BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BÙI THỊ THU HƯƠNG
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI THỊ THU HƯƠNG
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG MAI HÀ NỘI - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu, số liệu, kết quả trong luận văn
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những số liệu
trong luận văn, bảng biểu phục vụ phân tích đánh giá được tác giả thu thập từ
nhiều nguồn tài liệu khác nhau, có ghi nguồn gốc trích rõ ràng. Nếu phát hiện
có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận
văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thu Hương
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành bài luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng tôn kính và
biết ơn chân thành sâu sắc tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo, Khoa Hành
chính học và Khoa Quản trị nhân lực cùng các quý thầy, cô trong Học viện
Hành chính Quốc gia đã tạo những điều kiện tốt nhất, giúp đỡ tác giả trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lãnh đạo và các đồng nghiệp
Phòng Tổ chức cán bộ, Đại học Bách khoa Hà Nội đã giúp đỡ, cung cấp cho
tác giả những thông tin, tài liệu quý giá và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành
luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn
khoa học - PGS.TS Hoàng Mai đã quan tâm chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tận
tình về nội dung và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này. Xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn hỗ trợ, động viên, chia sẻ và tạo điều kiện thuận lợi giúp
tác giả vượt qua những khó khăn để hoàn thành luận văn.
Do những điều kiện chủ quan, khách quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu
của luận văn còn những điều thiếu sót. Tác giả rất mong tiếp tục nhận được
những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng vấn đề được lựa
chọn nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thu Hương
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG STT
Mở đầu 1
14 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
LẬP Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và đặc điểm về phát triển đội ngũ giảng viên các 14
trường đại học công lập
1.2 Nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên các trường 22
đại học công lập
1.3 Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các 31
trường đại học công lập ở Việt Nam
Tiểu kết Chương 1 38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ 39
GIẢNG VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ
NỘI GIAI ĐOẠN 2016-2021
2.1 Khái quát quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên 39
tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2.2 Phân tích thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên Trường 43
Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021
2.3 Những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên 56
tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021
2.4 Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong phát triển đội 59
ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai
đoạn 2016-2021
62 Tiểu kết Chương 2
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 63
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Trường 63
Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới
3.2 Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách 76
khoa Hà Nội trong thời gian tới
3.3 Đề xuất, kiến nghị 83
Tiểu kết Chương 3 90
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀ TÀI 98
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam, các trường đại học có
nhiệm vụ chính là cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho nền sản xuất để
tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Sự nghiệp giáo dục nói chung và
giáo dục đại học nói riêng ở Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xây dựng nguồn lực con
người Việt Nam - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời đại cách mạng khoa
học công nghệ hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri
thức, các trường đại học ở Việt Nam tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc đào
tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; nhân lực trình
độ đại học và sau đại học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có kiến thức, kỹ năng
thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Các trường đại học ở Việt Nam nói chung, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
nói riêng đã có những đóng góp rất to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, đội
ngũ giảng viên nói riêng của các trường đại học nói chung, Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội nói riêng đã bộc lộ những bất cập và hạn chế, chưa tương
xứng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa và xã hội ở Việt Nam. Đó là sự
thiếu hụt về số lượng, chưa cân đối về cơ cấu đội ngũ giảng viên. Sự phát
triển của nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và tốc độ tiến nhanh như
vũ bão của khoa học - công nghệ, yếu tố con người trong cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã và đang đặt ra thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh
1
vực và mọi ngành nghề, đặc biệt là đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo
nước nhà. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng không nằm ngoài những
cơ hội và thách thức đó.
Trong những năm gần đây, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã có
những đổi mới toàn diện, đưa vị thế của Nhà trường từng bước được nâng
cao trong khu vực và trên thế giới, khẳng định vị trí tiên phong trong hệ
thống giáo dục đại học Việt Nam. Để trở thành một đại học nghiên cứu hàng
đầu với nòng cốt là kỹ thuật và công nghệ; tác động quan trọng vào phát triển
nền kinh tế tri thức và phát triển đất nước; đi tiên phong trong hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam thì một trong những yếu tố then chốt là phải có đội
ngũ giảng viên là các nhà khoa học đầu ngành làm nòng cốt để dẫn dắt, thúc
đẩy và phát triển công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ ở
tầm cao mới. Đây thực sự là thách thức đang đặt ra đối với Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội trong bối cảnh thực hiện việc chuyển đổi thành Đại học
Bách khoa Hà Nội.
Nghị quyết số 19/NQ-TW Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII về
tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã xác định “Nhà nước tập trung
đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các
trường đại học công lập ở một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế”.
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là một trong số các trường đại học công lập
thuộc diện này, do đó cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá thực trạng để có
những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.
Từ những lý do trên, và qua quá trình học tập hệ đào tạo cao học chuyên
ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia, tôi lựa chọn chủ đề:
“Phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội” để thực
hiện đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
SuYan Pan, Hong Kong University Press, 2009, “Tự chủ đại học, nhà
nước và những thay đổi xã hội ở Trung Quốc”. Người dịch: Phạm Thị Ly, trong
Thông tin Giáo dục quốc tế và so sánh của Đại học Hoa Sen, số 02/2010. Đây là
cuốn sách trình bày khá chi tiết, sâu sắc về lược sử quyền tự chủ, các mô hình tự
chủ đại học trên thế giới. Tài liệu cũng đề cập đến tự chủ đại học, một khái niệm,
một hướng đi bắt đầu được quan tâm và thừa nhận ở Trung Quốc.
Don Anderson Richard Johnson, Centre for Continuing Education The
Australian National University, April 1998, “University Autonomy in Twenty
Countries”. Báo cáo này nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà nước và các cơ sở
giáo dục đại học ở 20 quốc gia trên thế giới, có liên hệ so sánh với thực tiễn Liên
bang Australia. Báo cáo này đã đánh giá xem mức độ can thiệp pháp lý của nhà
nước đến các trường đại học; phân tích thực trạng quyền tự chủ của 3 nhóm nước
có truyền thống tự chủ khác nhau: nhóm Anh - Mỹ, nhóm Châu Âu và nhóm các
nước châu Á; trong đó có nhiều phân tích, đánh giá về phát triển đội ngũ giảng
viên tại các cơ sở giáo dục đại học ở 20 quốc gia.
Hauptman, A.M, 2007, Four models of growth, International Higher
Education. Đây là một báo cáo khoa học nhằm mục đích nghiên cứu và trình
bày bốn kịch bản cho sự phát triển của giáo dục đại học trên thế giới dựa vào
sự phụ thuộc về tài chính của các cơ sở giáo dục đại học vào nhà nước.
Phạm Phụ, sách chuyên khảo “Về khuôn mặt mới của giáo dục đại học
Việt Nam” phiên bản trực tuyến tại địa chỉ: http://voer.edu.vn/c/4c212f92.
Cuốn sách trình bày nhiều nội dung về giáo dục đại học, đặc biệt là vai trò của
quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học. Tác giả cuốn sách cho rằng, vai trò
quản lý của nhà nước chỉ nên tập trung vào chiến lược và chính sách, quy chế
và tiêu chuẩn, đẩy mạnh phân cấp và ủy quyền, nâng cao tính tự chủ của các
cơ sở giáo dục đại học; xây dựng cơ chế quản lý phát triển các cơ sở giáo dục
3
đại học (trong đó có nội dung về phát triển đội ngũ giảng viên) bằng pháp luật
và chính sách, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển
và đảm bảo công tác giám sát kiểm tra, phát huy quyền tự chủ của các trường
đại học nhằm quản lý một cách có hiệu quả - hiệu suất, chất lượng và có khả
năng cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa. Cuốn sách có diện phổ quát khá
rộng và sâu về cách tiếp cận hệ thể chế, với nền tảng lý luận là mối quan hệ
giữa nhà nước và trường đại học.
Phạm Thị Ly, “Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả. Kinh
nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam”, trong sách “Đổi mới
giáo dục đại học Việt Nam - hai thời khắc đầu thế kỷ”, [NXB Văn hóa TP Hồ Chí
Minh, 2009, tr.211-243]. Trong bài viết này, tác giả Phạm Thị Ly đã phân tích sâu
sắc về giáo dục đại học Hoa Kỳ, mô hình quản trị đại học ở Hoa Kỳ, vai trò của
Hội đồng quản trị trong việc quyết định các vấn đề hệ trọng của nhà trường, như
mục tiêu chiến lược phát triển, vấn đề tài chính, và vấn đề phát triển nhân sự (một
cách nói khác về đội ngũ giảng viên) trong các trường đại học ở Hoa Kỳ.
Nghiêm Đình Vỳ, “Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục -
đào tạo trong thời kỳ đổi mới”, đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2016. Bài viết tập trung phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về giáo dục và đào tạo, trong đó có một số nội dung đề cập vấn đề phát triển
đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đào Ngọc Nam, “Đổi mới quản trị cơ sở giáo dục đại học công lập hiện
nay”, [Tạp chí Quản lý giáo dục số 76, 9/2015, tr.14]. Bài báo phân tích hiện
trạng về quản trị nhân lực của các cơ sở giáo dục đại học công lập, những chính
sách đối với giáo dục đại học công lập và những nhiệm vụ, giải pháp đổi mới
quản trị nói chung, quản trị phát triển nhân lực nói riêng tại các cơ sở giáo dục
đại học công lập ở Việt Nam.
4
Trần Ngọc Giao, “Quản lý nhà nước về giáo dục đại học - thực trạng
trong sự so sánh và một số đề xuất” [trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giáo
dục đại học - Chuẩn hóa và Hội nhập quốc tế” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khóa XIII phối hợp Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2018]. Tác giả bài viết cho
rằng bản chất của quản lý nhà nước về giáo dục đại học là sự đảm bảo thực hiện
những cam kết của nhà nước đối với sự phát triển của giáo dục đại học (trong
đó có phát triển đội ngũ giảng viên), đưa ra so sánh về thực hiện cam kết này
trong mối tương quan với một số quốc gia ở khu vực châu Á, từ đó nhận xét sự
tương đồng giữa Việt Nam và những quốc gia này trong tiếp cận thực hiện tự
chủ đại học.
Kỷ yếu Hội thảo cấp quốc gia “Tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội
của cơ sở giáo dục đại học”, do Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt
Nam tổ chức năm 2016, bao gồm 56 bài viết của các tác giả trong nước. Trong
đó có nhiều bài viết tập trung phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam và đề ra một số giải pháp hoàn thiện
quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có nội dung tự chủ về
nguồn nhân lực.
Đặng Bá Lãm (chủ biên, 2005), sách chuyên khảo“Quản lý nhà nước về
giáo dục - lý luận và thực tiễn” Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Cuốn sách
tập hợp nhiều bài viết phân tích, đánh giá lý luận và thực tiễn về công tác quản
lý giáo dục và đào tạo ở Việt Nam, trong đó có những nội dung về phát triển
nhân lực ngành giáo dục và đào tạo nói chung, nhân lực tại các trường đại học
nói riêng.
Sách “Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” [Nxb Giáo dục,
2009] đã tập hợp các bài viết của các nhà giáo, nhà khoa học, các nhà quản lý
giáo dục nghiên cứu về hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo
5
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; mạng
lưới trường lớp; quy mô học sinh, sinh viên; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục; tài chính cho giáo dục; công bằng xã hội trong giáo dục; hợp tác
quốc tế trong giáo dục. Các tác giả tập trung phân tích các mục tiêu phát triển
giáo dục của Việt Nam đến năm 2020 bao gồm: quy mô, cơ cấu giáo dục được
phát triển hợp lý, đảm bảo nguồn nhân lực cho đất nước thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân; chất lượng
và hiệu quả giáo dục được nâng cao, tiếp cận được với chất lượng giáo dục của
khu vực và quốc tế.
Hồ Viết Thịnh (2019), “Tăng cường quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam
từ góc độ kinh tế” [luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Mỏ - Địa chất]. Tác
giả đã hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đại học từ góc
độ kinh tế, trong đó, hoạt động quản lý giáo dục về kinh tế được tiếp cận từ góc
độ quản lý nhà nước. Trên cơ sở nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học,
luận án đã đưa ra được những tiêu chí đánh giá quản lý giáo dục đại học từ góc
độ kinh tế, đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý giáo dục đại học từ góc độ
kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục đại học của nước ta trong thời
gian tới và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa giáo dục đại học.
Đoàn Văn Dũng (2015), “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học” [Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia].
Luận án đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về giáo dục đại học, chất lượng giáo
dục đại học, quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, vai trò của nhà
nước đối với chất lượng giáo dục đại học; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước
về chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay; chỉ ra những nguyên nhân
của những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học; kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học.
6
Phạm Văn Đại (2012), “Quản lý nhà nước các cơ sở giáo dục liên quan
đến nước ngoài” [luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội]. Luận án nghiên
cứu về quản lý nhà nước của các cơ sở giáo dục nước ngoài, đánh giá các chính
sách quản lý các cơ sở giáo dục nước ngoài ở Việt Nam, nâng cao cơ cấu quản
lý, hệ thống chính sách và chất lượng nguồn nhân lực của quản lý nhà nước về
giáo dục (trong đó có đội ngũ giảng viên người Việt Nam) nhằm tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam.
Phan Huy Hùng (2011), “Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam” [luận
án tiến sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia]. Luận án nghiên cứu
lý luận về quản lý nhà nước đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường
đại học; làm rõ khái niệm quản lý nhà nước từ góc độ lý luận chung, khoa
học quản lý công và quản trị học; phân tích nội dung, phương thức quản lý
nhà nước về giáo dục đại học đảm bảo quyền tự chủ đại học (trong đó có tự
chủ về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực quản lý và giảng dạy) thông qua
bốn mô hình quản lý vĩ mô. Luận án nhấn mạnh vai trò “bà đỡ” của quản lý
nhà nước đối với trường đại học và giới thiệu kinh nghiệm quản lý nhà nước
đối với giáo dục đại học, đảm bảo quyền tự chủ ở các nước: Pháp, Trung
Quốc, Singapore, Hoa Kỳ.
Đỗ Minh Cương (2001), “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học
Việt Nam” [sách chuyên khảo, Nxb Chính trị Quốc gia]. Tác giả nhấn mạnh
quan điểm đội ngũ nhà giáo ở các trường đại học là nhân tố quan trọng và có ý
nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta; phân
tích vai trò của trí thức giáo dục đại học, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực
giáo dục đại học, luận chứng một số giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ nhân
lực giáo dục đại học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
7
Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Phương Nga, “Nghiên cứu xây dựng các
tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng
viên trong Đại học Quốc gia Hà Nội” [Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia
Hà Nội thời gian 2002-2003]. Đề tài nghiên cứu xem xét, phân tích các kinh
nghiệm về đánh giá chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ
giảng viên ở một số trường đại học trên thế giới trong tương quan so sánh với
thực trạng hoạt động giảng dạy và hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
một số trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở đó, tập thể tác giả đã
xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và hoạt động nghiên cứu
khoa học của giảng viên một số trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội trong bối
cảnh đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế.
Phạm Văn Thuần (2009), “Quản lý đội ngũ giảng viên trong đại học đa
ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội”
[Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội].
Luận án đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý đội ngũ giảng viên trong
các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp
quản lý theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội để nâng cao hiệu quả quản
lý đội ngũ giảng viên đáp ứng nhu cầu đổi mới quản lý giáo dục đại học ở nước
ta hiện nay. Luận án nêu ra sáu giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên trong đại
học đa ngành, đa lĩnh vực theo quan điểm tự chủ và trách nhiệm xã hội là: Xây
dựng môi trường tự chủ và trách nhiệm xã hội; tuyển dụng, sử dụng đội ngũ
giảng viên; Hoàn thiện quy trình đánh giá giảng viên; Đổi mới quy hoạch và
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên; xây dựng và hoàn thiện chính sách đãi
ngộ đội ngũ giảng viên; Tạo lập hệ thống thông tin quản lý đội ngũ giảng viên.
Nguyễn Văn Đệ (2010), “Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại
học ở Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại
học” [Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
8
Nội]. Luận án nghiên cứu về thực trạng đội ngũ giảng viên các trường đại học
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đề xuất 5 nhóm giải pháp phát triển đội ngũ
giảng viên của các trường đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, bao gồm: Liên kết đội ngũ giảng viên giữa
các trường đại học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Phát triển số lượng đội
ngũ giảng viên; Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ giảng viên; Điều chỉnh
cơ cấu đội ngũ giảng viên; Tạo động lực làm việc cho đội ngũ giảng viên.
Nguyễn Kim Hồng, “Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học -
Tiền đề để giải bài toán chất lượng đại học Việt Nam” [bài viết trong Kỷ yếu
Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và
cao đẳng Việt Nam” do Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức năm 2010]. Tác giả cho rằng khó khăn lớn nhất của đội ngũ giảng viên đại
học ở Việt Nam hiện nay là mức lương thấp, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy,
học tập còn thiếu thốn, thiếu phòng thí nghiệm, thiếu kinh phí nghiên cứu khoa
học,... do đó các trường đại học hầu như không thu hút được người giỏi thật sự
làm giảng viên. Tác giả nêu ra một số giải pháp để xây dựng đội ngũ giảng viên
đại học là: Thay đổi cơ chế tuyển chọn và chế độ trả lương kèm theo; Tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm, tạo điều kiện cho giảng viên có
điều kiện làm việc tốt hơn; tăng kinh phí nghiên cứu khoa học.
Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), “Đội ngũ trí thức giáo dục đại học việt nam
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, [luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh]. Tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng và các giải pháp phát uy vai trò
của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Phong và Nguyễn Thị Kim Ngân, “Thực trạng đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam”, tại địa chỉ
9
https://tcnn.vn/news/detail/41635/Thuc-trang-doi-ngu-giang-vien-cac-truong-
dai-hoc-cong-lap-o-Viet-Nam.html. Bài báo đã phân tích, đánh giá hực trạng
số lượng, chất lượng, tỷ lệ và cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập ở Việt Nam hiện nay, bài viết đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp
tiếp tục phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm đáp
ứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, còn có nhiều sách
tham khảo, chuyên khảo, bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học (cả tạp chí
in và tạp chí điện tử), các công trình nghiên cứu cơ bản có tính chất khảo sát,
đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ viên chức nói chung, đội ngũ giảng viên
đại học nói riêng. Song chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu riêng về chủ
đề phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Do đó, luận văn kế thừa được rất nhiều từ kết quả của các công trình
nghiên cứu này, cũng như học hỏi được nhiều điều từ xem xét những thông tin
phản ánh những bất cập, hạn chế trong công tác xây dựng đội ngũ viên chức nói
chung, đội ngũ giảng viên đại học nói riêng để vận dụng vào quá trình viết luận
văn “Phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc triển khai nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng đội ngũ viên chức nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên trong
các trường đại học công lập và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; thông qua
việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên
tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết năm 2021, luận văn
hướng tới mục đích đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt
ra đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo đại học trong giai đoạn hiện nay.
10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu chủ yếu như sau:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ viên chức
nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập nói riêng.
Hai là, phân tích thực trạng và đưa ra đánh giá về những ưu điểm, hạn chế
trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội từ năm 2016 đến hết năm 2021. Làm rõ những nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan của những ưu điểm, hạn chế trong công tác phát triển
đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết
năm 2021.
Ba là, đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra đối với
các cơ sở giáo dục, đào tạo đại học trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập;
thực trạng và những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nội dung, luận văn khái quát kết quả chủ yếu của các công trình
nghiên cứu trước đây về lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ viên chức, đội ngũ
giảng viên trong các trường đại học công lập nói chung; thực trạng và giải pháp
phát triển đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo bậc đại học .
Về phạm vi không gian, luận văn nghiên cứu về thực trạng phát triển đội
ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
11
Về phạm vi thời gian: luận văn nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ
giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ năm 2016 đến hết năm
2021 (là giai đoạn triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII
của Đảng và các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước về phát triển nhân
lực giai đoạn 2016-2021).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục và đào tạo, về phát triển
nhân lực nói chung, phát triển đội ngũ giảng viên ở các trường đại học nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống... được
sử dụng cụ thể trong luận văn như sau:
- Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp,
phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp để làm rõ, khái quát hóa thành
hệ thống khung lý thuyết về các nội dung lý luận. Chương 1 cũng sử dụng
phương pháp thống kê, tập hợp để làm rõ các công trình nghiên cứu khoa học
có liên quan và phương pháp lịch sử cụ thể để bảo đảm tính khoa học, khách
quan và toàn diện trong các đánh giá về kết quả và hạn chế của các công trình
đã nghiên cứu trước.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, phương pháp so sánh và
phương pháp thống kê sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực trạng và
đưa ra đánh giá về những ưu điểm, hạn chế; những nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan của những ưu điểm, hạn chế trong công tác phát triển
đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm
2016 đến năm 2021.
12
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để
đảm bảo tính nhất quán, liên thông giữa các nội dung, giữa các chương, các tiết
và tiểu tiết của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: kết quả nghiên cứu của luận văn có thể có những đóng góp
nhất định để bổ sung cho sự phát triển của khoa học quản lý công, góp phần
nâng cao nhận thức lý luận về phát triển đội ngũ viên chức ngành giáo dục và
đào tạo, đội ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập.
Về thực tiễn: luận văn có thể sử dụng làm làm tài liệu tham khảo cho các
nhà nghiên cứu, giảng dạy, những người làm công tác thực tế và sinh viên, học
viên cơ sở đào tạo cử nhân luật, cử nhân hành chính, các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm 2016 dến năm 2021.
Chương 3: Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phát triển đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm viên chức
Trong đời sống hàng ngày, khái niệm (hoặc thuật ngữ) “viên chức” có
nghĩa rất rộng. “Viên” trong tiếng Hán - Việt có nghĩa là “thành viên”, dùng để
chỉ người làm việc nói chung trong các cơ quan, các tổ chức; “chức” nghĩa là
người làm việc có một chức vụ, chức danh nào đó. Vì vậy, “viên chức” được
hiểu là những người làm việc chuyên môn nghề nghiệp và những người giữ
chức vụ trong các cơ quan, tổ chức công hoặc tư, được hưởng lương theo ngạch,
bậc, trình độ và chức vụ. Theo cách hiểu như vậy, “viên chức” là khái niệm bao
trùm lên cả khái niệm công chức, cũng có thể hiểu công chức là những viên
chức làm việc trong bộ máy công quyền, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm viên chức có sự thay đổi theo từng giai đoạn lịch
sử; trải qua các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái niệm viên chức cũng có
sự thay đổi lớn. Suốt một thời gian dài, khái niệm “cán bộ, công nhân, viên
chức nhà nước” được dùng để chỉ những người phục vụ trong các tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị xã hội, nhà nước và một số tổ chức khác. Theo quy định
hiện hành, viên chức là những người làm việc trong các đơn vị có nhiệm vụ
phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và trong các đơn vị sự nghiệp công lập
về các lĩnh vực như: giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao, lao động, thương binh - xã hội và các tổ chức sự
nghiệp khác... nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và xã
14
hội. Những hoạt động này không nhân danh quyền lực nhà nước, không phải là
các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ thuần túy mang tính nghề nghiệp gắn với
nghiệp vụ, chuyên môn. Pháp luật hiện hành quy định đó là các lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp của viên chức.
1.1.1.2. Khái niệm phát triển
Triết học Mác - Lênin quan niệm rằng phát triển là một trường hợp của
vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng dần chuyển hóa sang
chất mới, cao hơn, phức tạp hơn, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận
động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình
biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến
cao; là quá trình học tập, nhằm mở ra cho các nhân những công việc mới dựa
trên cơ sở định hướng tương lai cho cá nhân và tổ chức...
Phát triển chỉ sự vận động theo chiều hướng tiến lên, cái mới, cái tiến bộ
ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phát triển trong xã hội là một quá trình tiến
hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và
quản lý bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về
lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng dân tộc, tạo
ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được
những thành quả bền vững và được phân phố công bằng cho các thành viên
trong xã hội, vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ.
1.1.1.3. Khái niệm trường đại học công lập
Ở Việt Nam, “trường đại học công lập” là bộ phận cấu thành của khái
niệm “trường công lập” (“trường công lập” thường được sử dụng để so sánh với
“trường dân lập”, “trường tư thục”, “trường bán công”). Trường công lập các
cấp nói chung, cấp đại học nói riêng chiếm đại đa số trường học trong hệ thống
giáo dục quốc dân ở nước ta. Trường công lập được xây dựng và thành lập dựa
vào những dự án đầu tư kinh tế của Nhà nước, Trung ương hoặc địa phương và
15
là hình thức trường học trực thuộc Nhà nước, Trung ương hoặc địa phương.
Trường công lập (trong đó có trường đại học công lập) hoạt động chủ yếu bằng
nguồn tài chính công hoặc những khoản đóng góp phi lợi nhuận về: các khoản
kinh phí (chủ yếu là kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, trả lương
và bảo hiểm xã hội); đất đai, nhà cửa, cơ sở vật chất; trang thiết bị, dụng cụ hỗ
trợ học tập ở trường học…
1.1.1.4. Khái niệm giảng viên
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số
34/2018/QH14 (Luật Giáo dục đại học) quy định: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ
sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”. Giảng viên là viên chức chuyên môn
đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một
chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc trường cao đẳng, trung cấp
nghề... Đội ngũ giảng viên là những người thực hiện hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục bậc đại học, cao đẳng, trung cấp
nghề. Pháp luật viên chức quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện để được
trở thành giảng viên, về hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên nhằm phân
hạng và đánh giá, xếp loại về năng lực, trình độ chuyên môn... Giảng viên
đại học có yêu cầu trong tuyển chọn cũng như thi tuyển, xét tuyển rất nghiêm
ngặt để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động giảng dạy cũng như nghiên
cứu khoa học.
1.1.1.5. Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học
Phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học là sự chuyển biến
theo chiều hướng tích cực của đội ngũ giảng viên cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu nhằm hoàn thành mục tiêu giáo dục, đào tạo của trường đại học, đáp
ứng yêu cầu của nhà trường và xã hội. Xét theo chu trình quản lý, phát triển đội
ngũ giảng viên đại học bao gồm các khâu: quy hoạch; tuyển chọn và bố trí sử
dụng đội ngũ giảng viên; đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đội ngũ giảng viên; kiểm
16
tra đánh giá và cụ thể hóa cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi cho đội
ngũ giảng viên làm việc và sáng tạo.
Luận văn sử dụng thuật ngữ “phát triển đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập” theo nghĩa tập trung vào phát triển về chất lượng là chính, đó
là quá trình nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên trong
biên chế của các trường đại học công lập về các mặt cơ cấu, số lượng và chất
lượng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa
học của các trường đại học công lập.
1.1.2. Đặc điểm của phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập
Phát triển đội ngũ viên chức nói chung, đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập nói riêng là một quá trình được thực hiện theo quy định của
nhà nước nhằm tăng lên về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Trong đó, phát
triển về mặt số lượng nhằm bổ sung, thay thế đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập; phát triển về mặt chất lượng là nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, là yêu cầu thường xuyên nhằm mục tiêu nâng
cao không ngừng chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
của các trường đại học công lập. Nhà giáo chính là người quyết định chất lượng
giáo dục, là người có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của cá
nhân người học mà còn đối với sự phát triển xã hội. Nếu đội ngũ nhà giáo kém
chất lượng sẽ làm hỏng người học, nguy hiểm hơn là làm hỏng cả một thế hệ,
cả một nền giáo dục. Do đó, trong xây dựng đội ngũ nhà giáo nói chung, giảng
viên các trường đại học công lập nói riêng thì chất lượng phải đặt lên hàng đầu,
chất lượng phải luôn được coi trọng hơn số lượng.
Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập chính là quá
trình cơ quan có thẩm quyền tạo lập và sử dụng năng lực của đội ngũ giảng
17
viên, nghiên cứu viên trong biên chế của các trường đại học công lập, là động
lực thúc đẩy quá trình hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên làm việc
trong các trường đại học công lập (bao gồm giảng viên và nghiên cứu viên các
hạng chức danh nghề nghiệp I, II, III và IV) làm công tác giảng dạy ở bậc đại
học và sau đại học; làm công tác nghiên cứu khoa học, công tác nghiên cứu và
triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa
học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác trong chức
năng, nhiệm vụ của các trường đại học công lập.
1.1.3. Vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên làm việc trong các trường
đại học công lập
1.1.3.1. Vị trí của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
Từ đổi mới, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta đã
có sự thay đổi căn bản, nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
trong tình hình mới, đó là việc từ một bộ máy nhà nước quản lý thuần túy
đã dần chuyển sang hoạt động nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội là
chủ yếu. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước thời
gian qua đã làm cho hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nước được
nâng lên, kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, các nhu cầu cơ bản, thiết yếu
của nhân dân tăng cao và đa dạng hơn trước. Việc tham gia vào các sinh
hoạt chính trị của đất nước với những yêu cầu về dân chủ, công khai, minh
bạch cũng được nhân dân chú trọng hơn. Tình hình đó đã đặt ra những yêu
cầu mới đối với các cơ quan nhà nước, một mặt phải hoàn thành nhiệm vụ
chính trị, mặt khác không làm cản trở sự phát triển tất yếu của xã hội, bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, từ đó phải thay đổi cách thức
hoạt động.
18
Từ những yêu cầu tất yếu, khách quan đó, Nhà nước xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng những dịch vụ công thiết yếu,
bình đẳng cho mọi người dân, đặc biệt là những dịch vụ tối cần thiết cho cuộc
sống vật chất và tinh thần của con người mà tư nhân không thể cung cấp được.
Đây là kết quả trực tiếp của việc chuyển đổi cách thức giải quyết các yêu cầu
của cá nhân, tổ chức với cơ quan hành chính nhà nước thành dịch vụ công phục
vụ và bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo,
y tế, nghiên cứu khoa học… là một bộ phận cấu thành của khu vực công được
nhà nước thành lập và ủy quyền để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo các chính sách xã hội
của nhà nước và tồn tại vì lợi ích chung của toàn thể cộng đồng.
Những người làm việc trong khu vực dịch vụ công (hay còn gọi là các
đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước), được gọi chung là viên chức. Đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập cùng với đội ngũ viên chức hoạt động
trong các lĩnh vực nghề nghiệp khác, làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công
lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội giữ một vị trí rất quan trọng,
là những người trực tiếp thực hiện hoạt động giáo dục và đào tạo, một trong hai
lĩnh vực được xác định là quốc sách hàng đầu của đất nước, góp phần nâng cao
chất lượng cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho
người dân và cộng đồng, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát
triển kinh tế đi đôi với ổn định, công bằng xã hội, giảm thiểu sự chênh lệch giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng, miền trong phạm vi cả nước.
Đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập giữ vị trí là nguồn lực chủ
yếu, trực tiếp đào tạo ra những nhân lực có trình độ đại học và sau đại học cho
đất nước (còn được gọi là nhân lực trình độ cao, nhân lực chất lượng cao), là lực
lượng được xác định là một trong ba đột phá phát triển đất nước dến năm 2030
19
và năm 2045. Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên làm việc trong các trường đại
học công lập còn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa
học xã hội, khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp luận cứ khoa
học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.3.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh
mẽ, vấn đề toàn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu, “kinh tế tri thức” trở thành
một đặc trưng của nền kinh tế thế giới, thì vai trò động lực, vị trí trung tâm của
con người trong quá trình phát triển đã được khẳng định, đặc biệt là vai trò của
nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập. Có thể khẳng định rằng, nếu như tri thức khoa học và công nghệ
là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế, thì đội ngũ đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập là những người tạo nên nguồn vốn tri thức đó.
Nguồn lực trí tuệ này có tính chất quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đất nước đã tác động
tích cực đến nhiều ngành kinh tế, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đang tích cực được đẩy mạnh ngày càng sâu, rộng. Tuy nhiên, hiện nay
trình độ công nghệ của nước ta cơ bản còn lạc hậu, tiềm lực khoa học công
nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt
động khoa học và công nghệ, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ còn yếu
kém, ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.
Trong vai trò truyền bá kiến thức khoa học thông qua hoạt động đào tạo
bậc đại học và sau đại học; hoạt động nghiên cứu khoa học mà đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập cũng được xác định là một bộ phận quan trọng
của nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là lực lượng giảng dạy và nghiên cứu
20
về khoa học kỹ thuật và công nghệ (còn gọi là nhân lực R&D). Chính vì vậy,
việc áp dụng khoa học và công nghệ vào công cuộc đổi mới nền kinh tế nước
ta là tất yếu. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XI), một lần nữa
đã khẳng định vai trò của đội ngũ các nhà khoa học đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra định hướng phát triển
khoa học và công nghệ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, nêu rõ quan
điểm “Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền
vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có
chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ viên chức khoa học và
công nghệ”. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều quan trọng và
có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí tuệ
và năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại.
Điều này một lần nữa lại được Nghị quyết khẳng định trong định hướng phát
triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện nền kinh tế thị trường “Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý
của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ viên chức khoa học và công
nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và
công nghệ”.
Đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đã có những đóng góp
không nhỏ vào những thành tựu chung phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
là nguồn lực quan trọng đảm bảo hiệu quả hoạt động của các trường đại học
công lập ở nước ta, là nhân tố làm cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước được đẩy mạnh. Jết quả giảng dạy, nghiên cứu của đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây
dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và
phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị
21
và bản sắc văn hóa Việt Nam. Những thành tựu, kết quả của các nhà khoa học
trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học tự nhiên, công nghệ tạo cơ sở
cho việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp
phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản. Khoa học kỹ thuật và
công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng
hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.2. Nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập
1.2.1. Phát triển về số lượng và cơ cấu
Theo số liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố năm 2020, cả nước hiện
có 235 trường đại học. Tổng số giảng viên công tác tại các trường đại học là
74.991 người, trong đó có 20.198 giảng viên có trình độ tiến sĩ, 44.634 giảng
viên trình độ thạc sĩ. Quy mô sinh viên đại học là 1.707.025, quy mô đào tạo
tiến sĩ, thạc sĩ là 121.253 (đào tạo tiến sĩ 14.686, đào tạo thạc sĩ 106.567). Cơ
cấu đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện và xây
dựng trên các mặt: cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu học vị, học hàm; cơ
cấu nguồn đào tạo; cơ cấu lực lượng hiện có… một cách hợp lý, làm cho đội
ngũ này ngày càng cân đối hài hóa, phát huy được vai trò, sức mạnh trong thực
hiện bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và vững chắc, khắc phục hạn chế vốn
đang còn tồn tại hiện nay.
Về cơ cấu giảng viên các trường đại học công lập, theo Điều 54 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14 và
Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã
số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên
chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung
theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) thì cơ cấu chức danh nghề nghiệp
giảng viên các trường đại học công lập gồm: (1). Giảng viên cao cấp (hạng I),
22
mã số: V.07.01.01; (2). Giảng viên chính (hạng II), mã số: V.07.01.02. (3);
Giảng viên (hạng III), mã số: V.07.01.03; (4); Trợ giảng (hạng III), mã số:
V.07.01.23.
Phát triển về số lượng và cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập thể hiện qua công tác lập quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bố trí
đội ngũ giảng viên bậc đại học của các cơ quan có thẩm quyền quản lý viên
chức chuyên ngành, như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội... và các trường đại học.
1.2.2. Phát triển về chất lượng
Trong các trường đại học hiện nay, việc phát triển đội ngũ giảng viên
không chỉ đơn thuần đảm bảo yếu tố về số lượng, mà quan trọng hơn là cần
đảm bảo về yếu tố chất lượng nhằm đáp ứng mục tiêu dạy và học một cách hiệu
quả, nói rộng hơn là để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong xu
hướng quốc tế hóa, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên đại học là vừa phải giúp
người học đáp ứng được khả năng hội nhập, vừa phải giúp họ nâng cao tính
ứng dụng trong công việc chuyên môn. Do đó, chất lượng giảng viên đòi hỏi
hết sức khắt khe, bao gồm:
Thứ nhất, đáp ứng đầy đủ phẩm chất chính trị: Đội ngũ giảng viên đại
học cần chấp hành đầy đủ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; tuân thủ các quy trình, quy định về chuyên môn, nghiệp vụ và quy tắc
ứng xử. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao đạo đức chính trị, lối sống
lành mạnh.
Thứ hai, có đạo đức nghề nghiệp: đòi hỏi giảng viên cần phải tâm
huyết với nghề, có ý thức giữ gìn danh dự của nhà giáo, có lòng nhân ái, bao
dung, độ lượng, ứng xử với học viên, đồng nghiệp hòa nhã, hòa đồng, có tinh
thần bảo vệ lẽ phải, công bằng trước lợi ích của học viên, của đồng nghiệp
và cộng đồng.
23
Thứ ba, có năng lực chuyên môn vững vàng. Giảng viên cần phải không
ngừng học hỏi, cập nhật thêm kiến thức và thông tin mới trong và ngoài nước
để luôn hoàn thiện thêm kiến thức, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Xu hướng
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho người học tại các cơ sở giáo dục đại học hiện
nay là đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức chuyên môn hiệu quả kết hợp với tư
duy liên ngành, đa ngành, đa lĩnh vực. Chính vì vậy, giảng viên đại học còn
phải không ngừng trau dồi học các kiến thức liên môn. Bên cạnh đó, việc xây
dựng đội ngũ giảng viên đại học có nghiệp vụ, phương pháp sư phạm, có khả
năng giảng dạy tích cực cũng là một trong những nội dung quan trọng trong
việc phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) thì
tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giảng viên các trường đại học công lập
bao gồm: (1). Tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự nhà giáo;
có tinh thần đoàn kết, tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với sinh
viên, học viên, nghiên cứu sinh (gọi chung là người học); bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. (2). Tận
tụy với công việc; thực hiện đúng nội quy, quy chế của cơ sở giáo dục đại học
công lập và các quy định pháp luật của ngành. (3). Công bằng trong giảng dạy
và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết
kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. (4). Các tiêu chuẩn
đạo đức nghề nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
Phát triển về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học được thực hiện chủ yếu
thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này, và do các các cơ quan có thẩm
quyền quản lý viên chức chuyên ngành, như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội... và các trường đại học tiến hành.
24
1.2.3. Công tác xây dựng chính sách phát triển
Xây dựng chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập là việc các cơ quan có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách để
thực hiện quy định của pháp luật viên chức về công tác quản lý, sử dụng đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập; đồng thời nghiên cứu, ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể trong tất cả các trường đại học công
lập, qua đó tạo ra sự thống nhất, hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Việc ban hành cơ chế, chính sách
về phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập phải phù hợp với
đặc thù của các trường đại học công lập cơ quan.
Trong bối cảnh của nền giáo dục hiện nay, hiệu quả giảng dạy ở các cơ
sở giáo dục đại học là yếu tố hết sức quan trọng để thực hiện được sứ mệnh của
giáo dục đại học. Trong các trường đại học hiện nay, việc phát triển đội ngũ
giảng viên không đơn thuần là đảm bảo yếu tố về số lượng, mà còn cần đảm
bảo yếu tố chất lượng nhằm mục tiêu dạy và học hiệu quả, nhất là trọng xu thế
quốc tế hoá. Vì vậy, pháp luật về giáo dục đại học không thể thiếu các quy định
về điều kiện, tiêu chuẩn giảng viên làm cơ sở pháp lý cho việc tuyển dụng, quản
lý và phát triển đội ngũ giảng viên.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số
34/2018/QH14 (Luật Giáo dục đại học) quy định: Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở
giáo dục đại học gọi là giảng viên. Điều 54 Luật Giáo dục đại học quy định:
giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm
chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên
môn, nghiệp vụ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật Giáo dục.
Theo quy định hiện nay, chức danh giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng
viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư. Cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm
chức danh giảng viên theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt
25
động, quy định về vị trí việc làm và nhu cầu sử dụng của cơ sở giáo dục đại
học. Trình độ tối thiểu của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là
thạc sĩ, trừ chức danh trợ giảng; trình độ của chức danh giảng viên giảng dạy
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ là tiến sĩ. Cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng
người có trình độ tiến sĩ làm giảng viên; phát triển, ưu đãi đội ngũ giáo sư đầu
ngành để phát triển các ngành đào tạo. Cơ cấu giảng viên tại các cơ sở giáo dục
đại học công lập thười gian qua đã được thực hiện và xây dựng dựa trên các
mặt như cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu học vị, học hàm, cơ cấu nguồn
đào tạo, cơ cấu lực lượng hiện có…một cách hợp lý, làm cho đội ngũ này ngày
càng cân đối hài hòa, phát huy được vai trò, sức mạnh trong việc thực hiện bảo
đảm tính liên tục, tính kế thừa và vững chắc, khắc phục hạn chế đang còn tồn
tại hiện nay.
Giảng viên đại học công lập là viên chức. Luật Viên chức năm 2010 và
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 của Luật Viên chức năm 2010 quy định: Viên
chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Theo đó,
giảng viên đại học công lập là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng
dạy và nghiên cứu khoa học ở bậc đại học, sau đại học thuộc một chuyên ngành
đào tạo của trường đại học công lập. Trong các trường đại học (cả công lập và
dân lập), giảng viên còn là nhà khoa học, nắm vững các phương pháp khoa học
về giảng dạy và giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật
trong giảng dạy, thường xuyên rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy của
mình, tham gia tích cực vào nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội.
Trước đây, Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
28/11/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại
26
học công lập, chức danh nghề nghiệp của giảng viên gồm: giảng viên, giảng
viên chính và giảng viên cao cấp. Tuy nhiên ngày 26/10/2020, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng
dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư
số 04/2022/TT-BGDĐT) để thay thế Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-
BGDĐT-BNV của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số và
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo
dục đại học công lập. Một trong những điểm mới đáng chú ý của Thông tư số
40/2020/TT-BGDĐT (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-
BGDĐT) là lần đầu tiên đưa vào trường đại học chức danh trợ giảng. Đây là
một trong 4 chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo
dục đại học công lập, gồm: trợ giảng (hạng 3), mã số V.07.01.23; giảng viên
(hạng 3), mã số V.07.01.03; giảng viên chính (hạng 2), mã số V.07.01.02; giảng
viên cao cấp (hạng 1), mã số V.07.01.01.
Trợ giảng có nhiệm vụ hỗ trợ giảng viên, giảng viên chính, giảng viên
cao cấp trong các hoạt động giảng dạy, bao gồm: chuẩn bị bài giảng, phụ đạo,
hướng dẫn bài tập, thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thực tập, chấm bài. Yêu
cầu về trình độ đào tạo của trợ giảng là có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù
hợp với vị trí việc làm, ngành hoặc chuyên ngành giảng dạy. Đây là trình độ
giống như với chức danh giảng viên theo quy định cũ.
Viên chức giữ chức danh trợ giảng nếu đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, điều
kiện của chức danh nghề nghiệp giảng viên (hạng 3), có vị trí việc làm và yêu
cầu nhiệm vụ phù hợp thì sẽ được thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học xem xét
và bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp giảng viên.
Điểm mới nữa của Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT quy định mã số,
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức
27
giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập (sửa đổi, bổ sung theo
Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) là yêu cầu về trình độ đào tạo tối thiểu của
chức danh giảng viên là phải có bằng thạc sĩ trở lên (quy định hiện hành thì chỉ
yêu cầu có bằng đại học trở lên với chức danh này). Quy định này được đưa ra
nhằm phù hợp với Luật Giáo dục đại học sửa đổi “có bằng thạc sĩ đối với nhà
giáo giảng dạy trình độ đại học; có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo giảng dạy,
hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ”.
Một điểm nổi bật nữa là Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT (sửa đổi, bổ
sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT) không yêu cầu giảng viên phải
có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, nhưng yêu cầu phải có chứng chỉ bồi dưỡng
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao
cấp tương ứng với các chức danh giảng viên (hạng 3), giảng viên chính (hạng
2), giảng viên cao cấp (hạng 1). không yêu cầu giảng viên đại học (kể cả các
trợ giảng) phải có các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ, mà chỉ quy định “có khả
năng ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ trong thực hiện các
nhiệm vụ” phù hợp với từng chức danh.
Việc bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy
trong trường đại học công lập phải căn cứ vào vị trí việc làm, chức trách, nhiệm
vụ, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ đang đảm nhận của viên chức và theo quy
định của pháp luật (còn việc bổ nhiệm và xếp lương của viên chức giảng dạy có
chức danh phó giáo sư và giáo sư được thực hiện theo một số văn bản pháp quy
khác Chính phủ đã ban hành). Trường đại học công lập và các cơ sở giáo dục đại
học khác không được kết hợp nâng bậc lương hoặc thăng hạng chức danh nghề
nghiệp viên chức, trừ trường hợp viên chức giảng dạy được công nhận hoặc được
bổ nhiệm chức danh phó giáo sư và giáo sư theo quy định của luật chuyên ngành.
Cách xếp lương cho các chức danh như sau: giảng viên cao cấp (hạng 1)
được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1, từ hệ số lương 6,20
28
đến hệ số lương 8,00; giảng viên chính (hạng 2) được áp dụng hệ số lương của
viên chức loại A2, nhóm 1, từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78; giảng
viên (hạng 3) và trợ giảng (hạng 3) được áp dụng hệ số lương của viên chức
loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.
Như vậy, giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học công lập là người
được tuyển dụng theo vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp, làm việc
theo chế độ hợp đồng, có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có
sức khỏe; có năng lực, kỹ năng chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm nhiệm
công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác thuộc một
chuyên ngành đào tạo của trường đại học công lập (khái niệm này không áp
dụng đối với giảng viên thỉnh giảng).
Chế độ làm việc của giảng viên đại học công lập hiện nay được quy định
tại Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT ngày 27/7/2020 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo bao gồm: Nhiệm vụ của các chức danh giảng viên; thời gian làm việc, giờ
chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học; quy đổi các hoạt động chuyên môn
ra giờ chuẩn giảng dạy và chế độ làm việc vượt định mức lao động. Áp dụng
đối với giảng viên giảng dạy tại các đại học, học viện, trường đại học và các tổ
chức, cá nhân có liên quan. Giảng viên cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập
làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, chịu sự điều chỉnh của Luật Giáo dục,
Luật Giáo dục Đại học, Bộ luật Lao động.
1.2.4. Công tác tổ chức thi hành chính sách phát triển
Công tác tổ chức thi hành chính sách phát triển nhân lực nói chung, tổ
chức thi hành chính sách phát triển giảng viên các trường đại học công lập nói
riêng là một trong bốn hình thức thực hiện chính sách, pháp luật. Cụ thể, có các
hình thức thực hiện pháp luật là: (1) tuân thủ chính sách, pháp luật, (2) thi hành
chính sách, pháp luật, (3) sử dụng chính sách, pháp luật và (4) áp dụng chính
sách, pháp luật. Theo nghĩa này, tổ chức thi hành chính sách phát triển giảng
29
viên các trường đại học công lập được hiểu là nghĩa vụ pháp lý của Hội đồng
quản lý và Ban Giám đốc (hoặc Ban Giám hiệu) các trường đại học công lập
được hiện thực hóa thông qua hành động tích cực của chủ thể này.
1.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển
Hoạt động, thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường
đại học công lập chủ yếu tập trung vào việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ
trong nội bộ ngành, qua đó góp phần tích cực trong việc ngăn chặn, phòng ngừa
tiêu cực, giúp cho giảng viên các trường đại học công lập nâng cao tinh thần,
trách nhiệm, tác phong trong quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp và thái
độ phục vụ nhân dân.
Với tư cách cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với đội
ngũ viên chức ngành giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn quan tâm
chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường
đại học công lập nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập. Trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra tài chính hàng
năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và trường đại học công lập đều có nội dung
thanh tra, kiểm tra việc xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức ngành giáo dục và
đào tạo nói chung; đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói riêng.
Công tác kiểm tra chính sách phát triển giảng viên các trường đại học
công lập trong nội bộ ngành giáo dục và đào tạo luôn được các trường đại học
công lập thực hiện thường xuyên, góp phần kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm
của giảng viên và tăng cường công tác quản lý, phục vụ phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Qua công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, các sai phạm được
phát hiện sẽ được xử lý; người có hành vi vi phạm đều bị xử lý nghiêm và kịp
thời; qua đó rút kinh nghiệm và xây dựng các biện pháp khắc phục, tăng cường
công tác quản lý trong toàn hệ thống để thực hiện tốt hơn chức năng quản lý
nhà nước về phát triển giảng viên các trường đại học công lập.
30
1.3. Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập ở Việt Nam
1.3.1. Yếu tố thể chế và cơ chế quản lý
1.3.1.1. Pháp luật viên chức
Pháp luật về viên chức là sự thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tổ
chức bộ máy, về quản lý con người nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên
chức, là cơ sở hoàn thiện tổ chức và nhân lực của các đơn vị sự nghiệp công
lập nói chung; trường đại học công lập nói riêng. Pháp luật viên chức do các cơ
quan có thẩm quyền ban hành nhằm tạo cơ sở và căn cứ pháp lý có giá trị cao
cho công tác xây dựng và quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, phát huy được tính sáng tạo, năng động
của họ đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Pháp luật viên chức có vai trò quan trọng trong việc quản lý đội ngũ viên
chức nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói riêng. Bởi
vì, bản thân pháp luật viên chức với nhiều yếu tố cấu thành (luật, nghị định, quyết
định, chỉ thị...) sẽ tạo nên khuôn khổ pháp lý làm căn cứ cho các trường đại học
công lập và đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, pháp luật viên chức góp phần thống nhất các tiêu chí xây
dựng cơ cấu tổ chức, vị trí việc làm trong các trường đại học công lập, cũng như
thống nhất việc quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập theo một
quy định, quy trình thống nhất từ việc tạo nguồn lực, tuyển dụng, sử dụng, bố trí,
đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… đến chế độ đãi ngộ phù hợp với trình độ, năng
lực của từng giảng viên, đồng thời tạo môi trường hoạt động khoa học và công
nghệ hiện đại tạo điều kiện tốt nhất cho giảng viên các trường đại học công lập
cống hiến, đáp ứng được yêu cầu của các trường đại học công lập đặt ra.
31
Để sử dụng và phát huy tối đa năng lực của đội ngũ giảng viên, các
trường đại học công lập cần có chính sách lâu dài, coi trọng việc hoàn thiện cơ
chế, chính sách quản lý nhằm phát triển nguồn lao động chất lượng cao này,
giúp họ phát huy năng lực của mình, nắm bắt các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ, tiếp thu và ứng dụng vào mọi lĩnh vực hoạt động nghè nghiệp; góp
phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học
công lập trong nước với nhau; cũng như với các tổ chức và trường đại học công
lập có uy tín ở các quốc gia khác trên thế giới.
1.3.1.2. Tuyển dụng giảng viên các trường đại học công lập
Đối với bất kỳ một tổ chức nào, công tác tuyển dụng nhân sự đều là một
trong những khâu quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng lao động, quyết
định tới hiệu quả hoạt động, làm việc của tổ chức đó. Các trường đại học công
lập cũng không là ngoại lệ. Tuyển dụng đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập là quá trình lựa chọn đội ngũ giảng viên thông qua thi tuyển hoặc xét
tuyển để nhà trường tiếp nhận và sắp xếp, bố trí vào từng vị trí việc làm phù hợp.
Như vậy, tuyển dụng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập có vai trò
quyết định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trường đại học công lập.
Tuyển dụng tốt sẽ giúp cho nhà trường có được những giảng viên có kỹ năng,
trình độ, đem lại hiệu quả công việc, tác phong phù hợp với sự phát triển trong
hiện tại và tương lai của nhà trường. Ngược lại, nếu công tác tuyển dụng không
tốt sẽ làm cho những cá nhân có trình độ, năng lực sinh ra bất mãn, không muốn
phấn đấu vươn lên.
1.3.1.3. Sử dụng và bổ nhiệm giảng viên
Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Sử dụng và bổ nhiệm vào chức
danh nghề nghiệp đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập hợp lý sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập phát huy
32
được khả năng, năng lực của mình đối với công việc sẽ đảm nhiệm, đúng trình
độ chuyên môn được đào tạo; đồng thời trên cơ sở đó sẽ phát huy tốt nhất tính
sáng tạo, tính chuyên nghiệp, tạo hứng thú, hăng say trong công việc. Thông
qua quá trình sử dụng và bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp, đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập được tiếp xúc, làm quen với môi trường làm
việc, tiếp cận việc xử lý với những diễn biến, thách thức trong công việc, nhiệm
vụ được giao; từ đó học hỏi, tiếp thu thêm những kiến thức thực tế, góp phần
hoàn thiện các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp, kỹ năng thực hành đảm bảo cho
quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc được nhà trường, phòng, khoa, ban
giao đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, từ những kết quả đánh giá sau quá trình sử
dụng và bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp sẽ sàng lọc chất lượng cũng như
trình độ của từng giảng viên các trường đại học công lập, giúp nhà trường đưa
ra quyết định sử dụng, bổ nhiệm đối với đội ngũ giảng viên ở từng vị trí việc
làm phù hợp.
1.3.1.4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm
nâng cao năng lực và phẩm chất, tạo điều kiện cho họ nâng cao khả năng thích
ứng với những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công việc, đảm bảo cho đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập có đủ năng lực trình độ và phẩm chất
đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trước yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, cần phải kịp thời đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập có đủ phẩm chất và năng lực, vừa có đức,
vừa có tài, trong đó đức là gốc. Tóm lại, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập cả về phẩm chất chính trị và chuyên môn,
nghiệp vụ, cho đến các kỹ năng hoạt động nghề nghiệp của họ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ giảng viên trong thời kỳ mới,
33
đặc biệt là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu làm tốt công tác này sẽ
sẽ tạo ra được đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, thích ứng với yêu cầu và
nhiệm vụ mới. Ngược lại, nếu công tác này không được quan tâm đầu tư đúng
mức thì trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
sẽ bị tụt hậu. Điều này đồng nghĩa với hiệu quả công việc không cao và không
đáp ứng yêu cầu của nhà trường.
1.3.1.5. Lương và chế độ, chính sách đãi ngộ
Trong cơ chế thị trường hiện nay thì lương và các chế độ, chính sách đãi
ngộ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập. Thực tế cho thấy, khi thu nhập của con người không tương xứng
với công sức lao động của họ bỏ ra hoặc không có chế độ, chính sách đãi ngộ
thỏa đáng ngoài tiền lương thì họ dễ sinh ra chán nản, thiếu trách nhiệm với
công việc, thậm chí là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chân trong, chân ngoài”,
tập trung cho các việc bên ngoài cơ quan hơn là công việc chuyên môn được
giao tại cơ quan, đơn vị. Vì vậy, nếu tiền lương và các chế độ, chính sách đãi
ngộ là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người, đặc biệt là đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập - đội ngũ có hàm lượng chất xám cao, lao động tạo
ra các sản phẩm có tính trí tuệ cao thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập.
Theo quy định hiện hành, đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập làm việc theo theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ
lương của trường đại học công lập phù hợp, tương xứng với vị trí việc làm,
chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc
hoặc nhiệm vụ được giao. Ngoài tiền lương thì chế độ đãi ngộ đối với đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập được hưởng trong quá trình
công tác là một yếu tố tác động tới chất lượng đội ngũ giảng viên. Chính
sách đãi ngộ phù hợp, thiết thực sẽ thu hút, tạo động lực làm việc cho cá
34
nhân giảng viên trường đại học công lập hứng thú, hăng say, sáng tạo trong
công việc.
1.3.1.6. Công tác khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát
Các hoạt động thi đua, khen thưởng phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy tinh
thần tích cực, hăng hái của đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ; chất lượng hoạt động nghề nghiệp của họ tăng
lên, đồng nghĩa với chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
cũng từ đó mà được cải thiện. Thi đua thường xuyên được tổ chức thực hiện
hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, hàng năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu
và chương trình công tác đề ra.
Công tác kỷ luật, kiểm tra, giám sát đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập về các mặt nhận thức, tư tưởng, năng lực công tác, các mối quan
hệ xã hội, đạo đức, lối sống... là những nội dung khó khăn và phức tạp. Tuy
nhiên, nếu làm tốt công tác này thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát, kỷ
luật thì sẽ góp phần rất lớn trong nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập. Việc thi hành, thực hiện các quy định về hình thức kỷ
luật tại trường đại học công lập sẽ góp phần tạo dựng môi trường làm việc ổn
định, quy củ, đi vào nề nếp; đồng thời bản thân giảng viên bị áp dụng các hình
thức kỷ luật sẽ có ý thức tự giác, nghiêm túc trong quá trình thực hiện hoạt động
nghề nghiệp của họ.
1.3.2. Yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật
Năng lực đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập là yếu tố quyết
định đến chất lượng, hiệu quả công việc của họ. Nhưng nếu như không có sự hỗ
trợ bởi những yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết thì chất lượng, hiệu quả công
việc sẽ không cao như mong muốn. Đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập về cơ bản sẽ được trang bị những điều kiện cần thiết để làm việc: phòng làm
việc, các phương tiện, tài liệu cần thiết cho công việc giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng
35
và nghiên cứu khoa học. Tuy vậy, cơ sở vật chất của mỗi trường đại học công lập
lại được trang bị khác nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc, cũng
như chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Do đó, các trường
đại học công lập cần hướng trọng tâm đến đầu tư các hạng mục quan trọng gồm:
phát triển hệ thống các phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm trọng điểm; đầu tư
nâng cấp để hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất, giảng đường, máy chiếu, máy vi
tính để bàn và máy tính xách tay, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại khác cho đội ngũ
giảng viên trường đại học công lập.
1.3.3. Yếu tố cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế tự chủ
Đây là một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến chất
lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Nếu cơ cấu tổ chức bộ
máy và cơ chế tự chủ của trường đại học công lập tốt sẽ tạo môi trường thuận
lợi để phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của nhà trường. Nếu ngược lại sẽ kìm
hãm sự phát triển, cũng như cống hiến của đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập. Các yếu tố về cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế tự chủ của các đơn
vị đã được quy định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước về tổ chức, sắp
xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, trường đại học công lập nói
riêng; xóa bỏ cơ chế chủ quản, phân cấp quản lý, tăng quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cho các trường đại học công lập, đồng thời thiết lập các cơ chế
kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng cũng như
phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập. Những quy định này
góp phần rất quan trọng vào nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập.
1.3.4. Uy tín, thương hiệu của trường đại học công lập
Uy tín, thương hiệu luôn được các trường đại học công lập quan tâm, xây
dựng. Các nước phát triển (Mỹ, Anh, Pháp, Ca na đa, Cộng hòa liên bang Đức,
36
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) luôn có nhiều trường đại học có uy tín
quốc tế. Uy tín, thương hiệu càng lớn, càng mạnh thì càng thu hút các đội ngũ
giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên có năng lực và tâm huyết cống hiến,
từ đó công tác phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập cũng
thuận lợi. Tất cả giảng viên các trường đại học đều muốn công tác trong một tổ
chức có uy tín, thương hiệu, được xã hội công nhận và nhiều người biết đến,
đồng thời bản thân cũng lo sợ khi phải rời khỏi nhà trường có uy tín, thương
hiệu lớn nếu không đáp ứng yêu cầu.
Uy tín và thương hiệu của trường đại học công lập sẽ giúp nhà trường
có ưu thế trong công tác thu hút đội ngũ giảng viên có chất lượng cao vào làm
việc, qua đó góp phần tăng thêm việc làm, thu nhập và các chính sách đãi ngộ
giảng viên được tốt hơn. Đây chính là động lực để đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập gắn bó với nhà trường, hết lòng, hết sức xây dựng nhà trường
và cũng chính điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập.
1.3.5. Môi trường làm việc
Bên cạnh các yếu tố thuộc về cơ sở vật chất, các trường đại học công lập
cũng cần xây dựng môi trường làm việc thực sự trọng dụng người tài, thực hiện
chính sách thu hút, tạo nguồn, bố trí, sử dụng gắn với giao nhiệm vụ đúng
người, đúng việc để tạo môi trường làm việc thân thiện, hợp tác, tự do, đảm
bảo đủ điều kiện vật chất để giảng viên trường đại học công lập yên tâm làm
việc và cống hiến, nhất là với các giảng viên, nhà khoa học trẻ cần nghiên cứu,
phát triển các đề án, đề tài khoa học thiết thực. Không khí làm việc trong trường
đại học công lập tốt sẽ gắn kết các thành viên, thúc đẩy mọi hoạt động trong
nhà trường, trong đó có công tác phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập.
37
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, luận văn đã trình bày, phân tích về khái niệm và đặc
điểm của viên chức, giảng viên làm việc trong trường đại học công lập, khái
niệm trường đại học công lập; vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên làm việc
trong trường đại học công lập; những nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ
giảng viên làm việc trong các trường đại học công lập, như phát triển về số
lượng; phát triển về chất lượng; công tác xây dựng chính sách phát triển; công
tác tổ chức thi hành chính sách phát triển; công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá
chính sách phát triển.
Chương 1 cũng dành dung lượng phù hợp để trình bày, phân tích các
yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến phát triển đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập ở Việt Nam, như thể chế và cơ chế quản lý đội ngũ
giảng viên đại học; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật; cơ cấu tổ chức bộ máy
và cơ chế tự chủ của trường đại học công lập; uy tín, thương hiệu của trường
đại học công lập; và yếu tố môi trường làm việc.
Thông qua các nội dung nêu trên, Chương 1 cung cấp khung lý thuyết và
các công cụ khái niệm để triển khai nội dung nghiên cứu, đánh giá thực trạng
công tác phát triển đội ngũ giảng viên làm việc, công tác tại Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021. Đây là những nội
dung chủ yếu được trình bày, phân tích tại Chương 2 của luận văn.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2016-2021
2.1. Khái quát quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên
tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển
Tháng 02 năm 1956, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh thông qua quyết định thành lập một số trường đại học mới. Thực hiện chủ
trương này và định hướng phát triển đại học, ngày 06/3/1956, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục Nguyễn Văn Huyên đã ký Nghị định số 147/NĐ về việc thành lập Trường
Đại học chuyên nghiệp Bách khoa (sau đổi là Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội, và nay là Đại học Bách khoa Hà Nội). Ngày 15/10/1956, Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội chính thức làm lễ khai giảng khóa học đầu tiên (khóa 1) cho
hơn 1.000 sinh viên thuộc 14 chuyên ngành của 04 liên khoa: Cơ điện, Mỏ -
Luyện kim, Hóa - Thực phẩm và Xây dựng. Giám đốc đầu tiên của Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội là GS, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Cuối năm 1956, trọng
trách Giám đốc và lãnh đạo Nhà trường được chuyển giao cho Giáo sư Tạ Quang
Bửu. Quy mô mặt bằng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là khu Đông Dương
học xá, với việc lấy các khu nhà A, B, C, D, E, F làm trung tâm rồi phát triển ra
khu đất trống bao quanh.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội luôn khẳng định vai trò và sự đóng góp to lớn của mình trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội đã hình thành một số trường đại học kỹ thuật khác như Trường
Đại học Xây dựng, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Kỹ thuật Quân
39
sự, Trường Đại học Công nghiệp; đồng thời nhiều cán bộ được tăng cường
cho Trường Đại học Cơ điện Thái Nguyên (nay thuộc Đại học Thái Nguyên).
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng đã thực hiện nhiệm vụ cung cấp cán
bộ khung cho Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học Đà Nẵng, Trường
Đại học Sư phạm Thủ Đức (tiền thân của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), Trường Đại học Điện lực, Trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội...
Ngày 02/12/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1512/QĐ-TTg về việc chuyển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại
học Bách khoa Hà Nội. Theo đó, Đại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị sự
nghiệp công lập tự chủ trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tư cách pháp
nhân, con dấu và tài khoản riêng. Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ tổ chức lại
cơ cấu tổ chức và hoạt động trên cơ sở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
trước đây theo quy định của Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 cùng các quy
định pháp luật có liên quan. Theo Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục đại học, để được chuyển từ trường đại học lên đại
học, các trường phải đáp ứng các điều kiện sau: (1). Được công nhận đạt
chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục hợp pháp; (2). Có ít nhất 3 trường thuộc trường đại học được thành
lập theo quy định; có ít nhất 10 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ; có quy
mô đào tạo chính quy trên 15.000 người; (3). Có ý kiến chấp thuận của cơ
quan quản lý trực tiếp đối với trường đại học công lập; có sự đồng thuận của
các nhà đầu tư đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp đối với trường đại học
tư thục, trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
40
Sau gần 65 năm xây dựng và trưởng thành, Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội đã đào tạo trên 200.000 kỹ sư, trên 10.000 thạc sĩ và trên 1000 tiến
sĩ cho hầu hết các ngành kinh tế, kỹ thuật của đất nước. Nhiều người đã trở
thành các nhà khoa học đầu ngành, cán bộ quản lý cao cấp, các tướng lĩnh,
các chủ doanh nghiệp và cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
Mặc dù với bề dày truyền thống và là đơn vị đào tạo và nghiên cứu
khoa học uy tín hàng đầu trong nước, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
vẫn phải liên tục đổi mới quản trị, đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức phục vụ cộng đồng
nhằm khẳng định vị thế trong nước và vươn ra quốc tế, đi tiên phong trong
hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh mới hội nhập
quốc tế sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu. Phần lớn giảng viên của Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội được đào tạo từ các trường đại học danh tiếng
trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Nhật Bản…), trong đó hơn 70% giảng viên
có trình độ tiến sĩ trở lên (đạt tỷ lệ cao nhất trong các cơ sở đào tạo tại Việt
Nam). Nhiều năm liên tục, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lọt vào top
801-1000 trường đại học tốt nhất thế giới (THE WUR - Times Higher
Education World University Ranking) do tổ chức Times Higher Education
(THE) công bố bảng xếp hạng hàng năm.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt trong hơn một thập kỷ
gần đây, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tìm những hướng đi và giải
pháp mới để phát triển nhà trường, mặc dù trong thời gian đầu, đầu tư cho nhà
trường hầu như không có. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội luôn mạnh dạn
đi tiên phong triển khai các chương trình theo chủ trương đổi mới giáo dục đại
học. Năm 2007, Nhà trường bắt đầu áp dụng đào tạo theo hình thức tín chỉ.
Ngày 28/3/2011, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định giao
41
cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thí điểm thực hiện một số nội dung tự
chủ và tự chịu trách nhiệm giai đoạn 2011-2015. Tiếp sau đó, ngày 06/10/2016,
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm tự chủ đại học của Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Theo đó, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có quyền
tự chủ toàn diện trong các hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, tổ chức bộ
máy, nhân sự và tài chính.
Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (khi chưa chuyển
đổi thành Đại học Bách khoa Hà Nội):
(Nguồn: Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội, 2021, tr.4)
Trong giai đoạn thí điểm tự chủ này, Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội đã thay đổi về mô hình tổ chức, cơ chế quản lý, đổi mới quản trị, cụ thể
là hoạt động theo cơ chế quản lý 3 cấp: Trường - Khoa/Viện - Bộ môn. Trong
giai đoạn 2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bắt đầu thực hiện
nhiệm kỳ đầu tiên của Hội đồng trường và đã xây dựng, bổ sung và sửa đổi,
42
hoàn thiện các văn bản quan trọng làm nền tảng cho đầu tư phát triển, quản
lý và điều hành mọi mặt hoạt động của Trường. Giai đoạn 2015-2020 cũng
là thời điểm Trường đã xây dựng và triển khai đề án tái cấu trúc một số đơn
vị cấp 2 gắn với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp lại đội ngũ cán
bộ. Kết quả là, số lượng đơn vị cấp 2 đã giảm từ 65 xuống còn 52, trong đó
giảm 5 phòng ban và trung tâm hỗ trợ; gần 200 cán bộ được bố trí, sắp xếp
lại vị trí việc làm trong đó hơn 60 cán bộ được điều chuyển từ các đơn vị
chức năng sang đơn vị dịch vụ. Mặc dù số đơn vị cấp 2 đã giảm xuống còn
52 đơn vị nhưng nhìn chung cơ cấu, mô hình tổ chức của Trường ĐHBK Hà
Nội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, gây ảnh hưởng không tốt đến công tác
phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.
2.2. Phân tích thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021
2.2.1. Về số lượng
Năm Tổng số
Cơ hữu 1.727 1.090 Giảng viên Thỉnh giảng Kỹ thuật viên 167 Viên chức HCPV 460 Nghiên cứu viên 10 2021
2022 1701 1078 0 155 458 10
Đang ở trong nước 1687 1065 0 154 458 10
Đang ở ngoài nước 14 13 0 1 0 0
Số viên chức nữ giới 753 377 0 64 307 5
Số viên chức mới 24 16 0 1 7 0
Số viên chức là 2 2 0 0 0 0 người nước ngoài
43
Về cơ cấu trình độ, chức danh giảng viên như sau:
Trình độ Đang ở nước ngoài Chức danh Năm Đang học trong nước Phân loại
Cơ hữu 805 255 TS ThS ĐH GS PGS Postdoc NCS CH NCS CH 0 22 230 13 9 7 0 1
Số viên 238 0 0 2021 135 4 2 59 4 0 0 chức
nữ
Cơ hữu 814 253 8 22 244 11 0 3 4 1
Số viên 244 0 0 2022 129 4 2 67 2 0 1 chức
nữ
Cơ cấu, trình độ chức danh giảng viên giai đoạn 2018-2022 như sau:
22
2022
244
814
22
2021
230
805
23
2020
217
790
24
2019
235
765
25
2018
225
751
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
Giáo sư
Phó Giáo sư
Tiến sĩ
(Nguồn: Đại Bách khoa Hà Nội, Báo cáo tại Hội nghị cán bộ, viên chức
năm 2022)
44
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội
nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII, Đảng ủy Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội đã ban hành Nghị quyết thống nhất chủ trương hợp nhất, tái cấu trúc một số
đơn vị. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị tiên phong trong việc tổ chức
lại các văn phòng đảng, đoàn thể cùng với các văn phòng Hội đồng trường, văn
phòng Ban Giám hiệu về một đơn vị quản lý hành chính duy nhất. Quá trình tái
cấu trúc, hợp nhất được thực hiện gắn với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ. Kết quả đã giảm được 13 đơn vị cấp 2 thuộc Trường, giảm
thiểu chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng
đội ngũ cán bộ. Qua quá trình tái cấu trúc, gần 200 cán bộ của Nhà trường được
bố trí, sắp xếp lại vị trí việc làm, trong đó hơn 60 cán bộ dư thừa từ các đơn vị
chức năng được điều chuyển sang đơn vị dịch vụ.
Bên cạnh tinh gọn bộ máy tổ chức, hệ thống quản lý của Nhà trường
ngày càng được nâng cao hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở tăng cường phân cấp,
phân quyền, dân chủ và minh bạch. Tư duy bao cấp dần được xóa bỏ, thay bằng
tư duy phân cấp, tự chủ và tự chịu trách nhiệm, nhất là từ khi cơ chế quản lý tài
chính mới được triển khai tháng 9/2018. Ban Giám hiệu điều hành, quản lý các
lĩnh vực hoạt động dựa trên mục tiêu, kế hoạch và các chỉ số hoạt động chính.
Các đơn vị chức năng chuyển đổi dần vai trò từ quản lý hành chính sang điều
phối hoạt động và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ chung. Các đơn vị chuyên môn
chịu trách nhiệm chính trong các hoạt động chuyên môn, chủ động tìm kiếm và
tối ưu hoá sử dụng các nguồn lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Kết quả quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và
giảng viên của Nhà trường đã có thay đổi rõ nét về nhận thức và tư duy hành
động, chủ động tham gia vào quá trình đổi mới các mặt hoạt động của Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội, tạo nên hình ảnh tốt đẹp về thương hiệu, uy tín của
Nhà trường không chỉ trong nước mà cả uy tín quốc tế.
45
2.2.2. Về chất lượng
Về trình độ giảng viên và tỷ trọng giờ nghiên cứu: số lượng giảng viên
có trình độ tiến sĩ trở lên tăng dần theo các năm và hiện đang ở tốp đầu trong
các cơ sở giáo dục đại học trong nước, tuy nhiên phần thời gian dành cho công
tác nghiên cứu còn thấp (tỷ trọng giữa giảng dạy - nghiên cứu - phục vụ năm
2020 là 50-35-15).
Về năng lực và thành tích nghiên cứu: Tổng số công bố của đội ngũ
giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong 5 năm (2016-2020) là
2.278 công bố và có xu hướng tăng dần. Tuy nhiên, nếu tính số công bố/tổng
số giảng viên thì tỷ lệ 0,4 bài/giảng viên là còn thấp. Đồng thời các chỉ số thể
hiện năng lực nghiên cứu còn khiêm tốn, cụ thể: số công bố trong danh mục tạp
chí Q1 hoặc conference rank A* chỉ chiếm khoảng 30% tổng số công bố
ISI/Scopus; Chỉ số trích dẫn của các công bố trung bình giai đoạn 2009-2018
là 7.0, giai đoạn 2000-2018 là 9.5, không có công bố nào lọt vào nhóm 300
công bố có số lượt trích dẫn cao nhất giai đoạn 2000-2018. Việc chuyển giao
công nghệ và các sản phẩm sở hữu trí tuệ như phát minh, sáng chế còn ít. Năm
2020, số phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích của các giảng viên Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội đã nộp đơn là 26, số đơn được chấp nhận là 19 và đã
được cấp chứng nhận là 8.
Nhiều năm liên tục, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là 5 đơn vị có số
lượng công bố quốc tế nhiều nhất (04 đơn vị còn lại là Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội). 05 đơn vị này đóng góp
trên 50% tổng số công bố quốc tế của Việt Nam.
46
Về công bố khoa học và phát minh sáng chế (đến tháng 11/2022):
TT Loại công trình Số lượng
Tăng/giảm so với 2021
Số lượng /CBGD 0.462 1 Công bố ISI 499
0,421 Giảm 12% Công bố ISI 455
0,04 Hội nghị quốc tế (thuộc Web of 44 Tăng 100% Science)
0,354 Tăng 64% 2 Công bố Scopus (không tính 383
ISI)
0,676 Tăng 2,8% 3 Công bố khác 730
4 Trích dẫn của công trình 3 năm Tăng 17.4% cuối (2020-2022) trên Scopus
8.210 trích dẫn (2.334 công bố) 3,52 trích dẫn/công bố
Phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích
5 0,037 Được chấp nhận đơn Tăng 10,8%
41 (8 giải pháp hữu ích, 33 sáng chế)
0,035 Đã được cấp 38
Tăng 11,76% 0,015 Tăng 45%
Đã được ứng dụng, chuyển giao công nghệ
16: 7 giải pháp hữu ích; 9 sáng chế (trong đó 5 đơn có dự định cấp bằng)
0,026 6 Sách, giáo trình 28
47
Năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội (thống kê theo số bài báo kê khai trên hệ thống tính kNC):
S Tiêu chí 2017 2018 2019 2020
TT
281 309 462 373
1 Số công bố Scopus (Tạp chí và Hội nghị) + SCI + SCIE
2 Số bài báo ISI 162 184 243 213
3 Số patents và GPHI 7 10 18 16
125 (27.8%) 121 (24.1%) 212 (29.3%) 180 (29.9%)
4 Số công bố Q1 (Tỷ lệ công bố Q1/ Tổng số công bố ISI/Scopus theo năm %)
86 (19.1%) 107 (21.2%) 167 (23.1%) 153 (25.4%)
5 Số công bố Q2 (Tỷ lệ công bố số công bố Q2/ Tổng ISI/Scopus theo năm %)
6 Tổng số công bố 450 503 723 602
(Nguồn: Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội, 2021, tr.59).
Hiện nay, quy mô đào tạo của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đạt
trên 35.000 người học với 65 chuyên ngành đại học, 47 chuyên ngành cao học,
32 chuyên ngành tiến sĩ. Trường có 3 chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao
đạt chuẩn kiểm định kỹ sư Pháp và châu Âu (CTI ENAEE), 11 chương trình đào
tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn của Hiệp hội các trường đại học Đông Nam
Á (AUN-QA), 2 chương trình được kiểm định theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Kế
toán viên công chứng Úc (CPA)… Trong nhiều năm qua, Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội có mặt trong nhiều bảng xếp hạng đại học trên thế giới. Theo bảng
xếp hạng QS năm 2021, 4 nhóm ngành Kỹ thuật Điện - Điện tử; Kỹ thuật Cơ
khí, Hàng không và Chế tạo; Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin và Toán
học của Nhà trường được xếp ở vị trí từ 400 đến 600 tốt nhất thế giới.
48
2.2.3. Về xây dựng chính sách phát triển
Để khẳng định và duy trì vị thế là một trong những cơ sở đào tạo đại học
và sau đại học uy tín hàng đầu ở Việt Nam, khu vực Châu Á và quốc tế, Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội luôn quan tâm xây dựng và thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường đủ về số lượng và hợp lý về cơ
cấu, mạnh về chất lượng. Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà trường đã xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản rất quan trọng về công tác phát
triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường, tiêu biểu là:
- Đề án “Quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2006-2030”, được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo phê duyệt tại Quyết định số 668/QĐ-BGDĐT ngày 01/02/2007.
- Chiến lược phát triển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn
2017-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 245/QĐ-ĐHBK-HCTH ngày
15/02/2017 của Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội).
- Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội khóa XXX về chuyển đổi mô hình tổ chức, xây dựng hình
mẫu Đại học Bách khoa Hà Nội tự chủ và hiện đại (Nghị quyết chuyên đề số
85-NQ/ĐU ngày 07/12/2020), định hướng rất rõ nhiệm vụ thu hút và phát triển
đội ngũ cán bộ tài năng, đặc biệt là đội ngũ giảng viên của Nhà trường.
- Quy chế công tác cán bộ năm 2019 của Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội do Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội ban hành theo Quyết
định số 2409/QĐ-ĐHBK ngày 15/10/2019 (sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Quyết định số 688/QĐ-ĐHBK-TCCB ngày 21/5/2020).
Đơn vị tham mưu công tác tổ chức cán bộ của Nhà trường là Phòng Tổ
chức cán bộ cũng đã chủ trì xây dựng và trình Hội đồng trường, Hiệu trưởng
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội các quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế
công tác cán bộ trong giai đoạn chuyển tiếp của Trường Đại học Bách khoa Hà
49
Nội; chủ trì xây dựng danh mục vị trí việc làm, đề án vị trí việc làm trong toàn
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội để trình Hội đồng trường ban hành danh
mục và khung tiêu chuẩn vị trí việc làm toàn Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội với tổng số 89 vị trí việc làm của đội ngũ viên chức Nhà trường.
Trong năm 2022, các đơn vị chuyên môn tiếp tục tiến trình tái cấu trúc,
chuẩn bị sẵn sàng cho bước tiến lên mô hình Đại học Bách khoa Hà Nội: Các
tổ công tác xây dựng Đề án thành lập Trường thuộc nhóm ngành Hóa - Sinh -
Thực phẩm - Môi trường và nhóm ngành Vật liệu đã hoàn thành Đề án thành
lập Trường thuộc trình Ban Giám hiệu. 05 đơn vị là Viện Ngoại ngữ, Viện Sư
phạm kỹ thuật, Viện Vật lý kỹ thuật, Viện Kinh tế và Quản lý và Viện Toán
ứng dụng và tin học đã hoàn thành đề án chuyển đổi mô hình thành Khoa thuộc
Đại học. Trung tâm Công nghệ dữ liệu và tính toán đã được tái cấu trúc và
chuyển đổi thành Trung tâm Công nghệ và Kinh tế số theo Quyết định số
4989/QĐ-ĐHBK ngày 24/11/2022 của Hiệu trưởng. Đến nay, Đại học Bách
khoa Hà Nội có 05 trường được thành lập theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 (đó là Trường Cơ khí; Trường Điện
- Điện tử; Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông; Trường Vật liệu;
Trường Hóa và Khoa học sự sống). Đây là các trường được thành lập sau khi
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận Hội đồng đại học, Chủ tịch Hội
đồng đại học và Ban Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội. Đây là một bước
tiến mới của Đại học Bách khoa Hà Nội trong quá trình triển khai thực hiện
chiến lược phát triển giai đoạn 2017-2025 và thực hiện Nghị quyết chuyên đề
số 85/NQ-ĐU ngày 07/12/2020 của Đảng ủy Đại học Bách khoa Hà Nội về
chuyển đổi mô hình tổ chức, xây dựng Đại học Bách khoa Hà Nội tự chủ và
hiện đại.
Trong thời gian sắp tới, cơ cấu tổ chức, bộ máy vận hành của Đại học
Bách khoa Hà Nội tiếp tục được tối ưu theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
50
phân cấp mạnh các mặt hoạt động cho các đơn vị chuyên môn; quản trị, điều
hành tập trung theo chiến lược và các quy chế, quy định chung do Đại học Bách
khoa Hà Nội ban hành, người học được cấp bằng duy nhất của Đại học Bách
khoa Hà Nội.
Nhờ chính sách phát triển đội ngũ giảng viên có hiệu quả cho nên Đại học
Bách khoa Hà Nội đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại
học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục HCERES năm 2017. HCERES
là tổ chức đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học độc lập có nhiệm
vụ đánh giá các cơ sở đào tạo đại học, các tổ chức nghiên cứu và các chương
trình đào tạo. HCERES là thành viên chính thức của Hiệp hội đảm bảo chất lượng
giáo dục đại học Châu Âu (ENQA) và Bộ tiêu chuẩn và Hướng dẫn về đảm bảo
chất lượng (ESG) trong hệ giáo dục đại học châu Âu (EHEA). Ngoài các cơ sở
đào tạo và nghiên cứu của Pháp, HCERES còn tham gia đánh giá các cơ sở đào
tạo và nghiên cứu của các quốc gia thuộc EHEA. Trung bình hàng năm HCERES
đánh giá và kiểm định 50 cơ sở đào tạo, tổ chức nghiên cứu; 630 đơn vị nghiên
cứu; 600 chương trình đào tạo đại học; 300 chương trình đào tạo thạc sĩ và 70
chương trình đào tạo tiến sĩ. HCERES cũng đã thực hiện đánh giá và kiểm định
quốc tế đối với các trường đại học nước ngoài, các tổ chức giáo dục của Pháp ở
nước ngoài, các đơn vị nghiên cứu hỗn hợp quốc tế.
2.2.4. Về thi hành chính sách phát triển
Về công tác quy hoạch, bổ nhiệm: hàng năm, Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội đã thực hiện quy trình rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ quản lý các
đơn vị cấp 2, đơn vị quản lý cấp 3. Năm 2021, Hiệu trưởng Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội (nay là Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội) đã ký ban
hành Quyết định số 1545/QĐ-ĐHBK-TCCB và Quyết định số 1546/QĐ-
ĐHBK-TCCB phê duyệt quy hoạch vị trí cấp trưởng và cấp phó trưởng các
khoa, viện, phòng, ban, trung tâm của các đơn vị trong Trường. Cùng với việc
51
thành lập 03 trường thành viên, công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý được thực
hiện đúng quy trình theo Quy chế công tác cán bộ và đúng pháp luật.
Về công tác bố trí, bổ nhiệm cán bộ: từ năm 2019-2022, số giảng viên
được bổ nhiệm vị trí cấp trưởng, cấp phó trưởng đơn vị cấp 2 là 126 người; cấp
trưởng, cấp phó trưởng đơn vị cấp 3 là 264 người. Trong quá trình thực hiện
công tác bố trí, bổ nhiệm cán bộ, Trường luôn thực hiện nghiêm túc quy trình bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đã lựa
chọn được nhiều giảng viên, nhà khoa học có năng lực, uy tín để Hiệu trưởng
Nhà trường bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Song song với việc bổ
nhiệm viên chức lãnh đạo, quản lý, từ năm 2019-2022 Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội đã thực hiện miễn nhiệm 134 cán bộ quản lý trong quá trình tái cấu
trúc, tổ chức lại bộ máy tổ chức thành lập Trường Cơ khí; Trường Công nghệ
Thông tin và Truyền thông và Trường Điện - Điện tử. Quá trình thực hiện miễn
nhiệm thực hiện hợp lý, không gây xáo trộn và đạt được sự đồng thuận cao.
Về công tác tuyển dụng: Số lượng và chất lượng cán bộ tuyển dụng hàng
năm được cải thiện, số cán bộ được tuyển vào giảng viên tăng cả về số lượng
và chất lượng. Năm 2021, đã tuyển dụng được 37 cán bộ, trong đó có 27 giảng
viên (23 giảng viên trình độ tiến sĩ). Nhằm thu hút đội ngũ cán bộ có thành tích
xuất sắc và nhà khoa học uy tín, Phòng Tổ chức cán bộ đã xây dựng và trình
Hiệu trưởng (nay là Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội) phê duyệt “Đề án
Thu hút tuyển dụng giảng viên xuất sắc giai đoạn 2021-2025”. Kết quả ngay
trong năm 2021 đã tuyển dụng được 03 giảng viên có thành tích nghiên cứu
xuất sắc về giảng dạy tại Viện Vật lý kỹ thuật và Viện Kỹ thuật Hóa học.
Về đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên: công tác đào tạo
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên luôn được Đảng ủy và Ban Giám hiệu
(nay là Ban Giám đốc) Đại học Bách khoa Hà Nội quan tâm. Từ năm 2019 đến
năm 2022 số lượng và chất lượng các lớp bồi dưỡng cho cán bộ quản lý các cấp
52
của Nhà trường không ngừng tăng lên. Năm 2021, mặc dù bị ảnh hưởng bởi
dịch COVID-19, nhưng Nhà trường vẫn duy trì tổ chức triển khai các lớp về
nâng cao trình độ tiếng Anh, nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ, về lý luận
chính trị và về chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo theo kế hoạch đề ra.
Đặc biệt, từ ngày 01/7/2022, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
công bố và thực hiện Đề án thu hút, tuyển dụng giảng viên xuất sắc giai
đoạn 2021-2025 nhằm tìm kiếm ứng viên trẻ tài năng, nhà khoa học uy tín
xuất sắc, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành làm nòng
cốt để dẫn dắt, thúc đẩy và phát triển công tác nghiên cứu khoa học của
Nhà trường. Theo đó, giảng viên xuất sắc dưới 40 tuổi được ưu tiên tuyển
dụng vào Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với cơ chế đãi ngộ lương
bổng, kinh phí nghiên cứu khoa học. Đề án đặt mục tiêu tuyển dụng
khoảng 30 giảng viên xuất sắc, ưu tiên các nhóm ngành Điện - Điện tử,
Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Toán ứng dụng và Tin học, Khoa học máy
tính và Hệ thống thông tin, Hóa - Sinh học - Thực phẩm - Môi trường, Vật
liệu, Vật lý và Năng lượng.
Các ứng viên Nhà trường hướng tới thu hút là giảng viên có độ tuổi
dưới 40 (nhóm A), là tác giả chính của một công bố đăng trong tạp chí Nature
hoặc Science; hoặc tối thiểu 5 công bố ISI/Scopus, trong đó ít nhất hai công
bố thuộc nhóm tạp chí Q1 hoặc Conference Rank A* trong lĩnh vực phù hợp,
với tổng số trích dẫn tối thiểu đạt 300 hoặc chỉ số H-index toàn bộ tối thiểu là
10. Ngoài ra, giảng viên đã có tối thiểu một phát minh sáng chế hoặc hai giải
pháp hữu ích và đã chủ trì cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ hoặc chuyển
giao công nghệ cũng là nhóm trường quan tâm. Đề án cũng hướng tới ứng
viên là nhà khoa học uy tín (giáo sư, phó giáo sư - nhóm B) có kinh nghiệm
dẫn dắt nhóm nghiên cứu, giảng dạy theo định hướng quốc tế hóa tại các cơ
sở đào tạo, nghiên cứu uy tín trong và ngoài nước.
53
Đây là Đề án có những cơ chế đột phá về lương bổng, tạo môi trường
làm việc, nghiên cứu chuyên nghiệp để các giảng viên tài năng phát huy được
hết khả năng. Chẳng hạn, các giảng viên xuất sắc về công tác được Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội tài trợ kinh phí để thực hiện một đề tài trọng điểm với
kinh phí từ 200 đến 500 triệu đồng một năm, căn cứ theo đề xuất của ứng viên
và được hội đồng tư vấn thẩm định phê duyệt. Ngoài ra, giảng viên xuất sắc sẽ
được Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hỗ trợ để được hưởng chế độ theo cơ
chế, chính sách ưu đãi của Chính phủ.
Cũng theo Đề án này, giảng viên được tuyển dụng về Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội sẽ có môi trường lý tưởng để nghiên cứu khoa học bởi cơ
sở vật chất tốt với nhiều phòng thí nghiệm mới, đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ
cùng nhiều sinh viên, học viên sau đại học giỏi. Kinh phí được hỗ trợ cùng các
thủ tục hành chính đơn giản, áp dụng chuyển đổi số cũng là những điều kiện
được Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đưa ra trong Đề án thu hút, tuyển dụng
giảng viên xuất sắc giai đoạn 2021-2025.
2.2.5. Về công tác đánh giá, xếp loại giảng viên
Từ năm 2019 đến nay, công tác đánh giá, xếp loại giảng viên được Đảng
ủy và Ban Giám hiệu Trường Đại học Bách khoa Hà Nội quan tâm xây dựng
và triển khai hoàn toàn mới theo bộ chỉ số đánh giá chất lượng KPI để trả lương
tăng thêm. Hằng năm công tác đánh giá, xếp loại giảng viên luôn được Nhà
trường cải tiến để hoàn thiện hơn. Năm học 2020-2021, đã thực hiện đánh giá
chất lượng xếp loại 1725 giảng viên, trong đó 64 giảng viên xếp loại hoàn thành
nhiệm vụ, 1046 giảng viên xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ, 613 giảng viên
xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và 02 giảng viên xếp loại không hoàn
thành nhiệm vụ. Năm học 2020-2021, công tác đánh giá, xếp loại giảng viên
cũng đã được cải tiến nhiều so với năm học 2019-2020 và thực hiện quy trình
đánh giá, xếp loại giảng viên đi vào thực chất gắn với việc trả lương 2, tạo động
54
lực cho giảng viên, nhất là giảng viên trẻ có năng lực phấn đấu làm việc. Nhà
trường cũng đang chủ trì việc thực hiện đánh giá, xếp loại chất lượng giảng
viên trên hệ thống trực tuyến, đưa vào vận hành từ năm học 2021-2022.
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng thực hiện quyết liệt công tác
chuyển đổi số vào quản lý, đánh giá, xếp loại đội ngũ giảng viên. Đảng ủy và
Ban Giám hiệu nhà trường giao Phòng Tổ chức cán bộ phối hợp với Tổ công
tác chuyển đổi số thực hiện kết nối liên thông dữ liệu cán bộ với dữ liệu đào
tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Phòng Tổ chức cán bộ cũng đã triển
khai một số quy trình quản lý trên hệ thống quản trị đại học eHUST như quy
trình tuyển dụng, quy trình thi đua khen thưởng… và tiếp tục triển khai các quy
trình khác như đánh giá xếp loại đội ngũ giảng viên, cử giảng viên đi công tác
trong và ngoài nước trên hệ thống eHUST và đẩy mạnh công tác ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý giảng viên.
Về thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên: Nhiệm kỳ
2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã rà soát và sửa đổi, bổ sung
Quy chế quy định liên quan tới chế độ chính sách cụ thể đối với đội ngũ giảng
viên của Nhà trường. Thực hiện các chính sách về lương, bảo hiểm, thi đua,
khen thưởng, kỷ luật theo đúng pháp luật của Nhà nước và các quy định của
Trường. Phòng Tổ chức cán bộ hướng dẫn giảng viên thực hiện chính sách một
cách tận tình chu đáo, làm cho giảng viên yên tâm và hiểu rõ những chế độ mà
mình được hưởng, những trách nhiệm mình phải thực hiện. Thực hiện tốt công
tác hưu trí, động viên giảng viên đến tuổi nghỉ hưu một cách kịp thời, được
giảng viên đánh giá cao về tinh thần và thái độ phục vụ.
Hiện tại, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đang xây dựng chế độ bảo
hiểm sức khỏe cho giảng viên nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của giảng
viên và người lao động, nhằm tạo lập môi trường tốt về đãi ngộ và thu hút đội
ngũ giảng viên chất lượng cao bên cạnh chế độ lương thưởng theo chất lượng
55
và hiệu quả công việc. Công tác thi đua khen thưởng các đơn vị, cá nhân trong
toàn Trường Đại học Bách khoa Hà Nội luôn được cải tiến, đổi mới theo định
hướng thiết thực, thực chất và gắn với vị trí việc làm, chất lượng và hiệu quả
công việc nhằm khen thưởng đúng người, đúng đơn vị.
2.3. Những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên tại
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021
2.3.1. Trong phát triển về số lượng, cơ cấu
Trong giai đoạn 2016-2021, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bắt đầu
thực hiện nhiệm kỳ đầu tiên của Hội đồng trường và đã xây dựng, bổ sung và sửa
đổi, hoàn thiện các văn bản quan trọng làm nền tảng cho đầu tư phát triển, quản lý
và điều hành mọi mặt hoạt động của Trường. Giai đoạn 2015-2020 cũng là thời
điểm Trường đã xây dựng và triển khai đề án tái cấu trúc một số đơn vị cấp 2 gắn
với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp lại đội ngũ giảng viên. Kết quả,
gần 200 giảng viên được bố trí, sắp xếp lại vị trí việc làm trong đó hơn 60 giảng
viên được điều chuyển từ các đơn vị chức năng sang đơn vị dịch vụ.
Quản lý hành chính ở một số viện đào tạo chưa được phân cấp mạnh
(trong đó có nguyên nhân một phần do số lượng, cơ cấu và năng lực của đội
ngũ giảng viên của các viện này chưa đảm bảo), quản lý chuyên môn thiếu
chuyên sâu (ngành/chương trình đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao
công nghệ...). Một số viện đào tạo đã bắt đầu được phân cấp, giao quyền mạnh
nhưng do hạn chế về số lượng, cơ cấu và năng lực của đội ngũ giảng viên (kể
cả giảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và giảng viên chuyên môn), kèm theo
hạn chế về năng lực và nguồn lực nên hoạt động của các viện đào tạo này chưa
hiệu quả và khó mở rộng phát triển. Các chương trình đào tạo, nghiên cứu liên
ngành, liên lĩnh vực khó triển khai, nhiều đơn vị còn bị chồng chéo các vấn đề
chuyên môn cũng do nguyên nhân số lượng, cơ cấu giảng viên của các đơn vị
này chưa đảm bảo.
56
2.3.2. Trong phát triển chất lượng (nâng cao chất lượng)
Do có thời gian chưa quy định, phân biệt rõ giữa Viện nghiên cứu và
Trung tâm nghiên cứu cho nên nhiều Trung tâm, Viện nghiên cứu có chuyên
môn hẹp, trùng lặp với viện đào tạo, cạnh tranh với nhau và với viện đào tạo,
khiến cho phát sinh nhiều biên chế giảng viên cơ hữu, kém về chất lượng và
hiệu quả hoạt động nghề nghiệp, khó hợp tác với các viện đào tạo, khó thu hút
sinh viên đại học và học viên sau đại học để làm công tác nghiên cứu khoa học,
công tác giảng dạy, đào tạo và bồi dưỡng. Thực tế công tác tổ chức cán bộ hàng
năm của Nhà trường cho thấy những giảng viên là cán bộ cơ hữu ở các viện
nghiên cứu tham gia không nhiều và công tác đào tạo và bồi dưỡng, làm suy
giảm động lực làm việc.
Như vậy, mô hình hiện tại của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chưa
khuyến khích việc đào tạo và nghiên cứu liên ngành, liên lĩnh vực và chưa
chuyên môn hóa, đặc biệt là cấp bộ môn. Nhiều giảng viên muốn phát triển
theo hướng quản lý hành chính hơn là tập trung phát triển, quản lý chuyên môn
sâu. Mô hình hiện tại đặc biệt chưa thúc đẩy nhóm giảng viên có tiềm lực nghiên
cứu mạnh, nghiên cứu phát triển có ảnh hưởng lớn trong và ngoài nước, mặc
dù Trường có đội ngũ giảng viên với số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ chiếm
đến 71%, có năng lực nghiên cứu khoa học rất mạnh, được đào tạo cơ bản và
có trình độ cao, vững chuyên môn nghiệp vụ. Các hoạt động đổi mới sáng tạo
và chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học của
đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chưa mang lại nhiều lợi
ích cho Trường cả về mặt danh tiếng, thương hiệu và uy tín, cũng như nguồn
thu cho các quỹ phúc lợi.
2.3.3. Trong xây dựng và tổ chức thi hành chính sách phát triển
Đội ngũ trực tiếp làm công tác tham mưu về tổ chức và cán bộ của Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội và nhiều giảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý phần lớn
57
là kiêm nhiệm nên đôi khi còn hạn chế trong việc phân bổ thời gian để thực hiện
các công việc ở đơn vị được biên chế, đơn vị kiêm nhiệm cũng như công việc của
tổ chức đảng và các đoàn thể, dẫn đến nhiều bất cập hạn chế trong xây dựng và tổ
chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường. Công tác
ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên chưa triển
khai mạnh như mong muốn. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp
chưa được chú trọng đầu tư hoàn thiện để hình thành đội ngũ giảng viên hùng hậu
ở cả khối đào tạo đại học, sau đại học và khối nghiên cứu cơ bản, chuyển giao và
ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên, nghiên cứu viên.
Việc vận hành các đơn vị chuyên môn trong khối ngành hẹp cũng làm
hạn chế việc xây dựng và hình thành các nhóm giảng viên, nghiên cứu viên liên
ngành, liên lĩnh vực. Số lượng các công trình khoa học công nghệ mang tầm
vóc quốc gia, quốc tế của Nhà trường còn rất hạn chế. Do đó mô hình tổ chức
hoạt động cần phải được cải tiến theo hướng đẩy mạnh nghiên cứu liên ngành,
xuyên ngành, liên lĩnh vực và đặc biệt cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ,
hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Mô hình tổ chức hiện tại cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc
xây dựng và đổi mới chương trình đào tạo do một số đơn vị còn cát cứ và là
“pháo đài” bất khả xâm phạm. Việc phát triển chương trình đào tạo chưa thực
sự xem xét đánh giá từ góc nhìn thị trường lao động, từ người học và chưa
chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, việc quản lý và phát triển chương trình đào tạo
cũng cần được chuyên nghiệp hóa theo định hướng theo các “dòng sản phẩm”
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước. Do đó cần có mô
hình tổ chức ở các đơn vị chuyên môn phù hợp.
Ngoài ra, mô hình tổ chức hiện tại chưa hội nhập với mô hình tổ chức của
các đại học tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng được
nhu cầu hội nhập khu vực và thế giới, tiến tới đẳng cấp khu vực và quốc tế, Trường
58
Đại học Bách khoa Hà Nội cần nghiên cứu, học tập có chọn lọc và sáng tạo các
mô hình đại học đẳng cấp quốc tế, để hình thành một hệ thống các trường
(School/College), các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm nghiên
cứu, các nhóm chuyên môn với đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất đủ mạnh để triển
khai hiệu quả các chương trình đào tạo, các chương trình nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng, phát triển và sáng tạo công nghệ. Trong đó cần tập trung
vào các lĩnh vực mũi nhọn của Trường như Điện - Điện tử, Công nghệ thông tin,
Toán tin, Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Hóa - Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu,…
để khẳng định vị trí cơ sở đào tạo đại học, sau đại học hàng đầu Việt Nam và vươn
ra khu vực thực hiện tầm nhìn trở thành một đại học nghiên cứu ngang tầm khu
vực lấy kỹ thuật công nghệ làm nòng cốt đúng như chiến lược đã đề ra.
Tóm lại, mô hình tổ chức Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay là
kết quả của quá trình tái cấu trúc, thí điểm thực hiện tự chủ đại học từ năm
2011, một mô hình quá độ trong định hướng phát triển thành đại học. Tuy nhiên,
mô hình quá độ hiện tại vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập như quá nhiều số đơn vị
đầu mối; quy mô các đơn vị rất khác nhau; chồng chéo chức năng, lĩnh vực;
thiếu chuyên môn/chuyên nghiệp hóa; nguồn lực phân tán, tư tưởng cát cứ;
cứng nhắc, khó thích ứng với thay đổi; nặng “quản lý” và thiếu tư duy “phục
vụ”. Đặc biệt mô hình này không còn phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành, dẫn đến sự bất cập, hạn chế trong xây dựng và tổ chức thi hành chính
sách phát triển đội ngũ giảng viên của Nhà trường.
2.4. Nguyên nhân khách quan và chủ quan của những bất cập, hạn
chế trong phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội giai đoạn 2016-2021
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Từ năm 2016 đến năm 2021 là giai đoạn Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội tiếp tục thực hiện Đề án “Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của Trường
59
Đại học Bách khoa Hà Nội” theo Quyết định số 1924/QĐ-TTg ngày 06/10/2016
của Thủ tướng Chính phủ. Đây là giai đoạn chuyển tiếp, bởi trước đó Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội đã thực hiện thí điểm quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1211/QĐ-BGDĐT của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong quá trình thực hiện thí điểm tự chủ,
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đổi mới mô hình tổ chức, đổi mới quản
trị theo hướng phân cấp mạnh, các đơn vị chuyên môn đã phát huy cao độ tính
chủ động và trách nhiệm, khai thác hiệu quả năng lực và thế mạnh nội tại, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ
của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Mô hình tổ chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay là kết
quả của gần 12 năm thực hiện 02 giai đoạn tái cấu trúc, thí điểm thực hiện tự
chủ đại học, một mô hình quá độ trong định hướng phát triển thành đại học.
Tuy nhiên, mô hình quá độ hiện tại còn bộc lộ nhiều bất cập như số đơn vị
đầu mối nhiều; quy mô các đơn vị khác nhau; thiếu tính hợp lực, tính liên
ngành, xuyên ngành; chồng chéo chức năng, lĩnh vực; nguồn lực phân tán;
cứng nhắc, khó thích ứng với thay đổi; vẫn thiếu tư duy phục vụ...
Những nguyên nhân khách quan này đã gây tác động không tích cực đến
công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Cơ chế, chính sách về xây dựng đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập cũng chưa thống nhất, đồng bộ. Các trường đại học công lập ở Việt
Nam nói chung, trong đó có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chưa có
những giải pháp thực sự có tính đột phá, chiến lược dài hạn để xây dựng, phát
triển đội ngũ giảng viên của mình. Có những thời điểm thì tập trung vào phát
triển quy mô đào tạo để tăng số lượng sinh viên, từ đó tăng nguồn thu cho Nhà
trường; song sự tăng mạnh quy mô đào tạo trong nhiều năm cũng dẫn đến sự
60
quá tải đối với đội ngũ giảng viên, khiến cho giảng viên chỉ tập trung vào giảng
dạy, ít đầu tư vào nghiên cứu khoa học, do đó ảnh hưởng đến chất lượng đội
ngũ giảng viên.
Nhiều giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chưa có sự
chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, phát triển bản thân, vẫn còn tư tưởng
ỷ lại, thụ động, trông chờ vào cấp trên, vào nhà nước. Chưa có chủ động xây
dựng kế hoạch tự đào tạo, bồi dưỡng, đề ra những biện pháp để khắc phục
những khó khăn của bản thân, chưa dám vượt lên chính mình.
61
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 của luận văn đã trình bày khái quát quá trình hình thành và
phát triển của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; quy định về cơ cấu tổ chức
và số lượng, cơ cấu trình độ, giới tính… của đội ngũ giảng viên Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Đây có thể xem là các yếu tố có tác động đến phát triển
đội ngũ viên chức của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Chương 2 cũng trình bày, phân tích, đánh giá những kết quả tích cực
trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
giai đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên;
về xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng
viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Đồng thời, gắn với phân tích, đánh
giá, làm rõ những bất cập, hạn chế trong phát triển đội ngũ giảng viên Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất
lượng đội ngũ giảng viên; về xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách
phát triển đội ngũ giảng viên và các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách
quan dẫn đến những bất cập, hạn chế đó.
Đó là những cơ sở, căn cứ khoa học để Chương 3 của luận văn làm rõ
những yêu cầu khách quan của việc phát triển đội ngũ giảng viên trường đại
học công lập nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng và đề xuất các
giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường đại học công lập nói chung, Đại
học Bách khoa Hà Nội nói riêng trong những năm sắp tới.
62
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới
3.1.1. Quan điểm chung
Điều 63, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và
thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non, bảo
đảm bảo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ
cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực
hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý…”.
Nghị quyết số 14/2005/NQQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 xác định:
“Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để
các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học”. Nghị
quyết số 14/2005/NQQ-CP khẳng định mục tiêu chung của việc đổi mới giáo dục
đại học là: “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến
cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của
nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao,
thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
63
Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định mục
tiêu cụ thể đối với giáo dục đại học: “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào
tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực
tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các
cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy
hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào
tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với
nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI của Đảng khẳng định việc đổi mới tư duy giáo dục đại học hiện nay cần
“gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;
hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân
tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở
khu vực”.
Kế thừa và phát triển, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng
nhấn mạnh “Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính sách đột phá phát triển, nâng
cao chất lượng giáo dục đại học... Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách
phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo… Hoàn thiện cơ chế,
chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ
giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm
64
đổi mới sáng tạo mạnh…, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo
xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”.
Để đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi khách quan, cấp bách ở Việt Nam hiện
nay, việc phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói chung,
Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng cần đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau đây:
Một là, đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của cơ quan quản lý giáo dục đại học từ Trung
ương đến địa phương, nhằm xác lập hệ thống các cơ quan quản lý giáo dục đại
học các cấp bảo đảm không chồng chéo về quyền hạn và nhiệm vụ; tạo điều
kiện thuận lợi tối đa cho các trường đại học, cao đẳng phát triển, tạo quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường trong tổ chức, hoạt động giáo dục
phù hợp với đặc điểm của trường đại học công lập và thực tiễn của Việt Nam
là những yêu cầu khách quan đặt ra trong quản lý nhà nước đối với giáo dục
đại học hiện nay.
Chính sách, thể chế quản lý của Nhà nước đối với giáo dục đại học sẽ
cần có những điểm khác biệt lớn so với những giai đoạn trước đây. Vì vậy, nếu
chính sách, thể chế không được hoàn thiện và không linh hoạt có thể sẽ không
bắt kịp tốc độ thay đổi nhanh chóng từ nhu cầu quản lý thực tế. Chính sách,
pháp luật không linh hoạt sẽ là lực cản rất lớn đối với quá trình phát triển của
giáo dục đại học. Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh
những vấn đề mới… Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
những vấn đề này tiếp tục là những thách thức đối với chính sách và thể chế
quản lý của nhà nước đối với giáo dục đại học.
Tăng cường công tác pháp chế về giáo dục đại học, trong đó có công tác
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các
trường đại học theo hướng quy định cụ thể, đảm bảo tính khả thi, quy định rõ trách
65
nhiệm, quyền của từng chủ thể, đảm bảo văn bản được ban hành là có thể thực
hiện được ngay. Đây là khâu đột phá, để nâng cao chất lượng và phát triển toàn
diện giáo dục đại học, làm tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm
khắc phục các yếu kém và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, từng bước hội
nhập với hệ thống các trường đại học trong khu vực và trên thế giới.
Tăng cường quản lý nhà nước thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm
tra, giám sát sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình trong tất cả các hoạt động giáo dục: tuyển sinh,
đào tạo; tổ chức, nhân sự; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế; kiểm định chất
lượng giáo dục, cấp phát văn bằng, chứng chỉ...
Hai là, đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đảng ta đã nêu rõ sự cần
thiết, bức xúc phải vượt qua các “điểm nghẽn” của phát triển, trong đó có “điểm
nghẽn” về chất lượng thấp của nguồn nhân lực. Đột phá tương ứng để vượt qua
điểm nghẽn này đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục đại học đòi hỏi chúng ta
phải thực hiện đồng bộ và nhất quán các giải pháp, từ việc xác định được mục
tiêu cho đến tầm nhìn chiến lược cho giáo dục đại học, hoạch định chính sách,
hoàn thiện thể chế, xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn nhân lực… Trách nhiệm
cao nhất thuộc về Đảng và Nhà nước, trách nhiệm trực tiếp thuộc về ngành giáo
dục và hệ thống cơ quản quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay. Vì giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng chịu sự chi phối,
định hướng của chính trị, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, tiếp đó là thể chế,
chính sách, luật pháp của Nhà nước.
Ba là, đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam. Ngay từ năm 2005, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của
Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020, một văn kiện rất quan trọng định hướng cho sự phát triển của giáo
66
dục đại học Việt Nam nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập
với hệ thống giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới đã xác định mục
tiêu chung là: Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển
biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học
tập của nhân dân. Cụ thể đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ
tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiến tiến trên thế giới; có năng lực
cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với giáo dục đại học, phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của
dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người,
tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà
nước đối với giáo dục đại học; đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và bảo
đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học. Đổi
mới giáo dục đại học phải bảo đảm sứ mệnh của các trường đại học là đào tạo
nguồn nhân lực có kiến thức, có kỹ năng và có trình độ cao cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp
phần nâng cao tiềm năng trí tuệ của đất nước. Đổi mới giáo dục đại học gắn
kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nước và xu thế phát triển của khoa
học và công nghệ.
Đổi mới giáo dục đại học là quá trình làm cho từng trường đại học và
toàn cơ sở giáo dục đại học đổi mới từ mục tiêu, quy trình, nội dung dến phương
pháp dạy và học, phương thức đánh giá kết quả học tập; liên thông giữa các
ngành các hình thức, các trình độ đào tạo; gắn bó chặt chẽ và tạo động lực để
tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới giáo dục
đại học là quá trình hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa
67
những thành quả giáo dục đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa nhân loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học
tiên tiến trên thế giới. Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại
học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước và việc bảo đảm quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã
hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát huy tính tích cực và
chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt
là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của
toàn xã hội. Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học, đồng thời đẩy mạnh
xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để các tổ chức, cá
nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học. Phát huy các chủ thể
của công cuộc đổi mới là các trường đại học mà nòng cốt là đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội, trước
hết là các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, các nhà sử dụng lao động, sinh
viên và gia đình.
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định: đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, trong đó tiếp tục đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với
các cơ sở giáo dục đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính... Trong bối cảnh
toàn cầu hóa, với việc thực hiện các cam kết quốc tế như: Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)...
và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo cho kinh tế - xã hội
và nền giáo dục đại học nước ta một cơ hội chưa từng có và đứng trước những
thách thức cực kỳ to lớn: khoản cách giữa nước ta với các nước phát triển có
68
thể càng gia tăng, tình trạng “chảy máu” chất xám từ nước ta ra các nước phát
triển hơn có thể rất trầm trọng, giáo dục đại học nước ta có thể không đủ sức
cạnh tranh với sự xâm nhập và sự thu hút của giáo dục đại học các nước; quyền
lợi người học có thể bị xâm phạm, bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị
truyền thống trong giáo dục đại học có thể bị phai nhạt... Trong nước, nếu giáo
dục đại học không đáp ứng được nguồn nhân lực trình độ cao và nhu cầu học
tập của nhân dân thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mục tiêu chung
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh sẽ khó trở thành
hiện thực.
Cần hoàn thiện chính sách giáo dục đại học theo hướng bảo đảm quyền
tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của nhà
nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học để hỗ trợ
phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhận định: “Chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ
thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh
và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm
tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”.
Từ đó, Nghị quyết xác định những phương hướng, mục tiêu đổi mới
giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đại học cụ thể như sau: “Đối với
giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân
tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo
của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu
69
ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực
quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực
và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển
công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và hội nhập quốc tế”.
Đáp ứng yêu cầu hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam với khu vực
và thế giới. Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học đã xuất hiện ở nước ta cách
đây trên cả nghìn năm. Cho đến nay, lịch sử giáo dục đại học Việt Nam đã trải
qua các nền giáo dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và chủ nghĩa thực dân
mới (ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975). Sự nghiệp giáo dục đại học từ
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải qua gần 80 năm và đạt được những
thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đã góp phần tạo ra các thế hệ
nguồn lực con người Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong giai
đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, nền giáo dục
đại học của nước ta ngày càng bộc lộ những bất cập và hạn chế.
Trong thực tế, các trường đại học ở Việt Nam hiện nay cũng mới chỉ đủ
khả năng trang bị cho người học (sinh viên, học viên hay nghiên cứu sinh…)
kiến thức cơ bản, trang bị khả năng phân tích độc lập, dám suy nghĩ và biết suy
nghĩ (suy nghĩ có phương pháp - tư duy khoa học). Như vậy, rõ ràng là ngay cả
khi chúng ta đổi mới mục tiêu giáo dục đại học thì mục tiêu này cũng không
phù hợp với khả năng, cũng như chất lượng thực tế của nền giáo dục đại học
trong nước. Trong khi đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc
gia có nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt ra mục tiêu giáo dục, họ đều nêu
lên những mục đích rất thực tế. Hầu hết các trường đại học ở Việt Nam hiện
nay ít đặt ra hoặc chưa thực sự coi trọng, nên cũng là một trong những nguyên
nhân góp phần làm giảm chất lượng sản phẩm sau đào tạo.
70
Về nội dung, mặc dù những năm qua đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải
cách nội dung giáo dục ở các cấp học theo hướng tiến bộ hơn, song nhìn
chung so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục của
nước ta vẫn còn lạc hậu, nhất là nội dung giáo dục ở bậc đại học. Nhìn tổng
thể, phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta
đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo
dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Trong một thời gian dài, những
nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo dục của
nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong
bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nội dung chương trình giáo
dục đại học nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế, cụ thể là nội
dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo
được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm
đối với người học. Chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục
đại học trong nước và quốc tế.
Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở
giáo dục đại học ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận
các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường,
ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong
nước và ngoài nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội
dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và
quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận). Điều này không
những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến cơ sở giáo dục ngoài
nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ sở giáo dục
trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác cũng
không phải dễ dàng.
71
Chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống kê và so sánh
cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so
với Mỹ là 1.380 giờ. Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so
với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên sinh viên khó tránh khỏi việc rơi vào
trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các chương trình môn học, ít có thời gian
để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung,
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam
hiện nay tỏ ra bất cập và kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ
bản khiến nền giáo dục đại học ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu.
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại
học ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh
đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm
đầy kiến thức đã có sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học của các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh
thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự
học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, do quan niệm “nền giáo
dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt để họ
có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường” nên vai trò, vị trí của sinh viên
chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
còn khá lạc hậu… Mặc dù những năm gần đây, theo chủ trương của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp
dụng phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng
theo đánh giá của nhiều chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực
sự đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh
thần niên chế. Tính chủ động của sinh viên còn yếu kém”. Sự đổi mới về
phương pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi
72
chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video... chỉ là
phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn cả
là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm
thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn chưa được
chú trọng.
3.1.2. Quan điểm của Đại học Bách khoa Hà Nội
Sau 37 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đội ngũ giảng viên đại học ở
nước ta đã tăng gấp gần 4 lần, tuy nhiên vẫn không đáp ứng được yêu cầu so
với sự bùng nổ mạnh mẽ của quy mô đào tạo. Nhiều giảng viên ở các trường
đại học phải giảng dạy số giờ gấp nhiều lần so với quy định giờ chuẩn, tình
trạng quá tải giờ giảng diễn ra liên tục khiến cho nhiều giảng viên không có
thời gian cập nhật thường xuyên kiến thức để cải tiến bài giảng, khiến cho chất
lượng giảng dạy không cao, nội dung bài giảng còn nghèo nàn, lạc hậu, không
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Tại một số cơ sở giáo dục đại học công
lập, số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều so với đội ngũ giảng viên
cơ hữu.
Tình trạng này một mặt làm cho các trường đại học công lập khó chủ
động thực hiện kế hoạch đề ra, một mặt gây ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên môn và
không có nhiều thời gian tập trung nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ giảng viên có
học vị tiến sỹ còn thấp. Giảng viên chưa thực sự say mê nghiên cứu khoa học
và dành thời gian cho công tác này, nội dung nghiên cứu khoa học có chất lượng
chưa cao, thiếu tính thực tiễn và khả năng ứng dụng, nhiều khi chỉ mang tính
phong trào, nhằm đối phó hoặc để xét thi đua, xét danh hiệu.
Ngày 02/12/2022, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1512/QĐ-
TTg về việc chuyển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại học Bách
khoa Hà Nội. Theo nội dung Quyết định số 1512/QĐ-TTg, Đại học Bách khoa
73
Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ thực hiện tổ chức lại cơ cấu tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội theo quy định của Luật Giáo dục
đại học năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại
học năm 2018 và các quy định pháp luật có liên quan. Đây là một dấu mốc quan
trọng trong quá trình hơn 66 năm xây dựng và phát triển của Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, phù hợp với chủ trương của Đảng, của Chính phủ và xu
hướng phát triển của giáo dục đại học thế giới. Sự chuyển đổi này đã được
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, cẩn trọng, là sự
kế thừa những kết quả và kinh nghiệm của quá trình thực hiện tự chủ suốt thời
gian dài ở Trường Bách khoa Hà Nội, được thực hiện với tinh thần quyết liệt,
đảm bảo sự phát triển đúng với định hướng, tầm nhìn và chiến lược phát triển
của Nhà trường qua nhiều thế hệ.
Theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg, Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ có mô
hình tổ chức và quản trị tiên tiến, bộ máy tinh gọn, tăng tính chủ động, sáng tạo
ở các đơn vị, thực hiện phân cấp tự chủ mạnh nhưng không phân lập, không
xây dựng các trường đại học thành viên, thống nhất quan điểm “Một Bách khoa
Hà Nội”. Quan điểm này thể hiện sự thống nhất về mục tiêu phát triển, giá trị
cốt lõi, chuẩn mực và chất lượng của toàn Đại học Bách khoa Hà Nội. Mô hình
đào tạo cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ được áp dụng thống nhất với bộ chuẩn
chương trình đào tạo và quy chế đào tạo do Đại học Bách khoa Hà Nội quy
định. Người học khi tốt nghiệp các bậc trình độ đều được cấp văn bằng tốt
nghiệp của Đại học Bách khoa Hà Nội để đảm bảo sự gắn kết giữa sinh viên,
cựu sinh viên với vị thế và danh tiếng của Đại học.
Với phương châm “Nhà trường làm nền tảng - Người thầy là chủ thể, là
động lực phát triển - Người học là trung tâm”, Đại học Bách khoa Hà Nội có
môi trường làm việc quốc tế hóa, nơi hội tụ và phát triển tài năng, thu hút sinh
74
viên ưu tú, học giả xuất sắc trong nước và quốc tế đến học tập, nghiên cứu và
làm việc, một trung tâm đổi mới sáng tạo công nghệ xuất sắc của khu vực, tác
động quan trọng vào phát triển kinh tế tri thức và góp phần gìn giữ hoà bình đất
nước, tiên phong trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam về xây dựng hệ
sinh thái đổi mới sáng tạo, phát triển mô hình đào tạo chia sẻ trên nền tảng
chuyển đổi số hiện đại.
Việc chuyển đổi mô hình Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại
học Bách khoa Hà Nội để thực hiện tốt sứ mạng, tầm nhìn, định hướng chiến
lược phát triển, đưa Đại học Bách khoa Hà Nội phát triển đột phá, lên tầm cao
mới, trở thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, tự chủ toàn diện, có môi
trường học thuật sáng tạo, cởi mở, tự do học thuật, khơi dậy khát vọng cống hiến
của cán bộ viên chức, người lao động, sinh viên và học viên toàn đại học, phát
huy giá trị văn hóa, bản sắc của đội ngũ giảng viên và sinh viên, học viên Đại
học Bách khoa Hà Nội.
3.1.3. Mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội
Mục tiêu chung là phải có bước chuyển cơ bản về chất lượng và quy mô,
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao trí
tuệ của dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, góp phần
nâng cao sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước. Cụ thể là:
Thứ nhất, phát triển đội ngũ giảng viên có phẩm chất đạo đức và lương
tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý
tiên tiến, hiện đại. Đại học Bách khoa Hà Nội phải là trung tâm nghiên cứu khoa
học mạnh hàng đầu của cả nước. Nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 25% vào năm 2020. Hoàn thiện
hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học và có cơ chế bảo đảm chất lượng;
tất cả các trường đại học, cao đẳng đều tiến hành kiểm định một cách định kỳ và
công bố công khai kết quả kiểm định.
75
Thứ hai, phát triển đội ngũ giảng viên để thực hiện định hướng, tầm nhìn,
chiến lược và quy hoạch phát triển của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ
nhiều năm, qua nhiều nhiệm kỳ lãnh đạo Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà
trường. Mặt khác, phát triển đội ngũ giảng viên để đảm bảo mục tiêu hiệu quả
mô hình tổ chức của Đại học Bách khoa Hà Nội theo đúng Quyết định số
1512/QĐ-TTg.
Thứ ba, phát triển đội ngũ giảng viên để bảo đảm các quyền được tự chủ
khi Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã hết giai đoạn thí điểm tự chủ theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, chuyển sang mô hình Đại học Bách khoa
Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg.
Thứ tư, phát triển đội ngũ giảng viên để đáp ứng yêu cầu, vị thế cao hơn
hiện nay của Đại học Bách khoa Hà Nội. Việc chuyển đổi thành đại học là đi
tiên phong thực hiện chủ trương của Chính phủ, phù hợp với định hướng chiến
lược và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học hiện nay, theo đúng xu
hướng phát triển đại học của thế giới, do đó đội ngũ giảng viên Đại học Bách
khoa Hà Nội có nhiều cơ hội được ưu tiên đầu tư phát triển, thực hiện được sứ
mạng tiên phong, dẫn dắt hệ thống giáo dục đại học Việt Nam;
Thứ năm, phát triển đội ngũ giảng viên để đáp ứng yêu cầu tổ chức lại
các đơn vị chuyên môn của Đại học Bách khoa Hà Nội theo đúng xu hướng
tích hợp liên ngành, liên lĩnh vực và mô hình tổ chức bám sát xu hướng chuyển
đổi số của ngành, của quốc gia và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
3.2. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội trong thời gian tới
3.2.1. Phát triển về chất lượng
Chất lượng đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt, quyết định chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ
thuật của Đại học Bách khoa Hà Nội. Ở phạm vi quốc gia, chất lượng nền
76
giáo dục, đào tạo cũng không thể vượt qua chất lượng đội ngũ giảng viên.
Không có đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập chất lượng cao thì
không có giáo dục đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả cao, mà
không có giáo dục đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả cao thì
cũng không thể có phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Phát triển
về chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội được thể hiện
ở hai mặt là đức và tài. Đức bao hàm cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, nhận thức tư tưởng, tác phong công tác, lề lối làm việc. Tài là năng lực
chuyên môn, bao hàm tri thức, kỹ năng, phương pháp. Xây dựng đội ngũ
giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải chú trọng toàn diện các mặt,
không được coi nhẹ mặt nào.
Phát triển về chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội hiện
nay đòi hỏi Nhà trường phải có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao nhận thức cho giảng viên để đáp ứng Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT của
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ
nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học
công lập (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2022/TT-BGDĐT), và Quy định
về đạo đức nhà giáo ban hành theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày
16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, chất lượng đội ngũ
giảng viên được thể hiện ở các mặt sau: (1). Việc thực hiện nhiệm vụ được giao
phù hợp với hạng chức danh; (2). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo,
bồi dưỡng; (3). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ;
(4). Sự đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp.
Chất lượng của đội ngũ giảng viên đại học công lập nói chung, Đại học
Bách khoa Hà Nội nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, từ
chủ quan như năng lực, trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, kỹ năng
sư phạm, phẩm chất đạo đức, ý chí phấn đấu vươn lên của từng cá nhân cho
77
đến các điều kiện, yếu tố khách quan như điều kiện, môi trường làm việc, công
tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cũng như các chế độ, chính
sách ưu đãi và cơ chế kiểm tra, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật. Đây là những
yếu tố tác động đã được trình bày ở cuối Chương 1 luận văn.
Năng lực ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế cũng là
nội dung cần phải quan tâm trong phát triển đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa
Hà Nội trong thời gian tới. Với một cơ sở đào tạo đại học, sau đại học và nghiên
cứu khoa học có uy tín quốc tế như Đại học Bách khoa Hà Nội thì phẩm chất chính
trị của đội ngũ giảng viên cũng rất cần phải chú ý. Do đó phát triển đội ngũ giảng
viên Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay về mặt chất lượng cần chú ý vào nhiều
mặt, trong đó trọng tâm là năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực ngoại ngữ và
phẩm chất chính trị. Tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong,
lối sống để mỗi giảng viên thực sự là những tấm gương sáng về nhân cách, đạo
đức cho sinh viên, học viên noi theo. Bởi lẽ, sự tôn vinh, kính trọng đối với đội
ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội không chỉ ở kiến thức uyên thâm hay
ở tài nghệ sư phạm mà quan trọng hơn cả là ở sự mô phạm về phẩm chất đạo đức,
lòng yêu nghề, yêu trò và sự mẫu mực trong lối sống, ở giá trị cao cả và trong sáng
của nhân cách nhà giáo. Sự rèn luyện, phấn đấu này là thường xuyên, liên tục, như
Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Mặt khác, đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải không
ngừng học tập và tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải luôn tìm tòi,
sáng tạo và đổi mới trong nghiên cứu, giảng dạy. Những thói quen theo kiểu
lối mòn, nếp cũ không còn phù hợp cần được thay đổi, không được bằng lòng
hay thoả mãn với trình độ hiện có của mình. Khắc phục tâm lý, thái độ coi
thường, hạ thấp và xem nhẹ vấn đề học tập và tự học tập nâng cao trình độ
78
chuyên môn, trình độ lý luận, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, năng lực quản lý.
Thực hiện nghiêm các quy định về chuẩn mực đạo đức nhà giáo do Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định tại Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày
16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như các quy định có
liên quan của pháp luật cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, đội ngũ giảng
viên Đại học Bách khoa Hà Nội phải luôn làm mới chính mình bằng những tri
thức mới, những thông tin mới. Cần thuyết phục người học bằng chính sự uyên
bác về kiến thức, trình độ chuyên môn và trí tuệ của mình. Cần có thái độ kiên
quyết đấu tranh, ngăn chặn những nhận thức, hành vi không đúng, những biểu
hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín, phẩm giá, tư cách của nhà giáo. Cần
tăng hơn nữa số giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ của
Đại học Bách khoa Hà Nội để xứng tầm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của
cả nước và khu vực Đông Nam Á.
3.2.2. Phát triển về số lượng, cơ cấu
Mặc dù chất lượng đội ngũ giảng viên trường đại học công lập mới là
yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đại học, chứ số lượng không quyết định
chất lượng; tuy nhiên, cũng cần phải chú ý đến số lượng, vì số lượng cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng. Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công
tác huấn luyện và học tập (ngày 06/5/1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
hạn chế của việc thiếu người dạy là: “Thiếu người giảng thì học viên đâm chán
nản. Thiếu người giảng thì phải đi “bắt phu”, vì thế người đến giảng khi nào
cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như chuồn chuồn
đạp nước, dạy không được chu đáo. Thiếu người giảng thì thường khi lại phải
“bịt lỗ”, người “bịt lỗ” năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có
hại cho Đoàn thể. Rốt cuộc chỉ tốn gạo mà học thì học táp nhoang”. Như vậy,
trong xây dựng đội ngũ nhà giáo thì phải rất quan tâm đến việc phải đảm bảo
đủ số lượng người dạy để hướng tới chất lượng giáo dục.
79
Cơ cấu đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội thời gian tới cần
tập trung vào hoàn thiện cơ cấu giảng viên của các lĩnh vực mũi nhọn như Điện
- Điện tử, Công nghệ thông tin, Toán tin, Cơ khí - Hàng không - Chế tạo, Hóa
- Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu,… để khẳng định vị trí số 1 Việt Nam của Đại
học Bách khoa Hà Nội và vươn ra khu vực để hiện thực hóa mục tiêu trở thành
một đại học nghiên cứu ngang tầm khu vực, lấy kỹ thuật công nghệ làm nòng
cốt đúng như chiến lược đã đề ra. Mặt khác, Đại học Bách khoa Hà Nội phải
có chính sách cụ thể về thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhằm tạo động lực để
giữ chân những giảng viên chất lượng cao đang làm việc tại Nhà trường.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa
Hà Nội trong thời gian tới cần tập trung vào thực hiện mục tiêu chuẩn hóa đội
ngũ đáp ứng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Đại học
Bách khoa Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Trước hết là đẩy mạnh
việc cử đi đào tạo trong nước, nước ngoài và đào tạo tại chỗ số giảng viên chưa
đạt chuẩn (trình độ cử nhân), số này không nhiều, nhưng cũng là hạn chế, bất
cập cần phải khắc phục. Mục tiêu là đến năm 2025, 100% giảng viên Đại học
Bách khoa Hà Nội đạt chuẩn theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Cần có chế tài
mạnh, chuyển công tác khác hoặc buộc thôi việc đối với những giảng viên đến
thời hạn 2025 vẫn chưa đạt chuẩn. Về đào tạo trình độ tiến sĩ, cần lựa chọn một
số ngành mũi nhọn như Điện - Điện tử, Công nghệ thông tin, Toán tin, Cơ khí
- Hàng không - Chế tạo, Hóa - Sinh học - Thực phẩm, Vật liệu để cử đi đào tạo
tại các trường đại học có uy tín của nước ngoài, có động viên, khuyến khích về
tinh thần, vật chất, đồng thời có quy hoạch bắt buộc giảng viên, nhất là giảng
viên trẻ phải đi đào tạo tiến sĩ tại các trường đại học có uy tín của nước ngoài.
3.2.3. Xây dựng dự báo và quy hoạch về số lượng giảng viên
Để dự báo được số lượng giảng viên, cần tính toán được quy mô đào tạo
của Đại học Bách khoa Hà Nội trong 5 năm đến 10 năm tới về số lượng sinh
80
viên, về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu loại hình và trình độ đào tạo; căn cứ vào
nội dung chương trình, kế hoạch giảng dạy của từng ngành học, việc tổ chức
quá trình dạy học (lý thuyết, thực hành, thực tập) ở trong và ngoài các Trường
thành viên, quy mô tổ chức lớp học của từng môn học để xác định khối lượng
giảng dạy của bộ môn; căn cứ vào chế độ làm việc, định mức giờ chuẩn của
từng chức danh giảng viên, tỷ lệ giảng viên đi học, để xác định số lượng giảng
viên cần thiết hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên.
3.2.4. Xây dựng dự báo và quy hoạch về chất lượng đội ngũ giảng viên
Giải pháp này đòi hỏi phải Ban Giám đốc và Phòng Tổ chức cán bộ, cũng
như lãnh đạo các trường thành viên của Đại học Bách khoa Hà Nội phải đưa ra
dự báo khoa học về yêu cầu chất lượng đối với đội ngũ giảng viên của Đại học
Bách khoa Hà Nội nói riêng trong khoảng 5 đến 10 năm tới để đáp ứng quy mô
đào tạo, cơ cấu ngành đào tạo và các loại hình, các trình độ đào tạo. Yêu cầu
về chất lượng đối với đội ngũ giảng viên là phải toàn diện.
Trên cơ sở chất lượng đội ngũ giảng viên hiện có và mục tiêu phấn đấu về
chất lượng để Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng xác định, xây dựng các kế
hoạch về nguồn tuyển, về đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,
trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ
giảng viên trong từng năm. Đối với đội ngũ giảng viên Đại học Bách khoa Hà
Nội hiện nay, về chất lượng cần chú ý nhiều mặt, trong đó chú ý nâng cao tỷ lệ
giảng viên có trình độ tiến sĩ và chức danh khoa học phó giáo sư, giáo sư.
3.2.5. Đội ngũ giảng viên đảm bảo đủ trình độ, năng lực
Xây dựng cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nói
chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng phải đảm bảo hợp lý, cân đối, đáp
ứng yêu cầu đào tạo và phát triển Nhà trường. Xác định cơ cấu cân đối, hợp lý
trên các mặt ngành nghề, trình độ, độ tuổi, dân tộc. Về ngành nghề, đặc biệt
chú ý các ngành khó tuyển sinh, song vẫn phải đào tạo theo yêu cầu thực tế đời
81
sóng xã hội đặt ra. Về trình độ học vấn, cần tăng dần số lượng giảng viên có
trình độ tiến sĩ, thúc đẩy giảng viên tham gia xét chức danh khoa học giáo sư,
phó giáo sư. Tăng cường cử giảng viên đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài để
đến năm 2025, tất cả giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội đều đạt chuẩn
trình độ thạc sĩ trở lên. Đến năm 2035, đảm bảo 100% giảng viên Đại học Bách
khoa Hà Nội đạt trình độ tiến sĩ trở lên, trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ
nhà khoa học đầu ngành.
Về độ tuổi, quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập và Đại học Bách khoa Hà Nội đảm bảo cân đối, hợp lý ba độ tuổi, chú
trọng quy hoạch đội ngũ giảng viên độ tuổi dưới 40. Đây là lực lượng giảng
viên đông đảo nhất trong Nhà trường hiện nay và cũng là trụ cột xây dựng, phát
triển Đại học Bách khoa Hà Nội trong từ 5 đến 10 năm tới.
3.2.6. Chú trọng tuyển dụng và trọng dụng nhân tài
Trong từ 5 đến 10 năm tới, để mở rộng quy mô đào tạo, xây dựng đội
ngũ giảng viên mạnh, có chất lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội cần xây dựng
quy trình tuyển dụng và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài. Quy trình,
chính sách phải được triển khai một cách quyết liệt, có lộ trình. Điều này đòi
hỏi Ban Giám đốc và lãnh đạo các đơn vị thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội phải
thật sự có tâm và có tầm. Chính uy tín và tầm nhìn của Ban Giám đốc và lãnh
đạo các đơn vị thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội là sức hút lớn đối với người
tài. Ngoài ra, cần tuyển chọn đội ngũ giảng viên từ những chuyên viên có trình
độ đào tạo chuẩn, có năng lực, phẩm chất tốt để làm giảng viên kiêm nhiệm.
Để góp phần giải quyết tình trạng thiếu giảng viên chuyên ngành, đồng
thời nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, gắn nội dung giảng dạy
của Nhà trường với thực tiễn, Đại học Bách khoa Hà Nội cần có chính sách
thu hút những cán bộ khoa học, cán bộ chuyên ngành, cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở các trường, viện nghiên cứu tham gia công tác đào tạo với tư cách là giảng
82
viên kiêm nhiệm; tổ chức, quản lý, sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên
kiêm nhiệm tham gia công tác giảng dạy, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu
khoa học. Giữ chân những giảng đến tuổi nghỉ hưu, có kinh nghiệm trong các
lĩnh vực mũi nhọn, trọng dụng, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên đầu
ngành, thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia ở các viện nghiên cứu, chú ý
đến cựu sinh viên, trí thức Việt kiều yêu nước, tâm huyết với các lĩnh vực đào
tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Bách khoa Hà Nội.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
Cơ chế, chính sách chung của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học
và xây dựng đội ngũ giảng viên là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Đại học
Bách khoa Hà Nội triển khai các chính sách cụ thể về xây dựng đội ngũ giảng
viên. Trong những năm đổi mới vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách để phát triển hệ thống giáo dục đại học, xây dựng đội ngũ
giảng viên. Đó là những chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn, phù hợp với
xu thế phát triển chung của giáo dục đại học thế giới, vì vậy đã đi vào cuộc
sống và mang lại sự phát triển nhất định của hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam, trong đó có Đại học Bách khoa Hà Nội. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn
chưa được như kỳ vọng, vẫn còn đó nhiều hạn chế của hệ thống chưa được giải
quyết, đặc biệt là vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên đại học. Do đó, trong
thời gian tới, trong cơ chế, chính sách chung xây dựng đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập, Nhà nước cần chú ý giải quyết những nội dung sau:
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các trường đại học
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã chuyển đổi mô hình quản lý nhà
nước về giáo dục đại học từ quản lý tập trung sang quản lý tự chủ. Tự chủ đại
học đã được Đảng ta nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (năm 1993)
và được Chính phủ cụ thể hóa tại Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày
83
2/11/2005, về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP đã nêu ra quan điểm và nhiều giải
pháp rất tiến bộ để phát triển giáo dục đại học Việt Nam, phù hợp với xu thế
của giáo dục đại học thế giới. Về cơ chế quản lý giáo dục đại học, Nghị quyết
số 14/2005/NQ-CP đã nêu rất rõ: chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập
sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định
và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính. Xóa
bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các
cơ sở giáo dục đại học công lập. Những nội dung này đã được tiếp tục đưa vào
Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Điều lệ Trường đại học, tuy nhiên nhiều
công trình nghiên cứu cho thấy quyền tự chủ đại học vẫn chưa thật sự đi vào
thực tiễn hoạt động của các trường đại học.
Điều 32 Luật Giáo dục đại học năm 2018 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2019) đã quy định cụ thể hơn về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học
như sau: “Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức
thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu
chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối
với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị,
quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật”. Vấn đề
đặt ra đối với các trường đại học nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng
là phải kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sớm làm rõ “phù hợp với quy định của
pháp luật” là những quy định pháp luật nào? Do đó, để quyền này thực sự đi vào
cuộc sống, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành hướng dẫn chi tiết những nội
dung này để các trường đại học triển khai thực hiện thống nhất và có hiệu quả.
3.3.2. Về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập có
trình độ cao, đặc biệt là giảng viên trình độ tiến sĩ đào tạo ở những nước có nền
84
giáo dục đại học phát triển, là nội dung được Chính phủ đặc biệt quan tâm, và
coi đây là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, nâng
tầm các trường đại học Việt Nam, mà dấu mốc bắt đầu là từ Đề án 322 (năm
2000), sau đó là Đề án 911 (năm 2010) với mục tiêu đào tạo 20.000 tiến sĩ ở
nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Tuy nhiên, cả hai Đề án này đều bị kết thúc sớm hơn dự kiến do không đạt được
mục tiêu như kỳ vọng. Để tiếp tục thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên có trình độ cao ở nước ngoài, ngày 18/01/2019, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao năng lực
đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030. Mục tiêu
của Đề án là đào tạo tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, trong đó 7%
giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; 3% giảng viên được đào
tạo trong nước và phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam với các trường
đại học nước ngoài.
Triển khai Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản
lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có cơ
chế ưu tiên một số chỉ tiêu nhất định cho giảng viên Đại học Bách khoa Hà
Nội, đồng thời giao quyền cho Trường có quyền tự chủ trong công tác tuyển
chọn, xét duyệt, lập danh sách giảng viên đủ điều kiện cử đi đào tạo trình độ
tiến sĩ. Mặt khác, các trường đại học công lập nói chung và Đại học Bách
khoa Hà Nội nói riêng cần nghiên cứu, cụ thể hóa Kết luận số 39-KL/TW
ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước vào việc cử giảng viên giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường đại học có uy
tín ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
85
3.3.3. Xây dựng quy định chế độ làm việc của giảng viên
Để tạo cơ sở pháp lý cho các trường đại học trong việc xây dựng định
mức làm việc cho giảng viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư
số 20/2020/TT-BGDĐT quy định về chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo
dục đại học. Thông tư quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo dục
đại học bao gồm: Nhiệm vụ của các chức danh giảng viên; thời gian làm việc,
giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học; quy đổi các hoạt động chuyên
môn ra giờ chuẩn giảng dạy và chế độ làm việc vượt định mức lao động. Theo
đó thời gian làm việc của giảng viên trong năm học là 44 tuần (tương đương
1.760 giờ hành chính) để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
phục vụ cộng đồng và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác, được xác định
theo năm học sau khi trừ số ngày nghỉ theo quy định. Giờ chuẩn giảng dạy là
đơn vị thời gian quy đổi từ số giờ lao động cần thiết để hoàn thành khối lượng
một công việc nhất định thuộc nhiệm vụ của giảng viên tương đương với một
tiết giảng lý thuyết trình độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng dạy trực
tuyến), bao gồm thời gian lao động cần thiết trước, trong và sau tiết giảng. Thời
gian giảng dạy trong kế hoạch đào tạo được tính bằng giờ chuẩn giảng dạy,
trong đó một tiết giảng lý thuyết trình độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng
dạy trực tuyến) 50 phút được tính bằng một giờ chuẩn giảng dạy và được quy
định cụ thể tại khoản 1 Điều 6 của Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT.
Đối với các nội dung giảng dạy có tính chất đặc thù, các tiết giảng trình
độ đại học trực tiếp trên lớp (hoặc giảng dạy trực tuyến) trên 50 phút, Thông tư
số 20/2020/TT-BGDĐT giao thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học quy đổi cho
phù hợp. Định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học
được quy định từ 200 đến 350 giờ chuẩn giảng dạy (tương đương từ 600 đến
1.050 giờ hành chính); trong đó, giờ chuẩn giảng dạy trực tiếp trên lớp (hoặc
giảng dạy trực tuyến) phải đảm bảo tối thiểu 50% định mức quy định. Thủ
86
trưởng cơ sở giáo dục đại học căn cứ mục tiêu, chiến lược phát triển của đơn
vị; đặc thù của môn học, ngành học và điều kiện cụ thể của đơn vị để quyết
định định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học cho phù
hợp. Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm
học (tương đương 586 giờ hành chính) để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học..
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong quá trình thực hiện Thông tư số
20/2020/TT-BGDĐT, mỗi trường vận dụng quy định theo các khác nhau.
Nhiều trường lấy giờ giảng dạy bù cho giờ nghiên cứu khoa học, nhưng không
cho giảng viên lấy giờ nghiên cứu khoa học bù cho giờ giảng dạy. Mặt khác,
nhiều quy định chi tiết về quy đổi giờ chuẩn của số 20/2020/TT-BGDĐT cần
được nghiên cứu để vận dụng phù hợp với việc thực hiện quyền tự chủ của Đại
học Bách khoa Hà Nội theo Quyết định số 1512/QĐ-TTg để Nhà trường xác
định định mức làm việc của giảng viên phù hợp với năng lực, vị trí việc làm và
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp các hạng giảng viên, nghiên cứu viên.
3.3.4. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, thi hoặc xét thăng
hạng, phong chức danh khoa học, chức danh nghề nghiệp
Xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, thi hoặc xét thăng hạng,
phong chức danh khoa học, chức danh nghề nghiệp đã được các bộ, ngành liên
quan tích cực triển khai, là cơ sở pháp lý quan trọng để chuẩn hóa đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập nói chung, Đại học Bách khoa Hà Nội nói
riêng. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Bộ Nội vụ cần sớm quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn ngoại ngữ
của giảng viên theo chuẩn quốc tế; nâng chuẩn trình độ đào tạo của giảng viên
hạng III lên trình độ thạc sĩ cho phù hợp với Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ
sung năm 2018.
Đồng thời, cần sớm ban hành quy định về đạo đức nhà giáo. Quy định
về đạo đức nhà giáo được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tại Quyết định số
87
16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008. Những quy định cụ thể về đạo đức nhà
giáo gồm: phẩm chất chính trị; đạo đức nghề nghiệp; lối sống, tác phong; giữ
gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo. Quy định này được áp dụng chung
cho tất cả các nhà giáo đang làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục ở các cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng
quy định ngắn gọn hơn và có điều khoản quy định riêng về đạo đức cho giảng
viên các trường đại học công lập, trong đó có Đại học Bách khoa Hà Nội.
3.3.5. Cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp của giảng viên
Quan điểm của Đảng về lương giáo viên đã được nêu ra từ Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ hai, khóa VIII (năm 1996), đó là “lương giáo viên
được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” và có
thêm chế độ độ phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng. Quan điểm này
được nhắc lại trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (năm 2013).
Lương và phụ cấp của giáo viên nói chung và giảng viên đại học nói riêng luôn
là vấn đề nóng bỏng, được nêu ra và bàn thảo nhiều lần, tuy nhiên chưa có sự
thống nhất của các bộ, ngành. Điều đó cho thấy nhận thức của xã hội về vị trí,
vai trò của đội ngũ nhà giáo còn nhiều mâu thuẫn. Kiến nghị Bộ Giáo dục và
Đào tạo cần tiếp tục nghiên cứu để tham mưu cho Chính phủ xây dựng chế độ
lương và phụ cấp cho nói chung và giảng viên đại học nói riêng một cách hợp
lý, đảm bảo đời sống ở mức khá trở lên.
3.3.6. Hoàn thiện chính sách khen thưởng, tôn vinh đội ngũ giảng viên
Khen thưởng, tôn vinh nhà giáo là một động lực quan trọng để nhà
giáo lao động, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Để tôn vinh nhà giáo, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 27/2015/NĐ-CP ngày 10/3/2015 quy định về
xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”. Căn cứ Luật Thi
đua, khen thưởng, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số
22/2018/TT-BGDĐT ngày 28/8/2018 hướng dẫn công tác thi đua, khen
88
thưởng ngành Giáo dục. Thông tư đã hướng dẫn chi tiết các yêu cầu, tiêu
chuẩn, danh hiệu thi đua, khen thưởng ngành giáo dục. Các quy định trên đã
cụ thể hóa những nội dung của Luật Thi đua, khen thưởng vào đối tượng
viên chức ngành giáo dục, trong đó có đội ngũ giảng viên. Sự cụ thể hóa này
tạo điều kiện thuận lợi trong việc xét thi đua, khen thưởng của các cơ sở giáo
dục đại học, đồng thời các danh hiệu thi đua, khen thưởng là động lực để các
giảng viên tự phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện.
Để việc xét tặng có tác động lan tỏa lớn hơn cần bảo đảm nguyên tắc
chính xác, công bằng, công khai, dân chủ, tự nguyện trong việc xét tặng “Nhà
giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú”, phải chú trọng tới nhà giáo trực tiếp nuôi
dạy, giảng dạy; nhà giáo là nữ; nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên quy định danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”,
“Nhà giáo Ưu tú” được xét tặng hàng năm (quy định hiện tại là xét tặng ba
năm một lần).
89
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Từ phân tích các quan điểm và mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội do sự thay đổi mô hình tổ chức và hoạt
động, căn cứ các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến hạn chế, bất
cập trong công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội giai đoạn 2016-2021, Chương 3 của luận văn đã đề xuất 02 nhóm giải pháp
có tính vĩ mô để đáp ứng yêu cầu phát triển về chất lượng và số lượng đội ngũ
giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội theo tinh thần Quyết định số
1512/QĐ-TTg.
Chương 3 cũng đưa ra một số kiến nghị, đề xuất chung với các cơ quan
có thẩm quyền để xem xét, giải quyết những nội dung vượt thẩm quyền của Đại
học Bách khoa Hà Nội. Hy vọng các giải pháp và kiến nghị, đề xuất này có thể
được các cấp có thẩm quyền lưu ý xem xét, vận dụng vào công tác quản lý,
phát triển đội ngũ giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội trong những năm
tới thực sự có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng sự mong đợi của Đảng, Nhà
nước và xã hội đối với Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng, các trường đại học
công lập của Việt Nam trong thời gian tới.
90
KẾT LUẬN
Phát triển đội ngũ giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học nói chung và
ở Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng là vấn đề có tính thời sự cấp thiết, được
các nhà nghiên cứu khoa học và công luận rất quan tâm. Đây cũng là chủ đề tôi
rất tâm đắc lựa chọn nghiên cứu, vì tôi cũng vừa là giảng viên, vừa kiêm nhiệm
làm công tác tổ chức cán bộ ở Đại học Bách khoa Hà Nội.
Luận văn đã tập hợp, hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung nhất về phát
triển đội ngũ giảng viên đại học; trình bày, phân tích về khái niệm và đặc điểm
của đội ngũ giảng viên đại học; vị trí và vai trò của đội ngũ giảng viên đại học;
những nội dung cơ bản của phát triển đội ngũ giảng viên đại học, như phát triển
về số lượng và chất lượng; công tác xây dựng chính sách; tổ chức thi hành chính
sách phát triển; thanh tra, kiểm tra, đánh giá chính sách phát triển đội ngũ giảng
viên bậc đại học công lập; phân tích các yếu tố chủ quan và khách quan tác
động đến phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam.
Luận văn đã trình bày, phân tích, đánh giá những kết quả tích cực trong
công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai
đoạn 2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên; về
xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng
viên. Đồng thời, gắn với phân tích, đánh giá, làm rõ những bất cập, hạn chế
trong phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn
2016-2021 về số lượng và cơ cấu; về chất lượng đội ngũ giảng viên; về xây
dựng, ban hành và tổ chức thi hành chính sách phát triển đội ngũ giảng viên và
các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn đến những bất cập,
hạn chế đó.
Luận văn đã đề xuất 02 nhóm giải pháp có tính vĩ mô để đáp ứng yêu
cầu phát triển về chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên của Đại học Bách
91
khoa Hà Nội theo tinh thần Quyết định số 1512/QĐ-TTg. Đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất chung với các cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết
những nội dung vượt thẩm quyền của Đại học Bách khoa Hà Nội để công tác
quản lý, phát triển đội ngũ giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội trong
những năm tới thực sự có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng sự mong đợi của
Đảng, Nhà nước và xã hội đối với Đại học Bách khoa Hà Nội.
Mặc dù đã rất cố gắng, song bản luận văn này khó tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Rất mong được quý thầy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính
Quốc gia và độc giả chia sẻ, lượng thứ, góp ý giúp tác giả tiếp tục hoàn thiện,
chỉnh sửa luận văn để nộp lưu chiểu theo quy định.
Xin trân trọng cảm ơn!
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Altbach Philip G., Reisberg Liz, Rumbley Laura E. (2017), Xu hướng giáo
dục đại học toàn cầu theo vết một cuộc cách mạng học thuật, Nhà Xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Trần Đình Ân, Võ Trí Thanh (2002), Thể chế - cải cách thể chế và phát
triển: Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, Nxb Thống kê.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Giáo dục
đại học (phục vụ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục đại học năm 2012).
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Hội nghị tham vấn xây dựng Chiến
lược tổng thể phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2021-
2030, Cổng thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=5372
5. Hoàng Chí Bảo (2018), Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới
và hội nhập quốc tế - những luận điểm về triết lý giáo dục đại học, trong
Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hoá và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
6. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Kỷ yếu hội thảo “Đảm bảo chất lượng
trong đổi mới giáo dục đại học”. NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2006.
7. Trần Đức Cân (2012), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại
học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế.
8. Nguyễn Đức Cường (2009), Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại
học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ luật học.
9. Nguyễn Hữu Châu (2009), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Nxb Giáo dục.
93
10. Lê Thị Kim Dung (2011), Sự cần thiết xây dựng luật đào tạo đại học, Tạp
chí giáo dục số 11- 2011.
11. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Đoàn Văn Dũng (2014), Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học, Tạp chí Quản lý nhà nước số 221.
13. Đoàn Văn Dũng (2015), Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học,
Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
14. Nghiêm Xuân Dũng (2019), Thể chế quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo
dục đại học thuộc Bộ Công an - thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Tạp
chí Quản lý nhà nước số 9/2019.
15. Trần Khánh Đức và Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Giáo dục đại học và quản
trị đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
16. Phạm Văn Đại (2012), State management of foreign - related educational
institutions (Quản lý nhà nước các cơ sở giáo dục liên quan đến nước
ngoài), Luận án tiến sĩ, National University, Hanoi.
17. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học.
18. Trần Ngọc Giao (2018), Quản lý Nhà nước về giáo dục đại học - thực trạng
trong sự so sánh và một số đề xuất - Tầm nhìn và hành động, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học chủ đề Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
19. Vũ Ngọc Hải - Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong
những năm đầu thế kỷ XXI - Việt Nam và Thế giới, NXB Giáo dục.
20. Phan Huy Hùng (2009), Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo sự tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
94
21. Phan Huy Hùng (2010), Quản lý nhà nước đối với các trường đại học Việt
Nam nhằm đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Tạp chí Quản lý nhà
nước, Học viện Hành chính.
22. Lê Ngọc Hùng, Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: lý thuyết hệ
thống và kiến tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2880-doi-moi-
quan-tri-dai-hoc-o-viet-nam-ly-thuyet-he-thong-va-kien-tao-mo-hinh-
hien-dai-chuyen, đăng ngày 24.7.2019.
23. Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) (), Quản trị nhà
trường thông minh 4.0 và xếp hạng đại học theo mô hình QS, Nhà Xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020
24. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo
dục đại học, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (2016), Tự chủ đại học và
trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia.
26. Nguyễn Thị Quỳnh Hương (2020), Phát triển đội ngũ giảng viên tại cơ sở
giáo dục đại học Việt Nam, Tạp chí Công thương.
27. Đinh Xuân Khoa (2018), Giáo dục đại học Việt Nam - Tầm nhìn và hành
động, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
28. Phạm Thị Ly (2010), Tự chủ đại học, nhà nước và những thay đổi xã hội ở
Trung Quốc, Thông tin Giáo dục quốc tế và so sánh, Đại học Hoa Sen, số
02/2010.
29. Phạm Thị Ly (2008), Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả.
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam, Đổi mới giáo
dục đại học Việt Nam, hai thời khắc đầu thế kỷ, 2008, tr.211-243.
95
30. Nguyễn Thanh Nhã (2018), Cơ hội và thách thức đối với giáo dục đại học
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại
học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
31. Trương Thế Nguyễn, Nguyễn Văn Lĩnh (2018), Quản lý nhà nước về giáo
dục đại học ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư - cơ hội và những thách thức, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học -
chuẩn hoá và hội nhập quốc tế.
32. Lê Như Phong (2016), Thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại
học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công, Học
viện Hành chính Quốc gia.
33. Phạm Phụ, “Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam”, phiên
bản trực tuyến http://voer.edu.vn/c/4c212f92
34. Nguyễn Hồng Quý, Tôn Thất Nhật Khánh (2018), “Giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0”, Kỷ yếu Hội thảo giáo dục đại
học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
35. Nguyễn Thế Thắng (2013), Tác động của quản lý hành chính công đến quản
lý nhà nước về giáo dục ở một số nước, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
36. Hồ Viết Thịnh (2019), Tăng cường quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam từ
góc độ kinh tế, Luận án tiến sĩ.
37. Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Tuyết Nga (2018), Hoàn thiện chính sách pháp
luật về giáo dục đại học để đẩy mạnh quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
38. Phạm Đỗ Nhật Tiến (2018), Tái cơ cấu giáo dục đại học Việt Nam trước
yêu cầu thực hiện khâu đột phá chiến lược về đào tạo nhân lực trình độ
cao, Kỷ yếu Hội thảo Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội
nhập Quốc tế.
39. Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển bách khoa, 2001
96
40. Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Trung tâm Từ điển học, 2008
41. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc
hội (2017), Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ đại học, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học cấp quốc gia.
42. Trần Đức Viên (2018), Hội đồng trường trong tiến trình tự chủ đại học, Kỷ
yếu Hội thảo Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
43. Nghiêm Đình Vỳ (2016), Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục
- đào tạo trong thời kỳ đổi mới, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
giai đoạn 2006-2020.
4. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017.
5. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 4/6/2019 về tăng cường
huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo
giai đoạn 2019-2025.
6. Chính phủ (2019), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục đại học.
97
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập I, NXB CTQGST.
8. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
9. Quốc hội (2019), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công
chức và Luật Viên chức.
10. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chỉ thị số 296/CT-TTg về đổi mới quản lý
giáo dục đại học.
11. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định ban hành Điều lệ Trường đại học.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LIÊN QUAN
1. Bùi Thị Thu Hương, Phát triển đội ngũ viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11/2022.
2. Bùi Thị Thu Hương, Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Đại học
Bách khoa Hà Nội, Tạp chí điện tử Quản lý nhà nước, ngày 13/6/2023.
98