VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.TRẦN ĐÌNH THIÊN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, bản luận văn với đề tài: “Quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc
tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần Đình Thiên. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm
về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 8 năm 2019
tế” là kết quả nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi cùng với sự hướng dẫn tận
Học viên
Nguyễn Thị Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH
TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ ............................................................................................ 7
1.1 Khái niệm Du lịch và quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trong
điều kiện hội nhập quốc tế .......................................................................... 7
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch đối với
chính quyền cấp tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế ............................ 19
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH
BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ................................ 32
2.1. Tình hình hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong
điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn 2014 – 2018 ................................... 32
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn
2014 – 2018 ............................................................................................... 44
2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế
giai đoạn 2014 – 2018 ............................................................................... 54
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ .......................................................................................... 59
3.1. Bối cảnh phát triển mới và các yêu cầu khách quan đặt ra cho sự phát
triển và quản lý nhà nước đối với du lịch Ninh Bình trong giai đoạn tới ......... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế .................................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch đang ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đấu của nền kinh tế
- xã hội (KT-XH), là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện giữ gìn hòa bình và
hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những
ngành kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại
những lợi ích phát triển KT-XH to lớn.
Hoạt động du lịch (HĐDL) tăng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng
không có ngành kinh tế đi tắt đón đầu đuổi kịp trình độ phát triển của các nước
trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng
ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có sự quan tâm
đặc biệt đến ngành “công nghiệp không khói” này. Công tác quản lý nhà nước
(QLNN) đối với ngành du lịch luôn được tăng cường, đổi mới, từng bước hoàn
thiện để phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,
Ninh Bình, mảnh đất giàu truyền thống văn hóa - lịch sử, là một tỉnh thuộc
đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách Hà Nội không xa, có tiềm năng to lớn để phát
triển du lịch. Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự
nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với nhiều dấu ấn lịch sử.
Nằm trên tuyến đường bộ, đường sắt xuyên Việt, được thiên nhiên ưu đãi với
nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đa dạng, độc đáo, hấp dẫn như: Khu
du lịch sinh thái Tràng An - khu du lịch nổi tiếng được UNESCO công nhận di sản
Văn hóa, Thiên nhiên thế giới; Tam Cốc Bích Động, Vườn quốc gia Cúc Phương,
khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, suối khoáng nóng Kênh Gà…
Về tài nguyên du lịch nhân văn, Ninh Bình có 975 di tích lịch sử văn hoá, trong đó
có 80 di tích đã được xếp hạng và cấp bằng quốc gia như: Cố đô Hoa Lư, nhà thờ
đá Phát Diệm, Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính - khu chùa có quy mô lớn
nhất Việt Nam, nắm giữ nhiều kỷ lục như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng
lớn nhất Châu Á, có hành lang La Hán dài nhất Châu Á, có tượng Phật Di Lặc
HĐH đất nước và hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
1
bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, và nhiều lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc
văn hoá làng quê Việt Nam như lễ hội Trường Yên, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội Bái
Đính… Chính bởi những lợi thế này, Ninh Bình có thể tổ chức được rất nhiều loại
hình du lịch như: Du lịch văn hoá - lịch sử; Du lịch lễ hội - tâm linh; Du lịch sinh
thái - leo núi - du lịch làng nghề; Du lịch tắm ngâm, chữa bệnh; Du lịch cuối tuần.
Các loại hình du lịch này đều có thể thu hút khách đến thăm quan vui chơi giải trí
và lưu trú dài ngày ở Ninh Bình. Với tiềm năng sẵn có về mặt cảnh quan tự nhiên,
di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng, là thế mạnh để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Dưới góc độ quản lý nhà nước về du lịch và là người quản lý nhà nước,
mục tiêu quản lý nguồn lực công, đầu tư sao đạt hiệu quả cao nhất cho lợi ích
người dân. Thế nhưng, thực tế lại cho thấy, du lịch Ninh Bình chưa có sự bứt phá
đáng kể so với tiềm năng vốn có, người dân chưa thực sự được hưởng lợi nhiều từ
ngành công nghiệp không khói mang tính chủ lực của tỉnh. Điều này phần nào
được lý giải bởi sự quản lý nhà nước còn lúng túng, thực hiện công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch chưa thực sự nổi bật, các cơ sở du lịch chưa được kiểm tra, giám
sát dẫn đến chất lượng và uy tín giảm sút. Đối với khách du lịch, tình trạng “chặt,
chém” diễn ra tại nhiều nơi, ảnh hưởng lớn đến tâm lý khách đi du lịch. Nhận thức
vai trò quản lý nhà nước về du lịch, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Ninh Bình cần
nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của mình. Chú trọng tuyên truyền đi đôi với xây
dựng đồng bộ hạ tầng du lịch, đáp ứng yêu cầu cấp bách nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển, tận dụng mọi tiềm năng sẵn có đưa du lịch Ninh
Bình tương xứng với vị trí là trung tâm du lịch quan trọng và nổi tiếng cả nước. Để
đạt được điều này, cần phải có sự nỗ lực rất lớn của hệ thống chính trị, và chính từ
những người dân quê hương Ninh Bình. Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá của các
chuyên gia, nghiên cứu khoa học về lĩnh vực phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình, tuy nhiên đề tài: "Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế", mong muốn
đóng góp phần nhỏ công sức của mình để phát triển ngành du lịch ở tầm vĩ mô, tạo
ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân trên chính mảnh đất Cố đô giàu
truyền thống nhân văn.
2
- Lâm Thị Hồng Loan (2012) “Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở tỉnh
Ninh Bình” Luận văn thạc sỹ ngành kinh tế chính trị mã số: 60 31 01. Nội dung hệ
thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về du lịch và phát triển du lịch bền vững. Khảo sát,
nghiên cứu các nguồn tài nguyên, nguồn lực và điều kiện phát triển du lịch bền
vững, trên cơ sở đó làm rõ những lợi thế và khó khăn đối với việc phát triển du
lịch Ninh Bình.
- Tạ Minh Phương (2006) “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình, thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sỹ kinh tế, học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Nội dung nghiên cứu và tổng hợp một số vấn đề lý luận cơ bản về du
lịch sinh thái, phân tích và đánh giá thực trạng của du lịch sinh thái tỉnh Ninh Bình, đề
xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch sinh thái Ninh Bình.
- Trần Thị Hồng Nhạn (2010) “Giải pháp phát triển ngành du lịch Ninh Bình
đến năm 2020” Luận văn thạc sỹ kinh tế - Trường Đại học Kinh tế, học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung về những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động
kinh doanh du lịch của tỉnh Ninh Bình, đánh giá thực trạng trong phát triển du lịch
và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2020.
- Nguyễn Duy Mậu(2011): “Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc tế” Luận án tiến sỹ kinh tế - Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- Lê Hoàng Tân (2011) “Chiến lược phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi đến
năm 2020” Luận văn thạc sỹ kinh tế Đại học Đà Nẵng.
- Lưu Thanh Đức Hải (2012) “Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch
trên địa bàn thành phố Cần Thơ” Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
- Nguyễn Minh Đức (2007), "Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại,
du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), "Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3
- Trịnh Đăng Thanh (2004) "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động du lịch ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhóm tác giả Phạm Văn Thương, Từ Quang Tuyến, Vũ Ngọc Hiếu..(2010)
“Tìm hiểu tiềm năng, thực trạng hoạt động và đề xuất giải pháp phát triển du lịch
sinh thái ở Vườn Quốc Gia Cát Bà - Thành phố Hải Phòng” Khóa luận tốt nghiệp -
Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên Môi trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Và một số công trình khoa học và bài viết khác, các công trình nêu trên là
nguồn tư liệu quý để đề tài tham khảo, kế thừa. Nhìn chung, các công trình đã
nghiên cứu về du lịch, quản lý nhà nước về du lịch có rất nhiều nội dung và đi
vào từng lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch nhưng chủ yếu tập trung vào ngành
nghề kinh doanh du lịch và phát triển ngành du lịch để trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của quốc gia hoặc địa phương. Đề tài: "Quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc
tế" là một đề tài nâng cao, đồng thời nghiên cứu này có ý nghĩa thiết thực cho
công tác QLNN về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
trong bối cảnh hội nhập quốc tế nói riêng và cho địa phương cấp tỉnh nói chung
nhằm phát triển ngành du lịch theo đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch của Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế, đề xuất
được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế
nhằm thúc đẩy ngành du lịch của tỉnh phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
4
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện đổi mới hiện nay ở
Việt Nam nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch của tỉnh Ninh Bình từ năm 2014 đến nay; từ đó đánh giá các kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh
tế đối với hoạt động du lịch ở Ninh Bình, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế
tiềm năng du lịch của tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về kinh tế
đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về không gian: Tỉnh Ninh Bình và các thành phố, huyện, phường, xã trực
thuộc tỉnh.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2014 đến 2019.
Để làm rõ và nổi bật nội dung nghiên cứu của đề tài, phương pháp sử
dụng chủ yếu là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Ngoài ra sử dụng phương
pháp thu thập thông tin, thống kê, phân tích và tổng hợp, nguồn số liệu được
phân tích và tổng hợp từ các nguồn tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ninh
Bình, từ niên giám thống kê và trên internet. Làm nổi bật những vấn đề liên
quan đến chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phát
triển du lịch.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và quản lý du lịch. -
Đánh giá tiềm năng, thực trạng du lịch, quản lý du lịch tỉnh Ninh Bình và đề ra giải
pháp phát triển ngành du lịch ở tầm vĩ mô, tạo ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
người dân Ninh Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn từ 2014 - 2019, làm rõ những
điểm tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
Luận văn “Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế” sẽ có những đóng góp nhất
định cho việc nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhà nước và nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch tại các địa phương
nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh
tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm Du lịch và quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trong điều
kiện hội nhập quốc tế
1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Du lịch hiện nay là một phần hoạt động tinh thần của con người, bất cứ cá
nhân nào cũng đều mong muốn có được hoạt động du lịch đến các miền đất mới,
khám phá thế giới. Định nghĩa đầu tiên về du lịch xuất hiện năm 1811: “Du lịch
là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình và
mục đích giải trí. Ở đây là động cơ chính”. Theo ông Michael Conltman (người
Mỹ) định nghĩa về du lịch cụ thể: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4
nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: Du khách, nhà cung
ứng, dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.
Các học giả biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (1966) đã
tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Bao gồm 2
nghĩa: “Nghĩa thứ nhất: Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích
cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật… Nghĩa thứ hai
dưới góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao
về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn
hóa dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh
doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ tại chỗ”.[10]
1.1.1.2. Hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.1.2.1 Hoạt động du lịch
7
Theo Luật Du lịch 2005: “Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du
lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá
nhân có lien quan đến du lịch”.
Hoạt động du lịch ở đây được tiếp cận bao gồm các dịch vụ trực tiếp và
gián tiếp cho du lịch. Các chủ thể tham gia hoạt động du lịch: khách du lịch, tổ
chức cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân
có liên quan đến du lịch sẽ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau,
không thể tách rời nhau và là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển
du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương.
Hoạt động du lịch giúp phục hồi và tang cường sức khỏe cho nhân daanm
có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con
người. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng nhân dân có điều kiện
tiếp xúc với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc. Làm
lành mạnh nền văn hóa địa phương, đổi mới truyền thống, bảo vệ vùng sinh thái.
Từ đó hấp thụ những yếu tố văn minh của nhân loại nhằm nâng cao dân trí, tăng
thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp trong nhân dân… Điều này quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của
mỗi các nhân trong toàn xã hội.
Hoạt động du lịch làm tăng khả năng lao động, trở thành nhân tố quan trọng
để đẩy mạnh sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó, góp phần giải quyết vấn
đề lao động và việc làm, có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Các hoạt động du
lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn
cho đất nước.
Hoạt động du lịch đóng vai trò như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy
mạnh giao lưu quốc tế, giúp cho nhân dân các nước hiểu biết thê, về đất nước, c
người, lịch sử truyền thống dân tộc, qua đó tranh thủ sự đoàn kết, giúp đỡ từ các
nước. Ngoài ra du lịch còn giúp cho việc khai thác, bảo tồn các di sản văn hóa của
dân tộc có hiệu quả, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhien xã hội.
Ở một chừng mực nhất định, hoạt động du lịch có thể được coi đồng ghĩa với khái
niệm ngành du lịch.
8
Du lịch và kinh doanh du lịch có các loại hình sau: Kinh doanh lữ hành nội
địa, Kinh doanh lữ hành quốc tế, Kinh doanh lưu trú du lịch, Kinh doanh vận
chuyển khách du lịch, Kinh doanh các khu du lịch, điểm du lịch, Kinh doanh các
dịch vụ du lịch khác.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mở ra cho Việt
Nam cơ hội phát triển mới. Do vậy, để nắm bắt được cơ hội đó đòi hỏi Việt Nam
phải cải cách và đổi mới mọi mặt, trong đó có đổi mới quản lý nhà nước về kinh
tế. Nếu không đón bắt được cơ hội, Việt Nam sẽ tụt hậu và khó có sự phát triển
nhanh, bền vững. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế thích ứng với hội nhập
quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 là hướng đi đúng đắn, cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam với hơn 32 năm đổi mới đã có những bước phát triển
ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng khá trong nhiều năm, quy mô GDP đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Năm
2018, GDP đạt khoảng 240 tỷ USD, GDP bình quân là 2580 USD/người; nếu tính
cả con số chưa được thống kê thì GDP đạt khoảng 320 tỷ USD, GDP bình quân đạt
khoảng 3400 USD/người. Năm 1990, xuất khẩu của Việt Nam mới đạt được khoảng
1 tỷ USD, thì đến năm 2018, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã đạt mức 481,7 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 244,7 tỷ USD, nhập khẩu đạt 237 tỷ USD,
xuất siêu đạt 7,7 tỷ USD (cao nhất từ trước tới nay). Điều này cho thấy, nền kinh tế
Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có độ mở và hội nhập cao. Kết quả đó có sự
góp phần quan trọng của mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Có thể nói, hội nhập quốc tế là một yếu tố quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Bên cạnh những thành công nêu trên, nền kinh tế nước ta đang đứng trước
nhiều khó khăn thách thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 6,3%, nhưng
vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-
2020, ở mức 7-8%. Tỷ lệ lao động và vốn góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế vẫn
còn ở mức cao (8,4% và 53,3% năm 2018), yếu tố TFP đóng góp vào tăng trưởng
1.1.1.2.2. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0
9
kinh tế còn hạn chế, mới ở mức 38,3% năm 2018. Đặc biệt, yếu tố thể chế chưa
được cải thiện, nhiều thói quen và cách quản lý cũ vẫn hiện diện trong các văn bản
pháp luật, cơ chế, chính sách ... Theo WEF năm 2018 (GCI 4.0) thì chất lượng thể
chế Việt Nam xếp hạng 94/140 nước trên thế giới. Do đó, cần phải đổi mới mạnh
mẽ hơn nữa thể chế nhằm tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra nhiều thời cơ
cho các nước phát triển nhanh và bền vững, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức nếu
không nắm bắt kịp xu thế này. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 là
một xu thế tất yếu để mang lại phồn vinh và giàu mạnh cho những nước nắm bắt
được thời cơ, đổi mới mạnh mẽ mọi mặt của nền kinh tế. Một trong những khâu đột
phá là đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để theo kịp với hội nhập quốc tế sâu
rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển và lan rộng nhanh chóng.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay đổi
mọi vấn đề, từ tư duy, nhận thức, tầm nhìn, phương thức và hình thức đến cơ chế,
chính sách, giải pháp trong quản lý nhà nước về kinh tế. Hội nhập quốc tế làm cho
các quốc gia có nhiều cơ hội để mở rộng và tiếp cận dễ dàng với các quốc gia khác
không chỉ trong quản lý kinh tế mà còn trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh... Hội nhập quốc tế đã đưa đến cho các
quốc gia có cơ hội học tập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và triển khai các hoạt
động liên kết, hợp tác, sẻ chia cùng có lợi. Hội nhập quốc tế cũng làm cho các quốc
gia không còn tách biệt và biệt lập mà chịu tác động chung của những biến đổi trên
thế giới. Sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế đang diễn
ra ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn và phức tạp hơn. Bên cạnh tiến trình hội nhập
quốc tế đã và đang diễn ra ngày một sâu rộng, mạnh mẽ, liên tục thì cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện lại càng làm cho tiến trình hội nhập quốc tế nhanh
hơn, mạnh mẽ hơn và sâu rộng hơn.
Cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh chóng
nhờ các công cụ như: internet vạn vật, điều khiển tự động, trí tuệ nhân tạo, trí tuệ
thông minh, robot, big data, vật liệu mới, không gian thông thoáng... Nó làm cho
thế giới phẳng hơn, gần hơn, nhỏ hơn và làm thay đổi mọi mặt của đời sống con
10
người ở mọi nơi, mọi chỗ. Với Cách mạng công nghiệp 4.0, việc tiếp cận và xử lý
thông tin diễn ra dễ dàng, nhanh chóng. Cách mạng công nghiệp 4.0 có khả năng vô
tận, có thể giải quyết, truyền tải nhiều loại thông tin cùng một lúc, trong khoảng
thời gian ngắn nhất, khoảng vài giây, vài phút và có điều kiện để cung cấp cho con
người những cơ sở dữ liệu đủ lớn để đưa ra các căn cứ khoa học cho những tầm
nhìn xa, rộng, cho sự đoán định tương lai tương đối chính xác, cũng như hỗ trợ, gợi
mở đưa ra chính sách, giải pháp có khả năng đúng đắn và chính xác cao.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với trí tuệ nhân tạo sẽ giúp cho con người có
khả năng đánh giá được các phương án tối ưu cần lựa chọn và có khả năng hoạch
định chính sách kinh tế phù hợp nhất cho mỗi đất nước, mỗi tổ chức kinh tế, đặc
biệt, trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0 với mọi
thông tin được điện tử hóa, số hóa và tự động hóa, kết nối một cách minh bạch và
công khai, các khâu hoạch định, kiểm tra, kiểm soát việc đưa chính sách vào thực
tiễn, cũng như thực hiện chính sách sẽ được thực hiện tốt hơn và chính xác hơn,
nhanh chóng hơn. Hội nhập quốc tế gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
làm thay đổi nhanh chóng, có tính đột phá mọi sự quản lý về kinh tế đỏi hỏi các
chính phủ phải có giải pháp, phương thức và hình thức quản lý kinh tế phù hợp.
Công tác tuyên tuyền, giáo dục và phổ biến chủ trương, đường lối, cơ chế,
chính sách và giải pháp quản lý kinh tế của nhà nước và sự phản hồi của nhân dân,
của các tổ chức chính trị - xã hội... về tính đúng đắn, phù hợp của chính sách và giải
pháp quản lý của nhà nước về kinh tế dễ dàng hơn khi vận dụng thành quả của Cách
mạng công nghiệp 4.0, của mạng xã hội, của hệ thống thông tin rộng khắp và của
hội nhập quốc tế. Nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0, với các công cụ hiện đại,
việc đưa quản lý nhà nước về kinh tế thay đổi từ đường lối, định hướng đến cơ chế,
chính sách, giải pháp cụ thể vì có căn cứ hơn, khoa học hơn, sâu sắc hơn với tầm
nhìn dài hơn, xa hơn, đầy đủ hơn và xác đáng hơn.
Hội nhập quốc tế cho phép các quốc gia tham chiếu, học hỏi nhau mô hình
phát triển. Bên cạnh đó, nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0 mà việc hoạch định
chính sách tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn; đồng thời dễ phát hiện và định
lượng được những rào cản có thể xuất hiện và có biện pháp để xử lý, giải quyết và
11
loại bỏ các rào cản này, bảo đảm cho hoạch định chính sách kinh tế đạt được như
mong đợi.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế giúp cho các quốc gia có tầm nhìn về kinh tế
xa hơn, có hiểu biết không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà cả trên toàn thế giới.
Cách mạng công nghiệp 4.0 làm cho các quốc gia khi đưa ra tầm nhìn chiến lược về
kinh tế thuận lợi hơn và có cơ sở khoa học hơn, cũng như tạo điều kiện để quá trình
hoạch định chính sách kinh tế có thể thực hiện nhanh hơn, tốt hơn và khoa học hơn.
Hơn nữa, việc hoạch định chính sách kinh tế có thể rút ngắn khoảng cách, thời gian,
rút ngắn một số bước mà chất lượng chính sách có thể cao hơn, tốt hơn. Đặc biệt,
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, tầm nhìn và hoạch định chính sách kinh
tế sẽ có thuận lợi hơn khi có thể tham khảo rộng rãi ý kiến của nhân dân. Sự phản
hồi, phản biện của nhân dân sẽ giúp bổ sung nhiều căn cứ thực tế cho việc lựa chọn
được chính sách kinh tế tốt nhất, phù hợp nhất.
Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển khiến các quốc gia có thể áp dụng
rộng rãi thành quả công nghệ, đưa kỹ thuật số vào quản lý, từ đó xuất hiện nhiều mô
hình quản lý mới, như: Chính phủ số.., do vậy quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ
đổi mới từ tư duy, nhận thức đến mô hình, phương thức, cách thức, phương pháp,
công nghệ,...
Như vậy, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh
mẽ đến quản lý nhà nước về kinh tế từ tầm nhìn, hoạch định đường lối, chủ trương,
đến xây dựng chiến lược, luật pháp và cơ chế, chính sách. Với Chính phủ số được
hình thành, quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ phải thay đổi theo hướng quản lý
nhà nước kỹ thuật số. Mọi hoạt động kinh tế được số hóa, được điện tử hóa, các số
liệu kinh tế, tài chính được cập nhật và lưu trữ trong hệ thống “big data” nên quản
lý nhà nước về kinh tế cũng từ đó đổi mới theo.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tác động đến nhà
nước mà còn tác động mạnh mẽ đến người dân, nhà sản xuất và khách hàng. Mọi
thông tin giữa nhà sản xuất với khách hàng và với nhà nước sẽ nhanh hơn, chính
xác hơn. Thông tin về hoạt động kinh tế của mọi cá nhân, nhà sản xuất, kinh doanh
sẽ minh bạch, rõ ràng. Thói quen mua bán sẽ thay đổi từ giao dịch trực tiếp truyền
12
thống sang mua bán online, giao dịch trực tuyến, mọi hoạt động diễn ra qua internet
vạn vật, thẻ tín dụng; thay đổi từ dùng tiền mặt sang không dùng tiền mặt; từ cần
nhiều cửa hàng, nhiều nơi mua bán sầm uất đến các sàn giao dịch qua mạng, giao
hàng đến tận nhà, từ chỗ sản xuất hàng loạt theo một số mẫu mã nhất định đến sản
xuất hàng loạt phục vụ đơn chiếc theo nhu cầu của từng cá nhân. Sản xuất cũng
từng bước thay đổi từ chỗ nhiều công nhân, lương thấp, thu nhập thấp đến chỗ ít
công nhân, thay vào đó là robot và các thiết bị điều khiển từ xa, lương cao, thu nhập
cao. Như vậy, đến một ngày nào đó, nền kinh tế hầu như không dùng tiền mặt trong
thanh toán mua, bán, trao đổi hàng hóa mà hoàn toàn sử dụng thẻ tín dụng, qua hệ
thống ngân hàng. Doanh thu, lợi nhuận, nộp thuế, các chi phí... của các doanh
nghiệp, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẽ được minh bạch, được kiểm soát. Nguồn
thu nhập, tổng tài sản của người dân cũng được thông tin đầy đủ cho nhà nước mỗi
khi nhà nước cần. Như vậy, trong điều kiện hội nhập quốc tế và Cách mạng công
nghiệp 4.0, nhà nước cần bất kỳ thông tin nào về hoạt động kinh tế của các nhà sản
xuất kinh doanh, về thị trường và về người dân đều có thể tiếp cận được.
Như vậy, với điều kiện hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, quản lý nhà nước về kinh tế sẽ được thực hiện hiệu quả và tốt hơn vai trò của
mình về khắc phục khuyết tật thị trường, hỗ trợ thị trường, định hướng XHCN, định
hướng và thực hiện hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, thực hiện
nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp... Hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ thì bộ máy
hành chính nhà nước phải được hiện đại hóa, thực hiện trên nền tảng công nghệ cao,
công khai minh bạch. Nhiều khâu của quản lý nhà nước được tự động hóa, được kết
nối và được xử lý online. Thủ tục, giấy tờ sẽ dần bị loại bỏ thay vào đó là lưu trữ
trên mạng, điện toán đám mây, trong big data. Chữ ký điện tử có thể từng bước
được thay thế chữ kỹ trên giấy để rút ngắn thời gian và điều kiện cho người dân.
Nhiều hội họp bị kéo dài và tốn kém sẽ được thay bằng các diễn đàn trao đổi trên
mạng, trên thư điện tử. Kết nối trực tuyến sẽ trở thành hoạt động thông thường của
người dân và các cơ quan nhà nước.
13
Nhờ có hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 mà tất cả tài
nguyên, tài sản quốc gia được hệ thống hóa, thống kê và quản lý trên hệ thống big
data như: tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, nguồn lực dự trữ, các tập đoàn,
các tổng công ty nhà nước và cả tư nhân, nguồn lực lao động... Điều này dẫn đến
thay đổi to lớn, đột phá không chỉ trong quản lý nhà nước về kinh tế mà trên tất cả
các lĩnh vực đời sống của xã hội.
Với các chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế, như: tạo lập môi trường,
định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều tiết và kiểm tra xử lý vi phạm thì hội nhập
quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các
chức năng này với nhiều tiện ích. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0
phát triển mạnh mẽ, quản lý nhà nước về kinh tế sẽ thay đổi tích cực nhất trước đòi
hỏi cấp thiết của cuộc sống đặt ra, nếu không các nền kinh tế sẽ trở nên kém phát
triển và lạc hậu nhanh chóng.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các chính phủ phải
thay đổi căn bản phương thức, hình thức và cả nội dung quản lý nhà nước về kinh
tế. Cụ thể là sử dụng các công cụ công nghệ cao, như: internet vạn vật, robot, big
data, trí tuệ thông minh... vào hoạch địch tầm nhìn, đường lối, định hướng, chính
sách, mục tiêu vĩ mô. Đồng thời, các kế hoạch, chiến lược đề ra khoa học hơn nên
quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp vĩ mô thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều lần so với
trước. Nền kinh tế số cho phép quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp vĩ mô khá minh
bạch, các cân đối lớn được tính toán cụ thể, khoa học và xác đáng. Nguồn lực trong
nền kinh tế được huy động tối đa, phục vụ cho sản xuất kinh doanh và cho phát
triển, đồng thời nguồn lực đó cũng được bố trí khoa học, hiệu quả nhất nhờ có công
nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh quản lý vĩ mô, thì hội nhập quốc tế
và Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ hỗ trợ đắc lực và hiệu quả để quản lý doanh
nghiệp và xã hội.[11]
Vậy hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế là những dịch vụ
trực tiếp và gián tiếp cho du lịch trong quá trình mở cửa và tham gia vào mọi
mặt của đời sống quốc tế, chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền
lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong
14
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
Từ khái niệm đã phân tích ở mục 1.1.1 của Luận văn, tác giả có thể rút ra
một số đặc điểm chủ yếu của các hoạt động du lịch như sau:
Thứ nhất: Hoạt động du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành dịch vụ.
Hiện nay, Việt Nam với nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật -
công nghệ phát triển với tốc độ rất cao, điều đó đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất, phân công lao động xã hội, cũng như
cuộc sống văn minh của con người. Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một
ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, trong thu nhập
quốc dân tỷ trọng du lịch ngày càng tăng lên. Du lịch là một ngành dịch vụ. Sản
phẩm du lịch và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của
dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch.
Thứ hai: Hoạt động du lịch là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn những
nhu cầu tinh thần và vật chất cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch.
Hoạt động du lịch khác với hoạt động của các ngành dịch vụ khác ở chỗ:
Hoạt động du lịch chỉ thỏa mãn nhu cầu cho những đối tượng là khách du lịch chứ
hoạt động du lịch không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi đối tượng người dân.
Hoạt động du lịch là nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng hóa đặc thù riêng của khách du
lịch trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ về nghỉ ngơi,
đi lại, ăn, ở, tham quan, vui chơi giải trí, lịch sử, tập quán, thông tin về văn hóa và
các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa
mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người sống ngày càng
phong phú hơn. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, khi bình
quân thu nhập của người dân đã tăng lên không chỉ còn là đủ ăn, đủ mặc thì nhu
cầu được du lịch trở thành không thể thiếu, vì ngoài việc thỏa mãn những nhu cầu
tình cảm và lý trí của con người, du lịch còn là hình thức nghỉ dưỡng tích cực,
nhằm giúp con người tái tạo lại sức lao động.
15
Thứ ba: Hoạt động tiêu dùng và hoạt động cung ứng du lịch đều xảy ra
trong cùng một thời gian và không gian.
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến
tại chỗ...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra
chúng. Trong du lịch, người cung ứng không những phải vận chuyển dịch vụ và
hàng hóa đến cho những khách hàng, mà tự khách du lịch phải đến nơi có những
dịch vụ, hàng hóa. Vì vậy, vai trò của việc truyền bá thông tin, xúc tiến các hoạt
động quảng bá du lịch là hết sức quan trọng, bên cạnh đó họa động quản lý thị
trường du lịch cần có những đặc thù riêng của nó.
Thứ tư: Hoạt động du lịch mang lại nhiều lợi ích thiết thực về chính trị,
kinh tế, xã hội cho địa phương làm du lịch, người làm du lịch.
Tuy nhiên, hiện nay sự chi phối mạnh mẽ nhất với ngành du lịch vẫn là lợi
ích về kinh tế. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, du lịch không
chỉ những đem lại lợi ích về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn
hóa, xã hội... Ở nhiều quốc gia đã đưa ngành du lịch phát triển, trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, mang lại nguồn thu nhập lớn trong
tổng sản phẩm xã hội. Do đó, Hoạt động du lịch không chỉ việc thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng cao của người dân đi du lịch mà còn phải đảm bảo
mang lại những lợi ích khác như: văn hóa, xã hội, lợi ích kinh tế, chính trị, cho
quốc gia có tài nguyên du lịch và chủ thể tham gia hoạt động du lịch.
Thứ năm: Hoạt động du lịch sẽ được phát triển chỉ trong môi trường
hòa bình và ổn định.
Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội. Du
lịch chỉ xuất hiện, phát triển trong điều kiện môi trường hòa bình và quan hệ hữu
nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh sẽ ngăn cản hoạt động về du lịch,
tạo nên những tình trạng mất an ninh, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn
hại rất lớn đến toàn bộ môi trường tự nhiên. Hòa bình lại là đòn bẩy, giúp đẩy
mạnh những hoạt động du lịch. Du lịch sẽ có tác dụng trở lại việc cùng tồn tại
hòa bình. Thông qua những hoạt động du lịch quốc tế, con người thể hiện
16
nguyện vọng của mình chính là được sống, lao động trong môi trường hòa bình
và hữu nghị. Không chỉ có chiến tranh mà cả những biến động chính trị - xã hội
với mức độ nhất định cũng sẽ làm cho hoạt động du lịch nơi đó bị giảm sút một
cách đột ngột, đặc biệt muốn khôi phục lại cần phải có rất nhiều thời gian. Ví
dụ, những vụ khủng bố như: ngày 11/9 tại Hoa Kỳ hay cuộc khủng bố tại Bali -
Indonêxia hoặc sự kiện ‘‘đảo chính’’ ở đất nước Thái Lan... những vụ việc trên
đã làm cho ngành du lịch của các quốc gia này khó khăn, thậm chí có thể rất
nhiều năm mới phục hồi. Không những vậy, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi
trường... cũng là những yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến khách du lịch.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế
Hoạt động du lịch phát triển sẽ kéo theo việc tăng nguồn thu ngân sách
cho các địa phương có hoạt động du lịch, cụ thể là tăng ngân sách từ các khoản
trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc sự quản lý trực tiếp của
các địa phương và còn từ những khoản thuế phải nộp của các tổ chức kinh doanh
du lịch trên địa bàn.
Hoạt động du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Trước hết hoạt động kinh doanh du lịch còn đòi hỏi những hỗ trợ, nỗ lực của
nhiều ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành, là cơ sở cho các ngành khác phát
triển. Đối với những hoạt động sản xuất xã hội, du lịch còn giúp mở ra thị trường
nhằm tiêu thụ hàng hóa. Mặt khác, du lịch phát triển sẽ tạo ra những điều kiện
khác để khách du lịch tìm hiểu được thị trường, thậm chín ký kết hợp đồng về
sản xuất kinh doanh, từ đó giúp tận dụng được những cơ sở vật chất kỹ thuật của
nhiều ngành kinh tế khác.
1.1.3.2. Ý nghĩa về chính trị
Ý nghĩa chính trị của hoạt động du lịch còn được thể hiện ở vai trò như
một nhân tố thúc đẩy hòa bình, hỗ trợ các mối giao lưu quốc tế và giúp mở rộng
sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế còn giúp con người sống ở các khu
vực khác nhau hiểu biết lẫn nhau và xích lại gần nhau. Mỗi năm, hoạt động du
17
lịch tại một địc phương cụ thể sẽ có những chủ đề khác nhau các chủ đề luôn có
sự thay đổi và nó còn hỗ trợ kêu gọi mọi người quý trọng lịch sử, văn hóa và
truyền thống của các địa phương nơi có tài nguyên du lịch, giáo dục lòng mến
khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và
tình hữu nghị giữa các dân tộc.
1.1.3.3. Ý nghĩa về văn hóa, xã hội
Hoạt động du lịch góp phần thay đổi bộ mặt văn hóa - xã hội và giảm quá
trình đô thị hóa của những vùng có hoạt động du lịch. Thông thường tài nguyên
du lịch tự nhiên có ở các điều kiện kinh tế còn khó khăn. Việc khai thác những
tài nguyên du lịch này vào sử dụng phải đầu tư về mọi mặt kinh tế, văn hóa - xã
hội, giao thông, bưu điện,... Do vậy mà việc phát triển tài nguyên du lịch sẽ làm
thay đổi bộ mặt kinh tế - văn hóa - xã hội ở những vùng đó, giảm chênh lệch về
phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong cả nước, đồng thời còn góp
phần làm giảm sự tập trung dân cư.
Hoạt động du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cho
đất nước chủ nhà mà không phải mất tiền.
Về phương diện kinh tế: du lịch còn là phương tiện giúp tuyên truyền,
quảng cáo rất hữu hiệu cho hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua những
khách du du lịch. Khách hàng được làm quen tại chỗ với các mặt hàng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... Một số sản phẩm làm cho du khách hài lòng, về
nước, du khách tuyên truyền cho bạn bè, người thân... và nhiều khi bắt đầu tìm
kiếm các mặt hàng đó ở nước mình và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu các
cơ quan ngoại thương nhập các mặt hàng đó.
Về phương diện xã hội: hoạt động du lịch giúp tuyên truyền, quảng cáo
rất có ích về các thành tựu kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, giới thiệu đặc
trưng riêng về con người, phong tục, tập quán... nơi họ đã đến.
Thông qua hoạt động du lịch con người được thay đổi môi trường, có ấn
tượng và cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò, đồng thời mở mang kiến thức, đáp
ứng lòng ham hiểu biết, do đó góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong
18
mơ ước sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người - khách du lịch.
Trong thời gian đi du lịch, khách thường dùng những dịch vụ, hàng hóa và
thường xuyên tiếp xúc với những dân cư địa phương. Thông qua những cuộc tiếp
xúc đó, văn hóa của cả du khách và cả người bản xứ được trao đổi và nâng cao
hơn . Hoạt động du lịch còn giúp phong phú hơn khả năng thẩm mỹ của con người
khi được tham quan những kho tàng mỹ thuật của một địa phương, một đất nước.
Hoạt động du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và
nâng cao truyền thống của dân tộc. Thông qua các chuyến du lịch du khách
trong nước còn có điều kiện làm quen với những cảnh đẹp, với lịch sử và văn
hóa dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình.
Việc phát triển hoạt động du lịch còn có ý nghĩa to lớn với hoạt động
khai thác, bảo tồn những di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của
những ngành nghề truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường xã
hội, môi trường thiên nhiên.
1.1.3.4. Ý nghĩa về môi trường sinh thái
Tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Du lịch là yếu tố có tác
động kích thích việc khôi phục và tối ưu hóa môi trường bao quanh, bởi chính
môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, hoạt động của con người.
Việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung của du
khách vào những tài nguyên du lịch nhất định đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình
sử dụng tài nguyên du lịch với mục đích du lịch. Lúc này đòi hỏi những chủ thể
kinh doanh du lịch phải tìm kiếm những hình thức bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có quan hệ chặt chẽ. Một mặt
yếu tố xã hội đảm bảo sự phát triển của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ
môi trường tự nhiên khỏi tác động tiêu cực của khách du lịch và phát triển việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ hoạt động du lịch. Như vậy,hoạt động
du lịch và hoạt động bảo vệ môi trường có mối liên quan gần gũi với nhau.
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch đối với chính
19
quyền cấp tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch vô cùng đa dạng, nó luôn đòi hỏi phải có sự quản lý
chặt chẽ của Nhà nước để duy trì và phát triển. Mức độ phát triển của ngành du
lịch phụ thuộc lớn vào quy định pháp luật và những chính sách của Nhà nước
phải phù hợp với điều kiện vàmức độ phát triển của đất nước. Do vậy, vai trò của
quản lý nhà nước đối với du lịch là vấn đế cần phải được đặt lên hàng đầu. Hơn
nữa du lịch ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ trong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp
hiều những khó khăn, thách thức. Vì vậy rất cần có sự định hướng phù hợp hơn
nữa của Nhà nước để ngành du lịch phát triển.
Tóm lại, hoạt động du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần
phải có sự quản lý của Nhà nước bởi vì:
Do còn có những khuyết tật và hạn chế của quá trình hội nhập gây nên.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn đóng vai trò chủ đạo trong điều tiết sự phát triển của
nền kinh tế, thể hiện ở quá trình định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
cũng như đối với ngành du lịch nói riêng trong từng thời kỳ. Nhà nước còn có
vai trò to lớn trong việc điều tiết, can thiệp vào các quan hệ du lịch nhằm đảm
bảo sự ổn định và phát triển bền vững của ngành.
Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch tạo sự thống nhất về tổ chức và
phối hợp những hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế
đối với hoạt động du lịch mới giúp cho hoạt động khai thác những thế mạnh
của mỗi vùng,mỗi địa phương đạt kết quả tốt, phát huy được những lợi thế
của quốc gia trong phát triển du lịch quốc tế.
Hiện nay, ngành du lịch còn là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Nó
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, cần có sự quản lý của
Nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch để điều hòa quan hệ giữa ngành
du lịch với các ngành, các lĩnh vực khác có liên quan.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra cách hiểu khái quát về
20
quản lý nhà nước về hoạt động du lịch như sau: Quản lý nhà nước về kinh tế đối
hoạt động du lịch là sự tác động của nhà nước tới các chủ thể tiến hành hoạt
động du lịch, nhằm mục đích tạo điều kiện cho các hoạt động du lịch phát triển,
đồng thời đạt được những mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra.
1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
trong điều kiện hội nhập quốc tế
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch diễn
ra trong sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế..
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự phức tạp, năng động và cả sự
nhạy cảm. Vì vậy, để định hướng ngành du lịch đòi hỏi phải có một chủ thể
đứng ra tổ chức và điều hành, định hướng chủ thể ấy chính là Nhà nước - vừa có
vai trò quản lý, vừa là có vai trò trong tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành
được tốt chức năng, vai trò của mình, Nhà nước cần phải có công cụ hữu hiệu là
pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,... và sử dụng các công cụ
này để tổ chức và quản lý hoạt động du lịch.
Hai là, hệ thống công cụ của Nhà nước trong quản lý là cơ sở để Nhà
nước tổ chức và quản lý hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay tại Việt Nam, hoạt động du lịch
diễn ra rất phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô.
đòi hỏi sự chia sẻ về nguồn lực, quyền lực, lợi ích, mục tiêu, giá trị và yêu cầu
phải tuân thủ mọi luật chơi chung. Dù vậy, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế
vẫn luôn phải bảo đảm cho hoạt động du lịch ổn định, công bằng và có tính định
hướng rõ rệt, có tính tổ chức cao. Vì vậy, Nhà nước cần phải những công cụ
riêng của mình, đó là việc ban hành các văn bản pháp luật, đề ra những chính
sách, chiến lược mới cũng như đưa ra những quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch... và sử dụng các công cụ này nhằm quản lý lĩnh vực du lịch.
Ba là, quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều
kiện hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có một tổ chức bộ máy Nhà nước, có hiệu
21
lực, hiệu quả và quan trọng hơn nữa chính là có đội ngũ cán bộ quản lý có trình
độ, năng lực thật sự.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc
tế phải điều tiết được thị trường, tạo được những cân đối chung, đặc biệt có thể
ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi
cho lĩnh vực du lịch phát triển. Để thực hiện hiệu quả vai trò này, tổ chức bộ
máy cũng như đội ngũ cán bộ quản lý phải được tổ chức đồng bộ, có hiệu quả,
thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch nhập còn
xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp
luật... trong điều kiện hội nhập quốc tế với tư cách là công cụ quản lý.
Hoạt động du lịch trong quá trình hội nhập rất đa dạng và năng động yêu
cầu một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi lượng du khách hiện nay
đang tăng cao. Trong bối cảnh như vậy, Nhà nước cần có hệ thống công cụ sắc
bén, phù hợp đó là những chính sách, pháp luật hoàn chỉnh không chỉ phù hợp
với điều kiện ở trong nước mà còn phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế.
Đây là sự thách thức lớn đối với Việt Nam.
1.2.3. Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều
kiện hội nhập quốc tế
1.2.3.1. Vai trò định hướng
Nhà nước với vai trò định hướng đã thực hiện những chức năng hoạch
định đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hiện nay, bao gồm các nội dung:
hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch, phân tích và xây dựng các
chính sách du lịch, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị trường,
xây dựng hệ thống luật pháp có liên quan tới du lịch. Xác lập các chương trình,
dự án cụ thể hóa chiến lược, đặc biệt là lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Nhà nước còn thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật về du lịch, đồng thời tổ chức thực hiện những văn bản đó,
nằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, phù hợp cho hoạt động du lịch.
22
Chức năng hoạch định của Nhà nước hiện nay giúp cho chủ thể kinh
doanh du lịch hình thành nên các phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh
phù hợp với điều kiện hiện có. Giúp tạo lập được môi trường kinh doanh cho
phép Nhà nước kiểm soát hoạt động liên quan đến du lịch của các chủ thể kinh
doanh du lịch trên thị trường.
1.2.3.2. Vai trò tổ chức và phối hợp
Nhà nước tạo lập ra bộ máy quản lý nhà nước với hoạt động du lịch đó là
các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch, sử dụng bộ máy này nhằm sử
dụng sức mạnh của tổ chức để thực hiện những vấn đề quản lý nhà nước về kinh
tế đối với hoạt động du lịch, nhằm đưa chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho du
lịch phát triển.
Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế đối với hoạt động du lịch với các cấp trong hệ thống tổ chức quản lý du
lịch của trung ương, địa phương
Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
còn được thể hiện ở sự liên kết, phối hợp giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ có
quan hệ thương mại du lịch với nỗ lực nhằm đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch hiện nay, nhằm đạt các mục tiêu, đảm bảo
thực hiện các cam kết đã ký kết.
Nhà nước còn thực hiện tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và
phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch, hỗ trợ trong việc nghiên cứu ứng
dụng khoa học, công nghệ nhằm khai thác, bảo vệ tài nguyên du lịch hợp lý,
đúng mức, bên cạnh đó không quên vai trò giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc trong hoạt động du lịch.
1.2.3.3. Vai trò điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường
Nhà nước là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh
du lịch, khuyến khích và đảm bảo bằng pháp luật cạnh tranh bình đẳng. Để thực
hiện chức năng này, Nhà nước đã đưa ra những hướng dẫn và cả những kích
thích đối với các chủ thể kinh doanh du lịch hoạt động theo định hướng mà Nhà
23
nước đã đề ra. Bênh cạnh đó, Nhà nước còn phải can thiệp, điều tiết thị trường
du lịch khi thấy cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước hiện nay đã sử dụng những công cụ, biện pháp khác nhau nhằm
điều tiết hoạt động du lịch, và có những xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ.
1.2.3.4. Vai trò giám sát
Nhà nước với vai trò giám sát hoạt động du lịch của mọi chủ thể cũng
như chế độ quản lý của các chủ thể đó, Nhà nước còn có vai trò trong hoạt động
cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
Nhà nước với vai trò giám sát còn phát hiện những lệch lạc, nguy cơ
chệch định hướng mà Nhà nước đã đề ra hoặc vi phạm pháp có liên quan đến du
lịch, từ đó Nhà nước đưa ra những quyết định thích hợp nhằm tăng cường hiệu
quả của quản lý nhà nước về hoạt động du lịch.
Nhà nước còn phải kiểm tra, giám sát, đánh giá hệ thống bộ máy quản lý
du lịch của Nhà nước cũng như không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch.
Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân
lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, việc bảo vệ tài nguyên
du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục
của dân tộc trong hoạt động du lịch.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch của
chính quyền cấp tỉnh
Thực tế hiện nay đã chỉ rõ, trong điều kiện hội nhập quốc tế hoạt động du
lịch có sự quản lý của Nhà nước, rất cần sự quản lý điều hành của Nhà nước nhất
là về mặt kinh tế. Hoạt động du lịch là hoạt động liên ngành, liên vùng và có tính
xã hội hóa cao, nếu để thị trường du lịch Việt Nam tự phát phát triển, thiếu sự
quản lý của Nhà nước hoạt động du lịch sẽ không đi đúng định hướng mà Nhà
nước đã đề ra, thị trường du lịch sẽ bị lũng đoạn, tài nguyên du lịch hiện có sẽ bị
khai thác kiệt quệ, không thể đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Nhiều vấn đề
rất cần được sự điều tiết, quản lý của Nhà nước như đưa ra những quy hoạch
24
tổng thể phát triển du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái, trật tự an toàn xã hội,
liên kết hội nhập, những thỏa thuận đa phương hoặc song phương về tạo điều
kiện đi lại cho du khách,… nếu không có vai trò của Nhà nước, hoạt động du
lịch sẽ không thể ổn định được. Đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế, khu vực
hóa của hoạt động du lịch… Đây là vấn đề thuộc thẩm quyền, chức năng của nhà
nước và cũng là trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển du lịch.
Để thúc đẩy ngành du lịch có thể có sự phát triển nhanh và bền vững, đảm
bảo các mục tiêu về kinh tế - văn hóa - xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, bảo vệ môi trường,... quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch có các nội dung chủ yếu sau:
Một là, tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch mang tính đặc thù của địa phương.
Xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách đã khó, nhưng khó hơn là làm
thế nào để đưa chính sách, pháp luật đi vào đời sống thực tế. Vai trò của chính
sách, pháp luật trong lĩnh vực du lịch mới chỉ đơn thuần là những quy định
khung của Nhà nước, là ý chí của Nhà nước bắt buộc mọi chủ thể phải tuân theo
và thực hiện. Vì vậy, để triển khai chính sách, pháp luật thực tế đi vào cuộc sống
các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước cần phải tổ chức thực hiện nghiêm
chỉnh. Ở các cấp địa phương cần phải tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về du lịch cho cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân
trên địa bàn giúp họ nhận thức đúng đắn, từ đó có hành động đúng trong hoạt
động thực tiễn; đảm bảo sự tuân thủ, thi hành chính sách, pháp luật về du lịch
một cách nghiêm túc. Mặt khác, chính quyền cấp tỉnh phải tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn tỉnh,
xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước không được tùy tiện thay
đổi các chính sách, phải nhanh chóng trong việc xóa bỏ các văn bản pháp luật cũ
trái với các văn bản mới ban hành,cần giảm tối đa sự trùng lặp, chồng chéo trong
nội dung các văn bản pháp luật, gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Bên cạnh đó, để có thể quản lý theo hướng phát triển du lịch trên cơ sở
25
khai thác tiềm năng và lợi thế du lịch của địa phương, chính quyền cấp tỉnh luôn
luôn phải tích cực tìm mọi phương án cải thiện môi trường pháp lý, môi trường
đầu tư và kinh doanh tại địa phương thông qua công tác cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật chung của Nhà nước tại địa phương về phát triển
du lịch phù hợp với tài nguyên du lịch sẵn có ở địa phương. Đồng thời, Chính
quyền cấp tỉnh cần nghiên cứu và ban hành các cơ chế, chính sách thuộc thẩm
quyền ở địa phương phù hợp với những đặc thù riêng có, như chính sách ưu đãi
tiền thuê đất, chính sách khuyến khích đầu tư, thời hạn thuê đất, chính sách ưu
đãi tín dụng,... mục đích tạo điều kiện thuận lợi, sự an toàn, ổn định cho các chủ
thể kinh doanh du lịch khi bỏ vốn đầu .
Tuy nhiên, Chính quyền cấp tỉnh còn lúng túng trong việc ban hành các cơ
chế, chính sách của địa phương vừa phải đảm bảo thông thoáng trên cơ sở sử dụng
nguồn lực của địa phương, bên cạnh đó vừa bảo đảm theo đúng các quy định của
pháp luật và quy định của cấp trên, đồng thời cũng phải luôn đảm bảo tính ổn định
và công bằng, tính nghiêm minh trong quá trình thực thi. Hơn nữa, chính quyền
cấp tỉnh cần thực hiện cải cách hành chính ở địa phương theo hướng chuyên
nghiệp và hiệu quả. Tiếp tục thực hiện mô hình một cửa trong đăng ký đầu tư,
đăng ký kinh doanh... Thực hiện chuẩn hóa, minh bạch các thủ tục hành chính
theo tinh thần tuân thủ pháp luật, công khai, minh bạch, thuận tiện.
Mặt khác, hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch là
một trong những điều kiện mà chính quyền cấp tỉnh cần lưu ý để phát triển du
lịch. Vì vậy, chính quyền cấp tỉnh cần có những chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho
nhà đầu tư tiến hành đầu tư hạ tầng cơ sở du lịch tại các khu, điểm du lịch. Ngoài
ra, chính quyền cấp tỉnh cần bảo đảm tính ổn định về giá cả trong thị trường du
lịch, chính quyền cấp tỉnh cần có chính sách điều tiết hợp lý và hướng các chủ
thể kinh doanh du lịch tham gia thực hiện xã hội hóa du lịch ở địa phương. Để
thực hiện được điều này, chính quyền cấp tỉnh phải sử dụng linh hoạt các công
cụ quản lý nhằm hạn chế tình trạng nâng giá, độc quyền trong hoạt động kinh
doanh du lịch ở địa phương.
26
Hai là, quy hoạch và kế hoạch phát triển du lịch ở địa bàn cần xây dựng
và công khai để giúp các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch định hướng
phát triển.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch cần xây dựng và công
khai là một trong những nội dung quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch của chính quyền cấp tỉnh có tính quyết định đối với sự phát triển du lịch
trên địa bàn. Nó giúp cho các chủ thể kinh doanh du lịch an tâm khi quyết định
đầu tư.
Mục tiêu cuối cùng trong hoạt động kinh doanh du lịch của là lợi nhuận.
Nếu không được định hướng đúng đắn sẽ kém hiệu quả do không phù hợp với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và thực tế phát triển của địa phương, nhất là những
hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại các khu, điểm du lịch,... hoặc
đầu tư xây dựng các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ... Vì thế, chính quyền cấp tỉnh
phải chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng và tăng cường tính công khai, minh
bạch trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của địa phương
mình. Đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế hiện nay ngày càng
sâu, rộng gắn với tiến trình đẩy mạnh thực hiện phát triển đất nước. Có như vậy,
mỗi chủ thể hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch mới có thể phát triển phù
hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển chung của đất nước.
Ba là, chính quyền cấp tỉnh cần sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh trong lĩnh vực du lịch do địa phương mình quản lý.
Cụ thể, cơ chế, chính sách về đổi mới, tổ chức, quản lý, sắp xếp cổ phần
hóa thoái vốn Nhà nước đã được ban hành và bổ sung khá đầy đủ và đồng bộ. Các
DNNN được cơ cấu lại được tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng
thực hiện vai trò, nhiệm vụ lòng cốt trong việc điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô, hiệu
quả hoạt động của DNNN và doanh nghiêp sau cổ phần hóa được nâng lên.
Tuy nhiên, nhiệm vụ này vẫn còn nhiều hạn chế là việc phê duyệt phương
án cơ cấu lại DNNN ở một số bộ, ngành, địa phương còn chậm, chưa hoàn thành
kế hoạch cổ phần hóa thoái vốn theo đúng kế hoạch, còn giữ cổ phần chi phối ở
27
nhiều ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn hoặc giữ cổ phần
chi phối, đặc biệt là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Việc xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng
đất theo quy định của pháp luật trước khi quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp
còn chậm, còn vi phạm. Việc thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ
sở hữu nhà nước tại một số doanh nghiệp chưa hiệu quả.
Bốn là, chính quyền cấp tỉnh cần tạo lập sự gắn kết trong hoạt động du
lịch; giữa địa phương và trung ương trong quản lý nhà nước về du lịch.
Nâng cao tính liên kết là một điều kiện tất yếu để phát triển bền vững
ngành du lịch trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm tính liên ngành,
liên vùng, liên quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp du lịch,
liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ tạo nên một
môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Để đạt được điều này, một
mặt, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa phương phải
thống nhất và luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhau trong
việc tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch; thực hiện nguyên tắc và các cơ chế,
chính sách phát triển du lịch của quốc gia nói chung và ở địa phương nói riêng
nhằm đảm bảo đạt hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, trước yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, để tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du
lịch ở địa phương, chính quyền cấp tỉnh cần làm tốt việc cung cấp thông tin, cập
nhật chính sách mới về du lịch, tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý nhà nước và
cán bộ quản trị doanh nghiệp để giúp họ hiểu rõ về các cam kết, nghĩa vụ của
Nhà nước và của doanh nghiệp theo luật pháp quốc tế và điều kiện của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Chính quyền cấp tỉnh phải là trung tâm gắn kết giữa các doanh nghiệp du
lịch trên địa bàn với thị trường liên vùng, khu vực và trên thế giới, nhất là với
các trung tâm kinh tế lớn. Chính quyền cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ tham gia
hợp tác quốc tế về du lịch theo quy định của pháp luật, góp phần đẩy mạnh liên
kết và hội nhập dịch vụ du lịch với các nước trong khu vực và quốc tế. Chính
28
quyền địa phương cần chủ động làm "đầu nối" thông qua việc tổ chức và thiết
lập các điểm thông tin, lựa chọn và công bố các địa chỉ giao dịch của các cơ
quan, tổ chức và doanh nghiệp có uy tín đang hoạt động tại các trung tâm kinh
tế lớn trong khu vực và trên thế giới nhằm giúp các doanh nghiệp có những
thông tin cần thiết để có thể lựa chọn đối tác liên doanh, liên kết. Đồng thời,
cũng cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ
sở vật chất - kỹ thuật du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch của địa phương thông
qua việc tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức các đoàn công tác kết hợp tham quan
trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác trong nước hoặc nước ngoài...
Năm là, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho hoạt động du lịch.
Cũng như trong các lĩnh vực, ngành nghề khác, chất lượng nguồn nhân
lực trong hoạt động du lịch cũng ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của lĩnh
vực này. Bởi vì, từ cạnh tranh toàn cầu, cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành,
các doanh nghiệp cho đến cạnh tranh từng sản phẩm suy cho cùng là cạnh tranh
bằng trí tuệ của nhà quản lý và chất lượng của nguồn nhân lực. Để hoạt động du
lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương phát triển, việc tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch
cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, những địa phương có nhiều
tiềm năng để phát triển du lịch cần phải có chiến lược, kế hoạch phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, có như vậy mới khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch
góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sáu là, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động du lịch và xử lý
vi phạm trong lĩnh vực du lịch.
Sự phát triển nhanh của du lịch sẽ làm phát sinh các hành vi tiêu cực như
khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du lịch, làm ô nhiễm môi trường
sinh thái, những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hóa của đất
nước, của địa phương... Do đó, chính quyền cấp tỉnh phải chỉ đạo thực hiện
thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động du lịch
29
để phòng ngừa hoặc ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể xảy ra. Để
thực hiện tốt nội dung này, chính quyền cấp tỉnh cần làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và những quy định của tỉnh về đầu tư khai
thác các khu, điểm du lịch trên địa bàn; thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo
đăng ký kinh doanh, nhất là những hoạt động kinh doanh có điều kiện như: kinh
doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành,...; đồng thời cần xử lý nghiêm mọi hành vi vi
phạm pháp luật về du lịch trên địa bàn.
30
Tiểu kết chương 1
Pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch là đối
tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau như xã hội, pháp lý. Dưới góc
độ pháp lý Pháp luật về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
được ghi nhận trong công ước quốc tế cũng như trong hệ thống pháp luật quốc
gia. Pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch là việc thực
hiện các biện pháp và điều kiện cần thiết để bảo đảm cho hoạt động du lịch được
đi đúng hướng trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
Trên cơ sở việc nghiên cứu vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về kinh tế
đối với hoạt động du lịch và pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch, luận văn đã nghiên cứu và làm rõ nội dung pháp luật quản lý nhà
nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch và vai trò của pháp luật về quản lý nhà
nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch. Qua đó có cái nhìn bao quát về những
quy định pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. Tình hình hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện
hội nhập quốc tế giai đoạn 2014 - 2018
2.1.1. Điều kiện, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh Ninh Bình tác động đến
hoạt động du lịch
*Giao thông:
Đường bộ gồm có quốc lộ 1A, 10, 45, 12B với tổng chiều dài trên 110km;
tỉnh lộ gồm 19 tuyến: 477, 477B, 477C, 478, 478B, 479, 479C, 480, 480B, 480C,
480D, 480E, 481, 481D, 481E, 481B; huyện lộ dài hơn 190km và đường giao thông
nông thôn được cứng hóa 84% với 1.338 km.
Hệ thống đường thủy gồm 22 tuyến sông với tổng chiều dài gần 364,3 km.
Có các cảng là cảng Ninh Bình, cảng Ninh Phúc và cảng ICD...
Tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa bàn tỉnh có chiều dài 19 km với 4 ga (ga
Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao), thuận lợi trong vận chuyển
hành khách và hàng hóa.
*Hệ thống điện:
Mạng lưới điện được xây dựng tương đối đều trên địa bàn cả tỉnh, đến được
hết các xã, tổng chiều dài các loại đường dây trên 770km. Đã xây dựng trạm biến áp
trung gian 500 KVA; trạm biến áp 220KVA: có 3 trạm tổng công suất 375.000
KVA; trạm biến áp 110 KVA; có 6 trạm tổng công suất 325.000 KVA...
*Hệ thống hạ tầng thương mại, du lịch:
Về thương mại: Toàn tỉnh có 107 chợ, trong đó có 01 chợ loại I; 05 chợ loại
II; 03 chợ đầu mối nông sản và 98 chợ loại III và có trên 20.000 cơ sở kinh doanh
thương mại.
2.1.1.1. Cơ sở hạ tầng dịch vụ
32
Về dịch vụ du lịch: Ninh Bình có gần 100 khách sạn và hàng nghìn nhà hàng
lớn nhỏ và một số khu nghỉ dưỡng sinh thái như Cúc Phương, Emeralda Ninh
Bình,...
*Hệ thống hạ tầng viễn thông:
Hiện tại mạng lưới bưu điện Ninh Bình gồm 40 bưu cục (02 bưu điện trung
tâm, 07 bưu điện huyện và 31 bưu điện khu vực), với trên 1,1 triệu thuê bao di
động, trên 60 nghìn thuê bao internet, trong đó 100% các cơ quan Nhà nước được
kết nối internet băng thông rộng. Các tổng đài kỹ thuật số đã được trang bị ở tất cả
các trung tâm huyện, thành phố, thị xã...; 100% số xã đã có điện thoại.
2.1.1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội:
*Tiềm năng du lịch, văn hóa
Ninh Bình được thiên nhiên ban tặng những cảnh quan vô cùng đặc sắc và đa
dạng, là vùng đất ken dày các di tích lịch sử. Đến nay toàn tỉnh có hơn 1.500 di tích,
trong đó có 80 di tích đã được xếp hạng quốc gia.
Ninh Bình cũng có nhiều lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá làng
quê Việt Nam được kế thừa và phát triển từ phong tục tập quán của nền văn minh lúa
nước, văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn đã trải qua hàng ngàn năm về trước.
Với tài nguyên phong phú như vậy, ở Ninh Bình có thể tổ chức và phát triển
du lịch với nhiều sản phẩm du lịch thuộc các loại hình sau:
Du lịch văn hoá lịch sử
Du lịch lễ hội tâm linh
Du lịch thể thao leo núi , làng nghề
Du lịch tắm ngâm , chữa bệnh
Du lịch cuối tuần giải trí câu cá
Du khảo làng quê
Du lịch sinh thái
Loại hình du lịch nào cũng hấp dẫn và có thể thu hút khách đến thăm quan
dài ngày. Du lịch một vùng non nước Ninh Bình là đến nơi một không gian sinh vật
cảnh thiên nhiên kỳ thú. Đặc biệt là vườn quốc gia Cúc Phương và khu bảo tồn
thiên nhiên đất ngập nước Vân Long. . .
33
Với rất nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh nhưng đã
chia ra làm 5 khu du lịch trọng điểm sau đây:
- Khu du lịch vườn quốc gia Cúc Phương: Khu rừng nguyên sinh có diện tích
tự nhiên rộng lớn 22 ngàn ha trên địa bàn 3 tỉnh là Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh
Hoá. Theo những kết luận đã được các nhà khoa học dày công nghiên cứu qua
nhiều năm: Rừng Cúc phương còn giữ được nguyên vẹn một khu rừng nhiệt đới,
với sự hiện diện phong phú của các loài động thực vật tiêu biểu.
Đến Cúc Phương là đến với vườn bách thảo khổng lồ, tổng số thống kê được
ở trong bảng danh mục thực vật cho đến thời điểm này là 1944 loài thuộc 912 chi,
219 họ, 86 bộ của 7 ngành gồm ngành rêu, ngành quyết, ngành thông đất, ngành cỏ
tháp bút, dương xỉ, hạt trần, hạt kín …So với số loài ở Việt nam số loài thực vật ở
Cúc Phương chiếm 17,27%. Động vật Cúc Phương có tới 255 loài động vật có
xương sống. Trong đó, chim là 140 loài , thú 64 loài, bò sát 36 loài, lưỡng thể 17
loài và một số loài cá. Đó là chưa kể đến côn trùng và nhiều loại khác. Du khách
còn được đến với những địa danh mà mới được nghe đã thấy gợi cảm như hoà
quyện với thiên nhiên như: Động Trăng Khuyết, động Vui Xuân, động Người
xưa… và xin được “Ngủ lại cùng cỏ cây hoa lá”…
- Khu Tam Cốc - Bích Động - Tràng An - Cố đô Hoa Lư: Đây là quần thể
hang động và các di tích lịch sử - văn hóa rất phong phú, độc đáo. Cụ thể là khu du
lịch sinh thái Tràng An - được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới; Khu
cố đô Hoa Lư; Khu hang động Tam Cốc - Bích Động; tuyến Linh Cốc - Hải Nham
và Thạch Bích - Thung Nắng.
- Khu du lịch Kênh Gà - Vân Trình bao gồm các khu du lịch và danh lam
thắng cảnh sau:
Suối nước nóng Kênh Gà
Động Vân Trình
Khu du lịch sinh thái Vân Long
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng
Đền Nguyễn Minh Không
34
Chùa Địch Lộng
Trong đó đặc biệt là Suối nước nóng Kênh Gà luôn sôi ở nhiệt độ là 53oC ,
các nhà khoa học đã qua khảo sát cho biết dòng khoáng này là một tài nguyên có
nhiều canxi và muối đicacbonat có thể đóng chai nước khoáng và ngâm tắm để
chữa bệnh hiệu quả. Vân Trình là một trong những hang động đẹp và lớn nhất ở nơi
đây, trải qua bao thăng trầm và mưa nắng, thiên nhiên đã tạo nên những bức tranh
cổ tích trong lòng hang và con người cảm nhận vẻ đẹp ấy bằng những liên tưởng
xúc động lãng mạn của riêng mình mà đặt tên cho những bức tranh được khắc tạo
bởi bàn tay vô giá của thiên nhiên đó là hình ảnh tượng phật, tiên nữ, mâm xôi, hoa
quả, con vật… muôn hình vạn dạng sinh động.
Vân Long là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất đồng bằng Bắc
Bộ , Vân Long có nhiều cảnh đẹp và độ đa dạng sinh học cao nên đã trở thành khu
du lịch sinh thái của tỉnh Ninh Bình. Với diện tích trải dài trên 7 xã của huyện Gia
Viễn, với 1643 ha đất ngập nước có núi đá vôi tạo thành một vùng non nước hữu
tình, có nhiều hanh động đẹp và có giá trị du lịch như: Hang vồng, Hang bóng các
hang có nước ngầm chảy qua tạo thành hệ thống xuyên thuỷ động xen lẫn những
thung lũng. Chính vì thế nên vùng này đựoc ví như “Vịnh Hạ Long không song”.
Khu du lịch sinh thái Vân Long là một quần thể núi đá hang động với núi Quản Bút,
núi Nghiên, núi Hóm Sách và đặc biệt là có hai dãy núi chạy song song là Hoàng
Quyển và Mèo Cào làm nên bức tường thành thiên nhiên tuyệt đẹp. Theo thống kê ở
đây có gần 32 hang động lớn nhỏ với nhiều nhũ đá lấp lánh mang nhiều hình thù kỳ
thú. Tại đây có năm có 5 hồ và đầm lưu giữ gần như nguyên vẹn những loài thuỷ
sinh như rong đuôi Chó, lá Bàn Trang, Năn Lác, Cà Cuống, Ba Ba… Trên núi là
nơi sinh sống của loài Voọc quần đùi trắng, khỉ vàng, đại bàng, xâm cầm đen, cò,
sít, le le, các loài chim… và nhiều loại gỗ quý như Lim, Trác, Sến…
Chùa Địch Lộng bao gồm hang và chùa Địch Lộng, được biết tới bởi thắng
cảnh đẹp thứ 3 trời Nam “Nam thiên đệ tam động”. Du khách từ Hà Nội về thăm
Ninh Bình qua Cầu Khúât rẽ phải là đến Địch Lộng tuyệt đẹp với 2 hang Sáng và
hang Tối. Hang Sáng thờ Phật, trên vòm hang nhiều nhũ đá lấp lánh như voi chầu,
35
hổ phục, sư tử nằm… Hang Tối trông như một cung điện có ngai vàng của Vua,
rồng vàng, cây vàng, cây bạc… giữa hang nhũ đá thắt lại tạo thành cửa gió vi vu
như tiếng sáo thổi, chính vì vậy nơi đây được đặt tên là Địch Lộng (Sáo trời).
- Khu du lịch Phát Diệm thuộc huyện Kim Sơn bao gồm các địa điểm sau:
Nhà thờ đá Phát Diệm
Chùa Đồng Đắc
Đền thờ Nguyễn Công Trứ
Trong đó đặc biệt là nhà thờ đá Phát Diệm được xây dựng chủ yếu bằng đá ,
với kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc đặc biệt tạo nên một nét riêng biệt của Phát
Diệm với các nhà thờ khác ở miền Bắc và Việt Nam. Phát Diệm là điểm đến lý thú
và hấp dẫn cho du khách muốn khám phá nét cổ kính của nghệ thuật chạm khắc và
kiến trúc cổ, hàng năm thu hút rất nhiều khách đến tham quan.
- Quần thể du lịch tâm linh chùa Bái Đính: Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam
Á với rất nhiều các kỷ lục, hàng năm đón hàng triệu lượt khách trong nước và
ngoài nước.
2.1.1.3. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, nằm ở vị trí
cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông Hồng và miền Bắc, nơi có nhiều
danh lam thắng cảnh gắn với vùng đất là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X với
nhiều di tích lịch sử. Trong quy hoạch phát triển vùng kinh tế duyên hải Bắc Bộ,
Ninh Bình được ưu tiên phát triển thành một trung tâm du lịch. Tỉnh phấn đấu
trở thành thành phố du lịch.
Ninh Bình cùng với Hạ Long là hai đỉnh cạnh đáy của tam giác châu thổ
sông Hồng, với địa hình được các biến đổi địa chất theo thời gian và phù sa bồi
đắp tạo cho Ninh Bình một "Hạ Long trên cạn" với vô số các hang
động, đầm hồ, núi ngập nước có giá trị phát triển du lịch. Ninh Bình hội tụ đầy
đủ các yếu tố của một Việt Nam thu nhỏ: có rừng, núi, sông, biển với các khu
bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu du lịch
quốc gia.
36
Ninh Bình là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch văn hóa vì đây từng là kinh
đô của Việt Nam ở thế kỷ X, nơi phát tích ba triều đại Đinh - Lê - Lý mà bằng
chứng để lại là hàng loạt các đền chùa, đình đài, di tích lịch sử. Trong kháng
chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, chiến khu
Quỳnh Lưu, hành cung Vũ Lâm thời Trần và là địa bàn trọng yếu của chiến dịch
Hà Nam Ninh lịch sử.
Ngoài ra, Ninh Bình có lợi thế về địa lý: cửa ngõ miền Bắc, nằm trên hệ
thống giao thông xuyên Việt với nhiều dự án cao tốc được triển khai. Sự phát
triển du lịch Ninh Bình nằm trong tổng thể phát triển du lịch của Việt Nam đã
hình thành một tứ giác tăng trưởng du lịch: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh -
Ninh Bình qua quốc lộ 1A, quốc lộ 10 và các sân bay Cát Bi, Nội Bài, hệ thống
cảng biển, cảng sông. Thủ đô Hà Nội là một trong những đầu mối của du lịch
Việt Nam. Ninh Bình có ưu thế rõ rệt về không gian và thời gian của vùng phụ
cận Hà Nội nên không bị tính mùa vụ trong du lịch chi phối. Sức ép đô thị mạnh
mẽ của Hà Nội và các tỉnh châu thổ sông Hồng cũng tạo cho Ninh Bình một lợi
thế to lớn phát triển du lịch cuối tuần.
Lễ hội
Ninh Bình là một trong những địa phương còn lưu giữ nhiều nhất nét văn
hoá làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, với 76 lễ hội truyền thống và nhiều nếp nhà
cổ đang được gìn giữ và phát triển. Những lễ hội lớn như lễ hội Cố đô Hoa Lư, lễ
hội đền Thái Vi, lễ hội đức Thánh Nguyễn, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội Báo Bản
làng Nộn Khê, hội đền Dâu… Các lễ hội văn hóa ở Ninh Bình chủ yếu diễn ra ở
mùa xuân, trừ số ít các lễ hội tưởng niệm ngày mất của các vị danh nhân.
Đến với Ninh Bình, du khách không chỉ được tham quan, vãn cảnh thiên
nhiên tươi đẹp mà còn được hòa mình vào không khí của các lễ hội vừa trang
nghiêm mà cũng rất sôi động. Các lễ hội tại Ninh Bình thường diễn ra vào mùa
xuân nhằm mục đích tôn vinh, tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc. Đây sẽ là một
trải nghiệm hấp dẫn cho các du khách khi du lịch Ninh Bình vào mùa lễ hội.
37
- Lễ hội Chùa Bái Đính: Chùa Bái Đính là một công trình lớn, đồ sộ nhất
ở Ninh Bình với nhiều kỷ lục được công nhận tầm cỡ quốc gia và Đông Nam Á.
Chùa có diện tích rộng với nhiều hạng mục như khu chùa Bái Đính cổ tự, Điện
Tam Thế, Bảo Tháp, điện Quán Thế Âm, tháp Chuông,… thu hút khách du lịch
từ nhiều nơi.
- Lễ hội đền Thái Vi: Lễ hội đền Thái Vi là một lễ hội lớn thuộc xã Văn
Lâm, thường được tổ chức từ 14 đến 16 tháng 3 âm lịch nhằm mục đích thờ
cúng vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông
và Hiển Từ Hoàng Thái Hậu, trong đó, người đặc biệt nhất là vua Trần Thái
Tông - người đã khai hoang, lập ấp, chiêu dân để xây dựng nên căn cứ địa Văn
Lâm cho lần chống quân Nguyên Mông lần hai.Lễ hội đền Thái Vi được tổ chức
3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão Dậu với quy mô vô cùng lớn. Đây là
lễ hội làng tổng, từ xa xưa tất cả các làng của tổng Vũ Lâm đều tổ chức lễ hội
này, các làng luôn phiên nhau cùng rước kiệu thánh về đình Các để tế lễ.Phần lễ
bao gồm có nghi thức rước kiệu hoành tráng với đoàn người cầm cờ, gióng
trống, theo sau là những đoàn người khiêng kiệu bát cống, bên trên có đặt bài vị
của các vị vua Trần, Hoàng Hậu, công chúa và có bày biện hương hoa lễ vật, có
lọng che. Tiếp đến là kiệu khiêng những hương hoa, xôi thịt, theo sau cùng là
đoàn tế lễ. Nghi thức tế lễ được diễn ra ngay trên sân trước đền Thái Vi với
nhiều thủ tục, hình thức tôn nghiêm nhằm này tỏ sự kính trọng. Phần hội là
những hoạt động vui chơi giải trí, các trò chơi dân gian như múa rồng, múa lân,
đánh cờ người, đua thuyền hay đấu vật,…
Lễ hội truyền thống Cố Đô Hoa Lư: Lễ hội Cố Đô Hoa Lư hay còn gọi là
lễ hội Trường Yên là một lễ hội truyền thống được tổ chức ngay tại Cố Đô Hoa
Lư. Lễ hội này được tổ chức thường niên vào ngày mồng 6 đến mồng 8 tháng 3
âm lịch.
Lễ rước bài vị của vua Lê, vua Đinh: được diễn ra hoành tránh với đội
ngũ rước lễ và đoàn kèn trống âm vang. Đại lễ gồm có lễ rước nước, lễ dâng
hương, lễ tưởng niệm và lễ hội thả hoa đăng. Phần hội luôn bao gồm những trò
38
chơi dân gian thú vị, thu hút nhiều người dân địa phương cũng như khách du lịch
đến tham gia.
Lễ hội Tràng An: Lễ hội Tràng An thường được diễn ra vào ngày 18 tháng
3 âm lịch, đây là một lễ hội truyền thống nhằm tôn vinh, quảng bá, mở rộng du
lịch Tràng An ra tầm cỡ thế giới. Lễ hội truyền thống Tràng An mở ra để tưởng
nhớ công lao của Đức thánh Quý Minh Đại Vương, người đã có công xây dựng
và bảo vệ tổ quốc dân tộc. Trong những ngày lễ hội trọng đại, người dân nơi đây
tụ hội về để tiến hành các đại lễ dâng hương, rước kiệu nhằm cầu cho một năm
mới mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội truyền thống Tràng
An kết hợp với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp hứa hẹn mang lại cho du khách
những trải nghiệm vô cùng tuyệt vời. Đến Tràng An vào ngày thường đã bị mê
đắm bởi cảnh quan nơi đây, nếu đến như đến vào mùa lễ hội thì lại càng dễ khiến
du khách say ngây ngất.
Lễ hội Giáng sinh tại Nhà thờ đá Phát Diệm: Nhà thờ đá Phát Diệm được
coi như là kinh đô Công giáo của Việt Nam. Hàng năm, các giáo xứ đều tấp nập
mở lễ hội Giáng sinh để mừng ngày Chúa Jesu ra đời. Trước Giáng sinh mấy
ngày, tất cả mọi người đều hào hứng chuẩn bị trang hoàng lại thánh đường.
Xung quanh là những dãy đèn lồng trải dài dọc theo các hành lang lối đi bằng đá
cùng với các bức tranh mô tả lại cuộc đời Chúa Jesu, các vị giáo xứ cũng đặt lại
mô hình hang đá tượng trưng cho nơi Chúa hạ phàm. Sân khấu được dàn dựng
ngay trong khuôn viên nhà thờ, mọi người tranh thủ tập luyện các tiết mục văn
nghệ, hát thánh ca nhằm phục vụ du khách.
- Lễ hội chùa Bái Đính (Gia Viễn): bắt đầu ngày 6/1 âm lịch đến hết
tháng 3 hàng năm, phần lễ tổ chức dâng hương, tưởng nhớ các các vị danh nhân
như Lý Quốc Sư, Đinh Bộ Lĩnh, thần Cao Sơn, bà chúa Thượng Ngàn và tín
ngưỡng thờ Phật. Phần hội diễn ra sôi động với các trò chơi dân gian.
Bên cạnh đó, Ninh Bình còn rất nhiều Lễ Hội như: Lễ hội làng Yên Vệ; Lễ
hội đền Năn - chùa Quảng Thượng - đền núi Hầu; Lễ hội báo bản làng Nộn Khê;
Lễ hội đền Áp Lãng - cửa Thần Phù; Lễ hội đền La; Lễ hội chùa Địch Lộng (Gia
39
Viễn): ; Lễ hội đền Quảng Phúc; Lễ hội đền Thái Vi (Hoa Lư); Lễ hội đền Trần
(Tràng An) và đền Quý Minh Đại Vương (Ninh Nhất - thành phố Ninh Bình) suy
tôn thần Quý Minh trấn cửa ngõ phía nam kinh đô Hoa Lư; Hội đền Dâu; Hội Yên
Cư; Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ (Kim Sơn); Lễ hội Noel tại giáo xứ Phát Diệm.
Ẩm thực Ninh Bình
Đến với Ninh Bình, du khách không chỉ hòa nhập với phòng cảnh thiên
nhiên hùng vĩ của đất trời nơi đây mà còn được thưởng thức các món đặc sản
đến từ các vùng quê của Ninh Bình.
Cơm cháy, tái dê và miến lươn là ba món đặc sản nổi tiếng ở Ninh Bình.
Riêng món miến lươn từ lâu nhiều người đã biết đến cửa hàng bà Phấn. Nghề
làm miến lươn của gia đình đã trải qua ba đời. Vùng đất Hoa Lư có lợi thế nhiều
núi đá vôi nên việc nuôi thả dê cũng có nhiều thuận lợi. Muốn có món tái dê
“nức tiếng” phải nắm được kỹ thuật chế biến lông dê, thui vàng, đều, mổ lấy thịt,
rửa nước trong, treo lên cho ráo.
Nem Yên Mạc được truyền lại từ đời nào không rõ, nhưng những người
sành ăn ở đây đã biết đến từ lâu. Với rượu nếp Yên Lâm, nem Yên Mạc đã tạo
nên cái duyên “bầu rượu, nắm nem” đi vào thứ ẩm thực của nhiều thế hệ ông
cha. Nem Yên Mạc sau khi làm, có thể ăn ngay và để khoảng dăm ngày sau mở
ra sắc vẫn hồng, hương vị vẫn thơm, ăn vẫn ngọt. Nem Yên Mạc gói bằng lá
chuối, nhưng không bó chặt, bên trong được lót bằng lớp lá ổi tàu. Dù ăn ngay
hay để lâu, khi gỡ nem ra, vẫn rời, tơi, cho lên đĩa, gắp từng dúm nhỏ, lấy lá ổi
cuộn lại chấm với nước mắm, pha chút chanh, tỏi, ớt hoặc hạt tiêu thì người ăn
sẽ cảm nhận đủ các dư vị ngọt, cay, thơm.
Đến Ninh Bình, vào khách sạn hoặc các cửa hàng ăn uống, du khách đều
có thể thưởng thức món cơm cháy. Cơm cháy được làm từ cơm đã nấu chín, dàn
mỏng ra thành hình tròn, để cho nguội và khô, rồi bỏ vào chảo dầu rán cho đến
khi giòn vàng lấy ra bẻ thành từng tảng nhỏ để vào bát to.
Thịt bò thăn thái lát, tim cật lợn thái mỏng, ướp gia vị cùng với cà chua,
cà rốt, hành tây, nấm hương trộn đều, xào cho chín, rồi đổ vào bát cơm cháy.
40
Cơm cháy kêu xèo xèo, bốc khói, toả ra mùi thơm. Khi ăn cơm cháy giòn tơi,
chứa nhiều hương vị của món ăn thập cẩm nóng sốt, đậm đà, không bao giờ
quên được.
Mắm Tép Gia Viễn: chịu nhiều gian khó bởi là mảnh đất thuộc vùng
chiêm trũng, nhưng bù lại, Gia Viễn lại được thiên nhiên ưu đãi cho thứ thủy sản
nước ngọt đặc biệt mà không phải vùng, miền nào cũng có là tép riu. Bao đời
nay, người dân nơi đây đúc rút thành những kinh nghiệm quý để chế biến thành
thứ thực phẩm ngon nức tiếng xa, gần là đặc sản mắm tép Gia Viễn Ninh Bình.
Rượu Lai Thành: Kim Sơn có rất nhiều làng nghề chuyên nấu rượu như
Phát Diệm, Hòa Lạc, Ứng Luật… nhưng nổi tiếng nhất vẫn là làng nghề nấu
rượu tại xã Lai Thành. Tại đây, rượu được chưng cất từ gạo nếp, men thuốc bắc,
nguồn nước giếng khơi tự nhiên, sản xuất theo bí quyết của người dân các làng
nghề tại địa phương. Rượu thường có nồng độ cao, trong suốt, bọt tăm rượu càng
to thì độ rượu càng cao. Khi nấu rượu, gạo nếp không cần phải xay trắng quá, chỉ
cần xay lứt. Ngâm gạo vài giờ trước khi nấu thành cơm rượu. Cơm rượu sau khi
nấu xong được dàn ra nia hoặc nong lớn khoảng một giờ. Men rượu được giã
nhỏ từ loại men của 36 vị thuốc bắc gia truyền của người dân nơi đây. Sau đó,
men được xếp lần lượt vào thùng kín để rượu được lên men đều. Giai đoạn quan
trọng nhất chính là ủ rượu trong điều kiện thời tiết, môi trường khác nhau. Đặc
điểm nguồn nước ủ rượu và nấu rượu cũng là nhân tố quan trọng quyết định độ
ngon của rượu. Ở Lai Thành có vài tộc họ chuyên làm men rượu với những bí
quyết riêng, nên men của họ dù có để hàng năm vẫn thơm và khô, không biến
chất. Rượu Lai Thành càng để lâu càng “vào hơi”, uống càng ngon, càng chắc.
Khi nồi rượu đã vào đoạn chưng cất, dù ở cách xa đến vài trăm mét, vẫn không
thể giấu nổi mùi thơm, cay lan nhẹ, bay xa, tạo cảm giác lâng lâng, man mác.
Làng nghề truyền thống
Ninh Bình là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, lại có nhiều
ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Theo thống kê của Sở Công thương, hiện toàn
tỉnh có 76 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận đạt tiêu chí. Có
41
những làng nghề phát triển hàng trăm năm nay như: Làng nghề thêu ren Ninh
Hải, chế tác đá mỹ nghệ Ninh Vân, các làng nghề cói Kim Sơn... Các làng nghề
sẽ là điểm đến của du khách để tìm hiểu các sản phẩm tinh xảo được chế tác
khéo léo bằng thủ công gắn với lịch sử của các làng nghề, đồng thời hỗ trợ để
nâng cao giá trị các tuyến, tour du lịch của tỉnh.
Trên địa bàn Ninh Bình hiện có 75 làng nghề được UBND tỉnh công
nhận, trong đó có 4 làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; 59 làng
nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; 11 làng nghề kinh doanh sinh vật cảnh và
1 làng nghề nề xây dựng.
Các làng nghề sau khi được công nhận vẫn tiếp tục phát huy tiềm năng,
không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều làng nghề
truyền thống đã khẳng định được vị thế trên thị trường và đang phát triển mạnh
như: Làng nghề chế tác đá mỹ nghệ, trồng đào, thêu ren, gỗ mỹ nghệ.
Những năm qua tỉnh Ninh Bình có nhiều chính sách hỗ trợ. Tiêu biểu là
Nghị quyết 04 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Kế hoạch số 18 của UBND tỉnh
về đẩy mạnh phát triển, trồng, chế biến cói; thêu ren và chế tác đá mỹ nghệ và
Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy về phát triển Du lịch đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030 đã tạo động lực thúc đẩy để các nghề tiếp tục phát triển thích ứng
với cơ chế thị trường mới.
2.1.2. Hoạt động du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế
giai đoạn 2014-2018
- Về nhận thức, tổ chức quản lý:
- Hoạt động du lịch, dịch vụ từng bước được tổ chức, quản lý khoa học
theo hướng bền vững; an ninh trật tự, vệ sinh môi trường được đảm bảo. Bên
cạnh đó, công tác quảng bá xúc tiến du lịch ngày càng được chú trọng, luôn đổi
mới về hình thức và nội dung, góp phần tích cực nâng cao hình ảnh, xây dựng
thương hiệu, thu hút ngày càng đông khách du lịch đến Ninh Bình.
- Tuy nhiên, Chính quyền cấp tỉnh ở Ninh Bình chưa thực sự nhận thức
đầy đủ vai trò, vị trí quan trọng của ngành du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội
42
khi tỉnh Ninh Bình có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh.
Phương pháp tổ chức, quản lý hoạt động du lịch và đầu tư phát triển
ngành một số nơi trên địa bàn tỉnh Ninh Bình còn thiếu đồng bộ như: thành phố
Ninh Bình chưa quy hoạch hoàn chỉnh để trở thành trung tâm với các hạ tầng
nhà để xe, nhà hàng, khách sạn. Trong đó đặc biệt là trình độ quản lý, chất lượng
nguồn nhân lực trình độ cao, môi trường văn hóa và văn hóa kinh doanh.
• Về khách du lịch:
Lượng du khách đến Ninh Bình tăng trưởng bình quân 14%/năm. Riêng
năm 2018, Ninh Bình đón 7,4 triệu lượt khách, tăng 4,6% so với năm 2017;
trong đó, khách quốc tế là 876.000 lượt, tăng 2,1% so với năm 2017, doanh thu
đạt 3,2 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với năm 2017. Đưa doanh thu ngành tăng
từ 60,7 tỷ đồng năm 2014 lên doanh thu ước đạt 3.200 tỷ đồng tăng 19,2% so
với năm 2017 và trở thành ngành mũi nhọn. Quý 1/2019, toàn tỉnh đón gần 3,5
triệu lượt khách du lịch; trong đó khách quốc tế là 225.000 lượt, tăng 2,5% so
với cùng kỳ năm 2018, doanh thu đạt hơn 1,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với
cùng kỳ năm 2018.
Năm 2019, tỉnh Ninh Bình phấn đấu đón 7,5 triệu lượt khách, doanh thu ước
đạt trên 3,5 nghìn tỷ đồng. Đây là những con số ấn tượng ghi nhận sự phát triển
đáng khích lệ của du lịch Ninh Bình từ sau thành công của Đại lễ Vesak 2014.
Để có được kết quả trên, trong những năm qua, ngành du lịch Ninh Bình
đã đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng các cơ sở dịch vụ thương
mại, nhà hàng, khách sạn, đổi mới các tuyến du lịch, loại hình du lịch đa dạng…,
tạo nên diện mạo mới và có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế
và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tỉnh Ninh Bình.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Thời gian tới, cùng với việc nâng cao chất lượng các dịch vụ đi kèm,
doanh nghiệp đang nỗ lực đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để “níu chân” du
khách ở lại. Hiện tỉnh Ninh Bình có 583 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 46
khách sạn từ 1-2 sao, 13 khách sạn từ 3 sao trở lên và tương đương.
43
Việc phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn sẽ góp phần
quan trọng đưa kinh tế tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững, đồng thời góp
phần đưa hình ảnh và vị thế của Ninh Bình vươn xa, để lại ấn tượng đẹp trong
lòng bạn bè trong nước và quốc tế khi về với Ninh Bình.
- Về lao động ngành du lịch:
Giai đoạn 2014 - 2018 số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch
đều tăng khá. Năm 2018 toàn tỉnh có gần 18.000 lao động, gấp hơn 2 lần so với
năm 2014. Trong đó, số lao động do các cơ quan quản lý ngành trực tiếp quản lý
khoảng 1.900 người, với tỷ lệ lao động qua đào tạo là trên 68%, (số lao động có
trình độ đại học và cao đẳng khoảng chiếm 11%).
Tuy nhiên, thực tế số lượng lao động du lịch qua đào tạo, có trình độ
vẫn còn ít, lao động chưa qua đào tạo còn nhiều. Các ngành, các địa phương mới
chỉ quan tâm đến đào tạo, nâng cao chất lượng lao động trực tiếp, việc đào tạo
lao động gián tiếp còn bỏ ngỏ. Lao động du lịch của tỉnh nhiều nơi còn thiếu
chuyên nghiệp, yếu về kỹ năng giao tiếp, tinh thần, thái độ phục vụ; lao động có
trình độ ngoại ngữ để giao tiếp với khách du lịch nước ngoài hầu như không có.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn 2014 – 2018
2.2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật, biện pháp liên
quan của Nhà nước
2.2.1.1 Triển khai phổ biến các chính sách, pháp luật của các cơ quan trung
ương liên quan đến du lịch
Luật Du lịch đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt ban
hành thay thế vào năm 2017 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số
168/2017/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch... Luật
Du lịch ra đời có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển du lịch trong quá
trình hội nhập. Những quy định trong Luật Du lịch về cơ bản đã tiếp cận được
với Luật Du lịch của nhiều nước trên thế giới, tạo nên những nền tảng vững chắc
để thu hút các doanh nghiệp du lịch nước ngoài đầu tư, hợp tác kinh doanh với
44
Việt Nam, đồng thời thu hút ngày càng nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam.
Triển khai phổ biến các chính sách, pháp luật của các cơ quan Trung ương
liên quan đến du lịch mang lại hiệu quả tích cực trong việc đổi mới mô hình
quản lý hoạt động du lịch, nâng cao chất lượng hoạt động du lịch tại tỉnh Ninh
Bình, nâng cao tính cạnh tranh và tạo sự đột phá trong hoạt động du lịch. Chất
lượng dịch vụ du lịch lữ hành, lưu trú, hướng dẫn du lịch... trên địa bàn tỉnh
được nâng cao. Khuyến khích phát triển những sản phẩm du lịch có chất lượng,
tập trung huy động các nguồn lực đầu tư hạ tầng thiết yếu vào các khu du lịch
của tỉnh, đẩy mạnh thu hút các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư, khai
thác và phát triển du lịch, từ đó sẽ đa dạng hóa các dịch vụ du lịch nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, góp phần đưa du lịch ngày càng phát
triển, là một trong những khâu đột phá theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI đã đề ra.
2.2.1.2. Phối hợp thực hiện và giám sát các chương trình, dự án phát triển du
lịch do các cơ quan trung ương thực hiện
Tiếp thu, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển du lịch, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã cụ thể hóa và chỉ
đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp các ngành và địa phương thông
qua nhiều hình thức.
Những năm qua, tỉnh Ninh Bình đã chú trọng phối hợp thực hiện và giám
sát các chương trình, dự án phát triển du lịch do các cơ quan trung ương thực
hiện, đặc đặc biệt là việc bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Văn hóa và Thiên nhiên
thế giới Quần thể danh thắng Tràng An. Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nghiêm các quy định của pháp luật, đồng thời chú trọng việc nâng cao nhận
thức văn hóa, cung cách phục vụ của đội ngũ làm du lịch.
Các khu, điểm du lịch được tôn tạo, nâng cấp; công tác quản lý nhà nước
về du lịch được nâng cao, thông qua các hoạt động tuyên truyền và kiểm tra,
thanh tra, xử lý vi phạm cũng được phối hợp thực hiện và giám sát thực hiện.
Tuy nhiên, quá trình phối hợp thực hiện và giám sát các chương trình, dự
45
án phát triển du lịch do các cơ quan trung ương thực hiện còn một số hạn chế
như : hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng tiếp cận điểm đến còn thiếu đồng bộ,
nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành du lịch còn hạn chế, dịch vụ
homestay phát triển mạnh nhưng chất lượng chưa cao; công tác hướng dẫn, giám
sát và phối hợp trong quản lý việc thực hiện hoạt động du lịch của các đơn vị kinh
doanh chưa chặt chẽ, đồng bộ; việc quản lý quy hoạch phát triển du lịch, đất đai và
quản lý xây dựng, kinh doanh lưu trú ở một số địa phương còn buông lỏng...
Đặc biệt tỉnh Ninh Bình chưa có nghị quyết riêng để tạo cơ chế, chính sách
thông thoáng trong việc phát triển du lịch; Thường trực HĐND tỉnh Ninh Bình
cần tập trung chỉ đạo các ban, ngành, lực lượng chức năng tiếp tục nâng cao công
tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những vi phạm trong hoạt
động du lịch. Đặc biệt quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý nhà nước về du
lịch, đầu tư phát triển về nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch; từ
đó góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
2.2.2. Thực trạng thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch tại địa phương
2.2.2.1. Triển khai xây dựng và cụ thể hóa chiến lược phát triển ngành
Ngay từ năm 1994 Ninh Bình đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
du lịch giai đoạn 1995-2010, đây là cơ sở cho công tác chỉ đạo, quản lý xây dựng
các kế hoạch phát triển du lịch. Chính vì thế năm 2007, Uỷ ban nhân dân tỉnh
Ninh Bình đã giao cho Sở Du lịch (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối
hợp với Viện Kiến trúc Nhiệt đới - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cùng một
số cơ quan Trung ương và các chuyên gia xây dự dự án điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn 2007- 2010 và định hướng
phát triển đến 2015.
Năm 2017, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị
và Kết luận số 03-KL/TU ngày 26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, xác định
rõ những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển du lịch của tỉnh nhằm đáp ứng
yêu phát triển du lịch trong những năm tới. Mục đích nhằm Đổi mới tư duy phát
triển du lịch, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong các cấp, các ngành
46
và nhân dân về vị trí, vai trò của ngành du lịch trong phát triển kinh tế xã hội, từ
đó huy động và phát huy sự tham gia góp sức của các cấp, các ngành, các doanh
nghiệp và các tầng lớp nhân dân, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa và các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hướng đến phát triển du lịch bền vững;
bảo vệ môi trường và thiên nhiên; bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng Ninh
Bình trở thành điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện, mến khách. Tạo sự đột
phá về phát triển sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ du lịch, định hướng phát
triển du lịch theo hướng bền vững; tăng cường huy động xã hội hóa; đưa du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các
ngành, lĩnh vực khác; có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.
2.2.2.2. Xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển du lịch trên địa bàn
Ninh Bình triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW gắn với việc
thực hiện Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện
Nghị Quyết Đại hội XII của Đảng, Chương trình công tác toàn khóa của Tỉnh
ủy, Kết luận số 03-KL/TU ngày 26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế
hoạch Số 83/KH-UBND đã nêu rõ: phấn đấu đến năm 2020 đón 7,5 triệu khách
du lịch trở lên (trong đó có 0,8 triệu khách quốc tế); doanh thu du lịch đạt trên
3.000 tỷ đồng. Tạo việc làm cho trên 20.000 người lao động, trong đó trên 6.000
lao động trực tiếp trong lĩnh vực du lịch. Phấn đấu đến năm 2020, tổng số khách
sạn, khu nghỉ dưỡng từ 3-5 sao là 15-20 khách sạn với 1.500 - 2.000 phòng huy
động các nguồn lực, tập trung khai thác hợp lý tài nguyên tự nhiên, văn hóa, lịch
sử, xây dựng Ninh Bình trở thành một trong những trung tâm du lịch trọng điểm
của cả nước. Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng cho du lịch, đặc biệt chú
trọng đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở lưu trú từ 3 sao trở lên. Đến năm 2025 cơ
bản hoàn chỉnh khu du lịch sinh thái Tràng An, khu công viên động vật hoang dã
quốc gia, khu du lịch tổng hợp Kênh Gà-Vân Trình, khu du lịch sinh thái Vân
Long, khu du lịch Cồn Nổi... Phấn đấu đến năm 2025, du lịch cơ bản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn; đến năm 2030 du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi
nhọn và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
47
Năm 2018, tại Ninh Bình đã diễn ra nhiều sự kiện lớn của Việt Nam và
Quốc tế, thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến tham dự. Theo
đó, năm 2018 Ninh Bình đã tổ chức thành công Đại lễ 1.050 năm Nhà nước
Đại Cồ Việt, Lễ hội Hoa Lư 2018, Lễ hội Tràng An, Tuần du lịch Ninh Bình
với chủ đề “Sắc vàng Tam Cốc - Tràng An”, Lễ hội Văn hóa - Thể thao - Du
lịch năm 2018…
Các điểm du lịch nổi tiếng ở Ninh Bình như: Danh thắng Tràng An, chùa Bái
Đính, Tam Cốc - Bích Động, vườn chim Thung Nham, đầm Vân Long, Cố đô Hoa
Lư, nhà thờ đá Phát Diệm… là những điểm du lịch không thể bỏ qua của nhiều du
khách khi đến với Ninh Bình trong năm 2018. Các điểm du lịch nổi tiếng ở Ninh
Bình không chỉ được quảng bá rộng rãi trong nước mà còn được du khách quốc tế
biết đến như một địa chỉ đỏ khi đến Việt Nam. Đây là nơi có “di sản kép” là Quần
thể danh thắng Tràng An - Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới.
Với mục tiêu xây dựng, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh, ngành Du lịch Ninh Bình đang không ngừng nỗ lực, cố gắng tăng
cường công tác quản lý về du lịch, khai thác hơn nữa các tiềm năng du lịch, nâng
cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của du khách
trong và ngoài nước.
2.2.3. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động du lịch
2.2.3.1. Tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, thực hiện các chức
năng quản lý nhà nước về du lịch
Thời gian qua, tỉnh Ninh Bình đã tập trung làm tốt công tác tổ chức lại bộ
máy quản lý nhà nước về du lịch. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từng bước
được tinh gọn, hoạt động hiệu quả đã góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, chất
lượng công việc của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Quản lý và giám sát các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, đặc biệt là dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành.
Về bộ máy tổ chức quản lý: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trước đây là
Sở Du lịch) là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, trên
cơ sở hợp nhất Sở Thể dục Thể thao, Sở Du lịch và Sở Văn hóa Thông tin.
2.2.3.2. Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực giải quyết các thủ tục
48
hành chính như đăng ký, cấp phép, ban hành và triển khai thực hiện các quy
chuẩn, tiêu chuẩn của ngành du lịch
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đến giao dịch có liên
quan đến hoạt động du lịch, đảng ủy, ban giám đốc sở đã kịp thời ban hành văn
bản chỉ đạo các phòng chuyên môn liên quan thực hiện công tác cải cách thủ tục
hành chính; quan tâm, chỉ đạo quyết liệt trên cơ sở bám sát quy định pháp luật
hiện hành, chủ động đổi mới nội dung, cách thức tổ chức thực hiện; từng bước
thay đổi lề lối, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lấy
kết quả hoàn thành công việc để đánh giá xếp loại thi đua khen thưởng, tạo
chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ. Hàng quý, Sở VHTT&DL đã
thống kê, rà soát các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của sở để kịp thời cập
nhật thông tin và tham mưu trình UBND tỉnh ban hành quyết định bãi bỏ TTHC
không còn phù hợp và công bố mới TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của sở.
Hiện nay, Sở VHTT&DL có 112 TTHC được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt,
thực hiện 100% tại Trung tâm Hành chính công của tỉnh (25 TTHC lĩnh vực du
lịch), niêm yết công khai, kịp thời, đầy đủ, rõ ràng các TTHC; mức thu phí, lệ
phí và thời gian giải quyết; quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ trên cơ sở dữ liệu
quốc gia; 100% hồ sơ, TTHC được quy trình hóa theo tiêu chuẩn ISO
9001:2008; được giám sát chặt chẽ từ khâu tiếp nhận, xử lý đến hoàn trả kết quả
cho tổ chức, công dân. Bình quân mỗi năm sở tiếp nhận và giải quyết khoảng
1.000 hồ sơ.
2.2.3.3. Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước địa phương kinh doanh
du lịch
Ninh Bình đang tích cực đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) ở địa phương trong lĩnh vực du, nhằm thực hiện chuyển đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế, tích cực hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế
giới. Trong các năm 2011-2015, việc cơ cấu lại DNNN ở địa phương trong lĩnh
vực du lịch đã được tỉnh Ninh Bình khai mạnh mẽ, quyết liệt và đạt được những
kết quả tích cực. Hiện nay, trong bối cảnh và yêu cầu của thời kỳ mới, tiến độ cơ
cấu lại DNNN ở địa phương trong lĩnh vực du lịch đang có chiều hướng chậm lại.
49
Cơ cấu lại DNNN ở địa phương trong lĩnh vực du lịch đang là vấn đề
“nóng” ở Việt Nam trong bối cảnh thực hiện chủ trương tái cơ cấu tổng thể nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhằm đổi mới mô hình
tăng trưởng, tỉnh Ninh Bình đã đánh giá tình hình cơ cấu lại DNNN ở địa
phương trong lĩnh vực du lịch trong nửa đầu giai đoạn 2016-2020; đưa ra các
giải pháp cụ thể, mạnh mẽ hơn để hoàn thành mục tiêu cơ cấu lại DNNN trong
các năm còn lại của giai đoạn 2016-2020 theo Đề án đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Tỉnh Ninh Bình còn xây dựng phương án tài chính để triển khai ngành,
nghề kinh doanh chính, đồng thời cũng xây dựng các phương án phù hợp với
tình hình thực tế của doanh nghiệp để xử lý tồn tại về tài chính. Đồng thời, các
DNNN ở địa phương trong lĩnh vực du lịch chủ động bán vốn, chuyển vốn hoặc
tìm kiếm đối tác để thoái vốn phù hợp với đặc điểm, điều kiện và tình hình của
doanh nghiệp.
2.2.4. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch
Sự nở rộ của các loại hình, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã đưa
du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, tăng nguồn thu ngân sách, giải quyết
việc làm cho nhiều lao động. Không ít lao động từ các lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chuyển sang kinh doanh dịch vụ và
trực tiếp tham gia làm du lịch. Do vậy, nguồn nhân lực du lịch được tăng cường
đáng kể về số lượng… Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản ban
đầu, đội ngũ lao động làm du lịch không ngừng phấn đấu học tập, đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực, trình độ theo hướng chuyên nghiệp.
Muốn đào tạo một sinh viên trung cấp phải mất ít nhất 2 năm, trình độ đại
học là 4 năm. Đó còn chưa kể đến sau khi ra trường sinh viên còn phải qua vài
năm trải nghiệm thực tế mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Trong khi đó, công tác
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với nhu
cầu phát triển. Tại Ninh Bình chưa có một trường hay trung tâm đào tạo quy mô
dành cho đối tượng này. Do đặc thù, trong số 194 cơ sở lưu trú du lịch với 3.269
50
phòng ngủ hiện có tại Ninh Bình, hầu hết đều do tư nhân bỏ vốn xây dựng. Việc
tập trung nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại đã làm
“kiệt sức” chủ đầu tư nên họ không còn nghĩ đến việc đầu tư phát triển nguồn
nhân lực, dẫn đến tình trạng khi công trình sắp khai trương mới tuyển nhân viên
phục vụ hoặc, chỉ tập trung tuyển dụng nhân viên điều hành, quản lý. Đội ngũ
này thường sử dụng một bộ phận là người thân quen trong gia đình…
Trước thực trạng trên và để đạt mục tiêu từ 2015 - 2020 du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và Ninh Bình trở thành một trong những trung
tâm du lịch trọng điểm của cả nước, UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị 07, giao các
ngành chức năng, đơn vị liên quan thống kê, phân tích, lập kế hoạch, phương án
đào tạo theo từng giai đoạn, trong đó chú trọng nguồn nhân lực trực tiếp, chủ yếu
là lao động từ nông nghiệp chuyển đổi sang lĩnh vực du lịch, với các phương án
như: nhà nước đầu tư 80% vốn ngân sách, số còn lại do người sử dụng lao động và
người lao động tự chi trả. Theo đó, tổ chức tốt các khóa, lớp đào tạo, nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý ngành cũng như người dân
tham gia làm du lịch. Trước mắt, tập trung đào tạo nhân lực đang còn thiếu và yếu
như lễ tân, bàn, bar, thuyết minh viên, kỹ thuật chế biến món ăn; xây dựng cơ chế,
chính sách thu hút nhân tài từ các địa phương trong và ngoài tỉnh…
Ngành Du lịch tỉnh Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức đào
tạo các khoá ngắn hạn, sơ cấp nghề ở các bộ phận và bồi dưỡng giáo dục cộng
đồng cho hàng nghìn lao động tại các đơn vị, địa phương. Được tỉnh ưu tiên
dành nguồn kinh phí, ngành đã liên kết với nhiều đơn vị tổ chức đào tạo khoá
đầu tiên ngành hướng dẫn viên, thuyết minh viên, nấu ăn, lễ tân… cho gần 300
người (ưu tiên những người có hộ khẩu tại Ninh Bình) tại Trường Đại học Hoa
Lư, với mục tiêu cung cấp bổ sung thêm cho ngành một lực lượng lao động
chính quy, bài bản, chuyên nghiệp.
Ngoài ra, ngành còn thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan tổ
chức các lớp tập huấn nghiệp vụ du lịch, hướng dẫn viên, thuyết minh viên, các
lớp ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp; tổ chức các cuộc thi như thi
51
nấu ăn, thi hướng dẫn viên, thuyết minh viên, lễ tân… cho nhân viên, cán bộ
quản lý ở các Ban, trạm quản lý các khu, điểm du lịch, các nhà hàng, khách sạn
trên địa bàn tỉnh. Đối với những lao động tham gia làm du lịch ở các địa phương
nơi có các di tích, danh lam thắng cảnh, ngành mở các lớp bồi dưỡng kiến thức
du lịch cộng đồng về xây dựng nếp sống văn minh, văn hoá trong du lịch, qua đó
góp phần làm chuyển biến trong phong cách, thái độ và ý thức phục vụ khách du
lịch. Phối hợp với các đoàn thể chính trị - xã hội, cấp uỷ đảng, chính quyền tăng
cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về du lịch trong các tầng lớp
nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận cho phát triển.
2.2.5. Thực trạng kiểm tra, thanh tra hoạt động du lịch và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực du lịch
2.2.5.1 Kiểm tra và giám sát tuân thủ pháp luật, chính sách, quy chuẩn
Công tác quản lý kiểm tra giám sát về hoạt động kinh doanh du lịch cũng
được tăng cường. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức nhiều hội nghị tập
huấn pháp luật, chính sách mới liên quan đến hoạt động du lịch. Nhiều lớp đào
tạo bồi dưỡng nghiệp vụ về du lịch, hướng dẫn viên, thuyết minh viên được tổ
chức cho hàng ngàn lao động. Phối hợp với các ban ngành của tỉnh Ninh Bình
tiến hành điều tra, thẩm định và tái thẩm định các cơ sở lưu trú trong toàn tỉnh
Ninh Bình.
2.2.5.2. Thanh tra chuyên ngành và thực hiện xử lý các vi phạm trong hoạt động
du lịch
Trong 3 năm (2015-2017), Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
kết hợp với các phòng chức năng kiểm tra hơn một trăm cơ sở hoạt động kinh
doanh du lịch trên các địa bàn toàn tỉnh. Kết quả, toàn tỉnh Ninh Binh có 57 cơ
sở có vi phạm, trong đó xử lý phạt cảnh cáo 12 cơ sở kinh doanh du lịch, phạt
tiền 23 cơ sở kinh doanh du lịch, đề nghị cơ quan chức năng truy tố theo pháp
luật 01 cơ sở kinh doanh du lịch, nhắc nhở đối với các cơ sở còn lại... Qua đó, đã
góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch của tỉnh trong thời gian gần đây.
52
Điển hình như việc một đơn vị doanh nghiệp du lịch có hành vi xây dựng
công trình trái phép trên núi Cái Hạ, thuộc Quần thể danh thắng Tràng An ở xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư thời gian qua gây xôn xao dư luận. UBND tỉnh đã
quyết định thành lập Đoàn thanh tra liên ngành của tỉnh để tiến hành thanh tra
những hoạt động xây dựng trái phép tại núi Cái Hạ và hoạt động kinh doanh dịch
vụ du lịch của doanh nghiệp.
Qua thanh tra cho thấy doanh nghiệp này không được Nhà nước giao, cho
thuê, sử dụng mà đã thực hiện xây dựng công trình trái phép trên núi Cái Hạ làm
cho diện tích đất, rừng đặc dụng, núi đá thuộc di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới bị xâm hại.
Đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra, lập biên bản vi phạm đối với
việc xây dựng công trình trái phép trên núi Cái Hạ, kiểm tra việc chấp hành các
quy định của pháp luật trong việc quản lý hoạt động kinh doanh du lịch, hoạt
động lữ hành và hướng dẫn viên tại doanh nghiệp này.
Cùng với đó, tăng cường phối hợp với các sở, ban, ngành, UBND huyện
Hoa Lư, UBND xã Ninh Hải, UBND thành phố Tam Điệp, UBND xã Yên Sơn
tiến hành kiểm tra và xử lý vi phạm về trật tự xây dựng của Công ty Cổ phần
Dịch vụ Thương mại và Du lịch Doanh Sinh tại khu du lịch sinh thái Thung
Nham; xử lý vi phạm xây dựng tại khu vực Thung Phú (thung Hang Ốc) của
DNTN Ngôi Sao tại địa bàn xã Yên Sơn, thành phố Tam Điệp.
Sở Du lịch đã thường xuyên chỉ đạo các phòng, đơn vị trực thuộc hướng
dẫn, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, theo dõi nắm bắt công tác chuẩn bị các điều
kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện nhân lực, công tác
ANTT, VSMT, VSATTP văn minh du lịch, hoạt động kinh doanh dịch vụ tại các
khu, điểm du lịch để phục vụ khách du lịch tốt nhất trong dịp tết Nguyên Đán và
mùa lễ hội năm 2018.
Cùng với đó, Sở Du lịch đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức
năng tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra thực hiện nhiều đợt kiểm tra việc chấp
hành các quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh
53
doanh nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê (Homestay) trên địa bàn tỉnh.
2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn
2014 - 2018
2.3.1. Những thành tựu đạt được trong công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch
Thời gian qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn song công tác quản lý nhà nước
về du lịch ở tỉnh Ninh Bình đã có bước chuyển biến rất tích cực, góp phần quan
trọng thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển. Cụ thể là:
Thứ nhất, Ninh Bình nhận thức được những tiềm năng sẵn có để phát triển
các loại hình du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh và sinh thái, đã có nhiều quyết
sách để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với các hoạt động du
lịch tại tỉnh Ninh Bình được đẩy mạnh, tăng cường hiệu lực, hiệu quả, tập trung
đối với lĩnh vực quản lý kinh doanh cơ sở lưu trú, kinh doanh lữ hành và hoạt
động của hướng dẫn viên. Cùng với đó là công tác quy hoạch và kế hoạch phát
triển du lịch của tỉnh Ninh Bình có sự đổi mới cả về nội dung, phương pháp và tổ
chức thực hiện, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh
phát triển phù hợp với định hướng phát triển chung của địa phương.
Thứ ba, công tác quảng bá hình ảnh, xúc tiến du lịch tăng cường, đổi mới
tại tỉnh Ninh Bình. Cùng với đó là công tác tuyền truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật và tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực du lịch tại tỉnh Ninh Bình được chú trọng. Từ đó góp phần nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia kinh doanh du lịch, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh.
Thứ tư, Ninh Bình đã có những chính sách phát triển du lịch cụ thể, tiếp
sức cho hệ thống doanh nghiệp du lịch không ngừng lớn mạnh, cơ sở hạ tầng,
khu nghỉ dưỡng, khách sạn, khu kinh doanh thương mại, giải trí; các tuyến du
54
lịch, loại hình du lịch đa dạng… tạo nên diện mạo mới và có những đóng góp
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa.
Thứ năm, công tác tạo lập sự gắn kết, hợp tác giữa các tỉnh, các vùng và
lãnh thổ của Ninh Bình trong quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch có sự chuyển biến tích cực.
Thứ sáu, Ninh Bình đã thực hiện tốt việc triển khai các chính sách về
nhân sự trong lĩnh vực du lịch. Tỉnh đã tổ chức tốt các khóa, lớp đào tạo, nâng
cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý ngành cũng
như người dân tham gia làm du lịch. Trước mắt, tập trung đào tạo nhân lực đang
còn thiếu và yếu như lễ tân, bàn, bar, thuyết minh viên, kỹ thuật chế biến món
ăn; xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nhân tài từ các địa phương trong và
ngoài tỉnhcông tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho hoạt động du lịch được tăng cường, đã tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo
đa dạng hóa chuyên ngành đào tạo, nâng cao kiến thức về văn hóa, lịch sử, ngoại
ngữ, kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn du lịch... cho lực lượng lao động ngành du
lịch của tỉnh.
Thứ bẩy, Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động du lịch của
cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Ninh Bình được thực hiện tương đối
tốt. Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình đã thường xuyên chỉ đạo các phòng, đơn vị trực
thuộc hướng dẫn, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, theo dõi nắm bắt công tác chuẩn
bị các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện nhân lực,
công tác ANTT, VSMT, VSATTP văn minh du lịch, hoạt động kinh doanh dịch
vụ tại các khu, điểm du lịch để phục vụ khách du lịch tốt nhất. Cùng với đó, Sở
Du lịch tỉnh Ninh Bình đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức
các đoàn thanh tra, kiểm tra thực hiện nhiều đợt kiểm tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh nhà ở có
phòng cho khách du lịch thuê (homestay) trên địa bàn tỉnh.
55
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động du lịch
2.3.2.1. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch vẫn còn những trở ngại và hạn chế:
Một là, Ninh Bình vẫn chưa tạo được bước phát triển đột phá để khẳng
định du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương.
Hai là, Công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch quản lý nhà nước về
kinh tế đối với hoạt động du lịch của tỉnh chưa theo kịp yêu cầu phát triển của du
lịch của tỉnh Ninh Bình.
Ba là, Công tác quản lý nhà nước về quảng bá và xúc tiến du lịch chưa
nắm rõ được trọng tâm là xây dựng thương hiệu du lịch cho toàn vùng, xác định
tour du lịch mẫu, điển hình của từng địa phương và toàn vùng; kết nối các sự
kiện, lễ hội riêng của từng tỉnh, thành phố để tạo ra chuỗi sự kiện du lịch nhằm
thu hút và tận dụng tối đa các nguồn khách du lịch.
Bốn là, Việc phối hợp trong thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư
kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đặc biệt là các khu vui chơi
giải trí, các khu mua sắm đặc trưng và chất lượng cao, trên cơ sở có sự thống
nhất trong quy hoạch sản phẩm du lịch dựa vào lợi thế của mỗi địa phương
trong vùng chưa cao.
Năm là, Công tác tạo lập sự liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa tỉnh
Ninh Bình với các địa phương khác chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Sáu là, Nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, thiếu đội ngũ quản lý, hướng
dẫn viên, thuyết minh viên giỏi. Một bộ phận cộng đồng địa phương tham gia
hoạt động du lịch còn thiếu kỹ năng giao tiếp, ứng xử phục vụ khách du lịch, đặc
biệt là khách nước ngoài.
Bảy là, Việc kiểm tra, xử lý và ngăn chặn các hành vi vi phạm về trật
56
tự xây dựng, quản lý tài nguyên và kinh doanh lưu trú du lịch trong vùng Di
sản ở một số địa phương còn chưa kịp thời, thiếu kiên quyết.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân khách quan
+ Nền kinh tế của Việt nam nói chung, tỉnh Ninh bình nói riêng phát triển
chưa cao, trình độ khoa học - công nghệ còn rất hạn chế.
+ Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn thiếu, chất lượng thấp,
chưa tạo được sản phẩm du lịch có chất lượng cao.
Nguyên nhân chủ quan
+ Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo địa phương và
nhân dân nhận thức chưa đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển du
lịch trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
+ Nội dung, cách thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
chính sách, pháp luật về du lịch cho người dân trên địa bàn và du khách còn
nghèo nàn.
+ Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dành cho du lịch, cũng như vốn xã
hội hóa từ các nhà đầu tư vào cơ sở hạ tầng du lịch còn thấp.
+ Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế đồi với hoạt động du lịch thay,
thiếu tính ổn định nên không đảm bảo tỉnh liên tục trong quản lý, hiệu lực quản
lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch chưa cao.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch tại
Việt Nam nói chung, tại tỉnh Ninh Bình nói riêng còn chấp vá, thiếu hệ thống.
+ Phạm vi hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các chủ thể tiến
hành kinh doanh du lịch chưa được xác định rõ ràng. Phương thức, trình tự, thủ
tục thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch còn bộc lộ nhiều hạn chế.
57
Tiểu kết chương 2
Trong nội dung chương 2, tác giả đi vào nghiên cứu quy định pháp luật về
quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập
quốc tế .Thông qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam, trên cơ sở
đó, tác giả đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về kinh
tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế tại tỉnh Ninh Bình,
từ đó đưa ra những đối chiếu, so sánh để rút ra những kết luận về những kết quả
đạt được và hạn chế tồn tại.
Trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật hiện hành, tác giả đã đưa ra
những đánh giá về ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật có liên quan
quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập
quốc tế. Những đánh giá này là cơ sở để tác giả đưa ra những kiến nghị cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.
58
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH NINH BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. Bối cảnh phát triển mới và các yêu cầu khách quan đặt ra cho sự phát
triển và quản lý nhà nước đối với du lịch Ninh Bình trong giai đoạn tới
3.1.1. Xu hướng phát triển du lịch trên thế giới trong thời gian tới
Theo Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), số lượng khách du lịch quốc tế
trên toàn cầu năm 2018 đã vượt mốc 1,4 tỷ lượt, tăng 74 triệu lượt so với năm
2017, đạt mức tăng trưởng gần 6%. Đây là mức tăng trưởng cao thứ 2 trong giai
đoạn từ 2010 đến nay (chỉ sau mức tăng trưởng ấn tượng khoảng 7% của năm
2017). Năm 2018, châu Á - Thái Bình Dương đón 342,6 triệu lượt khách quốc
tế, tăng 6,1% so với năm 2017, chiếm gần 1/4 tổng lượng khách quốc tế toàn
cầu, trong đó, Đông Nam Á là khu vực dẫn đầu về tăng trưởng khách quốc tế
đến với 7,4%.
Theo UNWTO, phần lớn điểm đến ở Đông Nam Á duy trì tốc độ tăng
trưởng nhanh, đặc biệt là Việt Nam thu hút ngày càng nhiều khách quốc tế trong
những năm gần đây. Năm 2018, Việt Nam đón gần 15,5 triệu lượt khách quốc tế
(tăng 19,9% so với năm 2017, được đánh giá là mức tăng trưởng “nóng” so với
thế giới và khu vực). 7 tháng đầu năm 2019 đã có gần 9,8 triệu lượt khách quốc
tế đến Việt Nam, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Du lịch thế giới tiếp tục tăng trưởng mạnh và có ảnh hưởng lớn đến đời
sống kinh tế - xã hội trên toàn cầu. Du lịch trở thành một trong những trụ cột
chính của thương mại quốc tế, là nguồn thu nhập quan trọng cho nhiều nước
đang phát triển. UNWTO dự báo, hoạt động du lịch toàn cầu sẽ tăng trưởng
khoảng 3-4% trong năm 2019. Dự báo đến năm 2030, lượng khách du lịch quốc
tế trên toàn cầu đạt 1,8 tỷ lượt. Đông Nam Á sẽ trở thành khu vực thu hút khách
quốc tế lớn thứ 4 trên thế giới.
59
Theo dự báo của UNWTO, thời gian tới, du lịch toàn cầu tiếp tục tăng
trưởng với xu hướng chủ đạo sau:
- Nhu cầu du lịch toàn cầu bùng nổ, đặc biệt là trong giới trung lưu đang
tăng lên tại Trung Quốc, tạo cơ hội kinh tế đáng kể cho các điểm đến khu vực
Đông Nam Á.
- Nhu cầu du lịch sẽ tăng 4% hằng năm trong giai đoạn 2018-2028, nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự
báo sẽ đón 535 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2030, đứng đầu thế giới.
- Trung Quốc là thị trường nguồn lớn nhất thế giới sẽ tác động mạnh đến
chính sách phát triển du lịch của nhiều quốc gia.
- Tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí vẫn là mục đích của đa số thị
trường khách, song nhiều nhu cầu mới hình thành, đặc biệt là nhu cầu trải
nghiệm hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá
truyền thống (tính khác biệt, đặc sắc, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên
sơ, độc đáo), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi).
- Du lịch chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ngày càng phổ biến. Phát triển
du lịch có trách nhiệm, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng vừa là xu hướng
vừa là đòi hỏi tất yếu đối với ngành Du lịch để thực hiện nguyên tắc và mục tiêu
phát triển bền vững.
- Sự phát triển mạnh mẽ của ngành hàng không, đặc biệt là hàng không giá
rẻ sẽ mang lại lợi ích to lớn cho ngành Du lịch, tạo điều kiện thúc đẩy du lịch
bằng đường hàng không. Bên cạnh đó, xu hướng du lịch tàu biển tiếp tục gia
tăng với các du thuyền hiện đại, sang trọng.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh đến phương thức quản lý
và kinh doanh du lịch, hình thành các xu hướng du lịch mới như du lịch thông
minh, du lịch sáng tạo. Khác với tour truyền thống, du lịch thông minh chú trọng
đến lợi ích của du khách nhưng lại đảm bảo mức chi phí thấp, an toàn và thuận
tiện nhất trên cơ sở ứng dụng công nghệ và sử dụng các thiết bị hiện đại và
thông tin, dữ liệu toàn cầu.
60
- Tăng cường hợp tác, liên kết quốc tế và khu vực đã trở thành xu hướng
quan trọng trong phát triển du lịch trên thế giới.
- Vai trò của thị trường khách nội địa ngày càng lớn đối với sự phát triển du
lịch do thu nhập ngày càng tăng, sự phát triển mạnh của tầng lớp trung lưu là
động lực lớn thúc đẩy tiêu dùng du lịch.
Cùng với lượng khách du lịch tăng nhanh, xu hướng các loại hình du lịch
đã và đang thay đổi đáng kể. Sự lựa chọn của khách du lịch trên toàn cầu cho
thấy, những loại hình du lịch thân thiện với môi trường như du lịch sinh thái, du
lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch phục vụ nhu cầu sức khỏe, làm
đẹp...ngày càng được ưa chuộng hơn. UNWTO nhận định, đến năm 2030, khách
du lịch đi với mục đích thăm viếng, sức khỏe, tôn giáo sẽ chiếm 31% tổng lượng
khách du lịch; với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí chiếm
54%; với mục đích công việc và nghề nghiệp chiếm 15%.
Trên thực tế, ngành Du lịch thế giới đang chứng kiến sự phát triển của
nhiều xu hướng du lịch khác như: tour tự thiết kế, tour cao cấp, du lịch mạo
hiểm, du lịch trải nghiệm, du lịch giải trí với các thiết bị hiện đại... Xu hướng
khách du lịch quan tâm nhiều hơn tới chất lượng trải nghiệm tại điểm đến thay vì
hình ảnh điểm đến đơn thuần; khách sẽ lưu lại dài ngày hơn nếu điểm đến có
nhiều trải nghiệm thú vị và ngược lại. Nếu trước đây, du lịch biển theo trào lưu
là phổ biến thì những năm gần đây đã chuyển hướng sang nghỉ dưỡng núi, trải
nghiệm văn hóa địa phương. Khách du lịch thế hệ mới là những người yêu môi
trường, tôn trọng và có trách nhiệm với môi trường, vì vậy xu hướng tìm về
những giá trị văn hóa đặc sắc và sinh thái nguyên sơ cũng đang thịnh hành. Du
lịch công nghệ cao như du lịch thông minh, du lịch thực tế ảo, du lịch điện tử...
thông qua các khu vui chơi giải trí hiện đại, các công viên, tổ hợp giải trí cũng
ngày càng thu hút số lượng lớn khách du lịch. Theo số liệu từ trang statista.com,
mỗi năm doanh thu từ tổ hợp công viên giải trí Disney Land của tập đoàn Walt
Disney trên toàn cầu thu về hơn 50 tỷ USD, con số khiến nhiều nhà đầu tư muốn
tập trung khai thác loại hình du lịch này. Bên cạnh đó, sự phát triển của công
61
nghệ, sự bùng nổ của mạng xã hội cũng khiến cho kinh nghiệm du lịch ngày
càng được tích lũy, dòng khách tự túc theo đó càng tăng mạnh...
Xu hướng tiêu dùng du lịch cũng có thay đổi mới mẻ từ chi trả tiền mặt
sang thanh toán thẻ, sử dụng các ứng dụng thanh toán trên điện thoại thông
minh. Khách đi du lịch theo phương thức trả sau với 82% ứng từ lương cũng
đang là xu hướng được ưa chuộng. Các dịch vụ đặt chỗ vé máy bay, khách sạn
thông qua điện thoại thông minh tăng mạnh. Nền tảng công nghệ số và dữ liệu sẽ
chi phối tăng trưởng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương với 80% chuyến đi
du lịch được booking online và 87% thế hệ trẻ cho rằng, điện thoại thông minh
là công cụ cần thiết cho du lịch. Theo nhiều chuyên gia trong ngành dịch vụ,
công nghệ thông tin và mạng xã hội sẽ là tương lai của ngành du lịch.
Cơ cấu chi tiêu của khách du lịch thay đổi rõ rệt. Những năm trước đây, tỷ
trọng chi tiêu của khách dành cho dịch vụ cơ bản (ăn, uống, vận chuyển...) chiếm
phần lớn. Hiện nay, tỷ trọng chi tiêu của khách dành cho các dịch vụ (mua sắm
hàng hóa, đồ lưu niệm, tham quan giải trí...) tăng lên. Theo các nhà kinh tế học,
nếu trước đây du khách dành cho ăn, ở, đi lại là 7 phần chi tiêu, thì nay chỉ còn 3
phần và ngược lại, có đến 7 phần dành cho vui chơi giải trí, mua sắm.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đang làm thay đổi hoàn toàn phương
thức tiếp cận, chia sẻ thông tin của khách du lịch. Đặc biệt, sự bùng nổ của mạng
xã hội và các ứng dụng trên điện thoại di động tác động rất lớn đến việc lựa chọn
điểm đến, nơi lưu trú, địa điểm ăn uống của khách du lịch.
Những xu hướng trên đặt ra yêu cầu các nhà quản lý, các nhà đầu tư nhìn
nhận và phân tích đúng tình hình, có giải pháp, phương án, cách vận hành phù
hợp để có thể phát triển ngành Du lịch Việt Nam phù hợp với xu thế mới.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, ngành Du lịch nỗ lực phát huy nội lực, tăng cường liên kết, phối hợp với
các Bộ, ngành, địa phương, đẩy mạnh phối hợp công - tư để vừa bảo đảm được
62
kế hoạch tăng trưởng, vừa thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm theo đúng tiến độ,
yêu cầu. Đối với các đề án trọng tâm được Chính phủ giao, ngành Du lịch đã báo
cáo, trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt 04
đề án, bao gồm: 1) Đề án Cơ cấu lại ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển
thành ngành kinh tế mũi nhọn; 2) Đề án thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch;
3) Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; 4) Đề án
Nâng cao năng lực quảng bá, xúc tiến du lịch. Đối với Đề án Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2045: được thực hiện
trong năm 2019 sẽ đặt ngành Du lịch trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, xây
dựng mục tiêu phát triển mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của Đảng, Nhà nước và
kỳ vọng của nhân dân, lập kế hoạch thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ để
tăng cường đổi mới, thúc đẩy sự phát triển của ngành, thích ứng với điều kiện của
đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế cũng như ứng phó với biến đổi khí hậu.
Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế cụ thể như sau:
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Luật Du lịch 2017 và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Du lịch; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chế
độ, chính sách, bảo đảm hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển du lịch.
Đồng thời, đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của toàn
xã hội về du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng
và xã hội hóa cao, mang nội dung văn hóa sâu sắc; có khả năng đóng góp lớn
vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo động
lực thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển, đem lại hiệu quả nhiều mặt về
xã hội, chính trị, đối ngoại và an ninh quốc phòng. Đổi mới tư duy phát triển du
lịch một cách nhất quán từ quan điểm, mục tiêu, chương trình hành động của các
cấp, các ngành; ý thức của người dân, doanh nghiệp và cộng đồng tham gia vào
quá trình phát triển du lịch.
Triển khai hiệu quả việc cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên
nghiệp, hiện đại và phát triển bền vững theo quy luật của kinh tế thị trường và
63
hội nhập quốc tế. Trong đó, tập trung vào việc cơ cấu lại thị trường khách du
lịch, củng cố phát triển hệ thống sản phẩm và điểm đến du lịch, phát triển nguồn
nhân lực du lịch và cơ cấu lại nguồn lực phát triển du lịch; tiếp tục hoàn thiện thể
chế, chính sách theo hướng đột phá để du lịch phát triển, đáp ứng yêu cầu, tính
chất của ngành kinh tế tổng hợp, hoạt động theo cơ chế thị trường. Cụ thể như
các chính sách về đầu tư, thuế, thủ tục về thị thực nhập cảnh.
Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du
lịch. Đặc biệt là các kết cấu hạ tầng đường không, đường biển, đường sắt, tăng
cường kết nối giao thông tới các khu, điểm du lịch; tăng cường công tác xúc tiến
quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại từ nội dung đến phương
thức, phát huy nguồn lực nhà nước và toàn xã hội trong hoạt động xúc tiến
quảng bá của các cơ quan ngoại giao, cộng đồng người Việt ở nước ngoài và các
cơ quan truyền thông.
Cùng với đó là tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng
để các doanh nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch; hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo
trong kinh doanh du lịch, nhất là du lịch thông minh; có chính sách hỗ trợ cho
cộng đồng tham gia hoạt động du lịch đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức
xã hội nghề nghiệp liên quan.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số hỗ trợ khách du lịch trước, trong và sau
chuyến đi; chú trọng phát triển các ứng dụng hỗ trợ du khách xây dựng chương
trình, đặt và thanh toán dịch vụ du lịch trực tuyến theo nhu cầu cá nhân; tiếp
nhận phản hồi và xử lý phản hồi của khách du lịch; có khả năng theo sát hành
trình, chủ động cung cấp thông tin phù hợp đáp ứng nhu cầu của du khách trong
suốt hành trình du lịch; ứng dụng thuyết minh du lịch tự động và hỗ trợ thanh
toán thuận lợi trên thiết bị di động thông minh.
Tăng cường phát triển nguồn nhân lực du lịch trên cơ sở tăng cường năng
lực cho các cơ sở đào tạo và giảng viên; đa dạng hóa các hình thức đào tạo, đẩy
mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực; nâng cao kỹ năng nghề
qua hoàn thiện và áp dụng các bộ tiêu chuẩn nghề. Từng bước vận động, hướng
64
dẫn, đào tạo, bồi dưỡng cho cộng đồng, người dân bản địa tham gia vào lực
lượng lao động, trở thành đội ngũ tuyên truyền, quảng bá du lịch, đại diện cho
hình ảnh và nét đẹp của từng địa phương, từng vùng miền và của đất nước.
Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch thông qua
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn trong lĩnh vực du lịch;
kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, mô hình tổ chức quản lý ngành
đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tình hình mới; tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, bảo đảm môi trường du lịch
Đây là một quá trình lâu dài, phải có quy hoạch và bước đi thích hợp,
không chủ quan, nóng vội, duy ý chí, nhưng phải kiên quyết và chủ động phối
hợp với các ngành Trung ương trong triển khai thực hiện.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
3.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách về du lịch
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách về du
lịch trước hết cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp từ cơ sở đến các
phòng, ngành chức năng trong thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Coi công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ chung của
cả hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và toàn dân theo chức năng,
nhiệm vụ của cấp mình.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật du lịch. Quan tâm tăng cường các
hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về du lịch. Phát huy tốt vai
trò chủ động, sáng tạo của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật cấp
quận, phường trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện, bảo đảm chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được phổ biến kịp thời, đầy đủ
đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
65
Đẩy mạnh xây dựng thực hiện các chính sách theo quy định của pháp luật
về du lịch để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn.
Chú trọng củng cố, phát huy vai trò của người làm công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về du lịch ở các cơ quan, đơn vị và nhất là UBND
các phường đảm bảo đủ thành phần, ban hành quy chế làm việc để hoạt động
theo chức năng, nhiệm vụ được phân công. Cán bộ làm công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật phải làm tốt vai trò tham mưu cho Đảng uỷ, UBND
phường trong triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, hướng dẫn các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương triển khai kế hoạch phù
hợp với nội dung trong tình hình mới. Thường xuyên cung cấp tài liệu nghiệp
vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật về du lịch.
Tập trung và chú trọng đổi mới về nội dung và hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật về du lịch, khắc phục những tồn tại, hạn chế công tác này trong
những năm qua. Về nội dung tuyên truyền cần cho phù hợp với trình độ nhận
thức, hiểu biết pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật về du lịch của người dân,
với lứa tuổi, từng đối tượng đặc thù với tình hình thực tiễn của địa phương. Về
hình thức cần tiếp tục các hình thức tuyên truyền đã thực hiện có hiệu quả trong
những năm qua. Ngoài ra, lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật về du lịch tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Xây dựng và phát huy phương
châm mỗi người dân là một tuyên truyền viên pháp luật tại cộng đồng dân cư.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về du lịch phải gắn
với nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội trong
nhân dân; khơi dậy tính tích cực trong mỗi người dân, có phương thức tác động
làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn, cách tiếp cận pháp luật về du lịch trong nhân
dân trên địa bàn.
3.2.2. Hoàn thiện quy hoạch và nâng cao chất lượng làm quy hoạch du lịch
Xác định quy hoạch là khâu then chốt, có tính chất đột phá trong phát
triển mọi mặt về du lịch, những năm qua, công tác lập quy hoạch và quản lý quy
66
hoạch về du lịch luôn được quan tâm, xây dựng, tổ chức thực hiện và đã đạt
được những kết quả quan trọng. Qua đó, góp phần không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát
triển, làm cho diện mạo Quảng Ninh có nhiều thay đổi tích cực...
Ngoài việc thuê các đơn vị tư vấn nước ngoài lập các quy hoạch về du lịch
lớn trên địa bàn, địa phương cần có kiến nghị, đề xuất với các bộ, ngành Trung
ương sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực quy hoạch
về du lịch, phát triển đô thị... đảm bảo phù hợp với chiến lược kinh tế và quy
hoạch xây dựng vùng tỉnh.
Đồng thời tiếp tục tập trung đổi mới phương pháp quy hoạch; huy động sự
tham gia hiệu quả của cộng đồng dân cư, sự phản biện của các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp để đảm bảo tính khả thi của quy hoạch về du lịch, phù hợp định
hướng phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường. Song song với đó là
đẩy nhanh tiến độ đầu tư, phát triển năng động, văn minh, hiện đại; hoàn thiện,
đổi mới mô hình tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng, phát triển đô thị theo
hướng chuyên nghiệp hoá; đẩy mạnh mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công
- tư (PPP); nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong công tác đầu tư, quản
lý, sử dụng vốn đầu tư công… UBND các địa phương và các sở, ngành liên quan
cũng cần tăng cường công tác tổ chức thực hiện và phát triển đô thị theo quy
hoạch... Chắc chắn với sự nỗ lực vào cuộc của cả hệ thống chính trị và nhân dân
trên địa bàn.
Bên cạnh đó, tỉnh cần thực hiện các biện pháp, hình thức thích hợp, linh
hoạt để huy động nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch theo định hướng, mục tiêu đã
được xác định.
3.2.3. Tăng cường xúc tiến du lịch, kêu gọi đầu tư, liên kết hợp tác trong
phát triển du lịch
Phối hợp và tham gia các chương trình xúc tiến du lịch trong và ngoài
nước do địa phương và quốc gia tổ chức.
67
Thường xuyên trao đổi thông tin, đẩy mạnh các hoạt động giao thương,
đầu tư, hỗ trợ quảng bá, mở rộng hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm và liên
kết quảng bá du lịch.
Phối hợp với Bộ Ngoại giao để xúc tiến với các doanh nghiệp nước ngoài
vào đầu tư về du lịch vào khu vực này. Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện trình Chính phủ quyết định
ban hành cơ chế, chính sách đặc thù và ưu đãi phát triển đến năm 2030 trong đó
có trọng tâm vào xúc tiến đầu tư thu hút FDI, phát triển hạ tầng, v.v…”
Tổ chức đào tạo và tham gia các khóa đào tạo nhằm nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp cho đội ngũ lao động trong doanh nghiệp thực hiện chức năng quản
trị tác nghiệp cũng như nhân viên trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách du lịch.
3.2.4. Xây dựng, ban hành các chính sách trọng điểm phát triển du lịch trên
địa bàn
Cụ thể hoá các bước triển khai thực hiện Chương trình hành động
số 103/NQ-CP ngày 06 tháng 10 năm 2017 của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn một cách phù hợp, hiệu quả.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị,
các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư nhằm phát triển du lịch đạt tốc
độ nhanh, phấn đấu đến năm 2030, du lịch Thái Bình trở thành ngành kinh tế có
vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh.
Nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và nhân dân về tầm quan trọng
của du lịch, huy động mọi nguồn lực, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và phát
huy các giá trị tài nguyên để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ và hoàn thành các
mục tiêu đặt ra tại Chương trình hành động, tạo ra bước đột phá thúc đẩy du lịch
của tỉnh phát triển bền vững.
Phát động phong trào ứng xử văn minh, tận tình hỗ trợ du khách, nâng cao
nhận thức của xã hội về phát triển du lịch; phát động phong trào “Mỗi người dân
là một hướng dẫn viên du lịch”.
68
Xây dựng và thực hiện các chương trình, nội dung nhằm nâng cao nhận
thức, đổi mới tư duy cho các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của ngành du lịch trong sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm
quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; tạo điều kiện thuận lợi và bảo
đảm môi trường cho phát triển du lịch, tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực
khác phát triển.
3.2.5. Củng cố tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
chuyên nghiệp về du lịch
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần chú trọng công tác đào tạo
và sử dụng đội ngũ cán bộ về du lịch. Nhà nước căn cứ nhu cầu vào thực tế của
địa phương, căn cứ vào tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ về du lịch
được quy định đối với từng cấp để lập kế hoạch về nguồn nhân lực, từ đó tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ về du lịch ở cơ sở.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, chế độ, chính
sách đối với cán bộ hoạt động về du lịch; ban hành các chính sách nhằm khuyến
khích xã hội hóa trong huy động nguồn lực để xây dựng các thiết chế về du lịch.
Bổ sung, hoàn thiện chế độ chính sách về lương, chế độ thù lao công tác
đối với đội ngũ cán bộ làm công tác về du lịch. Xây dựng chính sách ưu tiên hoạt
động về du lịch ở vùng miền núi, hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo
Từ đó từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với hoạt
động du lịch trên địa bàn tinh thông về nghề nghiệp, có phẩm chất tốt, có năng
lực tổ chức quản lý, điều hành theo mục tiêu đã định.
Cần có trường đại học hoặc phân khoa đào tạo chuyên ngành về công tác
du lịch. Để bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Nội
vụ cần được giao xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo, bồi dưỡng các ngành
học, trong đó có môn về du lịch, bằng nhiều hình thức, kể cả gửi ra nước ngoài đào
69
tạo hoặc bồi dưỡng ngắn hạn để qua đó học hỏi kinh nghiệm làm công tác du lịch,
đồng thời tìm hiểu về cách ứng xử đối với du lịch ở một số nước trên thế giới.
Các cơ quan trong hệ thống chính trị làm công tác du lịch cần thường
xuyên cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, đào tạo lại và các lớp bồi dưỡng, cập
nhật thông tin, kiến thức liên quan đến du lịch do các trường đại học, học viện và
các cơ quan chuyên môn tổ chức. Bên cạnh việc ủng hộ, tạo điều kiện của các cơ
quan quản lý cán bộ làm công tác về du lịch và sự nỗ lực học tập của đội ngũ học
viên thì các trường đại học, học viện và các cơ quan hữu quan khi mở các khóa
đào tạo, các lớp bồi dưỡng về công tác du lịch cần quan tâm đến việc đổi mới
nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học viên là đội ngũ cán
bộ làm công tác du lịch - những người đã có thời gian trải nghiệm qua công việc
thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu của người học và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Nâng cao chất lượng công tác tổng kết, đánh giá thực trạng tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch để làm cơ sở tham mưu với Đảng,
Nhà nước xác định rõ mô hình và thiết lập một hệ thống làm công tác du lịch ổn
định, đồng bộ, có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, thống nhất
trong chỉ đạo và hoạt động; đồng thời, phát hiện những nội dung còn bất hợp lý,
không phù hợp với thực tiễn trong những quy định về công tác cán bộ làm công
tác du lịch, cũng như những vấn đề mới nảy sinh liên quan đến cán bộ và công
tác cán bộ làm công tác du lịch để kịp thời khắc phục và đề xuất với Đảng, Nhà
nước điều chỉnh cho phù hợp.
Cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ làm
công tác du lịch theo hướng thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, theo đó, động
viên được cả về phương diện vật chất (thông qua cơ chế đặc thù về tiền lương,
phụ cấp...) và phương diện tinh thần (quan tâm tới các chế độ, như khen thưởng,
nghỉ dưỡng, các hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm làm công tác du lịch
giữa các địa phương...
70
3.2.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động
du lịch
Thứ nhất, cần tiêu chuẩn hoá nhân lực du lịch Việt Nam.
Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Du lịch
tại Việt Nam, Nhà nước cần đưa ra một bộ tiêu chuẩn được phát triển mở rộng
về nhân lực ngành du lịch ví dụ như thuyết minh du lịch, phục vụ trên tàu thủy
du lịch và vận hành cơ sở lưu trú nhỏ, cũng như mở rộng thành 5 bậc nghề từ
nhân viên tập sự cho tới quản lý cấp cao. Toàn bộ các tiêu chuẩn này giúp người
lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học sinh các trường du lịch
nghiên cứu, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu
chuẩn nghề du lịch Việt Nam bản mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng của
ngành du lịch thông qua việc triển khai thực hiện, định hướng công tác đào tạo
và hội nhập khu vực.
Thứ hai, cần có cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực du lịch.
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần có cơ chế đặc thù đào tạo
nhân lực du lịch trình độ đại học từng giai đoạn theo hướng đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Trong đó nhấn mạnh sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp trong đào tạo là
điều kiện bắt buộc để được thực hiện cơ chế đặc thù này.
Về cơ chế, chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực du lịch:
+ Khuyến khích thực hiện hình thức đào tạo văn bằng thứ hai ngành du
lịch; khuyến khích các cơ sở đào tạo linh hoạt mở ngành đào tạo nhân lực du lịch
theo nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế.
+ Các cơ sở đào tạo liên kết đào tạo với doanh nghiệp được tự chủ xác định
chỉ tiêu tuyển sinh theo hướng mở rộng quy mô đối với các ngành đào tạo về du
lịch; mở rộng chỉ tiêu đào tạo văn bằng 2 trình độ đại học của các ngành này.
+ Trên cơ sở tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, phân tích mức
độ đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp nhóm ngành du lịch, các
71
cơ sở đào tạo xác định chỉ tiêu tuyển sinh, điều chỉnh chương trình đào tạo phù
hợp với thị trường lao động ngành du lịch.
+ Khuyến khích sinh viên đã tốt nghiệp các ngành khác được chuyển sang
học văn bằng thứ hai các ngành du lịch tại các cơ sở đào tạo du lịch.
+ Chỉ tiêu và điều kiện tiếp nhận do thủ trưởng các cơ sở đào tạo đại học quy
định theo hướng phù hợp với thị trường lao động và sự tự nguyện của người học.
+ Khuyến khích chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý…(gọi chung
là chuyên gia) có kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp của doanh nghiệp tham
gia đào tạo nhân lực du lịch, đặc biệt là giảng dạy, hướng dẫn các nội dung liên
quan đến các kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Các chuyên gia này là
người tốt nghiệp Thạc sỹ trở lên hoặc tốt nghiệp đại học có từ 3 năm kinh
nghiệm trở lên đúng ngành tham gia đào tạo. Trên cơ sở thống nhất với doanh
nghiệp đối tác về tỷ lệ thời gian tham gia đào tạo của các chuyên gia, cơ sở đào
tạo được tính các chuyên gia là giảng viên cơ hữu phù hợp với tỷ lệ thời gian
tham gia đào tạo để xác định chỉ tiêu tuyển sinh các Ngành Du lịch.
+ Có chính sách thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, chuyên
gia quốc tế về du lịch tham gia công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo đại học.
Trên cơ sở hợp đồng lao động giữa hai bên, các chuyên gia này được tính là
giảng viên cơ hữu khi xác định chỉ tiêu tuyển sinh.
Thứ ba. ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo nhân lực
du lịch.
Vấn đề đặt ra cho mỗi cơ sở đào tạo nhân lực du lịch là triển khai hệ
thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, triển khai hệ thống quản lý
hành chính điện tử và liên thông toàn ngành; hệ thống họp, hội thảo, tập huấn
chuyên môn qua mạng; bổ sung, cập nhật các dịch vụ công trực tuyến tối thiểu
mức độ 3, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tuyển sinh đầu khóa. Đồng
thời, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, quản lý giáo án, bài giảng số, quản lý
thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản lý điện tử; tích hợp với trang tin điện tử của nhà
trường trên môi trường mạng ở tất cả các khóa học.
72
Đối với giảng viên phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đổi mới
nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học. Cụ
thể, xây dựng và thường xuyên cập nhật kho học liệu số dùng chung, gồm: Bài
giảng, giáo trình, đề thi điện tử, học liệu số đa phương tiện, phần mềm mô phỏng
và các học liệu khác. Tiếp tục xây dựng và thường xuyên cập nhật hệ thống ngân
hàng câu hỏi trực tuyến của các môn học và phần mềm kiểm tra, đánh giá tập
trung qua mạng phục vụ sinh viên, giảng viên trên nguyên tắc thiết thực, hiệu
quả. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo du lịch phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cổng
thư viện số (giáo trình, bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ học liệu với các
cơ sở đào tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục
đại học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác, ứng dụng
các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào trong quá
trình giảng dạy cho sinh viên.
3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động du lịch
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, hoạt
động của người nước ngoài; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp
người nước ngoài hoạt động du lịch trái phép trên địa bàn, như: hành nghề
hướng dẫn viên du lịch trái phép, kinh doanh du lịch trái phép và hoạt động
tuyên truyền các nội dung không đúng quy định. Đảm bảo an ninh trật tự tại các
khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh; kịp thời phát hiện, xử lý tình trạng ép buộc,
lừa đảo khách du lịch vào các cơ sở bán hàng nhái, hàng kém chất lượng; các
hoạt động phức tạp về an ninh trật tự phát sinh từ loại hình tour du lịch giá rẻ.
Đồng thời, chủ động phối hợp với Sở Du lịch và các cơ quan, đơn vị có
liên quan trong công tác nắm tình hình, phát hiện, điều tra, xử lý đối với các loại
tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật trên lĩnh vực đảm bảo an ninh trật tự liên
quan đến loại hình tour du lịch giá rẻ, như: sử dụng thẻ hướng dẫn viên giả để
hành nghề; sử dụng bằng cấp, giấy tờ giả để được cấp thẻ hướng dẫn viên;
chuyển tiền kinh doanh trái phép qua máy POS, ví điện tử,...
73
Sở Công Thương mỗi tỉnh cần thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra hoạt
động khuyến mại của các doanh nghiệp kinh doanh; kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm theo quy định. Khuyến khích phát triển các trung
tâm mua sắm, điểm bán hàng phục vụ khách du lịch hoạt động đúng pháp luật;
đa dạng hóa các mặt hàng, có chất lượng, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủ
công mỹ nghệ của địa phương để phục vụ khách du lịch.
UBND các huyện, thành phố phối hợp chặt chẽ với Sở Du lịch trong quá
trình kiểm tra, giám sát hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch; đảm bảo an
ninh trật tự, an toàn xã hội, môi trường du lịch tại các khu, điểm du lịch, nơi tập
trung nhiều du khách trên địa bàn; tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin
về bản chất của loại hình tour du lịch giá rẻ tới toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn; chỉ đạo công an các huyện, thành
phố quản lý chặt chẽ người nước ngoài tạm trú trên địa bàn quản lý, yêu cầu khai
báo theo quy định.
74
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, tác giả đã tập trung nghiên cứu việc áp dụng pháp luật về
quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên thực tế tại tỉnh Ninh
Bình. Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế tại
Ninh Bình ở Chương 2, luận văn đánh giá sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật
về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch.
Đồng thời, tác giả đã đưa ra những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về
quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch và giải quyết kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch. Những kiến nghị này có thể góp phần cung cấp những giải
pháp cho các nhà làm luật tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
trong thời gian tới.
Ngoài ra, luận văn cũng đề xuất các giải quyết chung trong việc nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch.
75
KẾT LUẬN
Du lịch đang ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đấu của nền kinh tế
- xã hội (KT-XH), là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện giữ gìn hòa bình và
hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những
ngành kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại
những lợi ích phát triển KT-XH to lớn.
Phát huy lợi thế đó, trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung đầu tư
phát triển du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch,
phát triển sản phẩm du lịch và xây dựng hệ thống cơ sở và đội ngũ nhân viên
ngành du lịch. Ngày 13-7-2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban
hành Nghị quyết số 15-NQ/TU về phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030. Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao và đầu tư thích đáng,
các hoạt động dịch vụ, du lịch của tỉnh liên tục phát triển, doanh thu du lịch năm
2010 ước đạt 559 tỷ đồng, tăng 8,8 lần so với năm 2005.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động du lịch đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng và lợi thế của tỉnh. Chất lượng các dịch vụ du lịch chưa cao; doanh số kinh
doanh du lịch còn khiêm tốn, khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế ở lại Ninh
Bình với số lượng ít, số ngày lưu trú ngắn... Ninh Bình còn thiếu các khu nghỉ
dưỡng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí cao cấp đạt chuẩn quốc tế. Hơn nữa,
tỉnh chưa tạo được sản phẩm du lịch độc đáo, đặc trưng, có sức thu hút khách.
Về quản lý nhà nước, còn lúng túng và thực hiện kém hiệu quả ở tất cả các khâu,
đặc biệt là công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, quản lý các cơ sở du lịch đảm bảo
chất lượng và uy tín đối với khách hàng.
Để thực hiện các mục tiêu và quan điểm phát triển du lịch nêu trên, ngoài
sự nỗ lực của các cơ sở du lịch của tỉnh, về phía quản lý nhà nước cần có những
biện pháp đổi mới và thực hiện triệt để trong thực tế. Việc nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch sẽ giúp ngành du lịch Ninh Bình giữ
được các chuẩn mực và chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh,
về lâu dài sẽ phát triển ổn định và hiệu quả cao. Trong điều kiện hiện nay, để đổi
76
mới, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình, cần có những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn đổi
mới và hoàn thiện công tác này.
Với đề tài: "Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế" được lựa chọn làm
luận văn tốt nghiệp khóa học thạc sĩ của học viên.
Do trình độ và thời gian có hạn, những giải pháp, kiến nghị nêu ra có thể
chưa toàn diện, chưa thấy hết khía cạnh của vấn đề và luận văn không tránh khỏi
những sai sót.
Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo, Giảng viên
hướng dẫn để bài luận văn được hoàn thành với chất lượng tốt hơn và xin chân
thành cám ơn!
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Đức Ánh (2002), Du lịch Ninh Bình phát triển bền vững", Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 3.
2. Nguyễn Thái Bình (2003), Để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6.
3. Chính phủ (2004), Quyết định số 204/2006/QĐ-TTg ngày 17/8 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam, Hà Nội.
4. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XVIII,
Ninh Bình.
5. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIX,
Ninh Bình.
6. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XX,
Ninh Bình.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (2004), Giáo trình Kinh tế du
lịch, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Đình Hòa (2004), "Du lịch sinh thái - thực trạng và giải pháp để
phát triển ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 8
10. Hội đồng Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1966), Từ điển Bách
khoa toàn thư Việt Nam, Hà Nội.
11. Đinh Trung Kiên (2003), "Đào tạo nguồn nhân lực du lịch trước yêu cầu
mới", Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7.
12. Nguyễn Thị Hoa Lệ (2003), "Để du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn", Du lịch Việt Nam,
13. Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và
thực tiễn phát triển ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Duy Mạnh và Lê Trung Kiên (2005), "Du lịch sinh thái và kinh
78
doanh sản phẩm du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn
thiên nhiên của Việt Nam", Tạp chí Kinh tế phát triển số 8.
15. Bùi Xuân Nhàn (2003), "Đào tạo nguồn nhân lực thực hiện thắng lợi
chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2001 - 2010",Tạp chí Du lịch Việt
Nam, số 12.
16. Trần Phương (2003), “Bảo tồn văn hóa duyên hải để phát triển du lịch",
Văn hóa Nghệ thuật, (6).
17. Quốc hội (2014), Hiến pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (2017), Luật du lịch, Hà Nội.
19. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
20. Sở Du lịch Ninh Bình (2010), Chương trình phát triển du lịch Ninh Bình
2010 - 2015, Ninh Bình.
21. Sở Du lịch Ninh Bình (2012), Phát triển du lịch Ninh Bình bền vững
trong tương quan hợp tác - hỗ trợ của các tỉnh bạn, Kỷ yếu hội thảo
khoa học, Ninh Bình.
22. Sở Du lịch Ninh Bình (2003), Báo cáo dự án tổ chức tour du lịch sinh
thái núi chùa Bái Đính Gia Sinh - Gia Viễn, Ninh Bình.
23. Sở Du lịch Ninh Bình (2014), Tóm tắt báo cáo quy hoạch chi tiết xây
dựng khu du lịch Tràng An, Ninh Bình.
24. Sở Du lịch Ninh Bình (2014), Thuyết minh quy hoạch khu du lịch sinh
thái hồ Đồng Thái, hồ Đoòng Đèn, huyện Yên Mô, thị xã Tam Điệp,
Ninh Bình.
25. Sở Du lịch Ninh Bình - Viện Nghiên cứu Quy hoạch phát triển Du lịch
(1995), Đề án quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Ninh Bình đến 2010,
Ninh Bình.
26. Sở Du lịch Ninh Bình (2001-2010), Báo cáo tổng kết hoạt động du lịch
Ninh Bình các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008,
2009, 2010, Ninh Bình.
27. Stephanie Thullen (SNV-Việt Nam) (2006), "Du lịch sinh thái không
79
đơn thuần chỉ là du lịch thiên nhiên", Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 10.
28. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2005), "Du lịch Ninh Bình: phấn đấu trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh", Tạp chí Kinh tế và dự báo số 4.
29. Nguyễn Xuân Thảo - Lã Đăng Bật (2005), Xây dựng thành phố Hoa Lư
du lịch, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
30. Doãn Quang Thiện (1993), Đổi mới cơ chế quản lý ngành du lịch nước
ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa học Kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
31. Tổng cục Du lịch (2000), Sổ tay hướng dẫn đánh giá tác động môi
trường cho phát triển du lịch, Công ty in Tiến bộ, Hà Nội.
32. Tổng cục Du lịch (2004), Kỷ yếu hội thảo bảo vệ môi trường du lịch, Hà Nội.
33. Tổng cục Du lịch (2004), Tài liệu Hội thảo xây dựng luật du lịch Việt
Nam, Hà Nội.
34. Tổng cục Du lịch - IUCN - ESCAP (1999), Xây dựng chiến lược quốc
gia về phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam, Tuyển tập báo cáo hội
thảo khoa học, Hà Nội.
35. Tổng cục Du lịch và Quỹ phát triển bền vững Tây Ban Nha (2003), Dự
án xây dựng năng lực cho phát triển du lịch ở Việt Nam, Hà Nội.
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2009), Báo cáo quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội tỉnh Ninh Bình đến 2020, Ninh Bình.
37. lyluanchinhtri.vn