BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

- - - - -/- - - - - - - -/- - -

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỒNG HIỆP

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

VỀ ĐẤT ĐAI CỦA QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

- - - - -/- - - - - - - -/- - -

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỒNG HIỆP

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

VỀ ĐẤT ĐAI CỦA QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 9340403

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận

văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày….tháng….năm 2018

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Hồng Hiệp

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa

học GS.TS. Phạm Hồng Thái đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến

khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính

Quốc gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã nhiệt tình

giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cơ quan, gia đình,

bạn bè và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của thầy, cô giáo, cơ quan, gia

đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu cho tôi hoàn thành

luận văn này.

Hà Nội, ngày….tháng……năm 2018

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Hồng Hiệp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI ................................................... 8

1.1. Nhận thức chung về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai .......... 8

1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ................ 19

Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 28

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA QUẬN ĐỐNG ĐA,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 29

2.1. Khái quát chung về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội và tình hình quản

lý và sử dụng đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội .......................... 29

2.2. Thực trạng khiếu nại và tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ...................................... 34

Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 52

CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐẤT ĐAI CỦA

QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................... 54

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai ........................................................................................................... 54

3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ................................................ 60

3.3. Một số kiến nghị ................................................................................... 76

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 79

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Diện tích các loại đất phân bổ trong năm 2017 .............................. 32

Bảng 2.2: Số liệu thống kê đơn thư khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa,

thành phố Hà Nội ............................................................................................ 34

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý giá, không thể

thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ chính trị, có vị trí và

tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá- xã

hội của mọi quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta

chuyển đổi từ nên kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, do

đất đai là tài sản quý giá và nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, song về mặt

nhà nước thì cơ chế, pháp luật nói chung, pháp luật đất đai và giải quyết khiếu

nại về đất đai còn đang trong quá trình hoàn thiện. Điều này dẫn đến thực tế

đã xảy ra nhiều vụ khiếu nại với cấp độ nhanh, tính chất ngày càng phức tạp,

số vụ khiếu nại đông người vượt cấp ngày càng nhiều. Như vậy, từ thực tiễn

trong đời sống xã hội có rất nhiều tranh chấp liên quan đến lĩnh vực đất đai

đòi hỏi Nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện chức năng quản lý nhà

nước của mình phải ban hành pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai và tổ

chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai.

Tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai là một

trong những nội dung của hoạt động của nhà nước. Việc tổ chức thực hiện pháp

luật về giải quyết khiếu nại đất đai do các cơ quan có thẩm quyền giải quyết

trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, tránh

thất thoát tài sản nhà nước và truy cứu trách nhiệm với các hành vi vi phạm.

Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nạiđất đai,

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được khôi phục; hiệu lực, hiệu quả,

tính dân chủ, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước được đảm bảo.

Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm

của Thủ đô Hà Nội. Vì thế đất đai có giá trị kinh tế rất lớn, chủ yếu là xây

1

dựng các công trình đô thị. Tuy nhiên tình trạng tranh chấp và vi phạm pháp

luật đất đai tại vẫn còn xảy ra dưới các hình thức như: lấn chiếm đất, giao đất,

cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật… trong khi Ủy ban

Nhân dân các cấp của quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã đặt nhiệm vụ tổ

chức thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai là nhiệm

vụ trọng tâm của công tác quản lý đất đai. Tuy nhiên, thực tế, tình trạng đùn

đẩy trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại của các cấp chính quyền đôi

lúc còn bị coi nhẹ, chưa huy động được vai trò của các tổ chức quần chúng,

chưa phát hiện giải quyết kịp thời, thiếu thống nhất, tập trung vào vấn đề phát

triển kinh tế của địa phương; công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan

tâm đúng mức, nhiều địa phương chưa bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm

chất, kinh nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả

chưa cao. Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chưa nghiêm các quy định

pháp luật trong giải quyết khiếu nại. Vì vậy, việc tổ chức thực hiện giải quyết

khiếu nại về đất đai chưa đạt được kết quả như yêu cầu đặt ra.

Nhận thức những vướng mắc cần được tháo gỡ cũng như tầm quan

trọng của việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai nói

chung, của quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nói riêng, tác giả luận văn đã

lựa chọn đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

của Uỷ ban nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” để triển khai

Luận văn thạc sỹ Quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Giải quyết khiếu nại, giải quyết khiếu nại về đất đai nói chung và tổ

chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai nói riêng là vấn đề

nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và các nhà quản lý. Một số công trình

nghiên cứu có thể kể đến như:

2

Nhóm công trình về giải quyết khiếu nại, giải quyết khiếu nại về đất đai

có thể xem xét như:

PGS.TS Phạm Hồng Thái (chủ biên): “Pháp luật về khiếu nại, tố cáo”,

Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Sỹ Cương: Đề tài khoa học cấp Bộ

(2007): “Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố

cáo của cán bộ, công chức hiện nay”; Nguyễn Tiến Binh- Thanh tra Chính

phủ: Đề tài (2008): “Xây dựng quy chế phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo

đông người vượt cấp lên Trung ương”; Đề tài: “Đổi mới cơ chế giải quyết tố

cáo hiện nay” do TS. Đỗ Gia Thư - Thanh tra chính phủ làm chủ nhiệm, được

nghiệm thu năm 2009; Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay” do TS. Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm,

được hoàn thành vào năm 2002; Thông tin KHHC, số 3/2008; Nguyễn Thị

Phượng - Trần Thị Kim Cúc: “Khiếu kiện về đất đai- thực trạng và giải pháp”.

Tạp chí QLNN, số 10/2003; Nguyễn Tuấn Khanh (2008), “Việc áp dụng pháp

luật để giải quyết khiếu nại về đất đai” Tạp chí Thanh tra, số 5/2008;

Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công của Phan Văn Châu với đề

tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại đảm bảo

quyền công dân (qua thực tiễn tỉnh Đồng Nai); Luận văn Thạc sỹ Luật học

của Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), về đề tài: “Giải quyết khiếu nại về đất đai

tại các khu công nghiệp của các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc

Giang hiện nay”; Luận văn Thạc sỹ Hành chính công của Nguyễn Thị Lệ

Hằng (2010), với đề tài: “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý đất đai

của Ủy ban nhân dân cấp quận thuộc tỉnh Khánh Hòa”; Luận văn Thạc sỹ

Luật học của Phạm Anh Tuấn (2011), với đề tài: “Cơ chế giải quyết khiếu nại

hành chính ở Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện”; Luận văn Thạc sỹ

Hành chính công của Đỗ Văn Tuấn (2013), với đề tài: “Thẩm quyền giải

quyết khiếu nại đất đai ở cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn tại tỉnh

3

Hưng Yên”; Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công của Nguyễn Thị

Thúy Hằng (2013), với đè tài: “Giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc hiện nay”

Nhóm công trình nghiên cứu về tổ chức thực hiện pháp luật về giải

quyết khiếu nại đất đai cũng như tổ chức thực hiện pháp luật một số lĩnh vực

nhất định có thể kể đến như:

Nguyễn Hữu Tiến (2017), Tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân

và xử lý đơn thư khiếu nại tố cáo, kiến nghị phản ánh – từ thực tiễn thành phố

Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

Nguyễn Văn Quảng (2018), Tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết

khiếu nại trong lĩnh vực đất đai ở đô thị - từ thực tiễn quận Bắc Từ Liêm,

thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp – Luật Hành chính, Học

viện Hành chính Quốc gia.

Phạm Thị Liên (2018), Tổ chức thực hiên pháp luật về hộ tịch từ thực

tiễn huyên Kim Động tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp – Luật

Hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia.

Nhìn chung, các công trình khoa học nêu trên nghiên cứu nêu trên ở

những góc độ khác nhau đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn

trong việc quản lý nhà nước đối với đất đai, về hoàn thiện pháp luật và tổ

chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai. Các công trình nêu

trên của sẽ là tài liệu quý giá có giá trị tham khảo trong quá trình nghiên cứu

và thực hiện hoàn thiện đề tài luận văn.

Song đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ

chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn ở quận

Đống Đa, thành phố Hà Nội. Vì vậy đề tài vẫn đảm bảo tính mới, tính thời sự

của công trình nghiên cứu.

4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà

Nội nhằm hướng tới việc đề xuất các giải pháp để bảo đảm tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban Nhân dân quận Đống Đa,

thành phố Hà Nội .

3.2. Nhiệm vụ luận văn

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết

khiếu nại về đất đai.

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật giải

quyết khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, chỉ ra những

kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân những hạn chế,

yếu kém trong việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Thứ ba, đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất

đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

- Về không gian: quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

- Về thời gian: từ thời điểm có Luật Đất đai 2013 đến nay.

5

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của

Đảng và pháp luật của Nhà nước về đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai và

tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như:

Phương pháp thu thập, xử lý thông tin, phương pháp phân tích, tổng hợp,

thống kê, so sánh…và đánh giá các dữ kiện của vấn đề đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận:

Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu tổng thể việc tổ chức thực

hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân quận Đống

Đa, thành phố Hà Nội. Luận văn nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận thông

qua việc: Phân tích khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đất đai của Ủy ban Nhân dân cấp huyện; xác định hình thức, vai trò và

thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy

ban Nhân dân cấp huyện; từ đó luận văn chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến

quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban Nhân dân cấp huyện. Kết

quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng về lý luận và

thực tiễn trong việc thực pháp luật nói chung và tổ chức thực hiện pháp luật

giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban Nhân dân cấp quận nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có ý nghĩa góp phần làm phong phú thêm lý luận về tổ chức

thực hiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể với những đối tượng cụ thể. Kết quả

nghiên cứu của luận văn trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân,

6

của cán bộ quản lý về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của giải quyết khiếu nại

và tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai.

Luận văn là có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên

cứu, giảng dạy cao học quản lý công, luật học cũng như cung cấp những luận

cứ khoa học cho các nhà quản lý khi triển khai các chính sách.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn được chia làm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai;

Chương 2: Thực trạng việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

7

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI

1.1. Nhận thức chung về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm khiếu nại về đất đai

Hiện nay, trong hệ thống các văn bản pháp luật chưa có một quy định

chung mang tính thống nhất về thuật ngữ khiếu nại đất đai. Tuy nhiên căn cứ

Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Đất đai năm 2013 thì khái niệm khiếu nại đất

được hiểu là: quyền của cá nhân, tổ chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân

có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ

quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành

chính nhà nước trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc

hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Từ khái niệm trên có thể xác định các đặc điểm khiếu nại về đất đai như sau:

Thứ nhất, chủ thể khiếu nại về đất đai là người sử dụng đất. Theo quy

định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013: "Người sử dụng đất được Nhà nước

giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng

quyền sử dụng đất", bao gồm:

- Tổ chức trong nước gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân

dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính

trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy

định của pháp luật về dân sự (tổ chức sử dụng đất);

- Hộ gia đình, cá nhân trong nước (hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất);

- Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng

địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương

tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ;

8

- Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh

đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của

tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo;

- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện

ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức

năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ

chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại

diện của tổ chức liên chính phủ;

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về

quốc tịch;

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn

đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà

đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp

luật về đầu tư.

Tất cả những người sử dụng đất nêu trên đều có quyền khiếu nại về đất

đai đến cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục giải

quyết khiếu nại hành chính; cụ thể trình tự thủ tục này được quy định trong

Luật Khiếu nại năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ hai, đối tượng khiếu nại về đất đai là các quyết định hành chính,

hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà

nước khi thực hiện nhiệm vụ về quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực

đất đai.

Theo quy định tại Điều 44, 45, 59, 66, khoản 3 Điều 72, Điều 105, 201,

203 Luật Đất đai 2013 các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong

quản lý nhà nước về đất đai có thể bị khiếu nại bao gồm:

- Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất;

9

- Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;

- Cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

- Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất;

- Quyết định giải quyết khiếu nại đất đai và quyết định xử phạt vi phạm

đất đai, quyết định cưỡng chế đất đai.

Hành vi hành chính là đối tượng của khiếu nại về đất đai là hành vi thực

hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ của chủ thể quản lý nhà nước

được thực hiện trong quá trình quản lý về đất đai (trong phạm vi nghiên cứu của

luận văn là hành vi cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền).

Thứ ba, mục đích khiếu nại về đất đai là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người khiếu nại – chủ thể chịu sự tác động trực tiếp bởi quyết định

hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước. Về mặt pháp lý, quyết

định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan hành chính,

cán bộ, công chức là những căn cứ trực tiếp và gắn liền với những quy phạm

cụ thể đã được hướng dẫn thi hành nhưng họ không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng. Vì vậy, người khiếu nại có quyền trực tiếp bày tỏ ý kiến và

nguyện vọng của mình trước cơ quan, tổ chức nhà nước và cá nhân có thẩm

quyền nhằm buộc họ có thái độ đúng đắn, khách quan khi có hành vi không

đúng đối với người chịu sự tác động của quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh

vực đất đai.

Thứ tư, Nọ i dung khiếu nại về đất đai của các tổ chức, cá nha n rất đa

dạng, phức tạp, nhu ng chủ yếu tạ p trung vào các vấn đề sau:

- Khiếu nại về thu hồi đất, bồi thu ờng giải phóng mạ t bằng, bố trí tái

định cu .

- Khiếu nại về viẹ c cấp, thu hồi giấy chứng nhạ n quyền sử dụng đất.

- Khiếu nại quyết định xử vi phạm hành chính về vi phạm chế đọ quản

lý, sử dụng đất đai.

10

- Khiếu nại đòi lại đất cũ.

Khiếu nại nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng cũng là quyền dân

chủ cơ bản của người sử dụng đất đã được quy định trong Hiến pháp (Điều

30) và pháp luật (Luật Đất đai 2013 điều 204). Ở nước ta đất đai thuộc sở hữu

toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt

động quản lý đất đai đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp lý, phục vụ lợi

ích của chủ sở hữu cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng

đất. Chính vì vậy, bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khi có đủ căn cứ đều

có quyền khiếu nại và được đảm bảo bằng nghĩa vụ giải quyết khiếu nại của

cơ quan có thẩm quyền.

Với những đặc điểm đó, bảo vệ quyền, lợi ích bằng quyền khiếu nại trở

thành phương thức hữu hiệu để nhân dân có thể tự mình bảo vệ quyền của

mình trước những hành vi xâm hại của Nhà nước. Đồng thời được sử dụng

như một công cụ để giám sát hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nhằm

hạn chế sự tùy tiện quan liêu cửa quyền của cơ quan, tổ chức nhà nước, của

cán bộ công chức nhà nước và cũng là nhằm khôi phục lại lợi ích hợp pháp

của người dân.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết khiếu nại về đất đai

Tại khoản 11, Điều 2, Luật Khiếu nại 2011 quy định: Giải quyết khiếu

nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.

Để giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại phải thực hiện rất

nhiều công việc, từ thụ lý đơn, nghiên cứu đơn, lập kế hoạch giải quyết cho

đến xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ các nội dung khiếu nại, đối thoại, ra

quyết định giải quyết khiếu nại, hoàn chỉnh hồ sơ, tài liệu, lưu trữ theo quy

định. Tuy nhiên, có thể tóm lược việc giải quyết khiếu nại được chia làm 3

bước chính là: chuẩn bị giải quyết khiếu nại; xác minh, thu thập chứng cứ và

ra kết luận về nội dung khiếu nại, hoàn chỉnh hồ sơ.

11

"Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại" (khoản 6 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011).

Như vậy, giải quyết khiếu nại về đất đai là việc cơ quan hành chính

nhà nước, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước tiến hành xem xét,

đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính về

quản lý đất đai bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình để kết luận

và ra quyết định giải quyết đối với khiếu nại, trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.

Giải quyết khiếu nại được hiểu là hoạt động thực thi pháp luật của cơ

quan có thẩm quyền nhà nước giải quyết các yêu cầu về quyền khiếu nại của

công dân liên quan tới các quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên

quan tới đất đai.

Từ những lý giải nêu trên, giải quyết khiếu nại đất đai có đặc điểm sau:

Thứ nhất: không phải tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành

chính trong quản lý và sử dụng đất đai đều là đối tượng của giải quyết khiếu

nại đất đai. Chỉ các quyết định hành chính, hành vi hành chính đặc thù khi có

căn cứu cho rằng các quyết định này trái pháp luật liên quan tới hoạt động

giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích

sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc

thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyết định gia hạn thời hạn sử

dụng đất cho cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo mới là đối

tượng của giải quyết khiếu nại đất đai.

Thứ hai: theo quy định của pháp luật đất đai, giải quyết khiếu nại đất

đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều cấp khác nhau, nhiều cơ quan và

nhiều cán bộ, công chức được trao quyền. Theo đó thẩm quyền giải quyết

khiếu nại đất đai bao gồm: Chính phủ, bộ ngành liên quan (Bộ Tài nguyên và

Môi trường); UBND các cấp thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp đất đai.

12

Ngoài ra, các cá nhân liên quan như người có có quyết định hành chính,

hành vi hành chính bị khiếu nại; cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;

cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là người khiếu nại, người bị khiếu nại

nhưng việc giải quyết khiếu nại có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ…

Thứ ba: Việc giải quyết khiếu nại về đất đai có tính chất phức tạp, phải

theo đúng trình tự, thủ tục, hình thức và đúng thời hạn luật định.

1.1.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai thuộc về cơ quan nhà nước mà

cụ thể trong phạm vi của luận văn là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Để

xác định thẩm quyền tổ chức giải quyết khiếu nại về đất đai phải trên căn cứ

thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

Căn cứ Luật khiếu nại năm 2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2012) và khoản 1 Điều 204 Luật Đất đai 2013, thẩm quyền giải quyết

khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc giải quyết các khiếu nại của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đối với các quyết định hành chính hành vi hành

chính khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính hành vi hành chính

đó trái pháp luật gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người chịu tác dộng

bởi quyết định hành chính hành vi hành chính đó.

Về nguyên tắc, các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp

luật của cán bộ, công chức thuộc cơ quan hành chính Nhà nước hay thuộc

thẩm quyền quản lý của cơ quan nào thì thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách

nhiệm giải quyết; khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính

của thủ trưởng cơ quan nào thì thủ trưởng cơ quan đó phải có trách nhiệm giải

quyết. Những khiếu nại quá thời hạn mà không được giải quyết hoặc người

khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết thì khiếu nại lên cấp trên trực

tiếp của người ra quyết định giải quyết khiếu nại, trừ trường hợp quyết định

13

giải quyết khiếu nại đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng hoặc khởi

kiện ra Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015.

Cụ thể thể hóa quy định trên, thẩm quyềnt giải quyết khiếu nại về đất

đai được xác định như sau:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban

nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết

định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do

mình quản lý trực tiếp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện: giải quyết khiếu nại lần đầu đối

với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, giải quyết khiếu nại

lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy

ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời

hạn nhưng chưa được giải quyết.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: giải quyết khiếu nại lần đầu đối

với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, giải quyết khiếu nại

lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy

ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương đã giải quyết lần

đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa

được giải quyết.

Ngoài ra thủ trưởng cơ quan cấp trên khác có nghĩa vụ giải quyết khiếu

nại đất đai lần đầu nếu đó là hành vi hành chính, hoặc quyết định hành chính

của mình hoặc cơ quan, cá nhân mà mình quản lý đưa ra.

Theo khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai 2013 thì: Sau khi tranh chấp đất

đai mà đã hòa giải tại Ủy ban Nhân dân xã không thành, các bên có quyền lựa

chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi

kiện ra Tòa án Nhân dân.

14

Trường hợp việc giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan quản lý Nhà

nước được thực hiện như sau: Trường hợp tranh chấp giữa các hộ gia đình, cá

nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp huyện

giải quyết, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khiếu

nại đến Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án Nhân

dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính; trường hợp tranh chấp

mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban

Nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết đó

thì khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện ra

Tòa án Nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Đây

cũng là một quy định mới theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã có hiệu

lực thi hành từ ngày 01/7/2016.

Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều

203 phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp

có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành.

Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Như vậy, Luật khiếu nại và Luật Đất đai đã xác định rõ nội dung, thẩm

quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại nói chung, giải quyết khiếu nại về

đất đai nói riêng của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp, Bộ trưởng, Thủ

trưởng cơ quan ngang Bộ và Thủ tướng Chính phủ, qua đó góp phần nâng cao

hiệu lực, hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai.

1.2.4. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai

Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Khiếu nại năm 2011: "Cơ quan,

tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có

trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại,…bảo

15

đảm cho quyết định giải quyết khiếu nại được thi hành nghiêm chỉnh và phải

chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình". Để đảm bảo việc

giải quyết khiếu nại kịp thời, đúng pháp luật, nhằm kịp thời khôi phục các

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân do quyết định hành chính hoặc hành

vi hành chính của cán bộ, công chức xâm hại. Pháp luật khiếu nại Việt Nam

quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết. Khoản 3 Điều 5 Luật

Khiếu nại 2011 quy định: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm

tra, xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật

của mình; nếu trái pháp luật phải kịp thời sửa chữa, khắc phục, tránh phát

sinh khiếu nại". Về cơ bản theo quy định của Luật Khiếu nại và Thông tư số

07/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ Quy

định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung tại

Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày 20 tháng 10 năm 2016) là một quy trình

gồm 3 bước, cụ thể bằng các hoạt động sau:

Thứ nhất, thụ lý, chuẩn bị xác minh nội dung khiếu nại

Trong quá trình tiếp xúc công dân đến gửi đơn khiếu nại, người tiếp

nhận đơn cần xác định đúng trọng tâm nội dung khiếu nại, động cơ, mục tiêu

khiếu nại, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người khiếu nại để giải thích chủ

trương, chính sách pháp luật, làm cho người khiếu nại hiểu được bản chất của

sự việc, xác định vấn đề đúng hay sai để động viên người khiếu nại thấy được

cái sai mà rút đơn, góp phần giảm số lượng đơn phát sinh thuộc thẩm quyền

giải quyết.

Đối với những trường hợp khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết

hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết nhưng không đủ điều kiện thụ lý theo quy

định thì cán bộ tiếp dân không tiếp nhận đơn và có thể yêu cầu người khiếu

nại bổ sung đầy đủ hồ sơ đảm bảo điều kiện thụ lý theo quy định để tiếp nhận

đơn và thụ lý đơn.

16

Thứ hai, tiến hành xác minh nội dung khiếu nại

Sau khi thụ lý đơn, cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm tra, xác minh,

tham mưu việc giải quyết khiếu nại phân công cán bộ trực tiếp thẩm tra, xác

minh, thu thập chứng cứ và các tài liệu có liên quan để đối chiếu với chính

sách pháp luật. Trong quá trình thu thập chứng cứ, nếu xét thấy cần thiết phải

trưng cầu giám định để có kết luận chính xác, cơ quan được giao nhiệm vụ

thẩm tra xác minh tổ chức trưng cầu giám định. Sau khi có kết quả giám định,

cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm tra xác minh đánh giá một cách khách

quan, toàn diện về vụ việc khiếu nại, làm sáng tỏ nội dung khiếu nại trên cơ

sở chứng cứ thu thập được và quy định của pháp luật để kiến nghị giải quyết

khiếu nại. Báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại được thực hiện theo.

Trong giai đoạn xác minh nội dung khiếu nại, đối thoại với người khiếu

nại là một hoạt động cần thiết. Trước khi ban hành quyết định giải quyết

khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải trực tiếp gặp gỡ, đối thoại

với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại,

yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại nếu yêu cầu của

người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau. Việc

đối thoại phải được tiến hành công khai, dân chủ và được lập thành biên bản;

biên bản phải ghi rõ kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người

tham gia; trường hợp người tham gia không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải

ghi rõ lý do. Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.

Thứ ba, ban hành và thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại

Kết quả của quá trình thẩm tra, xác minh, chứng cứ thu thập được, kết

luận đối thoại với người khiếu nại là cơ sở pháp lý quan trọng để người có

thẩm quyền giải quyết khiếu nại lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng với

thực trạng nội dung vụ việc khiếu nại để ra quyết định giải quyết khiếu nại.

17

Ban hành và tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại là một trong

những khâu quan trọng của quy trình giải quyết khiếu nại. Thông qua hoạt

động này mà các yêu cầu của người khiếu nại được làm sáng tỏ. Tùy từng

trường hợp cụ thể mà khiếu nại có thể được đáp ứng một phần hoặc toàn bộ

hay bị bác bỏ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định giải quyết

khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm gửi quyết định

giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của

người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ

quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước

cùng cấp.

Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có hiệu lực pháp luật sau 30

ngày, kể từ ngày ban hành quyết định nếu người khiếu nại không khiếu nại

tiếp; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn

nhưng không quá 45 ngày.

Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và

được lưu trữ theo quy định của pháp luật. Trường hợp người khiếu nại khởi

kiện vụ án hành chính tại Tòa án thì hồ sơ đó phải được chuyển cho Tòa án có

thẩm quyền giải quyết khi có yêu cầu.

Đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai cũng phải có các nội

dung như quyết định giải quyết lần đầu, trong đó còn phải có: kết quả giải

quyết khiếu nại của người giải quyết lần đầu; kết luận nội dung khiếu nại là

đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc

đúng một phần thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành

chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành

chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại. Trường hợp kết luận nội

dung khiếu nại là sai toàn bộ thì yêu cầu người khiếu nại, người có quyền,

18

nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh quyết định hành chính, hành vi

hành chính.

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại,

người giải quyết khiếu nại lần hai phải gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho

người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người

có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

chuyển khiếu nại đến.

Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30

ngày, kể từ ngày ban hành; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời

hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

Người giải quyết khiếu nại lần hai lựa chọn một hoặc một số hình thức

sau đây để công khai quyết định giải quyết khiếu nại: công bố tại cuộc họp cơ

quan, tổ chức nơi người bị khiếu nại công tác; niêm yết tại trụ sở làm việc

hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết khiếu nại; thông

báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc giải quyết khiếu nại lần hai

phải được lập thành hồ sơ theo quy định và kèm theo ý kiến bằng văn bản của

Hội đồng tư vấn (nếu có).

1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đất đai

Để quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật có vị trí thượng tôn, việc

tổ chức thực hiện pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Một mặt, Nhà nước

có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả, hiệu lực

nhất, mặt khác, bản thân Nhà nước cũng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định

của pháp luật. Hai yếu tố này có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Việc Nhà

nước tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật là cơ sở để tổ chức thực hiện

pháp luật có hiệu quả, hiệu lực. Ngược lại, việc tổ chức thực hiện pháp luật có

19

hiệu quả đặt ra yêu cầu tất yếu là Nhà nước phải tuân thủ tuyệt đối các quy

định của pháp luật.

Trên phương diện lý luận về Nhà nước và pháp luật, tổ chức thực hiện

pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp

luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp

pháp của các chủ thể pháp luật. Vì thế, tổ chức thực hiện pháp luật không thể

phát huy được hiệu lực trong hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật khi

thiếu sự bảo đảm của Nhà nước, các cơ chế cũng như cơ sở pháp lý của nó.

Nếu như thực hiện pháp luật do rất nhiều chủ thể khác nhau thực hiện

bao gồm cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức trong xã hội nhưng đối với tổ

chức thực hiện pháp luật xét dưới góc độ thuật ngữ “tổ chức” thì chủ thể là

nhà nước phù hợp và đầy đủ thẩm quyền hơn.

Thực tế đã cho thấy có những trường hợp không có sự can thiệp của

Nhà nước thì nhiều quy định của pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực

hiện không đúng. Tổ chức thực hiện pháp luật là việc Nhà nước thông qua các

cơ quan Nhà nước hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ

thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy

định của pháp luật đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt

những quan hệ pháp luật cụ thể. Do đó tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt

động mang tính quyền lực của cơ quan Nhà nước nói chung và của Ủy ban

Nhân dân các cấp nói riêng. Biểu hiện rõ nét nhất là các chủ thể pháp luật khi

thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước hay của

cán bộ, công chức có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được

thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào các quan hệ xã hội.

Từ những phân tích trên có thể hiểu: tổ chức thực hiện pháp luật về

giải quyết khiếu nại đất đai là là hoạt động có mục đích của cơ quan hành

chính và người có thẩm quyền nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp

20

luật về giải quyết khiếu nại đất đai, làm cho các quy định vận hành trong đời

sống xã hội.

Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có những

đặc điểm mang tính đặc thù sau:

Thứ nhất, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai là

hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện ở chỗ: Hoạt động

thực thi pháp luật do cơ quan Nhà nước tiến hành thông qua việc tiếp nhận đơn

thư khiếu nại về đất đai và giải quyết theo thẩm quyền các quyết định bị khiếu

nại hoặc hành vi bị khiếu nại liên quan tới đất đai. Trong quá trình tổ chức thực

hiện pháp luật mọi khía cạnh, mọi tình tiết đều phải được xem xét cẩn trọng,

dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật được xác định để

ra các yêu cầu cụ thể. Như vậy pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để các cơ

quan Nhà nước có quyền lực thực hiện chức năng của mình.

Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai,

trong đó các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan đều phải tuân theo những

hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Pháp luật đất đai (Điều

203-204 Luật Đất đai, Điều 8-9, Điều 11…Luật khiếu nại) quy định về cơ sở,

hình thức, điều kiện, trình tự thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quy

trình thực hiện pháp luật.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai là

hoạt động mang tính cá biệt, cụ thể. Tính cụ thể và tính cá biệt thể hiện ở chỗ

việc tổ chức thực hiện pháp luậtcó hiệu lực với từng chủ thể sử dụng và quản

lý đất đai, từng tình huống cụ thể (tranh cấp hành chính về bồi thường, về

giao đất, cho thuế đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất…) và chỉ có giá trị pháp lý đối với chủ thể xác định được

nêu trong văn bản, với các chủ thể khác nó không làm nảy sinh các quyền và

nghĩa vụ pháp lý.

21

Thứ tư, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai đòi

hỏi tính sáng tạo. Bởi vì đó là quá trình vận dụng cái chung (các quy phạm

pháp luật khiếu nại) để giải quyết các việc riêng lẻ, cụ thể (tranh chấp đất đai).

Điều này đòi hỏi người có thẩm quyền thực thi pháp luật phải vận dụng cái

chung phù hợp với cái riêng rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên,

xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển nên không phải lúc nào pháp luật

cũng dự liệu hết được mọi tình huống trong thực tế nảy sinh. Trong trường

hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định còn chồng chéo, chưa đồng bộ,

chưa rõ ràng thì yêu cầu chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật phải biết vận

dụng một cách sáng tạo linh hoạt, không dập khuôn máy móc. Để đạt tới điều

đó đòi hỏi người tổ chức thực hiện pháp luật phải có ý thức pháp luật cao, có

tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức trong sáng và có

trình độ chuyên môn cao.

1.2.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai

Để tiến hành tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai

đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành những hoạt động sau:

Một là, lập kế hoạch, ban hành văn bản, chính sách để triển khai văn

bản pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai. Để đưa các quy định pháp luật

về giải quyết khiếu nại đất đai do cơ quan lập pháp ban hành, đòi hỏi hệ thống

cơ quan hành chính phải thực hiện quyền lập quy và quyền hành chính. Cụ

thể, trong thẩm quyền do pháp luật quy định ban hành văn bản, chính sách để

hướng dẫn triển khai Luật Khiếu nại, Luật Đất đai. Đồng thời lên kế hoạch để

triển khai thực hiện. Đây là hoạt động đầu tiên trong nội dung tổ chức thực

hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai.

Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy thực hiện pháp luật về giải quyết

khiếu nại đất đai

22

Tổ chức bộ máy và con người sẽ quyết định chất lượng, cách thức tiến

hành tổ chức thực hiện pháp luật về giai quyết khiếu nại đất đai. Trong hệ

thống bộ máy nhà nước việc phân công trách nhiệm cơ quan, con người nào

tham gia tiến hành thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai chính là

một nội dung trong công tác tổ chức.

Cụ thể đối với việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai do

hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tiến hành mà đứng đầu là Chính phủ -

thống nhất quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại; đồng thời là cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về giải

quyết khiếu nại đất đai. Thanh tra Chính phủ với chức năng giúp Chính phủ

quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại cũng có vai trò trong tổ chức thực hiện

pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai. Theo phân cấp hành chính, ở địa

phương là UBND các cấp và hệ thống cơ quan thanh tra tổ chức thực hiện pháp

luật về giải quyết khiếu nại đất đai. Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của quản

lý, thủ trưởng cơ quan hành chính có thể giao nhiệm vụ cho những cơ quan, đơn

vị có liên quan như tài nguyên môi trường, địa chính, tư pháp ... để tham gia tổ

chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai.

Ba là, tuyên truyền phổ biến pháp luật về giải quyết khiếu nại đất

đai.để nâng cao nhận thức của các chủ thể và đối tượng chịu sự điều chỉnh

của pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai. Đây là hình thức quan trọng

trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai, thể hiện

bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; thể hiện hình

thức quản lý thuyết phục giáo dục trong quản lý hành chính nhà nước.

Bốn là, tiến hành giải quyết khiếu nại về đất đai, hay nói cách khác là

các chủ thể theo thẩm quyền tuân theo trình tự, thủ tục tiến hành thụ lý, xác

minh, ra kết luận giải quyết khiếu nại về đất đai.

23

Năm là, giám sát, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật giải quyết

khiếu nại đất đai.

Đây cũng là một nội dung trong công tác tổ chức thực hiện. Bởi lẽ khi

ban hành những chính sách, pháp luật và thực hiện; một nội dung không thể

thiếu đó là giám sát, kiểm tra, theo dõi việc triển khai những chính sách, pháp

luật để đảm bảo những quy định đó được thực hiện đúng đắn trên thực tế

Sáu là, sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại đất

đai. Đây cũng là một nội dung trong hoạt động tổ chức thực hiện nhằm rút kinh

nghiệm thực tế triển khai, đánh giá tình hình và đề ra giải pháp khắc phục.

1.2.3. Thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai

Xác định thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đât đai căn cứ vào Luật Đất đai 2013 về thẩm quyền quản lý nhà nước và

đất đai và Luật Khiếu nại 2011 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai

(đã phân tích ở mục 1.1.3).

Theo Điều 23 Luật Đất đai 2013, trách nhiệm quản lý nhà nước về đất

đai: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả

nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong

việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.Bộ, cơ quan ngang bộ có liên

quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giúp Chính

phủ trong quản lý nhà nước về đất đai. Ủy ban nhân dân các cấp có trách

nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định

tại Luật này”.

Như vậy, thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đất đai bao gồm:

Chính phủ thống nhất tổ chức thực pháp luật giải quyết khiếu nại về đất

đai trong phạm vi cả nước.

24

Thủ tướng Chính phủ: lãnh đạo công tác tổ chức thực pháp luật giải

quyết khiếu nại về đất đai của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các cấp.

Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực pháp luật giải

quyết khiếu nại về đất đai tại địa phương.

Giúp việc cho Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan

chuyên môn bao gồm hệ thống cơ quan thanh tra và tài nguyên môi trường.

1.2.4. Vai trò của việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại khoản 1 Điều 2

và Điều 3 đã khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân

dân". "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;… thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…"

Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Nhà nước pháp quyền có

hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho

pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Xuất phát từ luận điểm trên, tổ chức thực

hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai có những vai trò sau:

Thứ nhất, là một phương thức góp phần bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong

quản lý hành chính nhà nước.

Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, các

cơ quan chức năng và các cán bộ, công chức phải bảo đảm tuân thủ nguyên

tắc pháp chế một cách tuyệt đối, nguyên tắc này là một trong những nguyên

tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, mọi hành vi vi

phạm nguyên tắc này đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật; góp phần

giữ vững trật tự kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chế xã hội chủ nghĩa

trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

25

Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có

vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người sử

dụng đất nói riêng và cá nhân, tổ chức trong xã hội nói chung.

Trong quá trình quản lý Nhà nước nói chung và quản lý hành chính

Nhà nước về đất đai nói riêng, các cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm

quyền trong các cơ quan đó không tránh khỏi việc ban hành các quyết định

hay có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và

công dân. Để tránh hậu quả đó, pháp luật quy định cơ quan, tổ chức và công

dân có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết

định hành chính, hành vi hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Giải quyết

khiếu nại là thực hiện sự bảo đảm của Nhà nước đối với quyền khiếu nại của

công dân, cơ quan, tổ chức được Hiến pháp ghi nhận, là một hình thức biểu

hiện của dân chủ trực tiếp, dân chủ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống lại các

việc làm trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ

quan, tổ chức. Về phía các cơ quan Nhà nước, thông qua việc khiếu nại của

người sử dụng đất, cơ quan Nhà nước biết được một hành vi sai phạm có thể

xảy ra trên thực tế hoặc một quyết định không đúng đã được ban hành để trên

cơ sở đó và các quy định của pháp luật, các cơ quan Nhà nước sẽ tiến hành

xem xét lại hành vi hoặc quyết định bị khiếu nại. Tổ chức thực hiện pháp luật

giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại của người sử

dụng đất gắn liền với việc khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có

vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động

quản lý Nhà nước

Mục đích của khiếu nại chính là nhằm đảm bảo cho các quy định pháp

luật liên quan đến các quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân được

thực hiện nghiêm chỉnh. Thông qua tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết

26

khiếu nại về đất đai, Đảng và Nhà nước ta phát hiện ra những bất hợp lý của

chính sách, pháp luật về đất đai, kiểm tra được tính đúng đắn, sự phù hợp của

đường lối, chính sách, pháp luật đất đai đã ban hành, từ đó có cơ sở nghiên

cứu để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp trước đòi hỏi, yêu

cầu của thực tiễn nhằm hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước. Ngoài ra, qua tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại về đất đai còn là phương thức bảo đảm sự giám sát

của Nhân dân đối với hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai và hoạt động

của cán bộ công chức Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của

mình. Thông thường thì cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước chỉ thấy

công việc một chiều từ trên xuống nên có hạn chế là không thấy hết những sai

sót, khuyết điểm, bất hợp lý trong quản lý mà chỉ ở góc độ người sử dụng đất

mới thấy được. Tính giám sát biểu hiện qua khiếu nại, người sử dụng đất đã

chuyển cho Nhà nước những thông tin, phát hiện việc làm vi phạm pháp luật

xâm phạm đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất để trên cơ

sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động của các cơ quan, hành vi của công

chức. Như vậy, thông qua khiếu nại và tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết

khiếu nại đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước;

27

Kết luận Chƣơng 1

Trong chương 1 luận văn đã phân tích những nội dung lý luận cơ bản

của tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai và rút ra những

kết luận sau:

Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp

nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cụ thể hóa trong hệ thống

pháp luật về khiếu nại. Khiếu nại về đất đai là một loại khiếu nại. Đó là khiếu

nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất

đai của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan

hành chính nhà nước.

Giải quyết khiếu nại là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước.

Đó là quá trình xem xét, kết luận tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành

chính hành vi hành chính bị khiếu nại.

Việc khiếu nại, giải quyết khiếu trong lĩnh vực đất đai phải được thực

hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở những nguyên tắc, thẩm quyền,

trình tự thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính khách quan, công khai, dân chủ,

kịp thời. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền khiếu nại và

giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai sẽ góp phần nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước về đất đai, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với

công dân; góp phần xây dựng Đảng, Chính quyền, Đoàn thể trong sạch,vững

mạnh; phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò

quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp

pháp của nhà nước, công dân và của toàn xã hội.

28

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA QUẬN ĐỐNG ĐA,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát chung về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội và tình hình

quản lý và sử dụng đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

2.1.1. Khái quát chung về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Tháng 5-1961, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Khu phố

Đống Đa, đến năm 1981, được đổi thành quận Đống Đa. Hiện nay, quận

Đống Đa gồm 21 phường; dân cư chủ yếu là công nhân, viên chức, hưu trí,

lực lượng vũ trang, sinh viên, người lao động sinh sống trong các khu tập thể,

khu phố, một bộ phận khác là dân cư từ nơi khác đến; trên địa bàn quận tập

trung nhiều cơ quan, nhà máy lớn, trường đại học, nhiều tuyến đường giao

thông quan trọng.

Quận Đống Đa nằm ở phía Tây Nam của Thành phố Hà Nội. Phía bắc

giáp quận Ba Đình, phía đông bắc giáp quận Hoàn Kiếm(ranh giới là phố Lê

Duẩn), phía đông giáp quận Hai Bà Trưng(ranh giới là phố Lê Duẩn và đường

Giải phóng), phía nam giáp quận Thanh Xuân (ranh giới là đường Trường Chinh

và đường Láng), phía tây giáp quận Cầu Giấy (ranh giới là sông Tô Lịch).

Địa hình quận Đống Đa tương đối bằng phẳng. Có một số hồ lớn như

Ba Mẫu, Kim Liên, Xã Đàn, Đống Đa, Văn Chương. Trước có nhiều ao, đầm

nhưng cùng với quá trình đô thị hóa đã bị lấp. Quận có hai sông nhỏ chảy qua

là sông Tô Lịch và sông Lừ. Phía đông có một vài gò nhỏ, trong đó có gò

Đống Đa.

Một số di tích văn hóa, lịch sử trên địa bàn quận Đống Đa là Văn Miếu-

Quốc Tử Giám, di tích Đàn Xã tắc, di tích vòng thành Đại La, Chùa Bộc, gò

29

Đống Đa và tượng đài vua Quang Trung, chùa Láng, đền Bích Câu, ga Hà

Nội, v.v.

Trên địa bàn quận có gò Đống Đa, nơi được coi là mộ tập thể của các

binh sĩ nhà Thanh Trung Quốc. Quận đặt theo tên chiến thắng trận Đống Đa

của nghĩa quân Tây Sơn mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).

Tính đến nay, qua hơn 57 năm từ ngày thành lập, với vị trí là trung tâm

trên bản đồ địa giới của Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính

(năm 1996), Quận Đống Đa có diện tích 9,95km2 với 419.600 nhân khẩu

(năm 2017) với mật độ dân số đạt 42.171 người/km2 cao nhất trong các quận

huyện thuộc thành phố Hà Nội, là quận có tốc độ đô thị hóa nhanh, có nhiều

dự án xây dựng nhà ở, trung tâm thương mại; giai đoạn 2013-2016 trên địa

bàn quận thực hiện nhiều dự án giải phóng mặt bằng, nhiều hệ thống đường

giao thông quan trọng được triển khai thực hiện do đó công tác quản lý nhà

nước về đất đai, trật tự xây dựng, giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận cũng

phát sinh những vấn đề phức tạp, tình hình đơn khiếu nại, tố cáo của nhân dân

cũng phát sinh từ đây. Chính vì vậy, trong 4 năm qua, Thường trực Quận ủy,

HĐND, lãnh đạo UBND quận đã lãnh đạo, chỉ đạo các phòng, ban, ngành,

các đơn vị tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo

theo đúng quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo nhằm đảm bảo ổn định

tình hình an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội cũng như đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

2.1.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai ở quận Đống Đa, thành phố

Hà Nội

Thực hiện quy định của pháp luật đất đai năm 2013, những năm qua

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội thường xuyên quan tâm chỉ đạo làm tốt

công tác quản lý Nhà nước về đất đai, như: lập kế hoạch sử dụng đất hàng

năm trình Ủy ban Nhân dân tỉnh phê duyệt theo quy định, đảm bảo phù hợp

30

với chỉ tiêu sử dụng đất và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Kết

quả bước đầu đã đưa công tác quản lý Nhà nước về đất đai bằng quy hoạch,

kế hoạch sử dụng đất đi vào nề nếp; tạo hành lang pháp lý cho công tác thu

hồi đất, giao đất, cho thuê đất, phân bổ đất đai một cách hợp lý và có cơ sở

khoa học cho các đối tượng sử dụng đất phù hợp với chiến lược tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương, người sử dụng đất có giải pháp chủ

động đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất cho

phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt và công bố

công khai theo quy định.

Theo quyết định số 93/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng

đất năm 2017 quận Đống Đa của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Phê

duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2017 quận Đống Đa (Kèm theo Bản đồ Kế

hoạch sử dụng đất năm 2017 tỷ lệ 1/5.000 và Báo cáo thuyết minh tổng

hợp Kế hoạch sử dụng đất năm 2017 của quận Đống Đa, được Giám đốc Sở

Tài nguyên và Môi trường xác nhận ngày 12 tháng 12 năm 2016), với các nội

dung chủ yếu như sau:

31

Bảng 2.1. Diện tích các loại đất phân bổ trong năm 2017

Diện tích STT Chỉ tiêu sử dụng đất Mã (ha)

Tổng diện tích đất tự nhiên 994,71

1 Đất nông nghiệp NNP

1.1 Đất trồng lúa LUA

Tr. đó: Đất chuyên trồng lúa nước LUC

1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK

1.3 Đất trồng cây lâu năm CLN

1.4 Đất nuôi trồng thủy sản NTS

1.5 Đất nông nghiệp khác NKH

2 Đất phi nông nghiệp PNN 994,71

2.1 Đất quốc phòng CQP 15,55

2.2 Đất an ninh CAN 3,14

2.3 Đất khu công nghiệp SKK

2.4 Đất khu chế xuất SKT

2.5 Đất cụm công nghiệp SKN

2.6 Đất thương mại, dịch vụ TMD 69,9

2.7 Đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp SKC 1,24

2.8 Đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản SKS

Đất phát triển hạ tầng cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp 2.9 DHT 359,18 huyện, cấp xã

2.10 Đất có di tích lịch sử văn hóa DDT 7,26

2.11 Đất danh lam thắng cảnh DDL

2.12 Đất bãi thải, xử lý chất thải DRA 0,29

2.13 Đất ở tại nông thôn ONT

32

2.14 Đất ở tại đô thị ODT 433,58

2.15 Đất xây dựng trụ sở cơ quan TSC 6,48

2.16 Đất xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp DTS 23,08

2.17 Đất xây dựng cơ sở ngoại giao DNG 4,63

2.18 Đất cơ sở tôn giáo TON 8,64

Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa 2.19 NTD 0,78 táng

2.20 Đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm SKX

2.21 Đất sinh hoạt cộng đồng DSH 0,74

2.22 Đất khu vui chơi, giải trí công cộng DKV 10,38

2.23 Đất cơ sở tín ngưỡng TIN 2,92

2.24 Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối SON 10,74

2.25 Đất có mặt nước chuyên dùng MNC 36,17

2.26 Đất phi nông nghiệp khác PNK

3 Đất chƣa sử dụng CSD

Qua bảng số liệu trên cho thấy đó thể hiện với tổng số 994,71 ha đất bao

gồm đất phi nông nghiệp (là quận đô thị, không còn đất nông nghiệp) trong

đó số lượng đất dành cho phát triển hạ tầng quận rất lớn (359,18). Tổng quan

tình hình quản lý đất trên địa bàn quận sẽ liên quan đến một loạt vấn đề như:

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cho thuê đất...;

Việc quản lý, sử dụng đất đai được chính quyền quận Đống Đa, thành

phố Hà Nội quan tâm chỉ đạo sát sao, chặt chẽ từ lập quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất, xác định, quản lý địa giới hành chính, hồ sơ địa chính, đăng ký

thống kê, chỉnh lý biến động đất đai đến công tác giao đất, thu hồi đất, cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thanh tra, giải quyết đơn thư liên quan

đến đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng.

33

Thực tế cho thấy, việc thu hồi đất đai do cơ quan Nhà nước các cấp sử

dụng lãng phí hoặc sử dụng không đúng mục đích chưa được đề cập một cách

đầy đủ, kiên quyết và chưa có hiệu quả. Cho đến nay việc thu hồi đất là lý do

phổ biến và quan trọng nhất dẫn đến khiếu nại và khiếu nại đông người mà cơ

quan chính quyền các cấp vẫn chưa giải quyết ổn thoả được. Nguyên nhân

chủ yếu do thu hồi đất đai, bồi thường thiệt hại chưa thoả đáng hoặc doanh

nghiệp chưa thực hiện đúng cam kết trong thoả thuận...., tình hình đó làm

giảm sút niềm tin trong nhân dân và từ đó có sự gia tăng số lượng các vụ

khiếu nại, tính chất khiếu nại, phạm vi khiếu nại....

2.2. Thực trạng khiếu nại và tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

2.2.1. Tình hình khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Tình hình đơn thư khiếu nại và khiếu nại trên lĩnh vực đất đai (xem

bảng 2.2)

Bảng 2.2: Số liệu thống kê đơn thư khiếu nại về đất đai

ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Kết luận nội dung khiếu nại

Năm Số vụ Có đúng, có sai

2012 04 Không có cơ sở 04

2013 08 08

2014 28 21 07

2015 88 87 01

2016 08 08

Cộng 136

(Nguồn: Báo cáo Tổng kết đánh giá 4 năm thi hành

Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo – Quận Đống Đa, TP. Hà Nội).

34

Như vậy qua số liệu thống kê, mặc dù số lượng đơn thư có biến động

qua các năm nhưng rõ ràng khiếu nại về đất đai vẫn là một điểm nóng trong

hoạt động giải quyết khiếu nại ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Nội dung khiếu nại về đất đai

Thứ nhất, nội dung khiếu nại về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa,

thành phố Hà Nội trong thời gian qua chủ yếu liên quan đến việc thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực

hiện các dự án. Đây là nội dung nảy sinh nhiều khiếu nại và khiếu nại đông

người. Trong đó nổi lên là khiếu nại các quyết định thu hồi đất không theo quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt, không thực hiện đúng trình tự,

thủ tục thu hồi; chính sách bồi thường chưa thoả đáng, định giá thấp hơn so với

giá thị trường; phương án bồi thường được phê duyệt không đúng về nguồn

gốc, diện tích, loại đất; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm do bị thu

hồi đất không thoả đáng; không được bố trí tái định cư hoặc nơi tái định cư

không có điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ theo quy định pháp luật.

Thứ hai, khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về giao

đất, cho thuê đất. Lý do dẫn đến việc khiếu nại là do quyết định hành chính

chưa bảo đảm những điều kiện cần thiết theo quy định, không tuân thủ trình

tự thủ tục giao đất, cho thuê đất thiếu công khai, dân chủ, công bằng trong

quá trình ban hành quyết định; không tính đến nhu cầu của người sử dụng

đất. Các biện pháp ổn định cuộc sống cho người dân sau khi bị thu hồi đất.

Các biện pháp bảo đảm đất sau khi thu hồi được sử dụng đúng mục đích,

đúng thời hạn, đảm bảo được giá trị sản sinh từ đất bị thu hồi.

Thứ ba, khiếu nại liên quan đến việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất. Một số lỗi thường gặp đó là cấp sai vị trí, diện tích, loại

đất; thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng trình tự thủ tục,

35

khiếu nại về nghĩa vụ tài chính khi thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất,

khi được công nhận quyền sử dụng đất.

Thứ tư, khiếu nại nội dung liên quan đến việc đòi lại đất cũ và khiếu

nại quyết định hành chính giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến hợp

đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử

dụng đất, tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất, tranh chấp đất của cơ sở

tôn giáo, thờ tự, tranh chấp đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ.

Tính chất khiếu nại về đất đai

Thực tiễn cho thấy, hầu hết các khiếu nại liên quan đến đất đai, ban đầu

công dân đều có kiến nghị, phản ánh theo đúng trình tự đến Ban tiếp dân của

phường hoặc trụ sở tiếp dân của quận. Vụ việc khiếu nại thường diễn biến

gay gắt khi có người khiếu nại cho rằng kết quả đối thoại, trả lời, giải thích

của cơ quan có thẩm quyền giải quyết không thoả đáng đối với họ. Trong quá

trình giải quyết khiếu nại, người khiếu nại thường tạo ra sức ép đến cơ quan

giải quyết, người giải quyết thông qua việc họ gửi đơn nhiều lần, gửi đến

nhiều nơi và gửi vượt cấp nhất là trong trường hợp giải quyết không đảm bảo

thời gian quy định.

Nguyên nhân phát sinh khiếu nại về đất đai

Tình trạng khiếu nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

hiện nay diễn ra có chiều hướng phức tạp, do một số nguyên nhân chính sau:

* Nguyên nhân khách quan

Một là, văn bản pháp luật trong lĩnh vực đất đai thiếu ổn định, thay đổi

thường xuyên và thiếu đồng bộ. Quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh

vực đất đai còn nhiều điểm không thống nhất với Luật khiếu nại.

Trong thời gian ngắn các văn bản pháp luật thay đổi nhiều lần, chưa

thống nhất nên khó thực hiện, nhiều điểm quy định không rõ ràng, dẫn đến

36

nhiều cách hiểu khác nhau trong việc tính toán bồi thường giữa cơ quan thi

hành nhiệm vụ và đối tượng được hưởng chế độ bồi thường.

Hai là, chính sách về đất đai trong bồi thường, tái định cư thu hồi đất

còn nhiều bất cập (đặc biệt là chính sách về giá đất). Thực tế chính sách bồi

thường đối với đất ở tại một số nơi còn chênh lệch quá lớn so với giá thị

trường, làm cho công dân cảm thấy thiệt thòi.

Ba là, Hiểu biết về pháp luật nói chung cũng như ý thức chấp hành

pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế. Một số trường hợp nghe theo lời

kích động, xúi giục của phần tử xấu dẫn đến bức xúc khiếu kiện đông người;

một số đối tượng do đòi hỏi quyền lợi cá nhân, mặc dù đã được các cấp chính

quyền giải quyết nhiều lần vẫn cố tình không chấp hành, lợi dụng tính dân

chủ của pháp luật vận động lôi kéo, kích động đông người viết đơn khiếu nại

gửi nhiều cấp nhiều ngành từ Trung ương đến cơ sở, và các cơ quan thông

tin, báo chí nhằm gây dư luận xấu làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của

cấp uỷ, chính quyền quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Bốn là, việc thực hiện trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ

tái định cư ở nhiều nơi không đúng quy định, như ra thông báo giải phóng

mặt bằng mà không có quyết định thu hồi đất, không công khai hoặc công

khai không đầy đủ quy hoạch sử dụng đất trong khu vực thu hồi đất, không

thông báo trước kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người bị hồi đất, cưỡng

chế giải phóng mặt bằng khi chưa giải quyết tốt khâu giải quyết đơn khiếu

nại, tố cáo của người dân và khi chưa bố trí tái định cư.

* Nguyên nhân chủ quan:

Một là, trách nhiệm của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị còn

nhiều yếu kém trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại; còn có biểu

hiện ngại va chạm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho cơ quan cấp trên; nhiều

37

vụ việc giải quyết chưa kịp thời, xem xét giải quyết còn cứng nhắc, chưa thấu

tình đạt lý.

Hai là, một bộ phận cán bộ, công chức cơ sở năng lực chuyên môn nghiệp

vụ yếu kém, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dẫn đến sai

phạm đặc biệt ở lĩnh vực quản lý đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng.

2.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận

Đống Đa, thành phố Hà Nội

Căn cứ vào lý luận, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, Ban hành kế hoạch, chính sách, pháp luật để tổ chức thực

hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai

Một là, lập kế hoạch, ban hành văn bản, chính sách để triển khai văn

bản pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai.

Hàng năm, Thanh tra quận tham mưu UBND quận xây dựng, phê

duyệt, triển khai kế hoạch thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, phòng chống tham nhũng theo quy định.

Định kỳ hàng quý, Thanh tra quận chủ trì phối hợp với UBKT Quận ủy,

Văn phòng Quận ủy, Văn phòng HĐND và UBN, Ban tiếp công dân quận đã

tham mưu lịch tiếp công dân của Thường trực Quận ủy, HĐND, lãnh đạo

UBND quận; Rà soát, kiểm tra, đôn đốc, đề xuất Ban chỉ đạo giải quyết khiếu

nại, tố cáo xem xét, chỉ đạo, tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các vụ

việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; chấn chỉnh, khắc phục các tồn tại,

hạn chế của các đơn vị.

- Quyết định số 4404/QĐ-UBND ngày 22/9/2015 về ban hành nội quy

tiếp công dân;

Ban tiếp công dân quận thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Thường trực

Quận ủy, HĐND, lãnh đạo UBND quận và các phòng, ban chuyên môn tiếp

38

công dân, tiếp nhận, phân loại, đề xuất giải quyết đơn và đôn đốc, theo dõi

việc thực hiện của các đơn vị.

Hai là, tổ chức bộ máy để tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai

Theo chức năng, cơ quan tham mưu cho UBND tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại về đất đai là Phòng Thanh tra và Phòng Tài nguyên,

môi trường. Bên cạnh đó, Ban thường vụ Quận ủy Quyết định thành lập, kiện

toàn Ban chỉ đạo giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo:

- Quyết định số 546-QĐ/QU ngày 21/12/2010;

- Quyết định số 4628-QĐ/QU ngày 16/01/2015;

- Quyết định số 733-QĐ/QU ngày 19/01/2016;

Ban chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiệm vụ giúp Quận ủy chỉ

đạo, định hướng việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, các vụ việc tồn

đọng, phức tạp, kéo dài của các cơ sở, cơ quan, đơn vị thuộc quận theo quy

định của pháp luật. Chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo tập trung về một đầu

mối để xử lý, tránh tình trạng phân tán, đùn đẩy trách nhiệm trong công tác

giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị thuộc quận.

UBND quận Quyết định thành lập, ban hành Quy chế Ban tiếp công

dân (theo Luật Tiếp công dân năm 2013), hàng năm chú trọng kiện toàn đầy

đủ các thành viên của Ban tiếp công dân khi có sự thay đổi nhân sự:

- Quyết định số 5789/QĐ-UBND ngày 14/11/2014 về thành lập ban

Tiếp công dân;

- Quyết định số 1667/QĐ-UBND ngày 07/6/2016 về kiện toàn thành

viên Ban tiếp công dân;

- Quyết định số 2340/QĐ-UBND ngày 19/7/2016 về kiện toàn thành

viên Ban tiếp công dân;

39

Căn cứ các quy định của pháp luật, Ủy ban Nhân dân quận giao cho

các cơ quan, như: Thanh tra, phòng Tư pháp, phòng Tài nguyên và môi

trường, Ban tiếp công dân trực thuộc Văn phòng Ủy ban Nhân dân quận, Ban

Giải phóng mặt bằng phối hợp tham gia giải quyết khiếu nại về đất đai. Với

đội ngũ cán bộ, công chức thuộc các phòng, ban như vậy, công tác giải quyết

khiếu nại về đất đai của quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong những năm

qua đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

Ba là, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai.

Kết quả tổ chức thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai

ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội:

Thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại có thể được xem là quá trình

“hiện thực hoá” quyết định giải quyết khiếu nại. Đây là giai đoạn có ý nghĩa

quan trọng, nó đảm bảo giá trị của toàn bộ quá trình giải quyết khiếu nại.

Về cơ bản các quyết định hành chính ban hành đều hợp pháp. Tuy

nhiên trong quá trình áp dụng Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn luật vào

thực tiễn, vẫn còn một số quyết định hành chính được ban hành chưa đúng

trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân như: quyết định thu

hồi đất, một số quyết định giao đất trái thẩm quyền, công nhận quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất chưa chính xác...vv

Đại bộ phận công dân trên địa bàn quận đã chấp hành nghiêm các

quyết định hành chính về đất đai nhất là các quyết định về thu hồi đất; do vậy

đã tạo ra quỹ đất sạch để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội trên

địa bàn của quận, như: khu đô thị, các dự án cải tạo ao hồ, xây dựng chung

cư, đường giao thông, điện, nước...vv

Trong quá trình thực hiện các quyết định hành chính về đất đai nhất là

các quyết định thu hồi đất để phục vụ cho việc thực hiện các dự án phát triển

kinh tế- xã hội yêu cầu điện tích thu hồi đất lớn; do đó ảnh hưởng trực tiếp

40

đến đời sống, việc làm của một bộ phận dân cư dẫn đến việc khiếu nại của

người dân;

Tính từ 01/7/2012 đến 01/7/2016, UBND quận Đống Đa đã thực hiện

12/12 quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo, trong đó có 08

quyết định giải quyết khiếu nại đạt tỷ lệ 100%. Ví dụ:

- Quyết định số 5668/QĐ-CTUBND ngày 04/11/2014 của Chủ tịch

UBND quận về việc giải quyết khiếu nại của ông X (phường Ngã Tư Sở)

khiếu nại quyết định phê duyệt phương án số 2651/QĐ-UBND ngày

03/6/2014 của UBND quận.

Ngày 08/5/2015, UBND quận Đống Đa có Quyết định số 1650/QĐ-

UBND v/v phê duyệt bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối

với chủ sử dụng đất bị thu hồi là ông X. Ông X được bổ sung thêm

818.056.969 đồng và 01 căn hộ tái định cư.

- Quyết định số 877,878/QĐ-CTUBND ngày 03/3/2015 của Chủ tịch

UBND quận về việc giải quyết khiếu nại của bà Y và A (phường Phương Mai)

khiếu nại phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đúng pháp luật,

không ban hành quyết định thu hồi đất, không được xét mua nhà tái định cư.

Ngày 13/10/2015, UBND quận Đống Đa đã có Quyết định số 4750,

4748/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi

thường, hỗ trợ đối với chủ sử dụng đất là bà Y và A. Tại phương án điều chỉnh

bổ sung, bà Y được bổ sung thêm 10.889.000 đồng và được xét mua 01 căn

hộ tái định cư, bàA được bổ sung thêm 22.453.000 đồng.

- Quyết định số 5664,5665,5666,5667/QĐ-CTUBND ngày 04/11/2014

của Chủ tịch UBND quận về việc giải quyết khiếu nại của ông, bà A,B, C,D,

khiếu nại việc áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản trên đất.

Ngày 09/6/2015, UBND quận có 04 Quyết định phê duyệt điều chỉnh

nội dung xác nhận nguồn gốc đất của chủ sử dụng đất nằm trong phạm vi giải

41

phóng mặt bằng Dự án thoát nước nhằm cải thiện môi trường Hà Nội-Dự án

II đối với các chủ sử dụng đất tại các địa chỉ N (phường Phương Mai). Nội

dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư vẫn giữ nguyên theo phương án đã

được phê duyệt tại quyết định ngày 18/12/2013 của UBND quận.

- Quyết định số 992/QĐ-CTUBND ngày 19/4/2016 của Chủ tịch UBND

quận về việc giải quyết khiếu nại của bà A, khiếu nại phương án bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư, tài sản bồi thường, quyết định cưỡng chế thu hồi đất.

Ngày 21/3/2016, Chủ tịch UBND quận đã có Quyết định số 756/QĐ-

CTUBND về việc đính chính Quyết định số 5254/QĐ-CTUBND ngày

11/11/2015.

Qua giải quyết khiếu nại bổ sung số tiền bồi thường hỗ trợ cho công

dân là 884.970.969 đồng và 02 căn hộ tái định cư, chỉ đạo kiểm điểm trách

nhiệm 04 tập thể và 07 cá nhân để xảy ra sai phạm.

Bốn là, tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu

nại về đất đai

Các cấp chính quyền và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn

quận đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách pháp

luật của Nhà nước đối với cơ sở, nhằm tạo chuyển biến căn bản trong nhận

thức pháp luật của cán bộ và Nhân dân. Quận cũng đã tổ chức triển khai nhiều

hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật khiếu nại phong phú, đa dạng và

gắn liền với công việc chuyên môn của đơn vị như: Tuyên truyền, hướng dẫn

trực tiếp thông qua việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tổ chức các lớp tập

huấn, trao đổi, toạ đàm, phát hành các tờ rơi, tuyên truyền trên phương tiện

thông tin đại chúng như đài truyền thanh, truyền hình địa phương.

Công tác hoà giải tại cơ sở được chính quyền cấp cơ sở chú trọng và

ngày càng được quan tâm, hoà giải không phải để đối phó, cho xong trình tự,

mà đã được khai thác và phát huy hiệu quả, nhờ đó đã chấm dứt rất nhiều đơn

42

thư khiếu kiện ngay từ cơ sở. Không những thế, nhiều vụ việc phức tạp, kéo

dài, liên quan đến tôn giáo, khiếu nại đông người ở các địa phương có dự án

thu hồi đất đã giải quyết cơ bản, mang lại hiệu quả cao.

Năm là, theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật giải quyết

khiếu nại đất đai..

Định kỳ hàng quý, Thanh tra quận chủ trì phối hợp với UBKT Quận ủy,

Văn phòng Quận ủy, Văn phòng HĐND và UBN, Ban tiếp công dân quận đã

tham mưu lịch tiếp công dân của Thường trực Quận ủy, HĐND, lãnh đạo

UBND quận; Rà soát, kiểm tra, đôn đốc, đề xuất Ban chỉ đạo giải quyết khiếu

nại, tố cáo xem xét, chỉ đạo, tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các vụ

việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; chấn chỉnh, khắc phục các tồn tại,

hạn chế của các đơn vị.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của các cấp ủy, chính

quyền của các cơ quan khối nội chính trong công tác tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại đã có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giám sát việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo được coi trọng. Các đồng chí lãnh đạo quận và các đơn vị đã

phân công tiếp công dân theo định kỳ, đột xuất; tăng cường đối thoại trực tiếp

với công dân, đã hạn chế đơn khiếu nại, tố cáo.

2.2.3. Đánh giá chung việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu

nại về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Thứ nhất, kết quả đạt được

Nhìn chung, các đơn vị thuộc UBND quận đã nghiêm túc triển khai thực

hiện Kế hoạch số 167/KH-UBND ngày 15/9/2014 của UBND Thành phố, Kế

hoạch số 2100/KH-TTCP ngày 19/9/2003 của Thanh tra Chính phủ về rà soát

các vụ khiếu nại tố cáo tồn đọng, Chỉ thị số 04/CT-UBND ngày 08/3/2012 của

UBND Thành phố. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo được

quan tâm, chỉ đạo thực hiện, tổ chức bộ máy thường xuyên được củng cố, kiện

43

toàn. UBND quận Đống Đa đã triển khai thực hiện chỉ đạo của UBND Thành

phố, xác định đây không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn mà còn là nhiệm vụ

chính trị quan trọng; đã huy động được sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống

chính trị từ Quận đến cơ sở, nhất là việc xử lý, giải quyết các vụ khiếu nại phức

tạp nhằm giữ vững an ninh trật tự, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu

phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn Quận Đống Đa.

Lãnh đạo UBND quận Đống Đa duy trì nghiêm túc lịch tiếp công dân

định kỳ vào ngày thứ Năm hàng tuần để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân

thực hiện quyền khiếu nại tố cáo, đồng thời giúp lãnh đạo UBND Quận tiếp

thu ý kiến của công dân, chỉ đạo xem xét, kết luận, quyết định giải quyết

chính xác các vụ việc, yêu cầu các đơn vị tăng cường phối hợp trao đổi thông

tin, nhất là trong việc phối hợp giải quyết các vụ khiếu nại phức tạp.

Để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc khiếu nại tố cáo, lãnh

đạo UBND quận đã chỉ đạo tăng cường tiếp và đối thoại với công dân, nâng

cao chất lượng giải quyết khiếu nại tố cáo, nghiêm túc thực hiện các quyết

định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, quyết định xử lý tố cáo. Về cơ

bản, việc giải quyết khiếu nại tố cáo ở các đơn vị được thực hiện đúng trình

tự, thủ tục, đảm bảo khách quan, chính xác, bảo vệ quyền lợi chính đáng của

công dân. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo đã có chuyển

biến tích cực qua từng năm, chất lượng giải quyết các vụ việc được nâng lên.

Bên cạnh đó, công tác hòa giải cũng được UBND quận quan tâm, thực

hiện. Thông qua tuyên truyền, vận động và giải thích pháp luật, nhiều công

dân đã hiểu và tự giác chấp hành quy định của các cơ quan có thẩm quyền, rút

đơn khiếu nại.

Tính dân chủ trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành

chính Nhà nước ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội luôn được chú trọng thực

hiện. Lãnh đạo Ủy ban Nhân dân quận và lãnh đạo Ủy ban nhân dân các phường

44

đã bố trí thời gian nhiều hơn cho công tác đối thoại trong quá trình giải quyết

khiếu nại trước khi quyết định giải quyết. Tăng cường chỉ đạo các cơ quan tham

mưu trong việc chuẩn bị và công khai trình tự thủ tục đối thoại trước khi đi vào

đối thoại, để cuộc đối thoại có chất lượng, hiệu quả. Số lượng các vụ việc giải

quyết khiếu nại có sự tham gia của luật sư ngày càng nhiều, sự tham gia của luật

sư đã tạo điều kiện thuận lợi trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người

khiếu nại với việc bình đẳng trong nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của bên

khiếu nại, bên bị khiếu nại và các bên liên quan.

Giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước trên địa

bàn quận được tiến hành theo trình tự giải quyết khiếu nại do cơ quan có

thẩm quyền ban hành, công khai trên trang thông tin điện tử, các phương tiện

thông tin của địa phương và niêm yết tại trụ sở tiếp dân của các cấp, các

ngành, cơ quan đơn vị. Đây là việc cụ thể hoá thủ tục, trình tự giải quyết

khiếu nại của Luật Khiếu nại và các văn bản pháp luật có liên quan. Đáp ứng

yêu cầu công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện quy trình giải

quyết khiếu nại của cơ quan hành chính Nhà nước. Qua đó tạo điều kiện

thuận lợi trong việc giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính Nhà nước,

đồng thời giúp người khiếu nại chủ động trong việc làm của mình, hạn chế

việc người dân tìm hiểu thông tin ở những kênh không chính thức, dễ bị bóp

méo thông tin, bị lôi kéo, kích động dẫn đến khiếu kiện đông người, phức tạp.

Thông qua việc thực hiện các quy định pháp luật về tiếp dân, giải quyết

khiếu nại về đất đai trong hoạt động quản lý Nhà nước, cơ quan có thẩm

quyền quản lý đất đai đã phát hiện nhiều vấn đề còn tồn tại trong chính sách

phát luật về đất đai, cần phải ban hành các văn bản tháo gỡ hoặc xin ý kiến,

đặc biết đối với việc triển khai thực hiện các dự án lớn có thu hồi đất của

công dân. Cũng thông qua công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về đất đai,

đã phát hiện kịp thời những tiêu cực, vi phạm trong công tác của cán bộ cấp

45

cơ sở làm công tác chuyên môn nghiệp vụ để ngăn chặn và xử lý kịp thời,

góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng và chính

quyền; ổn định an ninh, trật tự, phát triển kinh tế- xã hội.

Nguyên nhân của những ưu điểm

Một là, sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ quận đến cơ sở

một cách sát sao, quyết liệt trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai

Hai là, do lãnh đạo các cấp các ngành (đặc biệt là của người có thẩm

quyền ra quyết định giải quyết) tăng cường đối thoại (đặc biệt với các vụ việc

khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài), để phát huy quyền dân chủ của

nhân dân, chống căn bệnh quan liêu, xa dân.

Ba là, sự kiên quyết của chính quyền quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ như: ban hành văn bàn hành chính,

tuyên truyền vận động, giáo dục phổ biến pháp luật, kiện toàn tổ chức tiếp

công dân ở tất cả các cấp, các ngành, chú trọng và phát huy vai trò của công

tác hoà giải cơ sở. Hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành

chính đã tuân thủ nghiêm các trình tự thủ tục luật định, được cụ thể hoá trong

Bộ thủ tục hành chính ở từng cấp và công khai niêm yết để đảm bảo thực

hiện một cách thống nhất, có sự giám sát của Nhân dân.

Bốn là, chính quyền quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã khai thác và

phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội, tranh thủ được

những ý kiến đóng góp của các ngành, cơ quan cấp trên.

Thứ hai, những hạn chế, bất cập trong việc tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại

Việc tiếp công dân ở một số đơn vị phường còn mang tính hình thức,

kém hiệu quả, chưa gắn với công tác giải quyết khiếu nại của công dân, một

số ít xã chưa nghiêm túc thực hiện quy định về tiếp dân thường xuyên của

lãnh đạo, khiến người dân phải đi lại nhiều lần gây tâm lý bức xúc.

46

Công tác bố trí cán bộ và tổ chức tiếp dân bị xem nhẹ, nên đã không

phát huy được vai trò, hiệu quả của công tác tiếp dân. Đôi khi còn có biểu

hiện ngại tiếp công dân hay còn có thái độ, tác phong chưa thực sự chuẩn

mực trong giao tiếp với công dân. Có nhiều vụ việc lúc đầu thì đơn giản

nhưng do không được xem xét, giải quyết kịp thời, đến nơi, đến chốn, khách

quan, vô tư; do thái độ của cán bộ giải quyết thiếu tôn trọng người dân mà trở

nên căng thẳng, phức tạp, kéo dài, có khi trở thành điểm nóng.

Trong công tác xử lý đơn, còn tồn tại việc nhầm lẫn trong việc phân loại

đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, nhầm lẫn trong phân biệt thẩm quyền

giải quyết tranh chấp đất đai giữa cơ quan hành chính và Toà án Nhân dân.

Trong quá trình thực thi pháp luật, một trong những trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan hành chính là việc đối thoại với người khiếu nại.

Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng các cuộc đối thoại trong quá trình

giải quyết khiếu nại còn hạn chế, có nơi giao cho cán bộ thanh tra hoặc cán

bộ thụ lý thực hiện việc đối thoại với công dân, đối thoại mang tính đối phó

nên không đi được vào bản chất của vấn đề, thậm chí có những vụ việc chưa

tổ chức đối thoại với công dân khi giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định

của pháp luật đã ra quyết định giải quyết khiếu nại.

Tình trạng người có thẩm quyền giải quyết, người được giao kiểm tra,

xác minh còn ngại đối thoại, tiếp xúc với người khiếu nại, không tạo được sự

đồng thuận cao đối với các kết luận trong quá trình xác minh các vụ việc có

khiếu nại. Vì vậy, các vụ việc giải quyết khiếu nại đi đến giải quyết dứt điểm

không nhiều (nhất là đối với giải quyết khiếu nại lần đầu).

Việc thực hiện quy trình giải quyết ở nhiều nơi còn chưa tuân thủ các

quy định về trình tự. Nhiều vụ việc cán bộ tiến hành thẩm tra, xác minh nội

dung khiếu nại theo phiếu giao việc, không có quyết định thành lập Đoàn

thanh tra, hay tổ công tác.

47

Tình trạng quá hạn trong giải quyết khiếu nại về đất đai khá phổ biến,

trong đó có công tác thẩm tra, xác minh kéo dài vượt thời hạn là chủ yếu.

Chất lượng giải quyết vụ việc của một số đơn vị còn chưa cao, còn hiện

tượng giải quyết cho xong thẩm quyền, do vậy vụ việc lại bị công dân tiếp tục

khiếu nại lên cấp trên, khiếu nại có tính bức xúc, khiếu nại vượt cấp.

Công tác thông tin, báo cáo và quản lý, lưu trữ hồ sơ giải quyết khiếu

nại còn nhiều hạn chế.

Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu

lực pháp luật còn chậm, thiếu triệt để. Từ đó dẫn đến việc người khiếu nại

tiếp tục gửi đơn với thái độ bức xúc, hoặc quay sang tố cáo chính quyền cơ sở

cố tình bao che sai phạm, làm giảm lòng tin của người dân vào bộ máy chính

quyền và lại phát sinh ra vụ việc mới.

Công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với các cấp, các ngành

trong việc tổ chức thực hiện pháp luậtvề khiếu nại chưa được thực hiện

thường xuyên và nhiều khi có thực hiện nhưng mang tính hình thức, tâm lý

nể nang nên kết qủa các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm còn hạn chế.

Nhiều địa phương, người có thẩm quyền giải quyết có tâm lý ngại tiếp

xúc làm việc với luật sư, người tư vấn pháp luật cho người khiếu nại. Do đó,

đôi khi ảnh hướng đến chất lượng giải quyết một số vụ việc.

Việc ban hành quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại về đất đai của

cơ quan hành chính có thẩm quyền đối với một số vụ việc còn chậm, chưa thể

hiện tính khách quan của kết luận thanh tra. Điều này đều do việc thẩm tra

xác minh, đề xuất biện pháp giải quyết với cấp có thẩm quyền ở một số vụ

việc cụ thể còn hạn chế, thẩm tra chưa đầy đủ nội dung công dân khiếu kiện

dẫn đến phải thẩm tra bổ sung làm cho vụ việc bị kéo dài.

Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai có

hiệu lực pháp luật ở quậncòn chậm và hạn chế. Từ đó, dẫn đến người khiếu nại

48

tiếp tục gửi đơn với thái độ bức xúc, hoặc quay sang tố cáo chính quyền cố

tình bao che sai phạm, làm giảm lòng tin của người dân vào chính quyền.

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Lãnh đạo của một số phòng ban cấp quận, Ủy ban Nhân dân các

phường chưa thấy hết tầm quan trọng, tính chất phức tạp của việc giải quyết

khiếu nại nói chung và khiếu nại về đất đai nói riêng, chưa coi đây là công

việc trọng tâm, thường xuyên nên chưa tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm

các vụ việc phức tạp; chưa coi trọng tổ chức thực hiện việc đối thoại, chưa

chỉ đạo sát sao và làm tốt công tác hoà giải cơ sở. Chưa phát huy tốt vai trò

của các tổ chức Đảng; sự phối kết hợp của chính quyền với Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể quần chúng còn hạn chế trong việc phát hiện, giải quyết mâu

thuẫn, tranh chấp trong Nhân dân; chưa làm tốt công tác dân vận thuyết phục,

đối thoại, hoà giải để người khiếu nại hiểu đúng chính sách pháp luật, tự giác

chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Khiếu nại về đất đai chủ yếu nảy sinh ở cấp quận mà Chủ tịch Ủy ban

Nhân dân quận là người chủ trì, chịu trách nhiệm chính về quyết định giải

quyết khiếu nại, nhưng do phải quản lý tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế-

xã hội của địa phương nên thường phân công một Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân

dân quận phụ trách, nên khó có điều kiện chuyên tâm vào việc này. Đây là

nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại chậm, không dứt

điểm, chất lượng giải quyết thấp, tái khiếu kiện.

Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức ở

địa phương còn nhiều hạn chế. Cán bộ chuyên môn của các phòng ban thụ lý

các vụ việc khiếu nại nhất là khiếu nại về đất đai còn mỏng, trình độ am hiểu

pháp luật về đất đai và luật khiếu nại còn hạn chế, chưa chuyên tâm trong

việc tham mưu cho lãnh đạo khi đưa ra các quyết định giải quyết khiếu nại.

Nhiều cán bộ công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với nhiệm

49

vụ tham mưu trong công tác quản lý Nhà nước được giao. Một bộ phận cán

bộ trong thực thi công vụ còn chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm, chủ

quan, duy ý chí trong việc tham mưu ban hành quyết định hành chính.

Chính sách pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại còn có bất cập,

thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ. Vẫn còn những quy định mâu thuẫn chồng

chéo giữa hai ngành luật này; việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đất

đai còn thiếu tính ổn định, thay đổi thường xuyên nên khó khăn trong việc

thực hiện.

Trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật ở cơ sở, một số nơi

thiếu công khai dân chủ trong quản lý đất đai. Qúa trình thực hiện dự án,

nhiều địa phương làm chưa tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động,

thuyết phục, giải thích, hoà giải ngay từ cơ sở đối với những phát sinh liên

quan đến việc thu hồi đất thực hiện dự án. Chưa tập trung giải quyết khiếu

kiện ngay từ đầu, chính quyền một số nơi chưa phát huy hết sức mạnh tổng

hợp của cả hệ thống chính trị trong việc ngăn ngừa, hạn chế đơn thư khiếu nại

và giải quyết khiếu nại.

Công tác quản lý Nhà nước về đất đai ở một số địa phương trước đây

bị buông lỏng, tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển đổi mục đích sử dụng

đất không đúng quy định, xây dựng nhà ở, công trình trái phép nhưng không

được kiểm tra, xử lý kịp thời. Hồ sơ địa chính, bản đồ lưu trữ không đầy đủ,

thiếu đăng ký chỉnh lý biến động, thiếu cập nhật thường xuyên, nên tài liệu

hồ sơ không phản ánh được hiện trạng quản lý sử dụng đất, thiếu thông tin và

cơ sở phục vụ cho công tác quản lý, sử dụng đất.

Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong hoạt động xác minh, kết

luận đơn thư khiếu nại còn chưa kịp thời, chưa chặt chẽ gây ảnh hưởng đến

tiến độ, chất lượng giải quyết vụ việc và hiệu quả thực hiện các quyết định đã

có hiệu lực pháp luật. Trong một số vụ việc, các đơn vị thực hiện sự phối hợp

50

giải quyết, đưa ra ý kiến thiếu sự nhất quán, từ đó công dân dựa vào các ý

kiến khác nhau để khiếu kiện gay gắt, kéo dài. Sự kiểm tra, đôn đốc của thủ

trưởng cấp trên chưa tích cực, còn nể nang, thiếu phê bình nghiêm khắc khi

cấp dưới chưa thực hiện tốt.

Ý thức chấp hành pháp luật của một số người dân còn hạn chế, nên có

những yêu cầu, đòi hỏi không đúng với quy định của pháp luật, thiếu cơ sở

xem xét giải quyết. Có những vụ việc đã được giải quyết nhiều lần với nhiều

biện pháp khác nhau, đúng chính sách, pháp luật, có lý, có tình nhưng người

khiếu nại vẫn không chấp nhận kết quả giải quyết, thậm chí có những phản

ứng tiêu cực, gây rối an ninh trật tự. Có một số công dân mặc dù hiểu rõ quy

định của pháp luật, song cố tình không chấp hành các quyết định hành chính

về đất đai, trong đó tập trung chủ yếu là các quyết định về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư.

51

Kết luận Chƣơng 2

Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, thành phố Hà Nội là điểm đến lập

nghiệp của cư dân nhiều địa phương khác nhau, đồng thời cũng là một quận

có nhiều công trình, dự án đầu tư để phát triển kinh tế xã hội, do vậy cũng sẽ

có những tác động ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người sử dụng đất, như

việc giải phóng mặt bằng, đền bù, giải tỏa, tái định cư, thu hồi đất... Từ đó

phát sinh tình hình khiếu kiện liên quan đến đất đai, ảnh hưởng không nhỏ

đến tình hình an ninh, trật tự xã hội;

Ủy ban Nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xác định nhiệm vụ

giải quyết khiếu nại về đất đai là đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm quyền và

lợi ích cho người sử dụng đất, đồng thời góp phần ổn định xã hội. Các cơ

quan được giao nhiệm vụ phối hợp giải quyết khiếu nại về đất đai cũng đã

phát huy tốt vai trò, trách nhiệm tham mưu cho Ủy ban Nhân dân quận trong

lĩnh vực này. Nhiều vụ việc liên quan đến khiếu nại đông người ở các địa

phương có dự án thu hồi đất được giải quyết cơ bản góp phần ổn định chính

trị, giữ vững an ninh, trật tự xã hội;

Bên cạnh những thành công trong việc tổ chức thực hiện pháp luật giải

quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính, của cán bộ, công chức trong

quận thì việc giải quyết khiếu nại còn có những hạn chế nhất định. Một trong

những nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu nại ngày càng phức tạp là do việc

tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của địa phương còn

nhiều bất cập, quá trình giải quyết còn chậm, chưa đúng quy định, chất lượng

giải quyết chưa cao, nhiều vụ việc giải quyết không dứt điểm, kéo dài; việc tổ

chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật chưa

nghiêm, chưa triệt để, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mặc

dù có thực hiện nhưng chưa thường xuyên, chưa phát huy hiệu quả trong việc

52

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, công tác tiếp công dân

chưa được quan tâm đúng mức, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn hạn

chế nên chưa kịp thời phát hiện và xử lý chưa nghiêm các trường hợp vi phạm

pháp luật về đất đai.

Vì vậy, giải quyết tốt các khiếu nại về đất đai, cần có những giải pháp

căn cơ phải làm tốt hơn nữa trong việc công bố công khai quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất; tuân thủ các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật

khi triển khai thực hiện dự án; Cẩn trọng, trách nhiệm trước khi ban hành các

quyết định hành chính liên quan đến các vấn đề về chính sách đất đai; Coi

trọng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về đất đai, tăng cường đối thoại

với người dân để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng nhằm giải quyết

thấu tình, đạt lý.

53

CHƢƠNG 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐẤT ĐAI CỦA

QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đất đai

3.1.1. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tuân theo

đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng

Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa

XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kì đẩy mạnh

toàn diện công cuộc đổi mới..., đã nhấn mạnh:" các cơ quan có thẩm quyền phải

tập trung giải quyết kịp thời thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về

đất đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành

chính, tố tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết".

Căn cứ vào quan điểm, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước nói trên,

việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan

hành chính ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, thành phố Hà Nội phải quán

triệt những quan điểm cốt lõi sau:

Một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại nói chung và khiếu

nại trong lĩnh vực đất đai nói riêng kéo dài, đông người gây bất ổn trật tự xã

hội một phần là do yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ. Kinh nghiệm thực

tiễn cho thấy ở nơi nào có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo mãnh mẽ của cấp uỷ

Đảng và chính quyền, thì nơi đó có tình hình giải quyết khiếu nại cũng có

nhiều chuyển biến tích cực, thậm chí việc khiếu nại là nhân tố quan trọng để

thúc đẩy kiện toàn về chất lượng đội ngũ cán bộ tại địa phương đó. Vì vậy

cần nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ Đảng và chính

54

quyền, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở địa phương đối với công tác

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành chính.

Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không áp đặt, không bao biện, làm thay

chức năng của cơ quan Nhà nước; đồng thời không coi nhẹ, buông lỏng sự

lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các cơ quan Nhà nước từ quận đến cơ sở. Sự

lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, mang tính định hướng bằng việc đề

ra đường lối, chủ trương cụ thể trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực

đất đai làm cơ sở cho Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và các cơ quan

Nhà nước có thể hoạt động độc lập. Đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra

hướng dẫn và khuyến khích những mặt tốt, tích cực; xử lý, uốn nắn kịp thời

những lệch lạc, vi phạm. Ngoài ra, Đảng còn lãnh đạo bằng vai trò tiên

phong, gương mẫu của các Đảng viên trong việc chấp hành pháp luật về

khiếu nại và pháp luật về đất đai. Đảng không trực tiếp thực hiện quyền lực

Nhà nước, mà Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cá nhân đảng viên do

Đảng giới thiệu, được Nhân dân bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ

quan hành chính Nhà nước.

Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại về đất đai thông

qua công tác cán bộ. Đảng phân công những đảng viên có trình độ lý luận,

trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức trực tiếp tổ chức thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính Nhà nước. Vai trò, trách

nhiệm trong giải quyết khiếu nại về đất đai của người đứng đầu các cơ quan

hành chính Nhà nước là trách nhiệm của người cán bộ, công chức và nhiệm

vụ của người đảng viên do Đảng tín nhiệm giao nhiệm vụ, thay mặt Đảng

lãnh đạo, chỉ đạo trong từng bộ phận, cơ quan thuộc bộ máy hành chính Nhà

nước. Đãng lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy chức năng giám sát, phản

biệt xã hội trong giải quyết khiếu kiện về đất đai, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của người sử dụng đất và nâng cao trách nhiệm, ý thức của cá nhân,

55

tổ chức có nhiệm vụ, thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai cũng như

góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống.

Bên cạnh đó, phát huy vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị

trong công tác hoà giải, tham gia làm người đại diện cho quyền, lợi ích hợp

pháp của người dân để cùng kiến nghị, xem xét, giải quyết. Tạo điều kiện cho

các đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-

xã hội ở quậnvà xã thực hiện chức năng giám sát, đôn đốc, chất vấn trong

hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan, cá nhân có

thẩm quyền trong thực thi quyền hành pháp ở địa phương như: Mời tham gia

giám sát ngay tại các buổi tiếp công dân định kỳ của Ủy ban Nhân dân quận,

Ủy ban Nhân dân phường để trực tiếp lắng nghe kiến nghị, khiếu nại của

Nhân dân cũng như giám sát quá trình giải quyết của cơ quan hành chính Nhà

nước; cung cấp nhanh chóng, đầy đủ các tài liệu hồ sơ khi được yêu cầu phục

vụ chức năng giám sát; phân công cán bộ giải trình các vấn đề được chất vấn;

tổ chức tiếp dân ngay tại cơ sở đối với các xã có nhiều đơn, thư và giải quyết

khiếu nại về đất đai tại chỗ trong một số trường hợp nhằm tăng cường giải

thích pháp luật tại chỗ và cán bộ xã, thôn cũng học tập phương pháp tiếp dân

cũng như giải quyết khiếu nại của huyện. Trên cơ sở đó sẽ tạo ra được sự

chuyển biến trong nhận thức về tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu

nại đối với việc ổn định an ninh chính trị ở địa phương làm tiền đề cho sự

phát triển kinh tế xã hội.

3.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai phải trên

cơ sở bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sử dụng đất

Khiếu nại là một trong những quyền tự nhiên của con người trước những

vấn đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Hay nói một cách khác, bản chất của

quyền khiếu nại chính là cơ chế "quyền bảo vệ quyền". Khiếu nại là công cụ,

phương tiện pháp lý hữu hiệu để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền và

56

lợi ích hợp pháp của mình. Không những thế, khiếu nại còn là một phương

thức quan trọng để công dân tham gia quản lý Nhà nước.

Quan điểm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất xuất

phát từ thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền con người, quyền sử dụng đất

quy định tại Điều 14, Điều 54 Hiến pháp năm 2013 "Ở nước Cộng hoà Xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo

Hiến pháp và pháp luật" và "Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ". Theo

đó, Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm an toàn pháp lý cho người sử dụng đất,

thông qua các quy định pháp luật để trao cho người sử dụng đất những quyền

cơ bản, những cơ sở pháp lý để người sử dụng đất tự bảo vệ lợi ích của mình

và chống lại sự tuỳ tiện, quan liêu, các hành vi vi phạm pháp luật của cá

nhân, tổ chức trong cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan Nhà nước

phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, luôn thể hiện ý chí

của Nhà nước nhưng phải phản ánh, thể hiện được lợi ích của người sử dụng

đất, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước và lợi ích chính đáng của người sử

dụng đất, coi Nhà nước và pháp luật là phương tiện hữu hiệu nhất để thực

hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

3.1.3. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai phải phát

huy dân chủ, đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình

trong hoạt động bộ máy nhà nước

Việc thực hiện quy chế dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ, sức

sáng tạo của Nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của

Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân

trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và

các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Thực hiện quy chế dân chủ giúp ngăn

chặn và khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, góp phần thực hiện mục

57

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, thực hiện quy chế dân chủ thể

hiện ở việc có cơ chế thích hợp để Nhân dân được tham gia ý kiến trước khi

chính quyền quyết định về những vấn đề như: Quy hoạch sử dụng đất, Kế

hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của chính quyền địa

phương; kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn; chủ trương,

chính sách, phương án đề bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ

tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư. Cần nghiên cứu để đưa ra

các hình thức trưng cầu dân ý phù hợp, mở rộng diễn đàn trao đổi khi nghiên

cứu, chuẩn bị triển khai thực hiện các dự án lớn trên địa bàn có sử dụng ngân

sách Nhà nước và sử dụng đến nhiều đất đai.

Các quy định của pháp luật về đất đai cũng như giải quyết khiếu nại về

đất đai cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng khách quan, công khai, minh

bạch, dân chủ; tăng cường tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Việc

công khai, minh bạch có thể thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, như

niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị, đưa lên website của các cơ quan trực tiếp

thực hiện thủ tục hành chính đó, phát trên phương tiện thông tin đại chúng

của địa phương hoặc in tờ rơi...vv. Ngoài ra, cho phép người dân được tham

gia vào quá trình hoạch định chính sách, ban hành văn bản pháp luật về đất

đai, về giải quyết khiếu nại...

Nhìn chung việc giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành chính

quán triệt quan điểm tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch sẽ góp phần

làm giảm các vụ khiếu nại về đất đai nói chung cũng như khiếu nại kéo dài

nói riêng khi người dân có điều kiện hiểu rõ và tham gia vào ban hành chính

sách, pháp luật.

58

3.1.4. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai phải đáp

ứng yêu cầu, mục tiêu cải cách hành chính

Thực hiện yêu cầu cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục

hành chính, để xác lập thủ tục hành chính công khai, thuận tiện cho tổ chức,

cá nhân sử dụng. Nội dung này chi phối nhiều đến việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả thực hiện quyền khiếu nại của công dân. Thủ tục khiếu nại và giải

quyết khiếu nại cần tiếp tục được rà soát để tiếp tục đổi mới theo xu hướng

đơn giản, hiệu quả và thuận tiện khi sử dụng. Trình tự và thời hạn giải quyết

khiếu nại của cơ quan hành chính Nhà nước phải công khai, minh bạch, bảo

đảm cho công dân dễ tiếp cận, dễ thực hiện khi tham gia vào quan hệ pháp

luật khiếu nại, đồng thời cũng bảo đảm cho công dân dễ dàng giám sát, phản

ánh việc thực hiện trình tự, thủ tục này của cơ quan hành chính Nhà nước.

Nếu các quy định về trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại phức

tạp, khó thực hiện và tiếp cận, thiếu minh bạch, công khai thì rất dễ dẫn đến

những vi phạm của công dân trong việc thực hiện trình tự thủ tục như: khiếu

nại vượt cấp, khiếu nại đông người, khiếu nại không đến đúng cơ quan có

thẩm quyền, khiếu nại nhiều lần.

Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức trong việc bảo

vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân là nội dung quan trọng của cải

cách hành chính, điều này tác động đến việc cần hoàn thiện, đổi mới cơ chế

giải quyết khiếu nại, nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền khiếu nại

của công dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Hướng tới

xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho

việc thành lập cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong hệ thống cơ

quan hành chính Nhà nước, thay đổi cơ chế giải quyết khiếu nại hiện nay là

người giải quyết khiếu nại lần đầu đối với chính quyết định hành chính của

59

mình ban hành. Việc thay đổi cơ chế này sẽ thuận lợi cho việc đảm bảo việc

giải quyết khiếu nại công bằng và khách quan.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước trong sạch, vững mạnh

là một yêu cầu quan trọng để nâng cao nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước

nói chung và chất lượng giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành

chính Nhà nước nói riêng. Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán

bộ công chức trực tiếp làm công tác giải quyết khiếu nại về đất đai là yếu tổ

ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải quyết khiếu nại về đất đai. Hiện nay,

khiếu nại về đất đai chủ yếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ

ban Nhân dân cấp huyện. Cán bộ làm công tác thụ lý đơn, kiểm tra, xác minh,

tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân quận - cấp có thẩm quyền ra quyết

định giải quyết chủ yếu thuộc Thanh tra quận, phòng Tài nguyên và Môi

trường, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết khiếu

nại về đất đai. Đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ này về năng lực, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Đồng thời phải nêu cao trách

nhiệm của người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại trong việc

tăng cường kiểm tra, giám sát, chỉ đạo sát sao, đảm bảo việc giải quyết khiếu

nại tuân thủ quy trình, thủ tục giải quyết.

3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại

về đất đai ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại về

đất đai

Để đảm bảo tốt tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất

đai trước hết phải trên nền tảng hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, thống

nhất, khả thi mà cụ thể là hệ thống pháp luật về đất đai và hệ thống pháp luật

về giải quyết khiếu nại. Có thể nói pháp luật khiếu nại là pháp luật hình thức,

60

pháp luật đất đai là pháp luật nội dung. Vì vậy việc tổ chức thực hiện pháp

luật về giải quyết khiếu nại đất đai trên cơ sở hai hệ thống pháp luật trên.

Thứ nhất, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất

nước, trên cơ sở kế thừa và tiếp tục thực hiện những quan điểm về chính sách,

việc hoàn thiện pháp luật về đất đai có thể tập trung vào những vấn đề sau:

Về quy hoạch sử dụng đất

Các quy địnhvề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, thống

nhất giữa Trung ương và địa phương, giữa quy hoạch của thành phố và của

quận theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải bảo đảm tính cân đối, phân bổ

hợp lý, sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và

đơn vị hành chính. Quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử

dụng đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ

trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Đổi mới kế hoạch sử dụng đất hằng năm theo hướng phải thể hiện được

nhu cầu sử dụng đất của các dự án đầu tư, của các ngành, lĩnh vực, làm căn cứ

để Nhà nước thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất

và xây dựng chính sách tài chính về đất đai nhằm hạn chế các khiếu nại, khiếu

kiện đất đai trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất

là khi Ủy ban Nhân dân phê duyệt các dự án cho các mục tiêu phát triển cần

bảo đảm tính công khai, minh bạch của quy hoạch sử dụng đất.

Về giao đất, cho thuê đất

Tập trung rà soát, xử lý dứt điểm những trường hợp đất đã giao cho các

cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức đoàn thể nhưng không sử dụng

hoặc sử dụng sai mục đích, trái pháp luật.

Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm

việc thuộc sở hữu Nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển kinh tế.

61

Quy định cụ thể điều kiện để nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất

thực hiện dự án phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời có chế tài đồng bộ, cụ thể

để xử lý nghiêm, dứt điểm các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho

thuê đất, nhưng sử dụng lãng phí, không đúng mục đích, đầu cơ đất, chậm

đưa đất vào sử dụng; không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất, giá trị

đã đầu tư vào đất đối với các trường hợp bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật

về đất đai.

Về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Luật Đất đai 2013 đã có hiệu lực được trên 3 năm, tuy nhiên, cũng cần

tính đến việc sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế đã bộc lộ, nhất là

vấn đề thu hồi đất và đền bù, hỗ trợ tái định cư theo hướng khẳng định rõ và

rất hạn chế các trường hợp được coi là "thật sự cần thiết" mới được thu hồi

theo đúng tinh thần của Hiếp pháp 2013 là chỉ vì mục đích an ninh, quốc

phòng, để phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

Đồng thời, cần làm rõ hơn vai trò của Hội đồng Nhân dân như là tiếng nói

của cử tri trong việc kiểm soát những quyết định thu hồi đất của Uỷ ban Nhân

dân cùng cấp. Về xác định giá đất, thẩm quyền quyết định giá đất cơ bản vẫn

không có gì thay đổi so với Luật Đất đai cũ (Chính phủ quyết định khung giá

đất, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định bảng giá đất và giá đất cụ thể). Như

vậy, các văn bản dưới luật sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cân đối

thành phần hợp lý trong hội đồng thẩm định giá đất, không chỉ có Uỷ ban

Nhân dân, đại diện ban ngành liên quan, tổ chức cung cấp dịch vụ định giá

đất độc lập, mà còn cần tới nhiều thành viên hội đồng là các chuyên gia về

định giá đất (như các chuyên gia định giá từ các cơ sở đào tạo, viện nghiên

cứu, khu vực doanh nghiệp định giá, hiệp hội định giá…). Với thành phần

như vậy mới đảm bảo việc định giá đất có cơ sở khách quan.

62

Bên cạnh hoàn thiện pháp luật đất đai cần ban hành Luật ban hành

quyết định hành chính và các quy định hướng dẫn thực hiện trong lĩnh vực

đất đai. Có thể nói, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

bảo đảm kỷ luật, kỷ cương của nền hành chính, bảo đảm tính tuân thủ pháp

luật của các cơ quan hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cần phải có cơ sở pháp lý đầy

đủ, vững chắc cho việc ban hành các quyết định hành chính. Điều này không

chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý mà còn tạo thuận lợi cho người dân

trong việc phối hợp cùng nhau thực hiện các thủ tục cần thiết trong hoạt động

quản lý hành chính, vừa đảm bảo tính dân chủ, minh bạch vừa đảm bảo tính

quyền uy, quyền lực phục tùng được xem là bản chất của các quan hệ hành

chính. Theo đó pháp luật phải làm rõ những gì cần được coi là quyết định

hành chính cũng như thẩm quyền, căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành

chính, các nguyên tắc về tính hợp pháp về nội dung và hình thức của quyết

định hành chính.

Việc ban hành Luật ban hành quyết định hành chính là cần thiết để có

cơ chế chặt chẽ kiểm soát việc ban hành quyết định hành chính, nhằm bảo

đảm tính hợp pháp, tính hợp lý, tính khả thi và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, cơ quan công quyền trong việc ban hành các quyết

định hành chính đảm bảo tính hợp pháp và tính hợp lý trong quá trình dân

chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Việc ban hành Luật ban hành quyết

định hành chính nhằm góp phần hạn chế sự tùy tiện, bảo đảm tính khách

quan, dân chủ, công bằng trong quy trình ban hành quyết định hành chính của

cơ quan hành chính Nhà nước nói chung, trong lĩnh vực đất đai nói riêng, qua

đó tạo thuận lợi cho việc bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của

người sử dụng đất, hạn chế phát sinh thủ tục hành chính. Đồng thời việc ban

hành luật này sẽ bảo đảm cho người dân có cơ sở để khiếu nại các quyết định

63

hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật; thẩm phán có cơ sở pháp lý rõ

ràng để đưa ra phán quyết đối với quyết định hành chính. Luật ban hành

quyết định hành chính được ban hành sẽ được áp dụng chung cho tất cả các

lĩnh vực quản lý Nhà nước. Tuy nhiên không thể dập khuôn cho tất cả các

lĩnh vực đều thực hiện giống nhau, mà Luật chỉ nên quy định những nguyên

tắc tối thiểu để đảm bảo sự hành xử đúng mực, hợp lý và tôn trọng quyền, lợi

ích của tổ chức, cá nhân, là một trong những kim chỉ nam trong hoạt động

của cơ quan hành pháp. Bên cạnh việc đòi hỏi chính sách, pháp luật về đất

đai và khiếu nại phải đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn; Thành phố

Hà Nội cũng nên nghiên cứu thực hiện một số giải pháp xây dựng và hoàn

thiện chính sách của địa phương như sau:

Rà soát hệ thống văn bản pháp luật để khắc phục tình trạng mâu thuẫn

về giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn bất cập như hiện nay: chưa phù hợp

với giá trị thị trường, hai thửa đất liền nhau cùng bị thu hồi đất để thực hiện

một dự án, nhưng đơn giá đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khác nhau do

nằm trên đơn vị hành chính khác nhau (giáp ranh giữa quận với huyện).

Người chấp hành đền bù, giải phóng mặt bằng còn bị thiệt thòi về quyền lợi

hơn so với người chây ỳ. Những vấn đề này đã và đang gây nên bức xúc, phát

sinh khiếu nại kéo dài, gay gắt.

Rà soát, sửa đổi để tránh việc không thống nhất trong chính sách quản

lý quỹ đất công tại các địa phương khác nhau trên địa bàn quận Đống Đa.

Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật giải khiếu nại về đất đai

Điều 12 và điều 13 của Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về quyền,

nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại: “được biết, đọc, sao chụp,

sao chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải

quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước”, quy định này

cần được xem xét bãi bỏ cho phù hợp, bởi đây là quy định mà trong thực tế

64

ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xác minh thu thập thông tin chứng cứ, vì ý

chí của nhà làm luật là muốn công khai khách quan trong việc giải quyết, sao

cho vụ việc được giải quyết dứt điểm mà người khiếu nại cũng như người bị

khiếu nại được thỏa mãn với chứng cứ chứng minh, không còn mâu thuẫn với

nhau; nhưng trong quá trình thực hiện thì quy định này lại càng gây thêm mâu

thuẫn nhiều hơn cụ thể như trong quá trình xác minh, người xác minh sẽ lập

biên bản ghi nhận ý kiến trình bày của những người hiểu biết sự việc, những

người thông tin thêm cho cơ quan thẩm quyền giải quyết nhiều chứng cứ; khi

người khiếu nại hoặc người bị khiếu nại đề nghị được biết, đọc, sao chụp, sao

chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết

khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước thì người giải quyết

phải thực hiện việc cung cấp theo quy định. Vì vậy người khiếu nại, người bị

khiếu nại biết được người cung cấp thông tin chứng cứ tuy đúng sự thật

nhưng gây bất lợi cho một trong hai bên, do đó bên được lợi sẽ đồng ý sẽ tôn

trọng quý mến người cung cấp hoặc trả thù lao; bên không được lợi họ sẽ tìm

cách trả thù; từ đó người hiểu biết không muốn trình bày, cung cấp thông tin

vì họ không được lợi ích gì mà còn có thể bị trả thù, nên trong quá trình thẩm

tra xác minh không thu thập được chứng cứ, thiếu thông tin chính xác có thể

giải quyết không đúng bản chất sự việc.

Điều 68 Luật khiếu nại quy định việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật

về khiếu nại đối với người khiếu nại và những người khác có liên quan; tuy

luật có quy định nhưng không có văn bản hướng dẫn chi tiết; trong khi các

luật khác hầu như đều có văn bản hướng dẫn xử lý hành vi vi phạm (như Luật

Đất đai, Luật đầu tư, Luật ngân sách…vv), vì vậy người khiếu nại có tư tưởng

“hên-xui” biết rằng vụ việc khiếu nại không chắc chắn là đúng nhưng cơ quan

có thẩm quyền giải quyết có khi là đúng, hoặc gây nhiều khó khăn, phức tạp,

làm hao tốn tiền của và thời gian của cơ quan Nhà nước mà người khiếu nại

65

hao tốn không lớn (chỉ tờ giấy A4 làm đơn kèm theo một vài chứng cứ nho

nhỏ, tiện dịp ngang qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghé vào gửi đơn,

hoặc gửi bưu điện là được xem xét giải quyết) từ đó họ khiếu nại tràn lan,

vượt cấp, có khi gây rối trật tự để tạo áp lực cho cơ quan Nhà nước.

Quy định thống nhất trình tự, thủ tục tiếp công dân, thụ lý giải quyết

đơn thư trên địa bàn quận

- Trong giai đoạn tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn

Uỷ ban Nhân dân quận giao phòng tiếp công dân Thanh tra quận làm

bộ phận thường trực tiếp dân. Tại các buổi tiếp dân của Chủ tịch Ủy ban Nhân

dân quận yêu cầu lãnh đạo Thanh tra quận cùng trực tiếp tiếp dân để kịp thời

giải thích các nội dung công dân đề nghị, góp phần giải quyết một lượng đơn

thư nhất định ngay từ khâu tiếp dân.

Tại các buổi tiếp dân của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận, yêu cầu lãnh

đạo phòng Tài nguyên và Môi trường cùng tham gia tiếp dân. Khi tiếp dân phải

mở sổ theo dõi, ghi đầy đủ, chi tiết các nội dung công dân đề nghị, các nội

dung giải thích của cán bộ tiếp dân, các tài liệu công dân cung cấp. Đối với các

đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai được tiếp nhận giải quyết, Chủ tịch

Ủy ban Nhân dân quận phải có văn bản giao nhiệm vụ xác minh cho cơ quan

Thanh tra hoặc phòng Tài nguyên và Môi trường chủ trì, Thanh tra quận phối

hợp ngay trong ngày, trường hợp tiếp dân vào buổi chiều thì văn bản giao

nhiệm vụ xác minh có thể lùi đến ngày làm việc kế tiếp sau ngày tiếp dân.

- Trong giai đoạn xác minh giải quyết khiếu nại

Cơ quan được giao nhiệm vụ xác minh phải tiến hành làm việc bước

đầu với người đề nghị giải quyết tranh chấp và các bên liên quan khác trong

quan hệ tranh chấp để xác định chính xác nội dung tranh chấp.

Nếu xác định tranh chấp đất đai bản chất là các dạng tranh chấp khác

không thuộc quyền giải quyết của cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan được

66

giao nhiệm vụ xác minh phải báo cáo về việc không thụ lý giải quyết, lý do

không thụ lý gửi Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận để thông báo bằng văn bản

cho công dân biết việc không thụ lý.

Nếu xác định tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết thì tiếp

tục giải quyết theo các bước sau:

- Cơ quan được giao nhiệm vụ xác minh phải ban hành văn bản thành

lập Đoàn xác minh, gửi cho các bên tranh chấp, Ủy ban Nhân dân cấp phường

nơi có đất tranh chấp và gửi 01 bản cho Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận.

- Đoàn xác minh trực tiếp tiến hành xác minh bằng các biện pháp

nghiệp vụ được pháp luật cho phép.

- Kết thúc xác minh, Đoàn xác minh phải tổ chức thông báo kết quả xác

minh, công khai các chứng cứ thu thập được trong quá trình xác minh với các

bên tranh chấp, tổ chức đối thoại giữa các bên tranh chấp.

- Sau khi đã có đầy đủ các chứng cứ để kết luận vụ việc, Đoàn xác

minh lập báo cáo xác minh gửi Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận xem xét. Báo

cáo xác minh phải nêu được nội dung tranh chấp, tên và địa chỉ các bên tranh

chấp, địa chỉ diện tích đất tranh chấp, các chứng cứ do các bên đưa ra, các

chứng cứ do Đoàn xác minh thu thập được, quan điểm của Ủy ban Nhân dân

cấp ph nơi có đất tranh chấp nhận xét, đánh giá chứng cứ của Đoàn xác minh,

đề xuất kết luận, kiến nghị của Đoàn xác minh.

- Nếu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận không nhất trí với báo cáo của

Đoàn xác minh thì yêu cầu Đoàn xác minh làm rõ thêm các nội dung còn

vướng mắc hoặc chưa rõ ràng, hoàn chỉnh lại báo cáo. Nếu nhất trí, Chủ tịch

Ủy ban Nhân dân quận tổ chức họp để thống nhất quan điểm giải quyết với

các thành phần gồm: Cơ quan xác minh, phòng Tài nguyên và Môi trường,

Ủy ban Nhân dân cấp phường nơi có đất tranh chấp, mời thêm đại diện các

ngành có liên quan.

67

Kết thúc quá trình này, cơ quan xác minh có kết luận xác minh trình

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận để xem xét ra kết luận giải quyết. Quy định

cụ thể thời gian cho các công việc nêu trên.

- Trong giai đoạn ban hành quyết định giải quyết khiếu nại

Do quá trình giải quyết đã tranh thủ sự tham gia ý kiến về chuyên môn

của các ngành có liên quan, sau khi cơ quan xác minh có kết luận xác minh, Chủ

tịch Ủy ban Nhân dân quận trực tiếp ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.

Quyết định giải quyết phải quy định rõ thời gian, trách nhiệm của các

bên thực hiện, trách nhiệm theo dõi đôn đốc, thực hiện các công việc cần thiết

của các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan. Quyết định được gửi cho các

bên tranh chấp, các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban Nhân dân

cấp phường nơi có đất tranh chấp, các cơ quan liên quan. Cùng với quyết định

này, trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận có thể ban

hành các văn bản hành chính khác để xử lý, chỉ đạo xử lý hoặc báo cáo đề

xuất xử lý các vi phạm phát hiện qua công tác xác minh.

- Trong giai đoạn thực hiện quyết định

Quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai sau khi đã ban hành phải được

thông tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương

như: hệ thống loa truyền thanh, cổng thông tin điện tử của Ủy ban Nhân dân

quận...vv, để tranh thủ sự đồng thuận của dư luận xã hội, tạo áp lực cho các bên

đương sự nếu có ý định không chấp hành quyết định giải quyết

Các bên tranh chấp phải chấp hành nghiêm quyết định giải quyết trong

thời hạn ghi trong quyết định. Trường hợp bên nào cố tình không chấp hành, Ủy

ban Nhân dân quận có quyền tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật.

Mọi chi phí cho việc tổ chức cưỡng chế do bên bị cưỡng chế có trách nhiệm bồi

hoàn cho Nhà nước theo quy định. Nếu không bồi hoàn, Ủy ban Nhân dân quận

áp dụng các biện pháp cưỡng chế bồi hoàn cần thiết theo quy định.

68

Ngoài những quy định trên, về việc công khai, minh bạch trong việc tổ

chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai cũng cần có cơ chế

nhằm buộc cơ quan có thẩm quyền cần tuân thủ nghiêm ngặt như tuân thủ các

quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền

phê duyệt và công bố; hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và hộ gia đình cá nhân

sử dụng đất theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt;

chủ động ngăn chặn kịp thời không để xảy ra tình trạng lấn chiếm, chuyển

nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái pháp luật, không tuân thủ theo

quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố; kịp thời xử lý hoặc báo cáo

để xử lý những hành vi vi phạm đến việc sử dụng đất không đảm bảo theo

quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp quận. Tổ chức thực hiện các

thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo

thẩm quyền phải đảm bảo phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp

quận đã được duyệt. Tổ chức thực hiện, kiểm tra và báo cáo định kỳ kết quả

thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm theo Điều 50, Luật Đất

đai năm 2013.

Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất

sử dụng theo đúng mục đích, đúng diện tích được Nhà nước giao đất, cho thuê

đất và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, không bỏ đất hoang, đầu tư cải tạo đúng

mục đích, tạo hiệu quả tốt cho kinh tế - xã hội của địa phương.

Tóm lại, thực hiện đúng và đầy đủ nội dung, trình tự, thủ tục giải quyết

khiếu nại sẽ có tác động tích cực đến việc thực hiện kết luận thanh tra, có thể

ngăn ngừa được các hành vi vi phạm do kết luận được công khai quá rộng rãi

Xác định cụ thể hơn thẩm quyền, trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp

luật giải quyết khiếu nại về đất đai

Cần tăng cường trách nhiệm giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính

Nhà nước bằng các biện pháp: xác định rõ chế độ trách nhiệm của Thủ trưởng

69

cơ quan hành chính Nhà nước là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;

tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại; chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý nghiêm

những người vi phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại.

Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Ban tiếp công dân của Ủy ban Nhân dân

quận, tổ chức chỉ đạo kiện toàn một cách thống nhất trong toàn quận bộ phận

tiếp công dân ở các phường;

Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về tổ chức đối

thoại; luật sư tham gia quá trình giải quyết khiếu nại; công khai minh bạch

các tài liệu, chứng cứ của các bên; tăng cường việc “tranh tụng” để phá vỡ

tính “khép kín” trong quá trình giải quyết khiếu nại. Đồng thời, quy định

thẩm quyền, căn cứ, thủ tục xem xét lại khiếu nại trong một số trường hợp cụ

thể khi phát hiện việc giải quyết khiếu nại có vi phạm pháp luật; các vụ việc

khiếu nại phức tạp, kéo dài...

3.2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức tổ

chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

Trong quá trình thực hiện cán bộ, công chức, người có thẩm quyền giải

quyết khiếu nại thực hiện không đúng quy định do nhận thức pháp luật còn

hạn chế, không cùng quan điểm; có trường hợp cố ý làm sai để hưởng lợi.

Chính sai phạm của cán bộ, công chức là lý do để phát sinh khiếu nại; một số

cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất đạo đức, quan liêu, hách dịch, nhũng

nhiễu, vô cảm trước yêu cầu chính đáng của nhân dân.

Đối với các cơ quan hành chính Nhà nước, cần xây dựng quy hoạch, kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại

theo hướng chuyên nghiệp, am hiểu lý luận và thực tiễn, giỏi về chuyên môn,

có kỹ năng thành thạo khi giải quyết khiếu nại, phù hợp với yêu cầu quản lý

70

Nhà nước và thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ

quan hành chính Nhà nước ở các cấp trong quản lý về đất đai.

Hiện nay, số lượng và chuyên ngành đào tạo của đội ngũ cán bộ làm

công tác giải quyết khiếu nại về đất đai tại địa bàn quậnđều có hạn chế, việc

giải quyết khiếu nại về đất đai của huyên chưa đạt kết quả như yêu cầu đặt ra.

Do vậy, bên cạnh việc ban hành quy định thống nhất trình tự, thủ tục, thống

nhất cơ quan đầu mối, cơ quan thực hiện trên địa bàn tỉnh, bên cạnh việc kiện

toàn tổ chức của các cơ quan nói chung, cần thiết phải thực hiện đồng bộ

nhiều giải pháp nhằm kiện toàn công tác cán bộ, nâng cao chất lượng tham

mưu trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai như:

- Rà soát, đánh giá lại chất lượng cán bộ hiện tại của Thanh tra, phòng

Tài nguyên và Môi trường huyện, kiên quyết chuyển công tác những cán bộ

không đáp ứng được yêu cầu công việc.

- Tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ thông

qua việc tuyên truyền, động viên, phát động các phong trào trong cơ quan,

trong ngành, thông qua các hoạt động hỗ trợ về thời gian, kinh phí cho người

đi học...

- Làm tốt công tác đánh giá, sử dụng, đề bạt, thi đua khen thưởng,…

đối với cán bộ, công chức nói chung, cán bộ công chức làm công tác tổ chức

thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai nói riêng.

- Bổ sung các nguồn lực vật chất cho các cơ quan, đơn vị và công chức

làm nhiệm vụ xác minh, tham mưu giải quyết đơn thư về đất đai, tập trung

theo hướng đảm bảo kinh phí thường xuyên cho các cơ quan này trong các

hoạt động đo đạc, giám định, … đảm bảo các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết

phục vụ công tác chuyên môn như máy ghi âm, ghi hình, máy tính xách tay,

GPS hoặc phương tiện đo nhanh.

71

Bên cạnh đó, việc sắp xếp, bố trí cán bộ phải phù hợp với trình độ

chuyên môn, đối với người lãnh đạo quản lý phải thường xuyên kiểm tra

công chức chuyên môn của mình để chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót và

kiên quyết xử lý nghiêm những hành vi sai phạm; hàng năm phải tập huấn

nghiệp vụ cho công chức địa chính cấp xã, những người được giao nhiệm vụ

tham mưu giải quyết khiếu nại về đất đai.

3.2.3. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến ý thức pháp luật về khiếu nại và

giải quyết khiếu nại đất đai

Với nhân dân, trước hết cần tăng cường tuyên truyền, phổ biển, giáo

dục pháp luật, cụ thể: Luật Đất đai sửa đổi năm 2013, Luật Khiếu nại 2011,

Luật Tiếp công dân 2013....và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng

cao nhận thức của người dân đối với pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu

nại. Đây là biện pháp căn bản và để làm hạn chế khiếu nại phát sinh trong

lĩnh vực đất đai và cũng là biện pháp căn bản để nâng cao chất lượng giải

quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn

huyện. Bởi lẽ trong thực tế nhiều người dân còn chưa quan tâm tìm hiểu pháp

luật đất đai, pháp luật về khiếu nại. Những hiểu biết về pháp luật còn nhiều

hạn chế, hiểu theo quan nệm cũ, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhiều

người sử dụng đất là theo thói quen, đến khi phát sinh quan hệ pháp luật thì

đó là những nguyên nhân chính của những khiếu kiện về đất đai, tranh chấp

đất đai. Chỉ khi người dân nắm bắt được các quy định của pháp luật thì họ

mới hiểu rõ việc làm đúng, làm chưa đúng trong công tác quản lý Nhà nước

về đất đai và giải quyết khiếu nại của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực đất

đai. Khi đó công dân sẽ nhận thức được việc có nên khiếu nại hay không và

khiếu nại về vấn đề gì là có cơ sở, có căn cứ; họ sẽ thực hiện khiếu nại đúng

cấp có thẩm quyền; sẽ có lập trường quan điểm của họ, làm hạn chế sự ảnh

hưởng, lôi kéo, xúi dục khiếu kiện đông người.

72

Vì vậy, để thực hiện tốt nội dung này, cần ưu tiên những nội dung cụ thể

sau:

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai sửa đổi năm 2013,

với cách thức tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm: Căn cứ vào quy hoạch,

kế hoạch sử dụng đất, dự án đã đăng ký đầu tư hoặc ưu tiên đăng ký đầu tư

tại địa bàn dân cư nào, thì tập trung tuyên truyền những vấn đề có liên quan

trực tiếp đến việc triển khai kế hoạch sử dụng đất đó, ví dụ như về chính sách

bồi thường giải phóng mặt bằng hiện hành, quyền chuyển nhượng, quyền góp

vốn bằng quyền sử dụng đất vào dự án, chính sách chuyển đổi cơ cấu ngành

nghề, hỗ trợ việc làm.… Đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp luật đất

đai và pháp luật khiếu nại với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như phát

tờ rơi, tờ gấp, phát những bảng tin ngắn tuyên truyền dưới dạng hỏi đáp pháp

luật, xây dựng các tiểu phẩm nêu lên các tình huống cụ thể trong lĩnh vực

quản lý đất đai, lĩnh vực khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai.

- Tạo ra cơ chế chính sách thích hợp, để nhân dân nêu cao tinh thần

làm chủ của mình, biểu hiện trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất là việc người

dân được tham gia đóng góp ý kiến sâu hơn, rộng hơn trong việc xây dựng

Quy hoạch sử dụng đất, Kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm. Qua đó

Nhân dân tham gia vào thoạt động quản lý Nhà nước về đất đai, giám sát việc

tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng và công tác quản

lý sử dụng đất của chính quyền cơ sở.

- Với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính làm công tác quản lý đất

đai, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại cần phải nhận thức đầy đủ thẩm

quyền của mình trong từng công việc chuyên môn, trong đó đặc biệt là nghĩa

vụ phục vụ nhân dân của người cán bộ, công chức hưởng lương Nhà nước.

Phải nhận thức việc khiếu nại là quyền cơ bản của công dân; thông qua khiếu

nại, người dân đề nghị giải quyết quyền lợi của họ bị xâm phạm và mặt khác

73

là hình thức để Nhân dân tham gia vào quá trình quản lý xã hội. Khi giải

quyết khiếu nại của công dân, cán bộ, công chức vừa phải là người hiểu biết

pháp luật có liên quan, vừa “thấu hiểu” cả tâm tư, nguyện vọng của họ vì

nhiều khi phải tự đặt mình ở cương vị của người dân đi khiếu nại về đất đai

mới thực sự thấu hiểu, để từ đó giải quyết khiếu nại thấu tình, đạt lý và có

hiệu quả.

- Nâng cao nhận thức của người làm chính sách về đất đai, chính sách

về giải quyết khiếu nại. Việc xây dựng chính sách pháp luật làm định hướng

cho công tác quản lý xã hội là vô cùng quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng

không kém là xây dựng chính sách thế nào để khi áp dụng vào thực tiễn

không vướng mắc, không mâu thuẫn, chồng chéo, không gây bức xúc trong

xã hội và dễ thực hiện. Trong điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và thông tin

liên lạc như hiện nay, một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, có

hiệu lực thi hành sẽ tác động ảnh hưởng rất nhanh đến nhóm đối tượng mà nó

điều chỉnh. Với tính nhạy cảm cao như vậy, đòi hỏi người làm chính sách

phải nhận thức đầy đủ về trách nhiệm cũng như tầm quan trọng trong việc

làm của mình. Khi xây dựng hay sửa đổi một văn bản quy phạm pháp luật,

người làm chính sách cần thấm nhuần tinh thần xây dựng, mục đích, yêu cầu,

tính cần thiết, tính hợp pháp của văn bản đó; các điều khoản phải rõ ràng dễ

hiểu và bao hàm trong đó các quy phạm pháp luật để điều chỉnh phạm vi đối

tượng cụ thể với không gian và thời gian rõ ràng. Đảm bảo các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thể hiểu và thực hiện một cách dễ dàng, thuận tiện, tránh

trường hợp cùng một nội dung nhưng lại quy định bởi nhiều văn bản khác

nhau, thậm chí hàm chứa những quy phạm không đồng nhất, làm mất nhiều

thời gian tra cứu và khó khăn trong triển khai thực hiện.

Như vậy, yêu cầu đòi hỏi đối với người làm trong lĩnh vực quản lý đất

đai, giải quyết khiếu nại, phải là người có trình độ lý luận, trình độ chuyên

74

môn chuyên sâu về lĩnh vực đất đai, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất

đai, có trình độ quản lý nhất định, có kiến thức kinh nghiệm thực tiễn. Như

vậy thì chất lượng văn bản ban hành từng bước được nâng cao.

3.2.4. Nâng cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức

năng, phát huy vai trò giám sát của xã hội đối với việc tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại nói chung và giải

quyết khiếu nại về đất đai nói riêng của cơ quan hành chính Nhà nước là hoạt

động thực hiện quyền lực Nhà nước, do đó hoạt động này cũng phải được giám

sát, kiểm tra, thanh tra bởi những thiết chế chính trị - xã hội khác nhau, nhằm

theo dõi, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Do vậy cần phải nâng cao trách nhiệm

giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan chức năng và đoàn thể đối với việc

tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, cụ thể như:

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng

cơ quan trong công tác giải quyết khiếu nại, thường xuyên rà soát và tập

trung chỉ đạo kiên quyết đối với những vụ khiếu nại tồn đọng.

- Tiến hành thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền của các cơ quan thanh

tra, các cơ quan cấp trên đối với cấp dưới;

- Tăng cường trách nhiệm giám sát của Hội đồng Nhân dân: Hội đồng

Nhân dân xem xét báo cáo của Ủy ban Nhân dân trong việc tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Thường trực Hội đồng Nhân dân, tổ

chức Đoàn giám sát hoặc giao cho các Ban của Hội đồng Nhân dân giám sát

việc giải quyết khiếu nại về đất đai tại địa phương;

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận

cũng phải tăng cường trách nhiệm giám sát của mình trong việc thi hành pháp

75

luật đối với các cơ quan, cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ giải quyết

khiếu nại về đất đai;

- Ban Thanh tra nhân dân cần phát huy tốt vai trò giám sát việc thực

hiện việc giải quyết khiếu nại về đất đai đối với Ủy ban Nhân dân và Chủ tịch

Ủy ban Nhân dân phường. Tuy thiết chế thực hiện quyền giám sát không

mang tính quyền lực Nhà nước, nhưng trong hoạt động giám sát có tính chất

nhân dân thì vai trò của các Ban Thanh tra Nhân dân hết sức quan trọng và

quan trọng là cụ thể hóa phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra”.

Báo chí ở Việt Nam được xem là phương tiện thông tin đại chúng thiết

yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng,

cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Do vậy báo chí

cũng cần phát huy trách nhiệm của mình trong quá trình giám sát việc thực

thi pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai;

Tăng cường vai trò của các cơ quan giám sát trong tổ chức thực hiện

pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai là một yêu cầu khách quan đang đặt

ra hiện nay, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân. Qua đó xây dựng môi

trường pháp lý lành mạnh, minh bạch, góp phần quan trọng vào việc thực

hiện cải cách tư pháp trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay.

Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện trình tự, thủ tục, quy chế

phối hợp, chia sẻ thông tin… giữa các cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm

tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai;

3.3. Một số kiến nghị

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật

giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội,

thành phố Hà Nội trong thời gian đến, xin kiến nghị một số nội dung sau:

76

Quận cần quan tâm đầu tư thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin trong

tiếp nhận, xử lý, tạo cơ sở dữ liệu thống nhất để giải quyết nhanh chóng, hiệu

quả các vụ việc.

Các đơn thư khiếu nại phát sinh chủ yếu ở những địa bàn triển khai các

dự án đầu tư. Vì vậy, khi phát sinh các dự án đầu tư trên địa bàn quận, Ủy ban

nhân dân quận cần chủ động làm tốt công tác công khai chủ trương thực hiện

dự án; các ngành đoàn thẻ tích cực trong việc tuyên truyền, giải thích để tạo sự

đồng thuận trong nhân dân. Tăng cường chỉ đạo quyết liệt trong việc chấn

chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác hòa giải cơ sở, để giải quyết những vướng

mắc ngay từ cơ sở.

Tăng cường công tác tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với người dân

trước khi triển khai chương trình dự án trên địa bàn nhằm lắng nghe, giải thích,

giải quyết kịp thời bức xúc của người dân trong vùng dự án, tạo sự đồng thuận

cao của người dân, hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ khiếu nại

đông người, vượt cấp.

Rà soát, tập trung xử lý, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại còn tồn

đọng, phức tạp. Chỉ đạo rà soát, củng cố hồ sơ quản lý đất đai, làm cơ sở pháp lý

cho công tác giải quyết khiếu nại về đất đai;

Quan tâm củng cố cơ sở vật chất, sắp xếp, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán

bộ, công chức làm công tác tiếp công dân (từ quận đến phường), đảm bảo về số

lượng và nâng cao trình độ, chất lượng tham mưu giải quyết khiếu nại có đủ

trình độ, năng lực chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ;

Tăng cường thanh tra trách nhiệm trong công tác giải quyết đơn thư

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân đối với thủ trưởng các

phòng, ban và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các phường; tập trung thanh tra

trách nhiệm đối với một số xã có nhiều vụ việc khiếu nại về đất đai kéo dài,

vượt cấp, đông người, phức tạp; không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của

77

cấp trên... Để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, cần chấn chỉnh những

tồn tại, yếu kém những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp

luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai, nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương,

tăng cường hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xử lý nghiêm

theo quy định đối với những cơ quan, người có thẩm quyền thiếu tinh thần trách

nhiệm trong công tác tiếp công dân, xử lý, giải quyết khiếu nại về đất đai;

78

Kết luận chƣơng 3

Luận văn đã đi phân tích, đánh giá và tổng hợp từ thực tiễn tổ chức

thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân quận

Đống Đa, thành phố Hà Nội, từ đó đã rút ra những kết quả, những tồn tại hạn

chế và nguyên nhân của nó trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai.

Luận văn đã đưa ra được nhóm các quan điểm và một số giải pháp đảm

bảo tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai nói chung, trên

địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nói riêng, Những giải pháp mà tác

giả đề xuất, nếu được chính quyền quan tâm vận dụng sẽ góp phần nâng cao

hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân cấp

quận, cụ thể: Trước hết là hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết

khiếu nại trong lĩnh vực đất đai đảm bảo phù hợp với các quy định của Luật

khiếu nại và luật giải quyết các vụ án hành chính khác như Luật Tố tụng hành

chính; cần phải nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân; kiện toàn

tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp tham mưu giúp Ủy ban

nhân dân quận giải quyết khiếu nại về đất đai; thực hiện tốt Luật tiếp công

dân; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp chặt chẽ các tổ chức

chính trị xã hội trong quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai; tăng cường

giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai

của Ủy ban nhân dân cấp quận.

79

KẾT LUẬN

Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý giá, không

thể thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ chính trị. Nó có vị

trí và tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn

hoá- xã hội của mọi quốc gia, dân tộc. Nhận thức rất rõ vị trí, tầm quan trọng

của đất đai nên qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng

và Nhà nước ta đều có những chủ trương, chính sách nhằm quản lý và sử

dụng một cách hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ một cách tốt nhất cho sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Để phát huy được vai trò của đất

đai trong đời sống thì chúng ta phải tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp

luật đối với đất đai mà một trong những nội dung quan trọng của nội dung

quản lý Nhà nước đối với đất đai là tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết các

khiếu nại về đất đai. Do vậy, thực hiện tốt pháp luật giải quyết khiếu nại về

đất đai góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước

về đất đai.

Tổ chức thực hiện pháp luật là việc Nhà nước thông qua các cơ quan

Nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp

luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các

quy định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ

hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Điều này cho thấy tổ chức thực

hiện pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt của cơ quan Nhà nước nói

chung và của cơ quan hành chính Nhà nước nói riêng, mà biểu hiện rõ nhất là

các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can

thiệp của Nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy

phạm pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào

các quan hệ của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện pháp luật

80

giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban Nhân dân cấp quận là việc người

có chức trách, thẩm quyền của Ủy ban Nhân dân cấp quận bằng quyền hạn

của mình, căn cứ vào quy định của pháp luật ban hành một quyết định hành

chính giải quyết các khiếu nại về đất đai nhằm để xác minh tính chất đúng,

sai của nội dung khiếu nại, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một

phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị

khiếu nại; buộc bồi thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người khiếu nại có

quyền khiếu nại, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án hay không;

khôi phục uy tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của người khiếu nại.

Do đó trước tình hình khiếu nại về đất đai còn diễn biến phức tạp, để tiếp

tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đất đai, khắc phục những hạn chế,

yếu kém, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết

khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung, của Ủy

ban Nhân dân cấp quận nói riêng, bảo đảm cho pháp luật đất đai, pháp luật

khiếu nại, tố cáo đi vào cuộc sống một cách dễ dàng và thuận tiện, đáp ứng

được yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc

nghiên cứu vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

của Ủy ban Nhân dân cấp quận là hết sức quan trọng và cần thiết. Thông qua

đó nhằm rút ra những kinh nghiệm thực tiễn để tiếp tục bổ sung hoàn thiện về

mặt lý luận. Đồng thời, trên cơ sở những giải pháp được rút ra sẽ góp phần

quan trọng cho việc xây dựng pháp luật, ban hành pháp luật và tổ chức thực

hiện pháp luậtvề đất đai được thống nhất, chặt chẽ, thông suốt và nghiêm

minh, sát hợp với nhu cầu của đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập

quốc tế. Góp phần tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước quyền Việt Nam

xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010,

định hướng đến 2020.

2. Báo cáo số 349/BC-UBND ngày 09/12/2016 của Ủy ban Nhân dân quận

Đống Đa, thành phố Hà Nội về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo giai đoạn 2013 đến 2016;

3. Báo cáo số 354/BC-UBND, ngày 25/12/2016 của Ủy ban Nhân dân

quậnvề việc thuyết minh diện tích các loại đất trong kế hoạch sử dụng

đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;

4. Nguyễn Thị Thuý Bằng (2013), Luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính

công: " Giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện

nay".

5. Tô Văn Châu (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối

với đất đai ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

6. Chính phủ ( 2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm

2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai.

7. Chính phủ (2012), Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm

2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại.

8. Nguyễn Văn Chuyên ( 2016), Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu

nại về đất đai – Từ thực tiễn quậnĐông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, Luận văn

Thạc sỹ luật học, Học viện Hành Chính quốc gia, Hà Nội.

9. TS Trần Kim Cúc và ThS Nguyễn Thị Phượng với bài " Khiếu kiện về

đất đai thực trạng và giải pháp", Tạp chí quản lý Nhà nước, tháng

10/2003.

82

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban

Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Tài liệu học tập và

nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Luận văn thạc sỹ Luật học về đề tài:

"Giải quyết khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp của các cơ

quan hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện nay"

17. Nguyễn Mạnh Hùng ( 2003), Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với

đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

18. Hà Văn Khanh (2007), Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính Nhà

nước về đất đai ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học

viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Phạm Thị Liên (2018), Tổ chức thực hiên pháp luật về hộ tịch từ thực

tiễn huyên Kim Động tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp –

Luật Hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia.

20. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

83

21. C. Mác- Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

22. Đỗ Thị Phượng (2005), Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình thực

trạng và giải pháp khắc phục, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

23. Nguyễn Cảnh Quý (2001), Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đất

đai ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

24. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

25. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất

đai năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thanh

tra năm 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật khiếu

nại năm 2011, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị quyết

số 39/2012/QH13 về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện

chính sách pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối

với các quyết định hành chính về đất đai.

29. Th.s Trần Văn Sơn (2005), "Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo của cơ quan hành chính Nhà nước- giải pháp tăng cường

pháp chế XHCN", Tạp chí Lập pháp, tháng 8/2005.

30. Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh (2004), Một số vấn đề đổi mới cơ

chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

31. Thanh tra quận Đống Đa, thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo tổng kết

công tác Thanh tra năm 2013 đến năm 2016.

84

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công

an Nhân dân, Hà Nội.

33. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận chung nhà

nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Hữu Tiến (2017), Tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và

xử lý đơn thư khiếu nại tố cáo, kiến nghị phản ánh – từ thực tiễn thành phố

Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

35. Nguyễn Văn Quảng (2018), Tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết

khiếu nại trong lĩnh vực đất đai ở đô thị - từ thực tiễn quận Bắc Từ Liêm,

thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp – Luật Hành chính,

Học viện Hành chính Quốc gia.

85