ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
MẪN TUYẾT (MIN XUE)
TÌM HIỂU QUAN HỆ GIỮA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VÙNG BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT QUA QUÁ TRÌNH
GIAO LƢU VĂN HÓA
(KHU VỰC VÂN NAM, LÀO CAI VÀ HÀ GIANG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Hà Nội, 9/2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------
MẪN TUYẾT (MIN XUE)
TÌM HIỂU QUAN HỆ GIỮA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VÙNG BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT QUA QUÁ TRÌNH
GIAO LƢU VĂN HÓA
(KHU VỰC VÂN NAM, LÀO CAI VÀ HÀ GIANG)
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế Mã số: 60310206
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Căn
Hà Nội, 9/2015
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các thầy, cô giáo
đã dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các thầy cô giáo
trong Hội đồng chấm luận văn Thạc sỹ này của tôi—những người sẽ nhìn nhận,
đánh giá công trình nghiên cứu của tôi từ những góc độ khoa học và chắc chắn sẽ
cho tôi những nhận xét, đóng góp xác đáng nhất. Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm
ơn chân thành nhất đến TS. Nguyễn Văn Căn—người đã trực tiếp hướng dẫn và tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Mẫn Tuyết
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác.
Nếu có gì gian dối tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên cao học
Mẫn Tuyết
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4
1. Mục tiêu, ý nghĩa của đề tài ................................................................................. 4
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 9
5. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘC NGƢỜI Ở VÙNG BIÊN GIỚI
TRUNG-VIỆT THUỘC ĐỊA BÀN CÁC TỈNH VÂN NAM, LÀO CAI VÀ HÀ GIANG
................................................................................................................................... 10
1.1Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vân Nam ............................................................ 11
1.1.1 Tình hình chung Vân Nam......................................................................... 11
1.1.2 Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vân Nam ........................................................ 12
1.1.3 Kinh tế Vân Nam hiện nay ........................................................................ 16
1.2 Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai và tỉnh Hà Giang ............................... 20
1.2.1 Các dân tộc ở Lào Cai ............................................................................... 20
1.2.2 Các dân tộc ở Hà Giang ............................................................................. 22
1.3 Một số yếu tố có tác động đến quan hệ dân tộc ........................................... 25
1.3.1Chiều dài biên giới ...................................................................................... 25
1.3.2 Yếu tố lịch sử ............................................................................................. 27
1.3.3 Xu thế hiện nay .......................................................................................... 29
CHƢƠNG 2: QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG QUAN HỆ DÂN TỘC ............................................................................. 34
2.1 Mối quan hệ giữa các dân tộc vùng biên giới .............................................. 34
2.1.1 Quan hệ đồng tộc ....................................................................................... 35
2.1.2 Quan hệ với các dân tộc khác .................................................................... 41
1
2.1.3 Quan hệ với những người cùng dòng họ ................................................... 47
2.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến quan hệ dân tộc biên giới ................................. 54
2.2.1 Phong tục tập quán..................................................................................... 55
2.2.2 Tôn giáo tin ngưỡng................................................................................... 60
2.2.3 Chính sách dân tộc thiểu số của hai nước .................................................. 62
2.2.4 Yếu tố kinh tế ............................................................................................. 65
CHƢƠNG 3: VÀI NÉT VỀ CÁC XU HƢỚNG TRONG QUAN HỆ DÂN TỘC .. 70
3.1 Hợp tác khai thác tài nguyên văn hóa dân tộc ở khu vực biên giới .......... 70
3.1.1 Du lịch và Làng du lịch dân tộc ................................................................. 70
3.1.2 Ý nghĩa khai thác ....................................................................................... 74
3.1.3 Tính khả thi ................................................................................................ 78
3.1.4 Quan hệ dân tộc với phát triển ―Hai hành lang một vành đai kinh tế‖ ...... 81
3.2 Các xu hƣớng về mối quan hệ giữa các dân tộc ở vùng biên giới
Trung-Việt ........................................................................................................... 88
3.2.1 Xã hội truyền thống dần chuyển sang xã hội hiện đại ............................... 89
3.2.2 Sự tăng cường ý thức quốc gia và sự suy yếu của ý thức dân tộc ............. 93
3.2.3 Mối quan hệ và sự liên hệ của văn hóa trong nội bộ dân tộc suy yếu dần và
chuyển sang quan hệ kinh tế và quan hệ văn hóa chính trị ................................ 95
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100
2
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 105
BẢNG MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1-1: Dân số của các dân tộc tỉnh Vân Nam(điều tra năm 2013).................15
Bảng 1-2: Chỉ tiêu phát triển kinh tế của khu vực dân tộc ở vùng biên giới Vân Nam
năm 2013...................................................................................................................19
Bảng 1-3: chỉ thống kê những lối mòn chủ yếu, được người dân 2 nước sử dụng
nhiều..........................................................................................................................26
Bảng 2-1: Cửa khẩu và chợ biên giới mậu dịch của châu Văn Sơn và châu Hồng Hà
...................................................................................................................................38
3
Bảng 2-2: Kim ngạch mậu dịch quộc tế Trung-Việt.................................................66
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục tiêu, ý nghĩa của đề tài
1.1 Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Trung Quốc đều là quốc gia đa dân tộc với nhiều dân tộc anh em
cùng chung sống. Một trong những đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số ở cả hai
nước là đồng bào thường sống thành từng khu vực và có sự đan xen giữa các dân tộc
trên các vùng núi cao. Đây là lý do mà vùng biên giới Việt –Trung có rất nhiều các
dân tộc thiểu số ở cả hai nước cùng chung sống và trong các dân tộc này có nhiều dân
tộc có cùng nguồn gốc. Đồng bào các dân tộc không chỉ có quan hệ giao lưu với dân
tộc mình và cả các dân tộc khác trong phạm vi một quốc gia mà còn có quan hệ giao
lưu với bà con cùng dân tộc ở quốc gia láng giềng. Mặt khác, dân tộc và bản sắc văn
hóa dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trải qua quá trình phát triển, mỗi một
dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng và quá trình giao thoa đã làm cho bản sắc
văn hóa của các dân tộc hòa nhập nhưng không hòa tan, góp phần làm cho nền văn
hóa vật chất, tinh thần của các dân tộc phong phú, đa dạng và độc đáo.
Các dân tộc xuyên biên giới thường cư trú tại vùng núi cao, có vai trò chiến lựoc
rất quan trọng của quốc gia, cho nên quan hệ dân tộc xuyên biên giới có nhiều giai đoạn
ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ hai nước, hoặc nhiều nước. Tuy nhiên, trải qua quá
trình lịch sử, quan hệ của các dân tộc ít người ở vùng biên giới Trung-Việt đều hòa bình
hữu nghị cho dù hai chính phủ có những giai đoạn quan hệ không bình thường và có
khi là bất đồng. Đồng bào dân tộc xuyên biên giới Trung-Việt có tình cảm bà con anh
em đậm đà, nhưng do ở hai nước nên quan hệ và phương thức giao lưu tất nhiên chịu
ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa của hai nước.
Trên thực tế không ai yêu biên giới bằng người biên giới. Chính vì thế, ngày
nay cả hai nước đều có chính sách chú trọng phát triển kinh tế vùng biên, tạo dựng
cuộc sống ấm no, hài hòa cho bà con dân tộc thiểu số tại khu vực này. Thông qua việc
4
tìm hiểu quan hệ của các dân tộc thiểu số ở vùng bên giới Trung-Việt khu vực Vân
Nam, Lào cai, Hà Giang từ nghiên cứu quá trình giao lưu văn hóa luận văn mong
muốn tìm ra những yếu tố văn hóa tương đồng và dị biệt của các dân tộc ở hai nước
trên cơ sở các hoạt động giao lưu văn hóa ở vùng biên. Luận văn chú ý đến những yếu
tố tinh thần đóng góp vào chủ trương xây dựng xã hội khá giả, hưng biên phú dân ở
Trung Quốc cũng như chương trình 135 ở Việt Nam, với mục tiêu chung là cùng nhau
phát triển, xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc sống của các dân tộc vùng biên giới,
đồng thời giữ ổn định và phát triển quan hệ hữu nghị trong tương lai giữa Trung Quốc
và Việt Nam.
Với tinh thần đó chúng tôi chọn Tìm hiểu quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở
vùng biên giới Trung-Việt qua quá trình giao lưu văn hóa (khu vực Vân Nam, Lào Cai,
Hà Giang) làm đề tài của luận văn.
1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Rất nhiều các dân tộc hoặc đông hoặc ít người phân bố ở khắp nơi trên thế giới,
vì thế mỗi quốc gia thường do nhiều dân tộc khác nhau tổ hợp thành.Trên thực tế, mỗi
dân tộc đều mang đặc điểm tính chất riêng của mình, do đó nhiều quốc gia đều tồn tại
vấn đề dân tộc. Mặt khác, tuy là một dân tộc có cùng nguồn gốc, nhưng sống ở biên
giới hai hoặc nhiều quốc gia, làm cho vấn đề dân tộc xuyên biên giới trở thành một
hiện tượng phổ biến. Những năm gần đây, vấn đề dân tộc xuyên biên giới đang được
nhiều quốc gia quan tâm.
Trung Quốc và Việt Nam đều là quốc gia đa dân tộc, từ xưa đến nay hai nước
có quan hệ chặt chẽ. Trung Quốc có tỉnh Quang Tây và tỉnh Vân Nam giáp với đường
biên giới của Việt Nam, đường biên giới lục địa kài khoảng 1,400 km. Trung Quốc có
13 dân tộc, Việt Nam có 26 dân tộc sống chung ở vùng này, họ cùng nguồn gốc, tức là
dân tộc xuyên biên giới. Đồng bào các dân tộc không chỉ có quan hệ giao lưu với dân
tộc mình và cả các dân tộc khác trong phạm vi quốc gia mà còn có quan hệ giao lưu
với bà con cùng dân tộc ở quốc gia láng giềng. Các làng bản ở vùng biên hai nước
5
thông thường chỉ cách mấy cây số, có những làng cùng một tên, phần ở Trung Quốc là
bản trên, phần ở Việt Nam là bản dưới. Mỗi khi ngày lễ, đám cưới đám ma, đồng bào
hai bên đều đi thăm hoặc giúp đỡ lẫn nhau.
Chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng phong tục tập quán và
phương thức đi lại của các dân tộc thiểu số xuyên Trung-Việt nhưng đồng thời cũng
quan tâm đến an ninh quốc gia, vấn đề phát triển của vùng biên và ý thức nhà nước
của đồng bào xuyên quốc gia. Thông qua việc tìm hiểu quan hệ của các dân tộc thiểu
số ở vùng biên giới Trung-Việt khu vực Vân Nam, Lào Cai, Hà Giang từ nghiên cứu
quá trình giao lưu văn hóa luận văn mong muốn tìm ra những yếu tố văn hóa tương
đồng và dị biệt của các dân tộc ở hai nước trên cơ sở các hoạt động giao lưu văn hóa
ở vùng biên.
Nhằm vào những vấn đề trên, từ cách nhìn văn hóa, luận văn cố gắng tổng hợp
và phân tích được nhiều tư liệu phong phú về quan hệ của dân tộc xuyên biên giới ở
tỉnh Vân Nam Trung Quốc và tỉnh Hà Giang, tỉnh Lào Cai của Việt Nam, đưa ra được
những nhận định về ý nghĩa hợp tác và tính khả thi của khai thác tài nguyên du lịch ở
vùng biên, trong khuôn khổ hợp tác ―Hai hành lang một vành đai kinh tế‖. Luận văn
cũng hy vọng nêu ra dự đoán các xu hướng của mối quan hệ giữa các dân tộc ở vùng
biên giới Trung-Việt như một tài liệu tham khảo.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Nghiên cứu ở Trung Quốc
Năm 1979, Trung Quốc triệu tập ―hội nghị quy hoạch công việc nghiên cứu dân
tộc toàn quốc‖ ở thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam, lần đầu tiên chính thức đưa
nghiên cứu dân tộc thế giới vào quy hoạch nhà nước. Từ sau hội nghị này nghiên cứu
dân tộc xuyên quốc gia của Trung Quốc tiến vào một giai đoạn phát triển mới.
Giáo sư Phạm Hồng Quý lần đầu tiên nêu khái niệm ―Dân tộc xuyên biên giới‖
vào năm 1982. Trong ―Quan hệ xưa nay giữa dân tộc Nùng, Tày Việt Nam và dân
6
tộc Choang Trung Quốc‖ lần đầu tiên Giáo sư Phạm Hồng Quý trình bày rõ khái
niệm ―dân tộc xuyên biên giới‖. Sau đó còn có bài nghiên cứu: ―dân tộc xuyên biên
cảnh hai nước Trung-Việt‖ (tạp chí nghiên cứu lịch sử dân tộc Tây Nam)…
Trong luận văn ―Nghiên cứu dân tộc xuyên biên giới‖ (học báo học viện dân
tộc Trung Nam, năm 1994) tác giả Hồ Khởi Vọng đã trình bày và giải thích rõ ràng
khái niệm dân tộc xuyên biên giới. Ngoài ra chúng tôi còn tiếp xúc được những tác
phẩm nghiên cứu dân tộc xuyên biên giới của Vĩnh Hưng: ―Nghiên cứu dân tộc
xuyên biên giới của miền Nam Trung Quốc‖ (học báo học viện dân tộc Quảng Đông,
năm 1988); Thi Vĩnh Hoa: ―Dân tộc Hà Nhì xuyên biên giới‖ (học báo đại học sự
phạm Vân Nam, năm 1993); Hồ Khởi Vọng ―Nghiên cứu dân tộc xuyên biên giới‖
(học báo học viện dân tộc Trung Nam, năm 1994); Hoàng Huệ Côn ―Nghiên cứu
dân tộc xuyên biên giới‖ (Học báo đại học dân tộc Vân Nam, năm 1997); Lữu Nha
Vu và Thân Húc ―dân tộc xuyên biên giới Đông Nam Á và Tây Nam Trung
Quốc‖(NXB dân tộc Vân Nam, năm 1988); Triệu Kế Quang chủ biên ―Nghiên cứu
vấn đề dân tộc xuyên biên giới Trung Quốc‖, La Bỉnh Sâm ―Nghiên cứu vấn đề an
ninh quốc gia và dân tộc xuyên biên giới Vân Nam‖ (học báo trường cao đẳng công
an Vân Nam, năm 2002); Chu Kiến Tân, ―Nghiên cứu quan hệ dân tộc xuyên biên
giới Trung-Việt, Trung-Lào‖ (NXB Nhân Dân năm 2002); Quách Gia Kí, ―Nghiên
cứu điều tra quan hệ dân tộc thiểu số Vân Nam‖ (NXB Khoa Học Xã Hội Trung
Quốc năm 2010); Phạm Quý Hồng, ―Nguồn gốc dân tộc biên giới Trung-Viêt‖ (báo
dân tộc Trung-Quốc) v.v.
2.2 Nghiên cứu ở Việt Nam
Tìm hiểu ở Việt Nam các nghiên cứu về vấn đề này có: ―Con đường buôn bán
biên giới với sự hình thành, phát triển các đô thị vùng biên Lào Cai-Vân Nam và sự
tác động đến không gian văn hóa, không gian dân số học tộc người‖ của TS. Trần
Hữu Sơn, ―Nghiên cứu Trung Quốc số 10‖ năm 2009; ―Tôn giáo tín ngưỡng trong
các dân tộc thiểu số dọc biên giới Viêt-Trung‖, của GS.TS. Đỗ Quang Hưng -
7
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN; ―Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các
tỉnh phía Bắc) ‖ của viện Dân Tộc Học, NXB Khoa Học Xã Hội tái bản năm 2014;
―Các dân tộc ở Hà Giang‖, của Lê Duy Đại- Triệu Đức Thanh(chủ biên), NXB Thế
Giới; ―Quan hệ văn hóa Việt – Trung giai đoạn 1993-2010‖, của TS. Nguyễn Văn
Căn, tạp chí Mặt trận số 84 tháng 10 năm 2010; ―Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc
vùng biên góp phần tăng cường đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát triển‖, của TS.
Đinh Văn Ngữ v.v.
2.3 Nghiên cứu nước khác
Tại Khoa Nhân Loại học đại học Southern California trong dịp nghỉ hè vào
thập niên 90 thế kỳ 20 đã mở các lớp nghiên cứu thảo luận về dân tộc xuyên biên
giới, chuyên nghiên cứu vấn đề các dân tộc cùng nguồn cư trú xuyên biên giới
Trung Quốc và Liên Xô. Hiện nay, có những luận văn nước ngoài nghiên cứu
hướng này như: ―Phân tích kết cấu kinh tế xã hội người Hoa ở Austraylia‖ (―Báo
cáo chuyên đề viện nghiên cứu xã hội kinh tế thực dụng đại học Mellourne‖ tháng 9
năm 1988); ―Người Mai-sai của Kenya và Tan-zan-nia‖ ( tập chí ―Dân tộc thế giới‖
của nước Ý); ―Các dân tộc Liên Xô và nước ngoài‖ (―Phân tích vấn đề Liên Xô‖
năm 1990); v.v.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến quan hệ dân tộc thiểu số ở
vùng biên giới của các dân tộc xuyên biên giới.
3.2 Phạm vi và nội dung nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về quan hệ dân tộc thiểu số ở vùng biên giới
Trung-Việt. Về không gian nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vân Nam Trung Quốc và
tỉnh Lào Cai, tỉnh Hà Giang Việt Nam. Về thời gian từ năm 1991 khi hai nước
8
chính thức bình thường hóa quan hệ đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm để nghiên cứu và
xem xét lại những thành quả thực tiễn trong quá khứ từ đó rút ra kết luận bổ ích cho
thực tiễn và khoa học.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, nghiên cứu các tài liệu, lý luận
khác nhau bằng cách phân tích thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về quan hệ
dân tộc ở vùng biên Trung-Việt. Tổng hợp và liên kết từng mặt, từng bộ phận thông
tin đã được phân tích tạo ra một hệ thông đầy đủ và sâu sắc về quan hệ dân tộc thiểu
số vùng biên.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: sắp xếp các tài liệu khoa học
theo từng lĩnh vực, từng đơn vị, từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một
hướng; Hệ thống hóa, sắp xếp thành một hệ thống trên cơ sở một mô hình lý thuyết
làm sự hiểu biết về quan hệ dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt đầy đủ hơn.
Phương pháp giả thuyết đưa ra các dự đoán xu thế quan hệ dân tộc thiểu số ở
vùng biên giới Trung-Việt.
5. Cấu trúc của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của Luận văn được chia làm 3 chương.
Chương 1:
Khái quát về các tộc người ở vùng biên giới Trung-Việt thuộc địa bàn các tỉnh
Lào Cai, Hà Giang và Vân Nam
Chương 2:
Quan hệ dân tộc và văn hóa truyền thống trong quan hệ dân tộc
Chương 3:
9
Vài nét về các xu hướng trong quan hệ dân tộc
Chƣơng 1: Khái quát về các tộc ngƣời ở vùng biên giới Trung-Việt thuộc địa bàn các tỉnh Vân Nam, Lào Cai và Hà Giang
Theo quan niệm của các nhà khoa học, vùng biên giới là một vùng hay một khu
vực gần với biên giới và có chịu ảnh hưởng của đường biên giới. Vùng biên có những
đặc tính tạo nên bởi những tương tác của cư dân trong ranh giới đường biên bao gồm
những giao dịch, dòng dịch chuyển và mối quan hệ với dân cư của khu vực bên kia
đường biên. Có thể thấy rằng khái niệm vùng biên được nhìn nhận như một không
gian văn hóa, xã hội và kinh tế bởi các cộng đồng cư dân sinh sống. Các cộng đồng
này có thể có cùng bản sắc văn hóa tộc người, mặc dù họ có thể bị chia cắt bởi một
đường biên giới lãnh thổ quốc gia. Như vậy, vùng biên cần được xem xét như một
không gian văn hóa xã hội, các mối liên hệ qua lại của cư dân ở trong và ngoài biên
giới cùng sự tác động trong quản lý của nhà nước đối với khu vực giáp biên giới đã
tạo nên các thuộc tính biên cương của cư dân cũng như toàn khu vực và hình thành
nên khu vực biên giới.
Học giả nổi tiếng nước ngoài --Almond từng cho rằng ― Dân tộc là một thế hệ
chính trị do nhân dân cùng nguồn gốc lịch sử và có cộng đồng vận mệnh tổ chức
thành‖. Hiện nay xã hội, trong giai đoạn cộng đồng kinh tế hóa cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của internet đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đi đôi với nó là vấn đề dân
tộc, tôn giáo ngày càng phức tạp và nhạy cảm, mà mối quan hệ của các dân tộc xuyên
biên giới đã và đang trực tiếp ảnh hưởng đến mối quan hệ của hai quốc gia.
Qua công tác điều tra điền dã dân tộc học, biên giới Trung Quốc - Việt Nam dài hơn
1449 cây số, có rất nhiều tộc người nằm ở hai bên biên giới, theo thành phần dân tộc đã
xác định của Trung Quốc, có mười ba dân tộc: Choang, Thái, Bố Y, Mèo, Dao, Hán, Di,
Hà Nhì, La Hủ, Cơ Lao, Kinh, Hồi, Pu Lăng. Thành phần người Mảng còn chưa xác định.
Theo sự xác định của Việt Nam thì có hai mươi sáu dân tộc: Kinh (Việt), Tày, Nùng, Thái,
Sán Chay, Giáy, Lự, Bố Y, Mông (Mèo), Dao, Pà Thẻn, La Hủ, Pu Péo, Hà Nhì, Phù Lá,
10
La Chí, Lô Lô, Mảng, Cống, Si La, Khơ Mú, Cơ Lao, Hoa (Hán), Ngái, Sán Dìu, Chăm.
Trung Quốc và Việt Nam chênh lệch mười ba dân tộc. Xác định thành phần dân
tộc hai nước Trung Quốc và Việt Nam có một số dân tộc giống nhau, chẳng hạn Kinh
(Việt), Mèo (Mông), Cơ Lao, Hà Nhì. Có một số ở Trung Quốc là một nhưng ở phía
Việt Nam là hai dân tộc chẳng hạn dân tộc Thái của Trung Quốc phía Việt Nam là dân
tộc Thái và Lự; ở Trung Quốc là một dân tộc Bố Y, ở phía Việt Nam là hai dân tộc Bố
Y và Giáy; ở Trung Quốc là một dân tộc Di, ở Việt Nam là hai dân tộc Lô Lô và Phù
Lá; ở Trung Quốcc là một dân tộc Hán, phía Việt Nam là hai dân tộc Hoa (Hán) và
Ngái. Có một số ở Trung Quốc là một dân tộc, phía Việt Nam là ba dân tộc, chẳng hạn
ở Trung Quốc là một dân tộc Dao, phía Việt Nam là ba dân tộc Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu;
ở Trung Quốc là một dân tộc Hà Nhì, phía Việt Nam là ba dân tộc Hà Nhì, Si La,
Cống; ở Trung Quốc là một dân tộc, phía Việt Nam là năm dân tộc, chẳng hạn dân tộc
Choang, phía Việt Nam là dân tộc Tày, Nùng, Pu Péo, La Chí, Sán Chay. ở Việt Nam
dân tộc Sán Chay gồm người Cao Lan và người Sán Chí, ở phía Trung Quốc, người
Cao Lan là một nhóm của dân tộc Choang, người Sán Chí là một nhóm của Dao; ở
Việt Nam, người Khơ Mú là một dân tộc, nhưng ở Trung Quốc là một nhóm của dân
tộc Pu Lăng, có rất ít người dân tộc Chàm đời xưa từ Việt Nam di cư sang đảo Hải
Nam, hiện nay là một nhóm rất nhỏ của dân tộc Hồi Trung Quốc.
1.1Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vân Nam
1.1.1 Tình hình chung Vân Nam
Vân Nam là một tỉnh miền núi biên cương nhiều dân tộc sống chung của Trung
Quốc. Tổng diện tích cả tỉnh khoảng 390 nghìn km2, chiếm 4.11% diện tích toàn
quốc. Khí hậu của tỉnh Vân Nam có 7 đới khí hậu tức là nhiệt đới Bắc, nhiệt đới Nam
Á, nhiệt đới Trung Á, ôn đới nóng, ôn đới ấm và khí hậu cao nguyên. Cả tỉnh có 26
dân tộc ít người với dân số 5 nghìn người trở lên, là một tỉnh có dân tộc ít người nhiều
nhất của Trung Quốc. Vân Nam là tỉnh ở cực Tây Nam của Trung Quốc, phía Đông là
khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây và tỉnh Quý Châu, phía Bắc là tỉnh Tứ Xuyên,
11
phía Tây Bắc là khu tự trị Tây Tạng. Vân Nam còn giáp với ba nước Đông Nam Á là
Mian-mar, Lào và Việt Nam với đường biên giới quốc gia dài 4061 km. Vùng núi
chiếm 94% tổng diện tích cả tỉnh, thung lũng sông và đồng bằng chỉ chiếm 6%.1
Trong lịch sử phát triển lâu dài, các dân tộc tỉnh Vân Nam sáng tạo một nền văn hóa
dân tộc phong phú đa dạng, hình thành bố cục quan hệ dân tộc không những hòa hợp
với quan hệ dân tộc Trung Quốc, mà còn mang đặc sắc Vân Nam.
Vân Nam nằm ở vùng biên phía Tây Nam Trung Quốc, sông liền sông, núi liền
núi với bán đảo Trung Nam. Tỉnh có nhiều dòng sông lớn bắt nguồn như sông
Ayeyarwaddy, sông Nộ, sông Hồng, sông Đà…rồi chảy qua các nước nằm ở bán đảo
Trung Nam theo hình thức từ trên xuống dưới, sau đó chia ra chảy riêng vào Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương. Sông Lan Thương (Mê Kông) tuy không bắt nguồn ở
Vân Nam nhưng cũng chảy qua Vân Nam trước khi chảy sang các nước khác. Chính
đặc điểm địa lý này khiến Vân Nam trở thành khâu quan trọng của sự giao lưu và liên
hệ với người dân của các nước Đông Nam Á. Cho nên, thời kỳ cổ xưa, tổ tiên của các
dân tộc Vân Nam mở nhiều thông đạo đối ngoại lấy Vân Nam làm then chốt để tiện
lợi giao lưu đối ngoại.
1.1.2 Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vân Nam
Trải qua mấy nghìn năm hòa hợp và di cư giữa các dân tộc bàn sứ Vân Nam với
dân tộc nơi khác, dần dần hình thành bố cục như hiện nay là 26 dân tộc anh em cùng
sống chung tại tỉnh Vân Nam. Sự phân bố dân số của các dân tộc tỉnh Vân Nam đều
xuất hiện trạng thái tập cư lớn hay tụ cư nhỏ.Trong đó, tộc Hán thường cư trú ở các
thành phố thị trấn của tỉnh, đồng bằng và vùng núi dốc thoai thoải. Dân tộc Di là dân
số đông nhất trong các dân tộc thiểu số của Vân Nam, cũng là một trong những dân
tộc phân bố rông rãi nhất tại Vân Nam. Đa số các huyện của tỉnh Vân Nam đều có dân
tộc Di cư trú. Tại các châu Sở Hùng, châu Hồng Hà và núi Ai Lao, vùng núi Ô Mông,
1郭嘉骥, 云南民族关系骥骥研究, 中国社会科学出版社, 104 骥
12
Tiểu Lạng Sơn là những nơi cư trú đông nhất.
Hầu hết tộc Bạch tụ cư tại các huyện xung quanh Nhĩ Hải châu Đại Lý, các nơi
như châu Nộ Giang cũng có một số.Trong khi đó dân tộc Hà Nhì lại tụ cư tại vùng núi
ở giữa sông Hồng Hà với sông Lan Thương như núi Ai Lao, tại một vùng rộng rãi
quanh núi Vô Lượng. Tộc Thái chủ yếu tụ cư tại các nơi giáp với Mian-mar như Tây
Song Bản Nạp, châu Đức Hồng, huyện Canh Mã, huyện Mạnh Liên v.v. Những huyện
thuộc thành phố Ngọc Khê và miền nam châu Hồng Hà cũng có một số tộc Thái cư
trú. Hầu hết dân tộc Choang đều tập trung tại châu Văn Sơn. Dân tộc Miêu chủ yếu
phân bố tại hai châu tự trị chân Văn Sơn và châu Hồng Hà, thành phố Chiếu Thông,
vùng núi của những huyện như Võ Định, Lộc Khuyến cũng có tộc Miêu. Dân tộc Lật
Túc chủ yếu sống ở châu Nộ Giang, châu Đich Khánh và vùng núi Lệ Giang. Sự phân
bố của tộc Hồi rộng rãi hơn trải khắp 129 huyện của tỉnh Vân Nam đều có tộc Hồi
sinh sống.Thường định cư tập trung tại thị trấn, theo trục đường giao thông hoặc các
thôn ven đường, ven thị. Dân tộc La Hù phân bố tại hai thành phố Phổ Nhĩ và Lâm
Thương nằm ở đôi bờ của sông Lan Thương, tập trung ở các thị trấn biên giới như
Lan Thương, Mạnh Liên, Song Giang v.v. Dân tộc Ngõa chủ yếu sống ở các huyện
nằm ở trung đoạn của đường biên giới phía Tây Nam Vân Nam, hai huyện Tây Mông
và Thương Nguyên là khu tụ cư chủ yếu của dân tộc Ngõa. Dân tộc Nạp Tây chủ yếu
sinh sống tại huyện Ngọc Long và khu cổ thành, cũng có một số sống ở mấy huyện
xung quanh như Ninh Lang, Shangri-la, Duy Tây v.v. Dân tộc Dao chủ yếu phân bố
tại những huyện nằm phía Đông Nam. Phía Nam Vân Nam giáp với Việt Nam cũng
một số hương có dân tộc Dao. Dân tộc Cảnh Pha chủ yếu tụ cự tại vùng núi của các
huyện thuộc châu Đức Hồng nằm ở vùng biên giữa phía Tây Vân Nam với Mian-mar,
có một bộ phận nhỏ cư trú tại vùng núi của các huyện biên giới nằm phía Tây Bắc và
Đông Bắc Vân Nam. Dân tộc Tạng chủ yếu tụ cự tại châu Đich Khánh nằm ở vùng
ranh giới phía Tây Bắc Vân Nam với Khu tự trị Tây Tạng. Cũng có một số dân tộc
Tạng sống ở các huyện xung quanh như Ngọc Long, Vĩnh Thắng và Cống Sơn v.v.
Dân tộc Bố Lãng chủ yếu sống ở các huyện như Mạnh Hải, Lan Thương, Song Giang
13
và Vĩnh Đức v.v. Dân tộc Bố Y chủ yếu cư trú tại các huyện như La Bình. Dân tộc Phổ
Mễ chủ yếu sống ở vùng núi cao quanh năm giá rét của các huyện nằm phía Tây Bắc
Vân Nam như Lan Bình, Ninh Lang. Dân tộc Nộ chủ yếu tụ cư tại các huyện như Lư
Thủy, Phúc Cống, Cống Sơn v.v. và làng Thố Nga của huyện Lan Bình, huyện Duy
Tây cũng có phần nhỏ tộc Nộ sinh sống. Dân tộc A Xương, Đức Ngang chủ yếu cư trú
tại các huyện, thị trấn của châu Đức Hồng như Long Xuyên, Lương Hà, Lộ Tây v.v.
cũng có phần nhỏ cư trú tại thành phố Bảo Sơn và Lâm Thương. Dân tộc Cơ Nặc chủ
yếu tập trung sống ở miền núi Cơ Nặc của thành phố Cảnh Hồng châu Tây Song Bản
Nạp. Dân tộc Mông Cổ chủ yếu cư trú tại huyện Mã Quan và huyện Thông Hải. Dân
tộc Thủy chủ yếu sống ở huyện Phú Nguyên và trấn Hoàng Nê Hà. Dân tộc Mãn chủ
yếu ở rải rác thành phố Côn Minh, Đại Lý, Khúc Tịnh v.v. Dân tộc Độc Long tụ cư tại
đôi bờ sông Độc Long của huyện Cống Sơn nằm ở phía Tây Bắc xa nhất Vân Nam.
Ngoài các dân tộc chủ yếu tại các vùng trên, còn có nhiều nhóm dân tộc ít người
tụ cự nhỏ và ở rải rác tại các huyện, thị trấn, châu khác của Vân Nam. Ngoài ra, Vân
Nam còn có nhiều dân tộc thiểu số khác như Cơ Lao, Thổ, Thổ Gia và Đồng v.v.
nhưng chủ thể của các dân tộc này không cư trú tại Vân Nam, và dân số của các dân
tộc này đều không tới 5000 người. Còn có những tộc người vẫn chưa được xác định ở
Trung Quốc như người Khơ-mú, người Mảng v.v.
Theo tình hình thực tế cho thấy, sự phấn bố chính của các dân tộc thiểu số Vân
Nam có hai đặc trưng rõ rệt:
+Một là lấy vùng biên cương có địa hình tương đối bằng phẳng làm khu vực
phân bố chính. Vân Nam có 8 châu tự trị thuộc vùng biên giới quốc gia, diện tích đất
đai của 8 châu chiếm 50,98% diện tích cả tỉnh. Năm 2006 dân số chiếm 39.8%, nhưng
lại tập trung 59,51% dân số của các dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh. Trong đó dân số
của các dân tộc thiểu số sống ở 25 huyện, thị trấn trực tiếp giáp ranh với nước ngoài
chiếm là 14,32% tổng dân số cả tỉnh nhưng lại là 60,44% dân số của cả vùng biên giới
và 25,56% tổng dân số của các dân tộc thiểu số toàn tỉnh. Hữa nưa, phần lớn dân tộc
thiểu số Vân Nam đều tập trung cư trú tại 25 huyện, thị trấn thuộc vùng biên giữa
14
Trung Quốc-Mianmar, Trung-Lào, Trung-Việt vì thế có tới 16 dân tộc là có cùng
nguồn gốc. Các dân tộc này có bà con anh em hai bên nên vẫn giữ mối quan hệ văn
hóa kinh tế và quan hệ thân tộc một cách mật thiết lâu dài.
+Hai là lấy vùng núi làm địa hình phân bố căn bản. Vùng miền núi của Vân Nam
có thể phân chia thành các khu vực cụ thể là: vùng gò đồi, vùng núi thấp, vùng núi cao.
Các dân tộc chủ yếu cư trú tại vùng gò đồi có đồng bằng hoặc lũng sông biên cương
cả thảy có 10 dân tộc như Hồi, Mản, Bạch, Nạp Tây, Mông Cổ, Choang, Thái, A
Xương, Bố Y, Thủy, dân số khoảng 4 triệu 500 nghìn người. Các dân tộc chủ yếu sống
ở vùng núi thấp là Hà Nhi, Dao, La Hù, Ngõa, Bố Lãng, Đức Ngang, Cờ Nặc và một
số tộc Di, dân số khoảng 6 triệu người; Vùng núi cao chủ yếu là nơi cư trú của 6 dân
tộc là Miêu, Lật Túc, Tạng, Phổ Mễ, Nộ, Độc Long và một số tộc Di, dân số khoảng 4
triệu 500 nghìn người.2
Đơn vị:10 nghìn;%
Dân tộc
Dân số
Tỷ lệ
Dân số
Tỷ lệ
Dân tộc
Cả tỉnh
4686.80
100.00
Tạng
14.53
0.3
Hán
3121.74
66.6
Cảnh Phả
14.53
0.3
Di
512.71
10.9
Bố Lãng
11.72
0.3
Bạch
159.34
3.4
Phổ Mễ
4.22
0.1
Hà Nhì
166.37
3.6
Nộ
3.28
0.1
Choang
123.73
2.6
A Xương
3.75
0.1
Thái
124.66
2.7
Cơ Nặc
2.34
0.1
Miêu
122.79
2.6
Đức Ngang
1.87
0.0
Lật Túc
67.96
1.5
Mông Cổ
2.34
0.1
Hồi
71.24
1.5
Độc Long
0.47
0.0
La Hù
48.24
1.0
Mãn
1.41
0.0
Ngõa
40.77
0.9
Thủy
0.94
0.0
Nạp Tây
31.40
0.7
Bố Y
6.09
0.1
Dao
22.50
0.5
Khác
5.62
0.1
(số liệu nguồn gốc: niên giám thống kê tỉnh Vân Nam năm 2014)
2 郭嘉骥, 云南民族关系骥骥研究, 中国社会科学出版社〃126 骥
15
1-1 Dân số của các dân tộc tỉnh Vân Nam(điều tra năm 2013)
1.1.3 Kinh tế Vân Nam hiện nay
* Vài nét về kinh tế vùng biên
Vân Nam là một tỉnh nằm trong chương trình ―Đại khai phát miền Tây‖ dành cho
những tỉnh tương đối chậm phát triển của Trung Quốc và có tỷ lệ dân số thuộc diện
nghèo khổ cao hơn các tỉnh khác. Năm 1994, khoảng 7 triệu người sống dưới mức
nghèo khổ với thu nhập bình quân hàng năm thấp hơn 300 nhân dân tệ trên đầu người.
Họ được phân bổ trong 73 huyện của tỉnh, chủ yếu sống nhờ nguồn hỗ trợ tài chính của
chính quyền trung ương. Với số tiền trợ cấp 3,15 tỷ nhân dân tệ (NDT) năm 2002, dân
số nông thôn nghèo trong tỉnh đã giảm từ 4,05 triệu năm 2000 xuống 2,86 triệu.
Theo báo cáo phát triển kinh tế năm 2014 do cục thống kê tỉnh Vân Nam công bố
cho thấy, năm 2014, tỉnh Vân Nam kiên trì giữ ổn định để phát triển, dốc sức quy
hoạch tốt các công việc như tăng cường ổn định, điều chỉnh kết cấu, thúc đẩy cải cách,
tạo lợi cho dân sinh v.v. Kinh tế Trung Quốc trong một vài năm gần đây tuy vẫn phát
triển nhưng cũng gặp nhiều thách thức nhưng kinh tế của tỉnh Vân Nam vẫn giữ tổng
thể bình ổn.
Theo sơ bộ thống kê, GDP của tỉnh Vân Nam năm 2014 hoàn thành 1281.459 tỷ
NDT, tăng lên 8,1% so với năm ngoái, xếp hàng thứ 23 trong toàn quốc. Trong đó, sản
nghiệp thứ nhất, đã thực hiện tăng 199.117 tỷ NDT, tăng lên 6,2%; Sản nghiệp thứ hai
đã thực hiện tăng với con số 528,182 tỷ NDT, tăng lên 9,1%, trong đó, giá trị ngành
công nghiệp tăng 389,897 tỷ NDT, tăng 7,2%, ngành kiến trúc giá trị thực hiện tăng
138,966 tỷ NDT; Sản nghiệp thứ ba giá trị thực hiện tăng 554,16 tỷ NDT, tăng lên
7,4%. GDP bình quân mỗi người đạt tới 27 nghìn 264 NDT, tăng 2181 NDT so với
năm trước, bình quân tăng lên 7,5%.
Ngành nông nghiệp cũng phát triển trong ổn định. Tổng giá trị sản xuất của
ngành nông, lâm, thủy sản và chăn nuôi là 326,1 tỷ, tăng trưởng 6,1% so với năm
2013. Tuy nhiên ngành công nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhưng thực hiện vận hành
16
tổng thể bình ổn. Theo sơ bộ thống kế, công nghiệp quy mô cấp tỉnh trở lên của tỉnh
Vân Nam giá trị thực hiện tăng 354,541 tỷ NDT, tăng 7,3%.
*Sự phát triển kinh tế hiện nay của vùng biên Vân Nam
Sau khi nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, nhất là từ cải cách mở cửa
đến nay, phát triển kinh tế của khu vực dân tộc vùng biên Vân Nam đã giành được
thành tựu to lớn, chủ yếu biểu hiện như sau:
+ Cơ sở hạ tầng có cải thiện khá lớn
Cho đến năm 2013, 25 huyện biên giới đã thực hiệntốt những tiêu chí của Chiến
lược Hưng biên phú dân với các kết quả cụ thể: cơ sở bưu điện viễn thông của các
huyện, thị xã ngày càng hoàn thiện, đa số nông thông và thị trấn đã khai thông dịch vụ
mạng In-tơ-nét, điện thoại di động …tỷ lệ phổ biến điện thoại đã nâng cao rất nhiều.
Những thành tựu này đã thay đổi nhiều tình huống vùng biên giải quyết tốt tình trạng
thông tin không thông suốt, mù thông tin, giao thông không tiện lợi…
+ Kết cấu sản nghiệp không ngừng ưu hóa, sản nghiệp trụ cột từng bước hình thành.
Vùng biên giới Vân Nam đa số nằm ở khu vực nóng, khí hậu oi bức, mưa nhiều,
thích hợp phát triển nông nghiệp, phát huy ưu thế tài nguyên, ra sức điều chỉnh kết
cấu sản nghiệp theo nguyên tắc lợi ích cao, dần dần hình thành sản nghiệp trụ cột như
đường, trà, bánh kẹo, trái cây v.v. Một số huyện, thị xã còn dần dần hình thành dịch vụ
du lịch vùng biên và du lịch xuyên quốc gia mang đặc sắc riêng, góp phần vào sự gia
tăng thu nhập của nông dân và địa phương.
+ Thiết thực thực hiện cải cách mở cửa
Tùy theo việc xây dựng khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và sự hợp tác
khu vực sông Mê Kông (sông Lan Thương ) qua từng giai đoạn, khu vực dân tộc ít
người vùng biên Vân Nam thực hiện vững chắc và tăng nhanh tiến trình khai phát mỏ
cửa đối ngoại. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu biên mậu năm đã tăng gấp nhiều lần
so với năm 1996 đạt tới 136 triệu 490 nghìn đô-la Mỹ; Đồng thời cải cách hình thức
mậu dịch biên giới cụ thể là thực thi chiến lược ―kinh doanh nội địa‖, kết hợp với mậu
dịch đối ngoại, làm cho quá trình cải cách mở cửa đối ngoại bước vào một diện mạo
17
mới,đó là mở rộng khai phát, ra sức tác động động thái phát triển kinh tế của khu vực
dân tộc thiểu số vùng biên.
+ Kinh tế tăng lên nhanh chóng bền vững, thực lực kinh tế tăng mạnh rõ rệt. Chỉ
tiêu kinh tế chính năm 2013 ở vùng kinh tế biên giới như sau:
Chỉ tiêu phát triển kinh tế của khu vực dân tộc ở vùng biên giới Vân Nam năm 2013
Đầu tƣ tài
Thu nhập
Chi trả
Tổng giá trị sản
sản cố định
bình quân
tài chính
GDP
Thu nhập tài
xuất
trên đầu
trên
chính
(100triệu
(NDT)
(100 triệu
ngƣời
đầu
(100 triệu tệ)
NDT)
ngƣời
(NDT/ng)
tệ)
(NDT/ng)
2,33 1,83 1,35 3,16 5,17 3,60
18,20 11,40 17,35 16,98 19,66 22,31
33,01 26,50 33,00 25,11 23,06 42,89 20,32 7,69 71,53 6,65 144,10 25,02 40,00
10〃84 10,04 29,68 8,34 29,40 17,52 16,62
8872 28605 9134 14650 14881 14345 18308 13969 9644 8515 27426 21073 22514 18699 17567 24960 18225 21366 16599 16351 7856 16271 18677 20719 15796
130〃71 38,52 65,85 82,87 45,54 13,25 29,38 9,21 9,04 42,00 39,60 27,80
1〃35 1〃14 4〃36 0,54 11,98 3,51 3,15 14,92 3,47 8,75 7,02 5,53 1,81 2,00 0,55 0,48 3,55 3,65 2,21
639 1732 596 1120 1387 870 1082 826 879 587 2269 1042 1101 2278 1231 4641 1767 1784 983 1074 555 1262 1978 1209 1203
38〃71 18〃47 16,68 19,75 18,15 11,65 13,22 9,66 8,41 16,80 22,97 17,10
33〃54 62〃74 29〃00 1060,58
439,91
425022
1032,65
97,41
34095
32,31 Kim Bình 30,35 Hà Khẩu 20,69 Lục Xuân 41,28 Ma Lập Pha 55,48 Mã Quan 59,37 Phú Ninh Giang Thành 22.77 19.30 Mạnh Liên 47.85 Lan Thƣơng 7.87 Tây Mông 144,78 Cảnh Hồng 70,97 Mảnh Hải 64,37 Mãnh Lạp Đằng Xung 122〃28 Long Lăng 49〃54 47,12 Thụy Lệ 72,44 Mang Doanh Giang 66,21 30,68 Lũng Xuyên 30,46 Lô Thủy 7,81 Phúc Cống 6,22 Cống Sơn Trấn Khang Cảnh Mã Thƣơng Tổng hợp 25 Nguyên huyện
Bình quân 25
17000,88
1363,8
huyện
cả tỉnh
11720,91
25083
9621,83
1611,30
3448
4096,51
Chiến cả tỉnh
9,01%
67,78%
10,73%
6,05%
39,55%
12,06%
(%)
18
Chỉ tiêu phát triển kinh tế của khu vực dân tộc ở vùng biên giới Vân Nam năm 2013
Tài khoản
Thu nhập
Số còn tài khoản
dân
cƣ
nông dân
Chi trả bình
Tổng kim ngạch của
của dân cƣ nông
bình quân
bình
quân trên đầu
sảm phẩm tiêu
thôn và thì xã
trên đầu
quân
ngƣời
dụng xã hội
cuối năm
ngƣời
trên đầu
(NDT/ng)
(100 triệu NDT)
(100 triệu NDT)
ngƣời
(NDT/ng)
(NDT/ng)
4997
3644
6.90
15.35
6000
Kim Bình
10771
5610
4.36
26.70
25200
Hà Khẩu
7661
3581
5.98
11.48
5100
Lục Xuân
6027
5330
14.17
26.87
9500
Ma Lập Pha
5274
5636
23.94
40.88
11000
Mã Quan
5390
5582
30.82
32.24
7800
Phú Ninh
4777
4.76
11.90
9600
Giang Thành 8712
7268
4726
6.87
26.71
19300
Mạnh Liên
5982
3652
12.92
32.87
6600
Lan Thƣơng
9034
3806
1.95
5.73
6200
Tây Mông
5570
8907
50.74
144.33
27300
Cảnh Hồng
5203
6513
14.03
38.87
11500
Mảnh Hải
5815
5891
16.22
55.20
19300
Mãnh Lạp
5910
7426
30.14
116.15
17700
Đằng Xung
6550
5685
10.39
32.94
11700
Long Lăng
8849
6622
25.39
125.00
66300
Thụy Lệ
4969
5801
30.45
79.27
19900
Mang
6562
22.34
38.76
12500
Doanh Giang 5854
6311
4946
6.28
21.33
11600
Lũng Xuyên
7100
3593
10.90
23.73
12700
Lô Thủy
9728
2590
2.63
5.58
5600
Phúc Cống
22065
2635
1.98
3.76
9900
Cống Sơn
9352
5511
6.05
17.87
9900
Trấn Khang
7608
6558
12.65
26.87
8900
Cảnh Mã
Thƣơng
9307
5442
7.15
13.35
7300
Nguyên
Tổng hợp 25
191307
973.74
358400
131026
360.01
huyện
Bình quân 25
7652.28
14336
5241.04
huyện
cả tỉnh
8767
8969.32
19200
6141
4036.01
Chiến cả tỉnh
87.29
10.86
74.67
85.34
8.91
19
(%)
1-2 (số liệu nguồn gốc: niên giám thống kê tỉnh Vân Nam năm 2014)
1.2 Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai và tỉnh Hà Giang
Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc với nhiều dân tộc anh em cùng chung
sống như Trung Quốc. Việt Nam có 54 dân tộc, các dân tộc ít người chủ yếu sống ở
các vùng núi và cao nguyên. Các dân tộc ít người đông nhất sống tập trung tại vùng
núi phía Bắc là dân tộc Dao, Mông, Thái, Mường, Tày v.v. những dân tộc thiểu số này
đều có những tập hợp lớn phân bố tại tỉnh Lào Cai và tỉnh Hà Giang. Trong đó, Lào
Cai có 27 nhóm ngành dân tộc sống cùng với nhau như Hmông, Tày, Dao, Thái, Giáy,
Nùng, Phù Lá, Hà Nhì, Lào, Kháng, La Hủ, Mường, Bố Y, Hoa, La Chí và 11 dân tộc
có số dân ít dưới 70 người như các dân tộc Sán Chay, Sán Dìu, Khơ Me, Lô Lô, Kà
Doong, Pa Cô, Ê Đê, Giẻ Triêng, Gia Rai, Chăm, Kà Tu..cùng với dân tộc Kinh. Hà
Giang có 22 tộc người cư trú là Hmông, Dao, Pà Thẻn, Tày, Nùng, Giáy, Bố Y, La Chí,
Cờ Lao, Phu Péo, Lô Lô, Phù Lá, Hoa v.v. cùng với dân tộc Kinh. Chính cuộc sống
chung đã là cơ sở để mỗi dân tộc mang đến cho Lào Cai và Hà Giang một nét văn hoá
độc đáo riêng và tạo ra một bức tranh văn hóa chung của cộng đồng…
1.2.1 Các dân tộc ở Lào Cai
+ Tình hình chung Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới có 203 km đường biên giáp với tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc. Lào Cai nằm ở khu vực ―đệm‖ giữa khu vực Việt Bắc và Tây Bắc
Việt Nam. Theo niên giám thống kê tỉnh Lào Cai năm 2009, dân số toàn tỉnh là
615.620 người, chiếm 5,5% dân số vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và chiếm 0,7%
dân số cả nước. Tốc độ tăng trưởng dân số giai đoạn 2005-2009 là 1,41%/năm, giảm
0,42%/năm so với giai đoạn 2000-2005 (1,83%/năm). Khu vực hành chính của tỉnh
Lào Cai chia thành: 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện là Sa Pa, Bát Xát, Bảo Yên, Bảo
Thắng, Si Ma Cai, Văn Bàn, Mường Khương, Bắc Hà, với 164 xã, thị trấn.
20
+ Dân số và sự phân bố
Mật độ dân số bình quân toàn tỉnh là 96 người/km2, bằng 83% mật độ trung bình
của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và bằng 37% so với mức trung bình của cả
nước. Lào Cai hiện có 25 nhóm ngành dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc
thiểu số chiếm 64,09% dân số toàn tỉnh: Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc Mông
chiếm 22,21%, dân tộc Tày chiếm 15,84%, dân tộc Dao chiếm 14,05%, dân tộc Giáy
chiếm 4,7%, dân tộc Nùng chiếm 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người như
Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,...
Huyện Sapa nằm ở phía Tây tỉnh Lào Cai, huyện có diện tích 683,29 km², có
một thị trấn 17 xã, chủ yếu là nơi sinh sống của dân cư 6 dân tộc, trong đó tỷ lệ dân số
của các dân tộc cụ thể là: Dao 23,04% Kinh 17,91% Tày 4,74% Dáy 1,36% Xã
Phó 1,06%; Số người của tộc Hoa và các dân tộc khác 0,23%.
Huyện Bắc Hà rộng 686,78 km², có 14 dân tộc anh em cùng chung sống trong đó
đông nhất là dân tộc Hmông, Dao, Tày, Nùng; trong đó dân tộc H'Mông chiếm
khoảng trên 47% dân số trong toàn huyện. Các dân tộc khác còn lại là Kinh, Dao
tuyển (Mán đen), Tày, Nùng, Phù Lá, Hoa,...
Huyện Bát Xát là huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Lào Cai,
diện tích tự nhiên 1.061,89 km², trên 70% là đồi núi. Cư dân trên địa bàn huyện gồm
7 tộc người chung sống là Mông, Dao đỏ và Dao tuyển, Giáy, Hà Nhì, Hán, Tày và
Kinh, dân tộc thiểu số chiếm 82%..
Huyện Si Ma Cai nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Lào Cai, giáp với huyện Mã
Quan (Châu tự trị dân tộc Choang - Miêu Văn Sơn, Vân Nam, Trung Quốc). Huyện
này có 11 dân tộc cùng chung sống ở 97 thôn bản. Về cơ cấu dân số người
H’Mông chiếm 82,52%, người Nùng chiếm 12,25%, người La Chí chiếm 0,75%,
người Thu Lao (là một nhóm thuộc dân tộc Tày) chiếm 3,98%, người Phù Lá chiếm
0,09%, người Kinh chiếm 0,28% v.v. đông nhất là đồng bào H’Mông.
Huyện Bảo Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Lào Cai. Huyện có diện tích 820
km2 và dân số là trên 80.000 người (2013). Cộng đồng dân cư ở đây gồm có 15 dân
21
tộc: Dân tộc Kinh chiếm 32,56 % - Dân tộc Tày chiếm 31,93 % - Dân tộc Dao chiếm
22,16 % - Dân tộc Mông chiếm 8,61 % - Dân tộc Nùng chiếm 1,96 - Dân tộc Phù Lá
1,1 % - Dân tộc Giáy chiếm 1,09 %. - Các dân tộc khác chiếm 0,69 %...
Huyện Bảo Thắng: phía Bắc giáp với huyện Hà Khẩu (Vân Nam - Trung Quốc)
với 7km đường biên, có diện tích 691,55 km² và dân số 100.577 người (đông nhất
tỉnh Lào Cai). Có 13 cộng đồng dân tộc cùng cư trú xen kẽ với nhau trong đó đông
nhất là các dân tộc Kinh, Dao, Tày.
Huyện Văn Bàn Nằm là huyện vùng cao, có diện tích lớn thứ 2 trong tỉnh, gồm
12 dân tộc: Kinh, Tày, Mông, Dao, Giáy, Thái, Nùng, Mường, Hoa, Phù Lá, Sán Chay,
Hà Nhì, đông nhất là dân tộc Tày (chiếm hơn 50%), các dân tộc có số lượng ít là Nùng,
Mường, Hoa, Sán Chay, Hà Nhì. Đặc biệt, Văn Bàn là nơi duy nhất của tỉnh Lào Cai
có dân tộc Mông Xanh - một trong 4 ngành của dân tộc H’Mông cư trú ở Việt Nam.
Huyện Mường Khương: phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Mã Quan và Hà Khẩu
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đường biên giới Việt - Trung trên địa bàn huyện dài
86,5 km, trong đó có 55 km đất liền, có 2 cửa khẩu quốc gia là Sín Tẻn và Pha Long.
Mường Khương có dân số trên 50 nghìn người bao gồm 14 dân tộc khác nhau. Dân số
toàn huyện theo số liệu điều tra đến tháng 4 năm 2009 có 52.030người. Bao
gồm 14 dân tộc anh em và các ngành khác nhau. Dân tộc HMông đông nhất
chiếm 41,78%. Dân tộc Nùng chiếm 26,8%, Dân tộc Dao chiếm 5,75% , Dân tộc
Giáy chiếm 3,74% , dân tộc Bố Y chiếm 2,59%, dân tộc Kinh (Việt)
chiếm 11,98%. Ngoài ra còn một số dân tộc khác có dân số ít như dân tộc Phù Lá,
Mường, Lô Lô chiếm 6,8% ...
1.2.2 Các dân tộc ở Hà Giang
+ Tình hình chung Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới ở cực bắc của Việt Nam, có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng. Phía Bắc và Tây có đường biên giới giáp với nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa dài 274 km; phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp tỉnh
22
Tuyên Quang; phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Hà Giang có diện
tích tự nhiên là 7.884,37 km2. Tính đến nay Hà Giang có 1 thành phố, 10 huyện, 05
phường, 13 thị trấn và 177 xã. Thành phố Hà Giang có 5 phường và 3 xã, huyện Bắc
Mê 1 thị trấn và 12 xã, Huyện Bắc Quang 2 thị trấn và 21 xã, huyện Đồng Văn 2 thị
trấn và 17 xã, huyện Hoàng Su Phì 1 thị trấn và 24 xã, huyện Mèo Vạc 1 thị trấn và 17
xã, huyện Quản Bạ 1 thị trấn và 12 xã, huyện Quang Bình 1 thị trấn và 14 xã,
huyện Vị Xuyên 2 thị trấn và 22 xã, huyện Xín Mần 1 thị trấn và 18 xã, huyện Yên
Minh 1 thị trấn và 17 xã
+Dân số và sự phân bố dân số
Dân số tỉnh Hà Giang theo điều tra dân số tháng 4 năm 2009 là 724.537 người.
Trong đó, dân số thành thị là 84.338 người; các dân tộc: Mông (chiếm 32,0% tổng
dân số toàn tỉnh), Tày (23,3%), Dao (15,1%), Việt (13.3%), Nùng (9.9%)……Hà
Giang có 1 thành phố, 10 huyện, 5 phường, 13 thị trấn và 177 xã.
Huyện Bắc Mê có diện tích 844,30 km² và dân số 56.593 người (điều tra 2009).
Toàn huyện có 12 xã, 1 thị trấn. Có 13 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn huyện,
trong đó 37,86% là dân tộc Dao, 22,34% là dân tộc Tày, 22,21% là dân tộc HMông,
còn lại là các dân tộc khác.3
Huyện Bắc Quang là huyện vùng cao thuộc tỉnh Hà Giang. Bắc Quang có 2 Thị
trấn Việt Quang và Vĩnh Tuy và 21 xã. Dân số của huyện là 108.704 người, với 19
dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó đông nhất là dân tộc Tày, Nùng, Dao.
Huyện Đồng Văn có diện tích 446,66 km², gồm 2 thị trấn Thị trấn Đồng
Văn (huyện lỵ) Thị trấn Phó Bảng và 17 xã. Dân số cả huyện có 62.138 người (điều
tra năm 2009), với 15 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó đông nhất là dân
tộc HMông chiếm trên 85%, tiếp đó là các dân tộc Tày , Kinh, Hoa còn lại là các dân
tộc khác…4
Huyện Hoàng Su Phì có 12 dân tộc sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Nùng
3 http://hagiangsensetravel.com/bac-me-danh-thuc-tiem-nang-du-lich-n.html 4 http://wikimapia.org/17640314/vi/Huyện-Đồng-Văn
23
chiếm hơn 38%, tiếp đó là dân tộc Dao 22%, H’Mông 13%, còn lại là các dân tộc khác.
Huyện Quản Bạ nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Giang, phía Bắc và Tây giáp Vân Nam -
sống rất khó khăn.
Huyện Mèo Vạc phía Đông và phía Bắc giáp với Trung Quốc. Tính đến 31 tháng
12 năm 2013 dân số toàn huyện là 76.263 người, gồm 17 dân tộc cùng sinh sống như:
H’Mông, Lô Lô, Dao, Giáy, Tày, Kinh, Nùng, Hoa, Sán Chay, Cờ Lao, Pu Péo….,
đông nhất là dân tộc HMông chiếm 77,28 % dân số toàn huyện.5
Huyện Quản Bạ phía bắc và tây giáp Vân Nam - Trung Quốc. Dân số của toàn
huyện là 45.426 người (Niên giám thống kê năm 2010), Là nơi cư trú của 14 dân tộc,
trong đó gần 60% là dân tộc HMông, khoảng 14% là dân tộc Dao, dân tộc Tày chiếm
11%, còn lại là các dân tộc khác. Đặc biệt Quản Bạ là địa phương duy nhất có dân tộc
Bố Y (hiện chỉ còn 881 người và hầu hết sống tập trung ở xã Quyết Tiến). 6
Huyện Vị Xuyên phía Tây giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng
Su Phì, phía Nam giáp huyện Bắc Quang, phía Đông là thành phố Hà Giang và
huyện Na Hang (Tuyên Quang). Huyện có diện tích 1487,5 km² và dân số 82.000
người (điều tra năm 2004). Vị Xuyên là nơi sinh sống của 15 dân tộc gồm: Tày, Dao,
Kinh, Nùng…
Huyện Xín Mần: phía Bắc giáp Trung Quốc, Xín Mần có 1 thị trấn huyện lỵ
(Cốc Pài) và 18 xã. Huyện này có diện tích 581,8 km². Dân số (đến năm 2013) là
62.457 người. Có 18 dân tộc anh em cùng chung sống (Nùng, HMông, Tày, Dao, La
Chí, Kinh, Phù Lá, Hoa, Pà Thẻn, Cao Lan, Mường, Ngạn, Bố Y, Khmer, Giấy, Cơ
Lao, Sán Dìu, Sán Chay). Trong đó có một số dân tộc là người bản địa như Nùng,
Mông, La Chí, Phù Lá, Tày, Dao…Huyện có 4 xã biên giới giáp với huyện Mã Quan,
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (Pà Vầy Sủ, Chí cà, Xín Mần, Nàn Xỉn) với chiều dài
đường biên giới 31km.7
5 http://meovac.hagiang.gov.vn/index.php?nv=gioi-thieu-chung&op=Dan-so-lao-dong/Dan-so-lao-dong-63 6 http://duan600.vn/huyen-ngheo/Huyen-Quan-Ba-Ha-Giang-28/ 7 http://xinman.hagiang.gov.vn/index.php?nv=gioi-thieu-chung&op=Tu-nhien-xa-hoi/Dieu-kien-tu-nhien-va-tiem-nang-kin h-te-10
24
Huyện Yên Minh nằm phía Đông Bắc tỉnh Hà Giang, phía Bắc giáp tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc), có diện tích 786,15 km², dân số toàn huyện là 71.297 người
(Niên giám thống kê năm 2010). Huyện có 16 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân
tộc HMông chiếm 53,2%, dân tộc Dao chiếm 15%, dân tộc Tày chiếm 13,95% dân số,
còn lại là các dân tộc khác có tỷ lệ dân số ít như Pu Péo, Lô Lô...8
1.3Một số yếu tố có tác động đến quan hệ dân tộc
1.3.1Chiều dài biên giới
Trong sự phát triển của các địa phương nhất là ở vùng biên giới, quan hệ giao lưu
của các tộc người cũng phụ thuộc vào vị thế địa - chính trị, địa - văn hóa của mỗi vùng.
Vùng biên giới Việt – Trung có đặc điểm nổi bật là đa dạng về điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội, tộc người, trong đó nhiều tộc người có đồng tộc sinh sống ở bên kia
biên giới của nước láng giềng. Biên giới là ―cửa ngõ‖ quan trọng, thường xuyên đón
nhận giao lưu văn hóa giữa các tộc người ở các quốc gia. Trong quá trình giao lưu đó,
―biên giới tộc người‖ nhiều khi không trùng với biên giới quốc gia vì thế quan hệ
đồng tộc đôi khi vượt qua biên giới quốc gia để tới nơi có người cùng họ, cùng dân tộc
đang sinh sống ở bên kia biên giới. Chính vì thế có nhiều yếu tố có thể tác động đến
quan hệ của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên.
Đường biên giới Trung-Việt tổng chiều dài 1449 km, trong đó đoạn tỉnh Vân
Nam và Lào Cai dài 203 km, Vân Nam với tỉnh Hà Giang dài 274 km. Chính do
đường biên giới dài nên có nhiều cửa khẩu và lối mòn được nhân dân sử dụng. Lào
Cai có QL 70; QL 279; QL 4D và rất nhiều những con đường hiểm trở dọc biên giới,
với các cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu cấp tỉnh, và các lối mòn thông dụng. Tỉnh Vân
Nam và tỉnh Lào Cai có 1 cặp cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu- Lào Cai (đường ô-tô) Hà
Khẩu-Lào Cai (đường sắt). Hà Khẩu –Lào Cai là một trong ba cửa khẩu quốc tế có vị
trí quan trọng trong giao lưu kinh tế thương mại qua biên giới đất liền giữa hai nước
8 http://duan600.vn/huyen-ngheo/Huyen-Yen-Minh-Ha-Giang-29/
25
Việt Nam và Trung Quốc. Cửa khẩu nằm ngay trong trung tâm Tp Lào Cai.
(Cửa khẩu Lào Cai- Hà Khẩu)
Ngoài ra còn có các cửa khẩu quốc gia như Tung Chung Phố -Mường Khương,
cửa khẩu quốc tế đường bộ Kim Thành thành phố Lào Cai, cửa khẩu Bản Vược (Bát
Xát) và hơn 80 đường mòn thông dụng như lối mở Bản Quẩn (Bảo Thắng)…
Tỉnh Vân Nam và tỉnh Hà Giang có 1 cửa khẩu cấp Quốc gia, 2 cửa khẩu cấp
tỉnh, 19 chợ biên giới, 108 lối mòn thông dụng. Tình hình cụ thể như sau:
Cấp Cấp Quốc gia Cấp Quốc gia Cấp tỉnh Cấp tỉnh
Tên cửa khẩu VN Thanh Thủy Thương Bồng Xín Mần Phổ Bổng HoaTrúcBằng Phố Mã Mới Lối mòn thông dụng Lối mòn thông dụng Kê Ca Xín Mần Lối mòn thông dụng Mạn Mỹ Hoàng Su Phì
Nam Đinh Hoàng Su Phì Nghĩa Thuận Quản Bạ Bạch Đức Yên Minh Cô Long Đồng Văn Đường Mới Mèo Vạc Lối mòn thông dụng Lối mòn thông dụng Lối mòn thông dụng Lối mòn thông dụng Lối mòn thông dụng
9 骥磊〃从滇越骥段骥界走廊考察壮族与岱骥族的跨境关系〃文山骥范高等骥科学院学骥〃2007 年
26
Tên cửa khẩu TQ Thiêm Bảo Điền Bồng Đô Long Đổng Can Tiểu Bá Tử Mã Quang Kim Xưởng Mã Quang Đường Bảo Lương Mã Quang Mãnh Đồng Ma Lật Pha Bá Bố Ma Lật Pha Dương Vạn Ma Lật Pha Mã Lâm Ma Lật Pha Hòa Bình Phú Ninh 1-3 (Do lối mòn thông dụng nhiều nên chỉ thống kê những lối mòn chủ yếu, được người dân 2 nước sử dụng nhiều)9
Rõ ràng mặc dù trên toàn tuyến biên giới đã có rất nhiều các cửa khẩu cấp quốc
gia và cấp tỉnh nhưng vì tuyến biên giới Việt – Trung rất dài hơn nữa bà con các dân
tộc thiểu số sống ở vùng biên có cùng nguồn gốc, có cùng tâm lý và tình cảm dân tộc
nên việc hình thành rất nhiều các lối mòn thông dụng để giúp bà con giao lưu thuận
tiện là điều tất yếu. Các cơ quan quản lý nào có thể biết và xác định được các lối mòn
trên thực địa nhưng không thể quản lý được các ―đường mòn‖ ở trong tâm của những
bà con các tộc người ở vùng biên giới Trung-Việt cùng uống một sông nước, cùng
kiếm củi trên một núi, cùng đi một chợ thì chỉ những đường mòn này mới làm cho
việc giao lưu được tiện lợi.
1.3.2 Yếu tố lịch sử
Thời kỳ Nhật xâm chiếm Trung quốc, nhiều người dân ở vùng biên giới Trung
Quốc chạy sang Việt Nam tị nạn. Những năm đầu thế kỷ 19, Lưu Vĩnh Phúc từng tổ
chức cho các dân tộc vùng biên giới Trung Quốc thành lập ―Quân cờ đen‖ như dân tộc
Hán, dân tộc Choang v.v., để giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, và giành được nhiều
thắng lợi. Sau ngày ―Quân cờ đen‖ trở về Trung Quốc, trong đó có một số người ở lại
Việt Nam, ngày nay số đó đã trở thành một bộ phận của dân tộc Nùng. Năm 1886, ở
mấy tỉnh thuộc biên giới phía Bắc giáp với Trung Quốc như tỉnh Hải Ninh, tỉnh Lạng
Sơn, tỉnh Cao Bằng, các dân tộc biên giới tích cực tham gia chống thực dân Pháp như
Kinh, Tày, Nùng v.v., nhưng bị đàp áp mạnh mẽ, có bộ phận người Việt giáp biên giới
chạy trốn sang vùng Đông Hưng Trung Quốc. Năm 1958 đến năm 1961, Kế hoạch
― đại nhảy vọt‖ không thu được kết quả như mong đợi, làm cho Trung Quốc thiếu ăn
nghiêm trọng, đa số người dân ở vùng biên Trung-Việt chạy sang vùng biên Việt Nam
để nhờ họ hàng hoặc bạn bè với mục đích là mua lương thực giải quyết tạm thời vấn
10 范骥宏, 壮族在骥南骥最骥密的兄弟——越南的岱、骥、拉基、布骥、山骥族, 广西民族学院学骥,
2005 年第一期.
27
đề thiếu ăn.10 Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp và chống Mỹ, một bộ phận nhân
dân gần biên giới chạy sang các tỉnh lận cận của Trung Quốc tị nạn, chính quyền địa
phương Trung Quốc và quần chúng đều viện trợ và hỗ trợ tích cực về tinh thần cũng
như vật chất. Như vậy có thể nhận thấy ở vùng biên nếu quan hệ hai quốc gia là bình
thường thì với đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại đây quan hệ đồng tộc, quan hệ
đồng họ có điều kiện phát triển thuận lợi.
Những năm thập niên 70-80 thế kỳ 20, quan hệ Trung-Việt không bình thường,
thậm chí năm 1978, quan hệ Trung-Việt căng thẳng đến đóng cửa biên giới và đương
nhiên cũng đóng hết tất cả lối mòn thông dụng. Cũng trong thời gian này, quan hệ hai
Đảng, hai chính phủ cũng bị gián đoạn. Tuy vậy ở một số nơi của vùng biên, dù có
khó khăn nhưng người dân vùng biên vẫn giữ quan hệ với những người đồng họ,
đồng tộc ở bên kia biên giới.Theo tư liệu điều tra của Hàn Na11, trong thời kỳ căng
thẳng này, người dân ở một số nơi thuộc biên giới Trung-Việt vẫn có đi lại. Nhiều dân
tộc thiểu số sử dụng lối mòn bí mật đi thăm họ hàng bạn bè. Cá biệt có những lối mòn
còn được thông báo cho nhau cho biết phải cần thẩn chỗ nào, chỗ nào có bom mìn.
Người dân biên giới cả hai nước vẫn giữ quan hệ giao dịch với nhau, một số người
dân biên giới Việt Nam cũng bất chấp nguy hiểm tìm đường mòn mới để sang vùng
biên Trung Quốc mua bán đồ cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày. Vì thế có nơi ở vùng
biên tự nhiên hình thành các phiên chợ giao dịch dân gian như ―Phố Bí Thảo‖ 12 bởi
người dân vùng biên nhu cầu. Chính vì thế ngay cả trong năm 1979, người dân biên
giới Trung-Việt vẫn có hoạt động giao dịch. Người Trung Quốc thường lấy các sản
phẩm dệt may, vải Cotton, đèn pin, dép, dầu gió v.v. đổi những vật phẩm như trái cây,
rau xanh, cây thuốc dược liệu, các loại trứng với người Việt...
Đối với vấn đề này, có những tài liệu cho thấy, chính quyền Việt Nam cũng từng
có biện pháp để ngăn chặn. Thí dụ tháng 3 năm 1984 có qui định, khi đi vào vùng biên
12 黄永祥〃金平-草皮街-走向大市骥〃云南民族学院学骥〃1994 年
28
giới, phải có giấy thông hành, nếu muốn đi vào vùng trọng điểm biên giới thì phải 11 Biến đổi xã hội biên giới Trung-Việt và ý thức quốc gia- dựa vào phân tích về người vùng biên giao dịch xuyên quốc gia, Hàn Na〃Nghiên cứu quốc tế
được chủ tịch, bí thư địa phương xét duyệt và ký tên. Nếu vi phạm thì phải bị phạt tiền
hoặc chịu cải tạo lao động. Tuy vậy, nhưng hoạt động giao dịch tại vùng biên giới
không những không bị hạn chế mà phạm vi giao dịch lại không ngừng mở rộng. Thực
tế, chính quyền Trung-Việt từ từ ngầm thừa nhận những giao dịch này. Phải đến ngày
19 tháng 11 năm 1988, Nghị quyết số 118 mới chính thức chấp nhận việc thăm hỏi
người thân, giao dịch hàng hóa có nhu cầu. Thực tế trong giai đoạn này, quan hệ
Trung-Việt hình thành một cục diện trái ngược ―quan thù địch dân hữu hảo‖.
Rõ ràng, người dân vùng biên của các quốc gia, bất kể quan hệ hai nước ổn định
hòa bình hay không, đều giữ quan hệ và trao đổi không gián đoạn. Có khác nhau chỉ
là công khai hoặc bí mật với hình thức khác nhau, số lần đi lại nhiều hoặc là ít mà thôi.
1.3.3 Xu thế hiện nay
Xu hướng toàn cầu hoá xuất hiện vào khoảng những năm 1870 – 1913, cho đến
ngày nay nó đã trở nên phổ biến và ngày càng diễn ra hết sức sôi động trên hầu hết
mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là một xu thế tất yếu, khách quan, hợp quy luật của
thời đại mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài nếu không muốn bị tụt hậu.
Toàn cầu hóa, một mặt đem lại cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển
những cơ hội lớn, mặt khác nó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ.
+ Cơ hội
Xu thế mở cửa, giao lưu hội nhập đã trở thành nhu cầu bức thiết đối với hoạt
động văn hoá xã hội của các dân tộc. Ngày nay, để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
các quốc gia cho dù là chế độ xã hội nào cũng không thể đóng cửa, bế quan toả cảng,
bởi lẽ chính mở cửa, giao lưu và hội nhập đã đem lại nhiều cơ hội cho nền kinh tế, văn
hoá của các dân tộc. Quá trình giao lưu hội nhập có thể xảy ra theo nhiều hình thức.
Tính đến tháng 5 năm 2010, trên vùng biên giới 2 nước Trung-Việt, có cả thảy 9
cửa khẩu mậu dịch biên giới và 54 điểm họp chợ biên giới, trong đó có 25 điểm nằm
trong địa bàn Quảng Tây, 29 điểm nằm trong địa bàn Vân Nam. Thí dụ chợ mậu dịch
biên giới Địa Tây Bắc. Địa Tây Bắc là một địa danh nằm ở bản người Di thuộc xã Ma
29
An Để huyện tự trị dân tộc Thái- Dao- Mèo Kim Bình châu Hồng Hà. Huyện Kim
Bình giáp với tỉnh Lào Cai và tỉnh Lai Châu của Việt Nam. Năm 1987, chợ biên giới
Địa Tây Bắc được chính quyền tỉnh Vân Nam phê chuẩn là khu chợ dùng cho dân
biên giới qua lại buôn bán. Chợ biên giới Địa Tây Bắc là nơi họp chợ của chừng 40
nghìn dân biên giới Trung Quốc và Việt Nam, kể cả hàng nghìn người dân biên giới
Việt Nam ở xã Dao Sơn và lân cận của huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu và xã Dĩ Để
và vùng lân cận thuộc huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai. Chợ Địa Tây Bắc cứ 6 ngày họp một
phiên. Ngày chợ, lúc đông nhất có tới hơn 13 nghìn người, trong đó khoảng một nửa
là những người dân biên giới Việt Nam. Hàng hoá trên chợ chủ yếu là nông phẩm,
lâm sản và các mặt hàng thông dụng hàng ngày. Ở vùng đông đồng bào dân tộc, sản
phẩm trao đổi đa dạng không những là sự thật bắt buộc để giao lưu trao đổi mà còn là
cơ sở để bà con xây dựng một cuộc sống bình thường. Sự thích ứng giữa các nền văn
hoá của dân tộc này với dân tộc khác cũng là thuộc tính bản chất trong quan hệ trao
đổi này. Chợ biên giới đã giúp nhân dân các dân tộc mở rộng thêm phạm vi hoạt động
xã hội, tăng thêm sự giao lưu và hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy cộng đồng dân tộc khai
thác tiềm năng tốt hơn nữa, qua đó thắt chặt thêm quan hệ chung sống gắn bó giữa các
dân tộc thiểu số được hình thành tự nhiên từ xa xưa trong lịch sử.
Nền kinh tế hiện đại hóa thường tác động tích cực tới ý thức quốc gia của
người dân. Lịch sử kiến tạo đất nước của các dân tộc châu Âu là sự diễn giải tốt nhất
đối với ảnh hưởng tích cực do hiện đại hoá mang lại. Đối với các nước xã hội chủ
nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam mà nói, sau khi thi hành chính sách cải cách mở cửa
và đổi mới, ý thức quốc gia của quần chúng dân tộc thiểu số quả thật có chiều hướng
tăng lên, đó là tác động của nền kinh tế hiện đại hoá tuy không phải là hoàn toàn
nhưng rất quan trọng.
Trước hết, trong quá trình xây dựng hệ thống kinh tế thị trường mở cửa thống
nhất, sự trao đổi kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc được mở rộng không ngừng. Kinh
tế thị trường là kinh tế có mục đích tăng cường lợi nhuận làm cho xí nghiệp không
ngừng mở mang thị trường. Nhiều xí nghiệp vùng nội địa, đồng bằng, duyên hải trong
30
đó có cả những xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tìm cách đưa hàng vào vùng biên
cương phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số. Quá trình xây dựng nhà máy, khai thác tài
nguyên tại vùng biên cương, không chỉ là một quá trình giao lưu kinh tế với động lực
là trao đổi lợi ích vật chất mà điều quan trọng hơn là quá trình giao lưu kinh tế cũng
mang theo rất nhiều yếu tố văn hóa. Thông qua sự giao lưu văn hóa gián tiếp đó,
không những làm cho quần chúng dân tộc đa số (Hán ở Trung Quốc, Kinh ở việt Nam)
nhận thức được nền văn hóa dân tộc thiểu số phong phú đa dạng mà còn giúp cho
quần chúng dân tộc thiểu số có được nhận thức trực quan nhiều hơn đối với nền văn
hóa của các dân tộc khác kể cả dân tộc đa số, làm tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng
lẫn nhau giữa các dân tộc. Đồng thời, chính sự giao lưu trao đổi đó cũng xúc tiến
thúc đẩy các dân tộc hòa hợp hơn nữa. Mặc dù sự khác biệt văn hoá giữa các dân tộc
vẫn tồn tại, song tính chất chung (về văn hoá và chính trị) lại đang được hình thành và
phát triển. Những tính chất chung đó đang không ngừng củng cố ý thức quốc gia mà
cụ thể là cảm giác được hòa nhập của quần chúng các dân tộc thiểu số. Và họ sẽ
không thể nào có được cảm giác như vậy nếu ở vào thời kỳ trước khi cải cách mở cửa,
thời kỳ có sự cách biệt giữa các quần thể văn hoá khác nhau.
Mặt khác là, của cải quốc dân gia tăng khiến chất lượng đời sống nhân dân (kể cả
quần chúng dân tộc thiểu số) được cải thiện rõ rệt. Chính đời sống vật chất được cải
thiện đã có tác dụng làm cho đồng bào dân tộc thiểu số tin tưởng hơn vào chính phủ
trung ương và ý thức quốc gia cũng được nâng lên. Thí dụ như ở vùng Tây Nam
Trung Quốc tác động bởi cải cách kinh tế đối với ý thức quốc gia của đồng bào dân
tộc thiểu số càng nổi bật hơn bởi lẽ nếu so với các nước xung quanh thì Trung Quốc
có cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn, cuộc sống sung túc hơn, đó quả thực đã mang lại cho
các dân tộc ở đây niềm tự hào và ý thức quốc gia mãnh liệt.
Ngoài ra, thu nhập tài chính tăng đã tạo cơ sở vật chất cho việc thi hành và cải
tiến các chính sách khác với đồng bào dân tộc. Thí dụ như nền giáo dục quốc dân
cũng kịp thời cải cách đã và đang áp dụng nhiều biện pháp nhằm xoá dần khác biệt
văn hoá giữa cộng đồng dân tộc thiểu số với cộng đồng dân tộc đa số.
31
+ Những thách thức
Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng là con dao hai lưỡi, đem lại cho chúng ta rất nhiều
điều hay, điều lợi nhưng cũng đem lại vô số những điều bất lợi. Đầu tiên, tình hình
không cân bằng của hiện đại hóa kinh tế gây nên khác biệt giữa các vùng miền, tất
nhiên gây ra chênh lệnh thu nhập, chênh lệnh giàu nghèo giữa dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số. Sự chênh lệch này sẽ tồn tại tương đối lâu, nếu chính sách không có
điều chỉnh đột biến thì tình hình này không thể thay đổi được trong một thời gian
ngắn và sẽ ảnh hưởng đến ý thức quốc gia trong lòng đồng bào dân tộc thiểu số.
Cụ thể như ở Trung Quốc thông qua hơn 30 năm cải cách mở cửa, những yếu tố
như khu vực hoặc hoàn cảnh thành phố , nông thôn làm cho thu nhập của các dân
tộc có chênh lệch đã không thể giải thích hợp lý bằng yếu tố lịch sử, địa lý nữa. Cho
dù chính sách kinh tế và chế độ phân phối không phải là yếu tố duy nhất gây ra
chênh lệch, cũng là một yếu tố rất quan trọng. Ngoài ra, bởi vì tình huống khách
quan mà có sự đan xen giữa các dân tộc thiểu số ở vùng biên Trung-Việt, giao lưu
giữa hai bên không ngừng tăng cường, quần chúng dân tộc thiểu số sẽ cảm thấy rõ rệt
hơn vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các dân tộc, tất nhiên họ sẽ nghi ngờ và suy nghĩ
về nguyên tắc và chế độ phân phối hiện nay đang thi hành, mà những nghi ngờ này sẽ
ảnh hưởng đến phán đoán của họ với trật tự nhà nước mà cụ thể nhất là các vấn đề gây
xung đột ở Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương. Nếu tình hình này không có cải thiện
trong một thời gian tới, thì tình hình về ý thức của dân tộc thiểu số ở vùng biên sẽ
không lạc quan.
Ngoài ra, hiện đại hóa kinh tế không phải là một quá trình độc lập, trong quá
trình giao lưu kinh tế chắc chắn mang yếu tố chính trị và văn hóa. Trên đường biên
giới Trung-Việt, ý thức dân tộc và ý thức quốc gia của các dân tộc thiểu số thường là
một trạng thái ―lung lay‖. Nếu trong quá trình ấn định chính sách đối với vùng biên
giới, chính quyền Trung Quốc và Việt Nam không cân nhắc toàn diện về nền văn hóa
của người dân biên giới không thi hành chính sách phong phú đa dạng, hữu hiệu, và
không đáp ứng được nhu cầu văn hóa và vật chất của người dân biên giới, thì ý thức
32
quốc gia và ý thức dân tộc rất khó có thể đạt được mục tiêu, dễ xảy ra những sự kiện
trực tiếp ảnh hưởng đến an toàn biên giới quốc gia và thiết hại lợi ích cả xã hội.
Tiểu kết chƣơng 1
Viêt Nam và Trung Quốc đều là quốc gia đa dân tộc với nhiều dân tộc anh em
cùng chung sống. Đường biên giới Trung-Việt tổng dài 1449.566 km, trong đó đường
biên giới Vân Nam và Lào Cai dài 203 km, với tỉnh Hà Giang dài 274 km. Có rất
nhiều tộc người nằm ở vùng biên Trung-Việt, Trung Quốc có 13 dân tộc, Việt Nam có
26 dân tộc.
Vân Nam là một tỉnh miền núi biên giới có nhiều dân tộc cùng sống chung của
Trung Quốc. Tỉnh Lào Cai và tỉnh Hà Giang giáp với tỉnh Vân Nam Trung Quốc cũng
là nơi các dân tộc thiểu số sống chung tương đối nhiều ở Việt Nam. Giữa 3 tỉnh này có
nhiều dân tộc thiểu số xuyên biên giới, họ cùng nguồn gốc nên có văn hóa, phong tục
tập quán tương đồng.
Ở vùng biên giới Trung-Việt xưa nay, bà con dân tộc hai bên đều giữ quan hệ
mật thiết với nhau. Cho dù là thiên tai hay địch họa, miễn là người dân cần giúp đỡ thì
bà con dân tộc của nước bạn đều dốc sức viện trợ và hỗ trợ tích cực về tinh thần cũng
như vật chất. Kể cả thời kỳ quan hệ Trung-Việt căng thẳng, quan hệ đi lại dân gian
giữa vùng biên hai nước đều chưa bao giờ gián đoạn mà trên thực tế chính quyền địa
phương hai nước cũng không ngăn chặn được. Đối với quan hệ các dân tộc thiểu số,
không chỉ các cửa khẩu mà cả các lối mòn thông dụng vùng biên là cầu nối quan trọng,
tạo điều kiện để người dân ở vùng biên của hai nước gắn liền chặt chẽ với nhau.
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay cũng chú trọng mở rộng quan hệ vùng biên,
phát triển kinh tế, tăng thêm thu nhập chính đáng cho người dân biên giới. Mặt khác
thông qua cải thiện mức sống của người dân ở vùng biên cũng góp phần tăng cường ý
thức quốc gia của họ. Song thực trạng phát triển không đồng đều, thiếu cân đối do
hiện đại hóa kinh tế gây ra chênh lệnh thu nhập giữa vùng biên giới với vùng khác
trong nước, dễ xảy ra tâm lí không ổn định, gây xáo trộn ở vùng biên. Trong quá
trình ấn định chính sách cho vùng biên giới, chính quyền Trung Quốc và cả Việt Nam
33
luôn cân nhắc toàn diện cả về kinh tế, chính trị và văn hóa nhằm đem lại đời sống ổn
định cho người dân biên giới.
CHƢƠNG 2 QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG QUAN HỆ DÂN TỘC
2.1 Mối quan hệ giữa các dân tộc vùng biên giới Biên giới Việt – Trung được hình thành muộn và luôn biến động qua các thời kì
lịch sử khác nhau. Ngày nay, khi hai nước đã hoàn thành việc phân mốc biên giới trên
bộ thì vấn đề tranh chấp biên giới mới giảm bớt căng thẳng. Điều này giúp cho cuộc
sống của cư dân biên giới có nhiều thuận lợi. Một đặc điểm của vùng biên giới Việt –
Trung chính là sự đa dạng trong điều kiện tự nhiên và văn hóa. Với nhiều dạng địa
hình, khí hậu và nguồn tài nguyên phong phú đây là khu vực đa dạng về tài nguyên
thiên nhiên. Ngoài ra, tại đây có nhiều tộc người cư trú nên có thể được coi là một khu
vực đa dạng văn hóa. Các tộc người này có nguồn gốc lịch sử và đặc điểm văn hóa
khác nhau nhưng đã cùng chia sẻ một không gian sinh tồn chung. Vì thế, ngoài những
đặc điểm văn hóa ngôn ngữ riêng, họ cũng có nhiều nét tương đồng do quá trình tiếp
xúc và cộng cư lâu dài.
Chúng ta đều biết, vùng biên giới Việt – Trung vốn là vùng chậm phát triển, có
trình độ và nguồn lực phát triển kinh tế xã hội thấp so với trình độ phát triển chung của
cả hai nước. Chính vì thế, vai trò của tộc người Hán và người Kinh tương đối quan
trọng đối với quá trình phát triển các quan hệ giao thương và đô thị dọc vùng biên. Cho
dù không phải là cư dân gốc của khu vực này, nhưng ảnh hưởng của họ trong các hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp, của cư dân trong vùng lại tương đối nổi bật.
Để thấy rõ đặc điểm ―xuyên biên giới‖ giữa các dân tộc của hai nước, sau đây,
chúng ta sẽ tìm hiểu tính chất mối liên hệ ấy được thể hiện như thế nào, cụ thể là chú
ý đến quan hệ đồng tộc, đồng họ, quan hệ khác dân tộc…từ đó, cho phép, chúng ta
có thể tiếp tục tìm hiểu những tương đồng cũng như khác biệt về văn hóa xã hội để
nhận biết đầy đủ hơn về bức tranh văn hóa xã hội của những dân tộc xuyên biên
34
giới ở hai nước.
2.1.1 Quan hệ đồng tộc
Quan hệ đồng tộc là một quan hệ phổ biến ở khu vực biên giới. Tìm hiểu quan hệ
đồng tộc ở vùng biên tỉnh Vân Nam Trung Quốc với Việt Nam có thể thông qua mấy
phương diện như sau:
2.1.1.1 Quan hệ hôn nhân
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Do đó, việc thể hiện tình cảm tự
nguyện giữa hai bên, sự tự nguyện trong hôn nhân là điều kiện cơ bản để hôn nhân có
hiệu lực. Hôn nhân xuất phát từ vai trò có tính bền vững của gia đình truyền thống, là
cơ sở xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Nhưng ta dù mang đặc tính nào
thì hôn nhân vẫn chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật, có khi là một thiết
chế phù hợp với thực tiễn thí dụ như phong tục. Đối với vùng biên nơi có cộng đồng
các dân tộc xuyên biên giới thì các phong tục, luật tục đôi khi còn mạnh hơn cả pháp
luật. Chính vì thế trên thực tế việc kết hôn xuyên biên giới tuy chưa phải là phổ biến
nhưng cũng không phải là những trường hợp đặc biệt.
Có một vài nguyên nhân dẫn tới thực trạng này như: kết hôn vì tâm lí dân tộc,
cùng ngôn ngữ tương đồng, cùng tập tục giống nhau, giao thông qua lại thuận tiện dù
là hai nước nhưng thực tế lại gần hơn nơi khác… đã khiến cho người dân kết hôn
xuyên biên giới tương đối nhiều. Qua điều tra, số hộ gia đình kết hôn giữa dân tộc
Choang ở huyện Biên Tam, Văn Sơn, Trung Quốc và dân tộc Tày, dân tộc Nùng (chủ
yếu là dân tộc Nùng) của Việt Nam là: huyện Mã Quan có 20 hộ, huyện Ma Lật Pha
32 hộ, huyện Phú Ninh 5 hộ. Những con số này được lấy từ văn phòng huyện Mã
Quan, huyện Ma Lật Pha, phòng tự quản huyện Phú Ninh. Các con số trên còn chưa
tính đến số hộ gia đình chưa hoặc không đăng kí kết hôn.
Có thể giới thiệu một số hộ cụ thể như:
Gia đình ông Long Phụng Vinh (dân tộc Choang, đã mất) có vợ là Vương Phát
35
Liên 63 tuổi người dân tộc Nùng, thôn Nam Hải, huyện Bát Xát Lào Cai Việt Nam.
Gia đình ở Việt Nam có 4 anh chị em. Năm 23 tuổi bà đã chạy trốn khỏi cuộc hôn
nhân của mình sang Trung Quốc và gặp ông Long Phụng Vinh. Không bao lâu hai
người đã kết hôn và sinh được 3 nam 2 nữ. Con trai là Long Lâm Khoa 37 tuổi, cũng
lấy vợ là người Việt Nam sinh được 1 nam (24 tuổi), 1 nữ (10 tuổi), đều đang đi học
Gia đình ông Hoàng Thượng Hải có vợ là Lục Kim Hoa 37 tuổi người dân tộc
Nùng thôn Nam Lặc huyện Mường Khương Việt Nam. Anh chị em trong gia đình bà
Hoa ở Việt Nam có 3 nữ, 1 nam. Đáng chú ý mẹ bà Hoa là người Trung Quốc, bố là
người Việt Nam nhưng đã sinh sống ở Trung Quốc được 14 năm. Ông Hoàng Thượng
Hải sang Việt Nam chơi, quen biết bà Lục Kim Hoa, sau khi gả cho nhà họ Hoàng bà
có tên Mịch, tức Á Mịch. (Dân tộc Choang trong đời có 4 tên gọi. Tên khi mới sinh là
tên mụ hay còn gọi là nhũ danh; sau lớn lên đi học thì được gọi là thư danh, có khi gọi
là tên học sinh, khi con trai lấy vợ , con gái gả chồng thì lại có tên riêng, ví dụ con gái
tên là Hương, thì bố mẹ được gọi là ―Bác Hương‖ ―Á hương‖). Bà Hoa sinh được 1
nam 14 tuổi, 1 nữ 10 tuổi đang học lớp 2 lớp 3 trường tiểu học.
Gia đình ông Lục Đức Tỉnh, vợ là Dư Tú Linh (46 tuổi) người dân tộc Nùng
huyện Xi Ma Cai, thuộc người dân tộc bản địa Việt Nam. Bà cùng người thân sang
Trung Quốc chơi quen được ông Lục Đức Cảnh, sau khi kết hôn tên của bà trong gia
đình là ―Tình‖ và ―Á Tình‖. Bà đã sang Trung Quốc được 17 năm, ông bà sống với
nhau và sinh được 1 nam 2 nữ, lớn nhất tên là Lục Hiền Muội đang học tiểu học, thứ
hai tên là Lục Kim Vệ (nam) đang học tiểu học, thứ 3 là Lục Kim Tiên, học tiểu học
ở Thán Đê.13
Chúng ta đều biết từ lâu ở Trung Quốc đã có chế độ mỗi gia đình chỉ được sinh 1
con. Mặt khác do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng trọng nam khinh nữ nên tỷ lệ nam
cao hơn nữ rất nhiều. Chính vì thế theo lẽ thông thường chúng ta thường gặp tình
13 骥磊〃从滇越骥段骥界走廊考察壮族与岱骥族的跨境关系〃文山骥范高等骥科学院学骥〃2007 年 44 骥
36
trạng nam Trung Quốc lấy vợ Việt Nam chứ ít khi gặp trường hợp ngược lại. Thế
nhưng ở làng Thượng Bình Hà và làng Tân Trại dân tộc Dao thuộc hương Bình Hà
huyện Lục Xuân châu Hồng Hà lại có nhiều cặp vợ Trung chồng Việt. Đây là một vấn
đề do phong tục qui định. Theo phong tục chính thống của dân tộc Dao, người làng
chỉ có thể thông hôn với đồng tộc nhưng khác họ. Thực tế do yếu tố địa lí nên các bản
dân tộc Dao ở vùng biên của Việt Nam lại ở gần hai thôn này hơn các làng Dao Trung
Quốc khác. Vì thế hai bản dân tộc Dao Việt Nam trở thành phạm vi thông hôn của hai
làng Trung Quốc này. Yếu tố dân tộc mạnh khiến địa phương xuất hiện tình huống
thông hôn khác nơi khác đó là phụ nữ Trung Quốc gả vào làng Việt Nam (những năm
gần đây đã có mười mấy phụ nữ). Ngoài ra cũng có một nguyên nhân là nhiều thanh
niên Trung Quốc thấy con gái Việt Nam chăm chỉ, chịu khó, ngoan ngoãn, dịu dàng
nên lấy họ làm vợ, ví dụ như bà Vương Phát Liên. Người trong thôn Thán Đê đều
khen bà là người biết lễ phép, chịu khó, ít người sánh bằng‖. Người già địa phương
còn giải thích thêm: ―Tuy bên Việt Nam nghèo, chúng tôi cũng muốn gả cô gái cho,
bởi vì là người Dao phải thông hôn với người Dao, đây là tục lệ của tổ tiên mình.‖ 14
Tình trạng thông hôn xuyên biên giới cũng có ở dân tộc Hà Nhì. Cũng như người
Dao, người Hà Nhì cũng muốn thông hôn với người đồng tộc. Theo điều tra năm 2011
cho biết, bản Hà Nhì Bình Hà huyện Lục Xuân tất cả đều là thông hôn với đồng tộc và
có cả người bên kia biên giới. Nguyên nhân thì những người già địa phương cho biết,
kết hôn với dân tộc khác việc giao lưu là một vấn đề lớn. Ngoài ra người đồng tộc còn
15Hôn nhân quan hệ cùng tộc, cùng nguồn là cầu nối quan trọng giúp người dân vùng
chịu yếu tố truyền thống hạn chế nên ít khi xảy ra hiện tượng cô dâu ―chạy trốn‖.
biên hai nước xây dựng một không gian cùng đi lại cùng tồn tại, đáng tin tưởng.
Thực tế từ Thán Đê đến Việt Nam chỉ mất hơn 1 giờ đi bộ, trong khi muốn đến
bản gần nhất của Trung Quốc là Giáp Hán thì mất hơn 5 giờ. Vì vậy, việc giao lưu
15 骥骥, 滇越骥民跨境流骥及其特征——基于―江外三猛屯方‖哈尼族的骥骥研究, 骥河学院学骥〃
2013 年 11 卷第五期
37
giữa các dân tộc xuyên biên giới tạo điều kiện mở rộng phạm vi thân thích, bằng hữu 14 骥袁媛〃滇越骥民跨境通婚的骥状_影响及骥策〃文山学院学骥〃2015 年〃第 40 骥
và như vậy sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội để cấu thành các hộ gia đình. Trong môi trường
sống uống chung một dòng nước, chặt chung một ngọn núi, cùng chung một con
đường, đã hình thành một điều kiện thuận lợi cho việc người dân vùng biên giới thăm
hỏi lẫn nhau, giao lưu trao đổi, qua những ngày nghỉ, ngày lễ. Những hoạt động này
khiến cho nhân dân hai nước tiếp xúc với nhau nhiều hơn, hiểu biết về nhau nhiều hơn,
và chính hoạt động giao lưu lại là cơ hội để hình thành hôn nhân xuyên biên giới.
2.1.1.2 Quan hệ mua bán và lao động
Ở vùng biên giới Trung-Việt đoạn Vân Nam (châu Hồng Hà và châu Văn Sơn)
có nhiều cửa khẩu, lối mòn và chợ mậu dịch dành cho người vùng biên giao lưu trao
đổi buôn bán, cụ thể như sau:
Cửa Khẩu Châu Hồng Hà
Trung Quốc Hà Khẩu (cấp 1 nhà nước) Kim Thủy Hà (cấp 1 nhà nước) Lục Xuân Việt Nam Lào Cai Ma Lù Thàng Bình Hà
Cửa Khẩu Châu Văn Sơn
Chợ biên giới mậu dịch Châu Hồng Hà Bá Sái, Tân Điện, Lào Ca, Hồng Hà(huyệ Hà Khẩu), Mã An Để, thôn Thập Lý, Tân Trại (huyện Kim Bình) Long Phú (Giang Thành)
Trung Quốc Thiên Bảo (cấp 1 nhà nước) Đổng Can (cấp 2 nhà nước) Điền Bồng (cấp 2 nhà nước) Việt Nam Thanh Thủy Phổ Bổng Thương Bồng
Chợ biên giới mậu dịch Châu Văn Sơn Hòa Bình (huyện Phú Ninh); Mã Lâm, Mã Băng, Đổng Can, Phổ Lộng, Dương Vạn, Bát Bộ, Thiên Bảo, Mãnh Động, Từ Trúc Bá,Hạ Kim Am, Trường Điền,
2-1 (Nguồn gốc tài liệu: Phạm Hồng Quý, Nghiên cứu thương mại ở vùng biên giới Trung-Viện, NXB Dân Tộc, năm 2006; Vương Sĩ Lục, Việt Nam tương đại, NXB nhân dân Tứ Xuyên, năm 1992; Chí Mẫn, Cửa khẩu và thông đạo đối ngoài tỉnh Vân Nam, NXB nhân dân Vân Nam, năm 1992)
Đổng Độ(huyện Ma Lập Pha), phố Bảo Lương, Đô Long, Mâu Bình,Kim Am, Tiểu Bá Tử
38
Người vùng biên ngoài quan hệ hôn nhân đồng tộc còn có những giao dịch khác
như cùng đi chợ biên giới, quan hệ trao đổi mậu dịch mà cụ thể là trao đổi hang hóa,
làm thuê và làm đổi với nhau. Vấn đề này có thể nhận thấy rất rõ ở trại Lão Lưu
dân tộc Miêu thuộc huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà. Ở Trung Quốc do sự phát triển
của miền Đông và miền Tây không cân bằng đã tác động đến sức lao động trong khu
vực. Nhiều thanh niên là lực lượng lao động chủ yếu của vùng biên giới Trung-Việt
nói chung và trại Lão Lưu nói riêng đều đi xa quê đến vùng miền Đông Duyên hải
làm việc để kiếm được nhiều tiền hơn, gây ra thực trạng thiếu sức lao động trong 2
mùa mỗi năm. Lúc này bên Trung Quốc chỉ có thể thuê người H’mông Việt Nam đến
làm, tiền công khoảng 35-45 Nhân đân tệ NDT mỗi ngày tùy theo tình hình cụ thể.
Với tiền công thấp như thế này chưa bao giờ có thể thuê được người Trung Quốc đi
làm và người H’Mông Việt Nam cũng rất hạn chế. Vì vậy, trong làng tộc Miêu với
làng H’mông ở vùng biên giới hai nước áp dụng phương thức ―đổi làm‖ nghĩa là lúc
bạn HMông Việt Nam bận tôi sang bên bạn làm cùng, ngược lại lúc bạn người Miêu
bận, bạn HMông Việt Nam phải sang giúp đỡ. Người H’mông Việt Nam chỉ hạn chế
làm việc ở vùng dân tộc Miêu không thể vào sâu chủ yếu là không biết tiếng, không
giao lưu được với dân tộc khác Trung Quốc.
Không chỉ người H’mông mà người Hà Nhì cũng vậy. Kinh tế phát triển, một số
người Hà Nhà ở thôn Bình Hà bắt đầu đi vào làng dân tộc Hà Nhì ở vùng biên giới
Việt Nam do sự tác động của lợi ích kinh tế. Thí dụ chính quyền hương Trác Đông
quản lý 6 làng dân tộc thì cả 6 đều có người Hà Nhì làm buôn bán ở làng Hà Nhì Việt
Nam, trong đó làng A Thông và làng Lược Lô có nhiều người nhất. Hơn nữa hiện
tượng ―lưu động sức lao động‖ cũng đưa nhiều người Hà Nhì Việt Nam lưu động vào
vùng biên Trung Quốc làm việc. Tháng 6 năm 2011 khi trồng cây, có 73 người Hà Nhì
Việt Nam xin việc vào làng Đại Mã Gốc. Tùy theo thời vụ, người Hà Nhì biên giới
Việt Nam đều tranh thủ làm việc ở các rừng cây cao su của thôn Hà Nhì Bình Hà ở
16 骥骥, 滇越骥民跨境流骥及其特征——基于“江外三猛屯方”哈尼族的骥骥研究, 骥河学院学骥〃
39
vùng biên giới Trung Quốc.16
Tại thôn dân tộc Choang Ma Yểm khi bận việc đồng áng lúc mùa vụ (4,5 tháng
trong năm), cũng gọi người thân, bạn bè ở Việt Nam đến giúp đỡ (làm việc). Những
người phụ nữ Việt Nam đến làm việc mỗi ngày sẽ nhận được tiền thù lao, bao ăn bao ở.
Người dân tộc thiểu số Hà Nhì ở vùng biên giới ngoài lao động cũng rất thích
giao dịch với đồng tộc. Thí dụ vùng thôn Bình Hà có hai chợ mậu dịch biên giới là
Bình Hà và Tân Trại. Đối với người Hà Nhì Việt Nam vùng biên thì vẫn hơi xa. Muốn
đến chợ họ đều đi trước một ngày sang ở nhà người thân hoặc nhà bạn bè để hôm sau
dậy sớm đi chợ. Mỗi khi đến phiên chợ, trước một ngày đa số làng Hà Nhì Trung
Quốc đều đón nhiều người Hà Nhì Việt Nam. Năm 2009, khi học giả Lô Bằng đi điều
tra thôn Bình Hà gặp một người Hà Nhì Việt Nam là Thạch Khác Bôn người làng Nha
Hà thôn Đô Long. Chị cô thông hôn với người Hà Nhì Trung Quốc nên cô dẫn 3 phụ
nữ Hà Nhì Việt Nam sang nhà chồng chị ở. Trong phỏng vấn Thạch Khác Bôn nói
rằng ―mỗi khi đến ngày đi chợ, tôi đều chỉ ở nhà chồng chị, bởi vì tin tưởng‖. Trong
quá trình buôn bán, người Hà Nhì cũng rất thích giao dịch với đồng tộc, vì là đồng tộc
ngoài tình cảm dân tộc Hà Nhì còn có thực tế là giao lưu không có trở ngại.17
2.1.1.3 Các quan hệ khác thường ngày
Nhiều tộc người cùng thừa nhận dù là hai quốc gia nhưng có cùng tổ tông cùng
cội nguồn, cùng mối quan hệ huyết thống đồng thời địa bàn cư trú lại gần nhau nên
đi lại giao lưu thuận tiện, nên tần số đồng bào dân tộc thiểu số hai nước giao lưu qua
lại tương đối nhiều. Ví dụ dân tộc Choang của Văn Sơn Trung Quốc và dân tộc Tày,
dân tộc Nùng của Việt Nam. Thí dụ trong đời sống thường ngày nếu gia đình nào có
việc, ngoài việc nhận được sự giúp đỡ của người dân trong thôn, còn cho người đi
thông báo cho bạn bè. Nếu gia đình có người mất có khi thông báo bằng tiếng súng
săn. Bạn bè đến sẽ chuẩn bị một chút đồ, hoặc là đến để chia buồn, thăm người thân
hoặc là đến chúc mừng, giúp đỡ hay bàn bạc… Xong việc sẽ ra về, hoặc có người ở
17 骥骥, 滇越骥民跨境流骥及其特征——基于―江外三猛屯方‖哈尼族的骥骥研究, 骥河学院学骥〃2013 年 11 卷第五期
40
lại chơi vài ngày. 2013 年 11 卷第五期
Có những người có khả năng trong một số việc như Vương Thái An (dân tộc
Choang người xã Hạ Man Ngõa, thôn Ma Yểm), Quán Tùng Phát (dân tộc Choang
người xã Thán Đê, thôn Ma Yểm) là những người nổi tiếng về việc bói khắc xương
trong thời gian dài, hoặc có sở trường trong việc bói kê, vì vậy bạn bè thân thích ở
Việt Nam khi phải xây nhà, hay có tiệc hỉ, nhà có việc tang, làm ăn buôn bán đều mời
họ đến xem bói và làm phép. Nếu như vào ngày lễ thì càng náo nhiệt hơn, nhân dân
hai nước giao lưu qua lại sẽ càng nhiều, giết gà, giết vịt hát hò vui vẻ, tổ chức các trò
chơi, không say không về, vui thì cùng hưởng, buồn thì cũng chia, có bệnh sẽ thăm
hỏi lẫn nhau, có việc sẽ giúp đỡ lẫn nhau. Hiện nay mặc dù biên giới đã được phân
chia rõ ràng, nhưng mối quan hệ tình thân, bằng hữu vẫn rất chân thực, vì vậy việc
giao lưu qua lại giữa hai nước đã trở nên rất đỗi bình thường. Điều đáng lưu ý là do
khoảng cách quá gần có thôn chưa đến 2 km đi bộ cũng rất tiện. Một số năm trở lại
đây nhiều thôn còn có thể gọi điện được cho nhau bằng mạng nội địa vì vậy người dân
địa phương muốn gặp nhau thường hẹn trước đi bằng con đường nhỏ trong núi, rất ít
khi đến cửa khẩu làm thủ tục xuất nhập cảnh.18
2.1.2 Quan hệ với các dân tộc khác
2.1.2.1 Quan hệ thông hôn
Theo nhiều số liệu điền dã dân tộc học, hôn nhân xuyên quốc gia có thể chia
thành thông hôn đồng tộc và thông hôn với dân tộc khác nhưng đa số là thông hôn
đồng tộc. Tuy vậy, trên thực tế cũng tồn tại tình hình thông hôn với dân tộc khác. Lấy
điều tra làng biên giới của thị trấn Điền Bằng huyện Phú Ninh châu Văn Sơn làm ví
dụ. Phỏng vấn 98 hộ thông hôn xuyên quốc gia, trong đó có 8 hộ là thông hôn với dân
tộc khác. Trong 8 hộ này chủ yếu là người Hán thông hôn với người HMông.19 Điều
18 骥磊〃从滇越骥段骥界走廊考察壮族与岱骥族的跨境关系〃文山骥范高等骥科学院学骥〃2007
年〃45 骥
19 骥袁媛〃滇越骥民跨境通婚的骥状_影响及骥策〃文山学院学骥〃2015年
41
tra cũng cho thấy, thông hôn với dân tộc khác thông thường là nữ người dân tộc ít
người có điều kiện đời sống kém được gả cho người vùng biên của Trung Quốc có
điều kiện đời sống cư trú tốt hơn. Ngoài ra ở một số nơi khác những phụ nữ Nùng,
Tày Việt Nam nói tiếng Choang thì thông hôn với người Choang, dân tộc Thái và dân
tộc Kinh có thể gả cho người Choang hoặc người Hán ở vùng biên giới Trung Quốc.
Nguyên nhân các dân tộc thiểu số thông hôn xuyên biên giới với dân tộc khác có
thể do nhiều dân tộc khác nhau ở đan xen cùng một vùng mà do tỉ lệ nam nữ làm cho
việc thông hôn đồng tộc không đáp ứng được. Mặt khác bởi đặc trưng phân bố của
dân tộc thiểu số là ―tập cư lớn tụ cư nhỏ‖ trong điều kiện giao thông chưa thật thuận
lợi, trong khi vị trí địa lý sông núi tương liên, ngoài các cửa khẩu nhà nước có thể xuất
nhập cảnh ra, còn có rất nhiều thông đạo thường dụng, con suối, con sông liên kết bà
con dân tộc hai bên. Theo điều tra, hầu hết người dân tộc thiểu số ở vùng biên giới đều
thông qua lối mòn, không qua cửa khẩu hải quan vì như thế có thể tiết kiệm thời gian
và đôi khi cả kinh tế của của người vùng biên đi lao động.20 Đây cũng là điều kiện
thuận lợi cho việc giao lưu xuyên biên giới.
2.1.2.2. Quan hệ thương mại
Chợ phiên trong sinh hoạt kinh tế của người dân vùng biên giới là một hình thức
giao lưu không thể thiếu. Các chợ phiên thường dùng lịch âm để làm ngày giao dịch.
Thí dụ chợ Mãnh Đồng ở Ma Lật Pha lấy ngày Hợi, ngày Tỵ của lịch âm, chợ Dương
Vạn lấy ngày Sửu, ngày Mùi, chợ Bát Bố lấy ngày Dậu, ngày Mão… làm ngày giao
dịch thông thương. Thời gian thường là cách 6 ngày 1 lần. Cũng có chợ như giao dịch
thương mại Thiên Bảo và chợ nông trường Thiên Bảo lại lấy ngày giao dịch cố định là
thứ 7 hàng tuần.
Ngôn ngữ dùng để giao dịch chủ yếu là ngôn ngữ dân tộc hoặc ngôn ngữ của
20 梁茂春〃中越跨界通婚的类型与促成途径〃南方人口〃2011年26卷骥106期
42
người dân bản địa, có nơi cũng dùng tiếng Trung. Các loại mặt hàng được buôn bán
tương đối đa dạng, chủ yếu có đồ dùng sinh hoạt, gấm vóc, dụng cụ nông nghiệp, đồ
điện gia dụng, gia súc, rau hoa quả, thuốc bắc, hạt giống, thuốc nông nghiệp phân bón,
hoặc là các đặc sản địa phương như dâu tây, cây hồi, lá chè. Trong đó Việt Nam nhập
về chủ yếu là gia súc, quặng sắt, da thuộc, thuốc bắc, nông sản, hải sản,… Giao dịch
thông thường làm cho cuộc sống của người dân thuận tiện hơn phong phú hơn, là một
phương pháp tốt để giải quyết nhu cầu trong sinh hoạt của người dân và cũng làm cho
kinh tế biên giới phồn vinh hơn, tăng cường thu nhập và nâng cao mức sống của
người dân. Đồng thời hoạt động giao dịch thông thương này còn thúc đẩy giao lưu
khiến hai bên hiểu nhau hơn, tăng cường tinh thần hữu nghị song phương, có tác dụng
lớn trong việc phát triển ổn định và phồn vinh trong khu vực biên giới hai nước.
2.1.2.3 Quan hệ do các phong tục văn hóa truyền thống
Vùng biên giới Trung-Việt có một đặt điểm là nhiều dân tộc sống đan xen, chính
vì vậy nhiều hình thức biểu hiện của văn hóa truyền thống như phong tục tập quán,
nghi thức hành lễ và ngày lễ v.v. dễ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Có thể nêu một số
hiện tượng:
Trong phong tục hôn nhân, nhiều dân tộc cùng có tục cướp vợ. Tục này rất phổ
biến ở vùng miền núi phía Bắc và mỗi nơi có sắc thái riêng. Ở vùng Tây Bắc Việt
Nam giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu cảm thật trữ tình. Vào một
đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang tựa của nhà người yêu, rồi thổi
một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du dương khiến lòng cô gái thổn thức,
xổn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập túc ghé thang lên, trèo vào và cõng
nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau ba ngày, rồi trở về nhà bố mẹ, xin phép cưới.
Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ lại mang tính mạnh mẽ,
quyết liệt hơn. Nhiều dân tộc như H’mông, Lô Lô, Hà Nhì, Thái v.v. đều có phong tục
này, nhưng vẫn giữ nét văn hóa độc đáo riêng biệt. Thông thường tục này diễn ra có
nhiều lý do như đôi trai gái yêu nhau nhưng cha mẹ của một hoặc cả hai bên không
đồng ý; con trai thích nhưng con gái không đồng ý; cũng có khi nhà trai dùng quyền
43
thế ―cướp‖ con gái về làm vợ.
Tại vùng dân tộc H’mông tục này tồn tại lâu hơn cả so với các dân tộc khác.
Người H’mông hay gọi tục này là tục ―kéo vợ‖ mà ngày nay vẫn còn giữ được.
Thanh niên tổ chức đón đường kéo cô gái về, cho dù cô gái đó không bằng lòng. Sau
khi ―kéo vợ‖ được hai ngày nhà trai cho người báo cho nhà gái biết và bàn việc cưới.
Tục này cho dù người con gái không đồng ý nhưng nếu đã bị kéo về nhà trai hai, ba
ngày thì buộc phải lấy người đó. Theo quan niệm người H’mông, con gái đã bị nhà
trai dùng gà trống làm lễ nhập nhà ( đã trở thành ma nhà người), thì có bỏ về nhà con
ma nhà mình và cả bố mẹ cũng không chấp nhận nữa.21 Hiện này tục ―kéo vợ‖ vẫn
còn nhưng theo một hướng tích cực hơn. Thông thường hôn nhân là kết quả của tình
yếu tự nguyện, các cuộc ―kéo vợ‖ do sự thỏa thuận trước của các chàng trai, cô gái
đã tìm hiểu và yêu nhau. Hình thức ―kéo vợ‖ chỉ là giữ lại một phong tục truyền
thống mà thôi. Người H’mông còn có quan niệm kéo mới quý, có trường hợp là kéo
hai, ba lần mới cưới.
Phong tục ―cướp vợ‖ của dân tộc Hà Nhì diễn ra trong 2 tình huống: một là do bố
mẹ tổ chức một số chàng trai đi ―cướp người con gái‖, tình huống này là do trai gái
chưa gặp gỡ, chưa tìm hiểu nhau; Tình huống thứ 2 là trai gái yêu nhau, nhà trai đã
mang lễ đến nhà gái hỏi hôn, nhưng bố mẹ ngưới gái không đồng ý thì nhà trai cũng tổ
chức ―cướp vợ‖.
Theo dân tộc Lô Lô, đây là một phong tục truyền thống lâu đời. Nhà trai ―cướp
dâu‖ thể hiển rất quý và kính trọng con gái. Người Lô Lô qua phương thức ―cướp‖ giả
để chúc cô dâu chú rể luôn luôn được hạnh phúc vẹn tròn. Cũng có những quan niệm
ở người Lô Lô là nếu không thực hiện tục ―cướp vợ‖ thì không may mắn, phải trải qua
―cướp‖ mới có thể tạo cho cuộc sống tương lai của cô dâu chú rể yên bình hạnh phúc.
Nói chung là hiện nay, hiện tượng phổ biến là trai gái yêu nhau, người con trai tổ
chức ―cướp‖ người con gái về. Trước khi cướp nhà trai đã chuẩn bị sẵn mọi thứ cần
thiết cho đám cưới, việc xảy ra không những do trai gái yêu nhau mà cả cha mẹ cũng
21 Lê Duy Đại- Triệu Đức Thanh (chủ biên), Các dân tộc ở Hà Giang, NXB Thế Giới, trang 51
44
đã biết và đồng tình. Nói là cướp nhưng thực ra chỉ dắt tay một quãng đường ngắn rồi
con gái tự theo người con trai về.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt đều lưu truyền lịch sử di
chuyển của riêng dân tộc mình. Có một số dân tộc di cư từ miền Đông Nam Trung
Quốc qua Tây Nam đến Đông Nam Á, phân bố một khu vực rộng rãi như dân tộc
Choang, Thái, Bố Y v.v. Cũng có những dân tộc di chuyền từ miền Trung Nam Trung
Quốc vào tỉnh Vân Nam cuối cùng lại di chuyển định cự tại miền Bắc Việt Nam như
dân tộc H’mông và Dao v.v. Họ đều trải qua một quá trình di cư khó khăn, rời xa quê
hương tiên tổ, di chuyển đến một nơi xa lạ sinh sống. Chính vì vậy họ đều chứa đựng
tình cảm đậm đà nhớ về cội nguồn, tưởng niệm tổ tiên. Tuy nhiên các đồng bào dân
tộc thiểu số đã sống ở chỗ định cư hang trăm năm thậm chí nghìn năm, nhưng họ vẫn
mong muốn tâm niệm khi sống không thể quay về quê hương thì sau khi qua đời linh
hồn cần phải quay về quê ở với tổ tiên. Chính vì vậy, các đồng bào sống đan xen ở
vùng này, đều thể hiện tư tưởng đó trong khi tổ chức tang ma bởi nhiều dân tộc có
hình thức thể hiện tương đồng, thậm chí mời cùng một thầy cúng tổ chức nghi thức
tang ma cho các dân tộc khác nhau. Thông thường trong các đám ma của đồng bào ít
người ở vùng này, đều phải tổ chức một lễ đưa linh hồn người chết về với tổ tiên mình.
Ví dụ người Dao quan niệm con người gồm hai phần: thể xác và linh hồn, nam
nữ có số hồn bằng nhau. Khi sống, hồn trú ngụ trong cơ thể con người. Khi chết, hồn
lìa khỏi xác, biến thành ma sống ở thế giới tổ tiên. Xuất phát từ quan niệm này, người
Dao chia đám ma thành hai lễ: làm ma chôn cất và làm chay đưa hồn người chết về
với tổ tiên. Vì thế trước khi hạ huyệt để làm lễ đưa hồn người chết, thầy cúng đứng
phía đầu người chết gọi hồn những người đưa ma lại, để tránh cho các hồn này đi theo
sang thế giới bên kia.22
Khi có người chết, người Lô Lô bất cứ ở vùng nào trên biên Trung Quốc hay ở
Việt Nam đều phải mời thầy cúng đọc ―tử lộ kinh‖ để đưa hồn người chết về nguồn
cội, về với tổ tiên. ―Tử lộ kinh‖ là con đương đưa hồn người chết đi ngược lại với con
22 Lê Duy Đại- Triệu Đức Thanh (chủ biên), Các dân tộc ở Hà Giang, NXB Thế Giới, Trang 90-91
45
đường di cư trong quá khứ để về với tiên tổ. Người H’mông lại khác là mời người đến
hát bài mở đường (tiếng H’mông là khuố kê). Lúc hát mở đường, khi đọc đến sự tích
gà dẫn đường người chết về với tổ tiên, người ta mang một con ga đã chết để nguyên
lông moi lòng ra ngoài, hay là dung đôi cánh gà hoặc con gà còn sống đặt trong âu bột
ngô cùng với ô giấy và cùng để phía đầu người chết. 23
Lễ ma khô là một tục lệ độc đáo của người H’mông. Lễ ma khô tiễn linh hồn người
chết về với tổ tiên. Từ ―đangz‖ nghĩa là ―ma‖, từ ―kruôr‖ nghĩa là―khô‖ , theo tiếng
Kinh là ―ma khô‖. Khác với đám ma tươi là không còn người chết ở trong nhà, đám ma
khô là lễ cúng cuối cùng ngụ ý để đưa hồn người chết về với tổ tiên, cội nguồn, mong
sao linh hồn người chết đựoc siêu thoát, tìm được đường về yên nghỉ với tổ tiên và phù
hộ cho gia đình...Sau khi chôn cất 12 ngày, gia chủ nếu không đủ điều kiện tổ chức lễ
ma khô thì có thể nhờ thầy cúng làm lễ gia hạn (còn gọi là lễ hứa lại), sau 1 tháng hay
vài năm cũng được, nếu không làm sẽ bị ma quấy rối không cho làm ăn.
Người Lô Lô quan niệm chết là về với tổ tiên, là vui vẻ nên trong đám tang họ lại
nhảy múa ca hát chứ không khóc than. Nhưng nay người Lô Lô chịu ảnh hưởng cấc
dân tộc khác trong đám tang cũng có tiếng khóc vụng và cũng làm tục ma khô. Tục
làm "ma khô" của người Lô Lô có nghĩa là lễ gọi hồn về nơi chôn cất, không để linh
hồn đi lang thang, vất vưởng khắp nơi quậy phá, hoặc quay về "đòi" vật nuôi, khiến
mọi người trong nhà đau ốm, bệnh tật. Tục này có thể tiến hành sau đám tang khoảng
8, 9 ngày hoặc 3 đến 4 năm, thậm chí mười mấy năm mới làm, tùy theo điều kiện kinh
tế gia đình đó bởi rất tốn kém. Theo quan niệm, nếu mọi điều thuận lợi, không mắc sai
sót nào trong quá trình làm "ma khô" thì gia đình đó về sau sẽ ăn nên làm ra, không lo
cái bụng bị đói.
Qua các thí dụ trên có thể thấy tuy chưa có điều kiện để khảng định nguồn gốc
23 Viện Dân Tộc Học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB Khoa Học Xã Hội tái bản
năm 2014 trang 417
46
của các phong tục nhưng do thực trạng sống đan xen, do quá trình giao lưu nên các
phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số vùng biên cũng có sự tiếp biến.
2.1.3 Quan hệ với những ngƣời cùng dòng họ
Hai nước Trung Quốc và Việt Nam từ xưa đến nay đều có truyền thống dòng họ rất sâu,
dòng họ có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Ông Lương Khải Siêu từng bày tỏ,
chính trị của Trung Quốc thời cổ chính là chính trị gia tộc.24 Đối với Việt Nam cũng vậy. Ở
Trung Quốc và Việt Nam, người dân trong xã hội truyền thống hầu như đều cho rằng dòng
họ là chỗ để yên thân lập phận, quan hệ dòng họ là quan hệ xã hội chủ yếu nhất. Nói
một cách đơn giản, dòng họ là cốt lõi của kết cấu xã hội truyền thống, chế độ dòng họ
là một đặc sắc lớn của nền văn minh xã hội truyền thống. Do đó, đối với khu vực dân
tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt mà nói, cũng tồn tại quan hệ dòng họ mang
đặc sắc riêng biệt.
Cuốn sách ―Nhĩ Nhã- Thích Thân‖ 25( Nhĩ Nhã : là bộ từ điển của Trung
Quốc thời kỳ cổ đại, một trong những tác phẩm kinh điển của Nho giáo được xếp vào
danh sách thập tam kinh. Thích Thân: giải thích các cách xưng hô thân thuộc.) viết
rằng: ―Phụ chi đẳng vi tông tộc‖ (nghĩa là dòng máu của cha là dòng họ). Ở Trung
Quốc, dòng họ cũng gọi là ―gia tộc‖, là chỉ một quần thể có quan hệ thuyết thống tổ
thành bởi con cháu đời sau của những người đàn ông thân thuộc trực hệ cùng một ông
tổ. Những người cùng dòng họ thường là ở cùng một nơi, gắn bó với nhau bằng quan
hệ thuyết thống, với đơn vị cơ bản là từng gia đình, được tổ chức theo nguyên tắc nhất
định để làm ăn sinh sống. Thông thường mà nói dòng họ điển hình của người Hán gây
ảnh hưởng cho mọi người trong họ tộc qua 5 hình thức là: gia tộc phả, nhà thờ họ hay
từ đường, tục lệ gia tộc, tài sản gia tộc, tộc trưởng còn gọi là ―tông trưởng‖ tức thủ
lĩnh của cả tộc. Đối với các dân tộc thiểu số, ảnh hưởng của dòng họ phần nhiều thể
24 梁启超:《先秦政治思想史》〃天津〃天津古籍出版社〃2003
25 《尔雅·骥骥》〃是《尔雅》的第四篇。《尔雅》是辞骥之祖。
47
hiện qua lễ nghi truyền thống và tục lệ cấm kỵ vì trên thực tế hình thức tổ chức và đặc
thù chế độ của họ không hoàn chỉnh như dân tộc Hán.
Quan hệ cùng dòng họ ở dân tộc thiểu số tiêu biểu nhất là người Miêu (Việt Nam
gọi là dân tộc H’mông). Dân tộc H’mông rất coi trọng dòng họ, quan niệm của họ là:
người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong
nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây
quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm
ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu
sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Bản Lão Lưu là một bản nhỏ thuộc thôn hành chính Hạ Loan Tử xã dân tộc
Choang, Mèo Kiều Đầu huyện tự trị dân tộc Dao Hà Khẩu châu tự trị dân tộc Hà Nhì,
Di Hồng Hà tỉnh Vân Nam, nằm ở phía đông bắc huyện Hà Khẩu. Từ phương diện
quản lý nhà nước mà nói, Lão Lưu là một bản làng trên vùng biên giới Trung-Việt,
quả núi sau bản là một ranh giới giữa 2 nước, bản này giáp với xã Pha Long của huyện
Mường Khương tỉnh Lào Cai Việt Nam. Bản Lão Lưu hiện giờ có hơn 60 gia đình,
dân số khoảng 300 người, bình quân mỗi nhà 5 khẩu. Trong bản, quần thể cha truyền
con nối làm chính chủ yếu có các họ: Lý, Vương, Trương, Bộ, Đào, Cốc, Dương, Mã
v.v. trong đó, dân số đông nhất là họ Lý. Gia tộc thường là phân chia theo theo họ,
nhưng cũng có trường hợp cùng họ mà không cùng gia tộc.
Quan hệ dòng họ giữa đồng bào H’mông ở bản Lão Lưu Trung Quốc với người
H’mông ở vùng biên giới Việt Nam có nguyên nhân do lịch sử di cư của gia tộc này26:
Nhà họ Mã:
Ở bản Lão Lưu Hà Khẩu Trung Quốc, nhà họ Mã là gia đình người Mèo đầu tiên
từ nơi khác di cư về đây rồi định cư mãi tại đây, tất cả các gia đình họ Mã trong bản
này đều thuộc một dòng họ. Theo dân bản Mã Quý Hòa kể lại: ―Ngày xưa, tổ tiên nhà
họ Mã cư trú tại vùng đồng bằng lớn phía Đông, vì chúa Miêu bị chết trận, người
Miêu như những đứa trẻ mồ côi phải bỏ chạy về phía Tây đến tận đây. Họ sống ở Quý
48
Châu một thời gian dài, về sau cuộc khởi nghĩa của dân tộc Miêu bị thất bại lại phải 26 Nam 李骥〃骥 Hmongb 从-家-到-村-的形成研究〃云南大学骥士骥文〃2013 年
tiếp tục di cư. Trong ấn tượng, tổ tiên người Mèo di cư đến vùng Mã Quan (huyện Mã
Quan châu Văn Sơn Trung Quốc) định cư, nhưng ít lâu sau lại di cư tiếp về phía Nam,
cuối cùng định cư ở vùng Pha Long (miền bắc tỉnh Lào Cai Việt Nam)‖. Nhưng tổ
tiên dòng họ Mã định cư ở vùng Pha Long cũng không lâu, chỉ khoản 2-3 đời thôi.
Hồi định cư ở Việt Nam, anh em trong họ vẫn ở cùng một nơi. Dòng họ Mã có ba anh
em ruột, ông tổ nhà tôi là con thứ, hồi bấy giờ anh trai và em trai ông tổ tôi đều đã
thành lập gia đình. Vì gia cảnh khó khăn, nên không còn tiền để lấy vợ cho ông tổ tôi
nữa. Bấy giờ, vừa vặn ở bản Phương Sơn có họ hàng, bèn giới thiệu cho ông tổ tôi đến
đó tìm vợ. Trong bản có nhà muốn tìm người ở rể, vì nhà gái có 2 đứa con trai còn nhỏ,
thiếu sức lao động, nên muốn tìm người ở rể, qua họ hàng giới thiệu, thế là ông tổ tôi
đến bản Phương Sơn dạm hỏi rồi ở rể. Sau thấy bản Lão Lưu dễ sống hơn, ông tổ tôi
mới dọn cả nhà về đây, sống gần với dân tộc Dao trong vùng, còn chủ thể dòng họ nhà
Mã thì vẫn sống ở vùng Pha Long Việt Nam hiện nay. Sau khi nhà nước thiết lập và
tăng cường quản lý lãnh thổ và biên giới thì một dân tộc cùng dòng họ bị chia ra sống
ở hai nước. Sự việc như vậy cũng xảy ra với nhiều gia tộc khác trong bản Lão Lưu
chứ chả riêng gì họ nhà Mã chúng tôi.
Nhà họ Lý
Ở bản Lão Lưu, có 3 cộng đồng họ Lý khác nhau nhưng sau này trong cuộc sống
hàng ngày họ hình thành một dòng họ chung. Vì vậy họ không phân biệt được rõ quan
hệ huyết thống nhưng đều tin rằng họ có chung một tổ tiên. Tất cả những người họ Lý
trong bản đều là ―anh em một nhà‖. Lý Phát Xuân là người dòng họ nhà Lý di cư đến
đây sớm nhất. Theo truyền miệng của con cháu Lý Phát Xuân, nhà Lý từ Quý Châu di
cư đến bản Lão Lưu cách đây khoảng 9 đời. Ban đầu, họ Lý cũng cùng mọi người di
cư về phía Nam, từ Mã Quan vượt qua vùng bản Lão Lưu, tới vùng Pha Long Việt
Nam và định cư một thời gian, rồi lại di cư ngược lên phía Bắc đến bản Lão lưu.
Trong quá trình di cư, anh em trong họ không ngừng thất lạc, bố ông Lý Phát Xuân từ
vùng Pha Long Việt Nam di cư đến vùng Lão Lưu TQ, về sau ốm mất tại đây.
49
Những dòng họ chính khác
Sau khi nhà họ Mã và họ Lý định cư tại bản Lão Lưu, nhà Trương, nhà Cổ, nhà
Hoàng, nhà Đào, nhà Dương mới dần dần di cư đến. Họ Vương là sau này về đây ở rể,
họ Châu là họ tới đây cuối cùng. Nhà Châu cũng từ vùng Pha Long Việt Nam di cư
sang. Ban đầu chỉ có một mình Châu Quang Hữu, là em họ con chú con bác của Châu
Quang Lục - chúa người H’mông có tiếng ở vùng Pha Long Việt Nam. Châu Quang
Hữu lấy vợ người bản Lão Lưu rồi mới định cư tại đây.
Như vậy có thể nói, các dân tộc ở bản Lão Lưu đa phần đều có quan hệ dòng họ
với người H’mông ở vùng biên giới Việt Nam. Mà từ lịch sử di cư của các dân tộc
thiểu số xuyên biên giới khác, cũng có thể thấy rằng các dân tộc ở xuyên biên giới
Trung-Việt có quan hệ dòng họ với nhau.
Những lễ nghi truyền thống cũng thể hiện quan hệ dòng họ giữa các dân tộc ít
người xuyên biên giới Trung-Việt. Ví dụ đối với dân tộc H’mông mà nói, nghi thức
truyền thống tiêu biểu nhất gọi là ―nghi lễ làm sạch‖ (―tố sách‖ phiên âm từ tiếng
Mèo), nghi lễ này còn có cách gọi khác nhau tùy theo vùng tụ cư của các nhóm người
Mèo , nhưng về trình tự thì cơ bản như nhau. Mục đích tổ chức nghi lễ này chủ yếu là
trừ bỏ ―nhơ bẩn‖, phù hộ cả nhà bình an, tốt lành. ―Tố sách‖ là một nghi thức mang
đậm đặc trưng dòng họ. Chi tiết và thời gian tổ chức có phần khác nhau tùy theo mỗi
dòng họ. Thông thường ngày giờ tổ chức nghi thức là ―do tổ tiên truyền lại, nhưng có
thể sửa đổi‖. Hôm làm lễ, nhất định phải mời ―anh em‖ trong họ tham gia, anh em
trong họ lâu ngày không gặp nhau có thể đoàn tụ trong ngày hôm đó, nói chuyện làng
nước… vì vậy nghi thức này còn được gọi là ―ngày hội anh em‖. ―Tố sách‖ là nghi
thức của dòng họ, đồng thời cũng là sự trải hiện sinh động về sự phát triển và diễn
biến của tổ chức xã hội dân tộc Mèo với cơ sở là dòng máu phụ hệ.
Thí dụ nghi thức ―tố sách‖ của họ Dương27. Bản Lão Lưu có 3 gia tộc họ Dương,
nhưng chỉ có gia tộc họ Dương tiêu biểu là Dương Xuân Vân tổ chức nghi thức này,
27 骥米香, 老刘寨苗族家族文化研究, 云南民族大学骥士骥文〃2012 年
50
hai gia tộc họ Dương khác thì không làm. Ngày xưa, ông tổ nhà họ Dương đưa cả nhà
từ Quý Châu di cư đến Việt Nam rồi định cư tại đó. Năm 1920, bố ông Dương Xuân
Vân một mình từ Việt Nam di cư sang bản Lão Lưu TQ. Về sau lấy vợ người Mèo họ
Lý cùng bản, đẻ được 6 con, 4 trai 2 gái. Người con cả không may chết non, hai người
con gái gả chồng đi xa. Hiện nay ở bản Lão Lưu, họ Dương chỉ có nhà Dương Xuân
Vân tổ chức nghi thức ―tố sách‖, những người tham gia đa số là anh em đang sống ở
Việt Nam, anh em bên Trung Quốc chỉ có Dương Xuân Vân và 3 người con trai đã lập
gia đình và ra ở riêng là Dương Chính Hữu, Dương Chính Minh, Dương Chính Phát.
Hàng năm cứ đến ngày 25 tháng 9 âm lịch, người đứng ra tổ chức bắt đầu thông báo
anh em ở các nơi về bản dự lễ ―tố sách‖ cho đúng hạn.
Từ thí dụ trên có thể thấy rằng, cho đến ngày nay, các dân tộc xuyên biên giới
Trung-Việt vẫn tồn tại quan hệ nguồn gốc dòng họ được gắn bó bằng dòng máu phụ
hệ. Đường biên giới có thể ngăn cách họ ra ở hai nơi, song không thể chia cắt quan hệ
nguồn gốc dòng họ giữa đôi bên. Mỗi khi có chuyện cưới xin ma chay hoặc cứ vào
dịp lễ tết, nhất là hôm tổ chức nghi thức truyền thống như ―tố sách‖, anh em cùng
dòng họ sống ở hai bên biên giới lại họp mặt đoàn tụ, cùng nhau tưởng nhớ tổ tiên.
Ngoài các nghi lễ truyền thống, ngày nay ở vùng biên giới Trung-Việt còn có
một phong tục tập quán rất đặc biệt, tức là ―kết nghĩa‖. Phong tục này thể hiện mối
quan hệ đặc biệt của những người khác dòng họ.
Dân tộc Choang Trung Quốc và dân tộc Nùng Việt Nam ở vùng biên giới Trung
Việt cũng có phong tục ―kết nghĩa‖ nhưng chủ yếu là con dâu người Việt ―kết nghĩa‖
với người Choang. Theo số liệu điền dã của Vương Việt Bình: ở làng Trung Trại xã
Kiều Đầu huyện Hà Khẩu, Vân Nam có nhiều cuộc hôn nhân xuyên quốc gia, con dâu
người Việt Nam lấy chồng là người Choang bên Trung Quốc. Đa số các cô dâu đều sử
dụng phong tục ―kết nghĩa‖ truyền thống để thiết lập quan hệ họ hàng với dân làng.
Phương thức ―kết nghĩa‖ đó người địa phương gọi là ―kết hậu gia‖. ―Hậu gia‖ là cách
nói của người dân địa phương, có nghĩa là ―người nhà bên mẹ ‖. Ý này ám chỉ ―người
nhà bên mẹ‖ cô con dâu neo đơn, nghèo hoặc không có thế lực nên con dâu thường bị
51
người nhà chồng bắt nạt, bị dân làng coi thường. Để hình thành ―cộng đồng‖ thân
thuộc tại bản xứ, những cô gái lấy chồng người làng khác thường dùng phương thức
―kết nghĩa‖ để tìm ―họ hàng bên mẹ‖ để bảo đảm cho mình có được cuộc sống tốt,
được bình đẳng với người Trung Quốc. Theo số liệu điền dã tính đến tháng 12 năm
2009, làng Trung Trại có 12 cô con dâu là người dân tộc Nùng Việt Nam, hầu hết đều
thông qua phương thức ―kết nghĩa‖ đề tạo một ―cộng đồng‖ họ hàng ― bên mẹ‖.
Một vài trường hợp cụ thể:
Chị Lý, 39 tuổi, quê ở bản Hưng Long cách huyện lỵ Mương Khương Việt Nam
chừng 10 km. 10 năm trước, chị Lý sang làm dâu ở bản Phan Pha huyện Hà Khẩu
Trung Quốc. Chị Lý kể: ―Nhà tôi có 4 anh em, tôi là con út, có hai anh trai và một chị
gái. anh chị tôi bây giờ đều ở Việt Nam, Cả năm ngoài trường hợp đặc biệt chỉ sang có
1-2 lần đi chợ. Bây giờ quan hệ Trung-Việt tốt rồi, hai bên đi lại vẫn rất tiện lợi. Vì sợ
quan hệ hai nước trắc trở khiến đi lại khó khăn, nên năm đầu gả sang đây, tôi đã kết
nghĩa với anh Lý kế toán trong làng, nhận anh ấy làm anh nuôi, coi như là có ―họ hàng
bên mẹ‖ ở đây. Tuy tôi không có quan hệ huyến thống với anh Lý, nhưng nhà anh Lý
coi tôi như em ruột, chăm sóc tôi mọi mặt ‖.
Chị Lô, 30 tuổi, quê ở huyện Mường Khương Việt Nam. Năm 1999, chị được gả
cho một người họ Trần ở xóm Ba Tiêu Điền làng Trung Trại huyện Hà Khẩu. Chưa
đầy 2 năm thì người anh ruột ở Việt Nam qua đời, chị Lô đưa hai đứa cháu ruột là Lô
Quyên và Lô Tiên sang Trung Quốc nuôi. Hiện giờ, Lô Quyên đã lấy chồng người
cùng làng. Chị Lô nói rằng: ―sau khi được gả sang đây, tôi kết nghĩa với một người
cùng họ trong làng, nhận cậu ấy làm em nuôi. Chúng tôi chỉ kết nghĩa với ―anh nuôi‖
hoặc ―em nuôi‖, chủ yếu là vì đàn ông không xuất giá, cũng không đổi họ. Kiểu ―kết
nghĩa‖ như chúng tôi là không nhận chị em gái và cha mẹ của ―anh nuôi‖, hoặc ―em
nuôi‖, cũng không được viết tên vào gia phả của họ, không được ghi tên trên bia mộ
―anh nuôi‖ hoặc ―em nuôi‖.
Từ các thí dụ trên, chúng ta có thể nhận thấy muốn ―kết nghĩa‖ thì "người xin kết
nghĩa" và "người nhận kết nghĩa" phải không có quan hệ huyết thống. Hai bên thông
52
thường phải cùng họ và "người nhận kết nghĩa" phải là đàn ông, thiết lập quan hệ anh
em hoặc chị em. Vì vậy, quan hệ bằng phương thức "kết nghĩa" phải có một điều kiện
là quan hệ huyết thống ―hình thức‖ theo dòng máu người cha. Thông qua phương
thức nhận anh nuôi hoặc em nuôi, để dựng nên quan hệ xã hội ―họ hàng bên mẹ‖.
Trong cuộc sống thường nhật, đôi bên "kết nghĩa" cũng có trách nhiệm và quyền
lợi với nhau. Chị Lý cho biết, sau khi kết nghĩa, hai gia đình thường cùng đi làm
ruộng, hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi khi nhà anh Lý có chuyện cưới xin, ma chay, thì tôi phải
sang đỡ tay, và ngược lại, khi nhà tôi tu sửa nhà cửa, thì anh Lý cũng phải sáng giúp
một tay. Năm ngoái, anh ấy còn đưa tôi cùng ra ngoài làm thuê. Quan hệ họ hàng và
tình cảm giữa hai gia đình cũng ngày một tăng theo số lần giúp đỡ lẫn nhau như vậy.
Song quan hệ quyền lợi và nghĩa vụ đó chỉ nằm trong phạm vi đi lại thường nhật, chứ
không mở rộng tới kế thừa tài sản và địa vị gia đình.
Thực ra, đối với những cô dâu người Việt "kết nghĩa" là để có sự giúp đỡ của ―họ
hàng bên mẹ‖, để được coi trọng hơn trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ, theo truyền
thống của làng Trung bản Hà Khẩu, khi con gái đi lấy chồng và ra ở riêng, phải cử
hành một nghi lễ quan trọng, đó là nghi lễ "bắc xà đỏ". Nghi lễ này cũng tượng trưng
cho tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng trẻ đã được tạo nên bởi mối quan hệ chặt chẽ với họ
hàng bên mẹ, khiến họ có thể được họ hàng bên mẹ bảo vệ và gia đình bao gồm cả
người và gia súc đều hưng vượng. Nhưng đối với họ hàng bên mẹ thật sự của cô dâu
Việt Nam gả sang nơi đất khách quê người mà nói, muốn làm tròn nghĩa vụ đó cực kỳ
khó khăn. Ngoài ra, trong cuộc sống thường nhật còn có nhiều nghi thức liên quan
chặt chẽ với "nhà anh nuôi " hoặc "em nuôi". Ví dụ, cô con dâu nằm mơ thấy nhà
mình đổ hoặt bị cháy, nhất định phải báo cho "anh nuôi" hoặc "em nuôi" biết, sau khi
được tin, nhà "anh (em) nuôi" phải bắt tay vào chuẩn bị ngay, để giúp "em (chị) nuôi"
giải trừ tại họa, xua đuổi ma tà. Nếu " anh (em) nuôi" biết chuyện mà không giúp trừ
hoạ tránh tà, thì sẽ tự cho rằng tai hoạ đó có khả năng sẽ đổ xuống đầu mình. Người
Choang ở làng Trung Trại cho rằng, cả đời mình dù ít hay nhiều thể nào cũng gặp phải
chuyện cần "anh (em) nuôi" ra tay giúp trừ hoạ tránh tà, những lúc ấy có họ thay thế
53
họ hàng thật giúp đỡ. Điều này làm cho người con dâu Việt Nam có được địa vị trong
gia đình và được bình đẳng với người nhà chồng và dân làng và cũng giúp cho họ có
thể nhanh chóng hòa nhập xã hội bản xứ.
Các dân tộc xuyên biên giới 2 nước Trung-Việt tồn tại quan hệ dòng họ huyết
thống là một sự thực khách quan, nhưng quan hệ dòng họ đó lại bị ngăn cách bởi sự
thay đổi về đường biên giới hoặc quan hệ quốc gia. Và thế là, quan hệ dòng họ huyết
thống trên đường biên giới Trung-Việt dần dần được bà con thay thế bằng quan hệ
dòng họ ―hình thức‖, và nó cũng có một số công năng xã hội như quan hệ dòng họ
thực sự. Cụ thể là đảm bảo sinh tồn, thông qua hoạt động sản xuất đảm bảo an toàn và
phát triển của dân chúng. Thông qua hình thức giỗ tổ duy trì cảm giác được mọi người
chấp nhận. Dòng họ sở dĩ có thể duy trì lâu dài và trở thành cốt lõi của kết cấu xã hội
Trung Quốc, một nguyên nhân quan trọng là nó có thể khiến cho người trong họ tin
tưởng có yêu có mến, qua đó, dành được tình cảm của đông đảo dân chúng. Quan hệ
dòng họ còn giúp đỡ lẫn nhau. Sở dĩ người dân trong xã hội truyền thống đều dựa vào
dòng họ, một nguyên nhân quan trọng là khi gặp khó khăn có thể được dòng họ quan
tâm và giúp đỡ, trong sản xuất và cuộc sống, cùng đồng lòng hợp tác.
2.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến quan hệ dân tộc biên giới Có thể cho rằng văn hóa và bản sắc văn hóa là thể hiện đặc trưng của tộc người.
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế giao lưu văn hóa giữa các tộc người, các quốc gia
dân tộc đang được mở rộng, khi văn hóa được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực
cho sự phát triển thì quan hệ dân tộc trong văn hóa lại đặt ra hai vấn đề phải giải quyết
là quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại để từng tộc người,
từng nhóm tộc người giao lưu để phát triển nhưng vẫn bảo tồn được văn hóa của mình.
Việc giải quyết quan hệ dân tộc về văn hóa phụ thuộc vào chính sách văn hóa, vào
chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia và thể chế chính trị. Chúng
ta đều biết, có nhiều yếu tố văn hóa gắn liền với quan hệ dân tộc, trong đó có 4 yếu tố
54
là có ảnh hưởng rõ rệt nhất đến quan hệ dân tộc biên giới.
2.2.1 Phong tục tập quán
Phong tục tập quán là những nề nếp đã được lan truyền rộng rãi, là thói quen lâu
đời đã ăn sâu vào đời sống xã hội, do người dân các dân tộc tích lũy trong hoạt động
thực tiễn đời sống và sản xuất trong thời gian lâu dài đã được cộng đồng thừa nhận và
làm theo. ―Phong tục tập quán là chỉ những thói quen và hành vi của một dân tộc
trong nhiều mặt như ăn, mặc, ở, cử chỉ, lao động sản xuất, hôn nhân, tang ma, ngày lễ
ngày tết, nghi lễ v.v…‖ . Cho dù là ở Trung Quốc hay là Việt Nam, các dân tộc khác
nhau đều có phong tục tập quán mang đặc điểm riêng mình, những phong tục tập
quán này phản ánh những tình cảm và tâm lý chung của dân tộc, là một thành phần
quan trọng của bản sắc dân tộc, cũng là một trong những tiêu chí quan trọng của một
dân tộc này khác biệt với dân tộc khác. Mà trên thực tế mối quan hệ dân tộc chính là
quan hệ giao lưu nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa và đời sống xã
hội…Quan hệ giao lưu này có thể được thực hiện ngay trong một dân tộc nhưng khác
địa phương, giữa dân tộc này với dân tộc khác ở khu vực đa dân tộc và tất nhiên là có
giao lưu xuyên biên giới của các dân tộc vùng biên giới. Tuy nhiên phong tục tập
quán và quan hệ dân tộc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng nội dung và đặc
điểm của phong tục tập quán sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ dân tộc (kể
cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực); Đồng thời, thái độ của các dân tộc trong khi đối xử
với phong tục tập quán của các dân tộc khác, cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới quan
hệ dân tộc.
Nhận xét bản chất phong tục tập quán của các dân tộc, tuy phương thức diễn đạt
khác nhau, nhưng đều cho ta biết phong tục tập quán chia thành phong tục tiên tiến,
tích cực; phong tục trung bình và phong tục cổ hủ, lạc hậu. Thí dụ như giáo sư Lưu
Thông đã xếp phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc thành 3 dạng
là: phong tục tập quán tích cực như các dân tộc dân tộc ít người đều rất nhiệt tình hiếu
khách, có phong tục phải tiếp đãi khách bằng rượu ngon và món ăn ngon nhất; Loại
phong tục thông thường hay trung bình thể hiện ở một số dân tộc ít người Trung Quốc
55
như dân tộc Hồi cấm ăn thịt lợn, dân tộc Mông Cổ, La Hủ cấm ăn thịt chó, tộc Thái
cấm ăn thịt dê; Loại phong tục lạc hậu như dân tộc Mô Sô có phong tục ―Tẩu hôn‖,
dân tộc Choang, Cảnh Phả, Hà Nhì phổ biến có tục ―Cưỡng hôn‖. 28 Giáo sư Vương
Hồng Mạn cho rằng: ―phong tục tập quán là một hiện tượng của lịch sử xã hội dân tộc,
thuộc một bộ phận đặc thù trong lĩnh vực cơ sở tinh thần, nó xuất hiện từ đời sống xã
hội của dân tộc, lại phản ánh lịch sử xã hội dân tộc, liên quan chặt chẽ với đời sống
hiện thực, là một bộ phận trong phương thức đời sống xã hội dân tộc, và với lực lượng
hữu hình, vô hình khổng lồ ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt trong đời sống xã hội dân
tộc. Bởi những mặt như cơ sở hình thành, tính chất nội dung và hình thức biểu hiện
khác nhau v.v…, nên tính chất và lực độ ảnh hưởng tới xã hội cũng khác nhau. Cho
nên công năng xã hội của nó chia thành tiến bộ, ngăn chặn, trung bình và hỗn hợp.‖29
Trong nhiều giáo trình phong tục dân tộc cũng trình bày phong tục tập quán dân tộc
chia thành tính tốt, trung bình, tính xấu. Chính vì vậy, phong tục tập quán dân tộc từ
mặt bản chất mà nói, nếu phong tục tập quán thích ứng với thời đại, thì không những
chỉ là tồn tại, mà có thể phát huy tác dụng xã hội tốt; nếu những phong tục tập quán
không thích ứng với thời đại, cũng như ngăn chặn phát triển xã hội, thì dần dần sẽ bị
loại bỏ. Đặc điểm của phong tục tập quán nói trên quyết định sự ảnh hưởng khác biệt
với quan hệ dân tộc.
Phong tục tập quán tốt tiên tiến, tích cực của các dân tộc ít người, có vai trò thúc
đẩy rõ rệt với phát triển truyền thống tốt của dân tộc, nâng cao cảm giác tự hào, tự tin
và tự trọng của những người trong cộng đồng dân tộc, thúc đẩy phồn thịnh và tiến bộ
phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa của dân tộc ít người. Điều quan trọng hơn nữa là
thúc đẩy đoàn kết hài hòa, giao lưu liên hệ giữa các dân tộc khác nhau. Đối với các
dân tộc ít người xuyên quốc gia Trung-Việt có nhiều phong tục tập quán tốt, ví dụ:
dân tộc Dao rất chú trọng nghi thức, người lạ gặp nhau trên đường, phải chào hỏi
28 刘通, 侵犯少数民族骥俗骥骥的若干骥骥, 四川警官高等骥科学院学骥, 2001 年第 4 骥
29 王骥蔓, 少数民族骥俗骥骥的保持或改革, 青海民族研究, 2001 年第 3 骥
56
nhau, nếu không thì coi là không lịch sự; Nếu gặp người lớn, trẻ con và người trẻ tuổi
hơn phải nhường đường cho người lớn30 v.v. Như dân tộc Hà Nhì thường là cư trú
cùng dòng họ, từ lễ giáo trong nhà dần dần hình thành phong tục kính già yêu trẻ, giúp
yếu trợ nghèo, giúp đỡ lẫn nhau v.v. Cho đến nay, vẫn giữ gìn được những phong tục
này thể hiện ở các ngày lễ truyền thống như ―ngày kính lão‖, ―ngày giỗ mẹ‖ v.v.
Những phong tục tốt đẹp như trên, thể hiện sự lương thiện và chất phác của các tộc ít
người ở vùng biên giới Trung-Việt, cũng thúc đẩy quan hệ đi lại hữu nghị láng giềng
giữa các dân tộc xuyên quốc gia, đồng thời đóng vai trò quan trọng tác động tới quan
hệ hai nước hòa mục hữu nghị, giữ gìn an ninh vùng biên giới Trung-Việt.
Những lề thói hủ lậu, lạc hậu chính là những thành phần cặn bã trong phong tục
tập quán của các dân tộc. Các phong tục này có tác động tiêu cực và ngăn cản đối với
sản xuất, đời sống xã hội của dân tộc ít người. Đối với các dân tộc xuyên quốc gia,
những thói xấu đôi khi còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ hữu nghị cả hai bên
hoặc nhiều bên. Hiện nay, các dân tộc vùng biên giới Trung-Việt cũng tồn tại một số
lề thói hủ lậu, như tục lệ ―cưỡng hôn‖ là tập tục có ở nhiều dân tộc vùng biên, tuy
nhiên theo lịch sử phát triển, hiện nay nhiều dân tộc chỉ thực hiện ―cưỡng hôn‖ hình
thức, bản chất đã thực sự thay đổi. Nhưng ở dân tộc Di và một số vùng của dân tộc
H’Mông vẫn phổ biến tồn tại ―cưỡng hôn‖ như trước đây. Thí dụ như khi bên cô gái
không bằng lòng, bố mẹ bao biện, khước từ hôn nhân chỉ muốn gả cho con trai một
gia đình khác, thì bên nhà trai bị từ chối liền tính cách cướp cô gái. Những phong tục
tập quán như vậy, chẳng có tác động tích cực gì đối với quan hệ dân tộc, nếu là xảy ra
trong tộc Di, dân tộc Hmông ở trong vùng biên giới Trung-Việt, còn dễ gây ra tranh
chấp và xích mích giữa hai bên, nó sẽ phá hoại tình cảm và quan hệ hòa mục hữu nghị
ở vùng biên giới Trung-Việt.
Phong tục tập quán trung bình thì không có tác động rõ rệt với đời sống xã hội dân
30 http://www.docin.com/p-527876823.html
57
tộc, chỉ là một bộ phận kế thừa truyền thống văn hóa, được người dân tộc tuân theo. Ví
dụ như trang phục của các dân tộc ít người, tuy nhiên đều là tích lũy từ quá trình sản
xuất và đời sống lâu dài, thể hiện quan niệm và giá trị của người dân tộc. Sự ảnh hưởng
của những phong tục tập quán này chủ yếu thể hiện thái độ với những phong tục tập
quán cụ thể. Sự ảnh hưởng này chủ yếu thể hiện từ tiếp thu học hỏi lẫn nhau đối với
những phong tục tập quán hay, tập quán đẹp, được nhìn thấy hoặc được tham gia trong
quá trình giao lưu đi lại trong dân gian. Những phong tục tập quán được dân tộc khác
tiếp thu thường là có thể thúc đẩy phát triển quan hệ giao lưu giữa các dân tộc ít người.
Cụ thể, ở vùng biên giới Trung-Việt hay thấy những hiện tượng như nhiều tộc mặc
trang phục dân tộc mình giao lưu bằng tiếng Trung hoặc tiếng Việt. Quá trình giao lưu
cũng có những hiện tượng thú vị như hiện tượng sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp.
Khi gặp nhau ở một phiên chợ vùng biên, đầu tiên là nhìn trang phục. Nếu trang
phục thể hiện là cùng một dân tộc thì trao đổi bằng tiếng dân tộc; Nhưng trải qua
nhiều năm cùng tham dự những phiên chợ vùng biên còn có một hiện tượng đặc thù là
người dân tộc ít người của Trung Quốc chỉ biết nói tiếng Trung, còn người dân tộc ít
người ở Việt Nam chỉ biết nói tiếng Việt, nhưng lại có thể nghe hiểu được nhau. Tại
Hà Khẩu, nhiều dân tộc ít người người Việt Nam đều có thể nghe tiếng Hà Khẩu để
thực hiện các hành vi mua bán. Những hiện tượng đó cho thấy, sự hình thành và phát
triển của quan hệ dân tộc tác động đến khả năng giao tiếp và tham gia vào hoạt động
giao lưu của phong tục tập quán.
Ngoài ra, chúng ta còn phải chú ý đến một hiện tượng khác là thái độ của dân tộc
ít người đối với phong tục tập quán ảnh hưởng đến quan hệ dân tộc, cũng như quan hệ
dân tộc tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng đến thái độ của người dân tộc thiểu số với phong tục
tập quán. Thông thường là tôn trọng phong tục tập quán của dân tộc khác, có lợi cho
sự phát triển bình thường của quan hệ dân tộc. Chính vì thế, tôn trọng phong tục tập
quán của các dân tộc, thừa nhận và ủng hộ để các dân tộc thiểu số đều có quyền tự do
giữ gìn hoặc cải cách phong tục tập quán của dân tộc mình là chính sách mà chính phủ
58
Trung Quốc và Việt Nam luôn tôn trọng đối với phong tục tập quán của dân tộc ít người.
Đối với quan hệ dân tộc ít người vùng biên giới Trung Việt, do nhiều dân tộc có
phong tục tập quán gần giống nhau, có nhiều phong tục của 2 dân tộc nhưng hoàn
toàn tương đồng, Thậm chí ở một vài địa phương còn có tục lệ cúng ma của dân tộc
khác. Thí dụ người Dao, người nùng có tục cúng ma Lô Lô do tôn trọng người Lô Lô
đến khai khẩn vùng đất Đồng Văn, Mèo Vạc trước. Vì thế các dân tộc ít người vùng
biên giới Trung-Việt có thể dễ hòa nhập, tôn trọng nhau tạo ra quan hệ vùng biên giới
hài hòa, hữu nghị, mật thiết trong suốt quá trình phát triển. Tuy nhiên không phải
vùng biên nào cũng vậy. Có thể nêu thí dụ: Người Israel và Pa-le-xtin từ quan hệ căng
thẳng tiến tới xung đột vũ trang, an toàn của quần chúng nhân dân cả hai nước đều
không đảm bảo. Tuy phong tục tập quán không phải là yếu tố then chốt của xung đột
hai bên nhưng có vai trò đẩy mạnh xung đột. Hoặc như quan hệ Ấn Độ và Xri-lan-ca
vốn khá hài hòa và hữu nghị nhưng từ thập kỷ 70-80 thế kỷ trước, vấn đề dân tộc
xuyên quốc gia Tamil đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ của hai nước. Nguyên
nhân là do từ thế kỷ 19, thực dân Anh thuê người lao động từ Tamil Nadu Ấn Độ sang
vườn thực vật Xri-lan-ca trồng cây, những người lao động này là được gọi là ― người
lao động Tamil‖. Vì thế người Xri-lan-ca coi người lao động Tamil là người Ấn Độ
không phải là người Xri lan-ca. Dân tộc xuyên quốc gia Tamil trải qua thời gian dài
không được người địa phương công nhận, không có quốc tịch và phong tục tập quán
của họ cũng không được người Xri lan-ca tộn trọng. Sau khi Xri-lan-ca độc lập, chính
phủ Xri-lan-ca mới chú trọng vấn đề người Tamil và đạt được thỏa thuận với Ấn Độ,
thừa nhận thân phận người Tamil ở lại Xri lan-ca là người Xri lan-ca. Nhưng lúc này
dân số người Tamil ở Xri lan-ca đã tăng lên rất nhiều, vấn đề quan hệ dân tộc Tamil
với dân tộc địa phương càng thêm gay gắt hơn, cuối cùng người Tamil thành lập ―tổ
chức mãnh hổ Tamil ‖ tiến hành trả thù bạo lực. Đến nay, vấn đề dân tộc xuyên quốc
gia Tamil vẫn là ―qủa bom ám ảnh‖ cả hai nước. Từ đó có thể thấy, phong tục tập quán
của dân tộc xuyên quốc gia nếu không giải quyết đúng đắn, sẽ ảnh hưởng đến an ninh
hòa bình của hai nước hoặc nhiều nước.
59
Có thể nhận thấy, quan hệ dân tộc và phong tục tập quán dân tộc có ảnh hưởng
lẫn nhau. Trong đó, phong tục tập quán tinh hoa tích cực sẽ xúc tiến quan hệ dân tộc
phát triển tốt đẹp; những lề thói hủ lậu sẽ có tác dụng xấu, ngăn cản quan hệ hữu nghị
hòa hiếu; phong tục trung bình tuy không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của quan
hệ dân tộc nhưng đôi khi thể hiện ảnh hưởng hỗn hợp vừa tích cực vừa tiêu cực. Sự
hình thành và phát triển của quan hệ dân tộc cũng sẽ ảnh hưởng đến biến đổi và hấp
thụ phong tục tập quán của các dân tộc tham gia vào hoạt động giao lưu với nhau.
Trong đó, nếu hấp thụ phong tục tốt, thì có tác dụng thúc đẩy nền văn hóa dân tộc
mình phát triển; hấp thụ phong tục xấu, thì ngăn cản sự tiến bộ và phát triển. Ngoài ra,
thái đội đối với phong tục tập quán cũng ảnh hưởng đến quan hệ dân tộc. Thường
thường là tôn trọng phong tục tập quán của dân tộc khác thì có lợi cho quan hệ giữa
các dân tộc khác nhau phát triển bình thường; không tôn trọng thì sẽ khiến quan hệ
dân tộc xảy ra mâu thuẫn. Quan hệ dân tộc không bình thường đôi khi chính do hậu
quả bởi không tôn trọng phong tục tập quán của dân tộc khác gây ra.
2.2.2 Tôn giáo tin ngƣỡng
Chúng ta biết rằng, tôn giáo tín ngưỡng và các động thái của nó luôn gắn với
các quan hệ dân tộc và ở mức độ nào đó là yếu tố quan trọng của sự ổn định chính trị
- xã hội cũng như duy trì hay làm biến đổi văn hóa tộc người. Hơn nữa, tùy theo mỗi
tôn giáo tín ngưỡng, động thái của nó còn liên quan đến vấn đề môi trường – một
trong những tiêu chí đánh giá phát triển bền vững tại một địa phương, khu vực, vùng.
Ngoài ra, tôn giáo tín ngưỡng và các động thái, nhất là các tôn giáo lớn còn có những
ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế trên địa bàn với vai trò tác động trực
tiếp hay gián tiếp đến các mối quan hệ kinh tế của các giáo dân, tạo ra những cách
ứng xử tích cực hay tiêu cực của giáo dân với chính sách dân tộc và các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, kể cả kế hoạch, chỉ tiêu phát triển của địa
phương nơi có tôn giáo.
Trong lĩnh vực ổn định chính trị - xã hội, tôn giáo tín ngưỡng có một vị trí to lớn
60
do có ảnh hưởng trực tiếp đến đại đoàn kết các cộng đồng dân cư ở địa phương. Qua
những tác động của tôn giáo có thể tạo ra các quan hệ dân tộc với những xu hướng khác
nhau. Thực tế, tín ngưỡng đa thần là tôn giáo truyền thống của những dân tộc thiểu số
biên giới Trung – Việt. Tín ngưỡng đa thần tạo một niềm tin tất cả vạn vật đều có linh
hồn và là hạt nhân của hệ thống mang tính nhất nguyên. Đến thời nhà Minh, nhà Thanh
Phật giáo và Đạo giáo đã phát triển ở Trung Quốc đã hình thành lên hệ thống tôn giáo
đa nguyên cùng tồn tại. Đạo Kitô được truyền vào Trung Quốc cũng như Việt Nam vào
thời cận đại. Nếu như nói đạo kitô được truyền vào cùng lúc thực dân phương Tây công
khai xâm lược thì có thể hiểu sự truyền bá đạo Kitô sẽ trở thành chiến lược mở đầu cho
quá trình đó. Sự du nhập của đạo Kitô trong quá khứ cũng có thể hiểu là sự mở đầu cho
hiện tượng xâm lược văn hóa. Các tôn giáo này đã ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến
đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên.
Trong thời ―toàn cầu hóa‖, văn hóa hóa tôn giáo mới đã chen vào tôn giáo truyền
thống, với lý do để tính đa nguyên này phát triển. Thực tế các động thái này sẽ dễ dẫn
đến việc xung đột tôn giáo, ảnh hưởng đến vấn đề ổn định xã hội, ngoài ra cũng không
biết được phương hướng phát triển của hệ thống sinh thái tôn giáo. Bên cạnh đó các
tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của một vài dân tộc sẽ ngày càng suy yếu do bị đả
kích, một bộ phận tôn giáo khác sẽ phát triển theo xu hướng đồng nhất với Kitô giáo.
Sự phát triển của thiên chúa giáo ở Trung Quốc vẫn tương đối ổn định, nhưng đạo
thiên chúa giáo ở miền Bắc Việt Nam lại có tốc độ phát triển nhanh chóng. Tại vùng
biên dân tộc H’mông (dân tộc Mèo) có xu thế phát triển theo đạo Tin lành. Thực tế có
một thế lực thù địch từ bên ngoài đang lợi dụng tôn giáo để nhằm mục đích gây mất
ổn định ở khu vực biên giới tiến hành mưu đồ chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Nếu
như xử lý những tình huống không vững vàng, rất có thể sẽ ảnh hưởng đến khu vực
dân tộc vùng biên không chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở vùng biên Vân Nam và Quảng
Tây Trung Quốc.
Đối với môi trường, trong bối cảnh hiện nay, một số khu vực của không ít tộc
người thiểu số ở vùng sâu vùng biên giới vẫn duy trì được các khu rừng thiêng, rừng
61
ma, rừng đầu nguồn… là do vai trò tín ngưỡng của họ. Người dân ở các địa phương
đó đến nay vẫn cho rằng ở đó có các vị thần trú ngụ với mục đích phù hộ sức khỏe cho
mỗi thành viên trong bản…nên phải cấm phát cỏ làm nương, kỵ chặt cây, không chăn
thả gia sức. Đối với các tôn giáo lớn như Tìn lành, Phật giáo, Công giáo, Hồi
giáo…cũng có những tác động tích cực đến tình trạng môi trường sinh thái. Ở khía
cạnh tích cực có thể kể tới một số việc như trồng cây xanh tại những nơi hành lễ, xung
quanh nhà nguyện, nhà thời…Tuy nhiên, ở những mức độ nhất định, mỗi loại tôn
giáo cũng có ảnh hưởng không thân thiện đến môi trường, chẳng hạn như việc xây
dựng nơi thờ tự của một số đạo mới. Bởi vì tại các khu vực biên giới, những người
truyền bá những đạo có thể là Phật giáo, Khổng giáo, Công giáo…mà người dân địa
phương gọi là đạo là do trái với tôn giáo tín ngưỡng truyền thống của họ nên ban đầu
họ không theo, do đó những người này thường dựng nơi thờ tại địa điểm dễ cầu cúng
hoặc dễ thực hành và thường ở địa bàn khá hẻo lánh, thậm chí cạnh núi đá. Sau một
thời gian nếu chính quyền địa phương không cấm, những người ở nơi khác, kể cả
người dân trong khu vực bị ảnh hưởng bởi đạo mới thường đến đó cầu cúng theo thời
gian thường xuyên hoặc định kỳ với số lượng người ngày càng đông nên họ tìm cách
mở rộng. Do đó, những nơi có hiện tượng này đã gây ra không ít tổn hại cho môi
trường xung quanh về cảnh quan, sự yên tĩnh, sự trong lành, thậm chí phá vỡ sinh thái
do nơi thờ ngày càng được mở rộng và tôn tạo.31
2.2.3 Chính sách dân tộc thiểu số của hai nƣớc
Các chính sách của cả hai nhà nước đều có chung mục đích làm cho kinh tế phát
triển và xã hội ổn định ở vùng biên nên tác động tới quan hệ hữu hảo, bạn bè giữa
các dân tộc xuyên biên giới. Cùng với việc thực thi chính sách biên giới mới, sự giao
lưu, trao đổi giữa nhân dân vùng biên giới hai nước ngày càng tăng lên, nên dần dần
31 Đỗ Quang Hưng Tôn giáo tín ngưỡng trong các dân tộc thiểu số dọc biên giới Viêt-Trung‖, Trường Đại
học,KHXH&NV,ĐHQGHN
http://laocai.gov.vn/sites/sovhttdl/thongtinphattriennganh/hoithaokhoahoc/Trang/20130318082446.aspx
62
làm dịu đi quan hệ căng thẳng do chiến tranh tạo ra trong thời gian trước. Phát triển ổn
định khu vực biên giới tại vùng đồng bào dân tộc có quan hệ xuyên biên giới cũng sẽ
góp phần duy trì ổn định toàn bộ biên giới Trung -Việt, đúng với quan điểm của lãnh
đạo hai nước nhất trí cần phải ổn định xã hội, phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng
nhất của hai nước trong tình hình hiện nay, hai nước phải đạt được phương châm:
―láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt‖.
Phát triển kinh tế, ổn định xã hội tại vùng biên các dân tộc thiểu số Trung-Việt
còn chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng kích
động nhân dân làm mất ổn định khu vực tiến hành hoạt động xâm nhập và chia rẽ. Do
chế độ chính trị và hình thức phát triển của hai nước Trung-Việt có sự tương đồng nên
thông qua việc thực hiện chính sách biên giới, Trung Quốc và Việt Nam mong muốn
cải thiện tốt nhất đời sống của người dân vùng biên, tăng cường lòng tin của họ vào
chế độ chủ nghĩa xã hội, là cơ sở vững chắc nhất để chống lại khả năng lợi dụng của
các thế lực thù địch phương Tây với âm mưu ―diễn biến hòa bình‖.
Các chính sách của cả 2 nước đều nhằm mục đích phát triển nền kinh tế của vùng
biên giới Trung-Việt và trên thực tế đã đạt được những thành tích ban đầu góp phần
ổn định đời sống bà con dân tộc vùng biên. Các chính sách của nhà nước cũng tạo
nhiều cơ hội lớn cho thương mại biên giới, tạo nên nhiều lối mòn thông dụng và chợ
biên mậu dành cho người dân ở vùng biên, thúc đẩy nền kinh tế khu vực phát triển,
nâng cao thu nhập tài chính và cũng làm tăng thu nhập của người dân ở vùng biên này.
Chỉ nói riêng vùng biên bên Trung Quốc, mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tại cửa khẩu biên giới Trung
– Việt tại tỉnh Vân Nam năm 2008 vẫn đạt 795 triệu USD, chiếm 25,5% kim ngạch
cửa khẩu toàn tỉnh. Tổng lượng hàng xuất nhập khẩu lên tới 1,734 triệu tấn, chiếm
37.3% tổng lượng hàng qua cửa khẩu toàn tỉnh. Trong đó Hà Khẩu là cửa khẩu lớn
nhấ,t sầm uất nhất vùng biên giới của Vân Nam.
Ở Việt Nam từ năm 2002 đã thực hiện dự án giảm thiểu số hộ nghèo, phổ cập
tiểu học ở khu vực miền núi phía Bắc. Dự án đã đầu tư 132 triệu USD, trong đó
63
85% được dùng cho việc xây dựng trường học. Để khuyến khích đội ngũ giáo viên,
lương của giáo viên biên giới bình thường sẽ cao hơn 40% so với giáo viên đồng
bằng và các khoản trợ cấp cũng cao hơn so với khu vực đồng bằng. Học sinh khu
vực biên giới sẽ được miễn phí tiền học phí, tiền sách vở, và tiền sinh hoạt. Đồng
phục của trường và cặp sách sẽ được nhà nước cung cấp. Về chế độ y tế, người dân
vùng biên giới sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm y tế cơ bản, có thẻ bảo hiểm y tế và
người dân được miễn phí toàn bộ chi phí khám chữa bệnh. Về phương diện nhà ở sẽ
trợ cấp để cải tạo những ngôi nhà tranh thành nhà mái tôn hoặc nhà mái ngói.
Những chính sách ưu đãi đặc biệt này đã đem lại hiệu quả rõ rệt, được nhân dân
vùng biên nhất là đồng bào dân tộc thiểu số hoan nghênh.
Như chúng ta đã biết đối với Trung quốc, khu vực biên giới giữa các quốc gia
láng giềng với Vân Nam vẫn có sự phát triển về kinh tế, xã hội tương đối lạc hậu
hơn so với Trung Quốc.Tuy vậy, vấn đề biên giới của Trung Quốc vẫn được quan
tâm, chú trọng bởi cần phải chú ý đến lòng dân. Những năm gần đây Trung Quốc đã
căn cứ vào các vấn đề trong cuộc sống sinh hoạt của người dân để đưa ra một loạt
những chính sách đặc thù theo tinh thần ―hưng biên, phú dân, cường quốc, mục
lân‖. Tuy nhiên, có khi những chính sách ưu đãi của Trung Quốc thường bị ―áp đặt‖
cứng nhắc, có những chính sách còn bị giảm đi hiệu lực của nó, điều này khiến cho
bộ phận người dân khu vực biên giới sinh ra tâm lý mất cân bằng. Đây cũng là
những thách thức đối với vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia, hình tượng quốc gia và an
ninh khu vực biên giới. Trong đó hiện tượng xuất hiên phổ biến nhất là việc nhân
dân vùng biên giới di cư đến nơi khác. Do bên phía Việt Nam thi hành hàng loạt các
chính sách ưu đãi về chính trị, kinh tế, xã hội và đầu tư một cách rộng rãi, khiến cho
người dân biên giới bên phía Trung Quốc có cuộc sống nghèo khó đặc biệt là những
nơi dân tộc xuyên biên giới có hiện tượng so sánh và hậu quả là có hiện tượng di cư
ra bên ngoài. Người dân thường di cư từ phía Đông Nam Vân Nam sang các tỉnh
64
miền Bắc Việt Nam, phía Tây Vân Nam chủ yếu di cư sang phía Bắc Myanma, Thái
Lan hoặc Lào.
2.2.4 Yếu tố kinh tế
Tình hình chung mậu dịch Trung-Việt
Cho đến thập niên 90 thế kỷ 20, nền kinh tế hai nước Trung-Việt đều đã có
những bước phát triển nhanh chóng, hai nước đều chú trọng sự hợp tác trao đổi song
phương. Năm 2000 Trung Quốc và Việt Nam ký ―hiệp định của nước cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phân định lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ‖, cơ bản giải
quyết vấn đề phân hoạch biên giới trên đất liền và biển; Tháng 3 năm 2002, Trung
Quốc tuyên bố dành Qui chế tối huệ quốc (MFN) cho Việt Nam;
Năm 2002 Thủ tướng Chu Dung Cơ đã ký Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế
toàn diện ký tháng 11 năm 2002 nhằm thiết lập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc (ACFTA), với mục tiêu hiện thực hóa ACFTA vào năm 2010
đối với Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc,
và vào 2015 đối với Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam. Hiệp định về thương
mại hàng hóa và Thỏa thuận cơ chế giải quyết tranh chấp giữa ASEAN và Trung
Quốc ký tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăn. Hiệp định về thương mại hàng hóa bắt
đầu có hiệu lực từ tháng 7 năm 2005 đồng nghĩa với việc các tiến trình đàm phán giữa
ASEAN-Trung Quốc về khu vực mậu dịch tự do đã được hoàn tất theo như Hiệp định
khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc đặt ra và cũng tác
động tích cực đến mậu dịch Trung – Việt. Ngày 11 tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội Ủy
ban Chỉ đạo Hợp tác Song phương Việt – Trung được thành lập với sự thỏa thuận của
lãnh đạo cao cấp hai nước, do ―xuất phát từ yêu cầu khách quan, nhằm thúc đẩy quan
hệ Việt – Trung phát triển toàn diện‖. Việc thành lập và đi vào hoạt động của Ủy ban
khẳng định vai trò và sự cần thiết của cơ chế hợp tác quan trọng này trong việc chỉ đạo
và thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước
65
phát triển sâu rộng và hiệu quả theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt mà Lãnh
đạo cấp cao hai nước xác định.
Để thực hiện cam kết của Việt Nam cho giai đoạn tiếp theo, ngày 14/11/2014 Bộ
Tài chính ban hành Thông tư 165/2014/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban
hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN giai đoạn 2015-2018.; Thông tư
166/2014/TT-BTC ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp
định Thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) giai đoạn 2015-2018, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015, thay thế Thông tư 162/2011/TT-BTC ngày
17/11/2011.
Tiềm năng của mậu dịch biên giới Trung-Việt có điều kiện thuận lợi phát triển trong
khuôn khổ hợp tác của khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và hợp tác trong khu
vực vành đai vịnh Bắc Bộ. Bước sang những năm đầu của thế kỳ 21, quan hệ mậu
dịch kinh tế hai nước Trung-Việt phát triển bền vững. Tổng kim ngạch mậu dịch
Trung-Việt từ 6,74 tỷ đô-la Mỹ năm 2004 tăng lên tới 26,39 tỷ đô-la Mỹ năm 2010,
trong vòng 6 năm tăng gia 3 lần, bình quân mỗi năm tăng trường 48,59%. Trước năm
2003, đối tác mậu dịch lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản, nhưng vào năm 2004
Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản và cho đến nay Trung Quốc liên tục 7 năm trở
thành đối tác mậu dịch lớn nhất của Việt Nam.
2-2 (Số liệu nguồn gốc: văn phòng thương mại kinh tế đại sử quán nước cộng hòa nhân dân Trung Quốc và nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Kim ngạch mậu dịch quộc tế Trung-Việt (tỷ đô-la Mỹ) 6,74 8,20 9,95 15,12 19,46 21,48 26,39 Tỷ lệ tăng lên so với năm trước -- 21.6 21.4 51.8 28.8 10.3 43.2
Một vài chính sách thuế quan và ưu đãi thuế nhằm phát triển biên mậu của Trung Quốc:
66
Đối với các hàng hóa nhu yếu phẩm hàng ngày nhập khẩu từ các nước có chung
đường biên giới dưới hình thức trao đổi của dân cư biên giới được miễn các loại thuế
nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng nếu giá trị hàng hoá không quá 3000 nhân dân
tệ/người/ngày.
Khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch thông qua kinh tế biên mậu
bằng các quy định về năng lực của doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh tế biên mậu
với số vốn đăng ký chỉ cần từ 500.000 nhân dân tệ trở lên là có thể hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh được coi là có đủ năng lực về phương tiện và các điều kiện tài
chính cần thiết. Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu biên mậu còn được
hưởng các chính sách hoàn thuế áp dụng cho các giao dịch thông thường theo các thủ
tục hoàn thuế chung.
Sau khi gia nhập WTO hoạt động kinh tế biên mậu, hợp tác kinh tế và kỹ thuật
với nước ngoài tại khu vực biên giới được quản lý trên cơ sở động thái, biến động của
thị trường để cấp giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch… với một số sản phẩm hàng
hóa có thể quy về hoạt động thương mại bình thường.
Một số chính sách phát triển biên mậu của Việt Nam
+ Ngày 03/2/2000 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 02/2000/CP về
đăng ký kinh doanh thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc.
+ Ngày 14/3/2005 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 32/2005/NĐ-CP
về Quy chế cửa khẩu biên giới đất liền.
+ Ngày 31-1-2008 ban hành Thông tư liên tịch số
01/2008/TTLT-BCT-BTC-BGTVT-BNN& PTNT-BYT-NHNN hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg qui định cụ thể:
- Thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới, thanh toán
trong mua bán hàng hóa tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa
khẩu được thực hiện bằng đồng Việt Nam (VNĐ) và đồng tiền của nước có chung
biên giới.
- Định mức hàng hóa miễn thuế nhập khẩu không quá 2.000.000VNĐ/
67
người/ngày được áp dụng cho các đối tượng nếu hội đủ các tiêu chí: Là cư dân biên
giới Việt Nam hoặc cư dân biên giới của 3 nước có chung đường biên giới (Trung
Quốc, Lào, Campuchia) qua lại biên giới xuất trình chứng minh thư biên giới hoặc
giấy thông hành biên giới do cơ quan có thẩm quyền của hai nước cấp. Hàng hóa
miễn thuế phải được sản xuất tại nước có chung biên giới. Hàng hóa sản xuất tại nước
thứ ba không được hưởng định mức miễn thuế này.
- Chủ thể được mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới
- Chủ thể Việt Nam được xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới
- Chủ hàng, người điều khiển phương tiện hàng hóa, nhân viên phục vụ trên xe,
tàu, thuyền phải có một trong các giấy tờ có giá trị sử dụng như sau: Hộ chiếu, Chứng
minh thư biên giới, Giấy thông hành biên giới, hoặc các giấy tờ qua lại biên giới khác
theo quy định của pháp luật.
Thực tế miền núi phía Bắc Việt Nam có tiềm năng về thương mại xuất nhập khẩu.
Toàn vùng có 7 tỉnh biên giới, với nhiều cửa khẩu lớn nhỏ khác nhau. Các tỉnh vùng
cao biên giới có thị trường hết sức rộng lớn bao gồm thị trường trong nước, thị trương
ngoài nước. Với 2,300 km đượng biên tiếp giáp với Lào và Trung Quốc, nên khả năng
giao lưu kinh tế của các tỉnh miền núi phía Bắc rất to lớn.Trong những năm gần đây,
tình hình thị trường và hoạt động thương mại tại các tỉnh vùng cao, miền núi phía Bắc
đã có những bước chuyền biến tích cực. Thị trường từng bước được mở rộng lưu
thông hàng hóa phát triển. Hàng hóa phong phú đa dạng về chủng loại, đáp ứng được
cơ bản về nhu cầu của sản xuất, tiên dùng, góp phần giải quyết việc làm, phân công lại
lao động trên địa bàn các tỉnh biên giới vùng cao phía Bắc.
Vai trò của hoạt động biên mậu Việt Nam - Trung Quốc
- Đối với các tỉnh biên giới hoạt động biên mậu có vai trò tích cực thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.
- Thu hút đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế mở
- Hình thành các điểm tập trung dân cư mới như thị tứ, thị trấn, thị xã và các
thành phố dọc tuyến biên giới.
68
- Cuộc sống cư dân khu vực cửa khẩu cũng như khu vực biên giới được cải thiện
đáng kể, thắt chặt sự đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số, góp phần bảo vệ an ninh xã
hội và an toàn vùng biên giới.
- Việc thực hiện các chính sách ưu tiên phát triển thương mại, dich vụ, xây dựng
mô hình kinh tế cửa khẩu, đầu mối giao lưu kinh tế đã thu hút ngày một tăng các
thương nhân tham gia kinh doanh tại khu vực, do đó đã tăng thêm nguồn vốn đầu tư
cho vùng để phát triển thương mại dịch vụ.
- Qua nhập khẩu các doanh nghiệp đã cung cấp nhiều máy móc, thiết bị dịch vụ phục vụ
phục sản xuất, chuyển giao khoa kỹ thuật cho cộng đồng các dân tộc và cả các khu vực khác.
Nhờ đó đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà trước mắt phục vụ
một số ngành công nghiệp như: mía đường, chế biến gỗ, sản xuất bột giấy, khai thác than đá và
vật liệu xây dưng
Tiểu kết chƣơng 2
Thực tế, các dân tộc có quan hệ xuyên biên giới Trung-Việt thường sống đan xen
trong từng vùng nên thông qua quan hệ với đồng tộc, quan hệ với dân tộc khác và
quan hệ dòng họ để phân tích toàn diện hơn quan hệ giữa các dân tộc thiểu số xuyên
biên giới Trung-Việt. Trong môi trường uống chung nước một dòng sông, chặt chung
củi một ngọn núi, đi chung một con đường, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc người
dân vùng biên giới thăm hỏi lẫn nhau, buôn bánsản phẩm, giao lưu qua lại những
ngày nghỉ ngày lễ. Chính những hoạt động này khiến cho nhân dân hai nước tiếp xúc
với nhau nhiều hơn, hiểu biết về nhau nhiều hơn. Cho nên họ có liên hệ chặt chẽ với
nhau về mọi mặt như kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán v.v. Nhìn chung, các dân
tộc vùng biên giới Trung-Việt dựa vào cơ sở tình cảm dân tộc, ý thức tâm lý do văn
hóa tương đồng và vị trí địa lý để giữ gìn quan hệ đi lại lâu dài. Các quan hệ này trong
những năm gần đây có tác động thúc đẩy tích cực do kinh tế phát triển, lại càng làm
cho quan hệ xã hội giữa các dân tộc thiểu số vùng biên phát triển thuận lợi, thậm chí
tác động cả đến phát triển quan hệ hữu nghị của hai nước.
69
Trong 4 yếu tố quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ dân tộc thiểu số ở
vùng biên giới Trung-Việt là phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, chính sách của
hai nước và kinh tế thì quan hệ dân tộc và phong tục tập quán dân tộc có ảnh hưởng
lẫn nhau rõ ràng nhất.
CHƢƠNG 3 VÀI NÉT VỀ CÁC XU HƢỚNG TRONG QUAN HỆ DÂN TỘC
3.1 Hợp tác khai thác tài nguyên văn hóa dân tộc ở khu vực biên giới
3.1.1 Du lịch và Làng du lịch dân tộc
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ
ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Theo các nhà kinh tế, du lịch
không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh
tế và du lịch được coi là ―một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều
mặt, về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể
coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ‖. Với một quốc gia đa dân tộc
như Việt Nam và Trung Quốc, trong phát triển du lịch thì xây dựng làng du lịch là một
vấn đề cần được quan tâm. Bởi lẽ, làng du lịch là trung tâm hoạt động văn hóa, thể
thao, du lịch mang tính quốc gia, nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác
các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc. Làng du lịch là một trung tâm du lịch,
dịch vụ, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí có quy mô lớn, đồng bộ tạo môi trường đầu tư hấp
70
dẫn, khai thác các lợi thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên tạo động lực cho
sự phát triển bền vững.
Trong xu thế phát triển hiện nay là nhất thể hóa kinh tế khu vực và toàn cầu hóa
kinh tế thì khả năng tăng cường hợp tác của song phương, đa phương của các nước
khu vực đã trở thành một xu hướng tất yếu trong hợp tác quốc tế. Đó cũng là nguyên
nhân để những năm gần đây quan hệ hợp tác hữu nghị Trung-Việt không ngừng phát
triển, trong đó có sự ra đời của chương trình ―Hai hành lang, một vành đai kinh tế‖.
Một vấn đề quan trọng được đặt ra trong chương trình này là mục tiêu tăng nhanh
nhịp độ phát triển hợp tác du lịch quốc tế tại khu vực biên giới Trung-Việt. Nhiều học
giả Trung Quốc như Lưu Tiểu Bồi, Trần Đinh Vũ Hải thông qua phân tích điều tra thị
trường nguồn du khách biên giới Trung-Việt đã chỉ ra du lịch vùng biên Trung-Việt có
tiền năng phát triển to lớn. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu xây dựng khu vực
mậu dịch tự do ASEAN, nhiều học giả cũng song song tiến hành nghiên cứu về khả
năng du lịch tại vùng biên giới Trung-Việt dưới bối cảnh chung - hợp tác quốc tế. Các
nhà nghiên cứu Triều Minh Long, Trương Việt Thủy đều khảng định thi hành hợp tác
du lịch khu vực biên giới Trung-Việt đã là một xu thế chung hiện nay. Các học giả
Tảo Lệ, Quốc Nhất còn nêu ra những ý kiến và biện pháp cần phải thực hiện như hai
nước nên tăng cường việc khai thác và hợp tác giữa các công ty lữ hành, chính quyền
của các địa phương có cơ chế ủng hộ khai thác tài nguyên du khách tiềm năng, xây
dựng hệ thống du lịch liên hợp, với tinh thần ―hỗ trợ hoạt động khu vực, tài nguyên
cùng chia sẻ, bổ sung ưu thế cho nhau‖ v.v…
Tuy vậy, phần lớn học giả tập trung nghiên cứu và phân tích sâu sắc thuận lợi
trước mắt của sự hợp tác du lịch giữa tỉnh Quảng Tây với Việt Nam. Thực tế hợp tác
du lịch giữa tỉnh Vân Nam với Việt Nam cũng có không gian phát triển nhưng vẫn
còn nhiều vấn đề chỉ dưới dạng tiềm năng. Bởi vì Vân Nam là một tỉnh có một nền
văn hóa dân tộc thiểu số rất phong phú đa dạng. Theo Trung Quốc, trên đường biên
giới Vân Nam và Việt Nam tồn tại 13 dân tộc thiểu số xuyên quốc gia (theo Việt Nam
thì có 26 dân tộc xuyên quốc gia), họ có cùng nguồn gốc, có văn hóa tương đồng, hình
71
thành một vành đai văn hóa dân tộc biên giới đặc sắc. Nhưng khu vực này là vùng núi
cao, cơ sở hạ tầng phát triển chưa đáp ứng. Nếu hai nước Trung-Việt có thể hợp tác
với nhau, tiến hành khai thác chung vành đai văn hóa dân tộc đặc biệt này, để làm cho
văn hóa dân tộc chuyển thành tài nguyên du lịch, không những thúc đẩy phát triển
kinh tế, cải thiện cuộc sống của người dân tộc vùng biên, mà còn quan trọng hơn là
bảo tồn và kế thừa văn hóa dân tộc thiểu số vùng biên này.
Giai đoạn hiện đang nằm trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Trung Quốc và
Việt Nam lại là hai quốc gia đa dân tộc và đều có mối quan tâm chung là bảo tồn văn
hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Các nhà khoa học và các nhà hoạch
định chính sách ở cả hai nước đã và đang suy nghĩ tìm ra một con đường có thể thực
hiện tốt nhất công cuộc bảo tồn và khai thác tài nguyên du lịch ở vùng biên giới để
phát triển kinh tế vùng biên nhưng lại thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phổ biến văn hóa
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Chính vì thế ý tưởng hai bên cùng xây
dựng các làng du lịch dân tộc là một biện pháp rất phù hợp với tiềm năng kinh tế mà
lại kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa.
Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc cho dù ở Việt Nam hay Trung Quốc đều là
một quần thể đa dạng với nhiều khu chức năng, đan xen giữa văn hóa, dịch vụ du lịch,
nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Làng là trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch mang
tính quốc gia, nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác các di sản văn hóa
truyền thống của các dân tộc anh em. Nếu thực hiện tốt làng không chỉ tăng cường tình
hữu nghị, hợp tác và trao đổi văn hóa với các dân tộc trong một quốc gia mà còn góp
phần tăng cường quan hệ hữu nghị hiểu biết lẫn nhau với các nước khác trên thế giới
thông qua việc phục vụ nhu cầu tham quan, du lịch và nghiên cứu của nhân dân trong
nước và du khách quốc tế. Chính vì thế nhiều học giả cho rằng xây dựng các trung tâm
du lịch, dịch vụ, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí có quy mô lớn, đồng bộ tại các địa điểm phù
hợp ở vùng biên mô phỏng nơi cư trú của các bản làng dân tộc thiểu số sẽ tạo môi
trường đầu tư hấp dẫn, khai thác các lợi thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên
tạo động lực cho sự phát triển bền vững của khu vực này. Bởi vì làng văn hóa du lịch
72
dân tộc là lấy làng dân tộc thiểu số làm mục tiêu du lịch, lấy tư tưởng và tình cảm nhân
văn của đồng bào dân tộc cũng như phong cảnh tự nhiên để hấp dẫn du khách. Tất cả
các ý tưởng đó đều thuộc phạm trù du lịch phong tục dân tộc.32
Không giống với mục đích của các loại du lịch bình thường, du lịch làng văn hóa
là tham quan nhà vườn của người dân tộc thiểu số, thưởng thức văn hóa dân tộc do
người bản địa sáng tạo và kế thừa qua hàng nghìn năm lịch sử. Trên thực tế nhiều nét
văn hóa này vẫn còn được bảo tồn trong một môi trường sống khép kín. Trong bối
cảnh xã hội hiện đại, bản thân văn hóa dân tộc cũng trở nên rất mong manh. Bản thân
văn hóa dân tộc thiểu số không chỉ là tài sản văn hóa dân tộc quan trọng, mà nó còn là
di sản chung của nhân loại, nó là một phần quan trọng trong sự đa dạng của văn hóa
thế giới. Một khi bị tổn hại, thì rất khó có thể khôi phục và xây dựng lại. Đặc biệt là
văn hóa dân tộc của một số dân tộc thiểu số ở Đại Sơn, Tây Nam, Trung Quốc, dân tộc
Mông Cổ, dân tộc Ngõa, dân tộc Tạng…ở Trung Quốc hay dân tộc Lô Lô, Mảng, La
Chí, Pà Thẻn v.v.. ở Việt Nam là các dân tộc thiểu số có số dân không đông mà lại
sống trong cộng đồng nhiều dân tộc nên rất dễ bị hiện đại hóa, đô thị hóa và nếu
không được quan tâm đầy đủ sẽ bị mai một trong môi trường thương mại hóa, thị
trường hóa. Thực trạng này đang là mối quan tâm của các nhà dân tộc học của Trung
Quốc và Việt Nam.
Tuy nhiên đối với nhiệm vụ bảo tồn nền tảng di sản văn hóa dân tộc trong đó có
mục tiêu phát triển làng văn hóa dân tộc trong tình hình Trung Quốc, Việt Nam hiện
nay một vấn đề khó khăn đặt ra chính là nguồn vốn. Để có thể vừa bảo vệ di sản và
phát triển các làng văn hoá dân tộc lại có vốn đầu tư thì phải có sự đóng góp của kinh
tế du lịch. Chính sự đóng góp này sẽ tạo thêm quỹ phát triển văn hóa cho địa phương,
ngoài ra còn nâng cao lợi ích của người dân bản địa, nó có tác dụng tích cực trong
việc thúc đẩy sự hòa hợp dân tộc và phát triển xã hội. Nhưng nếu như không có sự
32 李孝蓉〃文化骥本骥角下的民族旅游村寨可持骥骥展研究〃中国地骥大学博士骥文〃2013 年
73
khống chế, để cho lợi ích kinh tế lớn hơn hình thức phát triển du lịch thì khi đó sẽ làm
phá vỡ sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên, làm thay đổi hiện trạng văn hóa vốn có,
chiếm đoạt lợi ích của người dân, đều là những tai họa về sinh thái, văn hóa đối với
người dân bản xứ, nó sẽ phá vỡ tính bền vững của hệ thống sinh thái văn hóa làng. Vì
vậy, mục tiêu phát triển bền vững làng du lịch văn hóa không chỉ là mục tiêu duy nhất
để thực hiện phát triển bền vững nền kinh tế du lịch, mà phải có mục tiêu toàn diện
như bảo vệ văn hóa làng, môi trường tốt, xã hội hài hòa làm cơ sở. Mục tiêu phát triển
bền vững làng du lịch văn hóa sẽ bao gồm cân bằng hệ thống sinh thái văn hóa làng,
thông qua việc bảo vệ vị trí chủ thể của người dân, kích thích người dân đẩy mạnh
thực hiện mục tiêu của làng. Chỉ có dựa trên cơ sở bền vững làng, thì phát triển bền
vững kinh tế du lịch làng mới có ý nghĩa.
Ở một số nước trong khu vực như Thái-lan, Cam-pu-chia và ngay ở Trung Quốc
đã có những làng văn hóa - du lịch các dân tộc do tư nhân đầu tư với quy mô vừa phải,
đón rất đông khách tham quan với nhiều hoạt động du lịch, vui chơi, giải trí thú vị.
Những làng văn hóa dân tộc đó đã thật sự có đời sống của mình, có nguồn thu từ du
khách mà vẫn quảng bá được văn hóa cũng như hình ảnh đất nước. Có lẽ, đó cũng là
mô hình, hướng đi mà khu vực biên giới nên học tập để mang lại hiệu quả trong đầu tư,
khai thác hoạt động của làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc khi được xây dựng.
3.1.2 Ý nghĩa khai thác
Vùng biên giới Trung-Việt là nơi có nhiều tộc người xuyên quốc gia cư trú và
cũng có thể nói là nơi tập trung tinh hoa văn hóa của họ, tất nhiên là nơi có tài nguyên
du lịch văn hóa dân tộc thiểu số biên giới đặc biệt phong phú. Khai thác vành đai văn
hóa du lịch, có thể nâng cao sức hấp dẫn của ngành du lịch biên giới Trung-Việt, mở
ra tư duy mới và lĩnh vực mới cho sự hợp tác của ngành du lịch hai nước, thúc đẩy
ngành du lịch biên giới cả hai nước phát triển, có ý nghĩa quan trọng đối với xúc tiến
kinh tế vùng biên giới, cũng như thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
+ Thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển
74
Vùng biên Trung-Việt địa hình chủ yếu là đồi núi, giao thông chưa thuận tiện,
lâu nay kinh tế phát triển lạc hậu. Dưới sự thúc đẩy của việc xây dựng khu vực mậu
dịch tự do ASEAN-Trung Quốc cũng giúp cho hợp tác Trung-Việt có thành quả rõ rệt.
Tuy nhiên nhìn tổng thể nền kinh tế xã hội vùng biên giới Trung-Việt muốn tiến lên
phát triển toàn diện vẫn còn là ―gánh nặng đường xa‖. Ngành du lịch là một bộ phận
quan trọng của dịch vụ hiện đại, là một trong những sản nghiệp cột trụ mang tính
chiến lược lôi kéo kinh tế phát triển nhanh chóng. Hơn nữa, ngành du lịch có đặc
trưng kinh tế là ―đầu tư ít, hiệu quả nhanh, lợi nhuận nhiều‖.33 Vùng biên giới
Trung-Việt tài nguyên du lịch dồi dào, có khả năng bổ sung hỗ trợ, du khách sẽ có thể
nghiệm khác nhau khi du lịch ở vùng biên giới của hai quốc gia. Nền văn hóa dân tộc
thiểu số vùng biên giới Trung-Việt có nhiều tương đồng, nhưng cũng có những điểm
khác nhau, khiến du khách có thể tìm hiểu toàn diện và sâu sắc hơn về những dân tộc
thiểu số này, hiểu biết rõ hơn văn hóa dân tộc đặc sắc của Trung Quốc và Việt Nam,
qua đó xây dựng được ý thức tôn trọng và bảo tồn văn hóa của các dân tộc thiểu số hai
bên. Đồng thời, cũng có lợi cho đôi bên triển khai hợp tác sản xuất sản phẩn du lịch
đặc sắc, mở thêm nhiều tua du lịch quốc tế hấp dẫn, tăng thêm nguồn khách cho nhau,
qua đó xúc tiến nền kinh tế vùng biên giới Trung-Việt phát triển đi lên.34
+ Nâng cao lực hút tổng thể của tài nguyên du lịch biên giới Trung-Việt
Du lịch biên giới Trung-Việt tuy khai thác đã nhiều năm, nhưng vẫn nằm trong
giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm, nhất là vùng biên giữa tỉnh Vân Nam với Việt Nam mà
bằng chứng rõ nhất là sản phẩm du lịch đơn điệu. Có nhiều tài nguyên du lịch có ưu
thế, sức cuốn hút mạnh vẫn chưa được khai thác, hiệu ứng thương hiệu của tài nguyên
du lịch không nổi bật, lực hút và sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch vẫn còn yếu.35
Vùng biên giới Trung Quốc -Việt Nam có nhiều danh lan thắng cảnh đa dạng,
33 骥骥忠〃中国彝族旅游文化〃成都。四川民族出版社〃2003
34 任骥〃两廊一圈旅游合作开骥骥略研究〃广西骥骥管理干部学院学骥〃2009〃(01)
35 王雪芳〃骥北部湾骥海跨国旅游文化圈的构想〃西南民族大学学骥(哲学社会学版)〃2005
75
nhiều truyền thuyết cổ tích mang tính nhân văn sâu sắc và nhiều di sản văn hóa phi vật
thể, ví dụ như di sản văn hóa thế giới- văn hóa ruộng bậc thang Hà Nhì, Nguyên
Dương, công nghệ truyền thống thất truyền nhiều năm- ―Đồng đen tẩu ngân‖ 骥骥走
骥; Các bài ca cổ thần thoại của dân tộc Hà Nhì, Lục Xuân ―Đô mã giản thâu‖ ―都骥
骥收‖; Âm nhạc dân gian: hát đối bài hát tình yêu dân tộc Miêu Bình Biên; dân ca
nhiều bè Hà Nhì,châu Hồng Hà, Làn điệu Hải Thái dân tộc Di, Thạch Bình v.v…
Kiến trúc dân cư đa dạng như nhà hình ―Nấm‖ của tộc Hà Nhì, nhà tre hình ―Mũ‖ của
tộc Thái, Đức Áng v.v. Ngày lễ hội cũng phong phú như ―Liên hoan ca múa Tai Ya‖
Thạch Bình, ca múa ―Hà Nhì‖ Lục Xuân, ―Liên hoan du lịch văn hóa ruộng bậc
thang‖ Nguyên Dương, ―Ngày lễ Sơn Hoa dân tộc Miêu‖ Bình Biên, ―Ngày cống Bàn
Vương‖ truyền thống của dân tộc Dao Hà Khẩu v.v....
Về phía Việt Nam cũng có nhiều di sản văn hóa như: chợ tình Sa Pa, chợ tình
Khau Vai, lễ cấp sắc của dân tộc Dao, lễ hội Gầu Tào của người Mông, Lễ hội trò
trám, Lễ hội Lồng tồng của đồng bào dân tộc Tày, lễ cầu mưa của người Lô Lô,
người Thái… Ngoài ra khu vực biên giới vẫn có thể khai thác tuồng, cải lương, ca trù,
múa rối nước v.v.., kể cả dân ca quan họ Bắc Ninh mới được tổ chức UNESCO liệt
vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể.
Tài nguyên văn hóa dân tộc phong phú và đặc sắc đã dành điều kiện tốt cho
vùng biên giới Trung-Việt kiến tạo vành đai du lịch văn hóa dân tộc thiểu số biên
giới. Hai nước Trung-Việt có thể lấy văn hóa dân tộc thiểu số xuyên biên giới làm
điểm sát nhập, hợp tác khai thác và chỉnh hợp tài nguyên du lịch vùng biên, coi khu
vực biên giới Trung-Việt là một chỉnh thể để giới thiệu với thị trường bên ngoài, xây
dựng một vành đai du lịch văn hóa dân tộc xuyên biên giới Trung-Việt có sức hấp
dẫn quốc tế, qua đó nâng cao lực hút và sức ảnh hưởng của ngành du lịch vùng biên
giới Trung-Việt.
+ Có lợi bảo tồn và kế truyền văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số
Hiện nay, kho tàng văn hóa dân tộc thiểu số vùng biên giới Trung-Việt đã bắt đầu
76
xuất hiện hiện tượng thất truyền. Ví dụ như, 1 chi nhánh của dân tộc Dao ở cả vùng
biên giới 2 bên, trang phục phự nữ có đặc sắc riêng biệt của họ đang bị mất dần.36 Cho
nên, công tác bảo vệ, kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số hai
nước là một nhiệm vụ cấp bách. Thực tiễn chứng minh, phát triển ngành du lịch là một
đường lối quan trọng phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy văn hóa truyền thống
dân tộc thiểu số. Ví dụ, tỉnh Vân Nam tiến hành bảo vệ văn hóa của các dân tộc thiểu số
như dân tộc Di, Choang, Miêu, Dao, Naxi, v.v. đồng thời cũng khai thác du lịch, khiến
nền văn hóa dân tộc cổ kính và công nghệ lâu đời như văn hóa Đông Ba của dân tộc
Naxi, kỹ nghệ điêu khắc lá, vỏ sò của tộc Thái, công nghệ phẩm đá hoa cương truyền
thống, kỹ nghệ nhuộm vải của dân tộc Bạch, và kỹ nghệ thêu thùa của dân tộc Di v.v.
được kế thừa, và được phát triển quy mô hóa, tìm ra con đường mới để sinh tồn và phát
triển từ kinh tế du lịch. Những năm gần đây, ngành du lịch biên giới Trung-Việt phát
triển nhanh chóng, du lịch bản làng dân tộc với đặc sắc văn hóa dân tộc và cảnh sắc bản
làng dân tộc đang ngày càng được nhiều du khách chấp nhận và ưa thích.
+ Với vai trò là công cụ nâng đỡ và công cụ đệm của quan hệ quốc tế.
Trong môi trường hòa bình hợp tác khu du lịch xuyên biên giới sẽ là công cụ
nâng đỡ của quan hệ quốc tế. Cụ thể là thông qua giao lưu hợp tác, tăng cường độ hiểu
biết tin cậy lẫn nhau thông qua hoạt động du lịch xuyên biên giới của nhân dân hai
nước; làm sâu sắc hơn những hiểu biết về văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu tiếp
xúc giữa dân tộc của hai nước. Chính điều này càng có lợi cho hòa bình ổn định khu
vực biên giới. Các hoạt động kinh tế của khu vực hợp tác kinh tế xuyên biên giới sẽ
làm cho khu vực biên giới giữa hai nước hợp tác chặt chẽ, phát triển hài hòa hơn,
chính là diễn đàn đối thoại cho lĩnh vực chính trị, kinh tế,văn hóa hai nước. Những
điều này sẽ thúc đẩy mối quan hệ hai nước phát triển ổn định và cải thiện bền vững.
36范宏骥〃全球化冲骥下的民族文化仍有个性〃民族文化与全球化学骥研骥会文集〃北京民族出
版社 2003 年范宏骥〃全球化冲骥下的民族文化仍有个性〃民族文化与全球化学骥研骥会文集〃
北京民族出版社 2003 年
77
Một khi quan hệ hai nước có dấu hiệu căng thẳng, khu vực hợp tác kinh tế xuyên
biên giới sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài biên giới thì lượng khách đến sẽ ít dần,
bên trong khu vực biên giới sẽ càng thắt chặt chính sách…. Do đó có thể nói khu vực
hợp tác kinh tế xuyên biên giới sẽ làm sâu sắc hơn mối quan hệ kinh tế, văn hóa giữa
hai nước, hay là điểm quan trọng thể hiện quan điểm quốc gia. Vì vậy khu vực hợp tác
kinh tế xuyên biên giới cũng trở thành công cụ đệm trong quan hệ hai nước. Nếu mối
quan hệ hai nước không quá căng thẳng, thì khu vực hợp tác kinh tế xuyên biên giới
sẽ trở thành nền tảng bán chính thức hoặc nền tảng chính thức của hai nước tạo thời
cơ mới để cải thiện quan hệ.
3.1.3 Tính khả thi
+Thế mạnh về điều kiện tài nguyên thiên nhiên
Khu vực văn hóa biên giới Việt –Trung là sự giao thoa giữa các nền văn hóa: văn
hóa Lạc Việt, văn hóa biển đảo, văn hóa Ba Thục, văn hóa Điền (tên gọi khác của tỉnh
Vân Nam), văn hóa Đông Nam Á và văn hóa phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch
sử, dân tộc hai nước Trung – Việt đã tạo nên các nền văn hóa có nội hàm đa dạng và
phong phú như: văn hóa Đại Thạch Sản, văn hóa Đỉnh Sư Sơn, văn hóa Long Mẫu…
Cho đến nay, rất nhiều dân tộc trong khu vực biên giới Trung - Việt vẫn giữ được nét
văn hóa truyền thống riêng biệt như: văn hóa nhà sàn, văn hóa Trống Đồng, văn hóa
thời kì đồ đá, văn hóa ―Na‖ của dân tộc Choang, dân tộc Động – Trung Quốc, văn hóa
đặc trưng của dân tộc Thái, dân tộc Nùng – Việt Nam; phương thức cư trú của họ vẫn
giữ được kết cấu nhà sàn truyền thống ―con người thì sống bên trên; trâu, bò, dê, chó,
lợn,… vật nuôi thì sống bên dưới‖; dân tộc Hà Nhì của Trung Quốc và dân tộc Hà Nhì,
dân tộc Cống của Việt Nam cho đến nay vẫn giữ được nét đặc sắc trong trang phục
của họ. Văn hóa là linh hồn của du lịch, văn hóa dân tộc ẩn chứa sức sống và sinh lực
là nền tảng là tài nguyên quan trọng trong việc hợp tác du lịch giữa hai dân tộc Trung
– Việt. Lấy tài nguyên du lịch văn hóa dân tộc làm cơ sở để đạt được mục đích du lịch
văn hóa dân tộc xuyên quốc gia, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần sẽ
78
là điểm sáng mới và sự tăng trưởng mới trong quá trình phát triển của ngành du lịch
biên giới Trung – Việt.
+Ưu thế về vị trí địa lí, thị trường nguồn khách du lịch lớn.
Khu vực biên giới Trung – Việt có vị trí địa lí nằm ở trung tâm khu vực mậu dịch
tự do Trung Quốc – Asean, là cầu nối trong sự hợp tác Trung – Việt. Giao thông biên
giới Trung – Việt được gắn kết chặt chẽ bằng đường sắt, đường bộ và đường thủy. Hai
bên Trung Quốc – Việt Nam còn khai thông đường hàng không Nam Ninh – Hà Nội,
Côn Minh – Hà Nội, hình thành một mạng lưới tam giác vận chuyển hàng không.
Mạng lưới giao thông thuận lợi đã tạo ra điều kiện tốt để khu vực biên giới Trung –
Việt phát triển thành trung tâm du lịch.
Khu vực biên giới Trung – Việt còn có thị trường nguồn khách du lịch rộng lớn,
đa dạng. Đầu tiên, khu vực biên giới Trung – Việt có thị trường khách du lịch trong
nước Trung Quốc khổng lồ. Căn cứ vào số liệu thống kê, năm 2009 lần đầu tiên tỉnh
Quảng Tây đã tiếp đón 100 triệu lượt khách du lịch trong nước. Cùng với sự phát triển
nhanh chóng của khu vực Vịnh Bắc Bộ dưới sự hỗ trợ của các chính sách quốc gia,
ngành du lịch Quảng Tây cũng đang đạt được sự phát triển, trong tương lai sẽ thu hút
được nhiều khách du lịch trong nước đến tham quan, mà những khách này sẽ rất có
khả năng trở thành nguồn khách của khu du lịch văn hóa dân tộc xuyên quốc gia
Trung – Việt. Tiếp đó, khu vực du lịch biên giới Trung – Việt cũng sẽ đối mặt với thị
trường quốc tế rộng lớn trong khu vực Đông Nam Á. Đông Nam Á luôn là nơi chủ
yếu sản sinh ra lượng khách du lịch quốc tế đến Quảng Tây và Vân Nam. Những năm
gần đây, lượng khách du lịch từ Đông Nam Á đến Quảng Tây, Vân Nam tham quan
du lịch có xu hướng không ngừng tăng. Các quốc gia ở Asean dần phát triển trở thành
nơi có lượng khách nhập cảnh chủ yếu của tỉnh Quảng Tây, bên phía tỉnh Vân Nam
nhìn chung cơ bản cũng như vậy. Ngoài ra, khu vực du lịch biên giới Trung – Việt còn
có lượng khách lớn của thị trường khách du lịch ở các quốc gia thứ ba. Thị trường
khách du lịch của hai nước Trung – Việt chủ yếu đến từ Mỹ, Nhật Bản,…họ đều trở
thành nguồn khách của khu du lịch văn hóa dân tộc xuyên quốc gia Trung – Việt.
79
+ Các điều kiện thuận lợi bên ngoài
Bước vào thế kỉ 21 cho đến nay, nguồn tài nguyên du lịch văn hóa dân tộc xuyên
quốc gia hai nước Trung – Việt cũng đón tiếp được những cơ hội lịch sử và có được
các điều kiện thuận lợi từ bên ngoài.
Điều kiện về nới lỏng chính sách. Những năm gần đây, lãnh đạo hai nước Trung
– Việt hết sức coi trọng và ủng hộ việc hợp tác trong lĩnh vực du lịch. Năm 2000,
trong quá trình kí ―Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỉ mới giữa hai
nước Trung Quốc – Việt Nam‖, chính phủ hai nước đã đưa ra nội dung ―mở rộng hợp
tác du lịch; khích lệ việc tăng cường hợp tác, giao lưu trao đổi kinh nghiệm về mọi
mặt trong hai bộ du lịch như: quản lí, tuyên truyền, thị trường và nhân viên; ngoài ra
còn tạo điều kiện cho công dân hai nước và công dân nước thứ 3 đến Trung Quốc và
Việt Nam du lịch‖. Hai nước cũng đã đưa ra một loạt chính chính sách cùng có lợi
như: trao đổi nguồn khách du lịch, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực
du lịch. Tháng 5 năm 2008, Quảng Tây cùng một số tỉnh của Việt Nam là Hà Nội,
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng kí kết ―Bản ghi nhớ về hợp tác quản lí du lịch biên
giới Trung – Việt‖; năm 2009 tỉnh Vân Nam cũng đã kí kết 13 bản hiệp ước và ghi
nhớ về du lịch với 9 tỉnh miền Bắc của Việt Nam. Dưới sự nỗ lực chung của cả hai bên,
hợp tác du lịch biên giới hai nước Trung – Việt càng trở nên gắn bó, chặt chẽ hơn. Hội
thảo nghiên cứu hợp tác kinh tế xuyên quốc gia giữa Đông Hưng - Trung Quốc và
Móng Cái – Việt Nam đã được tổ chức vào ngày 14/9/2010 tại Hạ Long – Việt Nam.
Tại hội nghị hai bên đã kí ―Hiệp ước cùng nhau thúc đẩy hợp tác kinh tế xuyên quốc
gia trong khu vực Đông Hưng - Quảng Tây – Trung Quốc và Móng Cái - Quảng Ninh
– Việt Nam, điều này đã đem đến cơ hội lớn cho hợp tác du lịch xuyên quốc gia Trung
– Việt. Trong ―Một số ý kiến của Quốc vụ viện liên quan đến việc dẩy mạnh hơn nữa
phát triển kinh tế xã hội Quảng Tây‖ (công bố năm 2009- số 42) đã chỉ rất rõ: ―Dựa
vào thắng cảnh thác nước chung của hai quốc gia Sùng Tả - Đại Tân và cửa khẩu
Bằng Tường – Hữu Nghị để thiết lập khu hợp tác du lịch quốc tế Trung – Việt‖. Đây
80
chính là những điều kiện để cho hợp tác du lịch biên giới Trung – Việt bước vào giai
đoạn phát triển mang tính thực tế hơn.37
Hợp tác giữa Trung Quốc – Asean ngày càng hướng theo chiều sâu Cùng với sự
hình thành của khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – Asean, hợp tác du lịch biên giới
Trung – Việt ngày càng trở nên gắn bó, chặt chẽ hơn. Các cơ quan nghiệp vụ làm thủ
tục du lịch nước ngoài giữa hai nước được khởi động hoạt động lại. Đối với khách du
lịch Trung Quốc, Việt Nam còn khai thông 3 cửa khẩu ở biên giới Trung – Việt, 13
chợ biên giới, một vài chợ trao đổi mậu dịch và trung tâm du lịch. Trong khi đó Trung
Quốc – Asean không ngừng đi sâu hợp tác các tiềm năng du lịch. Các trường đại học
khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam đã liên kết với Việt Nam phái người đi học,
cùng nhau bồi dưỡng nhân tàicho cả hai phía. Hết lòng giúp đỡ, ủng hộ vì sự phát
triển của du lịch biên giới Trung – Việt. Tháng 12/2008, cục du lịch Trung Quốc đã
thành lập cơ sở bồi dưỡng giáo dục nhân tài du lịch Quảng Tây – Asean tại trường Đại
học dân tộc Quảng Tây và trường chuyên khoa Cao đẳng du lịch Quế Lâm, thu hút
được rất nhiều nhân viên quản lí du lịch và những học viên đến để học tập và giao lưu
với phía Việt Nam. Hiên nay, cơ sở đã được nâng cấp thành trung tâm bồi dưỡng giáo
dục nhân tài du lịch cấp quốc gia, và trung tâm sẽ không ngừng đào tạo những nhân
tài cho hợp tác du lịch song phương.
3.1.4 Quan hệ dân tộc với phát triển “Hai hành lang một vành đai kinh tế”
―Hai hành lang, một vành đai‖ do Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đưa ra
trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (5/2004) và đã được phía
Trung Quốc nhiệt tình hưởng ứng. Bản thông cáo chung đã ghi nhận việc hai bên nhất
trí thành lập tổ công tác thuộc Ủy ban hợp tác kinh tế liên chính phủ để xúc tiến vấn
đề này. Cho đến nay, hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh đã bước đầu được triển khai, trong khi việc xúc tiến những công việc cần
37 李骥山〃骥大骥〃骥中越骥境跨境民族文化旅游骥的开骥〃广西民族大学学骥〃2012 年
81
thiết để triển khai hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh và vành đai kinh tế vịnh Bắc bộ vẫn ở mức rất khiêm tốn.
Kế hoạch hợp tác ―2 hành lang 1 vành đai‖ là khuôn khổ phát triển kinh tế trong
một phạm vi lớn, kết hợp trục tung với trục hoành, đạt được sự giao lưu chưa từng có
trong bối cảnh văn hóa, kinh tế đa nguyên của khu vực, mang đến một diễn đàn lớn
hơn để bố trí tài nguyên trên diện rộng đạt được lợi thế bổ sung, mang đến cơ hội tốt
cho các nền văn hóa, kinh tế đơn nhất trước đây.
Tỉnh Vân Nam là một đầu cầu hành lang, rất nổi tiếng về du lịch, đặc biệt là tiềm
năng du lịch văn hóa các dân tộc thiểu số. Xây dựng chương trình ―2 hành lang 1 vành
đai‖ ở Vân Nam có thể tạo điều kiện để các sản phẩm du lịch được hòa nhập vào thị
trường, bù đắp cho những yếu tố còn khiếm khuyết khi xây dựng tuyến du lịch phía
Đông Vân Nam, để nâng cao khả năng cạnh tranh phát triển của ngành du lịch của
Vân Nam và phía Bắc Việt Nam. Bởi vì chương trình ―2 hành lang 1 vành đai‖ trong
phạm vi tỉnh Vân Nam, bao gồm tuyến đường sắt Vân Nam – Việt Nam, tuyến đường
quốc lộ Vân Nam – Việt Nam, và lưu vực sông Hồng chạy qua tỉnh Vân Nam, bao
gồm 4 thành phố Côn Minh, Ngọc Khê, Hồng Hà, Văn Sơn và 44 huyện, diện tích đạt
tới 101,2 nghìn km2, dân số lên tới 14,03 triệu người, trong đó có 25 dân tộc thiểu số
bao gồm: dân tộc Choang, dân tộc Miêu, dân tộc Dao, dân tộc Di, dân tộc Thái….
Khu vực này là nơi phát triển tương đối nhanh chóng ở Vân Nam đồng thời là nơi tập
trung tài nguyên du lịch của tình Vân Nam, có độ cao so với mực nước biển từ
600-4000m với khí hậu từ nhiệt đới đến nhiệt đới châu Á, ôn đới và hệ sinh thái động
thực vật phong phú. Toàn vùng là một bức tranh phong cảnh đẹp từ thung lũng đến
cao nguyên. Nơi đây có rừng nguyên sinh, núi cao vực sâu, hồ rộng, sông dài, cao
nguyên sông hồ, kì quan hang động, bao hàm rất nhiều đặc điểm sinh thái sinh động
và đa dạng của các dân tộc thiểu số, mang giá trị khai thác rất lớn. Trong khuôn khổ
―2 hành lang 1 vành đai‖ sẽ tiếp tục tiến hành phát triển mọi mặt, xây dựng hành lang
du lịch sầm uất có sức thu hút trên quốc tế.
Từ trước đến nay, mặc dù tài nguyên du lịch miền đông Vân Nam vẫn rất đa
82
dạng, nhưng do phát triển không mang tính quy mô, không có trọng điểm, luôn nằm
trong thực thể rời rạc, nhỏ, lẻ nên chưa thu hút được sự chú ý của thế giới. Rất nhiều
tài nguyên có giá trị lớn nhưng lại bị cất giấu nơi rừng núi heo hút. Ngành du lịch phía
Đông lạc hậu rõ ràng hơn bên phía Tây do thiếu giao lưu trao đổi quốc tế. Khi chương
trình phát triển kinh tế ―2 hành lang 1 vành đai‖ được thực thi thì cũng chính là lúc
ngành du lịch phía đông Vân Nam nắm lấy thời cơ để phát triển tốt nhất. Phương án
xây dựng được đưa ra là xây dựng các khu thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng, khu du
lịch di sản văn hóa như: ruộng bậc thang, nhóm sinh vật cổ hóa thạch, núi tuyết Kiều
Tử. Đồng thời dùng khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc và các thắng cảnh nổi
tiếng làm nội dung chính như: văn hóa dân tộc Di – Thạch Lâm, văn hóa dân tộc Thái
– núi Ai Lao, văn hóa dân tộc Choang – đập nước Phổ Giả Hắc… Cũng có thể xây
dựng tuyến du lịch văn hóa công nghiệp đặc sắc lấy văn hóa sản xuất đồ thiếc cũ và
sản xuất rượu nho Di Lặc ―Vân Nam đỏ‖. Vân Nam cũng có kế hoạch xây dựng tuyến
đường du lịch văn hóa lịch sử mang nội dung chính là khu văn hóa đường sắt Vân
Nam – Việt Nam, tuyến đường du lịch cửa khẩu biên giới với thẳng cảnh chính là Hà
Khẩu, Thiên Bảo, Kim Thủy Hà, tuyến đường du lịch thương mại biên giới mang nội
dung chính là phong cách giao lưu thương mại khu vực biên giới Trung – Việt.
Hơn nữa trong xã hội hiện nay, do ảnh hưởng bởi xu thế toàn cầu hóa, khắp thế
giới đều phải chịu sự chi phối của hội nhập kinh tế, văn hóa, vì vậy vấn đề bảo vệ và
kế thừa văn hóa các dân tộc thiểu số cũng được nhân dân các quốc gia rât coi trọng.
Tỉnh Vân Nam có nhiều dân tộc thiểu số lại tiếp giáp với 1 quốc gia nhiều dân tộc
thiểu số như Việt Nam thì trong khuôn khổ hợp tác ―2 hành lang 1 vành đai‖ luôn là
điểm sáng có sức thu hút. Nếu nắm bắt được hành lang văn hóa dân tộc biên giới, thì
rất có thể phát triển thành hành lang văn hóa du lịch đậm đà bản sắc dân tộc, đậm đà
bản sắc. Hành lang này sẽ có sức ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển ngành du lịch
phía Bắc Việt Nam và tỉnh Vân Nam. Hiện nay nhân dân hai nước vùng biên giới
chung sống hòa hợp, dân tộc thiểu số khu vực gần biên giới thân như một nhà nên hi
vọng thông qua việc thực thi chiến lược này tình hình biên giới hai nước sẽ được cải
83
thiện tốt hơn.
+ Xây dựng tuyến du lịch văn hóa lịch sử mang nội dung chính là khu văn hóa
đường sắt Vân Nam – Việt Nam.
Đường sắt Vân Nam – Việt Nam là tuyến đường sắt đầu tiên ra nước ngoài của
Trung Quốc, là tuyến đường sắt duy nhất của tỉnh Vân Nam, và cũng là một trong
những không nhiều tuyến đường sắt mà ―khoảng cách đường ray 1m‖ của Trung
Quốc. Tuyến đường sắt này bắt đầu từ Côn Minh – Nam Đình – Hà Khẩu của Trung
Quốc đến Lào Cai – Hải Phòng của Việt Nam. Đoạn đường sắt từ Hải Phòng đến Lào
Cai Việt Nam được gọi là ―đoạn Việt Nam‖, từ Hà Khẩu đến Côn Minh của tỉnh Vân
Nam Trung Quốc thì được gọi là ―đoạn Vân Nam‖. Sau đoạn Vân Nam là đoạn từ Hà
Khẩu qua Mông Tự - Bích Sắc Trại đến Khai Viễn. Năm 1910 toàn bộ tuyến đường
sắt Vân Nam – Việt Nam dài 855 nghìn mét, trong đó đoạn Vân Nam dài 466 nghìn
mét, đoạn Việt Nam dài 389 nghìn mét được khai thông.
Khai thông tuyến đường sắt Vân Nam – Việt Nam, đánh dấu sự khởi đầu của
Vân Nam giao lưu với nước ngoài trong thời cận đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa Vân Nam. Một mặt, nước Pháp thông qua tuyến
đường này để tiến hành xâm lược và cướp đoạt tài nguyên của Trung Quốc nhưng mặt
khác trên phương diện khách quan cũng đẩy nhanh quá trình mở cửa của Vân Nam.
Sau khi trải qua hàng trăm năm thăng trầm, đến nay tuyến đường sắt Vân Nam –
Việt Nam vẫn giữ được rất nhiều din tích của tuyến đường cũ, bến tàu cũ có thể coi là
những địa danh lịch sử còn lưu lại như: bến xe Bích Sắc Trại là bến tàu sớm nhất của
Trung Quốc, địa chỉ cũ của bưu biện Hà Khẩu là bưu điện sớm nhất của Trung Quốc,
địa chỉ cũ của hải quan Hà Khẩu là kiến trúc hải quan sớm nhất của Trung Quốc, địa
chỉ cũ của tô giới Mông Tự, khách sạn Ca Lư Sĩ, kho hải quan, công ty Đại Thông,….
vẫn còn được lưu giữ đến nay.
Đối với Trung Quốc, tuyến đường sắt Vân Nam – Việt Nam vẫn có giá trị văn
hóa lịch sử lớn vì là dấu hiệu văn hóa quan trọng để nhân dân trong và ngoài nước biết
đến Côn Minh, Vân Nam với tiềm năng văn hóa phong phú là điều dễ dàng trông thấy.
84
Tích cực khai thác giá trị văn hóa và giá trị du lịch của tuyến đường sắt Vân Nam –
Việt Nam mang một ý nghĩa hiện thực rất lớn, nó mang đặc trưng văn hóa lịch sử
riêng biệt mà vững chắc. Ngoài ra, dọc theo tuyến đường sắt này còn có rất nhiều làng
người Việt Nam. Những người này là hậu duệ của lớp người bị Pháp đưa sang để xây
dựng tuyến đường này. Chính họ cũng là một minh chứng sống động cho quan hệ dân
tộc xuyên biên giới Trung – Việt.
+ Xây dựng tuyến đường du lịch cửa khẩu biên giới với thắng cảnh chính là Hà
Khẩu, Thiên Bảo, Kim Thủy Hà.
Cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu là cửa khẩu chính trên hành lang Vân Nam – Việt
Nam, thuộc huyện Hà Khẩu, châu Hồng Hà, nối liền với cảng Lào Cai của Việt Nam.
Trong lịch sử nó là một trạm trung chuyển thương mại giữa Trung Quốc với các nước
Đông Nam Á và rộng hơn là các quốc gia trên thế giới, là bộ phận gắn kết thị trường
trong nước và thị trường quốc tế. Cửa khẩu Hà Khẩu là nơi có vị trí giao thông đường
thủy, đường bộ thuận lợi, là đầu mối giao thông quan trọng nối liền đường sắt, đường
bộ, đường thủy của Việt Nam với đường sắt Vân Nam, với đường giao thông trục Côn
– Hà (Côn Minh – Hà Khẩu), là con đường giao thông quốc tế ngắn nhất để phía Tây
Trung Quốc vào Đông Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Hiện nay nó là
cửa khẩu giao dịch buôn bán lớn nhất giữa Vân Nam và có thể nói là Tây Nam Trung
Quốc với Việt Nam, đồng thời là cửa khẩu có lượng hàng hóa xuất nhập khẩu cũng
như lượng khách du lịch xuất nhập cảnh lớn nhất hiện nay.
Cửa khẩu Thiên Bảo nằm ở trấn Thiên Bảo, huyện Ma Lật Pha châu Văn Sơn nối
liền với cửa khẩu Thanh Thủy Việt Nam. Là một trong những tuyến đường bộ chính
để Vân Nam vào Việt Nam và Đông Nam Á, Nam Á và cũng là địa bàn quan trọng để
liên kết khu thương mại tự do Trung Quốc – Asean. Thiên Bảo là một trong những
tuyến đường giao thông sang Việt Nam sớm nhất của Trung Quốc và cũng là một
trong những cửa khẩu mở cửa ra bên ngoài sớm nhất của Vân Nam. Trong thời Tống,
Nguyên, Minh, Thanh các thương nhân Trung Quốc – Việt Nam đã biết sử dụng bè
trúc, thuyền gỗ thông qua đường thủy để qua lại cửa khẩu Thiên Bảo. Phương tiện
85
giao thông này cho thấy lịch sử giao dịch thương mại Trung Quốc – Việt Nam ở khu
biên giới này tương đối sớm. Đầu thế kỉ trước, nơi đây cũng là một cửa khẩu quan
trọng để qua lại của Việt Nam với các tỉnh Điền (Vân Nam), Kiềm (Quý Châu),
Xuyên (Tứ Xuyên), Quế (Quảng Tây), Việt (Quảng Đông). Đến thời đương đại, có
thể nhận thấy đó là con đường thẳng nhất, ngắn nhất từ Vân Nam đến thủ đô Hà Nội
của Việt Nam. Hiện nay Trung Quốc vẫn đang tiếp tục xây dựng mạng lưới giao
thông đường thủy, đường bộ, đường hàng không nối liền các tỉnh miền Tây, nội địa
với cửa khẩu Thiên Bảo. Đường bộ sử dụng tuyến đường quốc lộ 323 để nối đất liền
với ven biển. Từ trung tâm châu Văn Sơn đến cửa khẩu Thiên Bảo rồi được nối thông
với quốc lộ số 2 của Việt Nam. Về đường hàng không, sân bay Văn Sơn là sân bay
quốc tế nội địa được nối liền với sân bay Côn Minh. Đường thủy được tạo boeri sự
liên kết của cảng Phú Ninh và cảng Phòng Thành Quảng Tây, nối liền các cảng trong
nước và cảng quốc tế. Như vậy khu vực mày có thể thực hiện được giao thông đi lại
cả trên bộ và trên biển giữa các nước.
Cửa khẩu Kim Thủy Hà nằm ở xã Na Phà, phía Nam huyện Kim Bình châu
Hồng Hà tiếp giáp với khu kinh tế cửa khẩu Ma Lù Thàng của Việt Nam, cách thành
phố Lai Châu 50 km trên quốc 12. Kim Thủy Hà cách Ma Lù Thàng một con sông
nhưng nay đã được nối liền bằng cây cầu Hữu Nghị Trung Quốc – Việt Nam. Đây là
tuyến đường chính từ Trung Quốc đến Điện Biên Phủ và các địa danh khác ở phía Tây
Việt Nam. Nơi có cửa khẩu là một thị trấn nhỏ và đẹp, hệ sinh thái bốn bề tươi tốt, cây
cối xanh tươi, thuộc khí hậu nhiệt đới châu Á, phong cảnh hữu tình. Nơi đây đã xây
dựng được ―con đường Hữu Nghị Trung Quốc – Việt Nam dành riêng cho người đi
bộ‖. Những năm gần đây mỗi năm một lần hai địa phương đều tiến hành tổ chức ―Hội
chợ thương mại và du lịch cửa khẩu Kim Thủy Hà‖, tập trung rất đông khách tham dự.
Năm 2004 lưu lượng người xuất nhập cảnh đạt đến hơn 100 nghìn người, lượng hàng
xuất nhập khẩu đạt trên 30 nghìn tấn.
Các cặp cửa khẩu Hà Khẩu- Lào Cai, Thiên Bảo – Thanh Thủy, Kim Thủy Hà –
Ma Lù Thàng là nơi mở của ra bên ngoài của Vân Nam, là cầu nối của Trung Quốc
86
hướng đến Đông Nam Á, Nam Á thông qua Việt Nam, là bến trung chuyển, nơi tập
hợp giao thông, giao lưu hàng hóa, giao lưu văn hóa mang tầm cỡ quốc tế, là những
điểm sáng trong chương trình ―2 hành lang 1 vành đai‖ của khu biên giới Trung – Việt,
mang đặc điểm của các cặp cửa khẩu hiện đại, đặc trung của khu vực biên cương. Mặt
khác tại các khu vực này cũng mang nhiều nét văn hóa đặc trưng, nhất là những nét
văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số có mối quan hệ xuyên biên giới tạo ra
tiềm năng phát triển cho cả khu vực nhất là trên lĩnh vực du lịch dân tộc.
+ Xây dựng con đường du lịch thương mại biên giới mang nội dung chính là
phong cách thương mại biên giới Trung – Việt.
Cùng với việc thực hiện các kế hoạch như: thành lập khu thương mại tự do
Trung Quốc – Asean, triển khai hợp tác khu vực sông Lan Thương – sông Mêkong,
xây dựng tuyến đường quốc lộ nối liền Trung Quốc với Đông Nam Á, Nam Á, sự
thuận lợi về vị trí địa lý của cửa khẩu càng nổi rõ hơn khi tốc độ phát triển thương mại
biên giới càng được đẩy mạnh. Rất nhiều thương nhân trong và ngoài nước đến kinh
doanh mở doanh nghiệp, thành lập công ty, cửa hàng buôn bán và chính những hoạt
động này đã xây dựng lên một thị trường chung của nhân dân biên giới 2 nước. Nhiều
nhà sản xuất cũng đến để kinh doanh, trong đó cũng có cả người dân tộc thiểu số, họ
mặc các trang phục dân tộc khác nhau, buôn bán các sản phẩm đặc trưng của dân tộc
mình, hình thành một thị trường cảnh sắc hết sức độc đáo. Thị trường chung ở biên
giới đã minh chứng cơ cấu phát triển mọi mặt như: thương mại tiểu ngạch, thương
mại chế biến, thương mại tổng hợp, thương mại qua biên giới, hợp tác kinh tế kĩ
thuật… tại khu vực này.
Chính vị trí địa lí tự nhiên của các cặp cửa khẩu Hà Khẩu- Lào Cai, Thiên Bảo –
Thanh Thủy, Kim Thủy Hà – Ma Lù Thàng và hình thức buôn bán trao đổi của cả hai
bên đã thu hút rất nhiều các nhà đầu tư của Quảng Tây, Giang Tây, Quảng Đông, Côn
Minh, Ma Cao. .. hình thành một thị trường thương mại biên giới phát triển tương đối
ổn định có đặc điểm hoạt động thương mại sôi nổi, tối ưu hóa cơ cấu, hàng hóa đa
dạng,…Hà Khẩu, Thiên Bảo, Kim Thủy Hà là đoạn đường tập trung thương mại biên
87
giới Trung – Việt, thị trường buôn bán tương đối nhiều, phạm vi hàng hóa rộng, là
cảnh quan nhân văn lớn của ―vành đai hành lang‖ biên giới Trung – Việt, mang đến
một phong cách dân tộc xuyên quốc gia có đặc điểm thương mại biên giới.
3.2 Các xu hƣớng về mối quan hệ giữa các dân tộc ở vùng biên giới
Trung-Việt
Hiện nay, quan hệ tộc người ở vùng biên giới vẫn tiếp tục phát huy các giá trị
truyền thống, nhưng đã vượt ra ngoài phạm vi vùng, phạm vi quốc gia và ngày càng
trở nên phức tạp, đang chịu tác động từ nhiều yếu tố. Đó là quan hệ trong nội bộ tộc
người hay giữa các tộc người liên quan đến địa bàn cư trú với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng. Quan hệ dân tộc, đồng tộc qua biên giới và quan
hệ liên vùng giữa các tộc người, đồng tộc ở các tỉnh miền biên giới Trung – Việt với
khu vực khác nằm sâu trong nội địa của mỗi nước. Đồng thời quan hệ quốc tế trong
tương lai và bố cục thế giới mới chắc chắn sẽ tác động nhất định đến các tộc người
xuyên quốc gia Trung-Việt. Hình thái ý thức của chủ nghĩa tư bản phương Tây cũng
thâm nhập và làm nhiễu, nhất định sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho quan hệ dân tộc
xuyên biên giới Trung-Việt.
Các thế lực thù địch sẽ thực hiện nhiều biện pháp nhằm ức chế hoặc li gián quan
hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh để hạn chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Phong trào nhất thể hóa kinh tế toàn cầu nhất định sẽ gây ảnh hưởng cho tiến trình
hiện đại hóa của các dân tộc xuyên biên giới Trung-Việt. Mưu mô của phương Tây
thúc đẩy nhất thể hóa văn hóa và nhất thể hóa giá trị quan của chủ nghĩa tư bản với lý
do kinh tế toàn cầu nhất thể hóa, cũng sẽ gây tác động cho các tộc người xuyên quốc
gia ở vùng biên giới Trung-Việt. Đối với những vấn đề này, đòi hỏi Trung Quốc và
Việt Nam phải nghiên cứu nghiêm chỉnh và có những giải pháp phù hợp.
Mặc dù các tộc người xuyên quốc gia ở vùng biên giới Trung-Việt phải đương
đầu với nhiều tác động xấu có thể đến từ bên ngoài, nhưng trước mắt hai nước Trung
Quốc và Việt Nam đều tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ toàn vẹn
88
chủ quyền đất nước. Trước mắt hai nước Trung Việt đều do đảng cộng sản lãnh đạo,
cùng một ý thức hệ vì vậy, khả năng chia rẽ làm cho quan hệ hai nước xấu đi là rất nhỏ.
Trong thời gian dài sắp tới, hai nước Trung-Việt đều cần có mối quan hệ hữu nghị, hài
hòa để phát triển kinh tế. Mô thức phát triển xã hội kinh tế tương đồng lại càng đòi hỏi
hai nước phải tăng cường giao lưu và hợp tác với nhau. Mối quan hệ giữa Trung Quốc
và Việt Nam cần thiết phải là quan hệ bình đẳng cùng có lợi, láng giềng hữu nghị,
hợp tác tích cực, cùng nhau phát triển.
Trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc và Việt Nam quốc lực tổng hợp không
ngừng tăng trưởng, sức tiêu thụ trong nhân dân không ngừng tăng lên vì thế tác động
của bên ngoài sẽ ngày càng nhỏ đi. Hơn nữa với các chiến lược ―Đại khai phát miền
Tây‖ hay ―Hưng biên phú dân‖ của Trung Quốc cũng như chương trình 135 xóa đói
giảm nghèo đã thực hiện qua 2 giai đoạn tạo ra một cuộc sống mới, ổ định, hài hòa
cho các tộc người xuyên quốc gia của TQ và Việt Nam. Có thể nói đây là một mô thức
―cư trú xuyên quốc gia hoà bình‖ đặc biệt, theo quan hệ của hai nước và sức kiểm soát
của nhà nước lại càng được tăng cường. Sự ―phát triển hòa bình‖ của mô thức này,
chắc chắn về lâu dài vẫn đem lại sự phát triển hoà bình trong các tộc người cuyến
quốc gia. Đồng thời với mối quan hệ hữu hảo này cũng sẽ dập tắt mọi mưu đồ liên kết
hoặc chia rẽ từ nội bộ các tộc người xuyên quốc gia của các thế lực thù địch. Quan hệ
hợp tác hữu nghị truyền thống giữa 2 quốc gia và sự sáng suốt của đảng và chính phủ
hai nước, cũng là một điều kiện hết sức quan trọng để đề phòng vấn đề tộc người
xuyên quốc gia trở nên gay gắt. Sau đây là những vấn đề có khả năng sẽ trở thành xu
hướng chính trong sự phát triển của các tộc người xuyên quốc gia Trung-Việt.
3.2.1 Xã hội truyền thống dần chuyển sang xã hội hiện đại
Học giả Kim Diệu Cơ người Đài Loan cho rằng: ―Nếu mô thức hành vi của một
xã hội đời trước truyền cho đời sau, ít khi có thay đổi, thì là một xã hội truyền thống.
Không phải là pháp luật mà là phong tục tập quán chi phối hành vi, kết cấu xa hội có
tính giai cấp. Địa vị cá nhân trong xã hội thông thường là kế thừa đời trước, chứ
89
không coi trọng năng lực cá nhân. Lực lượng sản xuất dưới trạng thái truyền thống
như vậy tạo ra một thực trạng kinh tế rất thấp. ‖ 38
Ở vùng biên giới Trung Việt, hiện nay vẫn tồn tại quan hệ sản xuất theo xã hội
truyền thống như quan điểm của ông Diệu, trong khi đại đa số các nơi khác đã cơ bản
thay đổi theo quan hệ sản xuất mới. Thí dụ tại vùng biên giới của Trung Quốc, nhiều
địa phương huyện lị của các huyện đều chuyển đóng ở những vị trí trung tâm, thuận
tiện giao thông nghĩa là các huyện lị đã được thành phố hóa. Thậm chí một số thôn,
thị trấn cũng đã có thay đổi cơ bản như vậy. Trong thôn đã có đường bằng rộng, nhân
dân đã có các loài xe hiện đại, có điện thoại, ti vi, rạp chiếu bóng v.v. Ngay cả trang
phục, người trẻ đã mặc nhiều quần áo hợp thời trang, ít dùng trang phục truyền thống
của dân tộc mình. Chưa phải là phổ biến nhưng ở nhiều dân tộc một số các bạn trẻ
thậm chí không biết nói tiếng dân tộc mình. Chỉ ở vùng sâu vùng xa, chúng ta mới có
thể tìm thấy hình ảnh của xã hội truyền thống nhưng nhiều phong tục tập quán, ngôn
ngữ văn hóa cũng chỉ tìm thấy và được bảo tồn ở những lão trung niên.
Tuy tình hình đô thị hóa ở Việt Nam khác với Trung Quốc nhưng vào thăm các
làng dân tộc thì ở chỗ nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy các sản phẩm thời khoa học
hiện đại. Trong một hộ người Hà Nhi ở tỉnh Hà Giang khi đi điền dã chúng tôi còn
nhìn thấy một áp phích có ngôi sao Hồng Kông Lưu Đức Hoa. Có thể nói có thể nhìn
thấy văn minh hiện đại đang có sự va đập hàng ngày với xã hội truyền thống. Hiện
nay, cả Trung Quốc và Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng kinh tế. Cùng với
xu hướng chung kinh tế của các nước không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu nhất
thể hóa của kinh tế thế giới thì tất yếu vùng sâu vùng xa của hai nước cũng phải
chuyển dần từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Đây là xu hướng chính trong
sụ phát triển tương lai của quan hệ dân tộc xuyên quốc gia Trung-Việt.
Một số mặt biến đổi mang tính tiêu biểu khi xã hội dân tộc thiểu số xuyên quốc
gia ở vùng biên Trung-Việt đang trong quá trình từ truyền thống hướng đến hiện đại,
90
chủ yếu thể hiện qua mấy tiêu chí sau: 38 金骥基著“从骥骥到骥代”〃中国人民大学出版社〃1999 年版
+ Pháp luật ràng buộc hành vi của con người
Ngày xưa, vùng biên giới Trung-Việt, xã hội của các dân tộc thiểu số, ít hoặc
nhiều đều có tập tục truyền thống của dân tộc mình, hoặc có thể nói là các dân tộc
đều xuất phát từ phong tục tập quán của mình để giải quyến vấn đề tranh chấp trong
làng. Những phong tập tục này đều lấy đạo đức, văn hóa tập quán làm hành vi tiêu
chuẩn, họ không quan tâm tới phát luật hoặc nguyên tắc của nhà nước như thế nào.
Nhưng hiện nay cho dù là dân tộc nào cũng đều phải tuân theo pháp luật nhà nước,
tiêu chuẩn qui phạm của nhà nước hoặc là của cộng đồng xã hội chung. Chính việc
tuân theo pháp luật, tiêu chuẩn qui phạm có ảnh hưởng tới hành vi và tập tục của các
dân tộc thiểu số.
Thí dụ: năm 2014 tại làng dân tộc La Hù huyện Kim Bình tỉnh Vân Nam, có một
sự kiện ―chú rể Điều Kháo Văn 16 tuổi và cô dâu Lưu Vân 14 tuổi tảo hôn‖ gây ra
một sự kiện thu hút dư luận xã hội Trung Quốc quan tâm. Nguyên nhân bởi huyện
Kim bình nằm ở vùng biên giới Trung-Việt, là một trong 73 huyện nghèo của Vân
Nam, có 9 dân tộc như dân tộc Miêu, Dao, Thái, Hà Nhì v.v. Hiện tượng ―Tảo Hôn‖
rất phổ biến tại đây bởi ảnh hưởng nặng nề của phong tục tập quán, điều kiện kinh tế
và trình độ văn hóa của nhân dân ở địa phương v.v… Phóng viên điều tra tại các cơ
sở y tế, cơ quan bảo vệ sức khẻo phu nữ nhi đồng huyện Kim Bình được Viện trưởng
Lý Mông Doanh cho biết: ― năm 2011 cả huyện Kim Bình có 128 sản phụ chưa thành
niên, nhưng từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2014 chỉ còn 32 sản phụ dưới 18
tuổi. Sản phụ chưa thành niên đúng là do ảnh hưởng của phong tục tấp quán dân tộc.
Ví dụ là tục xưa của tộc Miêu là con gái nên lấy chồng từ 13,14 tuổi, ít người có ý
thức kết hôn theo luật hôn nhâncủa nhà nước. Hiện nay tuy đã có cải thiện, nhưng vẫn
tồn tại hiện tượng tảo hôn.‖ Thực tế, ngày càng nhiều thanh niên Kim Bình không
muốn theo phong tục, tự giác không muốn tảo hôn bởi những nguyên nhân như học
tập, công việc v.v… Phóng viên điều tra tại 4 thôn, 10 trại, tiếp xúc với thanh niên
thuộc 7 dân tộc, kể cả dân tộc La Hù, nhiều người bảy tỏ: hiện nay phần lớn thanh
91
niên Kim Bình phổ biến 20 mấy tuổi mới lấy chồng lấy vợ. Nhiều thanh niên dân tộc
thiểu số đã biết rõ ràng về ―pháp luật hôn nhân‖ 39 Trung Quốc quy định con trai 22
tuổi, con gái 20 tuổi kết hôn mới hợp pháp do thường xuyên có cán bộ chuyên trách
phổ biến kiến thức liên quan tới pháp luật quốc gia.
+ Địa vị xã hội của cá nhân do năng lực bản thân quyết định.
Trong xã hội truyền thống của các dân tộc xuyên quốc gia ở vùng biên giới
Trung-Việt, ngày xưa lãnh đạo của làng, của họ tộc và có khi của cả dân tộc, thông
thường đều là ―cha truyền con nối‖. Trong xã hội truyền thống, một người muốn
thông qua năng lực của mình để giành được địa vị trong xã hội hầu như là một việc
không dám và không thể thực hiện. Thông thường địa vị xã hội của cá nhân cũng do
địa vị của dòng họ quyết định.Nhưng trong xã hội hiện nay, nỗ lực và năng lực sẽ tạo
cho cá nhân có địa vị thích đáng trong xã hội và có xu thế thắng những ràng buộc
của phong tục.
+ Phong tục bắc buộc thông hôn với người dân tộc mình dần dần bị phá bỏ.
Nhiều dân tộc thiểu số có những kiêng kị về thông hôn, cụ thể là không cho phép
thông hôn với dân tộc khác. Hiện nay theo trào lưu phát triển chung, quan hệ giao lưu
giữa các dân tộc thiểu số ngày càng rộng rãi, điều kiện trao đổi tiếp xúc ngày một
nhiều và thuận lợi, tri thức xã hội được nâng lên thì những kiêng kị này không thể
ràng buộc thanh niên nam nữ. Nhất là ngày nay họ đã nhận thức được có những công
trình khoa học phát hiện thông hôn với người dân tộc mình hay đẻ con thiểu năng
hoặc sức khỏe yếu. Hiện nay một số dân tộc đã phá bỏ kiêng kị thông hôn này. Giới
trẻ đã coi truyền thống này là gánh nặng. Cho đến nay, dân tộc Di Đen là một nhóm
của dân tộc Di, vẫn yêu cầu nghiêm khắc chỉ có thể thông hôn với tộc Di đen, bởi vì
Di Đen là giai cấp quý tộc trong xã hội dân tộc Di nên họ không muốn thông hôn với
dân tộc khác. Ngoài ra cũng còn một số dân tộc chưa thay đổi tập tục này. Thí dụ như
thông qua điều tra 3 huyện có dân tộc Ngõa của Vân Nam, chỉ có huyện Thương
39 http://www.yn.xinhuanet.com/nets/2014-12/09/c_133842647.htm〃Tân Hoa Xã
92
Nguyên là có trường hợp thông hôn Ngõa – Hán còn hai huyện khác đều là thông hôn
nội gộ dân tộc Ngõa.40
+ Kết cấu gia đình từ từ thu hẹp
Ngày xưa các dân tộc thiểu số đều coi gia đình lớn theo ý tưởng quần tụ, tam tứ
đại đồng đường làm chính. Nhưng đến hiện nay, theo kinh tế phát triển, gia đình
truyền thống lớn với cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh tế có nhiều hạn chế. Vì thế, gia đình
liên hợp lớn đang bị gia đình hạch tâm thay thế.
+ Rào cản địa lý và văn hóa bị dỡ bỏ
Trong quá trình phát triển, cùng với sự tăng nhanh của kinh tế sẽ kéo sự thay đổi
theo xu hướng tích cực của hạ tầng giao thông. Khi giao thông phát triển các dân tộc
thiểu số có thể giao lưu hoặc buôn bán thuận lợi hơn với các dân tộc khác và cũng có
xu thế hướng ra thế giới bên ngoài. Đồng thời, các cá nhân của các dân tộc khác lại có
xu hướng tìm vào, thâm nhập vào xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số. Chính vì vậy,
tất yếu tạo ra tình huống các dân tộc có giao lưu văn hóa học tập lẫn nhau. Kinh tế
phát triển giúp cho các phương tiện giao thông hiện đại cũng có điều kiện xuất hiện ở
vùng này. Hợp tác kinh tế và giao lưu văn hóa giữa các dân tộc không ngừng tăng
cường, đã trở thành một xu thế không thể ngăn cản hiện nay.
3.2.2 Sự tăng cƣờng ý thức quốc gia và sự suy yếu của ý thức dân tộc
Với xu thế kinh tế phát triển và toàn cầu hóa kinh tế xã hội truyền thống có xu
hướng dần dần tan rã bởi nhiều nguyên nhân. Xã hội toàn cầu hóa, hiện đại hóa kinh
tế làm cho thể chế chính trị nhà nước với lực lượng tổng hợp của nhà nước không
ngừng lớn mạnh. Đồng thời hệ thống luật pháp quốc tế trên toàn thế giới đều tôn trọng
lãnh thổ của các quốc gia nên biên giới quốc gia sẽ là khái niệm thường xuyên và in
đậm trong mỗi cư dân của vùng biên giới. Nội bộ dân tộc nhất là các dân tộc có quan
hệ xuyên biên giới nói chung và biên giới Trung Việt nói riêng với văn hóa truyền
40 骥戎〃中国各民族之骥的族骥通婚
93
thống của họ sẽ bị đường biên giới chia thành hai bờ, hai bên và tất nhiên xuất hiện xu
thế phát triển khác nhau. Một điều tất yếu nếu có thì giao lưu văn hóa truyền thống
cũng từ từ chuyển thành giao lưu văn hóa chính trị. Quá trình này có thể nói là quan
hệ văn hóa dân tộc sẽ phát triển theo hướng quan hệ dân tộc chính trị tức là ý thức
quốc gia không ngừng tăng cường. Cũng có thể nói là văn hóa dân tộc quá độ chuyển
thành văn hóa chính trị dân tộc, kết quả là ý thức dân tộc và ý thức quốc gia kết hợp và
sẽ phát triển đậm nét và sẽ lấn át ý thức dân tộc.
Đối với quan hệ dân tộc biên giới Trung-Việt mà nói, trong thời kỳ phong kiến
đế quốc, các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới về địa lí là xa với trung tâm chính trị
nhà nước, các dân tộc cũng không có ý thức mãnh liệt nhằm giành được vật chất hỗ
trợ từ nhà nước. Cũng có thể nói là, các dân tộc ít người ở vùng biên Trung-Việt tự
mình lo cuộc sống và biện pháp chính là du canh du cư cho dù về địa lí là di cư sang
nước ngoài. Nhiều tình huống nguyên nhân lại là sự áp bức của giai cấp thống, họ
thấy rất rõ là không thể đòi hỏi lợi ích vật chất từ trung tâm hoàng quyền. Chính vì thế
các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới trong thời xưa hình thành phương thức sống kiểu
di cư không ổn định. Điều này cũng tạo tiền đề để họ hình thành ý thức chỉ có dựa vào
đồng tộc cùng nguồn gốc, cùng máu mới có thể sống được. Không những họ di
chuyển, mà còn di cư sang nước ngoài, vì đã thành thói quen quan hệ giao lưu đồng
tộc và hỗ trợ nhau làm mô thức chủ yếu, khiến các dân tộc thiểu số vùng biên không
có tư duy thuộc về nhà nước. Tuy nhiên nhà nước là tồn tại khách quan, nhu cầu của ý
thức quốc gia không ngừng tăng cường. Cho dù là dân tộc xuyên quốc gia hay là các
dân tộc khác cũng đều phải đối mặt với sự lựa chọn nhưng thống nhất, tức là toàn
quốc phải có ý thức thống nhất về lãnh thổ quốc gia, là văn hóa truyền thống.
Hơn nữa, với chủ trương hiện nay các chính sách nhất là chính sách với vùng
biên cũng quan tâm nhiều đến những vấn đề như ý thức quốc gia của quần chúng
nhân dân giúp cho bà con nhất là các dân tộc có quan hệ xuyên quốc gia của Trung
Quốc -Việt Nam có ý thức quốc gia rõ rệt. Đồng thời nhà nước để bảo vệ lãnh thổ chủ
quyền quốc gia, biên cương an ninh v.v. cũng có nhiều chính sách, chế độ xã hội mới
94
để bảo vệ biên cương và trên thực tế người vùng biên giới đã được thụ hưởng nhiều
lợi ích thiết thực từ quá trình này. Chính các chính sách đem lại hạnh phúc cho nhân
dân biên giới của hai nước đã tạo ra tâm lí tự hào về quốc gia trong nhân dân. Điều tất
yếu khi ý thức quốc gia mạnh lên thì ý thức dân tộc sẽ bị ảnh hưởng, nhất là khi nhà
nước có nhiều chính sách giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số có cuộc sống ổn định,
khá giả.
3.2.3 Mối quan hệ và sự liên hệ của văn hóa trong nội bộ dân tộc suy yếu
dần và chuyển sang quan hệ kinh tế và quan hệ văn hóa chính trị
Hiện nay, qua thực tế điền dã nhiều học giả đều nhận thấy đối với các hoạt động
tương trợ giúp đỡ trong nội bộ các dân tộc xuyên quốc gia Trung-Việt có thể cảm
nhận thấy ý thức nội bộ dân tộc đã mờ nhạt hơn trước nhiều. Hiện nay tộc người ít khi
nhắc đến khái niệm ―đây là của dân tộc‖ trong giao lưu mua bán và giao lưu văn hóa
thường ngày. Hiện nay nhiều khi người biên giới Trung-Việt khi hỏi thăm nhau thuộc
dân tộc gì thì không pjari với mục đích đẻ tìm người đồng tộc nhằm tạo quan hệ người
với người thân thiết hơn mà mục đích chính là có thể đạt được mục tiêu buôn bán
thuận lợi hơn. Trong lòng người biên giới hai bên đều hiểu biết rõ ràng, tuy thuộc một
dân tộc, nhưng là thuộc quốc gia khác nhau. Văn hóa tương đồng chỉ là giúp đỡ trao
đổi thuận lợi hơn với nhau, nhưng không mong mang lại lợi ích khác cho mình. Nếu
quan hệ của hai nước không bình thường, thì quan hệ dân tộc cũng khó khăn.
Các học giả Trương Hàn và Cốc Gia Vinh điều tra tại làng biên giới dân tộc Dao
ở huyện Sapa tỉnh Lào Cai Việt Nam, gần với huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà Trung
Quốc đã ghi nhận: văn hóa tập quán của giới trẻ đã khác nhiều với người lớn tuổi.
Nhiều thanh niên Dao ở thôn vùng biên Việt Nam không những không còn giữ thói
quen đi thăm nhà người thân ở vùng biên Vân Nam mà tâm lý và ý thức sống vốn có
cùng nguồn gốc cũng đã mờ nhạt. Vì thế họ ít khi đi với bậc trên, lớn tuổi và cũng ít
tham gia vào hoạt động đi dự các buổi cúng giỗ xuyên biên giới. Tuy văn hóa truyền
thống dần dần mờ đi, nhưng nhu cầu kinh tế lại trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy
95
thanh niên hai bên giữ quan hệ đi lại. Khi hỏi thanh niên lý do hay đi lại Hà Khẩu là gì,
đa số đều trả lời: ― Muốn tìm hỏi tình hình buôn bán bên Trung Quốc như thế nào với
những người quen.‖ Rõ ràng thói quen của người lớntuổi như ―hay đi thăm người
thân‖ đã mờ dần ở người trẻ. 41 Chính vì vậy, đời sống xuyên biên giới của người dân
ở vùng biên, đã bị văn hóa kinh tế chính trị thay thế văn hóa bản sắc dân tộc từ xa xưa.
Hiện nay giao lưu văn hóa dân tộc biên giới Việt-Trung đang có điều kiện phát triển,
nhưng phần lớn là dựa vào các hoạt động quan phương kể cả giao lưu văn hóa truyền
thống giữa các dân tộc xuyên biên giới. Hai bên đều mong muốn có thể thông qua văn hóa
tương đồng của các dân tộc thiểu số, tỉnh cảm cùng nguồn gốc của các dân tộc thiểu số để
xây dựng quan hệ biên giới ổn định hữu nghị, bảo vệ an ninh vùng biên. Tăng cường tình
hữu nghị của hai nước, tạo lợi ích lớn nhất cho thị trường mậu dịch biên giới Trung-Việt,
làm cho vùng biên cả hai nước có phát triểnhơn là mong muốn chung của hai nước
Trumng- Việt.
Hơn nữa thực tế cũng cho thấy, khi ý thức dân tộc dần dần đi gần với ý thức quốc gia,
mà ý thức dân tộc đang mờ nhạt đi thì quan hệ nội bộ dân tộc xuyên quốc gia ở vùng biên
Trung-Việt cũng từ từ bị quan hệ dân tộc chính trị của hai nước thay thế. Cho nên, các dân
tộc xuyên quốc gia ở vùng biên giới Trung-Việt cùng nguồn gốc cùng văn hóa, từ từ sẽ bị
quan hệ kinh tế và quan hệ văn hóa chính trị giữa các dân tộc khác nhau thay thế.
Tiểu kết chƣơng 3
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các
nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Với một quốc gia đa dân tộc như Việt
Nam và Trung Quốc, trong phát triển du lịch thì xây dựng làng du lịch là một vấn đề cần
được quan tâm. Làng du lịch là trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, mang tính quốc gia,
nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác các di sản văn hóa truyền thống của các
dân tộc, là một trung tâm du lịch, dịch vụ, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí có quy mô lớn, đồng
41 骥含〃谷家荣〃社会互骥与滇越骥民国家骥同研究〃云南民族大学学骥〃2012 年 29 卷第一
期
96
bộ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khai thác các lợi thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên
nhiên tạo động lực cho sự phát triển bền vững. Trong khuôn khổ ―2 hành lang 1 vành đai‖,
Tỉnh Vân Nam là một đầu cầu hành lang, rất nổi tiếng về du lịch, đặc biệt là tiềm năng du
lịch văn hóa các dân tộc thiểu số. Xây dựng chương trình ―2 hành lang 1 vành đai‖ ở Vân
Nam có thể tạo điều kiện để các sản phẩm du lịch được hòa nhập vào thị trường, bù đắp cho
những yếu tố còn khiếm khuyết khi xây dựng tuyến du lịch phía Đông Vân Nam, để nâng
cao khả năng cạnh tranh phát triển của ngành du lịch của Vân Nam và phía Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên quan hệ quốc tế trong tương lai và bố cục thế giới mới chắc chắn sẽ tác động
nhất định đến các tộc người xuyên quốc gia Trung-Việt nhưng trước mắt Trung Quốc và Việt
Nam đều tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước.
Hai nước đều do đảng cộng sản lãnh đạo, cùng một ý thức hệ vì vậy, khả năng chia rẽ làm cho
quan hệ hai nước xấu đi là rất nhỏ. Trong thời gian dài sắp tới, Trung-Việt đều cần có mối
quan hệ hữu nghị, hài hòa để phát triển kinh tế. Mô thức phát triển xã hội kinh tế tương đồng
lại càng đòi hỏi hai nước phải tăng cường giao lưu và hợp tác với nhau. Mối quan hệ giữa
Trung Quốc và Việt Nam cần thiết phải là quan hệ bình đẳng cùng có lợi, láng giềng hữu nghị,
hợp tác tích cực, cùng nhau phát triển.Những vấn đề có khả năng sẽ trở thành xu hướng chính
trong sự phát triển của các tộc người xuyên quốc gia Trung-Việt: Xã hội truyền thống dần
chuyển sang xã hội hiện đại. Sự tăng cường của ý thức quốc gia trong cộng đồng dân tộc
thiểu số và sự suy yếu của ý thức dân tộc. Mối quan hệ và sự liên hệ của văn hóa trong nội bộ
dân tộc từ từ yếu dần và chuyển sang quan hệ kinh tế và quan hệ văn hóa chính trị.
KẾT LUẬN
Viêt Nam và Trung Quốc đều là quốc gia đa dân tộc với nhiều dân tộc anh em
cùng chung sống. Một trong những đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số ở cả hai
nước là đồng bào thường sống thành từng khu vực và có sự đan xen giữa các dân tộc
trên các vùng núi cao. Có rất nhiều tộc người nằm ở vùng biên Trung-Việt, Trung
Quốc có 13 dân tộc, Việt Nam có 26 dân tộc. Tỉnh Vân Nam Trung Quốc và tỉnh Lào
Cai và, tỉnh Hà Giang của Việt Nam là nơi các dân tộc thiểu số sống chung tương đối
97
nhiều. Giữa 3 tỉnh này có nhiều dân tộc thiểu số xuyên biên giới, họ cùng nguồn gốc
nên có văn hóa, phong tục tập quán tương đồng.
Ở vùng biên giới Trung-Việt xưa nay, cho dù là thiên tai hay địch họa, miễn là
người dân cần giúp đỡ thì bà con dân tộc của nước bạn đều dốc sức viện trợ và hỗ trợ
tích cực về tinh thần cũng như vật chất. Kể cả thời kỳ quan hệ Trung-Việt căng thẳng,
quan hệ đi lại dân gian giữa vùng biên hai nước đều chưa bao giờ gián đoạn mà trên
thực tế chính quyền địa phương hai nước cũng không ngăn chặn được.
Xu thế hiện nay- toàn cầu hóa kinh tế cũng có tác động tích cực và tiêu cực cho
quan hệ dân tộc thiểu số ở vùng biên Trung-Việt. Tích cực là mở rộng quan hệ vùng
biên, phát triển kinh tế vùng biên, tăng thêm thu nhập người vùng biên, cải thiện mực
sống của người vùng biên, tăng cường ý thức quốc gia của người vùng biên. Tiêu cưc
là tình hình không đồng đều, thiếu cân đối của hiện đại hóa kinh tế gây ra chênh
lệnh thu nhập giữa vùng biên giới với vùng khác trong nước, dễ xảy ra tâm lí không
ổn định gây xáo trộn ở vùng biên.
Thông qua tìm hiểu quan hệ đồng bào ít người vùng biên với đồng tộc, với dân tộc
khác và quan hệ dòng họ, phân tích 4 yếu tố quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến quan
hệ dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt là phong tục tập quán, tôn giáo tín
ngưỡng, chính sách của hai nước và kinh tế thì quan hệ dân tộc, phong tục tập quán
dân tộc có ảnh hưởng lẫn nhau rõ ràng nhất. Cho thấy, trong môi trường uống chung
nước 1 dòng sống, chặt chung củi một ngọn núi, đi chung một con đường, đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc người dân vùng biên giới thăm hỏi lẫn nhau, buôn bán mậu
dịch, giao lưu qua lại những ngày nghỉ ngày lễ. Chính những hoạt động này khiến cho
nhân dân hai nước tiếp xúc với nhau nhiều hơn, hiểu biết về nhau nhiều hơn. Cho nên
họ có liên hệ chặt chẽ với nhau về mọi mặt như kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán
v.v. Nhìn chung, các dân tộc vùng biên giới Trung-Việt dựa vào cơ sở tình cảm dân
tộc, ý thức tâm lý do văn hóa tương đồng và vị trí địa lý để gìn giữ quan hệ đi lại lâu
dài. Các quan hệ này trong những năm gần đây có tác động thúc đẩy tích cực do kinh
tế phát triển, lại càng làm cho quan hệ xã hội giữa các dân tộc thiểu số vùng biên phát
98
triển thuận lợi, thậm chí tác động cả đến phát triển quan hệ hữu nghị của hai nước.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ
ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Với một quốc gia đa dân tộc
như Việt Nam và Trung Quốc, trong phát triển du lịch thì xây dựng làng du lịch là một
vấn đề cần được quan tâm. Làng du lịch là trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao,
mang tính quốc gia, nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác các di sản
văn hóa truyền thống của các dân tộc, là một trung tâm du lịch, dịch vụ, nghỉ ngơi, vui
chơi giải trí có quy mô lớn, đồng bộ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khai thác các lợi
thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên tạo động lực cho sự phát triển bền vững.
Trong khuôn khổ ―2 hành lang 1 vành đai‖, Tỉnh Vân Nam là một đầu cầu hành lang,
rất nổi tiếng về du lịch, đặc biệt là tiềm năng du lịch văn hóa các dân tộc thiểu số. Xây
dựng chương trình ―2 hành lang 1 vành đai‖ ở Vân Nam có thể tạo điều kiện để các
sản phẩm du lịch được hòa nhập vào thị trường, bù đắp cho những yếu tố còn khiếm
khuyết khi xây dựng tuyến du lịch phía Đông Vân Nam, để nâng cao khả năng cạnh
tranh phát triển của ngành du lịch của Vân Nam và phía Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên quan hệ quốc tế trong tương lai và bố cục thế giới mới chắc chắn sẽ
tác động nhất định đến các tộc người xuyên quốc gia Trung-Việt nhưng trước mắt
Trung Quốc và Việt Nam đều tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ
toàn vẹn chủ quyền đất nước. Hai nước đều do đảng cộng sản lãnh đạo, cùng một ý
thức hệ vì vậy, khả năng chia rẽ làm cho quan hệ hai nước xấu đi là rất nhỏ. Trong thời
gian dài sắp tới, Trung-Việt đều cần có mối quan hệ hữu nghị, hài hòa để phát triển
kinh tế. Mô thức phát triển xã hội kinh tế tương đồng lại càng đòi hỏi hai nước phải
tăng cường giao lưu và hợp tác với nhau. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam
cần thiết phải là quan hệ bình đẳng cùng có lợi, láng giềng hữu nghị, hợp tác tích cực,
cùng nhau phát triển.Những vấn đề có khả năng sẽ trở thành xu hướng chính trong
sự phát triển của các tộc người xuyên quốc gia Trung-Việt: Xã hội truyền thống dần
chuyển sang xã hội hiện đại. Sự tăng cường của ý thức quốc gia trong cộng đồng dân
tộc thiểu số và sự suy yếu của ý thức dân tộc. Mối quan hệ và sự liên hệ của văn hóa
99
trong nội bộ dân tộc từ từ yếu dần và chuyển sang quan hệ kinh tế và quan hệ văn
hóa chính trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1.Viện Dân Tộc Học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB
Khoa Học Xã Hội tái bản năm 2014
2. Nguyễn Văn Căn (chủ biên), Chiến lược hưng biên phú dân ở Trung Quốc, NXB
Từ điện bách khoa 2009
3. Nguyễn Văn Căn , Quan hệ văn hóa Việt – Trung giai đoạn 1993-2010, tạp chí
Mặt trận số 84 tháng 10 năm 2010
100
4. Nguyễn Văn Chính và Trần Thùy Dương (2008) – ―Từ trại nghỉ dưỡng mùa hẹ‖
đến ―Thành phố trong sương‖ – Sự phát triển của du lịch Sa Pa và vai trò của tuyến
đường sắt Hải Phòng – Côn Minh – Báo cáo hội thảo ―Giao lưu kinh tế - văn hóa
qua lưu vực sông Hồng‖ – Lào Cai năm 2008
5. Lê Duy Đại- Triệu Đức Thanh(chủ biên), Các dân tộc ở Hà Giang, NXB Thế Giới
6. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nguyễn Nam Tiến, Người Dao ở Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, năm1971
7. Bùi Đình, Tìm hiểu đồng bào miền núi Việt Nam, NXB Tiếng Việt Hà Nội
8. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý, Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang,
NXB Văn hóa dân tộc, năm 1999
9. Đỗ Quang Hưng, Tôn giáo tín ngưỡng trong các dân tộc thiểu số dọc biên giới
Viêt-Trung‖, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN
10. Đinh Văn Ngữ , Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc vùng biên góp phần tăng
cường đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát triển
11. Phùng Nhuận, Tác động văn hóa xuyên biên giới Trung-Việt trương hợp tỉnh Vân
Nam, Đại học Dân tộc Trung ương(bản dịch)
12. Phùng Hữu Phú, Trần Kim Đỉnh, Ngô Thị Đăng Tri (2006) – Lịch sử đường sắt
Việt Nam – NXB chính trị quố gia Hà Nội
13. Nguyễn Thị Lan Phương (2009) – Sự ra đời và hoạt động của tuyến đường sắt
Hải Phòng – Côn Minh (1897 – 1939) – Luận văn thạc sĩ lịch sử - Đại học sư phạm
Hà Nội.
14. Ngô Xuân Sao, Vai trò của văn hóa tộc người trong phát triển du lịch bền vững
biên giới Việt, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa
15. Tô Quang Sinh (2008) – Đường ray hẹp 100 năm – Sử đường sắt Điền Việt –
NXB Dân tộc Bắc Kinh Trung Quốc
16. Trần Hữu Sơn, Con đường buôn bán biên giới với sự hình thành, phát triển các
đô thị vùng biên Lào Cai-Vân Nam và sự tác động đến không gian văn hóa, không
gian dân số học tộc người‖, ―Nghiên cứu Trung Quốc số 10‖ năm 2009
101
17. Trần Hữu Sơn, Văn hóa dân gian Lào cai, NXB Văn hóa dân tộc
18. Huỳnh Tâm, Làng tị nạn tại biên giới Việt Trung
19. Mai Văn Tùng, Lê Thanh Thuỷ, Tri thức địa phương của người H’mông trong
chiến lược phát triển bền vững cộng động cư dân vùng biên giới Việt, Trường Đại
học Hồng Đức, Thanh Hóa
Tiếng Trung:
20. 骥毅〃骥骥骥代化骥少数民族群众国家骥同的影响〃骥河学院学骥〃2011 年
21. 骥文云〃浅骥中越跨境民族关系
22. 骥骥骥〃跨境民族的民族骥同与云南骥疆和骥社会的构建〃社科骥横〃2011
年〃26 卷第 7 期
23. 骥越骥〃中越骥境地区岱-壮-骥族骥史社会文化比骥研究〃骥骥骥范大学
博士骥文〃2014 年
24. 石茂明〃跨国界苗族-Hmong 人-研究〃中央民族大学博士骥文〃2004 年
25. 向媛秀〃向秋骥〃越南政府推骥_中越_骥境地区骥骥骥展的政策及借骥〃
生骥力研究〃2011 年第 6 期
26. 李骥山〃骥中越骥境跨境民族文化旅游骥的开骥〃广西民族大学学骥〃2012 年
27. 李孝蓉〃文化骥本骥角下的民族旅游村寨可持骥骥展研究〃中国地骥大学
博士骥文〃2013 年
28. 李骥〃跨境旅游合作区-探索中的骥境旅游骥展新模式〃旅游科学〃2013
年第 27 卷第 5 期
29. 李骥〃骥 Hmongb 从-家-到-村-的形成研究〃云南大学骥士骥文〃2013 年
30. 李若青〃60 年来云南骥境民族关系的和骥与骥定〃云南民族大学学骥
102
31. 李骥〃促骥中越骥境民族文化与骥骥良性互骥的骥策思考〃广西大学学骥〃
2001 年第 23 卷
32. 李忠斌〃骥甘甜〃骥少数民族特色村寨建骥中的文化保骥与骥展〃广西社
会科学〃2014 年
33. 江南〃中越跨境民族婚姻家庭骥骥法研究〃中央民族大学博士骥文〃2011 年
34. 骥袁媛〃滇越骥民跨境通婚的骥状_影响及骥策〃文山学院学骥〃2015 年
35. 谷禾〃骥骥骥〃近代云南段国界骥骥迁与跨境民族身份骥同的形成〃昆明
理工大学学骥〃2008 年第 12 期
36. 骥骥光〃中越骥界-文山段-跨境民族骥骥骥告〃文山骥范高等骥科学院学骥
37. 骥金骥〃保骥平〃云南骥疆民族地区跨境婚姻与社会骥定研究〃云南民族
大学学骥〃2013 年第 30 卷第 1 期
38. 骥越水〃国骥合作新框架下越中骥境旅游骥展研究〃广西骥范大学骥士骥
文〃2007 年
39. 骥磊〃从滇越骥段骥界走廊考察壮族与岱骥族的跨境关系〃文山骥范高等
骥科学院学骥
40. 余骥〃死亡雷区-小互市-大口岸-新机遇下的中越骥骥骥展探析〃研究骥告
及骥述〃2011 年第 2 期
41. 郭家骥〃云南民族关系骥骥研究〃中国社会科学出版社
42. 范宏骥〃越南民族与民族骥骥〃广西民族出版社
43. 范宏骥〃中越跨境民族溯源〃中国民族骥〃2004 年 1 月 2 日
103
44. 周建新〃中越中老跨国民族及其族群关系研究〃民族出版社
45. 胡骥骥〃骥攀〃关于云南骥境民族地区骥展骥域骥骥的思考〃区域骥骥与骥骥
46. 胡翼珍〃云南典型少数民族村落生骥旅游可持骥骥展研究〃中国科学林骥
研究院
47. 骥旭峰〃黄芝骥〃田蓬骥与苗旺骥苗族跨境流骥的骥状与思考〃骥河学院学骥
48. 徐祖祥〃中越跨境民族宗教生骥骥展的特点和骥律〃民族宗教与西部骥疆研究
49. 夏骥城〃中国和越南两国骥境地区的民族扶骥政策研究〃广西民族大学骥
士骥文
50. 曹骥雄〃何骥明〃哈尼族婚俗与女性婚姻骥迁——以金平骥骥鞍底骥哈尼
族骥骥人骥例〃骥河学院学骥〃2011 年第九卷
51. 黄永祥〃金平-草皮街-走向大市骥〃云南民族学院学骥〃1994 年
52. 梁茂春〃中越跨界通婚的类型与促成途径〃南方人口〃2011 年 26 卷骥 106 期
53. 廖国一〃―两廊一圈‖建骥与中越旅游合作〃广西骥范大学学骥〃2006 年
54. 滕成达〃越南北部少数民族地区扶骥政策及影响
104
PHỤ LỤC
(dân tộc Lô Lô Việt Nam) (dân tộc Di châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam)
(Phụ nữ Hà Nhì tỉnh Lào Cai Việt Nam) (Phụ nữ Hà Nhì châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc)
( Đám cưới của người H’mông Việt Nam) (Đám cưới của người H’mông Trung Quốc)
105
( Lễ hội Gầu Tào của người H’mông)
(ma chay kỳ trâu người H’mông)
(tục làm ma khô của người H’mông)
(Chiếc trống đồng là dụng cụ không thể thiếu để làm "ma khô)
106