BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI THỊ THU HƯƠNG

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI THỊ THU HƯƠNG

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG MAI HÀ NỘI - NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu, số liệu, kết quả trong luận văn

này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những số liệu

trong luận văn, bảng biểu phục vụ phân tích đánh giá được tác giả thu thập từ

nhiều nguồn tài liệu khác nhau, có ghi nguồn gốc trích rõ ràng. Nếu phát hiện

có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận

văn của mình.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hương

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành bài luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng tôn kính và

biết ơn chân thành sâu sắc tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo, Khoa Hành

chính học và Khoa Quản trị nhân lực cùng các quý thầy, cô trong Học viện

Hành chính Quốc gia đã tạo những điều kiện tốt nhất, giúp đỡ tác giả trong suốt

quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn.

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lãnh đạo và các đồng nghiệp

Phòng Tổ chức cán bộ, Đại học Bách khoa Hà Nội đã giúp đỡ, cung cấp cho

tác giả những thông tin, tài liệu quý giá và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành

luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn

khoa học - PGS.TS Hoàng Mai đã quan tâm chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tận

tình về nội dung và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình thực

hiện luận văn này. Xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè,

đồng nghiệp đã luôn hỗ trợ, động viên, chia sẻ và tạo điều kiện thuận lợi giúp

tác giả vượt qua những khó khăn để hoàn thành luận văn.

Do những điều kiện chủ quan, khách quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu

của luận văn còn những điều thiếu sót. Tác giả rất mong tiếp tục nhận được

những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng vấn đề được lựa

chọn nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hương

MỤC LỤC

NỘI DUNG TRANG STT

Mở đầu 1

14 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI

NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG

LẬP Ở VIỆT NAM

1.1 Khái niệm và đặc điểm về phát triển đội ngũ giảng viên các 14

trường đại học công lập

1.2 Nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên các trường 22

đại học công lập

1.3 Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các 31

trường đại học công lập ở Việt Nam

Tiểu kết Chương 1 38

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ 39

GIẢNG VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ

NỘI GIAI ĐOẠN 2016-2021

2.1 Khái quát quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên 39

tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

2.2 Phân tích thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên Trường 43

Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021

2.3 Những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên 56

tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021

2.4 Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong phát triển đội 59

ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai

đoạn 2016-2021

62 Tiểu kết Chương 2

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 63

ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH

KHOA HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Trường 63

Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới

3.2 Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách 76

khoa Hà Nội trong thời gian tới

3.3 Đề xuất, kiến nghị 83

Tiểu kết Chương 3 90

KẾT LUẬN 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀ TÀI 98

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam, các trường đại học có

nhiệm vụ chính là cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho nền sản xuất để

tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Sự nghiệp giáo dục nói chung và

giáo dục đại học nói riêng ở Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945

đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xây dựng nguồn lực con

người Việt Nam - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải

phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời đại cách mạng khoa

học công nghệ hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri

thức, các trường đại học ở Việt Nam tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc đào

tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; nhân lực trình

độ đại học và sau đại học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có kiến thức, kỹ năng

thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.

Các trường đại học ở Việt Nam nói chung, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

nói riêng đã có những đóng góp rất to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, đội

ngũ giảng viên nói riêng của các trường đại học nói chung, Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội nói riêng đã bộc lộ những bất cập và hạn chế, chưa tương

xứng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa và xã hội ở Việt Nam. Đó là sự

thiếu hụt về số lượng, chưa cân đối về cơ cấu đội ngũ giảng viên. Sự phát

triển của nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và tốc độ tiến nhanh như

vũ bão của khoa học - công nghệ, yếu tố con người trong cuộc Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư đã và đang đặt ra thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh

1

vực và mọi ngành nghề, đặc biệt là đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo

nước nhà. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng không nằm ngoài những

cơ hội và thách thức đó.

Trong những năm gần đây, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã có

những đổi mới toàn diện, đưa vị thế của Nhà trường từng bước được nâng

cao trong khu vực và trên thế giới, khẳng định vị trí tiên phong trong hệ

thống giáo dục đại học Việt Nam. Để trở thành một đại học nghiên cứu hàng

đầu với nòng cốt là kỹ thuật và công nghệ; tác động quan trọng vào phát triển

nền kinh tế tri thức và phát triển đất nước; đi tiên phong trong hệ thống giáo

dục đại học Việt Nam thì một trong những yếu tố then chốt là phải có đội

ngũ giảng viên là các nhà khoa học đầu ngành làm nòng cốt để dẫn dắt, thúc

đẩy và phát triển công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ ở

tầm cao mới. Đây thực sự là thách thức đang đặt ra đối với Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội trong bối cảnh thực hiện việc chuyển đổi thành Đại học

Bách khoa Hà Nội.

Nghị quyết số 19/NQ-TW Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII về

tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã xác định “Nhà nước tập trung

đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các

trường đại học công lập ở một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế”.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là một trong số các trường đại học công lập

thuộc diện này, do đó cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá thực trạng để có

những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.

Từ những lý do trên, và qua quá trình học tập hệ đào tạo cao học chuyên

ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia, tôi lựa chọn chủ đề:

“Phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội” để thực

hiện đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

SuYan Pan, Hong Kong University Press, 2009, “Tự chủ đại học, nhà

nước và những thay đổi xã hội ở Trung Quốc”. Người dịch: Phạm Thị Ly, trong

Thông tin Giáo dục quốc tế và so sánh của Đại học Hoa Sen, số 02/2010. Đây là

cuốn sách trình bày khá chi tiết, sâu sắc về lược sử quyền tự chủ, các mô hình tự

chủ đại học trên thế giới. Tài liệu cũng đề cập đến tự chủ đại học, một khái niệm,

một hướng đi bắt đầu được quan tâm và thừa nhận ở Trung Quốc.

Don Anderson Richard Johnson, Centre for Continuing Education The

Australian National University, April 1998, “University Autonomy in Twenty

Countries”. Báo cáo này nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà nước và các cơ sở

giáo dục đại học ở 20 quốc gia trên thế giới, có liên hệ so sánh với thực tiễn Liên

bang Australia. Báo cáo này đã đánh giá xem mức độ can thiệp pháp lý của nhà

nước đến các trường đại học; phân tích thực trạng quyền tự chủ của 3 nhóm nước

có truyền thống tự chủ khác nhau: nhóm Anh - Mỹ, nhóm Châu Âu và nhóm các

nước châu Á; trong đó có nhiều phân tích, đánh giá về phát triển đội ngũ giảng

viên tại các cơ sở giáo dục đại học ở 20 quốc gia.

Hauptman, A.M, 2007, Four models of growth, International Higher

Education. Đây là một báo cáo khoa học nhằm mục đích nghiên cứu và trình

bày bốn kịch bản cho sự phát triển của giáo dục đại học trên thế giới dựa vào

sự phụ thuộc về tài chính của các cơ sở giáo dục đại học vào nhà nước.

Phạm Phụ, sách chuyên khảo “Về khuôn mặt mới của giáo dục đại học

Việt Nam” phiên bản trực tuyến tại địa chỉ: http://voer.edu.vn/c/4c212f92.

Cuốn sách trình bày nhiều nội dung về giáo dục đại học, đặc biệt là vai trò của

quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học. Tác giả cuốn sách cho rằng, vai trò

quản lý của nhà nước chỉ nên tập trung vào chiến lược và chính sách, quy chế

và tiêu chuẩn, đẩy mạnh phân cấp và ủy quyền, nâng cao tính tự chủ của các

cơ sở giáo dục đại học; xây dựng cơ chế quản lý phát triển các cơ sở giáo dục

3

đại học (trong đó có nội dung về phát triển đội ngũ giảng viên) bằng pháp luật

và chính sách, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển

và đảm bảo công tác giám sát kiểm tra, phát huy quyền tự chủ của các trường

đại học nhằm quản lý một cách có hiệu quả - hiệu suất, chất lượng và có khả

năng cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa. Cuốn sách có diện phổ quát khá

rộng và sâu về cách tiếp cận hệ thể chế, với nền tảng lý luận là mối quan hệ

giữa nhà nước và trường đại học.

Phạm Thị Ly, “Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả. Kinh

nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam”, trong sách “Đổi mới

giáo dục đại học Việt Nam - hai thời khắc đầu thế kỷ”, [NXB Văn hóa TP Hồ Chí

Minh, 2009, tr.211-243]. Trong bài viết này, tác giả Phạm Thị Ly đã phân tích sâu

sắc về giáo dục đại học Hoa Kỳ, mô hình quản trị đại học ở Hoa Kỳ, vai trò của

Hội đồng quản trị trong việc quyết định các vấn đề hệ trọng của nhà trường, như

mục tiêu chiến lược phát triển, vấn đề tài chính, và vấn đề phát triển nhân sự (một

cách nói khác về đội ngũ giảng viên) trong các trường đại học ở Hoa Kỳ.

Nghiêm Đình Vỳ, “Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục -

đào tạo trong thời kỳ đổi mới”, đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

năm 2016. Bài viết tập trung phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

về giáo dục và đào tạo, trong đó có một số nội dung đề cập vấn đề phát triển

đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đào Ngọc Nam, “Đổi mới quản trị cơ sở giáo dục đại học công lập hiện

nay”, [Tạp chí Quản lý giáo dục số 76, 9/2015, tr.14]. Bài báo phân tích hiện

trạng về quản trị nhân lực của các cơ sở giáo dục đại học công lập, những chính

sách đối với giáo dục đại học công lập và những nhiệm vụ, giải pháp đổi mới

quản trị nói chung, quản trị phát triển nhân lực nói riêng tại các cơ sở giáo dục

đại học công lập ở Việt Nam.

4

Trần Ngọc Giao, “Quản lý nhà nước về giáo dục đại học - thực trạng

trong sự so sánh và một số đề xuất” [trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giáo

dục đại học - Chuẩn hóa và Hội nhập quốc tế” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,

Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khóa XIII phối hợp Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2018]. Tác giả bài viết cho

rằng bản chất của quản lý nhà nước về giáo dục đại học là sự đảm bảo thực hiện

những cam kết của nhà nước đối với sự phát triển của giáo dục đại học (trong

đó có phát triển đội ngũ giảng viên), đưa ra so sánh về thực hiện cam kết này

trong mối tương quan với một số quốc gia ở khu vực châu Á, từ đó nhận xét sự

tương đồng giữa Việt Nam và những quốc gia này trong tiếp cận thực hiện tự

chủ đại học.

Kỷ yếu Hội thảo cấp quốc gia “Tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội

của cơ sở giáo dục đại học”, do Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt

Nam tổ chức năm 2016, bao gồm 56 bài viết của các tác giả trong nước. Trong

đó có nhiều bài viết tập trung phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn

thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam và đề ra một số giải pháp hoàn thiện

quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có nội dung tự chủ về

nguồn nhân lực.

Đặng Bá Lãm (chủ biên, 2005), sách chuyên khảo“Quản lý nhà nước về

giáo dục - lý luận và thực tiễn” Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Cuốn sách

tập hợp nhiều bài viết phân tích, đánh giá lý luận và thực tiễn về công tác quản

lý giáo dục và đào tạo ở Việt Nam, trong đó có những nội dung về phát triển

nhân lực ngành giáo dục và đào tạo nói chung, nhân lực tại các trường đại học

nói riêng.

Sách “Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” [Nxb Giáo dục,

2009] đã tập hợp các bài viết của các nhà giáo, nhà khoa học, các nhà quản lý

giáo dục nghiên cứu về hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo

5

dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; mạng

lưới trường lớp; quy mô học sinh, sinh viên; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản

lý giáo dục; tài chính cho giáo dục; công bằng xã hội trong giáo dục; hợp tác

quốc tế trong giáo dục. Các tác giả tập trung phân tích các mục tiêu phát triển

giáo dục của Việt Nam đến năm 2020 bao gồm: quy mô, cơ cấu giáo dục được

phát triển hợp lý, đảm bảo nguồn nhân lực cho đất nước thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân; chất lượng

và hiệu quả giáo dục được nâng cao, tiếp cận được với chất lượng giáo dục của

khu vực và quốc tế.

Hồ Viết Thịnh (2019), “Tăng cường quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam

từ góc độ kinh tế” [luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Mỏ - Địa chất]. Tác

giả đã hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đại học từ góc

độ kinh tế, trong đó, hoạt động quản lý giáo dục về kinh tế được tiếp cận từ góc

độ quản lý nhà nước. Trên cơ sở nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học,

luận án đã đưa ra được những tiêu chí đánh giá quản lý giáo dục đại học từ góc

độ kinh tế, đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý giáo dục đại học từ góc độ

kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục đại học của nước ta trong thời

gian tới và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa giáo dục đại học.

Đoàn Văn Dũng (2015), “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại

học” [Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia].

Luận án đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về giáo dục đại học, chất lượng giáo

dục đại học, quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, vai trò của nhà

nước đối với chất lượng giáo dục đại học; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước

về chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay; chỉ ra những nguyên nhân

của những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại

học; kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về chất lượng

giáo dục đại học.

6

Phạm Văn Đại (2012), “Quản lý nhà nước các cơ sở giáo dục liên quan

đến nước ngoài” [luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội]. Luận án nghiên

cứu về quản lý nhà nước của các cơ sở giáo dục nước ngoài, đánh giá các chính

sách quản lý các cơ sở giáo dục nước ngoài ở Việt Nam, nâng cao cơ cấu quản

lý, hệ thống chính sách và chất lượng nguồn nhân lực của quản lý nhà nước về

giáo dục (trong đó có đội ngũ giảng viên người Việt Nam) nhằm tăng cường

công tác quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam.

Phan Huy Hùng (2011), “Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam” [luận

án tiến sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia]. Luận án nghiên cứu

lý luận về quản lý nhà nước đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường

đại học; làm rõ khái niệm quản lý nhà nước từ góc độ lý luận chung, khoa

học quản lý công và quản trị học; phân tích nội dung, phương thức quản lý

nhà nước về giáo dục đại học đảm bảo quyền tự chủ đại học (trong đó có tự

chủ về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực quản lý và giảng dạy) thông qua

bốn mô hình quản lý vĩ mô. Luận án nhấn mạnh vai trò “bà đỡ” của quản lý

nhà nước đối với trường đại học và giới thiệu kinh nghiệm quản lý nhà nước

đối với giáo dục đại học, đảm bảo quyền tự chủ ở các nước: Pháp, Trung

Quốc, Singapore, Hoa Kỳ.

Đỗ Minh Cương (2001), “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học

Việt Nam” [sách chuyên khảo, Nxb Chính trị Quốc gia]. Tác giả nhấn mạnh

quan điểm đội ngũ nhà giáo ở các trường đại học là nhân tố quan trọng và có ý

nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta; phân

tích vai trò của trí thức giáo dục đại học, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực

giáo dục đại học, luận chứng một số giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ nhân

lực giáo dục đại học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

hội nhập quốc tế ở Việt Nam.

7

Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Phương Nga, “Nghiên cứu xây dựng các

tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng

viên trong Đại học Quốc gia Hà Nội” [Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia

Hà Nội thời gian 2002-2003]. Đề tài nghiên cứu xem xét, phân tích các kinh

nghiệm về đánh giá chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ

giảng viên ở một số trường đại học trên thế giới trong tương quan so sánh với

thực trạng hoạt động giảng dạy và hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên

một số trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở đó, tập thể tác giả đã

xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và hoạt động nghiên cứu

khoa học của giảng viên một số trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội trong bối

cảnh đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế.

Phạm Văn Thuần (2009), “Quản lý đội ngũ giảng viên trong đại học đa

ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội”

[Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội].

Luận án đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý đội ngũ giảng viên trong

các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp

quản lý theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội để nâng cao hiệu quả quản

lý đội ngũ giảng viên đáp ứng nhu cầu đổi mới quản lý giáo dục đại học ở nước

ta hiện nay. Luận án nêu ra sáu giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên trong đại

học đa ngành, đa lĩnh vực theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội là: Xây

dựng môi trường tự chủ và trách nhiệm xã hội; tuyển dụng, sử dụng đội ngũ

giảng viên; Hoàn thiện quy trình đánh giá giảng viên; Đổi mới quy hoạch và

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên; xây dựng và hoàn thiện chính sách đãi

ngộ đội ngũ giảng viên; Tạo lập hệ thống thông tin quản lý đội ngũ giảng viên.

Nguyễn Văn Đệ (2010), “Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại

học ở Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại

học” [Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục, Đại học Quốc gia Hà

8

Nội]. Luận án nghiên cứu về thực trạng đội ngũ giảng viên các trường đại học

ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đề xuất 5 nhóm giải pháp phát triển đội ngũ

giảng viên của các trường đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng

yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, bao gồm: Liên kết đội ngũ giảng viên giữa

các trường đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Phát triển số lượng đội

ngũ giảng viên; Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ giảng viên; Điều chỉnh

cơ cấu đội ngũ giảng viên; Tạo động lực làm việc cho đội ngũ giảng viên.

Nguyễn Kim Hồng, “Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học -

Tiền đề để giải bài toán chất lượng đại học Việt Nam” [bài viết trong Kỷ yếu

Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và

cao đẳng Việt Nam” do Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ

chức năm 2010]. Tác giả cho rằng khó khăn lớn nhất của đội ngũ giảng viên đại

học ở Việt Nam hiện nay là mức lương thấp, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy,

học tập còn thiếu thốn, thiếu phòng thí nghiệm, thiếu kinh phí nghiên cứu khoa

học,... do đó các trường đại học hầu như không thu hút được người giỏi thật sự

làm giảng viên. Tác giả nêu ra một số giải pháp để xây dựng đội ngũ giảng viên

đại học là: Thay đổi cơ chế tuyển chọn và chế độ trả lương kèm theo; Tăng cường

đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm, tạo điều kiện cho giảng viên có

điều kiện làm việc tốt hơn; tăng kinh phí nghiên cứu khoa học.

Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), “Đội ngũ trí thức giáo dục đại học việt nam

trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”, [luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh]. Tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng và các giải pháp phát uy vai trò

của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng

cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.

Nguyễn Văn Phong và Nguyễn Thị Kim Ngân, “Thực trạng đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam”, tại địa chỉ

9

https://tcnn.vn/news/detail/41635/Thuc-trang-doi-ngu-giang-vien-cac-truong-

dai-hoc-cong-lap-o-Viet-Nam.html. Bài báo đã phân tích, đánh giá hực trạng

số lượng, chất lượng, tỷ lệ và cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập ở Việt Nam hiện nay, bài viết đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp

tiếp tục phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm đáp

ứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, còn có nhiều sách

tham khảo, chuyên khảo, bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học (cả tạp chí

in và tạp chí điện tử), các công trình nghiên cứu cơ bản có tính chất khảo sát,

đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ viên chức nói chung, đội ngũ giảng viên

đại học nói riêng. Song chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu riêng về chủ

đề phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Do đó, luận văn kế thừa được rất nhiều từ kết quả của các công trình

nghiên cứu này, cũng như học hỏi được nhiều điều từ xem xét những thông tin

phản ánh những bất cập, hạn chế trong công tác xây dựng đội ngũ viên chức nói

chung, đội ngũ giảng viên đại học nói riêng để vận dụng vào quá trình viết luận

văn “Phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc triển khai nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn

về xây dựng đội ngũ viên chức nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên trong

các trường đại học công lập và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; thông qua

việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên

tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết năm 2021, luận văn

hướng tới mục đích đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt

ra đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo đại học trong giai đoạn hiện nay.

10

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên

cứu chủ yếu như sau:

Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ viên chức

nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập nói riêng.

Hai là, phân tích thực trạng và đưa ra đánh giá về những ưu điểm, hạn chế

trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội từ năm 2016 đến hết năm 2021. Làm rõ những nguyên nhân chủ quan và

nguyên nhân khách quan của những ưu điểm, hạn chế trong công tác phát triển

đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết

năm 2021.

Ba là, đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra đối với

các cơ sở giáo dục, đào tạo đại học trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

về xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập;

thực trạng và những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về phạm vi nội dung, luận văn khái quát kết quả chủ yếu của các công trình

nghiên cứu trước đây về lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ viên chức, đội ngũ

giảng viên trong các trường đại học công lập nói chung; thực trạng và giải pháp

phát triển đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo bậc đại học .

Về phạm vi không gian, luận văn nghiên cứu về thực trạng phát triển đội

ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

11

Về phạm vi thời gian: luận văn nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ

giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết năm

2021 (là giai đoạn triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII

của Đảng và các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước về phát triển nhân

lực giai đoạn 2016-2021).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan

điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục và đào tạo, về phát triển

nhân lực nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên ở các trường đại học nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống... được

sử dụng cụ thể trong luận văn như sau:

- Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp,

phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp để làm rõ, khái quát hóa thành

hệ thống khung lý thuyết về các nội dung lý luận. Chương 1 cũng sử dụng

phương pháp thống kê, tập hợp để làm rõ các công trình nghiên cứu khoa học

có liên quan và phương pháp lịch sử cụ thể để bảo đảm tính khoa học, khách

quan và toàn diện trong các đánh giá về kết quả và hạn chế của các công trình

đã nghiên cứu trước.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, phương pháp so sánh và

phương pháp thống kê sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực trạng và

đưa ra đánh giá về những ưu điểm, hạn chế; những nguyên nhân chủ quan và

nguyên nhân khách quan của những ưu điểm, hạn chế trong công tác phát triển

đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm

2016 đến năm 2021.

12

- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để

đảm bảo tính nhất quán, liên thông giữa các nội dung, giữa các chương, các tiết

và tiểu tiết của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: kết quả nghiên cứu của luận văn có thể có những đóng góp

nhất định để bổ sung cho sự phát triển của khoa học quản lý công, góp phần

nâng cao nhận thức lý luận về phát triển đội ngũ viên chức ngành giáo dục và

đào tạo, đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập.

Về thực tiễn: luận văn có thể sử dụng làm làm tài liệu tham khảo cho các

nhà nghiên cứu, giảng dạy, những người làm công tác thực tế và sinh viên, học

viên cơ sở đào tạo cử nhân luật, cử nhân hành chính, các trường đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ của Đảng và Nhà nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm 2016 dến năm 2021.

Chương 3: Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới.

13

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN

CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của phát triển đội ngũ giảng viên các

trường đại học công lập

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm viên chức

Trong đời sống hàng ngày, khái niệm (hoặc thuật ngữ) “viên chức” có

nghĩa rất rộng. “Viên” trong tiếng Hán - Việt có nghĩa là “thành viên”, dùng để

chỉ người làm việc nói chung trong các cơ quan, các tổ chức; “chức” nghĩa là

người làm việc có một chức vụ, chức danh nào đó. Vì vậy, “viên chức” được

hiểu là những người làm việc chuyên môn nghề nghiệp và những người giữ

chức vụ trong các cơ quan, tổ chức công hoặc tư, được hưởng lương theo ngạch,

bậc, trình độ và chức vụ. Theo cách hiểu như vậy, “viên chức” là khái niệm bao

trùm lên cả khái niệm công chức, cũng có thể hiểu công chức là những viên

chức làm việc trong bộ máy công quyền, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.

Ở Việt Nam, khái niệm viên chức có sự thay đổi theo từng giai đoạn lịch

sử; trải qua các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái niệm viên chức cũng có

sự thay đổi lớn. Suốt một thời gian dài, khái niệm “cán bộ, công nhân, viên

chức nhà nước” được dùng để chỉ những người phục vụ trong các tổ chức chính

trị, tổ chức chính trị xã hội, nhà nước và một số tổ chức khác. Theo quy định

hiện hành, viên chức là những người làm việc trong các đơn vị có nhiệm vụ

phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và trong các đơn vị sự nghiệp công lập

về các lĩnh vực như: giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa,

thông tin, thể dục thể thao, lao động, thương binh - xã hội và các tổ chức sự

nghiệp khác... nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và xã

14

hội. Những hoạt động này không nhân danh quyền lực nhà nước, không phải là

các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ thuần túy mang tính nghề nghiệp gắn với

nghiệp vụ, chuyên môn. Pháp luật hiện hành quy định đó là các lĩnh vực hoạt

động nghề nghiệp của viên chức.

1.1.1.2. Khái niệm phát triển

Triết học Mác - Lênin quan niệm rằng phát triển là một trường hợp của

vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng dần chuyển hóa sang

chất mới, cao hơn, phức tạp hơn, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận

động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình

biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến

cao; là quá trình học tập, nhằm mở ra cho các nhân những công việc mới dựa

trên cơ sở định hướng tương lai cho cá nhân và tổ chức...

Phát triển chỉ sự vận động theo chiều hướng tiến lên, cái mới, cái tiến bộ

ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phát triển trong xã hội là một quá trình tiến

hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và

quản lý bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về

lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng dân tộc, tạo

ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được

những thành quả bền vững và được phân phố công bằng cho các thành viên

trong xã hội, vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ.

1.1.1.3. Khái niệm trường đại học công lập

Ở Việt Nam, “trường đại học công lập” là bộ phận cấu thành của khái

niệm “trường công lập” (“trường công lập” thường được sử dụng để so sánh với

“trường dân lập”, “trường tư thục”, “trường bán công”). Trường công lập các

cấp nói chung, cấp đại học nói riêng chiếm đại đa số trường học trong hệ thống

giáo dục quốc dân ở nước ta. Trường công lập được xây dựng và thành lập dựa

vào những dự án đầu tư kinh tế của Nhà nước, Trung ương hoặc địa phương và

15

là hình thức trường học trực thuộc Nhà nước, Trung ương hoặc địa phương.

Trường công lập (trong đó có trường đại học công lập) hoạt động chủ yếu bằng

nguồn tài chính công hoặc những khoản đóng góp phi lợi nhuận về: các khoản

kinh phí (chủ yếu là kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, trả lương

và bảo hiểm xã hội); đất đai, nhà cửa, cơ sở vật chất; trang thiết bị, dụng cụ hỗ

trợ học tập ở trường học…

1.1.1.4. Khái niệm giảng viên

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số

34/2018/QH14 (Luật Giáo dục đại học) quy định: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ

sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”. Giảng viên là viên chức chuyên môn

đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một

chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc trường cao đẳng, trung cấp

nghề... Đội ngũ giảng viên là những người thực hiện hoạt động giảng dạy và

nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục bậc đại học, cao đẳng, trung cấp

nghề. Pháp luật viên chức quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện để được

trở thành giảng viên, về hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên nhằm phân

hạng và đánh giá, xếp loại về năng lực, trình độ chuyên môn... Giảng viên

đại học có yêu cầu trong tuyển chọn cũng như thi tuyển, xét tuyển rất nghiêm

ngặt để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động giảng dạy cũng như nghiên

cứu khoa học.

1.1.1.5. Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học

Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học là sự chuyển biến

theo chiều hướng tích cực của đội ngũ giảng viên cả về số lượng, chất lượng và

cơ cấu nhằm hoàn thành mục tiêu giáo dục, đào tạo của trường đại học, đáp

ứng yêu cầu của nhà trường và xã hội. Xét theo chu trình quản lý, phát triển đội

ngũ giảng viên đại học bao gồm các khâu: quy hoạch; tuyển chọn và bố trí sử

dụng đội ngũ giảng viên; đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đội ngũ giảng viên; kiểm

16

tra đánh giá và cụ thể hóa cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi cho đội

ngũ giảng viên làm việc và sáng tạo.

Luận văn sử dụng thuật ngữ “phát triển đội ngũ giảng viên các trường

đại học công lập” theo nghĩa tập trung vào phát triển về chất lượng là chính, đó

là quá trình nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên trong

biên chế của các trường đại học công lập về các mặt cơ cấu, số lượng và chất

lượng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa

học của các trường đại học công lập.

1.1.2. Đặc điểm của phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập

Phát triển đội ngũ viên chức nói chung, đội ngũ giảng viên các trường

đại học công lập nói riêng là một quá trình được thực hiện theo quy định của

nhà nước nhằm tăng lên về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Trong đó, phát

triển về mặt số lượng nhằm bổ sung, thay thế đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập; phát triển về mặt chất lượng là nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, là yêu cầu thường xuyên nhằm mục tiêu nâng

cao không ngừng chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học

của các trường đại học công lập. Nhà giáo chính là người quyết định chất lượng

giáo dục, là người có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của cá

nhân người học mà còn đối với sự phát triển xã hội. Nếu đội ngũ nhà giáo kém

chất lượng sẽ làm hỏng người học, nguy hiểm hơn là làm hỏng cả một thế hệ,

cả một nền giáo dục. Do đó, trong xây dựng đội ngũ nhà giáo nói chung, giảng

viên các trường đại học công lập nói riêng thì chất lượng phải đặt lên hàng đầu,

chất lượng phải luôn được coi trọng hơn số lượng.

Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập chính là quá

trình cơ quan có thẩm quyền tạo lập và sử dụng năng lực của đội ngũ giảng

17

viên, nghiên cứu viên trong biên chế của các trường đại học công lập, là động

lực thúc đẩy quá trình hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên làm việc

trong các trường đại học công lập (bao gồm giảng viên và nghiên cứu viên các

hạng chức danh nghề nghiệp I, II, III và IV) làm công tác giảng dạy ở bậc đại

học và sau đại học; làm công tác nghiên cứu khoa học, công tác nghiên cứu và

triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa

học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác trong chức

năng, nhiệm vụ của các trường đại học công lập.

1.1.3. Vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên làm việc trong các trường

đại học công lập

1.1.3.1. Vị trí của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập

Từ đổi mới, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta đã

có sự thay đổi căn bản, nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

trong tình hình mới, đó là việc từ một bộ máy nhà nước quản lý thuần túy

đã dần chuyển sang hoạt động nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội là

chủ yếu. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước thời

gian qua đã làm cho hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nước được

nâng lên, kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng phát triển, đời sống vật

chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, các nhu cầu cơ bản, thiết yếu

của nhân dân tăng cao và đa dạng hơn trước. Việc tham gia vào các sinh

hoạt chính trị của đất nước với những yêu cầu về dân chủ, công khai, minh

bạch cũng được nhân dân chú trọng hơn. Tình hình đó đã đặt ra những yêu

cầu mới đối với các cơ quan nhà nước, một mặt phải hoàn thành nhiệm vụ

chính trị, mặt khác không làm cản trở sự phát triển tất yếu của xã hội, bảo

vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, từ đó phải thay đổi cách thức

hoạt động.

18

Từ những yêu cầu tất yếu, khách quan đó, Nhà nước xây dựng và hoàn

chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng những dịch vụ công thiết yếu,

bình đẳng cho mọi người dân, đặc biệt là những dịch vụ tối cần thiết cho cuộc

sống vật chất và tinh thần của con người mà tư nhân không thể cung cấp được.

Đây là kết quả trực tiếp của việc chuyển đổi cách thức giải quyết các yêu cầu

của cá nhân, tổ chức với cơ quan hành chính nhà nước thành dịch vụ công phục

vụ và bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức nằm dưới sự quản lý của nhà nước.

Các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo,

y tế, nghiên cứu khoa học… là một bộ phận cấu thành của khu vực công được

nhà nước thành lập và ủy quyền để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà

nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo các chính sách xã hội

của nhà nước và tồn tại vì lợi ích chung của toàn thể cộng đồng.

Những người làm việc trong khu vực dịch vụ công (hay còn gọi là các

đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước), được gọi chung là viên chức. Đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập cùng với đội ngũ viên chức hoạt động

trong các lĩnh vực nghề nghiệp khác, làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công

lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội giữ một vị trí rất quan trọng,

là những người trực tiếp thực hiện hoạt động giáo dục và đào tạo, một trong hai

lĩnh vực được xác định là quốc sách hàng đầu của đất nước, góp phần nâng cao

chất lượng cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho

người dân và cộng đồng, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát

triển kinh tế đi đôi với ổn định, công bằng xã hội, giảm thiểu sự chênh lệch giàu

nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng, miền trong phạm vi cả nước.

Đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập giữ vị trí là nguồn lực chủ

yếu, trực tiếp đào tạo ra những nhân lực có trình độ đại học và sau đại học cho

đất nước (còn được gọi là nhân lực trình độ cao, nhân lực chất lượng cao), là lực

lượng được xác định là một trong ba đột phá phát triển đất nước dến năm 2030

19

và năm 2045. Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên làm việc trong các trường đại

học công lập còn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa

học xã hội, khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp luận cứ khoa

học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.

1.1.3.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh

mẽ, vấn đề toàn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu, “kinh tế tri thức” trở thành

một đặc trưng của nền kinh tế thế giới, thì vai trò động lực, vị trí trung tâm của

con người trong quá trình phát triển đã được khẳng định, đặc biệt là vai trò của

nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập. Có thể khẳng định rằng, nếu như tri thức khoa học và công nghệ

là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế, thì đội ngũ đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập là những người tạo nên nguồn vốn tri thức đó.

Nguồn lực trí tuệ này có tính chất quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở nước ta. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đất nước đã tác động

tích cực đến nhiều ngành kinh tế, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước đang tích cực được đẩy mạnh ngày càng sâu, rộng. Tuy nhiên, hiện nay

trình độ công nghệ của nước ta cơ bản còn lạc hậu, tiềm lực khoa học công

nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt

động khoa học và công nghệ, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ còn yếu

kém, ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.

Trong vai trò truyền bá kiến thức khoa học thông qua hoạt động đào tạo

bậc đại học và sau đại học; hoạt động nghiên cứu khoa học mà đội ngũ giảng

viên các trường đại học công lập cũng được xác định là một bộ phận quan trọng

của nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là lực lượng giảng dạy và nghiên cứu

20

về khoa học kỹ thuật và công nghệ (còn gọi là nhân lực R&D). Chính vì vậy,

việc áp dụng khoa học và công nghệ vào công cuộc đổi mới nền kinh tế nước

ta là tất yếu. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XI), một lần nữa

đã khẳng định vai trò của đội ngũ các nhà khoa học đối với sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra định hướng phát triển

khoa học và công nghệ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, nêu rõ quan

điểm “Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền

vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có

chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ viên chức khoa học và

công nghệ”. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều quan trọng và

có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí tuệ

và năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại.

Điều này một lần nữa lại được Nghị quyết khẳng định trong định hướng phát

triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

trong điều kiện nền kinh tế thị trường “Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý

của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ viên chức khoa học và công

nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và

công nghệ”.

Đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đã có những đóng góp

không nhỏ vào những thành tựu chung phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

là nguồn lực quan trọng đảm bảo hiệu quả hoạt động của các trường đại học

công lập ở nước ta, là nhân tố làm cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước được đẩy mạnh. Jết quả giảng dạy, nghiên cứu của đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường

lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây

dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và

phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị

21

và bản sắc văn hóa Việt Nam. Những thành tựu, kết quả của các nhà khoa học

trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học tự nhiên, công nghệ tạo cơ sở

cho việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp

phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản. Khoa học kỹ thuật và

công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng

hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

1.2. Nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên các trường

đại học công lập

1.2.1. Phát triển về số lượng và cơ cấu

Theo số liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố năm 2020, cả nước hiện

có 235 trường đại học. Tổng số giảng viên công tác tại các trường đại học là

74.991 người, trong đó có 20.198 giảng viên có trình độ tiến sĩ, 44.634 giảng

viên trình độ thạc sĩ. Quy mô sinh viên đại học là 1.707.025, quy mô đào tạo

tiến sĩ, thạc sĩ là 121.253 (đào tạo tiến sĩ 14.686, đào tạo thạc sĩ 106.567). Cơ

cấu đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện và xây

dựng trên các mặt: cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu học vị, học hàm; cơ

cấu nguồn đào tạo; cơ cấu lực lượng hiện có… một cách hợp lý, làm cho đội

ngũ này ngày càng cân đối hài hóa, phát huy được vai trò, sức mạnh trong thực

hiện bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và vững chắc, khắc phục hạn chế vốn

đang còn tồn tại hiện nay.

Về cơ cấu giảng viên các trường đại học công lập, theo Điều 54 Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14 và

Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã

số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên

chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung

theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) thì cơ cấu chức danh nghề nghiệp

giảng viên các trường đại học công lập gồm: (1). Giảng viên cao cấp (hạng I),

22

mã số: V.07.01.01; (2). Giảng viên chính (hạng II), mã số: V.07.01.02. (3);

Giảng viên (hạng III), mã số: V.07.01.03; (4); Trợ giảng (hạng III), mã số:

V.07.01.23.

Phát triển về số lượng và cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập thể hiện qua công tác lập quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bố trí

đội ngũ giảng viên bậc đại học của các cơ quan có thẩm quyền quản lý viên

chức chuyên ngành, như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Lao động,

Thương binh và Xã hội... và các trường đại học.

1.2.2. Phát triển về chất lượng

Trong các trường đại học hiện nay, việc phát triển đội ngũ giảng viên

không chỉ đơn thuần đảm bảo yếu tố về số lượng, mà quan trọng hơn là cần

đảm bảo về yếu tố chất lượng nhằm đáp ứng mục tiêu dạy và học một cách hiệu

quả, nói rộng hơn là để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong xu

hướng quốc tế hóa, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên đại học là vừa phải giúp

người học đáp ứng được khả năng hội nhập, vừa phải giúp họ nâng cao tính

ứng dụng trong công việc chuyên môn. Do đó, chất lượng giảng viên đòi hỏi

hết sức khắt khe, bao gồm:

Thứ nhất, đáp ứng đầy đủ phẩm chất chính trị: Đội ngũ giảng viên đại

học cần chấp hành đầy đủ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước; tuân thủ các quy trình, quy định về chuyên môn, nghiệp vụ và quy tắc

ứng xử. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao đạo đức chính trị, lối sống

lành mạnh.

Thứ hai, có đạo đức nghề nghiệp: đòi hỏi giảng viên cần phải tâm

huyết với nghề, có ý thức giữ gìn danh dự của nhà giáo, có lòng nhân ái, bao

dung, độ lượng, ứng xử với học viên, đồng nghiệp hòa nhã, hòa đồng, có tinh

thần bảo vệ lẽ phải, công bằng trước lợi ích của học viên, của đồng nghiệp

và cộng đồng.

23

Thứ ba, có năng lực chuyên môn vững vàng. Giảng viên cần phải không

ngừng học hỏi, cập nhật thêm kiến thức và thông tin mới trong và ngoài nước

để luôn hoàn thiện thêm kiến thức, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Xu hướng

đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho người học tại các cơ sở giáo dục đại học hiện

nay là đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức chuyên môn hiệu quả kết hợp với tư

duy liên ngành, đa ngành, đa lĩnh vực. Chính vì vậy, giảng viên đại học còn

phải không ngừng trau dồi học các kiến thức liên môn. Bên cạnh đó, việc xây

dựng đội ngũ giảng viên đại học có nghiệp vụ, phương pháp sư phạm, có khả

năng giảng dạy tích cực cũng là một trong những nội dung quan trọng trong

việc phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.

Theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo

dục và Đào tạo (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) thì

tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giảng viên các trường đại học công lập

bao gồm: (1). Tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự nhà giáo;

có tinh thần đoàn kết, tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp trong cuộc sống và

trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với sinh

viên, học viên, nghiên cứu sinh (gọi chung là người học); bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. (2). Tận

tụy với công việc; thực hiện đúng nội quy, quy chế của cơ sở giáo dục đại học

công lập và các quy định pháp luật của ngành. (3). Công bằng trong giảng dạy

và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết

kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. (4). Các tiêu chuẩn

đạo đức nghề nghiệp khác theo quy định của pháp luật.

Phát triển về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học được thực hiện chủ yếu

thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này, và do các các cơ quan có thẩm

quyền quản lý viên chức chuyên ngành, như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ

Lao động, Thương binh và Xã hội... và các trường đại học tiến hành.

24

1.2.3. Công tác xây dựng chính sách phát triển

Xây dựng chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập là việc các cơ quan có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách để

thực hiện quy định của pháp luật viên chức về công tác quản lý, sử dụng đội

ngũ giảng viên các trường đại học công lập; đồng thời nghiên cứu, ban hành

các văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể trong tất cả các trường đại học công

lập, qua đó tạo ra sự thống nhất, hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng đội

ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Việc ban hành cơ chế, chính sách

về phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập phải phù hợp với

đặc thù của các trường đại học công lập cơ quan.

Trong bối cảnh của nền giáo dục hiện nay, hiệu quả giảng dạy ở các cơ

sở giáo dục đại học là yếu tố hết sức quan trọng để thực hiện được sứ mệnh của

giáo dục đại học. Trong các trường đại học hiện nay, việc phát triển đội ngũ

giảng viên không đơn thuần là đảm bảo yếu tố về số lượng, mà còn cần đảm

bảo yếu tố chất lượng nhằm mục tiêu dạy và học hiệu quả, nhất là trọng xu thế

quốc tế hoá. Vì vậy, pháp luật về giáo dục đại học không thể thiếu các quy định

về điều kiện, tiêu chuẩn giảng viên làm cơ sở pháp lý cho việc tuyển dụng, quản

lý và phát triển đội ngũ giảng viên.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số

34/2018/QH14 (Luật Giáo dục đại học) quy định: Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở

giáo dục đại học gọi là giảng viên. Điều 54 Luật Giáo dục đại học quy định:

giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm

chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên

môn, nghiệp vụ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật Giáo dục.

Theo quy định hiện nay, chức danh giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng

viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư. Cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm

chức danh giảng viên theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt

25

động, quy định về vị trí việc làm và nhu cầu sử dụng của cơ sở giáo dục đại

học. Trình độ tối thiểu của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là

thạc sĩ, trừ chức danh trợ giảng; trình độ của chức danh giảng viên giảng dạy

trình độ thạc sĩ, tiến sĩ là tiến sĩ. Cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng

người có trình độ tiến sĩ làm giảng viên; phát triển, ưu đãi đội ngũ giáo sư đầu

ngành để phát triển các ngành đào tạo. Cơ cấu giảng viên tại các cơ sở giáo dục

đại học công lập thười gian qua đã được thực hiện và xây dựng dựa trên các

mặt như cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu học vị, học hàm, cơ cấu nguồn

đào tạo, cơ cấu lực lượng hiện có…một cách hợp lý, làm cho đội ngũ này ngày

càng cân đối hài hòa, phát huy được vai trò, sức mạnh trong việc thực hiện bảo

đảm tính liên tục, tính kế thừa và vững chắc, khắc phục hạn chế đang còn tồn

tại hiện nay.

Giảng viên đại học công lập là viên chức. Luật Viên chức năm 2010 và

Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 của Luật Viên chức năm 2010 quy định: Viên

chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại

đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ

lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Theo đó,

giảng viên đại học công lập là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng

dạy và nghiên cứu khoa học ở bậc đại học, sau đại học thuộc một chuyên ngành

đào tạo của trường đại học công lập. Trong các trường đại học (cả công lập và

dân lập), giảng viên còn là nhà khoa học, nắm vững các phương pháp khoa học

về giảng dạy và giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật

trong giảng dạy, thường xuyên rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy của

mình, tham gia tích cực vào nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội.

Trước đây, Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày

28/11/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu

chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại

26

học công lập, chức danh nghề nghiệp của giảng viên gồm: giảng viên, giảng

viên chính và giảng viên cao cấp. Tuy nhiên ngày 26/10/2020, Bộ Giáo dục và

Đào tạo đã ban hành Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu

chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng

dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư

số 04/2022/TT-BGDĐT) để thay thế Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-

BGDĐT-BNV của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số và

tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo

dục đại học công lập. Một trong những điểm mới đáng chú ý của Thông tư số

40/2020/TT-BGDĐT (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-

BGDĐT) là lần đầu tiên đưa vào trường đại học chức danh trợ giảng. Đây là

một trong 4 chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo

dục đại học công lập, gồm: trợ giảng (hạng 3), mã số V.07.01.23; giảng viên

(hạng 3), mã số V.07.01.03; giảng viên chính (hạng 2), mã số V.07.01.02; giảng

viên cao cấp (hạng 1), mã số V.07.01.01.

Trợ giảng có nhiệm vụ hỗ trợ giảng viên, giảng viên chính, giảng viên

cao cấp trong các hoạt động giảng dạy, bao gồm: chuẩn bị bài giảng, phụ đạo,

hướng dẫn bài tập, thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thực tập, chấm bài. Yêu

cầu về trình độ đào tạo của trợ giảng là có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù

hợp với vị trí việc làm, ngành hoặc chuyên ngành giảng dạy. Đây là trình độ

giống như với chức danh giảng viên theo quy định cũ.

Viên chức giữ chức danh trợ giảng nếu đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, điều

kiện của chức danh nghề nghiệp giảng viên (hạng 3), có vị trí việc làm và yêu

cầu nhiệm vụ phù hợp thì sẽ được thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học xem xét

và bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp giảng viên.

Điểm mới nữa của Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT quy định mã số,

tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức

27

giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung theo

Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) là yêu cầu về trình độ đào tạo tối thiểu của

chức danh giảng viên là phải có bằng thạc sĩ trở lên (quy định hiện hành thì chỉ

yêu cầu có bằng đại học trở lên với chức danh này). Quy định này được đưa ra

nhằm phù hợp với Luật Giáo dục đại học sửa đổi “có bằng thạc sĩ đối với nhà

giáo giảng dạy trình độ đại học; có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo giảng dạy,

hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ”.

Một điểm nổi bật nữa là Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT (sửa đổi, bổ

sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) không yêu cầu giảng viên phải

có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, nhưng yêu cầu phải có chứng chỉ bồi dưỡng

tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao

cấp tương ứng với các chức danh giảng viên (hạng 3), giảng viên chính (hạng

2), giảng viên cao cấp (hạng 1). không yêu cầu giảng viên đại học (kể cả các

trợ giảng) phải có các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ, mà chỉ quy định “có khả

năng ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ trong thực hiện các

nhiệm vụ” phù hợp với từng chức danh.

Việc bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy

trong trường đại học công lập phải căn cứ vào vị trí việc làm, chức trách, nhiệm

vụ, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ đang đảm nhận của viên chức và theo quy

định của pháp luật (còn việc bổ nhiệm và xếp lương của viên chức giảng dạy có

chức danh phó giáo sư và giáo sư được thực hiện theo một số văn bản pháp quy

khác Chính phủ đã ban hành). Trường đại học công lập và các cơ sở giáo dục đại

học khác không được kết hợp nâng bậc lương hoặc thăng hạng chức danh nghề

nghiệp viên chức, trừ trường hợp viên chức giảng dạy được công nhận hoặc được

bổ nhiệm chức danh phó giáo sư và giáo sư theo quy định của luật chuyên ngành.

Cách xếp lương cho các chức danh như sau: giảng viên cao cấp (hạng 1)

được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1, từ hệ số lương 6,20

28

đến hệ số lương 8,00; giảng viên chính (hạng 2) được áp dụng hệ số lương của

viên chức loại A2, nhóm 1, từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78; giảng

viên (hạng 3) và trợ giảng (hạng 3) được áp dụng hệ số lương của viên chức

loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.

Như vậy, giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học công lập là người

được tuyển dụng theo vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp, làm việc

theo chế độ hợp đồng, có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có

sức khỏe; có năng lực, kỹ năng chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm nhiệm

công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác thuộc một

chuyên ngành đào tạo của trường đại học công lập (khái niệm này không áp

dụng đối với giảng viên thỉnh giảng).

Chế độ làm việc của giảng viên đại học công lập hiện nay được quy định

tại Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT ngày 27/7/2020 của Bộ Giáo dục và Đào

tạo bao gồm: Nhiệm vụ của các chức danh giảng viên; thời gian làm việc, giờ

chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học; quy đổi các hoạt động chuyên môn

ra giờ chuẩn giảng dạy và chế độ làm việc vượt định mức lao động. Áp dụng

đối với giảng viên giảng dạy tại các đại học, học viện, trường đại học và các tổ

chức, cá nhân có liên quan. Giảng viên cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập

làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, chịu sự điều chỉnh của Luật Giáo dục,

Luật Giáo dục Đại học, Bộ luật Lao động.

1.2.4. Công tác tổ chức thi hành chính sách phát triển

Công tác tổ chức thi hành chính sách phát triển nhân lực nói chung, tổ

chức thi hành chính sách phát triển giảng viên các trường đại học công lập nói

riêng là một trong bốn hình thức thực hiện chính sách, pháp luật. Cụ thể, có các

hình thức thực hiện pháp luật là: (1) tuân thủ chính sách, pháp luật, (2) thi hành

chính sách, pháp luật, (3) sử dụng chính sách, pháp luật và (4) áp dụng chính

sách, pháp luật. Theo nghĩa này, tổ chức thi hành chính sách phát triển giảng

29

viên các trường đại học công lập được hiểu là nghĩa vụ pháp lý của Hội đồng

quản lý và Ban Giám đốc (hoặc Ban Giám hiệu) các trường đại học công lập

được hiện thực hóa thông qua hành động tích cực của chủ thể này.

1.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển

Hoạt động, thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường

đại học công lập chủ yếu tập trung vào việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ

trong nội bộ ngành, qua đó góp phần tích cực trong việc ngăn chặn, phòng ngừa

tiêu cực, giúp cho giảng viên các trường đại học công lập nâng cao tinh thần,

trách nhiệm, tác phong trong quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp và thái

độ phục vụ nhân dân.

Với tư cách cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với đội

ngũ viên chức ngành giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn quan tâm

chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường

đại học công lập nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập. Trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra tài chính hàng

năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và trường đại học công lập đều có nội dung

thanh tra, kiểm tra việc xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức ngành giáo dục và

đào tạo nói chung; đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói riêng.

Công tác kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường đại học

công lập trong nội bộ ngành giáo dục và đào tạo luôn được các trường đại học

công lập thực hiện thường xuyên, góp phần kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm

của giảng viên và tăng cường công tác quản lý, phục vụ phòng, chống tham

nhũng, lãng phí. Qua công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, các sai phạm được

phát hiện sẽ được xử lý; người có hành vi vi phạm đều bị xử lý nghiêm và kịp

thời; qua đó rút kinh nghiệm và xây dựng các biện pháp khắc phục, tăng cường

công tác quản lý trong toàn hệ thống để thực hiện tốt hơn chức năng quản lý

nhà nước về phát triển giảng viên các trường đại học công lập.

30

1.3. Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các trường

đại học công lập ở Việt Nam

1.3.1. Yếu tố thể chế và cơ chế quản lý

1.3.1.1. Pháp luật viên chức

Pháp luật về viên chức là sự thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tổ

chức bộ máy, về quản lý con người nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên

chức, là cơ sở hoàn thiện tổ chức và nhân lực của các đơn vị sự nghiệp công

lập nói chung; trường đại học công lập nói riêng. Pháp luật viên chức do các cơ

quan có thẩm quyền ban hành nhằm tạo cơ sở và căn cứ pháp lý có giá trị cao

cho công tác xây dựng và quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học công

lập có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, phát huy được tính sáng tạo, năng động

của họ đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Pháp luật viên chức có vai trò quan trọng trong việc quản lý đội ngũ viên

chức nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói riêng. Bởi

vì, bản thân pháp luật viên chức với nhiều yếu tố cấu thành (luật, nghị định, quyết

định, chỉ thị...) sẽ tạo nên khuôn khổ pháp lý làm căn cứ cho các trường đại học

công lập và đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập thực hiện đúng chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình hoạt động.

Bên cạnh đó, pháp luật viên chức góp phần thống nhất các tiêu chí xây

dựng cơ cấu tổ chức, vị trí việc làm trong các trường đại học công lập, cũng như

thống nhất việc quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập theo một

quy định, quy trình thống nhất từ việc tạo nguồn lực, tuyển dụng, sử dụng, bố trí,

đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… đến chế độ đãi ngộ phù hợp với trình độ, năng

lực của từng giảng viên, đồng thời tạo môi trường hoạt động khoa học và công

nghệ hiện đại tạo điều kiện tốt nhất cho giảng viên các trường đại học công lập

cống hiến, đáp ứng được yêu cầu của các trường đại học công lập đặt ra.

31

Để sử dụng và phát huy tối đa năng lực của đội ngũ giảng viên, các

trường đại học công lập cần có chính sách lâu dài, coi trọng việc hoàn thiện cơ

chế, chính sách quản lý nhằm phát triển nguồn lao động chất lượng cao này,

giúp họ phát huy năng lực của mình, nắm bắt các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và

công nghệ, tiếp thu và ứng dụng vào mọi lĩnh vực hoạt động nghè nghiệp; góp

phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học

công lập trong nước với nhau; cũng như với các tổ chức và trường đại học công

lập có uy tín ở các quốc gia khác trên thế giới.

1.3.1.2. Tuyển dụng giảng viên các trường đại học công lập

Đối với bất kỳ một tổ chức nào, công tác tuyển dụng nhân sự đều là một

trong những khâu quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng lao động, quyết

định tới hiệu quả hoạt động, làm việc của tổ chức đó. Các trường đại học công

lập cũng không là ngoại lệ. Tuyển dụng đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập là quá trình lựa chọn đội ngũ giảng viên thông qua thi tuyển hoặc xét

tuyển để nhà trường tiếp nhận và sắp xếp, bố trí vào từng vị trí việc làm phù hợp.

Như vậy, tuyển dụng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập có vai trò

quyết định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trường đại học công lập.

Tuyển dụng tốt sẽ giúp cho nhà trường có được những giảng viên có kỹ năng,

trình độ, đem lại hiệu quả công việc, tác phong phù hợp với sự phát triển trong

hiện tại và tương lai của nhà trường. Ngược lại, nếu công tác tuyển dụng không

tốt sẽ làm cho những cá nhân có trình độ, năng lực sinh ra bất mãn, không muốn

phấn đấu vươn lên.

1.3.1.3. Sử dụng và bổ nhiệm giảng viên

Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đội

ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Sử dụng và bổ nhiệm vào chức

danh nghề nghiệp đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập hợp lý sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập phát huy

32

được khả năng, năng lực của mình đối với công việc sẽ đảm nhiệm, đúng trình

độ chuyên môn được đào tạo; đồng thời trên cơ sở đó sẽ phát huy tốt nhất tính

sáng tạo, tính chuyên nghiệp, tạo hứng thú, hăng say trong công việc. Thông

qua quá trình sử dụng và bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp, đội ngũ giảng

viên các trường đại học công lập được tiếp xúc, làm quen với môi trường làm

việc, tiếp cận việc xử lý với những diễn biến, thách thức trong công việc, nhiệm

vụ được giao; từ đó học hỏi, tiếp thu thêm những kiến thức thực tế, góp phần

hoàn thiện các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp, kỹ năng thực hành đảm bảo cho

quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc được nhà trường, phòng, khoa, ban

giao đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, từ những kết quả đánh giá sau quá trình sử

dụng và bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp sẽ sàng lọc chất lượng cũng như

trình độ của từng giảng viên các trường đại học công lập, giúp nhà trường đưa

ra quyết định sử dụng, bổ nhiệm đối với đội ngũ giảng viên ở từng vị trí việc

làm phù hợp.

1.3.1.4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm

nâng cao năng lực và phẩm chất, tạo điều kiện cho họ nâng cao khả năng thích

ứng với những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công việc, đảm bảo cho đội

ngũ giảng viên các trường đại học công lập có đủ năng lực trình độ và phẩm chất

đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trước yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, cần phải kịp thời đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập có đủ phẩm chất và năng lực, vừa có đức,

vừa có tài, trong đó đức là gốc. Tóm lại, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập cả về phẩm chất chính trị và chuyên môn,

nghiệp vụ, cho đến các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp của họ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công

lập có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ giảng viên trong thời kỳ mới,

33

đặc biệt là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu làm tốt công tác này sẽ

sẽ tạo ra được đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, thích ứng với yêu cầu và

nhiệm vụ mới. Ngược lại, nếu công tác này không được quan tâm đầu tư đúng

mức thì trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập

sẽ bị tụt hậu. Điều này đồng nghĩa với hiệu quả công việc không cao và không

đáp ứng yêu cầu của nhà trường.

1.3.1.5. Lương và chế độ, chính sách đãi ngộ

Trong cơ chế thị trường hiện nay thì lương và các chế độ, chính sách đãi

ngộ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập. Thực tế cho thấy, khi thu nhập của con người không tương xứng

với công sức lao động của họ bỏ ra hoặc không có chế độ, chính sách đãi ngộ

thỏa đáng ngoài tiền lương thì họ dễ sinh ra chán nản, thiếu trách nhiệm với

công việc, thậm chí là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chân trong, chân ngoài”,

tập trung cho các việc bên ngoài cơ quan hơn là công việc chuyên môn được

giao tại cơ quan, đơn vị. Vì vậy, nếu tiền lương và các chế độ, chính sách đãi

ngộ là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người, đặc biệt là đội ngũ giảng viên

các trường đại học công lập - đội ngũ có hàm lượng chất xám cao, lao động tạo

ra các sản phẩm có tính trí tuệ cao thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập.

Theo quy định hiện hành, đội ngũ giảng viên các trường đại học công

lập làm việc theo theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ

lương của trường đại học công lập phù hợp, tương xứng với vị trí việc làm,

chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc

hoặc nhiệm vụ được giao. Ngoài tiền lương thì chế độ đãi ngộ đối với đội

ngũ giảng viên các trường đại học công lập được hưởng trong quá trình

công tác là một yếu tố tác động tới chất lượng đội ngũ giảng viên. Chính

sách đãi ngộ phù hợp, thiết thực sẽ thu hút, tạo động lực làm việc cho cá

34

nhân giảng viên trường đại học công lập hứng thú, hăng say, sáng tạo trong

công việc.

1.3.1.6. Công tác khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát

Các hoạt động thi đua, khen thưởng phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy tinh

thần tích cực, hăng hái của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ; chất lượng hoạt động nghề nghiệp của họ tăng

lên, đồng nghĩa với chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập

cũng từ đó mà được cải thiện. Thi đua thường xuyên được tổ chức thực hiện

hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, hàng năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu

và chương trình công tác đề ra.

Công tác kỷ luật, kiểm tra, giám sát đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập về các mặt nhận thức, tư tưởng, năng lực công tác, các mối quan

hệ xã hội, đạo đức, lối sống... là những nội dung khó khăn và phức tạp. Tuy

nhiên, nếu làm tốt công tác này thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát, kỷ

luật thì sẽ góp phần rất lớn trong nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các

trường đại học công lập. Việc thi hành, thực hiện các quy định về hình thức kỷ

luật tại trường đại học công lập sẽ góp phần tạo dựng môi trường làm việc ổn

định, quy củ, đi vào nề nếp; đồng thời bản thân giảng viên bị áp dụng các hình

thức kỷ luật sẽ có ý thức tự giác, nghiêm túc trong quá trình thực hiện hoạt động

nghề nghiệp của họ.

1.3.2. Yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật

Năng lực đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập là yếu tố quyết

định đến chất lượng, hiệu quả công việc của họ. Nhưng nếu như không có sự hỗ

trợ bởi những yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết thì chất lượng, hiệu quả công

việc sẽ không cao như mong muốn. Đội ngũ giảng viên các trường đại học công

lập về cơ bản sẽ được trang bị những điều kiện cần thiết để làm việc: phòng làm

việc, các phương tiện, tài liệu cần thiết cho công việc giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng

35

và nghiên cứu khoa học. Tuy vậy, cơ sở vật chất của mỗi trường đại học công lập

lại được trang bị khác nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc, cũng

như chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Do đó, các trường

đại học công lập cần hướng trọng tâm đến đầu tư các hạng mục quan trọng gồm:

phát triển hệ thống các phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm trọng điểm; đầu tư

nâng cấp để hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất, giảng đường, máy chiếu, máy vi

tính để bàn và máy tính xách tay, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại khác cho đội ngũ

giảng viên trường đại học công lập.

1.3.3. Yếu tố cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế tự chủ

Đây là một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến chất

lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Nếu cơ cấu tổ chức bộ

máy và cơ chế tự chủ của trường đại học công lập tốt sẽ tạo môi trường thuận

lợi để phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của nhà trường. Nếu ngược lại sẽ kìm

hãm sự phát triển, cũng như cống hiến của đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập. Các yếu tố về cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế tự chủ của các đơn

vị đã được quy định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước về tổ chức, sắp

xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, trường đại học công lập nói

riêng; xóa bỏ cơ chế chủ quản, phân cấp quản lý, tăng quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm cho các trường đại học công lập, đồng thời thiết lập các cơ chế

kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng cũng như

phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Những quy định này

góp phần rất quan trọng vào nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ giảng

viên các trường đại học công lập.

1.3.4. Uy tín, thương hiệu của trường đại học công lập

Uy tín, thương hiệu luôn được các trường đại học công lập quan tâm, xây

dựng. Các nước phát triển (Mỹ, Anh, Pháp, Ca na đa, Cộng hòa liên bang Đức,

36

Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) luôn có nhiều trường đại học có uy tín

quốc tế. Uy tín, thương hiệu càng lớn, càng mạnh thì càng thu hút các đội ngũ

giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên có năng lực và tâm huyết cống hiến,

từ đó công tác phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập cũng

thuận lợi. Tất cả giảng viên các trường đại học đều muốn công tác trong một tổ

chức có uy tín, thương hiệu, được xã hội công nhận và nhiều người biết đến,

đồng thời bản thân cũng lo sợ khi phải rời khỏi nhà trường có uy tín, thương

hiệu lớn nếu không đáp ứng yêu cầu.

Uy tín và thương hiệu của trường đại học công lập sẽ giúp nhà trường

có ưu thế trong công tác thu hút đội ngũ giảng viên có chất lượng cao vào làm

việc, qua đó góp phần tăng thêm việc làm, thu nhập và các chính sách đãi ngộ

giảng viên được tốt hơn. Đây chính là động lực để đội ngũ giảng viên các trường

đại học công lập gắn bó với nhà trường, hết lòng, hết sức xây dựng nhà trường

và cũng chính điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển đội ngũ

giảng viên các trường đại học công lập.

1.3.5. Môi trường làm việc

Bên cạnh các yếu tố thuộc về cơ sở vật chất, các trường đại học công lập

cũng cần xây dựng môi trường làm việc thực sự trọng dụng người tài, thực hiện

chính sách thu hút, tạo nguồn, bố trí, sử dụng gắn với giao nhiệm vụ đúng

người, đúng việc để tạo môi trường làm việc thân thiện, hợp tác, tự do, đảm

bảo đủ điều kiện vật chất để giảng viên trường đại học công lập yên tâm làm

việc và cống hiến, nhất là với các giảng viên, nhà khoa học trẻ cần nghiên cứu,

phát triển các đề án, đề tài khoa học thiết thực. Không khí làm việc trong trường

đại học công lập tốt sẽ gắn kết các thành viên, thúc đẩy mọi hoạt động trong

nhà trường, trong đó có công tác phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại

học công lập.

37

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, luận văn đã trình bày, phân tích về khái niệm và đặc

điểm của viên chức, giảng viên làm việc trong trường đại học công lập, khái

niệm trường đại học công lập; vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên làm việc

trong trường đại học công lập; những nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ

giảng viên làm việc trong các trường đại học công lập, như phát triển về số

lượng; phát triển về chất lượng; công tác xây dựng chính sách phát triển; công

tác tổ chức thi hành chính sách phát triển; công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá

chính sách phát triển.

Chương 1 cũng dành dung lượng phù hợp để trình bày, phân tích các

yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các

trường đại học công lập ở Việt Nam, như thể chế và cơ chế quản lý đội ngũ

giảng viên đại học; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật; cơ cấu tổ chức bộ máy

và cơ chế tự chủ của trường đại học công lập; uy tín, thương hiệu của trường

đại học công lập; và yếu tố môi trường làm việc.

Thông qua các nội dung nêu trên, Chương 1 cung cấp khung lý thuyết và

các công cụ khái niệm để triển khai nội dung nghiên cứu, đánh giá thực trạng

công tác phát triển đội ngũ giảng viên làm việc, công tác tại Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021. Đây là những nội

dung chủ yếu được trình bày, phân tích tại Chương 2 của luận văn.

38

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TẠI TRƯỜNG

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2016-2021

2.1. Khái quát quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên

tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển

Tháng 02 năm 1956, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh thông qua quyết định thành lập một số trường đại học mới. Thực hiện chủ

trương này và định hướng phát triển đại học, ngày 06/3/1956, Bộ trưởng Bộ Giáo

dục Nguyễn Văn Huyên đã ký Nghị định số 147/NĐ về việc thành lập Trường

Đại học chuyên nghiệp Bách khoa (sau đổi là Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội, và nay là Đại học Bách khoa Hà Nội). Ngày 15/10/1956, Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội chính thức làm lễ khai giảng khóa học đầu tiên (khóa 1) cho

hơn 1.000 sinh viên thuộc 14 chuyên ngành của 04 liên khoa: Cơ điện, Mỏ -

Luyện kim, Hóa - Thực phẩm và Xây dựng. Giám đốc đầu tiên của Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội là GS, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Cuối năm 1956, trọng

trách Giám đốc và lãnh đạo Nhà trường được chuyển giao cho Giáo sư Tạ Quang

Bửu. Quy mô mặt bằng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là khu Đông Dương

học xá, với việc lấy các khu nhà A, B, C, D, E, F làm trung tâm rồi phát triển ra

khu đất trống bao quanh.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội luôn khẳng định vai trò và sự đóng góp to lớn của mình trong kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu

tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ Trường Đại học Bách

khoa Hà Nội đã hình thành một số trường đại học kỹ thuật khác như Trường

Đại học Xây dựng, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Kỹ thuật Quân

39

sự, Trường Đại học Công nghiệp; đồng thời nhiều cán bộ được tăng cường

cho Trường Đại học Cơ điện Thái Nguyên (nay thuộc Đại học Thái Nguyên).

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng đã thực hiện nhiệm vụ cung cấp cán

bộ khung cho Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học Quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học Đà Nẵng, Trường

Đại học Sư phạm Thủ Đức (tiền thân của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật

Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), Trường Đại học Điện lực, Trường Đại

học Công nghiệp Hà Nội...

Ngày 02/12/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

1512/QĐ-TTg về việc chuyển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại

học Bách khoa Hà Nội. Theo đó, Đại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị sự

nghiệp công lập tự chủ trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tư cách pháp

nhân, con dấu và tài khoản riêng. Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ tổ chức lại

cơ cấu tổ chức và hoạt động trên cơ sở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

trước đây theo quy định của Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 cùng các quy

định pháp luật có liên quan. Theo Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Giáo dục đại học, để được chuyển từ trường đại học lên đại

học, các trường phải đáp ứng các điều kiện sau: (1). Được công nhận đạt

chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng

giáo dục hợp pháp; (2). Có ít nhất 3 trường thuộc trường đại học được thành

lập theo quy định; có ít nhất 10 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ; có quy

mô đào tạo chính quy trên 15.000 người; (3). Có ý kiến chấp thuận của cơ

quan quản lý trực tiếp đối với trường đại học công lập; có sự đồng thuận của

các nhà đầu tư đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp đối với trường đại học

tư thục, trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.

40

Sau gần 65 năm xây dựng và trưởng thành, Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội đã đào tạo trên 200.000 kỹ sư, trên 10.000 thạc sĩ và trên 1000 tiến

sĩ cho hầu hết các ngành kinh tế, kỹ thuật của đất nước. Nhiều người đã trở

thành các nhà khoa học đầu ngành, cán bộ quản lý cao cấp, các tướng lĩnh,

các chủ doanh nghiệp và cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.

Mặc dù với bề dày truyền thống và là đơn vị đào tạo và nghiên cứu

khoa học uy tín hàng đầu trong nước, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

vẫn phải liên tục đổi mới quản trị, đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao chất

lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức phục vụ cộng đồng

nhằm khẳng định vị thế trong nước và vươn ra quốc tế, đi tiên phong trong

hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh mới hội nhập

quốc tế sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu. Phần lớn giảng viên của Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội được đào tạo từ các trường đại học danh tiếng

trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Nhật Bản…), trong đó hơn 70% giảng viên

có trình độ tiến sĩ trở lên (đạt tỷ lệ cao nhất trong các cơ sở đào tạo tại Việt

Nam). Nhiều năm liên tục, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lọt vào top

801-1000 trường đại học tốt nhất thế giới (THE WUR - Times Higher

Education World University Ranking) do tổ chức Times Higher Education

(THE) công bố bảng xếp hạng hàng năm.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt trong hơn một thập kỷ

gần đây, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tìm những hướng đi và giải

pháp mới để phát triển nhà trường, mặc dù trong thời gian đầu, đầu tư cho nhà

trường hầu như không có. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội luôn mạnh dạn

đi tiên phong triển khai các chương trình theo chủ trương đổi mới giáo dục đại

học. Năm 2007, Nhà trường bắt đầu áp dụng đào tạo theo hình thức tín chỉ.

Ngày 28/3/2011, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định giao

41

cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thí điểm thực hiện một số nội dung tự

chủ và tự chịu trách nhiệm giai đoạn 2011-2015. Tiếp sau đó, ngày 06/10/2016,

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm tự chủ đại học của Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội. Theo đó, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có quyền

tự chủ toàn diện trong các hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, tổ chức bộ

máy, nhân sự và tài chính.

Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (khi chưa chuyển

đổi thành Đại học Bách khoa Hà Nội):

(Nguồn: Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội, 2021, tr.4)

Trong giai đoạn thí điểm tự chủ này, Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội đã thay đổi về mô hình tổ chức, cơ chế quản lý, đổi mới quản trị, cụ thể

là hoạt động theo cơ chế quản lý 3 cấp: Trường - Khoa/Viện - Bộ môn. Trong

giai đoạn 2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bắt đầu thực hiện

nhiệm kỳ đầu tiên của Hội đồng trường và đã xây dựng, bổ sung và sửa đổi,

42

hoàn thiện các văn bản quan trọng làm nền tảng cho đầu tư phát triển, quản

lý và điều hành mọi mặt hoạt động của Trường. Giai đoạn 2015-2020 cũng

là thời điểm Trường đã xây dựng và triển khai đề án tái cấu trúc một số đơn

vị cấp 2 gắn với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp lại đội ngũ cán

bộ. Kết quả là, số lượng đơn vị cấp 2 đã giảm từ 65 xuống còn 52, trong đó

giảm 5 phòng ban và trung tâm hỗ trợ; gần 200 cán bộ được bố trí, sắp xếp

lại vị trí việc làm trong đó hơn 60 cán bộ được điều chuyển từ các đơn vị

chức năng sang đơn vị dịch vụ. Mặc dù số đơn vị cấp 2 đã giảm xuống còn

52 đơn vị nhưng nhìn chung cơ cấu, mô hình tổ chức của Trường ĐHBK Hà

Nội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, gây ảnh hưởng không tốt đến công tác

phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.

2.2. Phân tích thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021

2.2.1. Về số lượng

Năm Tổng số

Cơ hữu 1.727 1.090 Giảng viên Thỉnh giảng Kỹ thuật viên 167 Viên chức HCPV 460 Nghiên cứu viên 10 2021

2022 1701 1078 0 155 458 10

Đang ở trong nước 1687 1065 0 154 458 10

Đang ở ngoài nước 14 13 0 1 0 0

Số viên chức nữ giới 753 377 0 64 307 5

Số viên chức mới 24 16 0 1 7 0

Số viên chức là 2 2 0 0 0 0 người nước ngoài

43

Về cơ cấu trình độ, chức danh giảng viên như sau:

Trình độ Đang ở nước ngoài Chức danh Năm Đang học trong nước Phân loại

Cơ hữu 805 255 TS ThS ĐH GS PGS Postdoc NCS CH NCS CH 0 22 230 13 9 7 0 1

Số viên 238 0 0 2021 135 4 2 59 4 0 0 chức

nữ

Cơ hữu 814 253 8 22 244 11 0 3 4 1

Số viên 244 0 0 2022 129 4 2 67 2 0 1 chức

nữ

Cơ cấu, trình độ chức danh giảng viên giai đoạn 2018-2022 như sau:

22

2022

244

814

22

2021

230

805

23

2020

217

790

24

2019

235

765

25

2018

225

751

0

100

200

300

400

500

600

700

800

900

Giáo sư

Phó Giáo sư

Tiến sĩ

(Nguồn: Đại Bách khoa Hà Nội, Báo cáo tại Hội nghị cán bộ, viên chức

năm 2022)

44

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội

nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII, Đảng ủy Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội đã ban hành Nghị quyết thống nhất chủ trương hợp nhất, tái cấu trúc một số

đơn vị. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị tiên phong trong việc tổ chức

lại các văn phòng đảng, đoàn thể cùng với các văn phòng Hội đồng trường, văn

phòng Ban Giám hiệu về một đơn vị quản lý hành chính duy nhất. Quá trình tái

cấu trúc, hợp nhất được thực hiện gắn với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp

xếp lại đội ngũ cán bộ. Kết quả đã giảm được 13 đơn vị cấp 2 thuộc Trường, giảm

thiểu chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng

đội ngũ cán bộ. Qua quá trình tái cấu trúc, gần 200 cán bộ của Nhà trường được

bố trí, sắp xếp lại vị trí việc làm, trong đó hơn 60 cán bộ dư thừa từ các đơn vị

chức năng được điều chuyển sang đơn vị dịch vụ.

Bên cạnh tinh gọn bộ máy tổ chức, hệ thống quản lý của Nhà trường

ngày càng được nâng cao hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở tăng cường phân cấp,

phân quyền, dân chủ và minh bạch. Tư duy bao cấp dần được xóa bỏ, thay bằng

tư duy phân cấp, tự chủ và tự chịu trách nhiệm, nhất là từ khi cơ chế quản lý tài

chính mới được triển khai tháng 9/2018. Ban Giám hiệu điều hành, quản lý các

lĩnh vực hoạt động dựa trên mục tiêu, kế hoạch và các chỉ số hoạt động chính.

Các đơn vị chức năng chuyển đổi dần vai trò từ quản lý hành chính sang điều

phối hoạt động và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ chung. Các đơn vị chuyên môn

chịu trách nhiệm chính trong các hoạt động chuyên môn, chủ động tìm kiếm và

tối ưu hoá sử dụng các nguồn lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.

Kết quả quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và

giảng viên của Nhà trường đã có thay đổi rõ nét về nhận thức và tư duy hành

động, chủ động tham gia vào quá trình đổi mới các mặt hoạt động của Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội, tạo nên hình ảnh tốt đẹp về thương hiệu, uy tín của

Nhà trường không chỉ trong nước mà cả uy tín quốc tế.

45

2.2.2. Về chất lượng

Về trình độ giảng viên và tỷ trọng giờ nghiên cứu: số lượng giảng viên

có trình độ tiến sĩ trở lên tăng dần theo các năm và hiện đang ở tốp đầu trong

các cơ sở giáo dục đại học trong nước, tuy nhiên phần thời gian dành cho công

tác nghiên cứu còn thấp (tỷ trọng giữa giảng dạy - nghiên cứu - phục vụ năm

2020 là 50-35-15).

Về năng lực và thành tích nghiên cứu: Tổng số công bố của đội ngũ

giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong 5 năm (2016-2020) là

2.278 công bố và có xu hướng tăng dần. Tuy nhiên, nếu tính số công bố/tổng

số giảng viên thì tỷ lệ 0,4 bài/giảng viên là còn thấp. Đồng thời các chỉ số thể

hiện năng lực nghiên cứu còn khiêm tốn, cụ thể: số công bố trong danh mục tạp

chí Q1 hoặc conference rank A* chỉ chiếm khoảng 30% tổng số công bố

ISI/Scopus; Chỉ số trích dẫn của các công bố trung bình giai đoạn 2009-2018

là 7.0, giai đoạn 2000-2018 là 9.5, không có công bố nào lọt vào nhóm 300

công bố có số lượt trích dẫn cao nhất giai đoạn 2000-2018. Việc chuyển giao

công nghệ và các sản phẩm sở hữu trí tuệ như phát minh, sáng chế còn ít. Năm

2020, số phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích của các giảng viên Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội đã nộp đơn là 26, số đơn được chấp nhận là 19 và đã

được cấp chứng nhận là 8.

Nhiều năm liên tục, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là 5 đơn vị có số

lượng công bố quốc tế nhiều nhất (04 đơn vị còn lại là Viện Hàn lâm Khoa học

và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường

Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội). 05 đơn vị này đóng góp

trên 50% tổng số công bố quốc tế của Việt Nam.

46

Về công bố khoa học và phát minh sáng chế (đến tháng 11/2022):

TT Loại công trình Số lượng

Tăng/giảm so với 2021

Số lượng /CBGD 0.462 1 Công bố ISI 499

0,421 Giảm 12% Công bố ISI 455

0,04 Hội nghị quốc tế (thuộc Web of 44 Tăng 100% Science)

0,354 Tăng 64% 2 Công bố Scopus (không tính 383

ISI)

0,676 Tăng 2,8% 3 Công bố khác 730

4 Trích dẫn của công trình 3 năm Tăng 17.4% cuối (2020-2022) trên Scopus

8.210 trích dẫn (2.334 công bố) 3,52 trích dẫn/công bố

Phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích

5 0,037 Được chấp nhận đơn Tăng 10,8%

41 (8 giải pháp hữu ích, 33 sáng chế)

0,035 Đã được cấp 38

Tăng 11,76% 0,015 Tăng 45%

Đã được ứng dụng, chuyển giao công nghệ

16: 7 giải pháp hữu ích; 9 sáng chế (trong đó 5 đơn có dự định cấp bằng)

0,026 6 Sách, giáo trình 28

47

Năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội (thống kê theo số bài báo kê khai trên hệ thống tính kNC):

S Tiêu chí 2017 2018 2019 2020

TT

281 309 462 373

1 Số công bố Scopus (Tạp chí và Hội nghị) + SCI + SCIE

2 Số bài báo ISI 162 184 243 213

3 Số patents và GPHI 7 10 18 16

125 (27.8%) 121 (24.1%) 212 (29.3%) 180 (29.9%)

4 Số công bố Q1 (Tỷ lệ công bố Q1/ Tổng số công bố ISI/Scopus theo năm %)

86 (19.1%) 107 (21.2%) 167 (23.1%) 153 (25.4%)

5 Số công bố Q2 (Tỷ lệ công bố số công bố Q2/ Tổng ISI/Scopus theo năm %)

6 Tổng số công bố 450 503 723 602

(Nguồn: Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội, 2021, tr.59).

Hiện nay, quy mô đào tạo của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đạt

trên 35.000 người học với 65 chuyên ngành đại học, 47 chuyên ngành cao học,

32 chuyên ngành tiến sĩ. Trường có 3 chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao

đạt chuẩn kiểm định kỹ sư Pháp và châu Âu (CTI ENAEE), 11 chương trình đào

tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn của Hiệp hội các trường đại học Đông Nam

Á (AUN-QA), 2 chương trình được kiểm định theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Kế

toán viên công chứng Úc (CPA)… Trong nhiều năm qua, Trường Đại học Bách

khoa Hà Nội có mặt trong nhiều bảng xếp hạng đại học trên thế giới. Theo bảng

xếp hạng QS năm 2021, 4 nhóm ngành Kỹ thuật Điện - Điện tử; Kỹ thuật Cơ

khí, Hàng không và Chế tạo; Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin và Toán

học của Nhà trường được xếp ở vị trí từ 400 đến 600 tốt nhất thế giới.

48

2.2.3. Về xây dựng chính sách phát triển

Để khẳng định và duy trì vị thế là một trong những cơ sở đào tạo đại học

và sau đại học uy tín hàng đầu ở Việt Nam, khu vực Châu Á và quốc tế, Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội luôn quan tâm xây dựng và thực hiện chính sách

phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường đủ về số lượng và hợp lý về cơ

cấu, mạnh về chất lượng. Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà trường đã xây dựng,

ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản rất quan trọng về công tác phát

triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường, tiêu biểu là:

- Đề án “Quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2006-2030”, được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào

tạo phê duyệt tại Quyết định số 668/QĐ-BGDĐT ngày 01/02/2007.

- Chiến lược phát triển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn

2017-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 245/QĐ-ĐHBK-HCTH ngày

15/02/2017 của Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội).

- Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội khóa XXX về chuyển đổi mô hình tổ chức, xây dựng hình

mẫu Đại học Bách khoa Hà Nội tự chủ và hiện đại (Nghị quyết chuyên đề số

85-NQ/ĐU ngày 07/12/2020), định hướng rất rõ nhiệm vụ thu hút và phát triển

đội ngũ cán bộ tài năng, đặc biệt là đội ngũ giảng viên của Nhà trường.

- Quy chế công tác cán bộ năm 2019 của Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội do Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội ban hành theo Quyết

định số 2409/QĐ-ĐHBK ngày 15/10/2019 (sửa đổi, bổ sung một số điều theo

Quyết định số 688/QĐ-ĐHBK-TCCB ngày 21/5/2020).

Đơn vị tham mưu công tác tổ chức cán bộ của Nhà trường là Phòng Tổ

chức cán bộ cũng đã chủ trì xây dựng và trình Hội đồng trường, Hiệu trưởng

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội các quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế

công tác cán bộ trong giai đoạn chuyển tiếp của Trường Đại học Bách khoa Hà

49

Nội; chủ trì xây dựng danh mục vị trí việc làm, đề án vị trí việc làm trong toàn

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội để trình Hội đồng trường ban hành danh

mục và khung tiêu chuẩn vị trí việc làm toàn Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội với tổng số 89 vị trí việc làm của đội ngũ viên chức Nhà trường.

Trong năm 2022, các đơn vị chuyên môn tiếp tục tiến trình tái cấu trúc,

chuẩn bị sẵn sàng cho bước tiến lên mô hình Đại học Bách khoa Hà Nội: Các

tổ công tác xây dựng Đề án thành lập Trường thuộc nhóm ngành Hóa - Sinh -

Thực phẩm - Môi trường và nhóm ngành Vật liệu đã hoàn thành Đề án thành

lập Trường thuộc trình Ban Giám hiệu. 05 đơn vị là Viện Ngoại ngữ, Viện Sư

phạm kỹ thuật, Viện Vật lý kỹ thuật, Viện Kinh tế và Quản lý và Viện Toán

ứng dụng và tin học đã hoàn thành đề án chuyển đổi mô hình thành Khoa thuộc

Đại học. Trung tâm Công nghệ dữ liệu và tính toán đã được tái cấu trúc và

chuyển đổi thành Trung tâm Công nghệ và Kinh tế số theo Quyết định số

4989/QĐ-ĐHBK ngày 24/11/2022 của Hiệu trưởng. Đến nay, Đại học Bách

khoa Hà Nội có 05 trường được thành lập theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 (đó là Trường Cơ khí; Trường Điện

- Điện tử; Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông; Trường Vật liệu;

Trường Hóa và Khoa học sự sống). Đây là các trường được thành lập sau khi

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận Hội đồng đại học, Chủ tịch Hội

đồng đại học và Ban Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội. Đây là một bước

tiến mới của Đại học Bách khoa Hà Nội trong quá trình triển khai thực hiện

chiến lược phát triển giai đoạn 2017-2025 và thực hiện Nghị quyết chuyên đề

số 85/NQ-ĐU ngày 07/12/2020 của Đảng ủy Đại học Bách khoa Hà Nội về

chuyển đổi mô hình tổ chức, xây dựng Đại học Bách khoa Hà Nội tự chủ và

hiện đại.

Trong thời gian sắp tới, cơ cấu tổ chức, bộ máy vận hành của Đại học

Bách khoa Hà Nội tiếp tục được tối ưu theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;

50

phân cấp mạnh các mặt hoạt động cho các đơn vị chuyên môn; quản trị, điều

hành tập trung theo chiến lược và các quy chế, quy định chung do Đại học Bách

khoa Hà Nội ban hành, người học được cấp bằng duy nhất của Đại học Bách

khoa Hà Nội.

Nhờ chính sách phát triển đội ngũ giảng viên có hiệu quả cho nên Đại học

Bách khoa Hà Nội đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại

học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục HCERES năm 2017. HCERES

là tổ chức đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học độc lập có nhiệm

vụ đánh giá các cơ sở đào tạo đại học, các tổ chức nghiên cứu và các chương

trình đào tạo. HCERES là thành viên chính thức của Hiệp hội đảm bảo chất lượng

giáo dục đại học Châu Âu (ENQA) và Bộ tiêu chuẩn và Hướng dẫn về đảm bảo

chất lượng (ESG) trong hệ giáo dục đại học châu Âu (EHEA). Ngoài các cơ sở

đào tạo và nghiên cứu của Pháp, HCERES còn tham gia đánh giá các cơ sở đào

tạo và nghiên cứu của các quốc gia thuộc EHEA. Trung bình hàng năm HCERES

đánh giá và kiểm định 50 cơ sở đào tạo, tổ chức nghiên cứu; 630 đơn vị nghiên

cứu; 600 chương trình đào tạo đại học; 300 chương trình đào tạo thạc sĩ và 70

chương trình đào tạo tiến sĩ. HCERES cũng đã thực hiện đánh giá và kiểm định

quốc tế đối với các trường đại học nước ngoài, các tổ chức giáo dục của Pháp ở

nước ngoài, các đơn vị nghiên cứu hỗn hợp quốc tế.

2.2.4. Về thi hành chính sách phát triển

Về công tác quy hoạch, bổ nhiệm: hàng năm, Trường Đại học Bách khoa

Hà Nội đã thực hiện quy trình rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ quản lý các

đơn vị cấp 2, đơn vị quản lý cấp 3. Năm 2021, Hiệu trưởng Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội (nay là Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội) đã ký ban

hành Quyết định số 1545/QĐ-ĐHBK-TCCB và Quyết định số 1546/QĐ-

ĐHBK-TCCB phê duyệt quy hoạch vị trí cấp trưởng và cấp phó trưởng các

khoa, viện, phòng, ban, trung tâm của các đơn vị trong Trường. Cùng với việc

51

thành lập 03 trường thành viên, công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý được thực

hiện đúng quy trình theo Quy chế công tác cán bộ và đúng pháp luật.

Về công tác bố trí, bổ nhiệm cán bộ: từ năm 2019-2022, số giảng viên

được bổ nhiệm vị trí cấp trưởng, cấp phó trưởng đơn vị cấp 2 là 126 người; cấp

trưởng, cấp phó trưởng đơn vị cấp 3 là 264 người. Trong quá trình thực hiện

công tác bố trí, bổ nhiệm cán bộ, Trường luôn thực hiện nghiêm túc quy trình bổ

nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đã lựa

chọn được nhiều giảng viên, nhà khoa học có năng lực, uy tín để Hiệu trưởng

Nhà trường bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Song song với việc bổ

nhiệm viên chức lãnh đạo, quản lý, từ năm 2019-2022 Trường Đại học Bách

khoa Hà Nội đã thực hiện miễn nhiệm 134 cán bộ quản lý trong quá trình tái cấu

trúc, tổ chức lại bộ máy tổ chức thành lập Trường Cơ khí; Trường Công nghệ

Thông tin và Truyền thông và Trường Điện - Điện tử. Quá trình thực hiện miễn

nhiệm thực hiện hợp lý, không gây xáo trộn và đạt được sự đồng thuận cao.

Về công tác tuyển dụng: Số lượng và chất lượng cán bộ tuyển dụng hàng

năm được cải thiện, số cán bộ được tuyển vào giảng viên tăng cả về số lượng

và chất lượng. Năm 2021, đã tuyển dụng được 37 cán bộ, trong đó có 27 giảng

viên (23 giảng viên trình độ tiến sĩ). Nhằm thu hút đội ngũ cán bộ có thành tích

xuất sắc và nhà khoa học uy tín, Phòng Tổ chức cán bộ đã xây dựng và trình

Hiệu trưởng (nay là Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội) phê duyệt “Đề án

Thu hút tuyển dụng giảng viên xuất sắc giai đoạn 2021-2025”. Kết quả ngay

trong năm 2021 đã tuyển dụng được 03 giảng viên có thành tích nghiên cứu

xuất sắc về giảng dạy tại Viện Vật lý kỹ thuật và Viện Kỹ thuật Hóa học.

Về đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên: công tác đào tạo

nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên luôn được Đảng ủy và Ban Giám hiệu

(nay là Ban Giám đốc) Đại học Bách khoa Hà Nội quan tâm. Từ năm 2019 đến

năm 2022 số lượng và chất lượng các lớp bồi dưỡng cho cán bộ quản lý các cấp

52

của Nhà trường không ngừng tăng lên. Năm 2021, mặc dù bị ảnh hưởng bởi

dịch COVID-19, nhưng Nhà trường vẫn duy trì tổ chức triển khai các lớp về

nâng cao trình độ tiếng Anh, nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ, về lý luận

chính trị và về chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo theo kế hoạch đề ra.

Đặc biệt, từ ngày 01/7/2022, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

công bố và thực hiện Đề án thu hút, tuyển dụng giảng viên xuất sắc giai

đoạn 2021-2025 nhằm tìm kiếm ứng viên trẻ tài năng, nhà khoa học uy tín

xuất sắc, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành làm nòng

cốt để dẫn dắt, thúc đẩy và phát triển công tác nghiên cứu khoa học của

Nhà trường. Theo đó, giảng viên xuất sắc dưới 40 tuổi được ưu tiên tuyển

dụng vào Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với cơ chế đãi ngộ lương

bổng, kinh phí nghiên cứu khoa học. Đề án đặt mục tiêu tuyển dụng

khoảng 30 giảng viên xuất sắc, ưu tiên các nhóm ngành Điện - Điện tử,

Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Toán ứng dụng và Tin học, Khoa học máy

tính và Hệ thống thông tin, Hóa - Sinh học - Thực phẩm - Môi trường, Vật

liệu, Vật lý và Năng lượng.

Các ứng viên Nhà trường hướng tới thu hút là giảng viên có độ tuổi

dưới 40 (nhóm A), là tác giả chính của một công bố đăng trong tạp chí Nature

hoặc Science; hoặc tối thiểu 5 công bố ISI/Scopus, trong đó ít nhất hai công

bố thuộc nhóm tạp chí Q1 hoặc Conference Rank A* trong lĩnh vực phù hợp,

với tổng số trích dẫn tối thiểu đạt 300 hoặc chỉ số H-index toàn bộ tối thiểu là

10. Ngoài ra, giảng viên đã có tối thiểu một phát minh sáng chế hoặc hai giải

pháp hữu ích và đã chủ trì cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ hoặc chuyển

giao công nghệ cũng là nhóm trường quan tâm. Đề án cũng hướng tới ứng

viên là nhà khoa học uy tín (giáo sư, phó giáo sư - nhóm B) có kinh nghiệm

dẫn dắt nhóm nghiên cứu, giảng dạy theo định hướng quốc tế hóa tại các cơ

sở đào tạo, nghiên cứu uy tín trong và ngoài nước.

53

Đây là Đề án có những cơ chế đột phá về lương bổng, tạo môi trường

làm việc, nghiên cứu chuyên nghiệp để các giảng viên tài năng phát huy được

hết khả năng. Chẳng hạn, các giảng viên xuất sắc về công tác được Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội tài trợ kinh phí để thực hiện một đề tài trọng điểm với

kinh phí từ 200 đến 500 triệu đồng một năm, căn cứ theo đề xuất của ứng viên

và được hội đồng tư vấn thẩm định phê duyệt. Ngoài ra, giảng viên xuất sắc sẽ

được Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hỗ trợ để được hưởng chế độ theo cơ

chế, chính sách ưu đãi của Chính phủ.

Cũng theo Đề án này, giảng viên được tuyển dụng về Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội sẽ có môi trường lý tưởng để nghiên cứu khoa học bởi cơ

sở vật chất tốt với nhiều phòng thí nghiệm mới, đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ

cùng nhiều sinh viên, học viên sau đại học giỏi. Kinh phí được hỗ trợ cùng các

thủ tục hành chính đơn giản, áp dụng chuyển đổi số cũng là những điều kiện

được Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đưa ra trong Đề án thu hút, tuyển dụng

giảng viên xuất sắc giai đoạn 2021-2025.

2.2.5. Về công tác đánh giá, xếp loại giảng viên

Từ năm 2019 đến nay, công tác đánh giá, xếp loại giảng viên được Đảng

ủy và Ban Giám hiệu Trường Đại học Bách khoa Hà Nội quan tâm xây dựng

và triển khai hoàn toàn mới theo bộ chỉ số đánh giá chất lượng KPI để trả lương

tăng thêm. Hằng năm công tác đánh giá, xếp loại giảng viên luôn được Nhà

trường cải tiến để hoàn thiện hơn. Năm học 2020-2021, đã thực hiện đánh giá

chất lượng xếp loại 1725 giảng viên, trong đó 64 giảng viên xếp loại hoàn thành

nhiệm vụ, 1046 giảng viên xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ, 613 giảng viên

xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và 02 giảng viên xếp loại không hoàn

thành nhiệm vụ. Năm học 2020-2021, công tác đánh giá, xếp loại giảng viên

cũng đã được cải tiến nhiều so với năm học 2019-2020 và thực hiện quy trình

đánh giá, xếp loại giảng viên đi vào thực chất gắn với việc trả lương 2, tạo động

54

lực cho giảng viên, nhất là giảng viên trẻ có năng lực phấn đấu làm việc. Nhà

trường cũng đang chủ trì việc thực hiện đánh giá, xếp loại chất lượng giảng

viên trên hệ thống trực tuyến, đưa vào vận hành từ năm học 2021-2022.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng thực hiện quyết liệt công tác

chuyển đổi số vào quản lý, đánh giá, xếp loại đội ngũ giảng viên. Đảng ủy và

Ban Giám hiệu nhà trường giao Phòng Tổ chức cán bộ phối hợp với Tổ công

tác chuyển đổi số thực hiện kết nối liên thông dữ liệu cán bộ với dữ liệu đào

tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Phòng Tổ chức cán bộ cũng đã triển

khai một số quy trình quản lý trên hệ thống quản trị đại học eHUST như quy

trình tuyển dụng, quy trình thi đua khen thưởng… và tiếp tục triển khai các quy

trình khác như đánh giá xếp loại đội ngũ giảng viên, cử giảng viên đi công tác

trong và ngoài nước trên hệ thống eHUST và đẩy mạnh công tác ứng dụng công

nghệ thông tin trong quản lý giảng viên.

Về thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên: Nhiệm kỳ

2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã rà soát và sửa đổi, bổ sung

Quy chế quy định liên quan tới chế độ chính sách cụ thể đối với đội ngũ giảng

viên của Nhà trường. Thực hiện các chính sách về lương, bảo hiểm, thi đua,

khen thưởng, kỷ luật theo đúng pháp luật của Nhà nước và các quy định của

Trường. Phòng Tổ chức cán bộ hướng dẫn giảng viên thực hiện chính sách một

cách tận tình chu đáo, làm cho giảng viên yên tâm và hiểu rõ những chế độ mà

mình được hưởng, những trách nhiệm mình phải thực hiện. Thực hiện tốt công

tác hưu trí, động viên giảng viên đến tuổi nghỉ hưu một cách kịp thời, được

giảng viên đánh giá cao về tinh thần và thái độ phục vụ.

Hiện tại, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đang xây dựng chế độ bảo

hiểm sức khỏe cho giảng viên nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của giảng

viên và người lao động, nhằm tạo lập môi trường tốt về đãi ngộ và thu hút đội

ngũ giảng viên chất lượng cao bên cạnh chế độ lương thưởng theo chất lượng

55

và hiệu quả công việc. Công tác thi đua khen thưởng các đơn vị, cá nhân trong

toàn Trường Đại học Bách khoa Hà Nội luôn được cải tiến, đổi mới theo định

hướng thiết thực, thực chất và gắn với vị trí việc làm, chất lượng và hiệu quả

công việc nhằm khen thưởng đúng người, đúng đơn vị.

2.3. Những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên tại

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021

2.3.1. Trong phát triển về số lượng, cơ cấu

Trong giai đoạn 2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bắt đầu

thực hiện nhiệm kỳ đầu tiên của Hội đồng trường và đã xây dựng, bổ sung và sửa

đổi, hoàn thiện các văn bản quan trọng làm nền tảng cho đầu tư phát triển, quản lý

và điều hành mọi mặt hoạt động của Trường. Giai đoạn 2015-2020 cũng là thời

điểm Trường đã xây dựng và triển khai đề án tái cấu trúc một số đơn vị cấp 2 gắn

với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp lại đội ngũ giảng viên. Kết quả,

gần 200 giảng viên được bố trí, sắp xếp lại vị trí việc làm trong đó hơn 60 giảng

viên được điều chuyển từ các đơn vị chức năng sang đơn vị dịch vụ.

Quản lý hành chính ở một số viện đào tạo chưa được phân cấp mạnh

(trong đó có nguyên nhân một phần do số lượng, cơ cấu và năng lực của đội

ngũ giảng viên của các viện này chưa đảm bảo), quản lý chuyên môn thiếu

chuyên sâu (ngành/chương trình đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao

công nghệ...). Một số viện đào tạo đã bắt đầu được phân cấp, giao quyền mạnh

nhưng do hạn chế về số lượng, cơ cấu và năng lực của đội ngũ giảng viên (kể

cả giảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và giảng viên chuyên môn), kèm theo

hạn chế về năng lực và nguồn lực nên hoạt động của các viện đào tạo này chưa

hiệu quả và khó mở rộng phát triển. Các chương trình đào tạo, nghiên cứu liên

ngành, liên lĩnh vực khó triển khai, nhiều đơn vị còn bị chồng chéo các vấn đề

chuyên môn cũng do nguyên nhân số lượng, cơ cấu giảng viên của các đơn vị

này chưa đảm bảo.

56

2.3.2. Trong phát triển chất lượng (nâng cao chất lượng)

Do có thời gian chưa quy định, phân biệt rõ giữa Viện nghiên cứu và

Trung tâm nghiên cứu cho nên nhiều Trung tâm, Viện nghiên cứu có chuyên

môn hẹp, trùng lặp với viện đào tạo, cạnh tranh với nhau và với viện đào tạo,

khiến cho phát sinh nhiều biên chế giảng viên cơ hữu, kém về chất lượng và

hiệu quả hoạt động nghề nghiệp, khó hợp tác với các viện đào tạo, khó thu hút

sinh viên đại học và học viên sau đại học để làm công tác nghiên cứu khoa học,

công tác giảng dạy, đào tạo và bồi dưỡng. Thực tế công tác tổ chức cán bộ hàng

năm của Nhà trường cho thấy những giảng viên là cán bộ cơ hữu ở các viện

nghiên cứu tham gia không nhiều và công tác đào tạo và bồi dưỡng, làm suy

giảm động lực làm việc.

Như vậy, mô hình hiện tại của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chưa

khuyến khích việc đào tạo và nghiên cứu liên ngành, liên lĩnh vực và chưa

chuyên môn hóa, đặc biệt là cấp bộ môn. Nhiều giảng viên muốn phát triển

theo hướng quản lý hành chính hơn là tập trung phát triển, quản lý chuyên môn

sâu. Mô hình hiện tại đặc biệt chưa thúc đẩy nhóm giảng viên có tiềm lực nghiên

cứu mạnh, nghiên cứu phát triển có ảnh hưởng lớn trong và ngoài nước, mặc

dù Trường có đội ngũ giảng viên với số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ chiếm

đến 71%, có năng lực nghiên cứu khoa học rất mạnh, được đào tạo cơ bản và

có trình độ cao, vững chuyên môn nghiệp vụ. Các hoạt động đổi mới sáng tạo

và chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học của

đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chưa mang lại nhiều lợi

ích cho Trường cả về mặt danh tiếng, thương hiệu và uy tín, cũng như nguồn

thu cho các quỹ phúc lợi.

2.3.3. Trong xây dựng và tổ chức thi hành chính sách phát triển

Đội ngũ trực tiếp làm công tác tham mưu về tổ chức và cán bộ của Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội và nhiều giảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý phần lớn

57

là kiêm nhiệm nên đôi khi còn hạn chế trong việc phân bổ thời gian để thực hiện

các công việc ở đơn vị được biên chế, đơn vị kiêm nhiệm cũng như công việc của

tổ chức đảng và các đoàn thể, dẫn đến nhiều bất cập hạn chế trong xây dựng và tổ

chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường. Công tác

ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên chưa triển

khai mạnh như mong muốn. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp

chưa được chú trọng đầu tư hoàn thiện để hình thành đội ngũ giảng viên hùng hậu

ở cả khối đào tạo đại học, sau đại học và khối nghiên cứu cơ bản, chuyển giao và

ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên, nghiên cứu viên.

Việc vận hành các đơn vị chuyên môn trong khối ngành hẹp cũng làm

hạn chế việc xây dựng và hình thành các nhóm giảng viên, nghiên cứu viên liên

ngành, liên lĩnh vực. Số lượng các công trình khoa học công nghệ mang tầm

vóc quốc gia, quốc tế của Nhà trường còn rất hạn chế. Do đó mô hình tổ chức

hoạt động cần phải được cải tiến theo hướng đẩy mạnh nghiên cứu liên ngành,

xuyên ngành, liên lĩnh vực và đặc biệt cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ,

hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Mô hình tổ chức hiện tại cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc

xây dựng và đổi mới chương trình đào tạo do một số đơn vị còn cát cứ và là

“pháo đài” bất khả xâm phạm. Việc phát triển chương trình đào tạo chưa thực

sự xem xét đánh giá từ góc nhìn thị trường lao động, từ người học và chưa

chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, việc quản lý và phát triển chương trình đào tạo

cũng cần được chuyên nghiệp hóa theo định hướng theo các “dòng sản phẩm”

đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước. Do đó cần có mô

hình tổ chức ở các đơn vị chuyên môn phù hợp.

Ngoài ra, mô hình tổ chức hiện tại chưa hội nhập với mô hình tổ chức của

các đại học tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng được

nhu cầu hội nhập khu vực và thế giới, tiến tới đẳng cấp khu vực và quốc tế, Trường

58

Đại học Bách khoa Hà Nội cần nghiên cứu, học tập có chọn lọc và sáng tạo các

mô hình đại học đẳng cấp quốc tế, để hình thành một hệ thống các trường

(School/College), các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm nghiên

cứu, các nhóm chuyên môn với đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất đủ mạnh để triển

khai hiệu quả các chương trình đào tạo, các chương trình nghiên cứu cơ bản,

nghiên cứu ứng dụng, phát triển và sáng tạo công nghệ. Trong đó cần tập trung

vào các lĩnh vực mũi nhọn của Trường như Điện - Điện tử, Công nghệ thông tin,

Toán tin, Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Hóa - Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu,…

để khẳng định vị trí cơ sở đào tạo đại học, sau đại học hàng đầu Việt Nam và vươn

ra khu vực thực hiện tầm nhìn trở thành một đại học nghiên cứu ngang tầm khu

vực lấy kỹ thuật công nghệ làm nòng cốt đúng như chiến lược đã đề ra.

Tóm lại, mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay là

kết quả của quá trình tái cấu trúc, thí điểm thực hiện tự chủ đại học từ năm

2011, một mô hình quá độ trong định hướng phát triển thành đại học. Tuy nhiên,

mô hình quá độ hiện tại vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập như quá nhiều số đơn vị

đầu mối; quy mô các đơn vị rất khác nhau; chồng chéo chức năng, lĩnh vực;

thiếu chuyên môn/chuyên nghiệp hóa; nguồn lực phân tán, tư tưởng cát cứ;

cứng nhắc, khó thích ứng với thay đổi; nặng “quản lý” và thiếu tư duy “phục

vụ”. Đặc biệt mô hình này không còn phù hợp với quy định của pháp luật hiện

hành, dẫn đến sự bất cập, hạn chế trong xây dựng và tổ chức thi hành chính

sách phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.

2.4. Nguyên nhân khách quan và chủ quan của những bất cập, hạn

chế trong phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội giai đoạn 2016-2021

2.4.1. Nguyên nhân khách quan

Từ năm 2016 đến năm 2021 là giai đoạn Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội tiếp tục thực hiện Đề án “Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của Trường

59

Đại học Bách khoa Hà Nội” theo Quyết định số 1924/QĐ-TTg ngày 06/10/2016

của Thủ tướng Chính phủ. Đây là giai đoạn chuyển tiếp, bởi trước đó Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội đã thực hiện thí điểm quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm trong giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1211/QĐ-BGDĐT của

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong quá trình thực hiện thí điểm tự chủ,

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đổi mới mô hình tổ chức, đổi mới quản

trị theo hướng phân cấp mạnh, các đơn vị chuyên môn đã phát huy cao độ tính

chủ động và trách nhiệm, khai thác hiệu quả năng lực và thế mạnh nội tại, góp

phần thúc đẩy tăng trưởng trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ

của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Mô hình tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay là kết

quả của gần 12 năm thực hiện 02 giai đoạn tái cấu trúc, thí điểm thực hiện tự

chủ đại học, một mô hình quá độ trong định hướng phát triển thành đại học.

Tuy nhiên, mô hình quá độ hiện tại còn bộc lộ nhiều bất cập như số đơn vị

đầu mối nhiều; quy mô các đơn vị khác nhau; thiếu tính hợp lực, tính liên

ngành, xuyên ngành; chồng chéo chức năng, lĩnh vực; nguồn lực phân tán;

cứng nhắc, khó thích ứng với thay đổi; vẫn thiếu tư duy phục vụ...

Những nguyên nhân khách quan này đã gây tác động không tích cực đến

công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

2.4.2. Nguyên nhân chủ quan

Cơ chế, chính sách về xây dựng đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập cũng chưa thống nhất, đồng bộ. Các trường đại học công lập ở Việt

Nam nói chung, trong đó có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chưa có

những giải pháp thực sự có tính đột phá, chiến lược dài hạn để xây dựng, phát

triển đội ngũ giảng viên của mình. Có những thời điểm thì tập trung vào phát

triển quy mô đào tạo để tăng số lượng sinh viên, từ đó tăng nguồn thu cho Nhà

trường; song sự tăng mạnh quy mô đào tạo trong nhiều năm cũng dẫn đến sự

60

quá tải đối với đội ngũ giảng viên, khiến cho giảng viên chỉ tập trung vào giảng

dạy, ít đầu tư vào nghiên cứu khoa học, do đó ảnh hưởng đến chất lượng đội

ngũ giảng viên.

Nhiều giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chưa có sự

chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, phát triển bản thân, vẫn còn tư tưởng

ỷ lại, thụ động, trông chờ vào cấp trên, vào nhà nước. Chưa có chủ động xây

dựng kế hoạch tự đào tạo, bồi dưỡng, đề ra những biện pháp để khắc phục

những khó khăn của bản thân, chưa dám vượt lên chính mình.

61

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Chương 2 của luận văn đã trình bày khái quát quá trình hình thành và

phát triển của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; quy định về cơ cấu tổ chức

và số lượng, cơ cấu trình độ, giới tính… của đội ngũ giảng viên Trường Đại

học Bách khoa Hà Nội. Đây có thể xem là các yếu tố có tác động đến phát triển

đội ngũ viên chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Chương 2 cũng trình bày, phân tích, đánh giá những kết quả tích cực

trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

giai đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên;

về xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng

viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Đồng thời, gắn với phân tích, đánh

giá, làm rõ những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất

lượng đội ngũ giảng viên; về xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách

phát triển đội ngũ giảng viên và các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách

quan dẫn đến những bất cập, hạn chế đó.

Đó là những cơ sở, căn cứ khoa học để Chương 3 của luận văn làm rõ

những yêu cầu khách quan của việc phát triển đội ngũ giảng viên trường đại

học công lập nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng và đề xuất các

giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường đại học công lập nói chung, Đại

học Bách khoa Hà Nội nói riêng trong những năm sắp tới.

62

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Trường

Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới

3.1.1. Quan điểm chung

Điều 63, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân

trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và

thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non, bảo

đảm bảo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ

cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực

hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý…”.

Nghị quyết số 14/2005/NQQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi

mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 xác định:

“Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

và sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học,

đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để

các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học”. Nghị

quyết số 14/2005/NQQ-CP khẳng định mục tiêu chung của việc đổi mới giáo dục

đại học là: “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến

cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của

nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong

khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao,

thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

63

Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định mục

tiêu cụ thể đối với giáo dục đại học: “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào

tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực

tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các

cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy

hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào

tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với

nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng,

bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa

XI của Đảng khẳng định việc đổi mới tư duy giáo dục đại học hiện nay cần

“gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;

hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội

nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân

tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở

khu vực”.

Kế thừa và phát triển, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng

nhấn mạnh “Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính sách đột phá phát triển, nâng

cao chất lượng giáo dục đại học... Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách

phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo… Hoàn thiện cơ chế,

chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học

và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ

giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa

học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm

64

đổi mới sáng tạo mạnh…, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo

xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”.

Để đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi khách quan, cấp bách ở Việt Nam hiện

nay, việc phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói chung,

Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng cần đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau đây:

Một là, đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà

nước bằng pháp luật. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật nhằm nâng

cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của cơ quan quản lý giáo dục đại học từ Trung

ương đến địa phương, nhằm xác lập hệ thống các cơ quan quản lý giáo dục đại

học các cấp bảo đảm không chồng chéo về quyền hạn và nhiệm vụ; tạo điều

kiện thuận lợi tối đa cho các trường đại học, cao đẳng phát triển, tạo quyền tự

chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường trong tổ chức, hoạt động giáo dục

phù hợp với đặc điểm của trường đại học công lập và thực tiễn của Việt Nam

là những yêu cầu khách quan đặt ra trong quản lý nhà nước đối với giáo dục

đại học hiện nay.

Chính sách, thể chế quản lý của Nhà nước đối với giáo dục đại học sẽ

cần có những điểm khác biệt lớn so với những giai đoạn trước đây. Vì vậy, nếu

chính sách, thể chế không được hoàn thiện và không linh hoạt có thể sẽ không

bắt kịp tốc độ thay đổi nhanh chóng từ nhu cầu quản lý thực tế. Chính sách,

pháp luật không linh hoạt sẽ là lực cản rất lớn đối với quá trình phát triển của

giáo dục đại học. Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh

những vấn đề mới… Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

những vấn đề này tiếp tục là những thách thức đối với chính sách và thể chế

quản lý của nhà nước đối với giáo dục đại học.

Tăng cường công tác pháp chế về giáo dục đại học, trong đó có công tác

hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các

trường đại học theo hướng quy định cụ thể, đảm bảo tính khả thi, quy định rõ trách

65

nhiệm, quyền của từng chủ thể, đảm bảo văn bản được ban hành là có thể thực

hiện được ngay. Đây là khâu đột phá, để nâng cao chất lượng và phát triển toàn

diện giáo dục đại học, làm tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm

khắc phục các yếu kém và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, từng bước hội

nhập với hệ thống các trường đại học trong khu vực và trên thế giới.

Tăng cường quản lý nhà nước thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm

tra, giám sát sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ của mình trong tất cả các hoạt động giáo dục: tuyển sinh,

đào tạo; tổ chức, nhân sự; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế; kiểm định chất

lượng giáo dục, cấp phát văn bằng, chứng chỉ...

Hai là, đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho

phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đảng ta đã nêu rõ sự cần

thiết, bức xúc phải vượt qua các “điểm nghẽn” của phát triển, trong đó có “điểm

nghẽn” về chất lượng thấp của nguồn nhân lực. Đột phá tương ứng để vượt qua

điểm nghẽn này đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục đại học đòi hỏi chúng ta

phải thực hiện đồng bộ và nhất quán các giải pháp, từ việc xác định được mục

tiêu cho đến tầm nhìn chiến lược cho giáo dục đại học, hoạch định chính sách,

hoàn thiện thể chế, xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn nhân lực… Trách nhiệm

cao nhất thuộc về Đảng và Nhà nước, trách nhiệm trực tiếp thuộc về ngành giáo

dục và hệ thống cơ quản quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học ở Việt Nam

hiện nay. Vì giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng chịu sự chi phối,

định hướng của chính trị, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, tiếp đó là thể chế,

chính sách, luật pháp của Nhà nước.

Ba là, đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt

Nam. Ngay từ năm 2005, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của

Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn

2006-2020, một văn kiện rất quan trọng định hướng cho sự phát triển của giáo

66

dục đại học Việt Nam nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập

với hệ thống giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới đã xác định mục

tiêu chung là: Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển

biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học

tập của nhân dân. Cụ thể đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ

tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiến tiến trên thế giới; có năng lực

cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đối với giáo dục đại học, phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của

dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người,

tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà

nước đối với giáo dục đại học; đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và bảo

đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học. Đổi

mới giáo dục đại học phải bảo đảm sứ mệnh của các trường đại học là đào tạo

nguồn nhân lực có kiến thức, có kỹ năng và có trình độ cao cho các ngành

nghề, các thành phần kinh tế thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp

phần nâng cao tiềm năng trí tuệ của đất nước. Đổi mới giáo dục đại học gắn

kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an

ninh, nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nước và xu thế phát triển của khoa

học và công nghệ.

Đổi mới giáo dục đại học là quá trình làm cho từng trường đại học và

toàn cơ sở giáo dục đại học đổi mới từ mục tiêu, quy trình, nội dung dến phương

pháp dạy và học, phương thức đánh giá kết quả học tập; liên thông giữa các

ngành các hình thức, các trình độ đào tạo; gắn bó chặt chẽ và tạo động lực để

tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới giáo dục

đại học là quá trình hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa

67

những thành quả giáo dục đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp

thu tinh hoa nhân loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học

tiên tiến trên thế giới. Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại

học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ

quản lý nhà nước và việc bảo đảm quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã

hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát huy tính tích cực và

chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt

là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của

toàn xã hội. Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh

đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Nhà nước tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học, đồng thời đẩy mạnh

xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để các tổ chức, cá

nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học. Phát huy các chủ thể

của công cuộc đổi mới là các trường đại học mà nòng cốt là đội ngũ giảng

viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội, trước

hết là các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, các nhà sử dụng lao động, sinh

viên và gia đình.

Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định: đổi

mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, trong đó tiếp tục đổi mới cơ chế

quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với

các cơ sở giáo dục đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính... Trong bối cảnh

toàn cầu hóa, với việc thực hiện các cam kết quốc tế như: Hiệp định Thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)...

và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo cho kinh tế - xã hội

và nền giáo dục đại học nước ta một cơ hội chưa từng có và đứng trước những

thách thức cực kỳ to lớn: khoản cách giữa nước ta với các nước phát triển có

68

thể càng gia tăng, tình trạng “chảy máu” chất xám từ nước ta ra các nước phát

triển hơn có thể rất trầm trọng, giáo dục đại học nước ta có thể không đủ sức

cạnh tranh với sự xâm nhập và sự thu hút của giáo dục đại học các nước; quyền

lợi người học có thể bị xâm phạm, bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị

truyền thống trong giáo dục đại học có thể bị phai nhạt... Trong nước, nếu giáo

dục đại học không đáp ứng được nguồn nhân lực trình độ cao và nhu cầu học

tập của nhân dân thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mục tiêu chung

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh sẽ khó trở thành

hiện thực.

Cần hoàn thiện chính sách giáo dục đại học theo hướng bảo đảm quyền

tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của nhà

nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học để hỗ trợ

phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa

XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhận định: “Chất lượng,

hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học,

giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các

trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ

thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh

và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục

đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm

tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”.

Từ đó, Nghị quyết xác định những phương hướng, mục tiêu đổi mới

giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đại học cụ thể như sau: “Đối với

giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân

tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo

của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu

69

ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực

quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực

và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển

công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc

và hội nhập quốc tế”.

Đáp ứng yêu cầu hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam với khu vực

và thế giới. Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học đã xuất hiện ở nước ta cách

đây trên cả nghìn năm. Cho đến nay, lịch sử giáo dục đại học Việt Nam đã trải

qua các nền giáo dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và chủ nghĩa thực dân

mới (ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975). Sự nghiệp giáo dục đại học từ

sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải qua gần 80 năm và đạt được những

thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đã góp phần tạo ra các thế hệ

nguồn lực con người Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu

tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong giai

đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, nền giáo dục

đại học của nước ta ngày càng bộc lộ những bất cập và hạn chế.

Trong thực tế, các trường đại học ở Việt Nam hiện nay cũng mới chỉ đủ

khả năng trang bị cho người học (sinh viên, học viên hay nghiên cứu sinh…)

kiến thức cơ bản, trang bị khả năng phân tích độc lập, dám suy nghĩ và biết suy

nghĩ (suy nghĩ có phương pháp - tư duy khoa học). Như vậy, rõ ràng là ngay cả

khi chúng ta đổi mới mục tiêu giáo dục đại học thì mục tiêu này cũng không

phù hợp với khả năng, cũng như chất lượng thực tế của nền giáo dục đại học

trong nước. Trong khi đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc

gia có nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt ra mục tiêu giáo dục, họ đều nêu

lên những mục đích rất thực tế. Hầu hết các trường đại học ở Việt Nam hiện

nay ít đặt ra hoặc chưa thực sự coi trọng, nên cũng là một trong những nguyên

nhân góp phần làm giảm chất lượng sản phẩm sau đào tạo.

70

Về nội dung, mặc dù những năm qua đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải

cách nội dung giáo dục ở các cấp học theo hướng tiến bộ hơn, song nhìn

chung so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục của

nước ta vẫn còn lạc hậu, nhất là nội dung giáo dục ở bậc đại học. Nhìn tổng

thể, phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta

đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo

dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Trong một thời gian dài, những

nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo dục của

nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong

bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nội dung chương trình giáo

dục đại học nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế, cụ thể là nội

dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo

được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm

đối với người học. Chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục

đại học trong nước và quốc tế.

Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ Giáo dục

và Đào tạo, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở

giáo dục đại học ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận

các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường,

ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong

nước và ngoài nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội

dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và

quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận). Điều này không

những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến cơ sở giáo dục ngoài

nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ sở giáo dục

trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác cũng

không phải dễ dàng.

71

Chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống kê và so sánh

cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so

với Mỹ là 1.380 giờ. Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so

với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên sinh viên khó tránh khỏi việc rơi vào

trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các chương trình môn học, ít có thời gian

để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung,

trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam

hiện nay tỏ ra bất cập và kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ

bản khiến nền giáo dục đại học ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu.

Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại

học ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và hình

thức tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh

đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm

đầy kiến thức đã có sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức

dạy học của các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh

thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự

học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, do quan niệm “nền giáo

dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt để họ

có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường” nên vai trò, vị trí của sinh viên

chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học

còn khá lạc hậu… Mặc dù những năm gần đây, theo chủ trương của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp

dụng phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng

theo đánh giá của nhiều chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực

sự đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh

thần niên chế. Tính chủ động của sinh viên còn yếu kém”. Sự đổi mới về

phương pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi

72

chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video... chỉ là

phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn cả

là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm

thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn chưa được

chú trọng.

3.1.2. Quan điểm của Đại học Bách khoa Hà Nội

Sau 37 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đội ngũ giảng viên đại học ở

nước ta đã tăng gấp gần 4 lần, tuy nhiên vẫn không đáp ứng được yêu cầu so

với sự bùng nổ mạnh mẽ của quy mô đào tạo. Nhiều giảng viên ở các trường

đại học phải giảng dạy số giờ gấp nhiều lần so với quy định giờ chuẩn, tình

trạng quá tải giờ giảng diễn ra liên tục khiến cho nhiều giảng viên không có

thời gian cập nhật thường xuyên kiến thức để cải tiến bài giảng, khiến cho chất

lượng giảng dạy không cao, nội dung bài giảng còn nghèo nàn, lạc hậu, không

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Tại một số cơ sở giáo dục đại học công

lập, số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều so với đội ngũ giảng viên

cơ hữu.

Tình trạng này một mặt làm cho các trường đại học công lập khó chủ

động thực hiện kế hoạch đề ra, một mặt gây ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo

do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên môn và

không có nhiều thời gian tập trung nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ giảng viên có

học vị tiến sỹ còn thấp. Giảng viên chưa thực sự say mê nghiên cứu khoa học

và dành thời gian cho công tác này, nội dung nghiên cứu khoa học có chất lượng

chưa cao, thiếu tính thực tiễn và khả năng ứng dụng, nhiều khi chỉ mang tính

phong trào, nhằm đối phó hoặc để xét thi đua, xét danh hiệu.

Ngày 02/12/2022, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1512/QĐ-

TTg về việc chuyển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại học Bách

khoa Hà Nội. Theo nội dung Quyết định số 1512/QĐ-TTg, Đại học Bách khoa

73

Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ thực hiện tổ chức lại cơ cấu tổ chức và hoạt động

trên cơ sở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội theo quy định của Luật Giáo dục

đại học năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại

học năm 2018 và các quy định pháp luật có liên quan. Đây là một dấu mốc quan

trọng trong quá trình hơn 66 năm xây dựng và phát triển của Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội, phù hợp với chủ trương của Đảng, của Chính phủ và xu

hướng phát triển của giáo dục đại học thế giới. Sự chuyển đổi này đã được

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, cẩn trọng, là sự

kế thừa những kết quả và kinh nghiệm của quá trình thực hiện tự chủ suốt thời

gian dài ở Trường Bách khoa Hà Nội, được thực hiện với tinh thần quyết liệt,

đảm bảo sự phát triển đúng với định hướng, tầm nhìn và chiến lược phát triển

của Nhà trường qua nhiều thế hệ.

Theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg, Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ có mô

hình tổ chức và quản trị tiên tiến, bộ máy tinh gọn, tăng tính chủ động, sáng tạo

ở các đơn vị, thực hiện phân cấp tự chủ mạnh nhưng không phân lập, không

xây dựng các trường đại học thành viên, thống nhất quan điểm “Một Bách khoa

Hà Nội”. Quan điểm này thể hiện sự thống nhất về mục tiêu phát triển, giá trị

cốt lõi, chuẩn mực và chất lượng của toàn Đại học Bách khoa Hà Nội. Mô hình

đào tạo cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ được áp dụng thống nhất với bộ chuẩn

chương trình đào tạo và quy chế đào tạo do Đại học Bách khoa Hà Nội quy

định. Người học khi tốt nghiệp các bậc trình độ đều được cấp văn bằng tốt

nghiệp của Đại học Bách khoa Hà Nội để đảm bảo sự gắn kết giữa sinh viên,

cựu sinh viên với vị thế và danh tiếng của Đại học.

Với phương châm “Nhà trường làm nền tảng - Người thầy là chủ thể, là

động lực phát triển - Người học là trung tâm”, Đại học Bách khoa Hà Nội có

môi trường làm việc quốc tế hóa, nơi hội tụ và phát triển tài năng, thu hút sinh

74

viên ưu tú, học giả xuất sắc trong nước và quốc tế đến học tập, nghiên cứu và

làm việc, một trung tâm đổi mới sáng tạo công nghệ xuất sắc của khu vực, tác

động quan trọng vào phát triển kinh tế tri thức và góp phần gìn giữ hoà bình đất

nước, tiên phong trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam về xây dựng hệ

sinh thái đổi mới sáng tạo, phát triển mô hình đào tạo chia sẻ trên nền tảng

chuyển đổi số hiện đại.

Việc chuyển đổi mô hình Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại

học Bách khoa Hà Nội để thực hiện tốt sứ mạng, tầm nhìn, định hướng chiến

lược phát triển, đưa Đại học Bách khoa Hà Nội phát triển đột phá, lên tầm cao

mới, trở thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, tự chủ toàn diện, có môi

trường học thuật sáng tạo, cởi mở, tự do học thuật, khơi dậy khát vọng cống hiến

của cán bộ viên chức, người lao động, sinh viên và học viên toàn đại học, phát

huy giá trị văn hóa, bản sắc của đội ngũ giảng viên và sinh viên, học viên Đại

học Bách khoa Hà Nội.

3.1.3. Mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội

Mục tiêu chung là phải có bước chuyển cơ bản về chất lượng và quy mô,

đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao trí

tuệ của dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, góp phần

nâng cao sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước. Cụ thể là:

Thứ nhất, phát triển đội ngũ giảng viên có phẩm chất đạo đức và lương

tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý

tiên tiến, hiện đại. Đại học Bách khoa Hà Nội phải là trung tâm nghiên cứu khoa

học mạnh hàng đầu của cả nước. Nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển

giao công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 25% vào năm 2020. Hoàn thiện

hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học và có cơ chế bảo đảm chất lượng;

tất cả các trường đại học, cao đẳng đều tiến hành kiểm định một cách định kỳ và

công bố công khai kết quả kiểm định.

75

Thứ hai, phát triển đội ngũ giảng viên để thực hiện định hướng, tầm nhìn,

chiến lược và quy hoạch phát triển của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ

nhiều năm, qua nhiều nhiệm kỳ lãnh đạo Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà

trường. Mặt khác, phát triển đội ngũ giảng viên để đảm bảo mục tiêu hiệu quả

mô hình tổ chức của Đại học Bách khoa Hà Nội theo đúng Quyết định số

1512/QĐ-TTg.

Thứ ba, phát triển đội ngũ giảng viên để bảo đảm các quyền được tự chủ

khi Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã hết giai đoạn thí điểm tự chủ theo

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, chuyển sang mô hình Đại học Bách khoa

Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg.

Thứ tư, phát triển đội ngũ giảng viên để đáp ứng yêu cầu, vị thế cao hơn

hiện nay của Đại học Bách khoa Hà Nội. Việc chuyển đổi thành đại học là đi

tiên phong thực hiện chủ trương của Chính phủ, phù hợp với định hướng chiến

lược và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học hiện nay, theo đúng xu

hướng phát triển đại học của thế giới, do đó đội ngũ giảng viên Đại học Bách

khoa Hà Nội có nhiều cơ hội được ưu tiên đầu tư phát triển, thực hiện được sứ

mạng tiên phong, dẫn dắt hệ thống giáo dục đại học Việt Nam;

Thứ năm, phát triển đội ngũ giảng viên để đáp ứng yêu cầu tổ chức lại

các đơn vị chuyên môn của Đại học Bách khoa Hà Nội theo đúng xu hướng

tích hợp liên ngành, liên lĩnh vực và mô hình tổ chức bám sát xu hướng chuyển

đổi số của ngành, của quốc gia và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

3.2. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách

khoa Hà Nội trong thời gian tới

3.2.1. Phát triển về chất lượng

Chất lượng đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt, quyết định chất

lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ

thuật của Đại học Bách khoa Hà Nội. Ở phạm vi quốc gia, chất lượng nền

76

giáo dục, đào tạo cũng không thể vượt qua chất lượng đội ngũ giảng viên.

Không có đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập chất lượng cao thì

không có giáo dục đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả cao, mà

không có giáo dục đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả cao thì

cũng không thể có phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Phát triển

về chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội được thể hiện

ở hai mặt là đức và tài. Đức bao hàm cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo

đức, nhận thức tư tưởng, tác phong công tác, lề lối làm việc. Tài là năng lực

chuyên môn, bao hàm tri thức, kỹ năng, phương pháp. Xây dựng đội ngũ

giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải chú trọng toàn diện các mặt,

không được coi nhẹ mặt nào.

Phát triển về chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội hiện

nay đòi hỏi Nhà trường phải có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao nhận thức cho giảng viên để đáp ứng Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của

Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ

nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học

công lập (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT), và Quy định

về đạo đức nhà giáo ban hành theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày

16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, chất lượng đội ngũ

giảng viên được thể hiện ở các mặt sau: (1). Việc thực hiện nhiệm vụ được giao

phù hợp với hạng chức danh; (2). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo,

bồi dưỡng; (3). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ;

(4). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp.

Chất lượng của đội ngũ giảng viên đại học công lập nói chung, Đại học

Bách khoa Hà Nội nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, từ

chủ quan như năng lực, trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, kỹ năng

sư phạm, phẩm chất đạo đức, ý chí phấn đấu vươn lên của từng cá nhân cho

77

đến các điều kiện, yếu tố khách quan như điều kiện, môi trường làm việc, công

tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cũng như các chế độ, chính

sách ưu đãi và cơ chế kiểm tra, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật. Đây là những

yếu tố tác động đã được trình bày ở cuối Chương 1 luận văn.

Năng lực ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế cũng là

nội dung cần phải quan tâm trong phát triển đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa

Hà Nội trong thời gian tới. Với một cơ sở đào tạo đại học, sau đại học và nghiên

cứu khoa học có uy tín quốc tế như Đại học Bách khoa Hà Nội thì phẩm chất chính

trị của đội ngũ giảng viên cũng rất cần phải chú ý. Do đó phát triển đội ngũ giảng

viên Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay về mặt chất lượng cần chú ý vào nhiều

mặt, trong đó trọng tâm là năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực ngoại ngữ và

phẩm chất chính trị. Tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong,

lối sống để mỗi giảng viên thực sự là những tấm gương sáng về nhân cách, đạo

đức cho sinh viên, học viên noi theo. Bởi lẽ, sự tôn vinh, kính trọng đối với đội

ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội không chỉ ở kiến thức uyên thâm hay

ở tài nghệ sư phạm mà quan trọng hơn cả là ở sự mô phạm về phẩm chất đạo đức,

lòng yêu nghề, yêu trò và sự mẫu mực trong lối sống, ở giá trị cao cả và trong sáng

của nhân cách nhà giáo. Sự rèn luyện, phấn đấu này là thường xuyên, liên tục, như

Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu

tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng

mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Mặt khác, đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải không

ngừng học tập và tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải luôn tìm tòi,

sáng tạo và đổi mới trong nghiên cứu, giảng dạy. Những thói quen theo kiểu

lối mòn, nếp cũ không còn phù hợp cần được thay đổi, không được bằng lòng

hay thoả mãn với trình độ hiện có của mình. Khắc phục tâm lý, thái độ coi

thường, hạ thấp và xem nhẹ vấn đề học tập và tự học tập nâng cao trình độ

78

chuyên môn, trình độ lý luận, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, năng lực quản lý.

Thực hiện nghiêm các quy định về chuẩn mực đạo đức nhà giáo do Bộ Giáo

dục và Đào tạo quy định tại Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày

16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như các quy định có

liên quan của pháp luật cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, đội ngũ giảng

viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải luôn làm mới chính mình bằng những tri

thức mới, những thông tin mới. Cần thuyết phục người học bằng chính sự uyên

bác về kiến thức, trình độ chuyên môn và trí tuệ của mình. Cần có thái độ kiên

quyết đấu tranh, ngăn chặn những nhận thức, hành vi không đúng, những biểu

hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín, phẩm giá, tư cách của nhà giáo. Cần

tăng hơn nữa số giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ của

Đại học Bách khoa Hà Nội để xứng tầm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của

cả nước và khu vực Đông Nam Á.

3.2.2. Phát triển về số lượng, cơ cấu

Mặc dù chất lượng đội ngũ giảng viên trường đại học công lập mới là

yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đại học, chứ số lượng không quyết định

chất lượng; tuy nhiên, cũng cần phải chú ý đến số lượng, vì số lượng cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến chất lượng. Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công

tác huấn luyện và học tập (ngày 06/5/1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra

hạn chế của việc thiếu người dạy là: “Thiếu người giảng thì học viên đâm chán

nản. Thiếu người giảng thì phải đi “bắt phu”, vì thế người đến giảng khi nào

cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như chuồn chuồn

đạp nước, dạy không được chu đáo. Thiếu người giảng thì thường khi lại phải

“bịt lỗ”, người “bịt lỗ” năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có

hại cho Đoàn thể. Rốt cuộc chỉ tốn gạo mà học thì học táp nhoang”. Như vậy,

trong xây dựng đội ngũ nhà giáo thì phải rất quan tâm đến việc phải đảm bảo

đủ số lượng người dạy để hướng tới chất lượng giáo dục.

79

Cơ cấu đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội thời gian tới cần

tập trung vào hoàn thiện cơ cấu giảng viên của các lĩnh vực mũi nhọn như Điện

- Điện tử, Công nghệ thông tin, Toán tin, Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Hóa

- Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu,… để khẳng định vị trí số 1 Việt Nam của Đại

học Bách khoa Hà Nội và vươn ra khu vực để hiện thực hóa mục tiêu trở thành

một đại học nghiên cứu ngang tầm khu vực, lấy kỹ thuật công nghệ làm nòng

cốt đúng như chiến lược đã đề ra. Mặt khác, Đại học Bách khoa Hà Nội phải

có chính sách cụ thể về thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhằm tạo động lực để

giữ chân những giảng viên chất lượng cao đang làm việc tại Nhà trường.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa

Hà Nội trong thời gian tới cần tập trung vào thực hiện mục tiêu chuẩn hóa đội

ngũ đáp ứng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Đại học

Bách khoa Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Trước hết là đẩy mạnh

việc cử đi đào tạo trong nước, nước ngoài và đào tạo tại chỗ số giảng viên chưa

đạt chuẩn (trình độ cử nhân), số này không nhiều, nhưng cũng là hạn chế, bất

cập cần phải khắc phục. Mục tiêu là đến năm 2025, 100% giảng viên Đại học

Bách khoa Hà Nội đạt chuẩn theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Cần có chế tài

mạnh, chuyển công tác khác hoặc buộc thôi việc đối với những giảng viên đến

thời hạn 2025 vẫn chưa đạt chuẩn. Về đào tạo trình độ tiến sĩ, cần lựa chọn một

số ngành mũi nhọn như Điện - Điện tử, Công nghệ thông tin, Toán tin, Cơ khí

- Hàng không - Chế tạo, Hóa - Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu để cử đi đào tạo

tại các trường đại học có uy tín của nước ngoài, có động viên, khuyến khích về

tinh thần, vật chất, đồng thời có quy hoạch bắt buộc giảng viên, nhất là giảng

viên trẻ phải đi đào tạo tiến sĩ tại các trường đại học có uy tín của nước ngoài.

3.2.3. Xây dựng dự báo và quy hoạch về số lượng giảng viên

Để dự báo được số lượng giảng viên, cần tính toán được quy mô đào tạo

của Đại học Bách khoa Hà Nội trong 5 năm đến 10 năm tới về số lượng sinh

80

viên, về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu loại hình và trình độ đào tạo; căn cứ vào

nội dung chương trình, kế hoạch giảng dạy của từng ngành học, việc tổ chức

quá trình dạy học (lý thuyết, thực hành, thực tập) ở trong và ngoài các Trường

thành viên, quy mô tổ chức lớp học của từng môn học để xác định khối lượng

giảng dạy của bộ môn; căn cứ vào chế độ làm việc, định mức giờ chuẩn của

từng chức danh giảng viên, tỷ lệ giảng viên đi học, để xác định số lượng giảng

viên cần thiết hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên.

3.2.4. Xây dựng dự báo và quy hoạch về chất lượng đội ngũ giảng viên

Giải pháp này đòi hỏi phải Ban Giám đốc và Phòng Tổ chức cán bộ, cũng

như lãnh đạo các trường thành viên của Đại học Bách khoa Hà Nội phải đưa ra

dự báo khoa học về yêu cầu chất lượng đối với đội ngũ giảng viên của Đại học

Bách khoa Hà Nội nói riêng trong khoảng 5 đến 10 năm tới để đáp ứng quy mô

đào tạo, cơ cấu ngành đào tạo và các loại hình, các trình độ đào tạo. Yêu cầu

về chất lượng đối với đội ngũ giảng viên là phải toàn diện.

Trên cơ sở chất lượng đội ngũ giảng viên hiện có và mục tiêu phấn đấu về

chất lượng để Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng xác định, xây dựng các kế

hoạch về nguồn tuyển, về đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,

trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ

giảng viên trong từng năm. Đối với đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà

Nội hiện nay, về chất lượng cần chú ý nhiều mặt, trong đó chú ý nâng cao tỷ lệ

giảng viên có trình độ tiến sĩ và chức danh khoa học phó giáo sư, giáo sư.

3.2.5. Đội ngũ giảng viên đảm bảo đủ trình độ, năng lực

Xây dựng cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói

chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng phải đảm bảo hợp lý, cân đối, đáp

ứng yêu cầu đào tạo và phát triển Nhà trường. Xác định cơ cấu cân đối, hợp lý

trên các mặt ngành nghề, trình độ, độ tuổi, dân tộc. Về ngành nghề, đặc biệt

chú ý các ngành khó tuyển sinh, song vẫn phải đào tạo theo yêu cầu thực tế đời

81

sóng xã hội đặt ra. Về trình độ học vấn, cần tăng dần số lượng giảng viên có

trình độ tiến sĩ, thúc đẩy giảng viên tham gia xét chức danh khoa học giáo sư,

phó giáo sư. Tăng cường cử giảng viên đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài để

đến năm 2025, tất cả giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội đều đạt chuẩn

trình độ thạc sĩ trở lên. Đến năm 2035, đảm bảo 100% giảng viên Đại học Bách

khoa Hà Nội đạt trình độ tiến sĩ trở lên, trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ

nhà khoa học đầu ngành.

Về độ tuổi, quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học

công lập và Đại học Bách khoa Hà Nội đảm bảo cân đối, hợp lý ba độ tuổi, chú

trọng quy hoạch đội ngũ giảng viên độ tuổi dưới 40. Đây là lực lượng giảng

viên đông đảo nhất trong Nhà trường hiện nay và cũng là trụ cột xây dựng, phát

triển Đại học Bách khoa Hà Nội trong từ 5 đến 10 năm tới.

3.2.6. Chú trọng tuyển dụng và trọng dụng nhân tài

Trong từ 5 đến 10 năm tới, để mở rộng quy mô đào tạo, xây dựng đội

ngũ giảng viên mạnh, có chất lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội cần xây dựng

quy trình tuyển dụng và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài. Quy trình,

chính sách phải được triển khai một cách quyết liệt, có lộ trình. Điều này đòi

hỏi Ban Giám đốc và lãnh đạo các đơn vị thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội phải

thật sự có tâm và có tầm. Chính uy tín và tầm nhìn của Ban Giám đốc và lãnh

đạo các đơn vị thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội là sức hút lớn đối với người

tài. Ngoài ra, cần tuyển chọn đội ngũ giảng viên từ những chuyên viên có trình

độ đào tạo chuẩn, có năng lực, phẩm chất tốt để làm giảng viên kiêm nhiệm.

Để góp phần giải quyết tình trạng thiếu giảng viên chuyên ngành, đồng

thời nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, gắn nội dung giảng dạy

của Nhà trường với thực tiễn, Đại học Bách khoa Hà Nội cần có chính sách

thu hút những cán bộ khoa học, cán bộ chuyên ngành, cán bộ lãnh đạo, quản

lý ở các trường, viện nghiên cứu tham gia công tác đào tạo với tư cách là giảng

82

viên kiêm nhiệm; tổ chức, quản lý, sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên

kiêm nhiệm tham gia công tác giảng dạy, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu

khoa học. Giữ chân những giảng đến tuổi nghỉ hưu, có kinh nghiệm trong các

lĩnh vực mũi nhọn, trọng dụng, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên đầu

ngành, thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia ở các viện nghiên cứu, chú ý

đến cựu sinh viên, trí thức Việt kiều yêu nước, tâm huyết với các lĩnh vực đào

tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Bách khoa Hà Nội.

3.3. Kiến nghị, đề xuất

Cơ chế, chính sách chung của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học

và xây dựng đội ngũ giảng viên là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Đại học

Bách khoa Hà Nội triển khai các chính sách cụ thể về xây dựng đội ngũ giảng

viên. Trong những năm đổi mới vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ

trương, chính sách để phát triển hệ thống giáo dục đại học, xây dựng đội ngũ

giảng viên. Đó là những chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn, phù hợp với

xu thế phát triển chung của giáo dục đại học thế giới, vì vậy đã đi vào cuộc

sống và mang lại sự phát triển nhất định của hệ thống giáo dục đại học Việt

Nam, trong đó có Đại học Bách khoa Hà Nội. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn

chưa được như kỳ vọng, vẫn còn đó nhiều hạn chế của hệ thống chưa được giải

quyết, đặc biệt là vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên đại học. Do đó, trong

thời gian tới, trong cơ chế, chính sách chung xây dựng đội ngũ giảng viên các

trường đại học công lập, Nhà nước cần chú ý giải quyết những nội dung sau:

3.3.1. Hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các trường đại học

Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã chuyển đổi mô hình quản lý nhà

nước về giáo dục đại học từ quản lý tập trung sang quản lý tự chủ. Tự chủ đại

học đã được Đảng ta nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (năm 1993)

và được Chính phủ cụ thể hóa tại Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày

83

2/11/2005, về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn

2006-2020. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP đã nêu ra quan điểm và nhiều giải

pháp rất tiến bộ để phát triển giáo dục đại học Việt Nam, phù hợp với xu thế

của giáo dục đại học thế giới. Về cơ chế quản lý giáo dục đại học, Nghị quyết

số 14/2005/NQ-CP đã nêu rất rõ: chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập

sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định

và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính. Xóa

bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các

cơ sở giáo dục đại học công lập. Những nội dung này đã được tiếp tục đưa vào

Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Điều lệ Trường đại học, tuy nhiên nhiều

công trình nghiên cứu cho thấy quyền tự chủ đại học vẫn chưa thật sự đi vào

thực tiễn hoạt động của các trường đại học.

Điều 32 Luật Giáo dục đại học năm 2018 (có hiệu lực thi hành từ ngày

01/07/2019) đã quy định cụ thể hơn về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học

như sau: “Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức

thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu

chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối

với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị,

quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật”. Vấn đề

đặt ra đối với các trường đại học nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng

là phải kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sớm làm rõ “phù hợp với quy định của

pháp luật” là những quy định pháp luật nào? Do đó, để quyền này thực sự đi vào

cuộc sống, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành hướng dẫn chi tiết những nội

dung này để các trường đại học triển khai thực hiện thống nhất và có hiệu quả.

3.3.2. Về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập có

trình độ cao, đặc biệt là giảng viên trình độ tiến sĩ đào tạo ở những nước có nền

84

giáo dục đại học phát triển, là nội dung được Chính phủ đặc biệt quan tâm, và

coi đây là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, nâng

tầm các trường đại học Việt Nam, mà dấu mốc bắt đầu là từ Đề án 322 (năm

2000), sau đó là Đề án 911 (năm 2010) với mục tiêu đào tạo 20.000 tiến sĩ ở

nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.

Tuy nhiên, cả hai Đề án này đều bị kết thúc sớm hơn dự kiến do không đạt được

mục tiêu như kỳ vọng. Để tiếp tục thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

giảng viên có trình độ cao ở nước ngoài, ngày 18/01/2019, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao năng lực

đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030. Mục tiêu

của Đề án là đào tạo tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, trong đó 7%

giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; 3% giảng viên được đào

tạo trong nước và phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam với các trường

đại học nước ngoài.

Triển khai Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản

lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có cơ

chế ưu tiên một số chỉ tiêu nhất định cho giảng viên Đại học Bách khoa Hà

Nội, đồng thời giao quyền cho Trường có quyền tự chủ trong công tác tuyển

chọn, xét duyệt, lập danh sách giảng viên đủ điều kiện cử đi đào tạo trình độ

tiến sĩ. Mặt khác, các trường đại học công lập nói chung và Đại học Bách

khoa Hà Nội nói riêng cần nghiên cứu, cụ thể hóa Kết luận số 39-KL/TW

ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,

quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước vào việc cử giảng viên giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường đại học có uy

tín ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.

85

3.3.3. Xây dựng quy định chế độ làm việc của giảng viên

Để tạo cơ sở pháp lý cho các trường đại học trong việc xây dựng định

mức làm việc cho giảng viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư

số 20/2020/TT-BGDĐT quy định về chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo

dục đại học. Thông tư quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo dục

đại học bao gồm: Nhiệm vụ của các chức danh giảng viên; thời gian làm việc,

giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học; quy đổi các hoạt động chuyên

môn ra giờ chuẩn giảng dạy và chế độ làm việc vượt định mức lao động. Theo

đó thời gian làm việc của giảng viên trong năm học là 44 tuần (tương đương

1.760 giờ hành chính) để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học,

phục vụ cộng đồng và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác, được xác định

theo năm học sau khi trừ số ngày nghỉ theo quy định. Giờ chuẩn giảng dạy là

đơn vị thời gian quy đổi từ số giờ lao động cần thiết để hoàn thành khối lượng

một công việc nhất định thuộc nhiệm vụ của giảng viên tương đương với một

tiết giảng lý thuyết trình độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng dạy trực

tuyến), bao gồm thời gian lao động cần thiết trước, trong và sau tiết giảng. Thời

gian giảng dạy trong kế hoạch đào tạo được tính bằng giờ chuẩn giảng dạy,

trong đó một tiết giảng lý thuyết trình độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng

dạy trực tuyến) 50 phút được tính bằng một giờ chuẩn giảng dạy và được quy

định cụ thể tại khoản 1 Điều 6 của Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT.

Đối với các nội dung giảng dạy có tính chất đặc thù, các tiết giảng trình

độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng dạy trực tuyến) trên 50 phút, Thông tư

số 20/2020/TT-BGDĐT giao thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học quy đổi cho

phù hợp. Định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học

được quy định từ 200 đến 350 giờ chuẩn giảng dạy (tương đương từ 600 đến

1.050 giờ hành chính); trong đó, giờ chuẩn giảng dạy trực tiếp trên lớp (hoặc

giảng dạy trực tuyến) phải đảm bảo tối thiểu 50% định mức quy định. Thủ

86

trưởng cơ sở giáo dục đại học căn cứ mục tiêu, chiến lược phát triển của đơn

vị; đặc thù của môn học, ngành học và điều kiện cụ thể của đơn vị để quyết

định định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học cho phù

hợp. Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm

học (tương đương 586 giờ hành chính) để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học..

Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong quá trình thực hiện Thông tư số

20/2020/TT-BGDĐT, mỗi trường vận dụng quy định theo các khác nhau.

Nhiều trường lấy giờ giảng dạy bù cho giờ nghiên cứu khoa học, nhưng không

cho giảng viên lấy giờ nghiên cứu khoa học bù cho giờ giảng dạy. Mặt khác,

nhiều quy định chi tiết về quy đổi giờ chuẩn của số 20/2020/TT-BGDĐT cần

được nghiên cứu để vận dụng phù hợp với việc thực hiện quyền tự chủ của Đại

học Bách khoa Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg để Nhà trường xác

định định mức làm việc của giảng viên phù hợp với năng lực, vị trí việc làm và

tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp các hạng giảng viên, nghiên cứu viên.

3.3.4. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, thi hoặc xét thăng

hạng, phong chức danh khoa học, chức danh nghề nghiệp

Xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, thi hoặc xét thăng hạng,

phong chức danh khoa học, chức danh nghề nghiệp đã được các bộ, ngành liên

quan tích cực triển khai, là cơ sở pháp lý quan trọng để chuẩn hóa đội ngũ giảng

viên các trường đại học công lập nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói

riêng. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Bộ Giáo dục và

Đào tạo và Bộ Nội vụ cần sớm quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn ngoại ngữ

của giảng viên theo chuẩn quốc tế; nâng chuẩn trình độ đào tạo của giảng viên

hạng III lên trình độ thạc sĩ cho phù hợp với Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ

sung năm 2018.

Đồng thời, cần sớm ban hành quy định về đạo đức nhà giáo. Quy định

về đạo đức nhà giáo được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tại Quyết định số

87

16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008. Những quy định cụ thể về đạo đức nhà

giáo gồm: phẩm chất chính trị; đạo đức nghề nghiệp; lối sống, tác phong; giữ

gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo. Quy định này được áp dụng chung

cho tất cả các nhà giáo đang làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục ở các cơ sở giáo

dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng

quy định ngắn gọn hơn và có điều khoản quy định riêng về đạo đức cho giảng

viên các trường đại học công lập, trong đó có Đại học Bách khoa Hà Nội.

3.3.5. Cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp của giảng viên

Quan điểm của Đảng về lương giáo viên đã được nêu ra từ Nghị quyết

Hội nghị Trung ương lần thứ hai, khóa VIII (năm 1996), đó là “lương giáo viên

được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” và có

thêm chế độ độ phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng. Quan điểm này

được nhắc lại trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (năm 2013).

Lương và phụ cấp của giáo viên nói chung và giảng viên đại học nói riêng luôn

là vấn đề nóng bỏng, được nêu ra và bàn thảo nhiều lần, tuy nhiên chưa có sự

thống nhất của các bộ, ngành. Điều đó cho thấy nhận thức của xã hội về vị trí,

vai trò của đội ngũ nhà giáo còn nhiều mâu thuẫn. Kiến nghị Bộ Giáo dục và

Đào tạo cần tiếp tục nghiên cứu để tham mưu cho Chính phủ xây dựng chế độ

lương và phụ cấp cho nói chung và giảng viên đại học nói riêng một cách hợp

lý, đảm bảo đời sống ở mức khá trở lên.

3.3.6. Hoàn thiện chính sách khen thưởng, tôn vinh đội ngũ giảng viên

Khen thưởng, tôn vinh nhà giáo là một động lực quan trọng để nhà

giáo lao động, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Để tôn vinh nhà giáo, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 27/2015/NĐ-CP ngày 10/3/2015 quy định về

xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”. Căn cứ Luật Thi

đua, khen thưởng, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số

22/2018/TT-BGDĐT ngày 28/8/2018 hướng dẫn công tác thi đua, khen

88

thưởng ngành Giáo dục. Thông tư đã hướng dẫn chi tiết các yêu cầu, tiêu

chuẩn, danh hiệu thi đua, khen thưởng ngành giáo dục. Các quy định trên đã

cụ thể hóa những nội dung của Luật Thi đua, khen thưởng vào đối tượng

viên chức ngành giáo dục, trong đó có đội ngũ giảng viên. Sự cụ thể hóa này

tạo điều kiện thuận lợi trong việc xét thi đua, khen thưởng của các cơ sở giáo

dục đại học, đồng thời các danh hiệu thi đua, khen thưởng là động lực để các

giảng viên tự phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện.

Để việc xét tặng có tác động lan tỏa lớn hơn cần bảo đảm nguyên tắc

chính xác, công bằng, công khai, dân chủ, tự nguyện trong việc xét tặng “Nhà

giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú”, phải chú trọng tới nhà giáo trực tiếp nuôi

dạy, giảng dạy; nhà giáo là nữ; nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh

tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên quy định danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”,

“Nhà giáo Ưu tú” được xét tặng hàng năm (quy định hiện tại là xét tặng ba

năm một lần).

89

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Từ phân tích các quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội do sự thay đổi mô hình tổ chức và hoạt

động, căn cứ các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến hạn chế, bất

cập trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà

Nội giai đoạn 2016-2021, Chương 3 của luận văn đã đề xuất 02 nhóm giải pháp

có tính vĩ mô để đáp ứng yêu cầu phát triển về chất lượng và số lượng đội ngũ

giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội theo tinh thần Quyết định số

1512/QĐ-TTg.

Chương 3 cũng đưa ra một số kiến nghị, đề xuất chung với các cơ quan

có thẩm quyền để xem xét, giải quyết những nội dung vượt thẩm quyền của Đại

học Bách khoa Hà Nội. Hy vọng các giải pháp và kiến nghị, đề xuất này có thể

được các cấp có thẩm quyền lưu ý xem xét, vận dụng vào công tác quản lý,

phát triển đội ngũ giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội trong những năm

tới thực sự có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng sự mong đợi của Đảng, Nhà

nước và xã hội đối với Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng, các trường đại học

công lập của Việt Nam trong thời gian tới.

90

KẾT LUẬN

Phát triển đội ngũ giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học nói chung và

ở Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng là vấn đề có tính thời sự cấp thiết, được

các nhà nghiên cứu khoa học và công luận rất quan tâm. Đây cũng là chủ đề tôi

rất tâm đắc lựa chọn nghiên cứu, vì tôi cũng vừa là giảng viên, vừa kiêm nhiệm

làm công tác tổ chức cán bộ ở Đại học Bách khoa Hà Nội.

Luận văn đã tập hợp, hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung nhất về phát

triển đội ngũ giảng viên đại học; trình bày, phân tích về khái niệm và đặc điểm

của đội ngũ giảng viên đại học; vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên đại học;

những nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên đại học, như phát triển

về số lượng và chất lượng; công tác xây dựng chính sách; tổ chức thi hành chính

sách phát triển; thanh tra, kiểm tra, đánh giá chính sách phát triển đội ngũ giảng

viên bậc đại học công lập; phân tích các yếu tố chủ quan và khách quan tác

động đến phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam.

Luận văn đã trình bày, phân tích, đánh giá những kết quả tích cực trong

công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai

đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên; về

xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng

viên. Đồng thời, gắn với phân tích, đánh giá, làm rõ những bất cập, hạn chế

trong phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn

2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên; về xây

dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng viên và

các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn đến những bất cập,

hạn chế đó.

Luận văn đã đề xuất 02 nhóm giải pháp có tính vĩ mô để đáp ứng yêu

cầu phát triển về chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên của Đại học Bách

91

khoa Hà Nội theo tinh thần Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Đưa ra một số kiến

nghị, đề xuất chung với các cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết

những nội dung vượt thẩm quyền của Đại học Bách khoa Hà Nội để công tác

quản lý, phát triển đội ngũ giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội trong

những năm tới thực sự có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng sự mong đợi của

Đảng, Nhà nước và xã hội đối với Đại học Bách khoa Hà Nội.

Mặc dù đã rất cố gắng, song bản luận văn này khó tránh khỏi những hạn

chế, thiếu sót. Rất mong được quý thầy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính

Quốc gia và độc giả chia sẻ, lượng thứ, góp ý giúp tác giả tiếp tục hoàn thiện,

chỉnh sửa luận văn để nộp lưu chiểu theo quy định.

Xin trân trọng cảm ơn!

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Altbach Philip G., Reisberg Liz, Rumbley Laura E. (2017), Xu hướng giáo

dục đại học toàn cầu theo vết một cuộc cách mạng học thuật, Nhà Xuất bản

Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Trần Đình Ân, Võ Trí Thanh (2002), Thể chế - cải cách thể chế và phát

triển: Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, Nxb Thống kê.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Giáo dục

đại học (phục vụ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo

dục đại học năm 2012).

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Hội nghị tham vấn xây dựng Chiến

lược tổng thể phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2021-

2030, Cổng thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo,

https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=5372

5. Hoàng Chí Bảo (2018), Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới

và hội nhập quốc tế - những luận điểm về triết lý giáo dục đại học, trong

Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hoá và hội nhập quốc tế, Hà Nội.

6. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Kỷ yếu hội thảo “Đảm bảo chất lượng

trong đổi mới giáo dục đại học”. NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2006.

7. Trần Đức Cân (2012), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại

học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế.

8. Nguyễn Đức Cường (2009), Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại

học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện

nay, Luận án tiến sĩ luật học.

9. Nguyễn Hữu Châu (2009), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,

Nxb Giáo dục.

93

10. Lê Thị Kim Dung (2011), Sự cần thiết xây dựng luật đào tạo đại học, Tạp

chí giáo dục số 11- 2011.

11. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt

Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Đoàn Văn Dũng (2014), Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về chất lượng

giáo dục đại học, Tạp chí Quản lý nhà nước số 221.

13. Đoàn Văn Dũng (2015), Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học,

Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.

14. Nghiêm Xuân Dũng (2019), Thể chế quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo

dục đại học thuộc Bộ Công an - thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Tạp

chí Quản lý nhà nước số 9/2019.

15. Trần Khánh Đức và Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Giáo dục đại học và quản

trị đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

16. Phạm Văn Đại (2012), State management of foreign - related educational

institutions (Quản lý nhà nước các cơ sở giáo dục liên quan đến nước

ngoài), Luận án tiến sĩ, National University, Hanoi.

17. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giải pháp nâng

cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam, Kỷ yếu Hội

thảo khoa học.

18. Trần Ngọc Giao (2018), Quản lý Nhà nước về giáo dục đại học - thực trạng

trong sự so sánh và một số đề xuất - Tầm nhìn và hành động, Kỷ yếu Hội

thảo khoa học chủ đề Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

19. Vũ Ngọc Hải - Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong

những năm đầu thế kỷ XXI - Việt Nam và Thế giới, NXB Giáo dục.

20. Phan Huy Hùng (2009), Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo sự tự chủ,

tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ

quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

94

21. Phan Huy Hùng (2010), Quản lý nhà nước đối với các trường đại học Việt

Nam nhằm đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Tạp chí Quản lý nhà

nước, Học viện Hành chính.

22. Lê Ngọc Hùng, Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: lý thuyết hệ

thống và kiến tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp,

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2880-doi-moi-

quan-tri-dai-hoc-o-viet-nam-ly-thuyet-he-thong-va-kien-tao-mo-hinh-

hien-dai-chuyen, đăng ngày 24.7.2019.

23. Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) (), Quản trị nhà

trường thông minh 4.0 và xếp hạng đại học theo mô hình QS, Nhà Xuất bản

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020

24. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo

dục đại học, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (2016), Tự chủ đại học và

trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia.

26. Nguyễn Thị Quỳnh Hương (2020), Phát triển đội ngũ giảng viên tại cơ sở

giáo dục đại học Việt Nam, Tạp chí Công thương.

27. Đinh Xuân Khoa (2018), Giáo dục đại học Việt Nam - Tầm nhìn và hành

động, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

28. Phạm Thị Ly (2010), Tự chủ đại học, nhà nước và những thay đổi xã hội ở

Trung Quốc, Thông tin Giáo dục quốc tế và so sánh, Đại học Hoa Sen, số

02/2010.

29. Phạm Thị Ly (2008), Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam, Đổi mới giáo

dục đại học Việt Nam, hai thời khắc đầu thế kỷ, 2008, tr.211-243.

95

30. Nguyễn Thanh Nhã (2018), Cơ hội và thách thức đối với giáo dục đại học

Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại

học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

31. Trương Thế Nguyễn, Nguyễn Văn Lĩnh (2018), Quản lý nhà nước về giáo

dục đại học ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần

thứ tư - cơ hội và những thách thức, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học -

chuẩn hoá và hội nhập quốc tế.

32. Lê Như Phong (2016), Thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại

học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công, Học

viện Hành chính Quốc gia.

33. Phạm Phụ, “Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam”, phiên

bản trực tuyến http://voer.edu.vn/c/4c212f92

34. Nguyễn Hồng Quý, Tôn Thất Nhật Khánh (2018), “Giáo dục và đào tạo

trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0”, Kỷ yếu Hội thảo giáo dục đại

học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

35. Nguyễn Thế Thắng (2013), Tác động của quản lý hành chính công đến quản

lý nhà nước về giáo dục ở một số nước, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.

36. Hồ Viết Thịnh (2019), Tăng cường quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam từ

góc độ kinh tế, Luận án tiến sĩ.

37. Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Tuyết Nga (2018), Hoàn thiện chính sách pháp

luật về giáo dục đại học để đẩy mạnh quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học

Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

38. Phạm Đỗ Nhật Tiến (2018), Tái cơ cấu giáo dục đại học Việt Nam trước

yêu cầu thực hiện khâu đột phá chiến lược về đào tạo nhân lực trình độ

cao, Kỷ yếu Hội thảo Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội

nhập Quốc tế.

39. Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển bách khoa, 2001

96

40. Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Trung tâm Từ điển học, 2008

41. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc

hội (2017), Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ đại học, Kỷ yếu Hội

thảo khoa học cấp quốc gia.

42. Trần Đức Viên (2018), Hội đồng trường trong tiến trình tự chủ đại học, Kỷ

yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.

43. Nghiêm Đình Vỳ (2016), Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục

- đào tạo trong thời kỳ đổi mới, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày

4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp

tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam

giai đoạn 2006-2020.

4. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt

động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017.

5. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 4/6/2019 về tăng cường

huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo

giai đoạn 2019-2025.

6. Chính phủ (2019), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Giáo dục đại học.

97

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII, tập I, NXB CTQGST.

8. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.

9. Quốc hội (2019), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công

chức và Luật Viên chức.

10. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chỉ thị số 296/CT-TTg về đổi mới quản lý

giáo dục đại học.

11. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định ban hành Điều lệ Trường đại học.

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LIÊN QUAN

1. Bùi Thị Thu Hương, Phát triển đội ngũ viên chức trong đơn vị sự nghiệp

công lập hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11/2022.

2. Bùi Thị Thu Hương, Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Đại học

Bách khoa Hà Nội, Tạp chí điện tử Quản lý nhà nước, ngày 13/6/2023.

98