MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………… ..... 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………… ...... 7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7
5.1. Phương pháp luận…………………………………………………………......... 7
5.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………… .......................................... 7
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp…………………………… ............. 7
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu……………………………… ........................ 8
5.2.3. Các phương pháp khác…………………………………… .......................... 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................................... 8
7. Kết cấu luận văn .......................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP .............. 10
1.1. Giảng viên các Trường đại học công lập ................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm giảng viên và giảng viên đại học công lập .................................... 10
1.1.2. Vai trò của giảng viên đại học ......................................................................... 11
1.1.3. Tiêu chuẩn giảng viên đại học ......................................................................... 15
1.1.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của giảng viên đại học .............................................. 17
1.1.4.1. Nhiệm vụ của giảng viên đại học…………………… .......................... 17
1.1.4.2. Quyền hạn của giảng viên đại học…………………………….. .......... 18
1.2. Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ........... 20
i
1.2.1. Khái niệm quản lý ........................................................................................... 20
1.2.2. Quản lý nhà nước ............................................................................................ 21
1.2.3. QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ..................... 22
1.2.3.1. Khái niệm .............................................................................................. 22
1.2.3.2. Sự cần thiết và mục tiêu của quản lý nhà nước đối với giảng viên các
trường đại học công lập…………………………………………….. ................ 23
1.2.2.3. Cơ quan quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập………………………………………………………… ............... 23
1.2.3.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập……………………………………… …….. ................................ 24
1.2.3.4.1. Về ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đội ngũ giảng
viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập ........................................ 27
1.2.3.4.2. Về quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên trong các
cơ sở giáo dục đại học công lập ................................................................ 29
1.2.3.4.3. Về hướng dẫn, quy định và tổ chức thực hiện các quy định pháp
luật về tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên ...... 32
1.2.3.4.4. Về Quy định và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính sách
đãi ngộ, chế độ khen thưởng và kỉ luật ..................................................... 36
1.2.3.4.5. Về thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với
giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập .............................. 40
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THUỘC BỘ XÂY DỰNG
Ở KHU VỰC MIỀN NAM ......................................................................................... 42
2.1. Tổng quan về các Trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam ............................................................................................................................... 42
2.1.1. Về Bộ Xây dựng .............................................................................................. 42
2.1.2 Về các Trường đại học thuộc Bộ Xây dựng và các trường đại học thuộc Bộ
xây dựng ở khu vực Miền Nam ................................................................................. 43
ii
2.1.3 Tổng quan về giảng viên các trường Đại học thuộc Bộ Xây dựng .................. 44
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường Đại học công
lập thuộc Bộ Xây dựng ở phía Nam .............................................................................. 46
2.2.1. Về bộ máy tổ chức ........................................................................................... 46
2.2.2. Hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường Đại học
công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam ................................................. 47
2.2.2.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên… . 47
2.2.2.2. Thực trạng về công tác tuyển dụng giảng viên………. ........................ 56
2.2.2.3. Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. ........... 65
2.2.2.4. Thực trạng về tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính sách đại ngỗ
và chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ giảng viên………… ............... 73
2.2.2.5. Thực trạng về thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm đối với đội ngũ
giảng viên. ......................................................................................................... 81
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 86
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THUỘC BỘ XÂY DỰNG
Ở KHU VỰC MIỀN NAM ......................................................................................... 87
3.1. Một số định hướng của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo và đổi mới công
tác quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập .................... 87
3.2. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam .............................................................. 90
3.2.1. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giảng
viên ............................................................................................................................ 90
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ giảng
viên ............................................................................................................................ 92
3.2.3. Hoàn thiện về cơ chế chính sách bồi dưỡng, đào tạo, chế độ đãi ngộ và khen
thưởng đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ............................... 98
3.2.4. Hoàn thiện về công tác thanh tra, kiểm tra và xư lý vi phạm kỷ luật ........... 104
iii
3.2.5. Các kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo và các Bộ ngành
khác ở Trung ương .................................................................................................. 106
3.2.5.1. Kiến nghị đối với Chính phủ……………………… ........................... 106
3.2.5.2. Kiến nghị đối với Bộ giáo dục Đào tạo và Bộ Nội vụ…….. .............. 108
3.2.5.3. Kiến nghị đối với Bộ Xây dựng………………….. ................. 109
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 110
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… . 113
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng: 2.1.3. Số lượng giảng viên các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng.
Bảng 2.2.2.1 a. Số lượng giảng viên thuộc trường đại học Kiến trúc TP. HCM qua các năm
Bảng: 2.2.2.1 b. Số lượng giảng viên đại học Xây dựng Miền Tây từ năm giai đoạn
2010-2016
Bảng 2.2.2.2. Số lượng tuyển dụng giảng viên qua các năm của Trường đại học Kiến
trúc TP. HCM.
Bảng 2.2.2.3. Tình hình đào tạo trình độ Tiến sĩ, Thạc sĩ trường Đại học Kiến trúc TP.
HCM giai đoạn 2010-2015
Bảng 2.2.2.4: Hệ số lương cơ bản và phụ cấp ngành nghề đối với các ngạch giảng viên
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ: 2.1.3: Cơ cấu học hàm, học vị và bằng cấp chuyên môn giảng viên các
trường đại học thuộc bộ Xây dựng – Tỷ lệ giảng viên sau đại học
Biểu đồ: 2.2.2.1 a. Về sự phát triển của đội ngũ giảng viên trường đại học Kiến trúc
TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn 2005-2016
Biều đồ: 2.2.2.1 b. Về sự phát triển đội ngũ giảng viên trường đại học Xây dựng Miền
Tây, giai đoạn 2010-2016
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1.1. Sơ đồ tổ chức quản lý của các trường ĐH thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam
Hình 2.2.2.2. Minh chứng việc công khai thông tin tuyển dụng của các trường đại học
công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
vii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sau 30 năm đổi mới (từ năm 1986), Việt Nam chúng ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Những
thành quả đó là minh chứng cho các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như các
chính sách, pháp luật của Nhà nước đã đi vào thực tiễn của đời sống xã hội, phù
hợp với quy luật phát triển, vận động chung của khu vực và trên toàn thế giới.
Trong các thành tựu sau 30 năm đổi mới, ngành Giáo dục - Đào tạo đã có những
đóng góp hết sức quan trọng, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡngvà phát triển
nhân tài cho đất nước. Phát huy thành quả này, Đảng và Nhà nước hết sức quan
tâm bằng việc nghiên cứu lý luận, đúc kết thực tiễn để xây dựng, ban hành các
chính sách, chiến lược về giáo dục, đào tạo, với mục tiêu là “Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”[74]
Để đưa nền giáo dục Việt Nam vươn lên tâm cao mới theo mục tiêu đã đề ra,
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 đã nêu rõ các thành tựu, hạn
chế, yếu kém và các nguyên nhân, cũng như đề ra các giải pháp căn cơ để thực hiện
thành công các mục tiêu đã đề ra. Về bất cập, yếu kém, chiến lược khẳng định
“Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự vụ
và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi
đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật
và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung”; “Một bộ
phận nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục
trong thời kỳ mới. Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, vừa không đồng
bộ về cơ cấu chuyên môn. Tỷ lệ nhà giáo có trình độ sau đại học trong giáo dục đại
học còn thấp”; “Năng lực của một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
còn thấp. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đặc
biệt là chính sách lương và phụ cấp theo lương, chưa thỏa đáng, chưa thu hút được
người giỏi vào ngành giáo dục, chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong
1
hoạt động nghề nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo chưa đáp
ứng được các yêu cầu đổi mới giáo dục”[45]. Lý giải cho những bất cập, hạn chế
nêu trên, trong nội dung của chiến lược này cũng đã nêu “Chưa nhận thức đúng vai
trò quyết định của đội ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý
nhà nước về giáo dục”[45]
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm nhiều cấp, trong đó giáo
dục đại học là cấp cuối cùng và đóng vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục đại
học có mục tiêu đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, nghiên
cứu khoa học công nghệ để tạo ra tri thức và sản phẩm mới. Bên cạnh đó, giáo
dục đại học là nơi giúp người học hoàn thiện cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Chuẩn bị tốt nhất các điều kiện cần thiết để tham gia vào thị trường lao động có
hàm lượng tri thức cao, đáp ứng các yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực phục
vụ cho sự ngiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đặc
biệt là hội nhập về tri thức và khoa học. Để các trường đại học hoàn thành được
sứ mệnh cao cả này, đòi hỏi cần phải có các chiến lược quy hoạch, phát triển,
quản lý các trường đại học một cách cụ thể, trong đó, vai trò của các cơ quan
quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học là một trong
những yếu tố có vai trò quyết định quan trọng.
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ cũng như Bộ giáo dục
và Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng và ban hành nhiều chính
sách đối với Giáo dục - Đào tạo nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại
học nói riêng. Đây là những căn cứ và là cơ sở pháp lý cho các cơ quan quản lý
nhà nước cũng như các trường đại học thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số bất cập,
hạn chế cần phải nghiên cứu để hoàn thiện và đưa vào áp dụng, nhằm hướng tới
hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý nhà nước đối với đội ngũ này. Từ đó
góp phần quan trọng chung để thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo
dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bộ Xây dựng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
2
nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển
đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ
cao; nhà ở; công sở; thị trường bất động sản; vật liệu xây dựng; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy
định của pháp luật [95]. Cũng như các bộ, ngành khác, Bộ Xây dựng cũng có
các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các trường đại học. Đối với khu vực
Miền Nam hiện nay Bộ Xây dựng có 02 trường Đại học là đại học Kiến trúc TP.
Hồ Chí Minh và đại học Xây dựng Miền Tây. Các trường Đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho Bộ và
nguồn nhân lực chung của đất nước. Việc quản lý nhà nước đối với các trường
đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam là hết sức cần thiết
và trong thời gian qua đã được chú trọng. Tuy nhiên, hiện nay công tác quản lý
nhà nước đối với các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
phía Nam còn tồn tại nhiều bất cấp. Những quy định pháp lý về lĩnh vực này còn
chưa thống nhất và đồng bộ. Công tác thanh tra, kiểm tra về đội ngũ giảng viên
các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng chưa được chú trọng và tiến
hành thường xuyên, các chế độ chính sách liên quan và mang tính đặc thù riêng
chưa có các văn bản quy định cụ thể.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với
đội ngũ giảng viên các Trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực Miền Nam” làm luận văn thạc sỹ Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học là một vấn đề rất quan trọng, vì
vậy đã có nhiều công trình, ấn phẩm khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Có thể
kể đến các công trình nghiên cứu sau:
- Lê Thị Phương Nam, Hoàng Văn Lợi, “Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học giai đoạn 2010 - 2015”, Viện Nghiên
cứu Lập pháp. Công trình này đã làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ giảng
viên đại học giai đoạn 2010 - 2015, từ đó công trình nghiên cứu này đã để ra các 3
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học. Phương pháp nghiên
cứu chính của công trình theo hướng khảo sát thực trạng đội ngũ giảng viên ở
các trường đại học xoay quanh các nội dung chính về chất lượng chuyên môn,
các kỹ năng cần có của giảng viên theo hướng đối chiếu với các tiêu chuẩn theo
quy định của các cơ quan quản lý nhà nước. Từ các khảo sát đó, tác giả đưa ra
các so sánh, nhận định và phân tích các nguyên nhân của thực trạng. Đối tượng
nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở một trong rất nhiều nội dung liên quan tới
đội ngũ giảng viên các trường đại học.
- Nguyễn Thị Thu Hương, “Xây dựng đội ngũ giảng viên các trường đại
học - Thực trạng và giải pháp”. Công trình nghiên cứu đã phân tích thực trạng
đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay”. Công trình nghiên cứu này đã
đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển cần đối, hài hòa về cơ cấu, số
lượng, trình độ chuyên môn và các kỹ năng cần có của đội ngũ giảng viên các
trường đại học. Các giải pháp được đề xuất trên nhiều phương diện từ phương
diện thể chế, về tiêu chuẩn, chế độ chính sách.
- Trần Tuấn Duy, “Lý luận và thực trạng quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh”. Công trình này đã
nêu được căn căn cứ pháp lý, thực trạng cũng như đề xuất một số giải pháp để
thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên thuộc
Học viện cán bộ TP. Hồ Chí Minh.Với công trình này, tác giả chỉ mới tiếp cận ở
góc độ một bài báo khoa học, trên cơ sở khái quát các căn cứ pháp lý, thực tế tổ
chức hoạt động, cá khó khăn và thuận ợi, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý nhà nước đối với đối ngũ giảng viên thuộc học viện trong
bối cảnh Học viên các bộ thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thay đổi khi nâng
cấp từ một Trường cán bộ cấp tỉnh/thành phố lên cấp học viện.
- Lê Thị Nga (2015), “Quản lý nhà nước về phát triển đội ngũ giảng viên
đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”.Luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Quản lý hành chính công (MS: 603482). Công trình này đã nghiên cứu các
4
vấn đề lý luận, pháp lý, thực trạng và đề xuất một số biện pháp liên quan tới phát
triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, công trình này, về mặt lý luận và cơ sở pháp lý, tác giả chỉ
dừng lại ở việc liệt kê, tổng hợp các quy định, các văn bản pháp lý liên quan tới đội
ngũ giảng viên nói chung và phát triển đội ngũ giảng viên nói riêng, đồng thời chưa
phân tích sâu các nguyên nhân, sự cần thiết phải ban hành các quy định để điều
chỉnh các nội dung quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên. Hơn nữa, công trình
này chỉ mới nghiên cứu chuyên sâu về một mảng đó là “quản lý nhà nước về phát
triển đội ngũ giảng viên” mà chưa nghiên cứu tổng thể tất cả nội dung quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên theo các quy định của pháp luật.
- Lê Thị Huyền Trang (2014), “Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh (từ thực tiễn đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)”.Luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản
lý công (MS: 603482). Công trình này đã nghiên cứu các cơ sở lý luận, pháp lý
liên quan tới quản lý nhà nước đối vối đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập. Thực tế tổ chức, quản lý đối với đội ngũ giảng viên các trường thành
viên thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời đề xuất các
giải pháp gắn với đặc thù là một đại học vùng, có chức năng, vị trí quan trọng
trong hệ thống các trường đại học trên toàn quốc nói chung và khu vực Miền
Nam nói riêng.
- Nguyễn Đức Toàn (2010), “Quản lý nhà nước đối với viên chức các cơ
sở giáo dục đại học công lập”. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu tổng thể
các nội dung quản lý nhà nước về đội ngũ viên chức ở các cơ sở giáo dục đại
học công lập. Trong đó, đội ngũ giảng viên là một bộ phận của viên chức nói
chung, do đó công trình chỉ đưa ra các nhận định chung, các giải pháp tổng thể
để thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước ở đội ngũ này. Riêng đối với đội
ngũ giảng viên, tác giả chỉ mới khái quát, nêu ra các đặc thù cơ bản khác với đối
tượng là viên chức không làm công tác giảng dạy. Do vậy chưa có các giải pháp
cụ thể để hoàn thiện công tác tác quản lý nhà đối với đội ngũ giảng viên ở các cơ
5
sở giáo dục đại học công lập.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trong thời gian qua đều đã khẳng định
vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên các trường đại học và sự cần thiết phải
quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học. Tuy nhiên hiện nay
các công trình chủ yếu chỉ tiếp cận ở từng nội dung riêng lẻ trong tổng thể các
nội dung quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên như giải pháp phát triển, nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học; công tác tuyển dụng, đánh
giá giảng viên đại học…Hiện nay rất ít công trình nghiên cứu tổng thể liên quan
đến quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học. Riêng đối với
các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở Miền Nam thì chưa có công trình
nghiên cứu nào được công bố chính thức. Vì vậy việc lựa chọn đề tài của luận
văn là phù hợp và đảm bảo không có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của luận văn này là nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý
về quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập.Từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với giảng
viên các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học thuộc Bộ Xây
dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên đại học trường đại học công lập.
- Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước đối với giảng viên các
trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý nhà nước
đối với giảng viên các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học
6
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước đối với giảng viên các
trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực Miền Nam (bao gồm: Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và
Trường đại học Xây dựng Miền Tây).
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về giáo dục, đào tạo làm cơ sở phương pháp luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề cụ thể mà nội dung của đề tài hướng đến, các
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành đều được áp dụng như:
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
Tiến hành nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu, tư
liệu từ các nguồn khác nhau đã có liên quan đến các nội dung nghiên cứu của
Luận văn như: Các công trình nghiên cứu là luận án, luận văn; các Văn kiện của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Chính phủ, của Bộ giáo dục và Đào
tạo về giáo dục, quản lý giáo dục đại học, quản lý nhà nước đối với giảng viên
đại học; Các văn bản, quy định, kết luận thanh tra, kiểm tra của Bộ Nội vụ, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng về hoạt động quản lý nhà nước đối với các
trường đại học công lập; Các tham luận, bài báo khoa học trong và ngoài nước
liên quan tới Luận văn. Đồng thời nghiên cứu, phân tích các chương trình, kế 7
hoạch, quy hoạch, đánh giá…đối với đội ngũ giảng viên của hai trường đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và Xây dựng Miền Tây.Từ những phân tích tài liệu
thứ cấp sẽ cung cấp những số liệu, những đánh giá tổng quan phục vụ cho việc
nghiên cứu luận văn.Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp sẽ cung cấp những
luận cứ, luận điểm cả về mặt lý luận và thực tiễn.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để nắm bắt thêm các thông tin từ khách thể nghiên cứu, luận văn tiến
hành phỏng vấn sâu. Kết quả của phỏng vấn sâu là những ý kiến, nhận định,
kiến nghị của khách thể nghiên cứu. Khách thể phỏng vấn sâu bao gồm:
- Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Trưởng các Khoa, Chủ nhiệm Bộ môn,
trưởng phòng Tổ chức nhân sự thuộc hai Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh và Xây dựng Miền Tây.
- Giảng viên cơ hữu các Trường thuộc phạm vi nghiên cứu
5.2.3. Các phương pháp khác
Bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp, luận văn
cũng sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu;
phương pháp tổng hợp,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên các trường đại họccông lập.
- Nêu rõ thực trạng về quản lý nhà nước đối vớiđội ngũ giảng viên các
trường đai học thuộc Bộ Xây dựng ở Miền Nam là đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh và đại học Xây dựng Miền Tây.
- Từ thực trạng nêu ra, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp quản lý
nhà nước đối với đội ngũgiảng viên nói chung và giảng viên các trường đại học
8
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
- Mặc dù luận văn chỉ nghiên cứu ở phạm vi các trường đại học thuộc Bộ
Xây dựng ở Miền Nam, tuy nhiên đối với các Bộ khác cũng có thể áp dụng các
giải pháp, kiến nghị mà luận văn đưa ra nếu các Bộ này cũng quản lý các trường
đại học có đặc điểm như hai trường đại học là đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh và đại học Xây dựng Miền Tây.
- Luận văn là nguồn tài liệu cung cấp cho việc nghiên cứu về hoạt động
quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và đội ngũ giảng viên đại học nói riêng
trong thời gian tới.
- Luận văn cũng sẽ là tài liệu tham khảo, nghiên cứu cụ thể cho công tác
quản lý đội ngũ giảng viên trực tiếp tại hai trường trong phạm vi nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn
- Luận văn ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục thì được thiết kế thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với giảng
viên các trường đại học công lập.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học công lập
9
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
1.1 Giảng viên các Trường đại học công lập
1.1.1. Khái niệm giảng viên và giảng viên đại học công lập
Theo quy định của Chính phủ tại Quyết định số 202/TCCP-VC ngày
08/6/1994 của Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn
nghiệp vụ các ngạch công chức ngành giáo dục vào đào tạo. Theo đó “Giảng
viên là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại
học, cao đẳng thuộc chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng
[47]. Như vậy, theo quy định tại Quyết định này, giảng viên trước hết là một
viên chức chuyên môn trong trường đại học, cao đẳng, có vị trí công việc là
giảng dạy và đào tạo tại trường học đó. Đây có thể được xem là văn bản quy
phạm pháp luật sớm nhất nêu rõ khái niệm về giảng viên đại học.
Theo quy định trong Luật giáo dục 2005 thì “Nhà giáo là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo
giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên [84]. Từ quy
định này có thể thấy rằng, giảng viên là những “nhà giáo”, làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục ở cơ sở giáo dục đại học.
Ngoài hai các quy định nói trên, giảng viên còn được đề cập ở Luật giáo
dục đại học, Điều lệ Trường đại học. Tuy nhiên, ở các văn bản này, giảng viên
chủ yếu được đề cập ở các nội dung như tiêu chuẩn, chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn, chế độ chính sách…mà không nói rõ khái niệm về giảng viên. Như vậy,
khái niệm giảng viên đại học được hiểu là những người trực tiếp làm công tác
giảng dạy, nghiên cứu ở một hoặc nhiều hơn một chuyên ngành ở các cơ sở đào
10
tạo ở bậc đại học, cao đẳng và được bổ nhiệm vào ngạch giảng viên.
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều loại hình trường đại học được thành lập và
tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật. Cơ sở giáo dục đại học bao gồm
tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành
viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp là đại học
và cao đẳng, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
Hệ thống cơ sở giáo dục đại học có thể được phân theo nhiều cách khác
nhau [81]:
- Căn cứ vào tính chất sở hữu, các trường đại học được phân loại thành:
đại học công lập, đại học tư thục và đại học có vốn đầu tư nước ngoài
- Căn cứ theo loại hình đào tạo, các trường đại học được phân loại thành:
đại học truyền thống, đại học mở.
- Căn cứ vào vùng, lãnh thổ, các trường đại học được phân loại thành: Đại
học quốc tế, quốc gia, đại học vùng, đại học địa phương.
- Căn cứ vào lĩnh vực đào tạo, các trường đại học được phân loại thành:
Đại học đa ngành, đại học đơn ngành.
Các trường đại học công lập được thành lập theo quy định của pháp luật
và là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục. Theo đó giảng viên
giảng dạy tại các cơ sở đại học công lập được hiểu là giảng viên đại học công
lập. Giảng viên đại học công lập khác với giảng viên đại học ngoài công lập là:
ngoài việc chịu sự điều chỉnh sự điều chỉnh của các quy định pháp luật như Luật
giáo dục, Luật giáo dục đại học, Điều lệ Trường đại học như nhau thì giảng viên
đại học công lập là viên chức, chịu sự điều chỉnh của Luật Viên chức 2010.
1.1.2. Vai trò của giảng viên đại học
Từ xa xưa, vai trò của người giáo viên đã được xã hội nhìn nhận là hết sức
quan trọng. Cách đây hơn 200 năm, người thầy đầu tiên của đất Nam Bộ - Võ
Trường Toản đã nói đến vai trò và đóng góp của những người làm nghề giáo, đó
là đạo lý “Lương sư, hưng quốc”, nghĩa là quốc gia có những người thầy giỏi và
có một nền giáo dục tốt, thì sẽ hưng thịnh. "Lương sư, hưng quốc" vừa nhắc nhở 11
trọng trách, vừa ngợi ca những người thầy vừa có tầm, vừa có tâm và có đạo
hạnh. Giảng viên là đội ngũ tri thức có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Chính vì thế, trên Bia đề danh Tiến sỹ năm
1484 (ghi lại khoa thi năm 1442) tại Văn miếu Quốc Tử Giám khẳng định rằng
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên
cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”.
Trong giai đoạn hội nhập và phát triển hiện nay, vai trò của người giáo
viên nói chung và giảng viên đại học nói riêng tiếp tục được khẳng định và giữ
nguyên giá trị vốn có từ xưa. Giảng viên đại học là yếu tố quyết định quan trọng
đối với chất lượng đào tạo, là lực lượng tham gia trực tiếp vào quà trình đào tạo,
quyết định đến chất lượng đầu ra của sinh viên - những sản phẩm của quá trình
đào tạo sẻ trực tiếp tham gia vào thị trường lao động, tạo ra các giá trị và sản
phẩm lao động mang hàm lượng tri thức cao, trực tiếp đóng góp vào quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Chất lượng, sản phẩm của quá trình đào tạo (những sinh viên tốt nghiệp ra
trường) không chỉ dừng lại ở việc có kiến thức chuyên môn vững vàng mà đòi
hỏi sinh viên phải có các kỹ năng nghề ngiệp, xã hội tốt, cũng như phải có thái
độ tích cực trong ngành nghề và đời sống xã hội. Để sinh viên hội tụ đủ các yếu
tố này, vai trò của giảng viên vì thế càng quan trọng hơn để cùng với nhà trường
hoàn thành sứ mệnh đào tạo, cùng cả nước nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, từ đó đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục
đại học nói riêng hiện nay.
Về cơ bản, trong các cơ sở giáo dục đại học, giảng viên đảm nhận hai vai
trò chính như sau:
- Thứ nhất là vai trò đào tạo:
Vai trò về đào tạo của giảng viên trong trường đại học thể hiện qua việc
giảng viên tuyền tải các kiến thức qua thời gian nghiên cứu, học tập, tích lũy kinh
12
nghiệm có được tới sinh viên của mình. Từ đó trang bị cho sinh viên các kiến thức
cần thiết phục vụ cho việc lĩnh hội tri thức, chuẩn bị cho hành trang tham gia vào
thị trường lao động. Trong xu hướng phát triển chung hiện nay, các trường đại học
hầu hết đã chuyển từ hình thức đào tạo theo niên chế sang hình thức đào tạo theo
tín chỉ. Chính hình thức đào tạo mới cũng đã làm “chuyển dịch” vai trò của người
giảng viên đại học so với trước đây. Theo đó, giảng viên đại học không chỉ đơn
thuần là người truyền tải tri thức theo hướng thụ động một chiều, mà còn là người
gợi mở, hướng dẫn sinh viên tự nghiên cứu, tìm tòi các kiến thức mới bằng con
đường ngắn nhất, đồng thời cùng sinh viên giải quyết các vấn đề không chỉ thuộc
lĩnh vực khoa học, chuyên môn ngành nghề, mà còn cùng sinh viên giải quyết các
vấn đềđặt ra trong mọi lĩnh vựccủa đời sống xã hội. Do vậy, giảng viên chính là
ngườiđào tạo, cũng là ngườiđịnh hướng cho sinh viên tính tự chủ gắn với trách
nhiệm xã hội trong quá trìnhđào tạo và hoàn thiện bản than.
Để đào tạo ra các lớp sinh viên “vừa chuyên vừa hồng” theo kịp xu hướng
hội nhập và phát triển trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi người giảng viên
cũng không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. Do vậy, đòi hỏi tinh
thần tự học tập, nghiên cứu để không bị lạc hậu của người giảng viên cũng rất
cao. Đây được gọi là quá trình đào tạo và tự đào tạo. Chính quá trình này của
người giảng viên đã phục vụ trở lại cho hoạt động đào tạo mang tính liên tục và
phát triển không ngừng.
- Thứ hai là chức năng nghiên cứu khoa học:
Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng các yêu cầu xã hội, mà còn là trung tâm nghiên cứu ứng dụng,
chuyển giao khoa học và công nghệ. Nghiên cứu khoa học ở trường đại học có
một vai trò hết sức quan trọng. Nó là một trong hai trụ cột chính để một trường
đại học có thể tồn tại và phát triển, đặc biệt trong xu hướng bùng nổ công nghệ
và khoa học như hiện nay.
Nghiên cứu khoa học có tác động trực tiếp đến quá trình tự đào tạo và
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực nghề nghiệp của người
giảng viên. Chính những công trình, đề tài nghiên cứu khoa họcsẽ trở thành 13
nguồn tri thức mới, là cơ sở cho công tác giảng dạy, truyền tải kiến thức mang
tính lý thuyết, khoa học và kinh nghiệm thực tế cho sinh viên.
Hiện nay, các nhà khoa học Việt Nam chúng ta phần nhiều cũng là đội
ngũ giảng viên ở các trường đại học. Và như thế, giảng viên vừa là nhà giáo
(thực hiện công tác đào tạo, giảng dạy), vừa là nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực
khác nhau. Thực tế đã chứng minh rằng, chính nhờ có đội ngũ giảng viên ở các
trường đại học mà chúng ta đã có có các công trình nghiên cứu khoa học quan
trọng, ứng dụng thực tế vào sự phát triển của kinh tế, xã hội, mang lại các giá trị
lợi ích thiết thực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Như vậy, nhiệm vụ của giảng viên về cơ bản là thực hiện công tác đào tạo
và nghiên cứu khoa học. Hai nhiệm vụ này song hành, bổ trợ và có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Nghiên cứu khoa học hướng tới mục tiêu tìm kiếm tri thức
mới, tư đó hỗ trợ cho công tác giảng dạy, truyền đạt tri thức, giảng dạy lại cho
sinh viên. Qua công tác giảng dạy, người giảng viên tiếp tục phát hiện ra các vấn
đề mới, từ đó đi tìm các giải pháp, câu trả lời thông qua nghiên cứu khoa học.
Ngoài hai nhiệm vụ cơ bản nói trên, trong môi trường đại học, vai trò của
người giảng viên còn thực hiện ở các nhiệm vụ điều hành, quản lý ở các cấp, các
tổ chức trong Nhà trường (Đảng ủy, Ban giám hiệu, Công đoàn, Đoàn Thanh
niên, Ban chủ nhiệm các Khoa, Trưởng bộ môn). Vài trò này cũng thật sự quan
trọng, bởi lẽ giảng viên tham gia công tác quản lý phải thực sự là những người
có chuyên môn nghiệp vụ tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đặc biệt là có khả
năng điều hành, quản lý, xây dựng các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát
triển, đảm bảo sự vận hành củađơn vị, tổ chức. Và quan trọng hơn, đội ngũ
giảng viên kiêm nhiệm công tác quản lý là những người cùng tham gia quyết
định và trực tiếp triển khai thực hiện chiến lược phát triển củađơn vị, tổ chức
trong trường. Từ đó góp phần thực hiện thành công các mục tiêu ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn của nhà trường. Tuy nhiên đội ngũ giảng viên làm công tác kiêm
nhiệm quản lý chỉ chiếm số lượng nhỏ trong tổng số giảng viên của một trường
14
đại học.
Giảng viên ngoài vai trò là một nhà sư phạm, nhà nghiên cứu khoa học,
nhà quản lý thì con là một nhà chuyên gia trong lĩnh vực mình công tác, giảng
dạy chuyên môn của mình. Tính chuyên gia của giảng viên thể hiện qua việc là
người trực tiếp tham gia thực tế vào ngành nghề của mình ở ngoài xã hội (hành
nghề), đóng góp sức lực, tài năng và trí tuệ của mình để phát triển một lĩnh vực,
ngành nghề nhất định. Đặc biệt, giảng viên với vai trò chuyên gia của mình, có
thể tham gia tư vấn, hiến kế cho các cơ quan, tổ chức thông qua các tham luận,
báo cáo khoa học…giúp các cơ quan, tổ chức hoàn thiện một chủ trương, chính
sách nhất định để thực hiện rộng rãi vào đời sống xã hội.
Tóm lại, giảng viên đại học luôn có vai trò quan trọng trong các trường đại
học, trong hệ thống giáo dục của đất nướcở mọi thời đại. Và quan trọng hơn hết đó
là “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục” [84].
1.1.3. Tiêu chuẩn giảng viên đại học
Nhà giáo luôn được xem là một nghề cao quý, là nghề vun đắp, xây dựng,
nuôi dưỡng các ước mơ, hoài bão, mang tới sự phát triển theo hướng hoàn thiện
về nhân cách, trí tuệ và năng lực của con người. Tạo ra các giá trị tốt đẹp làm
nền tảng cho một tương lai tươi sáng. Thành ngữ có câu “Muốn làm thầy phải
dày sự học’’, và là nghề được xã hội tôn quý, do đó để trở thành giảng viên đại
học thì bắt buộc phải đạt các tiêu chuẩn nhất định tối thiểu cần phải có.
Để đảm bảo sự thống nhất, làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và quản
lý giảng viên các trường đại học, Nhà nước đã ban hành các quy định về giảng viên
nói chung và tiêu chuẩn giảng viên nói riêng. Theo đó hiện nay tiêu chuẩn giảng
viên được quy định cụ thể trong Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học. Bên cạnh
đó, tiêu chuẩn giảng viên còn được quy định trong Điều lệ Trường đại học, cụ thể
các tiêu chuẩn của giảng viên được quy định như sau [46].
- Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ đạt chuẩn được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân
15
rõ ràng
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm đối với nhà giáo giáo giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sỹ trở
lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng
tiến sĩ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luậnán tiến sĩ.
- Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có
phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về
chuyên môn nghiệp vụ quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 77, của Luật giáo dục.
Tiêu chuẩn giảng viên đại học được bổ sung thêm các nội dung trong Luật
giáo dục đại học, bao gồm [81]
- Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là
thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệtở một số ngành chuyên môn đặc thù do Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo quy định.
- Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục ưu tiên tuyển dụng người có trình độ
thạc sĩ trở lên.
Qua các văn bản quy định nói trên, tác giả luận văn nhận thấy rằng, về cơ
bản tiêu chuẩn giảng viên đại học bao gồm các nhóm sau; nhóm bằng cấp
chuyên môn (phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có học vị thạc sĩ); nhóm
kỹ năng, nghiệp vụ (có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, tâm lý dạy
học); nhóm nhân thân (có lý lịch bản thân rõ ràng, có phẩm chất chính trị tôt,
đạo đức lối sống trong sáng, có sức khỏe phù hợp với ngành nghề ).
Để cụ thể hóa về tiêu chuẩn giảng viên, Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp
với Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV
về tiêu chuẩn giảng viên đại học. Tại thông tư này, các tiêu chuẩn của giảng viên
đại học đã cụ thể hóa một cách đầy đủ, chi tiết, được phân định rõ ràng cho các
chức danh giảng viên. Theo đó chức danh giảng viên gồm có: [4]
Giảng viên cao cấp (hạng I) Mã số: V.07.01.01
Giảng viên chính (hạng II) Mã số: V.07.01.02
16
Giảng viên (hạng III) Mã số: V.07.01.03
Tóm lại, giảng viên đại học phải tuân thủ đầy đủ các quy định về tiêu
chuẩn tối thiểu cần phải đạt được theo quy định của các Luật liên quan. Những
tiêu chuẩn này là cơ sở cho các cơ sở giáo dục đại học tuyển dụng giảng viên
ban đầu, đồng thời là cơ sở cho việc giúp các cơ quan quản lý nhà nước quản lý
được đội ngũ giảng viên về chất lượng, để đảm bảo cho việc duy trì và nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo của cơ sở giáo dục nói riêng và chất lượng giáo
dục đại học nói chung.
1.1.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của giảng viên
1.1.4.1. Nhiệm vụ của giảng viên
Giảng viên là nhà giáo, do vậy nhiệm vụ của giảng viên trước hết là
nhiệm vụ của một nhà giáo. Tại Điều 72 Luật giáo dục 2005 quy định nhiệm vụ
của nhà giáo như sau: [84]
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
Điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học;
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu
gương tốt cho người học.
Theo Điều 55 Luật giáo dục đại học, giảng viên có thêm các nhiệm vụ
sau: [81]
- Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có
chất lượng chương trình đào tạo;
- Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ,
17
bảo đảm chất lượng đào tạo.
- Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên;
- Tôn trọng nhân cách người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ
các quyền, lợi ích chính đáng của người học;
- Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia công tác
Đảng, đoàn thể và công tác khác.
Theo Điều 45, Điều lệ Trường đại học, giảng viên còn có thêm các nhiệm
vụ sau: [46]
- Chấp hành các quy chế, nội quy, quy định của nhà trường;
- Thực hiện quy định về chế độ làm việc đối với chức danh giảng viên do
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành;
Để cụ thể hóa chế độ làm việc đối với chức danh giảng viên, ngày 13
tháng 12 năm 2014, Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 47/2014/TT-
BGDĐT về việc “Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên”. Thông tư này
quy định cụ thể về chế độ làm việc đối với giảng viên, bao gồm: nhiệm vụ của
các chức danh giảng viên; quy định về thời gian làm việc, giờ chuẩn giảng dạy
và nghiên cứu khoa học.
1.1.4.2. Quyền của giảng viên
Để đảm bảo quyền lợi của giảng viên, song song với việc quy định về
nhiệm vụ của giảng viên, quyền lợi của giảng viên cũng được quy định cụ thể,
rõ ràng trong các văn bản luật. Đây là cơ sở để đảm bảo các quyền giảng viên
được thực hiện trong các cơ sở giáo dục. Đồng thời để giảng viên thấyđược với
quyền lợi mà bản thân mình có được thì trách nhiệm, nghĩa vụ phải tương xứng
để hoàn thành các yêu cầu mà cơ quan, đơn vị mình đặt ra trong vai trò, vị trí là
giảng viên giảng dạy tại cơ sở giáo dục. Quyền lợi của giảng viên được pháp
18
luật quy định như sau:
Theo điều 73, Luật giáo dục, giảng viên có quyền [84]
- Được giảng dạy đúng chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ;
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở
giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học;
- Được bảo vệ phẩm chất, danh dự;
- Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ luật Lao động.
Theo điều 55, Luật giáo dục Đại học, giảng viên có quyền thêm các quyền
khác ngoài các quyền quy định trong Luật giáo dục, bao gồm [81]:
- Được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng Nhà giáo
nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 46, Điều lệ Trường đại học, giảng viên được bổ sung các quyền sau:
- Được bảo đảm về mặt tổ chức và vật chất kỹ thuật cho các hoạt động
nghề nghiệp; được sử dụng các dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và công
nghệ và dịch vụ công cộng của nhà trường;
- Được quyền lựa chọn giáo trình, tài liệu tham khảo, phương pháp và
phương tiện giảng dạy nhằm phát huy năng lực cá nhân, bảo đảm nội dung chương
trình, chất lượng và hiệu quả của hoạt độngđào tạo, khoa học và công nghệ;
- Được tham dự các hội thảo, hội nghị khoa học trong và ngoài nước theo
quy định để công bố các công trình khoa học, giáo dục.
Về cơ bản, quyền của giảng viên đã được cụ thể hóa đầy đủ, đa phần các
quy định ở các văn bản khác nhau cũng đều nêu rõ các quyền của người viên
chức trong cơ sở sự nghiệp công lập. Trong đó đảm bảo quyền về hoạt động
nghề nghiệp; quyền về tiền lương và các chế độ liên quan; quyền về nghỉ ngơi;
quyền về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian quy định; quyền về
khen thưởng, tôn vinh trong nghề nghiệp, chuyên môn mà cá nhân cùng tập thể
19
đơn vị đạt được.
1.2. Quản lý nhà nước đối với giảng viên các Trường đại học công lập.
1.2.1. Khái niệm quản lý.
Trên thế giới, thuật ngữ quản lý được các nhà khoa học, các nhà quản lý
đưa ra với nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau như:
Theo H. Koontz: Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự
phối hợp nỗ lực giữa các cá nhân để đạt được mục đích của nhóm hay tổ chức.
Mục tiêu quản lý là hình thành một môi trường, trong đó con người có thể đạt
được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất với sự bất mãn cá nhân
ít nhất.
Theo F.W Taylor: Quản lý là biết chính xác người khác làm và sau đó
thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất với giá rẻ nhất.
Ở Việt Nam chúng ta, khái niệm quản lý cũng được các nhà khoa học, các
tổ chức khác nhau đưa ra với các khái niệm khác nhau như:
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động
của một số đơn vị, một cơ quan” [94]
Theo giáo trình Quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục
và đào tạo thì “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật
khách quan” [92]
Theo PGS-TS Nguyễn Cửu Việt, “Quản lý” là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội, vì vậy mỗi ngành khoa học định nghĩa
về quản lý dưới giác độ riêng của mình. Nhưng quan điểm chung nhất về quản
lý là do điều khiển học đưa ra. Theo đó, quản lý là sự tác động định hướng bất
kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp
với những quy luật nhất định. Là tác động định hướng nên có các yếu tố cầu
thành là: chủ thể là nơi phát sinh tác động quản lý, khách thể là cái mà tác động
quản lý hướng tới - đó là hành vi của đối tượng bị quản lý và mục đích quản lý 20
là cái đích mà chủ thể hướng tới khi thực hiện sự tác động quản lý. Quan niệm
này không những phù hợp với quá trình tự điều khiển của máy móc tự động hóa,
mà cả với động vật, với xã hội loài người, tức là quản lý xã hội. [92]
Từ nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau như trên, chúng ta có thể khái quát về
quản lý như sau: Quan lý là quá trình điều hành, hướng dẫn, theo dõi, hỗ trợ, đôn đốc,
kiểm tra (gọi chung là tác động) của chủ thể quản lý đối với các hoạt động, hành vi của
đối tượng và khách thể quản lý nhằm hướng tới đạt được các mục tiêu đề ra trong một
thời gian nhất định với các chi phí tối thiểu về sức lao động và tài chính.
1.2.2. Quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các nhà nước trên
thế giới.Đó là quá trình các cơ quan quyền lực nhà nước dùng hệ thống pháp
luật của mình để thực hiện quá trình quản lý, tổ chức và vận hành các mặt của
đời sống xã hội.
Cũng giống như khái niệm “quản lý”, quản lý nhà nước cũng có nhiều
khái niệm và cách hiểu khác nhau:
Theo Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục
và đào tạo: “Quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội để thực thi quyền
lực nhà nước; là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước
có trách nhiệm quản lí công việc hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà
nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công
quyền) tiến hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và
điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của công dân [93].
Theo sách “1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam”: “Quản lý nhà nước là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người do hệ thống cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở tiến hành dựa trên cơ sở pháp luật để thực hiện luật pháp nhà nước.
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp
21
và tư pháp, nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước” [87].
Khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa rộng được hiểu là toàn bộ mọi
hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước,
nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước [92]. Theo nghĩa hẹp,
quản lý nhà nước được hiểu là hoạt động hành pháp - một trong ba loại hoạt
động cơ bản của nhà nước, tức là hoạt động chấp hành hiến pháp, luật và điều
hành trên cơ sở hiến pháp và các luật đó. Do đó, quản lý nhà nước theo nghĩa
rộng bao hàm cả quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp. Cách hiểu này của khái niệm
“quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp” chính là nghĩa vốn có của thuật ngữ “quản lý
nhà nước” trong khoa học luật hành chính xã hội chủ nghĩa cũng như ở Việt
Nam từ trước đến nay[92]. Chủ thể của quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp chủ
yếu là toàn bộ hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, quản lý
nhà nước còn được hiểu là “sự biểu hiện khả năng mà xã hội có thể sử dụng để
tổ chức và điều chỉnh cuộc sống của mình” [89].
Như vậy, từ một số khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, quản lý
nhà nước là sự tác động, điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và toàn bộ hành
vi xã hội của các cơ quan, tổ chức nhà nước, các cá nhân được nhà nước ủy
quyền bằng hệ thống pháp luật để thực thi quyền lực nhà nước, nhằm đảm bảo
sự vận hành mang tính ổn định và phát triển của toàn xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập
1.2.3.1. Khái niệm:
Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
là sự tác động, điều chỉnh của các cơ quan quản lý nhà nước lên các hoạt động
của đội ngũ giảng viên làm việc tại các trường đại học thông qua hệ thống pháp
luật quy định về các quyền, nghĩa vụ, các chế độ chính sách liên quan nhằm đảm
bảo sự phát triển ổn định của đội ngũ giảng viên nhằm phục vụ tốt nhất cho sự
22
nghiệp giáo dục và đào tạo.
1.2.3.2. Sự cần thiết và mục tiêu của quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên
đại học nói riêng có một vai trò hết sức quan trọng. Đó là cơ sở để đảm bảo thực
hiện đầy đủ, có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật, chiến lược
của Nhà nước về giáo dục, giáo dục đại học và đội ngũ những người làm công tác
giáo dục (bao gồm cả cán bộ làm công tác quản lý giáo dục, giảng dạy, nghiên
cứu). Chính các cơ sở pháp lý, nội dung, phương thức, công cụ quản lý sẽ quyết
định đến hiệu lực, hiệu quảcủa quá trình quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học. Do đó, quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập là hết sức cần thiết trong bất kỳ mọi hoàn cảnh, đặc biệt là
trong giai đoạn nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với
mục tiêu trở thành một nước công nghiệp, hiện đại vào năm 2020.
Với xu hướng hội nhập quốc tế và trình độ phát triển tri thức nhân loại
ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ hiện nay, giáo dục và đào tạo có một vai trò hết
sức quan trọng nhằm không ngừng nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài,
phát triển khoa học, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu cao của quá trình hội nhập. Do
vậy quản lý nhà nước nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo sự hài hòa, hợp lý về số
lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, từ đó đảm
bảo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của toàn ngành giáo dục mà Đảng và Nhà
nước đã giao phó.
1.2.3.3. Cơ quan quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập
Đại học công lập là đơn vị sự nghiệp công lập do nhà nước thành lập, chịu
sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Và giảng
viên các trường đại học công lập là viên chức, theo đó quản lý nhà nước đối với
giảng viên đại học công lập trước hết là quản lý viên chức theo quy định của Luật
Viên chức. Theo quy định của luật này, các cơ quan quản lý nhà nước đối với viên
23
chức nói chung và giảng viên đại học công lập nói riêng bao gồm: [86]
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về viên chức.
- Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà
nước về viên chức.
- Các cơ quan ngang bộ trong phạmvi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm quản lý nhà nước về viên chức.
- Ủy ban Nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về viên chức.
Ngoài ra, tại Điều 48, Luật viên chức cũng quy định: Đơn vị sự nghiệp
công lập được giao quyền tự chủ cũng như chưa được giao quyền tự chủ thực
hiện các nội dung vềquản lý viên chức theo quy định.
Theo các nội dung nêu trên, giảng viên đại học chịu sự quản lý nhà nước
của nhiều cơ quan khác nhau trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật viên
chức và các luật và văn bản quy phạm pháp luật khác theo quy định.
1.2.3.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập
Giảng viên đại học với tư cách là viên chức nhà nước, do vậy nội dung
quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học trước hết chính là nội dung
quản lý nhà nước đối với đội ngũ viên chức.
Bộ Nội vụ có trách nhiệm chính trước Chính phủ, theo đó Bộ Nội vụ được quy
định có các nhiệm vụ, quyền hạn sau về quản lý nhà nước đối với viên chức. [86]
- Xây dựng và ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền
ban hành các vă bản quy phạm pháp luật về viên chức;
- Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ lập quy hoạch, kế hoạch
phát triển độingũ viên chức trình cơ quan có thẩm quyền quyết định;
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc ban hành hệ
24
thống danh mục, tiêu chuẩn và mã số chức danh nghề nghiệp;
- Quản lý công tác thống kê về viên chức; hướng dẫn việc lập, quản lý hồ
sơ viên chức, phát triển và vận hành cơ sở dự liệu quốc gia về viên chức;
- Thanh tra, kiểm tra quản lý nhà nước về viên chức;
- Hàng năm báo cáo Chính phủ về đội ngũ viên chức.
Theo Điều 44, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012,
quy định về nội dung quản lý viên chức như sau [56]:
- Xây dựng kế hoạch, quy hoạch viên chức;
- Quy định tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp viên chức, xác định vị trí
việc làm, cơ cấu viên chứctheo chức danh nghề nghiệp và số lượng viên chức
làm việc tương ứng;
- Tổ chức thực hiên việc tuyển dụng, ký hợp đồng làm việc, bố trí, phân
công nhiệm vụ, biệt phái, kiểm tra và đánh giá viên chức.
- Tổ chức thực hiện thay đổi chức danh nghề nghiệp.
- Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức.
- Tổ chức thực hiện chế độ tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với
viên chức.
- Tổ chức thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật đối với viên chức.
- Giải quyết thôi việc và chế độ nghỉ hưu đối với viên chức.
- Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê và quản lý viên chức.
- Thanh tra, kiểm tra việc thi hành quy định pháp luật về viên chức.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với viên chức.
Hiện tại, chưa có một văn bản riêng nào quy định nội dung quản lý nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên các trường đại học
công lập nói riêng. Tuy nhiên giảng viên là một trong những đối tượng điều
chỉnh của Luật giao dục đại học, nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ
25
giảng viên đại học một phần đồng thời là nội dung quản lý nhà nước về giáo dục
đại học. Theo Điều 68, Luật giáo dục đại học năm 2012, thì nội dung quản lý
nhà nước về giáo dụcđại học bao gồm [81]
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục đại học.
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục
đại học.
- Quy định khối lượng, cấu trúc chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra tối thiểu
của người học sau khi tốt nghiệp; tiêu chuẩn giảng viên; tiêu chuẩn cơ sở vật
chất và thiết bị cơ sở giáo dục đại học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành
giáo trình, tài liệu giảng dạy; quy chế thi và cấp bằng, chứng chỉ.
- Quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục đại học; quy định về tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng giáo dục đại học, chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại
học, chuẩn đối với chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học và yêu cầu
tối thiểu để chương trình đào tạo được thực hiện, quy trình, chu kỳ kiểm định chất
lượng giáo dục, quản lý nhà nước về kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục
đại học.
- Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục đại học.
- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý giảng viên và cán bộ
quản lý giáo dục đại học.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục đại học.
- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, sản
xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đại học.
- Tổ chức, quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục đại học.
- Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối
với sự nghiệp giáo dục đại học.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo
26
và xử lý vi phạm pháp luật về giáo dục đại học.
Từ các nội dung quản lý nhà nước về viên chức cũng như nội dung quản
lý nhà nước về giáo dụcđại học, ta có thể nhận thấy nội dung quản lý nhà nước
về đội ngũ giảng viên báo gồm các nội dung chính như sau:
(1) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đội ngũ giảng viên trong
các cơ sở giáo dục đại học công lập.
(2) Quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở
giáo dục đại học công lập.
(3) Hướng dẫn, quy định và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về
tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.
(4) Quy định và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ,
chế độ khen thưởng và kỷ luật.
(5) Thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với giảng viên
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập.
1.2.3.4.1. Về ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đội
ngũ giảng viên trong các trường đại học công lập.
Đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên các trường đại học công lập
nói riêng được điều chỉnh, quy định trong nhiều văn bản khác nhau, từ các Luật,
Pháp lệnh của Quốc Hội đến các Nghị định, Quyết định của Chính phủ; Quyết định
của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục - Đào tạo; Thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Bộ
giáo dục - Đào tạo và các Bộ liên quan. Hầu hếtở tất cả các nội dung quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên đều có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một nội dung hết sức quan
trọng trong quá trình điều hành và quản lý xã hội. Thể hiện tính chấp hành và
điều hành về mặt quản lý nhà nước đối với giảng viên nói chung và giảng viên
các trường đại học công lập nói riêng. Trước đây, khi chưa có Luật Viên chức,
giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập được điều chỉnh, quy định
trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998 và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 27
năm 2003. Theo đó, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã cụ thể hóa
về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước. Như vậy, việc quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập được thực hiện theo quy định
này.Để cụ thể và hướng dẫn các cơ sở giáo dục thực hiện đúng, đầy đủ các nội
dung trong Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ
Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
15/4/2009 về hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập giáo dục và đào tạo.
Trước yêu cầu của đổi mới trong công tác quản lý nhà nước về đội ngũ
viên chức, năm 2010, Quốc Hội ban hành Luật Viên chức số 58/2010/QH12.
Với việc ra đời của Luật này, đội ngũ viên chức nói chung và giảng viên trong
các cơ sở giáo dục đại học công lập nói riêng được quy định một cách đầy đủ,
chi tiết. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng, đầy đủ và cao nhất để các cơ
quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đội ngũ viên chức, trong
đó có đội ngũ giảng viên.
Luật Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13 và các văn bản hướng dẫn (đặc
biệt là Điều lệ Trường đại học theo Quyết định số 70/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 12
năm 2014) thực hiện sau đó thêm một bước quan trọng quy định riêng đối với
đội ngũ giảng viên, trong đó có giảng viên các trường đại học đã tạo điều kiện
thuận lợi để việc quản lý giảng viên có thêm các cơ sở pháp lý. Nghị quyết số
29, ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tiếp theo Luật giáo dục, ngày 24
tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục Đại học. Việc ra
28
đời các văn bản quy phạm này đã tạo thêm các hành lang pháp lý căn bản, vững
chắc cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Cụ thể thêm
một bước các nội dung, phương thức quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học, trong đó có giảng viên các trường đại học công lập.
1.2.3.4.2. Về quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên
trong các trường đại học công lập.
Quy hoạch là quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp để tạo
nguồn và xây dựng đội ngũ giảng viên trong trường đại học công lập. Làm tốt
công tác quy hoạch, không những duy trì được số lượng và chất lượng đội
ngũgiảng viên hiện tại mà còn thu hút được đội ngũ giảng viên có trình độ
chuyên môn cao từ những nơi khác đến cho sự phát triển trong tương lai. Bên
cạnh đó, công tác quy hoạch, kế hoạch có thể giúp cho lãnh đạo trường lường
trước được những vấn đề nảy sinh do dư thừa hay thiếu hụt nguồn nhân lực ở
các giai đoạn khác nhau, tạo ra tính chủ động và hiệu quả cao cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của Trường, đáp ứng tốt yêu cầu nâng cao
chất lượng quản lý, chuyên môn ngành nghề giảng dạy, nghiên cứu. Từ đó nâng
cao chất lượng dạy và học trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế mà các trường đều hướng tới.
Việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập hiện nay phải đảm bảo tính hài hòa về cơ cấu và cân đối
về số lượng theo ngành nghề đào tạo, bám sát các yêu cầu chung của đất nước
về chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung và nhân lực ngành giáo dục
nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã chỉ rõ: "Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán
bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp
ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài" [3]. Ngày 22 tháng 7 năm 2011, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1216/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy
hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Quyết định này đã nêu
29
rõ quan điểm, mục tiêu phát triển, phương hướng, giải pháp phát triển nhân lực
các ngành, lĩnh vực, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đội
ngũ giáo viên ở các cấp. Cũng tại quyết định này nêu rõ “ Các Bộ, Ngành tổ
chức triển khai xây dựng và thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực của mình
phù hợp với Quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia và yêu cầu phát triển của
ngành:”[45]. Trên cơ sở đó, ngày 29 tháng 12 năm 2011, Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT về việc phê duyệt quy hoạch phát
triển nhân lực ngành giáo dục giai đoạn 2011-2020. Quyết định này đã nêu ra
các bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, đồng thời khẳng định tầm quan
trọng của quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viênđó là “việc quy hoạch nhân lực
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục là một nhiệm vụ cấp
thiết, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, thực hiện
thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2020 của đất
nước ”. [18]
Nhìn chung, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng như Quyết định
của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo nêu trên chủ yếu là quy hoạch về số
lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ, công chức và viên chức cũng như giảng
viên đại học. Tại hai quyết định này chưa nêu vấn đề về quy định liên quan đến
quy hoạch cán bộ quản lý trong các đơn vị sự nghiệp, trong đó có cán bộ lý giáo
dục giáo dục ở các cấp (Ban Giám hiệu, Trưởng khoa, Trưởng bộ môn…). Nội
dung này được quy định và hướng dẫn thực hiện hàng năm, có sự thay đổi, điều
chỉnh, bổ sung ở các văn bản khác trên cơ sở Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày
30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) và hướng dẫn số 15-HD/BTCTW, ngày
05 tháng 11 năm 2012 về thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
theo tinh thần nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ chính trị (khóa
IX) và kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 củaBộ Chính trị (khóa XI).Cụ thể,
gần nhất là Hướng dẫn số 139-HD/BCSĐ ngày 19/09/2014 của Ban Cán sự
Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác qui hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Văn bản hướng dẫn này
30
đã giúp cho các cơ sở giáo dục đại học công lập về:thống nhất nhận thức chung
về quy hoạch; thẩm quyền và đối tượng quy hoạch; tiêu chuẩn quy hoạch; thời
gian quy hoạch...Và các căn cứ, hướng dẫn của Bộ chính trị, Ban tổ chức Trung
ương Đảng cũng là cơ sở cho các Bộ, ngành khác thực hiện các hướng dẫn quy
hoạch cán bộ quản lý thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
Trong chiến lược Phát triển giáo dục 2011 - 2020, Ban hành kèm theo
Quyết định số711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ cũng là một trong những căn cứ quan trọng để các cơ quan quản lý liên
quan cũng như các trường đại học công lập thực hiện chiến lược phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trong đó một nhiệm vụ quan trọng liên
quan tới phát triển chất lượng đội ngũ hết sức quan trọng là “Thực hiện đề án
đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng với
phương án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng
viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ” [45]
Để cụ thể hơn và giúp các trường đại học định hướng xây dựng đội ngũ
giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên đạt trình độ Tiến sĩ, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm 2015 Quy định về tiêu
chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
Nghị định này nêu rõ các tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại họctheo ba định hướng:
nghiên cứu, ứng dụng và thực hành.
- Đối với trường định hướng nghiện cứu: Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu
viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 30% tổng số giảng viên, nghiên
cứu viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học; đối với các ngành, chuyên ngành
đào tạo theo định hướng nghiên cứu, tỷ lệ này không thấp hơn 50%; [70]
- Đối với trường định hướng ứng dụng: Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên
cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 15% tổng số giảng viên, nghiên cứu
viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học [70]
Với các quy định này, các trường đại học sẽ thuận lợi hơn cho công tác
31
phát triển đội ngũ, đặc biệt là chuẩn hóa đội ngũ có trình độ đào tạo Tiến sĩ.
1.2.3.4.3. Về hướng dẫn, quy định và tổ chức thực hiện các quy
định pháp luật về tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.
Với bất kỳ cơ quan hay tổ chức nào, việc bổ sung đội ngũ nhân sự, quản lý,
sử dụng, đào tạo cũng như bồi dưỡng để phát triển là điều hết sức quan trọng.
Với trường đại học, các nội dung này càng quan trọng hơn khi mà chất lượng
viên chức (trong đó có giảng viên) không chỉ quyết định đến uy tín, chất lượng
đào tạo, sự phát triển của nhà trường mà còn quyết định đến chất lượng nguồn
lực lao động của toàn xã hội (bởi đại học là nơi đào tạo lao động chất lượng cao
cho xã hội, từ đó quyết định một phần năng suất, chất lượng lao động của toàn
xã hội). Do đó việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
luôn được chú trọng thực hiện mang tính thường xuyên, liên tục.
Tuyển dụng được hiểu là việc thu hút những người lao động có trình độ từ
lực lưỡng lao động trong xã hội. Là quá trình đánh giá các ứng viên ở nhiều khía
cạnh khác nhau dựa trên các yêu cầu của vị trí tuyển dụng, nhằm tìm ra ứng viên
phù hợp nhất theo như mong muốn của nhà tuyển dụng. Việc tuyển dụng ở mỗi
cơ quan khác nhau có thể khác nhau về phương thức, các bước tuyển dụng. Song
đối với các trường đại học công lập với vị trí là đơn vị sự nghiệp công phải đảm
bảo tuân thủ các quy định của Nhà nước về tuyển dụng. Hiện nay, Luật Viên
chức ngày 15 tháng 11 năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành là căn cứ
pháp lý quan trọng để thực hiện các nội dụng liên quan đến tuyển dụng, quản lý,
sử dụng, đào tạo và bồi dưỡng.Theo đó, Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 12 tháng
4 năm 2012 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức đã quy định
chi tiết. Sau nghị định số 29/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 là các Thông tư
số 12/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ quy định về chức danh nghề nghiệp và thay
đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức; Thông tư 15/2012/TT-BNV của
Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí
đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức; Thông tư 16/2012/TT-BNV của Bộ Nội
32
vụ ban hành Quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng
chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng
hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức.
Cùng với các Thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Bộ giáo dục và Đào tạo
cũng ban hành các Thông tư liên tịch, thông tư riêng của Bộ liên quan tới công
tác quản lý, sử dụng, đào tạo giảng viên như: Thông tư 06/2011/TTLT-BNV-
BGDĐT ngày 06/62011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định tiêu
chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Thông tư
số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định
về thời gian làm việc của giảng viên.Sau khi Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số
12/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ quy định về chức danh nghề nghiệp và thay
đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức thì Bộ giáo dục và đào tạo phối
hợp với Bộ Nội vụban hành Thông tư số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNVThông tư
liên tịch quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng
dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Chính thông tư này là văn bản
gần nhất để các trường đại học căn cứ xếp hạng chức danh giảng viên đang
giảng dạy tại đơn vị mình.
Việc tuyển dụng viên chức nói chúng và giảng viên nói riêng của các
trường đại học công lập có thể có nhiều mục đích khác nhau giữa trên chiến lược
phát triển nguồn nhân sự chất lượng cao của đơn vị. Tuy nhiên, một trong những
căn cứu quan trọng để xác định số lượng tuyển dụng là vị trí tuyển dụng. Việc
xác định vị trí tuyển dụng là căn cứ vào thực tế, yêu cầu của công việc và định
hướng cho một tương lai gần hoặc xa. Để giúp cho các đơn vị sự nghiệp công
lập có cơ sở xác định ví trí việc làm của cơ quan, Chính phủ ban hành Nghị định
số 41/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự
nghiệp công lập. Nghị định này cùng với Thông tư số số 14/2012/TT-BNV của
Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 5
năm 2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công
33
lập là hai văn bản pháp quy để căn cứ thực hiện công tác tuyển dụng, cũng như
“nguyên tắc, căn cứ, phương pháp, trình tự, thủ tục xác định vị trí việc làm và
thẩm quyền quản lý vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập” [59].
Đào tạo và bồi dưỡng viên chức nói chung và giảng viên nói riêng trong
các cơ sở giáo dục công lập là hoạt động nhằm trang bị và nâng cao kiến thức,
năng lực cơ bản của đội ngũ giảng viên, nhằm xây dựng đội ngũ này có đủ phẩm
chất, trình độ năng lực để làm tốt những công việc mà họ được giao, trong đó
đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới một cách cơ bản, để người
viên chức lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng một cách có hệ thống,
người viên chức sẽ có những văn bằng mới hoặc cao hơn trình độ trước khi
được đào tạo. Còn bồi dưỡng là quá trình hoạt động bổ sung thêm kiến thức, cập
nhật những vấn đề mới có liên quan đến công việc đang đảm nhiệm hoặc hoạt
động đang thực hiện. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành đã
hết sức quan tâm đến vấn đề này.Theo đó, nhiều chính sách đã được xây dựng
và đưa vào thực hiện. Trong số đó cần kể đến Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày
17 tháng 6 năm 2010 về phê duyệt đề án đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ
cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020 (hay thường gọi là đề án
911). Quyết định này hướng tới các mục tiêu: Tăng cường công tác đào tạo tiến
sĩ cả về quy mô và chất lượng, nhằm nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn,
nghiên cứu, giảng dạy và quản lý đại học tiên tiến của đội ngũ giảng viên các
trường đại học, cao đẳng; Tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các
trường đại học, cao đẳng của cả nước, phấn đấu đến năm 2020, đào tạo bổ sung
được ít nhất 20.000 tiến sĩ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt
Nam; Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và
phát huy mạnh mẽ sự hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong
đào tạo tiến sĩ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học
của các trường đại học, của giảng viên và cán bộ nghiên cứu của Việt Nam; Tạo
cơ sở vững chắc để đổi mới cơ bản và toàn diện hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam; từng bước đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập với nền giáo dục đại
34
học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới [53].
Để làm rõ quyết định số 911/QĐ-TTg, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Thông tư số 35/2012/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 10 năm 2012 về việc ban hành
quy định đào tạo trình độ tiến sĩ theo đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến
sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020”. Thông tư
35/2012/TT-BGDĐT quy định chặt chẽ về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của
nghiên cứu sinh cũng như trách nhiệm của các trường cử giảng viên đi đào tạo.
Thông tư số 19/2014/TT-BNV ngày 04 tháng 12 năm 2014 của Bộ Nội vụ quy
định, hướng dẫn công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức. Thông tư này quy định,
hướng dẫn về hình thức, nội dung, chương trình và quản lý cấp phát, sử dụng
chứng chỉ đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng viên chức. Trong đó nội dung
đào tạo, bồi dưỡng bao gồm: Lý luận chính trị; chuyên môn, nghiệp vụ; kiến
thức quản lý hành chính nhà nước, pháp luật; năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản
lý; các nguyên tắc về hoạt động nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức bổ
trợ theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế [42]. Bên
cạnh hướng dẫn chung của Bộ Nội vụ thì Bộ giáo dục và Đào tạo cũng ban hành
các thông tư riêng nhằm cụ thế hơn để phù hợp với đặc thù, mục tiêu, chiến lược
của ngành giáo dục, cụ thể như Thông tư số 12/2013/TT-BGDĐT ngày 12 tháng
4 năm 2013 ban hành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên
trong cơ sở giáo dục đại học. Thông tư số 20/2013/TT-BGDĐT ngày 06 tháng 6
năm 2013 ban hành quy định về bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng
viên các cơ sở giáo dục đại học. Với hai thông tư này, các cơ quan quản lý nhà
nước cũng như các trường đại học có cơ sở không chỉ về mặt nâng cao chất
lượng đội ngũ mà còn là cơ sở chuẩn hoá các chức danh giảng viên theo quy
định. Tạo điều kiện thuận lợi lợi về mặt quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên liên quan tới tiêu chuẩn giảng viên đại học.
Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 163/QĐ-TTg,
ngày 25 tháng 01 năm 2016 về việc Phê duyệt đề án đào tạo cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2016-2020. Quyết định này đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể và
35
giao trách nhiệm cho các cơ quan liên quan xây dựng các chương trình, kế
hoạch cụ thể để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức (trong đó có
đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập) trong giai đoạn mới.
1.2.3.4.4. Về Quy định và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương,
chính sách đãi ngộ, chế độ khen thưởng và kỉ luật.
Lương, các chính sách đãi ngộ cùng với khen thưởng là một trong những
động lực kích thích con người làm việc hăng hái, tạo động lực cho người lao
động làm việc có năng suất chất lượng và hiệu quả, góp phần xây dựng cơ quan,
đơn vị ngày càng phát triển.Trong khu vực nhà nước nói chung cũng như đối với
viên chức ở các đơn vị sự nghiệp nói riêng, chính sách lương luôn là một trong
những nội dung được sự quan tâm không chỉ đối với những đối tượng hưởng
lương mà còn là sự quan tâm của hầu hết các cơ quan quản lý. Do đó, chính sách
lương, khen thưởng và các chế độ đãi ngộ khác đã, đang và luôn được các cơ
quan quản lý nhà nước, các chuyên gia về kinh tế nghiên cứu để cho ra các
khung quy định, với mục tiêu hướng tới sự hợp lý trên cơ sở tính toán giữa chi
phí sức lao động bỏ ra và kết quả công việc thực tế theo ngành nghề, vị trí công
tác.
Đối với khu vực sự nghiệp công lập, nhiều văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh, quy định mức lương cơ bản cho các đối tượng là viên chức ở các
ngạch, bậc khác nhau. Các quy đinh chung về chế độ tiền lương cho đội ngũ
viên chức nói chung có các quy định sau: Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày
14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Thông tư số 03/2005/TT-BNV ngày
05/01/2005 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường
xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức;
Thông tư số 04/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực
hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ, công chức, viên chức;
Nghị định số 17/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ
36
về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang;
Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ về việc
quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang; Thông tư số 08/2013/TT-BNV của Bộ Nội vụ về Hướng dẫn thực hiện
chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.Gần đây nhất, Chính phủ ban
hành Nghị định số 47/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 quy định mức
lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Và
thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định này số 05/2016/TT-BNV, ngày
10 tháng 6 năm 2016 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn thực hiện mức lương cơ sở đối
với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
công lập củ Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Đối với viên chức là giảng viên trong các trường đại học và đại học công
lập nói riêng có các văn bản quy phạm pháp luật để quy định và hướng dẫn thực
hiện chính sách về tiền lương, phụ cấp thu nhập cũng như các chế độ liên quan
tới khen thưởng, kỷ luật như sau:
Về chính sách lương, thu nhập và các chế độ khuyến khích khen thưởng:
Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy
trong các cơ sở giáo dục công lập; Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-
BGD&ĐT-BNV-BTC ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 244/2005/QĐ-
TTg ngày 06 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp
ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công
lập; Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 quy định về chế
độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo;Thông tư liên tịch số 68/2011/TTLT-
BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 30/12/2011 của Bộ giáo dục và Đào tạo,
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã hội về hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm
37
2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo; Thông tư
liên tịch 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC, ngày 08 tháng 03 năm 2013 của
liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính về hướng dẫn thực
hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục
công lập. Thông tư liên tịch số 28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 06 tháng 11
năm 2015 về việc hướng dẫn thực hiện bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề
nghiệp đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập. Thông tư
liên tịch số 29/2015/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH, ngày 20 tháng 11
năm 2015 về sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số
68/2011/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 30/12/2011 của Bộ giáo
dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã hội về hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7
năm 2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo.
Khen thưởng, kỷ luật là một trong những biện pháp vừa kích thích tinh
thần, ý thức, trách nhiệm trong việc hoàn thành các công việc theo chức năng và
nhiệm vụ được phân công, vừa là chế tài cần thiết để đảm bảo việc quản lý viên
chức, giảng viên thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung quy định của pháp luật về
viên chức cũng như quy định liên quan tới giảng viên các làm công giảng dạy tại
các trường đại học công lập. Hiện nay, tất cả các cơ quan nhà nước nói chung và
các đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng đang thực hiện chế độ thi đua khen
thưởng cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động theo quy định
chung của Luật thi đua khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm
2013. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua khen thưởng số
47/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2015; Luật số 39/2013/QH13 ngày 16
tháng 11 năm 2013 của Quốc Hội. Luật thi đua khen thưởng là cơ sở pháp lý cao
nhất trong công tác khen thưởng, kỷ luật. Dưới Luật thi đua khen thưởng có
nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể, chi tiết để các đối tượng liên quan
thực hiện nhằm mang lại kết quả cao nhất, đạt được các mục tiêu đề ra, đảm bảo
sự khách quan, công bằng, đúng các quy định của pháp luật.Riêng đối với đội
38
ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và đại học công lập nói riêng,
nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được xây dựng và ban hànhnhằm kịp thời
động viên, khích lệ đội ngũ giảng viên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị của
mình, đồng thời tôn vinh các cá nhân, tập thể có các thành tích tiêu biểu trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Để ghi nhận những đóng góp của cá nhân có nhiều
đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết
địnhsố 26/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 29 tháng 8 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp giáo dục”. Trên
cơ sở Quyết định này, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số
27/2005/QĐ-BGDĐT ngày 29 tháng 8 năm 2005 về Quy chế xét tặng Kỷ niệm
chương “Vì sự nghiệp giáo dục”. Bên cạnh danh hiệu Kỷ niệm chương vì sự
nghiệp giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn ban hành Thông tư số
07/2006/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 3 năm 2006 về Hướng dẫn về tiêu chuẩn,
quy trình, thủ tục và hồ sơ xét tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu
tú. Thông tư này ra đời là sự thống nhất giữa Bộ giáo dục Đòa tạo và Ban thi
đua khen thưởng Trung ương trên cơ sở căn cứ là Nghị định số 121/2005/NĐ-
CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;Gần đây nhất Chính phủ ban hanh Nghị
định số 27/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2015 Quy định về xét tặng danh
hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”. Đây là cơ sở mới và gần nhất để
các cơ quan liên quan thực hiện việc đề nghị danh hiệu cao quý này cho các cá
nhân đủ các thành tích theo quy định.Công tác thi đua khen thưởng ngành giáo
dục còn được Bộ giáo dục và Đào tạo hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số
35/2015/TT-BGDĐT ngày 31 tháng 12 năm 2015 về việc hướng dẫn công tác
thi đua khen thưởng ngành giáo dục.
Bên cạnh công tác thi đua, khen thưởng thì các quy định liên quan tới kỷ
luật cũng được ban hành nhằm đảm bảo việc xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm pháp luật. Đảm bảo kỷ cương chung trong toàn ngành giáo dục. Đối với
39
giảng viên đang công tác giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đại học công lập phải
chịu sự điều chỉnh, quy định chung về kỷ luật theo quy định của Luật viên chức
và được cụ thể hóa trọng Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 04/4/2012 của
Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn
trả của viên chức.
1.2.3.4.5. Về thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp
luật đối với đội ngũ giảng viên
Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với giảng viên
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập nhằm hướng tới việc xem xét các quy
định của pháp luật liên quan đến đội ngũ giảng viên được thực thi trên thực tế
của đời sống. Thanh tra, kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng nhằm phát hiện,
ngăn ngừa các sai phạm, đồng thời có biện pháp xử lý kịp thời các vi phạm
trong quá trình thực thi pháp luật. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm đối với viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập nói chung được thực hiện dựa trên các cơ sở pháp lý sau: Thông tư số
09/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ Quy định quy trình, nội dung thanh tra về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức. Thông tư này quy định
quy trình tiến hành một cuộc thanh tra (bao gồm: chuẩn bị thanh tra, tiến hành
thanh tra, kết thúc thanh tra) và nội dung thanh tra về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý công chức, viên chức.Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5
năm 2013 của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục.
Thông tứ số 39/2013/TTBGDĐT ngày 04 tháng 12 năm 2013 về việc hướng dẫn
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục. Nghị định số 138/2013/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Nghị định 138/2013/NĐ-CP quy định về hành vi
vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm
quyền xử phạt, thẩm quyền lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính
40
trong lĩnh vực giáo dục.
Tiểu kết chương 1:
Giảng viên đại học trong mọi thời đại luôn đóng một vai trò hết sức quan
trọng, vừa là lực lưỡng lao động tri thức trực tiếp tạo ra các giá trị lao động,
đồng thời là lực lưỡng đào tạo ra đội ngũ lao động đòi hỏi hàm lượng tri thức
cao cho các ngành nghề trong xã hội. Do đó, nghiên cứu cơ sở lý luận về đội
ngũ giảng viên nói riêng cũng như quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên nói
chung để làm nổi bật vai trò của đội ngũ này cũng như các tiêu chuẩn, yêu cầu
liên quan. Bên cạnh đó, nghiên cứu cơ sở pháp lý trong việc quản lý nhà nước
đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm tìm hiểu rõ các cơ
quan quản lý, chức năng, vai trò, nội dung quản lý nhà nướcvà các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành để thực hiện các nội
dungquản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên. Chương 1 đã nêu các nội
dung liên quan tới đội ngũ giảng viên như khái niệm, tiêu chuẩn, vai trò, trách
nhiệm và quyền hạn của giảng viên. Đồng thời đã tổng hợp và phân tích bước
đầu các cơ sở pháp lý quan trọng, cần thiết phục vụ cho nội dung quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên. Những nội dung nghiên cứu ở chương này là những
cơ sở, luận cứ quan trọng trong việc tìm hiểu thực trạng công tác quản lý nhà
41
nước đối với đội ngũ giảng viên mà trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
LẬP THUỘC BỘ XÂY DỰNG Ở KHU VỰC MIỀN NAM
2.1. Tổng quan về các Trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực Miền Nam
2.1.1 Tổng quan về Bộ Xây dựng.
Bộ Xây dựng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển
đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ
cao; nhà ở; công sở; thị trường bất động sản; vật liệu xây dựng; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy
định của pháp luật[86].
Bộ Xây dựng hoạt động theo Nghị định số 62/2013/NĐ-CP ngày 25 tháng
6 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Xây dựng. Nghị định này được ban hành dựa trênLuật tổ chức
Chính phủ số 32/2001/QH10 (hiện tại Luật này đã hết giá trị và được thay thế
bằng Luật số 76/2015/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2015).Về cơ cấu tổ chức, hiện
nay Bộ Xây dựng có 25 đơn vị cấp vụ, cục và tương đương. [92]
Bên cạnh các đơn vị chuyên môn giúp việc, Bộ xây dựng còn quản lý các
đơn vị hành chính sự nghiệp công lập. Theo quyết định số 555/QĐ-TTg ngày
18 tháng 4 năm 2014, của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành danh sách các
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Xây dựng thì có 32 đơn vị sự nghiệp
công trực thuộc. Trong đó có 02 viên, 04 Trường đại học, 09 Trường Cao đẳng,
07 Trường Trung cấp, 02 Bệnh viện, 04 Trung tâm điều dưỡng, 02 Ban quản lý
42
dự án đầu tư và 01 Nhà xuất bản.
2.1.2. Tổng quan về các Trường đại học thuộc Bộ Xây dựng và các
trường đại học thuộc Bộ xây dựng ở khu vực Miền Nam.
Hiện nay Bộ Xây dựng có 04 Trường đại học trực thuộc, bao gồm: Miền
bắc có trường đại học Kiến trúc Hà Nội; Miền trung có trường đại học Xây dựng
Miền Trung; miền nam có trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và trường
đại học Xây dựng miền Tây. Nhìn chung, các trường đại học này thực hiện
nhiệm vụ đào tạo các ngành nghề mà Bộ Xây dựng được Chính phủ phân công
quản lý nhà nước như Kiến trúc, Xây dựng, Quy hoạch, Kỹ thuật hạ tầng đô thị,
quản lý nhà ở và bất động sản. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên
mọi lĩnh vực, các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng đã tích cực, chủ động xây
dựng các chương trình đào tạo liên kết, hợp tác quốc tế và trở thành các đối tác
quan trọng với các trường đại học có cùng chuyên ngành uy tín trên thế giới.
Các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng hầu hết có lịch sử phát triển tương
đối dài, gắn liền với sự phát triển lịch sử đất nước trước và sau giai đoạn đấu
tranh dành độc lập và giải phóng dân tộc năm 1976.Cùng với bề dày lịch sử, các
trường đại học thuộc Bộ Xây dựng đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự ngiệp
giáo dục đào tạo chung của đất nước cũng như góp phần quan trọng đối với sự
phát triển chung của ngành Xây dựng.
Ở khu vực Miền Nam, Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và
Trường đại học Xây dựng Miền Tây được xem là hai trường trọng điểm, giúp
Bộ Xây dựng đào tạo ra nhân lực các ngành Kiến trúc, Kỹ sư các ngành Xây
dựng, Hạ tầng… phục vụ trực tiếp cho nhu cầu thị trường lao động lớn là Thành
phố Hồ Chí Minh, Đông Nam bộ và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ. Đồng thời đào
tạo chuyên môn cho cán bộ, công chức, viên chức quản lý và công tác trong các
cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập rộng khắp không chỉ trong khu
vực mà trên toàn quốc. Hàng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp và có việc làm
đúng chuyên ngành (theo số liệu mới nhất Trường Đại học Kiến trúc Thành phố
Hồ Chí Minh là 91.02% và Trường đại học Xây dựng Miền Tây là 94.8% sinh
43
viên tốt nghiệp có việc làm) - (theo Website của các trường)là minh chứng cụ
thể cho sự phát triển, vai trò cũng như những đóng góp cho ngành Xây dựng và
cả nước nói chung trong quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế.
2.1.3 Tổng quan về giảng viên các trường Đại học công lập thuộc Bộ Xây
dựng
Theo số liệu mới nhất công bố của các trường đại học Công lập thuộc Bộ
Xây dựng, tổng số giảng viên của các trường như sau:
Về số lượng, học hàm, học vị và bằng cấp chuyên môn: (số liệu tính đến
31/12/2016)
Tỷ lệ %
Số GV có GS P.GS TS ThS ĐH Tên Trường lượng trình độ
SĐH
Đại học Kiến trúc 29 101 299 45 90.51 474 Hà Nội
Đại học Xây dựng 2 17 131 52 74.26 202 Miền Trung
Đại học Kiến trúc 6 54 234 23 92.74 317 TP. Hồ Chí Minh
Đại học Xây dựng 2 13 125 38 78.65 178 Miền tây
86.51 Tổng cộng 1171 39 185 789 158
Bảng: 2.1.3. Số lượng giảng viên các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng (nguồn: tác giả tổng hợp).
44
Số liệu trên được minh họa lại qua biểu đồ sau:
CƠ CẤU GI ẢN G VI ÊN THEO TR Ì N H ĐỘ & TỶ L Ệ GV SA U ĐẠI HỌC
P.GS
TS
Số lượng GS
ThS ĐH Tỷ lệ % GV có trình độ SĐH
86.51 158
92.74 23
74.26 52
78.65 38
789
90.51 45 299
234
185 39
101 29
54 6
131 17 2
125 13 2
1171
474
317
202
178
T Ổ N G C Ộ NG
Đ Ạ I H Ọ C K I Ế N T R Ú C H À N Ộ I
Đ Ạ I H Ọ C X Â Y D Ự N G M I Ề N T Â Y
Đ Ạ I H Ọ C X Â Y D Ự N G M I Ề N T R U N G
Đ Ạ I H Ọ C K I Ế N T R Ú C T P . H Ồ C H Í M I N H
Biểu đồ: 2.1.3: Cơ cấu học hàm, học vị và bằng cấp chuyên môn giảng viên các trường đại học
thuộc bộ Xây dựng – Tỷ lệ giảng viên sau đại học
Theo thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo, năm học 2015-2016 cả nước có
163 trường đại học công lập với số giảng viên là 55.401 giảng viên [96]. Như
vậy, tổng số các trường Đại học thuộc Bộ Xây dựng chiếm tỷ lệ 2.45%/tổng số
trường đại học công lập và tổng số giảng viên chiếm 2.11%/ tổng số giảng viên
đại học ở các trường đại học công lập trên toàn quốc. Với tỷ lệ này có thể được
xem là phù hợp trong tỷ lệ giữa số lượng trường và số lượng giảng viên chung
của toàn quốc.
Qua bảng số liệu và biểu đồ 2.1.3 có thể thấy rằng, hiện nay tỉ lệ giảng viên
có học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số giảng viên
của trường.Số lượng giảng viên có học vị Tiến sỹ chiếm tỷ lệ 15.79%. Số liệu
này so với số liệu hiện nay của cả nước là 13.59% thì rõ ràng các trường Đại học
thuộc Bộ Xây dựng có tỷ lệ cao hơn (2.2%). Tuy nhiên, để đạt được như chỉ tiêu
trong Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam đến năm 2020 về tỷ lệ giảng viên
có học vị tiến sỹ là 25% thì đòi hỏi các Trường đại học thuộc Bộ Xây dựng phải
xây dựng và thực hiện các chiến lược liên quan tới đội ngũ giảng viên để đáp
45
ứng yêu cầu chung của cả nước.
Một tỉ lệ đáng quan tâm trong cơ cấu về trình độ của giảng viên đại học
thuộc Bộ Xây dựng hiện nay đó là giảng viên có trình độ đại học. Theo bảng số
liệu thì số giảng viên này chiếm tỷ lệ tuy không cao (chỉ 13.49%). Nhưng theo
quy định thì “Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại
học là thạc sĩ trở lên” [81]. Trường hợp đặc biệt ở một số ngành chuyên môn đặc
thù do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo quy định” [81]. Trong đó hai trường
đại học Xây dựng Miền trung và đại học Xây dựng Miền tây có tỷ lệ khá cao
(chiếm trên 20%/tổng số giảng viên). Như vậy rõ ràng số lượng giảng viên này
không đạt tiêu chuẩn để trực tiếp giảng dạy trình độ đại học nếu chiếu theo quy
định về chuẩn giảng viên đại học theo Luật giáo dục Đại học.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường Đại
học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở miền Nam
2.2.1. Bộ máy tổ chức, quản lý ở các trường đại học công lập thuộc Bộ
Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
Hiện nay, các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
đều có cơ cấu tổ chức và hoạt động đảm bảo quy định về Cơ cấu tổ chức
theoĐiều 14 của Luật Giáo dục đại học. Theo đó, Bộ máy tổ chức, quản lý của
các trường cơ bản được tổ chức theo sơ đồ sau:
Hội đồng Trường
Ban Giám hiệu
Hội đồng Khoa học Trường
Các đơn vị dịch vụ
Các khoa chuyên ngành
Các phòng, ban chức năng
Hình 2.1.1. Sơ đồ tổ chức quản lý của các trường ĐH thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
46
Công tác quản lý viên chức nói chung và giảng viên nói riêng ở các
trường đại học phía sau các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thì trách
nhiệm được ủy quyền trước hết và cao nhất thuộc về Hiệu trưởng nhà trường.
Giúp việc cho Hiệu trưởng có các Phó Hiệu trưởng cũng như các đơn vị trực
thuộc. Trong đó, Phòng Tổ chức Nhân sự có chức năng chính giúp Hiệu trưởng
thực hiện các nội dung liên quan tới quản lý toàn thể viên chức và chịu trách
nhiệm trước Hiệu trưởng về các vấn đề liên quan. Bên cạnh đó, các khoa chuyên
ngành có trách nhiệm đảm bảo việc phân công giảng dạy, theo dõi, đôn đốc quá
trình thực hiện nhiệm vụ của giảng viên thuộc đơn vị. Là đơn vị trực tiếp triển
khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy chế,
quy định của Nhà trường đến đội ngũ giảng viên trong khoa.
2.2.2. Hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các
trường Đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
2.2.2.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch, quy hoạch đội ngũ giảng viên
Công tác xây dựng kế hoạch, quy hoạch đội ngũ giảng viên được xem là
một trong những nội dung hết sức quan trọng. Là một trong những công việc
mang tính then chốt nhằm đảm bảo luôn có một đội ngũ đủ về số lượng, giỏi về
chuyên môn không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn phục vụ cho tương lai, từ đó
luôn kịp thời thực hiện thành công mọi nhiệm vụ trong công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Đây cũng được xem là bước
đầu tiên mang tính nền tảng để xây dựng và định hình về chiến lược phát triển,
đặc biệt là chiến lược đổi mới phương pháp dạy và học trong thời đại mới.
Công tác xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ còn giúp cho các cơ quan
quản lý nhà nước, thủ trưởng đơn vị có được bức tranh tổng thể về đội ngũ giảng
viên, từ đó làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa các chức danh lãnh đạo,
vị trí công tác chuyên môn. Đồng thời giúp cho đội ngũ giảng viên tự xây dựng
và hoàn thiện bản thân, qua đó không ngừng tăng thêm các kiến thức về lý luận
47
chính trị, năng lực quản lý, điều hành, lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị
của mình, góp phần tích cực trong việc hoàn thành các chỉ tiêu đề ra trong năm
hoặc giai đoạn cụ thể của đơn vị.
Cũng như các trường đại học công lập trên toàn quốc, các trường đại học
công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền Nam thực hiện công tác xây dựng
và quy hoạch đội ngũ giảng viên của đơn vị mình dựa trên các quy định chung
nhất của pháp luật. Trong đó, gần nhất là các Chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam, các hướng dẫn, thông tư của Bộ Nội vụ và Bộ giáo dục và Đào tạo, đồng
thời theo các quy định, hướng dẫn của Bộ Xây dựng. Bên cạnh đó, chiến lược
phát triển của Trường cũng là một trong những căn cứ sát thực để thực hiện
công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên. Cụ thể các căn cứ là: Chiến
lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ: “Thực hiện đề án
đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng với
phương án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng
viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ” [45]. Như vậy, theo chiến
lược này thì đến năm 2020 tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ là 25%
trên tổng số giảng viên. Rõ ràng đây là một chỉ tiêu hết sức mạnh bạo được xây
dựng trên các cơ sở phân tích các hạn chế, yếu kém cũng như đánh giá các điều
kiện khó khăn, thuận lợi trong tương lai, với mục tiêu nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên, đáp ứng kịp thời và hoàn thành các mục tiêu trong chiến lược đã
đề ra.Bên cạnh đó, quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt đề án đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ
cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020 với các mục đích: [53]
Tăng cường công tác đào tạo tiến sĩ cả về quy mô và chất lượng, nhằm
nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiên cứu, giảng dạy và quản lý đại
học tiên tiến của đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng.
Tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường đại học, cao
đẳng của cả nước, phấn đấu đến năm 2020, đào tạo bổ sung được ít nhất 20.000
48
tiến sĩ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và
phát huy mạnh mẽ sự hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong
đào tạo tiến sĩ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học
của các trường đại học, của giảng viên và cán bộ nghiên cứu của Việt Nam.
Tạo cơ sở vững chắc để đổi mới cơ bản và toàn diện hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam; từng bước đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập với nền giáo
dục đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Quyết định này cũng đã nêu rõ trách nhiệm của các Trường là: “Các trường
đại học, cao đẳng có trách nhiệm xây dựng kế hoạch đào tạo giảng viên của
trường mình, chủ động chuẩn bị tốt nguồn giảng viên cử đi đào tạo theo kế
hoạch; tham gia vào công tác tuyển chọn và quản lý giảng viên của cơ sở mình
được cử đi đào tạo tiến sĩ.” [53]
Bên cạnh đó, để giúp các trường có được định hình và chọn lựa mô hình
trường học, kèm theo đó là tỉ lệ giảng viên tương ứng, Chính phủ ban hành Nghị
định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm 2015 Quy định về tiêu chuẩn
phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học, Nghị
định này nêu rõ tiêu chuẩn về số lượng giảng viên có trình độ Tiến sỹ tương ứng
cho các loại hình trường.
Từ các chiến lược, quyết định nêu trên, thực tế ở hai trường đại học thuộc
Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam đã thực hiện nội dung công tác này bằng
việc cử viên chức là giảng viên đi học tiế sĩ ở nước ngoài, số lượng tiến sĩ tăng
49
lên hàng năm, cụ thể qua các số liệu sau:
Tăng/giảm
GS P.GS TS ThS ĐH Năm Tổng (%) so với
năm trước
gần nhất
2 13 109 103 227 100 Năm 2005
2 13 116 130 261 114.98 Năm 2006
1 12 124 136 273 104.60 Năm 2007
1 16 143 157 317 116.12 Năm 2008
0 16 160 150 326 102.84 Năm 2009
2 19 163 141 325 96.69 Năm 2010
2 23 192 126 343 105.54 Năm 2011
2 25 210 89 326 95.04 Năm 2012
6 24 228 72 330 101.23 Năm 2013
5 34 230 50 319 96.67 Năm 2014
5 37 242 28 312 97.81 Năm 2015
5 44 231 23 303 97.12 Năm 2016
Bảng 2.2.2.1 a. Số lượng giảng viên thuộc trường đại học Kiến trúc TP. HCM qua các năm (Nguồn:
Báo cáo đề nghị Khen thưởng Huân chương Lao động hạng 2 (lần 2) của Trường đại học Kiến trúc
TP. Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Trường – 26/10/2016)
50
Từ bảng số liệu trên dùng để vẽ biểu đồ thể hiện sự thay đổi về đội ngũ giảng
viên của Trường ĐH Kiến trúc như sau:
Biểu đồ: 2.2.2.1 a. Về sự phát triển của đội ngũ giảng viên trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh,
giai đoạn 2005-2016
Số lượng giảng viên đại học Xây dựng Miền Tây
GS P.GS TS ThS ĐH Năm Tổng Tăng/gi
ảm (%)
100 89 125 Năm 2010 35 1
112.80 85 141 Năm 2011 53 3
102 162 114.89 Năm 2012 55 5
113 182 112.35 Năm 2013 58 11
196 107.69 90 Năm 2014 92 12
195 99.49 87 Năm 2015 94 14
Bảng: 2.2.2.1 b.Số lượng giảng viên đại học Xây dựng Miền Tây từ năm giai đoạn 2010-2016
51
58 13 Năm 2016 2 125 180 92.30
Từ bảng 2.2.2.1 bdùng để vẽ biểu đồ về sự thay đổi số lượng và mức độ
tăng giảm đối với đội ngũgiảng viên đại học Xây dựng Miền Tây như sau:
Biều đồ:2.2.2.1 b. Về sự phát triển đội ngũ giảng viên trường đại học Xây dựng Miền Tây, giai
đoạn 2010-2016
Qua các bảng số liệu và biểu đồ ở trên, ta thấy đội ngũ cán bộ giảng viên
của Trường đại học Kiến trúc tại thời điểm năm 2005 có học vị chưa nhiều (13
tiến sĩ, 109 thạc sĩ). Trong hơn 10 năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu hết sức
quan tâm và đã nỗ lực cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ngoài nước. Đến
thời điểm tháng 12/2016, đội ngũ giảng viên nhà trường có: 05 PGS (chiếm
1,65%); 44 tiến sĩ (chiếm 14,52%), 231 thạc sĩ (chiếm 76,24%), 23 đại học
(chiếm 7.59%).Điều này cho thấy việc cử viên chức của trường đại học Kiến
trúc tham gia chương trình đào tạo Tiến sĩ đã được chú trọng và mang lại các kết
quả tăng dần theo từng năm.
Bảng số liệu và biểu đồ cũng cho thấy tổng số lượng giảng viên tăng đều
hàng năm. Điều này phần nào thể hiện mức độ quan tâm về phát triển số lượng
52
đội ngũ giảng viên của hai trường đại học này.
Qua tìm hiểu trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của Trường đại học thuộc
Bộ Xây dựng ở Miền Nam tác giả nhận thấy nghị quyết của cấp ủy Đảng đã có
đề cập cụ thể về công tác cán bộ, trong đó có thể kể ra một số nội dung [77].
- Lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cấp đội ngũ viên chức ở
khối phục vụ đào tạo cả về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ chính trị. Tập
trung đầu tư xây dựng đội ngũ giảng viên, chú trọng ưu tiên đào tạo trình độ
Tiến sĩ cùng chức danh Phó giáo sư.
- Chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ công chức, viên chức Nhà
trường từng bước đạt chuẩn theo quy định cho từng năm học và cho cả nhiệm kỳ.
- Chỉ đạo xây dựng chiến lược về quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ
hợp lý, cùng các chế độ ưu đãi và tuyển dụng phù hợp để thu hút nhân tài.
Trong Nghị quyết đại hội Đảng bộ Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh nhiệm kỳ 2015-2020 cũng đã nêu rõ “Nâng tỉ lệ giảng viên có trình độ sau
đại học lên 90%, trong đó giảng viên có trình độ Tiến sĩ là 20%” [77].
Như vậy, có thể thấy rằng, Đảng ủy Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh đã hết sức chú trọng xây dựng các nội dung chỉ đạo, lãnh đạo trong Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ, trong đó có nội dung lãnh đạo về công tác xây dựng kế
hoạch, quy hoạch viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng. Đây là
một trong những cơ sở quan trọng và gần nhất để chính quyền (Ban Giám hiệu)
làm căn cứ cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ của đơn vị mình. Tuy nhiên
về mặt thực tế thì chính quyền (Ban Giám hiệu) lại chưa cụ thể hóa Nghị quyết
của Đảng ủy về công tác cán bộ bằng các kế hoạch hay đề án cụ thể nào liên
quan tới với quy hoạch đội ngũ giảng viên. Do vậy, mặc dù tổng số lượng giảng
viên cũng như số lượng giảng viên có học hàm, học vị ngày càng tăng theo thời
gian nhưng sự tăng này chưa nằm trong một kế hoạch, quy hoạch hay chiến lược
nào (ở đây được hiểu là quy hoạch về phát triển số lượng, chất lượng đội ngũ,
không phải là quy hoạch về các vị trí, chức danh lãnh đạo các đơn vị các cấp
53
thuộc Trường). Qua tìm hiểu đối với các giảng viên đã hoàn thành các khóa học
Tiến sĩ ở nước ngoài cũng như trong nước và quay về công tác thì việc họ đi học
nâng cao trình độ chuyên môn không nằm trong một kế hoạch chỉ đạo nào của
Ban Giám hiệu hay đơn vị nơi mình công tác (Khoa, Bộ môn) mà đó là việc họ
tự ý thức sự cần thiết phải học nâng cao trình độ để đáp ứng nhiệm vụ chuyên
môn trong thời đại mới. Việc cử viên chức đi học nâng cao trình độ chuyên môn
được thực hiện thông qua các bước như sau:
(1) Viên chức sau khi có đủ các điều kiện như: xin được học bổng, có trường
đồng ý tiếp nhận, hoặc tự túc thực hiện các liên hệ với cơ sở đào tạo cho việc
tham gia khóa học nâng cao trình độ chuyên môn.
(2) Viên chức viết đơn xin đi học gửi các đơn vị liên quan (Khoa nơi mình
giảng dạy, Phòng Tổ chức Nhân sự; Ban Giám hiệu)
(3) Phòng Tổ chức Nhân sự tổng hợp hồ sơ, tham mưu Ban Giám hiệu phê
duyệt Quyết định cử viên chức đi học. Trong quyết định nêu rõ thời gian, nơi
học, kinh phí học tập và trách nhiệm của cá nhân được cử đi học cũng như các
đơn vị liên quan.
Từ việc các viên chức là giảng viên được cử đi học nâng cao trình độ
chuyên môn không nằm trong một kế hoạch hay quy hoạch cụ thể nào được Ban
Giám hiệu Nhà trường ban hành, nên các căn cứ nêu trong Quyết định cử viên
chức đi học chỉ nêu các căn cứ pháp lý như:
(1) Căn cứ vào quy chế hoạt động của Trường;
(2) Căn cứ vào đơn xin đi học của viên chức;
(3) Xét đề nghị của Trưởng phòng Tổ Chức Nhân sự.
Và như thế, thiếu một căn cứ rất quan trọng và cần thiết là căn cứ vào “Kế
hoạch”, “chiến lược” phát triển đội ngũ theo từng giai đoạn hay một cơ sở được
cụ thể hóa dựa trên các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch của Chính phủ cũng
như các Bộ, ngành liên quan.
Trong công tác xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên, một yêu
54
cầu hết sức quan trọng đó là việc chính đội ngũ giảng viên phải biết được các kế
hoạch cũng như nội dung cụ thể của công tác quy hoạch phát triển đội ngũ. Tuy
nhiên, trên thực tế, hầu hết giảng viên đang công tác tại các trường đại học thuộc
Bộ Xây dựng ở khu vực miền Nam không biết nội dung này. Cụ thể là việc
thông qua kết quả khảo sát của tác giả với câu hỏi “Anh/chị có biết các nội
dung về quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên của đơn vị nơi mình công tác
không”?. Câu trả lời thu về như sau:
Số phiếu hỏi Số phiếu trả lời Kết quả trả lời Kết quả trả lời
phát ra thu về “có biết” “không biết”
50 50 0 50
Từ thực tế kết quả khảo sát nêu trên, cho thấy việc xây dựng các kế hoạch,
quy hoạch và phổ biến các nội dung quy hoạch đến đối tượng liên quan chưa
thật sự được chú trọng thực hiện. Và như vậy có thế thấy công tác này đang thực
hiện có phần “tự phát” mặc dù đã có chủ trương trong Nghị quyết Đại hội của
Đảng ủy Nhà trường cũng như các quy định, cơ sở pháp lý mà các cơ quan quản
lý nhà nước đã ban hành tương đối đầy đủ.
Đánh giá chung về công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên ở các
trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền Nam.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập đã ban hành nhiều chính sách chung trên phạm vi toàn quốc. Đó là cơ
sở thuận lợi cho các trường đại học công lập thực hiện việc xây dựng, quy hoạch
đội ngũ của mình nhằm chuẩn hóa cũng như nâng cao trình độ chuyên môn cho
giảng viên, từ đó thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị không chỉ
hiện tại mà còn trong tương lai.
- Công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ viên chức nói chung và đội ngũ
giảng viên nói riêng đã được Cấp ủy Đảng của Nhà trường chú trọng xây dựng,
xem đó là một trong những nội dung hết sức quan trọng, thể hiện sự quan tâm,
lãnh đạo đúng đắn, đầy đủ về công tác nhân sự. Xem công tác nhân sự, đội ngũ
55
là vấn đề then chốt nhằm xây dựng nhà trường ngày càng phát triển.
- Công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên của các trường đại học
công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền nam nhìn chung chưa được chú
trọng thực hiện trên thực tế, việc ban hành, xây dựng các kế hoạch, quy hoạch
chưa được thực hiện để làm cơ sở cho công tác triển khai trên phạm vị toàn
trường. Thay vào đó, các trường chỉ mới dừng lại ở việc tạo các điều kiện, hỗ trợ
cho “sự chủ động” của viên chức thông qua các cơ chế, quy định trong quy chế chi
tiêu nội bộ của trường bằng các chính sách hộ trợ tài chính, thời gian giảm định
mức giờ chuẩn để giảng viên hoàn thành chương trình đào tạo theo hạn định.
- Chưa ban hành cụ thể các quy định riêng biệt về công tác quy hoạch, phát
triển đội ngũcho từng năm và cho từng giai đoạn cụ thể để làm căn cứ thực hiện
cũng như xây dựng các giải pháp cụ thể để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
- Với vai trò là bộ chủ quản - Bộ Xây dựng đang chỉ dừng lại ở việc triển
khai các quy định, hướng dẫn chung của Chính phủ cũng như Bộ giáo dục và
Đào tạo và Bộ Nội vụ, mà chưa có cụ thể được các quy định hay hướng dẫn
riêng mang tính đặc thù ngành nghề dựa trên nhiệm vụ cụ thể được Chính phủ
phân công. Như vậy chưa đưa ra được các dự báo về nguồn nhân lực mà cụ thể
là đội ngũ giảng viên cần phát triển hoặc thay đổi trong một thời gian, một giai
đoạn nhất định gắn với nhiệm vụ, chiến lược trọng tâm của ngành.
2.2.2.2. Thực trạng về công tác tuyển dụng đội ngũ giảng viên
Quản lý nhà nước về công tác tuyển dụng đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập hiện nay được thực hiện theo các quy định về tuyển dụng viên
chức được quy định trong Luật Viên chức và được cụ thể hóa theo Nghị định số
29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính Phủ quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày
08 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ quy định `về vị trí việc làm trong đơn vị sự
nghiệp công lập. Dưới Nghị định này có các thông tư như: Thông tư 41/2012-
TT-BNV ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 41/2012/NĐ-CP quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công
lập; Thông tư 15/2012/TT-BNV ngày 25 tháng 12 năm 2012 của Bộ Nội vụ về 56
việc “Hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào
tạo, bồi dưỡng đối với viên chức”.
Các văn bản nêu trên quy định cụ thể về điều kiện đăng ký dự tuyển viên
chức, hồ sơ đăng ký tuyển dụng, các bước tuyển dụng, nội dung thi và xét tuyển
trong tuyển dụng, chế độ tập sự, hợp đồng làm việc sau khi trúng tuyển. Đối với
người đăng ký dự tuyển viên chức là giảng viên các trường đại học công lập còn
có các căn cứ thực hiện đó là các quy định liên quan tới tiêu chuẩn giảng viên
như: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dành cho giảng viên; có trình
độ ngoại ngữ theo quy định của Thông tứ 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 1
năm 2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc ban hành khung năng lực ngoại
ngữ 6 bậc dùng tại Việt Nam; có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng tin
học theo Thông tư 03/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm 2014 của Bộ Thông tin và
Truyền thông quy định về chuẩn kỹ năng sử dụng công nghê thông tin. Thông tư
05/2016/TT-BGDĐT ngày 21 tháng 3 năm 2016 của Bộ giáo dục và Đào tạo quy
định thời gian tập sự theo chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng viên.
Với trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và Trường đại học Xây dựng
Miền Tây, công tác tuyển dụng viên chức là giảng viên còn thực hiện dựa trên các
quy định của Bộ Xây dựng, mà gần đây nhất là Quyết định số 1071/QĐ-BXD ngày
28 tháng 10 năm 2013 của Bộ Xây dựng về việc ban hành kế hoạch Xây dựng đề
án vị trí việc làm trong các đơn vị hành chính và sự nghiệp thuộc Bộ Xây dựng. Tại
Quyết định này nêu rõ mục đích “Rà soát lại toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức của từng cơ quan, đơn vị thuộc Bộ. Trên cơ sở đó, thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị xây dựng kế hoạch sử dụng, tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn phù hợp với chức
năng nhiệm vụ của đơn vị, phát huy hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, từng bước
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ” [44].
Công tác tuyển dụng viên chức, đặc biệt là giảng viên có trình độ chuyên
môn cao là một trong những nội dung được quan tâm và ưu tiên thực hiện. Việc
57
tuyển dụng giảng viên có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng ngay các điều kiện
của ngạch giảng viên mà không phải tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng sẽ giúp cho các
trường không phải thực hiện công tác đào tạo mới, đào tạo lại, do vậy cắt giảm
chi phí cũng như các khó khăn khác đi kèm.
Với những quy định nêu trên, Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh
và Trường đại học Xây dựng Miền Tây đã thực hiện công tác tuyển dụng giảng
viên theo các quy định hiện hành, gắn với đặc thù, cơ chế riêng của đơn vị trên
cơ sở sự cho phép của pháp luật. Theo đó, công tác tuyển dụng giảng viên của
hai trường nói trên thực hiện theo các bước quy định như sau:
(1) Hàng năm, Nhà trường ban hành Thông báo tới các đơn vị trong trường
về việc đăng ký số lượng, vị trí tuyển dụng viên chức. Trong đó nêu rõ “căn cứ
để đề xuất tuyển dụng thêm viên chức” (bước này được hiểu là lập kế hoạch
tuyển dụng dựa trên vị trí việc làm hiện tại nếu thiếu hụt hoặc vị trí đó cần cho
việc thực hiện nhiệm vụ trong thời gian sắp tới).
(2) Nhà trường (thông qua phòng Tổ chức Nhân sự) tổng hợp số lượng, vị
trí đề nghị tuyển dụng viên chức của các đơn vị chuẩn bị cho việc thống nhất số
lượng, vị trí tuyển dụng.
(3) Trên cơ sở đề xuất của Phòng Tổ chức Nhân sự, Hiệu trưởng Nhà
trường ban hành Quyết định thành lập Hội đồng tuyển dụng viên chức, trong đó
nêu rõ trách nhiệm của Hội đồng trong việc thực hiện nhiệm vụ tuyển dung viên
chức theo quy định của pháp luật hiện hành và các quy định của Trường.
(4) Thông báo công khai tại cơ quan và trên website của Trường về việc
tuyển dụng viên chức, trong đó nêu rõ chỉ tiêu, tiêu chuẩn, điều kiện, đối tượng
tuyển dụng, thời gian để ứng viên theo dõi.
(5) Tiếp nhận hồ sơ ứng tuyển theo thời gian quy định trong thông báo
tuyển dụng
(6) Phân loại, rà soát hồ sơ ứng viên, họp Hội đồng tuyển dụng lần 1 để
58
thống nhất danh sách ứng viên đủ tiêu chuẩn, điều kiện đưa vào danh sách tuyển
dụng. Sau đó công bố danh sách ứng viên đủ điều kiện cũng như công bố thời
gian, nội dung thi tuyển/xét tuyển cho ứng viên biết.
(7) Tổ chức thi tuyển/xét tuyển theo quy định.
(8) Thông báo danh sách trúng tuyển đến toàn thể ứng viên dự tuyển và
công bố công khai theo quy định.
(9) Thực hiện việc ký hợp đồng làm việc đối với ứng viên trúng tuyển.
(10) Thực hiện việc bổ nhiệm và xếp lương ngạch giảng viên sau khi hoàn
thành chế độ tập sự (nếu có) cho người trúng tuyển.
Với các bước, quy trình tuyển dụng nêu trên, nhìn chung các trường đại
học công lập thuộc Bộ Xây dựng đã thực hiện tương đối đầy đủ, đảm bảo các
quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức.Có thể các bước, quy trình nêu
trên có sự linh hoạt nhằm đảm bảo cho công tác tuyển dụng được thuận lợi hơn
nhưng không vượt ra các quy định của pháp luật.
Hiện nay, một trong những vấn đề thường được xã hội quan tâm là việc
thiếu thông tin, minh bạch và công khai trong công tác tuyển dụng.Đây là nội
dung bắt buộc theo quy định, chính vì thế các trường đại học công lập thuộc bộ
Xây dựng đã thực hiện tốt công tác này. Bằng chứng là việc các trường đã công
khai thông tin tuyển dụng trên website của trường.
Hình 2.2.2.2.Minh chứng việc công khai thông tin tuyển dụng của các trường đại học công lập thuộc
Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
59
Phân tích các bước, quy trình cũng như nội dung trong thông báo tuyển
dụng, ta có thể thấy rằng, một thực tế cả hai trường này tuyển dụng giảng viên
đều có tiêu chuẩn là tốt nghiệp Đại học, riêng đối với Trường đại học Xây dựng
Miền tây thì chỉ yêu cầu tốt nghiệp đại học loại Khá trở lên và có khả năng học
cao học. Theo quy định về tiêu chuẩn giảng viên được quy định tại Điều 54,
Luật giáo dục Đại học là “Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy
trình độ đại học là thạc sĩ trở lên”. Tuy nhiên tại thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV về tiêu chuẩn giảng viên đại học quy định về mã
số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở
giáo dục đại học công lập lại quy định đối với ngạch Giảng viên (hạng III) - Mã
số: V.07.01.03 thì một trong những tiêu chuẩn là đủ để xếp ngạch giảng viên là
“Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với vị trí việc làm, chuyên ngành
giảng dạy” [26]. Như vậy trên thực tế còn chưa có sự thống nhất giữa các quy
định (Luật giáo dục đại học và Thông tư liên tịch 36/2014/TTLT-BGDĐT-
BNV).Và như thế, sau thời gian tập sự một năm (đối với người tuyển vị trí giảng
viên có bằng đại học sẽ được bổ nhiệm ngạch giảng viên theo quy định tại
thông tư 05/2016/TT-BGDĐT ngày 21 tháng 3 năm 2016 của Bộ giáo dục và
Đào tạo quy định thời gian tập sự theo chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng
viên.
Về thực tế số lượng giảng viên được tuyển dụng trong một số năm gần
đây của các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở Miền Nam có tỷ lệ người trúng
tuyển chỉ có trình độ đại học là khá cao.Và thực tế là số lượng tuyển dụng hàng
60
năm không nhiều.
Bảng số liệu sau nói lên thực tế này:
Năm GS PGS TS ThS ĐH Tổng
2010 1 4 3 8
2011 1 6 28 35
2012 1 2 3
2013 9 3 12
2014 4 4 8
2015 1 4 5
2016 1 1
2017 4 4
Bảng 2.2.2.2 Số lượng tuyển dụng giảng viên qua các năm của Trường đại học Kiến trúc TP. HCM
(nguồn: Phòng TCNS Trường ĐH Kiến trúc TP. HCM)
Quy định trong tuyển dụng hiện nay có các quy định về xét đặc cách
không qua thi tuyển đối với các trường hợp đủ các điều kiện theo quy định, đồng
thời người trúng tuyển được miễn chế độ tập sự nếu đủ các điều kiện sau:
- Đã có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong
ngành, lĩnh vực cần tuyển từ đủ 12 tháng trở lên;
- Trong thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và đã làm
những công việc chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm
được tuyển dụng.
Việc quy định tuyển đặc cách cũng như không phải thực hiện chế độ tập
sự là điều kiện thuận lợi để các trường đại học tuyển chọn, thu hút được các
nhân sự có trình độ chuyên môn cao. Các nhân sự được đặc cách và ký hợp đồng
làm việc có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ công việc theo phân công ngay từ
đầu mà không phải thực hiện các công việc như học tập nâng cao trình độ (về
61
bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ) hay phải thực hiện “thử việc” trước khi được
nhận nhiệm vụ chính thức. Chính vì sự thuận lợi này mà các trường luôn hướng
tới tìm kiếm, tuyển dụng đội ngũnhân sự có chất lượng cao.Tuy nhiên, trên thực
tế, số lượng nhân sự có trình độ chuyên môn cao (từ học vị Tiến sĩ trở lên) mà
các trường tuyển dụng được là không nhiều. Điều này có thể có nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân về các chế độ chính sách, ưu đãi đối với người có
trình độ cao chưa thật sự thu hút, hấp dẫn các đối tượng này.
Từ việc khó tuyển được nhân sự có trình độ chuyên môn cao nếu việc thực
hiện trả lương và các chế độ phụ cấp theo lương theo các quy định của nhà nước, từ
đó các trường đại học có các hình thức “linh động” để thu hút nhân tài về cho đơn vị
của mình. Với Trường đại học Xây dựng Miền Tây, công tác này đã được triển khai
trong điều kiện Trường đóng trú tại một địa bàn còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế,
xã hội. Để thu hút được người tài, có chất lượng chuyên môn cao thì đòi hỏi các
chính sách đi kèm phải thích hợp và thật sự hấp dẫn. Theo đó, Trường đại học Xây
dựng Miền Tây đã thực hiện việc thu hút nhân tài bằng việc ban hành quyết định về
việc quy định chính sách thu hút người có học hàm, học vị về công tác tại Trường
đại học Xây dựng Miền Tây [87]. Tại Quyết định này, tất cả các chế độ thu hút, bao
gồm chế độ ưu đãi, chế độ hỗ trợ tài chính và chế độ khác đều vượt ra khỏi khung
quy định của Nhà nước, cụ thể:
Chế độ hỗ trợ tài chính Người có học hàm, học vị Giáo sư, Giáo sư - Tiến
sĩ, Phó Giáo sư, Phó Giáo sư - Tiến sĩ, Tiến sĩ, Thạc sĩ có nguyện vọng về
Trường Đại học Xây dựng Miền Tây, ngoài tiền lương và phụ cấp (nếu có) theo
quy định chung, được hỗ trợ như sau:
- Đào tạo trong nước:
+ Giáo sư, Giáo sư - Tiến sĩ: 500.000.000 đồng.
+ Phó Giáo sư, Phó Giáo sư - Tiến sĩ: 450.000.000 đồng.
+ Tiến sĩ: 400.000.000 đồng.
+ Thạc sĩ có chuyên môn tốt, ngoại ngữ tốt: 60.000.000 đồng
62
- Đào tạo ở nước ngoài:
+ Giáo sư, Giáo sư - Tiến sĩ: 600.000.000 đồng.
+ Phó Giáo sư, Phó Giáo sư - Tiến sĩ: 550.000.000 đồng.
+ Tiến sĩ: 500.000.000 đồng.
+ Thạc sĩ có chuyên môn tốt: 160.000.000 đồng
Nhìn vào các chế độ ưu đãi nêu trên, rõ ràng các chế độ (đặc biệt là thu
nhập) cho các giảng viên có trình độ Tiến sỹ là rất tốt. Như vậy, mặc dù chưa có
quy định nào cụ thể cho việc các trường áp dụng cơ chế khuyến khích, thu hút
nhân tài và trả lương, thưởng cho viên chức,song các trường đại học được trả
lương cho viên chức nằm trong quỹ lương của đơn vị sự nghiệp và một phần từ
nguồn thu hợp pháp mà đơn vị sự nghiệp được phép thu. Như vậy, việc Trường
đại học Xây dựng Miền Tây thực hiện chế độ thu hút nhân tài với các cơ chế đãi
ngộ có thể được quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ của Trường cũng là phù
hợp trong điều kiện khó tuyển dụng được nhân sự có trình độ chuyên môn cao
nếu chỉ đơn thuần trả lương theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, căn cứ tuyển dụng viên chức ở các trường là
theo nhu cầu công việc, vị trí công tác và chỉ tiêu, biên chế được giao hàng năm
và đề án vị trí việc làm được phê duyệt.Như vậy, muốn tuyển dụng được viên
chức đúng người, đúng việc thì việc xác định chức danh, tiêu chuẩn, vị trí công
việc là vấn đề mấu chốt.Đối chiếu với quy định này, rõ ràng các trường đại học
ở khu vực Miền Nam thuộc Bộ Xây dựng đangthực hiện công tác tuyển dụng chỉ
mới căn cứ vào thực tế hàng năm về nhu cầu công việc theo báo cáovà đề
nghịcủa các đơn vị trực thuộc.
Đánh giá chung về công tác tuyển dụng giảng viên tại các trường đại học
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
- Các quy định pháp lý liên quan tới công tác tuyển dụng đội ngũ giảng
viên đã được các cơ quan quản lý nhà nước ban hành đầy đủ, làm cơ sở cho các
trường đại học công lập nói chung và các trường thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
63
Miền Nam nói riêng làm căn cứ thực hiện.
- Việc giao quyền tuyển dụng đội ngũ giảng viên cho các trường đại học
đã tạo ra sự chủ động, linh hoạt, do vậy các trường đã chủ động thực hiện khi có
nhu cầu về tuyển dụng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu về thực hiện nhiệm vụ
chính trị của cơ quan.
- Trong những năm qua, công tác tuyển dụng viên chức là giảng viên ở
các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền nam đã thực
hiện tương đối tốt, các trường đã tuyển được đội ngũ giảng viên trẻ, năng động,
có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng tốt các yêu cầu về thực hiện nhiệm vụ
chính trị trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để các trường thực hiện
công tác tuyển dụng nhìn chung đầy đủ, tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện.
Theo đó, công tác tuyển dụng viên chức là giảng viên thực sự minh bạch, khách
quan, rõ ràng về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức tuyển dụng…Do đó, dễ dàng
tiếp nhận được hồ sơ các ứng viên đạt các yêu cầu theo quy định tuyển dụng.
- Là đơn vị sự nghiệp công lập, việc tuyển dụng viên chức mới phải căn
cứ vào chỉ tiêu biên chế hàng năm được giao từ Bộ chủ quản, do vậy các Trường
chưa thể tự chủ động tuyển thêm các biên chế dự phòng cho số viên chức nghỉ
hưu theo chế độ, hoặc viên chức rời bỏ nhiệm sở vì các lý do khác nhau.
- Việc tuyển dụng viên chức chỉ mới thực hiện từng năm một mà không
phải cho một giai đoạn cụ thể. Điều này cho thấy công tác tuyển dụng nói riêng
và dự báo sự thay đổi về nhân sự nói chung chưa có sự đầu tư nghiên
cứu.Nguyên nhân này có thể xuất phát từ chủ quan của cơ quan, cũng có thể
xuất phát từ các cơ chế, thể chế quy định hiện hành. Cụ thể, hiện nay cả hai
trường đại học thuộc bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam đều đã xây dựng xong
Đề án ví trí việc làm theo quy định tại Quyết định số 1071/QĐ-BXD ngày 28
tháng 10 năm 2013 của Bộ Xây dựng về Xây dựng đề án vị trí việc làm trong
các đơn vị hành chính và sự nghiệp thuộc Bộ Xây dựng. Tuy nhiên, qua tìm hiểu
của tác giả luận văn thì cả hai trường này vẫn chưa được thông qua Đề án vị trí
việc làm mà trường đã xây dựng và trình Bộ. Như vậy, việc sắp xếp các vị trí 64
công việc cũng như đánh giá sự thay đổi công việc của một viên chức trên thực
tế có thể thực hiện được, song nó chỉ mang tính nhất thời tại một thời điểm mà
không mang tính giai đoạn, chiến lược.
- Mặc dù các trường đã vận dụng linh hoạt cơ chế, điều kiện tốt nhất có
thể để thu hút nhân tài nhằm tìm kiếm những người có năng lực tốt nhất, song vì
các một số ràng buộc như thời gian làm việc, thu nhập thực tế….nên việc tuyển
dụng trong nhiều đợt không đủ chỉ tiêu tuyển dụng như mong muốn. Đặc biệt là
việc tuyển các sinh viên có học lực ở lại trường công tác là rất khó khăn, vì trên
thực tế, nếu ra ngoài xã hội thì các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, giỏi có thể sẽ
tìm kiếm được nhiều cơ hội việc làm tốt, thu nhập cao và cơ hội thăng tiến rõ
ràng hơn.
2.2.2.3. Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên là công việc mang tính thường
xuyên, liên tục nhằm xây dựng đội ngũ có chất lượng chuyên môn cao, đặc biệt
trong môi trường giáo dục đại học, chất lượng đội ngũ được xem là sự sống còn
của một cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, đại học vốn dĩ là một nơi sản xuất ra các
tri thức, lan tỏa tri thức và thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học phục vụ
cho thực tế của đời sống xã hội. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ về
tri thức và khoa học trên thế giới, việc các trường đại học không ngừng thay đổi,
cập nhập kiến thức, trình độ mới trở thành một xu hướng tất yếu nếu không
muốn bị tụt hậu lại phía sau. Chính vì điều đó, trong thời gian qua, các trường
đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam cũng không ngừng
đẩy mạnh các nội dung để hoàn thiện đội ngũ của mình. Một trong số đó chính
là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, những người trực tiếp làm
công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Hiện nay, việc đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ giảng viên đã được các
cơ quan quản lý quan tâm bằng việc ban hành nhiều quy định, cơ chế, trong đó
65
hết sức chú trọng tới công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn.
Về nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng:
- Đảm bảo việc đào tạo, bồi dưỡng liên tục dựa trên kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng hàng năm, từng giai đoạn cụ thể.
- Việc cử, phân công giảng viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng
phải căn cứ vào thực tế nhu cầu phát triển của cơ quan, đơn vị.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực với từng vị trí công việc,
ngạch chuyên môn của giảng viên.
- Đảm bảo việc cử giảng viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng phải
công khai, minh bạch, đúng người, đúng việc.
Chiếu theo các tiêu chuẩn đối với giảng viên, các trường đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền Nam đã xây dựng các kế hoạch đào tạo,
trong đó chú trọng các nội dung chính như sau:
- Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; Chủ yếu thực hiện
chiến lược đào tạo nâng cao học hàm, học vị như từ Đại học lên Thạc sĩ, từ Thạc
sĩ lên Tiến sĩ, chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để được công nhận các chức
danh Phó giáo sư, Giáo sư.
- Đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng dạy học đại học.
- Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ, tin học.
- Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị.
- Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức chung về quản lý nhà nước, kỹ năng
quản lý, điều hành, lãnh đạo.
- Đào tạo, bồi dưỡng các khóa học ngắn hạn chuyên sâu về một chuyên
ngành, trong một lĩnh vực nhất định.
- Đào tạo, bồi dưỡng về các kiến thức bổ trợ gắn với các chức danh nghề
nhiệp; giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp.
Có thể thấy rằng, để đạt chuẩn theo quy định, giảng viên phải tham gia
66
tương đối nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Nhiệm vụ này trước hết thuộc
về trách nhiệm của người giảng viên, tức là người giảng viên phải tự ý thức và
nắm rõ các tiêu chuẩn theo ngạch hiện tại của mình, vị trí công tác để tự học tập,
hoặc đề nghị các cơ quan quản lý tạo điều kiện để bản thân được tham gia học
tập hướng tới việc hoàn thiện các tiêu chuẩn cứng theo quy định.
Trong số các nội dung đào tạo, bồi dưỡng, có thể nói nội dung đao tạo
nâng cao học hàm, học vị được xác định là nội dung quan trọng nhất. Nội dung
này nằm trong chiến lược chung của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cụ thể
gần nhất là trong Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020
ban hành theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ. Theo đó chiến lược đã đề ra mục tiêu “Thực hiện đề án đào
tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng với phương
án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng viên đại
học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ” [53]. Theo chiến lược này, các trường
đại học đã không ngừng nỗ lực, thực hiện các bước công việc liên quan để thực
hiện đưa các giảng viên trong trường tham gia học tập, đào tạo chương trình tiến
sĩ. Nội dung này được đánh giá là quan trọng nhất còn bởi vì hiện nay, việc đánh
giá chất lượng uy tín của một trường đại học ngoài các nội dung như cơ sở vật
chất, chương trình đào tạo, các hoạt động tài chính… thì đội ngũ giảng viên
chiếm một tỉ trọng tương đối lớn.Nội dung này được quy định tại Quyết định số
65/2007/QĐ- BGDĐT của Bộ giáo dục và Đào tạo ngày 01/11/2007 về việc ban
hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, kèm
theo đó là Công văn số 560/KTĐBCLGD ngày 06 tháng 6 năm 2008 của Cục
Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục về việc ban hành hướng dẫn sử dụng
tiêu chí đánh giá chất lượng trường đại học.
Việc nhìn nhận một trường đại học có uy tín, chất lượng đào tạo gần nhất
có thể nhìn nhận về chất lượng sản phẩm đầu ra, khả năng có việc làm và thích
ứng với thị trường lao động của người học được tốt nghiệp, và các công trình, đề
tài nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên được công bố và áp dụng vào
67
thực tế cuộc sống. Bên cạnh đó số lượng Phó Giáo sư, Giáo sư và Tiến sĩ cũng
quyết định rất lớn trong việc xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm của một trường
đại học. Cụ thể Thông tư 32/2015/TT-BGDĐT ngày 16 tháng 12 năm 2015 của Bộ
giáo dục và Đào tạo “Quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở
giáo dục đại học” quy định hệ số giảng viên quy đổi như sau [31]:
Trình độ Hệ số
- Giảng viên có trình độ đại học 0,5
- Giảng viên có trình độ thạc sĩ 1
- Giảng viên có trình độ tiến sĩ 2
- Giảng viên có chức danh phó giáo sư 3
- Giảng viên có chức danh giáo sư 5
Chính vì nhiều lý do quan trọng nêu trên, nên các trường đại học luôn hết
sức chú trọng công tác đào tạo giảng viên theo hướng nâng cao trình độ học
hàm, học vị cho giảng viên.
Như vậy, có thể thấy rằng, các cơ chế về mặt quản lý nhà nước liên quan tới
việc đào tạo, bồi dưỡng giảng viên nâng cao trình độ chuyên môn, các điều kiện
cũng như sự cần thiết để các trường đại học đầu tư công tác này là rất cụ thể,
thiết thực và phù hợp với định hướng chung trong chiến lược phát triển giáo dục
Việt Nam hiện nay.
Cụ thể, công tác đào tạo nâng cao trình độ học vị ở các trường đại học công
lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực phía nam trong những năm qua đạt được các
kết quả khả quan. Theo báo cáo trong Văn kiện đại hội Đảng bộ Trường đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn 2010-2015 Nhà trường đã đào tạo đội ngũ
68
giảng viên như sau: [77]
GV hoàn thành thành CT GV được cử đi đào tạo Hình thức đào ĐT
tạo
Tiến sĩ Thạc sĩ Tiến sĩ Thạc sĩ
Đào tạo trong 47 42 06 57 nước
Đào tạo nước 24 30 16 21 ngoài
Tổng 71 72 22 78
Bảng 2.2.2.3. Tình hình đào tạo trình độ Tiến sĩ, Thạc sĩ trường Đại học Kiến trúc TP. HCM
giai đoạn 2010-2015
Với Trường đại học Xây dựng Miền Tây, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên cũng được hết sức quan tâm. Là trường đại học đào tạo các
ngành Kiến trúc, Xây dựng, Quy hoạch, Cơ sở Hạ tầng cho khu vực Đồng bằng
Sông cửu long, do vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ để đáp ứng việc đào
tạo ra nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng cho khu vực là hết sức quan trọng.
Thực tế trong những năm qua, nội dung công tác này được lãnh đạo nhà trường
đầu tư và kết quả đạt được là hết sức lớn. Chẳng hạn như năm 2015, số lượng
giảng viên có trình độ Thạc sĩ chỉ có 94 người, và qua năm 2015, số lượng này
đã thay đổi lên 194 người (tăng hơn 206%) (Bảngsố 2.2.2.1 b), cùng với đó số
lượng giảng viên có trình độ đại học giảm 87 người năm 2015 còn 58 người năm
2016 (giảm 66.67%).
Bên cạnh việc đầu tư về đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ
giảng viên như đã nêu ở trên, các trường đại học thuộc bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam cũng đã quan tâm thực hiện các nội dung đào tạo, bồi dưỡng về
nghiệp vụ sư phạm, tin học, các kiến về lý luận chính trị, pháp luật, quản lý nhà
nước …Các nội dung đào tạo, bồi dưỡng này giúp cho đội ngũ giảng viên không
chỉ đạt chuẩn theo quy định mà còn giúp cho họ hoàn thiện ở tất cả các nội
69
dung, bao gồm: kiến thức, kỹ năng, năng lực sư phạm, thái độ… Qua tìm hiểu,
hầu hết các giảng viên đều có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, phương
pháp giảng dạy đại học, có trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp với ví trí công
tác, giảng dạy (trong đó đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ có trình độ ngoại ngữ và
tin học rất tốt). Tuy nhiên, về trình độ trung cấp lý luận chính trị thì số lượng
giảng viên có bằng hoặc các chứng nhận tương đương là rất ít.Số giảng viên có
bằng trung cấp lý luận chính trị chủ yếu tập trung vào giảng viên kiêm nhiệm
công tác quản lý từ cấp Bộ môn trở lên.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, ngoài việc xây dựng các kế hoạch,
chiến lược đào tạo thì kèm theo đó là các cơ chế hộ trợ, đặc biệt là hỗ trợ về mặt
tài chính và thời gian để giảng viên hoàn thành khóa học của mình. Đây thực sự
là một nội dung hết sức quan trọng, tạo điều kiện, động lực, khuyến khích giảng
viên tham gia học tập. Hiện nay, hầu hết các trường đại học trong kế hoạch sử
dụng kinh phí hàng năm luôn dành một phần kinh phí nhất định cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, nguồn kinh phí này được quy định cụ thể trong Quy
chế chi tiêu nội bộ của Trường. Chẳng hạn Trường Đại học Kiến trúc quy định
hỗ trợ giảng viên tham gia chương trình đào tạo Tiến sĩ là 30.000.000đ/năm,
Thạc sĩ là 15.000.000đ/năm. Đồng thời đối với nghiên cứu sinh học tập trung
được miễn 100% giờ chuẩn, không tập trung được giảm 50% giờ chuẩn và
100% giờ chuẩn trong năm cuối; giảng viên học cao học tập trung được giảm
100% giờ chuẩn và giảm 50% giờ chuẩn đối với giảng viên học cao học không
tập trung.
Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chương trình học bổng (đề
án 911, 322…), các giảng viên tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao trình
độ chuyên môn sẽ bớt phần gánh nặng về mặt tài chính. Từ đó tạo sự yên tâm
cho công tác học tập, nghiên cứu, đảm bảo tiến độ học tập, sớm hoàn thành khóa
học và quay lại phục vụ cho cơ quan.
Đánh giá chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở các
70
trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
- Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam đã được hết
sức chú trọng, quan tâm thực hiện và đạt được các kết quả khả quan.
- Các quy định pháp luật liên quan đã quy định đầy đủ, rõ ràng, gắn với các
tiêu chuẩn của giảng viên đại học. Từ đó tạo cơ sở, điều kiện cho các trường xây
dựng các kế hoạch, chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên nhằm đáp
ứng kịp thời sự thay đổi, phát triển của các trường đại học trong xu hướng phát
triển chung về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ về tri
thức, khoa học và công nghệ.
- Hầu hết giảng viên đã ý thức tốt việc tự học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn các kỹ năng sư phạm, các kiến thức bổ trợ như tin học, ngoại ngữ. Do vậy,
giảng viên luôn ủng hộ các chương trình đào tạo và bồi dưỡng mà các trường đề
xuất, xây dựng.
- Ngoài việc thực hiện các kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chung của trường,
các đơn vị trực thuộc cũng đã chủ động trong phạm vị và quyền hạn cho phép
của Hiệu trưởng Nhà trường. Đó là việc các Khoa đã chủ động liên hệ, phối hợp
với các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp có chung các chuyên ngành, lĩnh vực
hoạt động tổ chức các buổi trao đổi, sinh hoạt học thuật, các buổi báo cáo
chuyên đề. Các nội dung này bên cạnh tạo môi trường sinh hoạt chuyên môn thì
nó còn là một trong những cách thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, mặc dù
không cấp bằng hay chứng chỉ công nhận cho các giảng viên tham gia.
- Các trường đã chủ động xây dựng và chuẩn bị tốt nguồn kinh phí kịp thời
hỗ trợ cho giảng viên theo học các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó là sự
hỗ trợ của Nhà nước cũng như các cơ quan, tổ chức và trường học nơi giảng
viên tham gia chương trình. Đây là điều kiện tốt để giảng viên hoàn thành nhiệm
vụ học tập, bảo đảm các tiêu chuẩn, yêu cầu chung của pháp luật cũng như định
71
hướng phát triển của nhà trường.
- Công tác đào tao, bồi dưỡng mặc dù đã được quan tâm, chú trọng thực
hiện và mang lại các kết quả tích cực. Song nhìn chung công tác này chưa mang
tính hệ thống, toàn diện, cụ thể là việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
chưa được cụ thể hóa thành các kế hoạch, chiến lược hàng năm hay một giai
đoạn. Thay vào đó là đào tạo, bồi dưỡng còn mang tính thời vụ, đột xuất. Tức là
chưa gắn với chiến lược phát triển chung, cụ thể của từng đơn vị và toàn trường.
Do đó chưa có sự chủ động và lộ trình cho các nội dung, chương trình đào tạo
phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ.
- Giữa chiến lược chỉ đạo chung của cấp ủy Đảng và Ban Giám hiệu Nhà
trường chưa có sự thống nhất cao trong nhận thực và xây dựng các chương trình
hành động cụ thể để hoàn thành các nội dung trongNghị quyết mà Đảng ủy đã
đề ra. Công tác đánh giá, tổng kết công tác đào tạo, bồi dưỡng từng năm, từng
giai đoạn chưa được chú trọng thực hiện. Từ đó chưa nhìn nhận hết được các ưu
điểm, tồn tại để đưa ra các giải pháp hoặc điều chỉnh, thay đổi các chương trình,
phương thức đào tạo cho từng đối tượng giảng viên khác nhau.
- Một số chương trình đào tạo còn nặng về tính lý thuyết, thiếu thực tế và
đôi khi là “không cần thiết” cho một số đối tượng giảng viên. Ví dụ như việc
yêu cầu tất cả các giảng viên giảng dạy trình độ đại học phải có chứng chỉ “lý
luận giảng dạy đại học” hay “Nghiệp vụ sư phạm”, hoặc phải có trình độ “Trung
cấp lý luận chính trị”.Quy định này là cần thiết, phù hợp cho giảng viên nói
chung nhưng chưa hẳn phù hợp, cần thiết đối với giảng viên giảng dạy các
ngành nghề mang tính nghệ thuật cao như Thời trang, Thiết kế mỹ thuật, Kiến
trúc…Bởi lẽ giảng viên giảng dạy các ngành nghề này chủ yếu là thực hành dựa
trên các nguyên lý thiết kế, nghệ thuật và thị hiếu thẩm mỹ của các đối tượng
liên quan. Từ thực tế đó, dẫn tới tình trạng giảng viên bắt buộc phải tham gia các
khóa đào tạo này không hứng thú cũng như sau khóa học không phát huy hoặc
ứng dụng nhiều vào quá trình giảng dạy thực tế. Và từ đó câu chuyện tốn thời
72
gian, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, gây lãng phí chungcho Trường và xã hội.
- Với những trường đại học giảng dạy và đào tạo các ngành nghề mang tính
đặc thù, trong điều kiện yêu cầu về trình độ, số lượng giảng viên phải có bằng
Thạc sĩ, Tiến sĩ tối thiểu trong một ngành nghề cụ thể đã dẫn tới thực tế là các
giảng viên vì việc phải chuẩn hóa bằng cấp, nhưng thực tế các chuyên ngành
học Thạc sĩ, Tiến sĩ lại không gắn với chuyên môn giảng dạy. Thực tế này là sự
mâu thuẫn giữa trong Luật giáo dục đại học, cụ thể tại mục 3, Điều 54 quy định
[78] “Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là
Thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở các ngành chuyên môn đặc thù do Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo quy định”. Thế nhưng, hiện nay, Bộ giáo dục và
Đào tạo chưa ban hành một quy định cụ thể nào về trình độ chuẩn của giảng
viên giảng dạy chương trình đại học đối với các ngành có chuyên môn đặc thù.
Điều nay gây khó khăn rất lớn cho các trường có đào tạo ngành nghề đặc thù, trong
đó có các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
- Mặc dù các cơ chế hộ trợ của Nhà nước cũng như sự quan tâm, hỗ trợ
thêm về kinh phí của Trường đại học nơi giảng viên công tác là tương đối tốt,
song chỉ mới đáp ứng một phần, gây khó khăn không nhỏ cho giảng viên tham
gia học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là tham gia học tập ở nước ngoài.
2.2.2.4. Thực trạng tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính sách
đãi ngộ, chế độ khen thưởng và kỉ luật đối với đội ngũ giảng viên.
Chế độ tiền lương, các chính sách đãi ngộ cũng như khen thưởng, kỹ luật
là nội dung quan trọng đảm bảo cho việc giảng viên được hưởng đầy đủ quyền
lợi, đồng thời có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ liên quan đi kèm với quyền
lợi mà giảng viên được hưởng. Bên cạnh đó là cơ chế khuyến khích, động viên
giảng viên hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo phân công. Đồng thời không ngoại
trừ việc kỷ luật đối với giảng viên vi phạm các quy chế, quy định của Nhà
trường, của Ngành giáo dục cũng như quy định của Pháp luật Nhà nước.
Trên cơ sở các quy định của chính sách, pháp luật về chính sách lương,
phụ cấp, khen thưởng và kỷ luật của Nhà nước và của Bộ giáo dục, các trường
đại học đã vận dụng thực hiện, đảm bảo việc thực hiện các quyền và lợi ích 73
chính đáng của giảng viên, trong đó chính sách lương, phụ cấp theo lương và
khen thưởng là nội dung cốt yếu nhằm đảm bảo điều kiện sống, yên tâm công
tác, cống hiến cho Trường và sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Về chính sách lương, phụ cấp theo lương và chế độ đãi ngộ
Hiện nay mức lương cơ sở và phụ cấp ngành nghề đối với đội ngũ giảng
viên được tính như sau:
Hệ số
Lương
Phụ cấp ưu
Mã ngạch
Bậc
Tổng cộng
lương
ngạch bậc
đãi 25%
1. Ngạch Giáo sư, Phó Giáo sư, GV cao cấp
V. 07.01.01
1
6.20
7,502,000
1,875,500
9,377,500
V. 07.01.01
2
6.56
7,937,600
1,984,400
9,922,000
V. 07.01.01
3
6.92
8,373,200
2,093,300
10,466,500
V. 07.01.01
4
7.28
8,808,800
2,202,200
11,011,000
V. 07.01.01
5
7.64
9,244,400
2,311,100
11,555,500
V. 07.01.01
6
8.00
9,680,000
2,420,000
12,100,000
2. Ngạch Giảng viên chính
V. 07.01.02
1
4.40
5,324,000
1,331,000
6,655,000
V. 07.01.02
2
4.74
5,735,400
1,433,850
7,169,250
V. 07.01.02
3
5.08
6,146,800
1,536,700
7,683,500
V. 07.01.02
4
5.42
6,558,200
1,639,550
8,197,750
V. 07.01.02
5
5.76
6,969,600
1,742,400
8,712,000
V. 07.01.02
6
6.10
7,381,000
1,845,250
9,226,250
V. 07.01.02
7
6.44
7,792,400
1,948,100
9,740,500
V. 07.01.02
8
6.78
8,203,800
2,050,950
10,254,750
3. Ngạch Giảng viên
V.07.01.03
1
2.34
2,831,400
707,850
3,539,250
74
Hệ số
Lương
Phụ cấp ưu
Mã ngạch
Bậc
Tổng cộng
lương
ngạch bậc
đãi 25%
V.07.01.03
2
2.67
3,230,700
807,675
4,038,375
V.07.01.03
3
3.00
3,630,000
907,500
4,537,500
V.07.01.03
4
3.33
4,029,300
1,007,325
5,036,625
V.07.01.03
5
3.66
4,428,600
1,107,150
5,535,750
V.07.01.03
6
3.99
4,827,900
1,206,975
6,034,875
V.07.01.03
7
4.32
5,227,200
1,306,800
6,534,000
V.07.01.03
8
4.65
5,626,500
1,406,625
7,033,125
V.07.01.03
9
4.98
6,025,800
1,506,450
7,532,250
Có thể thấy qua bảng lương cơ bản và phụ cấp theo lương đối với các
ngạch giảng viên là không cao so với mức sống thực tế hiện nay trong điều kiện
nền kinh tế có nhiều thay đổi, biến động, đặc biệt là sự “leo thang” về giá cả.
Thực tế này là bài toán khó khăn để các trường có thể giữ chân và thu hút người
tài để họ có thể toàn tâm, toàn ý chỉ chuyên cho công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học tại trường. Cũng chính vì hệ số lương cơ bản thấp nên giảng viên
thường và phải “có thêm nghề tay trái” để trang trải thêm cho cuộc sống để đảm
bảo cho cuộc sống của bản thân và gia đình.
Qua tìm hiểu tại Trường Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, hầu hết
giảng viên có thâm niên trong nghề đa phần đều tham gia các hoạt động nghề
nghiệp ngoài xã hội, hoặc tham gia giảng dạy thỉnh giảng cho các trường đại học
khác. Các hoạt động này là hoạt động chính đáng, được pháp luật cho phép và
cơ quan quản lý trực tiếp là trường học không ngăn cấm.Hoạt động này ngoài
việc giúp cho giảng viên có thêm nguồn thu nhập chính đáng, nó còn giúp cho
giảng viên có thêm các kiến thức, kinh nghiệm thực tế để áp dụng vào giảng dạy
cho sinh viên. Song nếu vì giảng viên quá “say mê” trong việc tìm kiếm các
nguồn thu nhập bên ngoài thì cũng có thể dẫn tới tình trạng giảng viên không
75
quan tâm nhiều về công tác chuyên môn, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, cải
tiến phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, hiệu quả. Do vậy, có thể làm
chững lại các chiến lược của Trường, đặc biệt là chiến lược nâng cao chất lượng
dạy và học trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Để giải quyết bài toán đảm bảo thu nhập cho giảng viên, từ đó ổn định đời
sống, tạo sự yên tâm cho giảng viên để cống hiến, đóng góp và xây dựng nhà
trường ngày càng phát triển. Các trường đại học đã xây dựng các chính sách đãi
ngộ trên cơ sở các quy định của Nhà nước và áp dụng linh hoạt, thực tế căn cứ
trên nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Các quy định này được cụ
thể hóa trong Quy chế chi tiêu nội bộ của các trường đại học.So sánh mức lương
cơ bản, cộng thêm phụ cấp ngành, phụ cấp thâm niên mà Nhà nước quy định thì
mức lương thực tế mà các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực Miền Nam chi trả thực lãnh cho giảng viên cao hơn nhiều so với mức lương
quy định. Cụ thể một giảng viên có hệ số lương 3.00, bậc 3 của Trường đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh hiện nay là 9,530,050. Số lương thực lãnh này so
với lương theo chính sách của nhà nước là gần gấp hai.
Qua khảo sát nhỏ của tác giả luận văn với các câu hỏi dành cho giảng viên tại
hai trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam về mức lương hiện nay
và các hiểu biết liên quan đến chính sách lương của nhà nước, cụ thể như sau:
Với số phiếu phát ra là 50 phiếu, thu về kết quả:
Ý kiến trả lời
TT Nội dung khảo sát
Có Không
Anh chị có biết quy định về mức lương cơ bản
15 35 của nhà nước và các phụ cấp đối với giảng 1 viên giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công (30%) (70%)
lập không?
76
40 10 Anh chị có hài lòng với mức thu nhập hiện tại 2 mà nhà trường trả hàng tháng không?” (80%) (20%)
Phân tích kết quả trên, chúng ta có thể thấy rằng số lượng giảng viên hài
lòng với mức thu nhậphiện tại là tương đối cao (chiếm 80%), trong khi đó số
lượng giảng viên biết quy định về mức lương cơ bản của nhà nước và các phụ
cấp đối với giảng viên giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập lại tương đối
thấp (chiếm 30%). Thực tế này cho thấy giảng viên đang chỉ quan tâm về thu
nhập thực tế mà chưa quan tâm về việc các chế độ tiền lương và phụ cấp theo
lương được quy định như thế nào. Và việc hài lòng với thu nhập hiện tại hàng
tháng mà nhà trường chi trả có một tỷ lệ cao cho thấy phần nào giảng viên yên
tâm về thu nhập, từ đó có thể chú tâm cho công tác giảng dạy và nghiên cứu
khoa học tại trường.
Bên cạnh việc đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các chính sách lương theo
quy định của Nhà nước, kèm theo đó là các phụ cấp đi kèm, hiện nay các trường
đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam đang xây dựng và
thực hiện các chế độ đãi ngộ tương đối tốt cho đội ngũ giảng viên như: chế độ
thu hút nhân sự có chức danh học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư, có học vị Tiến Sĩ,
các chế độ dành riêng cho Giảng viên cap cấp.
Về chế độ khen thưởng và kỷ luật giảng viên:
Công tác thi đua, khen thưởng được chú trọng thực hiện hàng năm, làm cơ
sở đánh giá, xếp loại giảng viên, đồng thời làm căn cứ cho việc xét nâng lương
trước thời hạn, các quy hoạch, phát triển đội ngũ giảng viên trong tương lai.
Đồng thời tạo các động lực phấn đấu, rèn luyện để sáng tạo, hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao.
Công tác này được thực hiện dựa trên các căn cứ pháp lý hiện hành như
Luật thi đua khen thưởng, các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thực hiện. Trên
các cơ sở và căn cứ pháp lý hiện có, các trường cụ thể hóa bằng hướng dẫn trong
các thông báo cho từng năm học. Theo đó, hiện nay giảng viên các trường đại
học công lập được đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm qua các mức như sau:
77
- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ;
- Hoàn thành nhiệm vụ;
- Không hoàn thành nhiệm vụ.
Đối với mỗi mức hoàn thành nhiệm vụ đều có các tiêu chuẩn nhất định
gắn với các vị trí công việc, nhiệm vụ theo quy định đối với từng chức danh
nghề nghiệpcủa giảng viên(gần đây nhất là quy định về định mức giờ chuẩn theo
Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên; và Thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của liên Bộ Giáo dục và Đào
tạo và Bộ Nội vụ quy định về mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối
với viên chứa giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập).
Từ các mức độ hoàn thành nhiệm vụ, có các tiêu chuẩn và danh hiệu thi
đua đối với cá nhân, bao gồm:
- Danh hiệu “Lao động tiên tiến”;
- Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”;
- Danh hiệu“Chiến sĩ thi đua ngành Xây dựng”;
- Bằng khen Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bằng khen Thủ tướng Chính phủ.
Với cá danh hiệu thi đua nêu trên được quy định theo các tỷ lệ nhất định
theo số lượng giảng viên trong đơn vị. Để đạt các danh hiệu thi đua, giảng viên
phải đăng ký vào đầu các năm học cho từng danh hiệu gắn với các tiêu chí rõ
ràng. Vào cuối năm, các đơn vị thực hiện việc bình xét và gửi hồ sơ lên các cấp
theo quy định và quy trình theo các hướng dẫn ở các cấp quản lý về thi đua khen
thưởng.
Sau khi có kết quả hiệp ý khen thưởng ở các cấp, các thành tích, danh
hiệu mà giảng viên đạt được sẽ được công nhận thông qua các quyết định của
cấp có thẩm quyền, kèm theo quyết định công nhận là các chế độ khen thưởng
78
bằng hiện vật theo quy định của nhà nước và sự áp dụng riêng của nhà trường,
đồng thời được xét tăng lương trước thời hạn (đối với danh hiệu “Chiến sĩ thi
đua cơ sở” trở lên), được xem xét cho các quy hoạch chức danh lãnh đạo các
cấp, hoặc tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của Trường.
Song song với công tác thi đua, khen thưởng là công tác kỷ luật giảng
viên. Đây là nội dung không thể tách rời nhằm đảm bảo thực hiện tốt các quy
định, kỷ cương của Nhà trường, đồng thời đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các
quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về “những việc viên chức không
được làm” theo Luật Viên chức 2010 và các quy định liên quan tới đạo đức nghề
giáo tại Quyết định 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về ban hành quy định về đạo đức Nhà giáo. Nội
dung quản lý này đa phần được quy định trong Quy chế chế hoạt động của
Trường hoặc tách riêng trong các quy định liên quan tới quản lý viên chức,
giảng viên thuộc trường.
Đánh giá chung về tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính sách đãi
ngộ, chế độ khen thưởng và kỉ luậtđối với đội ngũ giảng viên:
- Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm, nghiên cứu
để cải cách chế độ tiền lương, nhằm hướng tới sự hợp lý theo sự vận động, phát
triển của nền kinh tế thị trường. Các quy định về mức lương tối thiểu và các phụ
cấp ngành nghề, thâm niên công tácđối với viên chức là giảng viên giảng dạy
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập đã thể hiện phần nào sự hợp lý trong tổng
quan chung về mức lương so với các khu vực khác trong nền kinh tế quốc dân.
- Cùng với mức lương cơ sở, phụ cấp ngành nghề, thâm niên theo quy
định của Nhà nước, các trường đại học đã áp dụng hình thức trả lương linh hoạt,
trong đó được trích từ nguồn thu sự nghiệp được phép theo quy định của pháp
luật để chuyển vào phần “lương tăng thêm” cho giảng viên. Từ đó tăng thêm các
nguồn thu nhập, giúp giảng viên yên tâm công tác, cống hiến cho sự phát triển
79
của nhà trường cũng như cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước.
- Mức lương cho giảng viên được tính toán hợp lý dựa trên các ngạch
giảng viên theo quy định, gắn với các nhiệm vụ trong giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, các hoạt động chuyên môn và đóng góp thực tế.
- Công tác thi đua, khen thưởng đã được xây dựng đầy đủ các cơ chế, tiêu
chí đánh giá rõ ràng, công bằng, cụ thể cho các danh hiệu thi đua ở các cấp.
Kèm theo đó là các khoản thưởng tương ứng theo hướng ngày càng tăng. Điều
này đã tạo động lực cho đội ngũ giảng viên phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm
vụ theo phân công.
- Với sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế hiện nay, mức lương cơ sở
đối với giảng viên so với giá trị thực tế trên các mặt hàng thiết yếu cũng như các
dịch vụ cho cuộc sống nhìn chung vẫn còn thấp. Trong trường hợp các trường
đại học công lập có nguồn thu sự nghiệp ít thì không thể trả lương cao cho giảng
viên. Chính điều này có thể dẫn tới tình trạng giảng viên vì thu nhập thấp mà bỏ
ra ngoài làm doanh nghiệp, hoặc nếu có ở lại trường thì cũng phải tìm thêm các
nguồn thu nhập khác, dẫn tới việc không chuyên tâm, đầu tư cho công việc
chuyên môn là giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Do mặt bằng lương thấp, do đó các trường đại học công lập khó thu hút
được các nhân sự có trình độ chuyên môn cao. Thay vào đó, các trường dân lập,
quốc tế với cơ chế trả lương theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động có thể dễ
dàng thu hút các nhân sự này.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn xem giáo dục là quốc sách, do đó
luôn có những chính sách, cơ chế ưu tiên riêng dành cho ngành giáo dục để đẩy
mạnh chất lượng giáo dục và đào tạo các cấp. Tuy nhiên, việc thực hiện quan
điểm này chưa có sự đồng bộ khi chỉ mới quan tâm thực hiện các nội dung về
đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên mà chưa có cơ chế
hoặc quy định mức lương riêng cho đội ngũ giảng viên. Bởi lẽ chỉ khi nào giảng
viên thật sự yên tâm với thu nhập thì mới có thể yên tâm để thực hiện tốt nhất
các nhiệm vụ. Từ đó mới có thể nâng cao chất lượng dạy và học theoxu hướng
80
hội nhập và phát triển hiện nay.
- Khen thưởng, kỷ luật là một trong những nội dung quan trọng và cần
thiết để thực hiện các nội dung khác liên quan tới quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập như: công tác quy hoạch, bổ nhiệm,
đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo sự kỷ cương, quy định của Trường và ngành giáo
dục…Và mặc dù quy định đã đầy đủ, song trên thực tế công tác này được triển
khai ở một khía cạnh nào đó, nó như một nhiệm vụ bắt buộc, đôi khi là khô khan
và mang tính hình thức. Vì thế, nội dung công tác này chưa thu hút đươc sự
tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của đội ngũ giảng viên. Theo đó kết quả cũng
như ý nghĩa của công tác thi đua, khen thưởng chưa đi vào thực tế đời sống và
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học của giảng viên.
- Mặc dù có triển khai song trên thực tế các trường chỉ thực hiện từng năm
một thông qua các thông báo mà chưa có xây dựng các quy chế, quy định liên quan
tới thi đua khen thưởng của Trường, làm cơ sở chung mang tính ổn định, lâu dài và
tránh sự thụ động cho giảng viên trong việc xác định các nội dung thi đua.
- Tình trạng khen thưởng theo hình thức “xoay vòng” vẫn còn xảy ra ở
các đơn vị. Do vậy tính cào bằng, nể nang,, thiếu sự công tâm cũng như tư duy
“lãnh đạo là người có nhiều thành tích nhất” vẫn còn tồn tại khá năng nề. Do vậy
dẫn tới tình trạng cấp dưới “bắt buộc” hoặc vì “quá nể” mà phải bình bầu các
danh hiệu cho lãnh đạo cấp trên. Chính những tồn tại này dẫn tới công tác thi
đua, khen thưởng có thể vì thế mà dẫn tới những tác động ngược, đó chính là tạo
nên tâm lý trì trệ “dạy tốt cũng vậy, dạy giở cũng vậy” trong đội ngũ giảng viên
các trường đại học.
2.2.2.5. Thực trạng quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra và xử lý
các vi phạm pháp luật đối với đội ngũ giảng viên.
Thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục
hiện được thực hiện theo các quy định sau:
- Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 thông qua tại kỳ họp thứ 8 thông qua
81
ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- Thôngtư số 51/2012/TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 của Bộ trưởng Bộ
GDĐT quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra của cơ sở giáo dụcc đại học,
trường trung cấp chuyên nghiệp.
- Nghị định số 138/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
- Thông tư số 39/2013/TT-BGDĐT, ngày 04 tháng 12 năm 2013 của Bộ
giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành giáo dục.
- Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động thanh tra giáo dục.
Với các quy định pháp lý nêu trên, các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có
các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam làm căn
cứ thực hiện chung trong tất cả các nội dung thuộc lĩnh vực thanh tra trong cơ sở
giáo dục. Riêng đối với đội ngũ giảng viên, các quy định nêu trên làm cơ sở cho
thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính liên quan tới các nội dung chủ
yếu sau đây:
- Thanh tra, kiểm tra về quy trình, tiêu chuẩn, hồ sơ tuyển dụng, sử dụng
giảng viên;
- Thanh tra, kiểm tra về tiêu chuẩn giảng viên theo các ngạch được bổ nhiệm;
- Thanh tra, kiểm tra về việc thực hiện các quy định về nhiệm vụ của
giảng viên (quy định về định mức giờ chuẩn, nghiên cứu khoa học, thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy…);
- Tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan tới giảng viên của
Trường;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách liên quan tới
82
giảng viên;
- Thanh tra, kiểm tra về việc thực hiện các quy chế, quy định khác của
trường liên quan tới giảng viên như bổ nhiệm giảng viên tham gia công tác quản
lý, biệt phái, điều động, khen thưởng, kỷ luật giảng viên…
Qua tìm hiểu tại các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam, nhìn chung các trường đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật và
của ngành giáo dục cũng như Bộ chủ quản về các quy định thanh tra, kiểm tra và
xử phạt các quy định vi phạm hành chính. Các trường đã cụ thể hóa được các
quy định này trong Quy chế về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm
liên quan tới cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong thuộc phạm
vi quản lý của nhà trường. Nội dung của quy chế này thể hiện tương đối đầy đủ
về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc thanh tra, kiểm tra, nội dung, phương pháp,
đối tượng cũng như chế tài xử phạt. Văn bản này được thông báo, thông tin rỗng
rãi tới các đơn vị nhằm giúp các đơn vị trong trường cùng có trách nhiệm tham
gia phối hợp, hợp tác khi thanh tra của Trường có yêu cầu. Bộ phận thanh tra
của Trường có đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Quy chế tổ
chức và hoạt động của Trường. Đây là điều kiện thuận lợi để bộ phận thanh tra
thực hiện đầy đủ các chức năng, trách nhiệm và quyền hạn theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Trong nội bộ các trường đại học, công tác thanh tra, kiểm tra được thực
hiện thường xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng năm được Bộ phận thanh tra xây
dựng và trình Hiệu trưởng phê duyệt. Chính điều này đã đảm bảo cho sự phát
triển bình thường của toàn trường, kịp thời khắc phục, xử lý các sai phạm,
những dấu hiệu của sai phạm có thể do các nguyên nhân chủ quan hoặc khách
quan mang tới.
Qua tìm hiểu ở các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam, kết quả thanh tra, kiểm tra nội bộ các nội dung liên quan tới công tác quản
lý viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêngtrong những năm qua hầu
như không phát hiện các sai phạm đáng kể dẫn tới các mức độ kỷ luật. Tuy
83
nhiên kết quả thanh tra vẫn còn có tình trạng vi phạm của giảng viên chủ yếu
xoay quanh các nội dung như chưa đảm bảo giờ giấc lên lớp theo quy định; chưa
hoàn thành giờ nghiên cứu khoa học; chưa thực đảm bảo các chuẩn về trình độ
lý luận chính trị; vẫn còn tình trạng vi phạm về các quy định trong Quyết định
16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và
Đào tạo về ban hành quy định về đạo đức Nhà giáo (trang phục chưa đúng quy
định; chưa công bằng trong chấm điểm và hướng dẫn đồ án; hút thuốc lá nơi
công sở; sử dụng điện thoại trong giờ giảng…). Tuy nhiên, các vi phạm này
thường chỉ được cán bộ thanh tra của trường nhắc nhở, chứ chưa thực hiện việc
lập biên bản xử lý vi phạm.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm trong lĩnh vực giáo dục
đối với các đơn vị giáo dục đại học còn được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra
của Chính phủ, của Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và của Bộ chủ quản.
Trước khi thực hiện công tác thanh tra, các cơ quan chức năng có trách nhiệm
xây dựng kế hoạch, trong đó nêu rõ mục đích, nội dung, đối tượng, phương
pháp, thành phần đoàn thanh tra, thời gian thanh tra để người có thẩm quyền phê
duyệt.Trên cơ sở kế hoạch được phê duyệt, gửi thông báo/kế hoạch thanh tra tới
cơ quan/đơn vị/các nhân là đối tượng thanh tra. Sau khi hoàn thành các nhiệm
vụ theo kế hoạch, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo kết quả thanh
tra, kèm theo đó là các kiến nghị, đề xuất xử lý (nếu có) đến cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền. Tuy nhiên, hoạt động này chưa được tiến hành đều đặn hàng năm
mà chỉ thanh kiểm tra khi có các vụ việc xẩy ra.
Đánh giá chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật
đối với giảng viên các trường đại hoc công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực phía Nam.
- Các quy định liên quan tới công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi
phạm pháp luật đối với giảng viên các trường đại học công lập được xây dựng
và ban hành kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, cá nhân liên quan
84
thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
- Các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
đã căn cứ vào các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, các quy định về xử
lý vi phạm cũng như các hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước để chủ
động xây dựng và ban hành các quy chế, quy định thực hiện trong phạm vi đơn
vị của mình. Điều này đã đảm bảo thực hiện các quy định liên quan tới công tác
này trong phạm vi của cơ quan, đơn vị.
- Nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của các cơ quan, cá nhân làm công tác
thanh tra ngày càng được hoàn thiện theo hướng tăng cường chuyên môn,
nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó là trách nhiệm,
đạo đức ngành nghề ngày cũng được nâng cao.
- Quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra giáo dục đã được quy định đầy
đủ, cụ thể, trong đó quy định cơ chế hoạt động cho thanh tra các trường đại học
công lập (Phòng Thanh tra giáo dục), điều này đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám
sát các nội dung công việc liên quan tới đội ngũ giảng viên, song vì mang tính
“nội bộ” nên còn có tình trạng dễ dãi, xem đó là chuyện trong nhà “tự đóng cửa
bảo nhau”. Do vậy, hầu như không có các kết luận thanh tra của phòng chức
năng kể cả khi có những sai phạm, không đúng pháp luật liên quan tới đội ngũ
giảng viên xảy ra ở trong đơn vị của mình.
- Công tác thanh của các cơ quan quản lý nhà nước (trực tiếp là Bộ giáo
dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Xây dựng) tuy có tiến hành nhưng số lượng
còn ít. Bên cạnh đó là tình trạng vẫn còn đâu đó có sự “thỏa thuận” về kết luận
thanh tra trước khi gửi tới các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong
công tác thanh tra chưa đảm bảo thực hiện hết các nguyên tắc cứng, theo tính
pháp lý, mà cùng với nó, yếu tố “cái tình” vẫn còn chi phối tương đối nhiều cho
kết luận của đoàn thanh tra.
Công tác xử lý các vi phạm, kỷ luật đối với giảng viên còn mang tính
nhắc nhở, chưa thể hiện hết bản chất của các vi phạm xảy ra. Điều này dẫn tới
tình trạng chưa thật sự quyết liệt, nghiêm minh trong các vấn đề cần thực hiện
theo quy định của pháp luật, do đó không chì làm giảm tính chất của pháp luật là 85
đúng - sai phải rõ ràng, mà còn làm ảnh hướng chung tới môi trường văn hóa, sư
phạm trong các trường đại học.
Tiểu kết chương 2:
- Trên cơ sở lý luận và các căn cứ pháp lý được đề cập tại Chương 1,
Chương 2 của luận văn đã phân tích nhằm làm rõ thực trạng về quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lâp nói chung và các trường
đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng. Chương 2
này, luận văn đã nêu tổng quan về các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây
dựng, trong đó chú trọng về tình hình đội ngũ giảng viên hiện tại. Từ đó, phân
tích làm rõ các nội dung về quản lý nhà nước về đội ngũ này tại các trường.
- Qua mỗi nội dung phân tích thực trạng, tác giả đã đánh giá, nhận định
chung cho các mặt nội dung, trong đó chú trọng nêu lên lên các ưu điểm, đồng
thời nêu ra các nhược điểm mà nội dung đó chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa
tốt liên quan tới các nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan.
- Qua phân tích thực trạng, có thể nhận thấy, trong nhiều năm qua, các nội
dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam đã có những chuyển biến tích cực.
Điều này cho thấy hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã tương
đối đầy đủ, đồng bộ và phù hợp phần nào với các quy định chung cũng như đặc
thù riêng của ngành giáo dục.
- Với những thực trạng hiện có, đặc biệt là các hạn chế, nhược điểm đã
nêu ở chương này, sẽ là cơ sở cho các đề xuất, kiến nghị xoay quang các giải
pháp nhằm hoàn thiện tốt hơn nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập nói chung và các trường thuộc Bộ Xây dựng ở
khu vực Miền Nam, nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thiện các cơ chế, mục tiêu,
phương pháp quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học
86
công lập thuộc Bộ Xây dựng và trên toàn quốc nói chung.
CHƯƠNG 3
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THUỘC BỘ XÂY DỰNG
Ở KHU VỰC MIỀN NAM
3.1. Một số định hướng của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo và đổi
mới công tác quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập.
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nươc, Đảng và Nhà
nước chúng ta luôn xem trong sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.Quan điểm “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu” luôn được quán triệt sâu sắc ở tất cả các Cấp ủy
Đảng từ Trung ương tới các cơ sở. Để làm rõ quan điểm này, nhiều Nghị quyết
cụ thể về giáo dục, đào tạo đã đượcc ban hành, làm sở cho việc xây dựng các
chiến lược, chương trình hành động, thống nhất về nhận thức, phương pháp thực
hiện ở tất cả các cấp, từ đó mang lại kết quả cao nhất theo các chỉ tiêu, kế hoạch
đã đề ra.
- Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự thay đổi
nhanh chóng của khoa học, công nghệ và kỹ thuật, việc đầu tư cho giáo dục, đào
tạo để theo kịp sự phát triển chung của thế giới cũng như đảm bảo nguồn nhân
lực chất lượng cao phục vụ cho sự ngiệp cách mạng mới là nhiệm vụ hết sức
quan trọng. Chính vì thế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành các
Nghị quyết về giáo dục, đào tạo gắn với sự đổi mới theo xu hướng hội nhập
chung của thế giới. Gần đây nhất là Nghị quyết số 29/NQ/TW ngày 04 tháng 11
năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về
“đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”. Tại Nghị quyết này, quan điểm về đối mới giáo dục và đào
87
tạo thể hiện rõ: [3]
(1) Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
(2)Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân
người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
(3) Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới;
kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo
đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp
học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước
đi phù hợp.
(4) Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với
hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.
(5) Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-
xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
(6) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa,
88
hiện đại hóa giáo dục và đào tạo.
(7) Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các
vùng, miền.Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và
các đối tượng chính sách.Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
(8) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát
triển đất nước.
Nghị quyết 29/NQ/TW khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc
sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước,
mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ XII tiếp tục
nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục
nói riêng, trong đó nêu rõ “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo,
bảo đảm dân chủ, thông nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các
cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng” [75]; “Phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cấu về đổi mới giáo dục và đào tạo”
[75].
Cụ thể về đội ngũ giảng viên các trường đại học, trong Chiến lược phát
triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Ban hành kèm theo Quyết định số
711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ:
“Củng cố, hoàn thiện hệ thống đào tạo giáo viên, đổi mới căn bản và toàn diện
nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục đủ sức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông sau năm 2015. Tập trung đầu tư xây dựng các trường sư phạm và các khoa
sư phạm tại các trường đại học để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên” [43];
phấn đấu đến năm 2020 có “100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở
lên”; thực hiện đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại 89
học, cao đẳng với phương án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm
2020 có 25% giảng viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ [57];
“Thực hiện các chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần tạo động lực cho các
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, nhất là với giáo viên mầm non; có chính
sách đặc biệt nhằm thu hút các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia có kinh
nghiệm và uy tín trong và ngoài nước tham gia phát triển giáo dục”.
Với những quan điểm và định hướng nêu trên, rõ ràng chúng ta thấy Đảng
và Nhà nước đã rất quan tâm, chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo nói
chung và đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học nói riêng (trong đó có
các trường đại học công lập).Xuất phát từ chủ trương, chiến lược chung của
Đảng và Nhà nước, từ đó, các trường đại học công lập đã vận dụng, xây dựng
các kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển của đơn vị mình.
3.2. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
3.2.1. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
đội ngũ giảng viên.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ là cơ sở đầu tiên và
quan trọng để thực hiện các nội dung công việc khác liên quan như tuyển dụng,
đào tao, bồi dưỡng giảng viên. Đây là quá trình thực hiện hóa các chủ trương
của Đảng, nhà nước về chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên các cơ sở giáo
dục đại học. Là công tác thực hiện đồng bộ cùng lúc nhiều giải pháp, biện pháp
để tạo nguồn và xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng hiện tại cũng như
tương lai, đảm bảo chất lượng để nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, đáp ứng tốt các yêu cầu về đổi mới và cải cách giáo dục, đặc biệt là
trong giáo dục đại học. Để thực hiện tốt hơn công tác xây dựng kế hoạch, quy
hoạch phát triển đội ngũ giảng viên trong thời gian tới, cần chú trọng hơn các
90
nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Tiếp tục rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
công tác quy hoạch và phát triển đội ngũ theo hướng cụ thể hóa các chủ trương
chiế lược của Đảng và Nhà nước cho từng giai đoạn, từng khối ngành đào tạo cụ
thể theo đặc thù của các trường đại học. Đảm bảo sự linh động, tránh quy định
chung cho tất cả các trường trong hệ thống giáo dục đại học.
- Phải luôn xác định đây là nội dung quản lý cơ bản, làm nền tảng cho
việc thực hiện các nội dung công việc liên quan, tiếp theo. Do vậy, ở tất cả các
cấp cần nâng cao nhận thức cũng như sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy đảng,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
- Cần phải có các đánh giá, phân tích thực trạng đội ngũ giảng viên hiện
tại, căn cứ vào chiến lược phát triển chung của ngành giáo dục, các quy định về
kiểm định, đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, đồng thời bám sát nhiệm vụ
chính trị của nhà trường, đơn vị trong hiện tại, tương lai trên cơ sở định biên số
lượng giảng viên để xây dựng kế hoạch, quy hoạch đội ngũ giảng viên.
- Cần phải đảm bảo sự bao quát chung cũng như cơ cấu hợp lý về độ tuổi,
số lượng các chức danh giảng viên. Vừa theo hướng trẻ hóa đội ngũ vừa theo
hướng nâng dần tỉ lệ giảng viên có trình độ Tiến sĩ, giáo sư, Phó giáo sư, đồng
thời nâng số lượng giảng viên chính, giảng viên cao cấp.
- Công tác xây dựng, quy hoạch phát triển đội ngũ không chỉ là công việc
của các cơ quan quản lý, những người làm công tác nhân sự mà nó là công việc
chung của toàn cơ quan, đơn vị. Trong đó vai trò của mỗi cá nhân là rất quan
trọng. Do vậy cần phải có thông tin công bố rộng rãi trong phạm vi cơ quan về
các nội dung, chỉ tiêu trong kế hoạch để tất cả mọi người cùng biết và thực hiện.
Từ đó phát huy trách nhiệm chung của mỗi cá nhân theo hướng phấn đấu, rèn
luyện và học tập theo những nội dung mà kế hoạch, quy hoạch đã đề ra. Tránh
các trường hợp quy hoạch chỉ nằm trên giấy tờ mà không được triển khai vào
91
thức tế.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội
ngũ giảng viên.
Hiện nay, các quy định về tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ giảng
viên đã được các cơ quan nhà nước ban hành tương đối đầy đủ, làm cơ sở cho
các cơ quan, trường học thực hiện các công việc liên quan. Song trên thực tế,
các văn bản pháp luật quy định vẫn còn tình trạng chồng chéo, có những nội
dung vừa đủ, vừa thiếu, chưa phù hợp với đặc thù riêng của ngành giáo dục.
Về tuyển dụng, hiện nay đang được áp dụng theo quy định của Nghị định
số 29/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 quy định về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý đã quy định chi tiết và thông tư Thông tư 15/2012/TT-BNV của Bộ Nội
vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào
tạo, bồi dưỡng đối với viên chức; Thông tư 16/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ
ban hành Quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; Các quy định này đang quy
định chung cho tất cả các đối tượng là viên chức, trong đó có viên chức ở ngạch
giảng viên. Trong khi đó, giảng viên là một ngành nghề mantính đặc thù, có
những đòi hỏi riêng về chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng khác
theo quy định của Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học. Như vậy, công tác
tuyển dụng vào ngạch giảng viên phải cùng lúc áp dụng nhiều quy định từ Luật
viên chức năm 2010, Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học.Chính điều này gây
nên sự chồng chéo giữa các quy định. Do vậy, cần phải có nghiên cứu cụ thể để
ban hành các quy định sát thực hơn mang tính đặc thù dành riêng cho việc tuyển
dụng nhân sự vào ngạch giảng viên ở các trường đại học.
Tuyển dụng giảng viên là nội dung quan trọng để chuẩn bị cho đội ngũ
nhân sự hiện tại và trong tương lai của cơ quan, đơn vị. Sự phát triển của cơ
quan, đơn vị phụ thuộc tương đối lớn vào chất lượng của nhân sự được tuyển
dụng đầu vào. Đối với các trường đại học, nội dung này càng trở nên quan trọng
hơn khi đội ngũ giảng viên là nhân tố chính quyết định về chất lượng đào tạo,
quá trình dạy và học. Cùng với các điều kiện khác, chính chất lượng chuyên
92
môn của giảng viên là yếu tố quyết định phần nhiều chất lượng của sinh viên sau
khi ra trường. Từ đó gián tiếp quyết định chất lượng lao động cũng như hàm
lượng tri thức trong các sản phẩm lao động, góp phần nâng cao chất lương
chung cho cuộc sống hiện đại. Với điều kiện tuyển dụng hiện nay, vì phải thực
hiện theo các quy định nên các trường đại học công lập khó lòng tuyển dụng
được các nhân sự có trình độ chuyên môn tốt. Bởi lẽ những người có chuyên
môn tốt sẻ khó chấp nhận tham gia một quá trình tuyển dụng mà ở đó, các giá trị
thực về chuyên môn, phẩm chất, các kỹ năng của họ chưa thật sự chú trọng.
Thay vào đó là “quy trình” mang tính “cứng nhắc” theo các bước. Bên cạnh đó,
việc sử dụng giảng viên hiện nay theo cơ chế “chức nghiệp trọn đời”, nghĩa là
giảng viên khi trúng tuyển và được ký hợp đồng làm việc nếu thực hiện đầy đủ
các nhiệm vụ theo phân công và được đánh giá từ “hoàn thành nhiệm vụ” trở lên
thì sẽ mãi là viên chức của trường cho tới khi nghỉ hưu theo quy định. Chính
điều này có thể giúp cho trường đại học tuyển dụng được đối tượng giảng viên
mang các tâm lý “an phận”, mà khó tuyển được các giảng viên có trình độ
chuyên môn cao nhưng ngại “môi trường nhà nước”. Bên cạnh đó, việc trả
lương theo các quy định của nhà nước hiện nay tương ứng với các ngạch giảng
viên so với mức lương mà nếu người đó làm việc cho các tổ chức, đơn vị ngoài
nhà nước là thấp hơn tương đối nhiều. Đây cũng chính là nguyên nhân mà các
trường khó tuyển được giảng viên có trình độ chuyên môn cao.
Thực tế tại trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng trong 5 năm qua,
công tác tuyển dụng tuy đã có nhiều sự linh động, song số lượng tuyển dụng và
nhân sự tuyển dụng được không thật sự đạt các trình độ như mong muốn. Không
chỉ thế, trong 5 năm qua, số lượng giảng viên có trình độ Tiến sĩ vì nhiều lý do
khác nhau mà thôi không công tác ở trường (chấm dứt hợp đồng làm việc) là
tương đối lớn (theo một chia sẻ của một nhân sự là Phó hiệu trưởng Trường đại
học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, trong 5 năm qua, chỉ tính riêng khoa Xây dựng
đã có tới 5 giảng viên là Tiến sĩ rời khỏi Khoa đi đầu quân cho các đơn vị khác).
Các thực tế nêu trên, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước nên cần có những
93
nghiên cứu, thay đổi cơ chế tuyển dụng, sử dụng và quản lý đối với đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả
đề xuất một số ý kiến như sau:
- Cần thiết phải nghiên cứu cụ thể và ban hành riêng các quy định về
tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ giảng viên, trong đó trọng tâm hướng
tới là việc xem giảng viên là một trong những chủ thể thật sự quan trọng trong
hệ thống giáo dục và đào tạo, tương xứng với quan điểm “giáo dục là quốc sách
hàng đầu”. Từ đó để tuyển chọn, thu hút được đội ngũ giảng viên thật sự có
năng lực chuyên môn tốt có khát vọng cống hiến cho giáo dục, đưa giáo dục
Việt Nam vươn lên tầm cao mới.
- Cần thực hiện việc đánh giá lại các quy định liên quan tới công tác tuyển
dụng viên chức nói chung và giảng viên nói riêng theo quy định hiện hành. Trên
cơ sở đó rà soát, đánh giá các ưu điểm, hạn chế mà quy định hiện tại đang điều
chỉnh với tinh thần cầu thị, lắng nghe tiếng nói của các bên liên quan (đơn vị sự
nghiệp nhà nước, người được tuyển dụng, chuyên gia nhân sự…). Đặc biệt trong
điều kiện giảng viên các trường đại học công lập đang phải chịu sự điều chỉnh
của một lúc nhiều luật khác nhau (Luật Viên chức, Luật giáo dục, Luật giáo dục
Đại học) thì cần phải xem xét, đánh giá lại mối quan hệ của các luật này liên
quan tới giảng viên. Từ đó có thể chỉnh sửa hoặc có các quy định mới nhằm
tránh sự chồng chéo như hiện tại.
- Cần xây dựng và ban hành chính sách tuyển dụng riêng thống nhất trên
phạm vi toàn quốc đối với đội ngũ giảng viên trên cơ sở áp dụng các tiêu chuẩn
cụ thể được quy định trong Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học. Cùng với đó
là việc quy định đầy đủ các chế độ, chính sách đãi ngộ, thu hút người tài, người
có trình độ chuyên môn cao để trở thành giảng viên đại học. Các quy định về
chế độ đãi ngộ, trả lương cho giảng viên cần bám sát thực tế cuộc sống, gắn với
vùng, miền và sự phát triển của nền kinh tế thị trường. (Hiện nay, hệ số lương
của một giảng viên có trình độ Tiến sĩ công tác ở một trường đại học có trụ sở
đóng trú tại một thành phố trực thuộc trung ương cũng như một Tiến sĩ ở một
94
trường đại học thuộc các tỉnh còn khó khăn về văn hóa, kinh tế, xã hội).
- Cơ chế sử dụng và quản lý giảng viên cần có sự thay đổi theo hướng từ
quản lý theo biên chế, số lượng sang các vị trí việc làm cụ thể. Mặc dù hiện nay
nhà nước đã quy định vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp, đơn vị hành
chính nhà nước song công tác này thực hiện chưa thật sự triệt để. Các trường đại
học công lập tuy xây dựng đề án vị trí việc làm, song trên thực tế, việc tuyển
dụng, sử dụng và quản lý vẫn phải gắn với số lượng theo biên chế. Thực trạng
này gây ra sự chồng chéo, thậm chí là mâu thuẫn dẫn tới việc các trường không
xác định được việc quản lý giảng viên theo quy định hay mô hình nào.
- Công tác quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đối với
Bộ giáo dục và Đào tạo liên quan tới số lượng, trình độ chuyên môn của giảng
viên thông qua công tác thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch, và phần lớn đang chỉ
dừng lại ở việc yêu cầu các đơn vị báo cáo về tình hình đội ngũ của đơn vị mình
hàng năm thông qua báo cáo ba công khai. Và cụ thể một trong số văn bản quy
định gần đây nhất đó là Thông tư 32/2015/TT-BGDĐT ngày 16 tháng 12 năm
2015 về việc Quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở
giáo dục đại học. Một trong những căn cứ quan trọng đó là số lượng giảng viên
ở các nhóm ngành. Chính số lượng giảng viên các nhóm ngành này dùng để quy
đổi ra số lượng sinh viên được tuyển mới.Nội dung công việc này được yêu cầu
triển khai hàng năm trước các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp.Trên thực tế, tất cả các trường đều kê khai số lượng giảng viên
theo nhóm ngành một cách có lợi nhất để đảm bảo chỉ tiêu tuyển sinh cho năm
học mới. Vậy vấn đề này dẫn tới tình trạng là các trường kê khai không trung
thực (thực tế có diễn ra ở một trong hai trường đại học trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài mà tác giả biết được) số lượng giảng viên thuộc các nhóm ngành,
nhằm mang lại lợi ích cho chính trường của mình. Việc này cho thấy mâu thuẫn
trong công tác quản lý số lượng giảng viên các trường đại học của Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Vì rằng, hàng năm, các trường muốn tuyển nhân sự là giảng viên
phải nằm trong quy định biên chế, sau khi ký hợp đồng làm việc với người được
95
tuyển dụng thì phải báo cáo Bộ giáo dục và Đào tạo cũng như Bộ chủ quản để
thực hiện các chế độ chính sách liên quan. Và chỉ cần cộng số lượng giảng viên
hiện có với nhân sự được tuyển mới của các trường là Bộ giáo dục đã có thể biết
được số lượng giảng viên hiện tại, làm căn cứ cho việc xác định chỉ tiêu tuyển
sinh. Điều này cho thấy, công tác quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập của Bộ giáo dục và Đào tạo còn thụ động. Do vậy Bộ giáo dục cần phải
xây dựng cơ sở dữ liệu về giảng viên các trường đại học trên toàn quốc, luôn kịp
thời cập nhập sự thay đổi, biến động qua từng học kỳ, năm học. Từ đó tránh sự
thụ động cũng như có sự khoa học, hợp lý hơn trong công tác quản lý. Ở đây
không chỉ là phương pháp mà còn là việc thay đổi tư duy từ cũ sang mới theo
chiều hướng áp dụng công nghệ thông tin và các khoa học quản lý đi kèm.
- Hiện nay, quy định về tuyển dụng nếu thực hiện đúng thì sẽ đảm bảo các
yếu tố công bằng, khách quan và minh bạch. Song nếu thực hiện theo quy trình
như hiện nay thì vẫn còn đâu đó tình trạng không công bằng. Khi mà các quy
định của Luật không thể điều chỉnh được hết các yếu tố liên quan tới tâm lý, tình
cảm (đặc biệt trong khu vực nhà nước nói chung và các đơn vị sự nghiệp công
lập nói riêng). Chính điều này dẫn tới tình trạng “thiên vị”, ưu ái hồ sơ này mà
bỏ qua hồ sơ khác. Trong khi đó, có thể những hồ sơ bị loại, không tuyển dụng
có thể có chất lượng tốt hơn. Thực tế này đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà
nước (kể cả xã hội và người tham gia ứng tuyển) về quy định giám sát, phân
tích, đánh giá hồ sơ, chấm điểm, kết quả cho các thang điểm, và so sánh các tiêu
chí, tổng điểm giữa các ứng viên. Từ đó đảm bảo việc tuyển dụng không chỉ đơn
thuần là công việc của Hội đồng tuyển dụng được thành lập trước đó. Để làm
được điều này, đòi hỏi phải có quy định mới trên cơ sở đảm bảo các quy trình
hiện tại nhưng bổ sung và làm rõ thêm sự công bằng, minh bạch.
- Thực tế là từng học kỳ, các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng
ở khu vực Miền Nam đều thực hiện việc thống kê khối lượng giảng dạy của
giảng viên, trên cơ sở lấy tổng số giờ giảng trừ đi số giờ chuẩn định mức theo
quy định. Từ đó để tính vượt giờ cho giảng viên theo quy định trong Qúy chế
96
chi tiêu nội bộ. Trong trường hợp nếu giảng viên phải dạy quá giờ chuẩn theo
quy định thì ở một góc độ nào đó được hiểu là do thiếu giảng viên nên phải
‘tăng ca’. Trong trường hợp thiếu giảng viên nhưng không được tuyển dụng
thêm đồng nghĩa với việc không đảm bảo số lượng giảng viên/sinh viên theo
quy định. Và như vậy, việc tuyển dụng thêm giảng viên để đảm bảo giảng viên
hiện tại không phải ‘tăng ca’ thì lại không thể vì bị khống chế bởi biên chế quy
định.Trong khi đó, giảng viên cơ hữu các trường đại học công lập vẫn có thể
tham gia giảng dạy là giảng viên thỉnh giảng ở các trường đại học khác. Đây là
vừa là điều kiện tốt cho giảng viên có thêm các cơ hội việc làm (có thể tạm hiểu
là làm thêm), tăng thêm thu nhập cho cuộc sống trong điều kiện thu nhập tại cơ
quan chưa đáp ứng hết nhu cầu của cuộc sống. Đồng thời cũng là cơ hội để
giảng viên có thêm các môi trường để trao đổi về chuyên môn, học thuật, truyền
bá tri thức. Từ đó thiết nghĩ Bộ giáo dục và Đào tạo phải tìm hiểu và làm rõ các
mâu thuẫn hiện tại nêu trên, từ đó xây dựng các quy chế, quy định cụ thể hơn
nhằm đảm bảo quản lý về mặt thời gian lao động thực tế theo giờ chuẩn tại cơ
quan nơi mình là viên chức, cũng như ban hành quy định, hoặc có cơ chế kiểm
tra, kiểm soát được thời lượng giảng dạy thỉnh giảng ở các cơ sở khác. Từ đó
đảm bảo việc giảng viên cơ hữu thực hiện chuyên tâm hơn cho chính đơn vị nơi
mình công tác.
Như vậy, mặc dù các quy định pháp lý về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập hiện nay tuy đã
đầy đủ, song trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ những khó khăn, chồng
chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho chính các trường đại học cũng như giảng
viên. Do vậy, cần có sự rà soát, đánh giá tổng thể riêng đối với các luật cũng
như mối quan hệ giữa các luật với nhau như giữa Luật Viên chức với Luật giáo
97
dục và Luật giáo dục đại học.
3.2.3. Hoàn thiện về cơ chế chính sách bồi dưỡng, đào tạo, chế độ đãi ngộ và
khen thưởng đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
Đào tạo, bồi dưỡng là một trong những biện pháp căn cơ nhất để nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên. Trong điều kiện các trường đại học đang hướng
tới các tiêu chuẩn kiểm định mới ngoài tiêu chuẩn chung của Bộ giáo dục và
Đào tạo, mà phổ biến hiện nay nhất là kiểm định theo chuẩn AUN - QA
(ASEAN University Network - Quality Assurance). Và trong bất kỳ chương
trình hay khung kiểm định nào thì đội ngũ giảng viên có một vị trí hết sức quan
trọng để đánh giá chất lượng của trường đại học đó. Với các tiêu chí như giảng
viên có bằng cấp chuyên môn cao, phù hợp với ngành nghề đào tạo, số lượng
các bài báo khoa học của giảng viên được đăng trên các tạp chí chuyên ngành,
số lượng công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên được công bố, hay đó là
việc hài lòng của các bên liên quan (trong đó có hài lòng về chất lượng chuyên
môn giảng dạy cũng như các nội dung tương tác khác giữa giảng viên với sinh
viên và). Chính vì thế, việc quan tâm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên ngoài việc đạt chuẩn theo quy định của Luật giáo dục, Luật giáo
dục Đại học thì còn phải đảm bảo thêm các yếu tố khác đi kèm để thực hiện
công tác kiểm định chất lượng. Với tầm quan trọng đó, nhiều chính sách quản lý
nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và đại học công
lập nói riêng (trong đó có các trường thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam)
đã được hết sức quan tâm, chú trọng không chỉ dừng lại ở chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch mà còn được quan tâm bằng việc hỗ trợ tài chính đi kèm.
Sẽ là hoàn thiện hơn nếu trong thời gian qua công tác này khắc phục được
hoặc tốt hơn là không gặp phải các khó khăn như vẫn còn tình trạng vì buộc phải
có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ nhưng vì trong nước không đào tạo ngành này, trong
điều kiện không thể đi học ở nước ngoài nên phải học trong nước nhưng trái
ngành hoặc “ngành gần”. Thực trạng này gần đây nhất như phát biểu của ông
Đinh La Thăng - Uỷ viên bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí
98
Minh có phát biểu tại buổi làm việc với Đại học Sân khấu điện ảnh TP. Hồ Chí
Minh vào ngày 28/2/2017 rằng “Có ai giới thiệu Tiến sĩ lên hát Dạ cổ hoài lang
đâu?”. Đây là thực tế thật sự bất cập mà cần phải có cơ chế riêng, mặc dù Luật
giáo dục đại học đã quy định đối với tiêu chuẩn của giảng viên giảng dạy các
ngành nghề đặc thù do Bộ giáo dục và Đào tạo quy định. Song không có quy
định cụ thể nào được ban hành, dẫn tới tình trạng có bằng Tiến sĩ nhưng không
phải Tiến sĩ chuyên ngành giảng dạy. Do vậy Bộ giáo dục cần sớm ban hành văn
bản quy định riêng về tiêu chuẩn đối với đối tượng giảng viê này. (thực tế tại
trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, các giảng viên giảng dạy tại khoa
Mỹ thuật Công nghiệp gồm các chuyên ngành; Thời trang, Tạo dáng Công
nghiệp, Thiết kế đồ họa rất ít có bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ đúng chuyên ngành mà đa
phần là bằng về “Lý luận lịch sử mỹ thuật”). Như vậy Bộ Xây dựng - với chức
năng là Bộ chủ quản phải phối hợp với Bộ giáo dục và Đào tạo để đưa ra các
tiêu chuẩn cụ thể, mang tính đặc thù riêng để làm căn cứ cho công tác đào tạo,
xác định các tiêu chuẩn tối thiểu để đội ngũ giảng viên theo đó học tập, tự bồi
dưỡng, đào tạo theo quy định phải có.
Việc quy định giảng viên phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
hoặc chứng chỉ lý luận giảng dạy đại học liệu có phù hợp trong điều kiện giảng
viên đó thuộc các trường theo định hướng ứng dụng hoặc thực hành, hoặc kể cả
trường theo định hướng nghiên cứu. Bởi lẽ để bước lên bục giảng thì người
giảng viên phải chuẩn bị đầy đủ các kiến thức, kỹ năng tốt nhất với mục đích
truyền thụ cho người học các kiến thức một cách dễ hiểu nhất, nhanh nhất và
hiệu quả nhất. Và như vây, “phong cách” giảng dạy là tố chất riêng của từng
giảng viên sẽ được phát huy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình. Và kể cả khi giảng viên được hoặc bắt buộc (mà theo luật là bắt buộc)
phải có các chứng chỉ nêu trên thì liệu rằng có thay thể được “phong cách” giảng
dạy vốn có. Đối với các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam, thực tế này càng thấy rõ khi mà các ngành nghề đào tạo đa phần
mang tính đặc thù riêng liên quan tới thiết kế, nghệ thuật, việc buộc một giảng
99
viên phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm hay lý luận giảng dạy đại học là điều
mà ít người mong muốn có thật. Giải pháp đề ra là Bộ giáo dục cần có nghiên
cứu cụ thể để áp dụng tiêu chuẩn riêng, tránh trường hợp chung chung, mang
tính bắt buộc nhưng không thật sự phát huy hết giá trị, ý nghĩa của nó (như thế
dễ phản tác dụng). Thay vào đó là giao quyền sát hạch, hoặc kiểm tra, đánh giá
của chính đơn vị sử dụng giảng viên và chính sinh viên, những người trực tiếp
tương tác và lãnh hội kiến thức hàng ngày từ giảng viên. Công tác này có thể
thực hiện thường niên và tổng kết thông qua công tác đánh giá, thi đua khen
thưởng cuối năm.
Hiện nay, một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp của
sinh viên mà được xã hội, các nhà tuyển dụng, các chuyên gia phân tích giáo dục
cho rằng là do sinh viên chỉ có biết lý thuyết suông, là thiếu các kỹ năng chuyên
ngành, các kỹ năng thực hành xã hội. Vậy “cái thiếu” của sinh viên đến từ đâu.
Phải chăng là do chương trình đào tạo, hay chính từ sinh viên chưa chủ động học
hỏi. Thực tế đó cộng với quy định liên quan tới chất lượng đầu ra của sinh viên
buộc các trường phải thay đổi tư duy, phương pháp dạy và học. Như vậy, yêu
cầu đặt ra cho giảng viên cũng phải thay đổi để đáp ứng theo tư duy và phương
pháp mới. Chính vì thế một trong những giải pháp không liên quan tới bằng cấp
chuyên môn của giảng viên nhưng có thể nâng cao trình độ, giúp giảng viên bồi
dưỡng chuyên môn là quy định yêu cầu, hoặc buộc giảng viên phải tham gia các
chương trình thực tế tại các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Hoặc giảng
viên phải thường xuyên tham gia các chương trình hội thảo, tọa đàm với các bên
liên quan, tham gia lao động, nghiên cứu thực tế tại các đơn vị khác cùng ngành
nghề, hoặc là đơn vị có mối tương quan, tương hỗ với ngành nghề chuyên môn
của mình. Từ những việc như vậy sẽ giúp cho giảng viên nâng cao kiến thức
thực tế. Vận dụng linh hoạt kiến thức đó với kiến thức chuyên môn nghề nghiệp
để nâng cao chất lượng dạy và học tại trường.
Thực tế hiện nay đa phần các trường đang chú trọng nhiều vào việc đào
tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là chú trọng nâng cao trình độ
100
đạt chuẩn Tiến sĩ cho đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng nâng cao
trình độ chuyên môn không thì cũng chưa đủ. Trong điều kiện sự phát triển
nhanh chóng về khoa học, công nghệ, cũng như sự hội nhập sâu rộng ở tất cả
các lĩnh vực thì đòi hỏi giảng viên phải có trình độ, kiến thức về tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Chính vì thế, công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng cần có sự
thay đổi theo các hướng khác nhau như đào tạo chuyên sâu theo chuyên ngành
(dạng hình thức đào tạo cấp bằng), đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên đề về văn
hóa, lịch sử, phương pháp nghiên cứu khoa học, hay tâm lý, giáo dục trong thời
kỳ kỷ nguyên số…, đặc biệt là việc đào tạo, bồi dưỡng cho giảng viên các kiến
thức quản lý nhà nước liên quan tới chuyên môn mà các cơ quan nhà nước
thường xuyên điều chỉnh như về Quy hoạch, Xây dựng, Kiến trúc công trình…
Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ khi đạt chuẩn mà kể cả quá trình sau đó.
Điều này để đảm bảo rằng sự thu nhận và phát triển không ngừng các vốn kiến
thức phục vụ cho chuyên môn công tác giảng dạy của giảng viên. Đặc biệt là các
ứng dụng khoa học mới trong các lĩnh vực ngành nghề. Công tác này có thể đào
tạo, bồi dưỡng thông qua các buổi trao đổi, hợp tác, hội thảo với các tổ chức, các
chuyên gia trong lĩnh vực mà giảng viên cần. Như vậy, cần áp dụng linh hoạt
giữa việc đào tạo các khóa bắt buộc theo quy định thì song song đó là việc đào
tạo các khóa ngắn hạn, phù hợp với chuyên môn giảng dạy thực tế của Trường.
Để thực hiện tốt hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập trong giai đoạn mới hiện nay, đòi hỏi không chỉ là sự
đổi mới về các nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa
mà còn đòi hỏi sự chuyên sâu, hướng tới mỗi giảng viên không chỉ là nhà sư
phạm đơn thuần mà đồng thời còn là nhà nghiên cứu khoa học, một chuyên gia
trong lĩnh vực của mình. Để hoàn thiện cùng lúc ba yếu tố này, ngoài sự quan
tâm, xây dựng các cơ chế, chính sách, sự hỗ trợ cần thiết của các trường đại học,
đòi hỏi người giảng viên phải không ngừng tự học tập, lựa chọn các phương
pháp, chương trình đào tạo thích hợp, cần thiết để hoàn thiện chính bản thân của
mình. Và như thế, văn hóa tự đào tạo, bồi dưỡng, phát triển là yếu tố cần quan
101
tâm, xây dựng. Đến khi đó, giảng viên sẽ không còn tình trạng buộc phải chuẩn
hóa mà sẽ trở thành mong muốn, nguyện vọng được học tâp, được đào tạo, bồi
dưỡng để hoàn thành nhiệm vụ của bản thân với cơ quan, đơn vị. Và hơn hết là
thực hiện được sứ mệnh giáo dục, đào tạo thiêng liêng của toàn dân tộc, vì mục
tiêu đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.
Chế độ đãi ngộ và khen thưởng đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập hiện nay tuy đã được Đảng và Nhà nước quan tâm để kịp thời động
viên, khen thưởng, khích lệ tinh thần cho đội ngũ giảng viên phấn đấu hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ được phân công. Nhưng, câu chuyện về lương,
thưởng và các khoản phụ cấp theo kèm đối với đội ngũ giảng viên nói chung và
giảng viên các trường đại học công lập nói riêng luôn là vấn đề được đặt ra bàn
thảo, trao đổi với nhiều ý kiến, mà trong đó đa phần là làm sao để tăng thu nhập
của người giảng viên, để người giảng viên có thể “sống được bằng lương”. Và
như thế, đa phần các ý kiến trong xã hội đều cho rằng, mức thu nhập từ lương
đối với giảng viên là còn thấp, chưa tương xứng với giá trị lao động mà người
giảng viên bỏ ra. Cơ chế trả lương hiện nay cho đội ngũ giảng viên đang thực
hiện chung theo quy định của Luật Viên chức 2010, đặc trưng của công thức
tính toán là dựa trên các hệ số về bằng cấp, hệ số công việc, hệ số lương tăng
thêm, hệ số trách nhiệm, hệ số thâm niên và hệ số phụ cấp ngành nghề nhân với
mức lương cơ bản chung của nhà nước. Thực tế thì mức lương thu nhập của các
giảng viên ở các trường đại học khác nhau thì khác nhau. Điều này phụ thuộc
vào “nguồn thu sự nghiệp” mà các trường có được. Nhưng với điều kiện và xu
hướng phát triển của nền kinh tế hiện nay thì chưa thật sự tương xứng với những
đóng góp của giảng viên cho xã hội.
Theo tác giả luận văn, cần phải thay đổi cơ chế trả lương, các phụ cấp cũng
như khen thưởng dành cho đội ngũ giảng viên theo hướng thực tế hơn. Trước
hết, xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước xem giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, thì việc trả lương, các chế độ đi kèm cũng phải được và nên
có sự ưu tiên bằng chính sách riêng, đặc thù. Điều này sẽ là khó khi mà các các
102
lĩnh vực sự nghiêp khác cũng cho rằng, chính họ, hoặc họ mới có đóng góp thiết
thực hơn khu vực sự nghiệp giáo dục. Như vậy, cần phải có sự nghiên cứu đầy
đủ, mang tính khoa học cao, dựa trên các yếu tố cơ bản là giá trị đóng góp cho
hiện tại, tương lai cũng như sự ảnh hưởng, tác động tích cực mà giáo dục, đào
tạo mang lại cho các khu vực, ngành nghề khác. Chỉ có như vậy, và cần phải như
vậy để đảm bảo rằng, chủ trương “giáo dục là quốc sách” mới đi tới được những con
người trực tiếp thực hiện “quốc sách” và đưa “quốc sách” thành hiện thực.
Trả lương theo cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường, hay đó chính là
trả lương theo kết quả thực tế của công việc. Điều này là cần thiết nhằm đảm
bảo sự công bằng, tránh sự chung chung, cào bằng. Khi thực hiện việc trả lương
theo vị trí công việc được phân công, kèm theo đó là kết quả thực hiện các công
việc đó sẽ dẫn tới sự phấn đấu mang tính thực chất. Do vậy, cải cách lương
không phải là việc xem xét nâng hệ số lương cơ bản, hay thực hiện việc tăng
giảm các hệ số đơn thuần mà phải là việc xem xét các thay đổi đó gắn với thực
tế thị trường của nền kinh tế và sự đóng góp (giá trị lao động thực) để tính toán
cho phù hợp. Việc trả lương theo cơ chế thị trường và kết quả thực hiện công
việc đã được khu vực tư nhân áp dụng tương đối đầy đủ, thể hiện được tính
nhanh nhạy, phù hợpvới quy luật. Trong khi đó, khu vực sự nghiệp công của nhà
nước chưa áp dụng phương thức này, điều này cho thấy có một sự chậm trễ nhất
định cần sớm thay đổi.
Công tác thi đua, khen thưởng tuy đã thực hiện tốt trong những năm qua
với những quy định đầy đủ, chặt chẽ của pháp luật.Song vẫn còn tình trạng
“chạy thành tích” không chỉ cho tập thể mà kể cả cá nhân. Thực tế này đã được
các cơ quan báo chí phản ánh và đã có những kết luận sai phạm của các cơ quan
chức năng. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để công tác thi đua, khen thưởng thực
chất hơn, là việc khen đúng người, đúng việc, xóa bỏ tình trạng chạy thi đua,
khen thưởng? Câu trả lời trước hết thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước về thi
đua khen thưởng, đó là trách nhiệm kiểm tra, thẩm tra hồ sơ đề nghị khen
thưởng ở các cấp phải được tăng cường. Bên cạnh đó cần có các chế tài mạnh
103
hơn để xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi giả mạo, khai không đúng sự thật
nhằm đạt được các thành tích theo mong muốn. Có thể một trong những chế tài
mạnh đó là cắt thi đua trong một thời gian nhất định tùy vào mức độ vi phạm,
công khai rộng rãi các vi phạm đó cho toàn xã hội biết và theo dõi.
Thực tế hiện nay không chỉ ở các trường đại học công lập mà ở nhiều cơ quan,
đơn vị sự nghiệp khác nhau thường xẩy ra tình trạng “xoay vòng” khen thưởng trong
các đơn vị trực thuộc. Tức là năm nay đề xuất người này thì năm sau tới lượt người
khác. Cứ như vậy cho hết các thành viên trong đơn vị. Hình thức này theo suy nghĩ
của nhiều người là công bằng, vì ai cũng xứng đáng được khen. Thực chất, nó như ở
một góc độ nào đó chính là sự cào bằng, xem nhẹ tính chất và ý nghĩa của việc thi
đua, khen thưởng. Nhưng hình thức này còn đỡ hơn là tình trạng khen thưởng chi và
luôn tập trung cho những người lãnh đạo, có chức vụ. Đó là việc hầu như năm nào,
những người làm lãnh đạo cũng được đề xuất khen thưởng ở các cấp, mà ít khi cơ
hôi đó dành cho nhân viên bên dưới. Nguyên nhân này xuất phát từ việc nể nang, sợ
mất lòng lãnh đạo, hay đó là sự xu nịnh của cấp dưới dành cho cấp trên. Hay tệ hơn
đó là vì sự thiếu công bằng, khách quan của cấp trên trong việc nhìn nhận sự cố
gắng, các thành tích, công việc cụ thể mà một năm qua, hoặc một giai đoạn mà nhân
viên, cấp dưới của mình đã nỗ lực, cống hiến. Để khác phục tình trạng này, có lẽ
pháp luật sẽ khó điều chỉnh, thay vào đó là sự phải thay đổi nhận thức, suy nghĩ và
cách nhìn nhận, đánh giá về công tác thi đua, khen thưởng ở từng cá nhân, đơn vị và
toàn thể cơ quan theo hướng thực chất, công bằng và phải thật sự vô tư trên tinh thần
dân chủ thật sự.
3.2.4. Hoàn thiện về công tác thanh tra, kiểm tra và xư lý vi phạm kỷ luật.
Trong bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, dù là khu vực tư nhân hay khu vực nhà
nước thì công tác thanh tra, kiểm tra cũng như xử lý các vi phạm kỷ luật là nội
dung hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là một đặc trưng trong công tác quản
lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
các vi phạm là điều cần thiết để đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ các quy
định của pháp luật, quy chê, quy định của cơ quan điều chỉnh tới các đối tượng
104
liên quan.
Đối với các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam, việc quản lý đội ngũ giảng viên luôn gắn liền và không thể thiếu công tác
thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm. Trên cơ sở các quy định của pháp luật
và thực tế thực hiện công tác này tại các trường nói trên, tác giả nhận thấy công
tác này tuy có thực hiện, song chưa thật sự đi vào thực chất, vẫn còn mang tính
hình thức, nể nang nhau. Đối với các cơ quản lý nhà nước cấp bộ như Bộ giáo
dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng chưa thật sự sâu sát, công tác kiểm tra, thanh tra
đang chủ yếu dựa trên nội dung các báo cáo theo yêu cầu sự vụ, hoặc định kỳ
quy định. Việc lập đoàn thanh tra, kiểm ra chuyên đề hay kiểm tra tổng thể về
quản các nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên ở các trường đại
học còn ít. Trong khi đó, mặc dù các trường đại học đều có bộ phần thanh tra
giáo dục và đều xây dựng và ban hành Quy chế dân chủ trong trường. Song vì
mang tính ‘nội bộ’ nên các hoạt động này thường chỉ mang tính nhắc nhở, cùng
nhau khắc phục, hoặc tự hoàn thiện với nhau để tránh các sai sót, vi phạm.
Trong điều kiện đã có đủ các quy định, chế tài để thực hiện, nhưng công tác
thanh tra, kiểm tra đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập vẫn
còn những bất cập, yếu kém, đó là vẫn còn tình trạng vi phạm các quy định như
thiếu trung thực, thực hiện công tác giảng dạy chưa đảm bảo, vi phạm bản
quyền…thì nguyên nhân chỉ có thể là từ phươngc pháp, cách làm chưa đúng,
còn mang tâm lý ngại va chạm của các cá nhân, tổ chức làm công tác thanh tra.
Hoặc vẫn còn tình trạng khi thanh tra xong, hai bên (cơ quan thanh tra và cơ
quan/đối tượng bị thanh tra) “tự thỏa thuận” với nhau trước khi soạn thảo, ban
hành kết luận thanh tra để gửi tới các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền liên quan
tiếp theo. Như vậy, cần phải thay đổi nhận thức theo hướng nâng cao tinh thần
trách nhiệm, đạo đức công vụ của các bộ phận nhân sự tham gia công tác thanh
tra, kiểm tra.
Hầu hết, kết quả thanh tra, kiểm tra không được công khai rộng rãi, chủ yếu
chỉ có “những người trong cuộc” mới biết về những nội dung trong kết luận
105
thanh tra, kiểm tra. Điều này ở một khía cạnh nào đó là việc chưa công khai,
chưa minh bạch. Vì vậy, phải xây dựng cơ chế thật sự công khai, minh bạch, đặc
biệt là công khai những vi phạm, sai phạm, khuyết điểm, từ đó sẽ tăng thêm giá
trị của kết quả thanh tra, làm gương để các đơn vị khác tránh được những sai sót,
vi phạm ở cùng một nội dung, ở trong cùng khối sự nghiệp giáo dục là các
trường đại học công lập (trong đó có các trường thuộc bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam). Và do vây, cần phải tăng cường nhiều hơn công tác thanh tra, kiểm
tra của các cơ quan chức năng đối với các trường đại học, từ đó đảm bảo tránh
bỏ sót các sai phạm, vi phạm liên quan tới đội ngũ giảng viên.
Ngoài việc thanh tra của các cơ quan thanh tra thuộc Bộ giáo dục và Đào
tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng, thì việc phát huy tinh thần giám sát và phản biện
của các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội trong trường học là điều hết sức quan
trọng và cần thiết. Do vậy cần xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát các hoạt động
liên quan của giảng viên trong trường đại học. Bên cạnh đó cần tăng thêm các
chức năng, nhiệm vụ của phòng Thanh tra giáo dục trong nhà trường, theo
hướng tăng quyền hạn, và quyền hạn đó phải tương đối độc lập với quyền lực
của Hiệu trưởng.
3.2.5. Các kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo và
các Bộ ngành khác ở Trung ương
3.2.5.1 Với Chính phủ:
- Cần rà soát, tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện các nội dung theo quy
định của pháp luật ở các cơ sở giáo dục đại học công lập liên quan tới việc quản
lý nhà nước về viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng. Trong đó,
cần đánh giá một cách chính xác sự tác động, mối quan hệ giữa các Luật Viên
chức, Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học. Đặc biệt trong số đó cần có sự
nghiên cứu cụ thể về những bất cập, khó khăn, thuận lợi liên quan tới tự chủ đại
học mà Luật giáo dục đã quy định. Thực tế hiện nay chưa có một văn bản hướng
dẫn nào hướng dẫn cụ thể về tự chủ đại học đúng nghĩa, đầy đủ về tất cả các nội
dung (bao gồm: tự chủ về cơ sở vật chất; tự chủ về cơ cấu, tổ chức bộ máy, nhân
sự; tự chủ về tài chính và tự chủ về học thuật) để các trường lấy đó làm căn cứ 106
thực hiện. Như vậy, trong điều kiện nếu các trường đại học công lập được giao
quyền tự chủ về bộ máy, cơ cấu tổ chức và nhân sự thì sẽ thay đổi như thế nào
vai trò quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đang được thực hiện bởi các
Bộ, Ngành liên quan theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Chính phủ cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn về trách nhiệm giải trình đối
với các trường đại học hiện nay. Đó là trách nhiệm giải trình trước các bên liên
quan mà trước hết là với các cơ quan quản lý nhà nước. Cùng với đó là trách
nhiệm kiểm soát, kiểm duyệt của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các nội
dung giải trình mà các trường đã thực hiện. Trong đó nội dung giải trình về đội
ngũ cán bộ, viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng theo hướng
đảm bảo các quy định của pháp luật về số lượng, chất lượng và các nội dụng
quản lý, sử dụng là điều quan trọng cần thiết để thực hiện tốt hơn công tác quản
lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
Với hai đề nghị trên, qua tham khảo các tài liệu, tác giả nhận thấy một giải
pháp đã được nêu ra tại trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Vấn đề tự chủ - tự
chịu trách nhiệm trong các trường đại học, cao đẳng Việt Nam” có thể dùng
tham khảo và áp dụng trong hiện tại và tương lai nhằm thực hiện tốt hơn các nội
107
dung quản lý đại học, trong đó có quản lý đội ngụ giảng viên, đó là [88]:
Giao quyền tự chủ cho các trường đại học theo hướng kiểm định chất lượng giáo dục làm căn cứ, tuy nhiên…
Chúng ta không muốn tự chủ bị trục lợi và chất lượng giáo dục yếu kém, nên chúng ta phải…
Mức độ giao quyền tự chủ phù hợp theo căn cứ kiểm định chất lượng giáo dục
Chúng ta cần phải tránh tự chủ hình thức, tránh sự can thiệp quá sâu của Nhà nước làm ảnh hưởng đến tính hie6u55 quả của sử dụng nguồn nhân lực trong các trường, do đó…
Xây dựng chuẩn mực đầu ra theo hướng kiểm định chất lượng và giám sát sự tự chịu trách nhiệm của các trường, tuy vậy…
Hình: 3.2.1.5. Mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho giáo dục đại học theo hướng Kiểm định
chất lượng (được đề xuất bởi: PGS. TS Phùng Xuân Nhã, ThS. Đỗ Thị Ngọc Quyên; ThS. Nguyễn
Viết Lộc – Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội,
3.2.5.2 Với Bộ giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ
- Cần rà soát, nghiên cứu thay đổi các chế độ chính sách liên quan tới tiền
lương và các phụ cấp khác dành cho đội ngũ giảng viên tại các trường đại học
công lập. Nhằm hướng tới việc tăng thu nhập thực tế từ lương, tạo sự yên tâm
cho đội ngũ giảng viên yên tâm gắn bó, công tác tại các trường. Các chính sách
trả lương cho đội ngũviên chức cần gắn với thực tế của thị trường lao động, trên
cơ sở đóng góp thực tế sức lao động của giảng viên đại học.
- Bộ giáo dục cần sớm có các hướng dẫn liên quan tới chuẩn đội ngũ
giảng viên ở các ngành nghề đặc thù, giúp cho các trường đại học thuận lợi cho
công tác tuyển dụng, bổ nhiệm ngạch giảng viên cũng như quá trình sử dụng,
108
quản lý.
- Xem xét điều chỉnh các quy định về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, kèm théo đó là các cơ chế, chế độ chính
sách dành cho công tác này.
- Tham mưu, xây dựng và trình Chính phủ lộ trình hội nhập đại học Việt
Nam với đại học trong khu vực và trên thế giới. Trong đó chú trọng các giải
pháp để nâng tầng xếp hạng các đại học Việt Nam trong khu vực, Châu Á và
trên thế giới. Từ đó làm cơ sở động lực cho các trường phấn đấu nâng cao chất
lượng mọi mặt để đạt các chuẩn theo quy định.
3.2.5.3 Với bộ chủ quản (Bộ Xây dựng)
- Bộ chủ quản đóng vai trò là cơ quan trực tiếp quản lý đội ngũ giảng viên
tại các trường trực thuộc sự quản lý của Bộ, do đó, Bộ Xây dựng cần phải
thường xuyên thực hiện công tác hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các nội dung
quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường thuộc Bộ Quản lý.
- Xác định lại các tiêu chuẩn chuyên môn cũng như các tiêu chuẩn khác
đối với đội ngũ giảng viên các trường trực thuộc trên cơ sở các tiêu chuẩn chung
và tính đặc thù riêng của Bộ mình, từ đó đề nghị Bộ giáo dục và Đào tạo ban
hành hoặc phối hợp ban hành các quy định về tiêu chuẩn đối với đội ngũ giảng
viên.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên các trường
do Bộ quản lý, làm cơ sở cho các trường trực thuộc tiếp tục xây dựng chiến lược
riêng của mình trên chiến lược chung của Bộ cũng như toàn ngành giáo dục trên
109
toàn quốc.
Tiểu kết chương 3:
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với
đội ngũ giảng viên các trường đại học, các căn cứ pháp lý tại Chương 1. Đồng
thời phân tích các thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam tại
Chương 2. Từ đó, Chương 3 đã đặt ra các vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu,
thay đổi để hướng tới việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học thuộc
Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng. Các biện pháp, giải pháp cũng
như kiến nghị tại Chương 3 liên quan tới nhiều chủ thể quản lý, vai trò trách
nhiệm của các cấp, cũng như sự phối hợp đồng bộ các của các cơ quan, tổ chức
và không loại trừ vai trò quan trọng của chính đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả về hoạt động
quản lý nhà nước mà cả ba chương đã trình bày.
Các giải pháp đặt ra ở chương 3 về hoàn thiện hoạt động quản lý nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng
một phần cũng là những giải pháp đề nghị chung cho các trường đại học công
lập trên toàn quốc. Với đặc thù là các trường nghệ thuật, năng khiếu, các trường
thuộc Bộ Xây dựng ở Miền Nam cần có những đề xuất cụ thể thông qua thực tế
trong hoạt động điều hành và quản lý đối với các cơ quan quản lý nhà nước,
110
hướng tới sự hoàn thiện ổn định và lâu dài trong tương lai.
KẾT LUẬN
Công tác quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng trong những năm qua đạt được các thành tựu quan trọng, trong đó, quản lý
nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập là một phần nội
dung không thể tách rời, nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định theo các chiến
lược phát triển giáo dục đại học mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Nội dung quản
lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập đã được các cơ
quan, ban ngành ở tất cả các cấp cùng nghiên cứu để cho ra đời các chính sách,
quy định cụ thể ở các lĩnh vực, nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ cho hoạt động
quản lý, điều hành, từ đó mang lại các hiệu quả, hiệu lực quản lý, đồng thời
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở cấp đại học.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập, cùng với đó là việc phân tích các cơ sở pháp lý liên quan tới hoạt động
quản lý nhà nước đối với đội ngũ này, chương 1 của luận văn đã làm rõ các nội
dung liên quan tới giảng viên như tiêu chuẩn, vị trí, vai trò, quyền lợi, nghĩa vụ,
các chế độ chính sách về lương, phụ cấp theo lương, khen thưởng và kỷ luật…và
các quy định của pháp luật điều chỉnh nhằm quản lý đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập hiện nay.
Với những cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập được phân tích, làm rõ ở chương 1, qua
chương 2, tác giả đã cố gắng phân tích thực trạng, dựa trên chủ yếu các hoạt
động quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam. Từ đó phân tích các mặt ưu điểm, hạn
chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập mà quá trình tổ chức,
quản lý đội ngũ giảng viên ở hai trường thuộc phạm vi nghiên cứu gặp phải.
Nhiệm vụ cuối cùng của luận văn là đưa ra các kiến nghị, đề xuất các giải
pháp ở từng nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường
111
đại học công lập nói chung và giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ
Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng. Cơ sở đưa ra các kiến nghị và đề xuất
các giải pháp là căn cứ trên các thực trạng được phân tích tại chương 2.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, tác giả đã có gắng ở mức cao
nhất để làm rõ các nội dung liên quan tới công tác quản lý nhà nước đối với đội
ngũ giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam, từ đó phân tích các hạn chế và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các nội
dung quản lý nhà nước về đội ngũ này trên phạm vi toàn quốc và trong phạm vi
đề tài. Tuy nhiên vì sự hạn chế trong kinh nghiệm nghiên cứu, tổng hợp, phân
tích các tài liệu nên chưa thể đi sâu làm rõ ở các nội dung chi tiết, cụ thể hơn.
Do vậy, tác giả nghĩ các nội dung này cần có sự nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể,
đặc biệt là nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia giáo dục, chính
sách công. Từ đó hoàn thiện ở mức cáo nhất các nội dung quản lý nhà nước đối
với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập, phục vụ tốt hơn cho sự
nghiệp đổi mới và hội nhập giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học trong giai
đoạn mới hiện nay.
Với những nội dung đã nghiên cứu được cũng như các hạn chế mà luận văn
chưa thể trình bày, tác giả thành tâm mong muốn nhận được sự góp ý của Qúy
Thầy, Cô trong Hội đồng để tác giả tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thành luận văn ở
112
mức độ tốt nhất có thể./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Cán sự Đảng – Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Hướng dẫn số
139-HD/BCSĐ ngày 19/09/2014 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục
và Đào tạo về công tác qui hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ
quan, đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
[2] Ban Tổ chức Trung ương (2012), Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW, ngày
05 tháng 11 năm 2012 về Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004
của Bộ Chính trị (khóa IX) và kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012
của Bộ Chính trị (khóa XI), Hà Nội.
[3] Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của
Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác quy hoạch cán bộ quản lý,lãnh đạo
thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại học Đất nước, Hà Nội.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ (2014), Thông tư số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV Thông tư liên tịch quy định mã số và tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở
giáo dục đại học công lập, Hà Nội.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội (2011), Thông tư liên tịch số 68/2011/TTLT-
BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 30/12/2011 hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 của
Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo, Hà Nội.
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư liên tịch số 29/2015/TTLT-
BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH, ngày 20 tháng 11 năm 2015 về sửa đổi
bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 68/2011/TTLT-BGDĐT-
BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 30/12/2011 của Bộ giáo dục và Đào tạo,
113
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về
Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 54/2011/NĐ-
CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm
niên đối với nhà giáo, Hà Nội.
[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Nội Vụ - Bộ Tài chính (2006), Thông tư
liên tịch số 01/2006/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC ngày 23 tháng 01 năm
2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm
2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà
giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, Hà Nội.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính (2013), Thông tư
liên tịch 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC, ngày 08 tháng 03 năm
2013 hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà
giáo trong các cơ sở giáo dục công lập, Hà Nội.
[9] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ (2015), Thông tư liên tịch số
28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 06 tháng 11 năm 2015 về việc hướng
dẫn thực hiện bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề nghiệp đối với viên
chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, Hà Nội.
[10] Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2005), Quyết định số 27/2005/QĐ-BGDĐT
ngày 29 tháng 8 năm 2005 về Quy chế xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự
nghiệp giáo dục”, Hà Nội.
[11] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Quyết định số 26/2005/QĐ-
BGD&ĐT ngày 29 tháng 8 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp giáo dục”, Hà Nội.
[12] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Thông tư số 07/2006/TT-BGDĐT ngày
20 tháng 3 năm 2006 về Hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và
hồ sơ xét tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Hà Nội.
114
[13] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 65/2007/QĐ- BGDĐT
của Bộ giáo dục và Đào tạo ngày 01/11/2007 về việc ban hành quy định
về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội
[14] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định số 64/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 28 tháng 11 năm 2008 ban hành Quy định chế độ làm
việc đối với giảng viên, Hà Nội.
[15] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định 16/2008/QĐ-BGDĐT
ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về
ban hành quy định về đạo đức Nhà giáo, Hà Nội.
[16] Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ (2009),Thông tư liên tịch số
07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15/4/2009 về hướng dẫn thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục
và đào tạo, Hà Nội.
[17] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Thông tư số 36/2010/TT-BGDĐT ngày
15 tháng 12 năm 2010 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định
chế độ làm việc đối với giảng viên ban hành kèm theo Quyết định
số 64/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 11 năm 2008, Hà Nội.
[18] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT về
việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực ngành giáo dục giai đoạn
2011 – 2020, Hà Nội.
[19] Bộ giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT
ngày 06/62011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định tiêu
chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Hà Nội.
[20] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 18/2012/TT-BGDĐT ngày
115
31 tháng 5 năm 2012 Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên ngành
nghệ thuật, sư phạm âm nhạc, sư phạm mỹ thuật, Hà Nội.
[21] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 35/2012/TT-BGDĐT
ngày 12 tháng 10 năm 2012 về việc ban hành quy định đào tạo trình
độ tiến sĩ theo đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các
trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020”, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 51/2012/TT-
BGDĐT ngày 18/12/2012 quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra
của cơ sở giáo dụcc đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội.
[22] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Nghị định số 138/2013/NĐ-CP ngày
22 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội.
[23] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông tư số 12/2013/TT-BGDĐT
ngày 12 tháng 4 năm 2013 ban hành chương trình bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học, Hà Nội.
[24] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông tư số 20/2013/TT-BGDĐT
ngày 06 tháng 6 năm 2013 ban hành quy định về bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học, Hà Nội.
[25] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông tứ số 39/2013/TTBGDĐT ngày
04 tháng 12 năm 2013 về việc hướng dẫn thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội.
[26] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-
BGDĐT-BNV về tiêu chuẩn giảng viên đại học, Hà Nội.
[27] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT về
việc “Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên”, Hà Nội.
[29] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày
116
31/12/2014 quy định về thời gian làm việc của giảng viên, Hà Nội.
[30] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư 08/2014/TT-BGDĐT ngày
20/3/2014 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học vùng
và cơ sở giáo dục đại học thành viên, Hà Nội.
[31] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư 32/2015/TT-BGDĐT ngày
16 tháng 12 năm 2015 “Quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh
đối với các cơ sở giáo dục đại học”, Hà Nội.
[32] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư số 35/2015/TT-BGDĐT
ngày 31 tháng 12 năm 2015 về việc hướng dẫn công tác thi đua khen
thưởng ngành giáo dục, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Thông tư 05/2016/TT-BGDĐT ngày
21 tháng 3 năm 2016 của Bộ giáo dục và Đào tạo quy định thời gian
tập sự theo chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng viên, Hà Nội.
[33] Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 03/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005
hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc
lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
[34] Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 04/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005
hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán
bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
[35] Bộ Nội vụ (2012), Thông tư 15/2012/TT-BNV hướng dẫn về tuyển
dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng
đối với viên chức, Hà Nội.
[36] Bộ Nội vụ (2012),Thông tư 16/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ ban hành
Quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức, quy chế thi thăng hạng chức
danh nghề nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng
hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, Hà Nội.
[37] Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 09/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ Quy
117
định quy trình, nội dung thanh tra về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức, viên chức. Thông tư này quy định quy trình tiến hành một
cuộc thanh tra, Hà Nội.
[38] Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 12/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ quy
định về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối
với viên chức, Hà Nội.
[39] Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 12/2012/TT-BNV quy định về chức
danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên
chức, Hà Nội.
[40] Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số số 14/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 5
năm 2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự
nghiệp công lập, Hà Nội.
[41] Bộ Nội vụ (2013), Thông tư số 08/2013/TT-BNV Hướng dẫn thực hiện
chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời
hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, Hà Nội.
[42] Bộ Nội vụ (2014), Thông tư số 19/2014/TT-BNV ngày 04 tháng 12
năm 2014 quy định, hướng dẫn công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức,
Hà Nội.
[43] Bộ Nội vụ (2016), Thông tư số 05/2016/TT-BNV, ngày 10 tháng 6 năm
2016 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn thực hiện mức lương cơ sở đối với các
đối tượng hưởng lương, phụ cấp trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
công lập củ Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, Hà Nội.
[44] Bộ Xây dựng (2014), Thông tư 07/2014/TT-BNV, thông tư số
06/2015/TT-BXD ngày 30 tháng 10 năm 2015 của Bộ Xây dựng về việc
hướng dẫn công tác thi đua ngành Xây dựng, Hà Nội.
[45] Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển phát triển giáo dục việt nam giai
118
đoạn 2011-2020, ban hành kèm theo quyết định số Quyết định số 711/QĐ-
TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội,
[46] Chính phủ (2014), Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 về việc
ban hành Điều lệ Trường đại học, Hà Nội.
[47] Chính phủ (1994), Quyết định số 202/TCCP-VC ngày 08/6/1994 của
Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp
vụ các ngạch công chức ngành giáo dục vào đào tạo, Hà Nội.
[48] Chính phủ (2003), Nghị định số 116/2003/NĐ-CP của Chính phủ về
Tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự
nghiệp nhà nước, Hà Nội.
[49] Chính phủ (2004), Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12
năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang, Hà Nội.
[50] Chính phủ (2005),Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng, Hà Nội.
[51] Chính phủ (2005), Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10
năm 2005 về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp
giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, Hà Nội.
[52] Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy
định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
[53] Chính phủ (2010), Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm
2010 về phê duyệt đề án đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ cho các
119
trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020, Hà Nội
[54] Chính phủ (2011), Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm
2011 quy định về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo, Hà Nội.
[55] Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy
hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.
[56] Chính phủ (2012), Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm
2012, Hà Nội.
[57] Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm
2012 về việc ban hành chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai
đoạn 2011-2020, Hà Nội.
[58] Chính phủ (2012), Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012
quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Hà Nội.
[59] Chính phủ (2012), Nghị định số 41/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy
định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
[60] Chính phủ (2012), Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 04/4/2012 của
Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi
thường, hoàn trả của viên chức, Hà Nội.
[61] Chính phủ (2013), Nghị định số 41/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục Đại học, Hà Nội.
[62] Chính phủ (2013), Nghị định số 17/2013/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm
2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang, Hà Nội.
[63] Chính phủ (2013),Nghị định 138/2013/NĐ-CP quy định về hành vi vi
phạm, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả,
thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền lập biên bản đối với hành vi vi phạm
120
hành chính trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội.
[64] Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2016 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục, Hà Nội.
[65] Chính phủ (2013), Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục
đại học, Hà Nội.
[66] Chính phủ (2013), Nghị định số 186/2013/NĐ-CP ngày 17/11/2013 về
Đại học Quốc gia, Hà Nội
[67] Chính phủ (2013), Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm
2013 về việc quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang, Hà Nội.
[68] Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm
2013 quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục, Hà Nội.
[69] Chính phủ (2014), Quyết định số 555/QĐ-TTg ngày 18 tháng 4 năm
2014, của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành danh sách các đơn
vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Xây dựng, Hà Nội.
[70] Chính phủ (2015), Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm
2015 Quy định về tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn
xếp hạng cơ sở giáo dục đại học, Hà Nội.
[71] Chính phủ (2015), Nghị định số 27/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm
2015 Quy định về xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo
ưu tú”, Hà Nội.
[72] Chính phủ (2016), Nghị định số 47/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm
2016 quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức
và lực lượng vũ trang, Hà Nội.
[73] Chính phủ (2016),Quyết định số 163/QĐ-TTg, ngày 25 tháng 01 năm
2016 về việc Phê duyệt đề án đào tạo cán bộ, công chức, viên chức
121
giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
[74] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997, tr 88, Hà Nội.
[75] Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29, ngày 04 tháng 11
năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Hà Nội.
[76] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
Quốc lần thứ XII, Hà Nội.
[77] Đảng bộ Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện
Đại hội Đại biểu lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015-2020, TP. Hồ Chí Minh.
[78] Quốc Hội (1998), Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm
1998, Hà Nội.
[79] Quốc Hội (2010), Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 thông qua tại kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010, Hà Nội.
[80] Quốc Hội (2013), số 39/2013/QH13 ngày 16 tháng 11 năm 2013 Sửa
đổi một số điều của Luật thi đua khen thưởng, Hà Nội.
[81] Quốc Hội (2012), Luật giáo dục đại học số 08/2012/QH13, Hà Nội.
[82] Quốc Hội (2003), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh Cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003, Hà Nội.
[83] Quốc Hội (2003), Luật thi đua khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26
tháng 11 năm 2013, Hà Nội.
[84] Quốc Hội (2005), Luật giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/06/2005,
Hà Nội.
122
[85] Quốc Hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua
khen thưởng số 47/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2015, Hà Nội,
[86] Quốc Hội (2010), Luật Viên chức, Hà Nội.
[87] Sách “1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam” (1999), Nxb TP. HCM, tr.
119, Hà Nội.
[88] Trường đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học“Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học, cao
đẳng Việt Nam”, TP. Hồ Chí Minh
[89] Trường Hành chính Trung ương (1988), Những cơ sở khoa học và lý
luận về quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.
11, Hà Nội.
[90] Trường Đại học Xây dựng Miền Tây (2016), Quyết định số
80/ĐHXDMT ngày 23 tháng 3 năm 2016 về việc Quy định chính sách
thu hút người có học hàm, học vị về công tác tại trường đại học Xây
dựng Miền Tây, Vĩnh Long.
[91] Cao Văn Phường (2010),“Phân tầng mục tiêu đào tạo trong trường đại
học”. Đã từng có một đại học mở như vậy, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội
[92] Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, tr. 10, Hà Nội.
[93] Phạm Viết Vượng (2007), Chủ biên, Giáo trình Quản lý hành chính
nhà nước và quản lý ngành giáo dục và đào tạo, Nxb Đại học Sư
phạm, tr. 40, Hà Nội.
[94] Nguyễn Như Ý (1998), chủ biên, Đại từ điển tiếng việt, NXB Văn hóa
– Thông tin, tr. 1363, Hà Nội.
[95] Website Bộ Xây dựng: (http://www.moc.gov.vn).
[96] Website Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016),
http://www.moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ko-giao-duc-dai-
123
hoc.aspx, Hà Nội.