ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN DUY DIỆP
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN DUY DIỆP
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN Ngành: Phát triển nông thôn Mã số ngành: 8.62.01.18 LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông
THÁI NGUYÊN - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Mọi trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn, trước Nhà trường
và phòng Đào tạo về các thông tin, số liệu trong đề tài luận văn này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Duy Diệp
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian tập trung nghiên cứu tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc
Kạn, tôi đã hoàn thành xong đề tài luận văn cao học này của mình. Để có được
kết quả này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ chu
đáo, tận tình của cơ quan, đơn vị, nhà trường, các cơ quan, thầy cô, gia đình và
bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Phòng Đào tạo
cùng toàn thể các thầy, cô đã tận tụy giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập
cũng như thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn, PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện, thiết kế nghiên cứu,
phân tích số liệu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND thành phố Bắc Kạn;
Phòng Kinh tế thành phố Bắc Kạn; Chi cục Thống kế thành phố Bắc Kạn; các
xã nghiên cứu,… đã tạo mọi điều kiện thuận lợi có thể để tôi hoàn thành đề tài
luận văn này.
Với trình độ và thời gian có hạn, do đó bản luận văn của tôi không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô để bản đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019
Học viên
Nguyễn Duy Diệp
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. v
DANH MỤC BẢNG, HÌNH ............................................................................ vi
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN .............................................................................. vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................. 3
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ............................................ 5
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài .............................................................................. 5
1.1.1. Một số khái niệm liên quan ..................................................................... 5
1.1.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới ...................................................... 14
1.1.3. Phân loại hộ gia đình nông thôn .......................................................... 17
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ......................................................................... 19
1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn ở một số
nước trên thế giới .................................................................................. 19
1.2.2. Thực tiễn nâng cao thu nhập gắn với xây dựng nông thôn mới ở
một số địa phương nước ta .................................................................... 21
1.2.3. Một số nghiên cứu có liên quan ............................................................ 26
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... 33
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 33
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 35
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 35
iv
2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 36
2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin số liệu ................................................ 36
2.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu ................................ 39
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................... 40
2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về đặc điểm danh tính của hộ gia đình nông thôn ........ 40
2.4.2. Nhóm chỉ tiêu về nguồn lực của hộ gia đình nông thôn ....................... 40
2.4.3. Nhóm chỉ tiêu về sinh kế và thu nhập hộ gia đình nông thôn............... 41
2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về kinh tế của hộ gia đình nông thôn ............................ 41
2.4.5. Nhóm các biến số trong mô hình hồi quy đa biến ................................ 41
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 43
3.1. Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành
phố Bắc Kạn .......................................................................................... 43
3.1.1. Một số văn bản quản lý nhà nước liên quan đến thu nhập ................... 43
3.1.2. Nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ..... 44
3.1.3. Thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ..................... 48
3.2. Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, thách thức tác động đến thu nhập của
hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ............................................ 57
3.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn
thành phố Bắc Kạn ................................................................................ 57
3.2.2. Khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình
nông thôn thành phố Bắc Kạn ............................................................... 64
3.3. Mục tiêu và giải pháp chủ yếu góp phần tăng thu nhập cho người
dân trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh
Bắc Kạn ................................................................................................. 66
3.3.1. Mục tiêu................................................................................................. 66
3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao thu nhập cho người
dân trong xây dựng nông thôn mới thành phố Bắc Kạn ....................... 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 78
1. Kết luận ....................................................................................................... 78
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 80
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH TW Ban chấp hành Trung ương
CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN-TTCN Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
ĐBSH Đồng bằng Sông Hồng
Liên minh Châu Âu EU
FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc
NĐ-CP Nghị định của Chính phủ
NDT Nhân dân tệ - Tiền Trung Quốc
NQ-CP Nghị quyết của Chính phủ
NQ-TW Nghị quyết Trung ương
NTM Nông thôn mới
Nxb Nhà xuất bản
Chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm OCOP
PTNT Phát triển nông thôn
QĐ-TTg Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
QH Quốc hội
QTKD Quản trị kinh doanh
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TT-NNPTNT Thông tư Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
UBND Ủy ban nhân dân
Ngân hàng Thế giới WB
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
WB Ngân hàng thế giới
vi
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng:
Bảng 2.1. Số hộ điều tra tại các thôn trong 3 xã, phường ........................... 37
Bảng 3.1. Nguồn nhân lực của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ...... 45
Bảng 3.2. Nguồn vốn của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ........ 46
Bảng 3.3. Nguồn lực đất đai của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ... 47
Bảng 3.4. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố
Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp ................................................. 50
Bảng 3.5. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố
Bắc Kạn phân theo dân tộc ......................................................... 52
Bảng 3.6. Nguồn thu nhập tỉnh Bắc Kạn, nông thôn cả nước và vùng ....... 54
Bảng 3.7. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người thành phố
Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp ................................................. 55
Bảng 3.8. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người thành phố
Bắc Kạn phân theo dân tộc ......................................................... 56
Bảng 3.9. Diễn giải các biến số trong mô hình hồi quy đa biến ................. 58
Bảng 3.10. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập
nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ...... 59
Bảng 3.11. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập
hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ............. 61
Hình:
Hình 3.1. Thu nhập (nghìn đồng/người/tháng) nông thôn cả nước và
Trung du miền núi phía Bắc ....................................................... 49
Hình 3.2. Tỷ lệ (%) nguồn thu nhập hộ gia đình tỉnh Bắc Kạn năm 2016 .... 53
vii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Với mục đích: Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn lực và thu nhập của
hộ gia đình nông thôn tại thành phố Bắc Kạn (tỉnh Bắc Kạn), đề tài tập trung
phân tích yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ
gia đình nông thôn tại địa phương, để từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn trong quá
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
Cùng với phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc và quan sát trực tiếp, đề
tài đã sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra để thu thập thông tin
từ 105 hộ gia đình nông thôn tại 7 thôn khác nhau thuộc 3 đơn vị hành chính
cấp cơ sở trên địa bàn thành phố Bắc Kạn. Số liệu điều tra được tổng hợp, xử
lý, phân tích theo các phương pháp thống kê thông dụng và phân tích mô hình
hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn
ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình quân 22,7 triệu đồng/người/năm, nếu
tính theo tháng mới chỉ đạt bình quân 1,9 triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn
rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định của UBND tỉnh Bắc Kạn về bộ tiêu
chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục tiêu phấn đấu của UBND thành phố
Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người Dao chỉ đạt 8,4 triệu
đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3 lần so với nhóm
dân tộc Tày.
Có mối tương quan giữa nguồn lực của hộ gia đình với thu nhập nông
nghiệp cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn.
Để gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp)
của hộ gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng
diện tích canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia
đình nông thôn. Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích
canh tác là điều rất cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm
ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp,
viii
tiếp cận vay vốn khó khăn. Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không
có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông
thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu
vực đô thị, vì vậy cần có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn.
Để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu
nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang
trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy,
tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông
thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh
tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển
dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả
nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn, góp phần xây dựng nông
thôn mới ở thành phố Bắc Kạn cần thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp
chủ yếu như: Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng nông nghiệp đô thị; Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức
sản xuất; Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công
nghiệp để tăng thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản; Nhóm giải pháp về
Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu nhập cho người dân nông
thôn; Nhóm giải pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề,
ngành nghề truyền thống; Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng
cao giá trị sản xuất nông nghiệp; Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh
tế trang trại, tổ chức sản xuất theo hướng liên kết; Nhóm giải pháp về mô hình
cánh đồng mẫu lớn; Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn
mới và tăng thu nhập người dân và nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Hội nghị lần thứ 7 (tháng 7/2007), BCH TW Đảng khóa X đã nêu quan điểm: Cần có bước phát triển mới về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hóa, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội nông thôn ổn định; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững, bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp (với 48% dân số lấy nông nghiệp làm sinh kế, theo đại diện FAO), nằm trong nhóm các nước đang phát triển và thuộc trong số các nước nghèo trên thế giới. Với gần 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Vì vậy, xây dựng và phát triển nông thôn về mọi mặt là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề bức thiết và quan trọng. Trong những năm qua đời sống của người dân nông thôn trên cả nước nói chung và đời sống của người dân tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn nói riêng đã có phần được cải thiện bởi đã có nhiều chương trình, dự án được triển khai và thực hiện như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, những dự án và chương trình này mới chỉ giải quyết được một số khía cạnh của đời sống nông thôn (như về cơ sở hạ tầng), chưa giải quyết một cách toàn diện về mọi mặt của nông thôn. Cho nên có thể nói ổn định cuộc sống nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì lẽ đó mà chủ trương nâng cao thu nhập cho người dân là một trong những vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nhằm từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn Việt Nam trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2
Tại Đại hội Đảng lần thứ X khi định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Đảng ta, tại Nghị quyết số 26/NQ-TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã khẳng định “hiện nay và nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”, trong đó “chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của Đất nước”. Để làm được điều đó thì phải có một chương trình, dự án mang tính toàn diện, do vậy Chính phủ đã ra quyết định số 800/QĐ- TTg ngày 04/06/2010 phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, nay được thay thể bằng Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16 /8/ 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020. Xây dựng NTM đang là một trong những vấn đề thời sự được quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã đoàn kết chung tay xây dựng NTM, bước đầu đã thu được những kết quả đáng kể, góp phần quan trọng trong việc cải thiện và phát triển nông thôn. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn tại khá nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai xây dựng NTM. Trong đó vấn đề đặt ra là cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa thì một nhóm cộng đồng lại có vẻ đang trở nên ngày càng tụt hậu so quá trình phát triển. Vì vậy, tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn ở khu vực ngoại thị là mối quan tâm hàng đầu. Để góp phần công sức vào quá trình xây dựng NTM ở địa phương, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp tăng thu nhập cho người dân trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn” là rất cần thiết. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá thực trạng một số nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình và thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. - Phân tích yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại địa phương.
3
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những liên quan đến thu nhập của hộ gia đình trong xây dựng nông thôn mới. Đối tượng điều tra khảo sát là hộ gia đình nông thôn tại các xã, phường trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Đề tài luận văn được thực hiện trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Số liệu sơ cấp điều tra hộ gia đình được thực hiện tại 7 thôn thuộc 2 xã (Nông Thượng ở phía Nam, Dương Quang ở phía Tây Bắc) và phường Huyền Tụng ở phía Đông Bắc thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Lý do tại sao lại chọn cả đơn vị hành chính là phường bởi vì trên thực tế trên địa bàn phường Huyền Tụng có một tổ dân phố (còn gọi là thôn) nông nghiệp, đó là tổ dân phố Khuổi Pái, là thôn thuộc Chương trình 135 duy nhất của thành phố Bắc Kạn và hiện nay đang thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. - Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập trong 3 năm 2015 - 2017. Số liệu sơ cấp được tiến hành điều tra vào năm 2018. - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình và các nguồn thu nhập nông nghiệp; thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ cấp; thu từ hoạt động phi nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp (hay còn gọi tổng thu nhập) của hộ gia đình nông thôn tại các thôn nghiên cứu đã xác định trên đây. Các nhóm hộ gia đình khác nhau về nghề nghiệp chính của gia đình, bao gồm hộ thuần nông nghiệp, hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp; cũng như có sự khác nhau về dân tộc, gồm cộng đồng người dân tộc Tày, cộng đồng người Dao. Mặt khác, đề tài lựa chọn 1 thôn (Khuổi Pái), 1 thôn đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 ở phường Huyền Tụng để điều tra được sử dụng như là đối chứng khu vực đô thị so với khu vực nông thôn. 4. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4.1. Đóng góp mới của đề tài luận văn
Đề tài luận văn đã chỉ ra thực tế thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình quân 22,7 triệu đồng/người/năm, tức 1,9 triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định của tỉnh Bắc Kạn về Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục tiêu phấn đấu
4
của thành phố Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3 lần so với nhóm dân tộc Tày.
Đề tài cũng chỉ ra rằng: Để gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia đình nông thôn. Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn. Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị, vì vậy cần có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn. Để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy, tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. 4.2. Ý nghĩa khoa học của đề tài Cập nhật và hệ thống hóa được cơ sở lý luận, lý thuyết và thực tiễn về thu nhập của hộ gia đình nông thôn trong xây dựng nông thôn mới, nhất là đối với khu vực ngoại thị của một thành phố miền núi phía Bắc nước ta. 4.3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Tác giả hy vọng rằng những giải pháp mà đề tài đã đề xuất sẽ được chính quyền địa phương thành phố Bắc Kạn và các địa phương khác có điều kiện tương tự có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn để chỉ đạo, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ dân trên địa bàn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương.
Chương 1
5
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Thu nhập
Thu nhập là giá trị thu được (quy ra thóc hoặc tiền) sau khi đã trừ đi chi phí
trung gian, tức là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định.
- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần túy của người sản xuất bao
gồm cả công lao động và lợi nhuận thu được do người sản xuất trong một chu kỳ sản
xuất trên quy mô diện tích. Thu nhập hỗn hợp gồm cả thu nhập về nông nghiệp, thu
nhập về phi nông nghiệp và các khoản thu khác của hộ gia đình. Trong đề tài này,
thu nhập hỗn hợp được hiểu là tổng thu nhập, bao gồm cả thu nhập về nông lâm
nghiệp thủy sản (gọi tắt là thu nhập nông nghiệp), các khoản thu từ tiền công, tiền
lương, thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp và các khoản thu khác.
MI = GO - IC - TSX - C1
MI: Thu nhập hỗn hợp
GO: Giá trị sản xuất (của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong 1 thời kỳ
nhất định của hộ, thường là 1 năm).
IC: Chi phí trung gian
TSX: Thuế sản xuất
C1: Khấu hao tài sản cố định
- Thu nhập ổn định: Là khả năng tạo thu nhập một cách ổn định, lâu dài qua
các năm, đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài thông qua các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của hộ.
- Phân loại thu nhập: theo mức độ, thì thu nhập bao gồm: Thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên.
+ Thu nhập thường xuyên: Là các khoản thu nhập có tính chất lặp đi lặp lại
và ổn định như: tiền lương, tiền trợ cấp, các khoản thu nhập do các tổ chức cá
nhân chi trả,…
6
+ Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập không ổn định,
đột xuất như: quà biếu tặng, thu nhập từ các hoạt động khoa học,…
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của chỉnh
thể. Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ chức thành
phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đình, các nhóm xã
hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yếu tố xã hội như
nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, học vấn.
Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng được tính bằng cách chia tổng thu
nhập trong năm của hộ dân cư cho số nhân khẩu của hộ và chia cho 12 tháng.
Thu nhập bình quân đầu người/năm là tổng các nguồn thu nhập của hộ/năm
chia đều cho số thành viên trong gia đình. Thu nhập của hộ nông dân bao gồm
toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong
thời gian một năm, bao gồm các khoản thu sau đây:
- Thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ cấp, tiền làm thuê,…
- Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (sau khi đã trừ chi phí sản xuất
vật chất và thuế sản xuất);
- Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (không
tính tiền rút tiết kiệm, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn
nhận được).
Văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến thu nhập của người dân đang
được áp dụng hiện nay được thể hiện quan hai Chương trình Mục tiêu quốc gia là
Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu
quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Sau đây, chúng ta lần lượt đi tìm hiểu những
nội dung liên quan đến thu nhập được thể hiện ở cả hai Chương trình Mục tiêu
quốc gia này:
Đối với Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, theo Quyết
định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-
7
2020, thì các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều gồm các tiêu chí về thu
nhập và tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, cụ thể như sau:
Các tiêu chí về thu nhập gồm:
- Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản gồm:
- Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch
và vệ sinh; thông tin.
- Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ
số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình
trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người;
nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài
sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho
giai đoạn 2016-2020 ở nước ta như sau:
a) Đối với hộ nghèo
- Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản trở lên.
- Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản trở lên.
b) Đối với hộ cận nghèo
8
- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
c) Đối với hộ có mức sống trung bình
- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.
- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng.
Cần lưu ý rằng: rất có thể không có xã, xóm vùng ngoại thị của thành phố
Bắc Kạn thuộc diện điều chỉnh của Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo
bền vững, nhưng các tiêu chí và chuẩn nghèo trên đây cần được sử dụng như một
thước đo để đối chiếu so sánh khi khảo sát thu nhập của hộ gia đình trong nghiên
cứu này.
Còn đối với Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới, ngày
17/10/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg quy định
Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Trong đó, tiêu chí
về thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đến năm 2020, chỉ tiêu chung
là từ 45 triệu đồng/người trở lên; còn đối với vùng Trung du miền núi phía Bắc,
vùng Bắc Trung bộ là từ 36 triệu đồng/người trở lên; vùng Đồng bằng sông Hồng
là từ 50 triệu đồng/người trở lên; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên là
từ 41 triệu đồng/người trở lên; vùng Đông Nam Bộ là từ 59 triệu đồng/người trở
lên; Đồng bằng sông Cửu Long là từ 50 triệu đồng/người trở lên. Tỷ lệ hộ nghèo
đa chiều giai đoạn 2016-2020, chỉ tiêu chung là từ 6% trở xuống. Chỉ tiêu theo vùng
đối với vùng Trung du miền núi phía Bắc là từ 12% trở xuống; vùng Đồng bằng
sông Hồng từ 2% trở xuống; vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ từ 5%
9
trở xuống; Tây Nguyên từ 7% trở xuống; vùng Đông Nam Bộ từ 1% trở xuống và
Đồng bằng sông Cửu Long từ 4% trở xuống.
Cũng nằm trong Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới,
tại Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc ban
hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020 có quy định rõ Tiêu
chí Sản xuất - Thu nhập - Hộ nghèo như sau:
- Tổ chức sản xuất: Có vùng sản xuất hàng hóa tập trung đối với các sản
phẩm chủ lực của xã, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, kinh doanh hiệu
quả, thích ứng với biến đổi khí hậu; có ít nhất 02 hợp tác xã kiểu mới liên kết làm
ăn có hiệu quả;
- Thu nhập bình quân đầu người của xã tại thời điểm xét, công nhận xã
nông thôn mới kiểu mẫu phải cao hơn từ 1,5 lần trở lên so với thu nhập bình quân
đầu người tại thời điểm được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới;
- Không có hộ nghèo (trừ các trường hợp thuộc diện bảo trợ xã hội theo quy
định, hoặc do tai nạn rủi ro bất khả kháng, hoặc do bệnh hiểm nghèo).
Như vậy, cả ba văn bản quản lý nhà nước quy định trên đây có liên quan
đến thu nhập cũng sẽ được đề cập trong đề tài luận văn này và sẽ được sử dụng
như một thang chuẩn để đối chiếu so sánh với thu nhập thực tế của người dân tại
địa phương khi khảo sát.
1.1.1.2. Nông thôn
Khi nói về nông thôn có rất nhiều quan điểm khác nhau về nông thôn. Có
quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có
nghĩa vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan
điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường phát triển
hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường của nông thôn so với đô thị là thấp hơn.
Cũng có ý kiến cho rằng nên dùng chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân cư trong
vùng để xác định. Một số quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn là vùng có dân
cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là
10
từ sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể
của từng nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng
cho từng nền kinh tế. Đối với những nước đang thực hiện công nghiệp hóa, đô thị
hóa, chuyển sản xuất thuần nông sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch
vụ, xây dựng các khu đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ rải rác ở các vùng nông thôn thì
khái niệm về nông thôn có những đổi khác so với khái niệm trước đây (Lê Anh
Vũ và Nguyễn Đức Đồng, 2017).
Như vậy, có thể nói khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay
đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên
thế giới. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý, có
thể hiểu “nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông
dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và
môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ
chức khác”.
Ngoài ra, theo thông tư số 54/2009/ TT - BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp
và PTNT ban hành ngày 21/8/2009, khái niệm nông thôn được hiểu như sau:
“Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”.
Đặc trưng cơ bản của nông thôn: Nông thôn bao gồm những tụ điểm quần
cư thường có mật độ dân số ít; nông thôn có kết cấu hạ tầng chậm phát triển hơn,
mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn; trình độ sản xuất hàng hoá và tiếp cận thị
trường thấp hơn; nông thôn có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ văn hóa,
khoa học công nghệ thấp hơn đô thị; nông thôn có một lối sống đặc thù lối sống
của các cộng đồng xã hội được hình thành chủ yếu trên cơ sở của một hoạt động
lao động nông nghiệp; nông thôn có mật độ dân cư thấp nhưng giàu tiềm năng về
tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nguồn nước, khí hậu, rừng, biển, ở nông thôn
có một môi trường tự nhiên ưu trội, con người gần gũi với thiên nhiên hơn.
1.1.1.3. Nông thôn mới
11
Tính đến thời điểm này chưa có một định nghĩa chính thức về nông thôn
mới. Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Trung ương, nông thôn mới là
khu vực có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội - nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự
được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng
cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy nông thôn trước tiên nó phải là nông thôn, không phải thị tứ, thị trấn,
thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát theo
5 nội dung cơ bản: Làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phải phát
triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của người
dân nông thôn ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và
phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời sống
văn hóa phong phú. Song, có điều không bao giờ thay đổi là nông thôn mới cũng
phải giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng vùng,
từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng, mức sống của người dân.
Trước hết nông thôn mới phải là nơi sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản
phẩm có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó
nông thôn mới phải đảm nhận được vai trò giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc.
Nếu quá trình xây dựng nông thôn mới phá vỡ chức năng này là đi ngược với lòng
dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời của người dân Việt Nam.
Nông thôn mới phải giữ được môi trường sinh thái hài hòa.
Về cơ bản, nông thôn mới có các đặc trưng: Kinh tế phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; nông thôn phát triển theo
quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo
vệ; dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; an
12
ninh tốt, quản lý dân chủ và chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao. Tóm
lại, nông thôn mới có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Nông thôn mới là lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,
thị xã, thị trấn được quản lý bởi các cấp hành chính cơ sở là UBND xã.
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.
- Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.
- Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
- Dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
- Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - tri
thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Ngày 17/10/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành gồm 19 tiêu chí áp
dụng riêng cho từng vùng của Việt Nam. Bộ tiêu chí cụ thể hóa đặc tính của xây
dựng NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.
Bộ tiêu chí cũng là căn cứ để xây dựng nội dung chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, là chuẩn mực để xác lập kế hoạch phấn đấu
đạt 19 tiêu chí nông thôn mới. Ngoài ra nó còn là căn cứ chỉ đạo và đánh giá kết
quả thực hiện xây dựng NTM của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh giá
công nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới.
Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu
quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển
khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết có cơ chế,
chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư các thành phần kinh tế, huy động đóng
góp của các tầng lớp dân cư. Chương trình được thực hiện gắn với các quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa
13
phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy
hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban
hành).
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương vừa mang tính tổng hợp, bao
quát nhiều lĩnh vực, vừa tập trung giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải
quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính
toán, cân đối mang tính tổng thể. Xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải đáp ứng
yêu cầu phát triển, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
so với mô hình trước đó, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
1.1.1.4. Hộ và hộ nông dân
Mặc dù hộ (hộ gia đình) đã tồn tại từ rất lâu nhưng đến nay vẫn còn nhiều
cách hiểu khác nhau về hộ. Trên thực tế, việc phân tích hộ gia đình - và những
khó khăn về khái niệm vốn có của nó trong việc xác định cấu trúc và chức năng
của hộ gia đình - là những lĩnh vực được quan tâm ở tất cả các ngành khoa học xã
hội. Theo quan điểm của nhiều người thì hộ là một tập hợp những người có quan
hệ với nhau bởi huyết tộc hoặc hôn nhân, hộ là đơn vị cơ bản có liên quan đến sản
xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Thực tế, hộ và gia đình có những
tiêu thức chung như cơ sở kinh tế, quan hệ huyết thống và hôn nhân, tình trạng cư
trú.
Hộ gia đình ở nông thôn chủ yếu là nông dân. Nói đến sự tồn tại của hộ
nông dân trong nền kinh tế trước hết cần thấy rằng, hộ nông dân không chỉ có ở
nước ta mà còn có ở tất các các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới.
Hộ nông dân đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Do
đó có nhiều quan niệm khác nhau về hộ nông dân.
Theo Đào Thế Tuấn (1997): Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các
phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất
nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng
14
bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn
chỉnh không cao (trích theo Mông Thị Huyền, 2016).
Như vậy, hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản
xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông.
Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi nông
nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,...) ở các mức độ khác
nhau. Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị kinh tế độc lập
tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống kinh tế lớn hơn của
nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân
càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm
vi một vùng, một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta
hiện nay.
1.1.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới không phải chỉ nhằm xây dựng con đường, kênh
mương, trường học, hội trường,… mà cái chính là qua cách làm này sẽ tạo cho
người nông dân hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa và thúc đẩy họ tự tin, tự quyết,
đưa ra sáng kiến, tham gia tích cực để tạo ra một nông thôn mới năng động hơn.
Phải xác định rằng, đây không phải là đề án đầu tư của Nhà nước mà là việc người
dân cần làm, để cuộc sống tốt hơn, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng thôn về tiềm năng, lợi thế, năng lực
của cán bộ, khả năng đóng góp của nhân dân,… hướng dẫn để người dân bàn bạc
đề xuất các nhu cầu và nội dung hoạt động của đề án. Xét trên khía cạnh tổng thể,
những nội dung sau đây cần được xem xét trong xây dựng mô hình nông thôn
mới.
a) Đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng
15
- Nâng cao năng lực cộng đồng trong việc quy hoạch, thiết kế, triển khai
thực hiện, quản lý, điều hành các chương trình, dự án trên địa bàn thôn.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở và đội ngũ cán bộ các cấp về
phát triển nông thôn bền vững.
- Nâng cao trình độ dân trí của người dân.
- Phát triển mô hình câu lạc bộ khuyến nông thôn để giúp nhau ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ để giảm lao động
nông nghiệp.
b) Tăng cường và nâng cao mức sống cho người dân
- Quy hoạch lại các khu dân cư nông thôn, với phương châm: Giữ gìn tính
truyền thống, bản sắc của thôn, đồng thời đảm bảo tính văn minh, hiện đại, đảm
bảo môi trường bền vững.
- Cải thiện điều kiện sinh hoạt của khu dân cư: Ưu tiên những nhu cầu cấp
thiết nhất của cộng đồng dân cư để triển khai thực hiện xây dựng: Đường làng,
nhà văn hoá, hệ thống tiêu thoát nước,…
- Cải thiện nhà ở cho các hộ nông dân: Tăng cường thực hiện xoá nhà tạm,
nhà tranh tre nứa, hỗ trợ người dân cải thiện nhà ở, nhà vệ sinh, chuồng trại chăn
nuôi, hầm biogas cho khu chăn nuôi,…
c) Hỗ trợ người dân phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ nâng cao thu nhập
Căn cứ vào các điều kiện cụ thể của mỗi thôn để xác định một cơ cấu kinh
tế hợp lý, có hiệu quả, trong đó:
- Sản xuất nông nghiệp: Lựa chọn tập trung phát triển cây trồng, vật nuôi
là lợi thế, có khối lượng hàng hoá lớn và có thị trường, đồng thời đa dạng hoá sản
xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy khả năng về đất đai, nguồn nước và nhân
lực tại địa phương.
- Cung ứng các dịch vụ sản xuất và đời sống như: Cung ứng vật tư, hàng
hoá, nước sạch cho sinh hoạt, nước cho sản xuất, điện, tư vấn kỹ thuật chuyển
giao tiến bộ khoa học, tín dụng,…
16
- Hỗ trợ trang bị kiến thức và kỹ năng bố trí sản xuất, thay đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi hợp lý.
- Củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất, tư vấn hỗ trợ việc hình thành và
hoạt động của các tổ chức: Tổ hợp tác, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,…
tạo mối liên kết bốn nhà trong sản xuất, chế biến, và tiêu thụ sản phẩm.
d) Xây dựng nông thôn gắn với phát triển ngành nghề nông thôn tạo việc làm phi
nông nghiệp
- Đối với những thôn chưa có nghề phi nông nghiệp: Để phát triển được
ngành nghề nông thôn cần tiến hành “cấy nghề” cho những địa phương còn
“trắng” nghề.
- Đối với những thôn đã có nghề: Củng cố tăng cường kỹ năng tay nghề
cho lao động, hỗ trợ công nghệ mới, quảng bá và mở rộng nghề, hỗ trợ xử lý môi
trường, hỗ trợ tư vấn thị trường để phát triển bền vững.
e) Hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ sản xuất
- Tư vấn hỗ trợ quy hoạch giao thông, thuỷ lợi nội đồng, chuyển đổi ruộng
đất, khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại với nhiều loại
hình thích hợp.
- Hỗ trợ xây dựng mặt bằng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng
nghề, chế biến sau thu hoạch, giao thông, thuỷ lợi nội đồng.
g) Xây dựng nông thôn gắn với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ở nông thôn
Vấn đề bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường từ việc quản lý nguồn cấp
nước, thoát nước đến quản lý thu gom rác thải ở nông thôn cũng đã trở nên đáng
báo động. Đã đến lúc cơ quan địa phương cần có những biện pháp quản lý môi
trường địa phương mình như: Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, tuyên truyền nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, xây dựng hệ thống quản lý môi
trường ở khu vực mình một cách chặt chẽ.
17
h) Phát triển cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc ở nông thôn
Thông qua các hoạt động ở nhà văn hoá làng, những giá trị mang đậm nét
quê đã được lưu truyền qua các thế hệ, tạo nên những phong trào đặc sắc mang
hồn quê Việt Nam riêng biệt, mộc mạc - chân chất - thắm đượm tình quê hương.
Xã hội hoá các hoạt động văn hoá ở nông thôn, trước hết xuất phát từ xây
dựng làng văn hoá, nhà văn hoá làng và các hoạt động trong nhà văn hoá làng.
Phong trào này phải được phát triển trên diện rộng và chiều sâu.
Căn cứ vào từng điều kiện cụ thể mà vai trò của từng nội dung đối với mỗi
địa phương là khác nhau, tuy nhiên những nội dung trên cần được song song thực
hiện, tạo điều kiện cho sự phát triển đồng bộ, toàn diện trong một mô hình nông
thôn mới.
1.1.3. Phân loại hộ gia đình nông thôn
Hộ nông thôn hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ thuộc
rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ
những tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ gia đình. Việc phân loại
hộ nông dân có căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng chính sách tín dụng
phù hợp nhằm đầu tư đem lại hiệu quả.
Có thể chia hộ nông thôn theo các tiêu chí sau đây:
a) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động
- Hộ nông thôn hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường. Loại hộ
này có mục tiêu là tối đa hóa lợi ích, đó là việc sản xuất các sản phẩm cần thiết để
tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động trong nông hộ phải hoạt
động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự cấp tự túc cho sinh
hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào: Khả năng mở rộng diện tích đất đai; Có
thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi; Có thị trường lao động để họ bán sức
lao động để có thu nhập; Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu
cầu của mình.
18
- Hộ nông dân sản xuất hàng hóa chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là tối đa
hóa lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn,
ruộng đất, lao động.
b) Theo tính chất của ngành sản xuất tức là ngành nghề của hộ
Theo ngành nghề, tức là theo nghề nghiệp, hộ gia đình nông thôn được chia
thành các nhóm hộ:
- Hộ thuần nông nghiệp: là loại hộ chỉ thuần túy sản xuất nông nghiệp, sinh
kế dựa hoàn toàn vào nông nghiệp. Trên thực tế hiện nay, nhóm hộ thuần nông
nghiệp vẫn có thể có thành viên hộ gia đình không tham gia hoạt động nông
nghiệp.
- Hộ phi nông nghiệp: là loại hộ mà sinh kế hoàn toàn dựa vào các hoạt
động phi nông nghiệp như chuyên làm các ngành nghề như cơ khí, mộc, rèn, sản
xuất nguyên vật liệu xây dựng, vận tải, thủ công mỹ nghệ, dệt, may, làm dịch vụ
kỹ thuật cho nông nghiệp, thương mại dịch vụ,...
- Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp: là loại hộ vừa làm
nông nghiệp vừa làm nghề phi nông nghiệp, sinh kế dựa cả vào các hoạt động
nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Cần chú ý là các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều
kiện cho phép. Vì vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng
sản xuất và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn để chuyển hộ độc canh thuần nông
sang đa ngành hoặc chuyên môn hóa. Từ đó làm cho lao động nông nghiệp giảm,
thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc làm cho đối tượng phi nông nghiệp
tăng lên.
c) Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ
Hộ gia đình nông thôn được chia thành các nhóm hộ khác nhau về thu nhập
hay kinh tế như: Hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và nghèo.
19
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn ở một số nước
trên thế giới
1.2.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc là nước đông dân, chủ yếu dân cư sống ở nông thôn, thu nhập
thấp và hiện tượng thiếu việc làm gay gắt. Trước tình hình đó Trung Quốc đã quan
tâm xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông thôn, đặc biệt là hệ thống giao thông, thuỷ
lợi, hệ thống thị trấn, thị tứ,… tạo điều kiện cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
thuận lợi. Trung Quốc còn hết sức quan tâm phát triển nền nông nghiệp thâm canh
với trình độ kỹ thuật cao, đặc biệt quan tâm nghiên cứu sản xuất các loại giống
cây trồng, vật nuôi mới có năng suất và chất lượng cao cùng với kỹ thuật canh tác
tiên tiến.
Đặc biệt đáng chú ý là việc xây dựng các xí nghiệp Hương Trấn. Xí nghiệp
Hương Trấn là loại hình xí nghiệp kinh tế do nông dân tự nguyện thành lập ngay
trên quê hương mình trên cơ sở những lợi thế về nguồn tài nguyên, lao động và
các nguồn lực kinh tế khác dưới sự quản lý của chính quyền các cấp, sự lãnh đạo
của Đảng và quan tâm giúp đỡ của nhà nước. Hệ thống xí nghiệp Hương Trấn chủ
yếu sản xuất các hàng hoá tiêu dùng nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, giải
quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân. Việc phát triển xí nghiệp
Hương Trấn có ý nghĩa rất to lớn. Xí nghiệp Hương Trấn đã thu hút 120 triệu lao
động (chiếm 26,9% lực lượng lao động cả nước) với mức thu nhập 2500 NDT/lao
động/tháng. Đây là thành quả to lớn mà xí nghiệp Hương Trấn mang lại, vì vậy
cần nghiên cứu để có thể áp dụng một cách phù hợp với điều kiện nước ta (trích
theo Nguyễn Việt Dũng, 2015).
1.2.1.2. Nhật Bản
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền tây nam Nhật Bản) đã
hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục tiêu phát
triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển
20
chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, Phong
trào “Mỗi làng một sản phẩm” ở đây đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ. Sự thành
công của phong trào này đã lôi cuốn sự quan tâm không chỉ của nhiều địa phương
trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác trên thế giới.
Một số quốc gia, nhất là những quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã thu được
những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp
dụng kinh nghiệm phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”. Những kinh nghiệm của
phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được những người sáng lập, các nhà nghiên
cứu đúc rút để ngày càng có nhiều người, nhiều khu vực và quốc gia có thể áp
dụng trong chiến lược phát triển nông thôn, nhất là phát triển nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa đất nước mình (trích theo Nguyễn Việt Dũng, 2015).
1.2.1.3. Hàn Quốc
Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế nông thôn khi thực
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II (1966-1971) với chủ trương
công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4 năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc
phát động phong trào Saemaul Undong. Mục tiêu của phong trào là “nhằm biến
đổi cộng đồng nông thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới; mọi người làm việc
và hợp tác với nhau xây dựng cộng đồng mình ngày một đẹp hơn và giàu hơn.
Cuối cùng là để xây dựng một quốc gia ngày một giàu mạnh hơn”.
Theo đó, Chính Phủ vừa tăng đầu tư vào nông thôn vừa đặt mục tiêu thay
đổi suy nghĩ ỷ lại, thụ động vốn tồn tại trong đại bộ phận dân cư nông thôn. Điểm
đặc biệt của phong trào NTM của Hàn Quốc là Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần
nguyên, vật liệu còn nông dân mới chính là đối tượng ra quyết định và thực thi
mọi việc. Saemaul Undong cũng rất chú trọng đến phát huy dân chủ trong xây
dựng NTM với việc bầu ra một nam và một nữ lãnh đạo phong trào. Ngoài ra,
Tổng thống còn định kỳ mời 2 lãnh đạo phong trào ở cấp xã tham dự cuộc họp
của Hội đồng Chính phủ để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ các đại biểu này. Nhằm
tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng chính sách miễn thuế
21
xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho chế biến nông sản. Ngân hàng
Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư về nông thôn với lãi xuất 2% so
với đầu tư vào ngành nghề khác,…
Năm 2005, Nhà nước ban hành đạo luật quy định mọi hoạt động của các
bộ, ngành, chính quyền phải hướng về nông dân. Nhờ hiệu quả của phong trào
Saemaul Undong mà Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở
thành một quốc gia giàu có, hiện đại bậc nhất Châu Á.
1.2.2. Thực tiễn nâng cao thu nhập gắn với xây dựng nông thôn mới ở một số
địa phương nước ta
1.2.2.1. Huyện Xuân Lộc và thị xã Long Khánh (tỉnh Đồng Nai)
Đây là hai huyện đầu tiên của cả nước vinh dự đón nhận danh hiệu này sau
hơn 4 năm cùng cả nước thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới.
Chương trình do Ban Chỉ đạo Quốc gia về xây dựng NTM và tỉnh Đồng
Nai tổ chức. Giá trị sản xuất và thu nhập người dân đều tăng.
Ông Đinh Quốc Thái, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai cho biết Xuân Lộc
và Long Khánh là vùng đất mà lợi thế chỉ có đất đai. Từ khi triển khai thực hiện
xây dựng NTM, tỉnh và các cấp của hai huyện đã tập trung tuyên truyền, vận động
người dân xây dựng NTM, đào tạo cán bộ cùng với dân thực hiện phong trào. Đặc
biệt, Xuân Lộc và Long Khánh đã hoàn thành quy hoạch phát triển sản xuất nông
nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xác định được sản phẩm chủ lực,
hỗ trợ mô hình sản xuất hiệu quả và vùng sản xuất tập trung.
Để trở thành huyện NTM, Xuân Lộc và Long Khánh đã vượt chỉ tiêu 75%
số xã phải đạt chuẩn NTM, theo đó Long Khánh có 100% số xã đạt chuẩn NTM
và với Xuân Lộc hiện có 12/14 xã hoàn thành 19 tiêu chí NTM (chiếm 85,7%, 2
xã còn lại chỉ còn tiêu chí giao thông là chưa đạt). Huyện Xuân Lộc đã hình thành
các vùng chuyên canh như xoài, tiêu, ngô, cây ăn trái đặc sản, nhân rộng mô hình
trồng trọt và chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao giúp giá trị sản xuất trên 1 ha diện
22
tích trồng trọt và chăn nuôi đạt bình quân 115,5 triệu đồng/ha. Tỷ lệ lao động có
việc làm qua đào tạo đạt 75%, trong đó có 90,9% số lao động có việc làm thường
xuyên. Thu nhập bình quân của người dân đạt 37,6 triệu đồng/người/năm, tăng
gấp 3 lần so với năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 7% xuống hiện nay chỉ còn
1%.
Trong khi đó ở thị xã Long Khánh, sản xuất nông nghiệp phát triển toàn
diện theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chú trọng chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 6,1%/năm, giá trị sản xuất bình quân trên
1 ha diện tích trồng trọt, chăn nuôi thủy sản đạt 170 triệu đồng/ha - mức cao nhất
trên toàn tỉnh Đồng Nai. Nhờ đó, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt
38,6 triệu đồng/người/năm, tăng 2,13 lần so với năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo giảm
mạnh hiện còn dưới 1%. Ở cả 2 huyện, kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây
dựng đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của người dân trên địa
bàn; hệ thống chính trị được xây dựng ngày càng vững mạnh, dân tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn
được giữ vững.
Theo ông Đinh Quốc Thái, xây dựng NTM ở Xuân Lộc và Long Khánh
không chỉ đơn thuần là hoàn thành các tiêu chí đề ra mà còn tạo ra người nông
dân mới có cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao, có nhiều điều
kiện tiếp cận thông tin. Thực tế người nông dân ở hai nơi này đã thực hiện được
“4 xóa”: xóa tư tưởng trông chờ, ỷ lại, xóa vườn tạp, độc canh, xóa tư tưởng lạc
hậu và xóa nghèo. Đồng thời từ phong trào cũng hình thành đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn, bám sát thực tiễn và nguyện vọng
của nông dân. Không chỉ có 2 huyện đầu tiên của cả nước đạt chuẩn huyện NTM,
mà Chương trình xây dựng NTM ở Đồng Nai cũng đạt được những thành tựu to
lớn. Hiện toàn tỉnh có 52/138 xã đạt chuẩn NTM, chiếm tỷ lệ 32,8%, gấp gần 4
lần tỷ lệ chung cả nước. Có được kết quả này là nhờ vào sự chủ động trong chỉ
đạo và thực hiện chương trình ngay từ ngày đầu thực hiện. Theo đó, Bộ 15 Tiêu
23
chí của tỉnh không chỉ gồm 39 chỉ tiêu (thuộc 19 tiêu chí NTM) mà Đồng Nai còn
cụ thể hóa, phát triển thành 54 tiêu chí. Đồng Nai đạt mục tiêu tới năm 2020 sẽ có
100% số xã đạt chuẩn NTM.
1.2.2.2. Huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định)
Hải Hậu là huyện đồng bằng ven biển phía Nam tỉnh Nam Định có 32 xã
và 3 thị trấn, dân số gần 30 vạn người, diện tích đất tự nhiên 230 km2 (bình quân
1.260 người/km2). Diện tích đất canh tác 25.440 ha, trong đó đất sản xuất nông
nghiệp 22.720 ha, diêm nghiệp 320 ha, nuôi trồng thuỷ sản 2.350 ha, bình quân
21863 m2/người. Huyện đã 3 lần được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng; từ năm 1978 đến nay, liên tục là điển hình Văn hóa Thông tin cấp
huyện của cả nước. Là một trong 5 huyện của cả nước được Chính phủ thí điểm
thực hiện Chương trình xây dựng NTM. Trước khi triển khai xây dựng chương
trình NTM, bình quân toàn huyện mới đạt 7/19 tiêu chí xây dựng NTM, cơ sở hạ
tầng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu nhập
bình quân còn thấp (năm 2010 thu nhập bình quân là 10,2 triệu đồng/người/năm),
đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn.
Sau khi được chọn là huyện điểm xây dựng NTM, lãnh đạo huyện Hải Hậu
đã chỉ đạo quyết liệt nhằm huy động mọi nguồn lực để triển khai thực hiện; Ban
Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Chỉ thị số 04 về “Đẩy mạnh xây dựng nông
thôn mới huyện Hải Hậu giai đoạn 2010-2015”. BCH Đảng bộ, UBND, Ban Chỉ
đạo xây dựng NTM của huyện tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện chương trình bằng nhiều hình thức, phát huy quyền làm chủ
của dân trong việc quản lý và kiểm tra, giám sát về thực hiện đầu tư xây dựng các
công trình trên địa bàn.Với phương châm: “Làm từ nhà ra xóm, từ thôn xóm lên
xã”, “Làm từ đồng về làng, từ làng lên xã”, “Mỗi gia đình có thêm một nghề” nên
chính quyền luôn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung phù hợp. Chính vì vậy mọi chủ trương, kế hoạch đề ra đều được
nhân dân đồng thuận và triển khai thuận lợi. Năm 2011, toàn huyện đã thực hiện
24
xong việc dồn điền đổi thửa. Các tổ chức đoàn thể đã lựa chọn các nội dung làm
chủ đề vận động xây dựng NTM trong tổ chức của mình.Sau hơn 3 năm triển khai
xây dựng nông thôn mới, đến hết năm 2014: có 546/546 xóm và 35/35 xã, thị trấn
đạt tiêu chí nông thôn mới theo phát động phong trào thi đua của huyện. Có thêm
35 xóm đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa, nâng tổng số xóm đạt tiêu chuẩn là
373/546 xóm, bằng 68,3% (theo tiêu chí của huyện). Hoàn thành thẩm định, phê
duyệt hương ước xóm, đến nay 100% hương ước được treo công khai tại nhà văn
hóa xóm, có 8/35 xã, thị trấn hương ước được phát tới từng hộ gia đình. Đến ngày
30/11/2014, toàn huyện đã huy động trên 1.500 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới
(Trong đó: nhân dân đóng góp và con em ủng hộ 586,355 tỷ đồng (bằng 39,2%);
vốn cấp trên và ngân sách địa phương 663.1657 triệu đồng (bằng 44,2%); nguồn
vốn khác 259,964 triệu đồng bằng 16,7%), đã có 971/974 km đường giao thông
khu dân cư đạt chuẩn (bằng 99,7%) và 346/396km đường giao thông trục chính
nội đồng đạt chu chuẩn (bằng 87,3%). Có 536/546 xóm có nhà văn hóa (bằng
98,2%). 535/546 xóm đạt tiêu chí xóm, gia đình nông thôn mới (bằng 97,9%).
Nhân dân đã tự nguyện hiến trên 345 ha đất nông nghiệp, 25 ha đất ở và
trên 150.000 ngày công lao động tháo, dỡ hàng ngàn công trình để xây dựng các
công trình đường giao thông, phúc lợi công cộng trên địa bàn.Như vậy sau 4 năm
xây dựng nông thôn mới, đến nay, huyện Hải Hậu đã hoàn thành chương trình xây
dựng Nông thôn mới, có 100% số xã, thị trấn (35 đơn vị) đạt 19/19 tiêu chí NTM,
được UBND tỉnh Nam Định công nhận "xã đạt chuẩn nông thôn mới", là một
trong số những huyện đầu tiên của cả nước được công nhận huyện nông thôn mới;
những năm tiếp theo, huyện Hải Hậu tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn đẩy mạnh
phát triển sản xuất, giải quyết việc làm gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên
địa bàn huyện; ưu tiên thu hút đầu tư phát triển vùng kinh tế biển, các dự án giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
1.2.2.3. Xã Phú Tân (huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng)
25
Theo ông Huỳnh Tấn Nguyên, chủ tịch UBND huyện Châu Thành cho biết:
Phú Tân là xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Châu Thành, có diện tích
tự nhiên 2.767,68 ha, trong đó diện tích sản xuất là 2.435,98 ha. Toàn xã có 3.461
hộ với 14.649 khẩu, trong đó đồng bào Khmer chiếm 78,77% dân số toàn xã. Lao
động trong độ tuổi là 9.442 người, chiếm 64,45% tổng số nhân khẩu. Bên cạnh
những thuận lợi như có Quốc lộ 60 và Tỉnh lộ 932 đi qua, được hưởng đầu tư từ
nhiều công trình hạ tầng,… Phú Tân vẫn còn nhiều khó khăn: hệ thống sông ngòi
chằng chịt, hàng năm phải gia cố đê bao, bờ bao xuống cấp; trình độ dân trí thấp
nên việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật chưa cao, sản xuất còn mang tính tự phát, chưa
phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương.
Khi Phú Tân được tỉnh Sóc Trăng lựa chọn là một trong 22 xã điểm chỉ đạo
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, bà con rất vui và đoàn kết cùng
nhau thực hiện với quyết tâm cao. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm
nặng nề của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Tuy còn không ít khó khăn nhưng
phát huy truyền thống của quê hương, Đảng bộ và nhân dân Phú Tân đã đồng
lòng, chung sức xây dựng nông thôn mới. Đến nay, Phú Tân đã đạt 19/19 tiêu chí
nông thôn mới, trở thành xã đầu tiên của huyện cán đích chương trình. Theo ông
Trương Đắt Pháp, bí thư Đảng ủy xã Phú Tân, ngay từ khi bắt tay vào xây dựng
nông thôn mới, Đảng ủy xã đã ban hành Nghị quyết về mục tiêu xây dựng nông
thôn mới gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, tuyên truyền sâu
rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa, nội dung của
chương trình.
Ban chỉ đạo xã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tận dụng tiêu chí nào do
người dân cùng làm thì tranh thủ làm trước, tiêu chí nào cần nguồn vốn đầu tư của
nhà nước thì có kế hoạch hằng năm để sớm đạt được chỉ tiêu đề ra. Người dân ở
đây rất nhiệt tình đóng góp cả về vật chất và ngày công lao động. Nhờ tạo được
26
lòng tin, tuyên truyền sâu rộng, người dân hiểu rõ, nên trong tổng kinh phí thực
hiện xây dựng nông thôn mới của xã là 255,905 tỷ đồng thì nhân dân đóng góp
trên 54,6 tỉ đồng. Đến nay, tỷ lệ đường trục xã, liên xã được nhựa hóa theo tiêu
chuẩn đạt 100%, có trên 56,34% đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn
theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải và 100% đường ngõ, xóm được lót
đá (bê tông) sạch đẹp, thuận tiện đi lại cả 2 mùa mưa nắng. Tỷ lệ đường trục chính
nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận lợi đạt 60,86%. Tổng kinh phí
thực hiện trên 48 tỷ đồng, trong đó dân đóng góp hơn 11,6 tỷ đồng.
Từ chủ trương đúng đắn và cách làm phù hợp, đến nay, hệ thống thủy lợi
đáp ứng yêu cầu của sản xuất và dân sinh; toàn xã có 99,2% số hộ có điện sử
dụng; xã có 5 trường học, trong đó có trường đạt chuẩn quốc gia; 73% nhà ở đạt
tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, không còn nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
6,9%. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 95,07%, thu nhập bình quân
trên 25,3 triệu đồng/người/năm. Toàn xã có 90,6% người dân tham gia bảo hiểm
y tế; 1 trạm y tế đạt 10 tiêu chí quốc gia về y tế,... Theo ông Pháp, kể từ khi triển
khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhận thức của người dân ở
địa phương đã chuyển biến tích cực từ nề nếp sinh hoạt tới tư duy, cách làm ăn,
nhất là bà con người Khmer. Cụ thể, người dân tự nguyện đóng tiền, công lao
động, đất đai để làm thủy lợi nội 17 đồng, xây cầu, đắp đường trong xã,… với
tổng trị giá lên đến nhiều tỷ đồng. Cũng từ đó, đời sống kinh tế-văn hóa của bà
con được nâng lên rõ rệt.
Chủ tịch UBND huyện Châu Thành Huỳnh Tấn Nguyên phấn khởi nói:
“Phú Tân đạt chuẩn xã nông thôn mới là thành tích rất đáng ghi nhận của Đảng
bộ, nhân dân huyện Châu Thành nói chung, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Tân nói
riêng. Phát huy thành tích này, trong thời gian tới, Châu Thành sẽ tiếp tục phấn
đấu để nhiều xã cán đích nông thôn mới”.
1.2.3. Một số nghiên cứu có liên quan
27
1.2.3.1. Một số nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới
Với gần 9 năm kinh nghiệm trong thực tiễn xây dựng nông thôn mới trên
phạm vi cả nước, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan
đến xây dựng nông thôn mới. Sau đây là một số ví dụ:
Nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới, theo tác giả Nguyễn Việt Dũng
(2015) trong một đề tài nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới tại huyện Yên Sơn
(tỉnh Tuyên Quang) cho biết: Về cơ bản, các cán bộ cấp cơ sở của các xã trên địa
bàn huyện Yên Sơn đã nhận thức cơ bản về chủ trương, đường lối, chính sách, kế
hoạch xây dựng nông thôn mới giai 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020. Trong
quá trình tổ chức triển khai, chỉ đạo thực hiện cả hệ thống chính trị của các xã đã
đồng loạt vào cuộc dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các xã chính quyền các xã
thực hiện điều hành các chương trình, mục tiêu, dự án xây dựng nông thôn, phối
hợp với ủy ban mặt trận tổ quốc các đoàn thể chính trị, xã hội vận động nhân dân
chung tay, chung sức xây dựng nông thôn mới, trên quan điểm nhà nước và nhân
dân cùng làm, gắn với việc lồng ghép các chương trình dự án, các nguồn vốn vay
từ hệ thống ngân hàng, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu
nhập cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đóng góp vốn ngày công
lao động xây dựng cơ sở hạ tầng các thiết chế văn hóa hương ước, quy ước của cơ
sở, xây dựng nông thôn mới cho quê hương văn minh, giàu đẹp.
Cũng nghiên cứu về nông thôn mới tại huyện miền núi Bảo Lạc (tỉnh Cao
Bằng), tác giả Mông Thị Huyền (2016) cho biết: Việc triên khai xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng gặp nhiều khó khăn. Những thuận lợi cơ bản như Nhà nước có nhiều chính
sách; nhân dân có truyền thống đoàn kết, luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo, sát sao điều hành, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và sự đầu tư của Đảng và Nhà nước. Những khó khăn chính như địa
bàn rộng, phức tạp; điểm xuất phát thấp trong khi nguôn lực của địa phương có
hạn. Để đẩy mạnh xây dựng Nông thôn mới, trong thời gian tới địa phương cân
28
áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, từ công tác tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị vững mạnh ban hành
một số chính sách, Vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất, hiến đất, đồng thời
quy hoạch, phát triển nhanh các thị trấn, thị tứ và xây dựng một số công trình liên
xã. Xây dựng nông thôn mới là công cuộc lâu dài và cần có sự vào cuộc của các
hệ thống chính trị và tham gia của toàn dân. Địa phương cần quán triệt đầy đủ các
chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước, đồng thời vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể của từng đơn vị.
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới
đều đề cập đến sự cần thiết, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là sựt ham
gia của cộng đồng và người dân trong xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, điểm
yếu là chưa giải quyết tận gốc sự tụt hậu về kinh tế ngày càng hiện rõ đối với
nhóm cộng đồng nông thôn.
1.2.3.2. Một số nghiên cứu về thu nhập của hộ gia đình nông thôn
Trong bối cảnh hiện nay cả nước chỉ còn thực hiện 2 Chương trình Mục
tiêu quốc gia là Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, do đó xây
dựng nông thôn mới gắn với giảm nghèo bền vững đang trở thành nội dung quan
trọng trong triển khai hai Chương trình Mục tiêu quốc gia của Chính phủ Việt
Nam. Bởi vậy, hơn lúc nào hết thu nhập của hộ gia đình nông thôn, nhất là nông
dân đang trở nên một vấn đề đã và đang được nhiều công trình nghiên cứu đề cập.
Sau đây là một số vị dụ điển hình:
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Văn Trịnh và Phan Thuận (2014) đã tiến
hành nghiên cứu một đề tài nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của
người nông dân trồng lúa ở Cần Thơ. Đề tài đã tiến hành khảo sát 190 hộ gia đình
trồng lúa thuộc các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Thới Lai thuộc thành phố Cần
Thơ để phân tích mức độ ảnh hưởng của ngành trồng lúa đến thu nhập của nông
hộ. Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là thống kê mô tả và
hồi quy đa biến. Kết quả cho thấy, thu nhập của người trồng lúa vẫn còn thấp.
29
Nghiên cứu cũng xác định các yếu tố như diện tích canh tác, chi tiêu sản xuất, giá
lúa, sản lượng lúa và giới tính ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến thu nhập của người
trồng lúa ở Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Nhìn chung, thu nhập
của bà con nông dân trồng lúa ở Cần Thơ vẫn còn thấp so với thu nhập bình quân
của thành phố. Nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thu
nhập của người trồng lúa như diện tích đất canh tác, chi tiêu cho sản xuất, giá lúa,
sản lượng lúa và giới tính chủ hộ. Phát hiện này không chỉ có sự thống nhất với
các nghiên cứu trước đó mà còn bổ sung thêm các yếu tố đầu ra ảnh hưởng đến
thu nhập của bà con nông dân trồng lúa. Điều này cho thấy, những phát hiện của
nghiên cứu cung cấp thêm bằng chứng thuyết phục về các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập của người trồng lúa ở Cần Thơ hiện nay. Đồng thời, qua phân tích kết
quả khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy rằng, người nông dân trồng lúa vẫn chưa
thật sự an tâm để làm giàu cho bản thân trên mảnh ruộng quê hương bởi vì giá lúa
luôn bấp bênh và năng suất lúa thường không ổn định. Trong điều kiện hiện nay,
quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh cũng khiến cho người nông dân mất
đất màu mỡ để sản xuất nông nghiệp, diện tích đất canh tác bị thu hẹp đã làm giảm
năng suất lúa. Kết quả là thu nhập của người trồng lúa giảm.
Còn tác giả Nguyễn Lan Duyên (2014) đã sử dụng phương pháp bình
phương bé nhất (OLS) để ước lượng mô hình hồi quy nhằm xác định các yếu tố
ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở tỉnh An Giang trên cơ sở hệ thống dữ liệu
sơ cấp thu thập từ 598 nông hộ được chọn ngẫu nhiên. Kết quả ước lượng cho
thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian sống tại địa phương,
khoảng cách từ nơi ở đến đô thị, lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh
hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Kết quả cũng cho thấy nhiều lao
động trong độ tuổi vẫn còn sống phụ thuộc, làm giảm thu nhập bình quân đầu
người của hộ. Bên cạnh đó, nông hộ sống càng gần đô thị thì sẽ có cơ hội cải thiện
thu nhập bởi có thể bán được sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn trong khi chi phí
vận chuyển, bảo quản thấp hơn, đồng thời có thể tham gia các hoạt động phi nông
30
nghiệp để làm tăng thu nhập. Từ kết quả nghiên cứu và thực tế ở An Giang, nghiên
cứu có một số khuyến nghị nhằm nâng cao thu nhập của nông hộ như sau: Nhà
nước cần phát triển hệ thống trường lớp ở nông thôn với nhiều hình thức (thường
xuyên, không thường xuyên, ngắn hạn,…) và có chính sách hỗ trợ, khuyến khích
bà con nông dân (đặc biệt là các chủ hộ trẻ tuổi) đến học để nâng cao trình độ.
Cần tạo việc làm cho họ thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chú trọng những sản
phẩm có giá trị cao và có tiềm năng xuất khẩu. Tạo điều kiện khôi phục và phát
triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn, phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các thị tứ, thị trấn hay các cụm tuyến dân cư (vượt lũ).
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của mọi người trong việc
mỗi người cố gắng học lấy một nghề. Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển mạng
lưới giao thông nông thôn, kết nối trung tâm hành chính xã, thị trấn, thị xã với
nông hộ nhằm phục vụ cho việc vận chuyển sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng
đưa sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Triển khai các biện pháp để hỗ
trợ, tạo mối liên kết giữa nông hộ với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học,
hiệp hội ngành nghề,… trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện
để tổ hợp tác, hợp tác xã đổi mới nội dung hoạt động, mở rộng quy mô, ngành
nghề sản xuất kinh doanh. Xây dựng các khu chợ nông thôn và chợ đầu mối ở các
vùng và tiểu vùng sản xuất nông sản tập trung. Đồng thời, nhà nước cần hỗ trợ
các tổ chức tín dụng có sự tham gia của nông dân (Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp
tác xã tín dụng, nhóm tiết kiệm của nông dân và các hình thức hỗ trợ vốn do các
tổ chức đoàn thể lập ra,...) để hỗ trợ nông dân. Ngân hàng Nhà nước cần triển khai
thực hiện tốt Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn và các hướng dẫn thực hiện của ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các hình
thức cho vay tín chấp đối với nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, cần quan tâm
đến chính sách cho vay với kỳ hạn linh động hơn và thủ tục đơn giản hơn. Chính
31
phủ cần xem xét việc chuyển tiền hỗ trợ mua lúa tạm trữ từ doanh nghiệp sang
nông hộ để nông hộ có thêm vốn sản xuất, đầu tư phương tiện bảo quản sản phẩm
và không bị ép giá bởi các trung gian (thương lái) hay đôi khi chính các doanh
nghiệp. Đoàn thể cần phát huy vai trò của mình trong việc thành lập các quỹ hỗ
trợ sản xuất, tổ (nhóm) vay vốn để hỗ trợ các thành viên trong hoạt động sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm. Nông hộ cần tính toán đến việc tham gia mô hình cánh đồng
mẫu lớn để tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm và tiếp cận tín dụng, qua đó
giúp làm tăng thu nhập.
Trong một công trình nghiên cứu của mình, tác giả Chu Thị Kim Loan và
Nguyễn Văn Hướng (2015) đã khái quát thực trạng nguồn lực và ảnh hưởng của
chúng tới thu nhập của nông hộ tỉnh Thanh Hóa qua kết quả điển cứu tại hai huyện
Hà Trung và Thọ Xuân. Kết quả nghiên cứu được tổng hợp chủ yếu từ số liệu điều
tra của 80 nông hộ, phương pháp phân tích chính là thống kê mô tả và hồi qui đa
biến. Nghiên cứu cho thấy chất lượng lao động, qui mô đất đai và lượng vốn của
các nông hộ điều tra còn ở mức thấp. Thu nhập của nông hộ ở mức bình quân 72
triệu đồng/năm, đặc biệt thu nhập từ tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá
cao trong tổng thu nhập của hộ. Các nguồn lực của nông hộ như qui mô đất sản
xuất, số lượng và trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất tỷ lệ
thuận với thu nhập của hộ, trong đó qui mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn nhất.
Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ hộ và vị trí địa lý
cũng có tác động tới thu nhập của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn
lực lao động, qui mô đất đai và nguồn vốn của các nông hộ điều tra còn ở mức
tương đối thấp. Trung bình, một nông hộ có 3,2 lao động với trình độ tốt nghiệp
phổ thông cơ sở, 7.758 m2 đất và 41,6 triệu đồng tiền vốn. Thu nhập của nông hộ
ở mức bình quân khoảng 72 triệu đồng/hộ/năm; điều đáng chú ý là thu nhập từ
tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của nông hộ.
Hệ số ước lượng của các biến nguồn lực như qui mô đất sản xuất, số lượng và
trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất của nông hộ mang dấu
32
dương và có ý nghĩa thống kê; trong đó qui mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn
nhất tới thu nhập của nông hộ. Điều này ngụ ý nông hộ có thể cải thiện các nguồn
lực này để tăng thu nhập. Do vậy, chính quyền địa phương nên tiếp tục khuyến
khích nông hộ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch đất đai và phát triển ngành
nghề. Những nông hộ có thế mạnh về các ngành nghề phi nông nghiệp có thể
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập từ ngành này và chuyển dịch đất
đai cho các nông hộ khác canh tác. Đồng thời, công tác giáo dục và đào tạo cũng
nên được tăng cường hơn, không chỉ với các nông dân hiện tại mà cả thế hệ học
sinh, thanh niên - những công dân tương lai đóng góp nhiều vào thu nhập của
nông hộ ở địa phương. Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay cũng có tác
động tới thu nhập của nông hộ. Vì thế, thúc đẩy phát triển thị trường tín dụng nông
thôn cũng là điều cần thiết để tăng cơ hội cho nông hộ tiếp cận nguồn vốn vay với
lãi suất hợp lý và thủ tục đơn giản, từ đó nâng cao thu nhập.
Còn theo tác giả Lê Đình Hải (2017), trong công trình nghiên cứu về thu
nhập của nông hộ tại huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội), tác giả cho biết: Việc
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của của các
nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, TP. Hà Nội là rất cấp thiết bởi vì nó là cơ sở
cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho nông hộ trên địa bàn
nghiên cứu. Để đạt mục tiêu nghiên cứu, trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến
hành khảo sát trực tiếp 60 hộ nông dân trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính đa biến đã chỉ ra được 3 nhân
tố có ảnh hưởng một cách đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của nông hộ trên địa bàn
nghiên cứu, bao gồm: (1) Qui mô vốn vay, (2) Diện tích đất của nông hộ, (3) Áp
dụng kỹ thuật vào sản xuất. Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho việc đề xuất
các giải pháp góp phần nâng cao thu nhập hỗn hợp cho các nông hộ trên địa bàn
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, bao gồm các nhóm giải pháp sau đây: (i) Tạo
vốn cho hộ nông dân; (ii) Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất; (iii) Tăng
cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân. Từ đó tác giả
đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ huyện Ba Vì
33
như sau: (1) Tạo vốn cho nông dân vì qua điều tra thực tế ta thấy, hầu hết các hộ
sản xuất trong huyện đều thiếu vốn, mặc dù các hình thức cho nông hộ vay vốn ở
địa phương khá phong phú; (2) Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất theo
hướng đẩy nhanh quá trình "dồn điền đổi thửa" tiến tới ổn định ruộng đất. Đồng
thời khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ có khả năng tham gia đấu thầu như
nhau, cả đất dự trữ và đất mặt nước đã và chưa sử dụng, để một mặt phát triển sản
xuất, nâng cao thu nhập cho nông hộ, mặt khác đưa đất đai của huyện vào sử dụng
đầy đủ, hợp lý; (3) Tăng cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho hộ
nông dân theo các nhóm đối tượng nông hộ khác nhau về kinh tế.
Như vậy, có thể thấy rằng tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đều tập trung giải quyết những vấn đề, những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân nông thôn, trong đó tập trung vào các yếu tố có thể kiểm soát để từ đó đề xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao thu nhập hỗn hợp cho họ. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu này đều được thực hiện ở đồng bằng, vùng thấp, vùng có điều kiện thuận lợi và có trình độ dân trí cao hơn. Rõ ràng là việc nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân được đánh giá là hướng đi đúng đắn, là gợi ý tốt cho các nghiên cứu tiếp theo, đặc biệt đang là vấn đề đặt ra đối với một địa phương miền núi như thành phố Bắc Kạn, một địa phương tuy là đô thị, nhưng vẫn còn đó là những khu vực nông thôn, vùng ngoại thị, khu vực phụ cận của đô thị, vẫn còn đó với những cảnh quan đơn sơ, tĩnh mịch so với khu vực trung tâm đô thị.
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thành phố Bắc Kạn là trung tâm chính trị - kinh tế của tỉnh Bắc Kạn, cách
Thủ đô Hà Nội 160 km theo đường Quốc lộ 3 về phía Đông Bắc, có tọa độ địa lý
2208'5'' đến 2209'23''vĩ độ Bắc từ 105049'30''đến 105051'15''kinh độ Đông. Phía
Đông giáp xã Mỹ Thanh (huyện Bạch Thông); Phía Tây giáp hai xã Quang Thuận
và Đôn Phong (huyện Bạch Thông); Phía Nam giáp các xã Thanh Vận, Hòa Mục
34
và Tân Sơn (huyện Chợ Mới); Phía Bắc giáp hai xã Cẩm Giàng và Hà Vị (huyện
Bạch Thông).
Thành phố Bắc Kạn là thung lũng lòng chảo nằm theo hai bờ sông Cầu
xung quanh đều có các dãy núi bao bọc, hướng dốc từ Tây sang Đông. Độ cao
trung bình từ 150 đến 200 m so với mặt nước biển. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh núi
Khau Nang (xã Dương Quang) cao 746m và núi Nặm Dất (phường Xuất Hóa) cao
728 m.
Thành phố Bắc Kạn chịu ảnh hưởng chung của khí hậu miền núi phía Bắc
Việt Nam. Được hình thành từ một nền nhiệt đới cao của đới chí tuyến và sự thay
thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với điều kiện địa hình nên mùa đông
(từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau) giá lạnh, nhiệt độ không khí thấp,
trời khô hanh, có sương muối; mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 9), nóng ẩm mưa
nhiều. Mùa mưa ở thành phố Bắc Kạn kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 nhưng tập
trung nhiều nhất vào các tháng 7, 8, 9, chiếm 80% lượng mưa của cả năm và mùa
khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau với tổng lượng mưa hàng năm toàn
đạt 1.436 mm. Ngoài ra trên địa bàn thành phố Bắc Kạn còn có hiện tượng mưa
phùn (32 ngày/năm) và ít có bão; tuy nhiên vào mùa mưa dễ gây lụt lội, lũ quét
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Thành phố Bắc Kạn chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn Sông Cầu (Sông
Cầu chảy qua địa bàn tỉnh Bắc Kạn dài 100 km và qua địa phận thành phố Bắc
Kạn dài khoảng 20 km, chiều rộng trung bình 40 m) và các suối chảy qua địa bàn
Thành phố như suối Nặm Cắt, suối Nông Thượng, suối Pá Danh, suối Xuất
Hóa. Sông suối có độ dốc bị bồi lắng do đất đá ở thượng nguồn trôi về làm cho
dòng chảy của sông, suối bị thu hẹp lại, mùa mưa gây úng ngập ở hai bên bờ sông,
suối.
Tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố năm 2017 là 13.699,98 ha. Trong
đó diện tích đất nông nghiệp là 12.154,1 ha, diện tích đất phi nông nghiệp là
1442,73 ha, diện tích đất chưa sử dụng là 103,15 ha. Trong tổng diện tích nhóm
35
đất nông nghiệp thì diện tích đất lâm nghiệp là 10.644,42 ha (chiếm 87,57%), diện
tích đất sản xuất nông nghiệp 1.507,34 ha (chiếm 12,4%), chủ yếu là đất trồng
lúa: 531,19 ha, chiếm 35,24 %.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cơ cấu kinh tế của thành phố Bắc Kạn có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ
trọng ngành nông, lâm, thủy sản và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và
dịch vụ. Tỷ trọng giá trị trong GDP của ngành nông nghiệp năm 2017 là 6,2%,
giảm 1,1% so với năm 2015. Trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng
năm 2017 là 38,4%, tăng 0,2% so với năm 2015. Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng
0,9% so với năm 2015.
Trong cơ cấu nông, lâm, thủy sản của thành phố, cơ cấu trồng trọt luôn
chiếm tỷ lệ cao nhất (ổn định trong khoảng 62,43% - 65,01% tổng giá trị sản lượng
nông nghiệp), tiếp theo là chăn nuôi, cơ cấu chăn nuôi dao động trong khoảng 18-
21% trong vòng 3 năm 2015-2017, giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2017 có xu
hướng tăng so với năm 2015 và năm 2016.
Tổng dân số trên địa bàn thành phố năm 2017 là 42.401 người, trong đó ở
thành thị 35.334 người (chiếm 83,33%), ở nông thôn là 7.067 (chiếm 16,67).
Thành phố Bắc Kạn có 5 dân tộc anh em cùng sinh sống là Kinh, Tày, Nùng, Dao
và Hoa. Số người trong độ tuổi lao động là 5.587 người, trong đó số lao động đã
qua đào tạo là 710 người, chiếm 12,70%, lao động chưa qua đào tạo là 4.375
người, chiếm 78,30%, số học sinh,sinh viên là 502 người, chiếm 8,98%. Số lao
động có việc làm thường xuyên là 5.085 người, chiếm 91,01%.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại thành phố
Bắc Kạn.
+ Một số văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến tăng thu nhập của
người dân trong xây dựng nông thôn mới.
+ Một số nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn địa phương.
+ Thu nhập của hộ gia đình nông thôn địa phương.
36
- Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ gia
đình nông thôn tại địa phương.
+ Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn
thành phố Bắc Kạn.
+ Khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn
thành phố Bắc Kạn.
- Mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao thu nhập
cho các hộ gia đình nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
+ Mục tiêu.
+ Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình
nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh
Bắc Kạn. 2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin số liệu
2.3.1.1. Thu thập các thông tin thứ cấp
Thông tin thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như: Tổng cục
Thống kê, UBND thành phố Bắc Kạn, Phòng Kinh tế thành phố Bắc Kạn, Chi cục
Thống kê thành phố Bắc Kạn cũng như các nguồn thứ cấp khác.
Trong đề tài, phương pháp thu thập thông tin thứ cấp dùng để thu thập các
thông tin về điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, địa hình, khí hậu thời tiết, đất đai,…),
các điều kiện kinh tế - xã hội (hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ sản xuất, cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động, thu nhập bình quân, tỷ lệ hộ nghèo,…) tại địa phương; thu
thập các thông tin liên quan đến thu nhập, các hình thức tổ chức sản xuất như số
lượng, lĩnh vực hoạt động, chất lượng, các sản phẩm nông sản,…của các hình thức
tổ chức đó trên địa bàn các xã nghiên cứu; thu thập các thông tin về diện tích,
năng suất cây trồng, vật nuôi, thu nhập hộ gia đình,…
2.3.1.2. Thu thập thông tin sơ cấp
Trong phạm vi đề tài này, thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện qua các
phương pháp chủ yếu sau đây:
37
a) Phương pháp điều tra bảng hỏi theo phiếu điều tra đã được chuẩn bị trước
Phương pháp này sử dụng nhằm thu thập các thông tin cụ thể, trực tiếp liên
quan đến các nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua phỏng vấn người dân bằng
bảng câu hỏi (tức phiếu điều tra) đã được chuẩn bị từ trước. Nội dung của phiếu
điều tra sẽ bao gồm những thông tin chung về hộ điều tra (họ tên, danh tính hộ,
học vấn, dân tộc,…), nguồn lực của hộ (đất đai, lao động, nhân khẩu, học vấn,
vốn,…), hoạt động sinh kế về trồng trọt (diện tích các cây trồng chính, loại cây
trồng): lúa, ngô, rau màu, cây ăn quả, rừng,… hoạt động sinh kế về chăn nuôi (số
đầu vật nuôi chính, số hộ nuôi): lợn, trâu bò, gia cầm, thủy sản,… Hoạt động sinh
kế phi nông nghiệp: thương mại, dịch vụ, chế biến, buôn bán, ngành nghề,… Thu
nhập nông nghiệp, thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu từ các hoạt động phi nông
nghiệp, thu nhập hỗn hợp (tổng thu nhập) của hộ gia đình,…
Lựa chọn thôn điều tra: Đề tài lựa chọn 7 thôn nông thôn, thuộc 3 đơn vị
hành chính cấp cơ sở là xã Nông Thượng, xã Dương Quang và phường Huyền
Tụng. Trong đó 2 xã Nông Thượng và Dương Quang là 2 xã nông thôn đề tài chọn
mỗi xã 3 thôn. Riêng phường Huyền Tụng là đơn vị hành chính đô thị, nhưng lại
có 1 thôn/tổ dân phố nông thôn (đó là tổ Khuổi Pái) thuộc diện được hỗ trợ của
chương trình 135 duy nhất của thành phố Bắc Kạn, nên đề tài chọn thôn này để
điều tra (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Số hộ điều tra tại các thôn trong 3 xã, phường
Thôn Xã/Phường Số hộ điều tra
Cốc Muổng Nông Thượng 15
Nà Bản Nông Thượng 15
Nà Diểu Nông Thượng 15
Nà Dỳ Dương Quang 15
Nà Ỏi Dương Quang 15
Nà Pài Dương Quang 15
38
Khuổi Pái Huyền Tụng 15
Tổng số 105
Lựa chọn mẫu điều tra: Số lượng hộ gia đình nông thôn được lựa chọn để
điều tra được tính theo công thức Slovin (1960) như sau:
n = N/(1 + N.e2)
Trong đó: n là dung lượng mẫu được chọn
N: Tổng thể, tức tổng số hộ gia đình. Ở đây tổng số hộ gia đình
nông thôn ở địa bàn nghiên cứu (gồm 2 xã Nông Thượng, Dương Quang và
thôn/tổ dân phố Khuổi Pái (phường Huyền Tụng) là 1.500 hộ.
e: Sai số. Vì các hộ gia đình ở địa bàn nghiên cứu được đánh
giá khá phức tạp, nên chúng ta xác định sai số không vượt quá 10%, tức e = 0,1.
Tính toán theo công thức trên đây, ta có n = 93,8. Lấy tròn số, ta có n = 105
hộ được điều tra tại 7 thôn, trong đó có 6 thôn thuộc 2 xã Nông Thượng, Dương
Quang và 1 thôn của phường Huyền Tụng. Do đó, tại mỗi thôn, đề tài lựa chọn 15
hộ để điều tra dựa theo sự thuận tiện trong khi tác nghiệp trên hiện trường có sự
tư vấn tham khảo từ cán bộ xã, lãnh đạo thôn. Tổng số mẫu điều tra ở tất cả 7 thôn
thuộc 2 xã Dương Quang và Nông Thượng và phường Huyền Tụng trên đây là
105 hộ gia đình nông thôn (Bảng 2.1).
b) Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc
Sử dụng phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập các thông tin liên
quan đến đề tài. Bảng kiểm kê liệt kê vấn đề cần nghiên cứu sẽ được hình thành
để thu thập các thông tin số liệu liên quan.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi thực hiện phỏng vấn bán cấu trúc
với các chủ tịch hoặc phó chủ tịch phụ trách kinh tế của các xã. Nội dung nhằm
thu thập những thông tin chung về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; những đường lối, chủ trương, chính sách hỗ trợ,… của địa phương đối
39
với hoạt động sản xuất của người dân; tìm hiểu về những chương trình, dự án phát
triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang triển khai tại địa phương.
c) Phương pháp quan sát trực tiếp
Là phương pháp thu thập thông tin một cách chủ quan thông qua quan sát,
đánh giá trực tiếp về điều kiện kinh tế xã hội, đời sống sinh hoạt, lao động sản
xuất của người dân trên địa bàn nghiên cứu. Sử dụng phương pháp quan sát để có
thể giải thích những sự kiện và hiện tượng đang nảy sinh trong đời sống, kinh tế
xã hội tại địa bàn nghiên cứu.
2.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu
2.3.2.1. Phương pháp phân tích thống kê Excel
Các loại số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu được được kiểm tra, phân tổ
và tổng hợp theo hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu đã xây dựng sử dụng phần mềm
thống kê Excel/PivotTable (Dương Văn Sơn và Bùi Đình Hòa, 2012).
Các thông tin định lượng trong bảng hỏi (phiếu điều tra) được tính toán xử
lý một số đại lượng thống kê thông dụng của mẫu như: Độ lệch chuẩn (SD), sai
số chuẩn (SE) và hệ số biến động (CV%) nhằm hiểu rõ bản chất dẫy số liệu đã
quan sát.
2.3.2.2. Phương pháp phân tích hồi quy đa biến
Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến để phân tích mối liên hệ
tương quan giữa một số biến độc lập là các biến định lượng và biến định tính (biến
giả định) với biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp (tổng
thu nhập) của hộ gia đình nông thôn.
Mô tả chi tiết các biến số độc lập và biến số phụ thuộc sẽ được trình bày ở
mục 3.2 trong chương 3. Phân tích hồi quy đa biến dựa trên phần mềm IBM SPSS
Statistic 20. Kết quả chi tiết các phân tích này được trình bày ở phụ lục.
2.3.2.3. Phương pháp thống kê mô tả
40
Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng trong nghiên cứu nhằm phân
tích thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn. Các kết quả này được biểu
diễn dưới dạng các số tương đối, số tuyệt đối, số trung bình, được trình bày bằng
bảng số liệu, hình,...
2.3.2.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng để đánh giá thực trạng thu nhập của hộ gia
đình thông qua việc so sánh các chỉ tiêu nghiên cứu theo thời gian, theo phân loại
nhóm hộ. Kết quả của phân tích này sẽ là cơ sở của việc tìm ra các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của hộ gia đình tại thành phố Bắc Kạn.
2.3.2.5. Phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
Đề tài đồng thời sử dụng cả nghiên cứu định tính, chỉ rõ những đặc điểm
mang tính định tính của hộ gia đình nông thôn, đồng thời sử dụng cả nghiên cứu
định lượng thông qua xác định các thông tin định lượng của hộ gia đình nông thôn
trong nghiên cứu.
2.3.2.6. Nghiên cứu mô tả và nghiên cứu giải thích
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả để thiết lập trạng thái tồn tại của
sự vật hiện tượng, chỉ ra bộ mặt hiện thực của đối tượng nghiên cứu, là tiền đề
cho nghiên cứu giải thích nhằm chỉ ra mối quan hệ tất yếu, bản chất của hiện
tượng này (tức là hiện tượng cần được giải thích) với hiện tượng khác mà có quan
hệ với hiện tượng giải thích.
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài
2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về đặc điểm danh tính của hộ gia đình nông thôn
- Họ tên, địa chỉ, tuổi, học vấn, dân tộc, số năm định cư,…
- Đặc điểm về nghề nghiệp chính, phân loại kinh tế hộ.
2.4.2. Nhóm chỉ tiêu về nguồn lực của hộ gia đình nông thôn
- Nguồn lực lao động: nhân khẩu, lao động, lao động đã đào tạo,…
41
- Nguồn lực đất đai: Tổng diện tích đất đai, diện tích đất nông nghiệp, diện
tích đất lâm nghiệp, đất ở, đất thuê mướn…
- Nguồn lực vốn và cơ sở vật chất: vốn sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật,…
2.4.3. Nhóm chỉ tiêu về sinh kế và thu nhập hộ gia đình nông thôn
- Hoạt động sinh kế nông nghiệp: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp,…
- Hoạt động sinh kế phi nông nghiệp: Thương mại-dịch vụ, công nghiệp-
xây dựng, ngành nghề,…
- Thu nhập hỗn hợp của gia đình.
2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về kinh tế của hộ gia đình nông thôn
- Giá trị sản xuất - GTSX (GO - Gross Output): Là giá trị toàn bộ sản phẩm
sản xuất ra trong kỳ sử dụng đất (một vụ, một năm, tính cho từng cây trồng).
i≡1 Qi x Pi
GO = ∑n
Trong đó: Qi là sản lượng sản phẩm loại i
Pi là đơn giá sản phẩm loại i
- Thu nhập hỗn hợp - TNHH (MI - Mixed Income): Là thu nhập sau khi đã
trừ các khoản chi phí trung gian (chi phí vật chất), thuế hoặc tiền thuê đất, khấu
hao tài sản cố định, chi phí lao động thuê ngoài.
MI = VA - T (thuế) - A (khấu hao) - L (chi phí lao động)
Tính toán ở 3 góc độ hiệu quả: MI/1ha đất; MI/1 đơn vị chi phí (1VNĐ);
MI/1 công lao động. Thu nhập hỗn hợp gồm cả thu nhập nông nghiệp, thu nhập
phi nông nghiệp và các khoản thu khác của hộ gia đình.
- Thu nhập về nông nghiệp.
- Thu nhập về phi nông nghiệp.
- Các khoản thu khác.
2.4.5. Nhóm các biến số trong mô hình hồi quy đa biến
- Biến phụ thuộc: Thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình, thu nhập về nông
nghiệp của hộ gia đình
42
- Biến độc lập định lượng: Học vấn, vốn, diện tích đất canh tác, lao động,
nhân khẩu,…
- Biến độc lập giả định: Nghề nghiệp chính của hộ, dân tộc,…
43
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố
Bắc Kạn
3.1.1. Một số văn bản quản lý nhà nước liên quan đến thu nhập
3.1.1.1. Văn bản cấp Trung ương
Về cơ bản như đã phân tích trong chương 1, hiện nay ở nước ta có 3 văn
bản pháp lý cấp Trung ương quan trọng sau đây có liên quan đến thu nhập hộ gia
đình là:
- Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng
cho giai đoạn 2016-2020.
- Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
- Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc
ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020.
3.1.1.2. Văn bản cấp địa phương
Ở cấp địa phương, tỉnh Bắc Kạn có các văn bản pháp lý sau đây có liên
quan đến kinh tế và thu nhập hộ gia đình:
- Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ Ba (khóa 11) về Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh trên thị trường giai đoạn 2016-2020.
- Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 11/4/2017 của HĐND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.
- Quyết định số 734 /QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của UBND tỉnh Bắc Kạn
về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.
44
Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập khu vực nông thôn toàn tỉnh đến năm 2020
đạt bình quân đầu người từ 36 triệu đồng/năm trở lên; năm 2017 đạt từ 26 triệu
đồng/người/năm trở lên; năm 2018 đạt từ 30 triệu đồng/người/năm trở lên; năm
2019 đạt từ 33 triệu đồng/người/năm trở lên.
- Quyết định số 1861/QĐ-UBND ngày 6/11/2018 của UBND tỉnh Bắc Kạn
về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020.
Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh năm 2018 đạt
từ 31,2 triệu đồng/năm trở lên; năm 2019 đạt từ 36 triệu đồng/người/năm trở lên;
năm 2020 đạt từ 39,6 triệu đồng/người/năm trở lên.
- Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 13/2/2019 của UBND tỉnh Bắc Kạn
về việc ban hành Bộ tiêu chí thôn nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020.
Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, năm 2019 thu nhập bình quân đầu người của thôn đạt
từ 33 triệu đồng/người/năm trở lên, năm 2020 đạt từ 36 triệu đồng/người/năm trở
lên.
3.1.2. Nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Nguồn lực là tất cả những gì cần thiết để có thể làm được một việc gì đó.
Nguồn lực của hộ gia đình nông thôn bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực của
chính gia đình đó. Trình độ người lao động gồm trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn kỹ thuật. Học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh
chất lượng nguồn nhân lực.
Trước hết, về nguồn nhân lực, kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105
hộ gia đình đã điều tra, có tuổi bình quân 50,7 năm, nên vẫn còn nhiều khả năng
cũng như sức khỏe để phát triển kinh tế cho hộ gia đình. Về số năm đi học: Các
hộ có học vấn bình quân học đến lớp 7,4 theo khung đào tạo ở bậc phổ thông 12
lớp, trong đó nhóm hộ gia đình có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và
phi nông nghiệp có học vấn lớp 8,3, cao hơn nhóm hộ thuần nông nghiệp, chỉ học
hết lớp 6,1. Mỗi hộ gia đình có bình quân 4,4 nhân khẩu, trong đó nhóm hộ thuần
45
nông nghiệp có số nhân khẩu là 4,6 người/hộ, nhiều hơn 0,3 người/hộ so với nhóm
hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Mỗi hộ có 2,6 lao động
chính, trong đó có bình quân 1 lao động đã qua đào tạo. Tuy nhiên trong tổng số
105 hộ điều tra mới chỉ có 50 có lao động qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 47,6% tổng số
hộ đã điều tra (Bảng 3.1).
Trên thực tế, số lượng lao động nông thôn tại các xã trên địa bàn thành phố
Bắc Kạn chưa qua đào tạo nghề còn cao. Mặt khác, các ngành nghề của địa
phương chưa thực sự phát triển, sản xuất còn mang tính tự phát là chính, chưa
được quy hoạch đồng bộ. Vì vậy, muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội nông
thôn, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn cần tăng cường công tác đào tạo,
huấn luyện, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn để vừa tạo việc làm, góp
phần phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập. Bảng 3.1. Nguồn nhân lực của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Nghề nghiệp chính Tuổi Học vấn Số lao động Số nhân khẩu Số lao động đã đào tạo
50,5 8,3 4,3 2,6 1,0
Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông 51,0 6,1 4,6 2,6 1,0
Mean 50,7 7,4 4,4 2,6 1,0
n 105 105 105 105 50
SD 9,6 2,6 1,2 0,9 0,1
SE 0,9 0,2 0,1 0,1 0,0
CV% 18,9 34,4 27,8 33,8 13,9
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
Rõ ràng là khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn có nguồn nhân lực dồi
dào, sẵn sàng đáp ứng cho các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội không chỉ cho
chính bản thân khu vực nông thôn, nơi họ đang sinh sống, mà còn có thể cung cấp
một lực lượng lao động lớn cho khu vực đô thị, các khu công nghiệp.
46
Bảng 3.2. Nguồn vốn của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Nghề nghiệp chính
Số hộ vay vốn (hộ) 15 10 25
Vốn sản xuất (triệu đồng) 68,1 37,8 56,0 52,4 5,1 93,7 Số tiền vay (triệu đồng) 33,3 15,9 26,3 20,3 4,1 77,0 Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean SD SE CV%
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
Nguồn lực tài chính của hộ gia đình nông thôn chủ yếu là vốn đầu tư cho
sản xuất. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra, bình quân mỗi
hộ có vốn sản xuất là 56 triệu đồng/năm. Trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn
hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp có số vốn sản xuất là 68,1 triệu
đồng/năm, cao hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, với số vốn chỉ là 37,8 triệu
đồng/năm (Bảng 3.2).
Trong sản xuất kinh doanh của hộ gia đình nông thôn, các hộ cần cần vốn,
song bản thân nội lực gia đình chưa đủ đáp ứng nhu cầu vốn, nên họ cần vay vốn.
Kết quả điều tra cho thấy: trong tổng số 105 hộ điều tra thì chỉ có 25 hộ vay vốn
với số vốn vay bình quân đạt 26,3 triệu đồng. Trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp
hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp đã vay vốn bình quân là 33,3
triệu đồng, nhiều hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, chỉ vay với số vốn bình
quân mỗi hộ là 15,9 triệu đồng (Bảng 3.2). Tất cả 25 hộ vay vốn trên đều vay tiền
từ hệ thống tín dụng chính thức của địa phương như: Ngân hàng Chính sách xã
hội, ngân hàng Nông nghiệp và PTNT,... Một điều đáng chú ý là khi phỏng vấn,
47
nhiều hộ gia đình vẫn có nhu cầu vay vốn, nhưng rất ngại vay vì thủ tục vay vốn
còn rờm rà, lãi suất còn cao,...
Bảng 3.3. Nguồn lực đất đai của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Nghề nghiệp chính Đất canh tác (ha) Đất lâm nghiệp (ha)
Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean n SD SE CV% 0,374 0,429 0,396 105 0,316 0,031 79,7 1,091 1,297 1,187 77 0,568 0,065 47,8
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
Nguồn lực vật chất của hộ gia đình nông thôn trong nghiên cứu này chủ
yếu là đất đai, bao gồm diện tích đất canh tác để trồng trọt các cây nông nghiệp
ngắn ngày (như: lúa, ngô, rau, hoa, cây hoa màu,...) và cây nông nghiệp dài ngày
(như: cam, quýt, chuối, hồng không hạt,...). Kết quả điều tra cho thấy: trong tổng
số 105 hộ điều tra, bình quân mỗi hộ có 0,396 ha đất canh tác, độ lệch cao (0,316
ha/hộ), nên biến động lớn (tới 79,7%), chứng tỏ rằng có sự biến động rất lớn về
diện tích đất canh tác giữa các nhóm hộ. Một số hộ có quy mô đất canh tác khá
lớn, có thể đạt ở quy mô trang trại, phát triển cây ăn quả, rau xanh,... Trong đó về
tổng thể nhóm hộ thuần nông nghiệp có diện tích canh tác là 0,429 ha/hộ, nhiều
hơn so với nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông
nghiệp, với diện tích canh tác bình quân là 0,374 ha/hộ (Bảng 3.3). Mặt khác, theo
quan sát của chúng tôi, số mảnh thửa đất canh tác mỗi hộ tương đối nhiều, biến
động từ 6-12 mảnh/hộ, lại phân bố rất dải rác, tiêu tốn nhiều thời gian đi từ nhà
đến nơi canh tác. Tình trạng manh mún và phân tán về đất đai là một thách thức
cho phát triển sản xuất hàng hóa để tạo thu nhập. Vì vậy cần có tích tự tập trung
48
đất đai, dồn điền đổi thửa, phát triển trang trại, tạo cánh đồng lớn cho sản xuất
hàng hóa. Nếu phân theo nhóm hộ khác nhau về nhóm dân tộc thì nhóm hộ người
Tày có nhiều đất canh tác hơn so với nhóm hộ người Dao. Đây cũng chính là lý
do tại sao nhóm họ người Dao trong nghiên cứu này lại nghèo, lại có thu nhập
thấp. Chúng ta sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu vấn đề này trong các mục tiếp theo.
Đặc điểm của khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn là điều kiện tự nhiên
cơ bản là đồi núi, nên diện tích đất lâm nghiệp là thế mạnh của các hộ gia đình địa
phương. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra thì có tới 77 hộ
(chiếm tỷ lệ 73,3%) có đất lâm nghiệp để trồng rừng sản xuất với các loại cây chủ
lực như: Keo, mỡ,… Bình quân mỗi hộ có 1,187 ha đất trồng cây lâm nghiệp,
trong đó nhóm hộ thuần nông nghiệp có đất lâm nghiệp nhiều hơn nhóm hộ hỗn
hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp (Bảng 3.3).
3.1.3. Thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Trước hết trên phạm vi cả nước, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, việc sau
30 năm đổi mới, thu nhập vùng nông thôn vẫn chỉ bằng 55,8% thu nhập thành thị,
vùng trung du - miền núi phía Bắc chỉ bằng 46,5% thu nhập thành thị và nếu không
có các giải pháp mới, đột phá thì phải mất 10-15 năm nữa thì thu nhập nông thôn
mới bằng 2/3 thu nhập thành thị và đối với vùng Trung du-miền núi phía Bắc phải
hàng chục năm nữa thì việc tìm con đường mới để nâng cao đáng kể năng suất, thu
nhập cho sản xuất nông nghiệp là yếu tố quyết định, bởi tài nguyên lớn nhất của nông
thôn miền núi là các tài nguyên để phát triển nông nghiệp.
Công bằng mà nói, thu nhập của hộ gia đình nông thôn đã liên tục tăng từ
năm 1999 đến nay. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018), nếu như năm
1999, thu nhập ở khu vực nông thôn cả nước mới chỉ đạt 225 nghìn
đồng/người/tháng, còn ở vùng Trung du miền núi phía Bắc đạt thấp hơn (chỉ đạt
bình quân 199 nghìn đồng/người/tháng); sau đó, thu nhập liên tục tăng, tương ứng
năm 2002 là 275 nghìn và 237 nghìn, năm 2004 là 378 nghìn và 327 nghìn, năm
2006 là 506 nghìn và 422 nghìn, năm 2008 là 762 và 657 nghìn, năm 2010 là
49
1.070 nghìn và 905 nghìn, năm 2012 là 1.579 nghìn và 1.285 nghìn, năm 2014 là
2.038 nghìn và 1.613 nghìn và năm 2016 là 2.423 nghìn và 1.963 nghìn
đồng/người/tháng. Tuy khu vực Trung du miền núi phía Bắc có thu nhập thấp hơn
so với bình quân nông thôn cả nước, nhưng rõ ràng là có sự gia tăng, đặc biệt là
sự bứt phá một cách nhanh chóng về thu nhập hộ gia đình nông thôn cả nước cũng
như hộ gia đình nông thôn khu vực Trung du miền núi phía Bắc, nhất là trong
3000
2500
2000
1,963
1,613
1500
Nông thôn cả nước
1,258
1000
905
657
Trung du và miền núi phía Bắc
500
442
327
237
199
0 1995
2000
2005
2010
2015
2020
vòng 6-7 năm gần đây, bắt đầu từ năm 2010 (Hình 3.1).
Hình 3.1. Thu nhập (ngàn đồng/người/tháng) nông thôn cả nước
và Trung du miền núi phía Bắc
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018
Đối với một địa phương như thành phố Bắc Kạn, trong những năm qua,
UBND thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương triển
khai thực hiện tốt nhiều nội dung phát huy nội lực, huy động tối đa các nguồn lực
tập trung cho Chương trình xây dựng nông thôn mới, nâng cao hiệu quả trong
công tác đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; tăng thu nhập cho người
dân; chỉ đạo triển khai thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án, đặc biệt là
trong công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu. Kết quả trong 06 năm triển
khai thực hiện, tổng nguồn vốn huy động đạt 29,55 tỷ đồng, trong đó: Vốn trực
tiếp cho Chương trình nông thôn mới 17,4 4 đồng (vốn trung ương 7,4 tỷ đồng,
50
vốn ngân sách địa phương 10,04 tỷ đồng); vốn lồng ghép từ các chương trình, dự
án khác 12,11 tỷ đồng; vốn huy động đóng góp của nhân dân 100 triệu đồng và trên 7.000 ngày công lao động, hiến 2.700 m2 đất,...
Nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn bao gồm các
khoản thu từ nông nghiệp, thu từ tiền công, tiền lương và thu từ các hoạt động phi
nông nghiệp. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra mỗi hộ có
thu nhập về nông nghiệp bình quân là 65,8 triệu đồng/năm. Trong đó nhóm hộ
thuần nông nghiệp có thu nhập cao hơn, đạt bình quân 83 triệu đồng/hộ/năm, trong
khi đó nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp chỉ đạt 54,3
triệu đồng/hộ/năm. Tuy nhiên độ lệch chuẩn cao, tới 52,7 triệu đồng/hộ, nên biến
động về thu nhập nông nghiệp lớn, đến 80,2%, chứng tỏ có sự chênh lệch khá lớn
về thu nhập nông nghiệp giữa các nhóm đã điều tra (Bảng 3.4). Trong tổng số 105
hộ điều tra, thì chỉ có 19 hộ có thu nhập từ tiền công, tiền lương với số tiền bình
quân là 48,6 triệu đồng/năm, nhóm hộ kiêm có tiền công, tiền lương nhiều hơn
(50,8 triệu đồng so với 12,9 triệu đồng ở nhóm hộ thuần nông).
Bảng 3.4. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn
thành phố Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp
Đơn vị tính: triệu đồng/hộ/năm
Nghề nghiệp chính
Thu nhập từ nông nghiệp Thu nhập phi nông nghiệp Tổng thu nhập Thu nhập từ tiền công, tiền lương
54,3 50,8 51,9 110,9
Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean n SD SE CV% 83,0 65,8 105 52,7 5,1 80,2 12,9 46,8 19 44,8 10,3 95,6 0,0 51,9 52 37,8 5,2 72,9 83,7 100,0 105 56,5 5,5 56,5
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
51
Điều đáng chú ý là trong số 19 hộ có thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ
cấp thì chỉ có 2 hộ là thuần nông và 17 hộ thuộc nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông
nghiệp và phi nông nghiệp. Kết quả điều tra cho thấy: có 52 hộ (chiếm 49,5% tổng
số hộ điều tra) có thu nhập về phi nông nghiệp như ngành nghề, buôn bán, dịch
vụ, thợ xây,... với số tiền bình quân mỗi hộ thu 51,9 triệu đồng/năm (Bảng 3.4).
Tổng thu nhập (hay còn gọi thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn đạt bình
quân 100 triệu đồng/năm, trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông
nghiệp và phi nông nghiệp có thu nhập 110,9 triệu đồng, cao hơn nhóm hộ thuần
nông nghiệp chỉ đạt 83,7 triệu đồng/hộ/năm (Bảng 3.4).
Kết quả điều tra cho thấy: có một số lượng tương đối lớn lực lượng lao động
ở các vùng nông thôn đổ xô tìm việc làm ở đô thị để làm việc như: làm nghề xây
dựng, thợ xây, tham gia bán hàng, phụ giúp nhà hàng, khách sạn,... Việc thu hút
lao động ở khu vực nông thôn sang thành thị làm việc đang ngày càng trở nên
mạnh mẽ, chứng tỏ vai trò của khu vực nông thôn trong việc cung cấp lao động
cho khu đô thị và khu công nghiệp.
Nếu phân theo nhóm dân tộc trong nghiên cứu này thì nhóm dân tộc Dao
vừa có thu nhập nông nghiệp thấp (chỉ đạt 38,7 triệu đồng/hộ/năm so với 70,3
triệu đồng/hộ/năm của nhóm dân tộc Tày), vừa có thu từ tiền công, tiền lương
thấp (12,9 triệu đồng/hộ/năm so với 50,8 triệu đồng/hộ/năm của nhóm dân tộc
Tày); đặc biệt người Dao không có hoạt động phi nông nghiệp, nên tổng thu nhập
hỗn hợp của nhóm người Dao chỉ đạt bình quân 40,4 triệu đồng/hộ/năm, thấp hơn
2,5 lần so với nhóm dân tộc Tày. Đây là một thách thức, một trở ngại rất lớn trong
việc nâng mức thu nhập bình quân của cả thành phố Bắc Kạn, bởi nhóm hộ cuối
cùng này có xuất phát điểm rất thấp.
52
Bảng 3.5. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn
thành phố Bắc Kạn phân theo dân tộc
Đơn vị tính: triệu đồng/hộ/năm
Dân Thu nhập từ Thu nhập từ tiền Thu nhập phi Tổng thu
tộc nông nghiệp công, tiền lương nông nghiệp nhập
Dao 38,7 12,9 0,0 40,4
Tày 70,3 50,8 51,9 109,9
Mean 65,8 46,8 51,9 100,0
n 105 19 52 105
SD 52,7 44,8 37,8 56,5
SE 5,1 10,3 5,2 5,5
CV% 80,2 95,6 72,9 56,5
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
Cấu trúc tỷ lệ nguồn thu nhập của hộ gia đình cũng là điều cần bàn. Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Năm 2016, nếu như tỷ lệ phần trăm các
khoản thu từ nông lâm nghiệp thủy sản ở khu vực nông thôn cả nước cũng như
vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ đạt tương ứng là 27,1 và 27,3%, thì ở tỉnh
Bắc Kạn con số này đạt cao hơn, tới 41%. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ phần trăm các
khoản thu từ phi nông lâm thủy sản ở các khu vực, vùng và tỉnh Bắc Kạn tương
ứng là 20,4%, 18,1% và 15,2%, chứng tỏ các hoạt động phi nông nghiệp ở tỉnh
Bắc Kạn chưa phát triển (Hình 3.2).
45.00
40.00
35.00
30.00
Bắc Kạn
25.00
20.00
15.00
Trung du miền núi phía Bắc
10.00
Nông thôn cả nước
5.00
0.00
Các khoản thu khác
Thu từ tiền lương, tiền công
Thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản
Thu phi nông, lâm nghiệp, thủy sản
53
Hình 3.2. Tỷ lệ (%) nguồn thu nhập hộ gia đình tỉnh Bắc Kạn năm 2016
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018
Nhìn chung, nguồn thu nhập của hộ gia đình bao gồm các khoản thu từ tiền
lương, tiền công, thu từ nông lâm nghiệp thủy sản, thu từ phi nông lâm thủy sản
và các khoản thu khác.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Nếu so sánh tổng thu nhập
cũng như cấu trúc các khoản thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Bắc Kạn với vùng
Trung du miền núi phía Bắc và khu vực nông thôn cả nước thì rõ ràng các trị số
này ở tỉnh Bắc Kạn đều thấp hơn so với vùng Trung du miền núi phía Bắc cũng
như thấp hơn so với bình quan chung khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6).
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Tổng thu nhập hộ gia đình toàn
tỉnh Bắc Kạn năm 2012 đạt 1.142 nghìn đồng/người/tháng, bằng 90,7% so với
vùng Trung du miền núi phía Bắc, bằng 72,3% so với bình quân khu vực nông
thôn cả nước (Bảng 3.6). Năm 2014, tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh Bắc
Kạn đạt 1.216 nghìn đồng/người/tháng, bằng 75,4% so với vùng Trung du miền
núi phía Bắc, bằng 59,6% so với khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6). Năm
2016, tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh Bắc Kạn đạt 1.401 nghìn
54
đồng/người/tháng, bằng 71,3% so với vùng Trung du miền núi phía Bắc, bằng
57,8% so với khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6).
Bảng 3.6. Nguồn thu nhập tỉnh Bắc Kạn, nông thôn cả nước và vùng
Đơn vị tính: nghìn đồng/người/tháng
Năm Nguồn thu Tổng số
Các khoản thu khác
Thu từ nông, lâm, thủy sản Thu từ phi nông, lâm, thủy sản
Nông thôn cả nước 1.579 Thu từ tiền lương, tiền công 607 503 294 175
2012 Trung du miền núi phía Bắc 1.258 536 406 197 119
Tỉnh Bắc Kạn 1.142 313 481 290 58
Nông thôn cả nước 2.038 814 586 393 245
2014 Trung du miền núi phía Bắc 1.613 707 471 283 152
Tỉnh Bắc Kạn 1.216 410 500 220 86
Nông thôn cả nước 2.423 999 656 495 273
883 535 355 190 2016 Trung du miền núi phía Bắc 1.963
514 575 213 99 Tỉnh Bắc Kạn 1.401
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018
Một chỉ tiêu quan trọng cần tìm hiểu là thu nhập bình quân đầu người. Kết
quả điều tra cho thấy: Nếu phân theo các nhóm hộ khác nhau về nghề nghiệp thì
mặc dù năm 2018 thu nhập bình quân đầu người đạt 22,7 triệu đồng/năm, nhưng
nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp có thu
nhập cao hơn, đạt bình quân 25,8 triệu đồng/năm so với 18,2 triệu đồng/năm của
nhóm hộ thuần nông nghiệp. Do đó, thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng đạt
1,9 triệu đồng, trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp
55
và phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn, đạt bình quân 2,1 triệu đồng/người/tháng
so với 1,5 triệu đồng/người/tháng của nhóm hộ thuần nông nghiệp (Bảng 3.7).
Bảng 3.7. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người
thành phố Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp chính
Thu nhập bình quân hộ (triệu đồng/năm) Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/năm) Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/tháng)
Hộ hỗn hợp kiêm nông 110,9 25,8 2,1 nghiệp và phi nông nghiệp
Hộ thuần nông 83,7 18,2 1,5
Bình quân chung 100,0 22,7 1,9
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
Nếu phân theo nhóm dân tộc khác nhau, kết quả điều tra cho thấy: Tuy thu
nhập bình quân đầu người của cả khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn đạt 22,7
triệu đồng/người/năm, tính theo tháng là 1,9 triệu đồng/người/tháng, nhưng người
Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3
lần so với nhóm dân tộc Tày (Bảng 3.8). Đây là con số đặc biệt, rất cần được quan
tâm và cần có những đánh giá, nghiên cứu tiếp theo. Nếu so sánh với Bộ tiêu chí
nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020 theo Quyết định số 1861/QĐ-UBND
ngày 6/11/2018 của UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn
mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020. Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập bình
quân đầu người năm 2018 đạt từ 31,2 triệu đồng/năm trở lên; năm 2019 đạt từ 36
triệu đồng/người/năm trở lên; năm 2020 đạt từ 39,6 triệu đồng/người/năm trở lên.
Rõ ràng mức thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn thành phố Bắc Kạn còn thấp
hơn rất nhiều so với mức thu nhập trong Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo
quy định của UBND tỉnh Bắc Kạn. Đây cũng là một thách thức rất lớn để có thể
đạt được mục tiêu này.
56
Tóm lại: Hiện nay đang có sự chênh lệch rất lớn về thu nhập giữa các nhóm
hộ khác nhau trên địa bàn nông thôn thuộc thành phố Bắc Kạn. Trong đó, có một
nhóm cộng đồng định cư tại nơi khá biệt lập với đông đảo cộng đồng cư dân khác
đang dần trở nên ngày một nghèo hơn, dần đang tạo ra khoảng cách chênh lệch
thu nhập ngày một gia tăng hơn so với nhóm đa số hộ gia đình ở khu vực, nhất là
đối với cộng đồng cư dân đô thị. Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình
đẳng thu nhập ở thành phố Bắc Kạn đều được bắt nguồn từ các nhân tố mang tính
đặc trưng của nhóm dân số; sự khác biệt về địa lý; sự khác biệt về các động lực
tăng trưởng nông nghiệp và phi nông nghiệp giữa các cộng đồng cư dân; những
thay đổi trong mô hình sản xuất, từ mô hình nông nghiệp đến mô hình phi nông
nghiệp, và từ công việc tay nghề thấp đến công việc có kỹ năng cao; sự dịch
chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang các cơ hội làm công ăn lương và kinh doanh
phi nông nghiệp, tăng nguồn lợi thu được từ đầu tư cho giáo dục, khác biệt về
trình độ học vấn giữa các hộ,... Trên thực tế, nhóm cộng đồng người Dao trong
nghiên cứu này có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, ít
có cơ hội phát triển,... Đồng thời, các cơ hội và việc làm phi nông nghiệp của
nhóm cộng đồng này cũng kém hơn. Tất cả những nhược điểm trên dây dẫn đến
thực trạng thu nhập thấp của nhóm cộng đồng này.
Bảng 3.8. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người
thành phố Bắc Kạn phân theo dân tộc
Thu nhập bình Thu nhập bình Thu nhập bình
Dân tộc quân hộ quân đầu người quân đầu người
(triệu đồng/năm) (triệu đồng/năm) (triệu đồng/tháng)
Dao 40,4 8,4 0,7
Tày 109,9 25,2 2,1
Bình quân chung 100,0 22,7 1,9
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018
57
3.2. Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, thách thức tác động đến thu nhập của hộ
gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
3.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành
phố Bắc Kạn
Bảng 3.9 mô tả các biến số trong mô hình hồi quy đa biến một số yếu tố
(biến số) ảnh hưởng đến thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp (tức tổng thu
nhập) của hộ gia đình nông thôn ở thành phố Bắc Kạn. Các biến số định lượng ở
đây gồm: học vấn của chủ hộ, nhân khẩu, lao động, vốn đầu tư sản xuất, diện tích
đất canh tác. Có hai biến định tính (biến giả định) là dân tộc (với 1 là dân tộc Tày,
0 là dân tộc Dao, trong đó giả thiết đặt ra là dân tộc Tày có thu nhập nông nghiệp
và thu nhập hỗn hợp cao hơn nhóm dân tộc Dao). Biến giả định nghề nghiệp của
chủ hộ (trong đó 1 là hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, 0 là
hộ thuần nông nghiệp), với giả thiết đặt ra là hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và
phi nông nghiệp có lợi thế hơn về thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp so
với hộ thuần nông nghiệp.
Ta thấy, trong tổng số 105 hộ gia đình đã được điều tra, mỗi hộ có thu nhập
về nông nghiệp bình quân là 65,8 triệu đồng/năm. Tuy nhiên độ lệch chuẩn khá
cao, tới 52,7 triệu đồng, chứng tỏ có sự biến động rất lớn về thu nhập nông nghiệp
giữa các hộ gia đình. Tổng thu nhập (hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) của hộ gia
đình nông thôn đạt 100 triệu đồng/năm, nhưng độ lệch chuẩn khá cao tới 56,5
triệu, chứng tỏ có sự biến động rất lớn về tổng thu nhập của hộ gia đình nông thôn
tại địa bàn nghiên cứu, tức là có sự phân hóa lớn giữa giàu và nghèo. Đây đang
trở thành một thách thức cho mục tiêu tăng thu nhập của địa phương, của thành
phố Bắc Kạn cũng như cả tỉnh Bắc Kạn. Mỗi hộ gia đình có bình quân 4,4 nhân
khẩu, với 2,6 lao động, có 0,39 ha đất canh tác trồng trọt các cây nông nghiệp
ngắn ngày (như: Lúa, ngô, rau màu,…) và dài ngày (như: Cam, quýt, chuối, hồng
không hạt,…). Tổng số vốn đầu tư cho sản xuất bình quân mỗi hộ có 55,97 triệu
đồng/năm, độ lệch chuẩn cao tới 52,43 triệu đồng, nên sự biến động về vốn rất
lớn giữa các hộ điều tra (Bảng 3.9).
58
Bảng 3.9. Diễn giải các biến số trong mô hình hồi quy đa biến
Giá trị
Độ lệch
Biến số
Đơn vị tính
trung bình
chuẩn
65,8
52,7
Thu nhập nông nghiệp (Y1) Triệu đồng/năm
Triệu đồng/năm
100,0
56,5
Thu nhập hỗn hợp (Y2)
Năm
7,43
2,56
Học vấn (X1)
Người
4,43
1,23
Nhân khẩu (X2)
Người
2,56
0,86
Lao động (X3)
0,86
0,35
1 = Tày, 0 = Dao
Dân tộc (X4)
1 = Hỗn hợp kiêm cả nông
nghiệp và phi nông nghiệp,
0,60
0,49
Nghề nghiệp (X5)
0 = Thuần nông nghiệp
Triệu đồng
55,97
52,43
Vốn (X6)
Ha
0,39
0,32
Đất canh tác (X7)
Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018
Bảng 3.10 tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập nông
nghiệp của hộ gia đình nông thôn. Cần chú ý rằng, hệ số điều chỉnh R2 = 0,287,
có nghĩa rằng: tất cả 7 biến độc lập trong mô hình nghiên cứu này chỉ có thể giải
thích được khoảng 28,7% sự thay đổi của biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp
của hộ gia đình nông thôn, còn lại tới 71,3% là do các biến số khác không được
nghiên cứu trong mô hình này hoặc do sai số. Như vậy sự ước lượng về mối liên
hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp của hộ gia
đình ở đây có một hạn chế khá lớn, chưa sát với thực tế thu nhập của hộ gia đình
nông thôn, do đó kết quả khảo sát hồi quy chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên,
hệ số Durbin-Watson = 1,891, lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, chứng tỏ không có hiện
tượng tự tương quan trong số 10 biến độc lập đã nghiên cứu với thu nhập. Hệ số
VIF của tất cả các biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ không có hiện tượng
đa cộng tuyến.
59
Bảng 3.10. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập
nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Mức ý Hệ số Hệ số chưa Hệ số đã nghĩa tương Biến số chuẩn hóa chuẩn hóa Giá trị t thống kê quan (B) (Beta) (Sig) (R2)
Hằng số 20,659 0,819 0,415
-0,870 -0,042 -0,399 0,691 -0,026 Học vấn (X1)
3,857 0,090 0,923 0,358 0,105 Nhân khẩu (X2)
-0,546 -0,009 -0,089 0,929 0,070 Lao động (X3)
49,789 0,332 2,651 0,009 0,211 Dân tộc (X4)
-45,500 -0,425 -3,897 0,000 -0,269 Nghề nghiệp (X5)
0,123 0,122 1,274 0,206 0,119 Vốn (X6)
34,466 0,206 1,971 0,052 0,379 Đất canh tác (X7)
Hệ số điều chỉnh R2 = 0,287
Hệ số Durbin-Watson = 1,891
Hệ số VIF = 1,522; 1,296; 1,379; 2,133; 1,615; 1,249; 1,492
Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018
Bảng 3.10 cho thấy: Mối quan hệ giữa thu nhập nông nghiệp của hộ gia
đình nông thôn thành phố Bắc Kạn với một số biến số độc lập được biểu diễn dưới
dạng hàm số đa biến như sau:
Hàm số Y1 (thu nhập nông nghiệp) = 20,659 - 0,870 X1(học vấn) + 3,857
X2(nhân khẩu) - 0,546 X3(lao động) + 49,789 X4(dân tộc) - 45,5 X5(nghề nghiệp)
+ 0,122 X6(vốn đầu tư) + 34,466 X7(diện tích đất canh tác).
Ta thấy: Các biến số độc lập định lượng: số nhân khẩu, vốn đầu tư và diện
tích đất canh tác có tương quan thuận cùng chiều với thu nhập về nông nghiệp của
hộ gia đình nông thôn. Điều này có nghĩa rằng để gia tăng thu nhập về nông
60
nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy
sản cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích canh tác cũng như
gia tăng số nhân khẩu trong hộ gia đình. Chẳng hạn, theo mô hình này, trong điều
kiện các biến số khác không thay đổi, nếu đầu tư vốn sản xuất tăng thêm 1 triệu
đồng thì thu nhập nông nghiệp sẽ tăng thêm 0,123 triệu đồng, hay, nếu mở rộng
thêm diện tích canh tác 1 ha thi thu nhập nông nghiệp sẽ tăng thêm một con số
khá lớn là 34,466 triệu đồng. Tuy nhiên, việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng
như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, nhưng trên thực tế, điều này
nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh
tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn,… Đây có thể coi là những nút thắt đối
với việc nâng cao thu nhập về nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn địa phương
(Bảng 3.10).
Kết quả nghiên cứu bảng 3.10 cho thấy: Các biến số định lượng học vấn chủ
hộ và số lao động lại có tương quan nghịch ngược chiều với thu nhập nông nghiệp
của hộ gia đình nông thôn, tức là hộ gia đình nào càng có nhiều lao động thì thu
nhập về nông nghiệp lại càng thấp, chứng tỏ rằng vai trò lao động nông thôn hiện
nay không có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính
vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát
triển ở khu vực đô thị. Mặt khác học vấn của chủ hộ cũng không có đóng góp gì
cho gia tăng về thu nhập nông nghiệp. Đây là vấn đề mới, cần được tiếp tục nghiên
cứu tiếp theo.
Trong hai biến giả định là nghề nghiệp chính của hộ gia đình và dân tộc thì
biến giả định nghề nghiệp lại có tương quan nghịch ngược chiều với thu nhập
nông nghiệp, do đó bác bỏ giả thiết đã đặt ra về nghề nghiệp của hộ gia đình. Điều
này có nghĩa rằng hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp không có
lợi thế về thu nhập nông nghiệp, hay hộ thuần nông nghiệp có thu nhập nông
nghiệp cao hơn hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Lý do ở đây
chủ yếu là do hộ thuần nông nghiệp có tính chuyên sâu hơn so với hộ hỗn hợp
61
kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với biến giả định dân tộc có tương
quan thuận cùng chiều với thu nhập nông nghiệp, tức là hoàn toàn phù hợp với
giả thiết đã đặt ra về biến dân tộc. Điều đó có nghĩa rằng hộ gia đình dân tộc Tày
có thu nhập nông nghiệp cao hơn hộ dân tộc Dao, chủ yếu do nhóm hộ dân tộc
Tày có nhiều nguồn lực hơn để phát triển sản xuất nông nghiệp để tạo nhiều thu
nhập nông nghiệp.
Nhìn chung mối tương quan giữa 7 biến số độc lập trong nghiên cứu này
với thu nhập nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên cứu ở
thành phố Bắc Kạn được đánh giá ở mức thấp, hệ số tương quan biến động từ
0,026 đến 0,379, cao hơn cả là tương quan giữa diện tích đất canh tác với thu nhập
(0,379).
Bảng 3.11. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập
hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn
Hệ số chưa
Hệ số đã
Mức ý nghĩa
Hệ số
Biến số
chuẩn hóa
chuẩn
Giá trị t
thống kê
tương
(B)
hóa (Beta)
(Sig)
quan (R2)
Hằng số
-20,284
-0,850
0,397
1,767
0,080
0,856
0,394
0,317
Học vấn (X1)
12,474
0,272
3,157
0,002
0,207
Nhân khẩu (X2)
-5,492
-0,084
-0,947
0,346
0,055
Lao động (X3)
31,384
0,195
1,767
0,080
0,433
Dân tộc (X4)
2,609
0,023
0,236
0,814
0,237
Nghề nghiệp (X5)
0,458
0,425
5,027
0,000
0,547
Vốn (X6)
29,923
0,167
1,809
0,073
0,267
Đất canh tác (X7)
Hệ số điều chỉnh R2 = 0,444
Hệ số Durbin-Watson = 1,851
Hệ số VIF = 1,522; 1,296; 1,379; 2,133; 1,615; 1,249; 1,492
Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018
62
Bảng 3.11 tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến tổng thu nhập
hay còn gọi thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn. Cần chú ý rằng, hệ số
điều chỉnh R2 = 0,444, có nghĩa rằng: tất cả 7 biến độc lập trong mô hình nghiên
cứu này chỉ có thể giải thích được khoảng 44,4% sự thay đổi của biến phụ thuộc
là thu nhập hỗn hợp hay tổng thu nhập của hộ gia đình nông thôn, còn lại 55,6%
là do các biến số khác không được nghiên cứu trong mô hình này hoặc do sai số.
Như vậy sự ước lượng về mối liên hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc là
thu nhập hỗn hợp hay tổng thu nhập của hộ gia đình ở đây tuy đã khá gần với thực
tế hơn so với thu nhập nông nghiệp vừa phân tích ở trên, song cũng có một hạn
chế nhất định, do đó kết quả khảo sát hồi quy cũng có tính chất tham khảo. Tuy
nhiên, hệ số Durbin-Watson = 1,851, lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, chứng tỏ không có
hiện tượng tự tương quan trong số 7 biến độc lập đã nghiên cứu với thu nhập. Hệ
số VIF của tất cả các 7 biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ không có hiện
tượng đa cộng tuyến (Bảng 3.11).
Bảng 3.11 cho thấy: Mối quan hệ giữa một số biến số độc lập với tổng thu
nhập (hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc
Kạn với được biểu diễn dưới dạng hàm số đa biến như sau:
Hàm số Y2 (tổng thu nhập hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) = -20,284 +
1,767X1(học vấn) + 12,474X2(nhân khẩu) - 5,492X3(lao động) + 31,384X4(dân
tộc) + 2,609X5(nghề nghiệp) + 0,458X6(vốn đầu tư) + 29,923X7(diện tích đất canh
tác).
Bảng 3.11 cho thấy: Các biến số độc lập định lượng như: Học vấn chủ hộ,
nhân khẩu, vốn đầu tư và diện tích đất canh tác có tương quan thuận cùng chiều
với thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên cứu. Điều này
có nghĩa rằng để tăng tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông
thôn cần chú ý đầu tư gia tăng các yếu tố này. Nếu như học vấn chủ hộ có liên
quan đến giáo dục và đào tạo, thì nhân khẩu lại có liên quan đến chiến lược dân
số và chất lượng cuộc sống. Theo mô hình này, trong điều kiện các biến số khác
63
không thay đổi, nếu vốn đầu tư sản xuất được tăng thêm 1 triệu đồng thì thu nhập
hỗn hợp của hộ gia đình sẽ tăng thêm 0,458 triệu đồng, hay nếu diện tích canh tác
được mở rộng thêm 1 ha thì thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình sẽ tăng thêm 29,923
triệu đồng. Tương tự như đã phân tích ở trên, việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất
cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, nhưng trên thực tế, điều
này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất
canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn,… Đây có thể coi là những nút thắt
đối với việc nâng cao thu nhập về nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn địa
phương.
Bảng 3.11 cũng chỉ ra rằng: Số lao động của hộ gia đình nông thôn lại có
tương quan nghịch ngược chiều với tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp của hộ
gia đình nông thôn, tức là hộ gia đình nào càng có nhiều lao động thì tổng thu
nhập lại càng thấp, chứng tỏ rằng vai trò lao động nông thôn hiện nay không có
nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó,
họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị. Vì vậy cần
có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn.
Điều đáng chú ý là hai biến độc lập giả định là dân tộc và nghề nghiệp của
chủ hộ có tương quan thuận cùng chiều với tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp
của hộ gia đình nông thôn, tức là hoàn toàn phù hợp với giả thiết đã đặt ra đối với
hai biến giả định này ở phần trên. Điều này có nghĩa rằng: Nhóm cộng đồng dân
tộc Tày có tổng thu nhập (tức thu nhập hỗn hợp) cao hơn nhóm cộng đồng dân
tộc Dao, chủ yếu do nhóm người Tày có nhiều lợi thế về nguồn lực hơn so với
người Dao. Mặt khác, hộ gia đình nông thôn nào có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả
nông nghiệp và phi nông nghiệp sẽ có tổng thu nhập (hay thu nhập hỗn hợp) cao
hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, chủ yếu do nhóm hộ này có thêm phần
thu từ các hoạt động tiền lương, tiền công, các khoản thu từ hoạt động ngành nghề
và phi nông nghiệp. Vì vậy, để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần
chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần
64
nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông
nghiệp.
Mối tương quan giữa 7 biến số độc lập trong nghiên cứu này với tổng thu
nhập hay còn gọi thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên
cứu ở thành phố Bắc Kạn được đánh giá ở mức trung bình, hệ số tương quan biến
động từ 0,055 (giữa lao động với thu nhập hỗn hợp) đến 0,547 (giữa vốn với thu
nhập hỗn hợp).
Tóm lại, để có thể tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp
(tức tổng thu nhập) của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn
sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu
thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang
trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp.
3.2.2. Khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông
thôn thành phố Bắc Kạn
Qua nghiên cứu, tìm hiểu tình hình cụ thể ở các vùng nông thôn thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, cho thấy hiện nay đang tồn tại một số khó khăn, thách
thức có tác động đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn như sau:
- Địa hình, đất đai bị chia cắt mạnh và có độ dốc lớn, dễ rủi ro về thiên tai
như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, mưa đá,...
- Tuy là thành phố trực thuộc tỉnh, nhưng do điểm xuất phát thấp, điều kiện
kinh tế-xã hội còn gặp rất nhiều khó khăn. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
của người dân nông thôn còn thấp, nhất là đối với các dân tộc thiểu số, vùng xa
trung tâm. Kết quả là thu nhập của người dân nông thôn còn thấp, thu nhập trong
nông nghiệp thấp, tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp thấp. Chênh lệch giàu
nghèo đang dần gia tăng. Nhóm người Dao trong nghiên cứu này có thu nhập chỉ
bằng 1/3 so với nhóm người Tày, do đó nhóm cộng đồng này đang dần bị tụt hậu
so quá trình phát triển. Một thách thức rất lớn đang đặt ra là thực trạng thu nhập
thấp này khó có thể đạt với mục tiêu đặt ra trong Bộ tiêu chí xây dựng thôn nông
65
thôn mới gần đây nhất của UBND tỉnh Bắc Kạn cũng như mục tiêu phấn đấu của
thành phố Bắc Kạn.
- Số lượng lao động được qua đào tạo nghề còn rất thấp, trình độ văn hoá
và khả năng áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của người dân chưa cao, trình độ quản
lý của cán bộ cấp xã còn nhiều bất cập.
- Thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật mới, việc đào tạo nghề chưa hiệu
quả; một số kỹ thuật tiến bộ áp dụng vào thực tế chưa hiệu quả. Tâm lý của một
số hộ dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu đổi mới sáng tạo.
- Thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp còn bấp bênh và thiếu ổn
định, người dân có sản phẩm bán nhưng thường bị tư thương ép giá, thiếu thông
tin về giá cả, không bán được giá cao, thiếu thị trường tiêu thụ nên bán được ít
sản phẩm.
- Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn còn ít và dàn
trải. Thiếu vốn đầu tư mở rộng sản xuất, khó tiếp cận nguồn vốn chính thống.
- Dịch bệnh xuất hiện ngày càng nhiều cả trên các đối tượng vật nuôi và
cây trồng, ảnh hưởng đến giá trị sản lượng thu hoạch.
- Trang trại và kinh tế trang trại còn chưa thực sự phát triển, sản xuất của
nông dân còn nhỏ lẻ, manh mún và phân tán.
- Vườn cây ăn quả (Quýt, hồng không hạt,…) có năng suất thấp và suy
thoái. Chăn nuôi chưa phát triển mạnh, việc tận dụng các sản phẩm từ nông nghiệp
còn hạn chế.
- Việc xây dựng các mô hình sản xuất chưa thực sự gắn kết với các hình
thức tổ chức sản xuất, liên kết hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ còn yếu. Sản
phẩm mang tính hàng hóa còn chưa cao, sức cạnh tranh còn thấp.
- Chế biến nông lâm sản chưa thực sự phát triển; Ngành nghề truyền thống,
nghề thủ công mỹ nghệ và các hoạt động phi nông nghiệp phát triển chậm, còn
mang nặng tính tự phát và thiếu kiểm soát, chưa được quy hoạch một cách đồng
bộ.
66
- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình xây dựng
nông thôn mới của một số ngành còn chậm, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
của quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó có phát
triển kinh tế nông thôn.
3.3. Mục tiêu và giải pháp chủ yếu góp phần tăng thu nhập cho người dân
trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
3.3.1. Mục tiêu
Để góp phần duy trì sự phát triển ổn định bền vững và đảm bảo thu nhập
ổn định cho cuộc sống của người dân nông thôn trong xây dựng nông thôn mới,
thành phố Bắc Kạn xác định phát triển sản xuất là yếu tố cốt lõi để nâng cao thu
nhập cho nông dân.
Theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2018-
2020 và kế hoạch xây dựng NTM của thành phố Bắc Kạn, các xã trên địa bàn
thành phố phải đạt mức thu nhập bình quân 36 triệu đồng/năm vào năm 2019 (tăng
14 triệu đồng so với năm 2016). Để đạt được mục tiêu trên, hiện các địa phương
trong thành phố đang triển khai nhiều giải pháp nhằm thực hiện tốt tiêu chí thu
nhập. Trong đó chủ yếu là khai thác tối đa những lợi thế của địa phương, vận động
người dân thực hiện tốt chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để tăng
hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích đất sản xuất, đồng thời tập trung phát
triển lĩnh vực CN-TTCN và dịch vụ để đa dạng hóa nguồn thu, từng bước nâng
cao thu nhập cho người dân nông thôn.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, góp phần
nâng cao thu nhập cho nông dân, Ban Chỉ đạo Chương trình quốc gia xây dựng
nông thôn của Thành ủy thành phố Bắc Kạn về "Phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020" yêu cầu, trong
thời gian tới, các địa phương phải xác định: Phát triển nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa, chuyên canh tập trung, giá trị gia tăng cao, bền vững và bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; triển khai thực hiện đồng bộ kế hoạch tái cơ cấu
67
sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2016-2020; thực hiện tốt khâu đột phá trong sản
xuất nông nghiệp là “sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế cao”.
Thành phố Bắc Kạn cần tiếp tục triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách
của trung ương và thành phố đối với sản xuất nông nghiệp, nhất là chính sách hỗ
trợ, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất nông
nghiệp, nghiên cứu, đề xuất, sớm ban hành cơ chế, chính sách mới phù hợp với
thực tiễn và đặc thù của thành phố, là trung tâm chính trị, kinh tế của tỉnh Bắc
Kạn; kịp thời rà soát, bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách không còn phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ mới,…
3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao thu nhập cho người dân
trong xây dựng nông thôn mới thành phố Bắc Kạn
3.3.2.1. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng
nông nghiệp đô thị
Vì tất cả các xã trên địa bàn thành phố Bắc Kạn đều là vùng ngoại vi, phụ
cận của khu vực nội thị, của đô thị, nên nông nghiệp cần tập trung đẩy mạnh phát
triển sản xuất theo hướng nông nghiệp đô thị có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển nông nghiệp đô thị để thay thế cho nông nghiệp nông thôn truyền thống.
Từng bước tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và nông sản chế biến trong cơ cấu
ngành. Xác định lựa chọn các sản phẩm, các cây con chủ lực, thế mạnh của địa
phương để tập trung phát triển sản xuất hàng hóa. Phát triển nhanh các hình thức
tích tụ ruộng đất để tổ chức sản xuất cánh đồng lớn, các mô hình liên kết sản xuất
hàng hóa “cánh đồng lớn liên kết chuỗi giá trị” và các mô hình kinh tế trang trai,
gia trại. Ở các xã phải có các mô hình liên kết trong từng lĩnh vực: Trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi thủy sản và ngành nghề nông thôn. Rà soát các vùng trồng lúa
kém hiệu quả, đồng thời lập phương án thực hiện chuyển đổi linh hoạt đất trồng
lúa theo Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Tích cực chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ
68
thuật thâm canh và cơ giới hóa vào sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm.
Tăng cường quản lý chất lượng nông, thủy sản, đảm bảo nông, thủy sản của địa
phương đạt tiêu chí an toàn.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Thực tế ở các xã nghiên
cứu nói riêng và thành phố Bắc Kan nói chung, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp;
hiệu quả kinh chưa cao, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế so sánh. Để phát
huy lợi thế và tiềm năng sẵn có nhằm xây dựng thành công nông thôn mới, cần
phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao hiệu quả kinh
tế, phát huy lợi thế của địa phương.
Phát triển sản xuất nông nghiệp ở thành phố Bắc Kạn cần đặc biệt chú ý 3
câu hỏi: trồng cây gì, nuôi con gì, bán cho thị trường nào và tổ chức sản xuất như
thế nào vẫn là nền tảng để người nông dân có thu nhập cao hơn và nông nghiệp
phát triển bền vững hơn. Thực tiễn đang chỉ ra nhóm sản phẩm mới có tiềm năng
đột phá xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân: xuất khẩu quả - rau - hoa
đã vượt qua xuất khẩu dầu thô và gạo. Rõ ràng quả - rau - hoa hoàn toàn có tiềm
năng trở thành sản phẩm xuất khẩu lớn hơn các sản phẩm quốc gia như gạo, cà
phê, thủy sản và dầu thô. Thực tế này mở ra triển vọng to lớn để nâng cao thu
nhập cho nông dân ở nông thôn, nhất là miền núi. Hơn nữa, phát triển quả - rau -
hoa xuất khẩu gắn với ứng dụng công nghệ cao có thể trở thành một thành phần
của chương trình du lịch văn hóa, sinh thái ở các tỉnh, góp phần thoát nghèo và
tăng thu nhập nhanh hơn cho nông dân.
Tóm lại, phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân là nhiệm vụ
cốt lõi của ngành nông nghiệp nói chung và trong xây dựng NTM nói riêng. Đây
là nhiệm vụ rất khó khăn liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, địa phương.
Vì vậy, cần có các giải pháp đồng bộ, sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, sự phối
kết hợp nhuần nhuyễn. Hy vọng trong thời gian tới, các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể, sẽ đặc biệt quan tâm hơn nữa để đẩy mạnh sản
xuất, từng bước nâng cao thu nhập cho người dân, qua đó góp phần xây dựng
NTM.
69
3.3.2.2. Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tạo động lực phát triển
kinh tế nông nghiệp. Phát triển kinh tế hộ và trang trại. Đổi mới mô hình kinh tế
hộ theo hướng khuyến khích các hộ chủ động thuê gom, tích tụ ruộng đất và nguồn
vốn, mở rộng quy mô sản xuất tập trung chuyên môn hóa theo mô hình trang trại,
gia trại thông qua HTX, tổ hợp tác để mở rộng sản xuất và hình thành các chuỗi
khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ nông sản, áp dụng công nghệ tiên tiến
và sản xuất hàng hóa lớn, bền vững. Đẩy mạnh chuyển đổi hoạt động các HTX
nông nghiệp với đủ 5 nội dung chủ yếu theo Luật HTX năm 2012, xây dựng các
HTX hoạt động hiệu quả tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác. Đảm
bảo từ 70-90% HTX sau chuyển đổi sản xuất, kinh doanh có lãi, trong đó có ít
nhất 70% HTX tham gia các chuỗi cung ứng vật tư đầu vào và 30% HTX tham
gia các chuỗi tiêu thụ nông sản cho nông dân. Khuyến khích các hộ, nhóm sản
xuất, các tổ hợp tác phát triển thành doanh nghiệp, hợp tác xã tiêu thủ công nghiệp,
ngành nghề nông thôn, giúp nông dân hình thành nên những nhóm tổ hợp tác với
nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thành lập các HTX nông nghiệp và
khuyến khích phát triển theo mô hình liên kết trong sản xuất - chế biến - tiêu thụ
nông sản. Điều đó tạo điều kiện cho hộ nông dân giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị
trường, phát triển thương hiệu, tạo giá trị gia tăng, nâng cao giá trị nông sản, lợi
nhuận và thu nhập cho hộ dân.
3.3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp
để tăng thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản
Trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, lĩnh vực công nghiệp chế biến, tiểu thủ
công nghiệp chậm phát triển, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn không nhiều.
Trong khi đó, để nâng cao thu nhập cho người dân, quan trọng nhất phải chuyển
đổi được cơ cấu kinh tế nhưng sản xuất nông nghiệp còn manh mún, việc tích tụ
ruộng đất khó khăn, tâm lý của nhiều hộ nông dân không muốn cho doanh nghiệp
thuê lại đất để sản xuất,...
70
Phát triển CN-TTCN và ngành nghề nông thôn theo hướng tập trung nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng thu ngân sách xã; tăng thu nhập, giải
quyết việc làm cho nông dân, góp phần tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện để sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng NTM. Phát triển
ngành nghề nông thôn gắn với du lịch làng nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tại
chỗ hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt đối với làng nghề truyền thống để mở rộng
thị trường và quảng bá sản phẩm. Ngay từ đầu năm 2017, UBND thành phố đã
chủ động đẩy mạnh các chương trình đầu tư phát triển như: Đầu tư cơ sở hạ tầng
phục vụ đời sống dân sinh và phát triển sản xuất; đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế; rà soát, điều chỉnh lại hệ
thống cụm, điểm công nghiệp và thương mại nông thôn,… Đồng thời tranh thủ
tối đa các chương trình khuyến công, khuyến nông, hỗ trợ đào tạo tập huấn, phát
triển sản xuất cho lao động nông thôn và sự hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, đào tạo
chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT,… là cơ sở quan trọng định
hướng cho các địa phương phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình cũng như thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn, tạo bước chuyển mới về thu nhập cho nông
dân. Trên cơ sở định hướng chỉ đạo của tỉnh, các địa phương trên địa bàn thành
phố Bắc Kạn phát huy kinh nghiệm xây dựng NTM giai đoạn trước, đặc biệt là
việc thực hiện tiêu chí về thu nhập, từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để chỉ đạo các
xã triển khai thực hiện. Chú trọng tận dụng tối đa các thế mạnh của từng địa
phương, quan tâm phát triển dịch vụ thương mại, thúc đẩy giao thương để tăng
cường trao đổi hàng hóa, quảng bá tiềm năng để thu hút đầu tư.
3.3.2.4. Nhóm giải pháp về Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu
nhập cho người dân nông thôn
Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (viết tắt là chương trình OCOP) được
hiểu là mỗi địa phương tùy theo điều kiện cụ thể về tiềm năng, lợi thế, lựa chọn
những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng để phát triển thành thương
71
hiệu. Ðây được xem là giải pháp nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân
nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Khái niệm OCOP được hiểu một xã, hoặc nhiều xã, liên xã sản xuất một
hoặc nhiều sản phẩm. Khuyến khích thực hiện OCOP ngay cả ở khu vực đô thị
(phường, thị trấn). Sản phẩm ở đây bao gồm sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch
vụ. Nguyên tắc cơ bản của OCOP là sản phẩm OCOP hướng tới tiêu chuẩn quốc
tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gồm: (1) Hành động địa phương, hướng
đến toàn cầu, (2) Tự lực, tự tin và sáng tạo, và (3) Đào tạo nguồn nhân lực. Đối
tượng OCOP là kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể làm nòng cốt. Hệ thống sản xuất
là các hợp tác xã (gồm liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác), các doanh nghiệp, các hộ
gia đình có đăng ký kinh doanh.
Triển khai thực hiện tốt chương trình OCOP là một hướng đi tất yếu, nhằm
phát triển các sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế để góp phần phát triển
kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị. Qua đó, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân
nông thôn, góp phần thực hiện thành công Chương trình Mục tiêu quốc gia xây
dựng Nông thôn mới. Thành phố Bắc Kạn xác định để thực hiện thành công OCOP
cần phải nâng cấp, tái cơ cấu các tổ chức kinh tế hiện có; hình thành các HTX/DN
vừa và nhỏ; nâng cấp hoàn thiện cơ sở sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, đào tạo
nghề,...) đáp ứng các tiêu chuẩn nhà sản xuất theo quy định. Kết nối các tổ chức
OCOP với các nhà tư vấn phù hợp với ngành hàng.
Mỗi địa phương, mỗi xã trên địa bàn thành phố Bắc Kạn khi triển khai thực
hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 theo Quyết định số
490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ, phải chú trọng đến việc
rà soát, phát huy lợi thế về sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực, đặc sản, góp
phần tạo ra các giá trị gia tăng sản phẩm OCOP.
Để làm được việc đó, UBND thành phố Bắc Kạn cần kiểm tra, rà soát toàn
bộ cơ chế, chính sách đã ban hành, trên cơ sở đó tích hợp và điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện chính sách; đồng thời nghiên cứu ban hành một số chính sách mới để
72
hỗ trợ thực hiện chương trình OCOP; tập trung hỗ trợ xúc tiến thương mại, cải
tiến mẫu mã, đăng ký thương hiệu,... Hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi để phát
triển HTX, DN vừa và nhỏ ở nông thôn, thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất gắn
với chế biến, kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị để xuất khẩu.
Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn; hỗ trợ xây dựng các điểm, trung tâm bán hàng
OCOP; tổ chức các hội chợ OCOP để kết nối nông sản với thị trường tiêu thụ.
3.3.2.5. Nhóm giải pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề,
ngành nghề truyền thống
Muốn nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn một cách bền vững mà
chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần túy thì không dễ. Người dân cần phải có
thêm nghề phụ để tăng thu nhập. Vì vậy, cần quan tâm phát triển ngành nghề nông
thôn, hình thành các làng nghề để người dân tranh thủ làm thêm góp phần xóa đói
giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Ngoài ra, đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp rất có hiệu
quả để giúp người dân nâng cao thu nhập trong điều kiện hiện nay.
Các nghề thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, chế biến nông lâm sản,… là nghề
truyền thống mà người dân thành phố Bắc Kạn đã gắn bó hàng thế kỷ nay. Cho
đến hiện tại, ngành nghề này vẫn nắm giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế, nâng cao thu nhập của các hộ gia đình nơi đây. Xác định thế mạnh đó, các cấp,
các ngành thành phố Bắc Kạn cần triển khai nhiều giải pháp hiệu quả nhằm duy
trì và phát triển nghề thủ công mỹ nghệ. Nhờ vậy, nhiều cơ sở sản xuất và chế
biến mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố đã được khôi phục và
phát triển, góp phần tăng thu nhập, ổn định cuộc sống cho nhiều lao động nông
thôn.
3.3.2.6. Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng cao giá trị sản xuất
nông nghiệp
Xác định phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn chính là một giải pháp
căn cơ để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp và thu nhập cho người dân nông
73
thôn. Phát triển du lịch nông thôn phải coi trọng lợi ích của người dân, chú trọng
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Để có các giải pháp và cách làm phù hợp, hiệu quả, trước hết cần có nhận
thức và làm rõ nội hàm về khái niệm du lịch nông thôn gắn với việc phát huy các
giá trị cảnh quan, văn hóa của nông thôn cho hoạt động du lịch. Trong bối cảnh
diện tích đất nông nghiệp ngày càng có xu hướng thu hẹp, sản xuất nông nghiệp
phải cơ cấu lại, du lịch nông thôn cần phải được xem xét là một giải pháp để xây
dựng nông thôn mới, không chỉ là một công cụ để xóa đói giảm nghèo, mà còn để
đa dạng hóa thu nhập cho người dân nông thôn và bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, cảnh quan môi trường sinh thái.
Cần xem xét đến các yếu tố chính để phát triển du lịch nông thôn, trong đó
cốt lõi là yếu tố cộng đồng và xây dựng bản sắc văn hóa truyền thống của từng
dân tộc, từng địa phương; lấy hiệu quả kinh tế để đánh giá và tuân thủ các quy
luật của thị trường với tư cách là một ngành kinh tế, mang lại các lợi ích kinh tế,
gắn với các lợi ích về xã hội và môi trường; sự tham gia của cộng đồng và người
dân nông thôn với tư cách là chủ thể của du lịch nông thôn; vấn đề giới trong phát
triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng; vai trò của việc hình thành các chuỗi
giá trị trong quá trình phát triển du lịch nông thôn; phát huy vai trò của các bên
liên quan khác như: Các công ty lữ hành, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức xã
hội; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch với việc nâng cao giá trị và sự khác
biệt của các sản phẩm hướng tới từng nhóm đối tượng du khách đặc thù.
Mỗi địa phương phải thực sự chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho hoạt động du lịch nông nghiệp, nông thôn gắn với đào tạo nghề cho lao
động nông thôn thông qua việc tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về ngoại
ngữ, kỹ năng, kiến thức, thái độ phục vụ du khách theo hướng chuyên nghiệp,
lành nghề, thân thiện; tăng cường kết nối với các công ty lữ hành thiết kế các tua,
74
tuyến nhằm thu hút du khách để khai thác tiềm năng và lợi thế trong phát triển du
lịch.
Phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn phải gắn kết mật thiết với việc
hình thành các sản phẩm đặc sản nông nghiệp, sản phẩm thủ công, mỹ nghệ đặc
trưng của mỗi địa phương, vùng, miền, làm cơ sở để thu hút du khách đến trải
nghiệm, tiêu thụ. Mỗi địa phương khi triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã
một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 theo Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày
07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ, phải chú trọng đến việc rà soát, phát huy lợi
thế về sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực, đặc sản, góp phần tạo ra các giá
trị gia tăng từ hoạt động du lịch; xây dựng các tiêu chí để đánh giá, xếp hạng sản
phẩm du lịch đặc thù gắn với xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, đối với các thôn
được hỗ trợ xây dựng nông thôn mới cấp thôn theo Quyết định số 1385/QĐ-TTg
ngày 21/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ, tập trung ưu tiên hỗ trợ phát triển sản
xuất, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đồng thời phát huy lợi thế để
phục vụ phát triển du lịch.
Các cấp, các ngành tăng cường truyền thông, quảng bá sản phẩm du lịch
nông nghiệp, nông thôn gắn với việc xây dựng thương hiệu đặc trưng; chú trọng
khai thác ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông hiện đại để quảng bá du lịch
nông nghiệp, nông thôn, đưa các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng gắn với các địa
danh để quảng bá cho du lịch nông nghiệp, nông thôn tại các diễn đàn, hội chợ,
hoạt động xúc tiến thương mại.
3.3.2.7. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh tế trang trại, tổ chức sản
xuất theo hướng liên kết
Phát triển kinh tế trang trại đã thực sự trở thành đòn bẩy để cải thiện thu
nhập của người dân. Qua đó, kinh tế trang trại sẽ tác động, thúc đẩy phát triển sản
xuất. Chính sự phát triển kinh tế trang trại sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho
người dân đồng thời thu hút các chủ doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn
nhằm từng bước giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
75
Phát triển theo kinh tế trang trại là nhân tố quan trọng trong nông thôn. Các
trang trại sẽ tạo ra khối lượng lớn nông lâm, thủy sản, góp phần tích cực trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển nền nông nghiệp tự cấp, tự
túc, sang sản xuất hàng hóa.
Cùng với sự phát triển theo mô hình sản xuất của kinh tế trang trại, hợp tác
xã là một trong những mô hình có tác động trực tiếp đến cải thiện, nâng cao thu
nhập cho người dân. Ở đó, mọi người có sự tự nguyện cùng nhau góp vốn, liên
kết sản xuất. Qua đó, sẽ phát triển các dịch vụ đầu vào, đầu ra với giá cả hợp lý.
Ngoài ra, thông qua mô hình hợp tác xã, việc ký kết hợp đồng kinh tế với các
doanh nghiệp cũng được thuận lợi để người dân yên tâm phát triển sản xuất, góp
phần tăng thu nhập trong xây dựng NTM.
3.3.2.8. Nhóm giải pháp về mô hình cánh đồng mẫu lớn
Trên thực tế, sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trên địa bàn thành
phố Bắc Kạn vẫn phổ biến là sản xuất nhỏ, manh mún, điều đó gây khó khăn cho
tiêu thụ nông sản. Hoạt động tiêu thụ nông sản chủ yếu là hoạt động riêng rẽ của
các hộ nông dân dẫn đến hai hệ lụy, một là bị tư thương ép giá, hai là không có
khả năng tiêu thụ làm ảnh hưởng lớn đến thu nhập của hộ. Chính quyền các cấp
cần định hướng, quy hoạch vùng sản xuất tập trung, thực hiện tái cơ cấu ngành
nông nghiệp gắn với Chương trình xây dựng NTM. Hoạt động sản xuất của người
dân đạt hiệu quả cao khi có sự gắn kết từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Nhưng làm
thế nào để cải thiện thu nhập cho người trồng lúa, sản xuất với chi phí thấp hơn
và sản phẩm có giá trị thương mại cao hơn, vẫn là mối quan tâm hàng đầu của
ngành nông nghiệp. Một trong những giải pháp đang được thực hiện là tích tụ
ruộng đất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Từ mô hình cánh đồng mẫu lớn, dần
dần sẽ hình thành lớp nông dân biết gắn kết sản xuất với thị trường, sản xuất ra
những sản phẩm chất lượng đồng đều, an toàn thực phẩm, thân thiện với môi
trường. Bên cạnh đó, người dân được hưởng lợi thêm từ các dịch vụ sản xuất, chất
lượng vật tư nông nghiệp và các giá trị tăng thêm từ các hoạt động dịch vụ nhiều
76
nhất do giải quyết được vấn đề sản xuất manh mún vốn là rào cản ảnh hưởng đến
quá trình cơ giới hóa. Thật vậy, cánh đồng mẫu lớn từng bước dịch vụ hóa tất cả
các khâu trong sản xuất, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ nông sản, từ
đó khắc phục thất thoát sau thu hoạch, giảm chi phí trong sản xuất, góp phần tăng
tính cạnh trạnh của sản phẩm trên thị trường và gia tăng lợi nhuận cho người nông
dân. Mô hình cánh đồng mẫu đang thực hiện chính là đi sâu vào việc nâng cao thu
nhập cho người dân nông thôn.
3.3.2.9. Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn mới và tăng thu
nhập người dân
Chìa khóa để giải quyết tiêu chí thu nhập mà thành phố và các địa phương
khác đã tập trung thực hiện trong thời gian qua chính là đưa doanh nghiệp về với
nông thôn. Doanh nghiệp chính là cầu nối rất tốt cho nông dân. Doanh nghiệp đưa
khoa học kỹ thuật công nghệ về cho nông dân. Doanh nghiệp chính là nơi giúp
chuyển dịch cơ cấu lao động và doanh nghiệp cũng chính là nơi tiêu thụ sản phẩm
mà người nông dân làm ra. Rất nhiều những doanh nghiệp đang ăn nên làm ra trên
quê hương Bắc Kạn chính là con em của những người nông dân. Và cho dù không
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bắc Kạn nhưng với tình yêu xóm ấp, họ vẫn sẵn
sàng đầu tư xây dựng cơ nghiệp tại nơi đây, giúp bà con xóm giềng cùng nhau
làm giàu.
3.3.2.10. Nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Trên thực tế, số lượng lao động nông thôn tại các xã trên địa bàn thành phố
Bắc Kạn chưa qua đào tạo nghề còn cao. Các ngành nghề của địa phương chưa
thực sự phát triển, sản xuất còn mang tính tự phát là chính, chưa được quy hoạch
đồng bộ. Vì vậy, muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nâng cao
thu nhập cho lao động nông thôn thì công tác đào tạo nghề là vô cùng quan trọng.
Công tác đào tạo nghề cần phải xem xét đến nhu cầu xã hội, đặc biệt là khâu tiêu
thụ sản phẩm. Đào tạo nghề giúp người lao động có thể nâng cao được kiến thức
và kỹ năng nghề, nâng cao năng suất và chất lượng lao động, đóng góp tích cực
77
cho công tác giảm nghèo bền vững, qua đó nâng cao và góp phần phát triển kinh
tế.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với với quy hoạch xây dựng
NTM, các mô hình sản xuất hàng hóa tập trung theo Đề án tái cơ cấu nông nghiệp
và hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhu cầu của thị trường lao động.
- Khuyến khích người lao động tham gia các lớp đào tạo nghề, đặc biệt là
các lớp đào tạo ngắn hạn tại địa phương để tăng khả năng tìm kiếm việc làm.
- Các cơ sở đào tạo có thể liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài xã
để thực hiện đào tạo theo hợp đồng với những ngành nghề mà doanh nghiệp cần,
sau khi đào tạo sẽ giải quyết việc làm cho lao động tại doanh nghiệp đó.
- Mở rộng về quy mô cũng như chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề.
- Bên cạnh việc đào tạo mới cần có kế hoạch đào tạo lại đối với những lao
động đã có nghề nhằm nâng cao trình độ cũng như đáp ứng nhu cầu của công nghệ.
78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình
quân 22,7 triệu đồng/người/năm, nếu tính theo tháng mới chỉ đạt bình quân 1,9
triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định
của UBND tỉnh Bắc Kạn về bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục
tiêu phấn đấu của UBND thành phố Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người
Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3
lần so với nhóm dân tộc Tày. Trên thực tế, có một nhóm cộng đồng người Dao
định cư tại nơi khá biệt lập với đông đảo cộng đồng cư dân khác đang dần trở nên
ngày một nghèo hơn, khoảng cách chênh lệch thu nhập ngày một gia tăng hơn so
với nhóm đa số hộ gia đình người Tày ở khu vực, nhất là đối với cộng đồng cư
dân đô thị. Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở thành
phố Bắc Kạn đều được bắt nguồn từ các nhân tố mang tính đặc trưng của nhóm
dân số; sự khác biệt về địa lý; sự khác biệt về các động lực tăng trưởng nông
nghiệp và phi nông nghiệp giữa các cộng đồng cư dân; những thay đổi trong mô
hình sản xuất, từ mô hình nông nghiệp đến mô hình phi nông nghiệp, và từ công
việc tay nghề thấp đến công việc có kỹ năng cao; sự dịch chuyển từ sản xuất nông
nghiệp sang các cơ hội làm công ăn lương và kinh doanh phi nông nghiệp, tăng
nguồn lợi thu được từ đầu tư cho giáo dục, khác biệt về trình độ học vấn giữa các
hộ,... Trên thực tế, nhóm cộng đồng người Dao trong nghiên cứu này có điểm xuất
phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, ít có cơ hội phát triển,... Đồng
thời, các cơ hội và việc làm phi nông nghiệp của nhóm cộng đồng này cũng kém
hơn. Tất cả những nhược điểm trên đây dẫn đến thực trạng thu nhập thấp của
nhóm cộng đồng này.
Có mối tương quan giữa nguồn lực của hộ gia đình với thu nhập nông
nghiệp cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn. Để
79
gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ
gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích
canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia đình nông thôn.
Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất
cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ
gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn.
Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không có nhiều ý nghĩa trong việc
tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là
nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị, vì vậy cần có
chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn. Để nâng cao thu nhập cho
hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng
chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm
cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy, tăng thu nhập nông nghiệp cũng như
thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản
xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu
nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở
thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn
mới ở thành phố Bắc Kạn cần thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp chủ yếu
như: Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng
nông nghiệp đô thị; Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất;
Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp để tăng
thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản; Nhóm giải pháp về Chương trình
“Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn; Nhóm giải
pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề, ngành nghề truyền
thống; Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng cao giá trị sản xuất
80
nông nghiệp; Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh tế trang trại, tổ chức
sản xuất theo hướng liên kết; Nhóm giải pháp về mô hình cánh đồng mẫu lớn;
Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn mới và tăng thu nhập
người dân và nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
2. Kiến nghị
Tác giả hy vọng rằng những giải pháp mà đề tài đã đề xuất sẽ được chính
quyền địa phương thành phố Bắc Kạn và các địa phương khác có điều kiện tương
tự có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn để chỉ đạo, góp phần nâng cao thu
nhập cho các hộ dân trên địa bàn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa
phương.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Văn Trịnh và Phan Thuận (2014). Yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân trồng lúa tại Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 31 (2014), trang 117-123.
2. Nguyễn Việt Dũng (2015). Nghiên cứu, phân tích vai trò của cán bộ cấp cơ sở và người dân trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn thạc sĩ ngành Phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2015.
3. Nguyễn Lan Duyên (2014). Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang. Quyển 3 (số 2) năm 2014, trang 63- 69.
4. Lê Đình Hải (2017). Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp số 4-2017, trang 162-171.
5. Mông Thị Huyền (2016). Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Luận văn thạc sĩ ngành Phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2016.
6. Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng, 2015. Ảnh hưởng của nguồn lực đến thu nhập của nông hộ tỉnh Thanh Hóa: Nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân và Hà Trung. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2015, tập 13, số 6, trang 1051-1060.
7. Dương Văn Sơn và Bùi Đình Hòa (2012). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu
kinh tế xã hội. Nxb Nông nghiệp, 2012.
8. Lê Anh Vũ và Nguyễn Đức Đồng (2017). Phát triển kinh tế hộ và trang trại gắn với xóa đói giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên. Nxb Khoa học Xã hội, 2017.
9. Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
10. Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
82
11. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
12. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020.
13. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 03/2019/QĐ-TTg ngày ngày 15 tháng 01 năm 2019 về việc ban hành tiêu chí xác định xã, thôn hoàn thành mục tiêu dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2010.
14. Tỉnh ủy Bắc Kạn (2016). Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ Ba (khóa 11) về Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh trên thị trường giai đoạn 2016-2020.
15. HĐND tỉnh Bắc Kạn (2017). Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 11/4/2017 của Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.
16. UBND tỉnh Bắc Kạn (2017). Quyết định số 734 /QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.
17. UBND tỉnh Bắc Kạn (2018). Quyết định số 1861/QĐ-UBND ngày 6/11/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020.
18. UBND tỉnh Bắc Kạn (2019). Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 13/2/2019 của UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí thôn nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020.
19. Thành ủy thành phố Bắc Kạn (2011). Nghị Quyết số 09-NQ/TU ngày 26/7/2011 của Thị ủy (nay là thành ủy) về thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tại thị xã Bắc Kạn (nay là thành phố) giai đoạn 2011- 2020.
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH
Về tiêu chí thu nhập trong xây dựng nông thôn mới
Phiếu điều tra số……………………..Ngày điều tra………………….
1. Thông tin về hộ gia đình:
1.1. Họ tên :........................................................Nam/nữ
1.2. Tuổi:............. Dân tộc:................ Trình độ văn hóa:...........................
1.3. Địa chỉ: Thôn:………………………Xã/phường: ……………………
1.4. Tổng số nhân khẩu:........................người
+ Lao động trong độ tuổi:.....................người
+ Lao động ngoài độ tuổi:....................người
Số lao động đã được đào tạo:………………………..
1.5. Phân loại hộ theo nghề nghiệp:
Hộ thuần nông Hộ sản xuất nông nghiệp kết hợp với TTCN và dịch vụ
Hộ khác
2. Thông tin về nguồn lực đất đai và các nguồn lực khác
2.1. Tổng diện tích đất canh tác:…………………………….. Ha
Các cây trồng chủ yếu:……………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
Trong các cây trồng trên, loại cây trồng nào mang lại thu nhập cao nhất ?
…………………………..Thu nhập ………………triệu đồng một năm.
2.2. Diện tích đất lâm nghiệp:……………………………………… ha
2.3. Sản phẩm Lâm nghiệp dùng để làm gì …………………….……………………….
……………………………………………………………………………………….
2.4. Gia đình đã được tham gia các lớp tập huấn đào tạo khuyến nông nào về
trồng trọt và lâm nghiệp không?
Có □ Không □
Nếu có thì những khóa tập huấn, đào tạo gì …………………………….……….
2.5. Ông /bà cho biết quá trình sản xuất trồng trọt và lâm nghiệp thường gặp
những khó khăn gì?
- Thiếu đất sản xuất - Kỹ thuật
- Thiếu vốn
- Giống
- Thị trường tiêu thụ khó khăn - Thiếu nước
- Thiếu lao động - Yếu tố khác
……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………
2.6. Trong các vật nuôi trên thì loài vật nuôi nào đem lại thu nhập cao nhất?
…………………...…………..Thu nhập là …………………….. triệu đồng
2.7. Gia đình đã được tham gia các lớp tập huấn, đào tạo khuyến nông nào về chăn nuôi thú y không?............ Nếu có thì những khóa huấn luyện gì ?……..……….
………………………………………………………………………………………
2.8. Ông (bà) cho biết những khó khăn gặp phải trong quá trình chăn nuôi?
- Vốn
Giống
Thị trường
- Thú y Kỹ thuật
- Yếu tố khác 2.9. Khả năng tiếp cận tín dụng
- Trong năm qua ông/bà có vay vốn để sản xuất không?
Có Không
- Ông/bà vay từ nguồn nào?
Số tiền vay:…… ………………………………………….. triệu đồng
- Tại sao không vay:………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………
-Nếu không vay vốn sẽ ảnh hưởng gì đến sản xuất?..................................................
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
2.10. Khả năng tiếp cận kỹ thuật
- Theo ông/bà những hiểu biết về kỹ thuật nông nghiệp, quản lý sản xuất của mình
là do đâu có được?
Kinh nghiệm Xem tivi và nghe đài
Cán bộ khuyến nông Học từ bạn bè và bà con
Đọc sách báo Khác………….
3. Thông tin về quả sản xuất và thu nhập của hộ gia đình nông thôn
3.1. Thu nhập của hộ gia đình (năm 2017)
Số
Giá bán
Thành tiền
Ghi
Nguồn thu
ĐVT
lượng
(đ)
(đ)
chú
1.Trồng trọt
Lúa
kg
Ngô
Kg
khoai
Kg
Sắn
kg
Rau các loại
kg
Cây khác:
kg
2. Lâm Nghiệp
Keo, Mỡ
cây
Măng
kg
Cây khác
cây
3. Cây ăn quả
Nhãn,vải
kg
Cây khác:
4. Chăn nuôi
Trâu,Bò
con
Dê
Con
Lợn
Con
Gà
con
Ngan,Vịt
con
Con khác
con
kg
5. Thủy sản
Tổng thu
3.2. Các khoản thu về tiền công, tiền lương:
Tiền lương:………………………….. triệu đồng/năm
Tiền công:…………………………….. triệu đồng/năm
Tiền khác:…………………………….. triệu đồng/năm
3.3. Thông tin về hoạt động phi nông nghiệp
Ngoài sản xuất NN, gia đình còn tham gia những hoạt động phi NN nào không ?
a) Dịch vụ phục vụ sản xuất b) Xây dựng c) Buôn bán
d) Tham gia hoạt động ngành nghề, LN tại địa phương e) May mặc
f) Sửa chữa điện tử , đồ gia dụng, xe máy g) Phục vụ ăn uống
h) Quán nét, điện tử i) khác………………………
Ông (bà) hãy cho biết thu nhập từ những hoạt động phi NNcủa gia đình ?
- Hoạt động …………………………………………… có …….….. lao động, thu
nhập ……..…….triệu đồng /năm.
- Hoạt động ………................................................................... có ……….. … lao
động, thu nhập ………….triệu đồng /năm.
- Hoạt động ………………………………………………....…có …..….. lao động,
thu nhập ………….triệu đồng /năm.
- Hoạt động ………….……………………………………...…có …...…..lao động,
thu nhập ………….triệu đồng /năm.
Theo Ông(bà) thì chủ trương chính sách của Nhà nước về xây dựng mô hình NTM
có cần thiết không ?
□ Rất cần thiết □ Cần thiết □ Không cần thiết
3.4. Ông (bà) hãy cho biết những tác động của chương trình xây dựng NTM đến
quá trình phát triển kinh tế của gia đình ?..............................................................
………………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn!
Ngày ..…...tháng …..Năm 2018