BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA DƯƠNG TÂN LONG HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA DƯƠNG TÂN LONG HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM- TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS NGUYỄN TIẾN HIỆP

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Đây là công trình nghiên cứu khoa học được cá nhân tôi thực hiện cùng

với sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn. Các loại tài liệu được trích dẫn trong

luận văn là từ các văn bản, quy định của các cơ quan có thẩm quyền, các công

trình khoa học có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.

Các số liệu liên quan và nội dung nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Quảng

Trị và chưa được sử dụng trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào.

Thừa Thiên Huế, tháng 7 năm 2023

Học viên

Dương Tân Long

LỜI CẢM ƠN

Quá trình nghiên cứu, chuẩn bị, triển khai thực hiện cho đến khi hoàn

thiện luận văn thạc sĩ, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng, tập trung của bản thân, là

sự quan tâm, tạo điều kiện, hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình, quý báu của quý

thầy cô, bạn bè, gia đình, người thân, đồng nghiệp, anh chị em các khóa học

trước.

Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thế Hiệp đã hết lòng giúp đỡ,

hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.

Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô đang công tác,

giảng dạy tại Học viện hành chính Quốc gia và Học viện hành chính Quốc gia

cơ sở khu vực miền Trung đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cũng như truyền

đạt những kiến thức quý báu trong suốt quá trình bản thân học tập, nghiên cứu

đến khi thực hiện luận văn. Cảm ơn cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành có

liên quan đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi nghiên cứu và thực

hiện luận văn.

Xin cảm ơn tất cả các cá nhân, tổ chức, đơn vị đã đồng hành, hỗ trỡ,

giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian công tác, học tập, nghiên

cứu và hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Học viên

Dương Tân Long

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1 PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH .................................................................... 9 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM .......................................................... 9 1.1. Khái quát chung về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ..................................... 9 1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 9 1.1.2. Vị trí, vai trò, chức năng ....................................................................... 9 1.1.3. Quyền hạn và trách nhiệm .................................................................. 11 1.1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động ........................................................ 12 1.2. Khái quát chung về hoạt động phản biện xã hội ..................................... 12 1.2.1. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội ................................................ 12 1.2.2. Tính chất, đặc điểm hoạt động phản biện xã hội ................................. 13 1.2.3. Vai trò của phản biện xã hội ............................................................... 17 1.3. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ................................. 23 1.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 23 1.3.2. Mục đích ............................................................................................ 24 1.3.3. Nguyên tắc ......................................................................................... 25 1.3.4. Nội dung, đối tượng, phạm vi phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ...................................................................................................... 25 Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 26 Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH QUẢNG TRỊ ........................................... 28 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị và những yếu tố tác động đến hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh 28 2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị ............................. 28 2.1.2. Khái quát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị ........................ 29 2.1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh QuảngTrị ...................................................................... 30 2.2. Thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Trị . 33 2.2.1. Công tác triển khai thực hiện .............................................................. 33 2.2.2. Cơ chế và điều kiện đảm bảo thực hiện hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị .................................................. 35 2.3. Đánh giá hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị ..................................................................................................... 39

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ....................................................... 39 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 47 2.4. Một số kinh nghiệm ............................................................................... 49 Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 50 Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................................. 52 3.1. Yêu cầu đảm bảo hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 52 3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ................................................................................. 52 3.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phát huy vai trò và sự đóng góp của Nhân dân trong hoạt động phản biện xã hội .................................................. 56 3.1.3. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc nhằm phát hiện, bổ sung, điều chỉnh những nội dung còn thiếu, chưa phù hợp trong thực hiện các chủ dương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và địa phương ....... 58 3.1.4. Phản biện xã hội phải góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ......................................................... 60 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị ........................................................... 61 3.2.1 Giải pháp chung................................................................................... 62 3.2.2. Giải pháp đối với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng trị ............................. 68 PHẦN III: KẾT LUẬN ............................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 1

DANH MỤC VIẾT TẮT

Ký hiệu Nguyên nghĩa

MTTQ Mặt trận Tổ quốc

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận vai trò quan trọng của Mặt

trận Tổ quốc trong việc động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân đấu tranh

chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 2013, Nước Cộng

hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là

tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai

cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân

dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân;

tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,

tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng

Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc” [54].

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng

cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền

nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây

dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua

yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại” [32]. Ðại hội XII

của Ðảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược

của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên

minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng

lãnh đạo” [33].

1

Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quyết định số

217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW về “Quy chế giám sát và phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”

và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã

hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Nghị

quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đề ra giải pháp về

phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã

hội trong giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính

trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy

lùi suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên.

Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, việc phát huy vai trò

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong

đó phản biện xã hội là một chức năng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với dân,

với Đảng; là điều kiện và cơ sở để nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, là cơ sở chính trị vững chắc của cấp ủy, chính quyền

các cấp.

Nhận thức rỏ những vấn đề trên, trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh Quảng Trị đã chủ động thực hiện vai trò, trách nhiệm tham gia

phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng văn kiện Đại hội Đảng các cấp, tham gia

xây dựng chính sách pháp luật, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,

các đề án, dự án trọng điểm của địa phương đi đôi với giám sát quá trình tổ

chức, triển khai và đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các cơ quan

nhà nước. Tổ chức, phối hợp tham gia các diễn đàn đối thoại Nhân dân, tiếp

xúc cử tri, tiếp công dân, các hoạt động tuyên truyền, chuyển tải các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và địa phương. Kịp thời

2

kiến nghị với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, các ngành chức năng kịp

thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chương trình, dự án, chính sách liên

quan trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và cán

bộ, đảng viên; góp phần khắc phục những hạn chế thiếu sót, thất thoát, lãng

phí nguồn lực công, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính

sách và pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội.

Khẳng định tầm quan trọng của công tác phản biện của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị, ngày 29/3/2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Quảng Trị đã ban hành Quyết định số 907-QĐ/TU, ban hành “Quy định trách

nhiệm của cấp uỷ, chính quyền trong việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị của

MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân sau giám sát, phản biện

xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” nhằm tăng

cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền

các cấp, củng cố mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân;

phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền và trách nhiệm của cấp uỷ, chính

quyền các cấp trong việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân.

Tuy vậy, thực tiễn quá trình triển khai hoạt động phản biện xã hội của

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế; chất lượng phản

biện xã hội nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, phạm vi, đối

tượng, yêu cầu của phản biện xã hội lớn, trong khi đó, cơ chế, nguồn lực và

điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức thực hiện còn nhiều hạn

chế; nhận thức và trách nhiệm của một số đối tượng còn biểu hiện chưa đúng,

chưa đầy đủ, chất lượng xử lý các kiến nghị, đề xuất của các tổ chức, đơn vị

liên quan sau phản biện còn nhiều bất cập, hình thức. Phản biện xã hội là một

nội dung, nhiệm vụ mới,vừa tổ chức, triển khai, thực hiện, vừa rút kinh

nghiệm, do đó còn nhiều lúng túng, tính thực thi chưa cao.

3

Đề tài: “Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị” nhằm nâng cao chất lượng thực chất công tác

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn tỉnh đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Đề tài nghiên cứu, đề cập

thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

Quảng Trị trong thời gian qua, đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hiệu

quả trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quán triệt, triển khai quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã

hội, Nhà nước đã ban hành một số văn bản làm cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tổ chức triển khai thực hiện. Tuy nhiên, đến nay, có rất ít công

trình nghiên cứu một cách trực tiếp, chuyên sâu và có hệ thống về hoạt động

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

Một số nhà nghiên cứu, học giả đã có các bài viết, đề tài nghiên cứu,

chuyên đề về giám sát, phản biện xã hội như:

- Tác giả Huỳnh Đảm với bài viết Phát huy vai trò giám sát, phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị

quyết XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 829, năm 2011. Bài viết này đã góp

phần đưa ra định hướng cho giải pháp để thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát

của Mặt trận.

- Trần Thanh Mẫn với bài viết Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp

tăng cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu, nguyện

vọng của các tầng lớp nhân dân, Tạp chí Cộng sản số 1265, 2019. Bài viết

đánh giá tình hình kết quả thực hiện hoạt động giám sát, phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian quan và đưa ra một số nhiệm vụ

trọng tâm thời gian tới. Tăng cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp

ứng yêu cầu, nguyện vọng các tầng lớp nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt

4

Nam các cấp, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền

trong sạch, vững mạnh; tạo đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn

kết toàn dân tộc.

- Hoàng Đức Thắng (chủ biên), Phát huy vai trò giám sát và phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện

nay, đề tài khoa học cấp tỉnh năm 2015. Tập trung đánh giá tình hình thực

hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2009 – 2015, nhiệm vụ giải pháp chủ yếu nâng cao

chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh Quảng Trị trong thời gian tiếp theo.

- Nguyễn Thọ Ánh, Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

năm 2012. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đề xuất quan điểm và các

giải pháp tổ chức thực hiện.

- Vũ Thị Như Hoa, Nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, năm

2013. Đây là công trình nghiên cứu từ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề

phản biện xã hội và tiêu chí đánh giá chất lượng phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam. Khảo sát, phân tích thực trạng phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Đề xuất phương hướng và

một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.

- Nguyễn Thị Hiền Oanh, Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối

với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý

luận Chính trị, Hà Nội, năm 2006. Tác giả nghiên cứu vấn đề lí luận và thực

tiễn về mặt trận và công tác Mặt trận ở nước ta hiện nay như: vai trò của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,

5

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; phương

hướng, giải pháp để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy được quyền làm

chủ ấy.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất

lượng triển khai thực hiện.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phản biện xã hội tỉnh Quảng

Trị trong thời gian qua.

- Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

Quảng Trị.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị từ khía cạnh quản lý công.

- Về thời gian: Đề tài đánh giá hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị từ năm 2014 đến tháng 6/2023, định

hướng 2030.

- Về không gian: Đề tài đánh giá hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về vai trò của quần

chúng nhân dân trong lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã

hội trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Phương pháp luận chủ yếu

được sử dụng là những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp logic - lịch sử: Đề tài được xem xét và trình bày quá

trình phát triển của các sự kiện, phong trào cách mạng của đất nước Việt Nam

gắn liền với sự ra đời, phát triển của tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với quá trình lịch sử.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các luận điểm khoa học

nhằm xem xét, nghiên cứu, khái quát, lý giải các sự kiện lịch sử. Từ đó, đánh

giá, rút ra kết luận, chỉ ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động

của lịch sử, làm tiền đề trong việc phát huy vị trí, vai trò của tổ chức Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam trong đó có công tác phản biện xã hội.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Tác giả đã tiến hành phân

nhóm các vấn đề để tìm hiểu sâu vào nội hàm từng nội dung, đồng thời liên

kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm nhận thức cái toàn bộ.

- Phương pháp thống kê: Đề tài được xây dựng trên cơ sở thống kê,

tập hợp các số liệu thực tế của công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị, giúp tác giả có thể khái quát các đặc trưng cụ

thể của vấn đề.

- Phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn: Tổng kết thực tiễn là

một khâu không thể thiếu và có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển

của lý luận. Vì vậy đề tài được thực hiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác

7

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị, làm cơ sở

để phân tích, đánh giá, khái quát kinh nghiệm thực tiễn nhằm kiểm tra những

ưu điểm, hạn chế của công tác phản biện xã hội trên địa bàn tỉnh, từ đó bổ

sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ

đạo tổ chức thực tiễn và hoạt động trong những năm tiếp theo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Hệ thống lại một số nội dung về lý luận và thực tiễn để làm cơ sở

nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay.

- Có thể làm tài liệu tham khảo, học tập, nghiên cứu, giảng dạy có liên

quan đến hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

tổ chức chính trị - xã hội.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam

Chương 2: Thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp tăng cường hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị

8

PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI

CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam

Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương

(nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh

đạo, thành lập ngày 18-11-1930.

Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10-1930 đã nêu sự cần thiết thành

lập Mặt trận thống nhất phản đế. Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng

minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp

mọi lực lượng yêu nước làm cách mạng giải phóng dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng

lớn mạnh, trưởng thành, có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của

dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng

chiến chống xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cũng như

trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới toàn diện, đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.

1.1.2. Vị trí, vai trò, chức năng

1.1.2.1. Vị trí

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính

trị của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là tổ chức liên minh chính

trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ

9

chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân

tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân

dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập

hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng

cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng

Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các

tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà

nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của

Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.

1.1.2.2. Vai trò

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đảng khẳng định trong

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011) và được luật hóa tại Điều 9 Hiến pháp nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013), Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền

nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của hệ

thống chính trị, có vai trò đặc biệt quan trọng việc củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, tạo nên sự thống nhất cao về chính trị trong nhân dân, củng cố

mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân , tạo nên nền tảng

chính trị vững chắc để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận khẳng

định mà do chính nhân dân và lịch sử cách mạng thừa nhận. Thắng lợi to lớn

của Cách mạng tháng 8 năm 1945 gắn liền với sự nghiệp Mặt trận Việt Minh.

Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt

10

Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng

xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh thống

nhất nước nhà. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

và liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đoàn kết

nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: Giải phóng miền Nam,

bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong

cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò

quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở là nơi phát huy bản sắc văn hóa của

dân tộc, truyền thống yêu nước, là nơi phát huy quyền làm chủ nhân dân, khơi dậy

nguồn lực và sức mạnh toàn dân trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở tham gia với chính quyền để giải quyết các

mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Thực hiện và phát huy dân chủ ở cơ sở, tham

gia giám sát và bảo vệ chính quyền, tham gia quản lý xã hội, tổ chức thực hiện các

cuộc vận động và các phong trào thi đua yêu nước, góp phần cùng với Đảng và

chính quyền cơ sở thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh ở địa phương.

1.1.3. Quyền hạn và trách nhiệm

Điều 3, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định về quyền và trách

nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:

- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,

tăng cường đồng thuận xã hội.

- Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

- Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.

11

- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội.

- Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản

ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước.

- Thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân.

1.1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động

Điều 4, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định về nguyên tắc tổ

chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ

Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện

theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành

động giữa các thành viên.

- Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.

- Đảng cộng Sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam.

1.2. Khái quát chung về hoạt động phản biện xã hội

1.2.1. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội

Phản biện xã hội là sự phản ánh chính kiến của xã hội đối với các chủ

trương, chính sách, pháp luật do hệ thống lãnh đạo, quản lý đề ra, thể hiện qua

những nhận xét, đánh giá, phân tích có căn cứ và có sức thuyết phục, được

thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các chủ thể phản biện; có chức

năng chuyển tải nhu cầu, nguyện vọng của xã hội đến hệ thống lãnh đạo và

quản lý; có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã hội và củng cố thể chế xã hội.

Hình thức phản biện xã hội tùy thuộc vào truyền thống văn hóa chính trị, trình

độ tổ chức dân chủ của từng nơi, từng thời kỳ lịch sử.

12

Chính vì vậy, phản biện có nội hàm rộng hơn so với phản bác. Trong

quá trình phản biện có thể đi đến phản bác nhưng phản biện không chỉ là để

phản bác mà phản biện còn đi đến bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh và khẳng định

cái đúng, cái ưu điểm trong những vấn đề được phản biện mà tác giả của nó

nhiều khi chưa nhìn thấy được. Phản biện xã hội chỉ nhằm lựa chọn được

phương án tốt nhất, còn phản kháng là hoạt động nhằm đả kích, gạt bỏ

phương án xã hội được đưa ra, do có sự đối lập về mục tiêu và bản chất xã

hội. Phản biện xã hội và phản kháng tuy khác nhau về bản chất nhưng lại có

quan hệ với nhau.

1.2.2. Tính chất, đặc điểm hoạt động phản biện xã hội

Phản biện xã hội phản ánh đầy đủ những tính chất và đặc điểm của nó

để phân biệt với hoạt động phản kháng, phản bác.v.v… diễn ra trong thực

tiễn. Vì vậy, khi nghiên cứu phản biện trong hoạt động lập pháp cần phải

nghiên cứu đến những tính chất, đặc điểm nổi bật sau:

- Thứ nhất, trong xã hội có giai cấp và Nhà nước thì phản biện xã hội

hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất

nước luôn bị lợi ích các giai cấp, tập đoàn, phe nhóm chi phối nên không thể

mang tính xã hội thuần túy mà bao hàm cả tính chính trị, đó chính là tính xã

hội - chính trị. Việc nhận diện đặc trưng này là vấn đề rất cơ bản cho sự xác

lập và vận hành của hệ thống phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt

động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước ở nước ta. Tính xã hội

- chính trị quy định phản biện xã hội hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước là vấn đề của quyền lực xã hội,

đồng thời, luôn đan xen lợi ích của các tập đoàn, giai cấp, tầng lớp trong xã hội.

- Thứ hai, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước luôn mang tính lịch sử - cụ thể.

Bởi vì, trong những không gian, thời gian, điều kiện khác nhau thì nội dung

và hình thức phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định

13

những vấn đề quan trọng của đất nước sẽ rất khác nhau. Từ tính chất, đặc

điểm này cho thấy không có mô hình chung nhất về phản biện xã hội trong

hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất

nước cho mọi thời kỳ, mọi thể chế, mọi quốc gia mà phải luôn xuất phát từ

điều kiện lịch sử - cụ thể để cân nhắc những hình thức, cơ chế phù hợp với

trình độ tổ chức nền dân chủ, với năng lực nhận thức và thực hành dân chủ

của quần chúng, với cấu trúc tổ chức hệt thống chính trị.

- Thứ ba, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước là hoạt động có tính chất xây

dựng, giúp cho hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan

trọng của đất nước được lựa chọn phương án chính xác nhất, hợp lý nhất, có

tính khoa học nhất, có tính khả thi nhất và phổ quát nhất. Vì vậy phản biện xã

hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng

của đất nước là hoạt động có tính mục đích.

- Thứ tư, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước có thể mang tính tự giác và tự

phát nên phải có cơ sở pháp lý. Không có sơ sở pháp lý thì khách thể có thể

ngăn cản không cho xã hội thực hiện hành vi phản biện hoặc phản biện không

được tiếp thu, giải trình. Đồng thời, trong những tình huống, hoàn cảnh nhất

định có thể bị những lực lượng chống đối xã hội lợi dụng phản biện xã hội để

thực hiện những mục đích tiêu cực của mình. Do đó, hoạt động phản biện xã

hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng

của đất nước cần phải có cơ chế, quy chế pháp lý rõ ràng, cụ thể.

- Thứ năm, phản biện xã hội luôn thể hiện tính phổ biến xuất phát từ

các giá trị chung về dân chủ được thể hiện trong phản biện xã hội. Trong số

các quyền hiến định của công dân thì quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội,

bảo đảm sự tham gia của người dân trong hoạt động lập pháp, hoạt động

quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là đòi hỏi cấp thiết và là

14

điều kiện cho thực hành phản biện xã hội. Tính phổ biến của phản biện xã hội

trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của

đất nước còn xuất phát từ xu hướng cấu trúc lại chức năng nhà nước.

- Thứ sáu, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước là phản biện, phản ánh các quan

điểm, quyền lợi của các tầng lớp khác nhau trong xã hội về việc xây dựng và

sửa đổi pháp luật, là quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Khi

xây dựng và sửa đổi pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất

nước chắc chắn sẽ ảnh hưởng, tác động đến các 4 đối tượng xã hội, cần để

cho các đối tượng điều chỉnh của pháp luật hoặc những quyết định quan trọng

đó được tham gia từ khi xây dựng đến khi thực hiện. Có thể thấy rằng, tính dân

chủ, tính quần chúng rộng rãi là tính chất quan trọng, là điều kiện để hoàn thiện

đối tượng phản biện và cũng là điều kiện để hoạt động phản biện phát triển.

- Thứ bảy, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước phải mang tính khách quan, trung

thực, vừa thực hiện ý chí của Nhà nước vừa thực hiện nguyện vọng của nhân

dân. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu tranh biện càng trở nên cần thiết

không thể thiếu trong cuộc sống. Luật pháp và quyết định những vấn đề quan

trọng của đất nước được đưa ra ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến quyền lợi

của các tầng lớp trong xã hội. Vì thế các tầng lớp này tất yếu phải được biểu

lộ ý kiến của mình một cách vừa chủ quan vừa phải vươn tới đại diện cho

tiếng nói đa số và ở một trình độ khách quan nhất định.

- Thứ tám, phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước là hoạt động đòi hỏi sự lập luận

chặt chẽ, có căn cứ trong biểu đạt quan điểm nhằm thuyết phục khách thể

phản biện. Phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định

những vấn đề quan trọng của đất nước là vấn đề hệ trọng cần có sự lập luận

mang tính khoa học cao để tranh luận với lập luận của vấn đề cần phản biện,

15

phản ánh đúng lợi ích của quốc gia, lợi ích của các tầng lớp dân cư. Phản biện

xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan

trọng của đất nước là hoạt động có trách nhiệm, là sự kết hợp giữa trí tuệ của

xã hội với trí tuệ của hệ thống chính trị để tạo ra tính chính xác, tính đúng đắn

của các quyết định ban hành pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng

của đất nước.

- Thứ chín, tính độc lập chính kiến thể hiện ở mỗi nhận xét, đánh giá,

biện luận trong phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước dựa vào phân tích độc lập của chủ

thể tiến hành. Chính nhờ độc lập trong thu thập thông tin, phân tích, đánh giá

mà chủ thể phản biện xã hội có khả năng xem xét các mặt đối lập của vấn đề,

thấy được các chiều cạnh, thậm chí đi đến kiến nghị về xử lý pháp luật hoặc

bác bỏ phương án chính thống. Tính độc lập chính kiến là tiêu chí cơ bản xác

định của thể phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định

những vấn đề quan trọng của đất nước đứng về phía nhân dân để theo dõi,

đánh giá, biện luận với những người cầm quyền trong quá trình bảo vệ lợi ích

của quần chúng.

Phản biện xã hội mang một số tính chất sau:

- Tính mục đích: phản biện xã hội là hoạt động có tính xây dựng,

hướng đến việc lựa chọn phương án chính xác, hợp lý hoặc có thể điều chỉnh,

bổ sung, hoàn thiện 5 phương án chính thống, hay đề xuất phương án khác,

nhưng vẫn hướng tới mục tiêu phát triển xã hội.

- Tính pháp lý: phản biện xã hội cần có cơ chế, quy chế pháp lý cụ thể

và rõ ràng. Cơ chế, quy chế pháp lý không chỉ là cơ sở định hướng phản biện

mà còn là điều kiện để đảm bảo cho phản biện được thực hiện một cách

nghiêm túc. Bản thân phản biện xã hội phải mang tính pháp lý thì mới có tổ

chức, có ý thức và có sức mạnh.

16

- Tính xã hội: phản biện xã hội phản ánh các quan điểm, quyền lợi của

các giai tầng khác nhau trong xã hội. Bất kỳ ai chịu sự tác động của đối tượng

phản biện đều có thể trở thành chủ thể phản biện, đều có quyền phản biện và

quyền được tôn trọng sự phản biện của mình.

- Tính khách quan: phản biện xã hội mang tính độc lập, nó không phụ

thuộc vào ý chí của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền, chủ thể bị phản biện xã

hội không thể bỏ qua các ý kiến từ phản biện xã hội, kể cả dư luận xã hội, như

một tiềm ẩn của nó.

- Tính khoa học: phản biện xã hội là hoạt động đòi hỏi lập luận chặt

chẽ, có căn cứ. Yêu cầu về tính khoa học trong phản biện xã hội là yêu cầu

khách quan và quan trọng.

1.2.3. Vai trò của phản biện xã hội

Phản biện xã hội có vai trò quan trọng trong thực hành dân chủ, góp

phần năng động hoá sự cầm quyền, gia cường chất lượng thể chế, nâng cao ý

thức và năng lực làm chủ của người dân. Tuy vậy, cũng không nên tuyệt đối

hoá vai trò của phản biện xã hội, nhất là trong điều kiện thiếu hệ thống thể

chế, luật pháp cần thiết, cán bộ, công chức và nhân dân chưa có nhiều thời

gian rèn luyện dân chủ. Phản biện xã hội cần phải được đặt trong mối quan hệ

tương tác với giám sát, kiểm tra và phê bình trong Đảng; giám sát, thanh tra,

kiểm soát và phê bình trong bộ máy nhà nước... Tất cả cùng hợp thành một cơ

chế hỗn hợp kiểm soát quyền lực, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân, bảo vệ bản chất dân chủ của chế độ.

- Thứ nhất, phản biện xã hội đảm bảo quyền phản hồi xã hội trực tiếp

hoặc bán trực tiếp đối với thể chế cầm quyền, nhờ đó, có tác dụng phòng ngừa

hoặc hạn chế sai lầm. Trước khi ban hành quyết định chính trị bao giờ giới

cầm quyền cũng cần đến các nguồn thông tin (thông tin lý luận và thông tin

xã hội).

17

Thông tin chính xác, đa chiều giúp giới cầm quyền có điều kiện phân

tích, xử lý để đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Sau khi đã ban hành quyết

định chính trị, những người cầm quyền lại có nhu cầu nắm bắt sự phản hồi

của các nhóm dân cư trong xã hội thông qua cơ chế thu nhận sự phản hồi xã

hội. Phản biện xã hội giúp các quyết định chính trị ngay khi còn ở giai đoạn

dự thảo đã chịu sự cọ xát với các chính kiến khác nhau và nhờ đó gạn lọc

được phương án bất lợi, lựa chọn phương án tối ưu. Khi chuyển sang khâu tổ

chức thực hiện, phản biện xã hội giúp đo đạc phản hồi xã hội, nhờ đó phát

hiện được mặt bất cập cần hiệu chỉnh, mặt sai lầm cần loại bỏ, mặt thiếu sót

cần bổ khuyết. Cả trước và sau khi ban hành quyết định chính trị đều cần đến

vai trò của giám sát xã hội và phản biện xã hội. Nhưng ở khâu ban hành quyết

định chính trị, vai trò của phản biện xã hội quan trọng hơn nhằm đảm bảo các

quyết định có chất lượng tốt nhất, hạn chế sai lầm, tối ưu hóa phương án xã

hội. Còn ở khâu tổ chức thực hiện lại cần đến giám sát xã hội hơn, nhằm nắm

bắt diễn tiến triển khai thực hiện các quyết định chính trị, những lực cản gặp

phải cần có biện pháp tháo gỡ, những lệch lạc cần uốn nắn, hiệu chỉnh.

- Thứ hai, phản biện xã hội có vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước sau

quá trình uỷ quyền. Đây là nhu cầu khách quan của bất kỳ hệ thống quyền

lực nhà nước nào, bởi không bị kiểm soát thì quyền lực sẽ tha hóa. V.I.Lênin

cho rằng, nếu buông lỏng kiểm kê, kiểm soát thì những người vô sản sẽ lại trở

thành nô lệ; nếu không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với việc

sản xuất và phân phối các sản phẩm thì chính quyền của người lao động, nền

tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở

lại dưới ách của chủ nghĩa tư bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức nhấn

mạnh đến vai trò của “kiểm tra”, kiểm soát”, “xem xét”, “điều tra”, “nắm tình

hình”, “nghe báo cáo”, “phê bình” trong giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ,

đảng viên; chủ động phòng ngừa những sai phạm của cán bộ, công chức, nhất

là chống “bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết,

18

đánh điện và gửi chỉ thị”, “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe

thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững...”. “Kiểm

tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ

đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà

góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”.

- Thứ ba, phản biện xã hội có tác dụng giải tỏa tâm trạng xã hội. Qua

phản biện xã hội mà các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bộc lộ thành phản

hồi xã hội, nhờ đó giới cầm quyền nắm được thông tin và kịp thời điều chỉnh

phương cách quản lý, phòng ngừa xung đột xã hội. Con người sinh tồn và

phát triển luôn đứng trước sự thống trị của các lực lượng tự nhiên và lực

lượng xã hội. Thống trị của tự nhiên và xã hội luôn tạo ra trạng thái đớn đau

và con người thường tìm cách giải toả bằng hình thức phi thế tục hoặc hình

thức thế tục. Giải toả bằng hình thức phi thế tục là trông chờ sự cứu vớt, che

chở của các đấng siêu nhiên, đây là cách giải toả tiêu cực. Giải toả trạng thái

đớn đau bằng hình thức thế tục là thông qua các phản ứng hữu ngôn và vô

ngôn khác nhau, trong đó có phản biện xã hội. Do đó, khước từ đòi hỏi chính

đáng về giám sát và phản biện của nhân dân chính là tạo “nguyên liệu” đầu

vào cho xung đột xã hội. Khi nhu cầu, đòi hỏi chính đáng của người dân bị

khước từ mà họ chưa tìm được lối thoát để giải toả trạng thái căng thẳng của

mình thường xuất hiện lãn công chính trị. Đây là một hình thức phản ứng xã

hội mà biểu hiện của nó là sự bàng quan trước mọi động thái của thể chế cầm

quyền. Lãn công chính trị làm cho chính quyền khó nhận dạng được mâu

thuẫn trong nội bộ nhân dân và khi bộc lộ thành xung đột thường đẩy giới

cầm quyền rơi vào thế bị động, không chuẩn bị sẵn cho khả năng ứng phó.

Phản biện của nhân dân chính là một phương cách để các mâu thuẫn xã hội

được bộc lộ thành phản ứng ngôn luận, nhờ đó giúp thể chế cầm quyền nhận

biết và tìm phương hướng điều chỉnh chính sách, ngăn ngừa xung đột xã hội.

19

- Thứ tư, phản biện xã hội có tác dụng khắc phục các biểu hiện dân chủ

hình thức, thúc đẩy minh bạch hoá và quản trị quốc gia theo nguyên tắc dân

chủ. Dân chủ, dân trị, dân quyền vẫn là mục tiêu phấn đấu của nhân loại, kể

cả các nhà nước tư sản dù nhân danh “dân chủ” nhưng vẫn tìm mọi cách lắt

léo, tinh vi để tạo rào cản dân chủ. Họ “không phá huỷ mà chỉ ngăn cản,

không khủng bố mà chỉ kìm hãm... không bẻ gãy ý chí tự do mà chỉ làm cho

mòn mỏi, cùn nhụt, sợ hãi, khiến nhân dân trở thành một bầy đàn những con

vật chăm chỉ và sợ hãi, xem nhà nước là người chủ chăn” - theo cách nói của

Alexis de Tocqueville ở thế kỷ XIX. Do đó, phản biện xã hội góp phần giúp

thể chế chính trị thoát khỏi tình trạng bất lực trong thực hành dân chủ, mà

trong nhiều trường hợp là các biểu hiện dân chủ hình thức chỉ làm “mòn mỏi,

cùn nhụt” ý chí của nhân dân.

Trong quá trình thực hành dân chủ đòi hỏi đối tượng chịu sự giám sát

và phản biện phải cung cấp thông tin, minh bạch hoá căn cứ của các chính

sách, chương trình, dự án. Điều đó không chỉ làm cơ sở cho phản biện xã hội

và tranh luận giữa hai phía, mà còn từng bước đưa những vấn đề thường bị

“bưng bít” sau hậu trường ra công khai. Một nhà nước dân chủ là một nhà

nước minh bạch. Thiếu minh bạch, công khai của nhiều thể chế chính trị cũng

là nguyên cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài “thọc gậy bánh xe”, xuyên tạc

những vấn đề nội bộ đất nước mà bản thân quần chúng cũng không có điều

kiện kiểm chứng đúng - sai, thật - giả. Vì vậy, những thông tin minh bạch,

chính thống từ thể chế trong quá trình phản biện xã hội có tác dụng củng cố

và nuôi dưỡng lòng tin của nhân dân, là một cách phản tuyên truyền hữu hiệu

trước tình trạng xuyên tạc, gây hỗn loạn thông tin. Thông tin còn là “nguyên

liệu” đầu vào hình thành chính sách của thể chế cầm quyền. Chính trong quá

trình phản biện xã hội với nhiều ý kiến đa chiều mới tạo cho giới cầm quyền

có điều kiện so sánh, thu thập thêm dữ liệu để củng cố hoặc điều chỉnh những

giả thuyết, phương án trước đó.

20

Thứ năm, phản biện xã hội có tác dụng trực tiếp chống lãng phí, thực

hành tiết kiệm. Thực tế cho thấy, nhiều chương trình, dự án nhờ phản biện xã

hội đã tiết kiệm được cho nhà nước và nhân dân hàng trăm, hàng ngàn tỷ

đồng, khắc phục được tình trạng sử dụng tài chính công sai mục đích hoặc

kém hiệu quả. Đối với những chương trình, dự án được tiến hành bằng nguồn

lực tư, thì bản thân mỗi doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân đã trở thành

những bộ lọc tự nhiênđảm bảo cho đầu tư đạt hiệu quả. Còn đối với các

chương trình, dự án sử dụng nguồn lực công, do thiếu những cơ chế gạn lọc

cần thiết, thì không gì thay thế được phản biện xã hội trong đánh giá tính hiệu

quả, sự cần thiết của chúng.

Thứ sáu, phản biện xã hội đòi hỏi giới cầm quyền phải chấp nhận sự cọ

xát, tranh luận, đối thoại với nhân dân và nhờ đó rèn luyện thêm kỹ năng

chính trị hiện đại, khắc phục tình trạng né tránh công luận, gây sự trì trệ của

hệ thống. Phản biện xã hội cũng là môi trường tốt cho giáo dục, rèn luyện, lôi

cuốn quần chúng vào các phong trào xã hội theo định hướng của thể chế cầm

quyền. Chấp nhận đối thoại, biết lắng nghe ý kiến phản biện, biết thích nghi

với sự thay đổi của xã hội là phẩm chất cần có của người lãnh đạo trong nền

chính trị hiện đại, rèn luyện bản lĩnh cầm quyền, nâng cao năng lực tự phát

hiện các khuyết điểm của chính mình để vượt qua. Ngược lại, một thể chế

chính trị tê liệt năng lực tự nhận thức và tự điều chỉnh, chắc chắn dẫn tới tha

hoá. Khuyết điểm không được phát hiện thường tích tụ, dồn nén và biến thái

từ nhỏ thành lớn, từ hẹp thành rộng, từ đơn giản thành phức tạp, rồi khi nhận

ra thường vượt quá khả năng xử lý. Do đó, một thể chế chính trị chấp nhận

giám sát và phản biện của nhân dân thường có khả năng thích ứng cao trước

mọi biến đổi của hoàn cảnh và định hình được tính năng động trong phương

cách cầm quyền.

Không phải trong tranh luận, đối thoại bao giờ phương án chính thống

cũng lùi bước trước phương án phản biện, mà trong rất nhiều trường hợp, nhờ

21

phản biện mới thấy sáng rõ tính đúng đắn của phương án chính thống. Phản

biện không có nghĩa là chỉ tìm ra cái cần sửa chữa, khắc phục, điều chỉnh, mà

còn bình luận, chỉ ra cái hay, cái đúng cần khẳng định, gia cường, phát triển.

Không chấp nhận phản biện sẽ không thấy được tính đúng đắn của phương án

chính thống và dẫn tới quần chúng hồ nghi, thiếu tin tưởng, nhất là khi bị

“nhiễu loạn” thông tin. Qua phản biện, tranh luận, phương án đúng được công

khai trước công chúng, củng cố lòng tin nơi nhân dân và tìm được động lực

cuốn hút quần chúng tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện. Kinh nghiệm

của Đảng Hành động Nhân dân (PAP - People Action Party) của Singapore

cho thấy, trong thời kỳ đầu mới trở thành đảng cầm quyền, bất cứ chương

trình xã hội nào đưa ra cũng bị các đảng đối lập bác bỏ, phê phán, nhưng nhờ

chấp nhận tranh luận, đối thoại trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại

chúng mà đẩy lùi được những công kích mang tính gây rối, củng cố được

niềm tin nơi công chúng. Trong những trường hợp như vậy, chính thông qua

phản biện xã hội để tìm sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng đối với mục tiêu

xã hội chính đáng của những người lãnh đạo, quản lý, để rèn luyện quần

chúng trưởng thành hơn về chính trị, để đề kháng với những hoạt động cực

đoan, phá hoại mang màu sắc “dân tuý”.

Thứ bảy, trong rất nhiều trường hợp phản biện xã hội không đem lại tác

dụng trước mắt, nhưng về lâu dài góp phần tạo môi trường rèn luyện dân chủ,

tăng cường tính tích cực và năng động trong thực hành dân chủ, thúc đẩy hiện

đại hoá xã hội. Bất kỳ lý thuyết nào cũng có nguy cơ bị lạc hậu trước thực tiễn

vốn rất năng động và đòi hỏi phải được bổ sung bằng thực tiễn. Chỉ qua tranh

luận, phản biện mới tăng thêm sức sống cho tư tưởng, lý luận, khắc phục chủ

nghĩa giáo điều, kinh viện. Cũng qua phản biện mới khẳng định được giá trị

của hệ tư tưởng, lý luận chính thống, bóc tách được ranh giới giữa giá trị đích

thực của hệ tư tưởng, lý luận chính thống với những giải thích chủ quan. Độc

thoại là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới nhận thức tư tưởng, lý

22

luận phiến diện, mà ở đó thường đan cài cả nhận thức chủ quan của người giải

thích. Vì vậy, đảng chính trị nào không muốn rơi vào bị động về tư tưởng, lý

luận, muốn bảo vệ tính khoa học và cách mạng của tư tưởng, lý luận chân

chính, không để tư tưởng, lý luận cách mạng bị lạc hậu hoặc bị bóp méo... thì

phải tạo môi trường cho tự do tư tưởng, mà ở đó phản biện xã hội của giới

tinh hoa có vai trò rất quan trọng. Sự lạc hậu về mặt tư tưởng, lý luận của

chúng ta trong thời gian dài, như nhiều nghị quyết của Đảng đã xác nhận, có

một nguyên nhân sâu xa từ việc chưa tạo được môi trường thật sự dân chủ cho

tranh luận về tư tưởng, lý luận để phát hiện mặt giá trị cần gia cường; mặt lạc

hậu cần vượt qua; trống vắng cần bổ sung; mặt sai lệch cần phê phán, uốn nắn...

Khác biệt ý kiến phản ánh tính đa dạng của xã hội, là nguồn gốc tự

nhiên của phản biện xã hội. Nếu độc thoại về mặt tư tưởng, lý luận sẽ không

tạo ra môi trường cho phản biện xã hội. Nhu cầu khác biệt về ý kiến nếu

không được quan tâm và đáp ứng đúng mức sẽ dẫn đến dồn nén tâm trạng xã

hội. Vì vậy, trong trường hợp một đảng cầm quyền, chấp nhận và tôn trọng

những ý kiến khác biệt mà không trái với lợi ích chung, thông qua tranh luận,

tranh biện, càng có điều kiện nhận biết các quan điểm đa chiều trong xã hội

để dung nạp vào chủ thuyết phát triển đất nước. Các ý kiến khác biệt không

được lắng nghe sẽ tồn tại bất hợp pháp, dồn nén, tích tụ và chờ thời cơ bùng

nổ thành đa nguyên tư tưởng. Ngược lại, nếu làm tốt phản biện xã hội thì các

mâu thuẫn được phát hiện trên diễn đàn tranh luận, chủ động chuyển hoá vào

phương án chính thống và nhờ đó phòng ngừa được khả năng xuất hiện đa

nguyên tư tưởng. Phản biện xã hội chính là một con đường tạo ra sự năng

động về tư tưởng, lý luận trong điều kiện một đảng cầm quyền.

1.3. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

1.3.1. Khái niệm

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định rõ: “Phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

23

Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn

bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (gọi chung là

dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước” [45].

Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là sự phản biện có tổ

chức mang tính xã hội, có quy mô và lực lượng rộng rãi, mà đại diện là Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thông qua việc nhận

xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị của lực lượng xã hội đối với dự thảo,

chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, đề án, dự án xã hội liên

quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền công dân, quyền,

lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt

trận, an sinh, phúc lợi xã hội.

Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bảo đảm

sự tham gia của Nhân dân, của các thành viên Mặt trận, là tiếng nói phản biện

của Nhân dân, của xã hội thông qua vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam; trong đó tôn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với

quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân

tộc. Việc phát huy sự tham gia của Nhân dân chú trọng vận động được sự

tham gia của những người có uy tín, có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng ở địa

phương.

1.3.2. Mục đích

- Phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam nhằm góp phần xây dựng và

thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh

và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến

nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những

nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp

phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

24

- Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát,

chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng,

Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng

đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch

định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng

cường đồng thuận xã hội.

- Phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ xã hội chủ nghĩa,

tính xây dựng, tính khoa học và thực tiễn.

1.3.3. Nguyên tắc

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật,

Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội.

- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn

thể chính trị - xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan; không làm trở

ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện

xã hội.

- Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng.

- Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia,

dân tộc.

1.3.4. Nội dung, đối tượng, phạm vi phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam

1.3.4.1. Nội dung

- Sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo.

- Sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn vị, địa phương.

- Tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và

tính khả thi của văn bản dự thảo.

25

- Dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc

phòng, an ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo.

1.3.4.2. Đối tượng

Các văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp

với chức năng, nhiệm vụ của mình.

1.3.4.3. Phạm vi

Chủ trì phản biện xã hội đối với các văn bản dự thảo về chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phối hợp với các

đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội.

1.3.4.4. Phương thức phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam

- Tổ chức hội nghị các cơ quan lãnh đạo trực thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam các cấp.

- Tổ chức lấy ý kiến phản biện (thông qua tổ chức, cá nhân) trong hệ

thống của tổ chức Mặt trận hoặc gửi văn bản dự thảo đến các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện.

- Khi cần thiết, tổ chức đối thoại trực tiếp giữa chủ thể phản biện với cơ

quan, tổ chức có văn bản dự thảo được phản biện.

Tiểu kết Chương 1

Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền

luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất nhiều

các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các lợi ích của các giai cấp, các

nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế v.v.. khác nhau để đưa ra những quyết sách

đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất để giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra.

Do vậy, họ cố tranh thủ ý kiến, nhận xét của các tổ chức, cá nhân, xã hội. Các

lực lượng xã hội khác, vì lợi ích của mình và lợi ích chung của cộng đồng

cũng dưới hình thức này hoặc hình thức khác đưa ra những quan điểm, chính

26

kiến của mình về vấn đề đó. Kết quả là, nhờ thông qua sự sự tranh luận, tìm

tòi mà đã đưa ra được những quyết sách đúng đắn, áp dụng vào cuộc sống

đem lại lợi ích cho đất nước. Phản biện xã hội là phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn

có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương chính sách của

Đảng và nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu cần thiết và đòi hỏi bắt buộc

của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước.

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, phát huy những kết quả

đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế là một trong những nhiệm vụ

rất cấp thiết. Xuất phát từ thực tiễn đó, đối với tỉnh Quảng Trị, phát huy vai

trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xem là công tác

trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều quy định, văn

bản để phát huy tính phản biện xã hội, vì vậy công tác phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được chú trọng và phát huy. Vì vậy,

làm tốt công tác phản biện xã hội là làm tốt việc phối hợp, phát huy các lực

lượng trong xã hội phù hợp với tính chất, mục đích, yêu cầu của các phản

biện xã hội ở từng cấp. Qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, tính chủ động

trong hoạt động điều hành của chính quyền, trách nhiệm của người đứng đầu,

bảo đảm phát huy tính dân chủ ở cơ sở. Từ đó, góp phần xây dựng và củng cố

sự đoàn kết, thống nhất trong hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong xã hội,

làm sâu sắc mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

27

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH QUẢNG TRỊ

2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị và những

yếu tố tác động đến hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh

2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị là một tỉnh thuộc Bắc Trung bộ - Việt Nam. Có 10 đơn vị

hành chính cấp huyện, trong đó có 01 thành phố; 01 thị xã và 01 huyện đảo

cách đất liền 30 km. Tỉnh Quảng Trị có trên 63 vạn dân. Tỉnh có thế mạnh về

cây công nghiệp: Cao su, Hồ tiêu, Cà phê; Công nghiệp chế biển gỗ rừng

trồng, trồng lúa, nuôi trồng thủy hải sản và kinh tế biển, kinh tế du lịch. Trong

những năm qua, kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được những kết quả khá toàn

diện trên tất cả các lĩnh vực.

Năm 2022, tổng sản phẩm trên địa bàn ước tính tăng 7,17% so với năm

trước, cao hơn mức tăng 6,61% của năm 2021. Quy mô nền kinh tế năm 2022

ước tính đạt 40.822,51 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người ước đạt 62,83

triệu đồng, tăng 11,18% so với năm 2021. Hiện nay, các tiềm năng, lợi thế

của tỉnh Quảng Trị đang từng bước được khai thác, đóng góp ngày càng

nhiều hơn vào tăng trường kinh tế. Trên địa bàn tỉnh có nhiều nguồn năng

lượng được khai thác với tổng công suất phát điện 965,6 MW, trong đó có

19 dự án điện gió đi vào hoạt động góp phần tăng thu ngân sách nhà nước,

là cơ sở để phấn đấu xây dựng Quảng Trị trở thành Trung tâm năng lượng

mới của miền Trung.

Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng cao, nhiều

giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy.Tỷ lệ người dân tham

gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%. Công tác

28

giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động được đẩy mạnh. An sinh xã hội, giảm

nghèo bền vững và thực hiện chế độ chính sách đối với thương, bệnh binh,

người có công, gia đình liệt sỹ luôn được quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo giảm

1,65%. Các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở đã tổ chức triển khai hiệu quả Đề

án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã và thôn, bản, khu phố; cơ

quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập. Công tác tiếp công dân, giải

quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham

nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, đi vào nề nếp. Công tác dân tộc, công

tác tôn giáo được chú trọng. Công tác cải cách hành chính, xây dựng chính

quyền có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng phục vụ tốt nhất cho người

dân, chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

2.1.2. Khái quát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị

Tháng 8 năm 1945, Uỷ ban Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Trị được

chính thức thành lập. Mặt trận đã phát động các phong trào yêu nước thiết

thực như: Tăng gia sản xuất, hủ gạo nuôi quân, mẹ chiến sĩ đỡ đầu quân đội,

dân công vận tải... Thực hiện cuộc vận động khởi nghĩa, các Ủy ban Dân tộc

giải phóng được thành lập, Mặt trận đã tập hợp, tổ chức nhân dân kết hợp đấu

tranh chính trị với khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, cùng cả nước đưa

cách mạnh tháng 8 thành công.

Năm 1950, Đại hội Mặt trận tỉnh được tổ chức tại chiến khu Ba Lòng,

Đại hội đã xây dựng chương trình công tác, xác định mục tiêu cụ thể tổ chức

và động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tiến hành cuộc kháng chiến toàn

dân, toàn diện, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ

lịch sử. Sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ, đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền,

Quảng Trị là địa phương bị chia cắt, Vĩnh Linh trở thành khu vực miền Bắc

xã hội chủ nghĩa. Tháng 7 năm 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng Quảng Trị

được thành lập, lời hiệu triệu của Mặt trận được tuyên truyền rộng khắp các

địa bàn trong tỉnh. Từ sau năm 1975, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng

29

Trị (1975-1976), sau này là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình-Trị-Thiên

(1976-1989), tiếp tục động viên các tầng lớp nhân dân thông qua các phong

trào hành động cách mạng trong lao động sản xuất, khắc phục hậu quả chiến

tranh, tạo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong toàn tỉnh.

Sau khi tỉnh Quảng Trị được tái lập (1/7/1989), dưới sự lãnh đạo của

Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ, qua các thời kỳ Đại hội của Mặt trận tỉnh, tổ

chức Mặt trận tiếp tục được củng cố và mở rộng đến địa bàn khu dân cư; đội

ngũ làm công tác Mặt trận từng bước nâng cao về phẩm chất chính trị và năng

lực, trình độ, đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Nội dung và phương

thức hoạt động Mặt trận ngày càng được đổi mới, đa dạng hoá các hình thức

tập hợp quần chúng.

Đến nay, hệ thống Mặt trận trong toàn tỉnh có: 10 Ủy ban Mặt trận

huyện, thị xã và thành phố; 125 Ủy ban Mặt trận xã, phường, thị trấn và 819

Ban công tác Mặt trận ở địa bàn khu dân cư, với 34 tổ chức thành viên.

2.1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh QuảngTrị

2.1.3.1. Những yếu tố khách quan

Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn biến nhanh,

phức tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn

đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và đường lối xây dựng, củng cố khối đại

đoàn kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các thế

lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng

ly khai, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta;

khoét sâu các mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, kích động nhân dân tụ tập đông

người bất hợp pháp, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị - xã hội.

Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng khu vực và quốc tế mở ra

nhiều cơ hội phát triển, tuy nhiên, đây cũng là yếu tố, điều kiện xuất hiện

nhiều tư tưởng, trào lưu tiêu cực, đối tượng thành phần lợi dụng xâm lấn vào

30

nước ta; tìm cách chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; đối lập nhân dân với

lực lượng vũ trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; kích động chống

đối, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Những cơ hội, thuận lợi của tình hình địa phương, trong nước và quốc

tế cùng với những diễn biến phức tạp, tiêu cực đang tồn tại có ảnh hưởng, tác

động mạnh mẻ đến tâm tư, tình cảm của các tầng lớp nhân dân. Âm mưu

“Diễn biến hoà bình”, “Bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch, phản động

vẫn đang ráo được được tiến hành với nhiều thủ đoạn và hành động ngày càng

manh động, táo bạo, tinh vi, xảo quyệt hơn. Nhất là hoạt động “Diễn biến hoà

bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá nhằm mục đích đánh sập niềm tin của

nhân dân vào Đảng và chế độ, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra

những “khoảng trống” để dần thiết lập một hệ tư tưởng đối lập xâm nhập vào

cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2.1.3.2. Những yếu tố chủ quan

Tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc và công tác Mặt trận của địa

phương chưa phát huy đầy đủ, tối đa và tích cực vai trò, sức mạnh của nhân

dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã

hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có đề xuất, kiến nghị

kịp thời, phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân

tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa

được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện

nghiêm túc. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển quê hương, đất

nước, quá trình đô thị hóa, những bất cập trong một số chính sách giải phóng

mặt bằng, đền bù khi thu hồi đất, giá cả tăng, giảm bất thường làm cho đời

sống và sản xuất gặp nhiều khó khăn. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng

phí, gây phiền hà cho nhân dân chưa được ngăn chặn hiệu quả; tình trạng lợi

31

dụng dân chủ, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp đông người gây rối trật tự xã hội

vẫn còn xảy ra…

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội vẫn còn chậm và tồn tại một số hạn chế, yếu

kém, có những nội dung còn đang lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và

phương thức cầm quyền; chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng,

đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Vẫn còn tình trạng cấp ủy bao biện,

làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị

trên một số lĩnh vực. Một số nội dung cơ bản về phương thức lãnh đạo của

Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị

- xã hội; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, về

quyền làm chủ của nhân dân, nhất là quyền làm chủ trực tiếp... còn chậm

được ban hành, cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện.

Những hạn chế đang hiển hiện trong hoạt động phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc, như nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền về

chức năng phản biện xã hội còn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc và toàn diện, dẫn

đến nhiều nơi còn chưa quan tâm, thậm chí coi nhẹ công tác này, do đó hạn

chế tác dụng và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Bên cạnh

đó, mặc dù vừa qua đã có những bước tiến bộ rất lớn, nhưng chính sách và

pháp luật về công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc vẫn cần phải tiếp

tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện thì mới đáp ứng được yêu cầu trong giai

đoạn hiện nay. Tổ chức bộ máy, nhân lực, vật lực và các điều kiện bảo đảm

cho hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc còn rất hạn chế.

Những yếu tố trên đây đặt ra vấn đề cấp bách đối với cấp ủy đảng,

chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải tranh thủ

tốt thời cơ, thuận lợi, quyết liệt đấu tranh, ngăn ngừa hiệu quả những tác động

xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới và phát triển quê hương đất

32

nước. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là một trong những phương thức

thiết yếu, thiết thực, hiệu quả và kịp thời, mang tính chiến lược lâu dài, huy động

tổng hợp sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân.

2.2. Thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

tỉnh Quảng Trị

2.2.1. Công tác triển khai thực hiện

Điều 9, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

(MTTQ) Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân; tập hợp phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận

xã hội; tham gia giám sát và phản biện xã hội…”[54]. Ngày 12-12-2013, Bộ

Chính trị đã ra các quyết định 217-QĐ/TW ban hành “Quy chế giám sát và

phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, nêu

rõ: “Phản biện xã hội” là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị

đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

của Nhà nước”[22]. Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Namlần thứ VIII

(2014) đã xác định 5 chương trình hành động của nhiệm kỳ, trong đó chương

trình thứ ba “Phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng

Đảng, chính quyền vững mạnh” là định hướng quan trọng cho hoạt động giám

sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong thời gian qua.

Ngày 09/9/2014, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị (Khóa XV) đã ban

hành Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 09/9/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về

việc thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính

quyền”. Ngày 29/3/2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng trị đã ban hành 02

Quyết định: Quyết định số 907-QĐ/TU “về việc ban hành Quy định trách

33

nhiệm của cấp uỷ, chính quyền trong việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị của

MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân sau giám sát, phản biện

xã hội và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quyết định 908-

QĐ/TU “về việc ban hành Quy định về tổ chức giám sát, phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh”.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã ban hành các Kế hoạch

phản biện xã hội; hướng dẫn, đôn đốc Mặt trận các cấp xây dựng và triển khai

kế hoạch phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của của từng địa phương,

cơ sở, cụ thể: Hướng dẫn số 13/HDGS&PB-MTTQ-BTT ngày 26/10/2014

“Hướng dẫn quy trình giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ

chức chính trị - xã hội các cấp”; Kế hoạch số 07/KH-MTTQ-BTT ngày

05/8/2014 “Về việc tổ chức triển khai Quyết định 217, 218-QĐ/TW trong hệ

thống Mặt trận tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố”; Hướng dẫn số 09/HD-

MTTQ-BTT ngày 14/8/2014 “Hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các

huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh thực hiện một số điều của Quyết định 217,

218-QĐ/TW.

Trong thời gian qua, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực

phối hợp xây dựng kế hoạch và triển khai công tác phản biện xã hội hàng năm

các tổ chức chính trị - xã hội. Các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã quan

tâm, tạo điều kiện về kinh phí và các cơ chế có liên quan cho hoạt động phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thông qua việc kế hoạch cấp ngân sách và

chương trình công tác hàng năm. Hàng năm, căn cứ vào Chương trình hoạt

động của mình, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội lựa chọn

nội dung phản biện xã hội xin ý kiến của cấp uỷ cùng cấp phê duyệt và xây

dựng Kế hoạch phản biện xã hội; hướng dẫn, đôn đốc Mặt trận các cấp xây

dựng và triển khai kế hoạch phù hợp với tình hình của địa phương.

Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong những năm

qua là một trong những nhiệm vụ mới, mang tính trọng tâm trong phát huy

34

dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân,

các vấn đề liên quan trực tiếp đến trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của công

dân, cơ quan, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và hệ thống chính trị.

Để thực hiện có hiệu quả chức năng này, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban

Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã tiến hành tổ chức

thành lập 03 Hội đồng tư vấn gồm: Hội đồng tư vấn Dân chủ - pháp luật;

Hội đồng tư vấn Dân tộc - tôn giáo; Hội đồng tư vấn Kinh tế - xã hội, là tổ

chức không chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, có

chức năng tư vấn, tham mưu giúp Ban Thường trực, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh về những nội dung liên quan đến lĩnh vực hoạt động, công tác

Mặt trận, mà trọng tâm là phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.

2.2.2. Cơ chế và điều kiện đảm bảo thực hiện hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ

thống chính trị đã mang lại những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao

hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát

huy tốt hơn tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các cơ quan nhà nước, Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, tránh việc bao biện,

làm thay của các tổ chức đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ “... Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính

quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người

lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp

thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Các

đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định,

35

vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách;

chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội

viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc

sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đảng tôn trọng tính tự

chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng

nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ

chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt

động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” [28].

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Khoản 1,

Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định: “...Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,

phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại

nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[54]. Lần đầu tiên trong

Hiến pháp, chức năng giám sát và phản biện xã hội được đề cập một cách có

hệ thống và được cụ thể hóa bằng Quy chế. Ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã

ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW về ban hành Quy chế giám sát và phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 75/2015/QH13, ban hành ngày 09/6/2013

gồm 8 chương, 41 Điều, trong đó đã dành riêng 02 Chương: Chương V, Quy

định về hoạt động giám sát; Chương VI quy định về hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tại Điều 3, Chương I cũng đã đề cập đến

quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tập hợp, xây dựng

sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng

thuận xã hội, tham gia giám sát, phản biện xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền.

36

Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung

ương Đảng, về ban hành “Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực

thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội

bộ” và Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung

ương Đảng, về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối

sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”. Đây là

những quy định rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt lớn trong nhận thức về

giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị và

toàn xã hội. Quan trọng hơn, đây là cơ sở chính trị để Mặt trận Tổ quốc và

đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện

xã hội đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn lịch sử hiện nay.

Ngày 17-4-2014, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương đã ban hành

Thông tri số 28/TTr-MTTW-BTT để hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

các cấp triển khai Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW

của Bộ Chính trị và ban hành Kế hoạch số 471/KH-MTTW-BTT để triển khai

thực hiện trong năm 2014 . Theo đó, hằng năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch

cụ thể để triển khai giám sát ở các lĩnh vực, nội dung nào đáp ứng nhu cầu

của nhân dân và sự phát triển của địa phương, đồng thời đòi hỏi sự tham gia

của các tổ chức chính trị - xã hội thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ

chủ trì phối hợp thực hiện; những lĩnh vực, nội dung mang tính chất chuyên

sâu sẽ do một tổ chức chính trị - xã hội phù hợp chủ trì phối hợp thực hiện

hoặc phát huy vai trò nòng cốt của một tổ chức thành viên trong lĩnh vực đó.

Ngày 19-1-2017, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành

Chương trình hành động số 19/CTr-MTTW, thực hiện Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 4 khóa XII “ về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn

37

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Ngày 15/6/2017, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận

Tổ quốc Việt Namban hành Nghị quyêt liên tịch số 403/2017/NQLT-

UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN quy định chi tiết các hình thức giám

sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tiếp đó, ngày

20/7/2017, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

ban hành Thông tri số 23/TTr-MTTW-BTT hướng dẫn quy trình giám sát và

quy trình phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Thông tri số

25/TTr-MTTW-BTT ngày 09/8/2017 hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của

Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.

Ngày 22/01/2018, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành

Nghị quyết số 24/NQ-MTTW-UB kèm theo Chương trình hành động của Mặt

trận Tổ quốc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn

2018 – 2020; Chương trình phối hợp số 30/CTPT-MTTW-TCTV, ngày 30-

10-2018 “Chương trình phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 7 khóa XII; trong đó các nội dung đều tập trung vào

việc triển khai thực hiện các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về giám

sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và

nhân dân.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Đổi mới tổ

chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của

đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ cức chính trị - xã hội, hướng mạnh

về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại

diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội

viên…”[34].

38

2.3. Đánh giá hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh Quảng Trị

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả đạt được

Để phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, phản biện xã hội

được xem là công cụ, kênh thông tin quan trọng và không thể thiếu giúp cấp

ủy, chính quyền đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp lòng dân. Trong những

năm qua, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã quyết tâm, chủ động

và sáng tạo tổ chức, triển khai các hoạt động phản biện xã hội phù hợp với

Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Kết quả phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc đối với các vấn đề, lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng, tác động

lớn đến các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội, đóng góp tích cực trong công

cuộc đổi mới của quê hương, đất nước.

Từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2023, hoạt động phản biện xã hội của

Mật trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi

vào nề nếp, mang lại hiệu quả tích cực và thiết thực trong đời sống xã hội và

công cuộc xây dựng và phát triển quê hương. Từ chổ “vừa làm vừa rút kinh

nghiệm” trong những năm đầu triển khai Quyết định 217,218-QĐ/TW của Bộ

Chính trị, đến nay, hoạt động phản biện đã đi vào thực chất hơn.

Thứ nhất, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã làm tốt vai trò

nồng cốt, chủ trì hiệp thương với các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng kế

hoạch phản biện xã hội, báo cáo cấp ủy và thông báo với chính quyền về kế

hoạch phản biện xã hội hàng năm. Qua đó có được sự thống nhất cao về nội

dung, cách thức, lĩnh vực, địa bàn, thời điểm và các vấn đề liên quan để tổ

chức triển khai kế hoạch phản biện xã hội; chủ động xây dựng các chương

trình, kế hoạch phù hợp với yêu cầu và điều kiện tình hình thực tế của địa

phương; hạn chế được tình trạng dàn trải, hình thức, trùng lắp trong hoạt động

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

39

Đồng thời, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã tranh thủ, phát huy vai

trò và sự tham gia, đóng góp của các Hội đồng tư vấn, là những chuyên gia,

nhà khoa học trên các lĩnh vực trong hoạt động phản biện xã hội.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã tham gia tích

cực, có trách nhiệm trong việc xây dựng các chính sách pháp luật, các chương

trình dự án, đề án phát triển kinh tế- xã hội của địa phương; dự thảo các bộ

luật, luật, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật từ Trung ương đến địa

phương; dự thảo văn kiện đại hội, nghị quyết của cấp uỷ đảng các cấp; các đề

án, dự án, chương trình trọng điểm của địa phương…

Ở cấp tỉnh, thời gian qua, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ VN đã tổ

chức 10 hội nghị phản biện, trong đó: 04 hội nghị phản biện dự thảo văn kiện

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và XIII và Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ

XVI, XVII; 03 hội nghị phản biện dự thảo quy định về trách nhiệm của cấp

ủy, chính quyền trong việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị của MTTQ Việt

Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân sau giám sát, phản biện xã

hội, tham gia xây dựng đảng, xây dựng chính quyền; 02 Hội nghị phản biện

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và 01 hội nghị phản biện Luật Thực hiện Dân

chủ ở cơ sở. Sau các Hội nghị phản biện xã hội, Ban Thường trực Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh có hơn 40 kiến nghị gửi các cơ quan, tổ

chức có dự thảo được phản biện và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phê

duyệt hoặc ban hành văn bản.

Ở cấp huyện và cơ sở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các tổ

chức chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức 618 hội nghị phản biện, trong đó,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện đã tổ chức 91 hội nghị phản biện;

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã đã tổ chức 527 hội nghị phản biện.

Thứ hai, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời

ban hành các Quyết định, Chị thị, Quy định đối với hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trậnTổ quốc, nhất là quy định trách nhiệm của cấp ủy, chính

40

quyền các cấp trong tiếp thu, xử lý, giải quyết các ý kiến, kiến nghị của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội sau phản biện xã hội. Đây là cơ

chế thuận lợi, tích cực, hữu hiệu để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triển khai

thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội của mình. Trong quá trình triển khai

thực hiện, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh thường xuyên chú trọng

công tác kiểm tra, đôn đốc, khảo sát thực tế nhằm kịp thời kiến nghị, bổ sung

chỉnh sửa, khắc phục những khó khăn, vướng mắc; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp trong tỉnh xác định hoạt động giám sát, phản biện xã hội là

một trong những nội dung trọng tâm công tác hàng năm và được đưa vào nội

dung ký cam kết trách nhiệm của người đứng đầu.

Để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã tiến hành nghiên

cứu và bảo vệ thành công Đề tài khoa học cấp tỉnh “Phát huy vai trò giám sát

và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong giai

đoạn hiện nay”, trong đó đánh giá đúng thực trạng hoạt động phản biện xã hội

trước và sau khi có Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị, đưa ra các

giải pháp đẩy mạnh hoạt động và nâng cao chất lượng thực hiện chức năng

này; chủ trì xây dựng “Quy định về nội dung và mức chi trong hoạt động

giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể chính trị

- xã hội các cấp” nhằm cụ thể hoá Quy định của Thông tư 337/2016/TT-BTC

của Bộ Tài chính. Chủ trì, phối hợp xây dựng các dự thảo Nghị quyết liên

quan đến hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên

để trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua.

Thứ ba, công tác triển khai các kế hoạch, chương trình phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc trong những qua luôn nhận được sự đồng tình, hỗ trợ

tích cực và hiệu quả của cấp ủy, chính quyền, các sở, ngành, cơ quan chức

năng, các tổ chức, đơn vị có liên quan. Việc tổ chức ký kết và triển khai có

hiệu quả các kế hoạch, chương trình phối hợp trong thực hiện phản biện xã

41

hội đã huy động tích cực sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, các ngành có

liên quan. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, nhất là cơ sở đã chú trọng

công tác tổ chức và hoạt động của các Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát

đầu tư cộng đồng, nhất là củng cố về tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động,

qua đó đã kiến nghị với chính quyền xử lý nhiều sai sót, vi phạm trong các

lĩnh vực, hạn chế thất thoát, tiêu cực, tham những, lãng phí ngay tại cơ sở,

khu dân cư.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã chủ động xây dựng và lựa

chọn những lĩnh vực, vấn đề phù hợp mà nhân dân và xã hội đang quan tâm,

gây bức xức trong cộng động ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp

pháp, chính đáng của nhân dân, liên quan trực tiếp đến hoạt động công tác của

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và tổ chức thành viên. Đồng

thời bám sát chương trình, kế hoạch của cấp ủy, chính quyền và nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của địa

phương để giám sát, phản biện xã hội. Gắn việc triển khai hoạt động giám sát,

phản biện xã hội với lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân,

vận động Nhân dân thực hiện tốt các chính sách, pháp luật, các phong trào thi

đua yêu nước của địa phương.

Thứ tư, việc triển khai thực hiện hoạt động phản biện xã hội, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã thể hiện tốt hơn, rõ nét hơn chức năng đại diện, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; qua đó khẳng định

được vai trò, vị trí của tổ chức Mặt trận, được cấp ủy, chính quyền đánh giá

cao. Nhiều văn bản kiến nghị, tham gia ý kiến sau phản biện xã hội có chất

lượng cao, được các cơ quan, sở ngành có trách nhiệm tiếp thu, phản hồi, điều

chỉnh, bổ sung, mang lại hiệu quả tích cực và thiết thực trong bảo vệ quyền và

lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ lợi ích Đảng, Nhà

nước, bảo đảm thực thi pháp luật; đồng thời góp phần triển khai thực hiện có

hiệu quả các các chương trình, dự án, đề án trọng điểm của tỉnh. Từ đó ổn

42

định tình hình, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện

thành công tác mục tiêu phất triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo niềm

tin vững chắc của Nhân dân với Đảng, chính quyền, tin tưởng vào công cuộc

đổi mới và phát triển quê hương.

Trong đó, phương pháp phản biện đối thoại trực tiếp đã được thực hiện

hiệu quả, chuyên sâu hơn, từ năm 2014 đến tháng 6/2023 MTTQ Việt Nam

các cấp trong tỉnh đã tổ chức đối thoại trực tiếp là 842 cuộc; trong đó cấp

tỉnh được 110 cuộc, cấp huyện được 170 cuộc; cấp xã được 562 cuộc về

những vấn đề cấp bách, nổi cộm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của người dân.

Ở tỉnh, từ năm 2014 đến tháng 6/2023, Ban Thường trực Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 10 hội nghị phản biện, trong đó: 04 hội

nghị phản biện dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và XIII

và Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI, XVII; 03 hội nghị phản biện dự thảo

quy định về trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong việc tiếp thu, giải

quyết kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã

hội và Nhân dân sau giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng đảng, xây

dựng chính quyền; 02 Hội nghị phản biện Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và

01 hội nghị phản biện Luật Thực hiện Dân chủ ở cơ sở. Sau các Hội nghị

phản biện xã hội, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam đều có văn

bản gửi các cơ quan, tổ chức có dự thảo được phản biện và cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành văn bản.

Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội cũng tổ chức phản biện xã

hội nhiều văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo… liên quan trực tiếp tới

quyền và nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên của tổ chức mình như: Liên đoàn

Lao động tỉnh, huyện tham gia phản biện dưới hình thức góp ý bằng văn bản

đối với các dự thảo: Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Nghị định số 60/NĐ-CP về

thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp; Luật Đất đai (sửa đổi),

43

Luật thực hiện dân chủ cơ sở, Luật Việc Làm, Luật BHXH, Nghị định

38/2022/NĐ-CP quy định về lương tối thiểu đối với người lao động làm việc

theo hợp đồng lao động. Đoàn Thanh niên phản biện các Dự thảo Luật, văn

kiện Đại hội các cấp, nghị quyết của cấp ủy và các Đề án có liên quan. Hội

Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tham gia phản biện dự thảo luật, lồng ghép phản biện,

góp ý các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan. Hội Cựu Chiến binh

tham gia phản biện văn kiện Đại hội Hội Cựu Chiến binh, quy định của các

cấp Hội; Hội Nông dân tỉnh phản biện dự thảo luật, Điều lệ Hội ...

Ở địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các tổ chức

chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức 618 hội nghị phản biện, trong đó, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam cấp huyện đã tổ chức 91 hội nghị phản biện; Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam cấp xã đã tổ chức 527 hội nghị phản biện.

Về hình thức tổ chức đối thoại trực tiếp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam với cơ quan, tổ chức có văn bản được phản biện xã hội: Trong thời gian

qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tổ

chức đối thoại trực tiếp là 842 cuộc; trong đó cấp tỉnh được 110 cuộc, cấp

huyện được 170 cuộc; cấp xã được 562 cuộc về những vấn đề cấp bách, nổi

cộm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của

người dân. Nổi bật như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã phối hợp với Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam các huyện Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ, Đông Hà và

Ban Quản lý các Dự án tọng điểm của tỉnh, của quốc gia tổ chức 09 hội nghị

tham vấn, lấy ý kiến cộng đồng dân cư nơi thực hiện Dự án. Qua đó, đã tổng

hợp 42 vấn đề và kiến nghị 26 ý kiến liên quan đến các cơ quan, tổ chức, đơn

vị và ngành chức năng.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã tổ chức 365 Hội nghị

tiếp xúc, đối thoại chính sách. Tại các hội nghị người đứng đầu cấp uỷ, chính

quyền chỉ đạo các cơ quan tham mưu giúp việc trả lời trực tiếp trên 90% lượt

ý kiến, kiến nghị của Nhân dân chưa được xem xét giải quyết dứt điểm, nội

44

dung tập trung: Việc xử lý tồn động về đất đai theo Nghị quyết 54; chế độ phụ

cấp đối với đội ngũ cán bộ bán chuyên trách cấp xã và cán bộ thôn; chế độ,

chính sách thu hút nguồn nhân lực; mua sắm trang thiết bị y tế; đầu tư nâng

cấp cơ sở hạ tầng, đường giao thông; giải quyết tranh chấp đất đai, địa giới

hành chính; đơn thư khiếu nại, tố cáo…

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã phát huy vai trò tích cực của các

Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn và các chuyên gia trên các lĩnh vực tham gia

hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng chính sách, pháp

luật, các dự án, đề án nhằm nâng cao hiệu quả công tác phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

2.3.1.2. Nguyên nhân

Có được những kết quả nêu trên, trước hết là do sự quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo, tạo điều kiện của cấp ủy Đảng các cấp; sự phối hợp, ủng hộ tích cực của

chính quyền các địa phương; sự nổ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ và hệ thống

tổ chức Mặt trận Tổ quốc từ tỉnh đến cơ sở và khu dân cư. Bên cạnh đó, nhận

thức của Nhân dân, cán bộ, đảng viên, các ngành các cấp đối với hoạt động giám

sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc có sự thay đổi rõ nét, nhất là về về

vai trò, ảnh hưởng của giám sát và phản biện xã hội đến tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội và đời sống Nhân dân cũng như việc thực hiện

các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương

Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa

phương và cơ sở trong những năm gần đây được Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo bằng việc ban hành các Quyết định, Nghị quyết, Chỉ thị; được Nhà nước thể

chế hóa thành Hiến pháp, các Luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các chương

trình ký kết liên ngành, tạo hành lang pháp lý, cơ sở và điều kiện để Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam các cấp triển khai, tổ chức các hoạt động giám sát và phản biện

xã hội của mình.

45

Các cấp ủy đảng và chính quyền các địa phương trong tỉnh đã thực hiện

nghiêm túc và thường xuyên chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân

ở cơ sở. Nhiều cơ chế, chính sách đối với hoạt động phản biện được ban hành

và triển khai thực hiện, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc tổ

chức các hoạt động phản biện xã hội. Những thành tựu sau 30 năm lập lại tỉnh

cộng với xu hướng dân chủ hóa, đời sống vật chất, tinh thân và dân trí của

người dân được nâng cao, là một điều kiện quan trọng để Mặt trận Tổ quốc

khơi dậy và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tham gia

hoạt động điều hành, quản lý xã hội của Nhà nước.

Công tác tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp

từng bước được quan tâm, nhất là trong đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

lý luận, chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động phản biện xã

hội trong giai đoạn mới. Việc sớm triển khai thành lập và tổ chức hoạt động

các Hội đồng tư vấn ở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các Ban tư

vấn ở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện đã huy động và phát huy

được vai trò, sự đóng góp của cac nhà khoa học, chuyên gia trên các lĩnh vực

vào hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã chủ động, sáng tạo trong chủ

trì phối hợp thống nhất với các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch

phản biện xã hội hàng năm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã

hội cấp tỉnh trược ký báo cáo với cấp ủy và thông báo với chính quyền. Hiệu quả

triển khai thực hiện các chương trình ký kết, phối hợp liên ngành giữa Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh với Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân,

Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, các ngành Tư pháp, Thanh tra, Viện Kiểm sát

Nhân dân ngày càng được tăng cường theo hướng thực chất, có trọng tâm, trọng

điểm; có sơ kết đánh giá, điều chỉnh, bổ sung để nâng cao hiệu quả phối hợp,

nhất là các nhiệm vụ phối hợp liên quan đến hoạt động giám sát, phản biện xã

hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

46

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Một là, nhận thức về công tác phản biện xã hội của cấp ủy, chính quyền

ở một số địa phương còn chưa thống nhất, chưa hiểu đúng bản chất của hoạt

động phản biện xã hội. Trong quá trình phản biện xã hội và tham giá góp ý ở

một số nơi còn gặp trở ngại, vướng mắc; hiểu chưa đúng về thống nhất xây

dựng kế hoạch giám sát, phản biện xã hội, thường trực cấp ủy cho ý kiến vào

kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hàng năm dẫn đến thu hẹp nội dung,

phạm vi, chưa tạo kiện chủ động cho Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã

hội trong giám sát, phản biện xã hội. Nhiều văn bản trả lời của các cơ quan, tổ

chức được giám sát hoặc cơ quan có văn bản được phản biện còn chung

chung, hoặc chưa chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tiếp thu, giải

quyết ý kiến phản hồi.

Hai là, một số nơi chưa vận dụng tốt 03 hình thức phản biện, hoặc vận

dụng chưa phù hợp với từng nội dung, lĩnh vực và đối tượng phản biện xã hội.

Đối tượng, lĩnh vực, nội dung phản biện xã hội còn quá rộng; trình độ, năng

lực cán bộ tham mưu công tác phản biện xã hội còn hạn chế; chất lượng các

văn bản kiến nghị phản biện xã hội còn chưa bảo đảm, nhiều nơi vẫn đang

còn hình thức, chủ yếu tập trung góp ý kỷ thuật soạn thảo văn bản. Một số nơi

còn nhầm lẫn giữa phản biện với góp ý; giữa phản biện xã hội theo hình thức

đối thoại trực tiếp giữa Mặt trận Tổ quốc với cơ quan, tổ chức có dự thảo văn

bản được phản biện xã hội với các cuộc tiếp xúc, đối thoại của người đứng

đầu để giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của luật tiếp công dân, luật

khiếu nại, luật tố cáo…

Ba là, hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong thực tế

vẫn ít nhiều mang tính hình thức, hiệu quả pháp lý chưa cao nêu không muốn

nói là không mang tính pháp lý. Nhiều đề xuất, kiến nghị của Mặt trận Tổ

quốc sau phản biện chưa được các cơ quan nhà nước, các ngành chức năng

47

tiếp thu, giải quyết. Bên cạnh đó, trong thực hiện hoạt động phản biện xã hội,

một số nơi lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa thể hiện được bản lĩnh

dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; vẫn còn hiện tượng nể nang, né

tranh, ngại va chạm trong quá trình phản biện xã hội; việc thực hiện các quy

định trách nhiệm sau phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với các cơ

quan, tổ chức liên quan chưa rõ ràng, chưa mang tính bắt buộc, chưa có cơ

chế, chế tài phù hợp.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Nhận thức của một số cấp ủy đảng, lãnh đạo chính quyền về vị trí, vai

trò, chức năng, nhiệm vụ phản biện xã hội Mặt trận Tổ quốc còn chưa đầy đủ,

chưa sâu sắc và toàn diện, đôi khi coi nhẹ công tác phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc. Có nơi chưa quan tâm bố trí cán bộ bảo đảm cho việc thực hiên

nhiệm vụ, do đó hạn chế tác dụng và hiệu quả hoạt động của Mặt trận các cấp.

Ý thức, nhận thức của một số cơ quan, đơn vị, địa phương được Mặt trận Tổ

quốc phản biện chưa đúng, chưa đầy đủ, tinh thần hợp tác chưa cao.

Công tác tuyên truyền, phổ biến về phản biện xã hội của Măt trận Tổ

quốc Việt Nam ở một số địa phương chưa được chú trọng, nhiều cán bộ, công

chức, viên chức ở cơ sở chưa hiểu công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam. Quá trình tổ chức, triển khai chưa thực hiện đầy đủ các hình

thức phản biện xã hội theo quy định.

Công tác phản biện xã hội đòi hỏi cán bộ, công chức phải có chuyên

môn sâu, am hiểu về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trình độ lý luận và

bản lĩnh chính trị cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, sâu sắc, trong khi số

lượng và chất lượng của cán bộ, công chức làm công tác Mặt trận chưa tương

xứng, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động phản biện xã hội.

Các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp phục vụ cho các hoạt động phản

biện xã hội còn thiếu; hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát

48

đầu tư cộng đồng ở nhiều địa phường gặp khó khăn, nhiều địa phương không

cân đối được nguồn ngân sách. Cơ chế, chính sách và các điều kiện đảm bảo

cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc chưa được hoàn thiện

thống nhất.

2.4. Một số kinh nghiệm

Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vị trí cầu nối giữa nhân dân với

Đảng và Chính quyền, là tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, thể hiện

ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, nơi phối hợp và thống nhất ý

chí và hành động giữa các tổ chức thành viên, tham gia với chính quyền để

giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, thực hiện dân chủ, bảo vệ lợi ích

hợp pháp của dân, xây dựng vàgiám sát chính quyền, động viên phong trào

rộng lớn của nhân dân để thực hiện các mục tiêu, các nhiệm vụ về kinh tế, văn

hoá, xã hội, quốc phòng -an ninh.

Hai là, cần có sự có quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy, sự phối hợp tích

cực, trách nhiệm của chính quyền, sự thống nhất của các đoàn thể chính trị -

xã hội, các tổ chức thành viên và phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của Ủy

viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cá nhân tiêu biểu, người có uy

tín trong đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, chuyên gia, nhà khoa học, nhà

hoạt động thực tiễn và sự quan tâm của toàn thể nhân dân. Khắc phục các biểu

hiện làm khép kín, lực lượng, thông tin trong phạm vi hẹp.

Ba là, phát huy vai trò chủ động, chủ trì của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp trong việc xây dựng kế hoạch phản biện xã hội hằng năm, nhất

là việc xác định, lựa chọn nội dung, phạm vi, hình thức giám sát, phản biện xã

hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền phù hợp với tình hình thực

tế tại địa phương. Phân định rõ nội dung Mặt trận chủ trì, nội dung từng đoàn

thể chính trị- xã hội chủ trì. Trong tổ chức thực hiện phải linh hoạt, quan tâm

đến những vấn đề lớn nảy sinh, không cứng nhắc chỉ làm theo kế hoạch.

49

Bốn là, đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường

công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, Nhà nước,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng,

chính quyền, phổ biến kinh nghiệm hay, cách làm có tác dụng, hiệu quả thiết

thực; tránh phản biện dàn trải, hiệu quả thấp.

Năm là, kết hợp chặt chẽ việc nắm bắt dư luận xã hội, tập hợp, tổng

hợp ý kiến, kiến nghị của đoàn viên, hội viên và nhân dân với hoạt động giám

sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Việc tập

hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị phản biện xã hội và góp ý phải khoa học,

khách quan, trung thực, đầy đủ, có sự chắt lọc đảm bảo đầy đủ căn cứ pháp lý,

khoa học và thực tiễn, đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thi, bảo đảm

thời gian và sức thuyết phục đối tượng được giám sát, phản biện xã hội.

Tiểu kết Chương 2

Phản biện xã hội đã trở thành một hoạt động thường xuyên, trọng tâm

và có tác động thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có nơi được xem là

hoạt động đột phá của công tác Mặt trận, góp phần khẳng định vị trí, vai trò

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong những năm qua, cùng với Đảng bộ,

chính quyền, Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tỉnh

Quảng Trị đã phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, luôn đồng

hành, thể hiện trách nhiệm cao để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho

Nhân dân. Nhờ sự chủ động, tích cực và chặt chẽ nên hoạt động giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tỉnh Quảng Trị ngày

càng đi vào chiều sâu, phát huy hiệu quả. Nội dung, đối tượng, phạm vi phản

biện xã hội ngày càng đa dạng, toàn diện, cụ thể và thực chất. Qua đó, Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phát hiện những hạn chế, bất cập, vướng

mắc trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, kịp thời kiến

nghị, đề xuất cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp thu, trả lời và chỉ đạo giải

quyết theo quy định. Qua đó,công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

50

tỉnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ

chính trị trọng tâm trong Chương trình phối hợp thống nhất hành động của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh với các cơ quan, ban ngành và các tổ chức

thành viên. Kết quả phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

trong thời gian qua góp phần quan trọng trong công tác tham gia xây dựng

Đảng, chính quyền các cấp ngày càng vững mạnh; thể hiện ngày càng rõ vai

trò, vị trí của Mặt trận trong hệ thống chính trị, tạo sức lan tỏa tích cực trong

đời sống xã hội, được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ghi nhận, đánh giá

cao và nhân dân tin tưởng, ủng hộ.

51

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG

PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ

3.1. Yêu cầu đảm bảo hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phản biện

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam là yêu cầu có tính cấp thiết nhằm tăng cường các phương thức tập hợp

các giai tầng xã hội, đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Thời gian qua, Đảng đã ban hành nhiều văn bản để nâng cao hiệu

quả lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội. Những kết quả đạt được trong đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị -

xã hội đã góp phần khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của các tổ chức này

trong giám sát, phản biện xã hội đối với hệ thống chính trị, đóng góp vào

thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trải qua các giai đoạn cách mạng với nhiều hình thức tổ chức và tên

gọi khác nhau, Mặt trận không ngừng lớn mạnh, với vai trò quan trọng là tập

hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp

pháp của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh xây

dựng đất nước năm 2011 đã nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức

liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị

- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp

xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính

52

trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên

vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự

nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các

thành viên”[28]. Mặt trận đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại

của cách mạng, cùng với Đảng, Nhà nước trở thành nhân tố trụ cột trong hệ

thống chính trị nước ta. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự

nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt

trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò

giám sát và phản biện xã hội.

Ở phương diện là thành viên, Đảng thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ

theo quy định của Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lắng nghe ý kiến Mặt

trận và cùng các tổ chức thành viên khác tiến hành hiệp thương dân chủ,

thống nhất hành động. Tuy nhiên, Đảng cũng được coi là một thành viên đặc

biệt của Mặt trận, vì Đảng còn có vai trò lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam. Với tư cách là đội tiền phong của cách mạng, Đảng được nhân dân, dân

tộc thừa nhận vai trò lãnh đạo. Do vậy, Đảng phải là tổ chức thành viên

gương mẫu nhất trong việc thực hiện các chương trình hành động của Mặt

trận, nhằm tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.

Ở phương diện là người lãnh đạo, Đảng lãnh đạo Mặt trận từ việc xây

dựng cơ cấu tổ chức, vai trò, vị trí, nguyên tắc hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam; ban hành các chỉ thị, nghị quyết của Đảng để lãnh đạo, định

hướng về hoạt động của Mặt trận; ban hành các quy định, cơ chế để Mặt trận

tiến hành giám sát và phản biện xã hội, tập hợp ý kiến của nhân dân, phản

ánh với Đảng, Nhà nước. Thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng đã cử

cán bộ, đảng viên, lãnh đạo cấp ủy tham gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp và Ban Chấp hành các tổ chức đoàn thể là thành viên của Mặt

53

trận, giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt của Mặt trận và đoàn thể nhân dân.

Từ đó, trực tiếp triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đối với Mặt trận

và lắng nghe ý kiến của Mặt trận. Đồng thời, lãnh đạo cấp ủy tham gia Mặt

trận là những người có đức, có tài, gương mẫu trong thực hiện các chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có uy tín

trong nhân dân.

Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tôn trọng

nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các

đoàn thể chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị hoạt động năng động,

có hiệu lực và hiệu quả”[33]. Yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng luôn xác định, nhấn mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân.

Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể chính trị - xã hội đã được Đảng rất coi trọng, coi đây là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc góp phần xây dựng và

thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém

và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn;

phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, cách làm hay, những mặt tích cực;

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước

trong sạch, vững mạnh.

Do đó, việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay sẽ tăng cường hơn nữa

những phương thức tập hợp các giai tầng xã hội, nhất là các dân tộc, các tôn

giáo và người Việt Nam ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

nhằm thực hành và phát huy tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo

54

của Đảng. Mặt khác, trong hệ thống chính trị của nước ta, Đảng Cộng sản

Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước nên có nhiều nguy

cơ dẫn đến tình trạng thoái hóa, biến dạng quyền lực trong các cơ quan Đảng,

Nhà nước. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra tình trạng

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ

cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi,

phức tạp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, từ đó tập

hợp khối đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

Các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở cần tăng cường và nâng cao nhận

thức về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận một cách đầy đủ,

toàn diện, quan tâm, coi trọng công tác Mặt trận, từ đó tạo điều kiện tối đa để

Mặt trận Tổ quốc tổ chức triển khai chức năng nhiệm vụ theo quy định. Quan

tâm tập trung chỉ đạo, triển khai hướng dẫn việc thực hiện Quyết định số

217,218-QĐ/TW của Bộ Chính trị, chỉ đạo chính quyền kịp thời ban hành cơ

chế, chính sách cụ thể để tạo điều kiện cho Mặt trận tổ chức thực hiện. Cần

ban hành các Nghị quyết chuyên đề, các quy định và cơ chế cụ thể đối với các

cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện các kết luận, kiến nghị, tham gia

của Mặt trận Tổ quốc sau giám sát, phản biện xã hội.

Đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức, bộ máy

cán bộ của Mặt trận Tổ quốc nhằm đáp ứng yêu cầu công tác Mặt trận và

tương xứng với nhiệm vụ đặt ra của hoạt động giám sát, phản biện xã hội

trong giai đoạn hiện nay. Cử những cán bộ đủ tiêu chuẩn sang công tác Mặt

trận; thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ Mặt trận và các đoàn thể bình

đẳng như cán bộ làm công tác đảng, công tác chính quyền, luân chuyển ngang

từ các cơ quan cùng cấp và luân chuyển dọc từ Trung ương tới các địa

phương và cơ sở. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của Mặt trận,

55

tiến hành đánh giá, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng chỉ đạo

về công tác đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các

đoàn thể nhân dân

3.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phát huy vai trò và sự đóng

góp của Nhân dân trong hoạt động phản biện xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết

điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến

những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước

trong sạch, vững mạnh. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là

để nghiên cứu, xem xét, đánh giá các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước và đại phương và các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Bên cạnh tổ chức các hoạt động phản biện xã hội và phối hợp phản

biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tranh thủ, tận dụng và phát huy

vai trò và sự đóng góp của Nhân dân trong hoạt động phản biện xã hội thông

qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng

đồng ở cơ sở và khu dân cư. Ban Thanh tra Nhân dân giám sát việc thực hiện

các chính sách, pháp luật, việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc

thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách

nhiệm, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước.

Tăng cường các hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có

thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân

dân, cùng với hình thức phản biện xã hội, như: tổ chức hội nghị phản biện, tổ

chức đối thoại trực tiếp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cơ quan, tổ chức

có dự thảo văn bản được phản biện, gửi dự thảo văn bản được phản biện đến

các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện xã hội.

56

Việc thực hiện “quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính

quyền” là hình thức phát huy tốt nhất vai trò của nhân dân trong quá trình xây

dựng chính sách, theo đó các dự thảo của các cơ quan có thẩm quyền được

gửi đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để thông

qua các tổ chức này lấy ý kiến tham gia, góp ý của đoàn viên, hội viên và

nhân dân giúp cho quá trình xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách đảm

bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Đa dạng hóa các hình thức và nâng cao chất lượng tổng hợp ý kiến,

nguyện vọng của nhân dân phản ánh, kiến nghị với cơ quan Đảng, chính

quyền Trung ương và tỉnh đối với các vấn đề bức xúc, nổi cộm, mang tính

thời sự trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại;

về năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền; đạo đức, tác

phong, lối sống của cán bộ, đảng viên; về xây dựng hệ thống chính trị ở các

cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đây là là một trong những chức năng, nhiệm vụ

thường xuyên, quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua nhiều

hình thức, như: tổ chức hội nghị góp ý kiến; gửi văn bản dự thảo để lấy ý kiến

góp ý, ý kiến góp ý trực tiếp của tổ chức, cá nhân trong các tầng lớp nhân dân,

dư luận xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần tập trung nâng cao

chất lượng báo cáo tổng hợp, phản ánh các ý kiến, kiến nghị của cử tri và

nhân dân tại các diễn đàn Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, nhất là các

kỳ họp định kỳ có sự tham gia của đồng đủ đại biểu và sự chứng kiến của

nhân dân.

Đổi mới hoạt động tham gia xây dựng chính sách của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp theo hướng đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp

của người dân, là đối tượng thụ hưởng các chính sách và chịu sự tác động của

các chính sách đó. Do vậy, việc lấy ý kiến của nhân dân để đảm bảo tính sát

thực, phù hợp với thực tiễn của chủ trương, chính sách cần được nghiêm túc

57

tổ chức, đảm bảo các chủ trương chính sách liên quan trực tiếp đến người dân,

ảnh hưởng, tác động đến xã hội cần có ý kiến tham gia của đông đảo các tầng

lớp nhân dân trước khi ban hành, triển khai thực hiện. Tránh tình trạng chiếu

lệ, hình thức, không thực chất, hạn chế sự tham gia của nhân dân, dẫn đến chủ

trương, chinh sách không sát thực tế, không phù hợp với người dân.

3.1.3. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc nhằm phát hiện, bổ

sung, điều chỉnh những nội dung còn thiếu, chưa phù hợp trong thực hiện

các chủ dương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và

địa phương

Một trong những chức năng quan trọng của Đảng ta trong thực hiện

vai trò của đảng cầm quyền đó là hoạch định ra các chính sách, đường lối để

củng cố, xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc cho sự phát triển của quốc

gia. Đây là cơ sở, là định hướng để chính quyền đưa ra các chính sách pháp

luật và mục tiêu hành động, đó có thể là các quy phạm pháp luật, hoặc cũng

có khi không, mà thể hiện bằng ẩn ý đằng sau của pháp luật. Muốn các chính

sách, pháp luật không áp đặt, không phiến diện mà thể hiện đúng quy luật

khách quan, thì phải có ý kiến của nhiều tổ chức, nhiều chủ thể khác nhau,

cần phải có người giám sát và phản biện có trách nhiệm. Với ý nghĩa và mục

đích đó, trong giai đoạn hiện nay, thì vai trò giám sát và phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc càng quan trọng và vô cùng ý nghĩa. Chế độ một đảng cầm

quyền nên khó tránh khỏi tình trạng lạm quyền, chủ quan duy ý chí, vì vậy

Đảng phải dựa vào nhân dân, cần sự đóng góp ý kiến, thẩm định, giám sát của

nhân dân đối với việc ban hành và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước. Phản biện xã hội cũng chính là coi trọng việc phát

huy dân chủ, làm cho chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước sát với thực

tế hơn, phù hợp hơn với nguyện vọng của nhân dân và hiệu quả triển khai sẽ

cao hơn.

58

Hoạt động phản biện xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến,

kiến nghị đối với dự thảo các đường lối, chính sách. Phản biện xã hội nhằm

phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong

các dự thảo văn bản của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội

dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời

sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, chính sách;

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng

cường đồng thuận xã hội.

Trong thực tiễn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã triển khai tổ chức

các hoạt động phản biện xã hội cơ bản mang đầy đủ tính chất và mục đích nói

trên. Tuy nhiên, một số vấn đề liên quan đến cơ sở, các điều kiện và đối tượng

để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh thực hiện phản biện xã hội còn chưa đầy

đủ, chưa đảm bảo theo quy định nên hiệu quả phản biện xã hội chưa cao, chưa

đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật thì

các tổ chức là thành viên của Mặt trận phải có trách nhiệm phản ánh các ý

kiến, nguyên vọng của đoàn viên, hội viên để Đảng nghiên cứu, xem xét, tiếp

thu và biến nó trở thành những chính sách hoặc bổ khuyết cho những dự thảo

chính sách còn phiến diện, không phản ánh hết sự vận động khách quan của

sự vật cùng quyền lợi chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân khác nhau trong

xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có các tổ chức thành viên, tập hợp đông

đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các nhân sĩ trí thức,

chuyên gia trên các lĩnh vực, từ đó huy đọng các lực lượng để tham gia, đóng

góp một cách thiết thực, khóa học đối với các chủ trương, chính sách của

Đảng, nhà nước và giám sát việc triển khai thực hiện trong thực tiễn đời sống

xã hội.

Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc góp phần xây dựng và thực hiện

đúng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kịp thời phát hiện

những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính

59

sách cho phù hợp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng

Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

3.1.4. Phản biện xã hội phải góp phần tích cực vào việc xây dựng và

củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Hiến pháp năm 2013 quy định bản chất và đặc điểm của Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. Thể chế pháp quyền xã hội bảo đảm quyền lực thuộc về

nhân dân, đồng thời chế ước quyền lực của Nhà nước và xã hội trong khuôn

khổ thể chế pháp quyền hay trong khuôn khổ luật pháp.

Phản biện xã hội đảm bảo quyền phản hồi xã hội trực tiếp hoặc bán

trực tiếp đối với thể chế cầm quyền, nhờ đó, có tác dụng phòng ngừa hoặc hạn

chế sai lầm. Có vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước sau quá trình ủy quyền,

đây là nhu cầu khách quan của bất kỳ hệ thống quyền lực nhà nước nào, bởi

không bị kiểm soát thì quyền lực sẽ tha hóa. Có tác dụng giải tỏa tâm trạng xã

hội, qua đó, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bộc lộ thành phản hồi xã

hội, nhờ đó Nhà nước và các cấp chính quyền nắm được thông tin và kịp thời

điểu chỉnh các chính sách và cách thức quản lý, phòng ngừa xung đột xã

hội. Đồng thời khắc phục các biểu hiện dân chủ hình thức, thúc đẩy minh

bạch hóa và quản trị quốc gia theo nguyên tắc dân chủ.

Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc có vai trò quan trọng và tác

dụng trực tiếp đến công tác chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm,

khắc phục tình trạng sử dụng tài chính công sai mục đích hoặc kém hiệu quả.

Thông qua các hoạt động tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, chính quyền các

cấp cầm có điều kiện cọ sát, tranh luận, rèn luyện thêm kỹ năng chính trị hiện

đại, khắc phục tình trạng né tránh công luận, gây ra sự trì trệ của hệ thống.

Giám sá, phản biện xã hội cũng là môi trường tốt cho giáo dục, rèn luyện, lôi

cuốn quần chúng vào các phong trào xã hội theo định hướng của các cấp ủy

Đảng và chính quyền địa phương. Chấp nhận đối thoại biết và lắng nghe ý

60

kiến phản biện, biết thích nghi với sự thay đổi của xã hội là một cách thức để

hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong rất nhiều trường hợp phản biện xã hội không đem lại tác dụng

trước mắt, nhưng về lâu dài góp phần tạo môi trường rèn luyện dân chủ, tăng

cường tính tích cực và năng động trong thực hành dân chủ, thúc đẩy hiện đại

hóa xã hội.Phản biện xã hội có vai trò quan trọng trong thực hành dân chủ,

góp phần năng động hóa sự cầm quyền, gia cường chất lượng thể chế, nâng

cao ý thức và năng lực làm chủ của người dân. Tuy vậy , cũng không nên

tuyệt đối hóa vài trò của phản biện xã hội, nhất là trong điều kiện còn hạn chế

về nhân sự cũng như hệ thống thể chế, luật pháp cần thiết. Giám sát, phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cần được đặt trong mối quan hệ tương tác

với giám sát, kiểm tra và phê bình trong đảng; giám sát, thanh tra, kiểm soát

và phê bình trong bộ máy nhà nước và các cấp chính quyền. Trong quá trình

thực hiện giám sát, phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và

đội ngũ nhân sự thực hiện công tác này cần tuân thủ nguyên tắc công minh,

khách quan và đúng luật.

3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị

Quá trình triển khai thực hiện hoạt động phản biện xã hội trong thời

gian qua luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công

tác Mặt trận, nhất là trong công tác đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp, chính đáng của Nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính

quyền, tăng cường đồng thuận xã hội, tham gia xây dựng và phát triển quê

hương, đất nước. Việc thực hiện hiệu quả chức năng này đã làm cho vị trí, vai

trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được khẳng định và nâng cao.

Thực sự là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, đại diện tiêu biểu

cho ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Để tiếp tục nâng cao

chất lượng công tác giám sát và phản biện xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

61

trong giai đoạn mới cần có những giải pháp đột phá, mang tính toàn diện và

hiệu quả.

3.2.1 Giải pháp chung

3.2.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các

ngành, các cấp đối với công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam

Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy có nhận thức đúng về vai trò, vị trí

của Mặt trận Tổ quốc, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sâu sát thì ở nơi đó

công tác Mặt trận được thực hiện có hiệu quả và ngược lại. Mặc dù trong

những năm gần đây, nhận thức của cấp ủy đảng các cấp về vị trí, vai trò của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và chức năng, nhiệm vụ phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc nói riêng đã có những chuyển biến tích cực.Tuy

nhiên, trong thực tế, nhiều địa phương vẫn coi Mặt trận Tổ quốc như là một

chủ thể chỉ đóng vai trò “tham gia”, “hưởng ứng” các hoạt động của Đảng,

Nhà nước mà chưa thực sự là một chủ thể có tiếng nói độc lập, đại diện cho

nhân dân để giám sát, phản biện đối với việc xây dựng, thực thi chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Từ khi Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ chính trị ban hành “Quy chế

giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội” được triển khai thực hiện, nhận thức trong hệ thống chính

trị và toàn xã hội về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực,

nhưng đến nay vẫn còn chưa thật sự đầy đủ và chính xác, vẫn còn hiện tượng

xem nhẹ chức năng này của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã

hội. Công tác tổ chức hoạt động giám sát, phản biện xã hội đôi khi chỉ gói gọn

trong nội bộ hệ thống Mặt trận các cấp, chưa huy động và phát huy được sức

mạnh tổng hợp của các tổ chức thành viên tham gia; các đối tượng được giám

sát, phản biện, tham gia ý kiến cũng vì thế mà quan tâm thực hiện đúng các

62

quy định về giám sát, phản biện xã hội hội, nhất là sau khi có kết luận, ý kiến

tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Trong thời gian tới, cấp ủy Đảng các cấp phải lãnh đạo và quán triệt

đến từng cán bộ đảng viên về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Mặt trận Tổ

quốc trong hệ thống chính trị, nhất là hoạt động phản biện xã hội. Tiếp tục đổi

mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với Mặt trận theo hướng tổng

kết thực tiễn, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, phù hợp với

từng đối tượng quần chúng. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, phát huy

vai trò của tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống tổ chức Mặt trận; phân

công, cử cán bộ của Đảng thực sự có trình độ, năng lực và uy tín phụ trách

công tác Mặt trận; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán

bộ Mặt trận từ Trung ương đến địa phương và cơ quả.

Các cấp ủy Đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và các ngành chức

năng phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc trong tuyên truyền, vận động,

nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tích cực

tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật; tập hợp động viên nhân

dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đổi mới trong quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây

dựng và giám sát các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước

theo hướng những chủ trương, chính sách này trước khi thông qua bắt buộc

phải có ý kiến phản biện, đồng thuận của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội; sau khi Mặt trận Tổ quốc tổ chức giám sát, phản biện, tham

gia ý kiến, kiến nghị và thông báo các kết luận, văn bản kiến nghị có liên

quan, các cơ quan chức năng đều phải giải trình, tiếp thu, khắc phục, chỉnh

sửa bổ sung và thông báo bằng văn bản cho Mặt trận Tổ quốc.

Từ đó, để Mặt trận Tổ quốc triển khai thực hiện tốt công tác phản biện

xã hội cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, toàn diện, sát sao

của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp tích cực, trách nhiệm của chính quyền, sự

63

thống nhất của các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên và phát

huy tối đa vai trò, trách nhiệm của Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, các

tôn giáo, chuyên gia trên các lĩnh vực, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn

và sự quan tâm của toàn thể nhân dân.

3.2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật là điều kiện tiền đề để hoạt

động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được triển khai thực

hiện có hiệu quả trong thực tiễn. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật đã có

những quy định cụ thể phản biện của Mặt trận Tổ quốc , tuy nhiên vẫn còn rất

nhiều bất cập cần điều chỉnh. Nhiều nội dung, nhiệm vụ quan trọng chưa được

quy định cụ thể như việc phối hợp tham gia các đoàn thực hiện của Hội đồng

nhân dân cùng cấp thì trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận đến đâu; những

quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải

quyết, trả lời những phát hiện, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và trách nhiệm

trong việc đáp ứng các điều kiện cần thiết cho hoạt động phản biện xã hội.

Việc thực thi các văn bản pháp luật hiện hành quy định về hoạt động phản

biện của Mặt trận Tổ quốc không đầy đủ, thiếu đồng bộ, thống nhất và hiệu

quả chưa cao. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Xây dựng cơ chế pháp lý đề nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của

đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước; mở

rộng dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và

quyết định những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động nhân dân tham gia

phản biện, đóng góp ý kiến đối với quá trình xây dựng, hoạch định chủ

trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện

thượng tôn Pháp luật, bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là

64

thống nhất, song có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực

hiện quyền lực nhà nước, nhằm xây dựng các thiết chế giám sát có hiệu quả,

tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm được tính thống nhất

trong một cơ chế pháp lý hữu hiệu để Mặt trận Tổ quốc thực hiện hiện quyền

phản biện xã hội.

Trên cơ sở lý luận và thực hiện về hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc, cần sớm nghiên cứu ban hành một số luật có liên quan làm

khung pháp lý cho hoạt động này, mà trước hết là “Luật về hoạt động giám

sát và phản biện xã hội”, trong đó có quy định về hoạt động giám sát, phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khi đó sẽ quy định đầy đủ và rõ

ràng về nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả pháp lý của hoạt động giám

sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc. Đồng thời, luật cũng sẽ quy định

rõ về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với việc tiếp thu, giải trình,

xử lý các vấn đề kiến nghị, yêu cầu của Mặt trận Tổ quốc cũng như bảo đảm

những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát,

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc. Đây thực sự sẽ là những cơ sở pháp lý

quan trọng để thực hiện tốt và có hiệu quả chức năng giám sát, phả biện xã

hội của Mặt trận đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử

và cán bộ, công chức nhà nước, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam.

Tập trung triển khai Luật Phòng, chống tham nhũng một cách toàn

diện, thực chất, chú trọng việc tăng cường hoạt động phản biện của nhân dân

đối với cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước.

Cần có các điều kiện bảo đảm, các phương án bảo vệ cho những cá nhân

mạnh dạn tố cáo các hành vi tham nhũng, đi đôi với chế độ khen thưởng kịp

thời. Quốc hội cần mạnh dạn nâng “Pháp lệnh Dân chủ cơ sở” thành “Luật

Dân chủ cơ sở”, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ

65

sở; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, tổng kết thực tiễn việc triển

khai “Luật Khiếu nại”, “Luật tố cáo”, “Luật Trưng cầu dân ý” đổi mới, nâng

cao chất lượng thực hiện quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động

giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo. Tăng cường, nâng cao chất lượng

phối, kết hợp giữa hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc với các hoạt động

kiểm tra, thanh tra của Đảng, Nhà nước; phát huy vai trò của các Ban Thanh

tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng ở cơ sở và địa bàn khu dân cư.

Cải tiến, hoàn thiện chế độ, thể chế bầu cử, bảo đảm đại biểu dân cử vừa

mang tính đại diện, vừa hoạt động có chất lượng, hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc

cần đổi mới về chất hoạt động giới thiệu đại biểu và hoạt động hiệp thương

lựa chọn danh sách đại biểu. Đồng thời, cử tri cần được cung cấp đầy đủ,

chính xác thông tin về ứng cử viên cũng như chương trình hành động của họ

khi trúng cử; cần tăng cường hoạt động giám sát trực tiếp của cử tri trong quá

trình tổ chức, tham gia bầu cử.

Mặt trận Tổ quốc cần chủ trì nghiên cứu, sửa đổi Luật Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam phù hợp và sát đúng hơn trong quá trình triển khai thực hiện,

nhất là việc bổ sung quy định ngay tại Luật về cơ chế thực hiện quyền giám

sát và phản biện xã hội. Việc tham gia đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc

đối với dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật như là một hoạt động tham

gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và đang ở mức độ rất hạn chế nếu

không muốn nói là hình thức, do đó, việc lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến trong việc

xây dựng và hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần cụ thể,

rõ trách nhiệm của các cơ quan. Ngoài ra, cần có cơ chế cụ thể và xây dựng

các hướng dẫn trong giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người

đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết

Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

66

3.2.1.3. Phát huy dân chủ trong hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc; trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt

phải được quy định và công khai hóa để nhân dân biết và giám sát

Dân chủ là một trong những yêu cầu, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức

và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị của nước ta, trong đó

có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Là một trong những hoạt động cơ bản, phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đòi hỏi phải được thực hiện

theo những cơ chế và cách thức dân chủ. Yêu cầu này đặt ra đối với toàn bộ

hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cũng như đối với việc phối hợp

giám sát giữa ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên

hoặc giữa các thành viên với nhau trong quá trình thực hiện quyền giám sát.

Quy định rõ các hình thức cụ thể, tạo thuận lợi để nhân dân phản ánh,

góp ý. Thực hiện nghiêm quy chế tiếp xúc, đối thoại của người đứng đầu; quy

chế tiếp thu và trả lời sau phản biện xã hội, đối với ý kiến đóng góp của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; lắng nghe ý

kiến phản ánh, kiến nghị từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể nhân

dân với tinh thần thực sự cầu thị. Các cấp ủy phải chỉ đạo thực hiện đồng

bộ nhiều giải pháp, trong đó giám sát, kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với

trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ nêu gương của cán bộ, đảng viên; thông tin

công khai những kết quả phản ánh, xử lý, giải quyết vấn đề liên quan đến

đạo đức, lối sống, trách nhiệm của người đứng đầu mà dư luận và nhiều

người dân quan tâm.

Có cơ chế tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện phản biện

xã hội.Hoạt động phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ có thể phát

huy tốt hiệu quả khi có sự phối hợp và thực hiện một cách đồng bộ với các

hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần

có cơ chế tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động của Mặt trận Tổ

67

quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội với hoạt động kiểm tra, giám

sát của Đảng và hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Thể chế

hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc,

phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mối quan hệ “Đảng

lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; hoàn thiện và thực hiện có

hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong quyết

định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực của Nhà nước

thuộc về nhân dân; nâng cao hiệu quả, tính thiết thực trong hoạt động phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Để tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tham

gia xây dựng Đảng, Nhà nước, cần tiếp tục quan tâm phát huy và nâng cao

hơn nữa chất lượng công tác phản biện xã hội, bởi lẽ, thực hiện tốt nhiệm vụ

này sẽ góp phần quan trọng vào xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong

sạch, vững mạnh.

3.2.2. Giải pháp đối với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng trị

3.2.2.1. Phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của Nhân dân trong phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh

Tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phản

biện xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Luật Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các văn bản quy định của Trung ương và tỉnh. Chú

trọng việc lựa chọn các nội dung, vấn đề phản biện xã hội trên cơ sở phù hợp

với chức năng, nhiệm vụ, điều kiện và năng lực của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam ở mỗi cấp, mỗi địa phương; hoàn thiện cơ chế để người dân có đầy đủ

thông tin và điều kiện thuận lợi tham gia phản biện ngay từ mỗi cộng đồng

dân cư; phát huy vai trò của người dân và Ban công tác Mặt trận tham gia

phản biện cán bộ, đảng viên trên địa bàn dân cư. Kịp thời đề xuất sự chỉ đạo

thống nhất từ cấp ủy Đảng, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, huy

68

động các tổ chức thành viên, các tầng lớp nhân dân và các cơ quan báo chí,

tuyên truyền tham gia vào công tác phản biện xã hội.

Triển khai thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí theo từng

giai đoạn; thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm, lựa chọn nội dung cụ thể,

thiết thực và đề ra giải pháp thực hiện cho giai đoạn tiếp theo. Tuyên truyền,

quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm Luật phòng, chống tham nhũng năm

2018. Triển khai thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của

Ban Bí thư về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị

- xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của

người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên. Tiếp tục thực hiện và

tổng kết thực tiễn Đề án “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2019 - 2021” của Chính phủ. Nghiên cứu

xây dựng đề án và phát động cuộc vận động "Toàn dân tham gia phòng,

chống tham nhũng, lãng phí” trong giai đoạn tiếp theo.

Tăng cường phối hợp để tổ chức các diễn đàn Nhân dân, định kỳ tổ

chức gặp mặt, đối thoại giữa lãnh đạo cấp ủy, chính quyền với Nhân dân, nhất

là ở cơ sở để trao đổi, tiếp thu những ý kiến, kiến nghị của Nhân dân; kịp thời

tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, góp phần giảm thiểu những

bức xúc kéo dài. Phối hợp nâng cao chất lượng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến

nghị của cử tri và Nhân dân báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội và kỳ họp

HĐND các cấp; tăng cường theo dõi, giám sát và đôn đốc việc các cơ quan

chức năng xử lý, giải quyết và thông báo đến cử tri và Nhân dân.

Chủ động nghiên cứu, đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp

luật về cơ chế thực hiện dân chủ của Nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống

xã hội, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để Nhân dân tham gia ngày càng rộng rãi,

thực chất hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tham gia xây dựng và tổ

chức thực hiện tốt Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tập trung củng cố, nâng

69

cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư

của cộng đồng; tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan nhà nước trong

công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo. Xây dựng và củng

cố lực lượng hòa giải ở cơ sở góp phần giảm thiểu các mâu thuẫn, tranh chấp

tại địa bàn khu dân cư.

3.2.2.2. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị, xây dựng, hoàn thiện

các cơ chế, chính sách và điều kiện đảm bảo cho phản biện xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tiếp tục kiến nghị với Tỉnh ủy, Hội

đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh và Trung ương trong xây dựng và hoàn

thiện các cơ chế, chính sách bảo đảm cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và

quyết định những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động giám sát của nhân

dân. Xây dựng các thiết chế phản biện có hiệu quả, tránh sự chồng chéo về

chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm được tính thống nhất trong một cơ chế pháp lý

hữu hiệu để nhân dân thực hiện quyền phản biện xã hội thông qua Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam.

Cấp ủy, chính quyền cần quy định rõ về trách nhiệm của các cấp, các

ngành chức năng đối với hoạt động phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, cũng như bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các

hoạt động này. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tốt và có

hiệu quả chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động

của cơ quan Đảng, Nhà nước, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy,

chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam.

Tổ chức triển khai, thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng, trong

đó chú trọng việc tăng cường hoạt động phản biện của nhân dân đối với cán

bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước. Cần có

các điều kiện bảo đảm các phương án bảo vệ cho những cá nhân tố cáo các

70

hành vi tham nhũng, đi đôi với chế độ khen thưởng kịp thời gắn với thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn, thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Tổ chức

tốt việc thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đi đôi với việc đổi mới quy

trình, để nâng cao chất lượng của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây

là những “kênh” quan trọng giúp nâng cao chất lượng hoạt động giám sat,

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh trong thời gian tới.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần xây dựng quy chế phối hợp với

các cơ quan đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức

đơn vị liên quan trong việc cung cấp thông tin, nhằm bảo đảm có đầy đủ

thông tin kịp thời, chính xác làm căn cứ tổ chức tốt hoạt động phản biện xã

hội. Tổ chức tốt việc tiếp nhận và xử lý thông tin; có cơ chế tạo điều kiện

khuyến khích và bảo vệ các cá nhân, tổ chức trong tham gia phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là các vấn đề nổi cộm, bức xúc cần

những người dám nói thật, nói thẳng, đấu tranh với tiêu cực. Nghiên cứu xây

dựng quy chế và thành lập bộ phận chuyên trách của cơ quan Ủy ban MTTQ

Việt Nam tỉnh về tham mưu, tổ chức giúp Ban Thường trực trong triển khai

thực hiện chức năng phản biện xã hội có hiệu quả.

Các điều kiện đảm bảo về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật và nguồn

lực cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Trận Tổ quốc cần được quy

định cụ thể hơn với những yếu tố mang tính chất đặc thù của chức năng này.

Nhìn chung, cơ chế tài chính hiện hành cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam từ tỉnh đến cơ sở vẫn ít nhiều còn mang nặng cơ chế “xin - cho”.

Để Mặt trận Tổ quốc chủ động, linh hoạt và kịp thời tổ chức hoạt động giám

sát, phản biện xã hội, cấp ủy, chính quyền và ngành chức năng cần quan tâm,

tạo điều kiện và có những quy định thể, có thể nghiên cứu một quy chế riêng

về kinh phí tài chính cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

71

Từ thực tiễn cho thấy, ở những nơi triển khai tốt hoạt động phản biện

xã hội luôn có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy đảng, sự phối hợp tích

cực, trách nhiệm của chính quyền, sự thống nhất cao, đồng bộ của các đoàn

thể chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên; có cơ chế, chính sách phát huy

tối đa vai trò, trách nhiệm của Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, các tôn

giáo, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn và sự quan tâm của

toàn thể nhân dân.

3.2.2.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giám sát việc

thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước và Pháp luật về phản biện xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần quan tâm thực hiện tổng hợp nhiều

biện pháp, từ việc tiếp tục triển khai, tuyên truyền, tổ chức thực hiện có hiệu

quả của các cấp Mặt trận đối với các quy định về phản biện xã hội, kết quả,

tác dụng; quá trình vừa triển khai, tổ chức thực hiện vừa tiến hành đúc rút

kinh nghiệm, làm rõ những vấn đề đang tồn tại, vướng mắc, bất cập, từ đó

nâng cao nhận thức về phản biện xã hội.

Cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh cần phải tiếp tục chỉ đạo quán

triệt, triển khai các văn bản, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của

Nhà nước, nhất là Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị; Luật Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, các Luật, bộ luật và các văn bản pháp luật khác về phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; công tác nhân

sự, bố trí cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần đảm bảo năng

lực, trình độ lý luận, chuyên môn cũng như bản lĩnh để tổ chức, thực hiện tốt

chức năng giám sát, phản biện xã hội. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp

ủy, sự phối hợp của chính quyền các cấp là yếu tố quan trọng quyết định đến

hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, tác động lớn đến

nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và nhân dân gtrong toàn tình.

72

Phát huy các công cụ tuyên truyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

như Cổng thông tin điện tử Mặt trận Quảng Trị, Bản tin Công tác Mặt trận

Quảng Trị, Cổng Thông tin Cứu trợ - Thiện nguyện Mặt trận Quảng Trị,

chuyên mục Đại đoàn kết trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Trị,

chuyên mục Mặt trận và cuộc sống trên Báo Quảng Trị… để đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng những cách làm hay, sáng tạo, những

kết quả, tác dụng tích cực mang lại trong tổ chức, triển khai hoạt động phản

biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững

mạnh. Thường xuyên tuyên truyền trong Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp, Ban Công tác Mặt trận khu dân cư; các vị nhân sĩ, trí thức,

cá nhân tiêu biểu, người uy tín trong các dân tộc thiểu số, chức sắc trong các

tôn giáo. Phối hợp, hướng dẫn các tổ chức thành viên tuyên truyền rộng rãi

trong đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện,

hình thức đa dạng, hiệu quả để người dân thấy được ý nghĩa của giám sát,

phản biện xã hội, từ đó tích cực phản ánh, cung cấp thông tin phục vụ tốt hoạt

động phản biện xã hội.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ tỉnh đến cơ sở cần tích cực phát huy vai

trò chủ thể, chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhất là phát

huy vai trò chủ trì trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phản biện xã

hội hàng năm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; chọn lựa, thống nhất nội dung,

vấn đề, lĩnh vực mà nhân dân và xã hội đang bức xúc, các cấp, các ngành và

toàn xã hội đang quan tâm để tổ chức phản biện xã hội. Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh cần chủ trì, phối hợp thống nhất xây dựng, soạn thảo một

bộ tài liệu bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu cho cán bộ Mặt trận và đoàn thể

chính trị - xã hội các cấp theo từng năm phù hợp với điều kiện, tình hình địa

phương và nội dung phản biện xã hội hàng năm. Cán bộ được phân công thực

hiện nhiệm vụ phản biện xã hội phải hiểu rõ và thực hiện đảm bảo các quy

định, quy trình, cách thức tổ chức, triển khai thực hiện, từ khâu chuẩn bị, tổ

73

chức thực hiện đến các kiến nghị, đề xuất, tham gia ý kiến và theo dõi việc

thực hiện trách nhiệm theo quy định của các tổ chức, cá nhân sau phản biện

xã hội.

Việc tổ chức, triển khai thực hiện chức năngphản biện xã hội cần phải

phát huy tích cực các hình thức vận động, tuyên truyền, tập hợp, đoàn kết

nhân dân thông qua các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, kịp thời

nắm bắt tình hình và phản ánh ý kiến của nhân dân; những vướng mắc, bất

cập, sai sót trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước và địa phương. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh

cần thực hiện tốt việc thường xuyên, đột xuất, định kỳ phản ánh đến cấp ủy,

chính quyền đối với các vấn đề có liên quan. Kết hợp lắng nghe ý kiến nhân

dân, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách,

pháp luật với nhiệm vụ phản biện xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, góp phần

ổn định và phát triển quê hương.

3.2.2.4. Kết hợp phản biện xã hội với góp ý, tham gia xây dựng chính

sách, pháp luật

Song song với triển khai thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh cần coi trọng việc tham gia xây

dựng chính sách, pháp luật, xem đây là một kênh quan trọng thể hiện ý chí,

nguyện vọng của nhân dân. Xây dựng cơ chế cụ thể để việc lấy ý kiến tham

gia xây dựng chính sách, pháp luật thực sự có hiệu quả với những hình thức

và phương pháp thực hiện khoa học; phạm vi và hình thức tham gia tương

xứng và phù hợp với vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, các tổ chức thành viên và các tổ chức xã hội khác, với chủ trương thực

hiện xã hội hóa hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, tránh tình trạng

nhiều dự án, dự thảo chính sách, pháp luật sau khi được đưa ra các cơ quan

74

nhà nước có thẩm quyền thảo luận thì mới nhận được phản ứng từ phía dư

luận xã hội.

Quy trình về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần

phải được thực hiện một cách dân chủ, khoa học. Đặc biệt là phải công khai

lấy ý kiến rộng rãi của nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, nhất là đối

tượng liên quan, chịu tác động trực tiếp, có như vậy, văn bản quy phạm pháp

luật được ban hành mới có tính khả thi cao. Cần phải công bố công khai quá

trình hoạch định, triển khai các chủ trương, chính sách để nhân dân, các tổ

chức có liên quan có điều kiện trao đổi, bàn bạc, tham gia ý kiến đóng góp,

điều chỉnh, bổ sung ngay từ đầu khi hoạch định các chủ trương, chính sách

hoặc trong quá trình triển khai thực hiện. Cần có các quy định về hình thức,

thời gian công khai các dự án, dự thảo văn bản quy phạm, pháp luật, dự thảo

luật trên cổng thông tin điện tử của các cấp, các ngành và phương tiện thông

tin đại chúng. Cơ quan chủ trì mở hộp thư góp ý điện tử để có thể tiếp nhận

các ý kiến tham gia của nhân dân, kịp thời trao đổi, phản hồi các ý kiến của

công dân thông qua các kênh thông tin điện tử.

Việc tiếp thu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các chủ trương,

chính sách, các Luật, Bộ luật cần nghiên cứu, tiếp thu, chắt lọc ý kiến nhân

dân, các nhà khoa học, chuyên gia trên các lĩnh vực có liên quan. Trong các

văn bản có liên quan cần làm rõ thời điểm cần tiến hành lấy ý kiến, phạm vi

lấy ý kiến, nội dung lấy ý kiến; bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình,

tiếp thu ý kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, cần quy

định cụ thể về thời gian tổ chức lấy ý kiến; nội dung lấy ý kiến của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tránh trùng lặp. Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phối hợp với các sở ngành liên qua kiến

nghị sửa đổi các quy định liên qua để tạo cơ chế thuận lợi hơn cho Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật, phản biện xã hội; đề xuất

từng bước bước nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát, phản biện xã hội để tạo

75

hành lang pháp lý cũng như các cơ chế, chế tài đảm vảo giám sát, phản biện

xã hội được triển khai thực hiện.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh cần tăng cường

phối hợp với các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan có thẩm quyền trong

triển khai hoạt động phản biện xã hội; cán bộ làm công tác phản biện xã hội

cần phải sâu sát hơn với cơ sở và các tầng lớp nhân dân, biết lắng nghe ý kiến

phản ánh của nhân dân để phục vụ tốt cho nhiệm vụ của mình. Thông qua

hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên, Mặt trận thường xuyên

tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và các tầng lớp nhân dân; có các hình

thức phù hợp để lắng nghe ý kiến của người có uy tín, tiêu biểu từ khu dân cư,

ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học và nhân dân. Nâng cao chất lượng

các kênh thông tin, trang thông tin điện tử của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam cấp tỉnh, cấp huyện để tăng cường hiệu quả trong tiếp cận, tiếp thu và

tổng hợp thông tin, tăng cường nguồn tư liệu quan trọng giúp cho công tác

phản biện xã hội trở nên thiết thực và hiệu quả.

Để thực hiện hiệu quả hoạt động phản biện xã hội, tham gia, góp ý,

điều chỉnh, bộ sung các chủ trường, chính sách pháp luật, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh cần phát huy tích cực sự tham gia đóng góp của các tổ chức

thành viên, các cá nhân tiêu biểu, 03 Hội đồng tư vấn của Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh, lực lượng cộng tác viên, chuyên gia trên các lĩnh vực,

đồng thời xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và nhân sự bảo đảm có đủ năng

lực, nhân lực và nguồn lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn hiện nay.

3.2.2.5. Nâng cao hiệu quả trong tiếp thu, xử lý, giải quyết trong hoạt

động phản biện xã hội

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh tiếp tục kiến

nghị, tham mưu, đề xuất cấp ủy, chính quyền hoàn thiện các quy định về phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội,

trong đó cần có các quy định cụ thể, chi tiết về cơ chế tiếp thu, phản hồi ý

76

kiến, kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội. Đề nghị sửa đổi, bổ sung các

Luật, các quy định có liên quan đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc quy định rõ quy

trình, cách thức giám sát, phản biện xã hội; trách nhiệm của các cơ quan, tổ

chức có liên quan trước, trong và sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, thời hạn phản hồi, xử lý, giải quyết các ý kiến, kiến nghị

sau giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức trong hệ

thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và khu dân cư, các cấp, cấp, các ngành về

hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tiếp tục tăng

cường công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, thực tiễn về hoạt động phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị các cấp

trong tỉnh. Đưa nội dung hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam vào các chương trình giảng dạy, bồi dưỡng kiến thức, tập huấn

trong hệ thống các trường chính trị, hành chính các cấp trong tỉnh.

Quan tâm, tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao

kỹ năng phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận. Tổ chức

biên tập, phổ biến tài liệu và tổ chức tập huấn thường xuyên về kỹ năng tổ

chức các hoạt động phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp

trong tỉnh (kể cả cán bộ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên). Chú trọng bồi dưỡng và rèn luyện

kỹ năng theo dõi, đôn đốc việc tiếp thu, xử lý, giải quyết, phản hồi các ý kiến,

kiến nghị sau phản biện xã hội của các cơ quan, tổ chức và đối tượng được

giám sát, phản biện. Tăng cường các hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm

và nhân rộng những mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt

động giám sát, phản biện xã hội; kịp thời rút kinh nghiệm đối với những cơ

quan, tổ chức còn chưa quan tâm hoặc chưa thực hiện tốt hoạt động phản biện

xã hội.

77

Tiếp tục tăng cường cơ chế huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân

dân, của báo chí và toàn xã hội vào hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam. Trước hết là phát huy sự tham gia, đóng góp của hội viên,

đoàn viên, thành viên, ủy viên thuộc hệ thống Mặt trận và các tổ chức thành

viên, các chuyên gia, nhà khoa học, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng triển

khai các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tăng sức thuyết phục đối với cơ

quan, tổ chức là đối tượng được giám sát, phản biện trong tiếp thu, giải trình,

phản hồi, xử lý, giải quyết các ý kiến, kiến nghị đề xuất sau phản biện. Cùng

với đó là thường xuyên theo dõi, đôn đốc các cơ quan, tổ chức thực hiện trách

nhiệm có liên quan theo quy định sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc. Trong trường hợp các cơ quan, tổ chức này đã được đôn đốc, nhắc

nhở nhưng vẫn không thực hiện theo quy định, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần

có văn bản gửi cơ quan cấp trên của cơ quan này hoặc cơ quan có thẩm quyền

xử lý, giải quyết theo quy định.

3.2.2.6. Nhân sự trong phản biện xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh cần lựa chọn và xây

dựng cho được lực lượng nòng cốt để vừa làm chỗ dựa vừa làm nhiệm vụ tiên

phong đột phá. Cần nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, trên cơ sở đó có sự lựa chọ, bố trí cán bộ phù hợp. Nguồn lực con

người để thực hiện phản biện xã hội cần được đảm bảo và quy định rõ trong

các văn bản về công tác tổ chức cán bộ của Mặt trận Tổ quôc các cấp trong

tỉnh và được cấp ủy cùng cấp phê duyệt thông qua. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp cần phát huy tối đa tiềm năng và vai trò to lớn của các tổ

chức thành viên, các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học,

các Hội đồng tư vấn, Ban Tư vấn đồng thời thông qua hoạt động của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Mặt trận tổng hợp ý kiến, kiến

nghị của cử tri và các tầng lớp nhân dân, tập hợp dư luận xã hội. Đây là nguồn

thông tin, tư liệu vô cùng phong phú, đa dạng và riêng có của Mặt trận Tổ

78

quốc trên phương diện cả về lý luận và thực tiễn để làm cơ sở tổ chức hoạt

động giám sát, phản biện xã hội.

Tập trung xây dựng bộ máy cơ quan chuyên trách Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, nhất là về năng lực

chuyên môn, lý luận và bản lĩnh để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ công tác

Mặt trận và hoạt động phản biện xã hội. Tổ chức phải đủ về số lượng và chất

lượng, tổ chức hoạt động một cách hợp lý, khoa học. Xây dựng tiêu chuẩn

của đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu của công tác Mặt trận trong thời kỳ

mới. Chủ động phối hợp với các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức

đoàn thể trong quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bộ nhiệm, đề bạt cán bộ Mặt

trận. Công tác tuyển chọn, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ cũng cần đổi mới

nhằm đáp ứng tình hình mới. Trong chính sách đãi ngộ, cần thực hiện tốt

những giải pháp theo Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/1/2014 của Bộ Chính

trị về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa

học trẻ nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào công tác tại cơ quan

Mặt trận.

3.2.2.7. Kinh phí bảo đảm hoạt động phản biện xã hội

Hiện nay, các văn bản hướng dẫn chế độ chi cho hoạt động phản biện

xã hội bước đầu đã tạo nền móng quan trọng cho việc triển khai thực hiện

chức năng này của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng vẫn còn một số điểm

chưa hợp lý, bất cập, cần nghiên cứu điều chỉnh bổ sung như: mức chi thấp,

nhiều địa phương không cân đối được kinh phí mặc dù đã có văn bản hướng

dẫn, nhiều đơn vị cấp huyện phải thông qua Nghị quyết của Hội đồng Nhân

dân tỉnh mới có kinh phí để chi, thêm một cấp hành chính mặc dù đã có các

Nghị định, Thông tư quy định; nhiều nơi mức chi thấp hơn hướng dẫn. Như

vậy, kinh phí bảo đảm cho hoạt động phản biện xã hội các cấp trên địa bàn

tình nhìn chung vẫn còn khó khăn, hạn chế, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

79

Nam các cấp, nhất là cấp tỉnh cần tiếp tục theo dõi, nghiên cứu để kiến nghị,

đề xuất đề nghị bổ sung, điều chỉnh một cách phù hợp trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, các cấp, các ngành cần thực hiện tốt việc tuyên truyền,

phổ biến rộng rãi về quyền và nghĩa vụ của công dân, tích cực tham gia thực

hiện tốt các quy định của Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

quy định khác của pháp luật về vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp trong tỉnh cần chủ động đề xuất xây dựng các văn bản quy phạm

pháp luật về phản biện xã hội để cụ thể hóa các quy định liên quan Hiến pháp,

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời, cần nghiên cứu, đề xuất với cấp

ủy, chính quyền xây dựng các chính sách đảm bảo cho việc triển khai, thực

hiện hiệu quả hoạt động phản biện xã hội.

3.2.2.8. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh cần tự đổi mới

hoạt động phản biện xã hội

Tiếp tục phát huy vai trò chủ động, chủ trì của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp trong việc xây dựng kế hoạch phản biện xã hội hằng năm, nhất

là việc xác định, lựa chọn nội dung, phạm vi, hình thức phản biện xã hội, góp

ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền phù hợp với tình hình thực tế tại địa

phương. Phân định rõ nội dung Mặt trận chủ trì, nội dung từng đoàn thể chính

trị- xã hội chủ trì. Trong tổ chức thực hiện phải linh hoạt, quan tâm đến những

vấn đề lớn nảy sinh, không cứng nhắc chỉ làm theo kế hoạch. Kết hợp chặt

chẽ việc nắm bắt dư luận xã hội, tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của đoàn

viên, hội viên và nhân dân đối với hoạt động phản biện xã hội, góp ý xây

dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Trước khi tiến hành hoạt động phản biện xã hội, Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở lý luận, cơ sở

pháp lý và cơ sở thực tiễn. Đối với các vụ việc phức tạp, những nội dung còn

nhiều ý kiến khác nhau cần tiến hành khảo sát, điều tra xã hội học, phân công

80

trách nhiệm cụ thể cho các chuyên gia, nhà khoa học. Việc tập hợp, tổng hợp

ý kiến, kiến nghị phản biện xã hội và góp ý phải khoa học, khách quan, trung

thực, đầy đủ, có sự chắt lọc đảm bảo đầy đủ căn cứ pháp lý, khoa học và thực

tiễn, đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thi, bảo đảm thời gian và sức

thuyết phục đối tượng được phản biện xã hội. Phân công cán bộ có trách

nhiệm, mở sổ thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc tiếp thu, trả lời các ý kiến,

kiến nghị sau phản biện xã hội của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

Quá trình triển khai hoạt động phản biện xã hội phải bám sát hướng dẫn,

các quy định, quy chế đảm bảo đúng quy trình, đồng thời vận dụng linh hoạt

cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn địa phương và nội dung lĩnh vực giám

sát. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phát huy tích cực sự đóng góp,

tham gia của các Hội đồng tư vấn, Ban Tư vấn, các nhân sỹ, trí thức, các nhà

khoa học, các chuyên gia trên các lĩnh vực, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám

sát đầu tư của cộng đồng, nhất là trong giám sát, phản biện xã hội, xây dựng

Đảng, xây dựng chính quyền. Kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hàng năm

cần phải phù hợp với chức năng, nhiệm của của Mặt trận và các đoàn thể chính

trị - xã hội và điều kiện thực tiễn của địa phương, cơ sở; cần nghiên cứu kỹ

càng, khoa học trong lựa chọn nội dung đúng, trúng những vấn đề mà xã hội,

nhân dân và dư luận quan tâm.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần quan tâm, lựa chọn bố trí

những cán bộ có trình độ chuyên môn sâu, năng lực nhìn nhận, phân tích,

đánh giá vấn đề, có tư duy độc lập và năng lực tổng hợp, phản biện, có bản

lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc; cần

thường xuyên bồi dưỡng tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ để đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp cần chủ động đổi mới và nâng cao chất lượng phối hợp với các

tổ chức sở sở Đảng, các cấp chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội

cùng cấp, nhất là trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Các cấp ủy

81

đảng, chính quyền cũng cần thay đổi cách nhìn nhận cũng như tạo mọi điều

kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã

hội tổ chức triển khai tốt hoạt động phản biện xã hội của mình, tham gia xây

dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

3.2.2.9. Tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức,

nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp và Ban Công tác

Mặt trận ở khu dân cư, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh cấn nghiên cứu, tham

mưu, đề xuất hoàn thiện cơ chế về sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp của chính

quyền, các chủ trương, chính sách, quy chế, quy định của cấp ủy, chính quyền

đối với hoạt động, công tác Mặt trận; đổi mới nội dung phối hợp với các cấp

chính quyền, các tổ chức thành viên và không là thành viên. Xây dựng Ủy ban

Mặt trận các cấp với thành phần, cơ cấu hợp lý, coi trọng tính tiêu biểu, tính

đại diện và tính thiết thực; mở rộng thành phần là những cá nhân tiêu biểu, đại

diện cho các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, có đủ điều kiện, tiêu

chuẩn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay để Mặt trận thực sự là tổ chức liên

minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, đại diện tiêu biểu cho ý chí và nguyện

vọng của các tầng lớp nhân dân.

Thường xuyên củng cố kiện toàn, tổ chức bộ máy phù hợp với chức

năng, nhiệm vụ mới theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả, thiết thực,

xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, tâm huyết, linh hoạt, sáng tạo, đảm

bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu phù hợp gắn với kết quả và sản phẩm cụ

thể; phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên; nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn và Ban

Công tác Mặt trận ở khu dân cư.

Từng bước hoàn thiện, kiện toàn tổ chức, bộ máy cán bộ Mặt trận các

cấp theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, tổ chức thực hiện có chất lượng Đề án “Nâng cao chất lượng đội ngũ

82

cán bộ Mặt trận các cấp, nhất là cấp cơ sở” gắn với bố trí lại các Ban, Văn

phòng cơ quan chuyên trách Mặt trận các cấp trong tỉnh. Tổ chức có chất

lượng công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

cho cán bộ Mặt trận các cấp, nhất là cấp cơ sở và khu dân cư. Nâng cao chất

lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp và Ban Công

tác Mặt trận ở khu dân cư. Xây dựng và triển khai thành công Đề án “Nâng

cao vai trò các tổ chức thành viên, ủy viên Ủy ban Mặt trận các cấp trong phối

hợp, triển khai thực hiện các hoạt động, công tác Mặt trận”.

83

PHẦN III: KẾT LUẬN

Nhằm xây dựng và từng bước hoàn thành nền dân chủ Xã hội Chủ

nghĩa, hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân

dân, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đã nhận được sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, thực tế vẫn còn thiếu nhiều văn bản pháp lý, cơ

chế phản biện làm cơ sở, căn cứ để tổ chức thực hiện. Những vấn đề chung

nhất Mặt trận Tổ quốc; các vấn đề lý luận về phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc được quy định trong nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc, các chương trình phối hợp, Nghị quyết liên ngành và nhiều văn bản

khác, là cơ sở pháp lý quan trọng cho Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam triển khai,

tổ chức thực hiện chức năng phản biện xã hội mình.

Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Trị có tác

động, ảnh hưởng đến hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cũng có đóng

góp to lớn trong những thành tựu chúng của tỉnh nhà, nhất là việc phát hiện,

kiến nghị, đề xuất, tìm ra các cách thức, giải pháp khắc phục những hạn chế,

tồn tại trong hoạt động quản lý, điều hành, triển khai tổ chức thực hiện nhiệm

của của các cơ quan Nhà nước. Đó là các hoạt động tham gia với Đoàn đại

biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân

dân tỉnh; tham gia góp ý vào dự thảo các văn bản của Đảng, Nhà nước, các cơ

quan, các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh…

Cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong những năm gần đây được đề cập trong

đề tài để làm cơ sở đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa chức năng

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, góp phần xây dựng hệ thống lý luận

thực tế về phản biện xã hội. Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh Quảng Trị đã thực hiện một số nội dung giám sát, phản biện và thu

được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình tổ chức triển

84

khai vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập; vừa tổ chức, triển khai, thực hiện,

vừa rút kinh nghiệm, do đó hiệu lực, hiệu quả và tính thực thi chưa cao; chưa

thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nhân dân kiểm soát quyền lực của

mình. Căn cứ vào các quan điểm, định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung

ương và Tỉnh đối với hoạt động phản biện xã hội; với điều kiện, đặc điểm,

tình hình thực tiễn của địa phương, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng

cao chất lượng hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn tiếp theo trong đó đưa ra các giải pháp chung;

tập trung phân tích các giải pháp riêng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

tỉnh Quảng Trị.

Để phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh thực sự đáp ứng yêu

cầu trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước, cáp ủy, chính quyền các cấp cần đổi

mới trong nhận thức, quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện và có các chủ trương, chính

sách, cơ chế phù hợp thiết thực để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện đầy đủ,

hiệu quả, thực chất chức năng phản biện xã hội; phát huy dân chủ, trách nhiệm

nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong hoạt động phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tự đổi

mới hoạt động phản biện xã hội cùng với cần đổi mới mạnh mẽ, toàn diện về

nhận thức, về công tác tổ chức bộ máy cán bộ; phát huy dân chủ, đại diện, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tăng cường tuyên

truyền, phổ biến, tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chủ

trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước và địa phương; chủ

động kiến nghị, đề xuất các điều kiện, cơ chế, chính sách đảm bảo cho hoạt

động phản biện xã hội; nâng cao hiệu quả trong tiếp thu, xử lý, giải quyết

trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc phải xác định

phản biện xã hội là một chức năng cơ bản, là yếu tố quan trọng và là cơ sở để

nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam./.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thọ Ánh (2012), Thực hiện chức năng giám sát và phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

2. Ban Bí thư (2018), Chỉ thị số 17-CT/TW về lãnh đạo Đại hội Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 – 2024.

3. Ban chấp hanh Trung ương Đảng khóa IX (2003), Nghị quyết số 23-

NQ/TW “về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

4. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (2018), Báo

cáo sơ kết 05 năm thực hiện Quyết định 217-QĐ/TW và Quyết định 218-

QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (Khóa XI).

5. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2016), Kế

hoạch triển khai giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại

biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.

6. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2017), Báo

cáo “Về việc thực hiện Chỉ thị 24-CT/TU ngày 09/9/2014 của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy (khóa XV) về thực hiện Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị”.

7. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2017), Báo

cáo kết quả Giám sát và phản biện xã hội năm 2017, dự kiến nội dung

GSPBXH năm 2018 của UBMTTQVN tỉnh Quảng Trị.

8. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2018), Báo

cáo công tác giám sát, phản biện xã hội năm 2018; phương hướng, nhiệm vụ

năm 2019 của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh.

9. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2019), Báo

cáo tổng hợp kết quả giám sát, phản biện xã hội năm 2019; phương hướng,

nhiệm vụ năm 2020 của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh.

10. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2014),

Hướng dẫn số 13/HDGS&PB-MTTQ-BTT “Hướng dẫn quy trình giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp”;

11. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2014),

Hướng dẫn số 09/HD-MTTQ-BTT “Hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh thực hiện một số điều của Quyết định

217, 218-QĐ/TW”.

12. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2014), Kế

hoạch số 07/KH-MTTQ-BTT về việc “Tổ chức triển khai Quyết định 217,

218-QĐ/TW trong hệ thống Mặt trận tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố”.

13. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2015), Báo

cáo Tổng kết công tác năm 2015, chương trình phối hợp thống nhất hành

động năm 2016.

14. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2016), Báo

cáo Tổng kết công tác năm 2016, chương trình phối hợp thống nhất hành

động năm 2017.

15. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2017), Báo

cáo Tổng kết công tác năm 2017, chương trình phối hợp thống nhất hành

động năm 2018.

16. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2018), Báo

cáo Tổng kết công tác năm 2018, chương trình phối hợp thống nhất hành

động năm 2019.

17. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2019), Báo

cáo Tổng kết công tác năm 2019, chương trình phối hợp thống nhất hành

động năm 2020.

18. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị (2014), Chỉ thị số 24-CT/TU về

việc thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính

quyền”.

19. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị (2018), Quyết định số 907-QĐ/TU

ban hành “Quy định trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền trong việc tiếp thu,

giải quyết kiến nghị của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân

sau giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền”.

20. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị (2018), Quyết định số 908-QĐ/TU

về việc ban hành “Quy định về tổ chức giám sát, phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh”

21. Nguyễn Thanh Bình (2011), “Về điều kiện đảm bảo cho hoạt động

giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Lý luận

chính trị, số 6.

22. Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành “Quy chế

giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội”.

23. Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 218-QĐ/TW ban hành “Quy định

Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây

dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.

24. Trương Quốc Chính (2013), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

theo quan điểm macxit, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Chính phủ (2005), Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg về “Quy chế giám

sát đầu tư cộng đồng”.

26. Chính phủ (2014), Nghị định số 49/2014/NĐ-CP về “Giám sát, thanh

tra, kiểm tra doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và các

quyết định của chủ sở hữu”

27. Chương trình phối hợp số 30/CTPT-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018,

“Chương trình phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 7 khóa XII.

28. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

2011.

29. Phạm Thế Duyệt (2006), "Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể nhân dân trong giai đoạn mới", Tạp chí Mặt trận, số 30.

30. Huỳnh Đảm (2011), “Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết XI của

Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 829.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà

Nội.

36. Nguyễn Hữu Đổng (2010), Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong

hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Trương Thị Hồng Hà (2007), "Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho

nhân dân tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội",Tạp chí Cộng

sản, số 8.

38. Hoàng Hải (2007), "Về phản biện và giám sát xã hội", Tạp chí Xây

dựng Đảng, số 9.

39. Vũ Thị Như Hoa (2013), Nâng cao chất lượng phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ.

40. Đoàn Minh Huấn (2010), Tạp chi Tổ chức nhà nước số 5.

41. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, T5;

(tr644).

42. Vũ Trọng Kim (2006), "Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng,

Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo cơ sở để thực hiện tốt

quyền làm chủ của nhân dân", Tạp chí Mặt trận, số 36.

43. Nguyễn Thị Lan (2011), "Tăng cường hoạt động phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân",Tạp chí Lý luận Chính trị, số 12.

44. Trần Thanh Mẫn (2019), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tăng

cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng

của các tầng lớp nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 1265.

45. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Thông tri số 28/TTr-MTTW-BTT

hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc các cấp triển khai Quyết định số 217-QĐ/TW và

Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị

47. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Kế hoạch số 471/KH-MTTW-BTT

triển khai hoạt động giám sát và phản biện năm 2014.

48. Một số văn bản có liên quan đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị: kế hoạch, báo cáo, hướng

dẫn, công văn, quyết định, văn kiện… của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh.

49. Trần Ngọc Nhẫn (2011), “Giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan

trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Mặt trận, Số 2.

50. Dương Xuân Ngọc (2008), "Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam", Tạp

chí Lý luận Chính trị. số 9.

51. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb

Lý luận chính trị, Hà Nội.

52. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2007), Đổi

mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã

hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Văn Pha (2016), “Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt

vai trò giám sát và phản biện xã hội”, tạp chí xây dựng Đảng, số 1,2.

54. Quốc hội (2013), Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam.

55. Quốc Hội (2015), Luật trưng cầu dân ý.

56. Quốc Hội (2015), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân.

57. Phan Xuân Sơn (2007), Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc, các tổ

chức chính trị - xã hội với các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, Tài liệu

Hội thảo khoa học - Ban Dân vận trung ương.

58. Hoàng Đức Thắng (chủ biên) (2015), “Phát huy vai trò giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong giai

đoạn hiện nay”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh.

59. Nguyễn Văn Thanh (2003), Thực hiện chức năng giám sát của Mặt

trận Tổ quốc đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay,

Luận văn Thạc sĩ chính trị học.

60. Nguyễn Đức Thành (2012), “Hoạt động giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể - nhìn từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”, tạp

chí Mặt trận, số 108.

61. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (chủ biên), Nguyễn Thị

Hồng Diễm (2009), Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

62. Bùi Thị Nguyệt Thu (2016), “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam – Thực tiễn và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ - pháp luật,

cơ quan ngôn luận của Bộ tư pháp.

63. Đoàn Minh Tuấn, Vũ Thị Như Hoa (2001), “Phát huy dân chủ trong cơ

chế một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, Số 46.

64. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt

Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Đỗ Quang Tuấn (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối

với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Xuân Trường (2007), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát

bầu cử đại biểu Quốc hội, Tạp chí Mặt trận, Số 43.

67. Ủy ban Thường vụ Quốc Hội (2012), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn năm 2007, sửa đổi bổ sung năm 2012.

68. Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2014), Báo cáo chính trị Đại

hội đại biểu MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị lần thứ XI, nhiệm kỳ 2014 –

2019.

69. Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị (2014), Chương trình hành

động thực hiện Nghị quyết Đại hộiđại biểu MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị

lần thứ XII, nhiệm kỳ 2019 – 2024.

70. Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị (2019, 2020, 2021), Báo cáo tình hình

kinh tế - xã hội, Quốc phòng – An ninh năm 2019, 2020, 2021 và Kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo Quốc phòng – An ninh năm 2020, 2021,

2022.

71. Ủy ban Thường vụ Quốc hôi – Chính phủ - Đoàn Chủ tịch Ủy ban

Trung ương MTTQ Việt Nam (2017), Nghị quyết liên tịch số

403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN “Quy định chi tiết

hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.

72. Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (2014), Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2014 – 2019.

73. Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 – 2024.