định hướng và đưa ra quyết định đầu tư

sản xuất. Từ chính sách này mà không ít hộ dân đã thoát được nghèo, có hộ

50

đã vươn lên thành hộ khá, hộ giàu.

2.2.7.3 Một số vấn đề tồn tại trong việc vận dụng các chính sách vào thực tiễn

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của các chính sách đối với tình hình

kinh tế xã hội tại địa phương. Trong quá trình vận dụng các chính sách trên

thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề chưa thực sự hợp lý và mang lại hiệu quả cao

cho người dân như:

Việc tổ chức tiếp cận, tuyên truyền các chính sách, các quy định cho vay

vốn của các tổ chức Tài chính, Tín dụng đối với người dân còn hạn chế. Do

vậy nhiều người dân không có điều kiện tiếp cận vay vốn đầu tư. Thủ tục cho

vay vốn của các tổ chức Tín dụng, Ngân hàng có lúc chưa được thực hiện

“công bằng” với nhiều đối tượng đi vay.

Nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh còn thiếu và không đồng đều, chưa có

nhiều chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực hoạt động KH&CN.

Việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang thực hiện cơ chế tự

chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005

của Chính phủ ( nay là Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính

phủ) quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và

công nghệ công lập còn chậm và gặp nhiều khó khăn, bất cập.

Bên cạnh đó, nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động khoa học và công

nghệ còn hạn chế. Tỷ lệ chi cho KH&CN còn thấp. Công tác tham mưu, đề

xuất các chính sách của các cấp, ngành nhằm cụ thể hóa các định hướng, mục

tiêu, nội dung, nhiệm vụ hoạt động KH&CN vào kế hoạch hoạt động hàng

năm còn chưa đầy đủ, kịp thời dẫn đến quản lý nhà nước về khoa học và công

nghệ chưa đổi mới kịp với yêu cầu thực tế.

Tỉnh Hòa Bình cũng chưa có nhiều chính sách hấp dẫn thu hút doanh nghiệp

tham gia các đề tài, dự án KH&CN nói chung và nông nghiệp nói riêng.

51

Tiểu kết chương 2

Qua quá trình điều tra nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát tình hình

phát triển CAQ trên địa bàn huyện, tôi có một số nhận xét như sau:

Ưu điểm: Cao Phong đang trên đà phát triển mạnh cây Cam. Sản lượng cam

liên tục tăng cao từ 20.000 tấn vụ cam năm 2015-2016 lên 35.000 tấn năm

2018-2019. Cây ăn quả giúp cho người dân nơi đây giải quyết được những

khó khăn, bất lợi về địa hình đồi núi thành tiềm năng, lợi thế của địa phương,

đã góp phần giúp người nông dân xoá đói giảm nghèo và nhiều hộ đã đi đến

làm giàu, đồng thời đã mang lại một số hiệu quả nhất định cho môi trường

sinh thái.

Tồn tại: Công tác quản lý nhà nước và điều hành của các cấp chính

quyền địa phương chưa có sự tập trung cao đối với việc xây dựng chiến lược

phát triển trung hạn, dài hạn; Quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá; quản lý chất

lượng hàng hoá cho các loại sản phẩm chủ lực. Hiện tại mới dừng lại ở mức

độ các Chương trình, Kế hoạch, Đề án, Dự án đầu tư phát triển trong phạm vi

từ 3-5 năm.

Về kinh tế: Hiệu quả kinh tế từ phát triển, sản xuất cây cam giữa các

vùng có sự chênh lệch khá lớn. Do sự khác biệt bề địa hình, thổ nhưỡng, khí

hậu thời tiết, nguồn nước tưới…của các vùng sinh thái với yêu cầu của cây

cam; sự chênh lệch về năng lực đầu tư, sản xuất, của người dân giữa các vùng

sản xuất.

Về môi trường: Sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường như:

Sử dụng phân bón, thuốc BVTV bừa bãi, lạm dụng số lượng và số lần

sử dụng thuốc trong một chu kỳ sản xuất, không theo khuyến cáo của các cơ

quan chuyên môn. Gây ảnh hưởng không tốt đến vệ sinh an toàn thực phẩm,

sức khoẻ con người; đồng thời đây là nguyên nhân tiềm ẩn gây ô nhiễm

không khí, nguồn nước và môi trường sinh thái;

52

Khai thác, sử dụng bừa bãi nguồn nước ngầm để phục vụ sản xuất, gây

cạn kiệt nhanh nguồn tài nguyên nước, đồng thời tạo ra những đường dẫn cho

các loại hoá chất độc hại thẩm thấu xuống lòng đất gây ô nhiễm đất và nước.

Vì vậy, những năm gần đây tỷ lệ người mắc bệnh ung thư, vô sinh,.. của

huyện tăng cao.

Về xã hội: Việc làm và thu nhập của người dân tăng trưởng không ổn

định; đã xuất hiện tư tưởng bi quan đối với hiệu quả sản xuất, phát triển cây

ăn quả. Việc thể chế hoá các chính sách Nhà nước tại địa phương còn chậm,

có những nội dung còn chưa sát thực với thực tế tại địa phương.

Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu

cầu đào tạo nguồn nhân lực cho miền núi. Sản xuất cây cam chưa trở thành

một giải pháp kinh tế hữu hiệu đối với tất cả các vùng và các đối tượng đầu tư

phát triển, như người dân ở huyện Cao Phong kỳ vọng.

Những vấn đề nêu trên, đã đặt ra câu hỏi đối với sản xuất, phát triển

cây cam của huyện Cao Phong: Làm thế nào để sản xuất có hiệu quả kinh tế

tăng trưởng ổn định; sản xuất phải bảo vệ được sức khỏe con người, môi

trường sinh thái, và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; đáp ứng nhu cầu hiện

tại nhưng không làm tổn hại cho các thế hệ tương lai; làm tăng năng lực nội

sinh, năng lực tiếp cận các vấn đề xã hội cho người dân; đồng thời giải quyết

các vấn đề an sinh xã hội tại địa phương.

53

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

3.1 Quan điểm, định hướng phát triển cây cam

3.1.1 Quan điểm

Hiệu quả kinh tế là một thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt

động sản xuất, kinh doanh của mộ chủ thể kinh tế trong một chu kỳ sản xuất,

một giai đoạn sản xuất. Trong phân tích đánh giá luôn chú ý tới hiệu quả kinh

tế để xác định phương hướng và quy mô sản xuất. Tuy nhiên xét theo quan

điểm hệ thống nông nghiệp bền vững thì tăng trưởng và hiệu quả kinh tế phải

có lợi và gắn với hiệu quả về xã hội, không làm tổn hại cho thế hệ tương lai

và môi trường sinh thái.

Sản xuất và phát triển cây cam tại huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình đã

chiếm một vị trí quan trọng đối với người dân. Do đã khắc phục được những

khó khăn bất cập về địa hình của một huyện miền núi, biến nó trở thành một

tiềm năng, lợi thế. Phát triển, sản xuất cây cam đã trở thành một nguồn lực

đặc biệt quan trọng đối với công tác xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã

hội tại địa phương trong thời kỳ đổi mới.

Để giải quyết được những vấn đề nêu trên, sản xuất và phát triển CAQ

cần phải đạt được cả ba mục tiêu: Kinh tế tăng trưởng ổn định; sản xuất phải

giữ gìn và cải thiện môi trường sinh thái; hiệu quả kinh tế gắn liền vơí hiệu

quả xã hội.

3.1.2 Định hướng phát triển cây cam

Huyện Cao Phong xác định cây cam, quýt là cây mũi nhọn trong sản

xuất hàng hóa tập trung, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập và làm giàu

của bộ phận lớn người dân; thực hiện tiêu chí về thu nhập trong xây dựng

nông thôn mới. Huyện đang tập trung quy hoạch vùng cam, cơ cấu giống hợp

54

lý, thu hoạch rải vụ, như chín sớm, chín chính vụ, chín muộn. Tiếp tục chuyển

giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học

vào sản xuất. Sẽ thực hiện đồng bộ từ khâu giống, quy trình chăm sóc, quy

trình bón phân, kỹ thuật bảo vệ thực vật, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản

xuất… nhằm nâng cao sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cung cấp sản phẩm

sạch, an toàn cho người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, huyện phối hợp công an, quản lý thị trường tỉnh, quyết

ngăn chặn các loại cam từ nơi khác vào địa bàn, trà trộn với cam Cao Phong

tiêu thụ... Hiện đang có hai công ty đầu tư vào để xây dựng chuỗi giá trị đầu

ra. Huyện đã quy hoạch diện tích 2,3 ha chợ đầu mối thu gom tập trung, trong

đó có các kho bảo ôn để chứa cam.

3.2 Một số giải pháp phát triển cây cam trên địa bàn huyện cao Phong,

tỉnh Hòa Bình

3.2.1 Tiêu chuẩn chất lượng

3.2.1.1 Tiêu chuẩn VietGAP

Thực hiện định hướng phát triển thương hiệu cam Cao Phong, huyện đã

chủ động triển khai mô hình trồng cam theo tiêu chuẩn VietGAP. Trong đó đã

điều tra quy hoạch khoanh vùng sản xuất; mở hàng trăm lớp tập huấn kỹ thuật

trồng, chăm sóc cam, đặc biệt là việc lựa chọn giống, cách sử dụng phân bón

hợp lý, đúng quy trình; tổ chức tuyên truyền, lựa chọn hộ dân tham gia mô

hình, tập huấn đào tạo kỹ thuật, cung cấp nhận thức chung về sản xuất

VietGAP. Huyện đã phân công cán bộ thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám

sát sản xuất cam theo tiêu chuẩn VietGAP, kiên quyết không cấp giấy chứng

nhận và loại ra khỏi nhóm hộ những hộ dân không tuân thủ các quy trình sản

xuất. Cho đến nay, người dân trồng cam ở huyện Cao Phong đã nhận thức

được tầm quan trọng của trồng cam theo tiêu chuẩn VietGAP. Người dân

quan tâm đến chất lượng làm đất, nguồn nước, sử dụng chế phẩm sinh học

55

chăm sóc cây trồng để cam có giá trị dinh dưỡng cao, thực hiện nghiêm túc

các quy trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để sản phẩm khi bán ra thị trường

không ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.

Bắt đầu triển khai mô hình sản xuất cam theo tiêu chuẩn VietGAP từ

năm 2014, toàn huyện Cao Phong đã có 235 hộ dân tham gia mô hình với

diện tích 248, 36 ha tại thị trấn Cao Phong, các xã: Thu Phong, Bắc Phong,

Dũng Phong, Nam Phong, Tân Phong, Yên Lập. Năm 2016, sản lượng theo

tiêu chuẩn VietGAP đạt 3.000 tấn, giá bán từ 25.000 – 35.000 đồng /kg.

Mặc dù vậy, khó khăn lớn nhất khi nhân rộng mô hình sản xuất

VietGAP đó là khi tham gia mô hình, người dân phải tuân thủ nghiêm túc các

quy trình sản xuất VietGAP trong khi đó, giá bán cam, quýt không cao hơn

nhiều so với giá cam thông thường.

Đồng thời, các hộ dân tham gia mô hình VietGAP không được quy

hoạch khu vực riêng mà trồng gần sát với các hộ dân không tham gia mô hình

VietGAP dẫn tới việc trồng theo mô hình VietGAP bị ảnh hưởng.

3.2.1.2 Mô hình CSA sản xuất cam chất lượng cao tại huyện Cao Phong

CSA là từ viết tắt của nông nghiệp thông minh với khí hậu (Climate-

smart agriculture) hay còn gọi nông nghiệp ứng phó BĐKH. CSA hướng tới

đồng thời 3 mục tiêu: đảm bảo ANLT, thông qua tăng trưởng sản xuất lương

thực và tăng thu nhập, hiệu quả kinh tế; tăng khả năng thích ứng với BĐKH

của các hệ thống sản xuất nông nghiệp; và giảm phát thải khí nhà kính từ các

hoạt động nông nghiệp. Các mô hình CSA cũng hướng tới 3 mục tiêu trên.

Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình đã ban hành quyết định số 242/QĐ-SNN ngày

03/03/2017 về việc phê duyệt kế hoạch Hợp phần 3: Hỗ trợ nông nghiệp

thông minh thích ứng biến đổi khí hậu (CSA), dự án thành phần Cải thiện

nông nghiệp có tưới tỉnh Hòa Bình (WB7). Mô hình CSA sản xuất cam chất

56

lượng cao tại huyện Cao Phong được thực hiện tại các xã Thu Phong, xã Bắc

Phong, xã Tây Phong và huyện Cao Phong.

Thực hiện mô hình CSA sản xuất cam chất lượng cao tại huyện Cao

Phong bao gồm: - Hỗ trợ cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống tưới tiêu

- Hỗ trợ thực hiện mô hình CSA:

+ Hỗ trợ máy móc nhỏ, dụng cụ sản xuất: Máy làm đất, máy phun

thuốc, thiết bị kiểm tra pH và độ ẩm đất, dụng cụ chăm sóc vườn,...

+ Hỗ trợ vật tư, phân bón: Phân đạm, lân, kali, thuốc BVTV, phân bón

lá,...

+ Hỗ trợ xây dựng mô hình: Các biện pháp kỹ thuật giúp cây sinh

trưởng tốt, năng suất cao, sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm,

hình thức và kích thước quả đồng đều,...

Để phù hợp với sản lượng cam sẽ tiếp tục tăng do sự mở rộng quy mô

sản xuất, cải thiện các gói kỹ thuật cho vùng cam của huyện Cao Phong nói

riêng và tỉnh Hòa Bình nói chung, hỗ trợ về công nghệ bảo quản chế biến cam

sau thu hoạch là rất cần thiết. Các hỗ trợ này sẽ được thực hiện với các nội dung

+ Tăng cường các mối liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa nông

dân và doanh nghiệp tiêu thụ;

+ Công nghệ bảo quản sản phẩm cam sau thu hoạch: Để kéo dài thời

gian bảo quản sản phẩm cam, giúp giãn thời gian tiêu thụ nhưng vẫn đảm bảo

giá thành và chất lượng, công nghệ bảo quản bằng kho cấp đông có kiểm soát

nhiệt độ và các yếu tố khác;

+ Công nghệ chế biến sau thu hoạch: Khối lượng lớn sản phầm cam

được thu gom và chế biến thành nước ép đảm bảo khai thác tối đa giá trị và đa

dạng hóa các sản phẩm của cam Cao Phong.

- Kỹ thuật áp dụng trong mô hình: Mô hình Cam tại Cao Phong sẽ được

quản lý và áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật là quản lý đất và độ ẩm;

57

cắt tỉa, tạo hình; quản lý dinh dưỡng và bón phân; phòng trừ sâu bệnh hại, thu

hoạch. Bên cạnh những công việc mang tính chuyên môn, các biện pháp kỹ

thuật phải tuân thủ theo các quy định của Quy trình VietGap.

Mô hình CSA dự kiến thực hiện trong 3 năm từ 2016-2018 nhưng đến

nay vẫn chưa đánh giá được kết quả thực hiện.

3.2.2 Chuỗi giá trị

Trên thực tế, mặc dù có chất lượng nổi bật và đã được bảo hộ chỉ dẫn

địa lý từ cuối năm 2014, nhưng đến nay, sản phẩm cam Cao Phong đang phải

cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Sự gia tăng

mạnh về sản lượng cam trong tỉnh cũng như các tỉnh khác trong cả nước đòi

hỏi cam Cao Phong phải tìm được hướng đi có tính chất đột phá, giúp củng cố

và nâng tầm thương hiệu. Xuất phát từ nhận thức đó, HTX Hà Phong đã triển

khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cam

Cao Phong. Trong đó, giải pháp đột phá được xác định khi HTX triển khai mô

hình "Cam hữu cơ theo chuỗi sản xuất và chế biến ra các sản phẩm từ quả

cam tươi”. HTX Hà Phong là một trong những HTX thí điểm được Trung tâm

Các chương trình kinh tế - xã hội lựa chọn hỗ trợ xây dựng mô hình HTX

phát triển sản xuất gắn với chuỗi giá trị trong năm 2018.

Trên diện tích khoảng 200 ha, HTX Hà Phong áp dụng hoàn toàn quy

trình sản xuất cam VietGAP, từng bước hướng tới sản xuất cam hữu cơ. Quá

trình canh tác đều sử dụng các loại vật tư phân bón theo hướng hữu cơ như

ngô, đậu tương, cá tươi ủ với men vi sinh… để bón, tưới. Đồng thời, tăng

cường cải tạo đất, giảm thiểu sử dụng các loại phân bón hóa học cũng như

phun thuốc diệt cỏ. Quy trình sản xuất nghiêm ngặt từ khâu chăm sóc, chế

biến đến tiêu thụ sản phẩm giúp HTX luôn bảo đảm tốt chất lượng sản phẩm.

Đối với khâu thu hoạch, quả cam được cắt, xếp vào thùng xốp cẩn thận, tránh

dập tinh dầu. Khi vận chuyển về kho sơ chế được phân loại sản phẩm theo

58

quy định nghiêm ngặt về màu sắc, kích cỡ, cấu trúc múi tinh dầu… Sau đó,

sản phẩm được dán tem truy xuất nguồn gốc rồi vận chuyển tới nơi tiêu thụ.

Thông qua đề án hỗ trợ xây dựng HTX gắn với chuỗi giá trị, Trung tâm Các

chương trình kinh tế - xã hội đã hỗ trợ HTX về mặt kinh phí, xây dựng thống

nhất quy trình sản xuất cây ăn quả có múi, bảo đảm an toàn thực phẩm và

VietGAP, với trọng tâm sản xuất và phát triển thương hiệu để nâng cao chất

lượng sản phẩm cây có múi. Đến năm 2018, HTX đã bố trí cân đối được diện

tích trồng các loại cây có múi, đa dạng chủng loại giống đáp ứng thị hiếu

người tiêu dùng và kéo dài thời gian thu hoạch. Hiện HTX có khả năng cung

cấp sản phẩm quả tươi 8 - 9 tháng trong năm (từ tháng 8 tới tháng 3 năm sau).

Thành tựu HTX đạt được như sau:

Thứ nhất, về sản xuất, HTX đã xây dựng được thương hiệu "Cam Hà

Phong" với những sản phẩm đạt tiêu chuẩn, có gắn tem thông minh truy xuất

nguồn gốc.

Thứ hai, về tiêu thụ, HTX chủ động được nguồn tiêu thụ tại các trung

tâm lớn như Hà Nội và bước đầu đã ký kết hợp đồng tiêu thụ với các doanh

nghiệp như VinMart, Big C… từ đó ổn định được đầu ra và giá trị sản phẩm.

Thứ ba, với quyết tâm tạo đột phá về giá trị cho sản phẩm cam Cao Phong,

HTX Hà Phong đã chủ động đầu tư nhà xưởng, máy móc, thiết bị để chế biến

sâu các sản phẩm từ cam như rượu cam, mứt cam, sirô cam, tinh dầu cam,

nước cam lên men, xà phòng cam… Đến nay, HTX Hà Phong đã đưa ra thị

trường 9 sản phẩm chế biến từ cam. Đây cũng chính là những sản phẩm đầu

tiên thực hiện theo mô hình sản xuất theo chuỗi các sản phẩm từ cam của

huyện Cao Phong. Trong bối cảnh thị trường đang có nguy cơ bị bão hòa các

sản phẩm cam quả ăn tươi, giải pháp chế biến các sản phẩm từ cam quả được

HTX Hà Phong tin tưởng sẽ tạo đột phá đưa sản phẩm cam Cao Phong tiếp

cận thị trường tốt hơn, từ đó nâng cao giá trị gia tăng, đưa thương hiệu cam

Cao Phong lên một vị thế mới.

59

Tuy nhiên nguồn vốn là một hạn chế lớn cần giải quyết của HTX Hà Phong.

Bên cạnh đó, HTX Hà Phong mới chỉ là một trong những HTX thí điểm để hỗ

trợ xây dựng mô hình HTX phát triển sản xuất gắn với chuỗi giá trị trong năm

2018. Tỉnh Hòa Bình nói chung và huyện Cao Phong nói riêng cần triển khai

thêm nhiều chuỗi giá trị nữa nhằm đảm bảo tạo ra các kết nối cung cầu cho

sản phẩm.

3.2.3 Hệ thống tiêu thụ

Diện tích trồng cam Cao Phong không ngừng được mở rộng qua mỗi

năm. Sản lượng ngày càng tăng nhanh chóng. Đây cũng là lúc cần đến những

giải pháp kết nối, tiêu thụ tìm đầu ra ổn định, để giữ gìn và phát triển bền

vững thương hiệu cho loại nông sản nổi tiếng này. Huyện Cao Phong đang

kêu gọi nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng chợ đầu mối để tiêu thụ sản

phẩm cho người dân khi bước vào vụ thu hoạch.

Cam Cao Phong hiện nay chưa được xuất khẩu. Muốn xuất khẩu được cam

Cao Phong cần phải làm tốt quy trình trồng cây theo tiêu chuẩn GlobalGap, phát

triển các loại hình dịch vụ chế biến, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.

3.2.4 Khoa học công nghệ

3.2.4.1 Giống cây

Các giống cam trồng tại huyện Cao Phong đều có nguồn gốc di thực.

Do phù hợp với điều kiện khí hậu, nông hóa và thổ nhưỡng nơi đây nên

không chỉ duy trì được những đặc tính di truyền tốt của giống gốc mà còn thể

hiện một số ưu thế nổi bật về chất lượng. Cam Canh, cam Xã Đoài, cam

CS1... Mỗi giống cam cho ra những sản phẩm có đặc tính riêng không trộn

lẫn nhưng đều giống nhau ở vị ngọt đậm đà, mùi thơm đặc trưng.

Xác định cơ cấu chủng loại cây có múi nhằm khai thác hiệu quả tiềm

năng đất đai, nâng cao năng suất, phẩm chất và có khả năng rải vụ là những

định hướng quan trọng mà tỉnh Hòa Bình đã đặt ra. Trong giai đoạn tới nâng

60

cơ cấu diện tích cam chín sớm CS1 lên khoảng 20-30%, diện tích trồng cam

muộn khoảng 35% và giảm diện tích cam chính vụ từ 45% hiện nay xuống

35% vào năm 2020.

Ngoài các giống chủ lực hiện có, tăng cường phối kết hợp với các cơ sở

nghiên cứu nhập nội các giống có triển vọng để chọn lọc các giống quý phù hợp

với điều kiện sinh thái vùng nhằm đa giạng hóa sản phẩm cây ăn quả có múi.

Trọng tâm của công tác tuyển chọn giống cây ăn quả có múi là bình

tuyển và phục tráng các giống đặc sản bao gồm cam Xã Đoài, Vân Du, cam

Canh, cam V2, cam CS; các giống bưởi Diễn, Tân Lạc, Da xanh và một số

giống cây có múi bản địa để làm vật liệu khởi đầu cho công tác nhân giống.

Đây là công việc thường xuyên, liên tục góp phần quan trọng trong quy trình

nhân giống.

3.2.4.2 Kĩ thuật trồng cây ăn quả

Huyện Cao Phong đã và đang:

- Tổng kết và phổ biến các mô hình thiết kế vườn cây cam thích hợp

sinh thái của từng vùng, kết hợp với cây ngắn ngày.

- Nghiên cứu ứng dụng các kĩ thuật có hiệu quả cao trong nghề làm

vườn nhằm phổ biến cho nông dân trồng cam theo hướng thâm canh cao như:

Kĩ thuật trồng mật độ dày, kĩ thuật bón phân, tưới nước,…

3.2.5 Quy hoạch đáp ứng yêu cầu phát triển

Công tác quy hoạch tổng thể nông nghiệp của vùng, trong đó có việc

xác định vùng trồng cây cam phù hợp sinh thái, phù hợp cơ cấu cây trồng

tương lai là rất quan trọng. Bởi vì cây cam đòi hỏi sự đầu tư lớn và phải hợp

lý ngay từ đầu mới đem lại hiệu quả lâu dài. Nếu không được tổ chức sản xuất

một cách hợp lí và có hệ thống thì sẽ rơi vào tình trạng tự phát của nông dân

theo lối sản xuất nhỏ, không tạo được những sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu

của nền kinh tế thị trường.

61

Để các vùng chuyên canh cây cam đem lại hiệu quả cao, cần quy hoạch vườn

cam kết hợp du lịch sinh thái.

Tại vùng cam Cao Phong, năm 2019, toàn huyện có trên 3.000 ha cây

ăn quả có múi, trong đó riêng cây cam, quýt các loại có diện tích khoảng

2.600 ha. Nhìn chung, đây là diện tích thực hiện theo đúng quy hoạch của

UBND tỉnh. Huyện quyết liệt thực hiện chủ trương không mở rộng diện tích

trồng cam ở những vùng ngoài quy hoạch. Các xã, thị trấn cũng quán triệt

nghiêm túc chủ trương này để đôn đốc, vận động nhân dân thực hiện tốt, hạn

chế tối đa tình trạng gia tăng diện tích dẫn tới phá vỡ quy hoạch, phát triển

nóng cây ăn quả có múi trên địa bàn huyện.

UBND huyện Cao Phong công khai, thông tin rộng rãi để người dân và

các nhà đầu tư biết về diện tích,địa bàn được quy hoạch trồng cây ăn quả có

múi để huy động nguồn lực phát triển thành những vùng sản xuất tập trung.

Mặt khác, kiểm soát mức độ gia tăng diện tích ngoài quy hoạch bằng cách

tuyên truyền, hướng dẫn chuyển đổi sang cây trồng khác có hiệu quả hơn.

3.2.6 Cơ chế chính sách

Để thực hiện tốt việc phát triển bền vững cây cam ở tỉnh Hòa Bình thì

chính sách đầu tư vốn, tạo vốn là chính sách không thể thiếu được. Để có vốn,

các địa phương phải cần thiết qui hoạch nhiều nguồn vốn khác nhau vì nếu

chỉ dựa vào nguồn vốn ngân sách Trung ương sẽ không thể nào đáp ứng đầy

đủ. Nguồn vốn cần được quan tâm đó là cung cấp tín dụng cho nông dân

trong vùng qui hoạch.

Tỉnh Hòa Bình đang có dự thảo thực hiện “Dự án xây dựng hợp tác xã

kiểu mới, liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả theo chuỗi giá trị

đảm bảo an toàn thực phẩm tại huyện Cao Phong, Lạc Thủy và Kim Bôi năm

2018 – 2019” với thời gian thực hiện dự kiến từ tháng 12/2018 đến tháng

62

12/2020, dự kiến kinh phí thực hiện là 2.568.800.000 đồng. Mục tiêu cụ thể

của dự án là:

- Hỗ trợ xây dựng các mô hình hợp tác xã kiểu mới, tạo liên kết từ sản

xuất đến tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả theo chuỗi giá trị, làm cơ sở từ đó nhân

rộng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.

- Sản xuất cây ăn quả theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt

(VietGAP), tạo ra các sản phẩm an toàn, nâng cao năng suất, chất lượng giá

trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ hiện nay.

- Ứng dụng hệ thống tem điện tử thông minh truy xuất nguồn gốc sản

phẩm, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, xúc tiến thương mại, mở rộng thị

trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường Hà Nội.

- Nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống của các hộ thành

viên hợp tác xã và người lao động tại địa phương.

- Thu hút thêm các hộ sản xuất tham gia vào thành viên hợp tác xã;

tăng quy mô, diện tích, tạo vùng sản xuất tập trung quy mô lớn.

- Làm mô hình điểm để nhân rộng trên địa bàn tỉnh.

Tiểu kết chương 3

Tỉnh Hòa Bình nói chung và huyện Cao Phong nói riêng đã có những

định hướng phát triển cây cam theo hướng bền vững. Tuy nhiên các giải pháp

phát triển bền vững trong những năm gần đây vẫn chưa thấy được hiệu quả rõ

rệt. Các giải pháp về chuỗi giá trị, hệ thống tiêu thụ, ... chưa giải quyết được

triệt để vấn đề.

63

ĐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

1. Đề nghị

Huyện Cao Phong có nhiều lợi thế phát triển cây cam so với các huyện

khác. Như vậy, để phát huy thế mạnh vượt trội này và tạo cơ hội cho cây cam

Cao Phong phát triển bền vững trong thời gian tới, đòi hỏi các cấp, các ngành

từ Trung ương đến địa phương cần quan tâm giải quyết một số vấn đề sau:

* Đối với Đảng và nhà nước

Cần có những chủ trương chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, khuyến

khích đầu tư trong việc trồng cam tạo điều kiện giúp nông dân phát triển sản

xuất; cải thiện đời sống, từng bước nâng cao khả năng hội nhập kinh tế đất

nước thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Cần có các dự án hỗ trợ nhà

vườn trong việc thực hiện sản xuất theo GAP, tập trung đầu tư phát triển

thành vùng sản xuất chuyên canh hàng hóa có khả năng cạnh tranh, đặc biệt là

hỗ trợ trong đầu tư cơ bản, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới, công

nghệ sạch cho cây cam. Phải có chiến lược hợp lí cho phát triển công nghiệp

để phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với sản xuất phát triển cây

cam. Ngoài ra, nhà nước cần tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, có

chính sách bình ổn giá cam Cao Phong ở mức hợp lí.

* Đối với các cấp chính quyền địa phương

Tỉnh cũng cần có chính sách ưu đãi về vốn để khuyến khích các thành

phần kinh tế tham gia đầu tư vào các lĩnh vực: sơ chế, bảo quản, chế biến, vận

chuyển và tiêu thụ quả.

Mặt khác, UBND tỉnh cần sớm thành lập cơ quan kiểm định chất lượng

quả cam để kiểm tra chất lượng quả khi lưu thông trên thị trường.

Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình cần hợp tác với các cơ quan khoa học (Viện,

Trường Đại học) để du nhập, khảo nghiệm và bình tuyển các giống cam đầu

dòng mới nhằm bổ sung vào bộ giống cây có triển vọng phát triển của huyện.

64

Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình cần phối hợp Sở Văn hóa và Du lịch xây

dựng kế hoạch phát triển kinh tế vườn kết hợp du lịch sinh thái. Cần có sự

phối hợp đồng bộ giữa ngành Nông nghiệp, Ngân hàng, Địa chính nhằm tạo

điều kiện cho nhà vườn vay vốn: kịp thời, đúng đối tượng cây trồng để sử

dụng đồng vốn đúng mục đích.

2. Kết luận

Là một huyện miền núi nhưng Cao Phong lại là một trong những địa

phương đi đầu trong phát triển kinh tế – xã hội cũng như công tác xóa đói

giảm nghèo của tỉnh Hòa Bình. Đóng góp cho thành quả này không thể không

nhắc đến việc phát triển thành công cây cam đặc sản. Cam Cao Phong không

chỉ thơm ngon mà còn thay đổi diện mạo của một huyện vùng cao của núi

rừng Tây Bắc.

Cùng với việc phát triển quy mô sản xuất, chất lượng cam Cao Phong ngày

càng được nâng cao, quả cam to đều hơn, ngon, ngọt hơn. Cam Cao Phong đã

tạo nên một thương hiệu của tỉnh Hòa Bình và mang những giá trị, tiềm năng

phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế cho đồng bào các dân tộc nơi đây.

Hiện nay tuy không còn tình trạng được mùa, mất giá như một số năm trước

nhưng sản phẩm cam Cao Phong vẫn tiêu thụ phụ thuộc vào bán lẻ và tư

thương là chủ yếu. Lượng cam tiêu thụ trong chuỗi siêu thị còn chưa nhiều.

Vì vậy, trong những năm tới lượng cam cho thu hoạch ngày càng lớn thì khâu

tiêu thụ sẽ gặp khó khăn.

Như vậy, để khai thác hợp lí các nguồn lực tự nhiên, kinh tế xã hội và

để huyện Cao Phong trồng cam phát triển hiệu quả, ổn định, bền vững trong

thời gian tới, tỉnh Hòa Bình nói chung và huyện Cao Phong nói riêng cần phải

nâng cao cơ sở vật chất, đầu tư thực hiện qui hoạch vùng chuyên canh, tác

động mạnh khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, giống, bảo quản

sau thu hoạch, vệ sinh an toàn nông sản,… nâng dần trình độ sản xuất, nâng

65

cao chất lượng trái cây phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, cần xây

dựng một đội ngũ cán bộ nắm vững luật thương mại các nước, liên kết các

doanh nghiệp, nông dân, hỗ trợ kĩ thuật trái cây an toàn, biện pháp nâng cao

chất lượng bảo quản, chế biến sau thu hoạch, hạ giá thành sản phẩm, xây

dựng thương hiệu trái cây, tìm thị trường tiêu thụ ổn định cho nông dân, tạo

cơ hội cho cam Cao Phong đứng vững trên sân nhà và vươn xa trên thị trường

quốc tế.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Côn (1987), Bài giảng cây ăn quả, Trường Đại học Nông

nghiệp I – Hà Nội

2. Lê Cao Đoàn (1993), Phát triển kinh tế lịch sử và học thuyết, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội

3. Bùi Kim Đồng, Trịnh Văn Tuấn (2017), Tác động của bảo hộ chỉ dẫn địa

lý đến phát triển sản xuất hàng hóa của cam cao phong tỉnh Hòa Bình,

Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(78)/2017

4. Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012), Phát triền bền vững – Những vấn đề lý

luận, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, (số 10), tr. 10-20.

5. Nguyễn Minh Luân (2016), Nông nghiệp tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng

bền vững, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

6. Nguyễn Thị Phương Loan, Trần Thị Tuyết Thu, Đặng Thanh An (2016),

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam tại huyện Cao

Phong, tỉnh Hòa Bình, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái

đất và Môi trường, Tập 32, Số 1S (2016) 260-266

7. Trang thông tin điện tử huyện Cao Phong,

http://caophong.hoabinh.gov.vn/ch-c-nang-nhi-m-v, (21/05/2014)

8. Trang thông tin điện tử huyện Cao Phong,

https://caophong.hoabinh.gov.vn/gioi-thieu-kcn/465-lach-sa-phat-trian-

cay-cam-a-cao-phong

9. Đào Thế Tuấn (1997), Cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng. NXB

Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Tuất, Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Trần Hiếu, Lê Kim

Thoa và CS (2018), Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cam an toàn theo

VietGAP, Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT.

67

11. Trần Thế Tục - Vũ Mạnh Hải - Đỗ Đình Ca (1995): Các vùng trồng cam

quýt chính ở Việt Nam. Thông tin chuyên đề sản xuất và thị trường quả có

múi số 19/1995.

12. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2016), Số 384/UBND-

NN&PTNT thông tin, thông báo kết thúc vụ thu hoạch sản phẩm cam quả

huyện Cao Phong, ban hành ngày 20/06/2016.

13. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2017), Số 277/UBND-

NN&PTNT thông tin, thông báo kết thúc vụ thu hoạch sản phẩm cam quả

huyện Cao Phong, ban hành ngày 24/05/2017

14. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2018), Báo cáo số 240/BC-

UBND kết quả thực hiện dồn điền, đổi thửa đất sản xuất Nông nghiệp từ

năm 2015-2018 trên địa bàn huyện Cao Phong, ban hành ngày

31/08/2018

15. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2018), Số 529/UBND-

NN&PTNT thông tin, thông báo kết thúc vụ thu hoạch sản phẩm cam quả

huyện Cao Phong, ban hành ngày 09/07/2018

16. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2018), Tờ trình số 04/TTr-

UBND về việc đề nghị xây dựng nhà máy chế biến hoa quả trên địa bàn

huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, ban hành ngày 11/01/2018

17. UBND huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình (2019), Số 435/UBND-

NN&PTNT thông tin, thông báo kết thúc vụ thu hoạch sản phẩm cam quả

huyện Cao Phong, ban hành ngày 04/06/2019

18. UBND tỉnh Hòa Bình (2019), Quyết định số 852/QĐ-UBND về việc phê

duyệt điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử

dụng đất năm 2016 huyện Cao Phong

19. Đỗ Năng Vịnh (2018), Bùng nổ sản xuất cây ăn quả có múi: Mừng hay

lo? https://nongnghiep.vn/bung-no-san-xuat-cay-an-qua-co-mui-mung-

hay-lo-post221152.html.

68

PHỤ LỤC 1

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU HỘ GIA ĐÌNH TRỒNG CAM

1. Tên hộ gia đình?

2. Địa chỉ gia đình (thuộc xã nào của huyện)?

3. Thành phần gia đình? Lao động trong gia đình phục vụ sản xuất nông

nghiệp? Có phải thuê lao động ngoài không?

4. Gia đình bắt đầu trồng cam từ bao giờ?

5. Diện tích đất trồng cam của hộ gia đình?

6. Năng suất cây trồng trong thời gian qua như thế nào?

7. Tình hình sử dụng phân bón và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng

cam của gia đình như thế nào?

8. Chi phí trung bình hàng năm đầu tư cho trồng cam? Gia đình có vay vốn

để trồng cam không? Nguồn vay (nếu có)?

9. Giá bán của cam qua các năm có sự thay đổi nhiều không? (Tăng, giảm

như thế nào)

10. Thu nhập của gia đình trong việc trồng cam?

11. Gia đình có áp dụng công nghệ gì vào trồng cam không?

12. Gia đình thu hoạch cam như thế nào? (có áp dụng công nghệ gì vào thu

hoạch cam không hay thu hoạch thủ công).

13. Bảo quản cam như thế nào?

14. Gia đình tiêu thụ cam như thế nào? Có khó khăn gì trong việc tiêu thụ

cam không?

15. Gia đình có tham gia vào liên kết sản xuất kinh doanh trồng cam nào

không (hợp tác xã, công ty,...)? Nếu có tham gia thì liên kết sản xuất kinh

doanh có lợi ích gì hơn so với không tham gia không?

16. Chính quyển địa phương và tỉnh có hỗ trợ, chính sách, nghị định gì về

phát triển cây cam không? Gia đình thấy chính sách đó có còn hạn chế gì

không?

69

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÂY CAM CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH

70

71