VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH TUẤN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH TUẤN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Quản lý kinh tế

Mã số

: 8 34 04 10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ LAN HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

LÊ THANH TUẤN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ PHÁT TRIỂN KINH

TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP ............................................................... 9

1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ............................................ 9

1.2. Hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số địa phương và bài học

cho Điện Bàn ............................................................................................................. 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG

NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ....................... 30

2.1. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn ........................................................................................... 30

2.2. Tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm (2014-2018) ........................... 34

2.3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn ....................................... 37

2.4. Đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn thời

gian qua ..................................................................................................................... 58

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT

TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN

BÀN .......................................................................................................................... 69

3.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã .................... 69

3.2. Các giải pháp nhằm phát triển hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị

xã Điện Bàn trong thời gian tới ................................................................................. 70

3.3. Một số kiến nghị ................................................................................................. 78

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 UBND Ủy ban nhân dân

2 HTX Hợp tác xã

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng

Một số chỉ tiêu kinh tế thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-

2.1

32

2018

2.2

Thu – chi trong cân đối ngân sách thị xã Điện Bàn

32

Tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp thị xã Điện Bàn

2.3

34

giai đoạn 2014-2018

Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2014-

2.4

36

2018

Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực chăn nuôi giai đoạn 2014-

2.5

36

2018

Hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước cho hợp tác xã

2.6

46

nông nghiệp

Số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện

2.7

49

Bàn giai đoạn 2016-2018

2.8

Đặc điểm chung của các hợp tác nông nghiệp

50

2.9

Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp

52

2.10

Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác

54

2.11

Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các hợp tác

54

Quy mô sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp

2.12

56

trên địa bàn thị xã

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp bách của đề tài

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai làm

tư liệu sản xuất chính để trồng trọt, chăn nuôi tạo ra nhiều loại sản phẩm thiết yếu

cho đời sống xã hội và tạo nền tảng cho các ngành kinh tế khác phát triển. Thực tiễn

đã cho thấy, nông nghiệp có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Do đó, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là vấn đề có tầm chiến

lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp lại càng có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế

đối với một nước đang phát triển như Việt Nam.

Phát triển kinh tế hợp tác còn là một chủ trương xuyên suốt, nhất quán của

Đảng, Nhà nước ta. Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, hoạt động

trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; dựa trên tinh

thần hợp tác, chia sẻ, mang lại lợi ích cho các thành viên và xã hội; không chỉ đóng

góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có đóng góp quan trọng trong phát triển văn

hóa, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Với nhận

thức như trên, để thực hiện chủ trương “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng

nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, ngành Nông nghiệp xác định

nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là nhiệm vụ

trọng tâm để phát triển đa dạng các hình thức tổ chức hợp tác của nông dân nhằm

thực hiện liên kết sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền

vững.

Thị xã Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam.

Điện Bàn có diện tích tự nhiên là 21.471 ha, trong đó có 10.046 ha đất nông nghiệp.

Dân số có 203.295 người. Đơn vị hành chính gồm 7 phường, 13 xã. Cách tỉnh lỵ

Tam Kỳ 48km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 25km về phía Nam. Với vị trí

gần đầu mối giao thông và các đô thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho công tác phát

triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

1

Người dân Điện Bàn đa phần sống bằng nghề nông là trồng lúa nước, cây

công nghiệp ngắn ngày, cây hoa màu... nổi tiếng nhất thị xã là khối Bình Ninh,

phường Điện Nam Bắc, nơi đây là vùng chuyên trồng các loại rau màu như: cải, khổ

qua, đưa leo, bí, bầu, cà... cung cấp nông sản cho nhân dân trong vùng và thành phố

Đà Nẵng, thị xã Hội An. Trong những năm gần đây, kinh tế của thị xã đang trên đà

phát triển và đời sống của người dân dần được cải thiện. Người dân nơi đây đã

mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, con giống, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để

thực hiện cơ giới hóa làm tăng năng suất, chất lượng góp phần phát triển kinh tế.

Thời gian qua, được sự quan tâm của Cấp ủy, Chính quyền, các tổ chức đoàn

thể nên các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã đã có

những chuyển biến rõ rệt. Nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác đã phát triển đa dạng ngành

nghề kinh doanh, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập cho xã viên. Các loại hình

kinh tế hợp tác phát triển phong phú, đa dạng theo nhu cầu liên kết. Ngày càng

nhiều hợp tác xã sản xuất chế biến sản phẩm nông nghiệp theo hướng phát triển bền

vững. Tuy nhiên bên cạnh đó, việc phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp vẫn còn một số tồn tại như: một số cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến

khích chậm được triển khai; một số mô hình còn hoạt động kém hiệu quả, mang

tính hình thức, chưa xây dựng được niềm tin cho xã viên; bộ máy quản lý hợp tác

xã yếu kém, chưa chủ động trong việc xây dựng và triển khai các hoạt động sản

xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường, liên kết sản xuất; nội lực của các mô hình hợp

tác trong nông nghiệp còn yếu, quy mô nhỏ lẻ. Để đáp ứng được mục tiêu đổi mới

toàn điện cả về nội dung và hình thức hợp tác liên kết trong nông nghiệp thì trong

thời gian tới, thị xã Điện Bàn cần có các giải pháp cụ thể, hiệu quả để khắc phục

những hạn chế còn tồn tại, nhằm phát triển đa dạng các loại hình tổ chức hợp tác

trong nông nghiệp gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới, thúc đẩy sản xuất

nông nghiệp hàng hóa theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Vì vậy, nghiên cứu phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thị xã Điện

Bàn là rất cần thiết. Do đó tôi chọn đề tài "Phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam" để làm luận văn Thạc sĩ

kinh tế.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, có những

tài liệu sau đây :

- Lý luận về hợp tác hóa nông nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở

nước ta, do Giáo sư PTS Lưu Văn Sùng chủ biên. NXB Sự thật, H, 1990.

- Vài nét về hợp tác hóa nông nghiệp ở các nước trên thế giới, của Nguyễn

Văn Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 178, H, 1990.

- Đổi mới mô hình hợp tác xã nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Quảng Nam.

- Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012, Phạm Việt

Dũng (2016), Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 4/3/2016.

- Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình,

Nguyễn Thanh Đức (2014 Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị).

- Giáo trình Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, TS. Phạm Thị Minh Nguyệt

(2006), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

Qua các tài liệu nghiên cứu đã chỉ rõ về khái niệm, đặc điểm và những những

nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp:

“Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp được hiểu là sự mở rộng về quy

mô, nâng cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hình

thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Theo đó,

sự phát triển này bao gồm sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các loại hình

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung

tự nguyện hợp tác ngày càng tăng, cùng với đó là sự gia tăng về vốn góp, về sức lao

động, về sức mạnh tập thể của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Từ

đó góp phần tăng mức đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của

đất nước.

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp có vị trí rất quan trọng không chỉ trong nội

bộ ngành mà còn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành sản xuất

nông nghiệp không những sản xuất ra tư liệu tiêu dùng mà còn sản xuất ra nguyên

liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng và

3

các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.

Để thực hiện phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thì Nhà nước đóng

vai trò là nhân tố quan trọng và quyết định. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo từ việc

xây dựng chủ trương, ban hành các chính sách, xây dựng cơ chế điều hành, tạo

nguồn vốn và tổ chức thực hiện. Cùng với những thời cơ, thuận lợi do quá trình đổi

mới đất nước mang lại, kinh tế của nước ta sẽ phải đối mặt với những khó khăn,

thách thức từ tình hình kinh tế thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro; áp lực cạnh tranh sẽ

ngày càng gay gắt, nhất là sản xuất nông nghiệp; quan nhà nước cần có cơ chế,

chính sách hỗ trợ các hợp tác xã, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới phục vụ

sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ cao,

nhằm đánh thức tiềm năng về đất đai, lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật; Để

phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, vai trò của các cơ quan,

ban ngành, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội là nhân tố không thể thiếu,

nó được thể hiện bằng sự chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ phát triển các loại hình kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp trên các mặt hoạt động như vốn, tạo thị trường tiêu thụ

sản phẩm, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất vv…

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của thị xã

Điện Bàn, có các tài liệu sau:

- Báo cáo số 35/ BC – UBND ngày 19 tháng 11 năm 2018 của UBND thị xã

Điện Bàn về tình hình phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp trên địa

bàn thị xã Điện Bàn 3 năm (2016 – 2018).

- Báo cáo số 21/BC – UBND ngày 18 tháng 5 năm 2012 của UBND thị xã

Điện Bàn về tổng kết thi hành Luật hợp tác xã năm 2003 và triển khai luật hợp tác

xã 2012.

- Báo cáo số: 14/ BC – UBND ngày 15 tháng 11 năm 2015 về sơ kết 3 năm

thực hiện Luật hợp tác xã và nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông

nghiệp.

- Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của thị xã năm 2014, 2015, 2016, 2017,

2018.

Qua các tài liệu nghiên cứu phản ánh đa phần kinh tế hợp tác trong nông

4

nghiệp trên địa bàn thị xã mới chỉ tập trung hoạt động đối với các dịch vụ đầu vào

cho sản xuất nông nghiệp như: Cung ứng giống, vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật,

thủy lợi nội đồng...; còn các dịch vụ rất quan trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ

sản phẩm chưa được quan tâm, nên thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân

ít, hiện mới chỉ có khoảng 10% số loại hình kinh tế hợp tác thực hiện việc bao tiêu

một phần nông sản cho nông dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và

giá trị của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó có một số hợp tác xã được hình thành

không đúng bản chất của hợp tác xã theo Luật quy định, chủ yếu là để hưởng các

chính sách hỗ trợ của nhà nước.

Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng

hoạt động và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để

đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã với

thành viên; vốn ít, doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao, một số hoạt

động hình thức.

Hiện nay nhu cầu liên kết là rất lớn, tuy nhiên việc hợp tác để thực hiện liên

kết được với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn

phải “tự làm, tự bán ” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm và thu nhập của người dân.

Thứ ba, về các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của thị

xã Điện Bàn, có các tài liệu sau:

- Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế hợp tác, HTX năm 2018, triển

khai phương hướng nhiệm vụ 2019 của Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Nam.

- Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo kết quả thực hiện đổi

mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

năm 2016, 2017 và 2018.

- UBND thị xã Điện Bàn, Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.

Qua các tài liệu nghiên cứu đã chỉ ra một số định hướng cũng như giải pháp

phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn như: Cần có sự nhận

thức đúng về vị trí, vai trò kinh tế tập thể, tiếp tục củng cố, đổi mới HTX cả về tổ

5

chức, quản lý và hoạt động theo luật HTX 2012, tạo ra động lực mới trong từng

HTX trong thời gian tới; Khuyến khích phát triển các loại hình tổ hợp tác, đa dạng

hoá các hình thức hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ hợp tác phát triển thành

HTX hoặc doanh nghiệp khi có nhu cầu; Cần xây dựng cơ chế chính sách khuyến

khích và hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, trong đó tập trung vào công tác tuyên truyền,

hướng dẫn và đào tạo bồi dưỡng tổ trưởng, ban điều hành tổ; Các địa phương cần

tập trung chỉ đạo để gắn việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như

chương trình xây dựng nông thôn mới, xoá đói giảm nghèo, chương trình khuyến

nông, chương trình đào tạo việc làm... với việc phát triển tổ hợp tác và HTX; Tăng

cường liên doanh, liên kết giữa các hợp tác với các doanh nghiệp; thực hiện lồng

ghép các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với mở rộng và nâng cao

hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác.

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là một đòi hỏi khách quan, có vai trò quan

trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở nước ta. Về mặt lý luận: luận văn là

công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Về mặt thực tiễn: luận văn là tài liệu

tham khảo để UBND thị xã Điện Bàn đưa ra các giải pháp để khắc phục những tồn

tại, nhằm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã trong thời

gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu:

Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó phân tích những thành tựu, hạn chế, yếu

tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh

tế hợp tác ở Điện Bàn trong thời gian tới.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Luận giải sự cần thiết phải phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tại thị

xã Điện Bàn.

Phân tích đánh giá thực trạng kinh tế hợp tác và rút ra ưu điểm thiếu sót,

những bài học kinh nghiệm, từ đó đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong thời gian

6

sắp tới.

Điều tra khảo sát để làm rõ thực trạng hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng đến

phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở địa bàn này.

Xác lập các định hướng để đưa ra giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế hợp tác của các hợp tác xã nông nghiệp ở thị

xã Điện Bàn.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn thị xã Điện

Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2014 - 2018.

Phạm vi về nội dung: Trong các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

hiện nay thì hợp tác xã đóng vai trò là nòng cốt, đang được triển khai rất rộng rãi

theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Do đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả

chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp

trên địa bàn thị xã Điện Bàn. Đây cũng là hình thức kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp chủ yếu trên địa bàn thị xã Điện Bàn hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Trước hết, để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, thống

kê. Bên cạnh đó, nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng. Trên cơ sở đó, tác

giả sẽ thu thập thông tin, số liệu trên các sách, báo, các công trình nghiên cứu về

kinh tế hợp tác, Luật hợp tác xã năm 2012, báo cáo của liên minh hợp tác xã tỉnh

Quảng Nam, chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, các báo cáo về tình hình

kinh tế xã hội, kinh tế hợp tác, hợp tác xã của thị xã Điện Bàn...để tổng hợp, phân

tích, so sánh nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của

đề tài. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa các kết quả đã nghiên cứu của công trình đã

công bố, phát triển những luận cứ khoa học và thực tiễn mới nhằm thực hiện tốt

những mục tiêu nghiên cứu đặt ra.

Bên cạnh đó, tác giả tiến hành phương pháp điều tra, khảo sát một số hợp tác

xã trên địa bàn thị xã. Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu các nhân tố ảnh

7

hưởng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; tìm hiểu

điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với việc phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; Quy mô khảo sát, tác giả khảo sát khoảng 20

hợp tác trên địa bàn thị xã; Hình thức của khảo sát, tác giả tiến hành khảo sát qua

bảng hỏi. Ngoài ra, tác giả tiến hành thu thập ý kiến chuyên gia, các nhà quản lý

kinh tế, thu thập ý kiến của lãnh đạo phòng kinh tế thị xã để có thêm dữ liệu thực tế

về tình hình phát triển kinh tế hợp tác trên dịa bàn thị xã.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận:

Hệ thống và vận dụng những vấn đề lý luận thực tiễn có liên quan đến kinh tế

hợp tác để luận giải sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Thông qua sự khảo sát thực tế để tìm ra những ưu điểm và hạn chế của kinh tế

hợp tác, hợp tác xã để chỉ ra những vấn đề cần giải quyết sắp tới.

Đưa ra các quan điểm, phương hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiển về phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp

Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn

8

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP

1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm hợp tác

Lịch sử phát triển loài người cho thấy hợp tác là hình thức tất yếu trong lao

động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Lực lượng sản xuất ngày càng

phát triển thì nhu cầu hợp tác ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu

rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác

trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người.

Hợp tác được hiểu như sau: “Hợp tác là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân

hoặc các đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà

mỗi cá nhân, mỗi đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể

thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Hợp

tác vừa giúp tăng sức mạnh của các thành viên tham gia hợp tác, vừa giúp tăng sức

mạnh kinh tế trong tổ chức hợp tác.

1.1.1.2. Khái niệm kinh tế hợp tác

Mô hình kinh tế hợp tác ban đầu xuất hiện một cách sơ khai và tự phát không

chỉ ở nông thôn mà ở cả các thành thị, không chỉ ở trong lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp mà còn trong nhiều ngành sản xuất dịch vụ khác. Các thành viên khởi xướng

ra các mô hình kinh tế hợp tác này, thông thường là những chủ thể có điều kiện kinh

tế tài chính có hạn nên thường bị thiệt thòi, chịu nhiều bất lợi trong sản xuất kinh

doanh và trong cạnh tranh. Để có thể khắc phục các khó khăn, duy trì công ăn việc

làm cho mình, những người cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại một khu vực địa

bàn nhất định đã tìm cách liên kết, hợp tác với nhau theo từng tổ từng nhóm nhỏ, đó

là tiền thân của các loại hình kinh tế hợp tác sau này. Hiện nay, kinh tế hợp tác được

hiểu như sau: “Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện,

phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của

9

từng thành viên với ưu thế sức mạnh tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của

sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi

ích của mỗi thành viên ” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006).

Như vậy, với mỗi hình thức liên kết giữa những người lao động là một kiểu

hợp tác và tạo ra những hình thái kinh tế hợp tác khác nhau bởi kinh tế hợp tác là

kinh tế do kết quả của sự hợp tác mang lại. Do đó, khi nghiên cứu về kinh tế hợp tác

là nghiên cứu về kinh tế của những tổ chức hợp tác. Trong các tổ chức này, kinh tế

là mục đích, hợp tác là phương tiện để đạt được mục đích ấy. Mục đích kinh tế của

các tổ chức kinh tế hợp tác bao gồm kinh tế của tổ chức hợp tác và kinh tế của các

thành viên tham gia hợp tác. Điều đó có nghĩa là, khi hợp tác thì mọi thành viên

trong tổ chức kinh tế hợp tác đó đều có lợi. Khi xã hội càng phát triển, sự liên kết

giữa những người lao động càng chặt chẽ, càng đa dạng thì các hình thức kinh tế

hợp tác càng phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung

nghiên cứu kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.

1.1.1.3. Khái niệm hợp tác xã

Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, hợp tác xã được hiểu như sau: “Hợp tác xã là

tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên

tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ,

tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã” (Luật Hợp tác

xã, 2012).

- Đặc điểm hợp tác xã

Về góc độ kinh tế: Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội. Tính xã

hội của hợp tác xã thể hiện ở chỗ: (1) Nguyên tắc phân chia lợi nhuận: một phần lợi

nhuận trong hợp tác xã dùng để trích lập các quỹ, được phân chia cho việc đáp ứng

nhu cầu giáo dục, huấn luyện, thông tin cho xã viên, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn

hóa - xã hội chung của cộng đồng dân cư địa phương. Một phần lợi nhuận khác cần

được phân phối lại cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ. Do vậy mà kể cả

những thành viên góp vốn ít nhưng vẫn có cơ hội được nhiều lợi nhuận hơn người

góp nhiều. (2) Tổ chức quản lí: thành viên hợp tác xã có quyền biểu quyết ngang

10

nhau. Hợp tác xã được thành lập để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch

vụ nhằm tạo việc làm cho các thành viên, thúc đẩy sự phát triển và góp phần hạn

chế thất nghiệp trong xã hội.

Về số lượng thành viên: Có số lượng thành viên tối thiểu là 7 người.

Về góc độ pháp lý: Hợp tác xã có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu

hạn trong phạm vi vốn của mình.

Thành viên hợp tác xã góp vốn đồng thời cam kết sử dụng sản phẩm dịch vụ

của hợp tác xã hoặc người lao động trong hợp tác xã. Nếu không sử dụng sản phẩm

dịch vụ trong thời gian 3 năm trở lên hoặc không làm việc trong hợp tác xã quá 2

năm thì mất tư cách thành viên.

- Vai trò của hợp tác xã

Ở những nước nông nghiệp như nước ta thì hợp tác xã nông nghiệp là hình

thức kinh tế tập thể nông dân, vì vậy hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp có tác

động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông nghiệp nông dân. Nhờ có

hoạt động của hợp tác xã các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản

xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời đầy đủ đảm bảo chất lượng, các khâu sản

xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng

lên.

Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết của hợp tác xã nông nghiệp được

thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều

kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá.

Hợp tác xã là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì

vậy hoạt động của hợp tác xã có vai trò làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân

một cách có hiệu quả trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt

động dịch vụ cho hộ nông dân hoạt động của hợp tác xã là đối trọng buộc các đối

tượng phải phục vụ tốt cho nông dân.

- Phân biệt sự giống và khác nhau giữa kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã

Kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã ngày càng phát triển, là phương thức tổ

chức hoạt động kinh tế, đời sống xã hội văn minh, phù hợp với xu hướng phát triển

kinh tế bao trùm, kinh tế chia sẻ; các thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi,

11

không ai bị bỏ lại phía sau. Do vậy, kinh tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã là phương

thức tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp nhu cầu của người dân. Tuy nhiên kinh

tế hợp tác và kinh tế hợp tác xã có sự giống và khác nhau:

Giống nhau:

- Là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ

lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, các thành viên, kết hợp sức mạnh của từng thành

viên với ưu thế sức mạnh tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh

doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi

thành viên. Tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự

chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý. Biểu quyết theo đa số,

tự chủ tài chính, tự trang trải các chi phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm bằng tài

sản của mình.

- Các thành viên tự nguyện gia nhập, ra khỏi hợp tác, hợp tác xã. Các thành

viên có quyền bình đẳng trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động. Tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.

- Được mở tài khoản riêng tại ngân hàng theo quy định của pháp luật và theo

cơ chế người đại diện.

Khác nhau:

- Kinh tế hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo điều lệ hợp tác xã, còn kinh tế

hợp tác tổ chức hoạt động theo hợp đồng hợp tác của các thành viên và không có tư

cách pháp nhân.

- Kinh tế hợp tác xã phải có ít nhất 07 thành viên trở lên góp vốn và tổ chức

hoạt động sản xuất kinh doanh theo điều lệ. Còn đối với kinh tế hợp tác những chủ

thể, những thành viên có cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại một khu vực địa bàn

nhất định đã tìm cách liên kết, hợp tác với nhau theo từng tổ, từng nhóm nhỏ để hỗ

trợ giúp đỡ lẫn nhau, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế sức mạnh tập

thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế,

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.

- Nguyên tắc phân chia lợi nhuận: Một phần lợi nhuận trong hợp tác xã dùng

để trích lập các quỹ, được phân chia cho việc đáp ứng nhu cầu giáo dục, huấn luyện,

12

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa - xã hội chung của cộng đồng dân cư địa

phương. Một phần lợi nhuận khác cần được phân phối lại cho xã viên theo mức độ

sử dụng dịch vụ. Do vậy mà kể cả những thành viên góp vốn ít nhưng vẫn có cơ hội

được nhiều lợi nhuận hơn người góp nhiều. Con đối với kinh tế hợp tác hoa lợi, lợi

tức của hợp tác được phân chia theo thoả thuận, theo hợp đồng hợp tác.

1.1.1.4. Khái niệm kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

“Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là phạm trù kinh tế nói lên sự liên kết tự

nguyện của các đơn vị kinh tế trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế

bằng góp vốn, sức lao động để cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh trong nông

nghiệp một cách có hiệu quả, nhằm tăng sức mạnh kinh tế của các tổ chức kinh tế

hợp tác, phát triển linh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển đất

nước”(Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp bao hàm

cả kinh tế hợp tác của nông dân và kinh tế hợp tác của các thành phần khác trong

nông nghiệp nhưng không phải là nông dân, đó có thể là công nhân nông nghiệp, đó

có thể là những thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp.

1.1.1.5. Khái niệm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

“Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp được hiếu là sự mở rộng về quy

mô, nâng cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các

hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp” (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Theo

đó, sự phát triển này bao gồm sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các loại

hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Những người lao động có nhu cầu, lợi ích

chung tự nguyện hợp tác ngày càng tăng, cùng với đó là sự gia tăng về vốn góp, về

sức lao động, về sức mạnh tập thể của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp. Từ đó góp phần tăng mức đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của địa

phương, của đất nước.

1.1.2. Các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp

tác. Mỗi loại hình phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và

hình thức phân công lao động tương ứng. Do đó, nó có đặc điểm riêng về nguyên

tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức và phát huy tác dụng trong những điều kiện nhất định.

13

Bởi vậy, việc làm rõ những đặc điểm nói trên của từng loại hình kinh tế hợp tác để

lựa chọn những loại hình phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các hình thức kinh tế

hợp tác phát huy tác dụng đem lại hiệu quả cho quá trình phát triển kinh tế xã hội.

Có nhiều tiêu chí để xem xét các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, tùy

theo quan hệ của các chủ thể hợp tác, tính phức tạp của sự hợp tác và phương thức

hợp tác mà ta có thể có các tên gọi của các hình thức kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp khác nhau.

- Xét theo tính chất khi tiến hành hợp tác

Xét theo tính chất đơn giản hay phức tạp khi tiến hành hợp tác, các hình thức

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp bao gồm:

+ Kinh tế hợp tác giản đơn

Đó là các tổ hội nghề nghiệp, các tổ nhóm hợp tác và các tổ kinh tế hợp tác.

Hình thành trên cơ sở tự nguyện của các thành viên tham gia nhập hoặc ra khỏi tổ,

thành lập hoặc giải thể tổ chức, quản lý dân chủ cùng có lợi. Mục đích hoạt động

kinh doanh của các thành viên giống nhau, nhằm cộng tác, trao đổi kinh nghiệm

giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vì mục

tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mỗi thành viên. Các loại hình kinh tế hợp tác giản đơn

này hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân. Quan hệ ràng buộc

giữa các thành viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở tình cảm, tập quán, truyền

thống cộng đồng không mang tính pháp lý. Trong các loại hình của kinh tế hợp tác

giản đơn thì tổ hợp tác là hình thức phổ biến nhất hiện nay.

+ Khái niệm tổ hợp tác

Theo Điều 111, Bộ Luật dân sự năm 2005, tổ hợp tác được hiểu như sau: “Tổ

hợp tác là sự kết nhóm của từ 3 cá nhân trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,

cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng

hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm” (Bộ Luật Dân sự, 2005).

+ Đặc điểm của tổ hợp tác

Thành lập tổ hợp tác: Hợp đồng thành lập tổ hợp tác phải lập thành văn bản có

chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.

Chế độ pháp lý cua tổ hợp tác: Tổ hợp tác được đại điện bởi tổ trưởng, do các

14

tổ viên cử ra (Điều 113). Tổ trưởng có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện một số

công việc nhất định cần thiết cho tổ.

Tổ viên tổ hợp tác: Tổ viên tổ hợp tác là cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên,

có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tổ hợp tác có quyền giao kết hợp đồng lao động

với người không phải là tổ viên để thực hiện những công việc nhất định.

Tài sản của tổ hợp tác: Tài sản của tổ hợp tác do các tổ viên đóng góp. Các tổ

viên quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận. Việc

định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý;

đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.

+ Vai trò của tổ hợp tác

Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế gọn nhẹ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế

hộ ở vùng miền núi, nông thôn. Là phương thức mưu sinh bền vững cho người nông

dân, ai cũng có thể tham gia và cùng tựa vào nhau tìm kế sinh nhai.

Tổ hợp tác mang lại lợi ích trực tiếp cho tổ viên trong tổ, đặc biệt đối với các

thành viên thiếu nguồn lực hoặc thiếu vốn. Các thành viên trong tổ hầu hết là những

người chung ngành nghề, chung sở thích nên khi sát nhập với nhau sẽ tăng thêm

kinh nghiệm, tăng nguồn vốn, tăng sản phẩm có chất lượng. Bên cạnh đó là sự

thuận tiện trao đổi thông tin về khoa học kỹ thuật, thị trường, giá cả.

Tổ hợp tác đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao mức sống của

người nông dân, là phương thức mưu sinh rất bền vững mà hiện nay nông dân ở

nhiều vùng đang thực hiện.

+ Kinh tế hợp tác phức tạp

Hình thức này bao gồm các hình thức như hợp tác xã, nông trường quốc

doanh, các tập đoàn sản xuất, các xí nghiệp liên hiệp. Hình thức này được tổ chức

có bộ máy quản lý để điều hành công việc chung, có vốn, quỹ chung để hoạt động.

Vốn góp ban đầu là do các thành viên góp theo quy định khi tiến hành hợp tác, sau

đó tăng dần theo khả năng tích lũy. Những tổ chức kinh tế hợp tác này có tư cách

pháp nhân, để được thành lập phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Trong các

loại hình của kinh tế hợp tác phức tạp thì hợp tác xã là hình thức phố biến nhất hiện nay.

- Xét theo chức năng hoạt động, có thể phân loại thành:

15

+ Tổ hợp tác, HTX dịch vụ từng khâu

+ Tổ hợp tác, HTX dịch vụ tổng hợp

+ HTX, tổ hợp tác chuyên ngành

+ HTX, tổ hợp tác sản xuất kết hợp dịch vụ

+ Tổ hợp tác, HTX kinh doanh ở mức độ toàn diện

1.1.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

1.1.3.1 Đặc điểm:

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp có vị trí rất quan trọng không chỉ trong nội

bộ ngành mà còn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành sản xuất

nông nghiệp không những sản xuất ra tư liệu tiêu dùng mà còn sản xuất ra nguyên

liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp là nền tảng quang trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng

và các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.

Thông qua hợp tác những việc mà từng người hay từng nông hộ, từng đơn vị

không làm được hoặc làm được nhưng không hiệu quả. Hợp tác đã góp phần nâng

cao năng xuất lao động. Tiết kiệm chi phí trong sản xuất kinh doanh. Huy động

được nhiều nhân lực, vật lực cho sản xuất. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp góp

phần khai thác, phát huy lợi thế so sách của từng vùng sản xuất, từ đó có sự bổ sung

giữa các vùng, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, tập trung hóa, hiện đại hóa sản

xuất. Bên cạnh đó, kinh tế hợp tác còn tạo cơ hội cho việc đào tạo, nâng cao trình

độ cho người quản lý nói riêng và người lao động nói chung, đồng thời góp phần

mở rộng thị trường.

Nguyên tắc của hợp tác là tự nguyện hợp tác với nhau, không bị ràng buộc bởi

yếu tố nào, tự nguyện cả khi hợp tác và cả khi không hợp tác.

Hợp tác cùng có lợi, khi hợp tác với cá nhân hay tổ chức đều muốn có thế

mạnh của cá nhân hay tập thể khác, khắc phục được tồn tại của cá nhân hay tổ chức,

chính vì thấy có lợi ích mới hợp tác với nhau, đây chính là yếu tố kinh tế để hợp tác.

1.1.3.2 Vai trò:

- Về mặt chính trị

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp về bản chất là một tổ chức kinh tế của

16

người dân thuần tuý chứ không phải là một tổ chức chính trị, xã hội. Nó không theo

đuổi các mục tiêu chính trị và cũng không có nhiệm vụ chính trị. Nó chỉ theo đuổi

thuần tuý mục tiêu lợi ích kinh tế của các thành viên. Tuy nhiên vì nó là một tổ chức

gồm nhiều thành viên, số lượng có thể lên tới vài nghìn người tại một địa bàn nên

trên thực tế có vai trò to lớn ở địa phương và do vậy cũng có ý nghĩa chính trị nhất

định. Thêm nữa, đó là một tổ chức dân chủ. Do vậy, nếu tổ chức này hoạt động và

phát triển tốt, nó góp phần tích cực quan trọng vào việc ổn định trật tự, an ninh

chính trị, xã hội. Còn ngược lại, nó cũng sẽ có những tác động xấu tới ổn định trật

tự, an ninh chính trị, xã hội, đặc biệt khi các mô hình hợp tác này tan rã sẽ làm mất

ổn định trật tự chính trị xã hội. Mặc dù không mang nhiệm vụ chính trị nhưng do ý

nghĩa chính trị của nó mà chúng ta cần phải tạo điều kiện để kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp này hoạt động tốt, lành mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm

vụ chính trị của Nhà nước.

- Về mặt kinh tế

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nó tham gia vào các hoạt động kinh tế và

đem lại lợi ích kinh tế cho thành viên, xã hội và Nhà nước, góp phần tích cực vào

công cuộc phát triển kinh tế ở địa phương, đặc biệt thông qua hoạt động cho vay tín

dụng của nó làm đòn bẩy cho nền kinh tế phát triển. Là kênh dẫn vốn, huy động vốn

quan trọng tạo huyết mạch cho nền kinh tế, đặc biệt ở các vùng điều kiện phát triển

kinh tế còn nhiều khó khăn, hạn chế. Với ý nghĩa này, kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp xứng đáng được Nhà nước quan tâm vun đắp, giúp đỡ để chúng làm tốt

nhiệm vụ của nó, góp phần phát huy tiền năng trong nhân dân thúc đẩy kinh tế phát

triển.

- Về mặt xã hội

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tuy không phải là một tổ chức xã hội nhưng

là một tổ chức có đông thành viên, thu hút đa phần cá nhân và hộ gia đình tại một

địa phương tham gia nên rất có ý nghĩa về mặt xã hội. Kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp phát triển góp phần duy trì và nâng cao mức sống của thành viên, những

người chịu thiệt thòi, thua thiệt trong cuộc cạnh tranh nên có ý nghĩa xã hội to lớn.

Nó góp phần duy trì và ổn định trật tự xã hội trên địa bàn, đặc biệt thông qua các

17

hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của các mô hình hợp tác trong nông nghiệp. Các

mối quan hệ xã hội trên các giá trị tỉnh thần đoàn kết, tình làng nghĩa xóm, tương

thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau được duy trì, củng cố và phát huy. Các nguyên tắc

tổ chức và hoạt động cơ bản của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp cần được gìn giữ

và tôn trọng để các giá trị về đạo đức, xã hội được bảo tồn và phát huy, góp phần

tạo ra một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và phôn thịnh.

- Về mặt văn hoá

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp mang những nét văn hoá riêng của mình.

Tuy nhiên, do kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là tập hợp của một tập thể các cá

nhân, con người nên nó đặc biệt coi trọng sự tham gia về cá nhân của những con

người và khuyến khích sự phát huy năng lực cá nhân, sự tích cực tham gia vào hoạt

động chung của tập thể như tham gia quản lý, tham gia điều hành. Những giá trị về

bình đẳng nam nữ, bình đẳng giai cấp, không phân biệt đối xử... mang giá trị nhân

văn cao. Các giá trị văn hoá, nhân văn đó được thường xuyên thể hiện và duy trì

trong các hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp và các sinh hoạt của tổ

chức này. Đó là các hoạt động kinh doanh đơn thuần cũng như các hoạt động văn

hoá đối ngoại, tài trợ cho các hoạt động văn hoá của địa phương. Đó là các cuộc

họp, Đại hội như các các sinh hoạt, sự kiện trọng đại ở địa phương. Nó rất gắn bó

với người dân địa phương và cũng trở thành yếu tố tinh thần không thể thiếu được

của địa phương. Những nét văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần

đoàn kết, tương thân tương ái v.v.. được tiếp tục duy trì, chăm sóc và phát triển

trong kinh tế hợp tác. Với ý nghĩa văn hoá đầy tính nhân văn khác hắn so với các tổ

chức kinh tế khác thì phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp quả thực cần đáng

được đề cao.

- Đối với các thành viên

Vì mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp xuất phát và hình thành hoàn

toàn trên tinh thần tự nguyện, tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành

viên. Là tổ chức liên kết hợp tác của bản thân các thành viên. Các thành viên giúp

đỡ được lẫn nhau thông qua việc hợp tác này. Nếu nhìn vào điều kiện lịch sử trong

quá trình hình thành và phát triển của mô hình hợp tác, ta thấy ý nghĩa của nó ở chỗ

18

là một mô hình tự cứu mình, tránh được sự bần cùng hoá cho các thành viên. Thông

qua kinh tế hợp tác mà các thành viên có thể tương trợ, giúp đỡ được cho nhau, tự

cứu được lấy mình, trước khi mất hết những cơ sở kinh tế để tồn tại nếu không hợp

tác lại với nhau. Nếu các thành viên có điều kiện tiếp cận với các loại thị trường (thị

trường nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, thị trường dịch vụ, sản phẩm đầu ra) nhờ có

mô hình kinh tế hợp tác nói chung thì thông qua mô hình hợp tác nông nghiệp nói

riêng, các thành viên đã có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ của thị

trường tín dụng, ngân hàng. Điều mà họ do địa bàn sinh sống bất lợi, tài sản nghèo

nàn .v.v.. hầu như không bao giờ có được nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước hay sự

hỗ trợ khác mà không tự tổ chức lấy cho mình những tổ chức kinh tế hợp tác. Như

vậy các thành viên sẽ được hưởng các sản phẩm và dịch vụ mà tổ chức tín dụng hợp

tác của họ tạo ra và cung cấp một cách kịp thời, thuận tiện với một mức giá cả chấp

nhận được với tư cách là khách hàng. Thành viên cũng sẽ được tư vấn, cung cấp

thông tin, trao đổi kinh nghiệm thông qua hợp tác nông nghiệp vì đó cũng thường là

nơi tập hợp kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm làm ăn của cả địa phương. Họ sẽ tự

tạo ra được công ăn việc làm cho bản thân và có thể còn cho cả địa phương nữa. Họ

cũng được hưởng những quyên lợi từ vấn đề hợp tác với nhau với tư cách là chủ sở

hữu như được chia cổ tức, được quyền tham gia biểu quyết, quyết định các chính

sách kinh doanh. Qua sự hỗ trợ này mà các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh

của các thành viên đã được hỗ trợ thiết thực, cuộc sống của họ được cải thiện rõ rệt

và có những tích luỹ. Trước đây, khi chưa có mô hình này, nếu từ hoạt động kinh tế

của bản thân, họ không thể tạo ra lợi nhuận hoặc chỉ tạo ra ít lợi nhuận thì nay,

trong sự hợp tác họ được hỗ trợ và có điều kiện tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Đó

chính là ý nghĩa to lớn của mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, chính vì thế

có vai trò bảo đảm và duy trì sự độc lập về kinh tế và cơ sở kinh tế để tồn tại và phát

triển của các thành viên.

- Đối với địa phương

Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ra đời sẽ cung cấp các dịch vụ tín dụng,

ngân hàng cho dân cư trên địa bàn hoạt động với tư cách là khách hàng. Qua hoạt

động của kinh tế hợp tác, ý thức tiết kiệm và tích luỹ của người dân được nâng cao.

19

Những đồng vốn nhàn rỗi được huy động để đưa vào đầu tư phục vụ cho phát triển,

giảm sự lãng phí tài nguyên cũng như tạo ra sự phồn vinh cho xã hội. Đó cũng là

nơi học nghề cho nhiều người. Trình độ và nhận thức của người dân trên địa bàn

cũng sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tư vấn, thông tin của bản thân về

hợp tác trong nông nghiệp, góp phần nâng cao trình độ dân trí tại địa phương. Khi

địa phương có nhiều mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp hoạt động, nạn cho

vay nặng lãi lập tức bị đẩy lùi tiến tới xoá sổ. Những ý nghĩa về xã hội như góp

phần, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ địa phương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, vật

nuôi, cây trồng... cũng là những đóng góp rất tích cực. Các các mô hình kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp sẽ là những tổ chức hoạt động tại địa phương, bám sát địa

bàn, tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế ở địa phương, hỗ trợ đắc lực

nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và

đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Như vậy, phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp là một yếu tố kinh tế quan trọng ở địa phương, góp phần nâng cao đời sống,

thu nhập của người dân đem lại ổn định trật tự chính trị, xã hội trên địa bàn, tạo điều

kiện cho phát triển kinh tế.

- Đối với Nhà nước

Xét trên góc độ Nhà nước, hoạt động của những mô hình kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp sẽ bổ sung cho những nỗ lực vĩ mô của Nhà nước như cung cấp vốn

cho người nghèo, nông thôn, nông nghiệp, thực hiện các mục tiêu xã hội lớn như

tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính

trị, xã hội... ở những nơi, lĩnh vực mà nhiều khi Nhà nước không có khả năng hay

hoạt động không hiệu quả thì mô hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thể hiện rất

rõ tinh thần phát hút nội lực của người dân để tự giải quyết các khó khăn, vướng

mắc của chính bản thân, góp phần thực hiện các chương trình tiết kiệm, huy động

tiềm năng trong nhân dân của Nhà nước phục vụ cho đầu tư, hay tránh lãng phí tài

nguyên, nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân.

Mặc dù có vai trò to lớn đối với Nhà nước, song kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp không phải là công cụ của Nhà nước và lại càng không có nhiệm vụ công

ích. Nó đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh tế tự trợ giúp của các thành viên, là công

20

cụ và phương tiện của các thành viên và hoạt động chỉ vì lợi ích của các thành viên.

Tuy nhiên, trong quá trình theo đuổi tạo ra lợi ích cho các thành viên thì nó cũng đã

vô hình trung trực tiếp hay gián tiếp tạo ra cả những lợi ích xã hội khác kèm theo

mà Nhà nước rất mong muốn nhưng đó chỉ là những lợi ích hệ quả. Xét về mặt lý

thuyết cũng như thực tiễn, việc tạo ra các lợi ích xã hội này không phải và cũng

không thể là nhiệm vụ của các hợp tác trong nông nghiệp. Đối với Nhà nước, kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp là chỉ một tổ chức kinh tế dân chủ của người dân, một

phương tiện để phát huy nội lực tiềm năng trong nhân dân của các thành viên góp

phần phục vụ cho phát triển kinh tế, đặc biệt ở các vùng mà Nhà nước chưa có điều

kiện hay khả năng để vươn tới một cách đầy đủ trọn vẹn để hỗ trợ phát triển. Nó bổ

sung rất tốt cho những nỗ lực phát triển kinh tế của Nhà nước ở các vùng, đặc biệt

các vùng nông nghiệp, nông thôn với điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn và

nhu cầu về vốn để đầu tư, phát triển sản xuất cao.

1.1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp

1.1.4.1. Các yếu tố khách quan

- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp

Để thực hiện phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp thì Nhà nước đóng

vai trò là nhân tố quan trọng và quyết định. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo từ việc

xây dựng chủ trương, ban hành các chính sách, xây dựng cơ chế điều hành, tạo

nguồn vốn và tổ chức thực hiện. Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển các

loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, yêu cầu các chính sách và nguồn lực để

phát triển phải được công khai, minh bạch, hỗ trợ đúng đối tượng và hiệu quả.

- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường

Cùng với những thời cơ, thuận lợi do quá trình đổi mới đất nước mang lại,

kinh tế của nước ta sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức từ tình hình

kinh tế thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro; áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt, nhất là

sản xuất nông nghiệp. Để tạo nên sức cạnh tranh mới, phát triển bền vững thì việc

tự tổ chức lại, liên kết các hộ kinh doanh nhỏ lẻ để xây dựng hợp tác xã, trên cơ sở

21

đó, hình thành liên hiệp hợp tác xã, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị trong nước,

hướng đến xuất khẩu là con đường phù hợp trong giai đoạn hiện nay.

- Sự phát triển của khoa học công nghệ

Nhiều năm qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tập thể, trong đó

nòng cốt là hợp tác trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh

tế và ổn định an sinh xã hội. Mặc dù đã phát huy những hiệu quả tích cực, tuy

nhiên, các hợp tác vẫn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, đòi hỏi phải có những

thay đổi kịp thời để có thể trụ vững trong bối cảnh mới, trong thời đại công nghiệp

4.0 với thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Do đó, các cơ quan nhà nước cần

có cơ chế, chính sách hỗ trợ các hợp tác xã, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới

phục vụ sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ

cao, nhằm đánh thức tiềm năng về đất đai, lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật.

- Sự phối hợp của các ban ngành, các tổ chức đoàn thể trong tổ chức thực

hiện chính sách phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Để phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, vai trò của các

cơ quan, ban ngành, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội là nhân tố không

thể thiếu, nó được thể hiện bằng sự chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ phát triển các loại hình

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên các mặt hoạt động như vốn, tạo thị trường

tiêu thụ sản phẩm, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Trên địa bàn cấp

thị xã, hoạt động của nhiều cơ quan, ban ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát

triển của các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, như: phòng Tài chính - Kế

hoạch, phòng Nông nghiệp, trạm Thú y, trạm Khuyến nông, trạm Bảo vệ thực vật,

ngân hàng Chính sách xã hội, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

Mỗi vùng có các đặc điểm riêng về trình độ phát triển nền nông nghiệp hàng

hoá, trình độ dân trí, tập quán canh tác, điều kiện địa hình, thời tiết khí hậu, mật độ

dân cư, nên có thể xác định rõ sự khác nhau không chỉ trong sản xuất nông nghiệp,

mức sống vật chất của dân cư, mà còn tạo nên sự khác nhau về quá trình hình thành,

phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời

với những tác động nói trên, đặc điểm truyền thống văn hoá, tâm lý cũng ảnh hưởng

22

không nhỏ tạo nên những nét đặc trưng về kinh tế hợp tác ở mỗi vùng.

1.1.4.2. Các yếu tố chủ quan

- Năng lực về tổ chức quản lý của người đứng đầu các loại hình kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp

Trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi người

đứng đầu các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phải có trình độ, năng lực

tổ chức quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong kinh doanh đưa mô hình hoạt động

của mình ngày một phát triển. Tuy nhiên hiện nay, trình độ quản lý của người đứng

đầu các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phần lớn chưa được đào tạo cơ

bản, thiếu kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý, đặc biệt kiến thức, kinh nghiệm

kinh doanh trong cơ chế thị trường. Điều này gây ra những khó khăn nhất định

trong quá trình phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.

- Nguồn lực, quy mô sản xuất

Bất kể một tổ chức kinh doanh nào muốn đứng vững trên thị trường cũng cần

phải có tiềm lực kinh tế. Các nguồn lực kinh tế có thể kể đến như vốn, lao động,

khoa học công nghệ, thương hiệu của sản phẩm... .Các loại hình kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp cũng vậy, muốn phát triển và đứng vững trên thị trường, các mô

hình hợp tác trong nông nghiệp cần phải có nguồn lực đủ mạnh, quy mô sản xuất đủ

lớn để có thể cạnh tranh trên thị trường.

1.2. Hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số địa phương

và bài học cho Điện Bàn

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của một số

địa phương

1.2.1.1. Kinh nghiệm của huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

Đại Lộc nằm về phía Bắc của Quảng Nam, Đại Lộc có vị trí địa lý khá thuận

lợi cho việc giao lưu, phát triển: là vùng vành đai, cách Trung tâm thành phố Đà

Nẵng 25 km về phía Tây Nam, cách tỉnh ly Tam Kỳ 70 km; nằm trên trục hành lang

kinh tế Đông - Tây, nối các tỉnh Tây Nguyên, cửa khẩu Quốc tế Bờ Y - Kom Tum,

Đắc Tà Oóc - Nam Giang về Đà Nẵng và các tỉnh duyên hải miền Trung là điều

kiện thuận lợi để huyện Đại Lộc phát triển kinh tế.

23

Xác định kinh tế hợp tác, trong đó nòng cốt là hợp tác xã và tổ hợp tác có vai

trò quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương, huyện Đại Lộc đã triển khai

thực hiện nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác trên địa

bàn huyện, cụ thể là:

- Để công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện phát triển kinh tế hợp tác

trên địa bàn thị xã đạt hiệu quả, UBND huyện Đại Lộc đã thành lập Ban Chỉ đạo

phát triển kinh tế hợp tác của huyện.

- Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác huyện Đại Lộc đã chỉ đạo các ngành,

các xã, thị trấn tổ chức phổ biến tuyên truyền, thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012,

lồng ghép phổ biến tại các hội nghị, các buổi sinh hoạt chuyên đề tại các địa

phương. Tuyên truyền cho cán bộ, hội viên nông dân về chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp và kiến thức về hoạt động và quản lý kinh tế hợp tác. Nhằm nâng cao nhận

thức về Luật Hợp tác xã.

- Chỉ đạo Hội Nông dân các cấp nắm chắc nhu cầu, nguyện vọng của hội viên

nông dân, chủ động hướng dẫn thành lập các tổ hợp tác đa dạng về hình thức với

quy mô phù hợp; cơ cấu gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản, thiết thực phù hợp

với trình độ của nông dân ở mỗi vùng miễn, khu vực. Tư vấn, hỗ trợ các tổ hợp tác

mở rộng quy mô, phát triển thành các hợp tác xã. Căn cứ vào những điều kiện thực

tế, Hội Nông dân các cấp làm đầu mối, khâu nối những nhu cầu để vận động nông

dân tham gia các hình thức kinh tế hợp tác cụ thể từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ

những tổ hợp tác đơn giản đến các hình thức cao hơn hoạt động đa ngành, đa nghề.

- Huyện Đại Lộc đã tập trung đẩy nhanh tiến độ công tác chuyển đổi, sắp xếp,

tổ chức lại hoạt động của các hợp tác xã trên địa bàn. Củng cố xây dựng các hợp tác

xã cũ đã chuyển đổi và đang hoạt động theo luật. Hướng dẫn những tổ hợp tác đang

hoạt động nhưng chưa đăng ký, chứng thực đến UBND các xã, thị trấn đăng ký

chứng thực nhằm bảo đảm môi trường pháp lý cho hoạt động của tổ hợp tác.

- Chỉ đạo xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác, phát hiện các

mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã làm ăn có hiệu quả, tiến hành sơ kết, tổng kết để rút

ra bài học kinh nghiệm; tổ chức cho cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác, hội viên nông

24

dân thăm quan, học tập các mô hình điểm để áp dụng nhân rộng tại các địa phương.

Khai thác các nguồn lực, lồng ghép các chương trình dự án để xây dựng và nhân

rộng các mô hình kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả.

Kết quả thực hiện: Tính đến 31/12/2018, toàn huyện có 16 tổ hợp tác trong

lĩnh vực nông nghiệp với 114 thành viên; có 19 hợp tác hoạt động trong lĩnh vực

nông nghiệp với số vốn điều lệ gần 52 tỷ đồng và số thành viên góp vốn là 179

người. Những năm qua, hoạt động của các hợp tác, tổ hợp tác trong lĩnh vực nông

nghiệp trên địa bàn huyện Đại Lộc đã khẳng định được vai trò nòng cốt trong khu

vực kinh tế tập thể, góp phần quan trọng trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về

xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn.

1.2.1.2. Kinh nghiệm của huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Huyện Hoà Vang nằm bao bọc quanh phía Tây khu vực nội thành của thành

phố Đà Nẵng. Phía Nam giáp: Thị xã Điện Bàn, huyện Đại Lộc của tỉnh Quảng

Nam; Phía Tây giáp: huyện Đông Giang của tỉnh Quảng Nam; Huyện Hòa Vang là

huyện nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng, diện tích đất tự nhiên là 73.488 ha

(chiếm 74,8% diện tích của thành phố Đà Nẵng), Trong đó Đất nông nghiệp 65.316

ha, đất phi nông nghiệp 7.271 ha và đất chưa sử dụng 201,7 ha. Toàn huyện có 11

xã với 119 thôn. Kinh tế - xã hội của huyện Hòa Vang trong những năm qua phát

triển khá, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm ở mức 10%. Hạ tầng cơ bản đáp

ứng nhu cầu giao thương. Là một huyện rất chú trọng với nền sản xuất nông nghiệp,

Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế bằng nhiều giải

pháp, trong đó có chú trọng tập trung vào phát triển các hình thức kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp. Các giải pháp huyện đã triển khai thực hiện là:

- Xác định rõ ràng đích hướng đến của phát triển các hình thức kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp. Huyện Hòa Vang xác định nâng cao hiệu quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh của các hợp tác xã, tổ hợp tác với phương thức hoạt động dựa trên

nguyên tắc cơ bản là tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong mọi hoạt động sản xuất kinh

doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tính cộng đồng, khắc phục những

hạn chế của kinh tế hộ, tạo ra nguồn tăng trưởng kinh tế đối với thành viên, góp

phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm, ồn định thu nhập cho

25

người dân trên địa bàn là đích hướng đến trong việc định hướng phát triển và nâng

cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn huyện Hòa Vang.

- Chỉ đạo xây dựng và ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trên địa

bàn huyện, giao nhiệm vụ cho các tổ chức đoàn thể, các phòng, ban và các xã trên

địa bàn thị xã tổ chức thực hiện cũng như việc tập trung tuyên truyền các chỉ thị của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như: Luật Hợp tác xã năm 2012 và các

văn bản, chính sách pháp luật, có liên quan đến phát triển kinh tế hợp tác.

- Huyện xây dựng và triển khai kế hoạch hỗ trợ các hợp tác như tư vấn pháp

lý, hướng dẫn, hỗ trợ hợp tác xã xây dựng tổ chức, hoạt động theo đúng quy định

của Luật Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách, pháp luật của Nhà nước; hỗ trợ

hợp tác xã tiếp cận và hưởng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước với hợp

tác xã, giao hợp tác xã quản lý, khai thác kinh doanh công trình nước sạch nông

thôn, hợp tác thu gom chất thải rắn trên địa bàn, các công trình thuỷ lợi; bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã; cung cấp thông tin, hỗ trợ hợp tác, tổ hợp

tác đẩy mạnh liên kết với nhau, với các doanh nghiệp và nhà khoa học để ứng dụng

các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả

năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tập thể trên thị trường: tạo điều kiện gắn kết

hoạt động của hợp tác với các dự án, chương trình có mục tiêu của Nhà nước.

Kết quả đạt được: Tính đến 31/12/2018, trên địa bàn huyện có 12 hợp tác hoạt

động trong lĩnh vực nông nghiệp với 142 thành viên tham gia, tổng nguồn vốn điều

lệ là 7.887,2 triệu đồng. Trên thực tế, hoạt động của các hợp tác, tổ hợp tác trong

lĩnh vực nông nghiệp đã làm tốt các khâu cung cấp vật tư phân bón, cung ứng giống

cây lâm nghiệp, dịch vụ làm đất, thu hoạch, dịch vụ thủy lợi, hợp tác trong việc

cung ứng và thu mua rau sạch, giúp cho bà con nông dân trong khu vực tạo sự ổn

định về giá cá, đảm bảo được chi phí đầu vào, thuận lợi cho việc gieo cấy kịp thời

vụ. Bên cạnh đó, hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác trong lĩnh vực nông

nghiệp đã thu hút số đông lao động, giải quyết được nhiều việc làm, hoạt động kinh

doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho thành viên, người lao động. Có thể thấy, mô

hình kinh tế hợp tác đã có sự đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế và

chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa huyện.

26

1.2.1.3. Kinh nghiệm của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

Huyện Duy Xuyên nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Nam, có diện tích tự

nhiên gần 29.909,5 ha, dân số hơn 131.242 người. Trên địa bàn huyện có 18 đơn vị

hành chính, bao gồm 17 xã và 01 thị trấn. Duy Xuyên là thị xã đồng bằng của tỉnh

nên huyện có nhiều lợi thế cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trên địa bàn

huyện có các tuyến giao thông chính kết nối với quốc lộ 1A. Có tuyến đường thủy

trên sông Thu Bồn chảy dọc phía Tây trên địa bàn huyện chảy xuống vùng hạ lưu.

Với vị trí địa lý có hệ thống giao thông khá thuận lợi nên huyện Duy Xuyên có điều

kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, vận chuyển và trung chuyển để tiêu

thụ hàng hóa, nông sản thuận tiện.

Nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên

địa bàn, thời gian qua huyện Duy Xuyên và Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển hợp

tác xã huyện Duy Xuyên đã thực hiện nhiều giải pháp, cụ thể là:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách

pháp luật của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác nhằm nâng cao nhận

thức cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp về bản chất, vai trò, quan điểm đổi

mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của kinh tế hợp tác, nhất là nâng cao chất lượng

phục vụ dịch vụ, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.

- Huyện triển khai thực hiện kịp thời và có hiệu quả các cơ chế, chính sách của

Nhà nước hiện hành, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trên lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn, nhất là các chính sách khuyến khích hỗ trợ, thúc đẩy sự phát

triển kinh tế tập thể, kinh tế nông hộ, kinh tế trang trại và doanh nghiệp, tạo điều

kiện về nguồn lực cho phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp; đào

tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã;

phát huy sự tham gia tích cực của các thành viên cả về nhân lực, vật lực trong việc

đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả các hoạt động kinh doanh dịch vụ hiện có,

mở rộng thêm các hoạt động kinh doanh dịch vụ mới như sản xuất giống, bao tiêu

sản phẩm nông sản, sản phẩm làng nghề, xây dựng hạ tầng nông nghiệp nông thôn.

- Xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác xã điển hình tiên tiến hoạt động

có hiệu quả, mở rộng liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã và doanh nghiệp trên

27

cơ sở hợp tác về kỹ thuật, công nghệ, ngành nghề kinh doanh, tìm kiếm thị trường

tiêu thụ; chú trọng xây dựng các mô hình trình diễn về khuyến công, khuyến nông

cho các hợp tác xã, tổ hợp tác.

- Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh

đồng lớn, tạo cơ sở cho các hợp tác xã phát triển theo hướng chuyên canh, sản xuất

hàng hóa tập trung; tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, mặt bằng cho các hợp tác xã

xây dựng trụ sở, địa điểm sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

- Chỉ đạo các hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp và các loại hình hợp tác khác

đẩy nhanh tiến độ tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm

2012. Đồng thời thực hiện các chính sách hỗ trợ về nguồn vốn, quỹ đất để các hợp

tác xã hoạt động.

Kết quả thực hiện: Tính đến 31/ 12/2018, toàn thị xã có 19 tổ hợp tác trong

lĩnh vực nông nghiệp với 217 thành viên, hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực như: Tổ

hợp tác dùng nước, vệ sinh môi trường, làm đất, thu hoạch, dịch vụ thức ăn chăn

nuôi; có 18 hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có 11 hợp tác dịch vụ nông

nghiệp và điện năng; 5 hợp tác dịch vụ nông nghiệp; 01 hợp tác thủy sản; 1 hợp tác

dịch vụ sản xuất. Theo sự chỉ đạo của huyện, đã có 16/18 hợp tác chuyển đổi hoạt

động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, tiến hành xây dựng, bổ sung điều lệ và bổ

sung dịch vụ, đầu tư mới trong phương án sản xuất kinh doanh, tổng số vốn điều lệ

đăng ký 12.598 triệu đồng. Nhiều hợp tác xã đã có sự đổi mới, mở rộng loại hình,

thực hiện các khâu dịch vụ đạt chất lượng tốt hơn, về cơ bản hoạt động của các hợp

tác xã. Sự phát triển của kinh tế hợp tác trên địa bàn huyện đã góp phần tích cực đối

với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế,

cơ cấu cây trồng vật nuôi; tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động

khu vực nông thôn, đóng góp hiệu quả cho chương trình xây dựng nông thôn mới.

1.2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

- Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách pháp luật của

Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác để nâng cao nhận thức cho cấp ủy

Đảng, chính quyền các cấp và đông đảo bà con nông dân trên địa bàn thị xã về quan

điểm, vai trò, ý nghĩa và lợi ích kinh tế khi tham gia vào hợp tác xã, tổ hợp tác.

28

- Triển khai thực hiện kịp thời và có hiệu quả các cơ chế, chính sách của Nhà

nước hiện hành về phát triển kinh tế hợp tác như hỗ trợ về pháp lý, vốn vay ngân

hàng, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ hợp

tác xã và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.

- Cần xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp đối với vấn đề việc làm và phát triển kinh tế của địa phương. Về bản chất,

hợp tác xã và tổ hợp tác là tổ chức kinh tế - xã hội mang tính cộng đồng và trách

nhiệm xã hội, thu hút sự tham gia đông đảo của người dân nông thôn. Hợp tác xã, tổ

hợp tác đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo thu

nhập, việc làm, phát triển nông thôn mới; bảo vệ môi trường nông thôn, lưu giữ và

phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

- Xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, tổ chức

tham quan, học tập các mô hình điểm để áp dụng tại các địa phương trong thị xã.

- Tập trung đây nhanh tiến độ công tác chuyển đổi, sắp xếp, tổ chức lại hoạt

động của các hợp tác xã trên địa bàn thị xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Tuyên

truyền, hướng dẫn các tổ hợp tác đang hoạt động nhưng chưa đăng ký, chứng thực

đến UBND các xã, phường đăng ký chứng thực nhằm bảo đảm môi trường pháp lý

cho quá trình hoạt động của tổ hợp tác.

Tiểu kết chương 1

Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là sự mở rộng về quy mô, nâng

cao chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hình thức kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp. Từ khái niệm này, chương 1 nêu ra các loại hình kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp và đặc điểm, vai trò của nó cùng với yếu tố khách

quan và chủ quan ảnh hưởng hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Đồng

thời, chương 1 đề cập đến kinh nghiệm của một số địa phương về hoạt động kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp, từ đó rút ra bài học tham khảo cho Thị xã Điện Bàn.

Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.

29

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG

NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN. TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

2.1.1.1.Vị trí địa lý

Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Đơn vị

hành chính gồm 7 phường, 13 xã. Phía Bắc giáp huyện Hòa Vang, thành phố Đà

Nẵng; phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp biển Đông và đô thị cổ

Hội An, phía Tây giáp huyện Đại Lộc. Với vị trí gần đầu mối giao thông và các đô

thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

2.1.1.2. Địa hình, khí hậu, thủy văn

Điện Bàn là thị xã đồng bằng, có địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh cao

thấp, mức độ chia cắt trung bình, đặc trưng cho địa hình có nguồn gốc phát sinh từ

sản phẩm phù sa sông biển, vì vậy, thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và công

tác phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã.

Điện Bàn nằm trong khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, với

nhiệt độ trung bình phù hợp, số giờ nắng cao, lượng mưa nhiều, điều này tạo nhiều

điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển các cây trồng nông nghiệp như lúa

màu, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên do chế độ mưa phân

hoá theo mùa trong năm không đồng đều, gây khô hạn, nhiễm mặn trong mùa khô

và bão thường xảy ra kết hợp với các trận mưa lớn vào các tháng 9, 10, 11 gây lũ

lụt, xói lở khu vực ven sông, điều này gây bất lợi lớn đến quá trình sản xuất nông

nghiệp cũng như khó khăn cho công tác quản lý nông nghiệp.

Hệ thống thuỷ văn thị xã Điện Bàn chủ yếu là các con sông bắt nguồn từ hệ

thống sông Vu Gia và sông Thu Bồn là các con sông chính của tỉnh. Các sông phân

bố tương đối đồng đều, dòng sông uốn khúc và nông. Mật độ phân bố trung bình

0,45km/km2, thuận lợi cho việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Tuy

30

nhiên do tính bất ổn định của dòng sông và phân bố lưu lượng không đều trong năm

gây không ít khó khăn trong mùa mưa lũ.

2.1.1.3. Đất đai

Tổng diện tích tự nhiên trên toàn thị xã 21.471 ha, trong đó diện tích đất nông

nghiệp 10.046 ha, chiếm 46,79% . Đất đai thị xã Điện Bàn khá tốt, có độ phì nhiêu

cao, nhóm đất phù sa chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép thâm canh

nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng. Bên cạnh đó,

Điện Bàn có 1253 ha diện tích nước mặt và chuyên dùng tạo điều kiện thuận lợi

tưới tiêu cho ngành trồng trọt, chăn nuôi và công tác quản lý nông nghiệp

Đánh giá chung về đặc điểm tự nhiên: Từ những đặc điểm tự nhiên trên cho

thấy Điện Bàn có rất nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp và thuận lợi trong công tác quản lý nông nghiệp. Tuy nhiên, Điện Bàn

nằm trong khu vực thời tiết, khí hậu có những biến động phức tạp như mưa bão

thường xuất hiện sớm, tình trạng thiếu nước làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất

nông nghiệp của thị xã.

2.1.2. Đặc điểm Kinh tế - xã hội

Thị xã Điện Bàn là vùng kinh tế trọng điểm phía bắc Quảng Nam. Trên địa

bàn có Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc và 10 cụm công nghiệp, làng nghề

đã đi vào hoạt động có hiệu quả, tạo động lực phát triển kinh tế. Tổng giá trị sản

xuất của Điện Bàn tăng khá nhanh, giá trị sản xuất (theo giá so sánh 2010) đạt

15.324 tỷ đồng năm 2014, tăng lên đến 23.462 tỷ đồng năm 2018. Tốc độ tăng

trưởng giá trị sản xuất bình quân thời kỳ 2014-2018 của thị xã đạt 11,46%. Ngành

nông - lâm - thủy sản có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong các ngành kinh tế và giá

trị sản xuất có xu hướng giảm, chiếm tỷ trọng 8,4% (năm 2014) và đến năm 2018

giảm còn 2,98%; ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng rất

mạnh mẽ, giá trị sản xuất của 02 ngành chiếm tỷ trọng từ 91,6% (năm 2014) tăng

đến 97,2% (năm 2018), trong đó, ngành công nghiệp - xây dựng đóng vai trò chủ

lực, đầu tàu trong phát triển kinh tế của Điện Bàn.

31

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh tế thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-2018

Năm

2015 2016 2014 2017 2018 Bình quân thời kỳ Chỉ tiêu

15.324 17.102 19.106 21.050 23.461 19.208 1. Tổng Giá trị sản xuất-Giá so sánh 2010 (tỷ đồng)

1342 1354 1406 1539 1584 1.445 - Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

- Công nghiệp-xây dựng 9.885 10.632 11.601 12.744 13.844 11.741

- Dịch vụ 4.097 5.116 6.099 6767 8033 6.022

16,4 11,6 11,7 11,55 11,45 12.5

2. Tốc độ tăng trưởng (%) Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn

Tổng thu ngân sách trên địa bàn thị xã tăng liên tục qua các năm, bình quân

tăng 17,15%/năm trong giai đoạn 2014-2018, trong đó thu phát sinh kinh tế phần

lớn tập trung thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa và thu

tiền sử dụng đất. Tổng chi ngân sách thị xã có xu hướng tăng qua các năm, năm

2014 tổng chi 1.478,86 tỷ đồng, năm 2018 lên đến 3.166,01 tỷ đồng.

Bảng 2.2. Thu – chi trong cân đối ngân sách thị xã Điện Bàn

ĐVT: Tỷ đồng

Năm 2014 2015 2016 2017 2018 Chỉ tiêu

1.Tổng thu ngân sách 1.386,72 1.729,01 1.960,99 2.526,70 4.561,96

644,95 767,69 928,85 1.401,65 2.539,54 - Thu cân đối ngân sách nhà nước

- Thuế do hải quan thu 121,93 110,21 196,62 145,10 179,46

16,97 5,25 11,87 48,33 39,98 - Thu kết dư ngân sách năm trước

- Thu chuyển nguồn 110,31 56,27 156,34 273,81 349,26

26,13 21,31 24,59 15,73 79,35

- Các khoản thu để lại đơn vị chi quản lý qua ngân sách nhà nước

466,44 768,28 642,72 642,06 1445,78 - Thu khác nguồn ngân

32

Năm 2014 2015 2016 2017 2018

Chỉ tiêu sách

2.Tổng chi ngân sách 1.478,65 2.115,87 1.985,55 2.066,38 3.166,01

- Chi đầu tư phát triển 230,03 310,08 426,66 461,67 317,22

+ Chi xây dựng cơ bản 230,03 310,08 426,66 461,67 317,22

- Chi thường xuyên 754,58 881,17 875,15 933,58 817,20

494,05 924,62 683,75 671,14 2.031,60

- Chi khác Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn

Đánh giá chung về đặc điểm kinh tế: Trên cơ sở phát huy các tiềm năng lợi thế

của thị xã và tăng cường thu hút các nguồn lực bên ngoài, nền kinh tế thị xã Điện

Bàn phát triển tương đối nhanh và toàn diện trong những năm qua. Giai đoạn 2014 -

2018, cơ cấu kinh tế chung của thị xã đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực,

tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Với sự

tăng trưởng về ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ đã tạo ra thách thức đối với

ngành nông nghiệp và công tác quản lý, yêu cầu phải có sự thay đổi kịp thời để ứng

phó với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như đáp ứng sự phát triển nhanh chóng

của các vùng đô thị, mặt khác, điều này lại chính là động lực để yêu cầu phát triển

ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, theo chiều sâu, tăng về giá trị sản phẩm

nông nghiệp để đáp ứng sự phát triển chung của kinh tế - xã hội của thị xã.

Năm 2018, dân số trung bình toàn thị xã là 211.749 người, trong đó dân số

thành thị chiếm khoảng 38,50%, dân số nông thôn 61,40%. Về cơ cấu dân số, tỉ lệ

nam chiếm khoảng 47,96%, tỉ lệ nữ chiếm 52,04%, từ 18 - 45 tuổi chiếm 55,37%

dân số. Mật độ dân số trung bình 976 người/km2, là đơn vị đánh giá có mật độ dân

số cao trong tỉnh Quảng Nam. Trong năm 2018, lao động được việc làm trong năm

2018 là 5.850 lao động. So với năm 2014, dân số trung bình tăng 2,5%, tổng số lao

động tăng 7,5%, lao động được việc làm tăng 65%. Như vậy, các chỉ tiêu về dân số,

lao động của thị xã đều có xu hướng tăng qua các năm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2014 là

3,50%, đến năm 2018 giảm còn 1,62%. Thu nhập bình quân đầu người 32

tr.đồng/người năm 2014, đến năm 2018 tăng lên đạt 46,35 tr.đồng/người.

33

2.2. Tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm (2014-2018)

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn

với thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, UBND

thị xã Điện Bàn chỉ đạo các ban ngành và địa phương tiếp tục thực hiện các chương

trình trọng tâm trong nông nghiệp nông thôn. Qua đó, có thể nhận thấy tình hình

phát triển nông nghiệp thị xã trong 05 năm (2014-2018) cụ thể như sau:

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp: Tốc độ tăng trưởng giữ ổn định, bình quân

ngành nông nghiệp trong 5 năm 2014 - 2018 là 3,10% (giá so sánh 2010), đạt so với

chỉ tiêu điều chỉnh của Đảng bộ thị xã. Thị xã Điện Bàn đã triển khai các chương

trình trong nông nghiệp như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng; chỉnh trang đồng ruộng,

đồn điền, đổi thửa, qui hoạch cụm chăn nuôi;… đạt kết quả quan trọng; việc cơ giới

hóa và ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp được

tập trung thực hiện; chương trình thủy lợi hóa đất màu, giao thông nội đồng, kiên cố

hóa kênh mương, xây đập thời vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chủ động nước tưới,…, tạo

ra bước phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp.

Chuyển dịch cơ cấu: Nông nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng

tích cực, giảm tỷ trọng trồng trọt từ 62,67% năm 2014 xuống còn 47,73% năm

2018; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi năm 2014 là 33,37%, năm 2018 tăng 39,80%;

Ngành dịch vụ chưa được chú trọng, tỷ trọng ngành ít có sự biến động, năm 2014

chiếm 3,96%, đến năm 2018 giảm còn 3,87%. Số liệu cụ thể được nêu ở Bảng 2.3.

Bảng 2.3. Tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp

thị xã Điện Bàn giai đoạn 2014-2018

Năm

2015 2016 2017 2018 Bình quân thời kỳ 2014 Chỉ tiêu

1.204,68 1.229,04 1.277,14 1538,15 1584,46 1366.69

1. Giá trị sản xuất- Giá so sánh 2010 (tỷ đồng)

- Trồng trọt 754,95 691,88 683,11 735,59 756,31 724.37

34

Năm

2015 2016 2017 2018 Bình quân thời kỳ 2014 Chỉ tiêu

- Chăn nuôi 402,00 479,68 536,08 601,34 630,735 529.97

- Dịch vụ 47,73 57,46 57,95 63,62 61,357 57.62

3,20 2,02 3,92 3,4 2,98 3.10 2. Tốc độ phát triển (%)

Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn

Về trồng trọt: Giai đoạn 2014-2018, giá trị sản xuất trên ha đất canh tác đạt

bình quân 34 triệu đồng/năm. Tổng diện tích gieo trồng năm 2018 so với 2014 giảm

761 ha, trong đó, cả diện tích cây lương thực và cây thực phẩm, cây công nghiệp

ngắn ngày đều có xu hướng giảm, số liệu được nêu cụ thể tại Bảng 2.6. Tiếp tục đẩy

mạnh thực hiện Đề án phát triển giao thông nội đồng, kiên cố hóa kênh mương loại

III, thủy lợi hóa đất màu, áp dụng giống lúa mới, nhiều mô hình thâm canh tổng hợp

đã cho năng suất cao, như mô hình lúa giống, ngô giống ở các xã Điện Phước, Điện

Thọ, Điện Hồng,… có giá trị thu nhập bình quân 50-75 triệu đồng/ha/năm; mô hình

cây thực phẩm, hoa cảnh có giá trị thu nhập bình 350 triệu đồng/ha/năm, chủ yếu

tập trung ở các xã Điện Minh, Vĩnh Điện, phường Điện Nam Trung, Điện Nam

Bắc; mô hình xen canh gối vụ khác trên đất màu cho giá trị thu nhập bình quân 100-

200 triệu đồng/ha/năm ở vùng ven sông Thu Bồn, vùng Gò Nổi. Sản lượng lương

thực tương đối ổn định qua các năm, đạt bình quân trên 79.097 tấn/năm trên diện

tích gần 14.000 ha, vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ

XXI đề ra 76.000 tấn. Trong đó, ngoài các sản phẩm truyền thống đóng góp giá trị

sản xuất cao nhất toàn ngành là cây lúa, cây ngô, còn có các sản phẩm nông nghiệp

chính khác là cây lạc, đậu xanh, ớt, mè, cây công nghiệp hằng năm, cây trồng lâu

năm và cây ăn quả,…

35

Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2014-2018

Giai đoạn 2014-2018 Chỉ tiêu chủ yếu Bình quân 2014 2015 2016 2017 2018

- Tổng diện tích (ha) 21.374 21.055 20.836 20.671 20.613 20.910

+ Cây LT có hạt 13.734 13.696 13.541 13.568 13.307 13.569

+ Cây thực phẩm 5.998 5.741 5.622 5.555 5.781 5.739

+ Cây CN ngắn ngày 1.642 1.618 1.673 1.548 1.525 1.601

81.824 78.788 78.492 79.155 77.227 79.097 - Sản lượng lương thực cây có hạt (tấn)

Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn

Về chăn nuôi: Giá trị sản xuất tăng bình quân 9,52% và chiếm tỷ trọng 39,80%

trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2014-2018. Mô hình chăn

nuôi tập trung với quy mô trang trại, gia trại ngày càng phát triển, góp phần nâng

cao hiệu quả trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, công tác quản lý dịch bệnh và các biện

pháp phòng ngừa được triển khai thực hiện tốt, hằng năm tỷ lệ tiêm phòng vắc xin

lở mồm long móng, tụ huyết trùng, tam liên đạt 78% giúp kiểm soát được dịch

bệnh, nhờ vậy không có dịch bệnh nguy hiểm phát sinh gây hại nên tình hình chăn

nuôi trên địa bàn thị xã vẫn giữ được sự ổn định, đồng thời nâng cao chất lượng và

hiệu quả. Số liệu được nêu tại Bảng 2.5.

Bảng 2.5. Một số chỉ tiêu trên lĩnh vực chăn nuôi giai đoạn 2014-2018

Giai đoạn 2014-2018 Bình quân Nội dung ĐVT

2014 2015 2016 2017 2018

1. Đàn trâu Con 943 948 860 844 710 861

2. Đàn bò 1.000 Con 18 18 22 22.174 22.162 20.5

3. Đàn lợn 1.000 Con 76 75 78 70 75 74.8

4. Đàn gia cầm 1.000 Con 1.013 1.006 1.325 1.322 1.460 1.225

9.782 8.520 10.378 9.013 8.102 tấn 8.282

5. SL thịt hơi Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn

36

2.3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn

2.3.1. Căn cứ pháp lý quy định nội dung hoạt động kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn

2.3.1.1. Đối với hợp tác xã

- Căn cứ Luật Hợp tác xã năm 2012;

- Căn cứ Nghị định số: 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi tiết

một số điều của Luật Hợp tác xã;

- Căn cứ Thông tư số: 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/05/2014 quy định hướng

dẫn về thành lập hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã.

+ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do

ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt

động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành

viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp

tác xã".

- Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp

tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp hợp tác xã.

- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành

viên.

- Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang

nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động

của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính

xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội

dung khác theo quy định của điều lệ.

- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của

mình trước pháp luật.

- Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách

nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu

nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử

dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức

lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.

37

- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho

thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã,

liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã, liên hiệp hợp

tác xã.

- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng

thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào

hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.

2.3.1.2. Đối với tổ hợp tác

- Bộ Luật dân sự năm 2005

- Nghị định 151/2007/NĐ – CP ngày 10 tháng 10 năm 2007 của Chính Phủ về

tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác

+ Tổ hợp tác được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau: Tự nguyện, bình

đẳng, dân chủ và cùng có lợi; Biểu quyết theo đa số; Tự chủ tài chính, tự trang trải

các chi phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của tổ và các tổ viên.

+ Tổ hợp tác có quyền chọn tên và biểu tượng của mình phù hợp với quy định

của pháp luật và không trùng lắp với tên, biểu tượng của tổ hợp tác khác trong phạm

vi xã, phường, thị trấn.

+ Hợp đồng hợp tác là thỏa thuận bằng văn bản giữa các tổ viên, có tên gọi là

hợp đồng hợp tác được ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực.

+ Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tự nguyện

tham gia và tán thành các nội dung của hợp đồng hợp tác đều có thể trở thành tổ

viên tổ hợp tác.

+ Tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ

dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh tổ hợp tác.

+ Tổ hợp tác chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của tổ; nếu tài sản

không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên

đới tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình.

+ Thực hiện các trách nhiệm đối với người lao động do tổ hợp tác thuê theo

quy định của pháp luật về lao động.

+ Giao dịch dân sự do người đại diện của tổ hợp tác xác lập, thực hiện vì mục

38

đích hoạt động của tổ hợp tác theo quyết định của đa số tổ viên làm phát sinh

quyền, nghĩa vụ của tổ hợp tác.

+ Các giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện của tổ hợp tác xác

lập thì hậu quả của giao dịch này thực hiện theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Dân

sự.

+ Tài sản của tổ hợp tác hình thành từ các nguồn: Tài sản đóng góp của tổ viên

tổ hợp tác; Phần được trích từ hoa lợi, lợi tức sau thuế để tăng vốn; Các tài sản

cùng tạo lập và được tặng, cho chung; Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

+ Việc quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác được thực hiện theo phương

thức thoả thuận. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được

toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.

+ Công tác tài chính của tổ hợp tác phải bảo đảm tính công khai, minh bạch để

tổ viên biết, theo dõi và kiểm tra; hình thức và nội dung báo cáo tài chính do các tổ

viên bàn bạc, quyết định.

2.3.2. Thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã

Điện Bàn thời gian qua:

2.3.2.1. Quá trình phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn

- Giai đoạn trước năm 1981: Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là đơn vị tổ

chức quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Hợp tác trong nông nghiệp là đơn vị

kinh tế cơ sở và cơ bản ở nông thôn, kinh tế hộ tự chủ không tồn tại, mà chỉ có kinh

tế phụ gia đình gắn với sử dụng đất 5% cho chăn nuôi. Mô hình hợp tác trực tiếp

quản lý ruộng đất, tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm với bộ máy quản lý rất lớn.

Bên cạnh hợp tác trong nông nghiệp thường có các hợp tác tiểu thủ công nghiệp,

hợp tác mua bán, hợp tác tín dụng. Các hợp tác này tồn tại độc lập với nhau trong

cơ chế quản lý hành chính chỉ huy, tập trung bao cấp của Nhà nước. Thời kỳ này

các mô hình hợp tác nhận được sự bao cấp của Nhà nước, các hợp tác không chỉ là

tổ chức kinh tế mà đảm nhận nhiều chức năng xã hội, chính trị, thậm chí cả của

chính quyền cơ sở.

- Giai đoạn khoảng 1981-1997: Với sự phát triển ngành nghề đa dạng trong

nông thôn gắn với thực hiện cơ chế khoán trong nông nghiệp, nhiều hợp tác không

39

còn tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp thuần túy, mà mở rộng, phát triển sản

xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, vận tải, kinh doanh thương mại, dịch vụ, tín

dụng. Bộ máy quản lý của hợp tác vẫn khá nặng nề và vẫn dựa vào sự bao cấp của

Nhà nước. Từ sau Nghị quyết TW6 khóa VI năm 1989 phát triển nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương phát triển kinh tế hộ tự chủ, hộ là đơn vụ

kinh tế cơ sở. Các hợp tác nông nghiệp kiểu cũ tồn tại dựa trên ba cơ sở kinh tế

quan trọng là: quản lý sử dụng ruộng đất; tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh; phân

phối sản phẩm... Khi thực hiện kinh tế hộ tự chủ, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu

dài cho nông dân, người nông dân nộp thuế cho Nhà nước, tự quyết định việc sản

xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế của các hợp tác kiểu cũ

không còn, do đó các hợp tác gặp nhiều khó khăn, trì trệ, các hợp tác mua bán và tín

dụng tự tiêu vong.

Từ sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng, kinh tế hợp tác có những biến đổi rõ rệt từ

hình thức hợp tác, nội dung đến phương thức hoạt động. Kết quả hoạt động của các

hợp tác trong nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển sản xuất

nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh

tế hộ phát triển và sự nghiệp phát triển nông thôn mới của thị xã. Tuy nhiên, cùng

với những biến đổi đó là sự giảm sút đáng kể về số lượng và sự thay đổi căn bản

trong các quan hệ về nhận địa vị tự chủ về kinh tế của hộ nông dân và việc tạo điều

kiện cho hộ nông dân từng bước trở thành đơn vị kinh tế tự chủ; hợp tác trong nông

nghiệp chuyển từ chức năng tổ chức sản xuất nông nghiệp sang chức năng cung ứng

dịch vụ cho các hộ nông dân, hoạt động theo cơ chế thị trường gặp nhiều khó khăn.

Từ những điều kiện trên, ngay từ khi thành lập các hợp tác trong nông nghiệp

đã gặp khó khăn, thêm vào đó công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý điều hành còn

nhiều bất cập và sự buông lỏng, thả nổi của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương

làm cho các hợp tác ngày càng khó khăn gay gắt; dẫn đến nông dân mất lòng tin vào

sự quản lý điều hành sản xuất. Xã viên yêu cầu phải giải quyết căn bản những tồn

đọng của các hợp tác để giúp cho họ hình thành các tổ chức hợp tác tương trợ đa

40

dạng, bền vững hơn trong sản xuất.

Tuy nhiên, Đảng và chính quyền địa phương đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,

tập hợp và đoàn kết được đông đảo cán bộ, xã viên quyết tâm xây dựng các mô hình

hợp tác trong nông nghiệp. Công tác quản lý kinh tế, tài chính được thực hiện một

cách công khai, rõ ràng với xã viên, hoạt động của các hợp tác hằng năm đều có

hiệu quả, đem lại niềm tin cho xã viên. Quá trình hoạt động bảo toàn được vốn, sử

dụng và khai thác có hiệu quả các tài sản, duy trì và ổn định chất lượng dịch vụ cho

hộ xã viên. Một số hợp tác tích luỹ được vốn, dần dần mở rộng được ngành nghề

đáp ứng trong việc khai thác mọi tiềm năng của địa phương và giải quyết việc làm

cho người lao động. Người nông dân được hưởng lợi ích từ kinh tế hợp tác thông

qua hiệu quả dịch vụ các khâu trong sản xuất, các phúc lợi xã hội và giải quyết được

việc làm cho người lao động. Điều đó tạo điều kiện cho nông dân gắn bó và tích cực

tham gia vào các hoạt động của các hợp tác, làm cho các hợp tác trong nông nghiệp

ổn định, phát triển, góp phần rất lớn vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới.

- Giai đoạn từ năm 1997-2001: Để định hướng đổi mới kinh tế hợp tác và hợp

tác xã, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII đã có chỉ thị số 68/CT-TƯ ngày

25.4.1996, thị xã Điện Bàn cũ đã tập trung xử lý các hợp tác khó khăn và yếu kém

và chuyển đổi mô hình hợp tác kiểu cũ sang mô hình mới.

+ Đối với các địa phương đã giải thể hợp tác yếu kém:

Các địa phương sau khi giải thể các hợp tác khó khăn, yếu kém, nhìn chung

tình hình sản xuất, đời sống nhân dân, tình hình kinh tê – xã hội vẫn ổn định. Các

địa phương này đã giải quyết cơ bản những tồn tại như: bàn giao UBND xã các tài

sản phục vụ sản xuất chung (trạm hạ thế điện, công trình thuỷ lợi… toàn bộ hồ sơ

về công nợ để tiếp tục theo dõi, quản lý. Đồng thời UBND các xã củng cố ban

Nông-Lâm hoặc Ban kinh tế xã để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất và thực hiện các

chương trình khuyến nông, khuyến lâm…Một số nơi xây dựng các tổ hợp tác

chuyên khâu, chuyên nghề, tổ dịch vụ điện, thuỷ nông để quản lý, sử dụng. Nơi có

đủ điều kiện thì thành lập mới các hợp tác. Bên cạnh đó cũng có địa phương chưa

kiện toàn bộ phận chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở xã; từ đó việc tiếp nhận thông tin

về sản xuất, triển khai việc chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất gặp khó khăn làm ảnh

41

hưởng đến sản xuất và đời sống của nông dân.

+ Các hợp tác xã có điều kiện chuyển đổi:

Đến tháng 1/2001 toàn thị xã có 18 hợp tác trong nông nghiệp. Tuỳ thuộc vào

khả năng về vốn liếng, năng lực quản lý điều hành của cán bộ, tài sản phục vụ sản

xuất và yêu cầu dịch vụ của hộ, các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã hoạt

động theo 2 loại hình sau: hợp tác dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp: và

hợp tác dịch vụ một số khâu cơ bản cho sản xuất nông nghiệp.

+ Đối với các hợp tác chuyển đổi khá đạt được kết quả sau:

Các hợp tác tích cực cải tiến công tác quản lý, như áp dụng chế độ khoán, gắn

trách nhiệm cho từng bộ phận, gắn thù lao với kết quả từng khâu công việc, thực

hiện giao khoán vốn, một số hợp tác thực hiện tranh cử chủ nhiệm… Tập trung xây

dựng, tu bổ cơ sở vật chất phục vụ sản xuất để tạo điều kiện cho sự phát triển hợp

tác như xây dựng mới và nâng cấp các công trình điện trạm bơm, kiên cố hoá kênh

mương, phát triển ngành nghề…

Các hợp tác đổi mới phương thức hoạt động tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hộ

phát triển. Có thể nói, hộ tự chủ trong sản xuất là nhân tố làm sống động tình hình

phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn trong những năm đổi mới, qua thực tế, những

hợp tác khi chuyển sang cơ chế mới mà không thay đổi phương thức hoạt động để

phục vụ kinh tế hộ phát triển thì sớm muộn cũng tan rã hoặc chỉ tồn tại trên danh

nghĩa.

Một số hợp tác mở rộng được hình thức liên doanh, liên kết với các thành

phần kinh tế, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng lực vốn, giải

quyết việc làm, tiêu thụ sản phẩm… Các hợp tác khá đã biết dựa vào sự giúp đỡ của

Nhà nước về tài chính và biết huy động bổ sung vốn thông qua tích luỹ, liên doanh,

liên kết, từ đó đầu tư những lĩnh vực như công trình điện, thuỷ lợi, mở mang ngành

nghề, công nghiệp nông thôn… làm điểm tựa để mở rộng dần nội dung hoạt động

của hợp tác trong nông nghiệp.

2.3.2.2. Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tại Điện Bàn giai đoạn

2014-2018

Thứ nhất, thành lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo

42

Để thực hiện tốt các nội dung, mục tiêu của Kế hoạch số 956/QĐ- UBND,

ngày 10 tháng 6 năm 2015 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc phê duyệt đề án:

“Tiếp tục củng cố, phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015-

2020” đề ra, UBND thị xã Điện Bàn đã chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo phát triển

kinh tế tập thể tại Quyết định số 2413/QĐ-UBND ngày 11 tháng 8 năm 2015 của

UBND thị xã Điện Bàn; Ban Chỉ đạo gồm 01 đồng chí phó chủ tịch thị xã phụ

trách nông nghiệp làm Trưởng ban, đồng chí Trưởng phòng kinh tế làm Phó ban

thường trực cùng lãnh đạo các phòng, cơ quan trong thị xã. Phòng kinh tế là cơ

quan thường trực Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo

+ Giúp chủ tịch UBND thị xã tiếp tục triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã

năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã theo các

văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh Quảng Nam;

+ Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai Luật

Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn

thị xã ;

+ Theo dõi, tổng hợp, báo cáo tình hình triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012

và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã ;

+ Chuẩn bị nội dung, chương trình cho các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của

Ban Chỉ đạo thị xã và các báo cáo theo yêu cầu;

+ Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về các chính sách phát triển

kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã ;

+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND thị xã giao.

- Hoạt động của Ban Chỉ đạo

Hàng năm, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn phối hợp

với Liên minh Hợp tác xã tỉnh Quảng Nam và Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh

Quảng Nam tổ chức triển khai tuyên truyền Luật Hợp tác xã và các văn bản thi

hành luật đến các cơ quan chuyên môn, UBND các xã, thị trấn và toàn thể nhân

dân. Kết thúc mỗi năm, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn tiến

43

hành rà soát, đánh giá kết quả thực hiện “Kế hoạch củng cố và phát triển kinh tế

tập thể” trên địa bàn thị xã Điện Bàn. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để thực

hiện tốt hơn trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh đó, hoạt động của Ban

Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn vẫn còn một số hạn chế như

thành viên trong Ban Chỉ đạo còn có nhiều sự thay đổi qua các năm; Ban Chỉ

đạo chưa mạnh dạn giải thể đối với những hợp tác nhiều năm liền không hoạt động

sản xuất - kinh doanh, không tổ chức đại hội xã viên thường kỳ; Sự phối hợp với

các cơ quan, ban, ngành liên quan giúp hợp tác xã kiện toàn bộ máy ban quản lý

và ban kiểm soát, xây dựng điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh để tiếp tục

hoạt động còn chưa đạt hiệu quả cao.

Thứ hai, thực hiện tuyên truyền, triển khai chính sách phát triển kinh tế hợp tác

Hằng năm UBND thị xã đã phối hợp lồng ghép các nguồn vốn tổ chức tuyên

truyền, phổ biến, giới thiệu tới các hợp tác, các đơn vị có liên quan và nhân dân

về Luật Hợp tác xã năm 2012 và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, cụ thể:

- Năm 2016: thị xã phối hợp tổ chức được 06 lớp tập huấn, tuyên truyền

về mô hình và tổ chức hoạt động của hợp tác và các chính sách phát triển kinh tế

hợp tác với 480 lượt người tham gia, tổng kinh phí 41,16 triệu đồng.

- Năm 2017: thị xã phối hợp tổ chức được 07 lớp tập huấn tuyên truyền về

các chính sách phát triển kinh tế hợp tác với 720 lượt người tham gia, 03 lớp tập

huấn kỹ thuật cho thành viên của hợp tác với 120 lượt xã viên tham gia, tổng kinh

phí thực hiện là 73,02 triệu đồng.

- Năm 2018: thị xã phối hợp tổ chức được 03 đợt tham quan học tập kinh

nghiệm về sản xuất rau màu thực phẩm công nghệ cao ở Thành phố Đà Lạt và

Thành phố Đà Nẵng và các chính sách phát triển kinh tế hợp tác cho 350 lượt

người tham gia, tổng kinh phí thực hiện là 79 triệu đồng.

Thông qua các lớp tập huấn, UBND thị xã Điện Bàn đã tổ chức triển khai

thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về "Tiếp tục đổi mới, phát triển

nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về

đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới phát triển kinh

tế hợp tác; triển khai Chỉ thị số 23/CT-TU ngày 25/7/2014 của Ban thường vụ Tỉnh

44

ủy Quảng Nam về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa IX)

tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Thông báo số

164/TB-TU ngày 09/5/2014 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam về việc

thông qua một số chương trình, đề án phát triển kinh tế tập thể; Chỉ thị 35-

CT/TU ngày 27/5/2014 về đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5

khóa IX về Tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam; Hội nghị tổng kết 10 năm triển khai Nghị quyết Trung

ương 5 khóa IX về "Tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể"

và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết

Trung ương 5 khóa IX về đổi mới phát triển kinh tế hợp tác; UBND thị xã Điện

Bàn đã nghiêm túc triển khai thực hiện văn bản số 712/UBND-KTN ngày

04/4/2014 về việc triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã, văn bản số 265/UBND ngày

26/4/2015 về việc tăng cường công tác bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản; tổ chức

thực hiện việc đẩy mạnh phát triển hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã trong lĩnh vực

nông nghiệp; triển khai văn bản số 100/SNN-KHTC ngày 1 2/03/2015 của Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam về việc chuyển đổi mô hình

hợp tác xã nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã năm 2012.

Bên cạnh các lớp tập huấn, trong giai đoạn 2016 - 2018, thị xã Điện Bàn đã

thực hiện 06 phóng sự tuyên truyền các chủ trương, chính sách về phát triển

kinh tế hợp tác và giới thiệu các mô hình hợp tác nông nghiệp tiêu biểu trên đài

phát thanh truyền hình thị xã Điện Bàn. Ngoài ra, Phòng kinh tế đã phối hợp với

Hội Nông dân, Hội Phụ nữ thị xã tổ chức các lớp tuyên truyền, học tập quán

triệt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế hợp tác

đến từng địa phương trong thị xã, góp phần thúc đẩy thành lập mới các hợp tác xã

nông nghiệp.

Qua tuyên truyền, vận động người dân về kinh tế tập thể, một bộ phận người

dân đã nhận thức được sự cần thiết và hiệu quả của kinh tế tập thể với mục tiêu

giúp đỡ, tương trợ nhau trong sản xuất, khắc phục được một số yếu kém của kinh

tế hộ như thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất, tăng sức cạnh

tranh trên thị trường. Tuy nhiên, nhận thức về đổi mới và phát triển kinh tế hợp

45

tác - hợp tác xã theo luật còn hạn chế. Nhận thức về hợp tác xã của các cấp, các

ngành, của người dân còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Hình ảnh mô hình hợp

tác xã kiểu cũ vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người khiến họ còn

do dự, đắn đo khi tham gia vào mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới.

Thứ ba, hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước

Bảng 2.6: Hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước cho hợp tác xã nông nghiệp

Số hợp Tỷ lệ Nội dung tác xã (%)

1. HTX nhận được tiền hỗ trợ thành lập mới HTX 100 20

2. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách cán bộ và đào tạo 17 85 nguồn nhân lực

3. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách tín dụng 14 70

4. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách về KHCN và mở rộng 3 15 thị trường

5. HTX nhận được hỗ trợ từ chính sách hỗ trợ thuế 15 75

6. HTX được tham gia thăm quan, học tập các HTX hoạt 4 20 động có hiệu quả

Nguồn: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp

của thị xã năm 2016 – 2018

- Chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác nông nghiệp: Theo quy định hiện

nay, mỗi hợp tác thành lập mới sẽ được nhà nước hỗ trợ 4 triệu đồng. Số tiền tuy

không lớn nhưng thể hiện sự quan tâm, động viên của nhà nước đối với sự phát triển

của các hợp tác xã.

- Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực: Trong giai đoạn 2016-

2018, UBND thị xã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan đã tổ chức 06 lớp

tập huấn kỹ thuật cho các thành viên hợp tác. Ngoài ra, cán bộ quản lý hợp tác đều

được Chi cục phát triển nông thôn mời đi tham dự các lớp tập huấn quản lý do tỉnh

Quảng Nam tổ chức.

- Chính sách tín dụng: Trong thời gian qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn thị xã đã tạo điều kiện cho các hợp tác nông nghiệp vay vốn khi

46

các hợp tác đáp ứng đủ các điều kiện.

- Chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, tiếp thị và mở rộng thị trường:

Trong 20 hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn có 03 hợp tác được hỗ trợ về

khoa học công nghệ, tiếp thị và mở rộng thị trường, đó là hợp tác trồng dâu tằm của

xã Điện Quang, hợp tác trồng nấm của phường Điện Nam Bắc và hợp tác sản xuất

lúa giống xã Điện Phước, được hỗ trợ về quảng bá thương hiệu, bao bì, nhãn mác

sản phẩm. Ngoài ra, hợp tác xã trồng nấm phường Điện Nam Bắc còn được hỗ trợ

về quy trình sản xuất và cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP.

- Chính sách hỗ trợ thuế: Chi cục thuế thị xã Điện Bàn đã áp dụng chính sách

ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các hoạt động dịch vụ

phục vụ sản xuất kinh doanh của xã viên theo quy định của pháp luật về thuế, đối

với hợp tác xã nông nghiệp ngoài hưởng ưu đãi theo quy định như trên còn

được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập tạo ra từ hoạt động

dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên.

- Hợp tác xã được tham gia thăm quan, học tập các hợp tác hoạt động có

hiệu quả trong và ngoài địa bàn thị xã: Trong giai đoạn 2016-2018, do nguồn kinh

phí hạn hẹp cùng với việc thị xã phải dành nhiều kinh phí cho xây dựng các

công trình thủy lợi và khắc phục thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra nên thị xã

tổ chức được ít đợt thăm quan, học tập các hợp tác nông nghiệp hoạt động có hiệu

quả cả trên địa bàn thị xã và ngoài địa bàn thị xã. Thời gian tới, thị xã cần chủ

động xây dựng kế hoạch trước, đặc biệt là kinh phí để các hợp tác xã nông nghiệp

nói riêng và các đối tượng khác như hợp tác xã phi nông nghiệp, tổ hợp tác

được có cơ hội trải nghiệm, học tập cách làm ăn hay từ các hợp tác khác hoạt

động hiệu quả hơn.

- Thông tin thị trường của các hợp tác nông nghiệp

Thị trường ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các hợp tác nông nghiệp

bởi sản phẩm của các hợp tác nông nghiệp thường bán với số lượng lớn, trong khi

giá cả trên thị trường liên tục thay đổi làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh

doanh của các hợp tác nông nghiệp. Các hợp tác trong nông nghiệp cần thường

xuyên cập nhật thông tin về giá bán sản phẩm trên thị trường để nắm bắt được

47

những thay đổi của thị trường, từ đó có những thay đổi về kế hoạch sản xuất kinh

doanh phù hợp với xu thế, diễn biến của thị trường. Đây là thói quen cần phải

thay đổi bởi nếu như chỉ cập nhật thông tin về giá bán sản phẩm trên thị trường

trước khi bán sản phẩm không những hợp tác nông nghiệp sẽ không kịp điều

chỉnh, thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh mà thậm chí còn bị tư thương ép giá.

- Về kênh cập nhật thông tin giá bán sản phẩm trên thị trường: hiện nay,

với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin

thì hợp tác xã nông nghiệp có rất nhiều kênh để cập nhật thông tin giá bán sản

phẩm trên thị trường. Các kênh cập nhật thông tin có thể là qua các phương tiện

thông tin đại chúng (báo, đài, tivi), qua máy tính hoặc điện thoại có kết nối

mạng internet. Bên cạnh đó, có một số kênh tham khảo khác như hỏi tư thương,

các đối tác làm ăn hoặc các hợp tác nông nghiệp khác có cùng lĩnh vực sản xuất

kinh doanh.

- Về ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, nhà máy để tiêu thụ sản phẩm

cho hợp tác xã: việc bán sản phẩm thường xuyên với số lượng lớn nên nếu hợp tác

xã ký kết được hợp đồng với các doanh nghiệp, nhà máy để tiêu thụ sản phẩm cho

hợp tác xã sẽ giúp hợp tác nông nghiệp vừa không lo đầu ra cho sản phẩm, vừa

hạn chế được rủi ro và tình trạng ép giá của tư thương.

- Về liên kết với các tổ hợp tác, hợp tác xã khác trong việc cung ứng nguyên

liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra cho hợp tác xã

Việc liên kết này sẽ giúp các hợp tác ổn định được đầu vào và đầu ra cho quá

trình sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng thừa hoặc thiếu nguyên liệu đầu vào

cũng như sản phẩm đầu ra cung ứng cho thị trường.

2.3.3. Tình hình hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2.3.3.1. Số lượng hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn

Điện Bàn là vùng đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Với vị

trí gần đầu mối giao thông và các đô thị lớn là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn. Có địa hình tương đối bằng

phẳng, độ chênh cao thấp, mức độ chia cắt trung bình, đặc trưng cho địa hình có

48

nguồn gốc phát sinh từ sản phẩm phù sa sông biển, vì vậy, thuận lợi cho việc sản

xuất nông nghiệp và công tác phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa

bàn thị xã. Kết quả tổng hợp về số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện

Bàn trong giai đoạn 2016-2018 được thể hiện ở bảng 2.7 dưới đây:

Bảng 2.7: Số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn

thị xã Điện Bàn giai đoạn 2016-2018

Năm Năm Năm Chỉ tiêu 2016 2017 2018

Tổng số hợp tác 19 20 22

Số hợp tác nông nghiệp 18 18 20

Số hợp tác xã phi nông nghiệp 1 2 2

Nguồn: Phòng kinh tế thị xã Điện Bàn

Qua bảng số liệu 2.7 cho thấy, số lượng hợp tác nông nghiệp trên địa bàn

thị xã Điện Bàn trong giai đoạn 2016-2018 có xu hướng tăng lên qua các năm và

chiếm tỷ lệ cao so với số hợp tác trên địa bàn thị xã. Năm 2016, trong tổng số 19

hợp tác có trên địa bàn thì có 18 hợp tác nông nghiệp, 01 hợp tác phi nông

nghiệp. Năm 2017, trong tổng số 20 hợp tác có trên địa bàn thì có 18 hợp tác

nông nghiệp, tăng 01 hợp tác phi nông nghiệp so với năm 2016. Trong năm 2018,

trên địa bàn thị xã có thêm 02 hợp tác nông nghiệp được thành lập mới.

Theo báo cáo của phòng kinh tế thị xã Điện Bàn và theo điều tra của tác giả,

tại thời điểm tác giả điều tra trên địa bàn thị xã Điện Bàn có 20 hợp tác nông

nghiệp. Kết quả đánh giá phân loại hợp tác nông nghiệp năm 2018 theo Thông tư

số: 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Bộ Nông Nghiệp và

Phát Triển Nông Thôn về hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác trong lĩnh vực

nông nghiệp thì có: 11 hợp tác đạt loại khá giỏi, chiếm tỷ lệ 55 %; 07 hợp tác

trung bình, chiếm tỷ lệ: 35%; 02 hợp tác yếu, chiếm tỷ lệ 10%.

2.3.3.2. Lĩnh vực ngành nghề của hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã

Điện Bàn

Tác giả tiến hành điều tra 20 hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện

Bàn. Vì quy mô tổng thể nhỏ nên tác giả lựa chọn phương pháp điều tra toàn bộ tổng

49

thể. Trong tổng số 20 hợp tác nông nghiệp tác giả tiến hành điều tra có 01 hợp tác

hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực trồng dâu tằm, chiếm tỷ lệ 05%; 02

hợp tác hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực trồng nấm, chiếm tỷ lệ

1 0 %; 07 hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực cho thuê mặt bằng, chiếm tỷ lệ 35 %;

09 hợp tác hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực dịch vụ điện, chiếm tỷ lệ 45 %;

07 hợp tác liên kết sản xuất kinh doanh lúa giống, chiếm tỷ lệ 35 %; 15 hợp tác có

dịch vụ làm đất, thu hoạch, chiếm tỷ lệ 75 %; và có 20/20 xã có dịch vụ thủy nông

phục vụ tưới tiêu cho bà con nông dân chiếm tỷ lệ 100 %.

2.3.3.3. Lao động và quản lý trong các hợp tác nông nghiệp

Để tìm hiểu thực trạng phát triển các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị

xã Điện Bàn, đã tiến hành điều tra 20 hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã . Kết

quả điều tra về tình hình chung của các hợp tác nông nghiệp được thể hiện ở bảng

2.8 dưới đây:

Bảng 2.8: Đặc điểm chung của các hợp tác nông nghiệp

Chỉ tiêu ĐVT Kết quả điều tra

Hợp tác 20 Tổng số hợp tác nông nghiệp

1. Giới tính chủ nhiệm HTX

- Nam Người 20

- Nữ Người 0

2. Tuổi bình quân chủ nhiệm Tuổi 42,8

3. Trình độ học vấn của chủ nhiệm Lớp 8,3

4. Lĩnh vực sx kinh doanh của hợp tác

- Dịch vụ thủy nông HTX 20

- Liên kết sản xuất lúa giống HTX 07

- Sản xuất Nấm HTX 02

- Dâu tằm HTX 01

- Làm đất, thu hoạch HTX 15

- Dịch vụ Điện HTX 09

- Dịch vụ cho thuê mặt bằng HTX 07

HTX 02

- Dịch vụ xăng dầu Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn

50

Qua bảng số liệu 2.8 cho thấy thông tin chung về các hợp tác nông nghiệp trên

địa bàn thị xã Điện Bàn như sau:

- Về giới tính của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: trong 20 hợp tác nông

nghiệp tác giả điều tra, có 20/20 chủ nhiệm hợp tác là nam giới, chiếm 100 %;

không có chủ nhiệm hợp tác là nữ.

- Về độ tuổi bình quân của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: độ tuổi bình quân

của các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp là 42,8 tuổi. Nhìn chung đây là độ tuổi mà

các chủ nhiệm hợp tác đã có kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như kinh nghiệm

về sản xuất, kinh doanh.

- Về trình độ học vấn của chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp: bên cạnh yếu tố độ

tuổi, trình độ học vấn của chủ nhiệm hợp tác cũng ảnh hưởng đến khả năng tạo ra

thu nhập. Những chủ nhiệm hợp tác được học tập tốt hơn, nhận thức cao hơn, do

vậy họ có khả năng tiếp cận những tiến hộ khoa học mới tốt hơn cũng như khả năng

quản lý và tìm ra các phương án làm ăn tốt hơn. Theo kết quả điều tra, trình độ học

vấn của các chủ nhiệm hợp tác là 8,3. Qua phân tích cho thấy, trình độ học vấn

của chủ nhiệm hợp tác là khá thấp, đa số các chủ nhiệm có trình hộ trung học cơ

sở (cấp 2).

- Về nguồn lực lao động của các hợp tác nông nghiệp

Lao động là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không

thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động

tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải

vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai

trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Do đó, trong phát triển hợp tác nông nghiệp, số

lượng và chất lượng của lao động sẽ có vai trò quyết định.

- Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp

Cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp được coi là lực lượng “đầu tàu” có ảnh

hưởng lớn đến quá trình phát triển của hợp tác nông nghiệp. Cán bộ quản lý hợp tác

nông nghiệp bao gồm chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, phó giám đốc, trưởng

ban kiểm soát và kế toán trưởng. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, để tổ

51

chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì chỉ có kinh nghiệm không là chưa đủ.

Người cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp cần có trình độ chuyên môn sâu, nắm

bắt tốt các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhạy bén với thị

trường để xây dựng phương án hoạt động hiệu quả. Trình độ của cán bộ quản lý

hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn giai đoạn 2016-2018 được thể

hiện ở bảng 2.9 dưới đây:

Bảng 2.9: Trình độ của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp

Trình độ chuyên môn của Kết quả điều tra Tỷ lệ

cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp (người) (%)

Từ đại học trở lên 1 1,2

Cao đẳng 9 11,2

Trung cấp 25 31,2

Sơ cấp 18 22,5

Chưa qua đào tạo 37 46,2

80 Tổng 100

Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp là yếu

tố rất quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tìm ra phương án sản xuất kinh doanh và

khả năng quản lý của các hợp tác nông nghiệp. Trong tổng số 80 cán bộ quản lý

hợp tác nông nghiệp được điều tra thì có tới 37 cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp

chưa qua đào tạo (chiếm tỷ lệ 46,2 %), có 43 cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp

đã qua đào tạo (chiếm tỷ lệ 53,7 %). Trong số 33 cán bộ quản lý hợp tác đã qua

đào tạo thì có 01 người có trình độ đại học; 09 người có trình độ cao đẳng; 25

người có trình độ trung cấp và 18 người có trình độ sơ cấp.

Thực tế hiện nay, phần lớn các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp trên địa

bàn thị xã Điện Bàn đều đã lớn tuổi, làm việc chủ yếu bằng lòng nhiệt huyết,

đam mê và dựa trên kinh nghiệm thực tế là chủ yếu. Trình độ năng lực hạn chế

khiến họ gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý, điều hành hợp tác. Các cán bộ

52

quản lý hợp tác đa số đều xuất thân từ nông dân, được bà con xã viên tín nhiệm

bầu vào ban quản trị hợp tác nên làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Mặc dù

vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhưng do hầu hết cán bộ quản lý

đều đã lớn tuổi, thiếu sự năng động và khả năng tiếp cận, ứng dụng công nghệ

thông tin hạn chế nên khó đạt hiệu quả cao trong công việc. Một số hợp tác xã nông

nghiệp rất muốn tuyển dụng thêm cán bộ trẻ có trình độ, năng lực vào làm việc.

Tuy nhiên, lớp trẻ năng động, được đào tạo bài bản lại không mặn mà với công

việc tại hợp tác xã do chưa có chính sách hỗ trợ, thu hút hợp lý. Trong khi thu

nhập của cán bộ hợp tác hiện nay lại rất thấp. Theo Luật Hợp tác xã năm 2012

và các văn bản liên quan, cán bộ quản lý hợp tác trước hết phải là thành viên hợp

tác, có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực quản lý và được xã viên tín nhiệm.

Trong đó, cán bộ quản lý hợp tác xã tối thiểu phải có trình độ trung cấp chuyên

môn trở lên. Như vậy, nếu chiếu theo quy định này thì có tới 46,2 % cán bộ

quản lý các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã chưa đạt về trình độ chuyên

môn.

Qua phân tích cho thấy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý

hợp tác nông nghiệp còn thấp, đây là yếu tố gây khó khăn trong việc phát triển

hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn và là một trong những

hạn chế khiến nhiều hợp tác nông nghiệp hoạt động kém hiệu quả.

- Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác nông nghiệp

Qua kết quả điều tra cho thấy, ngoài 80 cán bộ quản lý hợp tác nông

nghiệp, tổng số lao động làm việc trong các hợp tác nông nghiệp là 392 lao

động, trung bình mỗi hợp tác tạo việc làm cho 20,6 lao động. Hợp tác

nông nghiệp có số lao động làm việc nhiều nhất là hợp tác sản xuất Dâu tằm

xã Điện Quang với 48 lao động. Hợp tác nông nghiệp có số lao động làm

việc ít nhất là hợp tác nông nghiệp Điện Minh với 7 lao động.

53

Bảng 2.10: Trình độ của các lao động làm việc trong hợp tác

ĐVT: Người

Kết quả Chỉ tiêu ĐVT điều tra

Tổng số lao động làm việc trong hợp tác 392 Người

- Số lao động chưa qua đào tạo 298 Người

Tỷ trọng 76 %

- Số lao động đã qua đào tạo 94 Người

Tỷ trọng 23,9 %

Nguồn: Điều tra thông tin các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn

Trong tổng số 392 lao động làm việc trong các hợp tác nông nghiệp thì có tới

298 lao động chưa qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 76%; có 94 lao động đã qua đào tạo,

chiếm tỷ lệ 23,9 %. Trong tổng số lao động làm việc trong các hợp tác thì nhiều lao

động chính là các xã viên của hợp tác, cùng nhau góp vốn và tiến hành sản xuất kinh

doanh. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm

tỷ lệ cao đang là những trở ngại trong phát triển hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị

xã Điện Bàn hiện nay.

2.3.3.4. Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của hợp tác

Vốn là điều kiện rất quan trọng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đối

với các hợp tác xã nông nghiệp. Để sản xuất kinh doanh, các hợp tác xã phải mua con

giống, cây giống, thức ăn chăn nuôi, phân bón, các phương tiện, máy móc, vật tư...để

phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nếu không đủ vốn thì hợp tác gặp rất nhiều khó

khăn trong sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng nguồn lực vốn của các hợp tác xã được thể

hiện ở bảng 2.11 dưới đây:

Bảng 2.11: Vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các hợp tác

Chỉ tiêu Tỷ trọng (%)

Tổng vốn sản xuất kinh doanh 100

- Vốn góp của các thành viên hợp tác 78,7

- Vốn hợp tác vay ngân hàng 21,3

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo quyết toán hợp tác xã năm 2018

54

Nguồn huy động vốn để sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp bao

gồm nguồn vốn góp của các thành viên hợp tác và nguồn vốn hợp tác vay ngân

hàng. Vì các thành viên góp vốn vào hợp tác họ rất khiêm tốn về nguồn lực tài

chính nên họ mới phải hợp tác với nhau, do đó tổng số vốn góp của các thành

viên hợp tác vào hợp tác cũng không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh

của hợp tác. Vì vậy, hầu hết các hợp tác đều phải vay vốn ngân hàng. Qua kết quả

điều tra 14 hợp tác nông nghiệp cho thấy, nguồn vốn góp của các thành viên hợp

tác nông nghiệp chiếm tỷ trọng trung bình là 78,7%; vốn hợp tác nông nghiệp vay

ngân hàng chiếm tỷ lệ trung bình 21,3%; Nguyên nhân có sự chênh lệch khá lớn

này là do mặc dù có nhu cầu vay vốn nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc do

giá trị tài sản thế chấp thấp nên hợp tác xã rất khó tiếp cận nguồn vốn vay và nếu có

được vay thì số tiền được vay cũng thấp, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất

kinh doanh của hợp tác.

Về nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, trong tổng số 20 hợp tác nông nghiệp thì

có 5/20 chủ nhiệm hợp tác trả lời hiện nay có đủ vốn sản xuất kinh doanh, chiếm

tỷ lệ 2 5 %. Có 15/20 chủ nhiệm hợp tác trả lời hiện nay thiếu vốn sản xuất kinh

doanh, chiếm tỷ lệ 75 %. Trong 15 chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp còn thiếu vốn

kinh doanh khi được hỏi có nhu cầu vay vốn ngân hàng không thì chủ nhiệm hợp

tác trả lời không vì ngại thủ tục ngân hàng, đặc biệt là về tài sản thế chấp để có thể

vay được vốn.

2.3.3.5. Quy mô sản xuất của các hợp tác

Bên cạnh việc gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, các hợp tác ở thị xã Điện Bàn

đổi mới trong điều hành sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông

sản. Tuy nhiên, ngoài một số Hợp tác hoạt động hiệu quả, phục vụ nhu cầu kinh tế,

đời sống người dân, nhìn chung, quy mô sản xuất của các hợp tác hầu hết còn nhỏ

lẻ, manh mún, yếu về năng lực tài chính, trình độ cán bộ quản lý còn nhiều hạn

chế…

55

Bảng 2.12: Quy mô sản xuất kinh doanh của các hợp tác nông nghiệp trên địa

Bao gồm

Bao gồm

Hợp tác NN

Tổng lợi nhuận sau thuế

Ghi chú

Doanh thu và thu nhập

Thu nhập khác

Lợi nhuận sau thuế của HĐSXKD

Doanh thu HĐSXKD và doanh thu hoạt động tài chính

Lợi nhuận khác sau thuế

33.166.21

1.791.58

31.374.63

608.42

16.10

592.32

Điện Ngọc 1

14.717.71

14.683.94

33.77

327.34

-

327.34

Điện Phước 1

16.190.72

5.589.89

10.600.83

259.34

123.56

135.77

Điện Hồng 2

10.699.43

10.481.21

218.22

361.86

361.86

-

Điện Thọ 1

7.750.22

1.186.15

6.564.07

123.23

71.41

51.82

Điện Quang

8.630.21

348.64

8.281.57

132.94

9.90

142.84

Điện Phương

8.575.12

3.388.03

5.187.10

82.00

61.76

20.24

Điện Thọ 2

3.986.28

3.813.32

172.96

185.40

138.01

47.40

Điện An 1

1.287.55

1.287.55

-

-

-

-

Điện Phước 2

4.627.71

1.356.60

3.271.11

70.10

35.69

34.40

Điện An 2

2.787.01

267.17

2.519.84

121.52

14.57

106.95

Điện Hòa 3

1.677.34

1.57

1.675.77

83.03

67.98

15.05

Điện Minh 2

2.027.66

1.890.98

136.68

58.37

47.16

11.21

Điện tiến 1

1.287.55

1.433.02

145.47

-

-

-

Điện An 3

931.97

676.87

255.10

22.70

19.04

41.73

Điện Phong

740.94

604.81

136.13

5.86

92.61

98.47

Điện Tiến

bàn thị xã

56

Bao gồm

Bao gồm

Hợp tác NN

Tổng lợi nhuận sau thuế

Ghi chú

Doanh thu và thu nhập

Thu nhập khác

Lợi nhuận sau thuế của HĐSXKD

Doanh thu HĐSXKD và doanh thu hoạt động tài chính

Lợi nhuận khác sau thuế

2

1.058.26

938.66

119.61

30.95

17.73

48.68

Điện Minh 1

347.06

300.36

46.70

19.96

-

19.96

Điện Hòa 2

876.33

876.33

-

5.50

5.50

-

Điện Hồng 1

10.591.76

1.161.04

9.430.73

136.49

20.31

116.18

Điện Ngọc 2

131.957.04

52.077.72

79.879.33

2.249.07

671.30

1.577.76

Tổng cộng

Nguồn: Báo cáo quyết toán của các hợp tác xã năm 2018

Tổng lợi nhuận sau thuế của các hợp tác đạt 2,249 tỷ đồng, bình quân lợi

nhuận của 1 hợp tác là 112,453 triệu đồng. Lợi nhuận cao nhất là hợp tác nông

nghiệp Điện Ngọc I (608,42 triệu đồng), thấp nhất là hợp tác nông nghiệp Điện

Hồng 1( 5,5 triệu đồng).

+ Hoạt động kinh doanh lúa giống có tỷ trọng doanh thu là 65% và lợi nhuận

là 74%. Trong năm có 12 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh lúa giống; các đơn

vị có doanh thu từ hoạt động lúa giống cao hơn mức bình quân chung 2 tỷ/năm là

Hợp tác Điện Phước 1, Điện Hồng 2, Điện Thọ 1, Điện An 1, Điện Phước 2, Điện

Thọ 2.

+ Hoạt động thủy lợi thủy nông có tỷ trọng doanh thu là 18,5% và lợi nhuận là

13,5% sau hoạt động kinh doanh lúa giống. Trong năm có 19 hợp tác tham gia hoạt

động thủy lợi thủy nông, nhưng có 6/19 đơn vị bị lỗ trong hoạt động này (Điện Tiến

2, Điện Phương, Điện Quang, Điện Minh 2, Điện Trung, Điện Phong); các đơn vị

có doanh thu từ hoạt động thủy lợi thủy nông cao hơn mức bình quân chung 500

triệu đồng/năm là hợp tác nông nghiệp Điện Phước 1, Điện Trung, Điện An 1, Điện

Hồng 2, Điện Phước 2, Điện Quang, Điện Tiến 2, Điện Thọ 2.

57

- Trong lĩnh vực điện sinh hoạt có tỷ trọng doanh thu là 29,50% và lợi nhuận

là 11,76%. Trong năm có 9/19 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh điện sinh

hoạt, 100% các đơn vị kinh doanh hoạt động này không lỗ; các đơn vị có doanh thu

từ hoạt động kinh doanh điện sinh hoạt cao hơn mức bình quân chung .

- Trong lĩnh vực xăng dầu có tỷ trọng doanh thu là 22,1% và lợi nhuận là

21,50%. Trong năm có 2/19 hợp tác tham gia hoạt động kinh doanh xăng dầu (Điện

Hồng 2, Điện Ngọc 1).Các đơn vị kinh doanh hoạt động này đều lãi.

2.4. Đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã

Điện Bàn thời gian qua

2.4.1. Thành công

Thứ nhất, kinh tế hợp tác thực hiện tốt các vai trò trong phát triển nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh quảng Nam

Làm tốt dịch vụ cho người dân: Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

đã giúp cho kinh tế hộ những việc mà kinh tế hộ không làm được. Những hộ nông

dân cá thể đơn lẻ liên kết lại với nhau trước những diễn biến phức tạp, bất ngờ của

điều kiện tự nhiên; trước sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực cung

ứng vật tư kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm…. Sự liên kết tự nhiên đó, tạo ra một sức

mạnh đoàn kết, khối gắn bó những người sản xuất nhỏ trong các tổ chức hợp tác tùy

theo yêu cầu sản xuất của họ. Mặt khác, trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sự đóng

góp của từng cá nhân. Kinh tế hợp tác ra đời và phát triển không phá vỡ kinh tế gia

đình đơn lẻ mà tạo ra sức mạnh liên doanh của kinh tế hộ các gia đình.

Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, mà hợp tác trong nông nghiệp sẽ là

người đại diện cho phía sản xuất, là nơi tiếp cận thị trường để thu thập và phân tích

các thông tin thị trường. Địa bàn sản xuất hàng nông sản thường xa thị trường tiêu

thụ, kinh tế hợp tác với vai trò là đầu mối đảm nhận khâu thu mua, tập trung hàng

hóa, giảm được chi phí lưu thông, tránh tư thương ép giá, lợi nhuận mang lại cho

người sản xuất sẽ cao hơn. Là trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng,

HTX có đủ tư cách pháp nhân. Sự am hiểu pháp luật, tiềm lực tài chính nhằm xây

dựng và bảo vệ thương hiệu hàng nông sản của người dân. Là tổ chức trung gian có

thể tập trung được một khối lượng hàng hóa lớn để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

58

Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp góp phần vào việc phát triển kinh

tế nông nghiệp, nông thôn: Hợp tác trong nông nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt

động vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này, không hề mâu thuẫn với mục tiêu tương trợ

xã viên của hợp tác. Bởi vì: Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là mục tiêu

mà mọi tổ chức kinh tế đều hướng tới. Hợp tác trong nông nghiệp cũng là một tổ

chức kinh tế nên cũng phải hướng tới mục tiêu này. Nếu không có lợi nhuận, doanh

nghiệp không thể trả công cho người lao động, duy trì việc làm lâu dài của họ, cũng

như không thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ lâu dài cho khách hàng và cộng đồng.

Như vậy, sự phát triển kinh tế hợp tác là một tất yếu, là một điều kiện để duy trì và

phát triển. Mặt khác, hợp tác nông nghiệp cũng là một chủ thể của nền kinh tế, sự

phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn góp phần quan trọng vào việc phát

triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta hiện nay.

Là tổ chức trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân:

Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp không chỉ hỗ trợ kinh tế hộ nông dân

trên cơ sở các tính chất của nó mà còn là trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà

nước đối với nông dân. Việc hỗ trợ của nhà nước đối với người nông dân thông qua

tổ chức này rất đa dạng, có thể là các khoản đầu tư hoặc các cơ chế chính sách, định

hướng của nhà nước đối với khu vực này. Về cơ chế, chính sách, định hướng, nhà

nước có thể thông qua các hợp tác để điều tiết giá trên thị trường từ đó hỗ trợ người

nông dân…. Nhà nước có thể đầu tư các hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật khác phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn như hệ thống điện,

hệ thống kênh mương… và giao cho hợp tác trong nông nghiệp khai thác, sử dụng

để phát triển kinh tế cũng như phục vụ dân sinh tại địa phương.

Thứ hai, kinh tế hợp tác được quan tâm đầu tư thích đáng, số lượng tăng

nhanh, góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân

- Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đang được các cấp chính quyền

từ Trung ương tới địa phương quan tâm, đầu tư. Chính phủ đã ban hành những

văn bản tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác. Bên cạnh

đó, phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn còn được sự quan tâm chỉ

đạo của các cấp chính quyền địa phương từ thị xã xuống các xã, phường. Đặc

59

biệt là sự tư vấn, hướng dẫn về chuyên môn của các cán bộ phòng kinh tế, trạm

Khuyến nông, trạm Thú y.

- Trong giai đoạn 2016-2018, số lượng các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn

thị xã Điện Bàn đang có xu hướng tăng lên. Năm 2017, thị xã thành lập thêm được

01 hợp tác phi nông nghiệp. Năm 2018, thị xã thành lập thêm được 02 hợp tác

nông nghiệp.

- Sự phát triển của các hợp tác nông nghiệp đã góp phần tạo ra công ăn việc

làm cho các lao động trên địa bàn thị xã. Qua kết quả khảo sát, các hợp tác nông

nghiệp trên địa bàn thị xã đã tạo việc làm cho 392 lao động, từ đó góp phần tăng

thêm thu thập cho người dân.

- Việc phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã thực

chất đã và đang là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế,

có đóng góp tích cực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Thứ ba, Một số hợp tác nông nghiệp đã đưa được sản phẩm của mình tiêu

thụ ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước.

Đó là hợp tác Dâu tằm xã Điện Quang, Hợp tác trồng Nấm của phường Điện

Nam Bắc. Trước khi thành lập hợp tác, sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao, bị

thương lái ép giá. Từ khi thành lập hợp tác, sản phẩm Dâu Tằm của hợp tác đã có

chỗ đứng trên thị trường. Xã viên trong hợp tác áp dụng khoa học kỹ thuật vào thâm

canh, chế biến dẫn đến sản lượng và chất lượng đều tăng lên. Thành viên hợp tác

xã đã chủ động chuyển đổi thay thế cây trồng để có năng suất và chất lượng tốt

hơn. Từ khi biết được lợi ích của việc sản xuất Dâu Tằm, Nấm an toàn theo tiêu

chuẩn VietGAP các xã viên đã hưởng ứng và tham gia tích cực. Từ đó sản phẩm

của các hợp tác xã có giá trị kinh tế cao và đã vươn ra nhiều tỉnh khác trong cả

nước.

2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế

Khó khăn, nguyện vọng của các hợp tác xã nông nghiệp

Phần lớn các hợp tác nông nghiệp hiện nay về phương thức hoạt động vẫn

chưa có sự thay đổi, tư duy hoạt động còn nặng nề về hành chính, bao cấp theo

phương thức hợp tác xã kiểu cũ.

60

Đa số các hợp tác nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối với

các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: Cung ứng giống, vật tư, phân

bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng …; còn các dịch vụ rất quan trọng như: bảo

quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm, nên số hợp tác xã thực hiện

việc bao tiêu nông sản cho nông dân ít, hiện mới chỉ có 03 hợp tác thực hiện việc

bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và

giá trị của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó có một số hợp tác xã được hình thành

không đúng bản chất của hợp tác xã theo luật định, chủ yếu để hỗ trợ các chính sách

của nhà nước.

Còn nhiều hợp tác nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động và

đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp ứng nhu

cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác với thành viên; vốn ít,

doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao, một số hoạt động hình thức. Nếu

xem xét về khả năng tái mở rộng các hoạt động dịch vụ sản xuất và lợi ích mà hợp

tác xã mang lại cho thành viên thì hiện mới có khoảng trên 29,1 % hợp tác nông

nghiệp hoạt động có kết quả cao; khoảng 58,3 hợp tác hoạt động trung bình và yếu;

8,3 hợp tác hoạt động kém hoặc ngừng hoạt động. Do hiệu quả hoạt động hạn chế,

lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham

gia, gắn bó với hợp tác, chưa coi hợp tác là “nhà của mình”.

Hiện nay nhu cầu liên kết là rất lớn, tuy nhiên số các hợp tác thực hiện liên kết

được với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn phải

“tự làm, tự bán” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và

thu nhập của người dân.

- Tình hình vốn, quỹ của các hợp tác nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn:

Mức vốn bình quân của các hợp tác xã nông nghiệp thấp và chủ yếu là vốn tài sản

cố định đã sử dụng lâu năm, nhà xưỡng và thiết bị xuống cấp, lạc hậu. Đa số các

hợp tác xã nông nghiệp thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh; các hợp tác nông nghiệp

rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, trong khi đó việc

huy động vốn từ thành viên khó khăn ảnh hưởng đến năng lực sản xuất kinh doanh

và khả năng cạnh tranh của hợp tác xã. Nhiều hợp tác thiếu chủ động, trông đợi vào

61

sự hỗ trợ của nhà nước.

- Quy mô hợp tác nhỏ, thiếu vốn kinh doanh, chưa có sự gắn kết trong hoạt

động sản xuất, kinh doanh tạo thành chuỗi liên kết trong sản xuất hàng hóa, chưa

chủ động đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh, đa dạng hóa các hoạt

động dịch vụ để nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa. Chưa chủ động tìm hiểu,

nghiên cứu quy định của Luật hợp tác xã và các văn bản quan trọng khác để thấy

được trách nhiệm, nghĩa vụ của hợp tác xã trong tổ chức hoạt động.

- Tổng số hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã hiện có là 20 hợp tác nhưng

có tới 45% hợp tác xã nông nghiệp bị xếp loại trung bình, yếu kém.

- Ngoài ra, hầu hết các hợp tác xã chưa có sự liên doanh, liên kết giữa các hợp tác

xã nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của các hợp tác xã nông nghiệp còn chậm, thiếu ổn

định.

- Nhiều hợp tác nông nghiệp tồn tại hình thức, hoạt động không hiệu quả, phần

lớn các hợp tác nông nghiệp mới chỉ chuyển đổi về hình thức, chưa thực sự đổi mới về

nội dung và nâng cao hiệu quả hoạt động.

- Các hợp tác nông nghiệp còn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay. Đây

cũng là thực trạng chung đối với các hợp tác nông nghiệp ở nước ta. Theo Cục Kinh tế

hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tính đến

hết năm 2017, cả nước có gần 11.000 hợp tác xã nông nghiệp và chỉ có khoảng hơn

3% trong số này tiếp cận được nguồn vốn vay, trong khi nhu cầu thực tế là khoảng

60%.

- Các hợp tác hoạt động hầu như chưa tự tìm đầu ra cho sản phẩm của

mình. Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của hợp tác, bởi nếu không

bán được sản phẩm, các hợp tác không thể tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh

doanh của hợp tác.

- Nhận thức về đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác - hợp tác xã theo luật còn

hạn chế. Nhận thức về hợp tác của các cấp, các ngành, của người dân còn chưa đầy

đủ, chưa thống nhất. Hình ảnh mô hình hợp tác kiểu cũ vẫn còn tồn tại trong suy

nghĩ của nhiều người khiến họ còn do dự, đắn đo khi tham gia vào mô hình

kinh tế hợp tác xã kiểu mới; còn xem nhẹ bản chất, giá trị kinh tế hợp tác xã

62

đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.

- Hiện nay việc quản lý Nhà nước về hợp tác xã ở cấp thị xã, cấp xã,

phường còn nhiều bất cập. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản

lý nhà nước về kinh tế hợp tác chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến năng lực

quản lý tổ chức hoạt động còn nhiều hạn chế. Ở cấp xã công tác quản lý hợp

tác xã được giao cho cán bộ phụ trách nông lâm nghiệp đảm nhiệm, không có cán

bộ chuyên trách về quản lý kinh tế hợp tác nói chung, quản lý hợp tác xã nông

nghiệp nói riêng.

Nguyên nhân của hạn chế

- Nguyên nhân khách quan

+ Trình độ năng lực sản xuất trong các thành phần kinh tế trên địa bàn

thị xã chưa phát triển, nhu cầu hợp tác kinh tế chưa cao, nhìn chung chưa đáp

ứng được các điều kiện cần và đủ cho việc xác lập, xây dựng mô hình kinh tế tập

thể theo Luật Hợp tác xã hiện hành, đặc biệt trong lĩnh vực nông lâm nghiệp.

+ Các hợp tác do thiếu nguồn vốn và chưa mạnh dạn đầu tư khoa học công

nghệ áp dụng vào sản xuất, đầu ra cho sản phẩm còn nhiều bấp bênh do phụ thuộc

vào thương lái, chưa liên kết tìm đầu ra với các doanh nghiệp.

+ Ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển kinh tế hợp tác - hợp tác xã còn

quá ít, chưa có chính sách cụ thể cho hợp tác vay vốn sản xuất kinh doanh khi

không có tài sản thế chấp hoặc nếu có thì còn nhiều bất cập khi triển khai thực

hiện. Theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ khuyến

khích các tổ chức tín dụng mạnh dạn đầu tư vốn phát triển lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn, tạo điều kiện để các hợp tác nông nghiệp tiếp cận nguồn vốn từ các tổ

chức tín dụng. Nghị định 55 của Chính phủ cũng quy định về chính sách tín dụng

phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, các hợp tác xã có hoạt động sản xuất,

kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp được vay tối đa 1 tỷ đồng, không cần tài sản

thế chấp. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai thực hiện, phía ngân hàng vẫn bắt buộc

hợp tác thế chấp tài sản. Chính vì vậy, hợp tác xã thường bị từ chối ngay từ đầu mà

phía ngân hàng không cần cử nhân viên thẩm định hồ sơ.

+ Lực lượng cán bộ phụ trách của xã, phường còn thiếu về số lượng, yếu về

chất lượng và phải kiêm nhiệm nhiều việc khác, chưa có biên chế nên việc tham

63

mưu giúp cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã đối với phát triển kinh tế hợp tác còn

nhiều khó khăn, hạn chế.

+ Công tác tuyên truyền trong những năm qua còn bị giới hạn về kinh phí, nguồn

lực; tính kịp thời chưa cao; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa được đồng bộ,

từ đó chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội.

- Nguyên nhân chủ quan

- Có sự lúng túng trong nhận thức của cán bộ và người dân về mô hình hoạt

động của hợp tác và vai trò của hợp tác xã nông nghiệp. Các quy định về tổ chức

hoạt động, tài sản và sở hữu đối với tài sản của hợp tác và của từng thành viên, các

chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã và đặt biệt là trách nhiệm quản lý nhà nước

đối với hợp tác nông nghiệp còn chung chung gây tâm lý e ngại cho người dân khi

tham gia hợp tác.

- Chất lượng nguồn nhân lực của các hợp tác nông nghiệp thấp. Hiện nay đã số

cán bộ của các hợp tác nông nghiệp hiện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế,

ít được đào tạo. Tư duy phát triển sản xuất kinh doanh chưa theo kịp với sự phát

triển của cơ chế thị trường, thiếu tính nhạy bén và năng động trong tổ chức điều

hành sản xuất kinh doanh.

- Trình độ của người lao động còn thấp, tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác nông

nghiệp chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao. Đa số các chủ nhiệm hợp tác còn thiếu

kiến thức về quản lý và kinh tế thị trường; Trình độ của người lao động làm việc trong

các hợp tác xã nông nghiệp chưa qua đào tạo còn chiếm tới 76 %.

+ Nhận thức của cán bộ quản lý hợp tác, xã viên về vị trí, vai trò của kinh

tế hợp tác còn hạn chế, thậm chí có người còn mơ hồ, do đó chưa dám mạnh dạn

đầu tư nhiều vốn, sức lực để xây dựng, phát triển hợp tác xã vững mạnh.

+ Bộ máy quản lý của hợp tác còn nhiều yếu kém, thiếu linh hoạt, chưa có

kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực đã đăng ký như

thu hút vốn đầu tư, tiếp thị, tìm kiếm, mở rộng thị trường.

+ Đa số các xã viên là người không có vốn lớn, mức đóng góp cho vốn quỹ hợp

tác xã khi gia nhập không nhiều nên các hợp tác sau khi thành lập thường thiếu vốn

sản xuất kinh doanh và không có kinh phí đảm bảo chi cho các hoạt động thường

xuyên. Thu nhập từ hợp tác đem lại không cao, do vậy không khuyến khích được xã

64

viên tích cực đầu tư vốn và tham gia các hoạt động nhằm phát triển hợp tác xã.

+ Các hợp tác nông nghiệp chưa liên kết được với các doanh nghiệp trong và

ngoài tỉnh trong việc tiêu thụ sản phẩm, do đó sản phẩm của các xã viên sản xuất ra

có giá trị thấp, chưa xứng đáng với công sức người lao động bỏ ra.

2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn

2.2.3.1. Nhân tố khách quan

- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp

Để thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác nói chung, hợp tác xã nông

nghiệp nói riêng, Đảng và Nhà nước đã ban hành các Nghị quyết, văn bản Luật

và dưới luật. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước ta quy định một hành lang pháp lý rất

chung, trong khi hợp tác xã nông nghiệp lại rất đa dạng, rất khác nhau, đối tượng

khác nhau, ngành nghề khác nhau, địa bàn hoạt động khác nhau, có cả vấn đề về

trình độ dân trí. Hiện nay nước ta có khoảng gần 11.000 hợp tác xã nông nghiệp,

chiếm gần 60% các hợp tác xã. Trong số các hợp tác xã nông nghiệp này, hiện có

rất nhiều loại hình như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản… Tuy nhiên, nếu chiếu theo

Luật Hợp tác xã năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11

năm 2013 thì các hợp tác xã nông nghiệp không biết đứng ở đâu trong đó cả. Một

khó khăn nữa đối với các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay là nước ta chưa đủ cơ

sở pháp lý và các chính sách để hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp phát triển. Bên

cạnh đó, hợp tác xã nông nghiệp có địa bàn hoạt động thường ở những vùng có

điều kiện kinh tế xã hội khó khăn nên sản phẩm làm ra rất khó tiêu thụ. Do đó,

hợp tác xã nông nghiệp phải có các chính sách ưu tiên so với các hợp tác xã khác.

Ngoài công tác về chính sách, pháp luật, công tác quản lý nhà nước về hợp tác

xã hiện nay, đặc biệt hợp tác xã nông nghiệp đang còn nhiều hạn chế. Trong Luật

Hợp tác xã năm 2012 có giao cho Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, nhưng các bộ

ngành phải thành lập bộ phận, các tổ chức để thực hiện quản lý nhà nước về vấn đề

này. Hiện nay, Bộ Kế hoạch - Đầu tư có Vụ hợp tác xã, tại các Sở Kế hoạch - Đầu

tư thì các nội dung liên quan đến hợp tác xã thường nằm ở phòng Đăng ký kinh

doanh và thường họ hiểu biết rất hạn chế về hợp tác xã. Ở Bộ Nông nghiệp và Phát

65

triển nông thôn, có Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhưng ở các Chi

cục địa phương hiện nay chỉ có Chi cục Phát triển nông thôn, không có Chi cục

Hợp tác xã. Sự không thống nhất về cơ quan, bộ phận quản lý dẫn đến những khó

khăn về quản lý các hợp tác xã nông nghiệp.

- Sự phối hợp của các ban ngành, các tổ chức đoàn thể trong tổ chức thực

hiện chính sách phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Trong giai đoạn 2016-2018, các cơ quan, ban ngành, các tổ chức đoàn thể

trên địa bàn thị xã Điện Bàn như phòng kinh tế, trạm Thú y, trạm Khuyến nông,

Đài Truyền thanh - Truyền hình, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Nông dân, phòng Kế hoạch - Tài chính đã tích

cực phối hợp để triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, do lực lượng cán bộ phụ trách của

thị xã, xã phường còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và phải kiêm nhiệm

nhiều việc khác nên việc tham mưu giúp cấp ủy Đảng, chính quyền đối với phát

triển hợp tác xã nông nghiệp của thị xã có nhiều khó khăn, hạn chế. Nhiều khi các

cơ quan, đơn vị liên quan chưa thực sự quan tâm giúp đỡ, giải quyết các vướng

mắc, khó khăn về tổ chức, con người, vốn, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các

hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã.

- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

+ Về điều kiện tự nhiên

Điện Bàn là thị xã có tiềm năng để phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp. Đây là điều kiện rất thuận lợi để phát triển các hợp tác nông nghiệp trên

địa bàn thị xã. Bởi thị xã có tiềm năng lớn về cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho

các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất kinh doanh. Nếu được đầu tư khai thác hợp lý,

đó sẽ là những tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn thị xã nói

chung, phát triển hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, phát triển hợp tác

nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn cũng gặp không ít khó khăn. Điều kiện

tự nhiên của thị xã có nhiều mặt không thuận lợi như: Hàng năm vào tháng

10,11,12 thường xuyên xảy ra bão, lũ. Mùa hạ thì nắng nóng kéo dài, tình

trạng xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra gây khó khăn trong sản xuất nông

nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp.

66

+ Về kinh tế - xã hội

Mặc dù còn nhiều khó khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã

Điện Bàn đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu và đã đạt được bước tăng trưởng khá, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, một số mục tiêu quan trọng đặt ra đều hoàn

thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn được giữ vững. Kinh tế tập thể và kinh tế hộ tiếp tục được khuyến khích

phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn thu ngân sách gặp nhiều khó khăn,

trong khi nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn dẫn đến khả năng cân đối thu chi

ngân sách trên địa bàn thị xã gặp rất nhiều khó khăn; tập quán canh tác và nhiều

tập tục lạc hậu vẫn còn; trình độ dân trí chưa đồng đều giữa các vùng; tỷ lệ hộ

nghèo còn cao, một bộ phận nhân dân còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư, hỗ

trợ của Nhà nước, chưa thực sự cầu thị và vươn lên để thoát nghèo, làm giàu chính

đáng. Đây đang là các yếu tố gây khó khăn cho phát triển hợp tác xã nông nghiệp

trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

2.2.3.2. Các yếu tố chủ quan

- Năng lực về tổ chức quản lý của người đứng đầu các loại hình kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp

Về thuận lợi, độ tuổi bình quân của các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp trung

bình đã ngoài 40 tuổi, đây là độ tuổi mà các chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp đã có

kinh nghiệm trong cuộc sống, kinh nghiệm về sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,

bên cạnh đó trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của

người đứng đầu các hợp tác xã nông nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến

việc điều hành, quản lý hợp tác. Theo kết quả điều tra, trình độ học vấn của các chủ

nhiệm hợp tác nông nghiệp trung bình là 8,3/12 tức là trình độ học vấn của chủ nhiệm

hợp tác xã là khá thấp, đa số các chủ nhiệm hợp tác xã có trình hộ trung học cơ sở (cấp

2). Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp, có

nhiều cán bộ quản lý hợp tác chưa qua đào tạo. Đây là yếu tố gây khó khăn trong

việc phát triển hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn.

- Nguồn lực, quy mô sản xuất

Về thuận lợi, nhìn chung nguồn lực đất đai, nhà xưởng của các hợp tác trong

nông nghiệp khá dồi dào, có rất ít hợp tác trong nông nghiệp khi được hỏi gặp khó

67

khăn về đất đai, xưởng sản xuất. Bên cạnh đó, đa số các hợp tác nông nghiệp đã hoàn

thành việc đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm phương tiện, công cụ sản xuất thiết yếu

phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh của hợp tác. Tuy nhiên, hiện nay quy mô

của phần lớn các hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn đều có quy mô nhỏ, phát triển

chưa đồng đều ở địa bàn các xã, phường. Vốn sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn

góp của các xã viên, các hợp tác nông nghiệp gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn

vốn vay do hạn chế về tài sản thế chấp. Khi được hỏi, nhiều giám đốc hợp tác nông

nghiệp trả lời hiện nay thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng khi được hỏi có nhu

cầu vay vốn ngân hàng không thì lãnh đạo các hợp tác vẫn ngại thủ tục ngân hàng,

đặc biệt là về tài sản thế chấp để vay vốn. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn kỹ thuật

của các lao động làm việc trong các hợp tác xã nông nghiệp cũng còn rất thấp và còn

nhiều lao động chưa qua đào tạo. Đây đang là những khó khăn trong phát triển hợp

tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn.

Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở làm rõ đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tình hình phát triển nông nghiệp trong 05 năm

(2014-2018) và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, Chương 2 tập

trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thị xã

Điện Bàn ở các khía cạnh: (1) Căn cứ pháp lý quy định nội dung hoạt động kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn; (2) Thực trạng hoạt động của kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn thời gian qua; (3) Tình hình hoạt

động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

hiện nay. Qua đó, chương 2 đánh giá hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở

thị xã Điện Bàn thời gian qua trên các mặt: Thành công; Mặt hạn chế và nguyên

nhân của hạn chế. Đồng thời, chương 2 còn phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng

đến hoạt động kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn hiện nay.

68

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN

KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THỊ XÃ ĐIỆN BÀN

3.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã

3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025

- Chuyển đổi, khuyến khích, thành lập mới hợp tác nông nghiệp; khuyến

khích tổ hợp tác phát triển tiến tới thành lập hợp tác nông nghiệp.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác nông nghiệp; nâng cao đóng

góp của kinh tế hợp tác vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo một cách bền

vững, tạo thêm việc làm mới và bảo vệ môi trường.

- Nâng cao vai trò của kinh tế hợp tác trong phục vụ sản xuất, kinh doanh và

đời sống của xã viên, đời sống cộng đồng như y tế, giáo dục, thể thao, văn hóa, xác

định kinh tế của xã viên là bộ phận hữu cơ của hợp tác xã nông nghiệp.

- Phát triển liên kết, liên doanh giữa các hợp tác nông nghiệp với nhau và giữa

hợp tác nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với nhà

đầu tư nước ngoài, tiến tới thành lập các tập đoàn hoặc hiệp hội hợp tác nông

nghiệp có tiềm lực mạnh và năng lực cạnh tranh cao.

- Khuyến khích hợp tác nông nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,

công nghệ, bảo vệ môi trường.

- Khuyến khích hợp tác nông nghiệp đầu tư cho giáo dục, đào tạo xã viên, con

em xã viên.

3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025

của thị xã Điện Bàn

- Mục tiêu chung

+ Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác.

Từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế trong khu vực kinh tế hợp

tác; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ hợp tác, hợp tác xã trên cơ sở đảm

bảo nguyên tắc, giá trị hợp tác xã và các quy định của pháp luật. Tạo sự chuyển

biến tích cực trong phát triển kinh tế tập thể, góp phần quan trọng trong xóa

69

đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của các thành viên và cộng

đồng dân cư, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương;

+ Phát triển đa dạng các loại hình tổ hợp tác, hợp tác xã; tăng cường liên

kết với các doanh nghiệp để huy động tối đa các nguồn lực phù hợp với từng vùng,

từng lĩnh vực gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành

nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao nhằm thúc đẩy sản xuất nông

nghiệp hàng hóa tập trung, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;

+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ hợp tác, hợp tác xã thông qua tăng cường

năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản

lý. Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, tuyên truyền phát

triển và triển khai đồng bộ, có hiệu quả các chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác

xã; xúc tiến thương mại; hỗ trợ tín dụng; đổi mới thiết bị, công nghệ; đầu tư kết cấu

hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

- Mục tiêu cụ thể

+ Hàng năm thành lập mới từ 1-2 hợp tác nông nghiệp trở lên.

+ Tỷ lệ xếp loại các hợp tác nông nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả

hàng năm tăng, phấn đấu đến năm 2025 có trên 2/3 số hợp tác nông nghiệp hoạt

động có hiệu quả trở lên, giảm tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp trung bình, yếu kém

xuống dưới 20%.

+ Doanh thu bình quân hàng năm của các hợp tác nông nghiệp tăng từ 15-

20%.

+ Thu nhập bình quân của thành viên và người lao động năm 2025 trong

hợp tác nông nghiệp tăng từ 1,5 - 2,0 lần so với năm 2018.

+ Tiếp tục xây dựng mô hình hợp tác nông nghiệp điển hình tiên tiến, hàng năm

có từ 1 đến 2 hợp tác nông nghiệp điển hình tiên tiến, mỗi xã xây dựng nông thôn

mới đều có hợp tác nông nghiệp hoạt động hiệu quả.

3.2. Các giải pháp nhằm phát triển hiệu quả kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp ở thị xã Điện Bàn trong thời gian tới

3.2.1 Phát triển các hội sản xuất nhỏ-trung bình tự chủ có nhóm trưởng là

người có trình độ và uy tín: Từ kinh nghiệm khi tham gia hợp tác liên kết với các

70

công ty thu mua nông sản của nông dân. Sự mất “niềm tin” của doanh nghiệp đối

với hộ sản xuất nhỏ lẻ là do người dân thường nhận đầu tư ban đầu (tạm ứng vốn,

phân bón, hạt giống…) của công ty để cung cấp sản phẩm, nhưng khi thu hoạch họ

không làm đúng theo cam kết, sẵn sàng bán đi nơi khác nếu giá cao hơn. Từ thực tế

trên chúng ta có thể phát triển các “mô hình hội sản xuất nông dân tự chủ”, lựa chọn

các hộ có nguyện vọng và khả năng tham gia vào các hội sản xuất. Nhóm nông dân

tự bầu ra một nhóm trưởng có uy tín nhất và mọi trao đổi hợp tác đều thông qua

nhóm trưởng. Hội sản xuất nông dân tự chủ nên được đào tạo sử dụng nguyên tắc

chia sẻ lợi nhuận theo vốn góp. Qua đây chúng ta cũng sẽ nâng dần “niềm tin” của

các bên liên quan đối với hộ sản xuất nhỏ lẻ.

3.2.2. Đào tạo các thương lái trung gian có kiến thức kinh doanh nông

nghiệp: Giải pháp hiện tại của các công ty là hợp tác với các thương lái để họ thu

mua nông sản từ các hộ nông dân rồi bán số lượng lớn hơn cho công ty. Kinh

nghiệm cho thấy thương lái là một thành phần trung gian tiềm năng trong chuỗi sản

xuất nông nghiệp, tuy nhiên hiện nay thành phần trung gian này chưa có trình độ

đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế hội nhập. Chính vì vậy, người thương lái nên là

đối tượng được đào tạo để trở thành một mắt xích kết nối người nông dân nhỏ lẻ

hay các nhóm nông hộ tự chủ để cùng tham gia vào chuỗi giá trị. Đối tượng này cần

được trang bị kiến thức về luật bản quyền, về hợp đồng kinh doanh, về phương

pháp tiếp cận với nhiều nguồn thông tin nông nghiệp trong nước và quốc tế…

3.2.3. Giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm

Thực tiễn sản xuất hiện nay cho thấy, các hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thị

xã Điện Bàn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường và tiêu

thụ sản phẩm. Đây cũng là nguyện vọng của các hợp tác nông nghiệp khi được

hỏi trong quá trình điều tra phỏng vấn. Do đó, muốn sản xuất hàng hóa có hiệu

quả, khả năng cạnh tranh cao thì vấn đề quan trọng là phải nghiên cứu, mở rộng

thị trường tiêu thụ, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe của khách

hàng. Trong xu thế phát triển hiện đại, mọi quá trình sản xuất đều do thị trường

quyết định chứ không phải chỉ làm những gì mình có. Cho nên thị xã Điện Bàn

71

cần định hướng cho các hợp tác nông nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào,

bán cho ai. Việc sản xuất phải xuất phát từ thị trường, do thị trường và vì thị

trường quyết định. Nếu như kinh tế thời tự cung tự cấp, sản xuất với mục đích tự

phục vụ nhu cầu, hàng hoá ít có sự trao đổi, tư duy sản xuất khép kín; thời kinh tế

kế hoạch hoá tập trung sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch với mục đích phục vụ Nhà

nước, hàng hoá làm ra phải giao nộp sản phẩm, Nhà nước thống nhất thu mua; còn

ở thời kinh tế thị trường, bà con sản xuất cái do thị trường mách bảo với mục đích

phục vụ nhu cầu thị trường, hàng hoá tự do trao đổi, tư duy sản xuất cũng phải

năng động, sáng tạo.

Để giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận được thị trường tiêu thụ sản phẩm

trước hết phải giúp các hợp tác nông nghiệp nâng cao kiến thức về kinh tế thị

trường. Do đó, để cung cấp thông tin và trang bị kiến thức kinh tế thị trường hiện

đại tới các hợp tác xã nông nghiệp, thị xã Điện Bàn cần tổ chức các lớp tập huấn

về kinh tế thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế. Qua các lớp tập huấn đó, các hợp

tác nông nghiệp sẽ hiểu được cần sản xuất cái gì? Sản xuất với số lượng là bao

nhiêu? Tổ chức sản xuất như thế nào, phối hợp các yếu tố ra sao? Sản xuất sản phẩm

ra để bán cho ai? Ngoài ra, cần trang bị phương cách tiếp cận thông tin trong nền kinh

tế thị trường cho các hợp tác nông nghiệp. Thị trường luôn có sự biến động, vì vậy nắm

bắt, khai thác và xử lý thông tin có hiệu quả là yếu tố quyết định đến hiệu quả sản xuất

kinh doanh. Vận dụng một cách sáng tạo, khoa học các quy luật của kinh tế thị trường

vào quá trình sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp.

Trong thời gian tới, thị xã Điện Bàn cần tiếp tục tổ chức các hội nghị trao đổi,

thống nhất, ký kết hợp đồng với các đơn vị, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh về

cung ứng vật tư, phân bón, giống, giá thu mua, bao tiêu sản phẩm, tập huấn chuyển

giao khoa học kỹ thuật. Từ đó, các hợp tác nông nghiệp sẽ được ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất và họ sẽ yên tâm sản xuất khi sản phẩm đầu ra đã

được các doanh nghiệp bao tiêu. Bên cạnh đó, đa phần các hợp tác nông nghiệp

hiện nay đều đang vắng bóng doanh nghiệp, hoặc nếu có thì vẫn chưa làm tròn vai

trò, khi các doanh nghiệp chỉ chú trọng cung ứng vật tư đầu vào mà không quan

tâm đến đầu ra của sản phẩm nông nghiệp, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm là

72

yếu tố quan trọng trong quá trình liên kết. Và từ những thực tế trên, để thu hút

doanh nghiệp tham gia liên kết “4 nhà”, thị xã Điện Bàn cần đề xuất với tỉnh

Quảng Nam có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút doanh nghiệp liên kết cùng

các hợp tác nông nghiệp, cùng với đó, tăng cường công tác tuyên truyền để các hợp

tác nông nghiệp tuân thủ quy định trong quá trình thực hiện liên kết. Ngoài ra, các

cơ quan, ban ngành cần nghiên cứu thông tin thị trường, định hướng sản xuất

cũng như tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã nông nghiệp, tránh tình trạng thừa

hoặc thiếu sản phẩm; hỗ trợ kinh phí, đồng hành cùng các hợp tác nông nghiệp tổ

chức chương trình hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản phẩm, tập

huấn chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật giúp các hợp tác nông nghiệp mở rộng

sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm để phát huy hiệu quả.

3.2.4. Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp

Rào cản lớn nhất hiện nay là các hợp tác nông nghiệp không đáp ứng

được các điều kiện vay vốn ngân hàng, điều kiện được vay tín chấp. Cụ thể, theo

quy định của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức vay vốn phải đáp ứng được 5

điều kiện, trong đó có khả năng tài chính bảo đảm trả nợ trong thời hạn cam

kết. Bên cạnh đó, có một bất cập khiến chính sách ưu đãi từ nguồn vốn tín dụng

khó thực thi bởi việc các hợp tác nông nghiệp chỉ hình thành về mặt tổ chức. Theo

đó, bản thân hợp tác nông nghiệp không thể tạo ra đất đai mà đều do các xã viên

đóng góp. Do đất góp là đất sở hữu của xã viên nên hợp tác xã nông nghiệp không

thể lấy đất đó thế chấp ngân hàng vay vốn. Và cho rằng đầu tư nông nghiệp là rủi

ro, bản thân một đề án của hợp tác nông nghiệp đưa ra lại càng rủi ro hơn do

trình độ quản trị kém thì ngân hàng nghi ngờ và ngại cho vay. Chính vì vậy, các

hợp tác xã nông nghiệp rất khó tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi theo chính

sách của Nhà nước. Trong thời gian tới, để giúp các hợp tác nông nghiệp trên

địa bàn thị xã Điện Bàn tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, tác

giả đề xuất một số giải pháp sau:

- Về phía hợp tác trong nông nghiệp: để đáp ứng được các điều kiện vay vốn

tín dụng, các hợp tác nông nghiệp phải tự nâng cao năng lực quản trị, tài chính bằng

cách thu hút thêm vốn cổ phần, tăng cường tích lũy, nâng cao hiệu quả kinh doanh;

73

kết nạp thêm xã viên, kêu gọi xã viên đóng góp bằng tiền hoặc tài sản để tăng

nguồn vốn của hợp tác; nâng cao năng lực quản trị điều hành của Ban quản lý;

trong quá trình xây dựng sản xuất, kinh doanh và sử dụng vốn vay cần quán triệt

tinh thần tiết kiệm, minh bạch, công khai kết quả tài chính trước Đại hội xã viên;

tranh thủ sự giúp đỡ của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội ở

địa phương, hướng dẫn của các tổ chức tín dụng khi có nhu cầu vay vốn.

- Về phía ngân hàng: để tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn của các hợp tác

nông nghiệp, ngân hàng cần đơn giản các thủ tục và điều kiện vay vốn, các điều

kiện vay cần được vận dụng linh hoạt hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay

cho ngân hàng và phù hợp với quy định của pháp luật. Thay vì yêu cầu phải có sổ

đỏ đất và các tài sản thế chấp khác, cần xem xét các điều kiện khác có thể bảo đảm

thế chấp để vay vốn ngân hàng. Đối với các dự án đầu tư, các phương án sản xuất,

kinh doanh sau khi thẩm định có hiệu quả có thể áp dụng cơ chế đảm bảo tiền

vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, ngân hàng có thể xem xét

các điều kiện khác có thể đảm bảo thế chấp để vay vốn ngân hàng như: tài sản

trên đất (nhà xưởng), hợp đồng hợp tác, hợp đồng bảo hiểm của hợp tác xã nông

nghiệp.

- Về phía các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền: các cơ quan có thẩm

quyền cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu tài sản trên đất cho các hợp tác nông nghiệp. Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị

có liên quan trên địa bàn thị xã cần hướng dẫn các hợp tác nông nghiệp lập phương

án sản xuất, kinh doanh hoặc phương án vay vốn trả nợ ngân hàng cho cán bộ quản

lý các hợp tác nông nghiệp.

3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động kinh tế hợp tác

- Cùng với việc chú trọng phát triển các hợp tác nông nghiệp kiểu mới, cần

thực hiện tốt việc chuyển đổi mô hình hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác

xã năm 2012. Cần rà soát, đánh giá lại, xác định rõ nguồn gốc tài sản hình thành,

giải quyết dứt điểm nợ đọng kéo dài, xem xét lại xã viên thực sự có nhu cầu

hợp tác sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, góp vốn vào hợp tác xã, giảm bớt

số thành viên sản xuất tự cấp, tự túc, nhu cầu hợp tác không cao.

74

- Cần tập trung phân loại, xử lý các tồn đọng của các hợp tác nông nghiệp cũ

để tiếp tục hỗ trợ, giúp đỡ các hợp tác nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi có hiệu

quả. Đối với các hợp tác nông nghiệp yếu kém, không có khả năng chuyển đổi nên

giải thể, để thành lập mới các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng, phù hợp hơn từ

thấp đến cao theo nhu cầu của kinh tế hộ với đặc điểm của từng địa phương. Đồng

thời tiến hành tổng kết các mô hình hợp tác nông nghiệp có hiệu quả để phổ biến

nhân ra diện rộng.

- Mạnh dạn giải thể đối với những hợp tác nông nghiệp nhiều năm liền không

hoạt động sản xuất - kinh doanh, không tổ chức đại hội xã viên thường kỳ. Đối với

những hợp tác xã nông nghiệp thuộc diện yếu kém, cần tiếp tục duy trì hoạt động

sản xuất - kinh doanh thì tiến hành rà soát lại số lượng cụ thể và thực trạng của từng

hợp tác xã nông nghiệp. Từ đó, có kế hoạch phối hợp với các cơ quan, ban, ngành

liên quan giúp hợp tác xã nông nghiệp kiện toàn bộ máy ban quản lý và ban kiểm

soát, xây dựng điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh để tiếp tục hoạt động.

- Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, hợp

tác xã nông nghiệp. Chính quyền các cấp từ thị xã đến xã cần hỗ trợ, giúp đỡ

theo hướng lấy hợp tác nông nghiệp làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân

trong việc tổ chức thực hiện dự án, làm đại lý cung ứng vật tư và thu gom nguyên

liệu, phân cấp quản lý và làm cơ sở chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, trình

diễn mô hình.

+ Đối với cán bộ phụ trách quản lý hợp tác nông nghiệp ở cấp thị xã,

cấp xã, phường: cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp

vụ. Đối với cán bộ phụ trách quản lý hợp tác nông nghiệp cấp thị xã, cần lựa chọn

những cán bộ có năng lực chuyên môn phù hợp và chú trọng công tác đào

tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn. Đối với cán bộ phụ trách quản lý

hợp tác xã nông nghiệp cấp xã, cần giảm bớt khối lượng công việc kiêm nhiệm

để họ có thể tập trung nhiều thời gian, sức lực, trí tuệ hơn cho công tác quản

lý cũng như giúp các hợp tác nông nghiệp phát triển.

3.2.6. Tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các cán bộ quản lý hợp

tác nông nghiệp

75

Sau chuyển đổi, bộ máy quản lý hợp tác nông nghiệp đã được tinh giản gọn

nhẹ hơn, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết hoạt động theo kinh

nghiệm thực tế, không được đào tạo cơ bản, ít được bồi dưỡng tập huấn. Mặt khác

năng lực nắm bắt thông tin và có khả năng dự báo thị trường, sự nhạy cảm linh hoạt

để đáp ứng trước những yêu cầu đa dạng phức tạp của cơ chế thị trường còn có

nhiều hạn chế. Để tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các cán bộ quản lý

hợp nông nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau:

- Đầu tư, hỗ trợ tăng cường năng lực về trình độ chuyên môn, trình độ quản lý

cho cán bộ quản lý hợp tác. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý hợp

tác xã phải được đổi mới theo nguyên tắc lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh của

hợp tác xã làm mục tiêu hàng đầu.

- Thị xã cần có cơ chế bắt buộc các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp phải

tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế cho đội ngũ cán

bộ quản lý hợp tác xã do Liên minh Hợp tác xã và Chi cục Phát triển Nông thôn (Sở

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) tỉnh Quảng Nam tổ chức hàng năm. Thông

qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng này, ngoài việc học tập, tiếp thu kiến thức trên lớp,

các cán bộ quản lý hợp tác còn được tham gia các hoạt động ngoại khoá, trao đổi

kinh nghiệm, tham quan và học tập thực tế tại các hợp tác hoạt động có hiệu quả,

điều đó sẽ giúp cho các cán bộ quản lý hợp tác trau dồi thêm kiến thức chuyên môn,

nghiệp vụ để áp dụng vào thực tiễn, tổ chức điều hành đơn vị mình hoạt động tốt hơn.

- Bên cạnh việc tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực

chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp thì các hợp tác

nông nghiệp cần phải có những chính sách đãi ngộ, khuyến khích tài năng, thu hút

nguồn nhân lực trẻ đã được đào tạo bài bản tham gia vào bộ máy quản lý hợp

tác xã, kết hợp với kinh nghiệm, tâm huyết của đội ngũ cán bộ có thâm niên nhằm

đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để làm được điều đó, trước hết

các hợp tác xã nông nghiệp phải khẳng định sự chủ động, mạnh dạn, đổi mới cách

nghĩ, cách làm, xây dựng những mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới để đưa

khu vực kinh tế hợp tác trở về đúng với vị thế, đóng góp tích cực vào sự phát

triển kinh tế - xã hội của thị xã. Đồng thời, có cơ chế, chính sách thỏa đáng, như

76

tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, y tế... cho đội ngũ cán bộ trẻ, thu hút lực lượng

cử nhân sau khi tốt nghiệp có thể trở về công tác tại các hợp tác nông nghiệp.

- Một số hợp tác nông nghiệp hoạt động ở mức trung bình hoặc kém hiệu quả

có thể tham khảo cách làm của một số hợp tác nông nghiệp khác ngoài địa bàn thị xã

đã làm để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, đó là áp

dụng giải pháp thuê người quản lý, điều hành cho hợp tác. Cách làm này sẽ giúp hợp

tác xã có được người đủ kiến thức, kỹ năng để quản lý. Tuy nhiên, phụ thuộc vào quy

mô, điều kiện, yêu cầu của từng hợp tác xã nông nghiệp mà các hợp tác xã có hình

thức thuê cho phù hợp.

3.2.7. Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức trong các hợp tác nông nghiệp

- Đối với xã viên hợp tác: hợp tác phải lựa chọn và xây dựng đội ngũ xã viên

có tinh thần cao và tư tưởng hợp tác xã, tức là xã viên phải ý thức được tinh thần

hợp tác, có trách nhiệm cao, phải xác định mình là những người chủ thực sự

của hợp tác. Chỉ khi xã viên có được những phẩm chất ấy thì hợp tác mới là một

tổ chức kinh tế hợp tác thực sự, có niềm tin và mới có thể phát huy được sức

mạnh tập thể. Thực tiễn của các hợp tác xã điển hình tiên tiến cho thấy tính tập thể

cao trong hợp tác là yếu tố quan trọng giúp Ban quản trị và Chủ nhiệm thành công

trong hoạt động quản lý và điều hành hợp tác, là nhân tố quan trọng quyết định sự

thành bại của một hợp tác. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn xã viên các hợp tác

trên địa bàn thị xã Điện Bàn chưa có được phẩm chất này. Chính sự tham gia

hình thức và thiếu tinh thần hợp tác của xã viên đã làm cho hợp tác xã không phát

huy được ưu thế của mô hình tổ chức kinh tế này. Do đó, làm cho xã viên hiểu và

có tinh thần hợp tác cộng đồng, tinh thần xây dựng và làm chủ hợp tác xã là một

tiền đề rất quan trọng để phát triển hợp tác xã bền vững.

- Đối với tổ chức Đại hội xã viên: các hợp tác cần phải nhận thức được tầm

quan trọng của Đại hội xã viên, trên cơ sở đó phải tổ chức tốt Đại hội xã viên

theo Luật, bảo đảm cho xã viên làm chủ và bình đẳng trong Đại hội để xã viên

thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình, thể hiện vai trò làm chủ đối với hợp tác.

Không giống như Đại hội cổ đông của các công ty cổ phần, Đại hội xã viên

của hợp tác bảo đảm quyền biểu quyết ngang nhau cho mỗi xã viên không phụ

77

thuộc vào mức vốn góp. Đây cũng là một nhân tố bảo đảm quyền và lợi ích bình

đẳng giữa các xã viên trong hợp tác.

- Về bộ máy quản lý và bộ máy điều hành: hợp tác trong nông nghiệp phải xác

định mô hình tổ chức quản lý nào là phù hợp với điều kiện cụ thể của hợp tác mình.

Các hợp tác có quy mô hoạt động nhỏ về xã viên, về vốn góp, phạm vi hoạt

động hẹp về địa giới hành chính, về ngành nghề thì nên xây dựng bộ máy tổ chức

theo hướng chỉ có một Ban quản trị vừa giữ chức năng quản lý vừa giữ chức

năng điều hành. Mô hình này sẽ tạo cho hợp tác xã sự gọn nhẹ trong tổ chức, giảm

bớt các chi phí quản lý và tạo sự tập trung, thống nhất cao trong quyết định các vấn

đề của hợp tác xã. Các hợp tác có quy mô hoạt động lớn, phạm vi hoạt động rộng

trong nhiều ngành, nghề, mở rộng cả các hoạt động liên kết, liên doanh, hợp tác

với các cá nhân, tổ chức bên ngoài thì nên tổ chức riêng hai bộ máy quản lý và bộ

máy điều hành. Việc tổ chức riêng hai cơ quan này tạo ra sự chuyên môn hoá trong

quản lý và điều hành. Đồng thời, mô hình này cũng tạo sự chủ động, phát huy khả

năng sáng tạo, tính linh hoạt, quyết đoán của người điều hành. Do đó giúp hợp tác

có khả năng đón nhận và nắm bắt các cơ hội một cách kịp thời.

3.3. Một số kiến nghị

3.3.1. Đối với UBND tỉnh Quảng Nam và các cơ quan chức năng của Tỉnh

Đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam và các cơ quan chức năng của Tỉnh có cơ

chế chính sách hỗ trợ đặc thù đối với các hợp tác nông nghiệp. Đồng thời đề nghị

các cơ quan chức năng của Tỉnh tiếp tục chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí thành lập mới các

hợp tác nông nghiệp và mở các lớp tập huấn, tuyên truyền Luật Hợp tác xã năm

2012, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế hợp tác xã cho cán bộ phụ trách công

tác phát triển kinh tế hợp tác cấp thị xã, cấp xã và Ban quản lý của các hợp tác.

3.3.2. Đối với UBND thị xã Điện Bàn

- Đào tạo đội ngũ quản lý các hợp tác xã nông nghiệp: trước khi thành lập hợp

tác xã nông nghiệp, thị xã cần hỗ trợ đào tạo hệ kiến thức chung về kinh tế, chính

trị, xã hội và công nghệ cho các hợp tác nông nghiệp, sau đó mới cấp đăng ký thành

lập hợp tác nông nghiệp. Cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày

về kiến thức quản lý kinh doanh cho các cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp.

78

- Chính sách cung cấp thông tin: cần cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời,

minh bạch cho các hợp tác nông nghiệp nhằm tìm kiếm những cơ hội kinh doanh,

tăng cường khả năng cạnh tranh cho các hợp tác nông nghiệp. Kiến nghị giao cho một

bộ phận cơ quan hành chính nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp thông tin cho các

hợp tác nông nghiệp về các vấn đề như: chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn

bản pháp luật, thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, dự báo nhu cầu thị

trường...cho các hợp tác nông nghiệp.

3.3.3. Kiến nghị với các cơ quan, phòng ban chuyên môn của thị xã Điện Bàn

Cần tiếp tục phối hợp, triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách của

Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,

nông thôn. Tích cực, chủ động đồng hành cùng các hợp tác xã nông nghiệp trong giải

quyết các khó khăn, tìm hướng đi phù hợp trong phát triển kinh tế hợp tác nói chung,

hợp tác xã nông nghiệp nói riêng trên địa bàn thị xã.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở xác định mục tiêu và sáu quan điểm định hướng phát triển kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp đến năm 2025 của thị xã Điện Bàn, Chương 3 tập trung đề

xuất bảy nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

ở Thị xã Điện Bàn trong thời gian tới, đó là; (1) Hoàn thiện kế hoạch, quy hoạch;

(2) Giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm; (3) Tăng cường

khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp; (4) Hoàn thiện công tác quản

lý hoạt động kinh tế hợp tác; (5) Tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý cho các

cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp; (6) Tăng cường công tác tuyên truyền về vị

trí, vai trò của hợp tác kiểu mới; (7) Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức trong các

hợp tác nông nghiệp. Đồng thời, chương 3 đề xuất nhiều kiến nghị đến UBND tỉnh

Quảng Nam và UBND thị xã Điện Bàn cùng các cơ quan chức năng trực thuộc.

79

KẾT LUẬN

Đề tài “Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam” với mục tiêu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

trong giai đoạn 2016 - 2018, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

trong thời gian tới. Với mục tiêu như trên, đề tài đã đạt được các kết quả sau:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.

Bên cạnh đó, tác giả tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở một số địa phương trong nước, từ đó rút ra bài học kinh

nghiệm cho thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa

bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2016-2018. Phát triển kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn đã đạt được những thành

tựu đáng ghi nhận như phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đang được các

cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương quan tâm, đầu tư; trong giai đoạn

2016-2018, số lượng các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn đang

có xu hướng tăng lên. Sự phát triển của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp đã góp

phần tạo ra công ăn việc làm cho các lao động trên địa bàn thị xã. Các hợp tác

xã nông nghiệp trên địa bàn thị xã đã tạo việc làm cho lao động địa phương, từ

đó góp phần tăng thêm thu thập cho người dân. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

đã và đang là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, có đóng

góp tích cực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương; một số hợp tác

xã nông nghiệp đã đưa được sản phẩm của hợp tác xã mình tiêu thụ ở nhiều tỉnh thành

khác trên cả nước.

Tuy nhiên, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn thị

xã Điện Bàn vẫn còn một số hạn chế như: Còn nhiều hợp tác nông nghiệp xếp

loại trung bình và yếu kém; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất

lượng, hiệu quả hoạt động của các hợp tác nông nghiệp còn thấp; nhiều hợp tác nông

80

nghiệp tồn tại hình thức, hoạt động không hiệu quả, một số các hợp tác nông nghiệp

mới chỉ chuyển đổi về hình thức, chưa thực sự đổi mới về nội dung và nâng cao hiệu

quả hoạt động; các hợp tác nông nghiệp còn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn

vay; trình độ của người lao động còn thấp, tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác nông nghiệp

chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao. Đa số các chủ nhiệm hợp tác còn thiếu kiến

thức về quản lý và kinh tế thị trường. Trình độ của người lao động làm việc trong các

hợp tác xã nông nghiệp chưa qua đào tạo còn thấp; việc tìm đầu ra cho sản phẩm

của hợp tác còn gặp nhiều khó khăn; nhận thức về đổi mới và phát triển kinh

tế hợp tác - hợp tác xã theo luật còn hạn chế. Nhận thức về hợp tác xã của các

cấp, các ngành, của người dân còn chưa đ ầy đủ, chưa thống nhất. Công tác

quản lý Nhà nước về hợp tác ở cấp thị xã, cấp xã còn nhiều bất cập. Công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác chưa

đáp ứng được yêu cầu dẫn đến năng lực quản lý tổ chức hoạt động còn nhiều hạn

chế.

- Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại, từ định hướng và mục tiêu phát triển

kinh tế hợp tác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, tác

giả đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa

bàn thị xã Điện Bàn, gồm giúp các hợp tác nông nghiệp tiếp cận thị trường, tiêu

thụ sản phẩm; tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các hợp tác nông nghiệp;

đổi mới phương thức quản lý các hợp tác nông nghiệp; tăng cường kiến thức, kỹ

năng quản lý cho các cán bộ quản lý hợp xã nông nghiệp; tăng cường công tác

tuyên truyền về vị trí, vai trò của hợp tác kiểu mới và nâng cao hiệu quả công tác

tổ chức trong các hợp tác nông nghiệp.

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam, Chỉ thị số 23/CT-TU ngày 25 tháng 7

năm 2014 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 khóa IX về tiếp tục đổi

mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

2. Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo kết quả thực hiện đổi

mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam năm 2016, 2017 và 2018.

3. Chính phủ, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 cưa

Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012.

4. Phạm Việt Dũng (2016), Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã

năm 2012, Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 4/3/2016.

5. Đổi mới mô hình hợp tác xã nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Quảng Nam.

6. Nguyễn Thanh Đức (2014), Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ

Thủy, tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị.

7. Lý luận về hợp tác hóa nông nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở

nước ta, do Giáo sư PTS Lưu Văn Sùng chủ biên. NXB Sự thật, H, 1990.

8. TS. Phạm Thị Minh Nguyệt (2006), Giáo trình Kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thị xã Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Nguyễn

Thanh Đức (2014 Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị).

10. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hợp tác xã năm

2012 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012.

11. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Luật Dân sự năm

2005 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.

12. UBND thị xã Điện Bàn (2016, 2017, 2018), Báo cáo tình hình phát triển kinh

tế xã hội.

13. UBND thị xã Điện Bàn về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết

TW5 (khóa IX) tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập

thể, Báo cáo kết quả thực hiện đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.

14. UBND thị xã Điện Bàn, Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

trên địa bàn thị xã Điện Bàn năm 2016, 2017 và 2018.

15. UBND thị xã Điện Bàn, Quyết định số 2413/QĐ-UBND ngày 11 tháng 8

năm 2015 của UBND thị xã Điện Bàn về việc thành lập Ban Chỉ đạo phát

triển kinh tế tập thể thị xã Điện Bàn.

16. Vài nét về hợp tác hóa nông nghiệp ở các nước trên thế giới, của Nguyễn Văn

Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 178, H, 1990.

Website:

17. Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam: dienban.quangnam.gov.vn

18. Huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam: dailoc.quangnam.gov.vn

19. Huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam: duyxuyen.quangnam.gov.vn

20. Huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng: hoavang.danang.gov.vn