BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VVÕÕ TTHHỊỊ TTHHÚÚYY KKIIỀỀUU PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ NGÀNH: 60.34.02.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN VIỆT THU
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
1
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động rửa tiền ngày càng tinh vi, phức tạp đã và đang trở thành một mối
nguy cơ lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo ước tính lượng tiền có nguồn gốc
không sạch đổ vào các nền kinh tế mỗi năm khoảng 1.000 tỷ USD, tương đương 5%
GDP toàn cầu, có khả năng sụp đổ hệ thống tài chính bất cứ lúc nào. Hoạt động rửa tiền
hiện nay được thực hiện qua nhiều cửa ngõ như mua bán chứng khoán, bất động sản,
thông qua tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ…. Nhưng ngân hàng vẫn là cửa ngõ
chính của hoạt động rửa tiền. Hoạt động rửa tiền ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế quốc
gia, không những làm lũng đoạn nền kinh tế quốc gia mà nó còn bóp méo hoạt động
ngoại thương, tác động xấu lên hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và còn nhiều
ảnh hưởng khác nữa. Do đó, nhiều tổ chức như Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế, Lực lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF) ….đã vào cuộc để thực hiện công tác
phòng, chống rửa tiền bằng cách xem xét tình hình thực tế và các dự đoán để đưa ra các
đề nghị .
Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền
cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên, một nghiên cứu công bố gần đây
về hoạt động không chính thức của nền kinh tế Việt Nam làm chúng ta lo ngại. Nghiên
cứu của Stoyan và cộng sự cho rằng hoạt động phi chính thức của Việt Nam vào năm
2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Trong đó, các hoạt
động phụ của các hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ
không khai báo ở thành thị là khoảng 10,5% và hoạt động không khai báo khác là 10%.
So với hoạt động kinh tế ngầm của các khu vực trên thế giới thì, ở châu Phi chiếm 44%,
ở Trung và Nam Mỹ chiếm 39% và 35% ở Châu Á. Với đặc điểm của từng nền kinh tế
và chất lượng của hoạt động thống kê ở từng nước thì lượng tiền được rửa sẽ chiếm ít
hoặc nhiều trong các hoạt động kinh tế ngầm, tuy nhiên một điều chắc chắn rằng nó có
tương quan thuận với nhau. Như vậy chúng ta có thể thấy dù ít hay nhiều thì hoạt động
rửa tiền ở Việt Nam vẫn tồn tại và nếu tính qui đổi theo tỉ lệ phần trăm nào đó đối với
2
hoạt động kinh tế ngầm theo nghiên cứu của Stoyan nêu trên thì Việt Nam cũng có cơ sở
quan tâm và nghiên cứu đến chủ đề này khá phức tạp và khó đo lường này.
Thời gian gần đây, ngày càng nhiều các ngân hàng dính líu đến hoạt động tội
phạm rửa tiền, dù vô tình hay cố ý thì vô hình chung đã làm cho hệ thống ngân hàng nói
riêng và nền kinh tế mang rủi ro lớn, khả năng phá sản hàng loạt là có thể xảy ra. Vì vậy
việc nghiên cứu về các phương thức và xu hướng rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam là rất cần thiết, góp phần tích cực vào việc xây dựng khuôn khổ pháp lý, hoạch
định chính sách về phòng chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố hiệu quả. Đồng thời
nâng cao hiệu quả, tính minh bạch và bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu : thực trạng rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền.
Phạm vi nghiên cứu : hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp mô tả nhằm tổng quát về tình hình rửa tiền trên thế giới và Việt
Nam.
Phương Pháp Thống kê nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng rửa tiền,
hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền.
Phương Pháp lịch sử : dựa vào các thông tin trong quá khứ để tìm hiểu nguyên
nhân và có các kết luận phù hợp.
Nguồn dữ liệu của luận văn chủ yếu lấy từ:
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
Tổng cục thống kê
Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG)
Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF)
3
Kết quả nghiên cứu chủ yếu nhằm đạt đƣợc:
Một là : Phản ánh được những phương thức, hành vi rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng.
Hai là : phản ánh được thực trạng rửa tiền tại Việt Nam và những nỗ lực của các
ngân hàng trong công tác phòng chống rửa tiền. Từ đó đánh giá được hiệu quả của công
tác phòng chống rửa tiền, nêu ra những điểm tồn tại và nguyên nhân của nó.
Ba là : Từ những thực trạng rửa tiền và nguyên nhân của những tồn tại thì tác giả
sẽ kiến nghị những giải pháp nhằm năng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền tại Việt
Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng.
Chương 2 : Thực trạng của việc phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam hiện nay.
Chương 3 : Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm rửa tiền và những vấn đề liên quan đến rửa tiền
1.1.1. Khái niệm rửa tiền
1.1.1.1. Khái niệm của quốc tế
Rửa tiền theo liên hợp quốc dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước
Palermo (2000) được rất nhiều quốc gia đồng thuận nhất là “ việc sử dụng (nghĩa là với
bất cứ hình thức gì kể cả cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà nó được cho là có nguồn
gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà có được hoặc từ hoạt động
che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi pháp luật”.
Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) đưa ra định nghĩa súc
tích cho thuật ngữ “rửa tiền” là “việc xử lý tiền do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn
gốc bất hợp pháp của chúng” nhằm “hợp pháp hóa” những món lợi thu được một cách
bất chính từ hành vi phạm tội.
Để hiểu một cách chính xác, cặn kẽ khái niệm rửa tiền chúng ta phải tìm hiểu một
thuật ngữ khác đó là chuyển vốn tư bản hay gọi là vốn bay. Đây là vốn rút ra cấp tốc
khỏi một nước do sự mất lòng tin vào chính phủ, khi nước đó xảy ra biến động về kinh
tế, chính trị. Vốn bay còn được hiểu là “tiền nóng”, tiền được chuyển từ một địa điểm
này sang địa điểm khác do sự lo ngại về chính sách của chính phủ. Trong nhiều trường
hợp, khó có thể phân biệt tiền hợp pháp và tiền bất hợp pháp. Những bộ phận hợp pháp
của vốn bay thường là những dòng tiền sau thuế từ một quốc gia này sang quốc gia khác,
và nó thường được ghi vào trong sổ sách và được lưu giữ để báo cáo. Trong khi những
bộ phận hợp pháp này được chuyển đi một cách an toàn, công khai thì những bộ phận
bất hợp pháp của vốn bay thường được che dấu đi.
Một thuật ngữ liên quan đến hoạt động rửa tiền là “smurfing”. Thuật ngữ này
được đặt tên theo những sinh vật hoạt hình, người chuyển tiền liên tục để che dấu nguồn
gốc và chủ sở hữu của tiền. Smurf là những nhân vật giúp chuyển tiền từ tổ chức này
5
sang một tổ chức rửa tiền hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác. Hoạt động của
Smurf thường liên quan đến người cầm đầu, gọi là Papa Surf, người chỉ đạo cho Surf gửi
tiền thu được từ buôn bán ma túy tại nhiều ngân hàng với số lượng nhỏ hơn số lượng tối
thiểu mà các tổ chức tín dụng được yêu cầu phải báo cáo.
Chúng ta tìm hiểu thêm tội phạm nguồn của tội rửa tiền, là hành vi phạm tội
chính, từ đó đã tạo ra những đồng tiền mà khi đã được rửa thì sẽ dẫn tới hành vi phạm
tội rửa tiền. Thuật ngữ “tiền bẩn”, “tiền dơ”, “tiền đen” đều hàm ý là tiền có nguồn gốc
từ phạm tội mà có được.
Có nhiều cách đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp để ước lượng tiền được rửa ở một
nền kinh tế nào đó. Chẳng hạn cách tiếp cận vĩ mô, phổ biến vào những năm 1980, họ
ước lượng hoạt động kinh tế ngầm chiếm bao nhiêu phần trăm của GDP và thông qua đó
phỏng đoán mức rửa tiền. Công cụ thường dùng là quan sát sự dịch chuyển bất thường
nhu cầu xã hội theo thời gian, hoặc là sự tăng vọt hay giảm thuế đột ngột. Một cách tiếp
cận khác là tiếp cận vi mô. Cách này thường ước lượng gộp thông qua các hoạt động tội
phạm được phát hiện, các kênh thông tin đường phố. Thông thường thì các thống kê
mức độ rửa tiền công bố với một biên độ dao động khá rộng bằng phần trăm GDP.
Chẳng hạn như những kết quả công bố của IMF số lượng được rửa ở Úc khoảng 4-12%
GDP, ở Đức là 2-11%, ở Ý là 10 – 33%, ở Anh là 1 – 15% và ở Mỹ là 4 – 33%.
Trong báo cáo năm 2000, cơ quan chống các chất độc gây nghiện quốc tế
(INCSR) đã sắp xếp nguy cơ rửa tiền ở các nước trên thế giới vào một hệ thống phân
loại gồm 3 mức: nhóm mức độ lo ngại cao, nhóm mức độ lo ngại trung bình và các
nhóm được theo dõi. Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có mức độ lo ngại trung bình.
1.1.1.2. Khái niệm theo luật Việt Nam
Theo luật 07/2012/QH13 ngày 18/06/2012 về phòng chống rửa tiền thì Rửa tiền
là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội
mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:
(i) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự; (theo điều 251)
6
(ii) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách
nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
(iii) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội
mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
Định nghĩa rửa tiền theo luật Việt Nam đã phần nào đáp ứng khuyến nghị 1 của
FATF về phòng, chống rửa tiền. Trong điều 251 của bộ luật hình sự có quy định rõ các
hành vi nào được xem là tội rửa tiền. Việc gắn kết các tội phạm rửa tiền với các hành vi
phạm tội trong bộ luật hình sự nhằm mục đích hình sự hóa tội danh rửa tiền. Thêm vào
đó, hành vi tài trợ khủng bố nhằm che dấu nguồn tiền bẩn cũng được xem là rửa tiền.
1.1.2. Qui trình rửa tiền
Để hiểu rõ hơn về rửa tiền, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về quá trình vận động
của tiền bẩn để nhận dạng đầy đủ bản chất của rửa tiền.
1.1.2.1. Đầu tư phân tán (Placement)
Đây là thuật ngữ nói lên việc phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào
7
trong hệ thống tài chính mà không gây ra sự chú ý của các định chế tài chính và của cơ
quan chức năng. Các tội phạm rửa tiền có thể thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia
các khoản tiền bẩn thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức qui định – theo đề xuất của tổ
chức chống rửa tiền quốc tế là 15.000USD hoặc EURO, và thường là ở những ngân hàng
có các quy chế kiểm soát nội bộ yếu kém, hoặc những ngân hàng có uy tín thấp. Thậm
chí các tội phạm rửa tiền còn thực hiện một cách hoàn hảo các kế hoạch của mình bằng
cách chuyển tiền vào những tài khoản của các đối tác mà những hóa đơn thu tiền của các
đối tác này không bao giờ có các hàng hóa dịch vụ đối ứng. Bước này thực hiện nhằm
hai mục đích: giải tỏa việc nắm giữ lượng tiền mặt lớn của bọn tội phạm và đưa số tiền
này vào hệ thống tài chính hợp pháp. Do đó nó được xem là rủi ro nhất bởi khả năng
nghi ngờ là lớn nhất.
Đã từng có một số đối tác nước ngoài đề xuất với NHNN, nếu cho họ mở tài
khoản và ký kết hợp đồng tín dụng thì họ sẽ chuyển vào 20 tỷ USD để cho vay với lãi
suất ưu đãi trong vòng 30 năm và thậm chí 10 năm đầu họ sẽ xóa luôn các khoản nợ gốc.
1.1.2.2. Phân tán lòng vòng (layering)
Đây là thuật ngữ nói lên một quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục
đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp và làm rối tung các dấu vết kiểm
toán sau này. Các kỹ thuật phân tán thông thường là chuyển tiền điện tử ra nước ngoài,
thường trực tiếp vào các ngân hàng dễ dãi “bank secrecy haven” hoặc vào những chứng
chỉ tiền gửi có những qui chế pháp lý thông thoáng mà người chủ của nó sẵn sàng có thể
rút ra vào bất kỳ lúc nào. Đó là những công cụ có tính thanh khoản rất cao như các séc
du dịch. Bước kế tiếp kẻ đồng lõa sẽ làm cho vấn đề phức tạp hơn bằng cách chuyển tiền
điện tử tới những người nắm giữ những tài khoản bí mật – thường là ở các quốc gia có
các qui tắc quản trị ngân hàng hải ngoại lỏng lẻo. Những người này sẽ cho tiền tới các
đối tác mà sau này sẽ hoàn trả lại bằng các hóa đơn “có vấn đề”. Đây là bước phức tạp
nhất và bản chất có tính quốc tế hóa cao nhất.
1.1.2.3. Hợp nhất (Integration)
Đây là thuật ngữ nói lên giai đoạn cuối cùng của việc rửa tiền, là việc tái phân
8
phối trở lại vào nền kinh tế các nguồn tiền không thể lần ra dấu vết được nữa. Giai đoạn
này được tiến hành thông qua hàng loạt các hành vi tiêu dùng xa hoa lãng phí, các chi
tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính.
Là bước mà tiền bẩn hòa nhập vào hệ thống và từ thời điểm này trở đi số tiền này
quay trở lại bọn tội phạm dưới dạng tiền hợp pháp. Những khoản tiền tội ác giờ đây đã
hòa lẫn trong hệ thống tài chính và có thể sử dụng cho bất kỳ mục đích nào kể cả việc tài
trợ cho những mục đích tội ác mới
1.1.3. Những ảnh hƣởng của hoạt động rửa tiền đến nền kinh tế xã hội
Một số nhà kinh tế cực đoan (tôn sùng thị trường) cho rằng không có tiền nào là
bẩn, tiền nào là sạch. Theo họ, “rửa tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh
tế”, không ai muốn trả tiền thuế và ai cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những
hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Như vậy tiền bẩn theo họ đã giúp phát triển kinh
tế.
Tuy nhiên ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự bản chất của nó, sự phân bố tài
nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh pháp
luật. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội
phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo
sự phân bố các nguồn lực ấy. Sau đây là những tác động xấu của hoạt động rửa tiền đến
nền kinh tế xã hội.
1.1.3.1. Vĩ mô
Vì những đồng tiền bẩn có thể xuất phát từ bất cứ khu vực nào và chuyển đến các
nước có hệ thống tài chính ổn định, nên chúng có ảnh hưởng nhất định đến các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô không chỉ ở cấp quốc gia mà còn cấp khu vực, cấp quốc tế. Trong một
nghiên cứu, tổ chức tư vấn dịch vụ John Walker đã sử dụng mô hình I-O để phân tích
những kịch bản của tác động rửa tiền. Trong một kịch bản trung hòa nhất cho thấy tác
động như sau: 1 tỷ USD rửa tiền làm giảm đi 1,13 tỷ USD giá trị sản lượng, 609 ngàn
USD thu nhập và 25 việc làm. Đây là một tác động thật sự lớn và thực tế ở các nền kinh
tế lớn số tiền rửa nhiều hơn chứ không dừng lại như kịch bản đã phân tích. Có thể đưa ra
9
một loạt các hậu quả tiêu cực về kinh tế vĩ mô của tình trạng rửa tiền. Hoạt động này làm
ảnh hưởng đến các giao dịch tiền tệ truyền thống hợp pháp, làm thay đổi các dòng vốn
quốc tế, làm tỷ giá tiền tệ biến động mạnh, làm người ta không thể đánh giá được chính
xác quy mô thực tế của vốn đầu tư.
Làm lũng đoạn nền kinh tế quốc gia
Các dòng tài chính phi pháp từ hoạt động rửa tiền sẽ làm lũng đoạn nền kinh tế
quốc gia. Thực tế cho thấy nền kinh tế của nước Nga đã bị lũng đoạn như thế nào khi
đến hơn 50% các ngân hàng Maxcova có liên quan đến hoạt động của mafia. Theo bà
Susan J Adams trưởng đại diện của IMF tại Việt Nam, Việt Nam cần phải cảnh giác với
dòng tài chính phi pháp này bởi nếu chúng chảy vào thì sớm muộn nền kinh tế và hệ
thống tài chính tiền tệ quốc gia cũng sẽ bị tàn phá.
Rửa tiền có thể làm méo mó nền kinh tế và tạo ra tính bất ổn của thị trường
Những tội phạm rửa tiền có thể chuyển vốn tới những khu vực hoặc những vùng
mà những nguồn tiền phi pháp khó có khả năng bị phát hiện bất chấp việc đầu tư đó có
cần thiết và mang lại lợi nhuận hay không. Các dự án đầu tư kiểu này chắc chắn là
không có lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp tại địa phương và quốc gia bởi vì
chúng không tuân thủ theo bất kỳ qui tắc nào của sự phát triển.
Đồng tiền của một quốc gia cũng bị đe doạ
Do nguồn cung ứng tiền tệ từ các hoạt động rửa tiền không dựa trên các yếu tố kỳ
vọng hợp lý của thị trường mà dựa trên những yếu tố ngoài thị trường. Theo các chuyên
gia, Tây Ban Nha là quốc gia có lượng tiền có nguồn gốc bất hợp pháp cao nhất Châu
Âu. Điều này đôi khi khó nhận ra nhưng các dấu hiệu thì rõ ràng. Chẳng hạn tờ giấy bạc
500 Euro: gần 1/3 tổng số lượng lưu hành tại EU tập trung vào Tây Ban Nha.
Thị trường chứng khoán tăng tính rủi ro
Là nơi tiếp vốn đầu tư gián tiếp, thị trường chứng khoán không nằm ngoài danh
mục đầu tư của các nhà rửa tiền. Với sự tham gia của nguồn tiền bẩn làm cho giá cả cổ
phiếu không phản ảnh đúng theo cung cầu thực của thị trường. Những đợt thu gom cổ
10
phiếu của các nhà rửa tiền làm thị trường lên cơn sốt giá ngoài tầm dự đoán, thậm chí
giá cổ phiếu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ cũng lên giá đáng kể. Và cũng ào ạt
như lúc mua, họ bắt đầu bán tháo cổ phiếu thu hồi tiền như kịch bản của họ đã dựng sẵn,
điều đó làm cho giá chứng khoán rớt giá thê thảm mà không có mô hình chứng khoán
nào có thể dự đoán được. Nó thuộc vào nguy cơ đảo ngược dòng vốn của chứng khoán.
Các hoạt động rửa tiền làm mất đi uy tín của quốc gia
Và do đó làm giảm đi những cơ hội tăng trưởng do các nhà đầu tư giờ đây đã mất
đi niềm tin vào các quốc gia đó. Đầu tư nước ngoài vào các quốc gia như thế chắc chắn
sẽ giảm đi đáng kể. Năm 2003, Bộ Tài Chính Mỹ ra thông báo tách Myanmar khỏi hệ
thống tài chính Mỹ sau khi nước này là trung tâm của rửa tiền. Washington khẳng định
hai ngân hàng Mayflower và Wealth Bank của Myanmar liên quan tới các nhóm buôn
lậu thuốc phiện. Trước đó Ukraina và quốc đảo Nauru cũng là đối tượng chịu sự trừng
phạt của Mỹ.
1.1.3.2. Vi mô
Tác động lên hệ thống tài chính
Uy tín của hệ thống ngân hàng tài chính chủ yếu dựa vào quan niệm hệ thống này
hoạt động trong một khuôn khổ khắc khe về đạo đức, pháp lý và chuyên môn. Bởi vậy
uy tín là tài sản vô giá đối với các tổ chức tín dụng. Do nó được xây dựng trên cơ sở
lòng tin của khách hàng nên ngân hàng rất khó tồn tại khi lòng tin đó bị lung lay. Các
định chế tài chính nào tiếp nhận những dòng tài chính phi pháp thì tính thanh khoản, tình
hình tài chính, danh tiếng của các định chế tài chính sẽ bị đe dọa nghiêm trọng khi một
số lượng lớn các nguồn tiền phi pháp này bất chợt rút ra khỏi quốc gia như là một phần
của kế hoạch rửa tiền mà điển hình là sự sụp đổ của ngân hàng quốc tế BCCI của Mỹ.
Rửa tiền làm suy yếu hệ thống tài chính và do đó làm xói mòn việc tích tụ vốn
trong nước bằng 3 lý do:
Thứ nhất: rửa tiền làm xói mòn bản thân nội tại của các tổ chức tài chính
Điều dễ dàng nhận thấy mối quan hệ nguy hiểm giữa hành vi rửa tiền và cán bộ
11
phụ trách của các tổ chức tài chính. Rửa tiền làm tăng khả năng khách hàng bị lừa gạt
bởi tham nhũng do chính nhân viên của ngân hàng gây ra, làm suy yếu chính ngân hàng
từ nội bộ, làm tăng khả năng vỡ nợ của ngân hàng. Nếu số lượng tiền có nhu cầu được
rửa càng cao thì tính nguy hiểm càng lớn thông qua các hành vi tham nhũng và các tìm
kiếm đặc lợi khác. Điều này làm thiên lệch các quyết định đầu tư tài chính và dẫn đến
làm giảm hiệu quả của hệ thống tài chính ở cấp độ vi mô lẫn vĩ mô.
Thứ hai: Suy giảm niềm tin của khách hàng vào tổ chức tài chính
Đặc biệt ở các nước đang phát triển, lòng tin của khách hàng đối với hệ thống tài
chính là một yêu cầu quan trọng để phát triển hệ thống này qua thời gian. Và như vậy,
bất cứ một tín hiệu nào mà khách hàng cho rằng những định chế tài chính là gian lận
hoặc tiếp tay cho hoạt động gian lận này đều có thể làm suy sụp niềm tin và có thể tổn
hại đến cả hệ thống. Trong tình trạng tồi tệ có thể làm khủng hoảng ngân hàng vì công
chúng sẽ cư xử theo hiệu ứng tâm lý bầy đàn hoặc rút vốn hàng loạt nếu lòng tin này
không còn.
Thứ Ba : Nguy cơ bị thâu tóm của các công ty trong nước kể cả ngân hàng
Ngoài ra, với việc giúp rửa sạch những nguồn tiền bẩn bất hợp pháp trong và
ngoài nước, các ngân hàng sẽ giúp các tổ chức tội phạm có điều kiện thâu tóm một cách
hợp pháp các công ty kinh doanh trong nước kể cả các ngân hàng và biến chúng thành
công cụ rửa tiền. Và vụ bê bối của ngân hàng Commezbank (ngân hàng lớn thứ 4 tại
Đức) là một minh chứng cho vấn đề này.
Ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế chính thức
Bên cạnh tác động đến hệ thống tài chính, rửa tiền còn có tác động tiêu cực trực
tiếp đến tăng trưởng của khu vực kinh tế chính thức.
Một là : Cạnh tranh không cân sức, ảnh đến lợi nhuận của các công ty chân
chính
Các doanh nghiệp chân chính thấy rằng họ không thể nào cạnh tranh nổi với các
công ty liên quan đến hoạt động rửa tiền. Những công ty được bảo kê như thế sẽ cung
12
cấp những dịch vụ và hàng hóa dưới giá trị thị trường và thậm chí chịu lỗ bởi vì mục tiêu
chủ yếu của họ là rửa tiền hơn là phải cạnh tranh tìm kiếm lợi nhuận như những công ty
chân chính khác. Và hậu quả tất yếu là sự phá sản hàng loạt của các công ty chân chính
mà nguyên nhân chính không nằm ở năng lực điều hành hoặc bất cứ nguyên nhân nội tại
nào.
Hai là : Chệch hướng đầu tư và phân bổ nguồn lực không hiệu quả
Hơn thế nữa, rửa tiền làm chệch hướng và phân bố nguồn lực trong khu vực chính
thức kém hiệu quả. Theo báo cáo rửa tiền, phần lớn lượng tiền này được đem đi đầu tư ở
những khu vực được xem như là hợp pháp để đảm bảo tính an toàn hơn là suất sinh lời.
Những khoản đầu tư này không chỉ tạo ra ít hiệu suất hơn cho nền kinh tế mà còn chệch
hướng cung và cầu tự nhiên của khu vực chính thức. Thị trường trong khu vực bất động
sản, các hoạt động nghệ thuật, đồ cổ, nữ trang và các ngành ôtô đắt tiền được giới rửa
tiền quan tâm. Những dấu hiệu bất thường về cung hoặc cầu trong xã hội thường là do
những hoạt động bất chính gây ra và rửa tiền là một hoạt động quan trọng tạo nên sự mất
cân đối trong xã hội. Việt Nam có thể cho chúng ta thấy một dấu hiệu khác thường về
cung cầu trong lĩnh vực bất động sản. Giá bất động sản cao sấp xỉ bằng Nhật Bản, trong
khi thu nhập bằng 1/20, nghiêm trọng hơn là bất động sản đa số đã có chủ nhưng hầu
như lại ít sử dụng thật sự.
1.2. Phƣơng thức, thủ đoạn rửa riền qua hệ thống ngân hàng
Nghiên cứu phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất hữu ích đối với việc quản lý ngân
hàng, giúp ngân hàng hiểu được khách hàng của mình. Điều này giúp ngân hàng phát
hiện các giao dịch có dấu hiệu nghi vấn để đưa ra biện pháp phòng ngừa kịp thời.
Phương thức, thủ đoạn rửa tiền được nghiên cứu ở 3 góc độ: Không gian, hành vi, công
đoạn rửa tiền.
1.2.1. Về mặt không gian
Phương thức thủ đoạn rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp
Trường hợp 1: Các nguồn tiền được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là
13
quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp được thu, được rửa cũng như
được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó.
Trường hợp 2: Lượng tiền “bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước
ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên
thị trường trong nước.
Trường hợp 3: Tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay một
nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.
Trường hợp 4: Số tiền được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc gia
đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó.
Trường hợp 5: Lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát
triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
1.2.2. Các hành vi rửa tiền qua ngân hàng
Hành vi, phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất phong phú đa dạng, gắn liền với khe
hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về tài chính,
ngân hàng... Từ thực tiễn phòng chống rửa tiền của nhiều nước có thể mô tả phương
thức, thủ đoạn tội phạm rửa tiền qua ngân hàng như sau:
Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt: Đây là phương thức rửa tiền
truyền thống và chủ yếu của bọn tội phạm. Năm 1999, một quầy đổi tiền ở Pari đã
phát hiện hành vi khả nghi của một người Pháp trong thời gian ngắn đã đổi 1,7
triệu Frăng Pháp sang Mác Đức. Kết quả điều tra cho thấy, kẻ tình nghi có quan
hệ với một nhóm tội phạm buôn bán ma tuý ở Tây Ban Nha, Đức, Pháp, và đang
tìm cách đổi tiền sang Mác Đức để tiêu thụ.
Rửa tiền thông qua việc mua vàng, bạc, kim cương...là những tài sản gọn nhẹ, có
giá trị cao, có thể mua đi bán lại ở mọi nơi, mọi thời điểm trên thế giới. Đây là
phương thức rửa tiền được bọn tội phạm sử dụng nhiều nhất do cách thức đơn
giản, dễ thực hiện, nhưng lại dễ bị cơ quan điều tra phát hiện.
Rửa tiền thông qua đầu tư vào gửi tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu: Bọn tội
14
phạm sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc mua tín phiếu, trái phiếu... làm cho
đồng tiền nằm im trong một thời gian phù hợp với quy định với mỗi nước. Sau
đó, người gửi tiền có thể rút ra toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến số tiền
đó thành tiền hợp pháp.
Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: Tại một số nước, hệ thống ngân
hàng hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ mà lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng
những người nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không
chính thức gọi là ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và
luân chuyển tài chính như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ
hơn, bí mật hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở
nhiều nước khác nhau để thực hiện dịch vụ chuyển tiền từ nước này sang nước
khác hoặc từ thành phố này sang thành phố khác trong cùng một quốc gia. Sự
hoạt động của ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm tin giữa ngân hàng và bạn
hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ. Bọn tội phạm lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật
của những ngân hàng này đã đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một thành
phố khác. Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những quốc gia
khao khát đầu tư tài chính nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh
toán qua ngân hàng chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật
về phòng chống rửa tiền chưa nghiêm...
1.2.3. Công đoạn rửa tiền
Công đoạn 1: Đưa tiền bất hợp pháp vào lưu chuyển trong hệ thống kinh tế tài
chính, gọi tắt là “gài đặt”, “gửi tiền”. Đây là thao tác đầu tiên của hoạt động rửa
tiền nhằm chuyển đổi các khoản tiền do phạm tội mà có sang các hình thức hợp
pháp khác và đưa vào các chu trình kinh tế tài chính. Giai đoạn này được coi là
khó khăn nhất đối với bọn tội phạm vì tiền và tài sản có được là bất hợp pháp và
đang được cơ quan điều tra theo dõi, hơn thế nữa nhà nước và các cơ quan đặt ra
nhiều quy chế để đón “lõng” bọn tội phạm rửa tiền, ví dụ như quy định lượng tiền
mặt được đưa qua biên giới, được phép thanh toán, các quy định về khai báo ngân
hàng.
15
Công đoạn 2: Quá trình tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã
thâm nhập hệ thống tài chính, gọi tắt là “chuyển dịch”, “sắp xếp”. Trong công
đoạn này, hàng ngàn thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm cho đồng tiền chuyển
dịch khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xoá đi dấu vết tội phạm, cắt đứt một cách
giả tạo mối liên hệ giữa tài sản và tổ chức tội phạm. Quốc gia nào có hệ thống
luật doanh nghiệp càng thông thoáng càng dễ bị lợi dụng thông qua việc thành lập
công ty ma. Ngoài ra, các giao dịch tài chính tinh vi như tham gia vào thị trường
tài chính thứ cấp gắn liền với việc sử dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến như
Internet Banking cũng gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
Công đoạn 3: Đầu tư hợp pháp, gọi tắt là “hoà nhập”. Đây là lúc bọn tội phạm sử
dụng tiền, tài sản đã được tẩy rửa để đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động sản
xuất kinh doanh dưới các hình thức như vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các
khoản vay cá nhân, cổ phiếu, tín phiếu, bất động sản...Việc đầu tư vào các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị đồng tiền phạm tội, trộn lẫn
đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có thể
xác định hành vi cấu thành tội phạm.
1.3. Phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Dưới đây là những phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
được hầu hết các quốc gia áp dụng. Những phương thức này được thực hiện dựa trên cơ
sở thực tế và những khuyến nghị FATF. Nó đồng thời cũng là những tiêu chí đánh giá
hiệu quả của công tác phòng chống rửa tiền. Dựa vào mức độ tuân thủ các phương thức
này ở mức độ nào mà chúng ta có những đánh giá tính hiệu quả của công tác phòng
chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Với những phương thức và thủ đoạn của tội phạm rửa tiền ngày càng tinh vi và
khó phát hiện thì hầu hết các quốc gia phát triển đều có các phương thức thực hiện
phòng chống rửa tiền như sau:
1.3.1. Ban hành luật phòng chống rửa tiền và các quy định hƣớng dẫn liên quan
đến phòng chống rửa tiền
16
Hoạt động rửa tiền hoạt động mang tính toàn cầu, xuyên quốc gia, tính chất và
hành vi gần như giống nhau giữa các quốc gia. Do đó, luật rửa tiền ở các nước có những
điểm chung như:
Luôn hướng đến việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF.
Liệt kê tất cả các tội danh liên quan đến rửa tiền, thường thì các nước sẽ tham
khảo khuyến nghị 1 của FATF về 20 tội danh được xem là có liên quan đến tội
rửa tiền.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng.
Quy định mức giao dịch phải báo cáo.
Các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ.
Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó phải đảm bảo luật phòng chống rửa tiền không mâu thuẫn với những
luật khác và có thể kết hợp với nhau. Đặc biệt là phải có sự đảm bảo rằng luật bí mật
thông tin ngân hàng không làm cản trở việc báo cáo các giao dịch đáng ngờ của các ngân
hàng.
1.3.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền
Có hai mô hình cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền, dù cơ quan này có
trực thuộc bộ máy chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung ương hay cơ quan
độc lập hoàn toàn với bộ máy chính phủ thì nhiệm vụ của nó cũng là giám sát việc thực
hiện luật phòng chống rửa tiền của quốc gia đó. Đầu mối để nhận các báo cáo giao dịch
đáng ngờ và đưa ra biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền. Là một cơ
quan chịu trách nhiệm nhận (và được phép yêu cầu) thông tin báo cáo, phân tích và
báo cáo tới các cơ quan có thẩm quyền những thông tin cần thiết để đấu tranh chống
hoạt động rửa tiền.
1.3.3. Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thƣơng mại
1.3.3.1. Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro
17
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại đều thiết lập cho mình những quy trình để
đánh giá, phân loại khách hàng. Thông thường các ngân hàng thương mại trên thế giới
thường phân khách hàng thành 3 loại : Khách hàng có rủi ro cao, khách hàng có rủi ro
trung bình và khách hàng có rủi ro thấp. Trên cơ sở đó ngân hàng có những cách quản lý
khác nhau đối với những nhóm khách hàng khác nhau.
1.3.3.2. Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ
Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa tiền
được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của từng quốc gia. Các dấu
hiệu bất thường này thường được nhận diện qua dấu hiệu định tính hoặc định lượng tùy
quy định của từng quốc gia.
Khi phát hiện các giao dịch đáng ngờ thì nhân viên có trách nhiệm phải báo cáo
tới cấp trên. Sau khi kiểm tra tính xác thực của các giao dịch này, thì thông tin này sẽ
được chuyển đến cho cơ quan phòng, chống rửa tiền nhưng phải đảm bảo nguyên tắc bí
mật thông tin khách hàng.
1.3.3.3. Lưu giữ hồ sơ về khách hàng
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm chỉnh việc lưu giữ hồ sơ, thông tin
về khách hàng. Các thông tin về nhận dạng khách hàng và thông tin giao dịch được lưu
giữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của cơ quan chức năng,
đặc biệt là hồ sơ liên quan đến công tác điều tra khởi tố.
Hồ sơ lưu giữ của khách hàng thường bao gồm các thông tin như : tên của khách
hàng và/ hoặc người thụ hưởng, địa chỉ, ngày, tính chất của giao dịch, giá trị của giao
dịch, số tài khoản và các thông tin liên quan khác mà tổ chức tài chính muốn ghi lại để
dễ quản lý và truy xuất.
Việc lưu giữ hồ sơ về khách hàng giữ vị trí quan trọng đối với cả việc ngăn ngừa
lẫn phát hiện các mục đích rửa tiền. Nếu một khách hàng tiềm năng biết rằng hồ sơ sẽ
được lưu trữ thì người đó có thể sẽ không cố gắng sử dụng tổ chức đó cho những mục
đích phi pháp. Lưu trữ hồ sơ cũng giúp phát hiện những đối tượng liên quan và cung cấp
những dấu vết về tài chính để giúp các cơ quan có thẩm quyền truy nã những đối tượng
18
liên quan.
1.3.4. Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng,
chống rửa tiền
Các khuyến nghị của FATF được các nước đánh giá cao, nó mang lại kết quả hữu
hiệu trong công tác phòng chống rửa tiền. FATF ban hành các khuyến nghị lần đầu tiên
vào năm 1990, sau vài lần sửa đổi bổ sung thì hiện tại FATF đã sở hữu 40 khuyến nghị
về chống rửa tiền và 9 khuyến nghị đặt biệt về chống tài trợ cho khủng bố. Tùy vào tình
hình kinh tế xã hội mỗi nước sẽ có những biến tấu khác nhau nhưng hầu như đều dựa
vào các khuyến nghị này.
Và hợp tác quốc tế là việc tất yếu trong hoạt động phòng chống rửa tiền vì rửa
tiền mang tính xuyên quốc gia. Do đó cần có sự liên hệ chặt chẽ với các quốc gia trên
thế giới cũng như các tổ chức quốc tế như FATF, APG, IMF … để hoạt động phòng
chống rửa tiền mang lại hiệu quả cao nhất.
1.3.5. Đào tạo các nhân viên chuyên trách về phòng chống rửa tiền
Hàng năm, các ngân hàng sẽ tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên
trách về phòng chống rửa tiền với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế về phòng, chống
rửa tiền. Việc làm này là hết sức cần thiết để năng cao trình độ chuyên môn, nâng cao ý
thức của đội ngũ cán bộ chuyên trách. Không những thế, các ngân hàng đã mở rộng đối
tượng đào tạo về phòng chống rửa tiền ra toàn bộ nhân viên trong hệ thống.
1.3.6. Ứng dụng công nghệ vào phòng chống rửa tiền
Trước thực trạng hoạt động rửa tiền qua các tổ chức tài chính, ngân hàng đang
diễn ra tinh vi mang quy mô quốc tế thì việc ứng dụng phần mền để chống rửa tiền là
giải pháp hữu hiệu hiện nay của các nước trên thế giới. Phần mền sẽ hỗ trợ rất nhiều cho
các tổ chức trong việc tuân thủ các quy định về phòng chống rửa tiền.
1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm ở
Việt Nam
1.4.1. Nguyên nhân và điều kiện phát triển nạn rửa tiền trên thế giới
19
Từ thập niên 1990, công nghiệp rửa tiền lại được thêm nhiều “cú hích” do các
thay đổi về thể chế, chính sách tài chính cũng như những tiến bộ về công nghệ và sự nỗi
lên của các tổ chức khủng bố.
Thứ nhất: Nới lỏng kiểm soát ngoại hối
Hầu hết mọi quốc gia đều nới lỏng kiểm soát ngoại hối, nhất là từ đầu thập niên
1990. Ở nhiều nước, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ và ngược lại là hoàn toàn tự do. Lượng
tiền hoán đổi hằng ngày tăng từ 590 tỷ USD năm 1989 lên 1.880 tỷ USD năm 2004. Đi
xa hơn, nhiều quốc gia đã chính thức sử dụng chung một đồng tiền ( đồng euro), hoặc
công nhận USD hay EURO như đồng nội tệ bán chính thức của họ. Một số công cụ tài
chính mới (như các loại hợp đồng chứng khoán), đôi khi rất phức tạp đã xuất hiện. Nhờ
thế, một lượng tiền (sạch hay bẩn) khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước
khác trong nháy mắt ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan công lực.
Thứ hai: Nền kinh tế thế giới hội nhập sâu
Tiến bộ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là từ 10 – 15 năm
gần đây. Các thị trường tài chính (đặc biệt là vốn) trở nên thông thoáng hơn. Số lượng
tiền lưu hành toàn cầu đã tăng gấp 3 lần ( từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến 19.900 tỷ
năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài
chính thì càng nhiều các cơ hội và cách thức để chuyển tiền phi pháp hơn, hoặc đưa
luồng tiền bẩn vào luồng tiền sạch.
Thứ ba: áp lực cạnh tranh thu hút vốn
Cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty phát hành
chứng khoán, các ngân hàng, các loại định chế tài chính trung gian khác. Đây cũng là sự
kiện mà những tay rửa tiền thích thú vì họ biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng hay
công ty chứng khoán sẵn sàng nhận tiền của họ mà không cần biết nguồn gốc của tiền
ấy.
Thứ tư: tác động của các cuộc cách mạng thông tin
Ở rất nhiều nước, ngân hàng là lĩnh vực đầu tiên đưa các tiến bộ công nghệ thông
20
tin vào ứng dụng sớm và nhanh nhất. Những thành quả của cuộc cách mạng thông tin đã
được những người rửa tiền tận dụng triệt để, trong khi đó ở lĩnh vực này các cơ quan
công lực tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi họ cần phối hợp nhiều địa phương hay
xuyên quốc gia.
Thứ năm: nhu cầu hợp thức hóa các tài sản bất hợp pháp
Theo số liệu của bộ nội vụ Nga, giữa thập kỷ 90 thu nhập của nhóm tội phạm là
2000 tỷ rúp. Dưới sự kiểm soát của các cơ cấu ngầm, ở nước này có hơn 40.000 chủ thể
kinh tế, trong đó có hơn 400 ngân hàng, 47 sở giao dịch chứng khoán, gần 15.000 doanh
nghiệp thuộc khu vực nhà nước, 42% tổng doanh thu bán hàng trên thị trường hàng tiêu
dùng là thuộc các chủ thể không đăng ký, khu vực kinh tế ngầm ở Nga chiếm khoảng
40-60% nền kinh tế đất nước.
Trong lĩnh vực hợp thức hóa các nguồn thu nhập tội phạm hiện có không dưới
3.000 nhóm tội phạm được hợp thức hóa bằng cách đổi ra ngoại tệ mạnh rồi chuyển ra
nước ngoài. Theo đánh giá của Ngân hàng trung ương Nga, lượng tiền chuyển ra khỏi
nước Nga là không dưới 1 tỷ USD/tháng. Theo các đánh giá khác, việc chuyển vốn bất
hợp pháp ra khỏi nước Nga trong những năm cải cách là 100-300 tỷ USD. Kết quả là
năm 1996 tình trạng chảy vốn của Nga đã cao gấp 10 lần đầu tư trực tiếp vào Nga trong
năm đó. Theo ước tính trong 5 năm, ngân sách Nga đã bị mất khoảng 60 tỷ USD. Điều
hết sức đáng lo ngại là hiện có hơn 60.000 công ty hải ngoại do người Nga thành lập.
Theo ước tính của các chuyên gia nghiên cứu thì trong năm 2008 giá trị chợ đen
thu được từ ma túy (100 USD/ gram) của Colombia đã lên tới hơn 300 tỷ USD. Phần lớn
số tiền khổng lồ này lại được rửa qua hệ thống ngân hàng Mỹ và chỉ có khoảng hơn 7 tỷ
USD (hơn 2%) là được giữ lại tại đế chế ma túy đình đám thế giới này
Thứ sáu: Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Chính khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm sụp đổ hàng loạt các ngân hàng lớn
trên thế giới và nổi lên là cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu. Lợi dụng việc các quốc gia
châu Âu đang vật lộn với khủng hoảng tài chính, hoạt động rửa tiền tại châu lục này trở
nên nhộn nhịp trong vài năm trở lại đây. Chính cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã
21
tạo thuận lợi cho các tổ chức mafia thâm nhập vào lĩnh vực tài chính bằng cách cung cấp
những khoản vay với nhiều điều kiện “ưu đãi” hơn so với các nhà băng tới tay người sử
dụng vốn.
Thứ bảy: Nổi lên của nhiều tổ chức khủng bố
Từ sau sự kiện khủng bố 11/9 thì một câu hỏi được đặt ra làm sao các tổ chức
khủng bố tồn tại và hoạt động lớn mạnh như vậy được? Phải chăng nó được tài trợ bởi
nguồn tiền rất lớn từ khắp nơi trên thế giới, và không loại trừ khả năng tiền này là tiền
hoạt động phi pháp mà có.
1.4.2. Xu hƣớng rửa tiền hiện nay
1.4.2.1. Đầu tiên là sự dính líu ngày càng nhiều các chuyên gia rửa tiền trong hoạt
động rửa tiền
Các tổ chức tội ác ngày càng có xu hướng chuyển giao nhiệm vụ rửa tiền cho các
chuyên gia rửa tiền bởi vì những phương pháp cần sử dụng để lách luật và tránh bị phát
hiện rất tinh vi và phức tạp. Ngày nay, số lượng luật sư, người giao dịch chứng khoán,
mua bán bất động sản, cố vấn thuế vụ, nhân viên kế toán tham gia vào đường dây này
ngày càng tăng. Các chuyên gia này không chỉ giỏi che dấu gốc gác của tiền phi pháp
mà còn có thể sử dụng số tiền đó đầu tư vào bất động sản, cổ phiếu – trái phiếu hay các
lĩnh vực kinh doanh hợp pháp khác. Thù lao trả cho các chuyên gia rửa tiền ngày càng
tăng từ 6 – 8 % hồi đầu thập niên 80 lên 20% vào giữa thập niên 90.
Năm 1996, nhà kinh tế học Franklin Jurado xuất thân từ trường Harvard danh giá
đã đi tới… nhà tù vì rửa tiền 36 triệu USD cho trùm ma túy Colombia Jose Santacruz-
Londono trong những năm cuối thập niên 80 và đầu 90 của thế kỷ trước.
1.4.2.2. Toàn cầu hóa hoạt động rửa tiền
Xu hướng này bắt nguồn từ hai nhân tố:
Thứ nhất: Việc thực thi pháp luật chống rửa tiền ở một số nước chưa nghiêm
Sự hội nhập toàn cầu của thị trường tài chính và các nỗ lực của bọn tội phạm
nhằm tránh sự phát hiện và tịch thu các tài sản bất minh bằng cách lợi dụng các nước
22
thiếu pháp luật chống rửa tiền hoặc pháp luật chống rửa tiền chưa phát triển và việc thực
thi pháp luật chưa nghiêm. Đáng tiếc là những nước có nền kinh tế chưa phát triển hoặc
mới nổi lại bị liệt vào danh sách này.
Thứ hai: Rửa tiền thông qua ngoại thương quốc tế
Bằng cách quốc tế hoá hơn nữa hoạt động tội ác các chuyên gia rửa tiền thực tế
đang lợi dụng xu hướng toàn cầu hoá để đầu tư vào hàng hoá và dịch vụ tài chính hợp
pháp. Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là thể hiện tính toàn cầu
hoá nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer
price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia.
1.4.2.3. Áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động rửa tiền
Ở những năm 90 có thể phỏng đoán được mức độ rửa tiền thông qua nhu cầu về
tiền trong nền kinh tế. Hiện nay các biện pháp rửa tiền đã khác, chúng được chuyển từ
hệ thống ngân hàng và lĩnh vực tiền mặt sang thị trường tài chính với công cụ phi tiền
mặt như trao đổi hàng hoá, trao đổi vũ khí để lấy ma túy và nhiều khi giao dịch được
thực hiện qua internet. Những trang web đen như sex, cờ bạc, cá cược… thường được
dùng để rửa tiền vì các cơ quan công lực khó có thể truy ra tiền ấy từ đâu đến và về tay
ai. Những xu hướng như vậy đang gây khó khăn nghiêm trọng trong công tác phòng
chống rửa tiền. Loại giao dịch này chỉ thông qua chữ ký điện tử để nhận biết khách hàng
cho nên khó xác định chính xác nguồn gốc của tiền giao dịch, chủ nhân thực sự của nó...
1.4.2.4. Ngày càng nhiều ngân hàng tham gia vào việc rửa tiền
Hiện nay, ngày càng nhiều các ngân hàng bị điều tra liên quan đến hoạt động rửa
tiền. Điều đó không những ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính các ngân hàng đó mà
còn ảnh hưởng lòng tin của khách hàng đến hệ thống ngân hàng nói chung.
Với những vi phạm khác nhau nhưng đều liên quan đến tội danh rửa tiền, các
ngân hàng được nêu trong bảng 1.1 đã bị chính phủ Mỹ phạt với số tiền khổng lồ. Ngân
hàng HSBC phải chịu mức phạt hơn 1,9 tỷ USD, chiếm 8,5% lợi nhuận trước thuế vì
mối quan hệ của ngân hàng này với Cuba và các băng nhóm ma túy ở Mecico. Đồng thời
ngân hàng này còn liên quan đến các hỗ trợ tài chính cho Iran, Sudan, Myanmar và
23
Lybia.
Cùng với Ngân hàng HSBC thì Ngân hàng Standard Chartered cũng bị chính phủ
Mỹ cáo buộc liên quan đến hoạt động rửa tiền. Theo thông báo của Sở dịch vụ tài chính
(DFS) bang New York ngày 06/08/2012 thì Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh
New York vừa bị nhà chức trách Mỹ phát hiện che giấu các giao dịch trị giá 250 tỷ USD
với Iran. Với việc vi phạm nghiêm trọng lệnh cấm của chính phủ Mỹ, ngân hàng này
đang đối diện nguy cơ bị tước giấy phép. Theo đó ngân hàng nước Anh bị cáo buộc đã
"bí mật phối hợp" với chính phủ Iran và che giấu khoảng 60.000 giao dịch bí mật phi
pháp để thu về hàng trăm triệu USD tiền phí trong quãng thời gian gần 10 năm. Từ tháng
8/2012 – 12/2012, số tiền mà Ngân hàng Standard Chartered phải nộp phạt là 667 triệu
USD, chiếm 9,1% lợi nhuận trước thuế của ngân hàng này.
Bảng 1.1 : Những ngân hàng bị chính phủ Mỹ cáo buộc liên quan đến rửa tiền với số tiền
phạt lớn nhất
Ngân hàng Ngày Nƣớc có liên quan trong cáo buộc
Số tiền phạt (triệu USD)
HSBC 1.921 Tháng 12/2012 Cuba, Iran, Libya, Mexico, Myanmar và Sudan
Stardard Chartered ING Tháng 8 và 12/2012 667 619 Tháng 6/2012
536 Tháng 12/2009 Iran, Libya, Myanmar và Sudan Cuba và Iran Cuba, Iran, Libya, Myanmar và Sudan
500 Tháng 5/2010 Iran và Libya
Credit Suisse RBS (ABN AMRO) Lloyds Banking Group Barclays 350 Tháng 1/2009 298 Tháng 8/2010 Iran và Sudan Cuba, Iran, Myanmar và Sudan
Nguồn: Tổng hợp của tạp chí The Economist năm 2012
1.4.3. Phòng, chống rửa tiền ở một số nƣớc trên thế giới và bài học rút ra cho Việt
24
Nam
1.4.3.1. Một số tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền trên thế giới
Tổ chức chống rửa tiền quốc tế (FATF)
Vào năm 1989 các nước G7 đã thành lập lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh vực tài
chính FATF (Financial Action TasK Force). FATF được xem như là một công cụ hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền: có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp
chống rửa tiền, theo dấu các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải
là thành viên của tổ chức này.
Thành tích lớn nhất của tổ chức này là đưa ra 40 kiến nghị nhằm chống lại sự lạm
dụng hệ thống tài chính để rửa tiền buôn lậu ma túy và 9 khuyến nghị đặc biệt về chống
khủng bố. Những khuyến nghị này đã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho việc phát hiện,
ngăn ngừa rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố trên toàn thế giới.
FATF còn có một nhiệm vụ nữa là công bố danh sách các nước và vùng lãnh thổ
không cam kết hoặc không hưởng ứng tích cực chống lại nạn rửa tiền. Ngay khi danh
sách này được công bố lần đầu tiên vào tháng 6/2000, 15 nước và lãnh thổ trong danh
sách không hợp tác đã nhanh chóng hành động để thực hiện những chuẩn mực do FATF
đề ra. Đây là một trong những cảnh báo cho những quốc gia nào không có thiện chí
trong nổ lực hợp tác quốc tế chống lại rửa tiền và khủng bố. Và mới đây FATF đã ghi
thêm tên Ecuador, Yemen và Việt Nam vào danh sách những nước chưa có đủ tiến bộ
trong việc đối phó với những hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền (APG)
APG được thành lập vào năm 1997, là một tổ chức mang tính tự nguyện và hợp
tác trong lĩnh vực chống rửa tiền. Hiện nay, APG đã có 40 thành viên và 20 quan sát
viên. APG có 5 chức năng chính là:
(1) Đánh giá việc thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và
chống tài trợ khủng bố của các thành viên thông qua một chương trình đánh giá chéo lẫn
nhau giữa các quốc gia thành viên;
25
(2) Phối hợp song phương với các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo và hỗ trợ kỹ
thuật trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để nâng cao việc chấp hành đầy đủ các
tiểu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của các thành viên;
(3) Tích cực tham gia và mở rộng quan hệ hợp tác với hệ thống các tổ chức chống
rửa tiền quốc tế, đặc biệt là với FATF và tổ chức vùng kiểu FATF khác;
(4) Nghiên cứu, phân tích những thủ đoạn mới về rửa tiền và xu hướng chống tài
trợ khủng bố, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cho các tổ chức thành viên APG;
(5) Thực hiện tốt vai trò thành viên tích cực trong FATF để góp phần xây dựng
chính sách và các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
1.4.3.2. Tình trạng rửa tiền ở các nước
Chuyển từ lĩnh vực tiền mặt và hệ thống ngân hàng sang các thị trường tài chính
với các công cụ phi tiền mặt
Thông thường rửa tiền bẩn do những băng nhóm tội phạm có tổ chức thực hiện từ
lợi nhuận khổng lồ thu từ buôn bán ma túy hay buôn lậu, gian lận thương mại….Thế
nhưng, thời gian gần đây những tổ chức khủng bố quốc tế cũng thực hiện các biện pháp
rửa tiền hết sức tinh vi. Đây thật sự là thách thức đối với an ninh thế giới. Thêm vào đó
mối tương quan giữa nhu cầu về tiền đã có những thay đổi đáng kể. Vào những năm 90
thì tội phạm tăng làm cho nhu cầu tăng nhưng hiện nay điều đó không còn đúng. Đó là
do sự thay đổi phương thức rửa tiền của bọn tội phạm, chúng chuyển từ lĩnh vực tiền
mặt và hệ thống ngân hàng sang các thị trường tài chính với các công cụ phi tiền mặt
như trao đổi hàng, trao đổi vũ khí lấy ma túy và nhiều khi các giao dịch được thực hiện
với sự hỗ trợ của Internet. Những xu hướng như vậy đang gây khó khăn nghiêm trọng
cho công tác phòng chống rửa tiền
Tăng lượng tiền rửa hàng năm
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vừa đưa ra con số dự báo, trong năm 2004 tổng số tiền
bẩn được tẩy rửa dưới nhiều hình thức khác nhau có thể lên đến 1.000 tỉ USD. Trong khi
đó, tổng số tiền bẩn được rửa trong hai năm 2002 và 2003 chỉ xấp xỉ ở mức 1.200 tỉ
26
USD, còn trước đó mỗi năm chỉ ở mức 500 tỉ USD. Sở dĩ số tiền bẩn được tẩy rửa tăng
vọt lên trong thời gian gần đây là có sự nhúng tay vào của những tổ chức khủng bố quốc
tế. Tính riêng nước Mỹ, số tiền rửa có thể chiếm từ 20 – 20% (từ 100-300 tỉ USD) toàn
thế giới, các nước Châu Âu cũng chiếm một lượng khá lớn. Pháp, Nga, Italia là những
quốc gia có nhiều băng nhóm tội phạm quốc tế hoạt động nên số tiền bẩn rửa hàng năm
từ 10-20 tỉ USD. Cũng trong báo cáo này thì Châu Á có mức độ rửa tiền thấp, nhưng
theo đánh giá thì Nhật là nơi rửa tiền lý tưởng của bọn tội phạm.
Rửa tiền ở Trung Quốc ngày càng tăng cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế
Hiện nay, Trung Quốc được xem là một trong ba trung tâm kinh tế của thế giới.
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế như vũ bão, Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh
đáng gờm của Mỹ và Nhật. Tuy nhiên Trung Quốc cùng quá trình toàn cầu hóa nền kinh
tế đã tạo điều kiện cho những hoạt động phi pháp như trốn thuế, tham nhũng hay gian
lận tài chính sinh sôi. Thiếu Cát Bình, giáo sư đại học Nhân Dân Trung Quốc tại Bắc
Kinh cho biết trong những năm gần đây rửa tiền thông qua tham nhũng ngày càng trở
nên phổ biến. Trong vòng 3 năm qua, đã có ít nhất 73 tỉ USD được chuyển từ Trung
Quốc ra nước ngoài thông qua hình thức rửa tiền, trong số đó tới 60 tỉ USD là tiền tham
nhũng.
Một ví dụ điển hình là trường hợp của Lai Xương Tỉnh, một trong những đối
tượng Trung Quốc truy nã đã bị giam giữ tại Canada. Lai từng là chủ tịch công ty
Nguyên Hoa, buôn lậu 6 tỉ USD hàng cao cấp, xe hơi, dầu lửa và nguyên liệu thô từ
nước ngoài vào Trung Quốc thời gian đầu thập niên 90 thông qua thành phố cảng Hạ
Môn, Tỉnh Phúc Kiến. Lai đã thuê người đưa tiền có được do buôn lậu tại Trung Quốc
bỏ vào tài khoản ngân hàng của những nhân vật đổi tiền tại Hồng Kông. Số tiền này sau
đó được rửa sạch bằng cách chuyển sang tài khoản của nhiều công ty khác nhau.
Khủng hoảng nợ ở Châu Âu tạo điều kiện thuận lợi cho bọn tội phạm rửa tiền
Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ Châu Âu tạo điều kiện
cho hoạt động rửa tiền tại đây tăng mạnh. Theo Ngân hàng Trung ương Italia, trong năm
2010-2011, các vụ giao dịch tài chính có dấu hiệu rửa tiền tăng 147% so với hai năm
27
trước đó.
1.4.3.3. Luật phòng chống rửa tiền ở các nước
Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ và
cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá nhân,
pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý hay cố ý tiếp
tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì
vậy, luật ngân hàng các nước này quy định: Mọi nhân viên ngân hàng khi tiếp nhận các
khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng khai báo nguồn gốc tiền,
chủ sở hữu thực … phục vụ thông tin phòng chống rửa tiền. Nhân viên nào không thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các khoản tiền bất hợp pháp, cơ quan
pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong các tội rửa tiền vì mất cảnh giác,
không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ cho rằng họ không biết đây là tiền có
nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham gia vào quá trình rửa tiền.
Do đặc thù của các nước khác nhau, cơ sở vật chất và hạ tầng không giống nhau ở
các nước nên ngoài những điểm cơ bản trong luật phòng chống rửa tiền thì chúng cũng
có những điểm riêng biệt ở các nước khác nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu luật phòng chống
rửa tiền ở một số nước từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác này ở Việt Nam.
(1) Luật phòng chống rửa tiền ở Mỹ và hiệu quả đạt được
Luật phòng chống rửa tiền ở Mỹ
Mỹ là nước có luật pháp về phòng chống rửa tiền toàn diện và khắc khe nhất trên
thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo. Một
trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng chống rửa tiền là luật bí mật
ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của BSA là tạo ra một
văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi trong việc điều tra tội phạm rửa tiền, trốn thuế…
Bằng cách yên cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những chứng từ liên quan đến giao
dịch trên 10.000 USD.
Luật chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của các đối tượng, cá nhân đến các tổ chức
28
là khi phát hiện có sự tham gia của bất kì các hoạt động rửa tiền nào và là căn cứ để tịch
thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không tuân thủ
những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng chống rửa tiền của các nhân
viên, các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự. Về mặt dân sự, nhân viên ngân
hàng có thể bị phạt với 100.000 USD cho việc cố tình vi phạm những quy định về báo
cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự, người vi phạm có thể bị phạt tới
250.000 USD, hoặc 5 năm tù hoặc cả hai.
Hiệu quả đạt được luật phòng chống rửa tiền
Số trường hợp kết án về tội rửa tiền hàng năm ở Mỹ lên đến hàng nghìn trường
hợp, con số này thể hiện sự nỗ lực rất lớn của chính phủ trong công tác phòng, chống rửa
tiền và hiệu quả của luật phòng chống rửa tiền ở Mỹ.
Biểu đồ 1.1: Số Trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2006 –2011
Nguồn: FATF, APG (2012), Mutual Evaluation Report on Anti-money Laundering
and combating the financing of terrotirsm in USA
Với luật pháp khắc khe, các ngân hàng và các tổ chức liên quan phải có trách
nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch vượt ngưỡng….cho mạng lưới chống tội
phạm tài chính (FinCEN). Năm 2011, tổ chức này nhận gần 14 triệu báo cáo trong đó
29
giao dịch đáng ngờ chiếm khoảng 5% trong tổng số báo cáo nhận được.
Biểu đồ 1.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ (SAR) nhận được
từ năm 2006 - 2011
Nguồn: FATF, APG (2012), Mutual Evaluation Report on Anti-money Laundering
and combating the financing of terrotirsm in USA
Mỹ rất mạnh tay trong việc xử phạt các ngân hàng vi phạm các quy định về
phòng chống rửa tiền
Một trong những vụ lớn nhất và nổi tiếng nhất có liên quan đến việc ngân hàng bị
do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là trường hợp
ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn trong việc lưu
giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song ngân hàng Boston vẫn tiếp tục giao dịch
với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả ngân hàng đại lý mà không hề lưu giữ chứng
từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng hơn, các chi nhánh của các ngân hàng Boston đã
tiếp tục giao dịch với những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã
thực hiện những phi vụ kinh doanh bất động sản, những nhân viên ngân hàng Boston đã
không báo cáo và lưu giữ chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không được
loại trừ theo quy định và luật lệ về tài chính. Khi sự việc bị phát hiện ngân hàng Boston
đã bị kết án và còn bị phạt 500.000 USD.
30
Tuy nhiên vẫn có những khe hở trong công tác phòng chống rửa tiền ở Mỹ
Theo nghiên cứu của hai nhà kinh tế học tại đại học Andes trong năm 2008 cho
rằng có khoảng 298 tỷ USD lợi nhuận buôn bán ma túy tại Columbia được rửa qua hệ
thống ngân hàng Mỹ.
(2) Luật phòng chống rửa tiền ở Anh
Tương tự như ở Mỹ, 12/1990 Anh ban hành một loạt các văn bản liên quan đến
việc phòng chống rửa tiền. Trong đó hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và
chấm dứt các hoạt động rửa tiền, tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng
trong việc cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch ngờ. Theo
đó, các ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể,
kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông
tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác
cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên, bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu
giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra. Hướng dẫn chỉ ra rằng
các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một cách toàn diện với các cơ quan
pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan này các giao dịch đáng ngờ. Trong
khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm, tổ
chức môi giới ….cũng phải thực hiện theo đúng hướng dẫn này.
(3) Luật phòng chống rửa tiền ở Nga
Ngày 31/10/2002, Nga tiến hành sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền. Lần sửa đổi
này chỉ tiến hành xử lý trên phương diện kỹ thuật lập pháp, thay đổi tên gọi của đạo luật
thành Luật Phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, đưa thêm cụm từ “chống
tài trợ khủng bố” vào tên các chương 2, chương 4 cũng như các điều, khoản cụ thể có
liên quan. Ngoài ra, trong điều 5, có sửa đổi và mở rộng phạm vi của các tổ chức tài
chính, cụ thể bao gồm 8 loại tổ chức sau đây: tổ chức tín dụng; cá nhân tổ chức chuyên
môn trên thị trường chứng khoán; công ty bảo hiểm và các công ty cho thuê tài chính;
đơn vị bưu chính và thông tin liên bang; công ty cầm đồ, thế chấp; tổ chức mua bán kim
loại quý, đá quý; các công ty tổ chức đua ngựa, xổ số và các loại trò chơi có thưởng
31
khác; các cơ quan quản lý các quỹ đầu tư và các quỹ trợ cấp phi chính phủ.
Tiếp theo, ngày 28/7/2004, nước Nga thông qua Đạo luật số 88-FZ, tiếp tục sửa
đổi lần thứ hai Luật Phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Tại Điều 5 đã quy
định thêm loại tổ chức tài chính thứ 9 là tổ chức trung gian môi giới mua bán bất động
sản. Luật sửa đổi cũng bổ sung thêm quyền từ chối mở tài khoản của các tổ chức tài
chính, đồng thời bổ sung Khoản 7.1 quy định “quyền và nghĩa vụ của một số cá nhân
khác”. Theo đó, những người hành nghề luật sư, công chứng viên, những nhân viên cung
cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán và các dịch vụ pháp lý khác, khi họ đại diện danh
nghĩa của khách hàng, hoặc vì quyền lợi của khách hàng mà tiến hành các hoạt động liên
quan đến tiền, tài sản, cũng phải thực hiện các nghĩa vụ nhận biết khách hàng, thiết lập
cơ chế kiểm soát nội bộ, nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ... như quy định tại Điều 7 đối với các tổ
chức tài chính.
Lần sửa đổi cuối cùng gần đây nhất (năm 2008, Luật số 275-FZ) đã bổ sung thêm
quy định về nhận biết khách hàng là những người có ảnh hưởng chính trị vào trong các
quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.
Có thể thấy, trải qua một quá trình hơn 10 năm trong lịch sử lập pháp về chống
rửa tiền, các quy định về PCRT của Liên bang Nga không ngừng được sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện, đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước, đồng thời đưa
hệ thống pháp luật của nước Nga về chống rửa tiền đạt tới các chuẩn mực quốc tế.
(4) Luật phòng chống rửa tiền ở một số nước
Nước Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tương tự như tại Mỹ.
Bất cứ một giao dịch tiền tệ nào tương đương hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải báo
cáo. Những dữ liệu này sau đó được truyền tự động tới các cơ quan báo cáo giao dịch
tiền tệ.
Tại Nhật, các ngân hàng được yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ
trong nước vượt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vượt quá 5 triệu yên.
Hơn nữa, trong trường hợp liên quan đến ma túy, tòa án có thể kết án ngân hàng và các
tổ chức tín dụng về tội rửa tiền.
32
Các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Myanma, Indonesia, Philipin
đều có các văn bản về phòng chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau.
Các nước này cũng thành lập những cơ quan chuyên trách, chuyên xử lý các vấn đề liên
quan đến phòng, chống rửa tiền như AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức năng
chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến tài sản, liên quan đến buôn bán ma
túy và rửa tiền. Có quốc gia chỉ rõ những hành vi phạm tội cụ thể như: pháp luật
Malaixia liệt kê 18 tội danh, Thái Lan 24 tội danh, Ôtxtraylia 180 tội danh… Có quốc
gia (như ở Việt Nam) không xác định rõ nguồn tiền được sinh ra từ hành vi phạm tội nào
cụ thể, miễm đó là thu nhập từ hành vi phạm tội.
1.4.3.4. Những bài học có thể rút ra cho Việt Nam
Một là: Cần phải kết hợp một cách hợp lý giữa việc ban hành và thực thi pháp
luật nghiêm ngặt và ngăn ngừa rủi ro
Mặc dù khuôn khổ pháp luật về phòng, chống rửa tiền của nước Anh được coi là
rất nghiêm ngặt, nhưng đa số những người được hỏi lại cho rằng, khuôn khổ này không
hiệu quả hơn của các nước khác trong việc nhận biết và phòng ngừa rửa tiền. Vì thế, bên
cạnh cách tiếp cận truyền thống dựa trên các quy định pháp luật ngặt nghèo, trao nhiều
quyền cho các cơ quan có thẩm quyền (rule – based approach) thì gần đây diễn ra xu
hướng chuyển sang cách tiếp cận ngăn chặn rủi ro (risk - based approach) ở cả cấp độ
quốc tế và quốc gia. Theo đó, các nguồn lực được phân bổ theo độ rủi ro – lĩnh vực, hoạt
động nào có nguy cơ, rủi ro diễn ra rửa tiền cao hơn thì phân bổ nguồn lực lớn hơn để
theo dõi, giám sát. Theo cách tiếp cận này, mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan nhà
nước hữu quan và các định chế tài chính có ý nghĩa lớn. Các cơ quan nhà nước định ra
những tiêu chí cho các định chế tài chính rà soát, giám sát khách hàng, đồng thời quy
định các nghĩa vụ bắt buộc như nhận diện khách hàng, báo cáo về các giao dịch đáng
ngờ, thiết lập mạng lưới giữa các định chế tài chính, mở rộng phạm vi các tổ chức, cá
nhân phải thực hiện các nghĩa vụ đó gồm có cả tư vấn thuế, kế toán viên, nhân viên bất
động sản, môi giới nghệ thuật, luật sư, casino. Theo đánh giá của các chuyên gia, chiến
lược này dẫn đến những kết quả tốt hơn đối với hệ thống pháp luật quốc gia về chống
rửa tiền.
33
Hai là : Gắn phòng chống rửa tiền với chống tài trợ khủng bố
Việc đưa rửa tiền và tài trợ khủng bố vào điều chỉnh trong cùng một đạo luật sẽ
tạo thành một khung pháp lý thống nhất cho hai loại tội phạm có liên quan chặt chẽ, hình
thức, thủ đoạn tương đồng, đồng thời, khi xây dựng Luật Chống khủng bố sẽ tránh được
việc lặp lại không cần thiết các quy định tương tự để phòng, chống tài trợ khủng bố như:
nhận biết khách hàng, báo cáo các giao dịch đáng ngờ, phong tỏa, tịch thu tài sản, hợp
tác quốc tế và các quy định liên quan đến chuyển tiền điện tử, chuyển tiền thay thế giống
như các quy định về phòng, chống rửa tiền.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã đưa ra cái nhìn khái quát về rửa tiền, các phương thức
phòng chống rửa tiền qua ngân hàng trên thế giới, các hành vi thủ đoạn rửa tiền ngày
càng tinh vi hiện nay. Thêm vào đó tác giả còn đưa ra đươc xu hướng rửa tiền trên thế
giới, đồng thời đưa ra kinh nghiệm phòng chống rửa tiền của các nước trên thế giới
thông qua luật rửa tiền của nó. Từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hình thành
khung pháp lý
Qua thực tế cho thấy ngân hàng vẫn là cửa ngõ chính của các hoạt động rửa tiền
trên thế giới. Do đó Ngân hàng Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành công cụ
rửa tiền hữu hiệu của bọn tội phạm rửa tiền thế giới. Thực trạng phòng, chống rửa tiền
qua hệ thống ngân hàng Việt Nam được trình bày trong chương 2 sẽ làm rõ vấn đề này.
34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam
Trong tình hình khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu kinh tế nước ta vẫn giữ
được tốc độ tăng trưởng khá, 5,89% là mức tăng trưởng đạt được 2011. Lạm phát được
kiềm chế ở mức thấp, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh từ khi Việt Nam là thành viên
của WTO, kiều hối không ngừng tăng qua các năm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì nền kinh tế Việt Nam còn nhiều thách
thức và khó khăn như nền kinh tế sử dụng tiền mặt, nguồn kiều hối chưa được kiểm soát,
công tác cổ phần hóa không đạt hiệu quả cao. Thêm vào đó tình hình an ninh xã hội
không được đảm bảo, sự nổi lên của nhiều băng nhóm tội phạm.
2.1.1. Kiều hối tăng qua các năm
Biểu đồ 2.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt nam giai đoạn 2006-2012 (Tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tính đến 2011 có khoảng 4 triệu người Việt đang làm việc, sinh sống và học tập ở
nước ngoài. Hằng năm số kiều bào này vừa chuyển tiền trợ giúp thân nhân trong nước
vừa chuyển vốn về nước đầu tư kinh doanh. Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm
2012 kiều hối chuyển về đạt hơn 10 tỷ USD, tăng 11% so với cả năm 2011.
35
Biểu đồ 2.2: Danh sách 10 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới năm 2011
(tỷ USD)
Nguồn : World Bank (2011), Migration and Development Brief 17
Với những chính sách kiều hối thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế thì
Việt Nam được lọt vào top 10 nước những nước nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới năm
2011. Người nhận kiều hối không phải đóng thuế thu nhập, giá trị kiều hối chuyển về
không hạn chế, các đơn vị chi trả kiều hối có dịch vụ giao tận nhà cho người thụ
hưởng… cho phép thu hút lượng kiều hối chuyển về nước liên tục tăng nhanh.
Tuy nhiên nguồn tiền này thường rất khó xác định nguồn gốc, do đó đây là kênh
để các bọn tội phạm rửa tiền.
2.1.2. Tình trạng tham nhũng chƣa đƣợc đẩy lùi
Tình hình tham nhũng ở Việt Nam khá bổ biến và nghiêm trọng. Theo đánh giá
của tổ chức minh bạch quốc tế thì Việt Nam thuộc nhóm nước có tình trạng tham nhũng
nghiêm trọng. Cũng theo tổ chức này, tham nhũng trong lĩnh vực cảnh sát chiếm 82%,
cán bộ công chức nhà nước 61%. Trước thực trạng đó thì nhu cầu hợp thức hóa nguồn
36
tiền do tham nhũng là rất cao.
2.1.3. Cổ phần hóa ngân hàng nhà nƣớc
Hiện Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, trong đó có 3 ngân hàng
Vietcombank, Vietinbank và MHB đã cổ phần hóa xong , BIDV đang trong những bướ c cuố i cù ng còn Agribank cũng đang tích cực tiến hành cổ phần hóa.
Khi cổ phần hóa các ngân hàng sẽ được phát hành chứng khoán huy động vốn
trên thị trường chứng khoán. Đây là kênh huy động rất tốt nhưng tiềm ẩn rủi ro bị lạm
dụng rửa tiền và thâu tóm.
Mặc khác, vì mục tiêu lợi nhuận các ngân hàng này sau khi cổ phần hóa có thể
huy động bằng mọi giá, không quan tâm đến nguồn gốc của tiền.
2.1.4. Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng
Tội phạm ma túy, mại dâm, buôn lậu, cờ bạc…nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên
quốc gia hoạt động ngày càng tinh vi. Những loại tội phạm này có nhu cầu rửa tiền rất
lớn nhằm hợp thức hóa nguồn thu nhập do phạm pháp mà có.
2.2. Thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.2.1. Đa dạng về hình thức sở hữu
Hệ thống ngân hàng Việt Nam có đa dạng về sở hữu : sở hữu nhà nước, tập thể,
liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng có sự đa
dạng về hình thức: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách,
quỹ tín dụng…Theo thống kê của ngân hàng nhà nước hiện nay có 1 ngân hàng chính
sách xã hội, 1 ngân hàng phát triển, 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 37 ngân hàng
thương mại cổ phẩn, 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 17 công ty tài chính, 12 công
ty cho thuê tài chính, gần 1.100 quỹ tín dụng cùng 60 văn phòng đại diện của ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam.
Nếu xét về tỷ trọng tổng tài sản so với toàn hệ thống ngân hàng thương mại nhà
nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng giảm qua các năm, từ 62,3% năm 2006
xuống còn 43,3% năm 2012.
37
Sự tăng lên về tỷ trọng tài sản của khối ngân hàng cổ phần từ 22,8% năm 2006
lên 42,5% năm 2012 phần nào phản ảnh được xu hướng cổ phần hóa trong lĩnh vực ngân
hàng nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Đó là xu hướng tất yếu để phát triển nền
kinh tế. Tuy nhiên, vì mục tiêu chính của khối ngân hàng này là lợi nhuận nên thường
bất chấp các quy định về rửa tiền để tiếp nhận các nguồn vốn không rõ nguồn gốc, giúp
các đối tượng rửa tiền lách các quy định để nhằm che dấu nguồn gốc của tiền bẩn. Đồng
thời giúp các đối tượng này những đồng tiền bẩn mà không để lại dấu vết nào.
Bảng 2.1: Tỷ trọng tổng tài sản của các NHTM so với toàn hệ thống (%)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
NHTM nhà nước 62,3 53,3 51,48 49,4 48,2 39,7 43,3
NHTM cổ phần 22,8 31,5 32,45 33,2 34,7 45,4 42,5
Chi nhánh NH Nước Ngoài, 10,9 10,8 11,51 12,79 13,27 11,11 10,92
NH liên doanh
Khác 4 4,4 4,56 4,61 3,83 3,79 3,28
Nguồn: Thống kê các chỉ tiêu cơ bản của NH Nhà Nƣớc
2.2.2. Tăng trƣởng tín dụng
Bảng 2.2: Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
NHTM Nhà nước 67,1 59,7 58,2 54,1 51,36 51,3 51,8
NHTM CP 19,6 27,5 26,54 32 35,14 35,5 34,8
Chi nhánh NH Nước 9,69 9,76 11,57 9,1 9 8,6 8,5
Ngoài, NH liên doanh
Khác 3,61 3,04 3,69 4,8 4,5 4,6 4,9
Nguồn: Báo cáo của ngân hàng nhà nƣớc và ngân hàng thƣơng mại từ 2006 – 2012
38
Trong vòng 10 năm, từ năm 2000-2010, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân
hàng: 29,45%/năm, tương đương 116% GDP vào cuối năm 2010. Tính đến cuối tháng
12/2012 tổng dư nợ tín dụng đạt hơn 3,03 triệu tỉ đồng gấp 16 lần so với năm 2000.
Trên đây là thị phần tín dụng phân theo từng loại hình tổ chức tín dụng, trong đó
ngân hàng thương mại nhà nước chiếm thị phần lớn nhất nhưng có xu hướng giảm qua
các năm.Tăng trưởng tín dụng có xu huớng giảm trong những năm gần đây. Tính đến
cuối năm 2012, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 7%, giảm 35,8% so với năm 2011.
Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tạo
động lực cho các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận từ những nguồn khác và những món lợi
khổng lồ từ việc tiếp nhận nguồn vốn bẩn sẽ được các ngân hàng nghĩ đến.
2.2.3. Áp lực tăng vốn điều lệ của các ngân hàng
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP, hạn
cuối của lộ trình tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ vào cuối năm 2010. Trong bối cảnh huy
động vốn khó khăn, áp lực tăng vốn đối với những ngân hàng nhỏ thật sự rất khó khăn.
Các ngân hàng có thể huy động vốn bằng nhiều cách như phát hành cổ phiếu, huy động
cổ đông lớn trong nước, tìm đối tác chiến lược nước ngoài. Trước áp lực đó các ngân
hàng đã tận dụng tất cả nguồn vốn có thể để đáp ứng cuộc chạy đua tăng vốn điều lệ,
không loại trừ được nguồn tiền bẩn.
2.2.4. Xu hƣớng sáp nhập, mua lại rầm rộ trong thời gian qua
Gần đây nhất, ngày 27/12/2012, Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương
Việt Nam-VietinBank đã giao dịch bán 20% cổ phần trị giá 15.465 tỷ đồng, tương đương
743 triệu đô la Mỹ, cho nhà đầu tư chiến lược là Ngân hàng Bank of Tokyo-Mitsubishi
UFJ (“BTMU”)-ngân hàng bán lẻ và thương mại chính của Tập đoàn Mitsubishi UFJ
Financial Group Inc (“MUFG”). Từ trước tới nay, đây là giao dịch mua bán sáp nhập lớn
nhất trong ngành ngân hàng Việt Nam và là bước ngoặc lớn giúp Vietinbank tăng vốn
điều lệ đáng kể.
Việc tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài là bước đi đúng đắn của các ngân
hàng Việt Nam. Tuy nhiên khi bán cổ phần cho các đối tác này các ngân hàng trong
39
nước phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng làm công cụ rửa tiền nếu đối tác này dùng
nguồn vốn bất hợp pháp để đầu tư.
Bảng 2.3: Sở hữu của các ngân hàng nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam
Tên ngân hàng nƣớc ngoài Tỷ lệ sở hữu Tại ngân hàng
BNP Paribas 20% OCB
Commonwealth Bank of Australia 20% VIB
HSBC Holding Plc 20% Techcombank
Malayan Baning Bhd (Maybank) 20% ABBank
Societe Generale 20% SeaBank
United Overseas Bank 20% Phương Nam
Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ 20% VietinBank
Nguồn : Reuters, tổng hợp
2.2.5. Huy động vốn khó khăn và thanh khoản trở thành mối quan ngại sâu sắc với
hệ thống ngân hàng
Thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế sụt giảm so với các năm
trước
Đối với toàn bộ thị trường, lượng tiền gửi huy động đã suy giảm nhanh chóng.
Những tháng cuối năm 2011 được xem là khó khăn trong huy động của các NHTM cụ
thể tháng 10/2011 giảm 0,74% so với tháng 9, còn tháng 9 giảm 1,07% so với tháng 8 và
giảm mạnh nhất là tiền gửi VND. Huy động thị trường đạt 2.858,3 nghìn tỷ đồng tính
đến cuối năm 2011, chỉ tăng 9.89% so cuối năm 2010. Trong năm 2012 thì tình hình huy
động vốn có phần cải thiện hơn nhưng tốc độ tăng trưởng cũng vẫn còn thấp, chỉ tăng
16% so với năm 2011.
40
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng huy động, tín dụng của các NHTM Việt Nam từ năm 2006-
2012
Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN
Huy động giảm mạnh trong năm gần đây làm giảm giảm tốc độ luân chuyển tiền
tệ của toàn nền kinh tế do nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư chuyển sang đầu từ vào lĩnh
vực khác như vàng, ngoại tệ, bất động sản….. Điều này gây khó khăn trong công tác
bình ổn thị trường của NHNN nhằm chống vàng hóa và đôla hóa nền kinh tế Việt Nam.
Các đối phó với chính sách nhằm đảm bảo thanh khoản
Do tình hình huy động khó khăn kéo dài từ những tháng cuối năm 2010 đến cuối
2011 nên buộc các ngân hàng phải vượt rào lãi suất nhằm đảm bảo thanh khoản. Có
nhiều lúc lãi suất lên rất cao 18% bất chấp những nỗ lực của NHNN nhằm hạn chế cuộc
đua lãi suất và kéo hạ lãi suất cho vay. Chính những áp lực này khiến các ngân hàng bất
chấp nguồn gốc của tiền gửi vào.
41
Bảng 2.4: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
NHTM Nhà Nước 65,1 53,4 56,91 49,7 45,1 43,6 43,4
NHTM CP 21,3 31,5 31,23 40,8 46,7 47,1 47,1
Chi nhánh NH Nước 9 8,8 8,1 7,5 6,6 7,6 7,2
Ngoài, NH liên doanh
Khác 4,6 6,3 3,76 2 1,6 1,7 2,3
Nguồn: Báo cáo của ngân hàng nhà nƣớc và ngân hàng thƣơng mại từ 2006 - 2012
2.2.6. Ngân hàng điện tử phát triển
Ở Việt Nam, dịch vụ ngân hàng điện tử ngày càng phát triển mà phát triển nhất là
dịch vụ thẻ ATM. Tính đến tháng 6/2011 là có hơn 12.800 máy ATM và 63.400
POS/EDC đã được lắp đặt để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng của
người dân. Đến cuối tháng 6/2011, lượng thẻ phát hành đạt khoảng 36 triệu thẻ với
khoảng 234 thương hiệu thẻ, trong đó thẻ ghi nợ chiếm tới 95%. Đối với thẻ thanh toán
quốc tế với tốc độ tăng trưởng ấn tượng khoảng 49% mỗi năm và luôn được đánh giá
Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng cho lĩnh vực thẻ.
Biểu đồ 2.4: Số lượng máy ATM và POS đến 30/6/2011
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số tháng 9/2011
42
Tuy nhiên những giao dịch điện tử không thể xác định được chính xác chủ thể
thực hiện giao dịch, nguồn gốc của tiền giao dịch…. Do đó, nó đã trở thành một công cụ
rửa tiền đắc lực của các chuyên gia rửa tiền.
2.3. Những kẽ hở dẫn đến hoạt động rửa tiền qua ngân hàng hiện nay
Việc phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng của một chủ đề mà các ngân
hàng phải quan tâm, do đó, để tìm ra cách giải quyết tốt vấn nạn rửa tiền chúng ta sẽ tìm
hiểu xem Việt Nam có những khe hở nào dẫn đến nguy cơ rửa tiền lớn ở Việt Nam.
2.3.1 Hệ thống tài chính lỏng lẻo
Việt Nam là hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai đoạn phát triển với những
quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ phía các ngân hàng và các định chế tài chính.
Chính sự lỏng lẻo đó mà hệ thống tài chính, tiền tệ Việt Nam đang phải đối mặt với rủi
ro đáng kể đó là rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam và đó chính là cầu nối thuận
lợi cho hoạt động rửa tiền của tội phạm trong và ngoài nước. Với hệ thống tài chính như
thế thì không tránh khỏi nguy cơ bị lợi dụng trong hoạt động rửa tiền, thông qua các
hình thức:
Thứ nhất: Mua cổ phần ngân hàng
Trước tiên, do sức ép về hội nhập, ngân hàng nhà nước yêu cầu các ngân hàng
tăng vốn điều lệ là đến 2008, mức vốn pháp định đối với ngân hàng TMCP là 1000 tỷ
đồng, đến 2010 sẽ là 3000 tỷ đồng. Do vậy nguy cơ các NHTM cổ phần dễ dàng chấp
nhận việc góp vốn của bất kỳ ai mà không cần biết nguồn gốc của khoản vốn đó. Nếu
các ngân hàng không cẩn thận thì có khả năng rửa tiền thông qua việc chiếm giữ phần
lớn cổ phần của ngân hàng.
Thứ hai : Gửi tiền qua hệ thống ngân hàng để biến tiền bẩn thành tiền sạch
Một điểm cần lưu ý là hiện nay các ngân hàng đang cạnh tranh nhau huy động cần
tiền gửi từ cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí còn sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để
chiêu dụ khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Do đó sẽ tạo tâm lý không quan tâm đến
nguồn gốc của các khoản tiền gửi vào ngân hàng mình. Một ngân hàng có lẽ sẽ vui
43
mừng khi nhận được một lượng tiền gửi lớn từ công chúng với một mức lãi suất huy
động thấp hơn đối thủ cạnh tranh khác nhưng lưu ý rằng khi cá nhân hoặc tổ chức có
tiền bất hợp pháp họ sẽ sẵn sàng đầu tư vào cả những nơi không sinh lợi cho chúng
nhưng có hiệu quả là làm cho tiền bẩn của chúng được biến thành tiền sạch.
2.3.2. Tự do hóa dòng chu chuyển vốn quốc tế
2.3.2.1. Tự do tài khoản vãng lai
Một trong những cải cách triệt để nhất trong pháp lệnh ngoại hối năm 2005 có
liên quan đến giao dịch tài khoản vãng lai là vấn đề đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy
phép mua chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân. Theo đó người cư trú sẽ được
phép tự do hơn nữa trong việc mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với những người
không cư trú và người cư trú là người nước ngoài có nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt
Nam thì được mua ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài.
Đây là bước đột phá mới trong quá trình tiến tới tự do hóa hoàn toàn các giao dịch
vãng lai bởi trước đây khi các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu ngoại tệ trong các
giao dịch vãng lai đều được xin NHNN cấp phép. Chủ trương xóa bỏ việc cấp giấy phép
mua chuyển ngoại tệ ra nước ngoài một mặt phù hợp với việc cam kết WTO nhưng mặt
khác chúng tạo ra nguy cơ mới cho các loại tội phạm lợi dụng khe hở này để thực hiện
những hành vi rửa tiền ở quy mô lớn, bao gồm:
Thứ nhất: Nguy cơ chia nhỏ tiền và chuyển ra nước ngoài
Trong điều kiện hệ thống quản trị rủi ro và năng lực của các ngân hàng thương
mại ở nước ta vẫn còn yếu kém thì việc nhận diện những nguồn gốc từ các hành vi rửa
tiền của khách hàng quả thực không đơn giản. Các tội phạm rửa tiền có khả năng qua
mặt hệ thống kiểm soát của các định chế tài chính và các ngân hàng bằng cách chia nhỏ
và sau đó chuyển ra nước ngoài.
Thứ hai: Hiện tượng đào hối
Đã có những quan ngại rằng những chủ trương thông thoáng về việc cho phép các
cá nhân và các tổ chức được phép tự do mua ngoại tệ sẽ tạo ra một rủi ro thất thoát dự
44
trữ ngoại hối trên cán cân thanh toán, mà một trong những nguồn gốc dẫn đến rủi ro này
là hiện tượng “đào hối” từ các hành vi rửa tiền của tội phạm trong và ngoài nước.
2.3.2.2. Tự do hóa tài khoản vốn
Pháp lệnh ngoại hối 2005 trong việc tự do hóa tài khoản vốn giúp mở rộng kênh
đầu tư cũng như huy động vốn của các cá nhân và tổ chức trong nước. Tuy nhiên với
những quy định thông thoáng của pháp lệnh giúp bọn tội phạm rửa tiền có cơ may xâm
nhập để có thể thực hiện hành vi rửa tiền ngay trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngược lại,
thông qua các quy định sau đây:
Thứ nhất: Pháp lệnh cho phép các cá nhân được vay và cho vay vốn nước ngoài
tạo nguy cơ rửa tiền
Trước đây khi chưa có pháp lệnh này ban hành, các cá nhân muốn vay vốn người
thân, bạn bè ở nước ngoài phải thông qua con đường kiều hối và chuyển tiền bất hợp
pháp. Tuy nhiên hiện nay điều này đã được pháp luật cho phép các cá nhân vay nợ nước
ngoài. Điều này đã tạo nguy cơ cho các hoạt động rửa tiền quốc tế xảy ra trên lãnh thổ
Việt Nam.
Đồng thời, pháp lệnh còn cho phép các cá nhân được quyền cho vay và thu hồi nợ
nước ngoài. Như vậy nếu như việc cho phép các cá nhân vay nợ nước ngoài đã tạo nguy
cơ cho các hoạt động rửa tiền quốc tế xãy ra trên lãnh thổ Việt Nam thì việc cho phép
các cá nhân tự do cho vay và trả nợ nước ngoài lại tạo ra một nguy cơ rửa tiền từ trong
nước ra nước ngoài.
Thứ hai: Pháp lệnh cho phép các tổ chức và cá nhân đầu tư ra nước ngoài tạo
nguy cơ rửa tiền từ trong nước ra nước ngoài
Đây là xu hướng phù hợp với các cam kết của chính phủ trong quá trình hội nhập
như trong hiệp định thương mại Việt Mỹ có quy định các giao dịch thương mại và đầu tư
phải được thực hiện hai chiều. Đồng thời nhằm thông thoáng hoạt động đầu tư trong
nước để thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam. Tuy
nhiên với năng lực hiện tại có khả năng chính phủ sẽ không kiểm soát được hết các giao
dịch này vì luồng tiền đã đi ra ngoài lãnh thổ và do đó dẫn đến một nguy cơ làm thất
45
thoát vốn và rửa tiền. Theo kiến nghị của tổ chức chống rửa tiền quốc tế, đây chính là
hình thức rửa tiền ở giai đoạn cuối dưới dạng thâu tóm các khoản tiền đã phân tán trước
đây, nơi mà các loại tiền bẩn đã được tẩy sạch hoàn toàn và được thể hiện cuối cùng ở
các khoản đầu tư tài chính, bất động sản và các tài sản quý hiếm khác.
Bên cạnh đó pháp lệnh còn cho phép các doanh nghiệp được phát hành chứng
khoán ra nước ngoài. Đây cũng là một kênh thoái vốn quan trọng cho các hoạt động rửa
tiền bằng cách bọn tội phạm lập ra các công ty cổ phần hợp pháp rồi sau đó niêm yết
trên thị trường chứng khoán quốc tế.
2.3.2.3. Đôla hóa và nguy cơ rửa tiền
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang đối phó với tình trạng đôla hóa ở mức cao và
chính vì vậy đã đến lúc chính phủ cần có những biện pháp quyết liệt để giảm hiện tượng
đôla hóa. Không nằm ngoài mục đích đó, trong pháp lệnh ngoại hối, chính phủ đã thừa
nhận việc nắm giữ ngoại tệ của cá nhân. Theo đó, cho phép các cá nhân có quyền được
mở tài khoản và sử dụng ngoại tệ và đương nhiên họ được toàn quyền được thu chi
ngoại tệ trên tài khoản này.
Có lẽ không bàn cải về chủ trương hợp lý này của chính phủ trong quá trình tiến
tới một sân chơi bình đẳng cho các cá nhân và các tổ chức trong và ngoài nước. Tuy
nhiên, khe hở cho hoạt động rửa tiền vì thế mà lộ ra. Thực tế cho có khá nhiều doanh
nghiệp tuy có mở tài khoản ngoại tệ nhưng không hoạt động kinh doanh. Ngoại tệ không
rõ nguồn gốc sẽ được hợp thức hóa trên tài khoản ngoại tệ qua bình phong là doanh thu
từ hoạt động kinh doanh. Và từ đó có khả năng bước tiếp theo chúng sẽ chia nhỏ các
khoản tiền ra, thoát ra khỏi quốc gia bằng các hoạt động rửa tiền .
2.3.3. Tồn tại nền kinh tế phi chính thức
Thực tế cho thấy lượng kiều hối được chuyển bằng con đường phi chính thức là
rất lớn, chiếm khoảng 30-60% lượng kiều hối bằng con đường chính thức. Một điều
không thể phủ nhận song hành với nền kinh tế chính thức là sự hiện diện của nền kinh tế
phi chính thức. Đây là một dạng nền kinh tế mà những bất cập trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ đã làm cho đồng USD và vàng vẫn còn là phương tiện thanh toán phổ biến trong
46
nền kinh tế.
Chính sự tồn tại của nền kinh tế phi chính thức là nguy cơ dẫn đến các hành vi
rửa tiền khó lần ra dấu vết nếu như các nhà hoạch định chính sách không có những định
hướng hợp lý trong chính sách tiền tệ, đặt biệt là tháo gỡ các rào cản phi lý trong việc
chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư nước ngoài.
Điều đó quá rõ ràng trong vụ án buôn lậu ma túy của 9 Việt Kiều Úc, bọn chúng
đã sử dụng bốn công ty chuyển tiền ở Sydney và Melbourne để rửa 93 triệu đôla Úc – lợi
nhuận từ buôn bán ma túy và vũ khí trong 1 năm. Số tiền này được chuyển về Việt Nam
thông qua đường hàng không.
2.3.4. Tham nhũng ngày càng gia tăng
Một nguồn gốc nữa dẫn đến hành vi rửa tiền là tình trạng tham nhũng tràn lan đến
mức đã trở thành một thị trường tham nhũng, trốn thuế, tình trạng tiêu cực lãng phí và
thất thoát trong xây dựng cơ bản cùng với các dạng tổ chức tội phạm đang ngày càng
phát triển. Theo tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (TI) công bố chỉ số nhận thức tham nhũng
2012 (CPI) tụt 11 bậc so với năm ngoái, theo đó Việt Nam đứng thứ 123/176 quốc gia và
vùng lãnh thổ.
Trong thời gian gần đây, chính phủ đã có những nỗ lực trong việc phòng chống
tham nhũng, nạn lãng phí. Và kết quả là đã khám phá ra nhiều vụ án tham nhũng lớn như
vụ PMU18 làm thất thoát hàng chục tỉ đồng tiền đầu tư xây dựng cơ bản lấy từ nguồn
vốn vay ODA. Hay đường dây chạy quota dệt may của gia đình Bộ Trưởng Mai Văn
Dâu mà theo những người trong cuộc thì đây là luật bất thành văn nếu muốn có hạn
ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Và gần đây nhất là vụ bê bối của các tập đoàn nhà nước
Vinalines, Vinashin được đánh giá có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng hơn
vụ PMU18.
Tuy nhiên, những phát hiện trong thời gian qua chỉ là bề nổi của tảng băng chìm.
Trên thực tế, có thể còn nhiều nguồn tiền tham nhũng chưa phát hiện hoặc giả chúng đã
được rửa sạch và đã được đầu tư mà vẫn chưa bị phát hiện.
2.3.5. Nền kinh tế sử dụng tiền mặt
47
Nền kinh tế Việt Nam phần lớn là sử dụng tiền mặt, nó chiếm khoảng 70% tổng
giao dịch trong nền kinh tế. Theo ông Chritt Batt, chuyên gia chống rửa tiền của
UNODC nhận định “Việt Nam dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng
nhiều tiền mặt, cùng với hoạt động thương mại và đầu tư ngày càng tăng”.
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán (%)
Nguồn : Ngân Hàng Nhà Nƣớc Việt Nam
2.3.5.1. Nền kinh tế thanh toán tiền mặt là phổ biến
Theo khảo sát của cơ quan chức năng vào năm 2003 cho thấy thanh toán bằng
tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán
chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch
thanh toán của khu vực dân cư.
Từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so với
tổng phương tiện thanh toán có giảm qua các năm. Năm 2001 tỷ lệ này là 23,7% giảm
qua các năm đến năm 2012 là chỉ còn 14,02% . Tuy tỷ trọng hàng năm đã giảm nhưng
còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là
0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng cũng chỉ ở
mức là 10%.
48
2.3.5.2. Nguyên nhân tồn tại nền kinh tiền mặt
Thói quen sử dụng tiền mặt
Thực tế cho thấy, mặc dù các tiện ích về thẻ thanh toán, ngân hàng điện tử với sự
góp sức công nghệ hiện đại nhưng người dân vẫn chưa quen với phương thức thanh toán
này. Họ không thích tiếp xúc quá nhiều với máy móc, thích tự giữ tiền và chi tiêu.
Bất tiện trong thanh toán bằng thẻ
Hơn thế nữa, ở Việt Nam chưa thật sự khuyến khích, rất ít nơi chấp nhận thanh
toán bằng thẻ chỉ tập trung ở các khu thương mại lớn, khách sạn lớn hay siêu thị mà điều
đáng nói họ sẽ bị tính phí nếu thanh toán bằng thẻ. Do đó, tạo tâm lý bất tiện nếu như
không có có tiền mặt mang theo.
Vì đặc điểm nền kinh tế như thế đã tạo thêm một khe hở cho bọn rửa tiền lợi
dụng. Chúng sử dụng tiền mặt mua bất cứ thứ gì muốn từ cái nhỏ nhất như một ổ bánh
mì hay món có giá trị lớn như viên kim cương với độ tinh khiết mang đẳng cấp quốc tế
hay đầu tư vào bắt động sản. Và đây cũng là thủ thuật của trùm buôn lậu ma túy xuyên
biên giới Trịnh Nguyên Thủy. Hắn đã dùng tiền buôn lậu ma túy để đầu tư vào khu du
lịch sinh thái với giá trị đầu tư lên đến hàng chục tỷ đồng. Ngoài ra hắn còn dùng tiền
này để đầu tư vào bất động sản ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Thông qua kênh tiền
mặt, trộn lẫn với các giao dich mua bán thông thường, chúng đưa tiền vào lưu thông một
cách dễ dàng mà khó có thể bị phát hiện.
2.4. Thực trạng phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.4.1. Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
Với những khe hở như đã trình bày ở trên, cho thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam
đứng trước nguy cơ là kênh rửa tiền hữu hiệu của bọn tội phạm rửa tiền. Đến nay, Trung
tâm thông tin phòng, chống rửa tiền đã nhận được khoảng 20 báo cáo về các giao dịch
tình nghi là rửa tiền. Tuy nhiên, chưa một vụ nghi vấn nào được kết luận là hành vi rửa
tiền. Điều này không đồng nghĩa là tại Việt Nam chưa có hành vi rửa tiền. Các giao dịch
về tài chính ở Việt Nam chủ yếu là tiền mặt trao tay, ít dùng các công nghệ thanh toán
49
như các nước trên thế giới, khiến việc kiểm tra hoạt động rửa tiền gần như không thể
thực hiện. Sau đây là một số trường hợp rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam bị
phát hiện:
Trường hợp 1: Nhận tiền có nguồn gốc phi pháp qua tài khoản ngân hàng.
Vụ việc được phát hiện vào năm 2009 trên tài khoản khách hàng Nguyễn Thị Lan
mở tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Tài khoản khách hàng Nguyễn Thị Lan
được mở từ năm 2001, nhưng đến năm 2009, giao dịch trên tài khoản rất nhiều, đặc biệt
là những khoản nhận chuyển tiền từ nước ngoài. Cho đến tháng 11/2009, sau khi nhận
được văn bản đề nghị của Ngân hàng HSBC có trụ sở tại Hồng Kông về việc yêu cầu
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín tạm thời phong tỏa tài khoản của khách hàng
Nguyễn Thị Lan để phục vụ cho công tác điều tra theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Hồng Kông. Đồng thời Cục Phòng, chống rửa tiền của Việt Nam cũng
nhận được văn bản của cơ quan cảnh sát Hồng Kông cũng với nội dung tương tự thì sự
việc mới bắt đầu được phát hiện. Các khoản tiền mà tài khoản Nguyễn Thị Lan nhận
được không phải là tiền trợ cấp cho nhân thân như thông tin mà khách hàng cung cấp mà
thực chất là khoản tiền có được từ đường dây buôn bán ma túy.
Qua vụ việc cho thấy việc buôn lõng trong công tác phòng, chống rửa tiền của
Ngân Hàng này. Ngân hàng này đã không có bất kỳ thông tin nào báo cáo cho Cục
phòng, chống rửa tiền về việc có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch của tài
khoản khách hàng Nguyễn Thị Lan.
Trường hợp 2: Mở tài khoản để nhận tiền phi pháp từ nước ngoài của khách hàng
nước ngoài
Ngày 02/10/2008, công an Đà Nẵng đã phá thành công vụ án rửa tiền xuyên quốc
gia đầu tiên tại Việt Nam. Hai đối tượng người Mozanbique và đồng bọn đã ăn cắp số
tiền 295.650 bảng Anh từ một tài khoản ở nước ngoài. Sau đó số tiền phi pháp này được
chuyển vào một tài khoản khác đã được mở tại ngân hàng thương mại Chi Nhánh Bà
Rịa, Vũng Tàu. Ngày 24/09/2008, Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique) đến
chi nhánh của một ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc hai tài khoản (gồm
50
một tài khoản ngoại tệ và một tài khoản tiền Việt). Ngay sau khi có tài khoản, lập tức có
đến hơn 4,1 tỷ đồng từ một ngân hàng ở Bà Rịa - Vũng Tàu chuyển vào và đối tượng
này yêu cầu rút ngay số tiền đó. Được sự mật báo của chi nhánh ngân hàng thương mại
tại Đà Nẵng, công an Đà Nẵng kết hợp với Công an TPHCM, Bà Rịa–Vũng Tàu và
Interpol tiến hành điều tra, bắt khẩn cấp 2 đối tượng là Baggio Carlitos Liuska và
Massamba Lendebe Vis. Đồng thời tiếp tục truy tìm Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch
Công Gô) là kẻ đã mở tài khoản và chuyển số tiền trên 3,34 tỉ đồng tại Bà Rịa - Vũng
Tàu qua một tài khoản khác ở một ngân hàng thương mại tại TPHCM.
Trường hợp 3 : Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng điện tử
Hệ thống ngân hàng điện tử ngày càng phát triển cùng hoạt với hoạt động thương
mại điện tử ngày càng được ưa chuộng. Thông qua hai hệ thống này mà Trần Quang
Duy đã thực hiện hành vi rửa tiền rất tinh vi. Trần Quang Duy với vỏ bọc là đại lý vé
máy bay giá rẻ của Hãng Hàng không Tiger Airways của Singapore qua mạng internet
đã hợp thức hóa tiền lấy cắp từ thẻ tín dụng của các khách hàng nước ngoài. Khi nhận
được nhu cầu của khách hàng, Duy vào mạng của Hãng Tiger Airways để làm thủ tục
đặt vé cho khách hàng. Sau đó Trần Quang Duy xâm nhập, bẻ khoá dữ liệu trong thẻ tín
dụng của các khách hàng là người nước ngoài rồi sử dụng thông tin từ thẻ tín dụng cá
nhân để chuyển tiền trả cho Hãng Tiger Airways. Với thủ thuật đó thì tiền của khách
hàng đặt vé máy bay trở thành thu nhập hợp pháp của Duy. Trong gần 1 năm hoạt động,
Duy thu khoảng 100 triệu đồng. Với thủ đoạn này thì hành vi ăn cắp và rửa tiền của Duy
rất khó phát hiện và được đánh giá là khá tinh vi.
2.4.2. Một số phƣơng thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam bị phát hiện
Việc tẩy rửa tiền đã phức tạp còn việc phát hiện và điều tra các thương vụ rửa
tiền, nhất là thông qua hệ thống ngân hàng là rất khó khăn, phức tạp hơn nhiều.
Thông thường, những khoản tiền do đánh bạc, bảo kê mại dâm …. tương đối nhỏ
có thể được đưa vào các nơi kinh doanh sử dụng nhiều tiền mặt như nhà hàng, quán ăn
hoặc thông qua việc mua bán, việc mua vàng, nhà đất, cổ phần, các loại đá quý, kim loại
quý và các chứng từ có giá khác hoặc mua vé số trúng thưởng với giá không đóng thuế
51
hoặc cao hơn giá trị giải thưởng. Nhưng đối với những khoản tiền lớn của các tập đoàn
buôn lậu hay ma túy xuyên quốc gia thì chúng sẽ lựa ngân hàng để rửa tiền. Có nhiều
phương pháp rửa tiền qua ngân hàng mà chúng có thể sử dụng và sau đây là một số
phương thức được sử dụng tại Việt Nam đã bị phát hiện.
2.4.2.1. Chia nhỏ các khoản tiền
Đây là phương thức rửa tiền đầu tiên của bọn tội phạm đối với hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Để tránh bị để ý và qua mặt bộ phận kiểm soát ngân hàng, chúng thường
chia nhỏ các khoản ngoại tệ (thường là dưới mức luật định) thành nhiều khoản nhỏ và
sau đó từ từ chuyển dần ra nước ngoài. Một trong những nguồn gốc dẫn đến loại rủi ro
này là hiện tượng “đào hối” từ các hành vi rửa tiền của tội phạm trong nước và quốc tế.
2.4.2.2. Dùng chứng từ giả
Chiêu thức này đã được Mussasa sử dụng khi sử dụng hộ chiếu giả để mở tài
khoản rút tiền tại các ngân hàng Việt Nam. Công an Thành Phố Hà Nội đã thực hiện bắt
giam sau khi người đã thực hiện rút tiền ở ngân hàng Ngoại Thương với số tiền là
35.000 Euro và 13.200 USD. Lãnh đạo một ngân hàng cổ phần cho rằng, đây được xem
là một hình thức rửa tiền mới xuất hiện ở Việt Nam mặc dù hình thức này không phải là
xa lạ với các nước khác.
2.4.2.3. Lừa đảo tín dụng
Là phương thức được sử dụng phổ biến để thực hiện rửa tiền thông qua hệ thống
ngân hàng. Tháng 6/2005, trong buổi họp báo về nghị định phòng chống rửa tiền, thống
đốc ngân hàng Lê Đức Thúy đã cho biết cơ quan này đã xử lý một vài vụ người nước
ngoài vào Việt Nam với ý định lừa đảo tín dụng. Vào năm 1998, một nhân vật người
Đức đưa ra một lời để nghị hết sức hấp dẫn là sẽ cho ngân hàng vay 100 triệu USD, lãi
suất cực thấp 2%/năm, cho vay trong vòng 30 năm. Hoặc có những trường hợp đề nghị
vay tiền 20 tỉ USD trong 20 năm, lãi suất ưu đãi và sau 10 năm cũng xóa luôn khoản nợ
chỉ với điều kiện có 5% “lại quả”. Ngoài ra, có chiêu thức lừa đảo qua tín dụng thư
(L/C) và ngân hàng sẽ là người thanh toán cuối cùng.
2.4.2.4. Mua cổ phiếu ngân hàng
52
Các công ty tại nước ngoài dùng tiền bất hợp pháp sau một thời gian phân chia
lòng vòng để xóa dấu vết, sau đó dùng chính số tiền này để mua cổ phiếu ngân hàng cổ
phần ở Việt Nam. Sau một thời gian, các công ty này chuyển lợi nhuận từ sinh lợi cổ
phiếu ra nước ngoài.
Cụ thể là lực lượng an ninh thuộc công an thành phố Hà Nội đã xác định công ty
TNHH A tại Liên Bang Nga có hành vi chuyển tiền trái phép, vi phạm chính sách quản
lý ngoại hối của Việt Nam. Trong vòng gần 2 năm từ tháng 11/2003, Công ty TNHH A
đã thực hiện trót lọt gần 13 triệu USD thông qua con đường rất hợp pháp là chuyển lợi
nhuận sinh lợi từ đầu tư cổ phiếu ngân hàng ở Việt Nam về nước. Theo kết quả điều tra,
công ty này đã có dấu hiệu rửa số ngoại tệ 15 triệu USD (tương đương gần 232 tỷ đồng)
thông qua 2 tài khoản ngoại tệ (USD) và tài khoản VNĐ được mở tại một chi nhánh
ngân hàng thương mại cổ phần ở Quận Tân Bình, TP HCM. Sau khi đã thực hiện hành vi
bán số ngoại tệ này cho chính ngân chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần này, chúng
tiến hành chuyển tiền lòng vòng thông qua nhiều cá nhân và pháp nhân thuộc nhóm công
ty cổ phần B ở TP HCM nhằm xóa tan nguồn gốc tiền. Và điều đáng nói là sau thời gian
chuyển tiền lòng vòng, chúng đã mua hơn 10.700 cổ phiếu Ngân hàng mẹ của chi nhánh
ngân hàng nói trên với số tiền trên 68 tỷ đồng.
2.4.2.5. Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng ngầm
Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng vẫn còn hạn chế trong khi các hệ thống
chuyển tiền khác lại được sử dụng rộng rãi, vì vậy có một lượng tiền lớn hớn đã được
chuyển về Việt Nam thông qua hệ thống ngân hàng ngầm này. Do những nguồn tiền này
thường khó xác định nguồn gốc thu nhập nên Việt Nam đứng trước nguy cơ rửa tiền
thông qua con đường này là rất lớn.
Thực tế kiều hối Việt Nam được chuyển qua con đường chính thức cũng như con
đường phi chính thức. Theo đánh giá, lượng kiều hối phi chính thức có thể có thể cao
hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khoảng 30 – 60% lượng kiều hối chuyển qua đường
chính thức.
2.4.2.6. Mua bán chứng khoán qua ngân hàng
53
Nguy cơ này ngày càng cao khi thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục sốt vào
những tháng cuối năm 2006 và những tháng đầu năm mới. Chỉ số Vn-Index đã vượt qua
mức 1000 điểm, con số này là điều không thể nghĩ ở những năm trước đó. Điều mà mọi
người lo lắng hiện nay có lượng tiền khá lớn được đổ vào thị trường chứng khoán là
“tiền bẩn”.
Nhìn chung có hai nguồn tiền đang đổ vào chứng khoán, gồm trong nước và
ngoài nước, riêng nguồn trong nước đầu tư vào chứng khoán hiện nay có một phần được
hình thành từ tiền thất thoát ngân sách, tham nhũng. Với con số thất thoát nguồn vốn đầu
tư xây dựng cơ bản mà thanh tra nêu là 10% thì rõ ràng lượng đổ vào thị trường này
cũng rất lớn.
Điều đáng nói hiện nay ở Việt Nam, việc kinh doanh chứng khoán được thực hiện
thông qua tài khoản tiền gửi được mở tài khoản ngân hàng. Sau một thời gian đầu tư, số
tiền được rút ra từ tài khoản này đã được hợp thức hóa với lớp vỏ bọc là lợi nhuận từ đầu
tư chứng khoán, bất kể nguồn gốc tiền đầu tư ban đầu là tiền hợp pháp hay bất hợp pháp.
2.4.2.7. Sử dụng sản phẩm phái sinh
Đặt biệt gần đây NHNN đã cho phép các định chế tài chính và cá nhân được thực
hiện giao dịch quyền chọn đồng Việt Nam và ngoại tệ. Đây là cơ hội để họ có thể chuyển
hóa ra thành ngoại tệ mạnh. Các tội phạm rửa tiền sẽ thực hiện các hoạt động phát sinh
tại các ngân hàng nào có năng lực quản lý yếu kém và không có cơ chế giám sát các giao
dịch có rủi ro một cách hiệu quả.
2.4.2.8. Rửa tiền ngân hàng điện tử ngày càng phổ biến
Ngân hàng điện tử ngày càng được sử dụng rộng rải trong thời gian qua, góp phần
tích cực trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng nhanh chóng và hiệu quả. Nhờ vào sự
góp sức của nó mà dòng chu chuyển tiền tệ khổng lồ, xuyên biên giới được thực hiện
một cách nhanh chóng. Tuy nhiên những giao dịch điện tử cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro
trong đó có rủi ro rửa tiền vì giao dịch bằng hình thức này không thể xác định được
chính xác chủ thể thực hiện giao dịch, nguồn gốc của tiền giao dịch... Trong thực tế có
nhiều vụ bị phát hiện rửa tiền thông qua hình thức này ngày càng nhiều và vụ án hacker
54
Trần Quang Duy là một đơn cử.
Bằng thủ đoạn khá tinh vi, những đồng tiền hắn đánh cắp được từ thẻ tín dụng của
người nước ngoài được rửa sạch trước khi vào túi của Trần Quang Duy qua bình phong
là đại lý của hãng Tiger Airways. Thủ đoạn của hacker Duy là khi nhận được nhu cầu
của khách hàng thì Duy sẽ xâm nhập vào hệ thống dữ liệu để lấy tiền trong thẻ tín dụng
của khách hàng là người nước ngoài rồi sử dụng thông tin từ thẻ tín dụng cá nhân để
chuyển tiền trả cho hãng Tiger Airways. Bằng thủ đoạn này, hành vi ăn cắp, rửa tiền của
Duy là rất khó phát hiện vì nó được xen lẫn với các giao dịch có thật.
2.4.3. Các phƣơng thức phòng chống rửa tiền trong thời gian qua
Việt nam được đánh giá là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động rửa tiền, do đó trong
thời gian qua, chính phủ cũng như các cơ quan có liên quan đã thực hiện một số biện
pháp nhằm giảm nguy cơ này, cụ thể :
2.4.3.1. Xây dựng hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền
Quy định pháp luật đầu tiên của Việt Nam về phòng, chống rửa tiền được nhắc
đến trong điều 250, 251 của bộ luật hình sự năm 1999 ban hành ngày 21/12/1999 và
được sửa đổi bổ sung ngày 19/06/2009. Theo điều 250 và điều 251 có thể thấy về
nguyên tắc bất kỳ hành vi nào chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động phạm pháp sang
lợi nhuận hợp pháp đều là hành vi rửa tiền. Quyết định sửa đổi điều 251 của Bộ luật hình
sự năm 1999 là một bước tiến mới của Việt Nam trong công cuộc đấu tranh phòng,
chống rửa tiền, đã chứng tỏ Việt Nam tuân thủ và khắc phục theo tinh thần khuyến nghị
thứ 1 “hình sự hóa tội rửa tiền” của FATF.
Bên cạnh đó luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực ngày 01/10/1998 cũng có nhắc
tới trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp
pháp.
Tiếp theo là nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính Phủ ban hành
tạo cơ sở pháp lý cho việc phòng chống rửa tiền, đồng thời thể hiện cam kết đối với quốc
tế về việc phòng chống rửa tiền. Nghị định này quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức trong việc phòng, chống rửa tiền; các biện pháp phòng chống rửa tiền; trách nhiệm
55
của các cơ quan nhà nước trong phòng chống quốc tế; và hợp tác quốc tế phòng chống
rửa tiền. Nghị định còn đưa ra mức giá trị giao dịch bằng tiền mặt từ 200 triệu đồng trở
lên hay các giao dịch tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên phải báo cáo theo quy
định.
Và gần đây nhất ngày 18/06/2012 Luật phòng chống rửa tiền được quốc hội thông
qua và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2013. Bộ luật này ra đời nhằm đáp ứng nhu
cầu về hành lang pháp lý của công tác phòng chống rửa tiền, đồng thời đáp ứng yêu cầu
chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền. Bộ luật yêu cầu các tổ chức, cá nhân nhận
biết khách hàng và cập nhật thông tin khách hàng trong quá trình giao dịch, quy định rõ
trách nhiệm báo cáo, cung cấp và lưu giữ chứng từ, trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong phòng chống rửa tiền. Sau đây là những điểm hạn chế của nghị định 74 mà
luật rửa tiền mới khắc phục được:
Những hạn chế của nghị định 74
Một là : Không có sự đồng bộ giữa nghị định 74 với các văn bản pháp luật cao hơn,
mặc dù đã có những hướng dẫn nhưng chậm về thời gian ban hành và tổ chức thực hiện
Hai là: Chưa đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo
khuyến nghị của FATF cũng như công ước quốc tế khác'
Ba là: Nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền còn nhiều hạn chế ở đại bộ
phận dân chúng do chưa được tuyên truyền đúng mức.
Bốn là: Đối tượng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền còn hạn chế, chưa có
những quy định về vấn đề ngân hàng vỏ bọc, tài khoản nặc danh, cá nhân có ảnh hưởng
chính trị …
Luật mới khắc phục được những hạn chế của nghị định 74
Một là: Khái niệm về rửa tiền phù hợp với chuẩn mực quốc tế, trong đó hành vi tài
trợ khủng bố nhằm che dấu nguồn tiền bẩn cũng được xem là rửa tiền
Hai là: Mở rộng đối tượng áp dụng bao gồm cả tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành
nghề phi tài chính có liên quan như kinh doanh trò chơi có thưởng, kinh doanh dịch vụ
56
quản lý bất động sản, môi giới bất động sản, ….
Ba là: Trong luật còn điều chỉnh kiểm soát khách hàng nước ngoài là cá nhân có
ảnh hưởng chính trị, quan hệ ngân hàng đại lý
2.4.3.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền
Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa tiền)
trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chức năng làm đầu mối tiếp nhận và xử lý
thông tin; có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp tài liệu, hồ
sơ các thông tin về các giao dịch đáng ngờ . Với chức năng của mình, Cục phòng, chống
rửa tiền sẽ cung cấp thông tin đến Bộ Công An để điều tra.
Bảng 2.5: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục Phòng, chống rửa tiền thu
thập từ năm 2006 – 2012 (số báo cáo)
Loại đơn vị báo cáo 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Ngân hàng TMCP 3 7 8 14 33 58 101
Ngân hàng TM nhà nước 0 3 28 35 65 81 93
Các Ngân hàng liên doanh 0 0 0 1 2 1 3
Các Ngân hàng nước ngoài 1 1 6 9 13 10 7
Các tổ chức tín dụng khác 0 0 1 1 2 2 1
4 Tổng cộng 11 43 60 115 152 205
Nguồn : Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Sau 7 năm thành lập, Cục phòng chống rửa tiền vẫn đang nỗ lực thực hiện những
nhiệm vụ được giao thông qua việc học hỏi kinh nghiệm của các chuyên gia về phòng
chống rửa tiền và xây dựng được chiến lược tuyên truyền về công tác phòng chống rửa
tiền. Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động của cục trong thời gian qua không đạt được hiệu
quả như mong đợi với rất nhiều nguyên nhân như nhân sự còn thiếu và yếu, hệ thống
công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu…
57
Theo thống kê, từ khi thành lập tháng 7/2005 đến cuối năm 2012, cơ quan này chỉ
nhận được 590 báo cáo giao dịch đáng ngờ, và chỉ có 177 báo cáo giao dịch đáng ngờ
được chuyển sang Bộ Công An để tiến hành điều tra, nhưng không nhận được bất cứ
phản hồi nào từ Bộ Công An. So sánh tổng số báo cáo giao dịch đáng ngờ với số lượng
các tổ chức trong nước phải báo cáo, thì đây là tỷ lệ rất thấp .
Bên cạnh đó tốc độ phản hồi thông tin của Cục còn khá chậm
Đơn cử như trường hợp của Ngân hàng TMCP Á Châu, khi phát hiện ra các giao
dịch đáng ngờ nên Ngân hàng này đã gửi báo cáo cho Cục phòng, chống rửa tiền từ
tháng 7/2010. Tuy nhiên, đến tháng 5/2011, Ngân hàng TMCP Á Châu mới nhận được
yêu cầu của Cục phòng, chống rửa tiền về việc báo cáo bổ sung, cung cấp thông tin bổ
sung liên quan đến giao dịch đáng ngờ này để Cục phòng, chống rửa tiền thực hiện tổng
hợp, xử lý. Như vậy, việc tiếp nhận và xử lý các báo cáo giao dịch đáng ngờ của Cục
phòng, chống rửa tiền khá chậm.
2.4.3.3. Tăng cường phối hợp phòng, chống rửa tiền giữa các cơ quan có liên quan
Điều này đã được thể hiện rất rõ trong luật rửa tiền, trong đó nêu ra nhiệm vụ của
các cơ quan chức năng của nhà nước như : Ngân Hàng Nhà Nước, Bộ Công An, Bộ Tài
Chính, Bộ Xây Dựng, Viện Kiểm Sát Nhân Dân, Tòa Án Nhân Dân….
Một nỗ lực của chính phủ trong công tác phòng chống rửa tiền là thành lập Ban
Chỉ Đạo phòng, chống rửa tiền do Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng làm trưởng ban.
Ban chỉ đạo gồm 11 thành viên là lãnh đạo các bộ, ngành liên quan với mục giúp Thủ
Tướng Chính Phủ chỉ đạo và điều phối hoạt động giữa các bộ, ngành trong công tác
phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo đó nhiệm vụ của ban chỉ đạo này được quy định rất rõ trong quyết định:
Một là: Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến lược, chủ trương,
chính sách, chương trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa
tiền.
Hai là: Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động, đôn đốc, kiểm
58
tra và đánh giá công tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
Ba là: Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai thực hiện nghĩa vụ thành
viên của Việt Nam trong Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) và
kế hoạch tiến tới thực hiện đầy đủ 40+9 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính
về chống rửa tiền (FATF).
Bốn là: Phối hợp với các lực lượng nòng cốt trong công tác chống khủng bố
nhằm nghiên cứu, đề xuất cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách pháp
luật, chương trình, biện pháp chống tài trợ cho khủng bố trên lãnh thổ Việt Nam.
Năm là: Duyệt báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện công tác phòng, chống rửa
tiền theo từng thời kỳ và khi Thủ tướng Chính phủ yêu cầu.
Sáu là: Giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, ban hành chủ trương, chính sách
về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phù hợp từng thời kỳ.
Qua hơn 3 năm thành lập, ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền cũng đạt được một
số hiệu quả nhất định trong công tác phòng chống rửa tiền như tham mưu cho chính phủ
để ban hành luật phòng chống rửa tiền cũng như tăng cường hợp tác giữa các ban, ngành
để hoạt động phòng, chống rửa tiền mang đến hiệu quả. Tuy nhiên, sự hợp tác này vẫn
còn lỏng lẻo, không đạt được hiệu quả như mong đợi.
2.4.3.4. Nâng cao nhận thức của các ngân hàng thương mại trong phòng, chống rửa
tiền
Từ cuối năm 2003 đến nay, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam(VNBA) đã phối hợp
với cơ quan chuyển giao công nghệ tài chính Luxembourg huấn luyện về công tác phòng
chống rửa tiền cho hơn 400 học viên. Trong đó có gần 200 học viên là cán bộ, chuyên
viên đang công tác tại các vụ, cục, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín
dụng khác đã tham dự khóa học.
Các ngân hàng uy tín như Vietcombank, Viettinbank, BIDV, ACB … đều có các
chương trình đào tạo về phòng, chống rửa tiền cho nhân viên làm công tác phòng, chống
rửa tiền, nhân viên mới tuyển dụng… Và gần đây nhất 19/09/2012, Ngân Hàng Agribank
59
đã tổ chức tập huấn hơn 300 học viên ở hơn 70 chi nhánh phía nam về công tác phòng,
chống rửa tiền và kiểm soát ngăn ngừa hành vi vi phạm trong giao dịch tiền gửi, thanh
toán.
Tuy nhiên những con số mấy trăm học viên được đạo tạo về phòng, chống rửa
tiền thật sự là rất ít ỏi trong số hàng nghìn cán bộ nhân viên làm việc trong lĩnh vực ngân
hàng.
2.4.3.5. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền
Bảng 2.6 : Số lượng yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra các hoạt động rửa tiền
(số yêu cầu)
Quốc gia Số lƣợng yêu cầu Quốc gia Số lƣợng yêu cầu
Séc 109 Ba Lan 36
Nga 12 Đức 11
Ukraina 4 Pháp 4
Trung Quốc 4 Hungary 3
Đài Loan 2 Canada 2
Argentina 1 Slovakia 1
Hàn Quốc 1 Nhật Bản 1
Mông Cổ 1 Hà Lan 1
Nguồn: APG (2009), Mutual Evaluation Report on Anti-money Laundering and
combating the financing of terrotirsm in Viet Nam, France
Vũ khí hữu hiệu nhất trong việc phòng chống rửa tiền chính là việc hợp tác quốc
tế, bởi lẽ, rửa tiền mang tính xuyên quốc gia và mảnh đất sống còn của nó chính là các
yếu kém trong việc liên kết các luật lệ, chính sách, kỹ thuật, biện pháp áp chế chống rửa
tiền giữa các quốc gia với nhau. Do đó, trong thời gian gần đây Việt Nam đã nỗ lực hợp
tác với các tổ chức, ngân hàng trên thế giới để ngăn chặn việc rửa tiền ở Việt Nam.
60
Trong thời gian qua, Ngân Hàng Nhà Nước đã nhận được một lượng đáng kể các
yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra và phối hợp với các hoạt động rửa tiền của các cá
nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, và các cá nhân, tổ chức Việt Nam ở nước ngoài.
Việt Nam hiện là thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về
phòng, chống rửa tiền (APG) và cam kết thực thi đầy đủ 40 khuyến nghị về chống rửa
tiền và 9 khuyến nghị đặt biệt về chống tài trợ khủng bố của FATF. Với những nỗ lực
của Việt Nam trong công tác phòng, chống rửa tiền từ khi là thành viên của APG đã
được APG đánh giá đa phương lần thứ nhất năm 2009.
Ngoài ra, nhờ sự giúp đỡ của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB), WB, IMF, tổ
chức chuyển tiền quốc tế Western Union …mà các dự án về phòng, chống rửa tiền mới
được thực hiện. Ngân hàng Phát Triển Châu Á (ADB) đã cung cấp khoảng 1 triệu USD
hỗ trợ kỹ thuật để Việt Nam cải cách thị trường vốn ngoài ngân hàng và kiểm soát việc
rửa tiền.
Trong khi đó Western Union đã tiến hành đàm phán với NHNN để xúc tiến các
hoạt động chống chuyển tiền lậu. Do vấn đề chống chuyển tiền lậu không phải đơn giản
nên cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan. Western Union sẵn sàng chia sẽ
các thông tin, kinh nghiệm trong việc chống chuyển và hợp tác trong việc đào tạo
chuyên môn cho nhân sự Việt Nam khi có yêu cầu. Về phía Việt Nam cần phải tiến hành
rất nhiều thủ tục hoàn thiện về mặt pháp lý như quy định như thế nào là chuyền tiền lậu,
nếu đã xác định chuyển ngân lậu thì cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết, mức độ
giải quyết như thế nào…
2.5. Thực trạng phòng chống rửa tiền của các ngân hàng thƣơng mại tại Việt Nam
Nhìn chung, NHTM Việt Nam trong việc phòng chống rửa tiền chỉ dừng lại ở mức độ
ban đầu như:
Xây dựng hệ thống thanh tra, giám sát trong hệ thống.
Xây dựng quy trình phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Thành lập trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc NHNN. Trung tâm
61
này nằm trong thanh tra NHNN, mới ở giai đoạn phát triển ban đầu với số lượng
nhân viên hạn chế.
2.5.1. Phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước, một trong những ngân
hàng đi tiên phong trong công tác này là ACB. Kết thúc năm 2011 đầy sóng gió và khó
khăn, ACB một lần nữa khẳng định vị thế một ngân hàng hàng đầu trong ngành ngân
hàng Việt Nam. Lợi nhuận hợp nhất trước thuế năm 2011 đạt sấp xỉ 4.203 tỷ đồng, bằng
1,35 lần cùng kỳ năm trước. Trong đó, hoạt động ngân hàng đạt xấp xỉ 4.175 tỷ đồng,
tăng 24% so với năm 2010.
Có thể nói, việc xây dựng quy trình phòng chống rửa tiền đang đặt ra rất cấp
thiết, và ACB đã nhận ra vấn đề nay tương đối sớm. Ngân hàng này xem vấn đề này như
một yếu tố thể hiện tính an toàn trên cổ phiếu. ACB đã từng bước đầu xây dựng quy
trình và bố trí nhân viên tham gia vào công tác phòng, chống rửa tiền và coi quy trình
này là một trong những hoạt động quan trọng của việc giám sát, kiểm toán nội bộ của
ngân hàng. Vấn đề nhận dạng khách hàng và cập nhật thông tin khách hàng được ngân
hàng đăc biệt quan tâm vì ngân hàng không muốn đặt vào tình thế rủi ro.
Theo hướng dẫn của thông tư 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009 của Ngân
Hàng Nhà Nước nhằm hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền, ACB
đã ban hành quy chế phòng chống rửa tiền số 766/NVQĐ-PC.11 ngày 01/07/2011. Trong
đó nêu rõ quy định về hệ thống phòng, chống rửa tiền tại ACB, các giao dịch thuộc
phạm vi phòng, chống rửa tiền, biện pháp phòng, chống rửa tiền và các nội dung khác
liên quan đến việc phòng chống rửa tiền.
Điểm chú ý là trong quy chế có quy định rõ người phụ trách phòng, chống rửa
tiền và đưa ra các dấu hiện nhận biết các giao dịch đáng ngờ.
2.5.1.1. Dấu hiệu định lượng
Giao dịch bất thường, số tiền lớn từ 5 tỷ đồng trở lên hoặc ngoại tệ tương đương
trên tài khoản mới mở.
62
Mục đích mở tài khoản không rõ ràng như việc đóng, mở tài khoản liên tục hoặc
hướng dẫn từ 10 trở lên mở tài khoản với mục đích không rõ ràng.
Giới thiệu khách hàng ngân hàng và đề nghị chi hoa hồng.
Khách hàng có hiệu lực của Visa dưới 30 ngày với số tiền giao dịch từ 10 tỷ đồng
hoặc ngoại tệ tương đương.
Tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản trong cùng ngày.
Có nhiều giao dịch bất thường như đổi tiền thành mệnh giá lớn, thường xuyên chi
trả hoặc bồi thường bảo hiểm cho cùng 1 khách hàng, có sự thay đổi đột biến
trong doanh số giao dịch…
2.5.1.2. Dấu hiệu định tính
Khách hàng che dấu, lẫn tránh, e ngại khi giao dịch.
Đề nghị thưởng hoặc cung cấp những lợi ích khác với điều kiện không trả lời thắc
mắc của nhân viên và phải thực hiện giao dịch nhanh chóng.
Khách hàng từ chối cung cấp chứng từ nhân thân và chứng từ theo quy định.
Thông tin của cùng một khách hàng thay đổi qua các lần giao dịch và dấu hiệu giả
mạo chứng từ.
Chứng từ giao dịch không đúng, không đầy đủ.
Giao dịch có liên quan đến hoạt động tội phạm.
Bên cạnh đó, ACB còn đưa ra quy trình báo cáo các giao dịch tiền mặt phải báo
cáo và giao dịch chuyển tiền thanh toán quốc tế, quy trình báo cáo giao dịch đáng ngờ và
cuối cùng là quy trình tạo và gắn cảnh báo đối với các đối tượng thuộc danh sách cảnh
bảo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điểm đáng chú ý là trong quy trình này, tất cả
các báo cáo đều phải được gửi đến cục phòng chống rửa tiền hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Theo thống kê trong năm 2010 ACB có 221 báo cáo, trong 06 tháng đầu
năm 2011 có 95 báo cáo gửi đến cục phòng chống rửa tiền.
63
Tuy nhiên, qua khảo sát tại Ngân hàng TMCP Á Châu, việc nhận biết thông tin
khách hàng không được thực hiện một cách thường xuyên, không được được áp dụng
rộng rãi với mọi khách hàng mà chỉ những khách hàng nào có mở tài khoản hoặc có thực
hiện giao dịch vay tại Ngân hàng thì mới thực hiện thủ tục nhận biết. Các khách hàng
khác như khách hàng thực hiện giao dịch nộp tiền, rút tiền, cho dù với số lượng bao
nhiêu cũng không nằm trong danh sách khách hàng phải nhận biết, cập nhật thông tin.
Mặt khác, nếu có thực hiện việc nhận biết, cập nhật thông tin thì chỉ dừng lại ở những
thông tin như họ tên, số chứng minh nhân dân, địa chỉ thường trú, các thông tin về giao
dịch hầu như không nằm trong quy trình nhận biết.
2.5.2. Phòng chống rửa tiền tại Ngân Hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam
Là một trong những ngân hàng thương mại nhà nước có uy tín, ngân hàng Ngoại
Thương chiếm 30% thị phần các thanh toán xuất nhập khẩu, 30% chuyển tiền quốc tế
của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Để trở thành một ngân hàng có thương hiệu không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà có vị thế trên thương trường quốc tế, Ngân hàng Ngoại
Thương luôn phấn đấu xây dựng được quy trình phòng chống rửa tiền thích hợp. Trước
khi có nghị định phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Ngoại Thương đã tự xây dựng cho
mình một quy trình tạm thời về phòng chống rửa tiền thông qua các tiêu chí như đưa ra
các quy tắc kiểm tra thông tin khách hàng, xây dựng hệ thống kiểm soát trực tuyến các
giao dịch đáng ngờ…
Ngân hàng Vietcombank được xem là một trong những ngân hàng tuân thủ tương
đối tốt trong công tác phòng ngừa, phát hiện các giao dịch đáng ngờ. Khi phát hiện ra
những dấu hiệu bất thường trong các giao dịch của khách hàng, ngân hàng đều đã báo
cáo đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Theo Ông Lê Như Dương, Trưởng
phòng Quản lý rửa tiền Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì đầu năm 2012,
Vietcombank đã phát hiện được hàng chục giao dịch của cả tổ chức và cá nhân trong
nước chuyển tiền hàng chục tỷ đồng lòng vòng. Sau đây là quy trình phòng, chống rửa
tiền của Vietcombank
64
Sơ đồ 2.1: Quy trình phòng, chống rửa tiền tại Vietcombank
Khách hàng thông thường
Nhận dạng
Có dấu hiệu đáng ngờ
Thu nhập thêm thông tin
Nhận dạng
Có dấu hiệu đáng ngờ
Báo cáo Cục PCRT
Khách hàng thuộc danh sách 1627
Thông tin khách hàng
Nguồn : Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền Ngân hàng Vietcombank
Nhờ việc ban hành quy trình, quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, thì việc
phát hiện ra các giao dịch đáng ngờ ngày càng tăng, thông qua báo cáo chuyển về cục
phòng chống rửa tiền từ 1 giao dịch năm 2006 tăng lên 42 giao dịch năm 2012.
Biều đồ 2.6: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Vietcombank chuyển về cục
phòng, chống rửa tiền qua các năm 2006 - 2012
Nguồn: Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền – Vietcombank
65
2.5.3. Phòng chống rửa tiền tại Ngân Hàng TMCP Quân Đội (MB)
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, Ngân Hàng MB cũng ban hành quy
chế hoạt động phòng chống rửa tiền. Trong quy chế, Ngân Hàng MB đã đưa ra các dấu
hiệu được xem là giao dịch đáng ngờ như:
Thông tin về các khoản góp vốn trong nghiệp tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê tài
chính hoặc ủy thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch về nguồn
gốc.
Thông tin về tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng xn vay vốn không rõ ràng,
minh bạch về nguồn gốc.
Các bên liên quan tới giao dịch cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không
chính xác, không đầy đủ, không nhất quán hoặc thuyết phục cá nhân, tổ chức
cung ứng dịch vụ không báo cáo giao dịch đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hay ủy quyền của các cá nhân, tổ chức có
liên quan đến hoạt động tội phạm nằm trong danh sách thống kê và cảnh báo do
Bộ Công An lập ra nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống rửa tiền và chống sử dụng
tiền hay tài sản để tạo điều kiện hay tài trợ cho hoạt động phạm tội trong hay
ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với số hiện có giá trị lớn hoặc có những
giao dịch đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản.
Ngoài quy định về các giao dịch đáng ngờ, quy chế còn quy định tần suất báo cáo
của bộ phận phòng chống rửa tiền của ngân hàng và các chi nhánh. Hàng tháng bộ phận
phòng chống rửa tiền của ngân hàng phải có trách nhiệm báo cáo các giao dịch nộp, rút
tiền mặt từ 200 triệu trở lên, các giao dịch gửi hoặc rút tiết kiệm từ 500 triệu trở lên, các
giao dịch chuyển tiền thanh toán quốc tế. Còn các chi nhánh phải có trách nhiệm báo cáo
thông tin khách hàng cá nhân, tổ chức, báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch liên quan
đến tội phạm khi phát sinh tại chi nhánh.
66
Bên cạnh quy chế thì Ngân Hàng MB còn ban hành hướng dẫn thực hiện các biện
pháp phòng, chống rửa tiền tại Ngân Hàng. Trong hướng dẫn, Ngân Hàng MB đưa ra
những biện pháp phòng, chống rửa tiền một cách cụ thể như quy định về chính sách
chấp nhận khách hàng, thủ tục nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng…Đặc biệt,
trong hướng dẫn Ngân Hàng MB có những biện pháp phòng chống rửa qua việc kiểm
soát chuyển tiền thanh toán quốc tế như:
Các đơn vị trực thuộc ngân hàng phải lập báo cáo thống kê các giao dịch chuyển
tiền thanh toán quốc tế ra, vào Việt Nam theo từng món chuyển tiền và lưu giữ tại
đơn vị.
Các đơn vị trực thuộc ngân hàng đã được NHNN cấp phép và thực hiện dịch vụ
thanh toán chuyển tiền quốc tế phải thiết lập hệ thống công nghệ thông tin phục
vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
2.5.4. Phòng chống rửa tiền tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Việt Nam (Agribank)
Ngân Hàng Agribank là một trong hai ngân hàng nhà nước chưa cổ phần hóa, vốn
hoạt động ban đầu là 400 tỷ đồng do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam góp 200 tỷ
đồng, Ngân hàng Ngoại thương 100 tỷ đồng và Ngân hàng Nhà Nước 100 tỷ đồng. Tính
đến quý 3/2013 thì tổng tài sản của Ngân Hàng Agribank là 590.796 tỷ đồng, đứng đầu
trong toàn ngành ngân hàng.
Để đảm bảo cho hoạt động của Ngân Hàng Agribank tuân thủ theo các quy định
của nhà nước, các thông lệ quốc tế về phòng chống rửa tiền, tránh các rủi ro pháp lý, rủi
ro hoạt động trên thị trường tài chính trong nước cũng như quốc tế… nên Ngân Hàng
này đã ban hành quy chế phòng chống rửa tiền trong hệ thống. Trong quy chế có quy
định chính sách chung về phòng chống rửa tiền của Ngân Hàng Aribank như: tuân thủ
luật pháp về phòng chống rửa tiền của Việt Nam, không tham gia hoặc trợ giúp hoạt
động rửa tiền, báo cáo và lưu trữ hồ sơ liên quan đến hoạt động rửa tiền đúng quy định.
Bên cạnh chính sách chung về phòng, chống rửa tiền, quy chế đã quy định cụ thể
về chính sách chấp nhận khách hàng và nhận biết khách hàng; rà soát, phát hiện và xử lý
67
các giao dịch đáng ngờ. Thêm vào đó quy chế còn quy định rõ trách nhiệm của trụ sở
chính, chi nhánh và các bộ phận, cán bộ làm đầu mối về phòng chống rửa tiền.
Đặc biệt Ngân Hàng Agribank rất chú trọng đến công tác đào tạo nghiệp vụ
phòng chống rửa tiền cho nhân viên. Hằng năm, Ngân Hàng này xây dựng và thực hiện
chương trình đào tạo và nâng cao nhận thức về các biện pháp phòng chống rửa tiền cho
hàng trăm cán bộ nhân viên Ngân Hàng.
2.5.5. Phòng chống rửa tiền tại Chi nhánh Ngân hàng nƣớc ngoài
Bên cạnh các ngân hàng thương mại cổ phần, việc phòng, chống rửa tiền đã được
chi nhánh các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thực hiện từ rất lâu trước khi có nghi
định 74 ở Việt Nam. Đối với ngân hàng thương mại có đẳng cấp quốc tế thì việc xây
dựng quy trình phòng chống rửa tiền là việc làm tất yếu. Tại các chi nhánh ngân hàng
này, quy trình phòng chống rửa tiền được xây dựng dựa trên hai nền tảng: thứ nhất là căn
cứ theo quy định của tập đoàn, thứ hai là tuân theo nghị định 74 về phòng chống rửa tiền
ở Việt Nam. Do có một số khác biệt về luật pháp nên quy trình này có một số thay đổi
như mức giao dịch đáng ngờ để phù hợp với nghị định 74.
Tập đoàn ngân hàng HSBC là một trong những tổ chức dịch vụ tài chính ngân
hàng lớn nhất thế giới đã bắt đầu hoạt động tại Sài Gòn- Việt Nam cách đây 100 năm,
được coi là một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Sau thời gian
dài hoạt động thì tổng tài sản của ngân hàng lên này là khoảng 53.318,6 tỷ đồng, vốn
điều lệ 300 tỷ đồng, là ngân hàng có tổng tài sản lớn rất nhiều so với các ngân hàng có
vốn đầu tư 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng HSBC có hai chi nhánh ở Thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội và một văn phòng đại diện tại Cần Thơ cung cấp nhiều sản phẩm và
dịch vụ trong đó có dịch vụ ngân hàng công ty, dịch vụ ngân hàng cá nhân. Đây là một
trong những tập đoàn tham gia vào chương trình phòng chống rửa tiền toàn cầu của hiệp
hội Wolfberg (một hiệp hội 12 ngân hàng toàn cầu trong đó có HSBC). Cũng như các chi
chánh của HBSC trên thế giới, HSBC tại Việt Nam cũng xây dựng bộ phận thông tin tài
chính của ngân hàng HSBC.
Nhìn chung quy trình phòng, chống rửa tiền của ngân hàng HSBC tại Việt Nam
68
cũng tương đối chặt chẽ từ các bước nhận dạng, kiểm tra, điều tra, báo cáo và hành
động. Đặc biệt là ở bước điều tra, ngân hàng HSBC có riêng một nhóm điều tra để tiến
hành tìm hiểu rõ các giao dịch, điều tra thông tin khách hàng nếu giao dịch của khách
hàng bị nghi ngờ. Đây là bước cần thiết trong quy trình phòng, chống rửa tiền để phân
nhóm khách hàng quản lý. Thêm vào đó, ngân hàng HSBC đã ứng dụng công nghệ để
báo cáo các giao dịch đáng ngờ.
Sơ đồ 2.2: Quy trình phòng, chống rửa tiền của HSBC Việt Nam
Các báo cáo và ứng dụng Nhận dạng
Kiểm tra
Điều tra
Một nhóm điều tra tiến hành hiểu rõ hơn các giao dịch, hoạt động kinh doanh của khách hàng, thu thập thêm thông tin từ khách hàng
Báo cáo
Nếu khách hàng/giao dịch bị nghi ngờ Hành động
Nguồn: Ngân hàng thế giới, 2006. Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội
Bên cạnh HSBC, ngân hàng Standard Charted (S&C) cũng là một trong những
ngân hàng lớn của thế giới, có trụ sở tại Anh và đặt chi nhánh tại nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Hoạt động của ngân hàng này chủ yếu ở khu vực Châu Phi,
Nam Á và Trung Đông. Ngân hàng này có trụ sở tại Việt Nam từ năm 1954, đến 1999
trở lại Hà Nội tiếp tục công việc kinh doanh. Nhóm khách hàng của S&C là các công ty
đa quốc gia, công ty xuất nhập khẩu vừa và nhỏ. Sản phẩm của ngân hàng này liên quan
đến ngoại tệ, ngoại hối, chuyển tiền, dịch vụ phái sinh gửi tiền, tư vấn sử dụng vốn vay,
cho vay dự án. Hiện nay, tại S&C tại Việt Nam đã xây dựng được quy trình phòng,
69
chống rửa tiền về các giao dịch đáng ngờ. Trong việc xác định những dịch vụ có rủi ro bị
lợi dụng vào mục đích rửa tiền, ngân hàng này quan tâm đến các giao dich như gởi tiền,
chuyển tiền, chuyển séc sang tiền mặt, kinh doanh chứng khoán giao dịch với các ngân
hàng ở các nước có quy định dễ dãi về tài chính.
2.6. Đánh giá kết quả của công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam trong thời gian qua
2.6.1. Những kết quả đạt đƣợc
Qua phân tích ở trên, với sự nỗ lực của các cơ quan chức năng đặt biệt là Ngân
Hàng Nhà Nước và sự hợp tác của các ngân hàng thì công tác phòng, chống rửa tiền qua
hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được một số kết quả
Một là: Luật phòng chống rửa tiền đã được ban hành và chính thức có hiệu lực
ngày 01/01/2013.
Hai là: Thành lập được Trung tâm thông tin, phòng chống rửa tiền (nay là cục
phòng chống rửa tiền), là đơn vị trực thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Ba là: Hiện Việt Nam là thành viên thứ 33 của APG và được tổ chức này đánh giá
là đa phương vào năm 2009.
Bốn là: Hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam được sự hỗ trợ của nhiều tổ
chức quốc tế đặt biệt là WB, IMF, ADB.
Năm là: Hầu hết các ngân hàng thương mại đều có những quy định nội bộ về
phòng, chống rửa tiền. Đồng thời quy định về quy trình báo cáo các giao dịch đáng ngờ
và trách nhiệm của các nhân viên được phân công giám sát, kiểm tra những giao dịch
loại này.
2.6.2. Những tồn tại trong công tác phòng, chống rửa tiền
Bên cạnh những kết quả đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền hiện nay thì
vẫn còn tồn tại.
2.6.2.1. Các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp
70
luật về phòng, chống rửa tiền
Theo quy định thì các ngân hàng phải có trách nhiệm báo cáo các giao dịch đáng
ngờ cũng như các giao dịch vượt ngưỡng … Nhưng thực tế Cục phòng, chống rửa tiền
nhận được số lượng báo cáo rất hạn chế, không phản ánh được hết tiềm năng rửa tiền ở
Việt Nam.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng đều có quy trình phòng chống rửa tiền theo luật
định, tuy nhiên quy trình chỉ mang tính chất đối phó và tính thực tiễn không cao.
2.6.2.2. Yếu tố nội tại của Ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện,
nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng thấp trong tổng tài sản ngân hàng. Thêm vào đó, tình
hình huy động trên thị trường gặp khó khăn cộng thêm áp lực tăng vốn theo yêu cầu của
Ngân Hàng Nhà Nước, nên tạo cơ hội cho tội phạm rửa tiền do các ngân hàng thương
không quan tâm đến nguồn gốc tiền gửi.
2.6.2.3. Cơ sở vật chất của các ngân hàng thương mại, Cục phòng, chống rửa tiền
chưa thể đáp ứng được yêu cầu phòng, chống rửa tiền
Do hạn chế về công nghệ thông tin tại các ngân hàng thương mại cũng như ở Cục
phòng, chống rửa tiền Việt Nam nên khả năng xử lý các báo cáo vượt ngưỡng không cho
phép. Hiện tại, trừ một số ngân hàng lớn thì hầu như tại các ngân hàng thương mại chưa
có được phần mền tiến tiến phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
Nhiều ngân hàng thương mại cũng đã nghĩ đến việc trang bị phần mền tự động để
phòng chống rửa tiền, tuy nhiên, phần mền này thường rất đắt khoảng trên 2 triệu USD.
Đây quả thật là khoản đầu tư khá lớn khiến các ngân hàng phải suy nghĩ lại.
2.6.2.4. Đội ngũ cán bộ còn mỏng tại cục và tại ngân hàng
Thực tế thì số lượng cán bộ chuyên trách phòng chống rửa tiền ở cục và tại ngân
hàng còn rất ít.
Mặc khác, xét về chất lượng thì không cao, đặt biệt là tại các ngân hàng thì đa
phần nhân sự làm ở bộ phận phòng chống rửa tiền đều là kiêm nhiệm,
71
Còn đối với nhân viên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng hầu hết chưa được đào
tạo về nghiệp vụ phòng, chóng rửa tiền.
2.6.2.5. Vấn đề nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền
Thực tế có những nhận thức sai lầm về công tác phòng, chống rửa tiền, chẳng
hạn:
Phòng chống rửa tiền sẽ làm giảm huy đồng tiền nhàn rỗi trong dân cư
Ngay khi nghị định 74 về phòng chống rửa tiền được ban hành, thì đã gây ra việc
tranh cãi liệu mức giao dịch cần phải báo cáo quá thấp sẽ ảnh hưởng đến tâm lý người
gửi tiền, gây phiền hà cho khách hàng khiến họ ngại gửi tiền tại ngân hàng.
Phòng, chống rửa tiền là nhiệm vụ của nhà nước, ngân hàng
Nhiệm vụ phòng chống rửa tiền được hiểu là nhiệm vụ của nhà nước, không liên
quan gì đến hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Do đó, việc này vẫn
chưa được xem trọng trong nhận thức của công chúng về phòng, chống rửa tiền.
Chính những sai lầm trong nhận thức nêu ở trên đã phần nào cản trở việc thực thi
chính sách phòng, chống rửa tiền.
2.6.3. Nguyên nhân của những tồn tại
2.6.3.1. Chưa có tuyên truyền đúng mức
Xuất phát từ những nhận thức sai lầm về chính sách phòng, chống rửa tiền nên
các chủ thể trong nền kinh tế thường xu hướng thanh toán tiền mặt thay vì thanh toán
qua ngân hàng hoặc tìm một kênh đầu tư mới như vàng, bất động sản thay vì gửi tiền ở
các ngân hàng như trước đây. Do đó, nếu không có sự tuyên truyền đúng mức về mục
tiêu của chính sách này thì sẽ gây hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế nói chung và hoạt
động của ngân hàng nói riêng.
2.6.3.2. Chi phi đầu tư phần mền chống rửa tiền khá lớn so với quy mô của các ngân
hàng thương mại
Nhận thức được tiện ích của phần mền trong việc phòng, chống rửa tiền. Tuy
72
nhiên, do chi phí đầu tư phần mền tương đối lớn so với quy mô của các ngân hàng
thương mại nhất là các ngân hàng nhỏ, mới chuyển đổi mô hình.
2.6.3.3. Quyền lợi của ngân hàng chưa được xem trọng
Chắc chắn khi ngân hàng giúp các cơ quan chức năng ngăn chặn các khoản tiền
bất hợp pháp vào hệ thống tài chính ngân hàng để đảm bảo an ninh tài chinh quốc gia họ
đã phải tốn những chi phí nhất định và thiệt hại nhất định. Tuy nhiên quyền lợi của ngân
hàng trong quá trình phát hiện và xử lý các khoản tiền có nguồn gốc phạm tội chưa được
đề cập đến. Do đó cũng hạn chế việc thực hiện nghĩa vụ khai báo các nghi vấn về các
giao dịch đáng ngờ tại các ngân hàng.
2.6.3.4. Luật phòng chống rửa tiền mới được ban hành, chưa được biết đến rộng rãi
Luật phòng chống rửa tiền mới được ban hành cách đây mấy tháng do đó chưa
được nhiều người biết đến và mức thẩm thấu luật chưa nhiều, cần phải có thời gian để
luật mới này đi vào đời sống.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong chương 2, tác giả đã điểm qua tình hình kinh tế xã hội Việt Nam nói chung
và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng. Từ đó tác giả phân tích những cơ hội cũng
như khe hở cho bọn phạm tội sử dụng để thực hiên hành vi rửa tiền. Đồng thời tác giả
còn phân tích thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trên cơ sở hợp tác
quốc tế. Qua đó đưa ra những điểm làm được và chưa làm được trong quá trình triển
khai thực hiện, tìm ra nguyên nhân của những việc chưa làm được. Trên cơ sở đó, tác giả
sẽ đưa ra giải pháp phòng chống rửa tiền qua ngân hàng trong chương 3 của luận văn để
góp phần làm lành mạnh hệ thống ngân hàng Việt Nam.
73
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM
3.1. Định hƣớng của chính phủ về phòng, chống rửa tiền
Trước khi đưa ra giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam, chúng ta cần phải tìm hiểu định hướng của chính phủ về hoạt động phòng, chống
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để hoạt động này đạt được được một số kết
quả nhất định thì cần phải hướng tới các mục tiêu sau:
3.1.1. Định hƣớng chung
Thứ nhất: gắn phòng chống rửa tiền với chống tài trợ khủng bố
Mặc dù dưới góc độ khoa học tội phạm học, rửa tiền, tài trợ khủng bố và khủng
bố là ba tội phạm độc lập và riêng biệt. Tuy nhiên, nếu xét về đặc điểm hình sự tội phạm,
về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm và cách thức tổ chức các hoạt động
phòng ngừa và đấu tranh thì giữa tài trợ khủng bố và rửa tiền lại có nhiều điểm tương
đồng hơn là giữa tài trợ khủng bố và bản thân hoạt động khủng bố. Trên thực tế, các thủ
đoạn được sử dụng để rửa tiền cũng tương tự như các thủ đoạn được dùng để che giấu
nguồn gốc các khoản tiền sử dụng cho mục đích tài trợ khủng bố. Do vậy, các biện pháp
phòng, chống tài trợ khủng bố (chứ không phải là các biện pháp phòng, chống khủng
bố), về cơ bản, cũng bao gồm việc nhận biết khách hàng, báo cáo các giao dịch đáng
ngờ, phong tỏa, tịch thu tài sản, hợp tác quốc tế và các quy định liên quan đến chuyển
tiền điện tử, chuyển tiền thay thế giống như các quy định về phòng chống rửa tiền.
Chính vì những đặc điểm tội phạm học tương đồng nêu trên, nên các nước như Liên
bang Nga, Australia… mặc dù đều có luật chống khủng bố riêng, nhưng vấn đề tài trợ
khủng bố vẫn được quy định trong Luật Phòng, chống rửa tiền.
Dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, việc đưa rửa tiền và tài trợ khủng bố vào điều
chỉnh trong cùng một đạo luật sẽ tạo thành một khung pháp lý thống nhất cho hai loại tội
phạm có liên quan chặt chẽ, hình thức, thủ đoạn tương đồng, đồng thời, khi xây dựng
Luật Chống khủng bố sẽ tránh được việc lặp lại không cần thiết các quy định tương tự
để phòng, chống tài trợ khủng bố như: nhận biết khách hàng, báo cáo các giao dịch đáng
74
ngờ, phong tỏa, tịch thu tài sản, hợp tác quốc tế và các quy định liên quan đến chuyển
tiền điện tử, chuyển tiền thay thế giống như các quy định về phòng, chống rửa tiền.
Thứ hai: xây dựng cơ quan tình báo tài chính (Financial Intelligence Unit-FIU)
với chức năng và vai trò theo khuyến nghị số 26 của FATF.
Hiện nay, Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN Việt Nam, mà NHNN
Việt Nam chỉ là cơ quan ngang bộ – chưa có vị trí độc lập như các cơ quan tình báo tài
chính của các quốc gia khác. Ví dụ như Indonesia đã có FIU vào năm 2002 theo một đạo
luật của quốc hội; Philippines có Hội đồng chống rửa tiền (AMLC), cũng là FIU của
Philippines, luật chống rửa tiền cho phép AMLC huy động sự hỗ trợ của bất kỳ nhánh
nào thuộc Chính phủ…
Thứ ba: phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.
Phấn đấu đến cuối năm 2015, tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ở
mức thấp hơn 11%; tăng mạnh số người dân được tiếp cận các dịch vụ thanh toán, nâng
tỷ lệ người dân có tài khoản tại ngân hàng lên mức 35 – 40% dân số. Đây là một vấn đề
khó khăn, nhưng Việt Nam phải từng bước thực hiện. Việc phát triển hệ thống thanh toán
không dùng tiền mặt như thế nào là một đề tài nghiên cứu khoa học được đầu tư thỏa
đáng.
3.1.2. Định hƣớng trong lĩnh vực ngân hàng
Ngân hàng là một trong một mắc xích quan trọng trong việc phòng, chống rửa
tiền. Ngoài những định hướng chung được nêu ở phần trên thì riêng trong lĩnh vực ngân
hàng cần có những định hướng cụ thể hơn để công tác phòng , chống rửa tiền đạt hiệu
quả cao
Thứ nhất: Tăng cường phát triển hệ thống tài chính Việt Nam trên tinh thần lành
mạnh và bền vững. Từ đó nâng cao chất lượng giám sát và quản lý rủi ro, ngăn chặn hiệu
quả tội phạm rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thứ hai: Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các ngân hàng nước ngoài
nhằm học hỏi kinh nghiệm cách thức xây dựng hệ thống phòng, chống rửa tiền.
75
Thứ ba: Phát triển hệ thống giám sát tự động để phát hiện nhanh các giao dịch
đáng ngờ, đồng thời giảm áp lực trong công tác báo cáo các giao dịch vượt ngưỡng, giao
dịch đáng ngờ…
Thứ bốn: Phát triển các loại hình dịch vụ không dùng tiền mặt để khuyến khích
khách hàng thay đổi thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán.
3.2. Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
3.2.1. Giải pháp vĩ mô
3.2.1.1. Nhóm giải pháp thuộc về chính phủ
Một là: Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng chống rửa tiền
Như đã phân tích ở trên, do các hành vi rửa tiền thực hiện rất tinh vi và trong
phạm vi rất rộng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau ngoài cả lĩnh
vực ngân hàng, do đó việc tự do hóa các giao dịch thanh toán và đầu tư quốc tế và chống
rửa tiền chỉ có thế thành công nếu như chúng ta có được một cơ chế phối hợp thực hiện
giữa các cơ quan chức năng trong nước như NHNN, bộ tài chính, các công ty kiểm toán,
công an, tư pháp…Cơ chế phối hợp này hiện nay vẫn chưa hiện hữu trong thực tế.
Ngoài ra, cơ chế phối hợp ở tầm cao hơn là sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia,
các tổ chức quốc tế, với cơ quan tình báo về tài chính quốc tế… tạo ra hiệu quả nhanh
chóng trong việc phòng chống rửa tiền trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Việt Nam
phải tích cực tham gia vào tổ chức chống rửa tiền để tiếp cận được sớm nhất phương
thức rửa tiền mới cũng như những phương pháp phòng, chống rửa tiền hiệu quả. Nên lấy
đề xuất 40+9 của FATF là khung pháp lý cơ bản để “phái sinh” ra các biện pháp chống
rửa tiền mang đặc thù Việt Nam. Điều này có nghĩa là một mặt chung ta không nhất thiết
phải tuân thủ hoàn toàn các đề xuất của FATF nhưng mặt khác phải điều chỉnh theo
những thay đổi liên tục trong các khuyến nghị của FATF cho phù hợp với các diễn biến
mới nhất. Hơn nữa, việc áp dụng những kiến nghị của FATF Việt Nam mới chứng minh
với thế giới quyết tâm thực sự của mình trong việc tuyên chiến chống lại tội phạm tham
nhũng và các tội phạm khác có liên quan đến hoạt động rửa tiền.
76
Hai là: Tạo hành lang pháp lý vững chắc, đồng bộ
Hiện nay, chúng ta đã có luật phòng, chống rửa tiền phần nào đã thể hiện quyết
tâm trong công tác phòng, chống rửa tiền. Nhưng để luật này đi vào cuộc sống, chính
phủ cần có những buổi tuyên truyền rộng rãi để các ngân hàng nói riêng và các tổ chức,
cá nhân khác nói chung được biết. Qua đó giúp toàn dân có cái nhìn đúng đắn về công
tác phòng, chống rửa tiền. Đồng thời qua đó có những kiến thức cơ bản để nhận dạng
hành vi rửa tiền cơ bản trong xã hội.
Thêm vào đó, trong các văn bản luật về đầu tư , tiền tệ, kinh doanh (khi chỉnh sửa
hoặc ban hành mới) cần chú ý đến các điều khoản có trong luật phòng chống rửa tiền.
Nhất là trong lĩnh vực chứng khoán, một lĩnh vực tài chính đang phát triển rất nóng hiện
nay thì cần phải đảm bảo an ninh tài chính chống rửa tiền qua hoạt động đầu tư chứng
khoán bên cạnh việc tạo môi trường đầu tư thông thoáng bình đẳng. Bên cạnh đó, chính
sách thuế ảnh hưởng đến vấn đề đầu tư, phân phối thu nhập, do đó cần phải phối hợp với
chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhằm hướng tới mục tiêu chung là phòng, chống rửa
tiền, đảm bảo lợi ích của các quốc gia.
Bên cạnh đó, pháp lệnh ngoại hội cần phải sửa đổi trong thời gian tới nhằm mục
tiêu vừa đảm bảo giao thương quốc tế được thuận lợi vừa đảm bảo hạn chế khả năng rửa
tiền của bọn tội phạm.
Ba là: Tích cực phòng chống tội phạm và tham nhũng
Bởi như đã phân tích trong phần trên, tham nhũng chính là nguồn gốc và là rủi ro
lớn nhất dẫn đến tội phạm rửa tiền… Do đó, chính phủ phải chuẩn đoán được và có
những biện pháp kiên quyết đối với các biểu hiện của quản lý sai lầm và tham nhũng
trong cả hai khu vực công và khu vực tư sao cho có khả năng triển khai một chương
trình quốc gia toàn diện và có hiệu quả trong cuộc chiến đấu chống rửa tiền.
Chính phủ cần phải thực hiện tích cực luật phòng chống tham nhũng, nhất là
trong công tác kê khai tài sản của các các bộ nhà nước. Nếu làm tốt công tác này thì hứa
hẹn sẽ góp phần không nhỏ vào thành công tác phòng, chống rửa tiền do giảm đáng kể
nguồn tiền bẩn có nhu cầu cần rửa sạch. Sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu
77
quả phòng, chống tham nhũng:
(i) Cần có những chính sách kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của các tổ chức,
cá nhân, đặt biệt quan tâm đến các yếu nhân lợi dụng chức, quyền để tham nhũng. Qua
đó ngăn chặn được phần nào hậu quả của tham nhũng gây ra.
(ii) Cần phải có xử phạt nghiêm minh trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Tịch thu những tài sản do tham nhũng mà có để làm quỹ khen thưởng cho người có công
trong công tác phòng chống tham nhũng.
(iii) Áp dụng phương thức quản lý theo cơ chế một cửa, cải cách thủ tục hành
chính làm giảm thiểu cơ hội tham nhũng xãy ra.
(iv) Thành lập tổng cục điều tra ở trung ương cũng như cục điều tra ở các tỉnh để
đảm bảo tính độc lập, khách quan trong quá trình điều tra.
(v) Đào tạo cán bộ chuyên sâu cho hoạt động phòng chống tham nhũng. Do hoạt
động tham nhũng ngày càng phức tạp nên đòi hỏi cán bộ chống tham nhũng phải có
trình độ chuyên môn cao. Thêm vào đó là tinh thần trách nhiệm, không sợ thế lực, không
vì lợi ích cá nhân, dám đấu tranh chống tham nhũng, với tinh thần dám nói, dám làm.
(vi) Đảm bảo cuộc sống cho những cán bộ, công nhân viên qua thu nhập hàng
tháng và những phụ cấp. Vì khi đảm bảo được cuộc sống một cách hợp lý thì các cán bộ,
công nhân viên sẽ giảm bớt động cơ tham nhũng, nhiệt tình trong công việc. Do đó cần
có sự quan tâm xác đáng lẫn vật chất và tinh thần cho những cán bộ, công nhân viên này.
Bốn là: Hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán
Như đã phân tích ở chương 2, Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, là điều kiện thuận
lợi trong việc rửa tiền. Để góp phần hạn chế rửa tiền thông qua hình thức này, chính phủ
cần phải:
(i) Ban hành các chính sách bắt buộc các giao dịch mua bán, trao đổi có giá trị lớn
mà bất động sản, mua bán Ô tô … phải được thanh toán qua ngân hàng. Nếu không, nhà
nước sẽ không công nhận quyền sở hữu đối với giao dịch tiền mặt này.
78
(ii) Ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với các tổ chức sử dụng dịch
vụ thanh toán cũng như đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán.
(iii) Kết hợp với các chuyên gia đầu ngành tuyển dụng và đào tạo chuyên sâu đội
ngũ cán bộ trong lĩnh vực thanh toán. Nhằm xây dựng chiến lược cho quốc gia để phát
triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
Năm là: Thành lập trung tâm thông tin tài sản quốc gia
Thông tin của trung tâm được tổng hợp từ nhiều nguồn như Bộ tài nguyên, môi
trường, Bộ công an, Bộ giao thông vận tải, ngân hàng nhà nước. Trên nguyên tắc bảo
mật thông tin, Trung tâm chỉ cung cấp thông tin cho các cơ quan điều tra, các nhà hoạt
định chính sách. Đây là ý tưởng rất hay nhằm giúp các cơ quan chức năng nắm được
tổng tài sản của các cá nhân, tổ chức một cách đầy đủ và kịp thời. Điều này rất có ý
nghĩa trong nhiều lĩnh vực như thuế, tham nhũng, rửa tiền …
3.2.1.2. Nhóm giải pháp thuộc về Ngân Hàng Nhà Nước
Một là: Phối hợp cục phòng, chống rửa tiền và bộ công an
Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng chỉ thật sự hiệu quả khi có sự hợp
tác chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan như Thuế, Hải Quan, Ngân Hàng Nhà Nước,
Cục phòng chống ma túy và tệ nạn …Và đặt biệt là cần sự phối hợp chặt chẽ giữa cục
phòng, chống rửa tiền và bộ công an, sau đây là một vài giải pháp nhằm tăng cường phối
hợp hiệu quả :
(i) Bộ công an phải có sự phản hồi về kết quả điều tra các giao dịch đáng ngờ mà
Cục phòng, chống rửa tiền chuyển đến
(ii) Cục phòng, chống rửa tiền cần thường xuyên cập nhật “danh sách đen” từ Bộ
công an để cung cấp thông tin cho các ngân hàng
(iii) Cộng tác với nhau để nghiên cứu các loại hình rửa tiền để từ đó đưa ra
phương pháp điều tra cũng như ngăn chặn thích hợp
Hai là: Hỗ trợ ngân hàng trong công tác phòng chống rửa tiền
79
Để giúp đỡ các ngân hàng thương mại trong công tác phòng chống rửa tiền thì
Ngân hàng nhà nước cần phải:
(i) Có những hướng dẫn cụ thể để ngân hàng dễ dàng thực hiện để khi luật rửa
tiền chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2013 thì mọi thứ đã sẵn sàng.
(ii) Trong các văn bản nghiệp vụ của ngành ngân hàng cũng cần chú ý tới các quy
định về phòng, chống rửa tiền, đặt biệt là trong lĩnh vực thanh toán nội địa và thanh toán
quốc tế.
(iii) Biên soạn cẩm nang phòng, chống rửa tiền và phổ biến cho các ngân hàng
thương mại như một nghiệp vụ cần thiết để các ngân hàng này thực hiện hằng ngày.
Ba là: Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin cho cục phòng, chống rửa tiền và
trong giao dịch thanh toán liên ngân hàng
Như đã phân tích ở trên, vì thiếu trang bị hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến
mà việc tổng hợp các báo cáo các giao dịch phải báo cáo tại cục phòng, chống rửa tiền
quốc gia gặp khó khăn. Do vậy để Cục phòng, chống rửa tiền có thể kịp thời phát hiện
những giao dịch có nguy cơ rửa tiền thì NHNN cần phải đầu tư hệ thống công nghệ
thông tin về phòng, chống rửa tiền cho cục.
Bên cạnh đó, việc thanh toán liên ngân hàng còn chậm chạp làm tăng lượng lưu
thông tiền mặt trong giao dịch. Do đó cần phải ứng dụng phần mền tiến trong giao dịch
thanh toán liên ngân hàng để giảm lượng lưu thông tiền mặt trong thanh toán. Từ đó
giảm rủi ro bị lợi dụng rửa tiền do thói quen sử dụng tiền mặt quá nhiều.
Bốn là: Ban hành các quy chế giám sát, thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ các
quy định về phòng chống rửa tiền
Theo đề xuất của Basel II thì Ngân hàng nhà nước phải thực hiện kiểm toán bắt
buộc hàng năm để NHNN kiểm soát được các hoạt động tài chính bất hợp pháp, các
thông tin nội bộ bị tiết lộ hoặc các hoạt động lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.
Việc ban hành quy chế giám sát giúp cho các cơ quan thuộc ngân hàng nhà nước
chủ động hơn trong việc thanh tra giám sát các ngân hàng thương mại, tránh trường hợp
80
làm cho có của các ngân hàng thương mại.
Năm là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền, thường xuyên
tổ chức các buổi tọa đàm về phòng, chống rửa tiền với các ngân hàng thương mại
Công tác tư tưởng trong việc phòng, chống rửa tiền là hết sức quan trọng.Sự thất
bại của nghị định 74 một phần là do không làm tốt công tác này. Rút kinh nghiệm từ
điều đó nên Ngân hàng nhà nước cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng,
chống rửa tiền.
Cần có những lớp đào tạo cho các cán bộ ngân hàng, người trực tiếp với khách
hàng để có những giải thích rõ ràng cho khách hàng về công tác phòng, chống rửa tiền
của ngân hàng. Giúp khách hàng hiểu rằng việc báo các giao dịch phải báo cáo là nhiệm
vụ của ngân hàng và mọi thông tin của khách hàng sẽ không bị tiết lộ ra ngoài.
Bên cạnh đó việc tổ chức tọa đàm với các ngân hàng thương mại nhằm trao đổi
thông tin 2 chiều giữa cục phòng chống rửa tiền và các ngân hàng thương mại. Qua đó
đưa ra những vướng mắc trong quá trình tác nghiệp của hai bên. Từ đó đưa ra biện pháp
giải quyết nhằm tăng hiệu quả trong công tác phòng, chống rửa tiền
3.2.2. Giải pháp vi mô
3.2.2.1. Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng thương mại
Một là: Hoàn thiện, phát triển dịch vụ ngân hàng và thúc đẩy phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt
Thói quen sử dụng tiền mặt là một trong những nguyên nhân khiến hoạt động rửa
tiền dễ xâm nhập vào Việt Nam. Do đó, việc thay đổi thói quen này là cần thiết trong
cuộc chiến phòng, chống rửa tiền. Để làm được điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải hoàn
thiện, phát triển dịch vụ ngân hàng đặt biệt là dịch vụ thẻ. Cụ thể:
(i) Tăng tiện ích của thẻ thanh toán nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú
của khách hàng
81
(ii) Tăng về số lượng đơn vị chấp nhận thẻ, áp dụng rộng rãi ở tất cả các cửa
hàng, cửa hiệu buôn bán ở khắp các tỉnh thành, chứ không riêng gì các trung tâm thương
mại, thành phố lớn.
(iii) Bố trí hợp lý các máy rút tiền, đảm bảo sự tiện lợi và an toàn cho người rút
tiền
Hai là: Lựa chọn đối tác tin cậy góp phần giảm rủi ro rửa tiền
Việc chọn đối tác ở nước ngoài như ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận
cũng như lựa chọn cổ đông chiến lược là các tổ chức nước ngoài dựa vào rất nhiều yếu
tố. Nhưng trước tiên phải là tổ chức có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ
các quy định quốc tế về rửa tiền làm đối tác trong hoạt động thanh toán quốc tế. Như thế
phần nào tránh việc bị lợi dụng mở L/C và các phương thức tài trợ thương mại khác
nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia. Đặt biệt, khi lựa chọn đối tác cần xem xét xem có
nằm trong các nước và vùng lãnh thổ không tuân thủ theo đánh giá của tổ chức FATF
hay không. Nếu đối tác nằm trong danh sách cảnh báo của FATF thì cần phải có những
xem xét kỹ lưỡng, trình cấp thẩm quyền phê duyệt xem có nên thiết lập mối quan hệ mới
này hay không.
Ba là: Phân nhóm khách hàng để theo dõi
Trong luật phòng, chống rửa tiền có phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro. Tùy
vào mức độ rủi ro của khách hàng mà ta có những ứng xử khác nhau. Đặc biệt, đối với
khách hàng có mức rủi ro cao như khách hàng nằm trong danh sách đen FATF, những
nhân vật và người thân có liên quan đến chính trị, cá nhân có tổng tài sản cao, các tổ
chức phi lợi nhuận … thì cần có những biện pháp đánh giá tăng cường.
Tuy nhiên, theo tác giả bên cạnh phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thì cần theo
dõi bổ sung về nhóm khách hàng liên quan. Nhóm khách hàng liên quan được hiểu là
nhóm khách hàng có quan hệ gia đình với nhau, cụ thể là cha, mẹ, con, vợ chồng. Việc
theo dõi theo nhóm khách hàng liên quan rất có ý nghĩa trong việc điều tra tài sản của
các yếu nhân.
82
Thêm vào đó, cần thành lập chính sách phân khúc đối với khách hàng mới và
khách hàng hiện hữu. Căn cứ những thông tin chứng minh nhân dân, hộ khẩu, nghề
nghiệp, tuổi tác … mà ta xác định danh tính của khách hàng mới. Còn đối với khách
hàng hiện hữu thì ngoài xác định danh tính thì cần xác định thêm hoạt động sản xuất
kinh doanh, tình trạng nhân thân, nguồn thu nhập chính của khách hàng.
Khi tiếp nhận hồ sơ và nhận dạng khách hàng, nhân viên ngân hàng nên xác định
được khách hàng thực sự của ngân hàng là ai, khách hàng đang giao dịch cho chính
mình hay giao dịch đại diện. Việc xác định này nhằm giúp ngân hàng có những chính
sách phục vụ khách hàng một cách hợp lý và hiệu quả. Đồng thời, điều này giúp ngân
hàng phân loại nhóm khách hàng theo mức độ rủi ro để dễ quản lý.
Bên cạnh đó, cần phải chú ý đến những khách hàng giao dịch không thường
xuyên nhưng giá trị giao dịch lớn, thuộc đối tượng báo cáo theo quy định NHNN hoặc
những giao dịch có dấu hiệu nghi ngờ như sử dụng hộ chiếu tẩy xóa, thời hạn visa nhỏ
hơn 30 ngày, không trả lời những câu hỏi của nhân viên giao dịch, thực hiện hàng loạt
các lệnh chuyển tiền lòng vòng qua nhiều tài khoản khác nhau … Khi phát hiện ra
những giao dịch có những dấu hiệu trên cần phải báo cáo ngay cho cấp trên của mình để
có những hướng xử lý hợp lý, đúng quy định.
Bốn là: Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền
Quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền của các ngân hàng thương mại được
xây dựng giúp ngân hàng có thể chủ động hơn trong công tác phòng, chống rửa tiền. Do
đó các ngân hàng cần phải triển khai thực hiện một cách nghiêm túc quy trình này, tránh
trường hợp làm cho có như thực tế xãy ra trong thời gian qua.
Năm là: Đào tạo năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và kiến thức về
phòng chống rửa tiền cho nhân viên ngân hàng
Để phát hiện và ngăn chặn tội phạm rửa tiền thì đòi hỏi nhân viên ngân hàng phải
có trình độ chuyên môn và kiến thức nhất định về loại tội phạm này. Ngân hàng sẽ
không làm gì được nếu nhân viên của họ không biết có sự tồn tại về loại tội phạm này.
Vì thế ngân hàng nên phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước, có kinh nghiệm
83
trong lĩnh vực này để đào tạo cho nhân viên biết theo dõi, nhận biết, cập nhật thông tin
về khách hàng.
Song song đó, việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên ngân hàng cũng
là một việc không kém phần quan trọng, bởi tội phạm có thể mua chuộc để tiếp tay cho
các hoạt động phạm tội của chúng. Việc đảm bảo đời sống của nhân viên bằng chính
đồng lương của họ là biện pháp hữu hiệu để giúp họ không bị lầm đường lạc lối.
Sáu là: Áp dụng công nghệ thông tin vào hệ thống ngân hàng
Lĩnh vực ngân hàng luôn là lĩnh vực phải đi đầu trong việc áp dụng công nghệ
tiến tiến vào hoạt động của mình. Nhưng thực tế phần mền phục vụ công tác phòng,
chống rửa tiền không áp dụng được yêu cầu công việc như lọc dữ liệu để làm báo cáo ,
phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro, cảnh báo khách hàng thuộc “danh sách
đen”…Do đó việc trang bị phần mền tiến tiến là điều cấp thiết hiện nay.
Bảy là: chế độ tiền lương, thưởng của nhân viên ngân hàng được chú trọng
Việc chú trọng chế độ tiền lương, thưởng của nhân viên ngân hàng giúp nhân viên
làm việc tích cực hơn, giảm khả năng bị mua chuộc làm nội gián của bọn rửa tiền. Bên
cạnh đó, những khích lệ tinh thần cũng rất cần thiết, một lời khen của giám đốc thật sự
có ý nghĩa rất nhiều đối với nhân viên đạt thành tích tốt. Thêm vào đó, cần có những
thưởng phạt xác đáng đối với nhân viên thực hiện tốt hoặc lơ là các biện pháp phòng
chống rửa tiền của ngân hàng.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp thuộc về các tổ chức khác
Trách nhiệm phòng, chống rửa tiền không phải trách nhiệm của riêng ngành ngân
hàng, đây là trách nhiệm của toàn xã hội. Trách nhiệm các tổ chức hành nghề phi tài
chính liên quan đồng thời là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước như Bộ công an, bộ
tài chính, bộ xây dựng … được quy định rất rõ trong luật phòng, chống rửa tiền.
Thêm vào đó, hoạt động rửa tiền có quan hệ đến nhiều hoạt động tội phạm khác
nhau và nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, việc phòng, chống rửa tiền không thể
một mình ngân hàng có thể thực hiện được mà cần có sự hợp tác của các tổ chức, cơ
84
quan khác. Chính sự hợp tác này sẽ giảm thiểu chi phí và thời gian cho các bên đồng
thời mang lại hiệu quả cao cho công tác phòng, chống rửa tiền.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Từ những tồn tại trong công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam và những
nguyên nhân của nó, tác giả đã đề ra một số giải pháp ở tầm vi mô và vĩ mô. Trong đó ở
tầm vĩ mô, tác giả đã đề xuất những công việc cần phải làm của Chính Phủ cũng như
Ngân Hàng Nhà Nước. Thêm vào đó, ở tầm vi mô tác giả cũng đề xuất nhiệm vụ của các
ngân hàng thương mại và các tổ chức khác. Chủ quan mà nói, nếu thực tốt nhiệm vụ
được đề ra ở trên thì công cuộc phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đạt được
nhiều kết quả như mong muốn.
85
KẾT LUẬN
Trong thời gian gần đây, hàng loạt các ngân hàng lớn trên thế giới vấp phải những
án phạt khổng lồ vì có dính líu đến tội phạm rửa tiền. Với hệ thống ngân hàng non yếu
như Việt Nam thì nguy cơ này là hoàn toàn có thể xãy ra. Câu hỏi được đặt ra là hệ
thống ngân hàng Việt Nam nói riêng và toàn xã hội nói chung phải làm gì để giảm thiểu
rủi ro này đến mức thấp nhất có thể. Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu mô tả, thống
kê, so sánh, luận văn đã phần nào trả lời câu hỏi này. Cụ thể :
Luận văn đã đề cập khái quát về rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng về mặt lý thuyết. Trong đó, luận văn có đề cập đến tình hình rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng trên thế giới, luật rửa tiền của các nước, từ đó rút ra bài học cho Việt
Nam
Thêm vào đó, luận văn trình bày thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng Việt Nam thông qua các số liệu, bảng biểu thu thập được. Qua đó đưa những
phân tích những điểm tồn tại trong công tác phòng, chống rửa tiền Việt Nam.
Và cuối cùng luận văn đưa ra các hướng giải pháp ở tầm vi mô và vĩ mô nhằm
mang lại hiệu quả cao trong công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng nói
riêng và ở Việt Nam nói chung.
Với sự cố gắng của mình, tác giả đã hoàn thành những nội dung của luận văn.
Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn nhiều vấn đề thiếu sót trong luận văn. Do đó, rất mong sự
góp ý chân tình của quý thầy cô giáo và các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này.