VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THANH TUẤN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THANH TUẤN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số
: 8 34 04 10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
LÊ THANH TUẤN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP ............................................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ............................................ 9
1.2. Hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số địa phương và bài học
cho Điện Bàn ............................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG
NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ....................... 30
2.1. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn ........................................................................................... 30
2.2. Tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm (2014-2018) ........................... 34
2.3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn ....................................... 37
2.4. Đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn thời
gian qua ..................................................................................................................... 58
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN .......................................................................................................................... 69
3.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã .................... 69
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị
xã Điện Bàn trong thời gian tới ................................................................................. 70
3.3. Một số kiến nghị ................................................................................................. 78
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 UBND Ủy ban nhân dân
2 HTX Hợp tác xã
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
Một số chỉ tiêu kinh tế thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-
2.1
32
2018
2.2
Thu – chi trong cân đối ngân sách thị xã Điện Bàn
32
Tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp thị xã Điện Bàn
2.3
34
giai đoạn 2014-2018
Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2014-
2.4
36
2018
Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực chăn nuôi giai đoạn 2014-
2.5
36
2018
Hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước cho hợp tác xã
2.6
46
nông nghiệp
Số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện
2.7
49
Bàn giai đoạn 2016-2018
2.8
Đặc điểm chung của các hợp tác nông nghiệp
50
2.9
Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp
52
2.10
Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác
54
2.11
Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các hợp tác
54
Quy mô sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp
2.12
56
trên địa bàn thị xã
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai làm
tư liệu sản xuất chính để trồng trọt, chăn nuôi tạo ra nhiều loại sản phẩm thiết yếu
cho đời sống xã hội và tạo nền tảng cho các ngành kinh tế khác phát triển. Thực tiễn
đã cho thấy, nông nghiệp có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Do đó, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là vấn đề có tầm chiến
lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp lại càng có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
đối với một nước đang phát triển như Việt Nam.
Phát triển kinh tế hợp tác còn là một chủ trương xuyên suốt, nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta. Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, hoạt động
trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; dựa trên tinh
thần hợp tác, chia sẻ, mang lại lợi ích cho các thành viên và xã hội; không chỉ đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có đóng góp quan trọng trong phát triển văn
hóa, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Với nhận
thức như trên, để thực hiện chủ trương “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, ngành Nông nghiệp xác định
nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là nhiệm vụ
trọng tâm để phát triển đa dạng các hình thức tổ chức hợp tác của nông dân nhằm
thực hiện liên kết sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững.
Thị xã Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam.
Điện Bàn có diện tích tự nhiên là 21.471 ha, trong đó có 10.046 ha đất nông nghiệp.
Dân số có 203.295 người. Đơn vị hành chính gồm 7 phường, 13 xã. Cách tỉnh lỵ
Tam Kỳ 48km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 25km về phía Nam. Với vị trí
gần đầu mối giao thông và các đô thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho công tác phát
triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
1
Người dân Điện Bàn đa phần sống bằng nghề nông là trồng lúa nước, cây
công nghiệp ngắn ngày, cây hoa màu... nổi tiếng nhất thị xã là khối Bình Ninh,
phường Điện Nam Bắc, nơi đây là vùng chuyên trồng các loại rau màu như: cải, khổ
qua, đưa leo, bí, bầu, cà... cung cấp nông sản cho nhân dân trong vùng và thành phố
Đà Nẵng, thị xã Hội An. Trong những năm gần đây, kinh tế của thị xã đang trên đà
phát triển và đời sống của người dân dần được cải thiện. Người dân nơi đây đã
mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, con giống, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để
thực hiện cơ giới hóa làm tăng năng suất, chất lượng góp phần phát triển kinh tế.
Thời gian qua, được sự quan tâm của Cấp ủy, Chính quyền, các tổ chức đoàn
thể nên các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã đã có
những chuyển biến rõ rệt. Nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác đã phát triển đa dạng ngành
nghề kinh doanh, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập cho xã viên. Các loại hình
kinh tế hợp tác phát triển phong phú, đa dạng theo nhu cầu liên kết. Ngày càng
nhiều hợp tác xã sản xuất chế biến sản phẩm nông nghiệp theo hướng phát triển bền
vững. Tuy nhiên bên cạnh đó, việc phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp vẫn còn một số tồn tại như: một số cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến
khích chậm được triển khai; một số mô hình còn hoạt động kém hiệu quả, mang
tính hình thức, chưa xây dựng được niềm tin cho xã viên; bộ máy quản lý hợp tác
xã yếu kém, chưa chủ động trong việc xây dựng và triển khai các hoạt động sản
xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường, liên kết sản xuất; nội lực của các mô hình hợp
tác trong nông nghiệp còn yếu, quy mô nhỏ lẻ. Để đáp ứng được mục tiêu đổi mới
toàn điện cả về nội dung và hình thức hợp tác liên kết trong nông nghiệp thì trong
thời gian tới, thị xã Điện Bàn cần có các giải pháp cụ thể, hiệu quả để khắc phục
những hạn chế còn tồn tại, nhằm phát triển đa dạng các loại hình tổ chức hợp tác
trong nông nghiệp gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới, thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp hàng hóa theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Vì vậy, nghiên cứu phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thị xã Điện
Bàn là rất cần thiết. Do đó tôi chọn đề tài "Phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam" để làm luận văn Thạc sĩ
kinh tế.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, có những
tài liệu sau đây :
- Lý luận về hợp tác hóa nông nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở
nước ta, do Giáo sư PTS Lưu Văn Sùng chủ biên. NXB Sự thật, H, 1990.
- Vài nét về hợp tác hóa nông nghiệp ở các nước trên thế giới, của Nguyễn
Văn Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 178, H, 1990.
- Đổi mới mô hình hợp tác xã nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Quảng Nam.
- Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012, Phạm Việt
Dũng (2016), Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 4/3/2016.
- Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình,
Nguyễn Thanh Đức (2014 Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị).
- Giáo trình Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, TS. Phạm Thị Minh Nguyệt
(2006), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
Qua các tài liệu nghiên cứu đã chỉ rõ về khái niệm, đặc điểm và những những
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp:
“Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp được hiểu là sự mở rộng về quy
mô, nâng cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hình
thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Theo đó,
sự phát triển này bao gồm sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các loại hình
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung
tự nguyện hợp tác ngày càng tăng, cùng với đó là sự gia tăng về vốn góp, về sức lao
động, về sức mạnh tập thể của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Từ
đó góp phần tăng mức đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của
đất nước.
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp có vị trí rất quan trọng không chỉ trong nội
bộ ngành mà còn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành sản xuất
nông nghiệp không những sản xuất ra tư liệu tiêu dùng mà còn sản xuất ra nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng và
3
các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thì Nhà nước đóng
vai trò là nhân tố quan trọng và quyết định. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo từ việc
xây dựng chủ trương, ban hành các chính sách, xây dựng cơ chế điều hành, tạo
nguồn vốn và tổ chức thực hiện. Cùng với những thời cơ, thuận lợi do quá trình đổi
mới đất nước mang lại, kinh tế của nước ta sẽ phải đối mặt với những khó khăn,
thách thức từ tình hình kinh tế thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro; áp lực cạnh tranh sẽ
ngày càng gay gắt, nhất là sản xuất nông nghiệp; quan nhà nước cần có cơ chế,
chính sách hỗ trợ các hợp tác xã, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới phục vụ
sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ cao,
nhằm đánh thức tiềm năng về đất đai, lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật; Để
phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, vai trò của các cơ quan,
ban ngành, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội là nhân tố không thể thiếu,
nó được thể hiện bằng sự chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ phát triển các loại hình kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp trên các mặt hoạt động như vốn, tạo thị trường tiêu thụ
sản phẩm, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất vv…
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của thị xã
Điện Bàn, có các tài liệu sau:
- Báo cáo số 35/ BC – UBND ngày 19 tháng 11 năm 2018 của UBND thị xã
Điện Bàn về tình hình phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp trên địa
bàn thị xã Điện Bàn 3 năm (2016 – 2018).
- Báo cáo số 21/BC – UBND ngày 18 tháng 5 năm 2012 của UBND thị xã
Điện Bàn về tổng kết thi hành Luật hợp tác xã năm 2003 và triển khai luật hợp tác
xã 2012.
- Báo cáo số: 14/ BC – UBND ngày 15 tháng 11 năm 2015 về sơ kết 3 năm
thực hiện Luật hợp tác xã và nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông
nghiệp.
- Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của thị xã năm 2014, 2015, 2016, 2017,
2018.
Qua các tài liệu nghiên cứu phản ánh đa phần kinh tế hợp tác trong nông
4
nghiệp trên địa bàn thị xã mới chỉ tập trung hoạt động đối với các dịch vụ đầu vào
cho sản xuất nông nghiệp như: Cung ứng giống, vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật,
thủy lợi nội đồng...; còn các dịch vụ rất quan trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ
sản phẩm chưa được quan tâm, nên thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân
ít, hiện mới chỉ có khoảng 10% số loại hình kinh tế hợp tác thực hiện việc bao tiêu
một phần nông sản cho nông dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và
giá trị của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó có một số hợp tác xã được hình thành
không đúng bản chất của hợp tác xã theo Luật quy định, chủ yếu là để hưởng các
chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng
hoạt động và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để
đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã với
thành viên; vốn ít, doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao, một số hoạt
động hình thức.
Hiện nay nhu cầu liên kết là rất lớn, tuy nhiên việc hợp tác để thực hiện liên
kết được với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn
phải “tự làm, tự bán ” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm và thu nhập của người dân.
Thứ ba, về các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của thị
xã Điện Bàn, có các tài liệu sau:
- Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế hợp tác, HTX năm 2018, triển
khai phương hướng nhiệm vụ 2019 của Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Nam.
- Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo kết quả thực hiện đổi
mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
năm 2016, 2017 và 2018.
- UBND thị xã Điện Bàn, Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.
Qua các tài liệu nghiên cứu đã chỉ ra một số định hướng cũng như giải pháp
phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn như: Cần có sự nhận
thức đúng về vị trí, vai trò kinh tế tập thể, tiếp tục củng cố, đổi mới HTX cả về tổ
5
chức, quản lý và hoạt động theo luật HTX 2012, tạo ra động lực mới trong từng
HTX trong thời gian tới; Khuyến khích phát triển các loại hình tổ hợp tác, đa dạng
hoá các hình thức hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ hợp tác phát triển thành
HTX hoặc doanh nghiệp khi có nhu cầu; Cần xây dựng cơ chế chính sách khuyến
khích và hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, trong đó tập trung vào công tác tuyên truyền,
hướng dẫn và đào tạo bồi dưỡng tổ trưởng, ban điều hành tổ; Các địa phương cần
tập trung chỉ đạo để gắn việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như
chương trình xây dựng nông thôn mới, xoá đói giảm nghèo, chương trình khuyến
nông, chương trình đào tạo việc làm... với việc phát triển tổ hợp tác và HTX; Tăng
cường liên doanh, liên kết giữa các hợp tác với các doanh nghiệp; thực hiện lồng
ghép các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là một đòi hỏi khách quan, có vai trò quan
trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở nước ta. Về mặt lý luận: luận văn là
công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Về mặt thực tiễn: luận văn là tài liệu
tham khảo để UBND thị xã Điện Bàn đưa ra các giải pháp để khắc phục những tồn
tại, nhằm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã trong thời
gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó phân tích những thành tựu, hạn chế, yếu
tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh
tế hợp tác ở Điện Bàn trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận giải sự cần thiết phải phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tại thị
xã Điện Bàn.
Phân tích đánh giá thực trạng kinh tế hợp tác và rút ra ưu điểm thiếu sót,
những bài học kinh nghiệm, từ đó đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong thời gian
6
sắp tới.
Điều tra khảo sát để làm rõ thực trạng hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở địa bàn này.
Xác lập các định hướng để đưa ra giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế hợp tác của các hợp tác xã nông nghiệp ở thị
xã Điện Bàn.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2014 - 2018.
Phạm vi về nội dung: Trong các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
hiện nay thì hợp tác xã đóng vai trò là nòng cốt, đang được triển khai rất rộng rãi
theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Do đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
trên địa bàn thị xã Điện Bàn. Đây cũng là hình thức kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp chủ yếu trên địa bàn thị xã Điện Bàn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trước hết, để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, thống
kê. Bên cạnh đó, nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng. Trên cơ sở đó, tác
giả sẽ thu thập thông tin, số liệu trên các sách, báo, các công trình nghiên cứu về
kinh tế hợp tác, Luật hợp tác xã năm 2012, báo cáo của liên minh hợp tác xã tỉnh
Quảng Nam, chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, các báo cáo về tình hình
kinh tế xã hội, kinh tế hợp tác, hợp tác xã của thị xã Điện Bàn...để tổng hợp, phân
tích, so sánh nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa các kết quả đã nghiên cứu của công trình đã
công bố, phát triển những luận cứ khoa học và thực tiễn mới nhằm thực hiện tốt
những mục tiêu nghiên cứu đặt ra.
Bên cạnh đó, tác giả tiến hành phương pháp điều tra, khảo sát một số hợp tác
xã trên địa bàn thị xã. Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu các nhân tố ảnh
7
hưởng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; tìm hiểu
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với việc phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; Quy mô khảo sát, tác giả khảo sát khoảng 20
hợp tác trên địa bàn thị xã; Hình thức của khảo sát, tác giả tiến hành khảo sát qua
bảng hỏi. Ngoài ra, tác giả tiến hành thu thập ý kiến chuyên gia, các nhà quản lý
kinh tế, thu thập ý kiến của lãnh đạo phòng kinh tế thị xã để có thêm dữ liệu thực tế
về tình hình phát triển kinh tế hợp tác trên dịa bàn thị xã.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Hệ thống và vận dụng những vấn đề lý luận thực tiễn có liên quan đến kinh tế
hợp tác để luận giải sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Thông qua sự khảo sát thực tế để tìm ra những ưu điểm và hạn chế của kinh tế
hợp tác, hợp tác xã để chỉ ra những vấn đề cần giải quyết sắp tới.
Đưa ra các quan điểm, phương hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiển về phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm hợp tác
Lịch sử phát triển loài người cho thấy hợp tác là hình thức tất yếu trong lao
động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển thì nhu cầu hợp tác ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu
rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác
trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người.
Hợp tác được hiểu như sau: “Hợp tác là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân
hoặc các đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà
mỗi cá nhân, mỗi đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể
thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Hợp
tác vừa giúp tăng sức mạnh của các thành viên tham gia hợp tác, vừa giúp tăng sức
mạnh kinh tế trong tổ chức hợp tác.
1.1.1.2. Khái niệm kinh tế hợp tác
Mô hình kinh tế hợp tác ban đầu xuất hiện một cách sơ khai và tự phát không
chỉ ở nông thôn mà ở cả các thành thị, không chỉ ở trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp mà còn trong nhiều ngành sản xuất dịch vụ khác. Các thành viên khởi xướng
ra các mô hình kinh tế hợp tác này, thông thường là những chủ thể có điều kiện kinh
tế tài chính có hạn nên thường bị thiệt thòi, chịu nhiều bất lợi trong sản xuất kinh
doanh và trong cạnh tranh. Để có thể khắc phục các khó khăn, duy trì công ăn việc
làm cho mình, những người cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại một khu vực địa
bàn nhất định đã tìm cách liên kết, hợp tác với nhau theo từng tổ từng nhóm nhỏ, đó
là tiền thân của các loại hình kinh tế hợp tác sau này. Hiện nay, kinh tế hợp tác được
hiểu như sau: “Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện,
phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của
9
từng thành viên với ưu thế sức mạnh tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của
sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi
ích của mỗi thành viên ” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006).
Như vậy, với mỗi hình thức liên kết giữa những người lao động là một kiểu
hợp tác và tạo ra những hình thái kinh tế hợp tác khác nhau bởi kinh tế hợp tác là
kinh tế do kết quả của sự hợp tác mang lại. Do đó, khi nghiên cứu về kinh tế hợp tác
là nghiên cứu về kinh tế của những tổ chức hợp tác. Trong các tổ chức này, kinh tế
là mục đích, hợp tác là phương tiện để đạt được mục đích ấy. Mục đích kinh tế của
các tổ chức kinh tế hợp tác bao gồm kinh tế của tổ chức hợp tác và kinh tế của các
thành viên tham gia hợp tác. Điều đó có nghĩa là, khi hợp tác thì mọi thành viên
trong tổ chức kinh tế hợp tác đó đều có lợi. Khi xã hội càng phát triển, sự liên kết
giữa những người lao động càng chặt chẽ, càng đa dạng thì các hình thức kinh tế
hợp tác càng phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
1.1.1.3. Khái niệm hợp tác xã
Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, hợp tác xã được hiểu như sau: “Hợp tác xã là
tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên
tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã” (Luật Hợp tác
xã, 2012).
- Đặc điểm hợp tác xã
Về góc độ kinh tế: Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội. Tính xã
hội của hợp tác xã thể hiện ở chỗ: (1) Nguyên tắc phân chia lợi nhuận: một phần lợi
nhuận trong hợp tác xã dùng để trích lập các quỹ, được phân chia cho việc đáp ứng
nhu cầu giáo dục, huấn luyện, thông tin cho xã viên, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn
hóa - xã hội chung của cộng đồng dân cư địa phương. Một phần lợi nhuận khác cần
được phân phối lại cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ. Do vậy mà kể cả
những thành viên góp vốn ít nhưng vẫn có cơ hội được nhiều lợi nhuận hơn người
góp nhiều. (2) Tổ chức quản lí: thành viên hợp tác xã có quyền biểu quyết ngang
10
nhau. Hợp tác xã được thành lập để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ nhằm tạo việc làm cho các thành viên, thúc đẩy sự phát triển và góp phần hạn
chế thất nghiệp trong xã hội.
Về số lượng thành viên: Có số lượng thành viên tối thiểu là 7 người.
Về góc độ pháp lý: Hợp tác xã có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu
hạn trong phạm vi vốn của mình.
Thành viên hợp tác xã góp vốn đồng thời cam kết sử dụng sản phẩm dịch vụ
của hợp tác xã hoặc người lao động trong hợp tác xã. Nếu không sử dụng sản phẩm
dịch vụ trong thời gian 3 năm trở lên hoặc không làm việc trong hợp tác xã quá 2
năm thì mất tư cách thành viên.
- Vai trò của hợp tác xã
Ở những nước nông nghiệp như nước ta thì hợp tác xã nông nghiệp là hình
thức kinh tế tập thể nông dân, vì vậy hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp có tác
động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông nghiệp nông dân. Nhờ có
hoạt động của hợp tác xã các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời đầy đủ đảm bảo chất lượng, các khâu sản
xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng
lên.
Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết của hợp tác xã nông nghiệp được
thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều
kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá.
Hợp tác xã là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì
vậy hoạt động của hợp tác xã có vai trò làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân
một cách có hiệu quả trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt
động dịch vụ cho hộ nông dân hoạt động của hợp tác xã là đối trọng buộc các đối
tượng phải phục vụ tốt cho nông dân.
- Phân biệt sự giống và khác nhau giữa kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã
Kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã ngày càng phát triển, là phương thức tổ
chức hoạt động kinh tế, đời sống xã hội văn minh, phù hợp với xu hướng phát triển
kinh tế bao trùm, kinh tế chia sẻ; các thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi,
11
không ai bị bỏ lại phía sau. Do vậy, kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã là phương
thức tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp nhu cầu của người dân. Tuy nhiên kinh
tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã có sự giống và khác nhau:
Giống nhau:
- Là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ
lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, các thành viên, kết hợp sức mạnh của từng thành
viên với ưu thế sức mạnh tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh
doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi
thành viên. Tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý. Biểu quyết theo đa số,
tự chủ tài chính, tự trang trải các chi phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình.
- Các thành viên tự nguyện gia nhập, ra khỏi hợp tác, hợp tác xã. Các thành
viên có quyền bình đẳng trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động. Tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
- Được mở tài khoản riêng tại ngân hàng theo quy định của pháp luật và theo
cơ chế người đại diện.
Khác nhau:
- Kinh tế hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo điều lệ hợp tác xã, còn kinh tế
hợp tác tổ chức hoạt động theo hợp đồng hợp tác của các thành viên và không có tư
cách pháp nhân.
- Kinh tế hợp tác xã phải có ít nhất 07 thành viên trở lên góp vốn và tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh theo điều lệ. Còn đối với kinh tế hợp tác những chủ
thể, những thành viên có cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại một khu vực địa bàn
nhất định đã tìm cách liên kết, hợp tác với nhau theo từng tổ, từng nhóm nhỏ để hỗ
trợ giúp đỡ lẫn nhau, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế sức mạnh tập
thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.
- Nguyên tắc phân chia lợi nhuận: Một phần lợi nhuận trong hợp tác xã dùng
để trích lập các quỹ, được phân chia cho việc đáp ứng nhu cầu giáo dục, huấn luyện,
12
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa - xã hội chung của cộng đồng dân cư địa
phương. Một phần lợi nhuận khác cần được phân phối lại cho xã viên theo mức độ
sử dụng dịch vụ. Do vậy mà kể cả những thành viên góp vốn ít nhưng vẫn có cơ hội
được nhiều lợi nhuận hơn người góp nhiều. Con đối với kinh tế hợp tác hoa lợi, lợi
tức của hợp tác được phân chia theo thoả thuận, theo hợp đồng hợp tác.
1.1.1.4. Khái niệm kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
“Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là phạm trù kinh tế nói lên sự liên kết tự
nguyện của các đơn vị kinh tế trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế
bằng góp vốn, sức lao động để cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp một cách có hiệu quả, nhằm tăng sức mạnh kinh tế của các tổ chức kinh tế
hợp tác, phát triển linh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển đất
nước”(Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp bao hàm
cả kinh tế hợp tác của nông dân và kinh tế hợp tác của các thành phần khác trong
nông nghiệp nhưng không phải là nông dân, đó có thể là công nhân nông nghiệp, đó
có thể là những thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp.
1.1.1.5. Khái niệm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
“Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp được hiếu là sự mở rộng về quy
mô, nâng cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Theo
đó, sự phát triển này bao gồm sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các loại
hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Những người lao động có nhu cầu, lợi ích
chung tự nguyện hợp tác ngày càng tăng, cùng với đó là sự gia tăng về vốn góp, về
sức lao động, về sức mạnh tập thể của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp. Từ đó góp phần tăng mức đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, của đất nước.
1.1.2. Các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp
tác. Mỗi loại hình phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
hình thức phân công lao động tương ứng. Do đó, nó có đặc điểm riêng về nguyên
tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức và phát huy tác dụng trong những điều kiện nhất định.
13
Bởi vậy, việc làm rõ những đặc điểm nói trên của từng loại hình kinh tế hợp tác để
lựa chọn những loại hình phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các hình thức kinh tế
hợp tác phát huy tác dụng đem lại hiệu quả cho quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Có nhiều tiêu chí để xem xét các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, tùy
theo quan hệ của các chủ thể hợp tác, tính phức tạp của sự hợp tác và phương thức
hợp tác mà ta có thể có các tên gọi của các hình thức kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp khác nhau.
- Xét theo tính chất khi tiến hành hợp tác
Xét theo tính chất đơn giản hay phức tạp khi tiến hành hợp tác, các hình thức
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp bao gồm:
+ Kinh tế hợp tác giản đơn
Đó là các tổ hội nghề nghiệp, các tổ nhóm hợp tác và các tổ kinh tế hợp tác.
Hình thành trên cơ sở tự nguyện của các thành viên tham gia nhập hoặc ra khỏi tổ,
thành lập hoặc giải thể tổ chức, quản lý dân chủ cùng có lợi. Mục đích hoạt động
kinh doanh của các thành viên giống nhau, nhằm cộng tác, trao đổi kinh nghiệm
giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vì mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mỗi thành viên. Các loại hình kinh tế hợp tác giản đơn
này hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân. Quan hệ ràng buộc
giữa các thành viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở tình cảm, tập quán, truyền
thống cộng đồng không mang tính pháp lý. Trong các loại hình của kinh tế hợp tác
giản đơn thì tổ hợp tác là hình thức phổ biến nhất hiện nay.
+ Khái niệm tổ hợp tác
Theo Điều 111, Bộ Luật dân sự năm 2005, tổ hợp tác được hiểu như sau: “Tổ
hợp tác là sự kết nhóm của từ 3 cá nhân trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng
hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm” (Bộ Luật Dân sự, 2005).
+ Đặc điểm của tổ hợp tác
Thành lập tổ hợp tác: Hợp đồng thành lập tổ hợp tác phải lập thành văn bản có
chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.
Chế độ pháp lý cua tổ hợp tác: Tổ hợp tác được đại điện bởi tổ trưởng, do các
14
tổ viên cử ra (Điều 113). Tổ trưởng có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện một số
công việc nhất định cần thiết cho tổ.
Tổ viên tổ hợp tác: Tổ viên tổ hợp tác là cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tổ hợp tác có quyền giao kết hợp đồng lao động
với người không phải là tổ viên để thực hiện những công việc nhất định.
Tài sản của tổ hợp tác: Tài sản của tổ hợp tác do các tổ viên đóng góp. Các tổ
viên quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận. Việc
định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý;
đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
+ Vai trò của tổ hợp tác
Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế gọn nhẹ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
hộ ở vùng miền núi, nông thôn. Là phương thức mưu sinh bền vững cho người nông
dân, ai cũng có thể tham gia và cùng tựa vào nhau tìm kế sinh nhai.
Tổ hợp tác mang lại lợi ích trực tiếp cho tổ viên trong tổ, đặc biệt đối với các
thành viên thiếu nguồn lực hoặc thiếu vốn. Các thành viên trong tổ hầu hết là những
người chung ngành nghề, chung sở thích nên khi sát nhập với nhau sẽ tăng thêm
kinh nghiệm, tăng nguồn vốn, tăng sản phẩm có chất lượng. Bên cạnh đó là sự
thuận tiện trao đổi thông tin về khoa học kỹ thuật, thị trường, giá cả.
Tổ hợp tác đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao mức sống của
người nông dân, là phương thức mưu sinh rất bền vững mà hiện nay nông dân ở
nhiều vùng đang thực hiện.
+ Kinh tế hợp tác phức tạp
Hình thức này bao gồm các hình thức như hợp tác xã, nông trường quốc
doanh, các tập đoàn sản xuất, các xí nghiệp liên hiệp. Hình thức này được tổ chức
có bộ máy quản lý để điều hành công việc chung, có vốn, quỹ chung để hoạt động.
Vốn góp ban đầu là do các thành viên góp theo quy định khi tiến hành hợp tác, sau
đó tăng dần theo khả năng tích lũy. Những tổ chức kinh tế hợp tác này có tư cách
pháp nhân, để được thành lập phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Trong các
loại hình của kinh tế hợp tác phức tạp thì hợp tác xã là hình thức phố biến nhất hiện nay.
- Xét theo chức năng hoạt động, có thể phân loại thành:
15
+ Tổ hợp tác, HTX dịch vụ từng khâu
+ Tổ hợp tác, HTX dịch vụ tổng hợp
+ HTX, tổ hợp tác chuyên ngành
+ HTX, tổ hợp tác sản xuất kết hợp dịch vụ
+ Tổ hợp tác, HTX kinh doanh ở mức độ toàn diện
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
1.1.3.1 Đặc điểm:
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp có vị trí rất quan trọng không chỉ trong nội
bộ ngành mà còn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành sản xuất
nông nghiệp không những sản xuất ra tư liệu tiêu dùng mà còn sản xuất ra nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp là nền tảng quang trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng
và các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.
Thông qua hợp tác những việc mà từng người hay từng nông hộ, từng đơn vị
không làm được hoặc làm được nhưng không hiệu quả. Hợp tác đã góp phần nâng
cao năng xuất lao động. Tiết kiệm chi phí trong sản xuất kinh doanh. Huy động
được nhiều nhân lực, vật lực cho sản xuất. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp góp
phần khai thác, phát huy lợi thế so sách của từng vùng sản xuất, từ đó có sự bổ sung
giữa các vùng, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, tập trung hóa, hiện đại hóa sản
xuất. Bên cạnh đó, kinh tế hợp tác còn tạo cơ hội cho việc đào tạo, nâng cao trình
độ cho người quản lý nói riêng và người lao động nói chung, đồng thời góp phần
mở rộng thị trường.
Nguyên tắc của hợp tác là tự nguyện hợp tác với nhau, không bị ràng buộc bởi
yếu tố nào, tự nguyện cả khi hợp tác và cả khi không hợp tác.
Hợp tác cùng có lợi, khi hợp tác với cá nhân hay tổ chức đều muốn có thế
mạnh của cá nhân hay tập thể khác, khắc phục được tồn tại của cá nhân hay tổ chức,
chính vì thấy có lợi ích mới hợp tác với nhau, đây chính là yếu tố kinh tế để hợp tác.
1.1.3.2 Vai trò:
- Về mặt chính trị
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp về bản chất là một tổ chức kinh tế của
16
người dân thuần tuý chứ không phải là một tổ chức chính trị, xã hội. Nó không theo
đuổi các mục tiêu chính trị và cũng không có nhiệm vụ chính trị. Nó chỉ theo đuổi
thuần tuý mục tiêu lợi ích kinh tế của các thành viên. Tuy nhiên vì nó là một tổ chức
gồm nhiều thành viên, số lượng có thể lên tới vài nghìn người tại một địa bàn nên
trên thực tế có vai trò to lớn ở địa phương và do vậy cũng có ý nghĩa chính trị nhất
định. Thêm nữa, đó là một tổ chức dân chủ. Do vậy, nếu tổ chức này hoạt động và
phát triển tốt, nó góp phần tích cực quan trọng vào việc ổn định trật tự, an ninh
chính trị, xã hội. Còn ngược lại, nó cũng sẽ có những tác động xấu tới ổn định trật
tự, an ninh chính trị, xã hội, đặc biệt khi các mô hình hợp tác này tan rã sẽ làm mất
ổn định trật tự chính trị xã hội. Mặc dù không mang nhiệm vụ chính trị nhưng do ý
nghĩa chính trị của nó mà chúng ta cần phải tạo điều kiện để kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp này hoạt động tốt, lành mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ chính trị của Nhà nước.
- Về mặt kinh tế
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nó tham gia vào các hoạt động kinh tế và
đem lại lợi ích kinh tế cho thành viên, xã hội và Nhà nước, góp phần tích cực vào
công cuộc phát triển kinh tế ở địa phương, đặc biệt thông qua hoạt động cho vay tín
dụng của nó làm đòn bẩy cho nền kinh tế phát triển. Là kênh dẫn vốn, huy động vốn
quan trọng tạo huyết mạch cho nền kinh tế, đặc biệt ở các vùng điều kiện phát triển
kinh tế còn nhiều khó khăn, hạn chế. Với ý nghĩa này, kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp xứng đáng được Nhà nước quan tâm vun đắp, giúp đỡ để chúng làm tốt
nhiệm vụ của nó, góp phần phát huy tiền năng trong nhân dân thúc đẩy kinh tế phát
triển.
- Về mặt xã hội
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tuy không phải là một tổ chức xã hội nhưng
là một tổ chức có đông thành viên, thu hút đa phần cá nhân và hộ gia đình tại một
địa phương tham gia nên rất có ý nghĩa về mặt xã hội. Kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp phát triển góp phần duy trì và nâng cao mức sống của thành viên, những
người chịu thiệt thòi, thua thiệt trong cuộc cạnh tranh nên có ý nghĩa xã hội to lớn.
Nó góp phần duy trì và ổn định trật tự xã hội trên địa bàn, đặc biệt thông qua các
17
hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của các mô hình hợp tác trong nông nghiệp. Các
mối quan hệ xã hội trên các giá trị tỉnh thần đoàn kết, tình làng nghĩa xóm, tương
thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau được duy trì, củng cố và phát huy. Các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động cơ bản của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp cần được gìn giữ
và tôn trọng để các giá trị về đạo đức, xã hội được bảo tồn và phát huy, góp phần
tạo ra một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và phôn thịnh.
- Về mặt văn hoá
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp mang những nét văn hoá riêng của mình.
Tuy nhiên, do kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là tập hợp của một tập thể các cá
nhân, con người nên nó đặc biệt coi trọng sự tham gia về cá nhân của những con
người và khuyến khích sự phát huy năng lực cá nhân, sự tích cực tham gia vào hoạt
động chung của tập thể như tham gia quản lý, tham gia điều hành. Những giá trị về
bình đẳng nam nữ, bình đẳng giai cấp, không phân biệt đối xử... mang giá trị nhân
văn cao. Các giá trị văn hoá, nhân văn đó được thường xuyên thể hiện và duy trì
trong các hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp và các sinh hoạt của tổ
chức này. Đó là các hoạt động kinh doanh đơn thuần cũng như các hoạt động văn
hoá đối ngoại, tài trợ cho các hoạt động văn hoá của địa phương. Đó là các cuộc
họp, Đại hội như các các sinh hoạt, sự kiện trọng đại ở địa phương. Nó rất gắn bó
với người dân địa phương và cũng trở thành yếu tố tinh thần không thể thiếu được
của địa phương. Những nét văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái v.v.. được tiếp tục duy trì, chăm sóc và phát triển
trong kinh tế hợp tác. Với ý nghĩa văn hoá đầy tính nhân văn khác hắn so với các tổ
chức kinh tế khác thì phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp quả thực cần đáng
được đề cao.
- Đối với các thành viên
Vì mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp xuất phát và hình thành hoàn
toàn trên tinh thần tự nguyện, tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên. Là tổ chức liên kết hợp tác của bản thân các thành viên. Các thành viên giúp
đỡ được lẫn nhau thông qua việc hợp tác này. Nếu nhìn vào điều kiện lịch sử trong
quá trình hình thành và phát triển của mô hình hợp tác, ta thấy ý nghĩa của nó ở chỗ
18
là một mô hình tự cứu mình, tránh được sự bần cùng hoá cho các thành viên. Thông
qua kinh tế hợp tác mà các thành viên có thể tương trợ, giúp đỡ được cho nhau, tự
cứu được lấy mình, trước khi mất hết những cơ sở kinh tế để tồn tại nếu không hợp
tác lại với nhau. Nếu các thành viên có điều kiện tiếp cận với các loại thị trường (thị
trường nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, thị trường dịch vụ, sản phẩm đầu ra) nhờ có
mô hình kinh tế hợp tác nói chung thì thông qua mô hình hợp tác nông nghiệp nói
riêng, các thành viên đã có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ của thị
trường tín dụng, ngân hàng. Điều mà họ do địa bàn sinh sống bất lợi, tài sản nghèo
nàn .v.v.. hầu như không bao giờ có được nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước hay sự
hỗ trợ khác mà không tự tổ chức lấy cho mình những tổ chức kinh tế hợp tác. Như
vậy các thành viên sẽ được hưởng các sản phẩm và dịch vụ mà tổ chức tín dụng hợp
tác của họ tạo ra và cung cấp một cách kịp thời, thuận tiện với một mức giá cả chấp
nhận được với tư cách là khách hàng. Thành viên cũng sẽ được tư vấn, cung cấp
thông tin, trao đổi kinh nghiệm thông qua hợp tác nông nghiệp vì đó cũng thường là
nơi tập hợp kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm làm ăn của cả địa phương. Họ sẽ tự
tạo ra được công ăn việc làm cho bản thân và có thể còn cho cả địa phương nữa. Họ
cũng được hưởng những quyên lợi từ vấn đề hợp tác với nhau với tư cách là chủ sở
hữu như được chia cổ tức, được quyền tham gia biểu quyết, quyết định các chính
sách kinh doanh. Qua sự hỗ trợ này mà các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh
của các thành viên đã được hỗ trợ thiết thực, cuộc sống của họ được cải thiện rõ rệt
và có những tích luỹ. Trước đây, khi chưa có mô hình này, nếu từ hoạt động kinh tế
của bản thân, họ không thể tạo ra lợi nhuận hoặc chỉ tạo ra ít lợi nhuận thì nay,
trong sự hợp tác họ được hỗ trợ và có điều kiện tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Đó
chính là ý nghĩa to lớn của mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, chính vì thế
có vai trò bảo đảm và duy trì sự độc lập về kinh tế và cơ sở kinh tế để tồn tại và phát
triển của các thành viên.
- Đối với địa phương
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ra đời sẽ cung cấp các dịch vụ tín dụng,
ngân hàng cho dân cư trên địa bàn hoạt động với tư cách là khách hàng. Qua hoạt
động của kinh tế hợp tác, ý thức tiết kiệm và tích luỹ của người dân được nâng cao.
19
Những đồng vốn nhàn rỗi được huy động để đưa vào đầu tư phục vụ cho phát triển,
giảm sự lãng phí tài nguyên cũng như tạo ra sự phồn vinh cho xã hội. Đó cũng là
nơi học nghề cho nhiều người. Trình độ và nhận thức của người dân trên địa bàn
cũng sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tư vấn, thông tin của bản thân về
hợp tác trong nông nghiệp, góp phần nâng cao trình độ dân trí tại địa phương. Khi
địa phương có nhiều mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp hoạt động, nạn cho
vay nặng lãi lập tức bị đẩy lùi tiến tới xoá sổ. Những ý nghĩa về xã hội như góp
phần, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ địa phương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, vật
nuôi, cây trồng... cũng là những đóng góp rất tích cực. Các các mô hình kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp sẽ là những tổ chức hoạt động tại địa phương, bám sát địa
bàn, tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế ở địa phương, hỗ trợ đắc lực
nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Như vậy, phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp là một yếu tố kinh tế quan trọng ở địa phương, góp phần nâng cao đời sống,
thu nhập của người dân đem lại ổn định trật tự chính trị, xã hội trên địa bàn, tạo điều
kiện cho phát triển kinh tế.
- Đối với Nhà nước
Xét trên góc độ Nhà nước, hoạt động của những mô hình kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp sẽ bổ sung cho những nỗ lực vĩ mô của Nhà nước như cung cấp vốn
cho người nghèo, nông thôn, nông nghiệp, thực hiện các mục tiêu xã hội lớn như
tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính
trị, xã hội... ở những nơi, lĩnh vực mà nhiều khi Nhà nước không có khả năng hay
hoạt động không hiệu quả thì mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thể hiện rất
rõ tinh thần phát hút nội lực của người dân để tự giải quyết các khó khăn, vướng
mắc của chính bản thân, góp phần thực hiện các chương trình tiết kiệm, huy động
tiềm năng trong nhân dân của Nhà nước phục vụ cho đầu tư, hay tránh lãng phí tài
nguyên, nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân.
Mặc dù có vai trò to lớn đối với Nhà nước, song kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp không phải là công cụ của Nhà nước và lại càng không có nhiệm vụ công
ích. Nó đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh tế tự trợ giúp của các thành viên, là công
20
cụ và phương tiện của các thành viên và hoạt động chỉ vì lợi ích của các thành viên.
Tuy nhiên, trong quá trình theo đuổi tạo ra lợi ích cho các thành viên thì nó cũng đã
vô hình trung trực tiếp hay gián tiếp tạo ra cả những lợi ích xã hội khác kèm theo
mà Nhà nước rất mong muốn nhưng đó chỉ là những lợi ích hệ quả. Xét về mặt lý
thuyết cũng như thực tiễn, việc tạo ra các lợi ích xã hội này không phải và cũng
không thể là nhiệm vụ của các hợp tác trong nông nghiệp. Đối với Nhà nước, kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp là chỉ một tổ chức kinh tế dân chủ của người dân, một
phương tiện để phát huy nội lực tiềm năng trong nhân dân của các thành viên góp
phần phục vụ cho phát triển kinh tế, đặc biệt ở các vùng mà Nhà nước chưa có điều
kiện hay khả năng để vươn tới một cách đầy đủ trọn vẹn để hỗ trợ phát triển. Nó bổ
sung rất tốt cho những nỗ lực phát triển kinh tế của Nhà nước ở các vùng, đặc biệt
các vùng nông nghiệp, nông thôn với điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn và
nhu cầu về vốn để đầu tư, phát triển sản xuất cao.
1.1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp
1.1.4.1. Các yếu tố khách quan
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp
Để thực hiện phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thì Nhà nước đóng
vai trò là nhân tố quan trọng và quyết định. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo từ việc
xây dựng chủ trương, ban hành các chính sách, xây dựng cơ chế điều hành, tạo
nguồn vốn và tổ chức thực hiện. Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển các
loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, yêu cầu các chính sách và nguồn lực để
phát triển phải được công khai, minh bạch, hỗ trợ đúng đối tượng và hiệu quả.
- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Cùng với những thời cơ, thuận lợi do quá trình đổi mới đất nước mang lại,
kinh tế của nước ta sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức từ tình hình
kinh tế thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro; áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt, nhất là
sản xuất nông nghiệp. Để tạo nên sức cạnh tranh mới, phát triển bền vững thì việc
tự tổ chức lại, liên kết các hộ kinh doanh nhỏ lẻ để xây dựng hợp tác xã, trên cơ sở
21
đó, hình thành liên hiệp hợp tác xã, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị trong nước,
hướng đến xuất khẩu là con đường phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ
Nhiều năm qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tập thể, trong đó
nòng cốt là hợp tác trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế và ổn định an sinh xã hội. Mặc dù đã phát huy những hiệu quả tích cực, tuy
nhiên, các hợp tác vẫn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, đòi hỏi phải có những
thay đổi kịp thời để có thể trụ vững trong bối cảnh mới, trong thời đại công nghiệp
4.0 với thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Do đó, các cơ quan nhà nước cần
có cơ chế, chính sách hỗ trợ các hợp tác xã, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới
phục vụ sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ
cao, nhằm đánh thức tiềm năng về đất đai, lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Sự phối hợp của các ban ngành, các tổ chức đoàn thể trong tổ chức thực
hiện chính sách phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Để phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, vai trò của các
cơ quan, ban ngành, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội là nhân tố không
thể thiếu, nó được thể hiện bằng sự chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ phát triển các loại hình
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên các mặt hoạt động như vốn, tạo thị trường
tiêu thụ sản phẩm, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Trên địa bàn cấp
thị xã, hoạt động của nhiều cơ quan, ban ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, như: phòng Tài chính - Kế
hoạch, phòng Nông nghiệp, trạm Thú y, trạm Khuyến nông, trạm Bảo vệ thực vật,
ngân hàng Chính sách xã hội, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Mỗi vùng có các đặc điểm riêng về trình độ phát triển nền nông nghiệp hàng
hoá, trình độ dân trí, tập quán canh tác, điều kiện địa hình, thời tiết khí hậu, mật độ
dân cư, nên có thể xác định rõ sự khác nhau không chỉ trong sản xuất nông nghiệp,
mức sống vật chất của dân cư, mà còn tạo nên sự khác nhau về quá trình hình thành,
phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời
với những tác động nói trên, đặc điểm truyền thống văn hoá, tâm lý cũng ảnh hưởng
22
không nhỏ tạo nên những nét đặc trưng về kinh tế hợp tác ở mỗi vùng.
1.1.4.2. Các yếu tố chủ quan
- Năng lực về tổ chức quản lý của người đứng đầu các loại hình kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp
Trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi người
đứng đầu các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phải có trình độ, năng lực
tổ chức quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong kinh doanh đưa mô hình hoạt động
của mình ngày một phát triển. Tuy nhiên hiện nay, trình độ quản lý của người đứng
đầu các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phần lớn chưa được đào tạo cơ
bản, thiếu kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý, đặc biệt kiến thức, kinh nghiệm
kinh doanh trong cơ chế thị trường. Điều này gây ra những khó khăn nhất định
trong quá trình phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
- Nguồn lực, quy mô sản xuất
Bất kể một tổ chức kinh doanh nào muốn đứng vững trên thị trường cũng cần
phải có tiềm lực kinh tế. Các nguồn lực kinh tế có thể kể đến như vốn, lao động,
khoa học công nghệ, thương hiệu của sản phẩm... .Các loại hình kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp cũng vậy, muốn phát triển và đứng vững trên thị trường, các mô
hình hợp tác trong nông nghiệp cần phải có nguồn lực đủ mạnh, quy mô sản xuất đủ
lớn để có thể cạnh tranh trên thị trường.
1.2. Hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số địa phương
và bài học cho Điện Bàn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số
địa phương
1.2.1.1. Kinh nghiệm của huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
Đại Lộc nằm về phía Bắc của Quảng Nam, Đại Lộc có vị trí địa lý khá thuận
lợi cho việc giao lưu, phát triển: là vùng vành đai, cách Trung tâm thành phố Đà
Nẵng 25 km về phía Tây Nam, cách tỉnh ly Tam Kỳ 70 km; nằm trên trục hành lang
kinh tế Đông - Tây, nối các tỉnh Tây Nguyên, cửa khẩu Quốc tế Bờ Y - Kom Tum,
Đắc Tà Oóc - Nam Giang về Đà Nẵng và các tỉnh duyên hải miền Trung là điều
kiện thuận lợi để huyện Đại Lộc phát triển kinh tế.
23
Xác định kinh tế hợp tác, trong đó nòng cốt là hợp tác xã và tổ hợp tác có vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương, huyện Đại Lộc đã triển khai
thực hiện nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác trên địa
bàn huyện, cụ thể là:
- Để công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện phát triển kinh tế hợp tác
trên địa bàn thị xã đạt hiệu quả, UBND huyện Đại Lộc đã thành lập Ban Chỉ đạo
phát triển kinh tế hợp tác của huyện.
- Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác huyện Đại Lộc đã chỉ đạo các ngành,
các xã, thị trấn tổ chức phổ biến tuyên truyền, thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012,
lồng ghép phổ biến tại các hội nghị, các buổi sinh hoạt chuyên đề tại các địa
phương. Tuyên truyền cho cán bộ, hội viên nông dân về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp và kiến thức về hoạt động và quản lý kinh tế hợp tác. Nhằm nâng cao nhận
thức về Luật Hợp tác xã.
- Chỉ đạo Hội Nông dân các cấp nắm chắc nhu cầu, nguyện vọng của hội viên
nông dân, chủ động hướng dẫn thành lập các tổ hợp tác đa dạng về hình thức với
quy mô phù hợp; cơ cấu gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản, thiết thực phù hợp
với trình độ của nông dân ở mỗi vùng miễn, khu vực. Tư vấn, hỗ trợ các tổ hợp tác
mở rộng quy mô, phát triển thành các hợp tác xã. Căn cứ vào những điều kiện thực
tế, Hội Nông dân các cấp làm đầu mối, khâu nối những nhu cầu để vận động nông
dân tham gia các hình thức kinh tế hợp tác cụ thể từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ
những tổ hợp tác đơn giản đến các hình thức cao hơn hoạt động đa ngành, đa nghề.
- Huyện Đại Lộc đã tập trung đẩy nhanh tiến độ công tác chuyển đổi, sắp xếp,
tổ chức lại hoạt động của các hợp tác xã trên địa bàn. Củng cố xây dựng các hợp tác
xã cũ đã chuyển đổi và đang hoạt động theo luật. Hướng dẫn những tổ hợp tác đang
hoạt động nhưng chưa đăng ký, chứng thực đến UBND các xã, thị trấn đăng ký
chứng thực nhằm bảo đảm môi trường pháp lý cho hoạt động của tổ hợp tác.
- Chỉ đạo xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác, phát hiện các
mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã làm ăn có hiệu quả, tiến hành sơ kết, tổng kết để rút
ra bài học kinh nghiệm; tổ chức cho cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác, hội viên nông
24
dân thăm quan, học tập các mô hình điểm để áp dụng nhân rộng tại các địa phương.
Khai thác các nguồn lực, lồng ghép các chương trình dự án để xây dựng và nhân
rộng các mô hình kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả.
Kết quả thực hiện: Tính đến 31/12/2018, toàn huyện có 16 tổ hợp tác trong
lĩnh vực nông nghiệp với 114 thành viên; có 19 hợp tác hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp với số vốn điều lệ gần 52 tỷ đồng và số thành viên góp vốn là 179
người. Những năm qua, hoạt động của các hợp tác, tổ hợp tác trong lĩnh vực nông
nghiệp trên địa bàn huyện Đại Lộc đã khẳng định được vai trò nòng cốt trong khu
vực kinh tế tập thể, góp phần quan trọng trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về
xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Huyện Hoà Vang nằm bao bọc quanh phía Tây khu vực nội thành của thành
phố Đà Nẵng. Phía Nam giáp: Thị xã Điện Bàn, huyện Đại Lộc của tỉnh Quảng
Nam; Phía Tây giáp: huyện Đông Giang của tỉnh Quảng Nam; Huyện Hòa Vang là
huyện nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng, diện tích đất tự nhiên là 73.488 ha
(chiếm 74,8% diện tích của thành phố Đà Nẵng), Trong đó Đất nông nghiệp 65.316
ha, đất phi nông nghiệp 7.271 ha và đất chưa sử dụng 201,7 ha. Toàn huyện có 11
xã với 119 thôn. Kinh tế - xã hội của huyện Hòa Vang trong những năm qua phát
triển khá, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm ở mức 10%. Hạ tầng cơ bản đáp
ứng nhu cầu giao thương. Là một huyện rất chú trọng với nền sản xuất nông nghiệp,
Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế bằng nhiều giải
pháp, trong đó có chú trọng tập trung vào phát triển các hình thức kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp. Các giải pháp huyện đã triển khai thực hiện là:
- Xác định rõ ràng đích hướng đến của phát triển các hình thức kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp. Huyện Hòa Vang xác định nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các hợp tác xã, tổ hợp tác với phương thức hoạt động dựa trên
nguyên tắc cơ bản là tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tính cộng đồng, khắc phục những
hạn chế của kinh tế hộ, tạo ra nguồn tăng trưởng kinh tế đối với thành viên, góp
phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm, ồn định thu nhập cho
25
người dân trên địa bàn là đích hướng đến trong việc định hướng phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn huyện Hòa Vang.
- Chỉ đạo xây dựng và ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trên địa
bàn huyện, giao nhiệm vụ cho các tổ chức đoàn thể, các phòng, ban và các xã trên
địa bàn thị xã tổ chức thực hiện cũng như việc tập trung tuyên truyền các chỉ thị của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như: Luật Hợp tác xã năm 2012 và các
văn bản, chính sách pháp luật, có liên quan đến phát triển kinh tế hợp tác.
- Huyện xây dựng và triển khai kế hoạch hỗ trợ các hợp tác như tư vấn pháp
lý, hướng dẫn, hỗ trợ hợp tác xã xây dựng tổ chức, hoạt động theo đúng quy định
của Luật Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách, pháp luật của Nhà nước; hỗ trợ
hợp tác xã tiếp cận và hưởng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước với hợp
tác xã, giao hợp tác xã quản lý, khai thác kinh doanh công trình nước sạch nông
thôn, hợp tác thu gom chất thải rắn trên địa bàn, các công trình thuỷ lợi; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã; cung cấp thông tin, hỗ trợ hợp tác, tổ hợp
tác đẩy mạnh liên kết với nhau, với các doanh nghiệp và nhà khoa học để ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tập thể trên thị trường: tạo điều kiện gắn kết
hoạt động của hợp tác với các dự án, chương trình có mục tiêu của Nhà nước.
Kết quả đạt được: Tính đến 31/12/2018, trên địa bàn huyện có 12 hợp tác hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp với 142 thành viên tham gia, tổng nguồn vốn điều
lệ là 7.887,2 triệu đồng. Trên thực tế, hoạt động của các hợp tác, tổ hợp tác trong
lĩnh vực nông nghiệp đã làm tốt các khâu cung cấp vật tư phân bón, cung ứng giống
cây lâm nghiệp, dịch vụ làm đất, thu hoạch, dịch vụ thủy lợi, hợp tác trong việc
cung ứng và thu mua rau sạch, giúp cho bà con nông dân trong khu vực tạo sự ổn
định về giá cá, đảm bảo được chi phí đầu vào, thuận lợi cho việc gieo cấy kịp thời
vụ. Bên cạnh đó, hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác trong lĩnh vực nông
nghiệp đã thu hút số đông lao động, giải quyết được nhiều việc làm, hoạt động kinh
doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho thành viên, người lao động. Có thể thấy, mô
hình kinh tế hợp tác đã có sự đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế và
chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa huyện.
26
1.2.1.3. Kinh nghiệm của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
Huyện Duy Xuyên nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Nam, có diện tích tự
nhiên gần 29.909,5 ha, dân số hơn 131.242 người. Trên địa bàn huyện có 18 đơn vị
hành chính, bao gồm 17 xã và 01 thị trấn. Duy Xuyên là thị xã đồng bằng của tỉnh
nên huyện có nhiều lợi thế cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trên địa bàn
huyện có các tuyến giao thông chính kết nối với quốc lộ 1A. Có tuyến đường thủy
trên sông Thu Bồn chảy dọc phía Tây trên địa bàn huyện chảy xuống vùng hạ lưu.
Với vị trí địa lý có hệ thống giao thông khá thuận lợi nên huyện Duy Xuyên có điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, vận chuyển và trung chuyển để tiêu
thụ hàng hóa, nông sản thuận tiện.
Nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên
địa bàn, thời gian qua huyện Duy Xuyên và Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển hợp
tác xã huyện Duy Xuyên đã thực hiện nhiều giải pháp, cụ thể là:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách
pháp luật của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác nhằm nâng cao nhận
thức cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp về bản chất, vai trò, quan điểm đổi
mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của kinh tế hợp tác, nhất là nâng cao chất lượng
phục vụ dịch vụ, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
- Huyện triển khai thực hiện kịp thời và có hiệu quả các cơ chế, chính sách của
Nhà nước hiện hành, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trên lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, nhất là các chính sách khuyến khích hỗ trợ, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế tập thể, kinh tế nông hộ, kinh tế trang trại và doanh nghiệp, tạo điều
kiện về nguồn lực cho phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp; đào
tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã;
phát huy sự tham gia tích cực của các thành viên cả về nhân lực, vật lực trong việc
đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả các hoạt động kinh doanh dịch vụ hiện có,
mở rộng thêm các hoạt động kinh doanh dịch vụ mới như sản xuất giống, bao tiêu
sản phẩm nông sản, sản phẩm làng nghề, xây dựng hạ tầng nông nghiệp nông thôn.
- Xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác xã điển hình tiên tiến hoạt động
có hiệu quả, mở rộng liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã và doanh nghiệp trên
27
cơ sở hợp tác về kỹ thuật, công nghệ, ngành nghề kinh doanh, tìm kiếm thị trường
tiêu thụ; chú trọng xây dựng các mô hình trình diễn về khuyến công, khuyến nông
cho các hợp tác xã, tổ hợp tác.
- Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh
đồng lớn, tạo cơ sở cho các hợp tác xã phát triển theo hướng chuyên canh, sản xuất
hàng hóa tập trung; tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, mặt bằng cho các hợp tác xã
xây dựng trụ sở, địa điểm sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
- Chỉ đạo các hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp và các loại hình hợp tác khác
đẩy nhanh tiến độ tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm
2012. Đồng thời thực hiện các chính sách hỗ trợ về nguồn vốn, quỹ đất để các hợp
tác xã hoạt động.
Kết quả thực hiện: Tính đến 31/ 12/2018, toàn thị xã có 19 tổ hợp tác trong
lĩnh vực nông nghiệp với 217 thành viên, hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực như: Tổ
hợp tác dùng nước, vệ sinh môi trường, làm đất, thu hoạch, dịch vụ thức ăn chăn
nuôi; có 18 hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có 11 hợp tác dịch vụ nông
nghiệp và điện năng; 5 hợp tác dịch vụ nông nghiệp; 01 hợp tác thủy sản; 1 hợp tác
dịch vụ sản xuất. Theo sự chỉ đạo của huyện, đã có 16/18 hợp tác chuyển đổi hoạt
động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, tiến hành xây dựng, bổ sung điều lệ và bổ
sung dịch vụ, đầu tư mới trong phương án sản xuất kinh doanh, tổng số vốn điều lệ
đăng ký 12.598 triệu đồng. Nhiều hợp tác xã đã có sự đổi mới, mở rộng loại hình,
thực hiện các khâu dịch vụ đạt chất lượng tốt hơn, về cơ bản hoạt động của các hợp
tác xã. Sự phát triển của kinh tế hợp tác trên địa bàn huyện đã góp phần tích cực đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế,
cơ cấu cây trồng vật nuôi; tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
khu vực nông thôn, đóng góp hiệu quả cho chương trình xây dựng nông thôn mới.
1.2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
- Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách pháp luật của
Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác để nâng cao nhận thức cho cấp ủy
Đảng, chính quyền các cấp và đông đảo bà con nông dân trên địa bàn thị xã về quan
điểm, vai trò, ý nghĩa và lợi ích kinh tế khi tham gia vào hợp tác xã, tổ hợp tác.
28
- Triển khai thực hiện kịp thời và có hiệu quả các cơ chế, chính sách của Nhà
nước hiện hành về phát triển kinh tế hợp tác như hỗ trợ về pháp lý, vốn vay ngân
hàng, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ hợp
tác xã và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
- Cần xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp đối với vấn đề việc làm và phát triển kinh tế của địa phương. Về bản chất,
hợp tác xã và tổ hợp tác là tổ chức kinh tế - xã hội mang tính cộng đồng và trách
nhiệm xã hội, thu hút sự tham gia đông đảo của người dân nông thôn. Hợp tác xã, tổ
hợp tác đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo thu
nhập, việc làm, phát triển nông thôn mới; bảo vệ môi trường nông thôn, lưu giữ và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
- Xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, tổ chức
tham quan, học tập các mô hình điểm để áp dụng tại các địa phương trong thị xã.
- Tập trung đây nhanh tiến độ công tác chuyển đổi, sắp xếp, tổ chức lại hoạt
động của các hợp tác xã trên địa bàn thị xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Tuyên
truyền, hướng dẫn các tổ hợp tác đang hoạt động nhưng chưa đăng ký, chứng thực
đến UBND các xã, phường đăng ký chứng thực nhằm bảo đảm môi trường pháp lý
cho quá trình hoạt động của tổ hợp tác.
Tiểu kết chương 1
Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là sự mở rộng về quy mô, nâng
cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hình thức kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp. Từ khái niệm này, chương 1 nêu ra các loại hình kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp và đặc điểm, vai trò của nó cùng với yếu tố khách
quan và chủ quan ảnh hưởng hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Đồng
thời, chương 1 đề cập đến kinh nghiệm của một số địa phương về hoạt động kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp, từ đó rút ra bài học tham khảo cho Thị xã Điện Bàn.
Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
29
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG
NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN. TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1.Vị trí địa lý
Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Đơn vị
hành chính gồm 7 phường, 13 xã. Phía Bắc giáp huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng; phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp biển Đông và đô thị cổ
Hội An, phía Tây giáp huyện Đại Lộc. Với vị trí gần đầu mối giao thông và các đô
thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
2.1.1.2. Địa hình, khí hậu, thủy văn
Điện Bàn là thị xã đồng bằng, có địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh cao
thấp, mức độ chia cắt trung bình, đặc trưng cho địa hình có nguồn gốc phát sinh từ
sản phẩm phù sa sông biển, vì vậy, thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và công
tác phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã.
Điện Bàn nằm trong khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, với
nhiệt độ trung bình phù hợp, số giờ nắng cao, lượng mưa nhiều, điều này tạo nhiều
điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển các cây trồng nông nghiệp như lúa
màu, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên do chế độ mưa phân
hoá theo mùa trong năm không đồng đều, gây khô hạn, nhiễm mặn trong mùa khô
và bão thường xảy ra kết hợp với các trận mưa lớn vào các tháng 9, 10, 11 gây lũ
lụt, xói lở khu vực ven sông, điều này gây bất lợi lớn đến quá trình sản xuất nông
nghiệp cũng như khó khăn cho công tác quản lý nông nghiệp.
Hệ thống thuỷ văn thị xã Điện Bàn chủ yếu là các con sông bắt nguồn từ hệ
thống sông Vu Gia và sông Thu Bồn là các con sông chính của tỉnh. Các sông phân
bố tương đối đồng đều, dòng sông uốn khúc và nông. Mật độ phân bố trung bình
0,45km/km2, thuận lợi cho việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Tuy
30
nhiên do tính bất ổn định của dòng sông và phân bố lưu lượng không đều trong năm
gây không ít khó khăn trong mùa mưa lũ.
2.1.1.3. Đất đai
Tổng diện tích tự nhiên trên toàn thị xã 21.471 ha, trong đó diện tích đất nông
nghiệp 10.046 ha, chiếm 46,79% . Đất đai thị xã Điện Bàn khá tốt, có độ phì nhiêu
cao, nhóm đất phù sa chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép thâm canh
nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng. Bên cạnh đó,
Điện Bàn có 1253 ha diện tích nước mặt và chuyên dùng tạo điều kiện thuận lợi
tưới tiêu cho ngành trồng trọt, chăn nuôi và công tác quản lý nông nghiệp
Đánh giá chung về đặc điểm tự nhiên: Từ những đặc điểm tự nhiên trên cho
thấy Điện Bàn có rất nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp và thuận lợi trong công tác quản lý nông nghiệp. Tuy nhiên, Điện Bàn
nằm trong khu vực thời tiết, khí hậu có những biến động phức tạp như mưa bão
thường xuất hiện sớm, tình trạng thiếu nước làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
nông nghiệp của thị xã.
2.1.2. Đặc điểm Kinh tế - xã hội
Thị xã Điện Bàn là vùng kinh tế trọng điểm phía bắc Quảng Nam. Trên địa
bàn có Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc và 10 cụm công nghiệp, làng nghề
đã đi vào hoạt động có hiệu quả, tạo động lực phát triển kinh tế. Tổng giá trị sản
xuất của Điện Bàn tăng khá nhanh, giá trị sản xuất (theo giá so sánh 2010) đạt
15.324 tỷ đồng năm 2014, tăng lên đến 23.462 tỷ đồng năm 2018. Tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất bình quân thời kỳ 2014-2018 của thị xã đạt 11,46%. Ngành
nông - lâm - thủy sản có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong các ngành kinh tế và giá
trị sản xuất có xu hướng giảm, chiếm tỷ trọng 8,4% (năm 2014) và đến năm 2018
giảm còn 2,98%; ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng rất
mạnh mẽ, giá trị sản xuất của 02 ngành chiếm tỷ trọng từ 91,6% (năm 2014) tăng
đến 97,2% (năm 2018), trong đó, ngành công nghiệp - xây dựng đóng vai trò chủ
lực, đầu tàu trong phát triển kinh tế của Điện Bàn.
31
Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh tế thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-2018
Năm
2015 2016 2014 2017 2018 Bình quân thời kỳ Chỉ tiêu
15.324 17.102 19.106 21.050 23.461 19.208 1. Tổng Giá trị sản xuất-Giá so sánh 2010 (tỷ đồng)
1342 1354 1406 1539 1584 1.445 - Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
- Công nghiệp-xây dựng 9.885 10.632 11.601 12.744 13.844 11.741
- Dịch vụ 4.097 5.116 6.099 6767 8033 6.022
16,4 11,6 11,7 11,55 11,45 12.5
2. Tốc độ tăng trưởng (%) Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn
Tổng thu ngân sách trên địa bàn thị xã tăng liên tục qua các năm, bình quân
tăng 17,15%/năm trong giai đoạn 2014-2018, trong đó thu phát sinh kinh tế phần
lớn tập trung thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa và thu
tiền sử dụng đất. Tổng chi ngân sách thị xã có xu hướng tăng qua các năm, năm
2014 tổng chi 1.478,86 tỷ đồng, năm 2018 lên đến 3.166,01 tỷ đồng.
Bảng 2.2. Thu – chi trong cân đối ngân sách thị xã Điện Bàn
ĐVT: Tỷ đồng
Năm 2014 2015 2016 2017 2018 Chỉ tiêu
1.Tổng thu ngân sách 1.386,72 1.729,01 1.960,99 2.526,70 4.561,96
644,95 767,69 928,85 1.401,65 2.539,54 - Thu cân đối ngân sách nhà nước
- Thuế do hải quan thu 121,93 110,21 196,62 145,10 179,46
16,97 5,25 11,87 48,33 39,98 - Thu kết dư ngân sách năm trước
- Thu chuyển nguồn 110,31 56,27 156,34 273,81 349,26
26,13 21,31 24,59 15,73 79,35
- Các khoản thu để lại đơn vị chi quản lý qua ngân sách nhà nước
466,44 768,28 642,72 642,06 1445,78 - Thu khác nguồn ngân
32
Năm 2014 2015 2016 2017 2018
Chỉ tiêu sách
2.Tổng chi ngân sách 1.478,65 2.115,87 1.985,55 2.066,38 3.166,01
- Chi đầu tư phát triển 230,03 310,08 426,66 461,67 317,22
+ Chi xây dựng cơ bản 230,03 310,08 426,66 461,67 317,22
- Chi thường xuyên 754,58 881,17 875,15 933,58 817,20
494,05 924,62 683,75 671,14 2.031,60
- Chi khác Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn
Đánh giá chung về đặc điểm kinh tế: Trên cơ sở phát huy các tiềm năng lợi thế
của thị xã và tăng cường thu hút các nguồn lực bên ngoài, nền kinh tế thị xã Điện
Bàn phát triển tương đối nhanh và toàn diện trong những năm qua. Giai đoạn 2014 -
2018, cơ cấu kinh tế chung của thị xã đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực,
tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Với sự
tăng trưởng về ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ đã tạo ra thách thức đối với
ngành nông nghiệp và công tác quản lý, yêu cầu phải có sự thay đổi kịp thời để ứng
phó với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như đáp ứng sự phát triển nhanh chóng
của các vùng đô thị, mặt khác, điều này lại chính là động lực để yêu cầu phát triển
ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, theo chiều sâu, tăng về giá trị sản phẩm
nông nghiệp để đáp ứng sự phát triển chung của kinh tế - xã hội của thị xã.
Năm 2018, dân số trung bình toàn thị xã là 211.749 người, trong đó dân số
thành thị chiếm khoảng 38,50%, dân số nông thôn 61,40%. Về cơ cấu dân số, tỉ lệ
nam chiếm khoảng 47,96%, tỉ lệ nữ chiếm 52,04%, từ 18 - 45 tuổi chiếm 55,37%
dân số. Mật độ dân số trung bình 976 người/km2, là đơn vị đánh giá có mật độ dân
số cao trong tỉnh Quảng Nam. Trong năm 2018, lao động được việc làm trong năm
2018 là 5.850 lao động. So với năm 2014, dân số trung bình tăng 2,5%, tổng số lao
động tăng 7,5%, lao động được việc làm tăng 65%. Như vậy, các chỉ tiêu về dân số,
lao động của thị xã đều có xu hướng tăng qua các năm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2014 là
3,50%, đến năm 2018 giảm còn 1,62%. Thu nhập bình quân đầu người 32
tr.đồng/người năm 2014, đến năm 2018 tăng lên đạt 46,35 tr.đồng/người.
33
2.2. Tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm (2014-2018)
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn
với thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, UBND
thị xã Điện Bàn chỉ đạo các ban ngành và địa phương tiếp tục thực hiện các chương
trình trọng tâm trong nông nghiệp nông thôn. Qua đó, có thể nhận thấy tình hình
phát triển nông nghiệp thị xã trong 05 năm (2014-2018) cụ thể như sau:
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp: Tốc độ tăng trưởng giữ ổn định, bình quân
ngành nông nghiệp trong 5 năm 2014 - 2018 là 3,10% (giá so sánh 2010), đạt so với
chỉ tiêu điều chỉnh của Đảng bộ thị xã. Thị xã Điện Bàn đã triển khai các chương
trình trong nông nghiệp như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng; chỉnh trang đồng ruộng,
đồn điền, đổi thửa, qui hoạch cụm chăn nuôi;… đạt kết quả quan trọng; việc cơ giới
hóa và ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp được
tập trung thực hiện; chương trình thủy lợi hóa đất màu, giao thông nội đồng, kiên cố
hóa kênh mương, xây đập thời vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chủ động nước tưới,…, tạo
ra bước phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu: Nông nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng
tích cực, giảm tỷ trọng trồng trọt từ 62,67% năm 2014 xuống còn 47,73% năm
2018; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi năm 2014 là 33,37%, năm 2018 tăng 39,80%;
Ngành dịch vụ chưa được chú trọng, tỷ trọng ngành ít có sự biến động, năm 2014
chiếm 3,96%, đến năm 2018 giảm còn 3,87%. Số liệu cụ thể được nêu ở Bảng 2.3.
Bảng 2.3. Tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp
thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-2018
Năm
2015 2016 2017 2018 Bình quân thời kỳ 2014 Chỉ tiêu
1.204,68 1.229,04 1.277,14 1538,15 1584,46 1366.69
1. Giá trị sản xuất- Giá so sánh 2010 (tỷ đồng)
- Trồng trọt 754,95 691,88 683,11 735,59 756,31 724.37
34
Năm
2015 2016 2017 2018 Bình quân thời kỳ 2014 Chỉ tiêu
- Chăn nuôi 402,00 479,68 536,08 601,34 630,735 529.97
- Dịch vụ 47,73 57,46 57,95 63,62 61,357 57.62
3,20 2,02 3,92 3,4 2,98 3.10 2. Tốc độ phát triển (%)
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn
Về trồng trọt: Giai đoạn 2014-2018, giá trị sản xuất trên ha đất canh tác đạt
bình quân 34 triệu đồng/năm. Tổng diện tích gieo trồng năm 2018 so với 2014 giảm
761 ha, trong đó, cả diện tích cây lương thực và cây thực phẩm, cây công nghiệp
ngắn ngày đều có xu hướng giảm, số liệu được nêu cụ thể tại Bảng 2.6. Tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Đề án phát triển giao thông nội đồng, kiên cố hóa kênh mương loại
III, thủy lợi hóa đất màu, áp dụng giống lúa mới, nhiều mô hình thâm canh tổng hợp
đã cho năng suất cao, như mô hình lúa giống, ngô giống ở các xã Điện Phước, Điện
Thọ, Điện Hồng,… có giá trị thu nhập bình quân 50-75 triệu đồng/ha/năm; mô hình
cây thực phẩm, hoa cảnh có giá trị thu nhập bình 350 triệu đồng/ha/năm, chủ yếu
tập trung ở các xã Điện Minh, Vĩnh Điện, phường Điện Nam Trung, Điện Nam
Bắc; mô hình xen canh gối vụ khác trên đất màu cho giá trị thu nhập bình quân 100-
200 triệu đồng/ha/năm ở vùng ven sông Thu Bồn, vùng Gò Nổi. Sản lượng lương
thực tương đối ổn định qua các năm, đạt bình quân trên 79.097 tấn/năm trên diện
tích gần 14.000 ha, vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ
XXI đề ra 76.000 tấn. Trong đó, ngoài các sản phẩm truyền thống đóng góp giá trị
sản xuất cao nhất toàn ngành là cây lúa, cây ngô, còn có các sản phẩm nông nghiệp
chính khác là cây lạc, đậu xanh, ớt, mè, cây công nghiệp hằng năm, cây trồng lâu
năm và cây ăn quả,…
35
Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2014-2018
Giai đoạn 2014-2018 Chỉ tiêu chủ yếu Bình quân 2014 2015 2016 2017 2018
- Tổng diện tích (ha) 21.374 21.055 20.836 20.671 20.613 20.910
+ Cây LT có hạt 13.734 13.696 13.541 13.568 13.307 13.569
+ Cây thực phẩm 5.998 5.741 5.622 5.555 5.781 5.739
+ Cây CN ngắn ngày 1.642 1.618 1.673 1.548 1.525 1.601
81.824 78.788 78.492 79.155 77.227 79.097 - Sản lượng lương thực cây có hạt (tấn)
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn
Về chăn nuôi: Giá trị sản xuất tăng bình quân 9,52% và chiếm tỷ trọng 39,80%
trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2014-2018. Mô hình chăn
nuôi tập trung với quy mô trang trại, gia trại ngày càng phát triển, góp phần nâng
cao hiệu quả trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, công tác quản lý dịch bệnh và các biện
pháp phòng ngừa được triển khai thực hiện tốt, hằng năm tỷ lệ tiêm phòng vắc xin
lở mồm long móng, tụ huyết trùng, tam liên đạt 78% giúp kiểm soát được dịch
bệnh, nhờ vậy không có dịch bệnh nguy hiểm phát sinh gây hại nên tình hình chăn
nuôi trên địa bàn thị xã vẫn giữ được sự ổn định, đồng thời nâng cao chất lượng và
hiệu quả. Số liệu được nêu tại Bảng 2.5.
Bảng 2.5. Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực chăn nuôi giai đoạn 2014-2018
Giai đoạn 2014-2018 Bình quân Nội dung ĐVT
2014 2015 2016 2017 2018
1. Đàn trâu Con 943 948 860 844 710 861
2. Đàn bò 1.000 Con 18 18 22 22.174 22.162 20.5
3. Đàn lợn 1.000 Con 76 75 78 70 75 74.8
4. Đàn gia cầm 1.000 Con 1.013 1.006 1.325 1.322 1.460 1.225
9.782 8.520 10.378 9.013 8.102 tấn 8.282
5. SL thịt hơi Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn
36
2.3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn
2.3.1. Căn cứ pháp lý quy định nội dung hoạt động kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn
2.3.1.1. Đối với hợp tác xã
- Căn cứ Luật Hợp tác xã năm 2012;
- Căn cứ Nghị định số: 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi tiết
một số điều của Luật Hợp tác xã;
- Căn cứ Thông tư số: 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/05/2014 quy định hướng
dẫn về thành lập hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã.
+ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do
ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp
tác xã".
- Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp
tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp hợp tác xã.
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành
viên.
- Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang
nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động
của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính
xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội
dung khác theo quy định của điều lệ.
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước pháp luật.
- Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách
nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu
nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức
lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.
37
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho
thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã.
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng
thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào
hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.
2.3.1.2. Đối với tổ hợp tác
- Bộ Luật dân sự năm 2005
- Nghị định 151/2007/NĐ – CP ngày 10 tháng 10 năm 2007 của Chính Phủ về
tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác
+ Tổ hợp tác được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau: Tự nguyện, bình
đẳng, dân chủ và cùng có lợi; Biểu quyết theo đa số; Tự chủ tài chính, tự trang trải
các chi phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của tổ và các tổ viên.
+ Tổ hợp tác có quyền chọn tên và biểu tượng của mình phù hợp với quy định
của pháp luật và không trùng lắp với tên, biểu tượng của tổ hợp tác khác trong phạm
vi xã, phường, thị trấn.
+ Hợp đồng hợp tác là thỏa thuận bằng văn bản giữa các tổ viên, có tên gọi là
hợp đồng hợp tác được ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực.
+ Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tự nguyện
tham gia và tán thành các nội dung của hợp đồng hợp tác đều có thể trở thành tổ
viên tổ hợp tác.
+ Tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh tổ hợp tác.
+ Tổ hợp tác chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của tổ; nếu tài sản
không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên
đới tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình.
+ Thực hiện các trách nhiệm đối với người lao động do tổ hợp tác thuê theo
quy định của pháp luật về lao động.
+ Giao dịch dân sự do người đại diện của tổ hợp tác xác lập, thực hiện vì mục
38
đích hoạt động của tổ hợp tác theo quyết định của đa số tổ viên làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của tổ hợp tác.
+ Các giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện của tổ hợp tác xác
lập thì hậu quả của giao dịch này thực hiện theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Dân
sự.
+ Tài sản của tổ hợp tác hình thành từ các nguồn: Tài sản đóng góp của tổ viên
tổ hợp tác; Phần được trích từ hoa lợi, lợi tức sau thuế để tăng vốn; Các tài sản
cùng tạo lập và được tặng, cho chung; Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
+ Việc quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác được thực hiện theo phương
thức thoả thuận. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được
toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
+ Công tác tài chính của tổ hợp tác phải bảo đảm tính công khai, minh bạch để
tổ viên biết, theo dõi và kiểm tra; hình thức và nội dung báo cáo tài chính do các tổ
viên bàn bạc, quyết định.
2.3.2. Thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã
Điện Bàn thời gian qua:
2.3.2.1. Quá trình phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn
- Giai đoạn trước năm 1981: Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là đơn vị tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Hợp tác trong nông nghiệp là đơn vị
kinh tế cơ sở và cơ bản ở nông thôn, kinh tế hộ tự chủ không tồn tại, mà chỉ có kinh
tế phụ gia đình gắn với sử dụng đất 5% cho chăn nuôi. Mô hình hợp tác trực tiếp
quản lý ruộng đất, tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm với bộ máy quản lý rất lớn.
Bên cạnh hợp tác trong nông nghiệp thường có các hợp tác tiểu thủ công nghiệp,
hợp tác mua bán, hợp tác tín dụng. Các hợp tác này tồn tại độc lập với nhau trong
cơ chế quản lý hành chính chỉ huy, tập trung bao cấp của Nhà nước. Thời kỳ này
các mô hình hợp tác nhận được sự bao cấp của Nhà nước, các hợp tác không chỉ là
tổ chức kinh tế mà đảm nhận nhiều chức năng xã hội, chính trị, thậm chí cả của
chính quyền cơ sở.
- Giai đoạn khoảng 1981-1997: Với sự phát triển ngành nghề đa dạng trong
nông thôn gắn với thực hiện cơ chế khoán trong nông nghiệp, nhiều hợp tác không
39
còn tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp thuần túy, mà mở rộng, phát triển sản
xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, vận tải, kinh doanh thương mại, dịch vụ, tín
dụng. Bộ máy quản lý của hợp tác vẫn khá nặng nề và vẫn dựa vào sự bao cấp của
Nhà nước. Từ sau Nghị quyết TW6 khóa VI năm 1989 phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương phát triển kinh tế hộ tự chủ, hộ là đơn vụ
kinh tế cơ sở. Các hợp tác nông nghiệp kiểu cũ tồn tại dựa trên ba cơ sở kinh tế
quan trọng là: quản lý sử dụng ruộng đất; tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh; phân
phối sản phẩm... Khi thực hiện kinh tế hộ tự chủ, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu
dài cho nông dân, người nông dân nộp thuế cho Nhà nước, tự quyết định việc sản
xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế của các hợp tác kiểu cũ
không còn, do đó các hợp tác gặp nhiều khó khăn, trì trệ, các hợp tác mua bán và tín
dụng tự tiêu vong.
Từ sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng, kinh tế hợp tác có những biến đổi rõ rệt từ
hình thức hợp tác, nội dung đến phương thức hoạt động. Kết quả hoạt động của các
hợp tác trong nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển sản xuất
nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh
tế hộ phát triển và sự nghiệp phát triển nông thôn mới của thị xã. Tuy nhiên, cùng
với những biến đổi đó là sự giảm sút đáng kể về số lượng và sự thay đổi căn bản
trong các quan hệ về nhận địa vị tự chủ về kinh tế của hộ nông dân và việc tạo điều
kiện cho hộ nông dân từng bước trở thành đơn vị kinh tế tự chủ; hợp tác trong nông
nghiệp chuyển từ chức năng tổ chức sản xuất nông nghiệp sang chức năng cung ứng
dịch vụ cho các hộ nông dân, hoạt động theo cơ chế thị trường gặp nhiều khó khăn.
Từ những điều kiện trên, ngay từ khi thành lập các hợp tác trong nông nghiệp
đã gặp khó khăn, thêm vào đó công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý điều hành còn
nhiều bất cập và sự buông lỏng, thả nổi của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương
làm cho các hợp tác ngày càng khó khăn gay gắt; dẫn đến nông dân mất lòng tin vào
sự quản lý điều hành sản xuất. Xã viên yêu cầu phải giải quyết căn bản những tồn
đọng của các hợp tác để giúp cho họ hình thành các tổ chức hợp tác tương trợ đa
40
dạng, bền vững hơn trong sản xuất.
Tuy nhiên, Đảng và chính quyền địa phương đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
tập hợp và đoàn kết được đông đảo cán bộ, xã viên quyết tâm xây dựng các mô hình
hợp tác trong nông nghiệp. Công tác quản lý kinh tế, tài chính được thực hiện một
cách công khai, rõ ràng với xã viên, hoạt động của các hợp tác hằng năm đều có
hiệu quả, đem lại niềm tin cho xã viên. Quá trình hoạt động bảo toàn được vốn, sử
dụng và khai thác có hiệu quả các tài sản, duy trì và ổn định chất lượng dịch vụ cho
hộ xã viên. Một số hợp tác tích luỹ được vốn, dần dần mở rộng được ngành nghề
đáp ứng trong việc khai thác mọi tiềm năng của địa phương và giải quyết việc làm
cho người lao động. Người nông dân được hưởng lợi ích từ kinh tế hợp tác thông
qua hiệu quả dịch vụ các khâu trong sản xuất, các phúc lợi xã hội và giải quyết được
việc làm cho người lao động. Điều đó tạo điều kiện cho nông dân gắn bó và tích cực
tham gia vào các hoạt động của các hợp tác, làm cho các hợp tác trong nông nghiệp
ổn định, phát triển, góp phần rất lớn vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới.
- Giai đoạn từ năm 1997-2001: Để định hướng đổi mới kinh tế hợp tác và hợp
tác xã, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII đã có chỉ thị số 68/CT-TƯ ngày
25.4.1996, thị xã Điện Bàn cũ đã tập trung xử lý các hợp tác khó khăn và yếu kém
và chuyển đổi mô hình hợp tác kiểu cũ sang mô hình mới.
+ Đối với các địa phương đã giải thể hợp tác yếu kém:
Các địa phương sau khi giải thể các hợp tác khó khăn, yếu kém, nhìn chung
tình hình sản xuất, đời sống nhân dân, tình hình kinh tê – xã hội vẫn ổn định. Các
địa phương này đã giải quyết cơ bản những tồn tại như: bàn giao UBND xã các tài
sản phục vụ sản xuất chung (trạm hạ thế điện, công trình thuỷ lợi… toàn bộ hồ sơ
về công nợ để tiếp tục theo dõi, quản lý. Đồng thời UBND các xã củng cố ban
Nông-Lâm hoặc Ban kinh tế xã để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất và thực hiện các
chương trình khuyến nông, khuyến lâm…Một số nơi xây dựng các tổ hợp tác
chuyên khâu, chuyên nghề, tổ dịch vụ điện, thuỷ nông để quản lý, sử dụng. Nơi có
đủ điều kiện thì thành lập mới các hợp tác. Bên cạnh đó cũng có địa phương chưa
kiện toàn bộ phận chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở xã; từ đó việc tiếp nhận thông tin
về sản xuất, triển khai việc chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất gặp khó khăn làm ảnh
41
hưởng đến sản xuất và đời sống của nông dân.
+ Các hợp tác xã có điều kiện chuyển đổi:
Đến tháng 1/2001 toàn thị xã có 18 hợp tác trong nông nghiệp. Tuỳ thuộc vào
khả năng về vốn liếng, năng lực quản lý điều hành của cán bộ, tài sản phục vụ sản
xuất và yêu cầu dịch vụ của hộ, các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã hoạt
động theo 2 loại hình sau: hợp tác dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp: và
hợp tác dịch vụ một số khâu cơ bản cho sản xuất nông nghiệp.
+ Đối với các hợp tác chuyển đổi khá đạt được kết quả sau:
Các hợp tác tích cực cải tiến công tác quản lý, như áp dụng chế độ khoán, gắn
trách nhiệm cho từng bộ phận, gắn thù lao với kết quả từng khâu công việc, thực
hiện giao khoán vốn, một số hợp tác thực hiện tranh cử chủ nhiệm… Tập trung xây
dựng, tu bổ cơ sở vật chất phục vụ sản xuất để tạo điều kiện cho sự phát triển hợp
tác như xây dựng mới và nâng cấp các công trình điện trạm bơm, kiên cố hoá kênh
mương, phát triển ngành nghề…
Các hợp tác đổi mới phương thức hoạt động tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hộ
phát triển. Có thể nói, hộ tự chủ trong sản xuất là nhân tố làm sống động tình hình
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn trong những năm đổi mới, qua thực tế, những
hợp tác khi chuyển sang cơ chế mới mà không thay đổi phương thức hoạt động để
phục vụ kinh tế hộ phát triển thì sớm muộn cũng tan rã hoặc chỉ tồn tại trên danh
nghĩa.
Một số hợp tác mở rộng được hình thức liên doanh, liên kết với các thành
phần kinh tế, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng lực vốn, giải
quyết việc làm, tiêu thụ sản phẩm… Các hợp tác khá đã biết dựa vào sự giúp đỡ của
Nhà nước về tài chính và biết huy động bổ sung vốn thông qua tích luỹ, liên doanh,
liên kết, từ đó đầu tư những lĩnh vực như công trình điện, thuỷ lợi, mở mang ngành
nghề, công nghiệp nông thôn… làm điểm tựa để mở rộng dần nội dung hoạt động
của hợp tác trong nông nghiệp.
2.3.2.2. Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tại Điện Bàn giai đoạn
2014-2018
Thứ nhất, thành lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo
42
Để thực hiện tốt các nội dung, mục tiêu của Kế hoạch số 956/QĐ- UBND,
ngày 10 tháng 6 năm 2015 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc phê duyệt đề án:
“Tiếp tục củng cố, phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015-
2020” đề ra, UBND thị xã Điện Bàn đã chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo phát triển
kinh tế tập thể tại Quyết định số 2413/QĐ-UBND ngày 11 tháng 8 năm 2015 của
UBND thị xã Điện Bàn; Ban Chỉ đạo gồm 01 đồng chí phó chủ tịch thị xã phụ
trách nông nghiệp làm Trưởng ban, đồng chí Trưởng phòng kinh tế làm Phó ban
thường trực cùng lãnh đạo các phòng, cơ quan trong thị xã. Phòng kinh tế là cơ
quan thường trực Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo
+ Giúp chủ tịch UBND thị xã tiếp tục triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã
năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã theo các
văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh Quảng Nam;
+ Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai Luật
Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn
thị xã ;
+ Theo dõi, tổng hợp, báo cáo tình hình triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012
và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã ;
+ Chuẩn bị nội dung, chương trình cho các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của
Ban Chỉ đạo thị xã và các báo cáo theo yêu cầu;
+ Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về các chính sách phát triển
kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã ;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND thị xã giao.
- Hoạt động của Ban Chỉ đạo
Hàng năm, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn phối hợp
với Liên minh Hợp tác xã tỉnh Quảng Nam và Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh
Quảng Nam tổ chức triển khai tuyên truyền Luật Hợp tác xã và các văn bản thi
hành luật đến các cơ quan chuyên môn, UBND các xã, thị trấn và toàn thể nhân
dân. Kết thúc mỗi năm, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn tiến
43
hành rà soát, đánh giá kết quả thực hiện “Kế hoạch củng cố và phát triển kinh tế
tập thể” trên địa bàn thị xã Điện Bàn. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để thực
hiện tốt hơn trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh đó, hoạt động của Ban
Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn vẫn còn một số hạn chế như
thành viên trong Ban Chỉ đạo còn có nhiều sự thay đổi qua các năm; Ban Chỉ
đạo chưa mạnh dạn giải thể đối với những hợp tác nhiều năm liền không hoạt động
sản xuất - kinh doanh, không tổ chức đại hội xã viên thường kỳ; Sự phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành liên quan giúp hợp tác xã kiện toàn bộ máy ban quản lý
và ban kiểm soát, xây dựng điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh để tiếp tục
hoạt động còn chưa đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, thực hiện tuyên truyền, triển khai chính sách phát triển kinh tế hợp tác
Hằng năm UBND thị xã đã phối hợp lồng ghép các nguồn vốn tổ chức tuyên
truyền, phổ biến, giới thiệu tới các hợp tác, các đơn vị có liên quan và nhân dân
về Luật Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, cụ thể:
- Năm 2016: thị xã phối hợp tổ chức được 06 lớp tập huấn, tuyên truyền
về mô hình và tổ chức hoạt động của hợp tác và các chính sách phát triển kinh tế
hợp tác với 480 lượt người tham gia, tổng kinh phí 41,16 triệu đồng.
- Năm 2017: thị xã phối hợp tổ chức được 07 lớp tập huấn tuyên truyền về
các chính sách phát triển kinh tế hợp tác với 720 lượt người tham gia, 03 lớp tập
huấn kỹ thuật cho thành viên của hợp tác với 120 lượt xã viên tham gia, tổng kinh
phí thực hiện là 73,02 triệu đồng.
- Năm 2018: thị xã phối hợp tổ chức được 03 đợt tham quan học tập kinh
nghiệm về sản xuất rau màu thực phẩm công nghệ cao ở Thành phố Đà Lạt và
Thành phố Đà Nẵng và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác cho 350 lượt
người tham gia, tổng kinh phí thực hiện là 79 triệu đồng.
Thông qua các lớp tập huấn, UBND thị xã Điện Bàn đã tổ chức triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về "Tiếp tục đổi mới, phát triển
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới phát triển kinh
tế hợp tác; triển khai Chỉ thị số 23/CT-TU ngày 25/7/2014 của Ban thường vụ Tỉnh
44
ủy Quảng Nam về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa IX)
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Thông báo số
164/TB-TU ngày 09/5/2014 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam về việc
thông qua một số chương trình, đề án phát triển kinh tế tập thể; Chỉ thị 35-
CT/TU ngày 27/5/2014 về đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX về Tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam; Hội nghị tổng kết 10 năm triển khai Nghị quyết Trung
ương 5 khóa IX về "Tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể"
và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khóa IX về đổi mới phát triển kinh tế hợp tác; UBND thị xã Điện
Bàn đã nghiêm túc triển khai thực hiện văn bản số 712/UBND-KTN ngày
04/4/2014 về việc triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã, văn bản số 265/UBND ngày
26/4/2015 về việc tăng cường công tác bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản; tổ chức
thực hiện việc đẩy mạnh phát triển hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã trong lĩnh vực
nông nghiệp; triển khai văn bản số 100/SNN-KHTC ngày 1 2/03/2015 của Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam về việc chuyển đổi mô hình
hợp tác xã nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
Bên cạnh các lớp tập huấn, trong giai đoạn 2016 - 2018, thị xã Điện Bàn đã
thực hiện 06 phóng sự tuyên truyền các chủ trương, chính sách về phát triển
kinh tế hợp tác và giới thiệu các mô hình hợp tác nông nghiệp tiêu biểu trên đài
phát thanh truyền hình thị xã Điện Bàn. Ngoài ra, Phòng kinh tế đã phối hợp với
Hội Nông dân, Hội Phụ nữ thị xã tổ chức các lớp tuyên truyền, học tập quán
triệt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế hợp tác
đến từng địa phương trong thị xã, góp phần thúc đẩy thành lập mới các hợp tác xã
nông nghiệp.
Qua tuyên truyền, vận động người dân về kinh tế tập thể, một bộ phận người
dân đã nhận thức được sự cần thiết và hiệu quả của kinh tế tập thể với mục tiêu
giúp đỡ, tương trợ nhau trong sản xuất, khắc phục được một số yếu kém của kinh
tế hộ như thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất, tăng sức cạnh
tranh trên thị trường. Tuy nhiên, nhận thức về đổi mới và phát triển kinh tế hợp
45
tác - hợp tác xã theo luật còn hạn chế. Nhận thức về hợp tác xã của các cấp, các
ngành, của người dân còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Hình ảnh mô hình hợp
tác xã kiểu cũ vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người khiến họ còn
do dự, đắn đo khi tham gia vào mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới.
Thứ ba, hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước
Bảng 2.6: Hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước cho hợp tác xã nông nghiệp
Số hợp Tỷ lệ Nội dung tác xã (%)
1. HTX nhận được tiền hỗ trợ thành lập mới HTX 100 20
2. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách cán bộ và đào tạo 17 85 nguồn nhân lực
3. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách tín dụng 14 70
4. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách về KHCN và mở rộng 3 15 thị trường
5. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách hỗ trợ thuế 15 75
6. HTX được tham gia thăm quan, học tập các HTX hoạt 4 20 động có hiệu quả
Nguồn: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp
của thị xã năm 2016 – 2018
- Chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác nông nghiệp: Theo quy định hiện
nay, mỗi hợp tác thành lập mới sẽ được nhà nước hỗ trợ 4 triệu đồng. Số tiền tuy
không lớn nhưng thể hiện sự quan tâm, động viên của nhà nước đối với sự phát triển
của các hợp tác xã.
- Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực: Trong giai đoạn 2016-
2018, UBND thị xã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan đã tổ chức 06 lớp
tập huấn kỹ thuật cho các thành viên hợp tác. Ngoài ra, cán bộ quản lý hợp tác đều
được Chi cục phát triển nông thôn mời đi tham dự các lớp tập huấn quản lý do tỉnh
Quảng Nam tổ chức.
- Chính sách tín dụng: Trong thời gian qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thị xã đã tạo điều kiện cho các hợp tác nông nghiệp vay vốn khi
46
các hợp tác đáp ứng đủ các điều kiện.
- Chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, tiếp thị và mở rộng thị trường:
Trong 20 hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn có 03 hợp tác được hỗ trợ về
khoa học công nghệ, tiếp thị và mở rộng thị trường, đó là hợp tác trồng dâu tằm của
xã Điện Quang, hợp tác trồng nấm của phường Điện Nam Bắc và hợp tác sản xuất
lúa giống xã Điện Phước, được hỗ trợ về quảng bá thương hiệu, bao bì, nhãn mác
sản phẩm. Ngoài ra, hợp tác xã trồng nấm phường Điện Nam Bắc còn được hỗ trợ
về quy trình sản xuất và cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP.
- Chính sách hỗ trợ thuế: Chi cục thuế thị xã Điện Bàn đã áp dụng chính sách
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các hoạt động dịch vụ
phục vụ sản xuất kinh doanh của xã viên theo quy định của pháp luật về thuế, đối
với hợp tác xã nông nghiệp ngoài hưởng ưu đãi theo quy định như trên còn
được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập tạo ra từ hoạt động
dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên.
- Hợp tác xã được tham gia thăm quan, học tập các hợp tác hoạt động có
hiệu quả trong và ngoài địa bàn thị xã: Trong giai đoạn 2016-2018, do nguồn kinh
phí hạn hẹp cùng với việc thị xã phải dành nhiều kinh phí cho xây dựng các
công trình thủy lợi và khắc phục thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra nên thị xã
tổ chức được ít đợt thăm quan, học tập các hợp tác nông nghiệp hoạt động có hiệu
quả cả trên địa bàn thị xã và ngoài địa bàn thị xã. Thời gian tới, thị xã cần chủ
động xây dựng kế hoạch trước, đặc biệt là kinh phí để các hợp tác xã nông nghiệp
nói riêng và các đối tượng khác như hợp tác xã phi nông nghiệp, tổ hợp tác
được có cơ hội trải nghiệm, học tập cách làm ăn hay từ các hợp tác khác hoạt
động hiệu quả hơn.
- Thông tin thị trường của các hợp tác nông nghiệp
Thị trường ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các hợp tác nông nghiệp
bởi sản phẩm của các hợp tác nông nghiệp thường bán với số lượng lớn, trong khi
giá cả trên thị trường liên tục thay đổi làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh
doanh của các hợp tác nông nghiệp. Các hợp tác trong nông nghiệp cần thường
xuyên cập nhật thông tin về giá bán sản phẩm trên thị trường để nắm bắt được
47
những thay đổi của thị trường, từ đó có những thay đổi về kế hoạch sản xuất kinh
doanh phù hợp với xu thế, diễn biến của thị trường. Đây là thói quen cần phải
thay đổi bởi nếu như chỉ cập nhật thông tin về giá bán sản phẩm trên thị trường
trước khi bán sản phẩm không những hợp tác nông nghiệp sẽ không kịp điều
chỉnh, thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh mà thậm chí còn bị tư thương ép giá.
- Về kênh cập nhật thông tin giá bán sản phẩm trên thị trường: hiện nay,
với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin
thì hợp tác xã nông nghiệp có rất nhiều kênh để cập nhật thông tin giá bán sản
phẩm trên thị trường. Các kênh cập nhật thông tin có thể là qua các phương tiện
thông tin đại chúng (báo, đài, tivi), qua máy tính hoặc điện thoại có kết nối
mạng internet. Bên cạnh đó, có một số kênh tham khảo khác như hỏi tư thương,
các đối tác làm ăn hoặc các hợp tác nông nghiệp khác có cùng lĩnh vực sản xuất
kinh doanh.
- Về ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, nhà máy để tiêu thụ sản phẩm
cho hợp tác xã: việc bán sản phẩm thường xuyên với số lượng lớn nên nếu hợp tác
xã ký kết được hợp đồng với các doanh nghiệp, nhà máy để tiêu thụ sản phẩm cho
hợp tác xã sẽ giúp hợp tác nông nghiệp vừa không lo đầu ra cho sản phẩm, vừa
hạn chế được rủi ro và tình trạng ép giá của tư thương.
- Về liên kết với các tổ hợp tác, hợp tác xã khác trong việc cung ứng nguyên
liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra cho hợp tác xã
Việc liên kết này sẽ giúp các hợp tác ổn định được đầu vào và đầu ra cho quá
trình sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng thừa hoặc thiếu nguyên liệu đầu vào
cũng như sản phẩm đầu ra cung ứng cho thị trường.
2.3.3. Tình hình hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
2.3.3.1. Số lượng hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn
Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Với vị
trí gần đầu mối giao thông và các đô thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn. Có địa hình tương đối bằng
phẳng, độ chênh cao thấp, mức độ chia cắt trung bình, đặc trưng cho địa hình có
48
nguồn gốc phát sinh từ sản phẩm phù sa sông biển, vì vậy, thuận lợi cho việc sản
xuất nông nghiệp và công tác phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa
bàn thị xã. Kết quả tổng hợp về số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện
Bàn trong giai đoạn 2016-2018 được thể hiện ở bảng 2.7 dưới đây:
Bảng 2.7: Số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
thị xã Điện Bàn giai đoạn 2016-2018
Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2016 2017 2018
Tổng số hợp tác 19 20 22
Số hợp tác nông nghiệp 18 18 20
Số hợp tác xã phi nông nghiệp 1 2 2
Nguồn: Phòng kinh tế thị xã Điện Bàn
Qua bảng số liệu 2.7 cho thấy, số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
thị xã Điện Bàn trong giai đoạn 2016-2018 có xu hướng tăng lên qua các năm và
chiếm tỷ lệ cao so với số hợp tác trên địa bàn thị xã. Năm 2016, trong tổng số 19
hợp tác có trên địa bàn thì có 18 hợp tác nông nghiệp, 01 hợp tác phi nông
nghiệp. Năm 2017, trong tổng số 20 hợp tác có trên địa bàn thì có 18 hợp tác
nông nghiệp, tăng 01 hợp tác phi nông nghiệp so với năm 2016. Trong năm 2018,
trên địa bàn thị xã có thêm 02 hợp tác nông nghiệp được thành lập mới.
Theo báo cáo của phòng kinh tế thị xã Điện Bàn và theo điều tra của tác giả,
tại thời điểm tác giả điều tra trên địa bàn thị xã Điện Bàn có 20 hợp tác nông
nghiệp. Kết quả đánh giá phân loại hợp tác nông nghiệp năm 2018 theo Thông tư
số: 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn về hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác trong lĩnh vực
nông nghiệp thì có: 11 hợp tác đạt loại khá giỏi, chiếm tỷ lệ 55 %; 07 hợp tác
trung bình, chiếm tỷ lệ: 35%; 02 hợp tác yếu, chiếm tỷ lệ 10%.
2.3.3.2. Lĩnh vực ngành nghề của hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã
Điện Bàn
Tác giả tiến hành điều tra 20 hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện
Bàn. Vì quy mô tổng thể nhỏ nên tác giả lựa chọn phương pháp điều tra toàn bộ tổng
49
thể. Trong tổng số 20 hợp tác nông nghiệp tác giả tiến hành điều tra có 01 hợp tác
hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực trồng dâu tằm, chiếm tỷ lệ 05%; 02
hợp tác hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực trồng nấm, chiếm tỷ lệ
1 0 %; 07 hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực cho thuê mặt bằng, chiếm tỷ lệ 35 %;
09 hợp tác hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực dịch vụ điện, chiếm tỷ lệ 45 %;
07 hợp tác liên kết sản xuất kinh doanh lúa giống, chiếm tỷ lệ 35 %; 15 hợp tác có
dịch vụ làm đất, thu hoạch, chiếm tỷ lệ 75 %; và có 20/20 xã có dịch vụ thủy nông
phục vụ tưới tiêu cho bà con nông dân chiếm tỷ lệ 100 %.
2.3.3.3. Lao động và quản lý trong các hợp tác nông nghiệp
Để tìm hiểu thực trạng phát triển các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, đã tiến hành điều tra 20 hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã . Kết
quả điều tra về tình hình chung của các hợp tác nông nghiệp được thể hiện ở bảng
2.8 dưới đây:
Bảng 2.8: Đặc điểm chung của các hợp tác nông nghiệp
Chỉ tiêu ĐVT Kết quả điều tra
Hợp tác 20 Tổng số hợp tác nông nghiệp
1. Giới tính chủ nhiệm HTX
- Nam Người 20
- Nữ Người 0
2. Tuổi bình quân chủ nhiệm Tuổi 42,8
3. Trình độ học vấn của chủ nhiệm Lớp 8,3
4. Lĩnh vực sx kinh doanh của hợp tác
- Dịch vụ thủy nông HTX 20
- Liên kết sản xuất lúa giống HTX 07
- Sản xuất Nấm HTX 02
- Dâu tằm HTX 01
- Làm đất, thu hoạch HTX 15
- Dịch vụ Điện HTX 09
- Dịch vụ cho thuê mặt bằng HTX 07
HTX 02
- Dịch vụ xăng dầu Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn
50
Qua bảng số liệu 2.8 cho thấy thông tin chung về các hợp tác nông nghiệp trên
địa bàn thị xã Điện Bàn như sau:
- Về giới tính của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: trong 20 hợp tác nông
nghiệp tác giả điều tra, có 20/20 chủ nhiệm hợp tác là nam giới, chiếm 100 %;
không có chủ nhiệm hợp tác là nữ.
- Về độ tuổi bình quân của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: độ tuổi bình quân
của các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp là 42,8 tuổi. Nhìn chung đây là độ tuổi mà
các chủ nhiệm hợp tác đã có kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như kinh nghiệm
về sản xuất, kinh doanh.
- Về trình độ học vấn của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: bên cạnh yếu tố độ
tuổi, trình độ học vấn của chủ nhiệm hợp tác cũng ảnh hưởng đến khả năng tạo ra
thu nhập. Những chủ nhiệm hợp tác được học tập tốt hơn, nhận thức cao hơn, do
vậy họ có khả năng tiếp cận những tiến hộ khoa học mới tốt hơn cũng như khả năng
quản lý và tìm ra các phương án làm ăn tốt hơn. Theo kết quả điều tra, trình độ học
vấn của các chủ nhiệm hợp tác là 8,3. Qua phân tích cho thấy, trình độ học vấn
của chủ nhiệm hợp tác là khá thấp, đa số các chủ nhiệm có trình hộ trung học cơ
sở (cấp 2).
- Về nguồn lực lao động của các hợp tác nông nghiệp
Lao động là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không
thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động
tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải
vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai
trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Do đó, trong phát triển hợp tác nông nghiệp, số
lượng và chất lượng của lao động sẽ có vai trò quyết định.
- Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp
Cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp được coi là lực lượng “đầu tàu” có ảnh
hưởng lớn đến quá trình phát triển của hợp tác nông nghiệp. Cán bộ quản lý hợp tác
nông nghiệp bao gồm chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, phó giám đốc, trưởng
ban kiểm soát và kế toán trưởng. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, để tổ
51
chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì chỉ có kinh nghiệm không là chưa đủ.
Người cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp cần có trình độ chuyên môn sâu, nắm
bắt tốt các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhạy bén với thị
trường để xây dựng phương án hoạt động hiệu quả. Trình độ của cán bộ quản lý
hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn giai đoạn 2016-2018 được thể
hiện ở bảng 2.9 dưới đây:
Bảng 2.9: Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp
Trình độ chuyên môn của Kết quả điều tra Tỷ lệ
cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp (người) (%)
Từ đại học trở lên 1 1,2
Cao đẳng 9 11,2
Trung cấp 25 31,2
Sơ cấp 18 22,5
Chưa qua đào tạo 37 46,2
80 Tổng 100
Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp là yếu
tố rất quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tìm ra phương án sản xuất kinh doanh và
khả năng quản lý của các hợp tác nông nghiệp. Trong tổng số 80 cán bộ quản lý
hợp tác nông nghiệp được điều tra thì có tới 37 cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp
chưa qua đào tạo (chiếm tỷ lệ 46,2 %), có 43 cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp
đã qua đào tạo (chiếm tỷ lệ 53,7 %). Trong số 33 cán bộ quản lý hợp tác đã qua
đào tạo thì có 01 người có trình độ đại học; 09 người có trình độ cao đẳng; 25
người có trình độ trung cấp và 18 người có trình độ sơ cấp.
Thực tế hiện nay, phần lớn các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp trên địa
bàn thị xã Điện Bàn đều đã lớn tuổi, làm việc chủ yếu bằng lòng nhiệt huyết,
đam mê và dựa trên kinh nghiệm thực tế là chủ yếu. Trình độ năng lực hạn chế
khiến họ gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý, điều hành hợp tác. Các cán bộ
52
quản lý hợp tác đa số đều xuất thân từ nông dân, được bà con xã viên tín nhiệm
bầu vào ban quản trị hợp tác nên làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Mặc dù
vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhưng do hầu hết cán bộ quản lý
đều đã lớn tuổi, thiếu sự năng động và khả năng tiếp cận, ứng dụng công nghệ
thông tin hạn chế nên khó đạt hiệu quả cao trong công việc. Một số hợp tác xã nông
nghiệp rất muốn tuyển dụng thêm cán bộ trẻ có trình độ, năng lực vào làm việc.
Tuy nhiên, lớp trẻ năng động, được đào tạo bài bản lại không mặn mà với công
việc tại hợp tác xã do chưa có chính sách hỗ trợ, thu hút hợp lý. Trong khi thu
nhập của cán bộ hợp tác hiện nay lại rất thấp. Theo Luật Hợp tác xã năm 2012
và các văn bản liên quan, cán bộ quản lý hợp tác trước hết phải là thành viên hợp
tác, có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực quản lý và được xã viên tín nhiệm.
Trong đó, cán bộ quản lý hợp tác xã tối thiểu phải có trình độ trung cấp chuyên
môn trở lên. Như vậy, nếu chiếu theo quy định này thì có tới 46,2 % cán bộ
quản lý các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã chưa đạt về trình độ chuyên
môn.
Qua phân tích cho thấy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý
hợp tác nông nghiệp còn thấp, đây là yếu tố gây khó khăn trong việc phát triển
hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn và là một trong những
hạn chế khiến nhiều hợp tác nông nghiệp hoạt động kém hiệu quả.
- Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác nông nghiệp
Qua kết quả điều tra cho thấy, ngoài 80 cán bộ quản lý hợp tác nông
nghiệp, tổng số lao động làm việc trong các hợp tác nông nghiệp là 392 lao
động, trung bình mỗi hợp tác tạo việc làm cho 20,6 lao động. Hợp tác
nông nghiệp có số lao động làm việc nhiều nhất là hợp tác sản xuất Dâu tằm
xã Điện Quang với 48 lao động. Hợp tác nông nghiệp có số lao động làm
việc ít nhất là hợp tác nông nghiệp Điện Minh với 7 lao động.
53
Bảng 2.10: Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác
ĐVT: Người
Kết quả Chỉ tiêu ĐVT điều tra
Tổng số lao động làm việc trong hợp tác 392 Người
- Số lao động chưa qua đào tạo 298 Người
Tỷ trọng 76 %
- Số lao động đã qua đào tạo 94 Người
Tỷ trọng 23,9 %
Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn
Trong tổng số 392 lao động làm việc trong các hợp tác nông nghiệp thì có tới
298 lao động chưa qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 76%; có 94 lao động đã qua đào tạo,
chiếm tỷ lệ 23,9 %. Trong tổng số lao động làm việc trong các hợp tác thì nhiều lao
động chính là các xã viên của hợp tác, cùng nhau góp vốn và tiến hành sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm
tỷ lệ cao đang là những trở ngại trong phát triển hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị
xã Điện Bàn hiện nay.
2.3.3.4. Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của hợp tác
Vốn là điều kiện rất quan trọng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đối
với các hợp tác xã nông nghiệp. Để sản xuất kinh doanh, các hợp tác xã phải mua con
giống, cây giống, thức ăn chăn nuôi, phân bón, các phương tiện, máy móc, vật tư...để
phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nếu không đủ vốn thì hợp tác gặp rất nhiều khó
khăn trong sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng nguồn lực vốn của các hợp tác xã được thể
hiện ở bảng 2.11 dưới đây:
Bảng 2.11: Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các hợp tác
Chỉ tiêu Tỷ trọng (%)
Tổng vốn sản xuất kinh doanh 100
- Vốn góp của các thành viên hợp tác 78,7
- Vốn hợp tác vay ngân hàng 21,3
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo quyết toán hợp tác xã năm 2018
54
Nguồn huy động vốn để sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp bao
gồm nguồn vốn góp của các thành viên hợp tác và nguồn vốn hợp tác vay ngân
hàng. Vì các thành viên góp vốn vào hợp tác họ rất khiêm tốn về nguồn lực tài
chính nên họ mới phải hợp tác với nhau, do đó tổng số vốn góp của các thành
viên hợp tác vào hợp tác cũng không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh
của hợp tác. Vì vậy, hầu hết các hợp tác đều phải vay vốn ngân hàng. Qua kết quả
điều tra 14 hợp tác nông nghiệp cho thấy, nguồn vốn góp của các thành viên hợp
tác nông nghiệp chiếm tỷ trọng trung bình là 78,7%; vốn hợp tác nông nghiệp vay
ngân hàng chiếm tỷ lệ trung bình 21,3%; Nguyên nhân có sự chênh lệch khá lớn
này là do mặc dù có nhu cầu vay vốn nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc do
giá trị tài sản thế chấp thấp nên hợp tác xã rất khó tiếp cận nguồn vốn vay và nếu có
được vay thì số tiền được vay cũng thấp, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất
kinh doanh của hợp tác.
Về nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, trong tổng số 20 hợp tác nông nghiệp thì
có 5/20 chủ nhiệm hợp tác trả lời hiện nay có đủ vốn sản xuất kinh doanh, chiếm
tỷ lệ 2 5 %. Có 15/20 chủ nhiệm hợp tác trả lời hiện nay thiếu vốn sản xuất kinh
doanh, chiếm tỷ lệ 75 %. Trong 15 chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp còn thiếu vốn
kinh doanh khi được hỏi có nhu cầu vay vốn ngân hàng không thì chủ nhiệm hợp
tác trả lời không vì ngại thủ tục ngân hàng, đặc biệt là về tài sản thế chấp để có thể
vay được vốn.
2.3.3.5. Quy mô sản xuất của các hợp tác
Bên cạnh việc gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, các hợp tác ở thị xã Điện Bàn
đổi mới trong điều hành sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông
sản. Tuy nhiên, ngoài một số Hợp tác hoạt động hiệu quả, phục vụ nhu cầu kinh tế,
đời sống người dân, nhìn chung, quy mô sản xuất của các hợp tác hầu hết còn nhỏ
lẻ, manh mún, yếu về năng lực tài chính, trình độ cán bộ quản lý còn nhiều hạn
chế…
55
Bảng 2.12: Quy mô sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp trên địa
Bao gồm
Bao gồm
Hợp tác NN
Tổng lợi nhuận sau thuế
Ghi chú
Doanh thu và thu nhập
Thu nhập khác
Lợi nhuận sau thuế của HĐSXKD
Doanh thu HĐSXKD và doanh thu hoạt động tài chính
Lợi nhuận khác sau thuế
33.166.21
1.791.58
31.374.63
608.42
16.10
592.32
Điện Ngọc 1
14.717.71
14.683.94
33.77
327.34
-
327.34
Điện Phước 1
16.190.72
5.589.89
10.600.83
259.34
123.56
135.77
Điện Hồng 2
10.699.43
10.481.21
218.22
361.86
361.86
-
Điện Thọ 1
7.750.22
1.186.15
6.564.07
123.23
71.41
51.82
Điện Quang
8.630.21
348.64
8.281.57
132.94
9.90
142.84
Điện Phương
8.575.12
3.388.03
5.187.10
82.00
61.76
20.24
Điện Thọ 2
3.986.28
3.813.32
172.96
185.40
138.01
47.40
Điện An 1
1.287.55
1.287.55
-
-
-
-
Điện Phước 2
4.627.71
1.356.60
3.271.11
70.10
35.69
34.40
Điện An 2
2.787.01
267.17
2.519.84
121.52
14.57
106.95
Điện Hòa 3
1.677.34
1.57
1.675.77
83.03
67.98
15.05
Điện Minh 2
2.027.66
1.890.98
136.68
58.37
47.16
11.21
Điện tiến 1
1.287.55
1.433.02
145.47
-
-
-
Điện An 3
931.97
676.87
255.10
22.70
19.04
41.73
Điện Phong
740.94
604.81
136.13
5.86
92.61
98.47
Điện Tiến
bàn thị xã
56
Bao gồm
Bao gồm
Hợp tác NN
Tổng lợi nhuận sau thuế
Ghi chú
Doanh thu và thu nhập
Thu nhập khác
Lợi nhuận sau thuế của HĐSXKD
Doanh thu HĐSXKD và doanh thu hoạt động tài chính
Lợi nhuận khác sau thuế
2
1.058.26
938.66
119.61
30.95
17.73
48.68
Điện Minh 1
347.06
300.36
46.70
19.96
-
19.96
Điện Hòa 2
876.33
876.33
-
5.50
5.50
-
Điện Hồng 1
10.591.76
1.161.04
9.430.73
136.49
20.31
116.18
Điện Ngọc 2
131.957.04
52.077.72
79.879.33
2.249.07
671.30
1.577.76
Tổng cộng
Nguồn: Báo cáo quyết toán của các hợp tác xã năm 2018
Tổng lợi nhuận sau thuế của các hợp tác đạt 2,249 tỷ đồng, bình quân lợi
nhuận của 1 hợp tác là 112,453 triệu đồng. Lợi nhuận cao nhất là hợp tác nông
nghiệp Điện Ngọc I (608,42 triệu đồng), thấp nhất là hợp tác nông nghiệp Điện
Hồng 1( 5,5 triệu đồng).
+ Hoạt động kinh doanh lúa giống có tỷ trọng doanh thu là 65% và lợi nhuận
là 74%. Trong năm có 12 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh lúa giống; các đơn
vị có doanh thu từ hoạt động lúa giống cao hơn mức bình quân chung 2 tỷ/năm là
Hợp tác Điện Phước 1, Điện Hồng 2, Điện Thọ 1, Điện An 1, Điện Phước 2, Điện
Thọ 2.
+ Hoạt động thủy lợi thủy nông có tỷ trọng doanh thu là 18,5% và lợi nhuận là
13,5% sau hoạt động kinh doanh lúa giống. Trong năm có 19 hợp tác tham gia hoạt
động thủy lợi thủy nông, nhưng có 6/19 đơn vị bị lỗ trong hoạt động này (Điện Tiến
2, Điện Phương, Điện Quang, Điện Minh 2, Điện Trung, Điện Phong); các đơn vị
có doanh thu từ hoạt động thủy lợi thủy nông cao hơn mức bình quân chung 500
triệu đồng/năm là hợp tác nông nghiệp Điện Phước 1, Điện Trung, Điện An 1, Điện
Hồng 2, Điện Phước 2, Điện Quang, Điện Tiến 2, Điện Thọ 2.
57
- Trong lĩnh vực điện sinh hoạt có tỷ trọng doanh thu là 29,50% và lợi nhuận
là 11,76%. Trong năm có 9/19 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh điện sinh
hoạt, 100% các đơn vị kinh doanh hoạt động này không lỗ; các đơn vị có doanh thu
từ hoạt động kinh doanh điện sinh hoạt cao hơn mức bình quân chung .
- Trong lĩnh vực xăng dầu có tỷ trọng doanh thu là 22,1% và lợi nhuận là
21,50%. Trong năm có 2/19 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh xăng dầu (Điện
Hồng 2, Điện Ngọc 1).Các đơn vị kinh doanh hoạt động này đều lãi.
2.4. Đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã
Điện Bàn thời gian qua
2.4.1. Thành công
Thứ nhất, kinh tế hợp tác thực hiện tốt các vai trò trong phát triển nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh quảng Nam
Làm tốt dịch vụ cho người dân: Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
đã giúp cho kinh tế hộ những việc mà kinh tế hộ không làm được. Những hộ nông
dân cá thể đơn lẻ liên kết lại với nhau trước những diễn biến phức tạp, bất ngờ của
điều kiện tự nhiên; trước sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực cung
ứng vật tư kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm…. Sự liên kết tự nhiên đó, tạo ra một sức
mạnh đoàn kết, khối gắn bó những người sản xuất nhỏ trong các tổ chức hợp tác tùy
theo yêu cầu sản xuất của họ. Mặt khác, trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sự đóng
góp của từng cá nhân. Kinh tế hợp tác ra đời và phát triển không phá vỡ kinh tế gia
đình đơn lẻ mà tạo ra sức mạnh liên doanh của kinh tế hộ các gia đình.
Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, mà hợp tác trong nông nghiệp sẽ là
người đại diện cho phía sản xuất, là nơi tiếp cận thị trường để thu thập và phân tích
các thông tin thị trường. Địa bàn sản xuất hàng nông sản thường xa thị trường tiêu
thụ, kinh tế hợp tác với vai trò là đầu mối đảm nhận khâu thu mua, tập trung hàng
hóa, giảm được chi phí lưu thông, tránh tư thương ép giá, lợi nhuận mang lại cho
người sản xuất sẽ cao hơn. Là trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng,
HTX có đủ tư cách pháp nhân. Sự am hiểu pháp luật, tiềm lực tài chính nhằm xây
dựng và bảo vệ thương hiệu hàng nông sản của người dân. Là tổ chức trung gian có
thể tập trung được một khối lượng hàng hóa lớn để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
58
Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp góp phần vào việc phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn: Hợp tác trong nông nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt
động vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này, không hề mâu thuẫn với mục tiêu tương trợ
xã viên của hợp tác. Bởi vì: Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là mục tiêu
mà mọi tổ chức kinh tế đều hướng tới. Hợp tác trong nông nghiệp cũng là một tổ
chức kinh tế nên cũng phải hướng tới mục tiêu này. Nếu không có lợi nhuận, doanh
nghiệp không thể trả công cho người lao động, duy trì việc làm lâu dài của họ, cũng
như không thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ lâu dài cho khách hàng và cộng đồng.
Như vậy, sự phát triển kinh tế hợp tác là một tất yếu, là một điều kiện để duy trì và
phát triển. Mặt khác, hợp tác nông nghiệp cũng là một chủ thể của nền kinh tế, sự
phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn góp phần quan trọng vào việc phát
triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta hiện nay.
Là tổ chức trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân:
Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp không chỉ hỗ trợ kinh tế hộ nông dân
trên cơ sở các tính chất của nó mà còn là trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà
nước đối với nông dân. Việc hỗ trợ của nhà nước đối với người nông dân thông qua
tổ chức này rất đa dạng, có thể là các khoản đầu tư hoặc các cơ chế chính sách, định
hướng của nhà nước đối với khu vực này. Về cơ chế, chính sách, định hướng, nhà
nước có thể thông qua các hợp tác để điều tiết giá trên thị trường từ đó hỗ trợ người
nông dân…. Nhà nước có thể đầu tư các hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật khác phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn như hệ thống điện,
hệ thống kênh mương… và giao cho hợp tác trong nông nghiệp khai thác, sử dụng
để phát triển kinh tế cũng như phục vụ dân sinh tại địa phương.
Thứ hai, kinh tế hợp tác được quan tâm đầu tư thích đáng, số lượng tăng
nhanh, góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân
- Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đang được các cấp chính quyền
từ Trung ương tới địa phương quan tâm, đầu tư. Chính phủ đã ban hành những
văn bản tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác. Bên cạnh
đó, phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn còn được sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp chính quyền địa phương từ thị xã xuống các xã, phường. Đặc
59
biệt là sự tư vấn, hướng dẫn về chuyên môn của các cán bộ phòng kinh tế, trạm
Khuyến nông, trạm Thú y.
- Trong giai đoạn 2016-2018, số lượng các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
thị xã Điện Bàn đang có xu hướng tăng lên. Năm 2017, thị xã thành lập thêm được
01 hợp tác phi nông nghiệp. Năm 2018, thị xã thành lập thêm được 02 hợp tác
nông nghiệp.
- Sự phát triển của các hợp tác nông nghiệp đã góp phần tạo ra công ăn việc
làm cho các lao động trên địa bàn thị xã. Qua kết quả khảo sát, các hợp tác nông
nghiệp trên địa bàn thị xã đã tạo việc làm cho 392 lao động, từ đó góp phần tăng
thêm thu thập cho người dân.
- Việc phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã thực
chất đã và đang là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế,
có đóng góp tích cực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Thứ ba, Một số hợp tác nông nghiệp đã đưa được sản phẩm của mình tiêu
thụ ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước.
Đó là hợp tác Dâu tằm xã Điện Quang, Hợp tác trồng Nấm của phường Điện
Nam Bắc. Trước khi thành lập hợp tác, sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao, bị
thương lái ép giá. Từ khi thành lập hợp tác, sản phẩm Dâu Tằm của hợp tác đã có
chỗ đứng trên thị trường. Xã viên trong hợp tác áp dụng khoa học kỹ thuật vào thâm
canh, chế biến dẫn đến sản lượng và chất lượng đều tăng lên. Thành viên hợp tác
xã đã chủ động chuyển đổi thay thế cây trồng để có năng suất và chất lượng tốt
hơn. Từ khi biết được lợi ích của việc sản xuất Dâu Tằm, Nấm an toàn theo tiêu
chuẩn VietGAP các xã viên đã hưởng ứng và tham gia tích cực. Từ đó sản phẩm
của các hợp tác xã có giá trị kinh tế cao và đã vươn ra nhiều tỉnh khác trong cả
nước.
2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Khó khăn, nguyện vọng của các hợp tác xã nông nghiệp
Phần lớn các hợp tác nông nghiệp hiện nay về phương thức hoạt động vẫn
chưa có sự thay đổi, tư duy hoạt động còn nặng nề về hành chính, bao cấp theo
phương thức hợp tác xã kiểu cũ.
60
Đa số các hợp tác nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối với
các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: Cung ứng giống, vật tư, phân
bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng …; còn các dịch vụ rất quan trọng như: bảo
quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm, nên số hợp tác xã thực hiện
việc bao tiêu nông sản cho nông dân ít, hiện mới chỉ có 03 hợp tác thực hiện việc
bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và
giá trị của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó có một số hợp tác xã được hình thành
không đúng bản chất của hợp tác xã theo luật định, chủ yếu để hỗ trợ các chính sách
của nhà nước.
Còn nhiều hợp tác nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động và
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp ứng nhu
cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác với thành viên; vốn ít,
doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao, một số hoạt động hình thức. Nếu
xem xét về khả năng tái mở rộng các hoạt động dịch vụ sản xuất và lợi ích mà hợp
tác xã mang lại cho thành viên thì hiện mới có khoảng trên 29,1 % hợp tác nông
nghiệp hoạt động có kết quả cao; khoảng 58,3 hợp tác hoạt động trung bình và yếu;
8,3 hợp tác hoạt động kém hoặc ngừng hoạt động. Do hiệu quả hoạt động hạn chế,
lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham
gia, gắn bó với hợp tác, chưa coi hợp tác là “nhà của mình”.
Hiện nay nhu cầu liên kết là rất lớn, tuy nhiên số các hợp tác thực hiện liên kết
được với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn phải
“tự làm, tự bán” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và
thu nhập của người dân.
- Tình hình vốn, quỹ của các hợp tác nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn:
Mức vốn bình quân của các hợp tác xã nông nghiệp thấp và chủ yếu là vốn tài sản
cố định đã sử dụng lâu năm, nhà xưỡng và thiết bị xuống cấp, lạc hậu. Đa số các
hợp tác xã nông nghiệp thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh; các hợp tác nông nghiệp
rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, trong khi đó việc
huy động vốn từ thành viên khó khăn ảnh hưởng đến năng lực sản xuất kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của hợp tác xã. Nhiều hợp tác thiếu chủ động, trông đợi vào
61
sự hỗ trợ của nhà nước.
- Quy mô hợp tác nhỏ, thiếu vốn kinh doanh, chưa có sự gắn kết trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh tạo thành chuỗi liên kết trong sản xuất hàng hóa, chưa
chủ động đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh, đa dạng hóa các hoạt
động dịch vụ để nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa. Chưa chủ động tìm hiểu,
nghiên cứu quy định của Luật hợp tác xã và các văn bản quan trọng khác để thấy
được trách nhiệm, nghĩa vụ của hợp tác xã trong tổ chức hoạt động.
- Tổng số hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã hiện có là 20 hợp tác nhưng
có tới 45% hợp tác xã nông nghiệp bị xếp loại trung bình, yếu kém.
- Ngoài ra, hầu hết các hợp tác xã chưa có sự liên doanh, liên kết giữa các hợp tác
xã nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của các hợp tác xã nông nghiệp còn chậm, thiếu ổn
định.
- Nhiều hợp tác nông nghiệp tồn tại hình thức, hoạt động không hiệu quả, phần
lớn các hợp tác nông nghiệp mới chỉ chuyển đổi về hình thức, chưa thực sự đổi mới về
nội dung và nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Các hợp tác nông nghiệp còn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay. Đây
cũng là thực trạng chung đối với các hợp tác nông nghiệp ở nước ta. Theo Cục Kinh tế
hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tính đến
hết năm 2017, cả nước có gần 11.000 hợp tác xã nông nghiệp và chỉ có khoảng hơn
3% trong số này tiếp cận được nguồn vốn vay, trong khi nhu cầu thực tế là khoảng
60%.
- Các hợp tác hoạt động hầu như chưa tự tìm đầu ra cho sản phẩm của
mình. Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của hợp tác, bởi nếu không
bán được sản phẩm, các hợp tác không thể tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh của hợp tác.
- Nhận thức về đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác - hợp tác xã theo luật còn
hạn chế. Nhận thức về hợp tác của các cấp, các ngành, của người dân còn chưa đầy
đủ, chưa thống nhất. Hình ảnh mô hình hợp tác kiểu cũ vẫn còn tồn tại trong suy
nghĩ của nhiều người khiến họ còn do dự, đắn đo khi tham gia vào mô hình
kinh tế hợp tác xã kiểu mới; còn xem nhẹ bản chất, giá trị kinh tế hợp tác xã
62
đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
- Hiện nay việc quản lý Nhà nước về hợp tác xã ở cấp thị xã, cấp xã,
phường còn nhiều bất cập. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản
lý nhà nước về kinh tế hợp tác chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến năng lực
quản lý tổ chức hoạt động còn nhiều hạn chế. Ở cấp xã công tác quản lý hợp
tác xã được giao cho cán bộ phụ trách nông lâm nghiệp đảm nhiệm, không có cán
bộ chuyên trách về quản lý kinh tế hợp tác nói chung, quản lý hợp tác xã nông
nghiệp nói riêng.
Nguyên nhân của hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
+ Trình độ năng lực sản xuất trong các thành phần kinh tế trên địa bàn
thị xã chưa phát triển, nhu cầu hợp tác kinh tế chưa cao, nhìn chung chưa đáp
ứng được các điều kiện cần và đủ cho việc xác lập, xây dựng mô hình kinh tế tập
thể theo Luật Hợp tác xã hiện hành, đặc biệt trong lĩnh vực nông lâm nghiệp.
+ Các hợp tác do thiếu nguồn vốn và chưa mạnh dạn đầu tư khoa học công
nghệ áp dụng vào sản xuất, đầu ra cho sản phẩm còn nhiều bấp bênh do phụ thuộc
vào thương lái, chưa liên kết tìm đầu ra với các doanh nghiệp.
+ Ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển kinh tế hợp tác - hợp tác xã còn
quá ít, chưa có chính sách cụ thể cho hợp tác vay vốn sản xuất kinh doanh khi
không có tài sản thế chấp hoặc nếu có thì còn nhiều bất cập khi triển khai thực
hiện. Theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ khuyến
khích các tổ chức tín dụng mạnh dạn đầu tư vốn phát triển lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, tạo điều kiện để các hợp tác nông nghiệp tiếp cận nguồn vốn từ các tổ
chức tín dụng. Nghị định 55 của Chính phủ cũng quy định về chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, các hợp tác xã có hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp được vay tối đa 1 tỷ đồng, không cần tài sản
thế chấp. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai thực hiện, phía ngân hàng vẫn bắt buộc
hợp tác thế chấp tài sản. Chính vì vậy, hợp tác xã thường bị từ chối ngay từ đầu mà
phía ngân hàng không cần cử nhân viên thẩm định hồ sơ.
+ Lực lượng cán bộ phụ trách của xã, phường còn thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng và phải kiêm nhiệm nhiều việc khác, chưa có biên chế nên việc tham
63
mưu giúp cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã đối với phát triển kinh tế hợp tác còn
nhiều khó khăn, hạn chế.
+ Công tác tuyên truyền trong những năm qua còn bị giới hạn về kinh phí, nguồn
lực; tính kịp thời chưa cao; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa được đồng bộ,
từ đó chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội.
- Nguyên nhân chủ quan
- Có sự lúng túng trong nhận thức của cán bộ và người dân về mô hình hoạt
động của hợp tác và vai trò của hợp tác xã nông nghiệp. Các quy định về tổ chức
hoạt động, tài sản và sở hữu đối với tài sản của hợp tác và của từng thành viên, các
chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã và đặt biệt là trách nhiệm quản lý nhà nước
đối với hợp tác nông nghiệp còn chung chung gây tâm lý e ngại cho người dân khi
tham gia hợp tác.
- Chất lượng nguồn nhân lực của các hợp tác nông nghiệp thấp. Hiện nay đã số
cán bộ của các hợp tác nông nghiệp hiện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế,
ít được đào tạo. Tư duy phát triển sản xuất kinh doanh chưa theo kịp với sự phát
triển của cơ chế thị trường, thiếu tính nhạy bén và năng động trong tổ chức điều
hành sản xuất kinh doanh.
- Trình độ của người lao động còn thấp, tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác nông
nghiệp chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao. Đa số các chủ nhiệm hợp tác còn thiếu
kiến thức về quản lý và kinh tế thị trường; Trình độ của người lao động làm việc trong
các hợp tác xã nông nghiệp chưa qua đào tạo còn chiếm tới 76 %.
+ Nhận thức của cán bộ quản lý hợp tác, xã viên về vị trí, vai trò của kinh
tế hợp tác còn hạn chế, thậm chí có người còn mơ hồ, do đó chưa dám mạnh dạn
đầu tư nhiều vốn, sức lực để xây dựng, phát triển hợp tác xã vững mạnh.
+ Bộ máy quản lý của hợp tác còn nhiều yếu kém, thiếu linh hoạt, chưa có
kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực đã đăng ký như
thu hút vốn đầu tư, tiếp thị, tìm kiếm, mở rộng thị trường.
+ Đa số các xã viên là người không có vốn lớn, mức đóng góp cho vốn quỹ hợp
tác xã khi gia nhập không nhiều nên các hợp tác sau khi thành lập thường thiếu vốn
sản xuất kinh doanh và không có kinh phí đảm bảo chi cho các hoạt động thường
xuyên. Thu nhập từ hợp tác đem lại không cao, do vậy không khuyến khích được xã
64
viên tích cực đầu tư vốn và tham gia các hoạt động nhằm phát triển hợp tác xã.
+ Các hợp tác nông nghiệp chưa liên kết được với các doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh trong việc tiêu thụ sản phẩm, do đó sản phẩm của các xã viên sản xuất ra
có giá trị thấp, chưa xứng đáng với công sức người lao động bỏ ra.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn
2.2.3.1. Nhân tố khách quan
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp
Để thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác nói chung, hợp tác xã nông
nghiệp nói riêng, Đảng và Nhà nước đã ban hành các Nghị quyết, văn bản Luật
và dưới luật. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước ta quy định một hành lang pháp lý rất
chung, trong khi hợp tác xã nông nghiệp lại rất đa dạng, rất khác nhau, đối tượng
khác nhau, ngành nghề khác nhau, địa bàn hoạt động khác nhau, có cả vấn đề về
trình độ dân trí. Hiện nay nước ta có khoảng gần 11.000 hợp tác xã nông nghiệp,
chiếm gần 60% các hợp tác xã. Trong số các hợp tác xã nông nghiệp này, hiện có
rất nhiều loại hình như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản… Tuy nhiên, nếu chiếu theo
Luật Hợp tác xã năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11
năm 2013 thì các hợp tác xã nông nghiệp không biết đứng ở đâu trong đó cả. Một
khó khăn nữa đối với các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay là nước ta chưa đủ cơ
sở pháp lý và các chính sách để hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp phát triển. Bên
cạnh đó, hợp tác xã nông nghiệp có địa bàn hoạt động thường ở những vùng có
điều kiện kinh tế xã hội khó khăn nên sản phẩm làm ra rất khó tiêu thụ. Do đó,
hợp tác xã nông nghiệp phải có các chính sách ưu tiên so với các hợp tác xã khác.
Ngoài công tác về chính sách, pháp luật, công tác quản lý nhà nước về hợp tác
xã hiện nay, đặc biệt hợp tác xã nông nghiệp đang còn nhiều hạn chế. Trong Luật
Hợp tác xã năm 2012 có giao cho Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, nhưng các bộ
ngành phải thành lập bộ phận, các tổ chức để thực hiện quản lý nhà nước về vấn đề
này. Hiện nay, Bộ Kế hoạch - Đầu tư có Vụ hợp tác xã, tại các Sở Kế hoạch - Đầu
tư thì các nội dung liên quan đến hợp tác xã thường nằm ở phòng Đăng ký kinh
doanh và thường họ hiểu biết rất hạn chế về hợp tác xã. Ở Bộ Nông nghiệp và Phát
65
triển nông thôn, có Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhưng ở các Chi
cục địa phương hiện nay chỉ có Chi cục Phát triển nông thôn, không có Chi cục
Hợp tác xã. Sự không thống nhất về cơ quan, bộ phận quản lý dẫn đến những khó
khăn về quản lý các hợp tác xã nông nghiệp.
- Sự phối hợp của các ban ngành, các tổ chức đoàn thể trong tổ chức thực
hiện chính sách phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Trong giai đoạn 2016-2018, các cơ quan, ban ngành, các tổ chức đoàn thể
trên địa bàn thị xã Điện Bàn như phòng kinh tế, trạm Thú y, trạm Khuyến nông,
Đài Truyền thanh - Truyền hình, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Nông dân, phòng Kế hoạch - Tài chính đã tích
cực phối hợp để triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, do lực lượng cán bộ phụ trách của
thị xã, xã phường còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và phải kiêm nhiệm
nhiều việc khác nên việc tham mưu giúp cấp ủy Đảng, chính quyền đối với phát
triển hợp tác xã nông nghiệp của thị xã có nhiều khó khăn, hạn chế. Nhiều khi các
cơ quan, đơn vị liên quan chưa thực sự quan tâm giúp đỡ, giải quyết các vướng
mắc, khó khăn về tổ chức, con người, vốn, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các
hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã.
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
+ Về điều kiện tự nhiên
Điện Bàn là thị xã có tiềm năng để phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp. Đây là điều kiện rất thuận lợi để phát triển các hợp tác nông nghiệp trên
địa bàn thị xã. Bởi thị xã có tiềm năng lớn về cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho
các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất kinh doanh. Nếu được đầu tư khai thác hợp lý,
đó sẽ là những tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn thị xã nói
chung, phát triển hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, phát triển hợp tác
nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn cũng gặp không ít khó khăn. Điều kiện
tự nhiên của thị xã có nhiều mặt không thuận lợi như: Hàng năm vào tháng
10,11,12 thường xuyên xảy ra bão, lũ. Mùa hạ thì nắng nóng kéo dài, tình
trạng xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra gây khó khăn trong sản xuất nông
nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp.
66
+ Về kinh tế - xã hội
Mặc dù còn nhiều khó khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã
Điện Bàn đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu và đã đạt được bước tăng trưởng khá, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, một số mục tiêu quan trọng đặt ra đều hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn được giữ vững. Kinh tế tập thể và kinh tế hộ tiếp tục được khuyến khích
phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn thu ngân sách gặp nhiều khó khăn,
trong khi nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn dẫn đến khả năng cân đối thu chi
ngân sách trên địa bàn thị xã gặp rất nhiều khó khăn; tập quán canh tác và nhiều
tập tục lạc hậu vẫn còn; trình độ dân trí chưa đồng đều giữa các vùng; tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, một bộ phận nhân dân còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư, hỗ
trợ của Nhà nước, chưa thực sự cầu thị và vươn lên để thoát nghèo, làm giàu chính
đáng. Đây đang là các yếu tố gây khó khăn cho phát triển hợp tác xã nông nghiệp
trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
2.2.3.2. Các yếu tố chủ quan
- Năng lực về tổ chức quản lý của người đứng đầu các loại hình kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp
Về thuận lợi, độ tuổi bình quân của các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp trung
bình đã ngoài 40 tuổi, đây là độ tuổi mà các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp đã có
kinh nghiệm trong cuộc sống, kinh nghiệm về sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,
bên cạnh đó trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của
người đứng đầu các hợp tác xã nông nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến
việc điều hành, quản lý hợp tác. Theo kết quả điều tra, trình độ học vấn của các chủ
nhiệm hợp tác nông nghiệp trung bình là 8,3/12 tức là trình độ học vấn của chủ nhiệm
hợp tác xã là khá thấp, đa số các chủ nhiệm hợp tác xã có trình hộ trung học cơ sở (cấp
2). Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp, có
nhiều cán bộ quản lý hợp tác chưa qua đào tạo. Đây là yếu tố gây khó khăn trong
việc phát triển hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn.
- Nguồn lực, quy mô sản xuất
Về thuận lợi, nhìn chung nguồn lực đất đai, nhà xưởng của các hợp tác trong
nông nghiệp khá dồi dào, có rất ít hợp tác trong nông nghiệp khi được hỏi gặp khó
67
khăn về đất đai, xưởng sản xuất. Bên cạnh đó, đa số các hợp tác nông nghiệp đã hoàn
thành việc đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm phương tiện, công cụ sản xuất thiết yếu
phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh của hợp tác. Tuy nhiên, hiện nay quy mô
của phần lớn các hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn đều có quy mô nhỏ, phát triển
chưa đồng đều ở địa bàn các xã, phường. Vốn sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn
góp của các xã viên, các hợp tác nông nghiệp gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn
vốn vay do hạn chế về tài sản thế chấp. Khi được hỏi, nhiều giám đốc hợp tác nông
nghiệp trả lời hiện nay thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng khi được hỏi có nhu
cầu vay vốn ngân hàng không thì lãnh đạo các hợp tác vẫn ngại thủ tục ngân hàng,
đặc biệt là về tài sản thế chấp để vay vốn. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn kỹ thuật
của các lao động làm việc trong các hợp tác xã nông nghiệp cũng còn rất thấp và còn
nhiều lao động chưa qua đào tạo. Đây đang là những khó khăn trong phát triển hợp
tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở làm rõ đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm
(2014-2018) và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, Chương 2 tập
trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thị xã
Điện Bàn ở các khía cạnh: (1) Căn cứ pháp lý quy định nội dung hoạt động kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; (2) Thực trạng hoạt động của kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn thời gian qua; (3) Tình hình hoạt
động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
hiện nay. Qua đó, chương 2 đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở
thị xã Điện Bàn thời gian qua trên các mặt: Thành công; Mặt hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế. Đồng thời, chương 2 còn phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn hiện nay.
68
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN
3.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025
- Chuyển đổi, khuyến khích, thành lập mới hợp tác nông nghiệp; khuyến
khích tổ hợp tác phát triển tiến tới thành lập hợp tác nông nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác nông nghiệp; nâng cao đóng
góp của kinh tế hợp tác vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo một cách bền
vững, tạo thêm việc làm mới và bảo vệ môi trường.
- Nâng cao vai trò của kinh tế hợp tác trong phục vụ sản xuất, kinh doanh và
đời sống của xã viên, đời sống cộng đồng như y tế, giáo dục, thể thao, văn hóa, xác
định kinh tế của xã viên là bộ phận hữu cơ của hợp tác xã nông nghiệp.
- Phát triển liên kết, liên doanh giữa các hợp tác nông nghiệp với nhau và giữa
hợp tác nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với nhà
đầu tư nước ngoài, tiến tới thành lập các tập đoàn hoặc hiệp hội hợp tác nông
nghiệp có tiềm lực mạnh và năng lực cạnh tranh cao.
- Khuyến khích hợp tác nông nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ, bảo vệ môi trường.
- Khuyến khích hợp tác nông nghiệp đầu tư cho giáo dục, đào tạo xã viên, con
em xã viên.
3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025
của thị xã Điện Bàn
- Mục tiêu chung
+ Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác.
Từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế trong khu vực kinh tế hợp
tác; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ hợp tác, hợp tác xã trên cơ sở đảm
bảo nguyên tắc, giá trị hợp tác xã và các quy định của pháp luật. Tạo sự chuyển
biến tích cực trong phát triển kinh tế tập thể, góp phần quan trọng trong xóa
69
đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của các thành viên và cộng
đồng dân cư, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương;
+ Phát triển đa dạng các loại hình tổ hợp tác, hợp tác xã; tăng cường liên
kết với các doanh nghiệp để huy động tối đa các nguồn lực phù hợp với từng vùng,
từng lĩnh vực gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp hàng hóa tập trung, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ hợp tác, hợp tác xã thông qua tăng cường
năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý. Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, tuyên truyền phát
triển và triển khai đồng bộ, có hiệu quả các chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác
xã; xúc tiến thương mại; hỗ trợ tín dụng; đổi mới thiết bị, công nghệ; đầu tư kết cấu
hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Mục tiêu cụ thể
+ Hàng năm thành lập mới từ 1-2 hợp tác nông nghiệp trở lên.
+ Tỷ lệ xếp loại các hợp tác nông nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả
hàng năm tăng, phấn đấu đến năm 2025 có trên 2/3 số hợp tác nông nghiệp hoạt
động có hiệu quả trở lên, giảm tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp trung bình, yếu kém
xuống dưới 20%.
+ Doanh thu bình quân hàng năm của các hợp tác nông nghiệp tăng từ 15-
20%.
+ Thu nhập bình quân của thành viên và người lao động năm 2025 trong
hợp tác nông nghiệp tăng từ 1,5 - 2,0 lần so với năm 2018.
+ Tiếp tục xây dựng mô hình hợp tác nông nghiệp điển hình tiên tiến, hàng năm
có từ 1 đến 2 hợp tác nông nghiệp điển hình tiên tiến, mỗi xã xây dựng nông thôn
mới đều có hợp tác nông nghiệp hoạt động hiệu quả.
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở thị xã Điện Bàn trong thời gian tới
3.2.1 Phát triển các hội sản xuất nhỏ-trung bình tự chủ có nhóm trưởng là
người có trình độ và uy tín: Từ kinh nghiệm khi tham gia hợp tác liên kết với các
70
công ty thu mua nông sản của nông dân. Sự mất “niềm tin” của doanh nghiệp đối
với hộ sản xuất nhỏ lẻ là do người dân thường nhận đầu tư ban đầu (tạm ứng vốn,
phân bón, hạt giống…) của công ty để cung cấp sản phẩm, nhưng khi thu hoạch họ
không làm đúng theo cam kết, sẵn sàng bán đi nơi khác nếu giá cao hơn. Từ thực tế
trên chúng ta có thể phát triển các “mô hình hội sản xuất nông dân tự chủ”, lựa chọn
các hộ có nguyện vọng và khả năng tham gia vào các hội sản xuất. Nhóm nông dân
tự bầu ra một nhóm trưởng có uy tín nhất và mọi trao đổi hợp tác đều thông qua
nhóm trưởng. Hội sản xuất nông dân tự chủ nên được đào tạo sử dụng nguyên tắc
chia sẻ lợi nhuận theo vốn góp. Qua đây chúng ta cũng sẽ nâng dần “niềm tin” của
các bên liên quan đối với hộ sản xuất nhỏ lẻ.
3.2.2. Đào tạo các thương lái trung gian có kiến thức kinh doanh nông
nghiệp: Giải pháp hiện tại của các công ty là hợp tác với các thương lái để họ thu
mua nông sản từ các hộ nông dân rồi bán số lượng lớn hơn cho công ty. Kinh
nghiệm cho thấy thương lái là một thành phần trung gian tiềm năng trong chuỗi sản
xuất nông nghiệp, tuy nhiên hiện nay thành phần trung gian này chưa có trình độ
đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế hội nhập. Chính vì vậy, người thương lái nên là
đối tượng được đào tạo để trở thành một mắt xích kết nối người nông dân nhỏ lẻ
hay các nhóm nông hộ tự chủ để cùng tham gia vào chuỗi giá trị. Đối tượng này cần
được trang bị kiến thức về luật bản quyền, về hợp đồng kinh doanh, về phương
pháp tiếp cận với nhiều nguồn thông tin nông nghiệp trong nước và quốc tế…
3.2.3. Giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm
Thực tiễn sản xuất hiện nay cho thấy, các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị
xã Điện Bàn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường và tiêu
thụ sản phẩm. Đây cũng là nguyện vọng của các hợp tác nông nghiệp khi được
hỏi trong quá trình điều tra phỏng vấn. Do đó, muốn sản xuất hàng hóa có hiệu
quả, khả năng cạnh tranh cao thì vấn đề quan trọng là phải nghiên cứu, mở rộng
thị trường tiêu thụ, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe của khách
hàng. Trong xu thế phát triển hiện đại, mọi quá trình sản xuất đều do thị trường
quyết định chứ không phải chỉ làm những gì mình có. Cho nên thị xã Điện Bàn
71
cần định hướng cho các hợp tác nông nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào,
bán cho ai. Việc sản xuất phải xuất phát từ thị trường, do thị trường và vì thị
trường quyết định. Nếu như kinh tế thời tự cung tự cấp, sản xuất với mục đích tự
phục vụ nhu cầu, hàng hoá ít có sự trao đổi, tư duy sản xuất khép kín; thời kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch với mục đích phục vụ Nhà
nước, hàng hoá làm ra phải giao nộp sản phẩm, Nhà nước thống nhất thu mua; còn
ở thời kinh tế thị trường, bà con sản xuất cái do thị trường mách bảo với mục đích
phục vụ nhu cầu thị trường, hàng hoá tự do trao đổi, tư duy sản xuất cũng phải
năng động, sáng tạo.
Để giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận được thị trường tiêu thụ sản phẩm
trước hết phải giúp các hợp tác nông nghiệp nâng cao kiến thức về kinh tế thị
trường. Do đó, để cung cấp thông tin và trang bị kiến thức kinh tế thị trường hiện
đại tới các hợp tác xã nông nghiệp, thị xã Điện Bàn cần tổ chức các lớp tập huấn
về kinh tế thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế. Qua các lớp tập huấn đó, các hợp
tác nông nghiệp sẽ hiểu được cần sản xuất cái gì? Sản xuất với số lượng là bao
nhiêu? Tổ chức sản xuất như thế nào, phối hợp các yếu tố ra sao? Sản xuất sản phẩm
ra để bán cho ai? Ngoài ra, cần trang bị phương cách tiếp cận thông tin trong nền kinh
tế thị trường cho các hợp tác nông nghiệp. Thị trường luôn có sự biến động, vì vậy nắm
bắt, khai thác và xử lý thông tin có hiệu quả là yếu tố quyết định đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Vận dụng một cách sáng tạo, khoa học các quy luật của kinh tế thị trường
vào quá trình sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp.
Trong thời gian tới, thị xã Điện Bàn cần tiếp tục tổ chức các hội nghị trao đổi,
thống nhất, ký kết hợp đồng với các đơn vị, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh về
cung ứng vật tư, phân bón, giống, giá thu mua, bao tiêu sản phẩm, tập huấn chuyển
giao khoa học kỹ thuật. Từ đó, các hợp tác nông nghiệp sẽ được ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất và họ sẽ yên tâm sản xuất khi sản phẩm đầu ra đã
được các doanh nghiệp bao tiêu. Bên cạnh đó, đa phần các hợp tác nông nghiệp
hiện nay đều đang vắng bóng doanh nghiệp, hoặc nếu có thì vẫn chưa làm tròn vai
trò, khi các doanh nghiệp chỉ chú trọng cung ứng vật tư đầu vào mà không quan
tâm đến đầu ra của sản phẩm nông nghiệp, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm là
72
yếu tố quan trọng trong quá trình liên kết. Và từ những thực tế trên, để thu hút
doanh nghiệp tham gia liên kết “4 nhà”, thị xã Điện Bàn cần đề xuất với tỉnh
Quảng Nam có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút doanh nghiệp liên kết cùng
các hợp tác nông nghiệp, cùng với đó, tăng cường công tác tuyên truyền để các hợp
tác nông nghiệp tuân thủ quy định trong quá trình thực hiện liên kết. Ngoài ra, các
cơ quan, ban ngành cần nghiên cứu thông tin thị trường, định hướng sản xuất
cũng như tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã nông nghiệp, tránh tình trạng thừa
hoặc thiếu sản phẩm; hỗ trợ kinh phí, đồng hành cùng các hợp tác nông nghiệp tổ
chức chương trình hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản phẩm, tập
huấn chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật giúp các hợp tác nông nghiệp mở rộng
sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm để phát huy hiệu quả.
3.2.4. Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp
Rào cản lớn nhất hiện nay là các hợp tác nông nghiệp không đáp ứng
được các điều kiện vay vốn ngân hàng, điều kiện được vay tín chấp. Cụ thể, theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức vay vốn phải đáp ứng được 5
điều kiện, trong đó có khả năng tài chính bảo đảm trả nợ trong thời hạn cam
kết. Bên cạnh đó, có một bất cập khiến chính sách ưu đãi từ nguồn vốn tín dụng
khó thực thi bởi việc các hợp tác nông nghiệp chỉ hình thành về mặt tổ chức. Theo
đó, bản thân hợp tác nông nghiệp không thể tạo ra đất đai mà đều do các xã viên
đóng góp. Do đất góp là đất sở hữu của xã viên nên hợp tác xã nông nghiệp không
thể lấy đất đó thế chấp ngân hàng vay vốn. Và cho rằng đầu tư nông nghiệp là rủi
ro, bản thân một đề án của hợp tác nông nghiệp đưa ra lại càng rủi ro hơn do
trình độ quản trị kém thì ngân hàng nghi ngờ và ngại cho vay. Chính vì vậy, các
hợp tác xã nông nghiệp rất khó tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi theo chính
sách của Nhà nước. Trong thời gian tới, để giúp các hợp tác nông nghiệp trên
địa bàn thị xã Điện Bàn tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, tác
giả đề xuất một số giải pháp sau:
- Về phía hợp tác trong nông nghiệp: để đáp ứng được các điều kiện vay vốn
tín dụng, các hợp tác nông nghiệp phải tự nâng cao năng lực quản trị, tài chính bằng
cách thu hút thêm vốn cổ phần, tăng cường tích lũy, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
73
kết nạp thêm xã viên, kêu gọi xã viên đóng góp bằng tiền hoặc tài sản để tăng
nguồn vốn của hợp tác; nâng cao năng lực quản trị điều hành của Ban quản lý;
trong quá trình xây dựng sản xuất, kinh doanh và sử dụng vốn vay cần quán triệt
tinh thần tiết kiệm, minh bạch, công khai kết quả tài chính trước Đại hội xã viên;
tranh thủ sự giúp đỡ của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội ở
địa phương, hướng dẫn của các tổ chức tín dụng khi có nhu cầu vay vốn.
- Về phía ngân hàng: để tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn của các hợp tác
nông nghiệp, ngân hàng cần đơn giản các thủ tục và điều kiện vay vốn, các điều
kiện vay cần được vận dụng linh hoạt hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay
cho ngân hàng và phù hợp với quy định của pháp luật. Thay vì yêu cầu phải có sổ
đỏ đất và các tài sản thế chấp khác, cần xem xét các điều kiện khác có thể bảo đảm
thế chấp để vay vốn ngân hàng. Đối với các dự án đầu tư, các phương án sản xuất,
kinh doanh sau khi thẩm định có hiệu quả có thể áp dụng cơ chế đảm bảo tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, ngân hàng có thể xem xét
các điều kiện khác có thể đảm bảo thế chấp để vay vốn ngân hàng như: tài sản
trên đất (nhà xưởng), hợp đồng hợp tác, hợp đồng bảo hiểm của hợp tác xã nông
nghiệp.
- Về phía các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền: các cơ quan có thẩm
quyền cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản trên đất cho các hợp tác nông nghiệp. Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị
có liên quan trên địa bàn thị xã cần hướng dẫn các hợp tác nông nghiệp lập phương
án sản xuất, kinh doanh hoặc phương án vay vốn trả nợ ngân hàng cho cán bộ quản
lý các hợp tác nông nghiệp.
3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động kinh tế hợp tác
- Cùng với việc chú trọng phát triển các hợp tác nông nghiệp kiểu mới, cần
thực hiện tốt việc chuyển đổi mô hình hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác
xã năm 2012. Cần rà soát, đánh giá lại, xác định rõ nguồn gốc tài sản hình thành,
giải quyết dứt điểm nợ đọng kéo dài, xem xét lại xã viên thực sự có nhu cầu
hợp tác sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, góp vốn vào hợp tác xã, giảm bớt
số thành viên sản xuất tự cấp, tự túc, nhu cầu hợp tác không cao.
74
- Cần tập trung phân loại, xử lý các tồn đọng của các hợp tác nông nghiệp cũ
để tiếp tục hỗ trợ, giúp đỡ các hợp tác nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi có hiệu
quả. Đối với các hợp tác nông nghiệp yếu kém, không có khả năng chuyển đổi nên
giải thể, để thành lập mới các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng, phù hợp hơn từ
thấp đến cao theo nhu cầu của kinh tế hộ với đặc điểm của từng địa phương. Đồng
thời tiến hành tổng kết các mô hình hợp tác nông nghiệp có hiệu quả để phổ biến
nhân ra diện rộng.
- Mạnh dạn giải thể đối với những hợp tác nông nghiệp nhiều năm liền không
hoạt động sản xuất - kinh doanh, không tổ chức đại hội xã viên thường kỳ. Đối với
những hợp tác xã nông nghiệp thuộc diện yếu kém, cần tiếp tục duy trì hoạt động
sản xuất - kinh doanh thì tiến hành rà soát lại số lượng cụ thể và thực trạng của từng
hợp tác xã nông nghiệp. Từ đó, có kế hoạch phối hợp với các cơ quan, ban, ngành
liên quan giúp hợp tác xã nông nghiệp kiện toàn bộ máy ban quản lý và ban kiểm
soát, xây dựng điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh để tiếp tục hoạt động.
- Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, hợp
tác xã nông nghiệp. Chính quyền các cấp từ thị xã đến xã cần hỗ trợ, giúp đỡ
theo hướng lấy hợp tác nông nghiệp làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân
trong việc tổ chức thực hiện dự án, làm đại lý cung ứng vật tư và thu gom nguyên
liệu, phân cấp quản lý và làm cơ sở chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, trình
diễn mô hình.
+ Đối với cán bộ phụ trách quản lý hợp tác nông nghiệp ở cấp thị xã,
cấp xã, phường: cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp
vụ. Đối với cán bộ phụ trách quản lý hợp tác nông nghiệp cấp thị xã, cần lựa chọn
những cán bộ có năng lực chuyên môn phù hợp và chú trọng công tác đào
tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn. Đối với cán bộ phụ trách quản lý
hợp tác xã nông nghiệp cấp xã, cần giảm bớt khối lượng công việc kiêm nhiệm
để họ có thể tập trung nhiều thời gian, sức lực, trí tuệ hơn cho công tác quản
lý cũng như giúp các hợp tác nông nghiệp phát triển.
3.2.6. Tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các cán bộ quản lý hợp
tác nông nghiệp
75
Sau chuyển đổi, bộ máy quản lý hợp tác nông nghiệp đã được tinh giản gọn
nhẹ hơn, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết hoạt động theo kinh
nghiệm thực tế, không được đào tạo cơ bản, ít được bồi dưỡng tập huấn. Mặt khác
năng lực nắm bắt thông tin và có khả năng dự báo thị trường, sự nhạy cảm linh hoạt
để đáp ứng trước những yêu cầu đa dạng phức tạp của cơ chế thị trường còn có
nhiều hạn chế. Để tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các cán bộ quản lý
hợp nông nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau:
- Đầu tư, hỗ trợ tăng cường năng lực về trình độ chuyên môn, trình độ quản lý
cho cán bộ quản lý hợp tác. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý hợp
tác xã phải được đổi mới theo nguyên tắc lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh của
hợp tác xã làm mục tiêu hàng đầu.
- Thị xã cần có cơ chế bắt buộc các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp phải
tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế cho đội ngũ cán
bộ quản lý hợp tác xã do Liên minh Hợp tác xã và Chi cục Phát triển Nông thôn (Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) tỉnh Quảng Nam tổ chức hàng năm. Thông
qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng này, ngoài việc học tập, tiếp thu kiến thức trên lớp,
các cán bộ quản lý hợp tác còn được tham gia các hoạt động ngoại khoá, trao đổi
kinh nghiệm, tham quan và học tập thực tế tại các hợp tác hoạt động có hiệu quả,
điều đó sẽ giúp cho các cán bộ quản lý hợp tác trau dồi thêm kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ để áp dụng vào thực tiễn, tổ chức điều hành đơn vị mình hoạt động tốt hơn.
- Bên cạnh việc tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp thì các hợp tác
nông nghiệp cần phải có những chính sách đãi ngộ, khuyến khích tài năng, thu hút
nguồn nhân lực trẻ đã được đào tạo bài bản tham gia vào bộ máy quản lý hợp
tác xã, kết hợp với kinh nghiệm, tâm huyết của đội ngũ cán bộ có thâm niên nhằm
đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để làm được điều đó, trước hết
các hợp tác xã nông nghiệp phải khẳng định sự chủ động, mạnh dạn, đổi mới cách
nghĩ, cách làm, xây dựng những mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới để đưa
khu vực kinh tế hợp tác trở về đúng với vị thế, đóng góp tích cực vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của thị xã. Đồng thời, có cơ chế, chính sách thỏa đáng, như
76
tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, y tế... cho đội ngũ cán bộ trẻ, thu hút lực lượng
cử nhân sau khi tốt nghiệp có thể trở về công tác tại các hợp tác nông nghiệp.
- Một số hợp tác nông nghiệp hoạt động ở mức trung bình hoặc kém hiệu quả
có thể tham khảo cách làm của một số hợp tác nông nghiệp khác ngoài địa bàn thị xã
đã làm để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, đó là áp
dụng giải pháp thuê người quản lý, điều hành cho hợp tác. Cách làm này sẽ giúp hợp
tác xã có được người đủ kiến thức, kỹ năng để quản lý. Tuy nhiên, phụ thuộc vào quy
mô, điều kiện, yêu cầu của từng hợp tác xã nông nghiệp mà các hợp tác xã có hình
thức thuê cho phù hợp.
3.2.7. Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức trong các hợp tác nông nghiệp
- Đối với xã viên hợp tác: hợp tác phải lựa chọn và xây dựng đội ngũ xã viên
có tinh thần cao và tư tưởng hợp tác xã, tức là xã viên phải ý thức được tinh thần
hợp tác, có trách nhiệm cao, phải xác định mình là những người chủ thực sự
của hợp tác. Chỉ khi xã viên có được những phẩm chất ấy thì hợp tác mới là một
tổ chức kinh tế hợp tác thực sự, có niềm tin và mới có thể phát huy được sức
mạnh tập thể. Thực tiễn của các hợp tác xã điển hình tiên tiến cho thấy tính tập thể
cao trong hợp tác là yếu tố quan trọng giúp Ban quản trị và Chủ nhiệm thành công
trong hoạt động quản lý và điều hành hợp tác, là nhân tố quan trọng quyết định sự
thành bại của một hợp tác. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn xã viên các hợp tác
trên địa bàn thị xã Điện Bàn chưa có được phẩm chất này. Chính sự tham gia
hình thức và thiếu tinh thần hợp tác của xã viên đã làm cho hợp tác xã không phát
huy được ưu thế của mô hình tổ chức kinh tế này. Do đó, làm cho xã viên hiểu và
có tinh thần hợp tác cộng đồng, tinh thần xây dựng và làm chủ hợp tác xã là một
tiền đề rất quan trọng để phát triển hợp tác xã bền vững.
- Đối với tổ chức Đại hội xã viên: các hợp tác cần phải nhận thức được tầm
quan trọng của Đại hội xã viên, trên cơ sở đó phải tổ chức tốt Đại hội xã viên
theo Luật, bảo đảm cho xã viên làm chủ và bình đẳng trong Đại hội để xã viên
thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình, thể hiện vai trò làm chủ đối với hợp tác.
Không giống như Đại hội cổ đông của các công ty cổ phần, Đại hội xã viên
của hợp tác bảo đảm quyền biểu quyết ngang nhau cho mỗi xã viên không phụ
77
thuộc vào mức vốn góp. Đây cũng là một nhân tố bảo đảm quyền và lợi ích bình
đẳng giữa các xã viên trong hợp tác.
- Về bộ máy quản lý và bộ máy điều hành: hợp tác trong nông nghiệp phải xác
định mô hình tổ chức quản lý nào là phù hợp với điều kiện cụ thể của hợp tác mình.
Các hợp tác có quy mô hoạt động nhỏ về xã viên, về vốn góp, phạm vi hoạt
động hẹp về địa giới hành chính, về ngành nghề thì nên xây dựng bộ máy tổ chức
theo hướng chỉ có một Ban quản trị vừa giữ chức năng quản lý vừa giữ chức
năng điều hành. Mô hình này sẽ tạo cho hợp tác xã sự gọn nhẹ trong tổ chức, giảm
bớt các chi phí quản lý và tạo sự tập trung, thống nhất cao trong quyết định các vấn
đề của hợp tác xã. Các hợp tác có quy mô hoạt động lớn, phạm vi hoạt động rộng
trong nhiều ngành, nghề, mở rộng cả các hoạt động liên kết, liên doanh, hợp tác
với các cá nhân, tổ chức bên ngoài thì nên tổ chức riêng hai bộ máy quản lý và bộ
máy điều hành. Việc tổ chức riêng hai cơ quan này tạo ra sự chuyên môn hoá trong
quản lý và điều hành. Đồng thời, mô hình này cũng tạo sự chủ động, phát huy khả
năng sáng tạo, tính linh hoạt, quyết đoán của người điều hành. Do đó giúp hợp tác
có khả năng đón nhận và nắm bắt các cơ hội một cách kịp thời.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với UBND tỉnh Quảng Nam và các cơ quan chức năng của Tỉnh
Đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam và các cơ quan chức năng của Tỉnh có cơ
chế chính sách hỗ trợ đặc thù đối với các hợp tác nông nghiệp. Đồng thời đề nghị
các cơ quan chức năng của Tỉnh tiếp tục chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí thành lập mới các
hợp tác nông nghiệp và mở các lớp tập huấn, tuyên truyền Luật Hợp tác xã năm
2012, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế hợp tác xã cho cán bộ phụ trách công
tác phát triển kinh tế hợp tác cấp thị xã, cấp xã và Ban quản lý của các hợp tác.
3.3.2. Đối với UBND thị xã Điện Bàn
- Đào tạo đội ngũ quản lý các hợp tác xã nông nghiệp: trước khi thành lập hợp
tác xã nông nghiệp, thị xã cần hỗ trợ đào tạo hệ kiến thức chung về kinh tế, chính
trị, xã hội và công nghệ cho các hợp tác nông nghiệp, sau đó mới cấp đăng ký thành
lập hợp tác nông nghiệp. Cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày
về kiến thức quản lý kinh doanh cho các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp.
78
- Chính sách cung cấp thông tin: cần cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời,
minh bạch cho các hợp tác nông nghiệp nhằm tìm kiếm những cơ hội kinh doanh,
tăng cường khả năng cạnh tranh cho các hợp tác nông nghiệp. Kiến nghị giao cho một
bộ phận cơ quan hành chính nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp thông tin cho các
hợp tác nông nghiệp về các vấn đề như: chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn
bản pháp luật, thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, dự báo nhu cầu thị
trường...cho các hợp tác nông nghiệp.
3.3.3. Kiến nghị với các cơ quan, phòng ban chuyên môn của thị xã Điện Bàn
Cần tiếp tục phối hợp, triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,
nông thôn. Tích cực, chủ động đồng hành cùng các hợp tác xã nông nghiệp trong giải
quyết các khó khăn, tìm hướng đi phù hợp trong phát triển kinh tế hợp tác nói chung,
hợp tác xã nông nghiệp nói riêng trên địa bàn thị xã.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở xác định mục tiêu và sáu quan điểm định hướng phát triển kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025 của thị xã Điện Bàn, Chương 3 tập trung đề
xuất bảy nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
ở Thị xã Điện Bàn trong thời gian tới, đó là; (1) Hoàn thiện kế hoạch, quy hoạch;
(2) Giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm; (3) Tăng cường
khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp; (4) Hoàn thiện công tác quản
lý hoạt động kinh tế hợp tác; (5) Tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các
cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp; (6) Tăng cường công tác tuyên truyền về vị
trí, vai trò của hợp tác kiểu mới; (7) Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức trong các
hợp tác nông nghiệp. Đồng thời, chương 3 đề xuất nhiều kiến nghị đến UBND tỉnh
Quảng Nam và UBND thị xã Điện Bàn cùng các cơ quan chức năng trực thuộc.
79
KẾT LUẬN
Đề tài “Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam” với mục tiêu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
trong giai đoạn 2016 - 2018, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
trong thời gian tới. Với mục tiêu như trên, đề tài đã đạt được các kết quả sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
Bên cạnh đó, tác giả tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở một số địa phương trong nước, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa
bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2016-2018. Phát triển kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn đã đạt được những thành
tựu đáng ghi nhận như phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đang được các
cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương quan tâm, đầu tư; trong giai đoạn
2016-2018, số lượng các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn đang
có xu hướng tăng lên. Sự phát triển của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đã góp
phần tạo ra công ăn việc làm cho các lao động trên địa bàn thị xã. Các hợp tác
xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã đã tạo việc làm cho lao động địa phương, từ
đó góp phần tăng thêm thu thập cho người dân. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
đã và đang là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, có đóng
góp tích cực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương; một số hợp tác
xã nông nghiệp đã đưa được sản phẩm của hợp tác xã mình tiêu thụ ở nhiều tỉnh thành
khác trên cả nước.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị
xã Điện Bàn vẫn còn một số hạn chế như: Còn nhiều hợp tác nông nghiệp xếp
loại trung bình và yếu kém; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các hợp tác nông nghiệp còn thấp; nhiều hợp tác nông
80
nghiệp tồn tại hình thức, hoạt động không hiệu quả, một số các hợp tác nông nghiệp
mới chỉ chuyển đổi về hình thức, chưa thực sự đổi mới về nội dung và nâng cao hiệu
quả hoạt động; các hợp tác nông nghiệp còn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn
vay; trình độ của người lao động còn thấp, tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp
chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao. Đa số các chủ nhiệm hợp tác còn thiếu kiến
thức về quản lý và kinh tế thị trường. Trình độ của người lao động làm việc trong các
hợp tác xã nông nghiệp chưa qua đào tạo còn thấp; việc tìm đầu ra cho sản phẩm
của hợp tác còn gặp nhiều khó khăn; nhận thức về đổi mới và phát triển kinh
tế hợp tác - hợp tác xã theo luật còn hạn chế. Nhận thức về hợp tác xã của các
cấp, các ngành, của người dân còn chưa đ ầy đủ, chưa thống nhất. Công tác
quản lý Nhà nước về hợp tác ở cấp thị xã, cấp xã còn nhiều bất cập. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác chưa
đáp ứng được yêu cầu dẫn đến năng lực quản lý tổ chức hoạt động còn nhiều hạn
chế.
- Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại, từ định hướng và mục tiêu phát triển
kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, tác
giả đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa
bàn thị xã Điện Bàn, gồm giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu
thụ sản phẩm; tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp;
đổi mới phương thức quản lý các hợp tác nông nghiệp; tăng cường kiến thức, kỹ
năng quản lý cho các cán bộ quản lý hợp xã nông nghiệp; tăng cường công tác
tuyên truyền về vị trí, vai trò của hợp tác kiểu mới và nâng cao hiệu quả công tác
tổ chức trong các hợp tác nông nghiệp.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam, Chỉ thị số 23/CT-TU ngày 25 tháng 7
năm 2014 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 khóa IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
2. Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo kết quả thực hiện đổi
mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam năm 2016, 2017 và 2018.
3. Chính phủ, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 cưa
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012.
4. Phạm Việt Dũng (2016), Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã
năm 2012, Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 4/3/2016.
5. Đổi mới mô hình hợp tác xã nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Quảng Nam.
6. Nguyễn Thanh Đức (2014), Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị.
7. Lý luận về hợp tác hóa nông nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở
nước ta, do Giáo sư PTS Lưu Văn Sùng chủ biên. NXB Sự thật, H, 1990.
8. TS. Phạm Thị Minh Nguyệt (2006), Giáo trình Kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Nguyễn
Thanh Đức (2014 Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị).
10. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hợp tác xã năm
2012 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012.
11. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Luật Dân sự năm
2005 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.
12. UBND thị xã Điện Bàn (2016, 2017, 2018), Báo cáo tình hình phát triển kinh
tế xã hội.
13. UBND thị xã Điện Bàn về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết
TW5 (khóa IX) tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể, Báo cáo kết quả thực hiện đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.
14. UBND thị xã Điện Bàn, Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.
15. UBND thị xã Điện Bàn, Quyết định số 2413/QĐ-UBND ngày 11 tháng 8
năm 2015 của UBND thị xã Điện Bàn về việc thành lập Ban Chỉ đạo phát
triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn.
16. Vài nét về hợp tác hóa nông nghiệp ở các nước trên thế giới, của Nguyễn Văn
Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 178, H, 1990.
Website:
17. Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam: dienban.quangnam.gov.vn
18. Huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam: dailoc.quangnam.gov.vn
19. Huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam: duyxuyen.quangnam.gov.vn
20. Huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng: hoavang.danang.gov.vn