ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN DUY DIỆP

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN DUY DIỆP

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN Ngành: Phát triển nông thôn Mã số ngành: 8.62.01.18 LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan tất cả các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn

là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Mọi trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn, trước Nhà trường

và phòng Đào tạo về các thông tin, số liệu trong đề tài luận văn này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Duy Diệp

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian tập trung nghiên cứu tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc

Kạn, tôi đã hoàn thành xong đề tài luận văn cao học này của mình. Để có được

kết quả này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ chu

đáo, tận tình của cơ quan, đơn vị, nhà trường, các cơ quan, thầy cô, gia đình và

bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới:

Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Phòng Đào tạo

cùng toàn thể các thầy, cô đã tận tụy giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập

cũng như thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng

biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn, PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông đã

tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện, thiết kế nghiên cứu,

phân tích số liệu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND thành phố Bắc Kạn;

Phòng Kinh tế thành phố Bắc Kạn; Chi cục Thống kế thành phố Bắc Kạn; các

xã nghiên cứu,… đã tạo mọi điều kiện thuận lợi có thể để tôi hoàn thành đề tài

luận văn này.

Với trình độ và thời gian có hạn, do đó bản luận văn của tôi không thể

tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến

của các thầy cô để bản đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019

Học viên

Nguyễn Duy Diệp

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. v

DANH MỤC BẢNG, HÌNH ............................................................................ vi

TRÍCH YẾU LUẬN VĂN .............................................................................. vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

4. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................. 3

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ............................................ 5

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài .............................................................................. 5

1.1.1. Một số khái niệm liên quan ..................................................................... 5

1.1.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới ...................................................... 14

1.1.3. Phân loại hộ gia đình nông thôn .......................................................... 17

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ......................................................................... 19

1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn ở một số

nước trên thế giới .................................................................................. 19

1.2.2. Thực tiễn nâng cao thu nhập gắn với xây dựng nông thôn mới ở

một số địa phương nước ta .................................................................... 21

1.2.3. Một số nghiên cứu có liên quan ............................................................ 26

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... 33

2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 33

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 33

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 35

2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 35

iv

2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 36

2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin số liệu ................................................ 36

2.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu ................................ 39

2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................... 40

2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về đặc điểm danh tính của hộ gia đình nông thôn ........ 40

2.4.2. Nhóm chỉ tiêu về nguồn lực của hộ gia đình nông thôn ....................... 40

2.4.3. Nhóm chỉ tiêu về sinh kế và thu nhập hộ gia đình nông thôn............... 41

2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về kinh tế của hộ gia đình nông thôn ............................ 41

2.4.5. Nhóm các biến số trong mô hình hồi quy đa biến ................................ 41

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 43

3.1. Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành

phố Bắc Kạn .......................................................................................... 43

3.1.1. Một số văn bản quản lý nhà nước liên quan đến thu nhập ................... 43

3.1.2. Nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ..... 44

3.1.3. Thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ..................... 48

3.2. Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, thách thức tác động đến thu nhập của

hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ............................................ 57

3.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn

thành phố Bắc Kạn ................................................................................ 57

3.2.2. Khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình

nông thôn thành phố Bắc Kạn ............................................................... 64

3.3. Mục tiêu và giải pháp chủ yếu góp phần tăng thu nhập cho người

dân trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh

Bắc Kạn ................................................................................................. 66

3.3.1. Mục tiêu................................................................................................. 66

3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao thu nhập cho người

dân trong xây dựng nông thôn mới thành phố Bắc Kạn ....................... 67

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 78

1. Kết luận ....................................................................................................... 78

2. Kiến nghị ..................................................................................................... 80

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCH TW Ban chấp hành Trung ương

CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN-TTCN Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

ĐBSH Đồng bằng Sông Hồng

Liên minh Châu Âu EU

FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc

NĐ-CP Nghị định của Chính phủ

NDT Nhân dân tệ - Tiền Trung Quốc

NQ-CP Nghị quyết của Chính phủ

NQ-TW Nghị quyết Trung ương

NTM Nông thôn mới

Nxb Nhà xuất bản

Chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm OCOP

PTNT Phát triển nông thôn

QĐ-TTg Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

QH Quốc hội

QTKD Quản trị kinh doanh

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

TT-NNPTNT Thông tư Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

UBND Ủy ban nhân dân

Ngân hàng Thế giới WB

XHCN Xã hội Chủ nghĩa

WB Ngân hàng thế giới

vi

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Bảng:

Bảng 2.1. Số hộ điều tra tại các thôn trong 3 xã, phường ........................... 37

Bảng 3.1. Nguồn nhân lực của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ...... 45

Bảng 3.2. Nguồn vốn của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ........ 46

Bảng 3.3. Nguồn lực đất đai của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ... 47

Bảng 3.4. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố

Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp ................................................. 50

Bảng 3.5. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố

Bắc Kạn phân theo dân tộc ......................................................... 52

Bảng 3.6. Nguồn thu nhập tỉnh Bắc Kạn, nông thôn cả nước và vùng ....... 54

Bảng 3.7. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người thành phố

Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp ................................................. 55

Bảng 3.8. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người thành phố

Bắc Kạn phân theo dân tộc ......................................................... 56

Bảng 3.9. Diễn giải các biến số trong mô hình hồi quy đa biến ................. 58

Bảng 3.10. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập

nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ...... 59

Bảng 3.11. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập

hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn ............. 61

Hình:

Hình 3.1. Thu nhập (nghìn đồng/người/tháng) nông thôn cả nước và

Trung du miền núi phía Bắc ....................................................... 49

Hình 3.2. Tỷ lệ (%) nguồn thu nhập hộ gia đình tỉnh Bắc Kạn năm 2016 .... 53

vii

TRÍCH YẾU LUẬN VĂN

Với mục đích: Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn lực và thu nhập của

hộ gia đình nông thôn tại thành phố Bắc Kạn (tỉnh Bắc Kạn), đề tài tập trung

phân tích yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ

gia đình nông thôn tại địa phương, để từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu

nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn trong quá

trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Cùng với phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc và quan sát trực tiếp, đề

tài đã sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra để thu thập thông tin

từ 105 hộ gia đình nông thôn tại 7 thôn khác nhau thuộc 3 đơn vị hành chính

cấp cơ sở trên địa bàn thành phố Bắc Kạn. Số liệu điều tra được tổng hợp, xử

lý, phân tích theo các phương pháp thống kê thông dụng và phân tích mô hình

hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn.

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn

ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình quân 22,7 triệu đồng/người/năm, nếu

tính theo tháng mới chỉ đạt bình quân 1,9 triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn

rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định của UBND tỉnh Bắc Kạn về bộ tiêu

chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục tiêu phấn đấu của UBND thành phố

Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người Dao chỉ đạt 8,4 triệu

đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3 lần so với nhóm

dân tộc Tày.

Có mối tương quan giữa nguồn lực của hộ gia đình với thu nhập nông

nghiệp cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn.

Để gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt,

chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp)

của hộ gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng

diện tích canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia

đình nông thôn. Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích

canh tác là điều rất cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm

ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp,

viii

tiếp cận vay vốn khó khăn. Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không

có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông

thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu

vực đô thị, vì vậy cần có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn.

Để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu

nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang

trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy,

tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông

thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh

tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển

dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả

nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn, góp phần xây dựng nông

thôn mới ở thành phố Bắc Kạn cần thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp

chủ yếu như: Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo

hướng nông nghiệp đô thị; Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức

sản xuất; Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công

nghiệp để tăng thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản; Nhóm giải pháp về

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu nhập cho người dân nông

thôn; Nhóm giải pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề,

ngành nghề truyền thống; Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng

cao giá trị sản xuất nông nghiệp; Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh

tế trang trại, tổ chức sản xuất theo hướng liên kết; Nhóm giải pháp về mô hình

cánh đồng mẫu lớn; Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn

mới và tăng thu nhập người dân và nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao

động nông thôn.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Hội nghị lần thứ 7 (tháng 7/2007), BCH TW Đảng khóa X đã nêu quan điểm: Cần có bước phát triển mới về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hóa, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội nông thôn ổn định; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững, bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp (với 48% dân số lấy nông nghiệp làm sinh kế, theo đại diện FAO), nằm trong nhóm các nước đang phát triển và thuộc trong số các nước nghèo trên thế giới. Với gần 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Vì vậy, xây dựng và phát triển nông thôn về mọi mặt là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề bức thiết và quan trọng. Trong những năm qua đời sống của người dân nông thôn trên cả nước nói chung và đời sống của người dân tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn nói riêng đã có phần được cải thiện bởi đã có nhiều chương trình, dự án được triển khai và thực hiện như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, những dự án và chương trình này mới chỉ giải quyết được một số khía cạnh của đời sống nông thôn (như về cơ sở hạ tầng), chưa giải quyết một cách toàn diện về mọi mặt của nông thôn. Cho nên có thể nói ổn định cuộc sống nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì lẽ đó mà chủ trương nâng cao thu nhập cho người dân là một trong những vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nhằm từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn Việt Nam trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2

Tại Đại hội Đảng lần thứ X khi định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Đảng ta, tại Nghị quyết số 26/NQ-TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã khẳng định “hiện nay và nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”, trong đó “chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của Đất nước”. Để làm được điều đó thì phải có một chương trình, dự án mang tính toàn diện, do vậy Chính phủ đã ra quyết định số 800/QĐ- TTg ngày 04/06/2010 phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, nay được thay thể bằng Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16 /8/ 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020. Xây dựng NTM đang là một trong những vấn đề thời sự được quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã đoàn kết chung tay xây dựng NTM, bước đầu đã thu được những kết quả đáng kể, góp phần quan trọng trong việc cải thiện và phát triển nông thôn. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn tại khá nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai xây dựng NTM. Trong đó vấn đề đặt ra là cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa thì một nhóm cộng đồng lại có vẻ đang trở nên ngày càng tụt hậu so quá trình phát triển. Vì vậy, tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn ở khu vực ngoại thị là mối quan tâm hàng đầu. Để góp phần công sức vào quá trình xây dựng NTM ở địa phương, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp tăng thu nhập cho người dân trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn” là rất cần thiết. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá thực trạng một số nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình và thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. - Phân tích yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại địa phương.

3

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những liên quan đến thu nhập của hộ gia đình trong xây dựng nông thôn mới. Đối tượng điều tra khảo sát là hộ gia đình nông thôn tại các xã, phường trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Đề tài luận văn được thực hiện trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Số liệu sơ cấp điều tra hộ gia đình được thực hiện tại 7 thôn thuộc 2 xã (Nông Thượng ở phía Nam, Dương Quang ở phía Tây Bắc) và phường Huyền Tụng ở phía Đông Bắc thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Lý do tại sao lại chọn cả đơn vị hành chính là phường bởi vì trên thực tế trên địa bàn phường Huyền Tụng có một tổ dân phố (còn gọi là thôn) nông nghiệp, đó là tổ dân phố Khuổi Pái, là thôn thuộc Chương trình 135 duy nhất của thành phố Bắc Kạn và hiện nay đang thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. - Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập trong 3 năm 2015 - 2017. Số liệu sơ cấp được tiến hành điều tra vào năm 2018. - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình và các nguồn thu nhập nông nghiệp; thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ cấp; thu từ hoạt động phi nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp (hay còn gọi tổng thu nhập) của hộ gia đình nông thôn tại các thôn nghiên cứu đã xác định trên đây. Các nhóm hộ gia đình khác nhau về nghề nghiệp chính của gia đình, bao gồm hộ thuần nông nghiệp, hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp; cũng như có sự khác nhau về dân tộc, gồm cộng đồng người dân tộc Tày, cộng đồng người Dao. Mặt khác, đề tài lựa chọn 1 thôn (Khuổi Pái), 1 thôn đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 ở phường Huyền Tụng để điều tra được sử dụng như là đối chứng khu vực đô thị so với khu vực nông thôn. 4. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4.1. Đóng góp mới của đề tài luận văn

Đề tài luận văn đã chỉ ra thực tế thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình quân 22,7 triệu đồng/người/năm, tức 1,9 triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định của tỉnh Bắc Kạn về Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục tiêu phấn đấu

4

của thành phố Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3 lần so với nhóm dân tộc Tày.

Đề tài cũng chỉ ra rằng: Để gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia đình nông thôn. Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn. Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị, vì vậy cần có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn. Để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy, tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. 4.2. Ý nghĩa khoa học của đề tài Cập nhật và hệ thống hóa được cơ sở lý luận, lý thuyết và thực tiễn về thu nhập của hộ gia đình nông thôn trong xây dựng nông thôn mới, nhất là đối với khu vực ngoại thị của một thành phố miền núi phía Bắc nước ta. 4.3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Tác giả hy vọng rằng những giải pháp mà đề tài đã đề xuất sẽ được chính quyền địa phương thành phố Bắc Kạn và các địa phương khác có điều kiện tương tự có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn để chỉ đạo, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ dân trên địa bàn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Chương 1

5

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1. Một số khái niệm liên quan

1.1.1.1. Thu nhập

Thu nhập là giá trị thu được (quy ra thóc hoặc tiền) sau khi đã trừ đi chi phí

trung gian, tức là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định.

- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần túy của người sản xuất bao

gồm cả công lao động và lợi nhuận thu được do người sản xuất trong một chu kỳ sản

xuất trên quy mô diện tích. Thu nhập hỗn hợp gồm cả thu nhập về nông nghiệp, thu

nhập về phi nông nghiệp và các khoản thu khác của hộ gia đình. Trong đề tài này,

thu nhập hỗn hợp được hiểu là tổng thu nhập, bao gồm cả thu nhập về nông lâm

nghiệp thủy sản (gọi tắt là thu nhập nông nghiệp), các khoản thu từ tiền công, tiền

lương, thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp và các khoản thu khác.

MI = GO - IC - TSX - C1

MI: Thu nhập hỗn hợp

GO: Giá trị sản xuất (của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong 1 thời kỳ

nhất định của hộ, thường là 1 năm).

IC: Chi phí trung gian

TSX: Thuế sản xuất

C1: Khấu hao tài sản cố định

- Thu nhập ổn định: Là khả năng tạo thu nhập một cách ổn định, lâu dài qua

các năm, đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài thông qua các hoạt động sản xuất,

kinh doanh của hộ.

- Phân loại thu nhập: theo mức độ, thì thu nhập bao gồm: Thu nhập thường

xuyên và thu nhập không thường xuyên.

+ Thu nhập thường xuyên: Là các khoản thu nhập có tính chất lặp đi lặp lại

và ổn định như: tiền lương, tiền trợ cấp, các khoản thu nhập do các tổ chức cá

nhân chi trả,…

6

+ Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập không ổn định,

đột xuất như: quà biếu tặng, thu nhập từ các hoạt động khoa học,…

Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của chỉnh

thể. Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ chức thành

phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đình, các nhóm xã

hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yếu tố xã hội như

nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, học vấn.

Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng được tính bằng cách chia tổng thu

nhập trong năm của hộ dân cư cho số nhân khẩu của hộ và chia cho 12 tháng.

Thu nhập bình quân đầu người/năm là tổng các nguồn thu nhập của hộ/năm

chia đều cho số thành viên trong gia đình. Thu nhập của hộ nông dân bao gồm

toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong

thời gian một năm, bao gồm các khoản thu sau đây:

- Thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ cấp, tiền làm thuê,…

- Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (sau khi đã trừ chi phí sản xuất

vật chất và thuế sản xuất);

- Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (không

tính tiền rút tiết kiệm, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn

nhận được).

Văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến thu nhập của người dân đang

được áp dụng hiện nay được thể hiện quan hai Chương trình Mục tiêu quốc gia là

Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu

quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Sau đây, chúng ta lần lượt đi tìm hiểu những

nội dung liên quan đến thu nhập được thể hiện ở cả hai Chương trình Mục tiêu

quốc gia này:

Đối với Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, theo Quyết

định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ

về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-

7

2020, thì các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều gồm các tiêu chí về thu

nhập và tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, cụ thể như sau:

Các tiêu chí về thu nhập gồm:

- Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000

đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.

- Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và

1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.

Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản gồm:

- Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch

và vệ sinh; thông tin.

- Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ

số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình

trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người;

nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài

sản phục vụ tiếp cận thông tin.

Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho

giai đoạn 2016-2020 ở nước ta như sau:

a) Đối với hộ nghèo

- Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000

đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã

hội cơ bản trở lên.

- Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000

đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã

hội cơ bản trở lên.

b) Đối với hộ cận nghèo

8

- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ

thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ

thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

c) Đối với hộ có mức sống trung bình

- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.

- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng.

Cần lưu ý rằng: rất có thể không có xã, xóm vùng ngoại thị của thành phố

Bắc Kạn thuộc diện điều chỉnh của Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo

bền vững, nhưng các tiêu chí và chuẩn nghèo trên đây cần được sử dụng như một

thước đo để đối chiếu so sánh khi khảo sát thu nhập của hộ gia đình trong nghiên

cứu này.

Còn đối với Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới, ngày

17/10/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg quy định

Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Trong đó, tiêu chí

về thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đến năm 2020, chỉ tiêu chung

là từ 45 triệu đồng/người trở lên; còn đối với vùng Trung du miền núi phía Bắc,

vùng Bắc Trung bộ là từ 36 triệu đồng/người trở lên; vùng Đồng bằng sông Hồng

là từ 50 triệu đồng/người trở lên; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên là

từ 41 triệu đồng/người trở lên; vùng Đông Nam Bộ là từ 59 triệu đồng/người trở

lên; Đồng bằng sông Cửu Long là từ 50 triệu đồng/người trở lên. Tỷ lệ hộ nghèo

đa chiều giai đoạn 2016-2020, chỉ tiêu chung là từ 6% trở xuống. Chỉ tiêu theo vùng

đối với vùng Trung du miền núi phía Bắc là từ 12% trở xuống; vùng Đồng bằng

sông Hồng từ 2% trở xuống; vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ từ 5%

9

trở xuống; Tây Nguyên từ 7% trở xuống; vùng Đông Nam Bộ từ 1% trở xuống và

Đồng bằng sông Cửu Long từ 4% trở xuống.

Cũng nằm trong Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới,

tại Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc ban

hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020 có quy định rõ Tiêu

chí Sản xuất - Thu nhập - Hộ nghèo như sau:

- Tổ chức sản xuất: Có vùng sản xuất hàng hóa tập trung đối với các sản

phẩm chủ lực của xã, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, kinh doanh hiệu

quả, thích ứng với biến đổi khí hậu; có ít nhất 02 hợp tác xã kiểu mới liên kết làm

ăn có hiệu quả;

- Thu nhập bình quân đầu người của xã tại thời điểm xét, công nhận xã

nông thôn mới kiểu mẫu phải cao hơn từ 1,5 lần trở lên so với thu nhập bình quân

đầu người tại thời điểm được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới;

- Không có hộ nghèo (trừ các trường hợp thuộc diện bảo trợ xã hội theo quy

định, hoặc do tai nạn rủi ro bất khả kháng, hoặc do bệnh hiểm nghèo).

Như vậy, cả ba văn bản quản lý nhà nước quy định trên đây có liên quan

đến thu nhập cũng sẽ được đề cập trong đề tài luận văn này và sẽ được sử dụng

như một thang chuẩn để đối chiếu so sánh với thu nhập thực tế của người dân tại

địa phương khi khảo sát.

1.1.1.2. Nông thôn

Khi nói về nông thôn có rất nhiều quan điểm khác nhau về nông thôn. Có

quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có

nghĩa vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan

điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường phát triển

hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường của nông thôn so với đô thị là thấp hơn.

Cũng có ý kiến cho rằng nên dùng chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân cư trong

vùng để xác định. Một số quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn là vùng có dân

cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là

10

từ sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể

của từng nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng

cho từng nền kinh tế. Đối với những nước đang thực hiện công nghiệp hóa, đô thị

hóa, chuyển sản xuất thuần nông sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch

vụ, xây dựng các khu đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ rải rác ở các vùng nông thôn thì

khái niệm về nông thôn có những đổi khác so với khái niệm trước đây (Lê Anh

Vũ và Nguyễn Đức Đồng, 2017).

Như vậy, có thể nói khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay

đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên

thế giới. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý, có

thể hiểu “nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông

dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và

môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ

chức khác”.

Ngoài ra, theo thông tư số 54/2009/ TT - BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp

và PTNT ban hành ngày 21/8/2009, khái niệm nông thôn được hiểu như sau:

“Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,

thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”.

Đặc trưng cơ bản của nông thôn: Nông thôn bao gồm những tụ điểm quần

cư thường có mật độ dân số ít; nông thôn có kết cấu hạ tầng chậm phát triển hơn,

mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn; trình độ sản xuất hàng hoá và tiếp cận thị

trường thấp hơn; nông thôn có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ văn hóa,

khoa học công nghệ thấp hơn đô thị; nông thôn có một lối sống đặc thù lối sống

của các cộng đồng xã hội được hình thành chủ yếu trên cơ sở của một hoạt động

lao động nông nghiệp; nông thôn có mật độ dân cư thấp nhưng giàu tiềm năng về

tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nguồn nước, khí hậu, rừng, biển, ở nông thôn

có một môi trường tự nhiên ưu trội, con người gần gũi với thiên nhiên hơn.

1.1.1.3. Nông thôn mới

11

Tính đến thời điểm này chưa có một định nghĩa chính thức về nông thôn

mới. Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Trung ương, nông thôn mới là

khu vực có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình

thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,

dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội - nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa

dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự

được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng

cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy nông thôn trước tiên nó phải là nông thôn, không phải thị tứ, thị trấn,

thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát theo

5 nội dung cơ bản: Làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phải phát

triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của người

dân nông thôn ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và

phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.

Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời sống

văn hóa phong phú. Song, có điều không bao giờ thay đổi là nông thôn mới cũng

phải giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng vùng,

từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng, mức sống của người dân.

Trước hết nông thôn mới phải là nơi sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản

phẩm có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó

nông thôn mới phải đảm nhận được vai trò giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc.

Nếu quá trình xây dựng nông thôn mới phá vỡ chức năng này là đi ngược với lòng

dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời của người dân Việt Nam.

Nông thôn mới phải giữ được môi trường sinh thái hài hòa.

Về cơ bản, nông thôn mới có các đặc trưng: Kinh tế phát triển, đời sống vật

chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; nông thôn phát triển theo

quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo

vệ; dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; an

12

ninh tốt, quản lý dân chủ và chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao. Tóm

lại, nông thôn mới có các đặc trưng chủ yếu sau đây:

- Nông thôn mới là lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,

thị xã, thị trấn được quản lý bởi các cấp hành chính cơ sở là UBND xã.

- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.

- Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp

với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.

- Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.

- Dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính

trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.

- Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - tri

thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ

nghĩa.

Ngày 17/10/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành gồm 19 tiêu chí áp

dụng riêng cho từng vùng của Việt Nam. Bộ tiêu chí cụ thể hóa đặc tính của xây

dựng NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.

Bộ tiêu chí cũng là căn cứ để xây dựng nội dung chương trình mục tiêu

quốc gia về xây dựng nông thôn mới, là chuẩn mực để xác lập kế hoạch phấn đấu

đạt 19 tiêu chí nông thôn mới. Ngoài ra nó còn là căn cứ chỉ đạo và đánh giá kết

quả thực hiện xây dựng NTM của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh giá

công nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới.

Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu

quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển

khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết có cơ chế,

chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư các thành phần kinh tế, huy động đóng

góp của các tầng lớp dân cư. Chương trình được thực hiện gắn với các quy hoạch,

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa

13

phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy

hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban

hành).

Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương vừa mang tính tổng hợp, bao

quát nhiều lĩnh vực, vừa tập trung giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải

quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính

toán, cân đối mang tính tổng thể. Xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải đáp ứng

yêu cầu phát triển, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt của đời sống xã hội

so với mô hình trước đó, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.

1.1.1.4. Hộ và hộ nông dân

Mặc dù hộ (hộ gia đình) đã tồn tại từ rất lâu nhưng đến nay vẫn còn nhiều

cách hiểu khác nhau về hộ. Trên thực tế, việc phân tích hộ gia đình - và những

khó khăn về khái niệm vốn có của nó trong việc xác định cấu trúc và chức năng

của hộ gia đình - là những lĩnh vực được quan tâm ở tất cả các ngành khoa học xã

hội. Theo quan điểm của nhiều người thì hộ là một tập hợp những người có quan

hệ với nhau bởi huyết tộc hoặc hôn nhân, hộ là đơn vị cơ bản có liên quan đến sản

xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Thực tế, hộ và gia đình có những

tiêu thức chung như cơ sở kinh tế, quan hệ huyết thống và hôn nhân, tình trạng cư

trú.

Hộ gia đình ở nông thôn chủ yếu là nông dân. Nói đến sự tồn tại của hộ

nông dân trong nền kinh tế trước hết cần thấy rằng, hộ nông dân không chỉ có ở

nước ta mà còn có ở tất các các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới.

Hộ nông dân đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Do

đó có nhiều quan niệm khác nhau về hộ nông dân.

Theo Đào Thế Tuấn (1997): Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các

phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất

nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng

14

bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn

chỉnh không cao (trích theo Mông Thị Huyền, 2016).

Như vậy, hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản

xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông.

Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi nông

nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,...) ở các mức độ khác

nhau. Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là

một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị kinh tế độc lập

tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống kinh tế lớn hơn của

nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân

càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm

vi một vùng, một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta

hiện nay.

1.1.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới không phải chỉ nhằm xây dựng con đường, kênh

mương, trường học, hội trường,… mà cái chính là qua cách làm này sẽ tạo cho

người nông dân hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa và thúc đẩy họ tự tin, tự quyết,

đưa ra sáng kiến, tham gia tích cực để tạo ra một nông thôn mới năng động hơn.

Phải xác định rằng, đây không phải là đề án đầu tư của Nhà nước mà là việc người

dân cần làm, để cuộc sống tốt hơn, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần.

Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng thôn về tiềm năng, lợi thế, năng lực

của cán bộ, khả năng đóng góp của nhân dân,… hướng dẫn để người dân bàn bạc

đề xuất các nhu cầu và nội dung hoạt động của đề án. Xét trên khía cạnh tổng thể,

những nội dung sau đây cần được xem xét trong xây dựng mô hình nông thôn

mới.

a) Đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng

15

- Nâng cao năng lực cộng đồng trong việc quy hoạch, thiết kế, triển khai

thực hiện, quản lý, điều hành các chương trình, dự án trên địa bàn thôn.

- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở và đội ngũ cán bộ các cấp về

phát triển nông thôn bền vững.

- Nâng cao trình độ dân trí của người dân.

- Phát triển mô hình câu lạc bộ khuyến nông thôn để giúp nhau ứng dụng

tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ để giảm lao động

nông nghiệp.

b) Tăng cường và nâng cao mức sống cho người dân

- Quy hoạch lại các khu dân cư nông thôn, với phương châm: Giữ gìn tính

truyền thống, bản sắc của thôn, đồng thời đảm bảo tính văn minh, hiện đại, đảm

bảo môi trường bền vững.

- Cải thiện điều kiện sinh hoạt của khu dân cư: Ưu tiên những nhu cầu cấp

thiết nhất của cộng đồng dân cư để triển khai thực hiện xây dựng: Đường làng,

nhà văn hoá, hệ thống tiêu thoát nước,…

- Cải thiện nhà ở cho các hộ nông dân: Tăng cường thực hiện xoá nhà tạm,

nhà tranh tre nứa, hỗ trợ người dân cải thiện nhà ở, nhà vệ sinh, chuồng trại chăn

nuôi, hầm biogas cho khu chăn nuôi,…

c) Hỗ trợ người dân phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ nâng cao thu nhập

Căn cứ vào các điều kiện cụ thể của mỗi thôn để xác định một cơ cấu kinh

tế hợp lý, có hiệu quả, trong đó:

- Sản xuất nông nghiệp: Lựa chọn tập trung phát triển cây trồng, vật nuôi

là lợi thế, có khối lượng hàng hoá lớn và có thị trường, đồng thời đa dạng hoá sản

xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy khả năng về đất đai, nguồn nước và nhân

lực tại địa phương.

- Cung ứng các dịch vụ sản xuất và đời sống như: Cung ứng vật tư, hàng

hoá, nước sạch cho sinh hoạt, nước cho sản xuất, điện, tư vấn kỹ thuật chuyển

giao tiến bộ khoa học, tín dụng,…

16

- Hỗ trợ trang bị kiến thức và kỹ năng bố trí sản xuất, thay đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi hợp lý.

- Củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất, tư vấn hỗ trợ việc hình thành và

hoạt động của các tổ chức: Tổ hợp tác, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,…

tạo mối liên kết bốn nhà trong sản xuất, chế biến, và tiêu thụ sản phẩm.

d) Xây dựng nông thôn gắn với phát triển ngành nghề nông thôn tạo việc làm phi

nông nghiệp

- Đối với những thôn chưa có nghề phi nông nghiệp: Để phát triển được

ngành nghề nông thôn cần tiến hành “cấy nghề” cho những địa phương còn

“trắng” nghề.

- Đối với những thôn đã có nghề: Củng cố tăng cường kỹ năng tay nghề

cho lao động, hỗ trợ công nghệ mới, quảng bá và mở rộng nghề, hỗ trợ xử lý môi

trường, hỗ trợ tư vấn thị trường để phát triển bền vững.

e) Hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ sản xuất

- Tư vấn hỗ trợ quy hoạch giao thông, thuỷ lợi nội đồng, chuyển đổi ruộng

đất, khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại với nhiều loại

hình thích hợp.

- Hỗ trợ xây dựng mặt bằng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng

nghề, chế biến sau thu hoạch, giao thông, thuỷ lợi nội đồng.

g) Xây dựng nông thôn gắn với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ở nông thôn

Vấn đề bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường từ việc quản lý nguồn cấp

nước, thoát nước đến quản lý thu gom rác thải ở nông thôn cũng đã trở nên đáng

báo động. Đã đến lúc cơ quan địa phương cần có những biện pháp quản lý môi

trường địa phương mình như: Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, tuyên truyền nâng

cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, xây dựng hệ thống quản lý môi

trường ở khu vực mình một cách chặt chẽ.

17

h) Phát triển cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá, phát huy bản sắc văn hoá dân

tộc ở nông thôn

Thông qua các hoạt động ở nhà văn hoá làng, những giá trị mang đậm nét

quê đã được lưu truyền qua các thế hệ, tạo nên những phong trào đặc sắc mang

hồn quê Việt Nam riêng biệt, mộc mạc - chân chất - thắm đượm tình quê hương.

Xã hội hoá các hoạt động văn hoá ở nông thôn, trước hết xuất phát từ xây

dựng làng văn hoá, nhà văn hoá làng và các hoạt động trong nhà văn hoá làng.

Phong trào này phải được phát triển trên diện rộng và chiều sâu.

Căn cứ vào từng điều kiện cụ thể mà vai trò của từng nội dung đối với mỗi

địa phương là khác nhau, tuy nhiên những nội dung trên cần được song song thực

hiện, tạo điều kiện cho sự phát triển đồng bộ, toàn diện trong một mô hình nông

thôn mới.

1.1.3. Phân loại hộ gia đình nông thôn

Hộ nông thôn hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ thuộc

rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ

những tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ gia đình. Việc phân loại

hộ nông dân có căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng chính sách tín dụng

phù hợp nhằm đầu tư đem lại hiệu quả.

Có thể chia hộ nông thôn theo các tiêu chí sau đây:

a) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động

- Hộ nông thôn hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường. Loại hộ

này có mục tiêu là tối đa hóa lợi ích, đó là việc sản xuất các sản phẩm cần thiết để

tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động trong nông hộ phải hoạt

động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự cấp tự túc cho sinh

hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào: Khả năng mở rộng diện tích đất đai; Có

thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi; Có thị trường lao động để họ bán sức

lao động để có thu nhập; Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu

cầu của mình.

18

- Hộ nông dân sản xuất hàng hóa chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là tối đa

hóa lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn,

ruộng đất, lao động.

b) Theo tính chất của ngành sản xuất tức là ngành nghề của hộ

Theo ngành nghề, tức là theo nghề nghiệp, hộ gia đình nông thôn được chia

thành các nhóm hộ:

- Hộ thuần nông nghiệp: là loại hộ chỉ thuần túy sản xuất nông nghiệp, sinh

kế dựa hoàn toàn vào nông nghiệp. Trên thực tế hiện nay, nhóm hộ thuần nông

nghiệp vẫn có thể có thành viên hộ gia đình không tham gia hoạt động nông

nghiệp.

- Hộ phi nông nghiệp: là loại hộ mà sinh kế hoàn toàn dựa vào các hoạt

động phi nông nghiệp như chuyên làm các ngành nghề như cơ khí, mộc, rèn, sản

xuất nguyên vật liệu xây dựng, vận tải, thủ công mỹ nghệ, dệt, may, làm dịch vụ

kỹ thuật cho nông nghiệp, thương mại dịch vụ,...

- Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp: là loại hộ vừa làm

nông nghiệp vừa làm nghề phi nông nghiệp, sinh kế dựa cả vào các hoạt động

nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Cần chú ý là các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều

kiện cho phép. Vì vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng

sản xuất và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn để chuyển hộ độc canh thuần nông

sang đa ngành hoặc chuyên môn hóa. Từ đó làm cho lao động nông nghiệp giảm,

thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc làm cho đối tượng phi nông nghiệp

tăng lên.

c) Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ

Hộ gia đình nông thôn được chia thành các nhóm hộ khác nhau về thu nhập

hay kinh tế như: Hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và nghèo.

19

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài

1.2.1. Kinh nghiệm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn ở một số nước

trên thế giới

1.2.1.1. Trung Quốc

Trung Quốc là nước đông dân, chủ yếu dân cư sống ở nông thôn, thu nhập

thấp và hiện tượng thiếu việc làm gay gắt. Trước tình hình đó Trung Quốc đã quan

tâm xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông thôn, đặc biệt là hệ thống giao thông, thuỷ

lợi, hệ thống thị trấn, thị tứ,… tạo điều kiện cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

thuận lợi. Trung Quốc còn hết sức quan tâm phát triển nền nông nghiệp thâm canh

với trình độ kỹ thuật cao, đặc biệt quan tâm nghiên cứu sản xuất các loại giống

cây trồng, vật nuôi mới có năng suất và chất lượng cao cùng với kỹ thuật canh tác

tiên tiến.

Đặc biệt đáng chú ý là việc xây dựng các xí nghiệp Hương Trấn. Xí nghiệp

Hương Trấn là loại hình xí nghiệp kinh tế do nông dân tự nguyện thành lập ngay

trên quê hương mình trên cơ sở những lợi thế về nguồn tài nguyên, lao động và

các nguồn lực kinh tế khác dưới sự quản lý của chính quyền các cấp, sự lãnh đạo

của Đảng và quan tâm giúp đỡ của nhà nước. Hệ thống xí nghiệp Hương Trấn chủ

yếu sản xuất các hàng hoá tiêu dùng nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, giải

quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân. Việc phát triển xí nghiệp

Hương Trấn có ý nghĩa rất to lớn. Xí nghiệp Hương Trấn đã thu hút 120 triệu lao

động (chiếm 26,9% lực lượng lao động cả nước) với mức thu nhập 2500 NDT/lao

động/tháng. Đây là thành quả to lớn mà xí nghiệp Hương Trấn mang lại, vì vậy

cần nghiên cứu để có thể áp dụng một cách phù hợp với điều kiện nước ta (trích

theo Nguyễn Việt Dũng, 2015).

1.2.1.2. Nhật Bản

Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền tây nam Nhật Bản) đã

hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục tiêu phát

triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển

20

chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, Phong

trào “Mỗi làng một sản phẩm” ở đây đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ. Sự thành

công của phong trào này đã lôi cuốn sự quan tâm không chỉ của nhiều địa phương

trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác trên thế giới.

Một số quốc gia, nhất là những quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã thu được

những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp

dụng kinh nghiệm phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”. Những kinh nghiệm của

phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được những người sáng lập, các nhà nghiên

cứu đúc rút để ngày càng có nhiều người, nhiều khu vực và quốc gia có thể áp

dụng trong chiến lược phát triển nông thôn, nhất là phát triển nông thôn trong quá

trình công nghiệp hóa đất nước mình (trích theo Nguyễn Việt Dũng, 2015).

1.2.1.3. Hàn Quốc

Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế nông thôn khi thực

hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II (1966-1971) với chủ trương

công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4 năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc

phát động phong trào Saemaul Undong. Mục tiêu của phong trào là “nhằm biến

đổi cộng đồng nông thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới; mọi người làm việc

và hợp tác với nhau xây dựng cộng đồng mình ngày một đẹp hơn và giàu hơn.

Cuối cùng là để xây dựng một quốc gia ngày một giàu mạnh hơn”.

Theo đó, Chính Phủ vừa tăng đầu tư vào nông thôn vừa đặt mục tiêu thay

đổi suy nghĩ ỷ lại, thụ động vốn tồn tại trong đại bộ phận dân cư nông thôn. Điểm

đặc biệt của phong trào NTM của Hàn Quốc là Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần

nguyên, vật liệu còn nông dân mới chính là đối tượng ra quyết định và thực thi

mọi việc. Saemaul Undong cũng rất chú trọng đến phát huy dân chủ trong xây

dựng NTM với việc bầu ra một nam và một nữ lãnh đạo phong trào. Ngoài ra,

Tổng thống còn định kỳ mời 2 lãnh đạo phong trào ở cấp xã tham dự cuộc họp

của Hội đồng Chính phủ để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ các đại biểu này. Nhằm

tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng chính sách miễn thuế

21

xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho chế biến nông sản. Ngân hàng

Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư về nông thôn với lãi xuất 2% so

với đầu tư vào ngành nghề khác,…

Năm 2005, Nhà nước ban hành đạo luật quy định mọi hoạt động của các

bộ, ngành, chính quyền phải hướng về nông dân. Nhờ hiệu quả của phong trào

Saemaul Undong mà Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở

thành một quốc gia giàu có, hiện đại bậc nhất Châu Á.

1.2.2. Thực tiễn nâng cao thu nhập gắn với xây dựng nông thôn mới ở một số

địa phương nước ta

1.2.2.1. Huyện Xuân Lộc và thị xã Long Khánh (tỉnh Đồng Nai)

Đây là hai huyện đầu tiên của cả nước vinh dự đón nhận danh hiệu này sau

hơn 4 năm cùng cả nước thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới.

Chương trình do Ban Chỉ đạo Quốc gia về xây dựng NTM và tỉnh Đồng

Nai tổ chức. Giá trị sản xuất và thu nhập người dân đều tăng.

Ông Đinh Quốc Thái, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai cho biết Xuân Lộc

và Long Khánh là vùng đất mà lợi thế chỉ có đất đai. Từ khi triển khai thực hiện

xây dựng NTM, tỉnh và các cấp của hai huyện đã tập trung tuyên truyền, vận động

người dân xây dựng NTM, đào tạo cán bộ cùng với dân thực hiện phong trào. Đặc

biệt, Xuân Lộc và Long Khánh đã hoàn thành quy hoạch phát triển sản xuất nông

nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xác định được sản phẩm chủ lực,

hỗ trợ mô hình sản xuất hiệu quả và vùng sản xuất tập trung.

Để trở thành huyện NTM, Xuân Lộc và Long Khánh đã vượt chỉ tiêu 75%

số xã phải đạt chuẩn NTM, theo đó Long Khánh có 100% số xã đạt chuẩn NTM

và với Xuân Lộc hiện có 12/14 xã hoàn thành 19 tiêu chí NTM (chiếm 85,7%, 2

xã còn lại chỉ còn tiêu chí giao thông là chưa đạt). Huyện Xuân Lộc đã hình thành

các vùng chuyên canh như xoài, tiêu, ngô, cây ăn trái đặc sản, nhân rộng mô hình

trồng trọt và chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao giúp giá trị sản xuất trên 1 ha diện

22

tích trồng trọt và chăn nuôi đạt bình quân 115,5 triệu đồng/ha. Tỷ lệ lao động có

việc làm qua đào tạo đạt 75%, trong đó có 90,9% số lao động có việc làm thường

xuyên. Thu nhập bình quân của người dân đạt 37,6 triệu đồng/người/năm, tăng

gấp 3 lần so với năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 7% xuống hiện nay chỉ còn

1%.

Trong khi đó ở thị xã Long Khánh, sản xuất nông nghiệp phát triển toàn

diện theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chú trọng chuyển giao tiến bộ kỹ

thuật. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 6,1%/năm, giá trị sản xuất bình quân trên

1 ha diện tích trồng trọt, chăn nuôi thủy sản đạt 170 triệu đồng/ha - mức cao nhất

trên toàn tỉnh Đồng Nai. Nhờ đó, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt

38,6 triệu đồng/người/năm, tăng 2,13 lần so với năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo giảm

mạnh hiện còn dưới 1%. Ở cả 2 huyện, kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây

dựng đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của người dân trên địa

bàn; hệ thống chính trị được xây dựng ngày càng vững mạnh, dân tin tưởng vào

sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn

được giữ vững.

Theo ông Đinh Quốc Thái, xây dựng NTM ở Xuân Lộc và Long Khánh

không chỉ đơn thuần là hoàn thành các tiêu chí đề ra mà còn tạo ra người nông

dân mới có cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao, có nhiều điều

kiện tiếp cận thông tin. Thực tế người nông dân ở hai nơi này đã thực hiện được

“4 xóa”: xóa tư tưởng trông chờ, ỷ lại, xóa vườn tạp, độc canh, xóa tư tưởng lạc

hậu và xóa nghèo. Đồng thời từ phong trào cũng hình thành đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn, bám sát thực tiễn và nguyện vọng

của nông dân. Không chỉ có 2 huyện đầu tiên của cả nước đạt chuẩn huyện NTM,

mà Chương trình xây dựng NTM ở Đồng Nai cũng đạt được những thành tựu to

lớn. Hiện toàn tỉnh có 52/138 xã đạt chuẩn NTM, chiếm tỷ lệ 32,8%, gấp gần 4

lần tỷ lệ chung cả nước. Có được kết quả này là nhờ vào sự chủ động trong chỉ

đạo và thực hiện chương trình ngay từ ngày đầu thực hiện. Theo đó, Bộ 15 Tiêu

23

chí của tỉnh không chỉ gồm 39 chỉ tiêu (thuộc 19 tiêu chí NTM) mà Đồng Nai còn

cụ thể hóa, phát triển thành 54 tiêu chí. Đồng Nai đạt mục tiêu tới năm 2020 sẽ có

100% số xã đạt chuẩn NTM.

1.2.2.2. Huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định)

Hải Hậu là huyện đồng bằng ven biển phía Nam tỉnh Nam Định có 32 xã

và 3 thị trấn, dân số gần 30 vạn người, diện tích đất tự nhiên 230 km2 (bình quân

1.260 người/km2). Diện tích đất canh tác 25.440 ha, trong đó đất sản xuất nông

nghiệp 22.720 ha, diêm nghiệp 320 ha, nuôi trồng thuỷ sản 2.350 ha, bình quân

21863 m2/người. Huyện đã 3 lần được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu

Anh hùng; từ năm 1978 đến nay, liên tục là điển hình Văn hóa Thông tin cấp

huyện của cả nước. Là một trong 5 huyện của cả nước được Chính phủ thí điểm

thực hiện Chương trình xây dựng NTM. Trước khi triển khai xây dựng chương

trình NTM, bình quân toàn huyện mới đạt 7/19 tiêu chí xây dựng NTM, cơ sở hạ

tầng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu nhập

bình quân còn thấp (năm 2010 thu nhập bình quân là 10,2 triệu đồng/người/năm),

đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn.

Sau khi được chọn là huyện điểm xây dựng NTM, lãnh đạo huyện Hải Hậu

đã chỉ đạo quyết liệt nhằm huy động mọi nguồn lực để triển khai thực hiện; Ban

Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Chỉ thị số 04 về “Đẩy mạnh xây dựng nông

thôn mới huyện Hải Hậu giai đoạn 2010-2015”. BCH Đảng bộ, UBND, Ban Chỉ

đạo xây dựng NTM của huyện tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động

nhân dân thực hiện chương trình bằng nhiều hình thức, phát huy quyền làm chủ

của dân trong việc quản lý và kiểm tra, giám sát về thực hiện đầu tư xây dựng các

công trình trên địa bàn.Với phương châm: “Làm từ nhà ra xóm, từ thôn xóm lên

xã”, “Làm từ đồng về làng, từ làng lên xã”, “Mỗi gia đình có thêm một nghề” nên

chính quyền luôn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời điều

chỉnh, bổ sung phù hợp. Chính vì vậy mọi chủ trương, kế hoạch đề ra đều được

nhân dân đồng thuận và triển khai thuận lợi. Năm 2011, toàn huyện đã thực hiện

24

xong việc dồn điền đổi thửa. Các tổ chức đoàn thể đã lựa chọn các nội dung làm

chủ đề vận động xây dựng NTM trong tổ chức của mình.Sau hơn 3 năm triển khai

xây dựng nông thôn mới, đến hết năm 2014: có 546/546 xóm và 35/35 xã, thị trấn

đạt tiêu chí nông thôn mới theo phát động phong trào thi đua của huyện. Có thêm

35 xóm đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa, nâng tổng số xóm đạt tiêu chuẩn là

373/546 xóm, bằng 68,3% (theo tiêu chí của huyện). Hoàn thành thẩm định, phê

duyệt hương ước xóm, đến nay 100% hương ước được treo công khai tại nhà văn

hóa xóm, có 8/35 xã, thị trấn hương ước được phát tới từng hộ gia đình. Đến ngày

30/11/2014, toàn huyện đã huy động trên 1.500 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới

(Trong đó: nhân dân đóng góp và con em ủng hộ 586,355 tỷ đồng (bằng 39,2%);

vốn cấp trên và ngân sách địa phương 663.1657 triệu đồng (bằng 44,2%); nguồn

vốn khác 259,964 triệu đồng bằng 16,7%), đã có 971/974 km đường giao thông

khu dân cư đạt chuẩn (bằng 99,7%) và 346/396km đường giao thông trục chính

nội đồng đạt chu chuẩn (bằng 87,3%). Có 536/546 xóm có nhà văn hóa (bằng

98,2%). 535/546 xóm đạt tiêu chí xóm, gia đình nông thôn mới (bằng 97,9%).

Nhân dân đã tự nguyện hiến trên 345 ha đất nông nghiệp, 25 ha đất ở và

trên 150.000 ngày công lao động tháo, dỡ hàng ngàn công trình để xây dựng các

công trình đường giao thông, phúc lợi công cộng trên địa bàn.Như vậy sau 4 năm

xây dựng nông thôn mới, đến nay, huyện Hải Hậu đã hoàn thành chương trình xây

dựng Nông thôn mới, có 100% số xã, thị trấn (35 đơn vị) đạt 19/19 tiêu chí NTM,

được UBND tỉnh Nam Định công nhận "xã đạt chuẩn nông thôn mới", là một

trong số những huyện đầu tiên của cả nước được công nhận huyện nông thôn mới;

những năm tiếp theo, huyện Hải Hậu tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn đẩy mạnh

phát triển sản xuất, giải quyết việc làm gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên

địa bàn huyện; ưu tiên thu hút đầu tư phát triển vùng kinh tế biển, các dự án giải

quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.

1.2.2.3. Xã Phú Tân (huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng)

25

Theo ông Huỳnh Tấn Nguyên, chủ tịch UBND huyện Châu Thành cho biết:

Phú Tân là xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Châu Thành, có diện tích

tự nhiên 2.767,68 ha, trong đó diện tích sản xuất là 2.435,98 ha. Toàn xã có 3.461

hộ với 14.649 khẩu, trong đó đồng bào Khmer chiếm 78,77% dân số toàn xã. Lao

động trong độ tuổi là 9.442 người, chiếm 64,45% tổng số nhân khẩu. Bên cạnh

những thuận lợi như có Quốc lộ 60 và Tỉnh lộ 932 đi qua, được hưởng đầu tư từ

nhiều công trình hạ tầng,… Phú Tân vẫn còn nhiều khó khăn: hệ thống sông ngòi

chằng chịt, hàng năm phải gia cố đê bao, bờ bao xuống cấp; trình độ dân trí thấp

nên việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật chưa cao, sản xuất còn mang tính tự phát, chưa

phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương.

Khi Phú Tân được tỉnh Sóc Trăng lựa chọn là một trong 22 xã điểm chỉ đạo

xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, bà con rất vui và đoàn kết cùng

nhau thực hiện với quyết tâm cao. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm

nặng nề của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Tuy còn không ít khó khăn nhưng

phát huy truyền thống của quê hương, Đảng bộ và nhân dân Phú Tân đã đồng

lòng, chung sức xây dựng nông thôn mới. Đến nay, Phú Tân đã đạt 19/19 tiêu chí

nông thôn mới, trở thành xã đầu tiên của huyện cán đích chương trình. Theo ông

Trương Đắt Pháp, bí thư Đảng ủy xã Phú Tân, ngay từ khi bắt tay vào xây dựng

nông thôn mới, Đảng ủy xã đã ban hành Nghị quyết về mục tiêu xây dựng nông

thôn mới gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, tuyên truyền sâu

rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa, nội dung của

chương trình.

Ban chỉ đạo xã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tận dụng tiêu chí nào do

người dân cùng làm thì tranh thủ làm trước, tiêu chí nào cần nguồn vốn đầu tư của

nhà nước thì có kế hoạch hằng năm để sớm đạt được chỉ tiêu đề ra. Người dân ở

đây rất nhiệt tình đóng góp cả về vật chất và ngày công lao động. Nhờ tạo được

26

lòng tin, tuyên truyền sâu rộng, người dân hiểu rõ, nên trong tổng kinh phí thực

hiện xây dựng nông thôn mới của xã là 255,905 tỷ đồng thì nhân dân đóng góp

trên 54,6 tỉ đồng. Đến nay, tỷ lệ đường trục xã, liên xã được nhựa hóa theo tiêu

chuẩn đạt 100%, có trên 56,34% đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn

theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải và 100% đường ngõ, xóm được lót

đá (bê tông) sạch đẹp, thuận tiện đi lại cả 2 mùa mưa nắng. Tỷ lệ đường trục chính

nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận lợi đạt 60,86%. Tổng kinh phí

thực hiện trên 48 tỷ đồng, trong đó dân đóng góp hơn 11,6 tỷ đồng.

Từ chủ trương đúng đắn và cách làm phù hợp, đến nay, hệ thống thủy lợi

đáp ứng yêu cầu của sản xuất và dân sinh; toàn xã có 99,2% số hộ có điện sử

dụng; xã có 5 trường học, trong đó có trường đạt chuẩn quốc gia; 73% nhà ở đạt

tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, không còn nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn

6,9%. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 95,07%, thu nhập bình quân

trên 25,3 triệu đồng/người/năm. Toàn xã có 90,6% người dân tham gia bảo hiểm

y tế; 1 trạm y tế đạt 10 tiêu chí quốc gia về y tế,... Theo ông Pháp, kể từ khi triển

khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhận thức của người dân ở

địa phương đã chuyển biến tích cực từ nề nếp sinh hoạt tới tư duy, cách làm ăn,

nhất là bà con người Khmer. Cụ thể, người dân tự nguyện đóng tiền, công lao

động, đất đai để làm thủy lợi nội 17 đồng, xây cầu, đắp đường trong xã,… với

tổng trị giá lên đến nhiều tỷ đồng. Cũng từ đó, đời sống kinh tế-văn hóa của bà

con được nâng lên rõ rệt.

Chủ tịch UBND huyện Châu Thành Huỳnh Tấn Nguyên phấn khởi nói:

“Phú Tân đạt chuẩn xã nông thôn mới là thành tích rất đáng ghi nhận của Đảng

bộ, nhân dân huyện Châu Thành nói chung, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Tân nói

riêng. Phát huy thành tích này, trong thời gian tới, Châu Thành sẽ tiếp tục phấn

đấu để nhiều xã cán đích nông thôn mới”.

1.2.3. Một số nghiên cứu có liên quan

27

1.2.3.1. Một số nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới

Với gần 9 năm kinh nghiệm trong thực tiễn xây dựng nông thôn mới trên

phạm vi cả nước, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan

đến xây dựng nông thôn mới. Sau đây là một số ví dụ:

Nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới, theo tác giả Nguyễn Việt Dũng

(2015) trong một đề tài nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới tại huyện Yên Sơn

(tỉnh Tuyên Quang) cho biết: Về cơ bản, các cán bộ cấp cơ sở của các xã trên địa

bàn huyện Yên Sơn đã nhận thức cơ bản về chủ trương, đường lối, chính sách, kế

hoạch xây dựng nông thôn mới giai 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020. Trong

quá trình tổ chức triển khai, chỉ đạo thực hiện cả hệ thống chính trị của các xã đã

đồng loạt vào cuộc dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các xã chính quyền các xã

thực hiện điều hành các chương trình, mục tiêu, dự án xây dựng nông thôn, phối

hợp với ủy ban mặt trận tổ quốc các đoàn thể chính trị, xã hội vận động nhân dân

chung tay, chung sức xây dựng nông thôn mới, trên quan điểm nhà nước và nhân

dân cùng làm, gắn với việc lồng ghép các chương trình dự án, các nguồn vốn vay

từ hệ thống ngân hàng, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu

nhập cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đóng góp vốn ngày công

lao động xây dựng cơ sở hạ tầng các thiết chế văn hóa hương ước, quy ước của cơ

sở, xây dựng nông thôn mới cho quê hương văn minh, giàu đẹp.

Cũng nghiên cứu về nông thôn mới tại huyện miền núi Bảo Lạc (tỉnh Cao

Bằng), tác giả Mông Thị Huyền (2016) cho biết: Việc triên khai xây dựng nông

thôn mới trên địa bàn huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng có nhiều thuận lợi, nhưng

cũng gặp nhiều khó khăn. Những thuận lợi cơ bản như Nhà nước có nhiều chính

sách; nhân dân có truyền thống đoàn kết, luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo,

chỉ đạo, sát sao điều hành, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền

địa phương và sự đầu tư của Đảng và Nhà nước. Những khó khăn chính như địa

bàn rộng, phức tạp; điểm xuất phát thấp trong khi nguôn lực của địa phương có

hạn. Để đẩy mạnh xây dựng Nông thôn mới, trong thời gian tới địa phương cân

28

áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, từ công tác tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị vững mạnh ban hành

một số chính sách, Vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất, hiến đất, đồng thời

quy hoạch, phát triển nhanh các thị trấn, thị tứ và xây dựng một số công trình liên

xã. Xây dựng nông thôn mới là công cuộc lâu dài và cần có sự vào cuộc của các

hệ thống chính trị và tham gia của toàn dân. Địa phương cần quán triệt đầy đủ các

chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước, đồng thời vận dụng sáng tạo vào

hoàn cảnh cụ thể của từng đơn vị.

Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới

đều đề cập đến sự cần thiết, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là sựt ham

gia của cộng đồng và người dân trong xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, điểm

yếu là chưa giải quyết tận gốc sự tụt hậu về kinh tế ngày càng hiện rõ đối với

nhóm cộng đồng nông thôn.

1.2.3.2. Một số nghiên cứu về thu nhập của hộ gia đình nông thôn

Trong bối cảnh hiện nay cả nước chỉ còn thực hiện 2 Chương trình Mục

tiêu quốc gia là Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, do đó xây

dựng nông thôn mới gắn với giảm nghèo bền vững đang trở thành nội dung quan

trọng trong triển khai hai Chương trình Mục tiêu quốc gia của Chính phủ Việt

Nam. Bởi vậy, hơn lúc nào hết thu nhập của hộ gia đình nông thôn, nhất là nông

dân đang trở nên một vấn đề đã và đang được nhiều công trình nghiên cứu đề cập.

Sau đây là một số vị dụ điển hình:

Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Văn Trịnh và Phan Thuận (2014) đã tiến

hành nghiên cứu một đề tài nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của

người nông dân trồng lúa ở Cần Thơ. Đề tài đã tiến hành khảo sát 190 hộ gia đình

trồng lúa thuộc các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Thới Lai thuộc thành phố Cần

Thơ để phân tích mức độ ảnh hưởng của ngành trồng lúa đến thu nhập của nông

hộ. Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là thống kê mô tả và

hồi quy đa biến. Kết quả cho thấy, thu nhập của người trồng lúa vẫn còn thấp.

29

Nghiên cứu cũng xác định các yếu tố như diện tích canh tác, chi tiêu sản xuất, giá

lúa, sản lượng lúa và giới tính ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến thu nhập của người

trồng lúa ở Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Nhìn chung, thu nhập

của bà con nông dân trồng lúa ở Cần Thơ vẫn còn thấp so với thu nhập bình quân

của thành phố. Nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thu

nhập của người trồng lúa như diện tích đất canh tác, chi tiêu cho sản xuất, giá lúa,

sản lượng lúa và giới tính chủ hộ. Phát hiện này không chỉ có sự thống nhất với

các nghiên cứu trước đó mà còn bổ sung thêm các yếu tố đầu ra ảnh hưởng đến

thu nhập của bà con nông dân trồng lúa. Điều này cho thấy, những phát hiện của

nghiên cứu cung cấp thêm bằng chứng thuyết phục về các yếu tố ảnh hưởng đến

thu nhập của người trồng lúa ở Cần Thơ hiện nay. Đồng thời, qua phân tích kết

quả khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy rằng, người nông dân trồng lúa vẫn chưa

thật sự an tâm để làm giàu cho bản thân trên mảnh ruộng quê hương bởi vì giá lúa

luôn bấp bênh và năng suất lúa thường không ổn định. Trong điều kiện hiện nay,

quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh cũng khiến cho người nông dân mất

đất màu mỡ để sản xuất nông nghiệp, diện tích đất canh tác bị thu hẹp đã làm giảm

năng suất lúa. Kết quả là thu nhập của người trồng lúa giảm.

Còn tác giả Nguyễn Lan Duyên (2014) đã sử dụng phương pháp bình

phương bé nhất (OLS) để ước lượng mô hình hồi quy nhằm xác định các yếu tố

ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở tỉnh An Giang trên cơ sở hệ thống dữ liệu

sơ cấp thu thập từ 598 nông hộ được chọn ngẫu nhiên. Kết quả ước lượng cho

thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian sống tại địa phương,

khoảng cách từ nơi ở đến đô thị, lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh

hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Kết quả cũng cho thấy nhiều lao

động trong độ tuổi vẫn còn sống phụ thuộc, làm giảm thu nhập bình quân đầu

người của hộ. Bên cạnh đó, nông hộ sống càng gần đô thị thì sẽ có cơ hội cải thiện

thu nhập bởi có thể bán được sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn trong khi chi phí

vận chuyển, bảo quản thấp hơn, đồng thời có thể tham gia các hoạt động phi nông

30

nghiệp để làm tăng thu nhập. Từ kết quả nghiên cứu và thực tế ở An Giang, nghiên

cứu có một số khuyến nghị nhằm nâng cao thu nhập của nông hộ như sau: Nhà

nước cần phát triển hệ thống trường lớp ở nông thôn với nhiều hình thức (thường

xuyên, không thường xuyên, ngắn hạn,…) và có chính sách hỗ trợ, khuyến khích

bà con nông dân (đặc biệt là các chủ hộ trẻ tuổi) đến học để nâng cao trình độ.

Cần tạo việc làm cho họ thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chú trọng những sản

phẩm có giá trị cao và có tiềm năng xuất khẩu. Tạo điều kiện khôi phục và phát

triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn, phát triển các

doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các thị tứ, thị trấn hay các cụm tuyến dân cư (vượt lũ).

Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của mọi người trong việc

mỗi người cố gắng học lấy một nghề. Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển mạng

lưới giao thông nông thôn, kết nối trung tâm hành chính xã, thị trấn, thị xã với

nông hộ nhằm phục vụ cho việc vận chuyển sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng

đưa sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Triển khai các biện pháp để hỗ

trợ, tạo mối liên kết giữa nông hộ với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học,

hiệp hội ngành nghề,… trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện

để tổ hợp tác, hợp tác xã đổi mới nội dung hoạt động, mở rộng quy mô, ngành

nghề sản xuất kinh doanh. Xây dựng các khu chợ nông thôn và chợ đầu mối ở các

vùng và tiểu vùng sản xuất nông sản tập trung. Đồng thời, nhà nước cần hỗ trợ

các tổ chức tín dụng có sự tham gia của nông dân (Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp

tác xã tín dụng, nhóm tiết kiệm của nông dân và các hình thức hỗ trợ vốn do các

tổ chức đoàn thể lập ra,...) để hỗ trợ nông dân. Ngân hàng Nhà nước cần triển khai

thực hiện tốt Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Thủ

tướng Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông

thôn và các hướng dẫn thực hiện của ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các hình

thức cho vay tín chấp đối với nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, cần quan tâm

đến chính sách cho vay với kỳ hạn linh động hơn và thủ tục đơn giản hơn. Chính

31

phủ cần xem xét việc chuyển tiền hỗ trợ mua lúa tạm trữ từ doanh nghiệp sang

nông hộ để nông hộ có thêm vốn sản xuất, đầu tư phương tiện bảo quản sản phẩm

và không bị ép giá bởi các trung gian (thương lái) hay đôi khi chính các doanh

nghiệp. Đoàn thể cần phát huy vai trò của mình trong việc thành lập các quỹ hỗ

trợ sản xuất, tổ (nhóm) vay vốn để hỗ trợ các thành viên trong hoạt động sản xuất

và tiêu thụ sản phẩm. Nông hộ cần tính toán đến việc tham gia mô hình cánh đồng

mẫu lớn để tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm và tiếp cận tín dụng, qua đó

giúp làm tăng thu nhập.

Trong một công trình nghiên cứu của mình, tác giả Chu Thị Kim Loan và

Nguyễn Văn Hướng (2015) đã khái quát thực trạng nguồn lực và ảnh hưởng của

chúng tới thu nhập của nông hộ tỉnh Thanh Hóa qua kết quả điển cứu tại hai huyện

Hà Trung và Thọ Xuân. Kết quả nghiên cứu được tổng hợp chủ yếu từ số liệu điều

tra của 80 nông hộ, phương pháp phân tích chính là thống kê mô tả và hồi qui đa

biến. Nghiên cứu cho thấy chất lượng lao động, qui mô đất đai và lượng vốn của

các nông hộ điều tra còn ở mức thấp. Thu nhập của nông hộ ở mức bình quân 72

triệu đồng/năm, đặc biệt thu nhập từ tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá

cao trong tổng thu nhập của hộ. Các nguồn lực của nông hộ như qui mô đất sản

xuất, số lượng và trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất tỷ lệ

thuận với thu nhập của hộ, trong đó qui mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn nhất.

Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ hộ và vị trí địa lý

cũng có tác động tới thu nhập của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn

lực lao động, qui mô đất đai và nguồn vốn của các nông hộ điều tra còn ở mức

tương đối thấp. Trung bình, một nông hộ có 3,2 lao động với trình độ tốt nghiệp

phổ thông cơ sở, 7.758 m2 đất và 41,6 triệu đồng tiền vốn. Thu nhập của nông hộ

ở mức bình quân khoảng 72 triệu đồng/hộ/năm; điều đáng chú ý là thu nhập từ

tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của nông hộ.

Hệ số ước lượng của các biến nguồn lực như qui mô đất sản xuất, số lượng và

trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất của nông hộ mang dấu

32

dương và có ý nghĩa thống kê; trong đó qui mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn

nhất tới thu nhập của nông hộ. Điều này ngụ ý nông hộ có thể cải thiện các nguồn

lực này để tăng thu nhập. Do vậy, chính quyền địa phương nên tiếp tục khuyến

khích nông hộ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch đất đai và phát triển ngành

nghề. Những nông hộ có thế mạnh về các ngành nghề phi nông nghiệp có thể

chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập từ ngành này và chuyển dịch đất

đai cho các nông hộ khác canh tác. Đồng thời, công tác giáo dục và đào tạo cũng

nên được tăng cường hơn, không chỉ với các nông dân hiện tại mà cả thế hệ học

sinh, thanh niên - những công dân tương lai đóng góp nhiều vào thu nhập của

nông hộ ở địa phương. Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay cũng có tác

động tới thu nhập của nông hộ. Vì thế, thúc đẩy phát triển thị trường tín dụng nông

thôn cũng là điều cần thiết để tăng cơ hội cho nông hộ tiếp cận nguồn vốn vay với

lãi suất hợp lý và thủ tục đơn giản, từ đó nâng cao thu nhập.

Còn theo tác giả Lê Đình Hải (2017), trong công trình nghiên cứu về thu

nhập của nông hộ tại huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội), tác giả cho biết: Việc

nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của của các

nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, TP. Hà Nội là rất cấp thiết bởi vì nó là cơ sở

cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho nông hộ trên địa bàn

nghiên cứu. Để đạt mục tiêu nghiên cứu, trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến

hành khảo sát trực tiếp 60 hộ nông dân trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà

Nội. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính đa biến đã chỉ ra được 3 nhân

tố có ảnh hưởng một cách đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của nông hộ trên địa bàn

nghiên cứu, bao gồm: (1) Qui mô vốn vay, (2) Diện tích đất của nông hộ, (3) Áp

dụng kỹ thuật vào sản xuất. Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho việc đề xuất

các giải pháp góp phần nâng cao thu nhập hỗn hợp cho các nông hộ trên địa bàn

huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, bao gồm các nhóm giải pháp sau đây: (i) Tạo

vốn cho hộ nông dân; (ii) Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất; (iii) Tăng

cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân. Từ đó tác giả

đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ huyện Ba Vì

33

như sau: (1) Tạo vốn cho nông dân vì qua điều tra thực tế ta thấy, hầu hết các hộ

sản xuất trong huyện đều thiếu vốn, mặc dù các hình thức cho nông hộ vay vốn ở

địa phương khá phong phú; (2) Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất theo

hướng đẩy nhanh quá trình "dồn điền đổi thửa" tiến tới ổn định ruộng đất. Đồng

thời khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ có khả năng tham gia đấu thầu như

nhau, cả đất dự trữ và đất mặt nước đã và chưa sử dụng, để một mặt phát triển sản

xuất, nâng cao thu nhập cho nông hộ, mặt khác đưa đất đai của huyện vào sử dụng

đầy đủ, hợp lý; (3) Tăng cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho hộ

nông dân theo các nhóm đối tượng nông hộ khác nhau về kinh tế.

Như vậy, có thể thấy rằng tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đều tập trung giải quyết những vấn đề, những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân nông thôn, trong đó tập trung vào các yếu tố có thể kiểm soát để từ đó đề xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao thu nhập hỗn hợp cho họ. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu này đều được thực hiện ở đồng bằng, vùng thấp, vùng có điều kiện thuận lợi và có trình độ dân trí cao hơn. Rõ ràng là việc nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân được đánh giá là hướng đi đúng đắn, là gợi ý tốt cho các nghiên cứu tiếp theo, đặc biệt đang là vấn đề đặt ra đối với một địa phương miền núi như thành phố Bắc Kạn, một địa phương tuy là đô thị, nhưng vẫn còn đó là những khu vực nông thôn, vùng ngoại thị, khu vực phụ cận của đô thị, vẫn còn đó với những cảnh quan đơn sơ, tĩnh mịch so với khu vực trung tâm đô thị.

Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Thành phố Bắc Kạn là trung tâm chính trị - kinh tế của tỉnh Bắc Kạn, cách

Thủ đô Hà Nội 160 km theo đường Quốc lộ 3 về phía Đông Bắc, có tọa độ địa lý

2208'5'' đến 2209'23''vĩ độ Bắc từ 105049'30''đến 105051'15''kinh độ Đông. Phía

Đông giáp xã Mỹ Thanh (huyện Bạch Thông); Phía Tây giáp hai xã Quang Thuận

và Đôn Phong (huyện Bạch Thông); Phía Nam giáp các xã Thanh Vận, Hòa Mục

34

và Tân Sơn (huyện Chợ Mới); Phía Bắc giáp hai xã Cẩm Giàng và Hà Vị (huyện

Bạch Thông).

Thành phố Bắc Kạn là thung lũng lòng chảo nằm theo hai bờ sông Cầu

xung quanh đều có các dãy núi bao bọc, hướng dốc từ Tây sang Đông. Độ cao

trung bình từ 150 đến 200 m so với mặt nước biển. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh núi

Khau Nang (xã Dương Quang) cao 746m và núi Nặm Dất (phường Xuất Hóa) cao

728 m.

Thành phố Bắc Kạn chịu ảnh hưởng chung của khí hậu miền núi phía Bắc

Việt Nam. Được hình thành từ một nền nhiệt đới cao của đới chí tuyến và sự thay

thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với điều kiện địa hình nên mùa đông

(từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau) giá lạnh, nhiệt độ không khí thấp,

trời khô hanh, có sương muối; mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 9), nóng ẩm mưa

nhiều. Mùa mưa ở thành phố Bắc Kạn kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 nhưng tập

trung nhiều nhất vào các tháng 7, 8, 9, chiếm 80% lượng mưa của cả năm và mùa

khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau với tổng lượng mưa hàng năm toàn

đạt 1.436 mm. Ngoài ra trên địa bàn thành phố Bắc Kạn còn có hiện tượng mưa

phùn (32 ngày/năm) và ít có bão; tuy nhiên vào mùa mưa dễ gây lụt lội, lũ quét

ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Thành phố Bắc Kạn chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn Sông Cầu (Sông

Cầu chảy qua địa bàn tỉnh Bắc Kạn dài 100 km và qua địa phận thành phố Bắc

Kạn dài khoảng 20 km, chiều rộng trung bình 40 m) và các suối chảy qua địa bàn

Thành phố như suối Nặm Cắt, suối Nông Thượng, suối Pá Danh, suối Xuất

Hóa. Sông suối có độ dốc bị bồi lắng do đất đá ở thượng nguồn trôi về làm cho

dòng chảy của sông, suối bị thu hẹp lại, mùa mưa gây úng ngập ở hai bên bờ sông,

suối.

Tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố năm 2017 là 13.699,98 ha. Trong

đó diện tích đất nông nghiệp là 12.154,1 ha, diện tích đất phi nông nghiệp là

1442,73 ha, diện tích đất chưa sử dụng là 103,15 ha. Trong tổng diện tích nhóm

35

đất nông nghiệp thì diện tích đất lâm nghiệp là 10.644,42 ha (chiếm 87,57%), diện

tích đất sản xuất nông nghiệp 1.507,34 ha (chiếm 12,4%), chủ yếu là đất trồng

lúa: 531,19 ha, chiếm 35,24 %.

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Cơ cấu kinh tế của thành phố Bắc Kạn có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ

trọng ngành nông, lâm, thủy sản và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và

dịch vụ. Tỷ trọng giá trị trong GDP của ngành nông nghiệp năm 2017 là 6,2%,

giảm 1,1% so với năm 2015. Trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng

năm 2017 là 38,4%, tăng 0,2% so với năm 2015. Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng

0,9% so với năm 2015.

Trong cơ cấu nông, lâm, thủy sản của thành phố, cơ cấu trồng trọt luôn

chiếm tỷ lệ cao nhất (ổn định trong khoảng 62,43% - 65,01% tổng giá trị sản lượng

nông nghiệp), tiếp theo là chăn nuôi, cơ cấu chăn nuôi dao động trong khoảng 18-

21% trong vòng 3 năm 2015-2017, giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2017 có xu

hướng tăng so với năm 2015 và năm 2016.

Tổng dân số trên địa bàn thành phố năm 2017 là 42.401 người, trong đó ở

thành thị 35.334 người (chiếm 83,33%), ở nông thôn là 7.067 (chiếm 16,67).

Thành phố Bắc Kạn có 5 dân tộc anh em cùng sinh sống là Kinh, Tày, Nùng, Dao

và Hoa. Số người trong độ tuổi lao động là 5.587 người, trong đó số lao động đã

qua đào tạo là 710 người, chiếm 12,70%, lao động chưa qua đào tạo là 4.375

người, chiếm 78,30%, số học sinh,sinh viên là 502 người, chiếm 8,98%. Số lao

động có việc làm thường xuyên là 5.085 người, chiếm 91,01%.

2.2. Nội dung nghiên cứu

- Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn tại thành phố

Bắc Kạn.

+ Một số văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến tăng thu nhập của

người dân trong xây dựng nông thôn mới.

+ Một số nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn địa phương.

+ Thu nhập của hộ gia đình nông thôn địa phương.

36

- Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, bất cập tác động đến thu nhập của hộ gia

đình nông thôn tại địa phương.

+ Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn

thành phố Bắc Kạn.

+ Khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn

thành phố Bắc Kạn.

- Mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao thu nhập

cho các hộ gia đình nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

+ Mục tiêu.

+ Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình

nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh

Bắc Kạn. 2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin số liệu

2.3.1.1. Thu thập các thông tin thứ cấp

Thông tin thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như: Tổng cục

Thống kê, UBND thành phố Bắc Kạn, Phòng Kinh tế thành phố Bắc Kạn, Chi cục

Thống kê thành phố Bắc Kạn cũng như các nguồn thứ cấp khác.

Trong đề tài, phương pháp thu thập thông tin thứ cấp dùng để thu thập các

thông tin về điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, địa hình, khí hậu thời tiết, đất đai,…),

các điều kiện kinh tế - xã hội (hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ sản xuất, cơ cấu kinh

tế, cơ cấu lao động, thu nhập bình quân, tỷ lệ hộ nghèo,…) tại địa phương; thu

thập các thông tin liên quan đến thu nhập, các hình thức tổ chức sản xuất như số

lượng, lĩnh vực hoạt động, chất lượng, các sản phẩm nông sản,…của các hình thức

tổ chức đó trên địa bàn các xã nghiên cứu; thu thập các thông tin về diện tích,

năng suất cây trồng, vật nuôi, thu nhập hộ gia đình,…

2.3.1.2. Thu thập thông tin sơ cấp

Trong phạm vi đề tài này, thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện qua các

phương pháp chủ yếu sau đây:

37

a) Phương pháp điều tra bảng hỏi theo phiếu điều tra đã được chuẩn bị trước

Phương pháp này sử dụng nhằm thu thập các thông tin cụ thể, trực tiếp liên

quan đến các nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua phỏng vấn người dân bằng

bảng câu hỏi (tức phiếu điều tra) đã được chuẩn bị từ trước. Nội dung của phiếu

điều tra sẽ bao gồm những thông tin chung về hộ điều tra (họ tên, danh tính hộ,

học vấn, dân tộc,…), nguồn lực của hộ (đất đai, lao động, nhân khẩu, học vấn,

vốn,…), hoạt động sinh kế về trồng trọt (diện tích các cây trồng chính, loại cây

trồng): lúa, ngô, rau màu, cây ăn quả, rừng,… hoạt động sinh kế về chăn nuôi (số

đầu vật nuôi chính, số hộ nuôi): lợn, trâu bò, gia cầm, thủy sản,… Hoạt động sinh

kế phi nông nghiệp: thương mại, dịch vụ, chế biến, buôn bán, ngành nghề,… Thu

nhập nông nghiệp, thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu từ các hoạt động phi nông

nghiệp, thu nhập hỗn hợp (tổng thu nhập) của hộ gia đình,…

Lựa chọn thôn điều tra: Đề tài lựa chọn 7 thôn nông thôn, thuộc 3 đơn vị

hành chính cấp cơ sở là xã Nông Thượng, xã Dương Quang và phường Huyền

Tụng. Trong đó 2 xã Nông Thượng và Dương Quang là 2 xã nông thôn đề tài chọn

mỗi xã 3 thôn. Riêng phường Huyền Tụng là đơn vị hành chính đô thị, nhưng lại

có 1 thôn/tổ dân phố nông thôn (đó là tổ Khuổi Pái) thuộc diện được hỗ trợ của

chương trình 135 duy nhất của thành phố Bắc Kạn, nên đề tài chọn thôn này để

điều tra (Bảng 2.1).

Bảng 2.1. Số hộ điều tra tại các thôn trong 3 xã, phường

Thôn Xã/Phường Số hộ điều tra

Cốc Muổng Nông Thượng 15

Nà Bản Nông Thượng 15

Nà Diểu Nông Thượng 15

Nà Dỳ Dương Quang 15

Nà Ỏi Dương Quang 15

Nà Pài Dương Quang 15

38

Khuổi Pái Huyền Tụng 15

Tổng số 105

Lựa chọn mẫu điều tra: Số lượng hộ gia đình nông thôn được lựa chọn để

điều tra được tính theo công thức Slovin (1960) như sau:

n = N/(1 + N.e2)

Trong đó: n là dung lượng mẫu được chọn

N: Tổng thể, tức tổng số hộ gia đình. Ở đây tổng số hộ gia đình

nông thôn ở địa bàn nghiên cứu (gồm 2 xã Nông Thượng, Dương Quang và

thôn/tổ dân phố Khuổi Pái (phường Huyền Tụng) là 1.500 hộ.

e: Sai số. Vì các hộ gia đình ở địa bàn nghiên cứu được đánh

giá khá phức tạp, nên chúng ta xác định sai số không vượt quá 10%, tức e = 0,1.

Tính toán theo công thức trên đây, ta có n = 93,8. Lấy tròn số, ta có n = 105

hộ được điều tra tại 7 thôn, trong đó có 6 thôn thuộc 2 xã Nông Thượng, Dương

Quang và 1 thôn của phường Huyền Tụng. Do đó, tại mỗi thôn, đề tài lựa chọn 15

hộ để điều tra dựa theo sự thuận tiện trong khi tác nghiệp trên hiện trường có sự

tư vấn tham khảo từ cán bộ xã, lãnh đạo thôn. Tổng số mẫu điều tra ở tất cả 7 thôn

thuộc 2 xã Dương Quang và Nông Thượng và phường Huyền Tụng trên đây là

105 hộ gia đình nông thôn (Bảng 2.1).

b) Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc

Sử dụng phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập các thông tin liên

quan đến đề tài. Bảng kiểm kê liệt kê vấn đề cần nghiên cứu sẽ được hình thành

để thu thập các thông tin số liệu liên quan.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi thực hiện phỏng vấn bán cấu trúc

với các chủ tịch hoặc phó chủ tịch phụ trách kinh tế của các xã. Nội dung nhằm

thu thập những thông tin chung về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương; những đường lối, chủ trương, chính sách hỗ trợ,… của địa phương đối

39

với hoạt động sản xuất của người dân; tìm hiểu về những chương trình, dự án phát

triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang triển khai tại địa phương.

c) Phương pháp quan sát trực tiếp

Là phương pháp thu thập thông tin một cách chủ quan thông qua quan sát,

đánh giá trực tiếp về điều kiện kinh tế xã hội, đời sống sinh hoạt, lao động sản

xuất của người dân trên địa bàn nghiên cứu. Sử dụng phương pháp quan sát để có

thể giải thích những sự kiện và hiện tượng đang nảy sinh trong đời sống, kinh tế

xã hội tại địa bàn nghiên cứu.

2.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu

2.3.2.1. Phương pháp phân tích thống kê Excel

Các loại số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu được được kiểm tra, phân tổ

và tổng hợp theo hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu đã xây dựng sử dụng phần mềm

thống kê Excel/PivotTable (Dương Văn Sơn và Bùi Đình Hòa, 2012).

Các thông tin định lượng trong bảng hỏi (phiếu điều tra) được tính toán xử

lý một số đại lượng thống kê thông dụng của mẫu như: Độ lệch chuẩn (SD), sai

số chuẩn (SE) và hệ số biến động (CV%) nhằm hiểu rõ bản chất dẫy số liệu đã

quan sát.

2.3.2.2. Phương pháp phân tích hồi quy đa biến

Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến để phân tích mối liên hệ

tương quan giữa một số biến độc lập là các biến định lượng và biến định tính (biến

giả định) với biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp (tổng

thu nhập) của hộ gia đình nông thôn.

Mô tả chi tiết các biến số độc lập và biến số phụ thuộc sẽ được trình bày ở

mục 3.2 trong chương 3. Phân tích hồi quy đa biến dựa trên phần mềm IBM SPSS

Statistic 20. Kết quả chi tiết các phân tích này được trình bày ở phụ lục.

2.3.2.3. Phương pháp thống kê mô tả

40

Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng trong nghiên cứu nhằm phân

tích thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn. Các kết quả này được biểu

diễn dưới dạng các số tương đối, số tuyệt đối, số trung bình, được trình bày bằng

bảng số liệu, hình,...

2.3.2.4. Phương pháp so sánh

Phương pháp này được sử dụng để đánh giá thực trạng thu nhập của hộ gia

đình thông qua việc so sánh các chỉ tiêu nghiên cứu theo thời gian, theo phân loại

nhóm hộ. Kết quả của phân tích này sẽ là cơ sở của việc tìm ra các yếu tố ảnh

hưởng đến thu nhập của hộ gia đình tại thành phố Bắc Kạn.

2.3.2.5. Phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng

Đề tài đồng thời sử dụng cả nghiên cứu định tính, chỉ rõ những đặc điểm

mang tính định tính của hộ gia đình nông thôn, đồng thời sử dụng cả nghiên cứu

định lượng thông qua xác định các thông tin định lượng của hộ gia đình nông thôn

trong nghiên cứu.

2.3.2.6. Nghiên cứu mô tả và nghiên cứu giải thích

Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả để thiết lập trạng thái tồn tại của

sự vật hiện tượng, chỉ ra bộ mặt hiện thực của đối tượng nghiên cứu, là tiền đề

cho nghiên cứu giải thích nhằm chỉ ra mối quan hệ tất yếu, bản chất của hiện

tượng này (tức là hiện tượng cần được giải thích) với hiện tượng khác mà có quan

hệ với hiện tượng giải thích.

2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài

2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về đặc điểm danh tính của hộ gia đình nông thôn

- Họ tên, địa chỉ, tuổi, học vấn, dân tộc, số năm định cư,…

- Đặc điểm về nghề nghiệp chính, phân loại kinh tế hộ.

2.4.2. Nhóm chỉ tiêu về nguồn lực của hộ gia đình nông thôn

- Nguồn lực lao động: nhân khẩu, lao động, lao động đã đào tạo,…

41

- Nguồn lực đất đai: Tổng diện tích đất đai, diện tích đất nông nghiệp, diện

tích đất lâm nghiệp, đất ở, đất thuê mướn…

- Nguồn lực vốn và cơ sở vật chất: vốn sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật,…

2.4.3. Nhóm chỉ tiêu về sinh kế và thu nhập hộ gia đình nông thôn

- Hoạt động sinh kế nông nghiệp: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp,…

- Hoạt động sinh kế phi nông nghiệp: Thương mại-dịch vụ, công nghiệp-

xây dựng, ngành nghề,…

- Thu nhập hỗn hợp của gia đình.

2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về kinh tế của hộ gia đình nông thôn

- Giá trị sản xuất - GTSX (GO - Gross Output): Là giá trị toàn bộ sản phẩm

sản xuất ra trong kỳ sử dụng đất (một vụ, một năm, tính cho từng cây trồng).

i≡1 Qi x Pi

GO = ∑n

Trong đó: Qi là sản lượng sản phẩm loại i

Pi là đơn giá sản phẩm loại i

- Thu nhập hỗn hợp - TNHH (MI - Mixed Income): Là thu nhập sau khi đã

trừ các khoản chi phí trung gian (chi phí vật chất), thuế hoặc tiền thuê đất, khấu

hao tài sản cố định, chi phí lao động thuê ngoài.

MI = VA - T (thuế) - A (khấu hao) - L (chi phí lao động)

Tính toán ở 3 góc độ hiệu quả: MI/1ha đất; MI/1 đơn vị chi phí (1VNĐ);

MI/1 công lao động. Thu nhập hỗn hợp gồm cả thu nhập nông nghiệp, thu nhập

phi nông nghiệp và các khoản thu khác của hộ gia đình.

- Thu nhập về nông nghiệp.

- Thu nhập về phi nông nghiệp.

- Các khoản thu khác.

2.4.5. Nhóm các biến số trong mô hình hồi quy đa biến

- Biến phụ thuộc: Thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình, thu nhập về nông

nghiệp của hộ gia đình

42

- Biến độc lập định lượng: Học vấn, vốn, diện tích đất canh tác, lao động,

nhân khẩu,…

- Biến độc lập giả định: Nghề nghiệp chính của hộ, dân tộc,…

43

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thực trạng nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố

Bắc Kạn

3.1.1. Một số văn bản quản lý nhà nước liên quan đến thu nhập

3.1.1.1. Văn bản cấp Trung ương

Về cơ bản như đã phân tích trong chương 1, hiện nay ở nước ta có 3 văn

bản pháp lý cấp Trung ương quan trọng sau đây có liên quan đến thu nhập hộ gia

đình là:

- Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ

tướng Chính phủ về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng

cho giai đoạn 2016-2020.

- Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ

về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

- Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc

ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020.

3.1.1.2. Văn bản cấp địa phương

Ở cấp địa phương, tỉnh Bắc Kạn có các văn bản pháp lý sau đây có liên

quan đến kinh tế và thu nhập hộ gia đình:

- Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ Ba (khóa 11) về Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh trên thị trường giai đoạn 2016-2020.

- Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 11/4/2017 của HĐND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.

- Quyết định số 734 /QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của UBND tỉnh Bắc Kạn

về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.

44

Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập khu vực nông thôn toàn tỉnh đến năm 2020

đạt bình quân đầu người từ 36 triệu đồng/năm trở lên; năm 2017 đạt từ 26 triệu

đồng/người/năm trở lên; năm 2018 đạt từ 30 triệu đồng/người/năm trở lên; năm

2019 đạt từ 33 triệu đồng/người/năm trở lên.

- Quyết định số 1861/QĐ-UBND ngày 6/11/2018 của UBND tỉnh Bắc Kạn

về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020.

Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh năm 2018 đạt

từ 31,2 triệu đồng/năm trở lên; năm 2019 đạt từ 36 triệu đồng/người/năm trở lên;

năm 2020 đạt từ 39,6 triệu đồng/người/năm trở lên.

- Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 13/2/2019 của UBND tỉnh Bắc Kạn

về việc ban hành Bộ tiêu chí thôn nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020.

Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, năm 2019 thu nhập bình quân đầu người của thôn đạt

từ 33 triệu đồng/người/năm trở lên, năm 2020 đạt từ 36 triệu đồng/người/năm trở

lên.

3.1.2. Nguồn lực chủ yếu của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Nguồn lực là tất cả những gì cần thiết để có thể làm được một việc gì đó.

Nguồn lực của hộ gia đình nông thôn bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực của

chính gia đình đó. Trình độ người lao động gồm trình độ học vấn và trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh

chất lượng nguồn nhân lực.

Trước hết, về nguồn nhân lực, kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105

hộ gia đình đã điều tra, có tuổi bình quân 50,7 năm, nên vẫn còn nhiều khả năng

cũng như sức khỏe để phát triển kinh tế cho hộ gia đình. Về số năm đi học: Các

hộ có học vấn bình quân học đến lớp 7,4 theo khung đào tạo ở bậc phổ thông 12

lớp, trong đó nhóm hộ gia đình có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và

phi nông nghiệp có học vấn lớp 8,3, cao hơn nhóm hộ thuần nông nghiệp, chỉ học

hết lớp 6,1. Mỗi hộ gia đình có bình quân 4,4 nhân khẩu, trong đó nhóm hộ thuần

45

nông nghiệp có số nhân khẩu là 4,6 người/hộ, nhiều hơn 0,3 người/hộ so với nhóm

hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Mỗi hộ có 2,6 lao động

chính, trong đó có bình quân 1 lao động đã qua đào tạo. Tuy nhiên trong tổng số

105 hộ điều tra mới chỉ có 50 có lao động qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 47,6% tổng số

hộ đã điều tra (Bảng 3.1).

Trên thực tế, số lượng lao động nông thôn tại các xã trên địa bàn thành phố

Bắc Kạn chưa qua đào tạo nghề còn cao. Mặt khác, các ngành nghề của địa

phương chưa thực sự phát triển, sản xuất còn mang tính tự phát là chính, chưa

được quy hoạch đồng bộ. Vì vậy, muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội nông

thôn, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn cần tăng cường công tác đào tạo,

huấn luyện, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn để vừa tạo việc làm, góp

phần phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập. Bảng 3.1. Nguồn nhân lực của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Nghề nghiệp chính Tuổi Học vấn Số lao động Số nhân khẩu Số lao động đã đào tạo

50,5 8,3 4,3 2,6 1,0

Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông 51,0 6,1 4,6 2,6 1,0

Mean 50,7 7,4 4,4 2,6 1,0

n 105 105 105 105 50

SD 9,6 2,6 1,2 0,9 0,1

SE 0,9 0,2 0,1 0,1 0,0

CV% 18,9 34,4 27,8 33,8 13,9

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

Rõ ràng là khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn có nguồn nhân lực dồi

dào, sẵn sàng đáp ứng cho các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội không chỉ cho

chính bản thân khu vực nông thôn, nơi họ đang sinh sống, mà còn có thể cung cấp

một lực lượng lao động lớn cho khu vực đô thị, các khu công nghiệp.

46

Bảng 3.2. Nguồn vốn của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Nghề nghiệp chính

Số hộ vay vốn (hộ) 15 10 25

Vốn sản xuất (triệu đồng) 68,1 37,8 56,0 52,4 5,1 93,7 Số tiền vay (triệu đồng) 33,3 15,9 26,3 20,3 4,1 77,0 Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean SD SE CV%

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

Nguồn lực tài chính của hộ gia đình nông thôn chủ yếu là vốn đầu tư cho

sản xuất. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra, bình quân mỗi

hộ có vốn sản xuất là 56 triệu đồng/năm. Trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn

hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp có số vốn sản xuất là 68,1 triệu

đồng/năm, cao hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, với số vốn chỉ là 37,8 triệu

đồng/năm (Bảng 3.2).

Trong sản xuất kinh doanh của hộ gia đình nông thôn, các hộ cần cần vốn,

song bản thân nội lực gia đình chưa đủ đáp ứng nhu cầu vốn, nên họ cần vay vốn.

Kết quả điều tra cho thấy: trong tổng số 105 hộ điều tra thì chỉ có 25 hộ vay vốn

với số vốn vay bình quân đạt 26,3 triệu đồng. Trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp

hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp đã vay vốn bình quân là 33,3

triệu đồng, nhiều hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, chỉ vay với số vốn bình

quân mỗi hộ là 15,9 triệu đồng (Bảng 3.2). Tất cả 25 hộ vay vốn trên đều vay tiền

từ hệ thống tín dụng chính thức của địa phương như: Ngân hàng Chính sách xã

hội, ngân hàng Nông nghiệp và PTNT,... Một điều đáng chú ý là khi phỏng vấn,

47

nhiều hộ gia đình vẫn có nhu cầu vay vốn, nhưng rất ngại vay vì thủ tục vay vốn

còn rờm rà, lãi suất còn cao,...

Bảng 3.3. Nguồn lực đất đai của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Nghề nghiệp chính Đất canh tác (ha) Đất lâm nghiệp (ha)

Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean n SD SE CV% 0,374 0,429 0,396 105 0,316 0,031 79,7 1,091 1,297 1,187 77 0,568 0,065 47,8

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

Nguồn lực vật chất của hộ gia đình nông thôn trong nghiên cứu này chủ

yếu là đất đai, bao gồm diện tích đất canh tác để trồng trọt các cây nông nghiệp

ngắn ngày (như: lúa, ngô, rau, hoa, cây hoa màu,...) và cây nông nghiệp dài ngày

(như: cam, quýt, chuối, hồng không hạt,...). Kết quả điều tra cho thấy: trong tổng

số 105 hộ điều tra, bình quân mỗi hộ có 0,396 ha đất canh tác, độ lệch cao (0,316

ha/hộ), nên biến động lớn (tới 79,7%), chứng tỏ rằng có sự biến động rất lớn về

diện tích đất canh tác giữa các nhóm hộ. Một số hộ có quy mô đất canh tác khá

lớn, có thể đạt ở quy mô trang trại, phát triển cây ăn quả, rau xanh,... Trong đó về

tổng thể nhóm hộ thuần nông nghiệp có diện tích canh tác là 0,429 ha/hộ, nhiều

hơn so với nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông

nghiệp, với diện tích canh tác bình quân là 0,374 ha/hộ (Bảng 3.3). Mặt khác, theo

quan sát của chúng tôi, số mảnh thửa đất canh tác mỗi hộ tương đối nhiều, biến

động từ 6-12 mảnh/hộ, lại phân bố rất dải rác, tiêu tốn nhiều thời gian đi từ nhà

đến nơi canh tác. Tình trạng manh mún và phân tán về đất đai là một thách thức

cho phát triển sản xuất hàng hóa để tạo thu nhập. Vì vậy cần có tích tự tập trung

48

đất đai, dồn điền đổi thửa, phát triển trang trại, tạo cánh đồng lớn cho sản xuất

hàng hóa. Nếu phân theo nhóm hộ khác nhau về nhóm dân tộc thì nhóm hộ người

Tày có nhiều đất canh tác hơn so với nhóm hộ người Dao. Đây cũng chính là lý

do tại sao nhóm họ người Dao trong nghiên cứu này lại nghèo, lại có thu nhập

thấp. Chúng ta sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu vấn đề này trong các mục tiếp theo.

Đặc điểm của khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn là điều kiện tự nhiên

cơ bản là đồi núi, nên diện tích đất lâm nghiệp là thế mạnh của các hộ gia đình địa

phương. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra thì có tới 77 hộ

(chiếm tỷ lệ 73,3%) có đất lâm nghiệp để trồng rừng sản xuất với các loại cây chủ

lực như: Keo, mỡ,… Bình quân mỗi hộ có 1,187 ha đất trồng cây lâm nghiệp,

trong đó nhóm hộ thuần nông nghiệp có đất lâm nghiệp nhiều hơn nhóm hộ hỗn

hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp (Bảng 3.3).

3.1.3. Thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Trước hết trên phạm vi cả nước, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, việc sau

30 năm đổi mới, thu nhập vùng nông thôn vẫn chỉ bằng 55,8% thu nhập thành thị,

vùng trung du - miền núi phía Bắc chỉ bằng 46,5% thu nhập thành thị và nếu không

có các giải pháp mới, đột phá thì phải mất 10-15 năm nữa thì thu nhập nông thôn

mới bằng 2/3 thu nhập thành thị và đối với vùng Trung du-miền núi phía Bắc phải

hàng chục năm nữa thì việc tìm con đường mới để nâng cao đáng kể năng suất, thu

nhập cho sản xuất nông nghiệp là yếu tố quyết định, bởi tài nguyên lớn nhất của nông

thôn miền núi là các tài nguyên để phát triển nông nghiệp.

Công bằng mà nói, thu nhập của hộ gia đình nông thôn đã liên tục tăng từ

năm 1999 đến nay. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018), nếu như năm

1999, thu nhập ở khu vực nông thôn cả nước mới chỉ đạt 225 nghìn

đồng/người/tháng, còn ở vùng Trung du miền núi phía Bắc đạt thấp hơn (chỉ đạt

bình quân 199 nghìn đồng/người/tháng); sau đó, thu nhập liên tục tăng, tương ứng

năm 2002 là 275 nghìn và 237 nghìn, năm 2004 là 378 nghìn và 327 nghìn, năm

2006 là 506 nghìn và 422 nghìn, năm 2008 là 762 và 657 nghìn, năm 2010 là

49

1.070 nghìn và 905 nghìn, năm 2012 là 1.579 nghìn và 1.285 nghìn, năm 2014 là

2.038 nghìn và 1.613 nghìn và năm 2016 là 2.423 nghìn và 1.963 nghìn

đồng/người/tháng. Tuy khu vực Trung du miền núi phía Bắc có thu nhập thấp hơn

so với bình quân nông thôn cả nước, nhưng rõ ràng là có sự gia tăng, đặc biệt là

sự bứt phá một cách nhanh chóng về thu nhập hộ gia đình nông thôn cả nước cũng

như hộ gia đình nông thôn khu vực Trung du miền núi phía Bắc, nhất là trong

3000

2500

2000

1,963

1,613

1500

Nông thôn cả nước

1,258

1000

905

657

Trung du và miền núi phía Bắc

500

442

327

237

199

0 1995

2000

2005

2010

2015

2020

vòng 6-7 năm gần đây, bắt đầu từ năm 2010 (Hình 3.1).

Hình 3.1. Thu nhập (ngàn đồng/người/tháng) nông thôn cả nước

và Trung du miền núi phía Bắc

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018

Đối với một địa phương như thành phố Bắc Kạn, trong những năm qua,

UBND thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương triển

khai thực hiện tốt nhiều nội dung phát huy nội lực, huy động tối đa các nguồn lực

tập trung cho Chương trình xây dựng nông thôn mới, nâng cao hiệu quả trong

công tác đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; tăng thu nhập cho người

dân; chỉ đạo triển khai thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án, đặc biệt là

trong công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu. Kết quả trong 06 năm triển

khai thực hiện, tổng nguồn vốn huy động đạt 29,55 tỷ đồng, trong đó: Vốn trực

tiếp cho Chương trình nông thôn mới 17,4 4 đồng (vốn trung ương 7,4 tỷ đồng,

50

vốn ngân sách địa phương 10,04 tỷ đồng); vốn lồng ghép từ các chương trình, dự

án khác 12,11 tỷ đồng; vốn huy động đóng góp của nhân dân 100 triệu đồng và trên 7.000 ngày công lao động, hiến 2.700 m2 đất,...

Nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn bao gồm các

khoản thu từ nông nghiệp, thu từ tiền công, tiền lương và thu từ các hoạt động phi

nông nghiệp. Kết quả điều tra cho thấy: Trong tổng số 105 hộ điều tra mỗi hộ có

thu nhập về nông nghiệp bình quân là 65,8 triệu đồng/năm. Trong đó nhóm hộ

thuần nông nghiệp có thu nhập cao hơn, đạt bình quân 83 triệu đồng/hộ/năm, trong

khi đó nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp chỉ đạt 54,3

triệu đồng/hộ/năm. Tuy nhiên độ lệch chuẩn cao, tới 52,7 triệu đồng/hộ, nên biến

động về thu nhập nông nghiệp lớn, đến 80,2%, chứng tỏ có sự chênh lệch khá lớn

về thu nhập nông nghiệp giữa các nhóm đã điều tra (Bảng 3.4). Trong tổng số 105

hộ điều tra, thì chỉ có 19 hộ có thu nhập từ tiền công, tiền lương với số tiền bình

quân là 48,6 triệu đồng/năm, nhóm hộ kiêm có tiền công, tiền lương nhiều hơn

(50,8 triệu đồng so với 12,9 triệu đồng ở nhóm hộ thuần nông).

Bảng 3.4. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn

thành phố Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp

Đơn vị tính: triệu đồng/hộ/năm

Nghề nghiệp chính

Thu nhập từ nông nghiệp Thu nhập phi nông nghiệp Tổng thu nhập Thu nhập từ tiền công, tiền lương

54,3 50,8 51,9 110,9

Hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp Hộ thuần nông Mean n SD SE CV% 83,0 65,8 105 52,7 5,1 80,2 12,9 46,8 19 44,8 10,3 95,6 0,0 51,9 52 37,8 5,2 72,9 83,7 100,0 105 56,5 5,5 56,5

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

51

Điều đáng chú ý là trong số 19 hộ có thu từ tiền công, tiền lương, tiền phụ

cấp thì chỉ có 2 hộ là thuần nông và 17 hộ thuộc nhóm hộ hỗn hợp kiêm cả nông

nghiệp và phi nông nghiệp. Kết quả điều tra cho thấy: có 52 hộ (chiếm 49,5% tổng

số hộ điều tra) có thu nhập về phi nông nghiệp như ngành nghề, buôn bán, dịch

vụ, thợ xây,... với số tiền bình quân mỗi hộ thu 51,9 triệu đồng/năm (Bảng 3.4).

Tổng thu nhập (hay còn gọi thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn đạt bình

quân 100 triệu đồng/năm, trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông

nghiệp và phi nông nghiệp có thu nhập 110,9 triệu đồng, cao hơn nhóm hộ thuần

nông nghiệp chỉ đạt 83,7 triệu đồng/hộ/năm (Bảng 3.4).

Kết quả điều tra cho thấy: có một số lượng tương đối lớn lực lượng lao động

ở các vùng nông thôn đổ xô tìm việc làm ở đô thị để làm việc như: làm nghề xây

dựng, thợ xây, tham gia bán hàng, phụ giúp nhà hàng, khách sạn,... Việc thu hút

lao động ở khu vực nông thôn sang thành thị làm việc đang ngày càng trở nên

mạnh mẽ, chứng tỏ vai trò của khu vực nông thôn trong việc cung cấp lao động

cho khu đô thị và khu công nghiệp.

Nếu phân theo nhóm dân tộc trong nghiên cứu này thì nhóm dân tộc Dao

vừa có thu nhập nông nghiệp thấp (chỉ đạt 38,7 triệu đồng/hộ/năm so với 70,3

triệu đồng/hộ/năm của nhóm dân tộc Tày), vừa có thu từ tiền công, tiền lương

thấp (12,9 triệu đồng/hộ/năm so với 50,8 triệu đồng/hộ/năm của nhóm dân tộc

Tày); đặc biệt người Dao không có hoạt động phi nông nghiệp, nên tổng thu nhập

hỗn hợp của nhóm người Dao chỉ đạt bình quân 40,4 triệu đồng/hộ/năm, thấp hơn

2,5 lần so với nhóm dân tộc Tày. Đây là một thách thức, một trở ngại rất lớn trong

việc nâng mức thu nhập bình quân của cả thành phố Bắc Kạn, bởi nhóm hộ cuối

cùng này có xuất phát điểm rất thấp.

52

Bảng 3.5. Các nguồn thu nhập của hộ gia đình nông thôn

thành phố Bắc Kạn phân theo dân tộc

Đơn vị tính: triệu đồng/hộ/năm

Dân Thu nhập từ Thu nhập từ tiền Thu nhập phi Tổng thu

tộc nông nghiệp công, tiền lương nông nghiệp nhập

Dao 38,7 12,9 0,0 40,4

Tày 70,3 50,8 51,9 109,9

Mean 65,8 46,8 51,9 100,0

n 105 19 52 105

SD 52,7 44,8 37,8 56,5

SE 5,1 10,3 5,2 5,5

CV% 80,2 95,6 72,9 56,5

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

Cấu trúc tỷ lệ nguồn thu nhập của hộ gia đình cũng là điều cần bàn. Theo

số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Năm 2016, nếu như tỷ lệ phần trăm các

khoản thu từ nông lâm nghiệp thủy sản ở khu vực nông thôn cả nước cũng như

vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ đạt tương ứng là 27,1 và 27,3%, thì ở tỉnh

Bắc Kạn con số này đạt cao hơn, tới 41%. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ phần trăm các

khoản thu từ phi nông lâm thủy sản ở các khu vực, vùng và tỉnh Bắc Kạn tương

ứng là 20,4%, 18,1% và 15,2%, chứng tỏ các hoạt động phi nông nghiệp ở tỉnh

Bắc Kạn chưa phát triển (Hình 3.2).

45.00

40.00

35.00

30.00

Bắc Kạn

25.00

20.00

15.00

Trung du miền núi phía Bắc

10.00

Nông thôn cả nước

5.00

0.00

Các khoản thu khác

Thu từ tiền lương, tiền công

Thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản

Thu phi nông, lâm nghiệp, thủy sản

53

Hình 3.2. Tỷ lệ (%) nguồn thu nhập hộ gia đình tỉnh Bắc Kạn năm 2016

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018

Nhìn chung, nguồn thu nhập của hộ gia đình bao gồm các khoản thu từ tiền

lương, tiền công, thu từ nông lâm nghiệp thủy sản, thu từ phi nông lâm thủy sản

và các khoản thu khác.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Nếu so sánh tổng thu nhập

cũng như cấu trúc các khoản thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Bắc Kạn với vùng

Trung du miền núi phía Bắc và khu vực nông thôn cả nước thì rõ ràng các trị số

này ở tỉnh Bắc Kạn đều thấp hơn so với vùng Trung du miền núi phía Bắc cũng

như thấp hơn so với bình quan chung khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6).

Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018): Tổng thu nhập hộ gia đình toàn

tỉnh Bắc Kạn năm 2012 đạt 1.142 nghìn đồng/người/tháng, bằng 90,7% so với

vùng Trung du miền núi phía Bắc, bằng 72,3% so với bình quân khu vực nông

thôn cả nước (Bảng 3.6). Năm 2014, tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh Bắc

Kạn đạt 1.216 nghìn đồng/người/tháng, bằng 75,4% so với vùng Trung du miền

núi phía Bắc, bằng 59,6% so với khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6). Năm

2016, tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh Bắc Kạn đạt 1.401 nghìn

54

đồng/người/tháng, bằng 71,3% so với vùng Trung du miền núi phía Bắc, bằng

57,8% so với khu vực nông thôn cả nước (Bảng 3.6).

Bảng 3.6. Nguồn thu nhập tỉnh Bắc Kạn, nông thôn cả nước và vùng

Đơn vị tính: nghìn đồng/người/tháng

Năm Nguồn thu Tổng số

Các khoản thu khác

Thu từ nông, lâm, thủy sản Thu từ phi nông, lâm, thủy sản

Nông thôn cả nước 1.579 Thu từ tiền lương, tiền công 607 503 294 175

2012 Trung du miền núi phía Bắc 1.258 536 406 197 119

Tỉnh Bắc Kạn 1.142 313 481 290 58

Nông thôn cả nước 2.038 814 586 393 245

2014 Trung du miền núi phía Bắc 1.613 707 471 283 152

Tỉnh Bắc Kạn 1.216 410 500 220 86

Nông thôn cả nước 2.423 999 656 495 273

883 535 355 190 2016 Trung du miền núi phía Bắc 1.963

514 575 213 99 Tỉnh Bắc Kạn 1.401

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018

Một chỉ tiêu quan trọng cần tìm hiểu là thu nhập bình quân đầu người. Kết

quả điều tra cho thấy: Nếu phân theo các nhóm hộ khác nhau về nghề nghiệp thì

mặc dù năm 2018 thu nhập bình quân đầu người đạt 22,7 triệu đồng/năm, nhưng

nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp có thu

nhập cao hơn, đạt bình quân 25,8 triệu đồng/năm so với 18,2 triệu đồng/năm của

nhóm hộ thuần nông nghiệp. Do đó, thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng đạt

1,9 triệu đồng, trong đó nhóm hộ có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp

55

và phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn, đạt bình quân 2,1 triệu đồng/người/tháng

so với 1,5 triệu đồng/người/tháng của nhóm hộ thuần nông nghiệp (Bảng 3.7).

Bảng 3.7. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người

thành phố Bắc Kạn phân theo nghề nghiệp

Nghề nghiệp chính

Thu nhập bình quân hộ (triệu đồng/năm) Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/năm) Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/tháng)

Hộ hỗn hợp kiêm nông 110,9 25,8 2,1 nghiệp và phi nông nghiệp

Hộ thuần nông 83,7 18,2 1,5

Bình quân chung 100,0 22,7 1,9

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

Nếu phân theo nhóm dân tộc khác nhau, kết quả điều tra cho thấy: Tuy thu

nhập bình quân đầu người của cả khu vực nông thôn thành phố Bắc Kạn đạt 22,7

triệu đồng/người/năm, tính theo tháng là 1,9 triệu đồng/người/tháng, nhưng người

Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3

lần so với nhóm dân tộc Tày (Bảng 3.8). Đây là con số đặc biệt, rất cần được quan

tâm và cần có những đánh giá, nghiên cứu tiếp theo. Nếu so sánh với Bộ tiêu chí

nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020 theo Quyết định số 1861/QĐ-UBND

ngày 6/11/2018 của UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn

mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020. Theo đó tiêu chí kinh tế hộ, thu nhập bình

quân đầu người năm 2018 đạt từ 31,2 triệu đồng/năm trở lên; năm 2019 đạt từ 36

triệu đồng/người/năm trở lên; năm 2020 đạt từ 39,6 triệu đồng/người/năm trở lên.

Rõ ràng mức thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn thành phố Bắc Kạn còn thấp

hơn rất nhiều so với mức thu nhập trong Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo

quy định của UBND tỉnh Bắc Kạn. Đây cũng là một thách thức rất lớn để có thể

đạt được mục tiêu này.

56

Tóm lại: Hiện nay đang có sự chênh lệch rất lớn về thu nhập giữa các nhóm

hộ khác nhau trên địa bàn nông thôn thuộc thành phố Bắc Kạn. Trong đó, có một

nhóm cộng đồng định cư tại nơi khá biệt lập với đông đảo cộng đồng cư dân khác

đang dần trở nên ngày một nghèo hơn, dần đang tạo ra khoảng cách chênh lệch

thu nhập ngày một gia tăng hơn so với nhóm đa số hộ gia đình ở khu vực, nhất là

đối với cộng đồng cư dân đô thị. Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình

đẳng thu nhập ở thành phố Bắc Kạn đều được bắt nguồn từ các nhân tố mang tính

đặc trưng của nhóm dân số; sự khác biệt về địa lý; sự khác biệt về các động lực

tăng trưởng nông nghiệp và phi nông nghiệp giữa các cộng đồng cư dân; những

thay đổi trong mô hình sản xuất, từ mô hình nông nghiệp đến mô hình phi nông

nghiệp, và từ công việc tay nghề thấp đến công việc có kỹ năng cao; sự dịch

chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang các cơ hội làm công ăn lương và kinh doanh

phi nông nghiệp, tăng nguồn lợi thu được từ đầu tư cho giáo dục, khác biệt về

trình độ học vấn giữa các hộ,... Trên thực tế, nhóm cộng đồng người Dao trong

nghiên cứu này có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, ít

có cơ hội phát triển,... Đồng thời, các cơ hội và việc làm phi nông nghiệp của

nhóm cộng đồng này cũng kém hơn. Tất cả những nhược điểm trên dây dẫn đến

thực trạng thu nhập thấp của nhóm cộng đồng này.

Bảng 3.8. Thu nhập bình quân hộ và bình quân đầu người

thành phố Bắc Kạn phân theo dân tộc

Thu nhập bình Thu nhập bình Thu nhập bình

Dân tộc quân hộ quân đầu người quân đầu người

(triệu đồng/năm) (triệu đồng/năm) (triệu đồng/tháng)

Dao 40,4 8,4 0,7

Tày 109,9 25,2 2,1

Bình quân chung 100,0 22,7 1,9

Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2018

57

3.2. Yếu tố ảnh hưởng, khó khăn, thách thức tác động đến thu nhập của hộ

gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

3.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn thành

phố Bắc Kạn

Bảng 3.9 mô tả các biến số trong mô hình hồi quy đa biến một số yếu tố

(biến số) ảnh hưởng đến thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp (tức tổng thu

nhập) của hộ gia đình nông thôn ở thành phố Bắc Kạn. Các biến số định lượng ở

đây gồm: học vấn của chủ hộ, nhân khẩu, lao động, vốn đầu tư sản xuất, diện tích

đất canh tác. Có hai biến định tính (biến giả định) là dân tộc (với 1 là dân tộc Tày,

0 là dân tộc Dao, trong đó giả thiết đặt ra là dân tộc Tày có thu nhập nông nghiệp

và thu nhập hỗn hợp cao hơn nhóm dân tộc Dao). Biến giả định nghề nghiệp của

chủ hộ (trong đó 1 là hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, 0 là

hộ thuần nông nghiệp), với giả thiết đặt ra là hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và

phi nông nghiệp có lợi thế hơn về thu nhập nông nghiệp và thu nhập hỗn hợp so

với hộ thuần nông nghiệp.

Ta thấy, trong tổng số 105 hộ gia đình đã được điều tra, mỗi hộ có thu nhập

về nông nghiệp bình quân là 65,8 triệu đồng/năm. Tuy nhiên độ lệch chuẩn khá

cao, tới 52,7 triệu đồng, chứng tỏ có sự biến động rất lớn về thu nhập nông nghiệp

giữa các hộ gia đình. Tổng thu nhập (hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) của hộ gia

đình nông thôn đạt 100 triệu đồng/năm, nhưng độ lệch chuẩn khá cao tới 56,5

triệu, chứng tỏ có sự biến động rất lớn về tổng thu nhập của hộ gia đình nông thôn

tại địa bàn nghiên cứu, tức là có sự phân hóa lớn giữa giàu và nghèo. Đây đang

trở thành một thách thức cho mục tiêu tăng thu nhập của địa phương, của thành

phố Bắc Kạn cũng như cả tỉnh Bắc Kạn. Mỗi hộ gia đình có bình quân 4,4 nhân

khẩu, với 2,6 lao động, có 0,39 ha đất canh tác trồng trọt các cây nông nghiệp

ngắn ngày (như: Lúa, ngô, rau màu,…) và dài ngày (như: Cam, quýt, chuối, hồng

không hạt,…). Tổng số vốn đầu tư cho sản xuất bình quân mỗi hộ có 55,97 triệu

đồng/năm, độ lệch chuẩn cao tới 52,43 triệu đồng, nên sự biến động về vốn rất

lớn giữa các hộ điều tra (Bảng 3.9).

58

Bảng 3.9. Diễn giải các biến số trong mô hình hồi quy đa biến

Giá trị

Độ lệch

Biến số

Đơn vị tính

trung bình

chuẩn

65,8

52,7

Thu nhập nông nghiệp (Y1) Triệu đồng/năm

Triệu đồng/năm

100,0

56,5

Thu nhập hỗn hợp (Y2)

Năm

7,43

2,56

Học vấn (X1)

Người

4,43

1,23

Nhân khẩu (X2)

Người

2,56

0,86

Lao động (X3)

0,86

0,35

1 = Tày, 0 = Dao

Dân tộc (X4)

1 = Hỗn hợp kiêm cả nông

nghiệp và phi nông nghiệp,

0,60

0,49

Nghề nghiệp (X5)

0 = Thuần nông nghiệp

Triệu đồng

55,97

52,43

Vốn (X6)

Ha

0,39

0,32

Đất canh tác (X7)

Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018

Bảng 3.10 tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập nông

nghiệp của hộ gia đình nông thôn. Cần chú ý rằng, hệ số điều chỉnh R2 = 0,287,

có nghĩa rằng: tất cả 7 biến độc lập trong mô hình nghiên cứu này chỉ có thể giải

thích được khoảng 28,7% sự thay đổi của biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp

của hộ gia đình nông thôn, còn lại tới 71,3% là do các biến số khác không được

nghiên cứu trong mô hình này hoặc do sai số. Như vậy sự ước lượng về mối liên

hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc là thu nhập nông nghiệp của hộ gia

đình ở đây có một hạn chế khá lớn, chưa sát với thực tế thu nhập của hộ gia đình

nông thôn, do đó kết quả khảo sát hồi quy chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên,

hệ số Durbin-Watson = 1,891, lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, chứng tỏ không có hiện

tượng tự tương quan trong số 10 biến độc lập đã nghiên cứu với thu nhập. Hệ số

VIF của tất cả các biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ không có hiện tượng

đa cộng tuyến.

59

Bảng 3.10. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập

nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Mức ý Hệ số Hệ số chưa Hệ số đã nghĩa tương Biến số chuẩn hóa chuẩn hóa Giá trị t thống kê quan (B) (Beta) (Sig) (R2)

Hằng số 20,659 0,819 0,415

-0,870 -0,042 -0,399 0,691 -0,026 Học vấn (X1)

3,857 0,090 0,923 0,358 0,105 Nhân khẩu (X2)

-0,546 -0,009 -0,089 0,929 0,070 Lao động (X3)

49,789 0,332 2,651 0,009 0,211 Dân tộc (X4)

-45,500 -0,425 -3,897 0,000 -0,269 Nghề nghiệp (X5)

0,123 0,122 1,274 0,206 0,119 Vốn (X6)

34,466 0,206 1,971 0,052 0,379 Đất canh tác (X7)

Hệ số điều chỉnh R2 = 0,287

Hệ số Durbin-Watson = 1,891

Hệ số VIF = 1,522; 1,296; 1,379; 2,133; 1,615; 1,249; 1,492

Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018

Bảng 3.10 cho thấy: Mối quan hệ giữa thu nhập nông nghiệp của hộ gia

đình nông thôn thành phố Bắc Kạn với một số biến số độc lập được biểu diễn dưới

dạng hàm số đa biến như sau:

Hàm số Y1 (thu nhập nông nghiệp) = 20,659 - 0,870 X1(học vấn) + 3,857

X2(nhân khẩu) - 0,546 X3(lao động) + 49,789 X4(dân tộc) - 45,5 X5(nghề nghiệp)

+ 0,122 X6(vốn đầu tư) + 34,466 X7(diện tích đất canh tác).

Ta thấy: Các biến số độc lập định lượng: số nhân khẩu, vốn đầu tư và diện

tích đất canh tác có tương quan thuận cùng chiều với thu nhập về nông nghiệp của

hộ gia đình nông thôn. Điều này có nghĩa rằng để gia tăng thu nhập về nông

60

nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy

sản cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích canh tác cũng như

gia tăng số nhân khẩu trong hộ gia đình. Chẳng hạn, theo mô hình này, trong điều

kiện các biến số khác không thay đổi, nếu đầu tư vốn sản xuất tăng thêm 1 triệu

đồng thì thu nhập nông nghiệp sẽ tăng thêm 0,123 triệu đồng, hay, nếu mở rộng

thêm diện tích canh tác 1 ha thi thu nhập nông nghiệp sẽ tăng thêm một con số

khá lớn là 34,466 triệu đồng. Tuy nhiên, việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng

như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, nhưng trên thực tế, điều này

nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh

tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn,… Đây có thể coi là những nút thắt đối

với việc nâng cao thu nhập về nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn địa phương

(Bảng 3.10).

Kết quả nghiên cứu bảng 3.10 cho thấy: Các biến số định lượng học vấn chủ

hộ và số lao động lại có tương quan nghịch ngược chiều với thu nhập nông nghiệp

của hộ gia đình nông thôn, tức là hộ gia đình nào càng có nhiều lao động thì thu

nhập về nông nghiệp lại càng thấp, chứng tỏ rằng vai trò lao động nông thôn hiện

nay không có nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính

vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát

triển ở khu vực đô thị. Mặt khác học vấn của chủ hộ cũng không có đóng góp gì

cho gia tăng về thu nhập nông nghiệp. Đây là vấn đề mới, cần được tiếp tục nghiên

cứu tiếp theo.

Trong hai biến giả định là nghề nghiệp chính của hộ gia đình và dân tộc thì

biến giả định nghề nghiệp lại có tương quan nghịch ngược chiều với thu nhập

nông nghiệp, do đó bác bỏ giả thiết đã đặt ra về nghề nghiệp của hộ gia đình. Điều

này có nghĩa rằng hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp không có

lợi thế về thu nhập nông nghiệp, hay hộ thuần nông nghiệp có thu nhập nông

nghiệp cao hơn hộ hỗn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Lý do ở đây

chủ yếu là do hộ thuần nông nghiệp có tính chuyên sâu hơn so với hộ hỗn hợp

61

kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với biến giả định dân tộc có tương

quan thuận cùng chiều với thu nhập nông nghiệp, tức là hoàn toàn phù hợp với

giả thiết đã đặt ra về biến dân tộc. Điều đó có nghĩa rằng hộ gia đình dân tộc Tày

có thu nhập nông nghiệp cao hơn hộ dân tộc Dao, chủ yếu do nhóm hộ dân tộc

Tày có nhiều nguồn lực hơn để phát triển sản xuất nông nghiệp để tạo nhiều thu

nhập nông nghiệp.

Nhìn chung mối tương quan giữa 7 biến số độc lập trong nghiên cứu này

với thu nhập nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên cứu ở

thành phố Bắc Kạn được đánh giá ở mức thấp, hệ số tương quan biến động từ

0,026 đến 0,379, cao hơn cả là tương quan giữa diện tích đất canh tác với thu nhập

(0,379).

Bảng 3.11. Tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến thu nhập

hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc Kạn

Hệ số chưa

Hệ số đã

Mức ý nghĩa

Hệ số

Biến số

chuẩn hóa

chuẩn

Giá trị t

thống kê

tương

(B)

hóa (Beta)

(Sig)

quan (R2)

Hằng số

-20,284

-0,850

0,397

1,767

0,080

0,856

0,394

0,317

Học vấn (X1)

12,474

0,272

3,157

0,002

0,207

Nhân khẩu (X2)

-5,492

-0,084

-0,947

0,346

0,055

Lao động (X3)

31,384

0,195

1,767

0,080

0,433

Dân tộc (X4)

2,609

0,023

0,236

0,814

0,237

Nghề nghiệp (X5)

0,458

0,425

5,027

0,000

0,547

Vốn (X6)

29,923

0,167

1,809

0,073

0,267

Đất canh tác (X7)

Hệ số điều chỉnh R2 = 0,444

Hệ số Durbin-Watson = 1,851

Hệ số VIF = 1,522; 1,296; 1,379; 2,133; 1,615; 1,249; 1,492

Nguồn: Số liệu điều tra và phân tích của tác giả, 2018

62

Bảng 3.11 tóm tắt mô hình hồi quy đa biến ảnh hưởng đến tổng thu nhập

hay còn gọi thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn. Cần chú ý rằng, hệ số

điều chỉnh R2 = 0,444, có nghĩa rằng: tất cả 7 biến độc lập trong mô hình nghiên

cứu này chỉ có thể giải thích được khoảng 44,4% sự thay đổi của biến phụ thuộc

là thu nhập hỗn hợp hay tổng thu nhập của hộ gia đình nông thôn, còn lại 55,6%

là do các biến số khác không được nghiên cứu trong mô hình này hoặc do sai số.

Như vậy sự ước lượng về mối liên hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc là

thu nhập hỗn hợp hay tổng thu nhập của hộ gia đình ở đây tuy đã khá gần với thực

tế hơn so với thu nhập nông nghiệp vừa phân tích ở trên, song cũng có một hạn

chế nhất định, do đó kết quả khảo sát hồi quy cũng có tính chất tham khảo. Tuy

nhiên, hệ số Durbin-Watson = 1,851, lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, chứng tỏ không có

hiện tượng tự tương quan trong số 7 biến độc lập đã nghiên cứu với thu nhập. Hệ

số VIF của tất cả các 7 biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ không có hiện

tượng đa cộng tuyến (Bảng 3.11).

Bảng 3.11 cho thấy: Mối quan hệ giữa một số biến số độc lập với tổng thu

nhập (hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn thành phố Bắc

Kạn với được biểu diễn dưới dạng hàm số đa biến như sau:

Hàm số Y2 (tổng thu nhập hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp) = -20,284 +

1,767X1(học vấn) + 12,474X2(nhân khẩu) - 5,492X3(lao động) + 31,384X4(dân

tộc) + 2,609X5(nghề nghiệp) + 0,458X6(vốn đầu tư) + 29,923X7(diện tích đất canh

tác).

Bảng 3.11 cho thấy: Các biến số độc lập định lượng như: Học vấn chủ hộ,

nhân khẩu, vốn đầu tư và diện tích đất canh tác có tương quan thuận cùng chiều

với thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên cứu. Điều này

có nghĩa rằng để tăng tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông

thôn cần chú ý đầu tư gia tăng các yếu tố này. Nếu như học vấn chủ hộ có liên

quan đến giáo dục và đào tạo, thì nhân khẩu lại có liên quan đến chiến lược dân

số và chất lượng cuộc sống. Theo mô hình này, trong điều kiện các biến số khác

63

không thay đổi, nếu vốn đầu tư sản xuất được tăng thêm 1 triệu đồng thì thu nhập

hỗn hợp của hộ gia đình sẽ tăng thêm 0,458 triệu đồng, hay nếu diện tích canh tác

được mở rộng thêm 1 ha thì thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình sẽ tăng thêm 29,923

triệu đồng. Tương tự như đã phân tích ở trên, việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất

cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất cần thiết, nhưng trên thực tế, điều

này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ gia đình do các khó khăn về quỹ đất

canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn,… Đây có thể coi là những nút thắt

đối với việc nâng cao thu nhập về nông nghiệp của hộ gia đình nông thôn địa

phương.

Bảng 3.11 cũng chỉ ra rằng: Số lao động của hộ gia đình nông thôn lại có

tương quan nghịch ngược chiều với tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp của hộ

gia đình nông thôn, tức là hộ gia đình nào càng có nhiều lao động thì tổng thu

nhập lại càng thấp, chứng tỏ rằng vai trò lao động nông thôn hiện nay không có

nhiều ý nghĩa trong việc tạo thu nhập cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó,

họ là nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị. Vì vậy cần

có chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn.

Điều đáng chú ý là hai biến độc lập giả định là dân tộc và nghề nghiệp của

chủ hộ có tương quan thuận cùng chiều với tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp

của hộ gia đình nông thôn, tức là hoàn toàn phù hợp với giả thiết đã đặt ra đối với

hai biến giả định này ở phần trên. Điều này có nghĩa rằng: Nhóm cộng đồng dân

tộc Tày có tổng thu nhập (tức thu nhập hỗn hợp) cao hơn nhóm cộng đồng dân

tộc Dao, chủ yếu do nhóm người Tày có nhiều lợi thế về nguồn lực hơn so với

người Dao. Mặt khác, hộ gia đình nông thôn nào có nghề nghiệp hỗn hợp kiêm cả

nông nghiệp và phi nông nghiệp sẽ có tổng thu nhập (hay thu nhập hỗn hợp) cao

hơn so với nhóm hộ thuần nông nghiệp, chủ yếu do nhóm hộ này có thêm phần

thu từ các hoạt động tiền lương, tiền công, các khoản thu từ hoạt động ngành nghề

và phi nông nghiệp. Vì vậy, để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình nông thôn cần

chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần

64

nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông

nghiệp.

Mối tương quan giữa 7 biến số độc lập trong nghiên cứu này với tổng thu

nhập hay còn gọi thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên

cứu ở thành phố Bắc Kạn được đánh giá ở mức trung bình, hệ số tương quan biến

động từ 0,055 (giữa lao động với thu nhập hỗn hợp) đến 0,547 (giữa vốn với thu

nhập hỗn hợp).

Tóm lại, để có thể tăng thu nhập nông nghiệp cũng như thu nhập hỗn hợp

(tức tổng thu nhập) của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn

sản xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu

thu nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang

trở thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp.

3.2.2. Khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông

thôn thành phố Bắc Kạn

Qua nghiên cứu, tìm hiểu tình hình cụ thể ở các vùng nông thôn thành phố

Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, cho thấy hiện nay đang tồn tại một số khó khăn, thách

thức có tác động đến thu nhập của hộ gia đình nông thôn như sau:

- Địa hình, đất đai bị chia cắt mạnh và có độ dốc lớn, dễ rủi ro về thiên tai

như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, mưa đá,...

- Tuy là thành phố trực thuộc tỉnh, nhưng do điểm xuất phát thấp, điều kiện

kinh tế-xã hội còn gặp rất nhiều khó khăn. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần

của người dân nông thôn còn thấp, nhất là đối với các dân tộc thiểu số, vùng xa

trung tâm. Kết quả là thu nhập của người dân nông thôn còn thấp, thu nhập trong

nông nghiệp thấp, tổng thu nhập hay thu nhập hỗn hợp thấp. Chênh lệch giàu

nghèo đang dần gia tăng. Nhóm người Dao trong nghiên cứu này có thu nhập chỉ

bằng 1/3 so với nhóm người Tày, do đó nhóm cộng đồng này đang dần bị tụt hậu

so quá trình phát triển. Một thách thức rất lớn đang đặt ra là thực trạng thu nhập

thấp này khó có thể đạt với mục tiêu đặt ra trong Bộ tiêu chí xây dựng thôn nông

65

thôn mới gần đây nhất của UBND tỉnh Bắc Kạn cũng như mục tiêu phấn đấu của

thành phố Bắc Kạn.

- Số lượng lao động được qua đào tạo nghề còn rất thấp, trình độ văn hoá

và khả năng áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của người dân chưa cao, trình độ quản

lý của cán bộ cấp xã còn nhiều bất cập.

- Thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật mới, việc đào tạo nghề chưa hiệu

quả; một số kỹ thuật tiến bộ áp dụng vào thực tế chưa hiệu quả. Tâm lý của một

số hộ dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu đổi mới sáng tạo.

- Thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp còn bấp bênh và thiếu ổn

định, người dân có sản phẩm bán nhưng thường bị tư thương ép giá, thiếu thông

tin về giá cả, không bán được giá cao, thiếu thị trường tiêu thụ nên bán được ít

sản phẩm.

- Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn còn ít và dàn

trải. Thiếu vốn đầu tư mở rộng sản xuất, khó tiếp cận nguồn vốn chính thống.

- Dịch bệnh xuất hiện ngày càng nhiều cả trên các đối tượng vật nuôi và

cây trồng, ảnh hưởng đến giá trị sản lượng thu hoạch.

- Trang trại và kinh tế trang trại còn chưa thực sự phát triển, sản xuất của

nông dân còn nhỏ lẻ, manh mún và phân tán.

- Vườn cây ăn quả (Quýt, hồng không hạt,…) có năng suất thấp và suy

thoái. Chăn nuôi chưa phát triển mạnh, việc tận dụng các sản phẩm từ nông nghiệp

còn hạn chế.

- Việc xây dựng các mô hình sản xuất chưa thực sự gắn kết với các hình

thức tổ chức sản xuất, liên kết hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ còn yếu. Sản

phẩm mang tính hàng hóa còn chưa cao, sức cạnh tranh còn thấp.

- Chế biến nông lâm sản chưa thực sự phát triển; Ngành nghề truyền thống,

nghề thủ công mỹ nghệ và các hoạt động phi nông nghiệp phát triển chậm, còn

mang nặng tính tự phát và thiếu kiểm soát, chưa được quy hoạch một cách đồng

bộ.

66

- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình xây dựng

nông thôn mới của một số ngành còn chậm, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả

của quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó có phát

triển kinh tế nông thôn.

3.3. Mục tiêu và giải pháp chủ yếu góp phần tăng thu nhập cho người dân

trong xây dựng nông thôn mới tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn

3.3.1. Mục tiêu

Để góp phần duy trì sự phát triển ổn định bền vững và đảm bảo thu nhập

ổn định cho cuộc sống của người dân nông thôn trong xây dựng nông thôn mới,

thành phố Bắc Kạn xác định phát triển sản xuất là yếu tố cốt lõi để nâng cao thu

nhập cho nông dân.

Theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2018-

2020 và kế hoạch xây dựng NTM của thành phố Bắc Kạn, các xã trên địa bàn

thành phố phải đạt mức thu nhập bình quân 36 triệu đồng/năm vào năm 2019 (tăng

14 triệu đồng so với năm 2016). Để đạt được mục tiêu trên, hiện các địa phương

trong thành phố đang triển khai nhiều giải pháp nhằm thực hiện tốt tiêu chí thu

nhập. Trong đó chủ yếu là khai thác tối đa những lợi thế của địa phương, vận động

người dân thực hiện tốt chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để tăng

hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích đất sản xuất, đồng thời tập trung phát

triển lĩnh vực CN-TTCN và dịch vụ để đa dạng hóa nguồn thu, từng bước nâng

cao thu nhập cho người dân nông thôn.

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, góp phần

nâng cao thu nhập cho nông dân, Ban Chỉ đạo Chương trình quốc gia xây dựng

nông thôn của Thành ủy thành phố Bắc Kạn về "Phát triển nông nghiệp, xây dựng

nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020" yêu cầu, trong

thời gian tới, các địa phương phải xác định: Phát triển nông nghiệp theo hướng

sản xuất hàng hóa, chuyên canh tập trung, giá trị gia tăng cao, bền vững và bảo

đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; triển khai thực hiện đồng bộ kế hoạch tái cơ cấu

67

sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2016-2020; thực hiện tốt khâu đột phá trong sản

xuất nông nghiệp là “sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng

và hiệu quả kinh tế cao”.

Thành phố Bắc Kạn cần tiếp tục triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách

của trung ương và thành phố đối với sản xuất nông nghiệp, nhất là chính sách hỗ

trợ, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất nông

nghiệp, nghiên cứu, đề xuất, sớm ban hành cơ chế, chính sách mới phù hợp với

thực tiễn và đặc thù của thành phố, là trung tâm chính trị, kinh tế của tỉnh Bắc

Kạn; kịp thời rà soát, bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách không còn phù hợp

với yêu cầu, nhiệm vụ mới,…

3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao thu nhập cho người dân

trong xây dựng nông thôn mới thành phố Bắc Kạn

3.3.2.1. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng

nông nghiệp đô thị

Vì tất cả các xã trên địa bàn thành phố Bắc Kạn đều là vùng ngoại vi, phụ

cận của khu vực nội thị, của đô thị, nên nông nghiệp cần tập trung đẩy mạnh phát

triển sản xuất theo hướng nông nghiệp đô thị có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.

Phát triển nông nghiệp đô thị để thay thế cho nông nghiệp nông thôn truyền thống.

Từng bước tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và nông sản chế biến trong cơ cấu

ngành. Xác định lựa chọn các sản phẩm, các cây con chủ lực, thế mạnh của địa

phương để tập trung phát triển sản xuất hàng hóa. Phát triển nhanh các hình thức

tích tụ ruộng đất để tổ chức sản xuất cánh đồng lớn, các mô hình liên kết sản xuất

hàng hóa “cánh đồng lớn liên kết chuỗi giá trị” và các mô hình kinh tế trang trai,

gia trại. Ở các xã phải có các mô hình liên kết trong từng lĩnh vực: Trồng trọt,

chăn nuôi, nuôi thủy sản và ngành nghề nông thôn. Rà soát các vùng trồng lúa

kém hiệu quả, đồng thời lập phương án thực hiện chuyển đổi linh hoạt đất trồng

lúa theo Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Tích cực chuyển đổi cơ

cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ

68

thuật thâm canh và cơ giới hóa vào sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm.

Tăng cường quản lý chất lượng nông, thủy sản, đảm bảo nông, thủy sản của địa

phương đạt tiêu chí an toàn.

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học công

nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Thực tế ở các xã nghiên

cứu nói riêng và thành phố Bắc Kan nói chung, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp;

hiệu quả kinh chưa cao, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế so sánh. Để phát

huy lợi thế và tiềm năng sẵn có nhằm xây dựng thành công nông thôn mới, cần

phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao hiệu quả kinh

tế, phát huy lợi thế của địa phương.

Phát triển sản xuất nông nghiệp ở thành phố Bắc Kạn cần đặc biệt chú ý 3

câu hỏi: trồng cây gì, nuôi con gì, bán cho thị trường nào và tổ chức sản xuất như

thế nào vẫn là nền tảng để người nông dân có thu nhập cao hơn và nông nghiệp

phát triển bền vững hơn. Thực tiễn đang chỉ ra nhóm sản phẩm mới có tiềm năng

đột phá xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân: xuất khẩu quả - rau - hoa

đã vượt qua xuất khẩu dầu thô và gạo. Rõ ràng quả - rau - hoa hoàn toàn có tiềm

năng trở thành sản phẩm xuất khẩu lớn hơn các sản phẩm quốc gia như gạo, cà

phê, thủy sản và dầu thô. Thực tế này mở ra triển vọng to lớn để nâng cao thu

nhập cho nông dân ở nông thôn, nhất là miền núi. Hơn nữa, phát triển quả - rau -

hoa xuất khẩu gắn với ứng dụng công nghệ cao có thể trở thành một thành phần

của chương trình du lịch văn hóa, sinh thái ở các tỉnh, góp phần thoát nghèo và

tăng thu nhập nhanh hơn cho nông dân.

Tóm lại, phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân là nhiệm vụ

cốt lõi của ngành nông nghiệp nói chung và trong xây dựng NTM nói riêng. Đây

là nhiệm vụ rất khó khăn liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, địa phương.

Vì vậy, cần có các giải pháp đồng bộ, sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, sự phối

kết hợp nhuần nhuyễn. Hy vọng trong thời gian tới, các cấp ủy Đảng, chính

quyền, các ban, ngành, đoàn thể, sẽ đặc biệt quan tâm hơn nữa để đẩy mạnh sản

xuất, từng bước nâng cao thu nhập cho người dân, qua đó góp phần xây dựng

NTM.

69

3.3.2.2. Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất

Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tạo động lực phát triển

kinh tế nông nghiệp. Phát triển kinh tế hộ và trang trại. Đổi mới mô hình kinh tế

hộ theo hướng khuyến khích các hộ chủ động thuê gom, tích tụ ruộng đất và nguồn

vốn, mở rộng quy mô sản xuất tập trung chuyên môn hóa theo mô hình trang trại,

gia trại thông qua HTX, tổ hợp tác để mở rộng sản xuất và hình thành các chuỗi

khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ nông sản, áp dụng công nghệ tiên tiến

và sản xuất hàng hóa lớn, bền vững. Đẩy mạnh chuyển đổi hoạt động các HTX

nông nghiệp với đủ 5 nội dung chủ yếu theo Luật HTX năm 2012, xây dựng các

HTX hoạt động hiệu quả tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác. Đảm

bảo từ 70-90% HTX sau chuyển đổi sản xuất, kinh doanh có lãi, trong đó có ít

nhất 70% HTX tham gia các chuỗi cung ứng vật tư đầu vào và 30% HTX tham

gia các chuỗi tiêu thụ nông sản cho nông dân. Khuyến khích các hộ, nhóm sản

xuất, các tổ hợp tác phát triển thành doanh nghiệp, hợp tác xã tiêu thủ công nghiệp,

ngành nghề nông thôn, giúp nông dân hình thành nên những nhóm tổ hợp tác với

nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thành lập các HTX nông nghiệp và

khuyến khích phát triển theo mô hình liên kết trong sản xuất - chế biến - tiêu thụ

nông sản. Điều đó tạo điều kiện cho hộ nông dân giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị

trường, phát triển thương hiệu, tạo giá trị gia tăng, nâng cao giá trị nông sản, lợi

nhuận và thu nhập cho hộ dân.

3.3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp

để tăng thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản

Trên địa bàn thành phố Bắc Kạn, lĩnh vực công nghiệp chế biến, tiểu thủ

công nghiệp chậm phát triển, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn không nhiều.

Trong khi đó, để nâng cao thu nhập cho người dân, quan trọng nhất phải chuyển

đổi được cơ cấu kinh tế nhưng sản xuất nông nghiệp còn manh mún, việc tích tụ

ruộng đất khó khăn, tâm lý của nhiều hộ nông dân không muốn cho doanh nghiệp

thuê lại đất để sản xuất,...

70

Phát triển CN-TTCN và ngành nghề nông thôn theo hướng tập trung nhằm

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng thu ngân sách xã; tăng thu nhập, giải

quyết việc làm cho nông dân, góp phần tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện để sản xuất

nông nghiệp hàng hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng NTM. Phát triển

ngành nghề nông thôn gắn với du lịch làng nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tại

chỗ hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt đối với làng nghề truyền thống để mở rộng

thị trường và quảng bá sản phẩm. Ngay từ đầu năm 2017, UBND thành phố đã

chủ động đẩy mạnh các chương trình đầu tư phát triển như: Đầu tư cơ sở hạ tầng

phục vụ đời sống dân sinh và phát triển sản xuất; đẩy mạnh cải cách hành chính,

nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế; rà soát, điều chỉnh lại hệ

thống cụm, điểm công nghiệp và thương mại nông thôn,… Đồng thời tranh thủ

tối đa các chương trình khuyến công, khuyến nông, hỗ trợ đào tạo tập huấn, phát

triển sản xuất cho lao động nông thôn và sự hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, đào tạo

chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT,… là cơ sở quan trọng định

hướng cho các địa phương phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình cũng như thu

hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn, tạo bước chuyển mới về thu nhập cho nông

dân. Trên cơ sở định hướng chỉ đạo của tỉnh, các địa phương trên địa bàn thành

phố Bắc Kạn phát huy kinh nghiệm xây dựng NTM giai đoạn trước, đặc biệt là

việc thực hiện tiêu chí về thu nhập, từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để chỉ đạo các

xã triển khai thực hiện. Chú trọng tận dụng tối đa các thế mạnh của từng địa

phương, quan tâm phát triển dịch vụ thương mại, thúc đẩy giao thương để tăng

cường trao đổi hàng hóa, quảng bá tiềm năng để thu hút đầu tư.

3.3.2.4. Nhóm giải pháp về Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu

nhập cho người dân nông thôn

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (viết tắt là chương trình OCOP) được

hiểu là mỗi địa phương tùy theo điều kiện cụ thể về tiềm năng, lợi thế, lựa chọn

những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng để phát triển thành thương

71

hiệu. Ðây được xem là giải pháp nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân

nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Khái niệm OCOP được hiểu một xã, hoặc nhiều xã, liên xã sản xuất một

hoặc nhiều sản phẩm. Khuyến khích thực hiện OCOP ngay cả ở khu vực đô thị

(phường, thị trấn). Sản phẩm ở đây bao gồm sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch

vụ. Nguyên tắc cơ bản của OCOP là sản phẩm OCOP hướng tới tiêu chuẩn quốc

tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gồm: (1) Hành động địa phương, hướng

đến toàn cầu, (2) Tự lực, tự tin và sáng tạo, và (3) Đào tạo nguồn nhân lực. Đối

tượng OCOP là kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể làm nòng cốt. Hệ thống sản xuất

là các hợp tác xã (gồm liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác), các doanh nghiệp, các hộ

gia đình có đăng ký kinh doanh.

Triển khai thực hiện tốt chương trình OCOP là một hướng đi tất yếu, nhằm

phát triển các sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế để góp phần phát triển

kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị. Qua đó, góp

phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân

nông thôn, góp phần thực hiện thành công Chương trình Mục tiêu quốc gia xây

dựng Nông thôn mới. Thành phố Bắc Kạn xác định để thực hiện thành công OCOP

cần phải nâng cấp, tái cơ cấu các tổ chức kinh tế hiện có; hình thành các HTX/DN

vừa và nhỏ; nâng cấp hoàn thiện cơ sở sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, đào tạo

nghề,...) đáp ứng các tiêu chuẩn nhà sản xuất theo quy định. Kết nối các tổ chức

OCOP với các nhà tư vấn phù hợp với ngành hàng.

Mỗi địa phương, mỗi xã trên địa bàn thành phố Bắc Kạn khi triển khai thực

hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 theo Quyết định số

490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ, phải chú trọng đến việc

rà soát, phát huy lợi thế về sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực, đặc sản, góp

phần tạo ra các giá trị gia tăng sản phẩm OCOP.

Để làm được việc đó, UBND thành phố Bắc Kạn cần kiểm tra, rà soát toàn

bộ cơ chế, chính sách đã ban hành, trên cơ sở đó tích hợp và điều chỉnh, bổ sung,

hoàn thiện chính sách; đồng thời nghiên cứu ban hành một số chính sách mới để

72

hỗ trợ thực hiện chương trình OCOP; tập trung hỗ trợ xúc tiến thương mại, cải

tiến mẫu mã, đăng ký thương hiệu,... Hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi để phát

triển HTX, DN vừa và nhỏ ở nông thôn, thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất gắn

với chế biến, kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị để xuất khẩu.

Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn; hỗ trợ xây dựng các điểm, trung tâm bán hàng

OCOP; tổ chức các hội chợ OCOP để kết nối nông sản với thị trường tiêu thụ.

3.3.2.5. Nhóm giải pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề,

ngành nghề truyền thống

Muốn nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn một cách bền vững mà

chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần túy thì không dễ. Người dân cần phải có

thêm nghề phụ để tăng thu nhập. Vì vậy, cần quan tâm phát triển ngành nghề nông

thôn, hình thành các làng nghề để người dân tranh thủ làm thêm góp phần xóa đói

giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.

Ngoài ra, đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp rất có hiệu

quả để giúp người dân nâng cao thu nhập trong điều kiện hiện nay.

Các nghề thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, chế biến nông lâm sản,… là nghề

truyền thống mà người dân thành phố Bắc Kạn đã gắn bó hàng thế kỷ nay. Cho

đến hiện tại, ngành nghề này vẫn nắm giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh

tế, nâng cao thu nhập của các hộ gia đình nơi đây. Xác định thế mạnh đó, các cấp,

các ngành thành phố Bắc Kạn cần triển khai nhiều giải pháp hiệu quả nhằm duy

trì và phát triển nghề thủ công mỹ nghệ. Nhờ vậy, nhiều cơ sở sản xuất và chế

biến mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố đã được khôi phục và

phát triển, góp phần tăng thu nhập, ổn định cuộc sống cho nhiều lao động nông

thôn.

3.3.2.6. Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng cao giá trị sản xuất

nông nghiệp

Xác định phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn chính là một giải pháp

căn cơ để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp và thu nhập cho người dân nông

73

thôn. Phát triển du lịch nông thôn phải coi trọng lợi ích của người dân, chú trọng

phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Để có các giải pháp và cách làm phù hợp, hiệu quả, trước hết cần có nhận

thức và làm rõ nội hàm về khái niệm du lịch nông thôn gắn với việc phát huy các

giá trị cảnh quan, văn hóa của nông thôn cho hoạt động du lịch. Trong bối cảnh

diện tích đất nông nghiệp ngày càng có xu hướng thu hẹp, sản xuất nông nghiệp

phải cơ cấu lại, du lịch nông thôn cần phải được xem xét là một giải pháp để xây

dựng nông thôn mới, không chỉ là một công cụ để xóa đói giảm nghèo, mà còn để

đa dạng hóa thu nhập cho người dân nông thôn và bảo tồn, phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống, cảnh quan môi trường sinh thái.

Cần xem xét đến các yếu tố chính để phát triển du lịch nông thôn, trong đó

cốt lõi là yếu tố cộng đồng và xây dựng bản sắc văn hóa truyền thống của từng

dân tộc, từng địa phương; lấy hiệu quả kinh tế để đánh giá và tuân thủ các quy

luật của thị trường với tư cách là một ngành kinh tế, mang lại các lợi ích kinh tế,

gắn với các lợi ích về xã hội và môi trường; sự tham gia của cộng đồng và người

dân nông thôn với tư cách là chủ thể của du lịch nông thôn; vấn đề giới trong phát

triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng; vai trò của việc hình thành các chuỗi

giá trị trong quá trình phát triển du lịch nông thôn; phát huy vai trò của các bên

liên quan khác như: Các công ty lữ hành, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức xã

hội; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch với việc nâng cao giá trị và sự khác

biệt của các sản phẩm hướng tới từng nhóm đối tượng du khách đặc thù.

Mỗi địa phương phải thực sự chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực cho hoạt động du lịch nông nghiệp, nông thôn gắn với đào tạo nghề cho lao

động nông thôn thông qua việc tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về ngoại

ngữ, kỹ năng, kiến thức, thái độ phục vụ du khách theo hướng chuyên nghiệp,

lành nghề, thân thiện; tăng cường kết nối với các công ty lữ hành thiết kế các tua,

74

tuyến nhằm thu hút du khách để khai thác tiềm năng và lợi thế trong phát triển du

lịch.

Phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn phải gắn kết mật thiết với việc

hình thành các sản phẩm đặc sản nông nghiệp, sản phẩm thủ công, mỹ nghệ đặc

trưng của mỗi địa phương, vùng, miền, làm cơ sở để thu hút du khách đến trải

nghiệm, tiêu thụ. Mỗi địa phương khi triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã

một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 theo Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày

07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ, phải chú trọng đến việc rà soát, phát huy lợi

thế về sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực, đặc sản, góp phần tạo ra các giá

trị gia tăng từ hoạt động du lịch; xây dựng các tiêu chí để đánh giá, xếp hạng sản

phẩm du lịch đặc thù gắn với xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, đối với các thôn

được hỗ trợ xây dựng nông thôn mới cấp thôn theo Quyết định số 1385/QĐ-TTg

ngày 21/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ, tập trung ưu tiên hỗ trợ phát triển sản

xuất, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đồng thời phát huy lợi thế để

phục vụ phát triển du lịch.

Các cấp, các ngành tăng cường truyền thông, quảng bá sản phẩm du lịch

nông nghiệp, nông thôn gắn với việc xây dựng thương hiệu đặc trưng; chú trọng

khai thác ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông hiện đại để quảng bá du lịch

nông nghiệp, nông thôn, đưa các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng gắn với các địa

danh để quảng bá cho du lịch nông nghiệp, nông thôn tại các diễn đàn, hội chợ,

hoạt động xúc tiến thương mại.

3.3.2.7. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh tế trang trại, tổ chức sản

xuất theo hướng liên kết

Phát triển kinh tế trang trại đã thực sự trở thành đòn bẩy để cải thiện thu

nhập của người dân. Qua đó, kinh tế trang trại sẽ tác động, thúc đẩy phát triển sản

xuất. Chính sự phát triển kinh tế trang trại sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho

người dân đồng thời thu hút các chủ doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn

nhằm từng bước giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

75

Phát triển theo kinh tế trang trại là nhân tố quan trọng trong nông thôn. Các

trang trại sẽ tạo ra khối lượng lớn nông lâm, thủy sản, góp phần tích cực trong quá

trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển nền nông nghiệp tự cấp, tự

túc, sang sản xuất hàng hóa.

Cùng với sự phát triển theo mô hình sản xuất của kinh tế trang trại, hợp tác

xã là một trong những mô hình có tác động trực tiếp đến cải thiện, nâng cao thu

nhập cho người dân. Ở đó, mọi người có sự tự nguyện cùng nhau góp vốn, liên

kết sản xuất. Qua đó, sẽ phát triển các dịch vụ đầu vào, đầu ra với giá cả hợp lý.

Ngoài ra, thông qua mô hình hợp tác xã, việc ký kết hợp đồng kinh tế với các

doanh nghiệp cũng được thuận lợi để người dân yên tâm phát triển sản xuất, góp

phần tăng thu nhập trong xây dựng NTM.

3.3.2.8. Nhóm giải pháp về mô hình cánh đồng mẫu lớn

Trên thực tế, sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trên địa bàn thành

phố Bắc Kạn vẫn phổ biến là sản xuất nhỏ, manh mún, điều đó gây khó khăn cho

tiêu thụ nông sản. Hoạt động tiêu thụ nông sản chủ yếu là hoạt động riêng rẽ của

các hộ nông dân dẫn đến hai hệ lụy, một là bị tư thương ép giá, hai là không có

khả năng tiêu thụ làm ảnh hưởng lớn đến thu nhập của hộ. Chính quyền các cấp

cần định hướng, quy hoạch vùng sản xuất tập trung, thực hiện tái cơ cấu ngành

nông nghiệp gắn với Chương trình xây dựng NTM. Hoạt động sản xuất của người

dân đạt hiệu quả cao khi có sự gắn kết từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Nhưng làm

thế nào để cải thiện thu nhập cho người trồng lúa, sản xuất với chi phí thấp hơn

và sản phẩm có giá trị thương mại cao hơn, vẫn là mối quan tâm hàng đầu của

ngành nông nghiệp. Một trong những giải pháp đang được thực hiện là tích tụ

ruộng đất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Từ mô hình cánh đồng mẫu lớn, dần

dần sẽ hình thành lớp nông dân biết gắn kết sản xuất với thị trường, sản xuất ra

những sản phẩm chất lượng đồng đều, an toàn thực phẩm, thân thiện với môi

trường. Bên cạnh đó, người dân được hưởng lợi thêm từ các dịch vụ sản xuất, chất

lượng vật tư nông nghiệp và các giá trị tăng thêm từ các hoạt động dịch vụ nhiều

76

nhất do giải quyết được vấn đề sản xuất manh mún vốn là rào cản ảnh hưởng đến

quá trình cơ giới hóa. Thật vậy, cánh đồng mẫu lớn từng bước dịch vụ hóa tất cả

các khâu trong sản xuất, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ nông sản, từ

đó khắc phục thất thoát sau thu hoạch, giảm chi phí trong sản xuất, góp phần tăng

tính cạnh trạnh của sản phẩm trên thị trường và gia tăng lợi nhuận cho người nông

dân. Mô hình cánh đồng mẫu đang thực hiện chính là đi sâu vào việc nâng cao thu

nhập cho người dân nông thôn.

3.3.2.9. Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn mới và tăng thu

nhập người dân

Chìa khóa để giải quyết tiêu chí thu nhập mà thành phố và các địa phương

khác đã tập trung thực hiện trong thời gian qua chính là đưa doanh nghiệp về với

nông thôn. Doanh nghiệp chính là cầu nối rất tốt cho nông dân. Doanh nghiệp đưa

khoa học kỹ thuật công nghệ về cho nông dân. Doanh nghiệp chính là nơi giúp

chuyển dịch cơ cấu lao động và doanh nghiệp cũng chính là nơi tiêu thụ sản phẩm

mà người nông dân làm ra. Rất nhiều những doanh nghiệp đang ăn nên làm ra trên

quê hương Bắc Kạn chính là con em của những người nông dân. Và cho dù không

sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bắc Kạn nhưng với tình yêu xóm ấp, họ vẫn sẵn

sàng đầu tư xây dựng cơ nghiệp tại nơi đây, giúp bà con xóm giềng cùng nhau

làm giàu.

3.3.2.10. Nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Trên thực tế, số lượng lao động nông thôn tại các xã trên địa bàn thành phố

Bắc Kạn chưa qua đào tạo nghề còn cao. Các ngành nghề của địa phương chưa

thực sự phát triển, sản xuất còn mang tính tự phát là chính, chưa được quy hoạch

đồng bộ. Vì vậy, muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nâng cao

thu nhập cho lao động nông thôn thì công tác đào tạo nghề là vô cùng quan trọng.

Công tác đào tạo nghề cần phải xem xét đến nhu cầu xã hội, đặc biệt là khâu tiêu

thụ sản phẩm. Đào tạo nghề giúp người lao động có thể nâng cao được kiến thức

và kỹ năng nghề, nâng cao năng suất và chất lượng lao động, đóng góp tích cực

77

cho công tác giảm nghèo bền vững, qua đó nâng cao và góp phần phát triển kinh

tế.

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với với quy hoạch xây dựng

NTM, các mô hình sản xuất hàng hóa tập trung theo Đề án tái cơ cấu nông nghiệp

và hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhu cầu của thị trường lao động.

- Khuyến khích người lao động tham gia các lớp đào tạo nghề, đặc biệt là

các lớp đào tạo ngắn hạn tại địa phương để tăng khả năng tìm kiếm việc làm.

- Các cơ sở đào tạo có thể liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài xã

để thực hiện đào tạo theo hợp đồng với những ngành nghề mà doanh nghiệp cần,

sau khi đào tạo sẽ giải quyết việc làm cho lao động tại doanh nghiệp đó.

- Mở rộng về quy mô cũng như chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề.

- Bên cạnh việc đào tạo mới cần có kế hoạch đào tạo lại đối với những lao

động đã có nghề nhằm nâng cao trình độ cũng như đáp ứng nhu cầu của công nghệ.

78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Thu nhập hiện nay ở vùng nông thôn ở thành phố Bắc Kạn mới chỉ đạt bình

quân 22,7 triệu đồng/người/năm, nếu tính theo tháng mới chỉ đạt bình quân 1,9

triệu đồng/người/tháng, còn thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí thu nhập quy định

của UBND tỉnh Bắc Kạn về bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới cũng như mục

tiêu phấn đấu của UBND thành phố Bắc Kạn. Trong đó, nhóm cộng đồng người

Dao chỉ đạt 8,4 triệu đồng/người/năm, tức 0,7 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn 3

lần so với nhóm dân tộc Tày. Trên thực tế, có một nhóm cộng đồng người Dao

định cư tại nơi khá biệt lập với đông đảo cộng đồng cư dân khác đang dần trở nên

ngày một nghèo hơn, khoảng cách chênh lệch thu nhập ngày một gia tăng hơn so

với nhóm đa số hộ gia đình người Tày ở khu vực, nhất là đối với cộng đồng cư

dân đô thị. Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở thành

phố Bắc Kạn đều được bắt nguồn từ các nhân tố mang tính đặc trưng của nhóm

dân số; sự khác biệt về địa lý; sự khác biệt về các động lực tăng trưởng nông

nghiệp và phi nông nghiệp giữa các cộng đồng cư dân; những thay đổi trong mô

hình sản xuất, từ mô hình nông nghiệp đến mô hình phi nông nghiệp, và từ công

việc tay nghề thấp đến công việc có kỹ năng cao; sự dịch chuyển từ sản xuất nông

nghiệp sang các cơ hội làm công ăn lương và kinh doanh phi nông nghiệp, tăng

nguồn lợi thu được từ đầu tư cho giáo dục, khác biệt về trình độ học vấn giữa các

hộ,... Trên thực tế, nhóm cộng đồng người Dao trong nghiên cứu này có điểm xuất

phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, ít có cơ hội phát triển,... Đồng

thời, các cơ hội và việc làm phi nông nghiệp của nhóm cộng đồng này cũng kém

hơn. Tất cả những nhược điểm trên đây dẫn đến thực trạng thu nhập thấp của

nhóm cộng đồng này.

Có mối tương quan giữa nguồn lực của hộ gia đình với thu nhập nông

nghiệp cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ gia đình nông thôn. Để

79

gia tăng thu nhập về nông nghiệp, bao gồm cả các khoản thu về trồng trọt, chăn

nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tổng thu nhập (thu nhập hỗn hợp) của hộ

gia đình nông thôn cần chú ý đầu tư về vốn đầu tư sản xuất, mở rộng diện tích

canh tác cũng như gia tăng số nhân khẩu, số lao động trong hộ gia đình nông thôn.

Việc gia tăng vốn đầu tư sản xuất cũng như mở rộng diện tích canh tác là điều rất

cần thiết, những trên thực tế, điều này nhiều khi lại nằm ngoài khả năng của hộ

gia đình do các khó khăn về quỹ đất canh tác hạn hẹp, tiếp cận vay vốn khó khăn.

Mặt khác, vai trò lao động nông thôn hiện nay không có nhiều ý nghĩa trong việc

tạo thu nhập về nông nghiệp cho chính vùng nông thôn, mà thay vào đó, họ là

nguồn nhân lực để đóng góp cho sự phát triển ở khu vực đô thị, vì vậy cần có

chiến lược bồi dưỡng, đào tạo cho lao động nông thôn. Để nâng cao thu nhập cho

hộ gia đình nông thôn cần chuyển dịch cơ cấu thu nhập của nông hộ theo hướng

chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở thành nhóm hộ hỗn hợp kiêm

cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Do vậy, tăng thu nhập nông nghiệp cũng như

thu nhập hỗn hợp của hộ gia đình nông thôn cần chú ý tăng cường đầu tư vốn sản

xuất, mở rộng thêm diện tích đất canh tác, đồng thời cần chuyển dịch cơ cấu thu

nhập của nông hộ theo hướng chuyển dịch dần từ hộ thuần nông nghiệp sang trở

thành nhóm hộ hồn hợp kiêm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn

mới ở thành phố Bắc Kạn cần thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp chủ yếu

như: Nhóm giải pháp về đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng

nông nghiệp đô thị; Nhóm giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất;

Nhóm giải pháp về phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp để tăng

thu nhập về phi nông lâm nghiệp thủy sản; Nhóm giải pháp về Chương trình

“Mỗi xã một sản phẩm”, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn; Nhóm giải

pháp về nâng cao thu nhập cho người dân bằng làng nghề, ngành nghề truyền

thống; Nhóm giải pháp về phát triển du lịch nông thôn, nâng cao giá trị sản xuất

80

nông nghiệp; Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng kinh tế trang trại, tổ chức

sản xuất theo hướng liên kết; Nhóm giải pháp về mô hình cánh đồng mẫu lớn;

Nhóm giải pháp về kết nối doanh nghiệp với nông thôn mới và tăng thu nhập

người dân và nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

2. Kiến nghị

Tác giả hy vọng rằng những giải pháp mà đề tài đã đề xuất sẽ được chính

quyền địa phương thành phố Bắc Kạn và các địa phương khác có điều kiện tương

tự có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn để chỉ đạo, góp phần nâng cao thu

nhập cho các hộ dân trên địa bàn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa

phương.

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Văn Trịnh và Phan Thuận (2014). Yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân trồng lúa tại Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 31 (2014), trang 117-123.

2. Nguyễn Việt Dũng (2015). Nghiên cứu, phân tích vai trò của cán bộ cấp cơ sở và người dân trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn thạc sĩ ngành Phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2015.

3. Nguyễn Lan Duyên (2014). Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang. Quyển 3 (số 2) năm 2014, trang 63- 69.

4. Lê Đình Hải (2017). Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp số 4-2017, trang 162-171.

5. Mông Thị Huyền (2016). Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Luận văn thạc sĩ ngành Phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2016.

6. Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng, 2015. Ảnh hưởng của nguồn lực đến thu nhập của nông hộ tỉnh Thanh Hóa: Nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân và Hà Trung. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2015, tập 13, số 6, trang 1051-1060.

7. Dương Văn Sơn và Bùi Đình Hòa (2012). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu

kinh tế xã hội. Nxb Nông nghiệp, 2012.

8. Lê Anh Vũ và Nguyễn Đức Đồng (2017). Phát triển kinh tế hộ và trang trại gắn với xóa đói giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên. Nxb Khoa học Xã hội, 2017.

9. Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà

Nội.

10. Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.

82

11. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

12. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 5/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ việc ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020.

13. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 03/2019/QĐ-TTg ngày ngày 15 tháng 01 năm 2019 về việc ban hành tiêu chí xác định xã, thôn hoàn thành mục tiêu dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2010.

14. Tỉnh ủy Bắc Kạn (2016). Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ Ba (khóa 11) về Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh trên thị trường giai đoạn 2016-2020.

15. HĐND tỉnh Bắc Kạn (2017). Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 11/4/2017 của Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.

16. UBND tỉnh Bắc Kạn (2017). Quyết định số 734 /QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.

17. UBND tỉnh Bắc Kạn (2018). Quyết định số 1861/QĐ-UBND ngày 6/11/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2018-2020.

18. UBND tỉnh Bắc Kạn (2019). Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 13/2/2019 của UBND tỉnh Bắc Kạn về việc ban hành Bộ tiêu chí thôn nông thôn mới tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020.

19. Thành ủy thành phố Bắc Kạn (2011). Nghị Quyết số 09-NQ/TU ngày 26/7/2011 của Thị ủy (nay là thành ủy) về thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tại thị xã Bắc Kạn (nay là thành phố) giai đoạn 2011- 2020.

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH

Về tiêu chí thu nhập trong xây dựng nông thôn mới

Phiếu điều tra số……………………..Ngày điều tra………………….

1. Thông tin về hộ gia đình:

1.1. Họ tên :........................................................Nam/nữ

1.2. Tuổi:............. Dân tộc:................ Trình độ văn hóa:...........................

1.3. Địa chỉ: Thôn:………………………Xã/phường: ……………………

1.4. Tổng số nhân khẩu:........................người

+ Lao động trong độ tuổi:.....................người

+ Lao động ngoài độ tuổi:....................người

Số lao động đã được đào tạo:………………………..

1.5. Phân loại hộ theo nghề nghiệp:

 Hộ thuần nông  Hộ sản xuất nông nghiệp kết hợp với TTCN và dịch vụ

 Hộ khác

2. Thông tin về nguồn lực đất đai và các nguồn lực khác

2.1. Tổng diện tích đất canh tác:…………………………….. Ha

Các cây trồng chủ yếu:……………………………………………………………

……………………………………………………………………………………..

Trong các cây trồng trên, loại cây trồng nào mang lại thu nhập cao nhất ?

…………………………..Thu nhập ………………triệu đồng một năm.

2.2. Diện tích đất lâm nghiệp:……………………………………… ha

2.3. Sản phẩm Lâm nghiệp dùng để làm gì …………………….……………………….

……………………………………………………………………………………….

2.4. Gia đình đã được tham gia các lớp tập huấn đào tạo khuyến nông nào về

trồng trọt và lâm nghiệp không?

Có □ Không □

Nếu có thì những khóa tập huấn, đào tạo gì …………………………….……….

2.5. Ông /bà cho biết quá trình sản xuất trồng trọt và lâm nghiệp thường gặp

những khó khăn gì?

- Thiếu đất sản xuất  - Kỹ thuật 

- Thiếu vốn 

- Giống 

- Thị trường tiêu thụ khó khăn  - Thiếu nước 

- Thiếu lao động  - Yếu tố khác 

……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

2.6. Trong các vật nuôi trên thì loài vật nuôi nào đem lại thu nhập cao nhất?

…………………...…………..Thu nhập là …………………….. triệu đồng

2.7. Gia đình đã được tham gia các lớp tập huấn, đào tạo khuyến nông nào về chăn nuôi thú y không?............ Nếu có thì những khóa huấn luyện gì ?……..……….

………………………………………………………………………………………

2.8. Ông (bà) cho biết những khó khăn gặp phải trong quá trình chăn nuôi?

- Vốn 

Giống 

Thị trường 

- Thú y  Kỹ thuật 

- Yếu tố khác  2.9. Khả năng tiếp cận tín dụng

- Trong năm qua ông/bà có vay vốn để sản xuất không?

Có  Không 

- Ông/bà vay từ nguồn nào?

Số tiền vay:…… ………………………………………….. triệu đồng

- Tại sao không vay:………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………

-Nếu không vay vốn sẽ ảnh hưởng gì đến sản xuất?..................................................

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

2.10. Khả năng tiếp cận kỹ thuật

- Theo ông/bà những hiểu biết về kỹ thuật nông nghiệp, quản lý sản xuất của mình

là do đâu có được?

Kinh nghiệm  Xem tivi và nghe đài 

Cán bộ khuyến nông  Học từ bạn bè và bà con 

Đọc sách báo  Khác………….

3. Thông tin về quả sản xuất và thu nhập của hộ gia đình nông thôn

3.1. Thu nhập của hộ gia đình (năm 2017)

Số

Giá bán

Thành tiền

Ghi

Nguồn thu

ĐVT

lượng

(đ)

(đ)

chú

1.Trồng trọt

Lúa

kg

Ngô

Kg

khoai

Kg

Sắn

kg

Rau các loại

kg

Cây khác:

kg

2. Lâm Nghiệp

Keo, Mỡ

cây

Măng

kg

Cây khác

cây

3. Cây ăn quả

Nhãn,vải

kg

Cây khác:

4. Chăn nuôi

Trâu,Bò

con

Con

Lợn

Con

con

Ngan,Vịt

con

Con khác

con

kg

5. Thủy sản

Tổng thu

3.2. Các khoản thu về tiền công, tiền lương:

Tiền lương:………………………….. triệu đồng/năm

Tiền công:…………………………….. triệu đồng/năm

Tiền khác:…………………………….. triệu đồng/năm

3.3. Thông tin về hoạt động phi nông nghiệp

Ngoài sản xuất NN, gia đình còn tham gia những hoạt động phi NN nào không ?

a) Dịch vụ phục vụ sản xuất  b) Xây dựng  c) Buôn bán 

d) Tham gia hoạt động ngành nghề, LN tại địa phương  e) May mặc 

f) Sửa chữa điện tử , đồ gia dụng, xe máy  g) Phục vụ ăn uống 

h) Quán nét, điện tử  i) khác………………………

Ông (bà) hãy cho biết thu nhập từ những hoạt động phi NNcủa gia đình ?

- Hoạt động …………………………………………… có …….….. lao động, thu

nhập ……..…….triệu đồng /năm.

- Hoạt động ………................................................................... có ……….. … lao

động, thu nhập ………….triệu đồng /năm.

- Hoạt động ………………………………………………....…có …..….. lao động,

thu nhập ………….triệu đồng /năm.

- Hoạt động ………….……………………………………...…có …...…..lao động,

thu nhập ………….triệu đồng /năm.

Theo Ông(bà) thì chủ trương chính sách của Nhà nước về xây dựng mô hình NTM

có cần thiết không ?

□ Rất cần thiết □ Cần thiết □ Không cần thiết

3.4. Ông (bà) hãy cho biết những tác động của chương trình xây dựng NTM đến

quá trình phát triển kinh tế của gia đình ?..............................................................

………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn!

Ngày ..…...tháng …..Năm 2018

Chữ ký của chủ hộ

Người điều tra