BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………./………….

………/………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ THANH TÚ

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………./………….

………/………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ THANH TÚ

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 8340403

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VIẾT ĐỊNH

HÀ NỘI – NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công với đề

tài “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định”

là sản phẩm nghiên cứu của em, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học

của TS. Nguyễn Viết Định và hoàn thành tại Học viện Hành chính quốc gia

năm 2019.

Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và

không trùng lặp với các luận văn khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài

liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Em xin hoàn toàn

chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.

HỌC VIÊN

Hoàng Thị Thanh Tú

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên

địa bàn tỉnh Nam Định”, bên cạnh sự tự nghiên cứu của bản thân, em đã nhận

được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tận tình của các thầy cô, bạn

bè, đồng nghiệp và gia đình trong suốt khóa học cũng như trong thời gian

nghiên cứu để làm luận văn này.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Viết Định, người

thầy đã tận tình hướng dẫn khoa học và giúp đỡ em trong quá trình nghiên

cứu, viết luận văn.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cơ quan, ban ngành của tỉnh Nam

Định cùng bạn bè, đồng nghiệp... đã cung cấp tài liệu để em nghiên cứu và

viết luận văn này.

Đề tài “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh

Nam Định” có phạm vi rất rộng. Vì vậy, luận văn không thể tránh khỏi những

thiếu sót và hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của

các thầy cô và những ai quan tâm đến đề tài này để luận văn được hoàn thiện

hơn nữa.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, năm 2019.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

An ninh, trật tự ANTT

Cứu nạn, cứu hộ CNCH

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GDP Tổng sản phẩm nội địa

GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn

HĐND Hội đồng nhân dân

PC&CC Phòng cháy và chữa cháy

PCCC Phòng cháy, chữa cháy

PCCC&CNCH Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ

QLNN Quản lý nhà nước

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

Bảng 2.1. Thống kê tình hình cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định………... 54

Bảng 2.2. Thống kê các cơ sở về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định…... 74

Hình 2.1. Biểu đồ tỷ lệ nguyên nhân gây cháy………………………….. 53

Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH

Công an tỉnh Nam Định…………………………………………………. 61

Hình 2.3. Biểu đồ thống kê các cơ sở về PCCC tại tỉnh Nam Định…….. 75

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY ........................................................................ 7

1.1. Một số vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu ............................................... 7

1.1.1. Một số khái niệm ............................................................................................... 7

1.1.2. Tính chất và nguyên tắc hoạt động phòng cháy, chữa cháy ........................... 19

1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy ................................................ 22

1.2.1. Đặc điểm của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ........................... 22

1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ............................... 23

1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ............................... 26

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy .................................. 28

1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ............................ 32

1.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa

cháy ........................................................................................................................... 34

1.3.1. Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng cháy và chữa cháy ............. 34

1.3.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa

cháy ........................................................................................................................... 34

1.3.3. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và nguồn lực tài chính, trang bị phương tiện

cho lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy .................................................... 35

1.3.4. Ý thức của xã hội và các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc thực hiện

pháp luật về phòng cháy, chữa cháy ......................................................................... 36

1.4. Kinh nghiệm trong quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy ở một số

địa phƣơng và bài học thực tiễn rút ra cho tỉnh Nam Định ................................ 37

1.4.1. Kinh nghiệm ở một số địa phương .................................................................. 37

1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Nam Định ....................................................... 41

Tiểu kết Chƣơng 1 ................................................................................................... 44

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ........................................... 45

2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Nam Định .... 45

2.1.1. Khái quát chung điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Nam Định .... 45

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng của địa phương ảnh

hưởng đến công tác quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy ........................ 47

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên địa

bàn tỉnh Nam Định .................................................................................................. 52

2.2.1. Thực trạng cháy và thiệt hại do cháy gây ra trên địa bàn tỉnh Nam Định trong

05 năm (2014 - 2019) ................................................................................................ 52

2.2.2. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn

tỉnh Nam Định ........................................................................................................... 55

2.2.3. Đánh giá tổng quát thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định ....................................................................................... 85

Tiểu kết Chƣơng 2 ................................................................................................... 97

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ

PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ............. 98

3.1. Phƣơng hƣớng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn

tỉnh Nam Định ......................................................................................................... 98

3.1.1. Về quan điểm .................................................................................................. 98

3.1.2. Về mục tiêu ................................................................................................... 103

3.1.3. Dự báo tình hình, xu hướng .......................................................................... 104

3.2. Các giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên

địa bàn tỉnh Nam Định ......................................................................................... 106

3.2.1. Triển khai thực hiện, bổ sung pháp luật về phòng cháy, chữa cháy trên địa

bàn tỉnh Nam Định .................................................................................................. 106

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy lực lượng làm công tác quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định .......................................................... 113

3.2.3. Nâng cao nhận thức trong công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định ............................................................................ 117

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác

phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định ............................................... 118

3.2.5. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công tác phòng cháy,

chữa cháy; Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm

hành chính trong quản lý nhà nước về PCCC ......................................................... 120

Tiểu kết Chƣơng 3 ................................................................................................. 126

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 127

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 129

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy là một trong những lĩnh vực xã hội có

tầm quan trọng đặc biệt và mang ý nghĩa thời sự. “Thủy, hỏa, đạo, tặc” - câu

nói của ông cha ta từ ngày xưa đến nay vẫn nguyên giá trị, bởi vì, cháy là một

trong những tai nạn, rủi ro gây nên những thiệt hại to lớn về người và của cải,

vật chất; nguy cơ cháy luôn tiềm ẩn trong sinh hoạt, sản xuất thường ngày, là

sự đe dọa lớn đến an toàn cuộc sống của người dân. Trên thực tế, các vụ cháy

xảy ra khi không được kiểm soát đều gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản,

ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Theo

số liệu của Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (Bộ Công

an), trong 06 tháng đầu năm 2019, trên cả nước đã xảy ra 1927 vụ cháy, làm

chết 59 người, bị thương 64 người, thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 654,94

tỷ đồng và 408 hecta rừng; trong đó đặc biệt có 27 vụ cháy lớn gây thiệt hại

nghiêm trọng về người và tài sản. Những con số cho thấy rằng một khi đã xảy

ra cháy thì hậu quả rất khó lường.

Là một trong những nội dung quản lý trọng tâm của mọi Nhà nước

cũng như mọi chính quyền địa phương; trong những năm qua, công tác phòng

cháy và chữa cháy luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và được

đặt lên hàng đầu. Hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng mô hình tổ chức,

nâng cao năng lực của các chủ thể quản lý, trong đó có quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan

trọng và được đặt ra như những nhu cầu bức xúc của xã hội.

Hiện nay, tình hình kinh tế, chính trị và biến đổi khí hậu trên thế giới

cũng như khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp. Trong nước, quá trình xây

dựng và phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh – quốc phòng, cùng với những

điều kiện về tự nhiên và xã hội của mỗi địa phương luôn tiềm ẩn nguy cơ rất

1

lớn xảy ra cháy. Nam Định những năm qua là tỉnh có tốc độ đô thị hóa nhanh,

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội phát triển nóng, điều này dẫn đến hệ quả là

nguồn nước tự nhiên bị thu hẹp; các hồ, ao bị san lấp lấy mặt bằng. Nguồn

nước phục vụ chữa cháy mặc dù đã được bổ sung nhưng vẫn không đủ so với

yêu cầu thực tế. Hệ thống đường giao thông phục vụ chữa cháy nhỏ, nhiều

khu dân cư ngõ hẹp, dài hàng trăm mét và lưu lượng phương tiện tham gia

giao thông đông. Hệ thống đường điện lắp đặt phức tạp, câu móc chằng chịt,

nhất là ở khu vực thành phố và các thị trấn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ chập,

chạm… Những thực trạng này đang tác động trực tiếp hàng ngày, hàng giờ

đến công tác phòng cháy, chữa cháy và đặt ra những yêu cầu bức thiết, cấp

bách cho hoạt động quản lý nhà nước nhằm bảo đảm an toàn phòng cháy,

chữa cháy phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh Nam

Định nói riêng và cả nước nói chung.

Trước yêu cầu cao của thực tiễn, công tác phòng cháy, chữa cháy trên

địa bàn tỉnh Nam Định đứng trước đòi hỏi cần thiết phải có sự thay đổi mạnh

mẽ cả về tổ chức và phương thức hoạt động dựa trên cơ sở các quy định của

pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cấp ủy, chính quyền

tỉnh Nam Định luôn ý thức đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc về trách nhiệm, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

PCCC tại địa phương; coi đây là một công việc thường xuyên đối với mọi tổ

chức trong hệ thống chính trị của tỉnh. Những năm gần đây, tình hình cháy,

nổ về cơ bản đã được kiềm chế cả về số vụ và mức độ thiệt hại; đời sống của

người dân trong tỉnh được giữ vững; nhận thức về công tác PCCC trong cơ

quan, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư không ngừng được nâng lên, góp

phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh. Tuy

nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, do nhiều nguyên nhân

khác nhau nên công tác PCCC của tỉnh Nam Định vẫn còn những hạn chế, bất

2

cập; ý thức của một bộ phận cán bộ, Nhân dân về PCCC chưa cao, đòi hỏi cần

phải được hết sức tăng cường, đặc biệt là trong bối cảnh những năm tới, khi

tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa trên địa bàn tỉnh đang tăng rất nhanh.

Theo đó, xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương, luận văn đã lựa

chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh

Nam Định” để làm đề tài tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công, góp

phần đưa ra các giải pháp, hệ thống hóa các vấn đề về lý luận và thực tiễn

nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa

bàn tỉnh Nam Định.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề quản lý nhà nước về PCCC đã được đề

cập đến trong một số cuốn sách và các công trình nghiên cứu khoa học có liên

quan trực tiếp cùng các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý công về phòng cháy,

chữa cháy, như:

- Giáo trình của PGS.TS Đào Hữu Dân - Trường Đại học PCCC:

“Quản lý nhà nước về PCCC” - NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2012.

- Đề tài khoa học của các tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Từ,

Kiều Hồng Mai: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động PCCC trong

các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay” - Hà Nội, 2004.

- Đề tài khoa học cấp cơ sở của PGS.TS Đào Hữu Dân - Trường Đại

học PCCC: “Nghiên cứu chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực PCCC

của lực lượng Cảnh sát PC&CC trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới

đất nước hiện nay” - Hà Nội, 2001.

- Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý hành chính công

của tác giả Nguyễn Chấn Nam với đề tài “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực

PCCC của lực lượng Cảnh sát PC&CC” tại Hà Nội năm 2008.

3

- Luận văn thạc sĩ với đề tài “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” năm 2016 của tác giả

Phạm Tấn Quốc.

Ngoài ra, trên ấn phẩm Tạp chí PC&CC còn một số bài viết và công

trình nghiên cứu khoa học đã được công bố của một số tác giả có đề cập đến

nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy.

Kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học nêu trên là rất quan

trọng để thực hiện luận văn này. Các công trình đều có nội dung liên quan

mật thiết đến đề tài; ở một mức độ nhất định đã đề cập đến quản lý nhà nước

về PCCC và phân tích, đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau của công tác

phòng cháy, chữa cháy cả về lý luận lẫn thực tiễn, những ưu điểm và tồn tại.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu toàn diện lĩnh

vực quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Qua đây, luận văn “Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn

tỉnh Nam Định” hy vọng sẽ phần nào làm sáng tỏ và giải quyết được vấn đề

cần nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

- Mục đích: Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản của quản lý nhà nước

về phòng cháy, chữa cháy; phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân của

những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về PCCC ở tỉnh Nam Định để

từ đó đề xuất các giải pháp góp phần tăng cường quản lý nhà nước về PCCC

trên địa bàn tỉnh Nam Định.

- Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

+ Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về PCCC.

+ Phân tích thực trạng tình hình cháy và quản lý nhà nước về PCCC

trên địa bàn tỉnh Nam Định; đánh giá kết quả đạt được, các mặt còn hạn chế,

thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.

4

+ Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao quản lý nhà nước về

PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng, nội dung nghiên cứu:

+ Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định.

+ Nội dung nghiên cứu của luận văn là các nội dung quản lý nhà nước

về phòng cháy, chữa cháy ở tỉnh Nam Định theo quy định của pháp luật.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Nam Định.

+ Thời gian nghiên cứu: 05 năm (từ năm 2014 đến nay) và định hướng

đến năm 2025.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của

Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng Hòa Xã

Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về lĩnh vực PCCC và quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trong thời kỳ đổi mới để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được nhiệm vụ và đạt được

mục tiêu của đề tài này, trong quá trình triển khai nghiên cứu, luận văn đã sử

dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương

pháp so sánh, phương pháp kế thừa lịch sử, phương pháp khảo sát thực tế,

thống kê.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận, luận văn góp phần hệ thống hóa một số lý luận cơ bản của

quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam; trên cơ sở đó vận

5

dụng vào phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian qua và đề xuất một số

giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa

cháy ở tỉnh Nam Định thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

đóng góp phần nào cho thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên

địa bàn tỉnh Nam Định trong thời kỳ mở cửa hội nhập.

Về thực tiễn, luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục

vụ trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học về một số lĩnh vực, môn

học liên quan tới phòng cháy, chữa cháy, quản lý rủi ro, quản lý tình huống

khẩn cấp và tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn có cấu trúc, kết cấu gồm 03 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy;

- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định;

- Chương 3: Phương hướng và giải pháp quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định.

6

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ

NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

1.1. Một số vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm cháy

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005,

“cháy” được hiểu là: “Phản ứng oxy hóa có kèm theo tỏa nhiệt và phát sáng.

Sự cháy chỉ xảy ra khi có đầy đủ điều kiện cháy, đó là sự kết hợp giữa chất

cháy, chất oxy hóa (thường là oxy trong không khí) và nguồn gây cháy. Thiếu

một trong ba yếu tố đó thì không có sự cháy” [2]. Trong Tiêu chuẩn Việt Nam

5303:1990 An toàn cháy - thuật ngữ và định nghĩa, cũng nêu rõ: “Sự cháy là

phản ứng oxy hóa, tỏa nhiệt và phát sáng”. Như vậy, xét về bản chất, cháy là

một phản ứng hóa học giữa các chất cháy với oxy của không khí hoặc với một

chất oxy hóa khác kèm theo sự tỏa nhiệt và phát sáng. Sự cháy chỉ có thể xảy

ra khi có sự kết hợp những điều kiện nhất định giữa chất cháy (hơi, khí, bụi

cháy) với chất oxy hóa có tác động của nguồn gây cháy. Các yếu tố cần cho

sự cháy bao gồm: chất cháy, nguồn gây cháy và chất oxy hóa, thiếu một trong

ba yếu tố trên thì không có sự cháy xảy ra (điều kiện cần). Tuy nhiên, không

phải lúc nào cứ có đủ ba yếu tố trên là sự cháy xảy ra mà phải có sự kết hợp

các yếu tố trong những điều kiện nhất định (điều kiện đủ). Các điều kiện gây

cháy ở đây có thể là thời gian tiếp xúc, khoảng cách giữa chất cháy với nguồn

gây cháy; giới hạn nồng độ bốc cháy của chất cháy; cường độ nguồn gây

cháy, nhiệt độ môi trường v.v... Vì vậy, trong lĩnh vực PCCC phải nghiên cứu

các nguyên nhân và điều kiện gây cháy để phục vụ công tác phòng cháy cũng

như dập tắt đám cháy.

Việc nghiên cứu xác định bản chất, quy luật hình thành sự cháy có ý

nghĩa quan trọng không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học PCCC mà

7

còn có ý nghĩa tích cực trong quản lý nhà nước về PCCC. Tuy nhiên giữa

nghiên cứu khoa học PCCC với quản lý nhà nước về PCCC không đồng nhất

với nhau về phạm vi khái niệm “cháy”.

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3, Luật PC&CC, “cháy” được hiểu là:

“Trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người,

tài sản và ảnh hưởng môi trường”. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật

PC&CC là phạm vi quản lý nhà nước về PCCC không tác động đến mọi

trường hợp gây cháy nói chung mà chỉ giới hạn trong trường hợp sự cháy

không kiểm soát được (đám cháy). Quan niệm về cháy như vậy là tiền đề để

xem xét các hoạt động của con người trong phòng ngừa cháy, nổ cũng như

trong hoạt động chữa cháy và các hoạt động khác có liên quan đến công tác

phòng cháy, chữa cháy.

1.1.1.2. Khái niệm phòng cháy

Việc nghiên cứu tìm ra bản chất, quy luật của quá trình phát sinh, phát

triển đám cháy đối với mỗi chất, mỗi quá trình công nghệ sản xuất và trong

các hoạt động bình thường khác của đời sống xã hội v.v… là để tìm ra các

giải pháp phòng ngừa có hiệu quả, đó chính là hoạt động phòng cháy. Theo

Tiêu chuẩn Việt Nam 5303:1990 An toàn cháy - thuật ngữ và định nghĩa đã

nêu rõ: “An toàn cháy là tình trạng hoặc tính chất của các sản phẩm, các

phương pháp, phương tiện sản xuất và các khu vực đảm bảo loại trừ được khả

năng phát sinh cháy và hạn chế được hậu quả khi cháy xảy ra nhờ các biện

pháp tổ chức, các giải pháp kỹ thuật và công nghệ”. Hoạt động đó có thể là sự

tác động tích cực từ phía Nhà nước (bằng việc ban hành các quy định bảo

đảm yêu cầu phòng chống cháy, nổ; tổ chức công tác kiểm tra, tuyên truyền,

xử lý vi phạm…) và sự tự giác thực hiện của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân và toàn xã hội.

8

Theo đó, trên quan điểm phòng ngừa tích cực, phòng ngừa chủ động,

có thể chỉ ra rằng: Phòng cháy là hệ thống các biện pháp, giải pháp về tổ

chức, kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn chế các điều kiện và nguyên nhân gây

cháy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan

khi xảy ra cháy và cho việc tổ chức dập tắt đám cháy [4, tr.34].

Biện pháp cơ bản trong hoạt động phòng cháy là quản lý chặt chẽ và sử

dụng an toàn các chất cháy, chất nổ, nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị và dụng

cụ sinh lửa, sinh nhiệt; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy. Thường

xuyên, định kỳ kiểm tra, phát hiện các sơ hở, thiếu sót về phòng cháy và có

biện pháp khắc phục kịp thời. Hoạt động phòng cháy bao gồm: Thẩm duyệt

thiết kế về PCCC; tuyên truyền, xây dựng phong trào PCCC; thanh tra, kiểm

tra, xử lý vi phạm về PCCC; tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động khi không đảm

bảo an toàn về PCCC.

1.1.1.3. Khái niệm chữa cháy

Từ sự cháy (trong phạm vi kiểm soát) phát sinh và phát triển thành đám

cháy là một quá trình có thể do nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong

đó có những nguyên nhân do sơ xuất, bất cẩn hoặc ngoài sự kiểm soát của con

người đã và sẽ tiếp tục tồn tại, gây nên những đám cháy có thể gây tổn hại lớn

về người và tài sản. Vì vậy, việc phòng ngừa cháy, nổ phải đi đôi với chữa

cháy; hoạt động chữa cháy tồn tại như là một tất yếu trong các hoạt động

chung của xã hội. Điều 3 Luật PC&CC đã quy định: “Chữa cháy bao gồm

các công việc huy động, triển khai lực lượng, phương tiện chữa cháy, cắt

điện, tổ chức thoát nạn, cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan, dập tắt đám

cháy và các hoạt động khác có liên quan đến chữa cháy”.

Chữa cháy là huy động nhanh nhất lực lượng, phương tiện để dập tắt

ngay đám cháy; tập trung cứu người, cứu tài sản và chống cháy lan; thống

nhất chỉ huy, điều hành trong chữa cháy. Hoạt động chữa cháy bao gồm các

9

công việc như: xây dựng và tổ chức thực tập phương án chữa cháy; thông tin

báo cháy và chữa cháy; huy động, triển khai lực lượng, phương tiện chữa

cháy, cắt điện, tổ chức thoát nạn, cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan, dập

tắt đám cháy và các hoạt động khác có liên quan đến chữa cháy [Điều 3, Luật

PC&CC].

Hoạt động phòng cháy và hoạt động chữa cháy tuy là hai khái niệm có

nội hàm khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một thể

thống nhất trong việc chủ động phòng ngừa cháy, nổ và sẵn sàng dập tắt đám

cháy. Vì vậy, có thể khái quát chung về hoạt động PC&CC như sau là: Tổng

hợp các biện pháp, giải pháp về tổ chức, chiến thuật và kỹ thuật nhằm loại

trừ hoặc hạn chế nguyên nhân, điều kiện gây cháy; tạo điều kiện thuận lợi

cho việc chủ động cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan và chữa cháy kịp

thời, có hiệu quả khi có cháy xảy ra [13, tr.30].

1.1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Về quản lý nhà nước, khái niệm này thường được hiểu theo nghĩa hẹp

là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, là sự tác động có tổ

chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với các

quá trình xã hội và hành vi của con người, do các cơ quan trong hệ thống

hành chính từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu,

chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Từ những nội dung nêu trên có thể rút

ra một số điểm chú ý sau: Một là, quản lý hành chính nhà nước có tư cách là

quyền lực nhà nước hay còn gọi là quyền hành pháp trong hành động; Hai là,

quản lý hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực hiện hàng ngày, tổ

chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân

bằng việc ra các quyết định quản lý hành chính mang tính quy phạm hay tính

cá biệt và tiến hành các hành vi quản lý cụ thể; Ba là, quản lý hành chính nhà

10

nước được thực hiện bởi hệ thống pháp nhân công quyền - thiết chế tổ chức

hành chính nhà nước.

Từ những trình bày kể trên về các quan niệm về PCCC và quản lý hành

chính nhà nước, có thể hiểu: “Quản lý nhà nước về PCCC là sự tác động có

tổ chức của các cơ quan nhà nước, bằng pháp luật do Nhà nước ban hành,

tác động tới hoạt động PCCC trong các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá

nhân của các chủ thể có thẩm quyền, hướng tới mục đích ngăn ngừa, hạn chế

đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra góp phần

bảo vệ tính mạng con người, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá

nhân, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội” [14]. Đó

là một bộ phận nằm trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia và trật tự an

toàn xã hội.

* Cơ quan quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Mục tiêu của quản lý nhà nước về PCCC là nhằm giảm thiểu tối đa và

hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra (nhất là các vụ cháy lớn) và

thiệt hại do cháy gây ra; góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, bảo

vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, bảo vệ môi trường, bảo đảm an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; đưa nhiệm vụ PCCC từng bước đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp

hóa - hiện đại hóa của đất nước.

+ Chủ thể của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Chủ thể quản lý nhà nước về PCCC là các cơ quan hành chính nhà

nước có thẩm quyền và các cá nhân được bầu, bổ nhiệm hoặc được trao một

quyền hạn nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý. Theo quy

định tại Điều 58 Luật PC&CC, chủ thể quản lý nhà nước về PCCC bao gồm:

Chính phủ, Bộ Công an, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

và Ủy ban nhân dân các cấp [13, tr.36].

11

- Chính phủ:

Theo quy định tại Điều 94, Hiến pháp năm 2013, Chính phủ là cơ quan

hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Vai trò của

Chính phủ trong quản lý nhà nước về PCCC là tổ chức thực hiện, bảo đảm

việc chấp hành các yêu cầu của Luật PC&CC thông qua việc ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật về PCCC nhằm cụ thể hóa các yêu cầu của Luật

PC&CC, như: Nghị quyết liên tịch, Nghị định và Quyết định của Thủ tướng

Chính phủ; bảo đảm sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước về

PCCC; thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra

hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND

các cấp thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC; có trách nhiệm phê

duyệt quy hoạch, kế hoạch mang tính chiến lược về PCCC trong phạm vi toàn

quốc; quyết định những vấn đề chung thuộc nội dung, phạm vi quản lý nhà

nước; đề ra và tổ chức chỉ đạo thực hiện các chủ trương, biện pháp công tác

lớn về PCCC; bảo đảm các điều kiện về tài chính, phương tiện, chế độ chính

sách v.v… và các vấn đề khác có liên quan đến PCCC.

- Bộ Công an:

Phòng cháy, chữa cháy thuộc lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,

đồng thời, theo quy định tại Điều 58, Luật PC&CC, Bộ Công an được Chính

phủ giao nhiệm vụ thực hiện và chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện

quản lý nhà nước về PCCC. Nhiệm vụ cụ thể của Bộ Công an trong quản lý

nhà nước về PCCC là: Đề xuất và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch về PCCC trên phạm vi toàn quốc; đề xuất ban hành hoặc ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật về PCCC; hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm

tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về PCCC; hướng dẫn, chỉ đạo

tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về PCCC, xây dựng phong trào

12

toàn dân tham gia hoạt động PCCC; thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra về

PCCC; giải quyết các khiếu nại, tố cáo có liên quan đến PCCC trong phạm vi

thẩm quyền; thực hiện thẩm duyệt, nghiệm thu về PCCC đối với các dự án,

công trình xây dựng, các phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt

về đảm bảo an toàn PCCC; kiểm tra, kiểm định và chứng nhận phù hợp đối

với thiết bị, phương tiện PCCC, vật liệu chống cháy; thực hiện công tác điều

tra, xử lý vụ cháy và xử lý các vi phạm quy định về PCCC; hướng dẫn, chỉ

đạo việc tổ chức thường trực sẵn sàng chiến đấu, xây dựng và thực tập

phương án chữa cháy; thực hiện nhiệm vụ CNCH; xây dựng và tổ chức thực

hiện dự án đầu tư, trang bị phương tiện PCCC cho lực lượng Cảnh sát

PC&CC; ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về trang bị, sử dụng

phương tiện PCCC; xây dựng lực lượng Cảnh sát PC&CC, tổ chức đào tạo

cán bộ chuyên môn về PCCC; tổ chức việc nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng

tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực PCCC; tổ chức hệ thống thông

tin quản lý, chỉ huy, điều hành hoạt động PCCC; kiểm tra hoạt động bảo hiểm

cháy, nổ gắn với hoạt động PCCC; trình Chính phủ tham gia các tổ chức quốc

tế, ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về hoạt động PCCC; thực hiện

các hoạt động quốc tế liên quan đến lĩnh vực PCCC theo thẩm quyền.

Cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC

thuộc Bộ Công an bao gồm: Cục Cảnh sát PCCC và CNCH; Công an cấp tỉnh

(trực tiếp là Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH thuộc Công an cấp tỉnh). Đây là

lực lượng nòng cốt trong quản lý nhà nước về PCCC (Điều 55 Nghị định

79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014). Cụ thể như sau:

Vị trí của lực lượng Cảnh sát PC&CC:

Lực lượng Cảnh sát PC&CC thuộc lực lượng Công an nhân dân, là một

bộ phận của lực lượng vũ trang, được tổ chức và quản lý thống nhất từ Trung

13

ương đến địa phương. Cảnh sát PC&CC là lực lượng nòng cốt trong thực hiện

nhiệm vụ quản lý nhà nước về PCCC (Điều 47 Luật PC&CC).

Chức năng và nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PC&CC:

Cảnh sát PC&CC thuộc Công an nhân dân, là một bộ phận của lực

lượng vũ trang, do đó lực lượng Cảnh sát PC&CC phải thực hiện đầy đủ các

chức năng chung của lực lượng Công an nhân dân; đồng thời phải thực hiện

đầy đủ các chức năng được quy định tại Khoản 29, Điều 1, Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật PC&CC. Cụ thể:

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao, lực lượng Cảnh sát

PC&CC có chức năng tham mưu, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về

PCCC. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; hướng dẫn xây dựng phong

trào toàn dân tham gia hoạt động PCCC; huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ,

kiến thức về PCCC. Thực hiện các biện pháp phòng cháy; thẩm định, phê

duyệt thiết kế và nghiệm thu về PCCC; tổ chức chữa cháy kịp thời, hiệu quả.

Xây dựng lực lượng PCCC; trang bị và quản lý phương tiện, thiết bị PCCC.

Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực

PCCC; kiểm tra, kiểm định kỹ thuật và chứng nhận phù hợp đối với phương

tiện, thiết bị và hàng hóa có yêu cầu nghiêm ngặt về phòng cháy và chữa cháy

theo quy định. Kiểm tra, thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về

PCCC; cấp giấy phép vận chuyển hàng nguy hiểm về cháy, nổ theo quy định.

Thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật về tổ chức

điều tra hình sự và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Quyền hạn của lượng Cảnh sát PC&CC:

Thẩm duyệt về PCCC đối với các dự án, quy hoạch, các công trình xây

dựng, phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt về PCCC theo quy

định của pháp luật; kiểm tra, nghiệm thu công trình về PCCC. Tạm đình chỉ,

14

đình chỉ hoạt động của cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, cá

nhân không đảm bảo an toàn về PCCC. Quyết định phục hồi hoạt động của cơ

sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, cá nhân. Cấp Giấy phép vận

chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ. Cấp Giấy chứng nhận huấn luyện

nghiệp vụ PCCC; giấy chứng nhận kiểm định phương tiện PCCC. Yêu cầu cơ

quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khắc phục các sơ hở, thiếu sót trong

PCCC. Tiến hành kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm quy định

của pháp luật về PCCC; Phê duyệt phương án chữa cháy. Trực tiếp chỉ huy

chữa cháy; trong phạm vi quyền hạn được giao có quyền huy động lực lượng,

phương tiện và tài sản của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để chữa

cháy; khi chữa cháy được sử dụng quyền quyết định phá, dỡ nhà, công trình,

vật chướng ngại và di chuyển tài sản trong tình thế cấp thiết để cứu người,

ngăn chặn nguy cơ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng. Điều động lực lượng,

phương tiện tham gia hoạt động PCCC theo quy định của pháp luật. Trong khi

thực hiện nhiệm vụ, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm, lực lượng Cảnh sát

PC&CC có thẩm quyền khởi tố vụ án và tiến hành một số hoạt động điều tra

ban đầu theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát PC&CC:

Theo quy định tại Điều 47 Luật PC&CC: “Lực lượng Cảnh sát PC&CC

là một bộ phận của lực lượng vũ trang, được tổ chức thống nhất từ Trung

ương đến địa phương do Bộ trưởng Bộ Công an quản lý, chỉ đạo”.

Trước yêu cầu ngày càng cao của việc bảo đảm an toàn PCCC trong

thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tổ chức bộ máy của lực

lượng Cảnh sát PC&CC đã có nhiều lần thay đổi, Cục Cảnh sát PC&CC thêm

chức năng tổ chức, hướng dẫn công tác CNCH và được đổi tên thành Cục

Cảnh sát PCCC và CNCH; cơ quan Cảnh sát PC&CC của 20 tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương được tách ra đến nay đã sát nhập lại Công an tỉnh.

15

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ:

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang

Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an tổ

chức thực hiện công tác PCCC như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật và

các quy định về phòng cháy, chữa cháy trong phạm vi quản lý và thẩm quyền

của mình; phối hợp với Bộ Công an tổ chức thực hiện các quy định của pháp

luật về PCCC; tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật, hướng dẫn kiến thức

về PCCC; chỉ đạo xây dựng và duy trì phong trào quần chúng PCCC; chỉ đạo

việc đầu tư kinh phí cho hoạt động PCCC, trang bị phương tiện PCCC; chỉ

đạo về tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả vụ cháy; bố trí lực lượng thực

hiện nhiệm vụ PCCC; thống kê, báo cáo Chính phủ và Bộ Công an về công

tác PCCC.

- Ủy ban nhân dân các cấp:

Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, UBND là cơ

quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước, chấp hành Nghị quyết của

HĐND cùng cấp cũng như các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Lĩnh

vực PCCC thuộc quyền quản lý của UBND các cấp được nêu theo quy định

của Luật PC&CC và Nghị định số 79/NĐ-CP của Chính phủ.

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong quản lý

nhà nước về phòng cháy, chữa cháy:

Ban hành các quy định về PCCC tại địa phương; chỉ đạo, kiểm tra và tổ

chức việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC tại địa phương; xử

lý hành chính các hành vi vi phạm quy định về PCCC theo thẩm quyền;

hướng dẫn, chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về PCCC cho

nhân dân, xây dựng phong trào quần chúng PCCC; đầu tư ngân sách cho hoạt

động PCCC; trang bị phương tiện PCCC; quy hoạch địa điểm, đề xuất cấp đất

và xây dựng doanh trại cho lực lượng Cảnh sát PC&CC; chỉ đạo việc xây

16

dựng và thực tập phương án chữa cháy cần huy động nhiều lực lượng, phương

tiện tham gia; chỉ đạo tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả vụ cháy; thống

kê, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên, Chính phủ và Bộ Công an về công tác

phòng cháy, chữa cháy.

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy:

Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về

PCCC tại địa phương; bảo đảm các điều kiện an toàn về PCCC đối với khu

dân cư; xử lý hành chính các hành vi vi phạm quy định về PCCC theo thẩm

quyền; tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục pháp luật, kiến thức về

PCCC; xây dựng phong trào quần chúng PCCC; quản lý đội dân phòng tại các

thôn; đầu tư kinh phí cho hoạt động PCCC; trang bị phương tiện PCCC cho

các đội dân phòng theo quy định; bảo đảm điều kiện về thông tin báo cháy,

đường giao thông, nguồn nước phục vụ chữa cháy; chỉ đạo việc xây dựng và

thực tập phương án chữa cháy; tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả vụ

cháy; thống kê, báo cáo về công tác PCCC lên UBND cấp huyện.

+ Đối tượng của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhà nước về PCCC hướng tới là hoạt

động, hành vi của các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân cụ thể trong

lĩnh vực PCCC. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý thông qua việc tác

động tới đối tượng này nhằm đảm bảo thực hiện các quy định của pháp luật

về PCCC.

Luật PC&CC phân loại đối tượng quản lý nhà nước về PCCC bao gồm:

Các cơ sở, khu dân cư, phương tiện giao thông cơ giới và rừng.

- Hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các cơ quan, doanh nghiệp

(gọi tắt là cơ sở).

17

Tại Khoản 1, Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

PC&CC giải thích: Cơ sở là nơi sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng,

trụ sở làm việc, khu chung cư và công trình độc lập khác theo danh mục do

Chính phủ quy định. Cơ sở thuộc diện quản lý nhà nước về PCCC khi nó đáp

ứng đủ các điều kiện: phải được bố trí trên một diện tích độc lập nhất định; có

người tổ chức quản lý, hoạt động và cần thiết phải có phương án chữa cháy và

phải đảm bảo điều kiện an toàn về PCCC theo quy định tại Điều 7 Nghị định

số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

- Đối tượng quản lý là hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các khu

dân cư (gọi tắt là khu dân cư).

Nhà ở phải bố trí hệ thống điện, bếp đun nấu, nơi thờ cúng bảo đảm an

toàn; các chất dễ cháy, nổ phải để xa nguồn lửa, nguồn nhiệt; chuẩn bị các

điều kiện, phương tiện để sẵn sàng chữa cháy. Thôn, làng, ấp, bản, buôn,

phum, sóc, tổ dân phố (sau đây gọi chung là thôn) phải có các quy định, nội

quy về phòng cháy và chữa cháy, về sử dụng điện, sử dụng lửa và các chất dễ

cháy, nổ; căn cứ vào điều kiện cụ thể có giải pháp ngăn cháy; có phương án,

lực lượng, phương tiện, đường giao thông, nguồn nước phục vụ phòng cháy

và chữa cháy [Điều 17 Luật PC&CC].

- Đối tượng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy là phương tiện

giao thông cơ giới.

Phương tiện giao thông cơ giới từ 04 chỗ ngồi trở lên, phương tiện giao

thông cơ giới vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ phải bảo đảm các

điều kiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước về PCCC. Chủ sở hữu,

người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới phải có trách

nhiệm bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy trong suốt quá trình hoạt động

của phương tiện [Điều 18 Luật PC&CC].

- Đối tượng quản lý là hoạt động phòng cháy, chữa cháy đối với rừng.

18

Rừng là tài nguyên quốc gia, cháy rừng được xem như là một thảm họa

đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái và cho chính cuộc sống của con

người. Do đó, rừng là đối tượng chịu sự quản lý về PCCC. Mọi hoạt động

PCCC rừng, quá trình quản lý, bảo vệ, phát triển và khai thác rừng chịu sự tác

động của Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý. Luật PC&CC, Luật Bảo vệ

và phát triển rừng đều đặt ra nguyên tắc, yêu cầu, điều kiện an toàn PCCC và

các giải pháp nhằm bảo đảm an toàn PCCC rừng [Điều 19 Luật PC&CC].

1.1.2. Tính chất và nguyên tắc hoạt động phòng cháy, chữa cháy

1.1.2.1. Tính chất của hoạt động phòng cháy, chữa cháy

Phòng cháy, chữa cháy là một hoạt động thuộc lĩnh vực an ninh và trật

tự, an toàn xã hội; do đó, so với các hoạt động khác trong cùng lĩnh vực thì

phòng cháy, chữa cháy cũng có các nét tính chất đặc trưng, cơ bản; đó là:

Một là: Tính quần chúng.

Cháy là hiện tượng hoàn toàn có thể xảy ra tại bất cứ đâu và trong bất

kỳ thời gian nào, một khi hội đủ các điều kiện phát sinh cần thiết. Trong khi

đó, lửa, các thiết bị sinh lửa, sinh nhiệt và các loại chất cháy luôn luôn tồn tại.

Thống kê trước nay cho thấy, các nguyên nhân gây ra cháy chủ yếu là do sự

bất cẩn, thiếu ý thức và kiến thức của người dân trong các hoạt động sản xuất,

kinh doanh và trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác, người dân và

cơ sở cũng chính là chủ thể phát hiện đám cháy trước tiên và tổ chức triển

khai thực hiện các biện pháp cứu chữa ban đầu. Do đó, xuất phát từ thực tế,

có thể nói rằng phòng cháy và chữa cháy là hoạt động mang tính quần chúng

và tính xã hội sâu sắc.

Hai là: Tính pháp chế và pháp lý.

Tính pháp lý và pháp chế của hoạt động phòng cháy, chữa cháy thể

hiện ở việc: Mọi hoạt động của các tổ chức, cơ quan, hộ gia đình và cá nhân

trong đời sống xã hội có liên quan đến lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy đều

19

phải chấp hành một cách đầy đủ, triệt để và tuân thủ bắt buộc theo các quy

định của pháp luật về an toàn phòng cháy, chữa cháy.

Ba là: Tính khoa học.

Hoạt động phòng cháy và chữa cháy là hoạt động mang tính khoa học

kỹ thuật. Tính chất này xuất phát từ những cơ sở khoa học, đó là: Bản chất

của sự cháy là phản ứng hóa học kèm theo tỏa nhiệt và phát ra ánh sáng. Để

sự cháy không tiến triển thành đám cháy gây thiệt hại, nguy hiểm cho con

người thì việc xây dựng, tổ chức thực hiện các giải pháp về phòng cháy, chữa

cháy phải dựa trên cơ sở nghiên cứu bản chất, các quy trình, điều kiện phát

sinh, phát triển và dập tắt đám cháy. Các biện pháp phòng ngừa trong phòng

cháy hay chống cháy lan trong chữa cháy… phải đảm bảo đúng nguyên tắc kỹ

thuật, áp dụng đúng kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và không

thể tùy tiện.

Bốn là: Tính chiến đấu.

Trong thực tế, cháy nổ là nguy cơ hoàn toàn có thể xảy ra tại bất cứ

thời điểm, thời gian nào. Do đó, để chữa cháy kịp thời và có hiệu quả, các lực

lượng chức năng luôn phải tổ chức thường trực sẵn sằng chữa cháy 24/24 giờ

với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao. Chưa kể đến, chữa cháy là một nghề

nguy hiểm đến tính mạng. Khi đám cháy phát triển quá lớn sẽ tiềm ẩn nguy

cơ sụp đổ công trình, cùng với nhiệt độ tỏa ra cao và chứa nhiều khói, khí độc

gây nguy hiểm; do đó người lính tham gia chữa cháy đòi hỏi cần có sự mưu

trí, dũng cảm, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy, có kỹ thuật

thành thạo, áp dụng chiến thuật chữa cháy đúng đắn, linh hoạt. Những điều

này thể hiện tính chiến đấu của hoạt động phòng cháy và chữa cháy.

1.1.2.2. Nguyên tắc hoạt động phòng cháy, chữa cháy

Được đúc rút từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn, Luật Phòng cháy

và chữa cháy đã nêu bốn nguyên tắc hoạt động phòng cháy, chữa cháy; đó là:

20

Một là: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia vào hoạt

động phòng cháy và chữa cháy.

Phòng cháy, chữa cháy là hoạt động mang tính xã hội rộng lớn. Để

công tác phòng cháy và chữa cháy đạt hiệu quả cao phải coi đây là sự nghiệp

của toàn dân, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức,

cơ sở, hộ gia đình trong xã hội. Cùng với đó, hoạt động phòng cháy, chữa

cháy phải được tổ chức phát động thành phong trào để toàn dân biết, toàn dân

bàn, toàn dân làm, toàn dân kiểm tra.

Hai là: Trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy lấy phòng ngừa là

chính; phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các

vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra.

Hoạt động phòng cháy và hoạt động chữa cháy là hai nhiệm vụ không

thể tách rời nhau và luôn có mối quan hệ mật thiết. Công tác phòng ngừa phải

đi trước và được tổ chức triệt để, hiệu quả nhằm mục đích làm giảm đến mức

thấp nhất số vụ cháy xảy ra.

Các cơ sở, hộ gia đình cần thường xuyên làm tốt công tác phòng ngừa

từ cơ sở; giáo dục ý thức về phòng cháy trong nhân dân, đặc biệt là đối tượng

thanh thiếu niên; làm tốt công tác truyền thông, hướng dẫn, vận động; thường

xuyên tổ chức kiểm tra; phát hiện, khắc phục những sơ hở, thiếu sót và xử lý

kịp thời đối với những vi phạm quy định về an toàn phòng cháy, chữa cháy.

Ba là: Phải luôn chuẩn bị sẵn sàng về lực lượng, phương tiện, phương

án và các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì tổ chức chữa cháy kịp thời,

có hiệu quả.

Mặc dù tuân theo nguyên tắc phòng ngừa là chính, tuy nhiên chữa cháy

cũng là một hoạt động rất quan trọng và không thể xem nhẹ. Bởi vì, trong

thực tế, cháy luôn xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Công tác phòng

ngừa dù được thực hiện tốt nhất có thể cũng vẫn có khả năng, nguy cơ xảy ra

21

cháy. Do đó, hoạt động chữa cháy luôn phải được đặt trong trạng thái chuẩn

bị sẵn sàng các điều kiện về lực lượng, phương tiện, tổ chức phối hợp đồng

bộ, chặt chẽ… để có thể chữa cháy kịp thời và hiệu quả khi có cháy xảy ra.

Nguyên tắc này cũng thể hiện tính chủ động của công tác chữa cháy.

Hoạt động tổ chức chữa cháy gồm nhiều nhiệm vụ với những vai trò, đặc

điểm khác nhau, do đó cần chú trọng công tác huấn luyện, thực tập các

phương án cần thiết để đáp ứng các yêu cầu chữa cháy trong mọi tình huống.

Bốn là: Mỗi hoạt động phòng cháy, chữa cháy trước hết phải được thực

hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ.

Thông thường, đám cháy khi mới xảy ra còn nhỏ. Nếu được phát hiện

kịp thời và có lực lượng, phương tiện tại chỗ thì việc dập đám cháy sẽ nhanh

chóng và đơn giản. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện sớm thì đám cháy sẽ

phát triển rất lớn; khi đó việc tổ chức chữa cháy sẽ rất khó khăn, phức tạp, có

thể dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng. Do đó, việc chủ động chuẩn bị về lực

lượng và phương tiện tại chỗ là hết sức quan trọng.

Theo đó, mỗi cơ quan, tổ chức, cơ sở, khu dân cư cần phải thành lập

lực lượng dân phòng và lực lượng phòng cháy, chữa cháy cơ sở. Đây là

những lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân phòng cháy, chữa cháy.

Các lực lượng này phải được tổ chức chặt chẽ, huấn luyện kỹ càng để làm tốt

công tác phòng ngừa từ cơ sở và đảm bảo khả năng sẵn sàng chữa cháy tại

chỗ. Ngoài ra, theo quy định, mỗi cơ sở, hộ gia đình cũng cần tự trang bị và

sử dụng thành thạo các phương tiện phòng cháy, chữa cháy cơ bản, cần thiết.

1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy

1.2.1. Đặc điểm của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Quản lý nhà nước về PCCC là một nội dung trong quản lý hành chính

nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy quản lý nhà nước về

PCCC cũng mang những đặc điểm chung của quản lý hành chính nhà nước;

22

đó là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi các chủ

thể có quyền hành pháp; là hoạt động chấp hành và điều hành, có tính tổ chức,

thống nhất và thứ bậc chặt chẽ v.v...

Quản lý nhà nước về PCCC có một số đặc điểm cơ bản như sau:

Một là, quản lý nhà nước về PCCC là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý

xã hội, có liên quan chặt chẽ đến việc đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản và

môi trường; có tác động trực tiếp đến việc đảm bảo an toàn và hiệu quả sản

xuất, kinh doanh cũng như hiệu quả của các hoạt động khác trong xã hội.

Hai là, quản lý nhà nước về PCCC là hoạt động dựa trên cơ sở kiến

thức chuyên môn và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ về PCCC

vào trong quá trình quản lý.

Ba là, quản lý nhà nước về PCCC luôn gắn liền với quá trình xã hội

hóa công tác PCCC. Mục tiêu của quản lý nhà nước về PCCC và mục tiêu xã

hội hóa công tác PCCC là đồng nhất nhưng có sự khác nhau về cách thức,

hình thức thực hiện. Hoạt động quản lý nhà nước về PCCC nhằm từng bước

xác lập quá trình xã hội hóa và ngược lại, xã hội hóa càng sâu rộng bao nhiêu

thì hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC càng hiệu quả bấy nhiêu.

1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Quản lý nhà nước về PCCC bao gồm nhiều lĩnh vực và mang tính toàn

diện, tổng hợp. Hoạt động quản lý nhà nước về PCCC là hoạt động quản lý

mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền hành

pháp; là hoạt động chấp hành và điều hành, có tính tổ chức, thống nhất và thứ

bậc chặt chẽ; là một bộ phận trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia và

trật tự an toàn xã hội, có sự tham gia của toàn xã hội, trong đó Nhà nước đóng

vai trò chủ đạo. Vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy thể

hiện ở những điểm sau:

23

Thứ nhất: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch tổng

thể hệ thống cơ sở PCCC, kế hoạch phát triển về PCCC mang tính quốc gia

và các vùng.

Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với quy

hoạch phát triển đồng bộ các yêu cầu về PCCC, đảm bảo các điều kiện an

toàn trong quá trình phát triển, nhất là trong các lĩnh vực, địa bàn, cơ sở trọng

điểm về cháy, loại trừ các nguy cơ tiềm ẩn về cháy cũng như mất an toàn lao

động trong sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân.

Trên cơ sở chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo

hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Chính phủ, Bộ Công an, UBND các

cấp xây dựng chiến lược, định hướng phát triển hệ thống cơ sở PCCC đảm

bảo hạ tầng phục vụ chữa cháy và phát triển các đơn vị Cảnh sát PC&CC tại

các địa bàn trọng điểm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của

quốc gia và địa phương.

Thứ hai: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả văn bản

quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về PCCC.

Để quản lý các hoạt động PCCC đạt hiệu quả, trước hết, Nhà nước phải

xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCCC bảo đảm tính pháp

lý, đồng bộ, hệ thống và toàn diện; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan

quản lý nhà nước về PCCC; đồng thời hình thành hệ thống quản lý chuyên

trách từ Trung ương đến địa phương; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm

kỹ thuật về PCCC (các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC) phù hợp với tình

hình phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính theo

Nghị quyết số 30c/NQ-CP, Nghị quyết số 76/NQ-CP, Chỉ thị số 07/CT-TTg,

Chỉ thị số 13/CT-TTg, Quyết định số 442, 586, 225/QĐ-TTg của Chính phủ

và Thủ tướng Chính phủ. Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá

24

nhân thực hiện nghiêm các văn bản quy phạm pháp luật về PCCC nhằm đưa

hệ thống văn bản pháp luật về PCCC thực sự đi vào cuộc sống.

Thứ ba: Tổ chức đào tạo, xây dựng lực lượng, trang bị và quản lý

phương tiện PCCC.

Xây dựng lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH chính quy, tinh nhuệ và

hiện đại; quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ Cảnh sát PCCC và CNCH; chú trọng đầu tư ngân sách

cho trang bị phương tiện, nhất là phương tiện PCCC và CNCH đặc chủng

nhằm đáp ứng và nâng cao sức chiến đấu cho lực lượng Cảnh sát PC&CC

ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thứ tư: Tổ chức và chỉ đạo hoạt động PCCC.

Hoạt động PCCC là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội

nhằm giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Xuất phát từ tính chất này, hoạt động

quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy phải được đặt dưới sự quản lý,

điều chỉnh trực tiếp của Nhà nước nhằm kiểm soát sự gia tăng về số vụ và

thiệt hại do cháy gây ra so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển của xã

hội, góp phần bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của

Nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh

tế trong tình hình mới.

Thứ năm: Bảo đảm ngân sách cho hoạt động PCCC, tổ chức bảo hiểm

cháy, nổ gắn với hoạt động PCCC.

Kinh phí bảo đảm cho hoạt động PCCC của lực lượng Cảnh sát

PC&CC, các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các

đơn vị khác có thụ hưởng ngân sách Nhà nước và các địa phương được bố trí

trong dự toán ngân sách Nhà nước theo quy định tại Khoản 30, Điều 1, Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC và Luật Ngân sách. Nhà nước

khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư

25

ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức quốc tế đầu tư, tài trợ

cho hoạt động PCCC; các cơ quan, doanh nghiệp mua bảo hiểm cháy, nổ…

Thứ sáu: Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố

cáo về PCCC; điều tra vụ cháy.

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về

PCCC là hoạt động theo chức năng của các chủ thể quản lý nhà nước về

PCCC. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về

PCCC đối với các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân phải tuân thủ pháp

luật và góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong hoạt động PCCC.

Xử lý vi phạm về PCCC là biện pháp thực hiện quyền lực của Nhà

nước đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về PCCC. Cơ quan, tổ

chức, cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật về

PCCC với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo

hay khởi kiện, cơ quan xử lý có trách nhiệm kiểm tra và giải quyết theo đúng

quy định của pháp luật.

Điều tra vụ cháy là hoạt động nhằm làm rõ nguyên nhân phát sinh cháy

và nguyên nhân vụ cháy. Đối với những vụ cháy có dấu hiệu tội phạm, cơ

quan điều tra có trách nhiệm tiến hành khởi tố vụ án, điều tra làm rõ tội phạm

theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đối với các vụ

cháy không có dấu hiệu tội phạm, lực lượng Cảnh sát PC&CC có trách nhiệm

phối hợp với các lực lượng chuyên môn khác tiến hành điều tra làm rõ nguyên

nhân gây cháy và thực hiện việc xử lý theo thẩm quyền.

1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử

dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan

trọng của con người; là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,

26

hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của

Nhà nước [13, tr.66].

Nguyên tắc quản lý nhà nước là các quy tắc, những tư tưởng chỉ đạo

đòi hỏi các chủ thể của quản lý nhà nước phải tuân thủ trong tổ chức và hoạt

động quản lý hành chính nhà nước.

Quản lý nhà nước về PCCC phải tuân thủ những nguyên tắc chung của

quản lý hành chính nhà nước, đó là các nguyên tắc:

- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo;

- Nguyên tắc Nhân dân lao động tham gia quản lý Nhà nước;

- Nguyên tắc tập trung dân chủ;

- Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng với quản lý theo địa

phương;

- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và

phối hợp quản lý liên ngành;

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm của hoạt động PCCC, Luật PC&CC

đã đề ra các nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước về

PCCC. Đó là:

- Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia vào hoạt động

phòng cháy, chữa cháy.

- Trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy lấy phòng ngừa là chính;

phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ

cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra.

- Phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các điều

kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả.

- Mọi hoạt động phòng cháy, chữa cháy trước hết phải được thực hiện

và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ.

27

Các nguyên tắc trên là cơ sở và định hướng cho các quyết định quản lý;

nhằm xác định những vấn đề có tính chiến lược trong công tác PCCC; đồng

thời là cơ sở cho công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành các mặt công tác cụ thể

về PCCC nhằm bảo đảm an toàn phòng, chống cháy, nổ trên cấp độ toàn xã

hội cũng như trong từng cơ sở, khu dân cư và trong mỗi hộ gia đình.

Đối với lực lượng Cảnh sát PC&CC, việc áp dụng các nguyên tắc trên

có ý nghĩa quyết định đến thành công trong công tác quản lý nhà nước về

PCCC. Do đó, các nguyên tắc cần phải được quán triệt trên tất cả các mặt

công tác từ tham mưu, tuyên truyền, xây dựng phong trào, xây dựng lực

lượng PCCC tại chỗ, kiểm tra, xử lý vi phạm đến việc tổ chức chữa cháy,

CNCH và xây dựng lực lượng Cảnh sát PC&CC chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại.

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Việc xác định các mặt hoạt động PCCC được đặt dưới sự quản lý, điều

chỉnh của Nhà nước là việc xác định nội dung quản lý nhà nước về PCCC.

Theo Điều 57 Luật PC&CC thì nội dung quản lý nhà nước về PCCC được thể

hiện trên các lĩnh vực sau [13, tr.69]:

Một là: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

về phòng cháy, chữa cháy.

Quản lý nhà nước về PCCC trước hết là sự quản lý vĩ mô, thể hiện ở

việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về hoạt

động PCCC. Đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước là phải có

chương trình, kế hoạch, có mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Xây dựng

và tổ chức chỉ đạo hoạt động PCCC phải trên cơ sở định hướng chiến lược

bằng các quy hoạch, kế hoạch mang tính đồng bộ và là yêu cầu tất yếu trong

công tác quản lý.

28

Hai là: Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy

phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về PCCC.

Điều 8 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước được tổ chức và

hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và

pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Quản lý nhà nước về

PCCC đòi hỏi phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCCC, tạo cơ

sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động PCCC.

Hệ thống pháp luật về PCCC bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật

về PCCC và hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC được ban hành bởi

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định. Trong hệ thống pháp luật

về PCCC thì Luật PC&CC có giá trị pháp lý cao nhất.

Xây dựng hệ thống pháp luật về PCCC đầy đủ, đồng bộ, có tính khả thi

cao là trách nhiệm trước hết của các chủ thể quản lý nhà nước về PCCC. Để

nâng cao hiệu lực quản lý, phải làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực

hiện các quy định của pháp luật về PCCC trên cấp độ toàn xã hội.

Cần rà soát, thống kê các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành

không còn phù hợp để đề nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với Luật PC&CC

và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành luật PCCC.

Ba là: Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về PCCC.

Truyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về PCCC vừa là nội dung

đồng thời là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong công tác PCCC, làm cho

mọi người dân và người đứng đầu cơ quan, tổ chức hiểu và tự giác thực hiện.

Cần phải xác định rõ trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, nội dung tuyên

truyền, đối tượng tuyên truyền như là những quy định bắt buộc, đồng thời

khuyến khích các tổ chức chính trị tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về

PCCC cho toàn xã hội.

Bốn là: Tổ chức và chỉ đạo hoạt động phòng cháy, chữa cháy.

29

Tổ chức và chỉ đạo hoạt động PCCC được “luật hóa” bằng các quy

định trong Luật PC&CC. Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “Trong hoạt động

PCCC lấy phòng ngừa là chính; phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn

chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra” bằng

các giải pháp, biện pháp về tổ chức và kỹ thuật nhằm hạn chế, loại trừ các

nguyên nhân và điều kiện gây cháy. Thứ hai, quán triệt nguyên tắc “Phải

chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các điều kiện khác để

khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả” trong việc thực hiện

nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chữa cháy của lực lượng Cảnh sát PC&CC

cũng như đối với các lực lượng PCCC khác.

Năm là: Tổ chức đào tạo, xây dựng lực lượng, trang bị và quản lý

phương tiện phòng cháy, chữa cháy.

Tổ chức công tác đào tạo là nội dung quan trọng đảm bảo nguồn nhân

lực cho công tác PCCC. Xây dựng lực lượng, trang bị, quản lý phương tiện

PCCC thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PC&CC. Yêu cầu cơ bản trong

công tác xây dựng lực lượng PCCC là xây dựng lực lượng dân phòng, lực

lượng PCCC cơ sở, lực lượng PCCC chuyên ngành và lực lượng Cảnh sát

PC&CC đủ mạnh, đóng vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân PCCC.

Các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình phải tự trang bị phương tiện PCCC cho cơ

sở, phương tiện giao thông cơ giới và hộ gia đình thuộc phạm vi mình quản

lý; UBND cấp xã trang bị phương tiện PCCC cho lực lượng dân phòng.

Sáu là: Thẩm định, phê duyệt các dự án, thiết kế và nghiệm thu công

trình xây dựng về phòng cháy, chữa cháy; kiểm định và chứng nhận an toàn

phương tiện; xác nhận điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy.

Hoạt động thẩm duyệt PCCC là hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo an

toàn cho các công trình từ khi mới được thể hiện trên bản vẽ thiết kế. Đây là

hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của lực lượng Cảnh sát PC&CC.

30

Đối tượng thuộc diện bắt buộc thẩm duyệt thiết kế về PCCC là các dự

án, công trình quy định tại Khoản 2, Điều 15 và Phụ lục IV ban hành kèm

theo Nghị định 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

Bảy là: Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo

về PCCC; điều tra vụ cháy.

Đây là hoạt động theo chức năng quản lý nhà nước về PCCC của lực

lượng Cảnh sát PC&CC. Đối tượng thanh tra là Uỷ ban nhân dân cấp huyện,

các Sở, ngành cấp tỉnh, huyện, các tổ chức kinh tế, xã hội địa phương và

Trung ương trên địa bàn cấp tỉnh.

Công tác kiểm tra an toàn về PCCC thuộc trách nhiệm của cơ quan

quản lý nhà nước về PCCC và trách nhiệm của các cơ sở, khu dân cư đã được

quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 18, Nghị định 79/2014/NĐ-CP của

Chính phủ.

Việc xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực PCCC

phải tuân thủ Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP

của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh,

trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; PCCC và phòng chống bạo

lực gia đình và Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2013.

Tám là: Bảo đảm ngân sách cho hoạt động PCCC; tổ chức bảo hiểm

cháy, nổ gắn với hoạt động PCCC; thực hiện thống kê cấp Nhà nước.

- Việc bảo đảm nguồn tài chính cho hoạt động PCCC không chỉ dựa

vào ngân sách Nhà nước mà còn phải thu từ bảo hiểm cháy, nổ; từ đóng góp

tự nguyện của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn thu

từ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc được trích lại 5% từ doanh thu phí bảo hiểm để

phục vụ cho công tác tuyên truyền, trang bị phương tiện cho lực lượng Cảnh

sát PC&CC.

31

- Thống kê, báo cáo về PCCC là yêu cầu bắt buộc trong hoạt động quản

lý nhà nước về PCCC để phục vụ công tác tham mưu, hoạch định chủ trương,

biện pháp PCCC.

Chín là: Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến tiến bộ khoa học và

công nghệ về phòng cháy, chữa cháy.

Công tác nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến tiến bộ khoa học và công

nghệ về PCCC là yêu cầu cấp thiết nhằm chống sự tụt hậu và từng bước theo

kịp kỹ thuật tiến tiến về PCCC của các nước trên thế giới.

Mười là: Hợp tác quốc tế về phòng cháy, chữa cháy.

Hợp tác quốc tế về PCCC là một xu thế tất yếu trong thời kỳ hội nhập

hiện nay. Thông qua hợp tác quốc tế, lực lượng Cảnh sát PC&CC có điều

kiện tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ nghiệp vụ, khoa học kỹ

thuật, từng bước tiến kịp với trình độ PCCC của các nước trong khu vực và

trên thế giới.

Phạm vi, mức độ quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC có thể

được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu thực tế của công tác

PCCC, không phải luôn luôn cứng nhắc, bất di, bất dịch.

1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Phương pháp quản lý nhà nước về PCCC là cách thức tác động của chủ

thể quản lý nhà nước về PCCC lên các đối tượng quản lý nhà nước về PCCC

nhằm đạt được mục đích mà quản lý nhà nước về PCCC đặt ra [13, tr.96].

Các phương pháp quản lý nhà nước về PCCC bao gồm:

- Phương pháp thuyết phục:

Phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần

thiết và tự giác thực hiện các quy định về PCCC.

- Phương pháp cưỡng chế:

32

Phương pháp cưỡng chế là phương pháp sử dụng những quy định bắt

buộc đơn phương lên đối tượng quản lý.

Phương pháp cưỡng chế giữ vai trò quan trọng trong quản lý hành

chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về PCCC nói riêng, nhằm bảo

đảm tính nghiêm minh trong việc tuân thủ pháp luật.

- Phương pháp hành chính:

Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng cách ra các chỉ

thị, mệnh lệnh từ trên xuống. Tức là chủ thể quản lý ra những quyết định bắt

buộc đối với đối tượng quản lý.

Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý rất quan trọng, giúp

xác lập trật tự, kỷ cương quản lý, đồng thời là khâu nối các phương pháp quản

lý khác và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý một cách nhanh chóng,

góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC.

- Phương pháp kinh tế:

Phương pháp kinh tế là cách tác động gián tiếp đến hành vi của các cá

nhân hoặc tổ chức thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động

đến lợi ích của con người. Sử dụng phương pháp kinh tế nhằm khuyến khích

về mặt vật chất, phát huy quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, hạch toán

kinh tế, thưởng, phạt v.v…

Trong các phương pháp trên, phương pháp thuyết phục được đặt lên

hàng đầu, đây là phương pháp phải được làm thường xuyên, liên tục và

nghiêm túc. Phương pháp cưỡng chế là quan trọng; phương pháp kinh tế là

biện pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy hoạt động quản lý; phương pháp hành

chính là rất cần thiết nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn. Việc áp

dụng các phương pháp phải chú ý đến sự tác động lẫn nhau và tính đồng bộ

cũng như ưu thế của từng phương pháp để phát huy hiệu quả quản lý cao nhất.

33

1.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nƣớc về phòng

cháy, chữa cháy

1.3.1. Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng cháy và chữa

cháy

Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm

kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Luật

Phòng cháy và chữa cháy và các Nghị định đã quy định cụ thể trách nhiệm

của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý về phòng cháy, chữa cháy. Tuy

nhiên, trên thực tế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy, chữa

cháy còn chồng chéo với các luật khác, quy định còn chung chung nên việc áp

dụng thiếu thống nhất; hệ thống văn bản quy phạm kỹ thuật về phòng cháy,

chữa cháy còn nhiều bất cập, nhiều quy chuẩn, tiêu chuẩn chưa thống nhất

nên việc áp dụng rất khó khăn. Ngoài ra, công tác xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy thiếu kiên quyết nên tính răn đe của

pháp luật chưa cao.

Để hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy đạt hiệu quả

thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm kỹ thuật về phòng

cháy, chữa cháy cần phải được xây dựng và hoàn thiện một cách hoàn chỉnh,

đồng bộ, bảo đảm tính pháp lý, quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể quản

lý và đối tượng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, phù hợp với yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước.

1.3.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy

Quản lý nhà nước về PCCC là hoạt động có liên quan trực tiếp đến mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của sự lãnh đạo,

chỉ đạo đối với hoạt động quản lý nhà nước về PCCC, Bộ Chính trị đã ban

hành Chỉ thị số 47-CT/TW ngày 25/6/2015 về lãnh đạo công tác PCCC. Ngày

34

29 tháng 6 năm 2001, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật

PC&CC, có hiệu lực thi hành từ ngày 04/10/2001. Tiếp đó tại kỳ họp thứ 6

Quốc hội khóa XIII ngày 22/11/2013 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật PC&CC. Để triển khai thi hành Luật PC&CC và Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC, Chính phủ đã ban hành Nghị định

79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 “Quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC”; Bộ

Công an ban hành Thông tư số 66/2014/TT-BCA ngày 16/12/2014 hướng dẫn

thi hành Nghị định 79/2014/NĐ-CP v.v…

Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Kế hoạch

triển khai thực hiện công tác PCCC; Bộ Công an, các Bộ, ngành liên quan,

UBND các cấp đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện công tác

PCCC. Cùng với sự vào cuộc quyết liệt của các Bộ, ngành và các địa phương

trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về PCCC, hiệu quả quản

lý nhà nước về PCCC đã có bước chuyển rõ rệt, nhận thức về PCCC đối với

chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhà nước về PCCC đã được nâng lên;

công tác PCCC dần đi vào nền nếp.

1.3.3. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và nguồn lực tài chính, trang

bị phương tiện cho lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy

Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của lực lượng Cảnh sát PC&CC có

vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối

với công tác PCCC. Hiện nay, theo chủ trương, Đề án tinh gọn bộ máy của

Chính phủ, Bộ Công an đã tiến hành sát nhập 20 đơn vị Cảnh sát PC&CC và

Công an của 20 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Tuy nhiên, có thể thấy, đội

ngũ cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC còn thiếu và yếu

nên hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC chưa cao. Để thống nhất trong lãnh

đạo và tổ chức thực hiện chức năng này, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ

35

Công an cần quan tâm sát sao hơn nữa đến việc đào tạo lực lượng PCCC

chuyên nghiệp cũng như lực lượng PCCC tại chỗ, lực lượng PCCC cơ sở; bổ

sung biên chế cán bộ có trình độ nghiệp vụ PCCC; đồng thời thường xuyên tổ

chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu về PCCC trong và ngoài nước để

đáp ứng yêu cầu PCCC trong tình hình mới.

Nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động PCCC và việc trang bị phương

tiện PCCC đã được quy định cụ thể trong Luật PC&CC. Nhưng hiện nay

nguồn lực tài chính đầu tư cho hoạt động PCCC còn rất hạn chế; kinh phí

dành cho hoạt động tuyên truyền PCCC ở cấp quận, phường chưa được bổ

sung; trang bị phương tiện phục vụ công tác PCCC cho lực lượng dân phòng,

lực lượng PCCC cơ sở và chuyên ngành chưa đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn… đang gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về PCCC.

1.3.4. Ý thức của xã hội và các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong

việc thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy hiện

về cơ bản đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và quy định rõ trách nhiệm

phòng cháy, chữa cháy của các tổ chức, cá nhân. Cụ thể, Khoản 1, Điều 4,

Luật PC&CC quy định: “Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia

hoạt động phòng cháy và chữa cháy”. Nhưng trong thực tế việc huy động này

gặp rất nhiều khó khăn.

Luật PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC

đã quy định cụ thể về trách nhiệm của chủ thể quản lý nhà nước về PCCC

(Chính phủ, Bộ Công an, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và UBND các cấp), tuy nhiên trong thực tế việc triển khai thực hiện trách

nhiệm của các chủ thể nêu trên còn nhiều bất cập.

Trong thời gian qua, ý thức chấp hành pháp luật về PCCC của các cơ

quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân - đối tượng của quản lý nhà nước về

36

PCCC nhìn chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, ý thức của

một bộ phận vẫn còn rất hạn chế, không nhận thức được những tích cực đem

lại trong việc chấp hành các quy định về PCCC và những hậu quả, thiệt hại và

nguy hiểm do cháy gây ra.

Có thể thấy, các yếu tố trên đây đang tác động rất lớn đến hiệu quả của

quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, do đó trong thời gian tới cần

phải sớm khắc phục các bất cập và hạn chế này để công tác quản lý nhà nước

về PCCC đạt hiệu quả, phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

cả nước và của địa phương.

1.4. Kinh nghiệm trong quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa

cháy ở một số địa phƣơng và bài học thực tiễn rút ra cho tỉnh Nam Định

1.4.1. Kinh nghiệm ở một số địa phương

* Kinh nghiệm ở tỉnh Yên Bái

Trong những năm qua, tỉnh Yên Bái đã tập trung chỉ đạo, tăng cường

quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, Nghị quyết của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về công

tác phòng cháy, chữa cháy đến toàn thể đảng viên, cán bộ, nhân dân trên địa

bàn đồng thời xây dựng, ban hành các văn bản chỉ đạo đối với các sở, ngành,

địa phương trong toàn tỉnh tăng cường thực hiện công tác PCCC.

Trong giai đoạn năm 2014 - 2018, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên

Bái đã xây dựng và ban hành 05 văn bản chỉ đạo, 02 kế hoạch triển khai thực

hiện các quy định của pháp luật về PCCC; chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp

huyện, các sở, ngành xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; kiểm tra, đánh

giá việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC tại các

huyện, thị xã, thành phố, các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn. Công tác phối

hợp giữa các sở, ngành trong việc quy hoạch và xây dựng được thực hiện

37

thường xuyên, có hiệu quả và đúng các quy định của Nhà nước và chỉ đạo của

Ủy ban nhân dân tỉnh.

Bên cạnh đó, công tác củng cố, kiện toàn, đào tạo, hướng dẫn, huấn

luyện nghiệp vụ cho lực lượng PCCC cơ sở và dân phòng đã được các cấp,

các ngành, các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thường xuyên quan

tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện; nhất là lực lượng Công an đã chủ động đổi mới

nội dung, biện pháp tuyên truyền, kịp thời cung cấp nhiều thông tin, tình hình

cháy, nổ ở địa phương cho các cơ quan thông tin đại chúng; đã tổ chức được

35 buổi tuyên truyền cho 3.876 lượt cán bộ, nhân viên, người lao động ở các

khu, cụm công nghiệp, chợ, trung tâm thương mại, các hộ kinh doanh trong

tỉnh và quần chúng nhân dân ở các khu dân cư tập trung đông người; tuyên

truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về PCCC tại 505 lượt cơ sở giáo dục với

hơn 5000 lượt học sinh, sinh viên tham dự; mở 320 lớp huấn luyện nghiệp vụ

PCCC cho 14.608 lượt cán bộ, nhân viên, đội viên đội phòng cháy và chữa

cháy và bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp sản xuất; phát hành 14.500 cuốn tài

liệu hướng dẫn nghiệp vụ PCCC cho lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ

sở, dân phòng. Thường xuyên chỉ đạo tăng cường xây dựng phong trào Toàn

dân tham gia phòng cháy và chữa cháy gắn với phong trào Bảo vệ an ninh Tổ

quốc và xây dựng các xã, phường, thị trấn, cụm dân cư, cơ quan, đơn vị an

toàn, không để xảy ra cháy, nổ; xây dựng, nhân rộng, khen thưởng 51 lượt tập

thể, 48 lượt cá nhân điển hình tiên tiến có nhiều thành tích trong công tác

phòng cháy và chữa cháy.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 2.389 cơ sở thuộc diện quản lý về

công tác phòng cháy và chữa cháy, trong đó Phòng Cảnh sát PCCC và cứu

nạn, cứu hộ quản lý 1.873 cơ sở gồm: 163 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; 103

cửa hàng xăng dầu; 307 cửa hàng kinh doanh gas; 19 chợ, trung tâm thương

mại; 376 cơ quan hành chính; 174 khách sạn, nhà nghỉ và 10 cơ sở kinh

38

doanh dịch vụ karaoke (cơ sở loại I: 114, loại II: 479, loại III: 1280). Công an

huyện, thị xã, thành phố quản lý 516 cơ sở.

Từ năm 2014 đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 256 vụ cháy, 02 vụ nổ

làm chết 10 người, bị thương 19 người; thiệt hại về tài sản khoảng 227,66

triệu đồng. Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên chỉ đạo Công an tỉnh tổ chức

rút kinh nghiệm các vụ cháy xảy ra trên địa bàn tỉnh nhằm đánh giá hiệu quả

công tác chữa cháy; đồng thời rút ra các bài học kinh nghiệm, phương pháp,

chiến thuật trong thực tiễn chiến đấu để làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ,

chiến sĩ và tổ chức công tác chữa cháy đạt hiệu quả.

Trong thời gian qua, để đảm bảo các điều kiện về hạ tầng phục vụ cho

công tác chữa cháy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã thường xuyên chỉ đạo các đơn vị

chức năng quan tâm và tăng cường đầu tư các điều kiện như: bổ sung các trụ

nước chữa cháy; xây dựng các bến lấy nước chữa cháy ở các khu dân cư, khu

công nghiệp, cụm công nghiệp, khu đô thị, trong các cơ quan, đơn vị sản

xuất... nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nước phục vụ cho công tác chữa cháy.

Tính đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 112 trụ nước, bể nước phục vụ công

tác chữa cháy. Hằng năm, tỉnh thường xuyên chỉ đạo Sở Giao thông vân tải tổ

chức kiểm tra, xử lý, giải tỏa ngay các công trình, kiến trúc, cọc, bục, barrier

không phù hợp, cản trở công tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ trên các tuyến

đường khu dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp.

* Kinh nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh

Công tác phòng, chống cháy, nổ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

thời gian qua đã có những chuyển biến so với trước. Tuy nhiên, nguy cơ cháy

vẫn rất cao; việc triển khai phòng cháy, chữa cháy tại cơ sở còn nhiều hạn

chế, bất cập. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do quá trình

thực hiện chính sách, pháp luật về PCCC còn yếu.

39

Những năm qua, công tác bảo đảm an toàn PCCC trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh được Thành ủy, HĐND và UBND thành phố rất quan tâm.

Các sở, ngành, quận, huyện, phường, xã, thị trấn đã xây dựng và tổ chức thực

hiện nhiều biện pháp bảo đảm an toàn PCCC. Công tác kiểm tra, xử lý vi

phạm về an toàn PCCC đối với các tổ chức, cá nhân được tăng cường. Hiện

nay, trên địa bàn thành phố có khoảng 500.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh

dịch vụ lớn, nhỏ; trong đó có 41.447 cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC với

12.449 cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ.

Công tác quản lý nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, điển hình là

quy định hiện hành đang bỏ sót một số lượng lớn nhà ở kết hợp kinh doanh

nhưng không có sự hướng dẫn, quản lý trực tiếp về mặt PCCC của các đơn vị

nghiệp vụ của ngành Công an. Hiện thành phố Hồ Chí Minh có 294.085 hộ

gia đình kết hợp với kinh doanh dịch vụ (số hộ có đăng ký kinh doanh là

190.109 căn, số hộ chưa đăng ký kinh doanh là 103.976 căn). Trong đó, số hộ

kinh doanh có cấu kiện xây dựng nhà bằng các loại vật liệu dễ cháy chiếm

đến 10.194 căn; số hộ sản xuất, kinh doanh hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ

là 12.074 căn; số hộ kinh doanh có hệ thống điện chưa đảm bảo an toàn là

17.627 căn. Số lượng hộ kinh doanh đã tham gia huấn luyện, bồi dưỡng

nghiệp vụ về PCCC là 58.606 hộ; trong đó có 91.137 người tham gia và

41.886 người được cấp giấy chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ về PCCC.

Thống kê cho thấy tình hình cháy nhà ở, hộ gia đình và nhà ở kết hợp kinh

doanh luôn chiếm tỷ lệ cao, cả về số vụ (khoảng 50%), thiệt hại về người

(khoảng 83%) và tài sản.

Để thực hiện có hiệu quả công tác PCCC, cấp ủy, chính quyền địa

phương các cấp đã tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân

đối với công tác PCCC. Nhờ đó, hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC đã từng

bước được củng cố và nâng cao. Riêng số văn bản chỉ đạo của UBND thành

40

phố đã tăng gấp 2 lần so với trước, tạo thành những tiền đề quan trọng để

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và hiệu quả trong công tác PCCC; thu hút

được nguồn lực, sự quan tâm của các cấp, các ngành và Nhân dân, góp phần

đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Nam Định

Từ thực tiễn công tác quản nhà nước về PCCC trên địa bàn tỉnh Yên

Bái và thành phố Hồ Chí Minh có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho

tỉnh Nam Định như sau:

Một là, hoạt động PCCC phải biết dựa vào sức dân và phải phát huy

được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia vào công tác

PCCC. Để làm được điều này đòi hỏi sự lắng nghe của các cơ quan, ban

ngành, đoàn thể và Nhân dân đối với công tác PCCC. Lực lượng Cảnh sát

PC&CC phải tuyên truyền có hiệu quả để các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và

Nhân dân thực sự hiểu được tính chất nguy hiểm, tác hại của cháy, hậu quả do

cháy gây ra và trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong công tác PCCC;

từ đó có sự trao đổi, bàn bạc để tạo sự thống nhất, đồng thuận, cùng triển khai

thực hiện nhằm đạt được hiệu quả cao.

Hai là, việc triển khai thực hiện công tác QLNN về PCCC phải được

đặt trực tiếp dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp, thủ

trưởng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể. Công tác phòng cháy, chữa cháy

phải được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực

hiện thường xuyên, liên tục ở mỗi đơn vị, địa phương; góp phần thực hiện

thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và nâng cao đời

sống của Nhân dân.

Ba là, lực lượng Công an nhân dân nói chung và lực lượng Cảnh sát

PC&CC nói riêng phải thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, chính

quyền trong việc lãnh đạo và triển khai thực hiện các biện pháp quản lý nhà

41

nước về PCCC. Quá trình triển khai thực hiện công tác quản lý Nhà nước về

PCCC phải luôn có sự chỉ đạo sát sao, chặt chẽ, gắn với việc đôn đốc, tổ chức

kiểm tra thường xuyên, liên tục của cấp ủy và chính quyền địa phương; trong

đó, lực lượng Công an phải thực sự là lực lượng chủ công, nòng cốt, xung

kích và tham mưu đi đầu.

Hiện nay, nhận thức của một bộ phận người dân về công tác PCCC

chưa cao; để cả hệ thống chính trị cũng như các cấp, các ngành và Nhân dân

đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác PCCC thì đòi hỏi lực

lượng Cảnh sát PC&CC phải thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng,

chính quyền; trong quá trình tham mưu phải xác định được nhiệm vụ trọng

tâm, thời gian, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm…; định kỳ sơ kết, tổng kết, rút

kinh nghiệm; đánh giá đúng thực trạng tình hình, kết quả thực hiện; chỉ rõ

những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân; đề ra những giải pháp, biện pháp để

chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới; đồng thời nêu gương và nhân rộng đối

với các mô hình, điển hình tiên tiến, xuất sắc trong hoạt động PCCC.

Bốn là, phải đẩy mạnh công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành

trong việc triển khai thực hiện công tác PCCC. Để triển khai công tác quản lý

nhà nước về PCCC có hiệu quả, lực lượng Cảnh sát PC&CC cần tổ chức ký

kết quy chế phối hợp với chính quyền địa phương, quân đội, bộ đội biên

phòng, điện lực… nhằm tạo sự đồng thuận trong quản lý, chỉ đạo, điều hành

các hoạt động quản lý nhà nước về PCCC.

Năm là, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, huấn luyện nghiệp vụ

PCCC cho lực lượng dân phòng, lực lượng PCCC cơ sở và chuyên ngành; vận

động nhân dân và các tiểu thương, hộ kinh doanh tại các chợ tự trang bị bình

chữa cháy để đảm bảo sẵn sàng chữa cháy khi có đám cháy phát sinh. Làm tốt

công tác phổ biến pháp luật để mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân nắm vững

và tự giác chấp hành pháp luật về PCCC và các văn bản quy định hướng dẫn

42

thi hành pháp luật về PCCC; qua đó giúp hạn chế, đẩy lùi và làm giảm các

nguy cơ, điều kiện phát sinh tai nạn cháy, nổ.

Sáu là, quan tâm đầu tư, xây dựng lực lượng PCCC chính quy và cơ sở

có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức gắn với việc tổ chức tập huấn, bồi

dưỡng nghiệp vụ thường xuyên; trang bị đầy đủ các phương tiện và điều kiện

cần thiết để lực lượng này ngày càng chính quy, hiện đại, góp phần hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Bảy là, làm tốt công tác nắm địa bàn, điều tra, thống kê, phân loại cơ

sở; tăng cường và thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra, kiểm tra chuyên đề

đối với các địa bàn trọng tâm, trọng điểm gắn với việc phát hiện và xử lý kịp

thời các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về PCCC trong từng giai

đoạn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương; kiên quyết xử lý đối

với những hành vi đã được kiến nghị nhưng không khắc phục hoặc có khắc

phục nhưng không triệt để.

Tám là, tăng cường công tác lập và tổ chức thực tập phương án chữa

cháy; nắm chắc thông tin về giao thông, nguồn nước; làm tốt công tác quản

lý, bảo dưỡng trang thiết bị, phương tiện chữa cháy được cấp phát; đảm bảo

lực lượng, phương tiện thường trực sẵn sàng chiến đấu; duy trì công tác trực

ban, trực chiến, trực chỉ huy 24/24 giờ để đảm bảo tiếp nhận và xử lý thông

tin, yêu cầu chính xác khi có cháy xảy ra; tổ chức xuất xe nhanh và chữa cháy

kịp thời không để xảy ra cháy lan, cháy lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.

Chín là, xây dựng và nhân rộng các mô hình “Cụm dân cư, chung cư an

toàn về PCCC”, “Ngành hàng, quầy hàng kinh doanh trong chợ an toàn về

PCCC”, “Cụm cơ quan, doanh nghiệp an toàn về PCCC”, “Các chuyên ngành

như: xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, khách sạn - nhà nghỉ… an toàn về PCCC”.

43

Tiểu kết Chƣơng 1

Quản lý nhà nước về PCCC là một hoạt động quan trọng trong quản lý

nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói riêng. Hoạt

động quản lý nhà nước về PCCC được tiến hành trên cơ sở các quy định của

pháp luật về phòng cháy, chữa cháy. Để làm cơ sở cho việc khảo sát, đánh giá

thực trạng quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định ở Chương

2, Chương 1 đã tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận.

Kết quả như sau:

- Xây dựng các khái niêm có liên quan: Khái niệm về cháy; khái niệm

về PCCC; khái niệm quản lý nhà nước về PCCC…

- Phân tích làm rõ chức năng của các chủ thể quản lý nhà nước về

PCCC và lực lượng Cảnh sát PC&CC.

- Phân tích làm rõ đối tượng, nội dung và phương pháp quản lý nhà

nước về PCCC; Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà

nước về PCCC.

- Rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy ở một số địa phương và trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Đây là những tiêu chí quan trọng về lý luận trong quản lý nhà nước về

PCCC, làm cơ sở cho khảo sát, đánh giá thực tiễn công tác quản lý nhà nước

về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định.

44

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề về lý luận pháp lý và thực

tiễn tại Chương 1, trong Chương 2 luận văn tập trung đánh giá thực trạng

quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định, cụ thể như sau:

2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh

Nam Định

2.1.1. Khái quát chung điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh

Nam Định

Về vị trí địa lý và sự phân bố dân cư: Nam Định là một tỉnh nằm ở duyên hải, thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1.668km2

(bằng khoảng 0,5% diện tích toàn quốc), có phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái

Bình, phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hà Nam và

phía Đông Nam giáp Biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Nam Định là địa bàn có vị trí

chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, với kết cấu địa hình

tự nhiên và hạ tầng đa dạng, phức tạp như: sông, biển (với bờ biển dài 72km),

cảng biển, đường bộ, đường sắt và một số ít đồi núi thấp…; tập trung các

trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; có 04 khu

công nghiệp đang hoạt động với hơn 41.000 công nhân, học sinh đến làm việc

và học tập.

Tỉnh Nam Định bao gồm 01 thành phố (thành phố Nam Định), 09

huyện (Giao Thủy, Hải Hậu, Mỹ Lộc, Nam Trực, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Vụ

Bản, Xuân Trường và Ý Yên) với 229 xã, phường, thị trấn và 27 sở, ban,

ngành, cơ quan. Dân số đến năm 2019 là khoảng 2.150.000 người; mật độ trung bình là 1109 người/km2, dân tộc sinh sống chủ yếu là dân tộc Kinh, theo

hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Địa hình Nam Định tương

đối bằng phẳng và có thể chia làm 03 vùng: vùng đồng bằng thấp trũng gồm

45

các huyện: Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam Trực, Trực Ninh; vùng đồng bằng

ven biển gồm các huyện Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng và vùng trung tâm

công nghiệp bao gồm: dịch vụ tổng hợp thành phố Nam Định, dịch vụ chuyên

ngành và công nghiệp dệt may.

Về khí hậu, Nam Định mang đặc điểm khí hậu của khu vực cận nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều; nhiệt độ trung bình năm là 23oC – 24oC.

Tháng lạnh nhất trong năm là tháng 12 và tháng 01, nhiệt độ trung bình là 16oC – 17oC; tháng 7 là tháng nóng nhất, nhiệt độ trung bình trên 29oC.

Lượng mưa trung bình trong năm từ 1750mm đến 1800mm, chia làm 02 mùa

rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 02

năm sau. Tổng số ngày nắng trong năm là 250 ngày, số giờ nắng là từ 1650

giờ đến 1700 giờ. Độ ẩm trung bình từ 80% đến 85%. Tốc độ gió trung bình

từ 02 đến 2,3m/s. Mặt khác, do nằm trong vùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm

Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân

từ 04 – 06 cơn bão/năm (trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10).

Toàn tỉnh hiện có 4.723 ha rừng các loại, chủ yếu là rừng phòng hộ;

cây trồng chính là sú, vẹt, phi lao, bần. Hệ thực vật chiếm khoảng 50%, hệ

động vật chiếm khoảng 40% loài thực vật, động vật trong cả nước.

Tỉnh Nam Định được chia thành 10 đơn vị hành chính cấp huyện và

229 đơn vị cấp xã, phường, thị trấn (193 xã, 20 phường, 16 thị trấn; trong đó

có 09 thị trấn là huyện lỵ và 06 thị trấn độc lập khác trực thuộc huyện). Tính

đến năm 2018, danh sách đơn vị hành chính trong tỉnh có số dân cụ thể là:

- Thành phố Nam Định (gồm 20 phường, 05 xã): dân số 412.350 người.

- Huyện Giao Thủy (gồm 02 thị trấn và 20 xã): dân số 189.660 người.

- Huyện Hải Hậu (gồm 03 thị trấn và 32 xã): dân số 290.015 người.

- Huyện Mỹ Lộc (gồm 01 thị trấn và 10 xã): dân số 66.000 người.

- Huyện Nam Trực (gồm 01 thị trấn và 19 xã): dân số 208.014 người.

46

- Huyện Nghĩa Hưng (gồm 03 thị trấn và 22 xã): dân số 205.280 người.

- Huyện Trực Ninh (gồm 03 thị trấn và 18 xã): dân số 195.760 người.

- Huyện Vụ Bản (gồm 01 thị trấn và 17 xã): dân số 148.000 người.

- Huyện Xuân Trường (gồm 01 thị trấn, 19 xã): dân số 190.000 người.

- Huyện Ý Yên (01 thị trấn và 31 xã): dân số 247.718 người.

Về kinh tế: Thu nhập bình quân năm 2017 của tỉnh Nam Định là 42

triệu đồng/người; thu ngân sách là 3.900 tỷ/năm; GDP: 15.615 tỷ/năm.

Toàn tỉnh hiện có 04 khu công nghiệp đang đi vào hoạt động, bao gồm:

- Khu công nghiệp Hòa Xá (đóng trên địa bàn thành phố Nam Định) có

diện tích là 326,8ha; vốn đầu tư là 347 tỷ, với 86 dự án;

- Khu công nghiệp Mỹ Trung (huyện Mỹ Lộc) có diện tích là 150ha;

vốn đầu tư khoảng 300 đến 350 tỷ;

- Khu công nghiệp Bảo Minh (huyện Vụ Bản) có diện tích là 200ha;

vốn đầu tư khoảng 300 đến 400 tỷ;

- Khu công nghiệp dệt may Rạng Đông (huyện Nghĩa Hưng) có diện

tích từ 300 đến 600ha.

Ngoài ra, còn có khu kinh tế Ninh Cơ (huyện Hải Hậu) có diện tích là

500ha, bao gồm cảng biển, công nghiệp đóng tàu và cơ khí;

Và các cụm công nghiệp khác trên địa bàn tỉnh, có tổng diện tích là

270ha, với 352 doanh nghiệp và vốn đầu tư khoảng 1075 tỷ đồng.

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng của địa

phương ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa

cháy

Thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong gần 20 năm qua, các cấp ủy

Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh Nam Định đã lãnh đạo,

chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp

47

phần đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh. Cùng với cả nước, quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Nam Định đã đạt được những thành

tựu, kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, trong đó phải kể đến tốc độ đô thị

hóa nhanh; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển; nhiều trụ

sở, công trình phúc lợi được xây dựng phục vụ đời sống dân sinh; an ninh –

quốc phòng được duy trì và củng cố; GDP tăng trưởng bình quân từ 7 – 8%

mỗi năm; đời sống nhân dân trong tỉnh ổn định và từng bước được nâng cao.

Hiện nay, toàn tỉnh Nam Định đã quy hoạch và xây dựng 04 khu công

nghiệp, 03 khu đô thị mới và 17 cụm công nghiệp, làng nghề ở các huyện,

thành phố với nhiều nhà máy, xí nghiệp, công xưởng có quy mô, diện tích

lớn; nhiều máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại được đầu

tư, xây dựng và lắp đặt đưa vào sử dụng; trong đó có hơn 2500 cơ sở, trọng

hộ sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các mặt hàng, các nguyên liệu có tính chất

nguy hiểm cháy, nổ cao.

Tỉnh Nam Định tập trung rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh; trong đó

có các cơ quan, doanh nghiệp thuộc diện quản lý nhà nước về phòng cháy

chữa cháy. Các cơ sở này đang hoạt động tại 04 khu công nghiệp và xen lẫn

trong các khu dân cư (hiện có nhiều khu dân cư có nguy cơ cháy, nổ cao

nhưng xe chữa cháy không tiếp cận được); các chợ loại II, siêu thị nhỏ, trung

tâm thương mại và hàng nghìn hộ tiểu thương kinh doanh buôn bán. Ngoài ra,

trên địa bàn tỉnh còn có 02 kho xăng dầu, tổng công ty gas, 04 trạm san nạp

gas, cơ sở sản xuất hóa chất và hàng trăm cơ sở có nguy cơ cháy, nổ cao đang

hoạt động trong 04 khu công nghiệp.

Qua thống kê, tỉnh Nam Định tổng cộng có 126 chợ các loại, 03 siêu thị

và 02 trung tâm thương mại. Trong đó, 03 chợ (gồm chợ Rồng, chợ Mỹ Tho,

chợ Cổ Lễ), 03 siêu thị (Big C, Micom, Mediamart), 02 trung tâm thương mại

(trung tâm thương mại thị trấn Liễu Đề, trung tâm thương mại huyện Hải

48

Hậu) do Phòng Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ Công an

tỉnh trực tiếp theo dõi, quản lý về công tác phòng cháy, chữa cháy; các chợ,

trung tâm thương mại còn lại do Công an các huyện và thành phố quản lý,

theo dõi chung.

Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm

của đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, tỉnh có nền sản xuất công nghiệp phát triển

tương đối sớm so với nhiều ngành nghề truyền thống, là một trong những

trung tâm dệt may hàng đầu của cả nước.

Theo số liệu năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh

ước đạt 30.609,9 tỷ đồng, tăng bình quân 8,25%. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn

tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, thương

mại - dịch vụ và giảm tỉ trọng về nông nghiệp, cụ thể: Về khu vực công

nghiệp, xây dựng: giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng của tỉnh ước thực

hiện 8.200 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,41%, tốc độ tăng bình quân 12,84%;

khu vực thương mại - dịch vụ ước thực hiện 8.608 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng

38,92%, tốc độ tăng bình quân 7,01%; tốc độ tăng trưởng bình quân về tổng

mức lưu chuyển hàng hóa ở mức cao; khu vực nông, lâm nghiệp - thủy sản

ước thực hiện 5000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22,76%, tốc độ tăng bình quân

2,81% (theo Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

05 năm 2015 – 2019 của tỉnh Nam Định và Báo cáo số liệu thống kê kinh tế -

xã hội của tỉnh Nam Định 06 tháng đầu năm 2019). Đến cuối năm 2018, đầu

năm 2019, cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng hiện đại,

phù hợp với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ 19 và Nghị

quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Ngoài ra, trong 06 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh Nam Định có 396

doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 3.764 tỷ

đồng, tăng 4,2% về số lượng doanh nghiệp (tương đương 16 doanh nghiệp) và

49

44,6% số vốn đăng ký (tức 1.162 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước, cùng với

đó là 122 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động.

Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị như: giao thông, cấp điện, cấp thoát

nước… của Nam Định có bước phát triển mạnh; nhiều khu đô thị hiện đại, có

hạ tầng đồng bộ đã được xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng phục vụ cho

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; nhiều công trình có quy mô lớn,

phức tạp về kỹ thuật đã được đầu tư (như khu công nghiệp, ga đường sắt...).

Hiện trên địa bàn tỉnh có 11 trạm điện 110KV, 01 trạm 220KV và trên 3.000

máy biến áp, đảm bảo đủ nhu cầu cho sinh hoạt và cho sản xuất công nghiệp.

Những năm gần đây, đời sống nhân dân trong tỉnh đã được cải thiện, nhiều

khu dân cư hiện đại và văn minh được hình thành đã ngày càng góp phần thay

đổi đáng kể diện mạo đô thị.

Nam Định có hệ thống giao thông đa dạng và thuận lợi, bao gồm:

+ Đường bộ: Quốc lộ 21 (đoạn qua Nam Định dài 75 km), quốc lộ 10

(đoạn qua Nam Định dài 34 km), tỉnh lộ 12 dài 20 km, tỉnh lộ 57 dài 17 km,

tỉnh lộ 55 dài 51 km, tuyến đường 56 liên tỉnh dài 70 km.

+ Đường sắt: Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua Nam Định dài

42km, với 06 ga.

+ Đường thuỷ: Hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ chảy qua

địa phận tỉnh với chiều dài 251km cùng với hệ thống cảng sông Nam Định,

cảng biển Thịnh Long thuận lợi trong việc phát triển vận tải thuỷ nội địa.

Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh

nghiệp cũng như có cơ chế, chính sách để khuyến khích và ưu đãi đầu tư; cải

cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thông

thoáng để thu hút đầu tư. Đến tháng 9 và cuối năm 2018, tính riêng trên địa

bàn các khu công nghiệp của tỉnh Nam Định có 175 dự án đầu tư của 150 nhà

đầu tư thứ cấp; trong đó có 40 dự án của 37 nhà đầu tư nước ngoài. Tổng số

50

vốn đăng ký là trên 7.412 tỷ đồng, tương đương 775,2 triệu USD; vốn thực

hiện là khoảng 4.219 tỷ đồng, tương đương 457,6 triệu USD, tức 57% và

bằng 59% vốn đăng ký. Ngoài ra, một số dự án lớn đang được UBND tỉnh thu

hút đầu tư gồm: Nhà máy nhiệt điện BOT Nam Định I với số vốn đăng ký là

2.072,2 triệu USD, Nhà máy chuyên sản xuất các loại sản phẩm từ da của

Công ty TNHH Yamani Dynasty (Đài Loan) với số vốn đầu tư đăng ký trên

50 triệu USD đã đi vào hoạt động hiệu quả.

Tỉnh Nam Định có diện tích tự nhiên, dân số ở mức tương đối và trung

bình so với cả nước; tập trung nhiều cơ quan, doanh nghiệp, trường đại học,

cao đẳng, đơn vị quân đội… Trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, Công an, Quân đội, trong đó

trực tiếp là lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp

tuyên truyền, huấn luyện nhằm nâng cao nhận thức về công tác PCCC cho

người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn

tỉnh, như: xây dựng các mô hình “Cụm dân cư, chung cư an toàn về PCCC”,

“Cụm cơ quan an toàn về PCCC”, “Khu vực an toàn về PCCC”, “Ngành

hàng, quầy hàng, sạp hàng kinh doanh trong chợ an toàn về PCCC”, “Các

chuyên ngành xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, khách sạn - nhà nghỉ, karaoke, cầm

đồ an toàn PCCC”… hay như mô hình vận động nhân dân, tiểu thương kinh

doanh trong chợ tự trang bị bình chữa cháy; tổ chức ký kết quy chế phối hợp

trong xây dựng phong trào toàn dân PCCC và quản lý nhà nước về PCCC….;

đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền và phát động xây dựng phong trào toàn

dân PCCC trong cơ quan, doanh nghiệp, khu dân cư và trường học theo

phương châm “Dân hiểu, dân bàn, dân thực hiện” trong công tác PCCC; bước

đầu cho thấy nhận thức về công tác PCCC của người dân đã được nâng lên.

Đến nay, 100% tiểu thương kinh doanh tại các chợ đã ký cam kết đảm bảo an

toàn về PCCC và tự trang bị bình chữa cháy; 100% hộ gia đình kinh doanh tại

51

nhà tự trang bị bình chữa cháy và 100% hộ dân ký cam kết tiêu chí hộ an toàn

về PCCC; 100% cơ quan, doanh nghiệp trang bị phương tiện chữa cháy và

thành lập lực lượng PCCC cơ sở.

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

2.2.1. Thực trạng cháy và thiệt hại do cháy gây ra trên địa bàn tỉnh

Nam Định trong 05 năm (2014 - 2019)

Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh

Nam Định, trong 05 năm (từ 2014 đến 2019), trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra

220 vụ cháy; làm 10 người bị thiệt mạng, 38 người bị thương. Trong đó, về

khu vực kinh tế, loại hình công trình nơi xảy ra cháy có: 22 vụ cháy cơ sở,

xưởng sản xuất, kinh doanh; 78 vụ cháy nhà dân; 13 vụ cháy phương tiện giao

thông; 48 vụ cháy dây dẫn hệ thống điện và thiết bị trên cột điện; 03 vụ cháy

trạm biến áp; 02 vụ cháy cơ sở thờ tự tôn giáo; 01 vụ cháy cơ sở karaoke; 02

vụ cháy chợ; 27 vụ cháy doanh nghiệp, cơ quan công sở và những khu vực

khác. Về địa bàn xảy ra cháy: ở thành thị (thành phố Nam Định) là 134 vụ, ở

các huyện nông thôn là 86 vụ. Thiệt hại trực tiếp về tài sản ước tính trị giá

khoảng 17.768,5 triệu đồng (gần 18 tỷ đồng).

Nguyên nhân gây cháy: 118 vụ do sự cố về thiết bị, hệ thống điện,

chiếm 53,64%; 20 vụ do sơ xuất, bất cẩn trong khi sử dụng nguồn lửa, nguồn

nhiệt, ngọn lửa trần, chiếm 9,09%; 20 vụ do tự đốt (bệnh lý, tư thù cá nhân,

đốt thực bì, đốt rác, tự tử…), chiếm 9,09%; 06 vụ do vi phạm quy định an

toàn về PCCC gây cháy, chiếm 2,73%; 01 vụ do sét đánh, chiếm 0,45% và 47

vụ chưa điều tra rõ nguyên nhân, chiếm 21,36%. Từ số liệu trên cho thấy,

nguyên nhân vụ cháy do sự cố về điện chiếm tỉ lệ cao nhất (trên 53,64%), do

đốt và sơ suất trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt đều trên 9,09%, còn lại là

các nguyên nhân khác.

52

Sự cố thiết bị, hệ thống điện.

Sơ xuất, bất cẩn khi sử dụng lửa.

Tự đốt.

Vi phạm quy định an toàn PCCC.

Sét đánh.

Chưa rõ nguyên nhân.

Hình 2.1. Biểu đồ tỷ lệ nguyên nhân gây cháy

Số vụ cháy có sự thay đổi và và thiệt hại do cháy gây ra tăng dần theo

từng năm (năm 2014 xảy ra 22 vụ, thiệt hại trên 442,3 triệu đồng; năm 2015

xảy ra 30 vụ, thiệt hại 708,5 triệu đồng; năm 2016 xảy ra 65 vụ, thiệt hại

164,2 triệu đồng; năm 2017 xảy ra 59 vụ gây thiệt hại 3.880,8 triệu đồng; năm

2018 xảy ra 49 vụ gây thiệt hại trên 12.572,7 triệu đồng; nửa đầu năm 2019

xảy ra 15 vụ gây thiệt hại 399,5 triệu đồng); trung bình mỗi năm, tỉnh Nam

Định xảy ra khoảng 45 vụ cháy các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhà dân,

phương tiện giao thông cơ giới; thiệt hại bình quân trên 3,5 tỷ đồng/năm; so

với 05 năm trước (2010 - 2014) số vụ cháy tăng và diễn biến phức tạp, khó

lường. Đáng chú ý là nguy cơ cháy đối với các kho hàng, cơ sở sản xuất trong

các khu công nghiệp, các khu dân cư có thu nhập thấp, các cơ sở sản xuất

nằm xen kẽ trong các khu dân cư, các tổng kho xăng dầu và cơ sở kinh doanh

xăng dầu, các tổng kho khí đốt hóa lỏng và cơ sở kinh doanh khí đốt hóa lỏng,

các chợ, siêu thị…; đặc biệt, nguy hiểm cháy, nổ luôn tiềm ẩn đối với các cơ

sở vừa làm kho chứa hàng, vừa là nơi sản xuất; hay một số chợ có cơ sở hạ

tầng đã xuống cấp và các khu dân cư nằm trong các hẻm sâu không có đường

cho xe chữa cháy tiếp cận. Bên cạnh đó, tình hình cháy phương tiện cơ giới

hay xe ô tô lưu thông trong đô thị có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức

53

tạp; có vụ cháy xảy ra cùng lúc nhiều ô tô; tuy các vụ cháy xe trong và ngoài

nội đô thời gian qua chưa gây thiệt hại về người, nhưng trên thực tế đã cho

thấy các phương tiện giao thông cơ giới, xe ô tô chở khách… lưu thông trên

đường bộ hoặc trong hầm luôn tiềm ẩn nguy cơ cháy và nếu để xảy ra thì hậu

quả rất khó lường.

Bảng 2.1. Thống kê tình hình cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Số người Thiệt hại Năm Số vụ cháy Số người bị thương chết (triệu đồng)

2014 22 02 442,3 0

2015 30 01 708,5 14

2016 65 0 164,2 04

2017 59 02 3.880,8 16

2018 49 05 12.572,7 05

2019 (nửa 15 0 399,5 0 đầu năm)

(Nguồn: Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định)

Trong 05 năm qua, tỉnh Nam Định không để xảy ra cháy lớn, chỉ có 01

vụ cháy gây thiệt hại ở mức nhỏ và trung bình. Như vậy, tình hình cháy lớn

của tỉnh và thiệt hại do cháy lớn gây ra không đáng kể, không có vụ việc nào

để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Các vụ cháy thường xảy ra vào ban đêm

và những ngày nghỉ, khi xảy ra cháy lực lượng tại cơ sở quá mỏng, phát hiện

cháy chậm, chữa cháy không kịp thời dẫn sẽ dễ đến cháy lớn.

Có thể kể đến một số vụ cháy điển hình như: Cháy nhà dân tại phường

Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định ngày 14/10/2015 và tại xã Nam

Dương, huyện Nam Trực ngày 28/11/2016 làm 03 người chết, 02 người bị

thương; cháy xe ô tô giường nằm tại thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu

54

ngày 03/01/2017 do chập điện làm thiệt hại 3,2 tỷ đồng; cháy giáo đường tại

giáo xứ Trung Lao, xã Trung Đông, huyện Trực Ninh ngày 05/8/2017.

Qua phân tích tình hình cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian qua

cho thấy, so với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thì số vụ cháy và

thiệt hại do cháy gây ra tuy có xu hướng tăng nhưng đã được kiềm chế cả về

số vụ và thiệt hại; đồng thời không để xảy ra cháy lớn gây thiệt hại về người

và những cơ sở quan trọng, nhạy cảm; góp phần giữ vững an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội và phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương và đất nước; tạo môi trường bình yên, an toàn để thu hút các

tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước đến đầu tư.

2.2.2. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định

Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về PCCC được trình bày dưới đây

bao gồm hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật về PCCC.

2.2.2.1. Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật và ban

hành các văn bản quy định về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam

Định

a) Quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác phòng

cháy, chữa cháy

Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã tập trung xây dựng và

ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ

thuật về PCCC. Đến nay, các vấn đề quy định trong Luật PC&CC về cơ bản

đã và đang được hướng dẫn bằng các văn bản dưới luật; việc xây dựng và ban

hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PC&CC đã tạo được sự

đồng bộ, thống nhất trong tổ chức thực hiện Luật PC&CC. Ở địa phương,

Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cấp huyện đã ban hành Chỉ thị chỉ đạo về tăng

55

cường công tác PCCC. Đây là yếu tố trực tiếp tác động tích cực đến hiệu lực,

hiệu quả thi hành pháp luật về PC&CC trong thời gian qua. Tuy nhiên, pháp

luật vẫn còn những tồn tại, đó là:

- Do công tác quản lý nhà nước về PCCC có đặc thù bao trùm nhiều

lĩnh vực, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa thể kịp thời,

đầy đủ, đồng bộ và thống nhất với một số những văn bản quy phạm pháp luật

chuyên ngành khác; vì vậy, cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về PCCC còn có sự chồng chéo, bất cập. Trong quá trình tổ chức thực

hiện, một số quy định của Luật PC&CC và các văn bản dưới Luật đã bộc lộ

một số vấn đề chưa phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế hiện nay, như:

yêu cầu xây dựng đội dân phòng trên địa bàn xã, thôn, ấp, bản; thành lập lực

lượng PCCC chuyên ngành; phí thẩm duyệt thiết kế về PCCC…

- Bên cạnh đó, việc thiếu cán bộ và thời gian thực hiện các thủ tục hành

chính trong lĩnh vực PCCC bị rút ngắn đã gây ảnh hưởng đến chất lượng và

hiệu quả công tác quản lý. Mặt khác, các đơn vị và cơ sở chưa nắm vững trình

tự, thủ tục thực hiện dẫn đến kéo dài và mất thời gian...

b) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Trong những năm qua, tỉnh Nam Định nhận thức rất rõ vị trí, tầm quan

trọng của công tác phòng cháy, chữa cháy trong sự nghiệp xây dựng, phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng ở địa phương.

Ngay sau khi Luật Phòng cháy và chữa cháy được Quốc hội thông qua ngày

29/6/2001 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/10/2001, thực hiện chỉ đạo

của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Công an, Ủy ban nhân dân tỉnh

đã khẩn trương kiện toàn Ban chỉ đạo PCCC của tỉnh và ban hành Chỉ thị số

33/2001/CT-UB ngày 05/9/2001 để triển khai thi hành Luật Phòng cháy và

chữa cháy; xây dựng kế hoạch, tổ chức hội nghị quán triệt nội dung của Luật

56

PC&CC tới thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân các huyện, thành phố, các cơ quan, doanh nghiệp trong tỉnh. Từ năm

2001 đến nay, UBND tỉnh Nam Định đã tổ chức quán triệt và chỉ đạo các cấp,

các ngành trên địa bàn toàn tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ và Bộ Công an như: Nghị định số

35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật PC&CC; Nghị định số 123/2005/NĐ-CP ngày 05/10/2005

của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PC&CC;

Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế

độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; Thông tư số 04/2004/TT- BCA ngày

31/3/2004 của Bộ Công an về việc hướng dẫn thi hành Nghị định số

35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật PC&CC…

Hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế của công tác PCCC, UBND

tỉnh, Ban chỉ đạo PCCC tỉnh thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo, tổ

chức triển khai thực hiện những quy định của pháp luật về PCCC; hướng dẫn

các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu lực của quản lý nhà nước trong

lĩnh vực PCCC; phát động toàn dân tích cực tham gia các hoạt động PCCC;

chỉ đạo công tác PCCC theo từng chuyên ngành, chuyên đề; gắn với việc triển

khai thi hành các Nghị quyết, Nghị định, Thông tư mới ban hành của Quốc

hội, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương.

Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh và Ban chỉ đạo PCCC tỉnh, hàng

năm, cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã quan tâm, chỉ

đạo và thường xuyên đôn đốc các đơn vị cơ sở, các địa bàn trong diện quản

lý, theo dõi về PCCC thực hiện nghiêm túc những quy định của pháp luật về

PCCC; tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền pháp luật về PCCC mang tính

thiết thực, hiệu quả, gắn với phát động và xây dựng phong trào toàn dân tham

57

gia PCCC…; tổ chức nhiều cuộc mít tinh, ra quân, diễu hành chào mừng, hội

thi, hội diễn, hội thao về nghiệp vụ PCCC&CNCH của lực lượng PCCC cơ sở

và quần chúng, tập trung vào các thời điểm trong năm như: “Tuần lễ quốc gia

an toàn vệ sinh lao động, phòng, chống cháy, nổ” (tháng 3), hưởng ứng “Ngày

toàn dân PCCC” (04/10), “Tháng an toàn PCCC” (tháng 10)...; qua đó góp

phần nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân, tạo khí thế sôi nổi, thiết thực

trong phong trào toàn dân tham gia PCCC và tăng cường hiệu lực, hiệu quả

công tác quản lý nhà nước về PCCC.

Công an tỉnh Nam Định là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo PCCC

tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về PCCC. Phát huy vai trò nòng cốt

trong công tác hướng dẫn, triển khai thi hành Luật PC&CC, trong gần 20 năm

qua, Ban Giám đốc Công an tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu, phục vụ cấp

ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc Luật

PC&CC, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan và Tỉnh

ủy, UBND tỉnh về công tác PCCC; thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước

trong lĩnh vực PCCC; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn

các cấp, các ngành, các cơ quan, doanh nghiệp và Nhân dân thực hiện nghiêm

quy định về an toàn PCCC.

c) Công tác ban hành văn bản và hướng dẫn thực hiện

Từ năm 2014 đến nay, UBND tỉnh Nam Định, với sự tham mưu chức

năng của Ban chỉ đạo PCCC tỉnh, Ban Giám đốc Công an tỉnh, trực tiếp là

Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định, đã ban hành nhiều

văn bản các loại, bao gồm: 05 Chỉ thị, 14 kế hoạch, 05 hướng dẫn, 02 chương

trình, 08 công văn và một số quyết định, kết luận về lãnh đạo, chỉ đạo các cấp,

các ngành, các cơ quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ, biện pháp quản lý

nhà nước về PCCC&CNCH trên địa bàn tỉnh Nam Định. Ngoài ra, hàng năm,

Công an tỉnh Nam Định cũng tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức những buổi

58

hội thảo, báo cáo chuyên đề về kết quả giải quyết các kiến nghị của cử tri và

đại biểu HĐND; đề cập đến thực trạng, những khó khăn, vướng mắc và có đề

xuất, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương những

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCCC&CNCH; tổ chức hội nghị

trực tuyến với Bộ Công an về việc triển khai thực hiện ý kiến kết luận của

Phó Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số

1634/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo thực hiện một

số nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm trong công tác PCCC&CNCH và triển khai

thực hiện Chỉ thị số 47-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCCC.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC, Phòng Cảnh sát

PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định đã trực tiếp tham mưu cho Công an

tỉnh ban hành 06 công văn, 02 quyết định, 02 báo cáo và 33 kế hoạch thực

hiện quản lý nhà nước về PCCC theo chuyên đề, chuyên ngành, như: Chỉ đạo

công tác PCCC trong mùa hanh khô và điều kiện thời tiết nắng nóng; Ứng

phó với sự cố cháy lớn nhà cao tầng, khu công nghiệp; Hướng dẫn trang bị

phương tiện PCCC đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; Triển

khai thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn trong giai đoạn 05 năm (từ năm

2016 đến năm 2020); Kế hoạch đảm bảo và kiểm tra an toàn PCCC chợ; xăng

dầu; khí dầu mỏ hóa lỏng; khách sạn, nhà nghỉ; cơ sở dịch vụ karaoke, vũ

trường; hộ gia đình; nhà ở kết hợp kinh doanh, sản xuất; cơ sở có công trình

cao tầng, siêu cao tầng và trung tâm thương mại; nhà chung cư; trụ sở cơ quan

nhà nước; cơ sở dệt may; cầm đồ và phế liệu. Đây là những kế hoạch mang

tính chuyên sâu, gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở (địa bàn, doanh

nghiệp…) và chính quyền địa phương trong việc thực hiện công tác PCCC.

Các văn bản đã ban hành đều thể hiện tính chiến lược lâu dài, đồng thời

cũng mang tính cấp bách, quan trọng và thiết thực; chính vì vậy, văn bản khi

59

ban hành đều đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp

đồng tình ủng hộ và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.

Tuy nhiên, công tác tham mưu có lúc, có nơi vẫn còn thụ động, chưa

kịp thời; một số hoạt động PCCC chuyên ngành chưa tiến hành sơ kết, tổng

kết rút kinh nghiệm; việc triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của một số

địa phương, cơ quan, doanh nghiệp còn chưa nghiêm túc, thiếu sự kiểm tra,

giám sát… Nguyên nhân của những tồn tại này là do năng lực của đội ngũ cán

bộ tham mưu còn hạn chế, công tác quản lý địa bàn thiếu chặt chẽ, nhận thức

của chính quyền một số địa phương đối với công tác quản lý nhà nước về

PCCC chưa cao.

2.2.2.2. Tổ chức bộ máy và nhân sự của cơ quan Cảnh sát Phòng cháy

và chữa cháy tỉnh Nam Định

Có thể thấy, sau gần 20 năm triển khai thi hành Luật PC&CC, lực

lượng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định đã được kiện toàn;

trong đó bao gồm các cán bộ, chiến sĩ thuộc Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH

Công an tỉnh Nam Định. Đây là cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định. Hiện, Phòng Cảnh sát

PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định có 116 đồng chí đã được đào tạo cơ

bản về nghiệp vụ PCCC; trong đó, 12 đồng chí là chiến sĩ phục vụ có thời hạn

(chiến sĩ nghĩa vụ) và 92 đồng chí sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp (sỹ

quan (cấp tá, cấp úy) 59 đồng chí, hạ sỹ quan 28 đồng chí và cấp dưỡng (lao

động hợp đồng) 05 đồng chí). So với dân số toàn tỉnh, lực lượng Cảnh sát

PCCC&CNCH tỉnh chiếm tỷ lệ khoảng 0,005% (01 chiến sĩ PCCC&CNCH /

18534 người dân). Số cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm phần đông, còn

lại là trình độ trung cấp, lái xe và chưa qua đào tạo chuyên ngành PCCC; một

số đồng chí đã được đào tạo nhưng năng lực còn hạn chế dẫn đến ảnh hưởng

60

tới hiệu quả công tác. Nhìn chung, mặt bằng trình độ chuyên môn của cán bộ,

chiến sỹ lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh chưa đồng đều và vẫn còn hạn chế.

Mô hình tổ chức của Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam

Định gồm Ban lãnh đạo phòng, dưới có 06 đội nghiệp vụ:

- Ban lãnh đạo phòng gồm 03 đồng chí (01 trưởng phòng và 02 phó

trưởng phòng);

- Đội Tham mưu tổng hợp: 11 đồng chí.

- Đội Hướng dẫn và kiểm tra an toàn PCCC: 19 đồng chí;

- Đội Hậu cần, quản lý phương tiện PCCC&CNCH: 10 đồng chí;

- Đội Chữa cháy và CNCH (trung tâm): 32 đồng chí;

- Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khu công

nghiệp Mỹ Trung: 22 đồng chí;

Trưởng phòng

Phó trưởng phòng

Phó trưởng phòng

Đội Tham mưu tổng hợp

Đội Chữa cháy và CNCH trung tâm

Đội Hướng dẫn và kiểm tra an toàn PCCC

Đội Hậu cần, quản lý phương tiện PCCC&CNCH

Đội Cảnh sát PCCC&CNCH huyện Vụ Bản

Đội Cảnh sát PCCC&CNCH khu công nghiệp Mỹ Trung

- Đội Cảnh sát PCCC&CNCH huyện Vụ Bản: 18 đồng chí;

Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH

Công an tỉnh Nam Định

61

Đặc biệt, hiện nay, lãnh đạo Bộ Công an và UBND tỉnh Nam Định đã

phê duyệt phương án thành lập các đội chữa cháy tại các khu công nghiệp và

ở các địa bàn xa trung tâm. Đến nay, có 02 đội đã được xây dựng, thành lập

mới (Đội Cảnh sát PCCC&CNCH khu công nghiệp Mỹ Trung và Đội Cảnh

sát PCCC&CNCH huyện Vụ Bản - Trung tâm huấn luyện nghiệp vụ PCCC

tỉnh Nam Định) và 02 đội đang chờ phê duyệt dự án cấp đất xây dựng. Việc

thành lập các đội mới này để nhằm khép kín địa bàn bảo vệ và chữa cháy

trong toàn tỉnh.

Như đã đánh giá, tổ chức lực lượng của Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH

Công an tỉnh Nam Định hiện nay còn gặp nhiều khó khăn; cơ cấu lãnh đạo,

chỉ huy chưa được kiện toàn; trình độ, năng lực của một số cán bộ, chiến sĩ

còn yếu; số cán bộ làm công tác PCCC được đào tạo chuyên ngành còn thiếu;

số chiến sỹ phục vụ có thời hạn đông nhưng không có kiến thức nghiệp vụ

chuyên sâu, việc thực tế chữa cháy không nhiều; hiện Phòng Cảnh sát

PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định còn thiếu biên chế về thợ máy, cán

bộ y tế, thợ lặn và lái xe chữa cháy có đủ trình độ, sức khỏe. Do đó, lực lượng

Cảnh sát PC&CC của tỉnh rất khó khăn trong thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về PCCC.

Phân cấp quản lý nhà nước về PCCC là một tất yếu khách quan phù

hợp với yêu cầu phân cấp trong quản lý hành chính của Nhà nước ta hiện nay.

Cơ sở của phân cấp trong quản lý nhà nước về PCCC đã được nêu trong một

số quy định của Luật PC&CC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và Thông tư số

66/2014/TT-BCA. Trên thực tế, Cục Cảnh sát PCCC và CNCH đã phân cấp

cho các đơn vị Cảnh sát PCCC và CNCH trong việc thẩm duyệt, kiểm định,

cấp Giấy phép vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ. Công an tỉnh đã

phân cấp cho Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH tỉnh, Công an thành phố và

Công an huyện về quản lý cơ sở, tuyên truyền, xây dựng phong trào quần

62

chúng tham gia PCCC, công tác kiểm tra PCCC, điều tra, xử lý vi phạm hành

chính thuộc thẩm quyền theo luật định.

Việc thực hiện phân cấp quản lý một số nội dung trong công tác PCCC

đã cho thấy những ưu điểm nổi bật như: phát huy được vai trò tham mưu;

giảm tải trong quản lý địa bàn, cơ sở; công tác phòng ngừa cháy, nổ tại các

địa phương được triển khai rộng khắp, nâng cao được trách nhiệm PCCC của

cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham

gia phòng cháy, chữa cháy.

Tuy nhiên, do một bộ phận đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý phòng

cháy phần lớn chưa được đào tạo cơ bản về PCCC nên còn gặp nhiều khó

khăn trong thực hiện công tác chuyên môn, nhất là trong những công tác đòi

hỏi tính nghiệp vụ như: xây dựng phong trào toàn dân tham gia PCCC, kiểm

tra an toàn PCCC, hướng dẫn cơ sở xây dựng và tổ chức thực tập phương án

chữa cháy, khắc phục các tồn tại, thiếu sót và đề ra các biện pháp bảo đảm an

toàn phòng cháy, chữa cháy.

2.2.2.3. Công tác tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục, phổ biến kiến

thức, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và xây dựng phong trào toàn dân

phòng cháy, chữa cháy

Tỉnh Nam Định luôn xác định công tác tuyên truyền, huấn luyện và xây

dựng phong trào toàn dân tham gia PCCC là nhiệm vụ rất quan trọng trong

hoạt động quản lý nhà nước về PCCC. Sau khi Luật PC&CC và các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các

ngành trong tỉnh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, phối hợp thực

hiện tổ chức phổ biến nội dung của Luật PC&CC và các văn bản liên quan tới

toàn thể cán bộ, nhân dân, các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đang học

tập, công tác, cư trú và sinh sống trên địa bàn tỉnh.

63

Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành làm tốt công tác

tuyên truyền về PCCC với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, phù

hợp với từng đối tượng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

PCCC; đặc biệt trong những thời điểm như: Tuần lễ an toàn vệ sinh lao động,

phòng, chống cháy, nổ và Ngày toàn dân PCCC 04/10 hằng năm; với phương

châm “lấy phòng ngừa là chính”; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức

pháp luật về PCCC và cứu nạn, cứu hộ tới tất cả các địa bàn trên toàn tỉnh.

Phong trào toàn dân tham gia PCCC đã được các cấp, các ngành quan

tâm chỉ đạo và được quần chúng nhân dân tham gia hưởng ứng rộng rãi; được

lồng ghép và gắn với các phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”,

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Chương trình

xây dựng nông thôn mới”. Xây dựng, nhân rộng các điển hình tiên tiến theo

hướng tự nguyện, tự phòng, tự quản ở các khu dân cư, khu công nghiệp có

nguy cơ cháy, nổ cao. Lực lượng PC&CC cơ sở và dân phòng đã được các

cấp, các ngành, cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh quan tâm; thường

xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động; phát huy vai

trò nòng cốt trong phong trào toàn dân tham gia PCCC; góp phần phòng

ngừa, ngăn chặn, xử lý sớm các sự cố cháy ngay từ khi mới phát sinh.

Trong quá trình triển khai thực hiện, lực lượng Cảnh sát PC&CC của

tỉnh thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, nâng cao chất

lượng các hoạt động huấn luyện, phổ biến pháp luật và kiến thức về phòng

cháy, chữa cháy theo phương châm “dân hiểu, dân bàn, dân thực hiện”; vận

động đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác PCCC; nhân

rộng các mô hình an toàn PCCC và các cá nhân điển hình về thực hiện công

tác PCCC; nội dung tuyên truyền đảm bảo tính ngắn gọn, dễ hiểu, hình ảnh

sinh động, hướng đến mọi tầng lớp nhân dân. Trong 05 năm qua, lực lượng

Cảnh sát PC&CC tỉnh đã chủ động phối hợp với các ngành và các đơn vị

64

chức năng tổ chức nhiều hoạt động thiết thực về PCCC, có hàng ngàn buổi

nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền, hướng dẫn PCCC với hàng trăm ngàn

lượt người dự nghe; tổ chức phát động và xây dựng phong trào toàn dân tham

gia thực hiện công tác PCCC theo phương châm “Bốn tại chỗ” tại tất cả các

cụm dân cư, chung cư, tổ dân phố an toàn về PCCC; vận động từng hộ nhân

dân tự trang bị được bình chữa cháy tại nhà.

Các ngành Tư pháp, Văn hóa – thông tin, Đài Phát thanh và truyền hình

tỉnh, báo Nam Định phối hợp cùng với chính quyền các huyện, thành phố đã

xây dựng hàng trăm phim phóng sự, tin, bài; biên soạn các đầu tài liệu tuyên

truyền, phổ biến những kiến thức cơ bản, nội dung của Luật PC&CC, các quy

định an toàn trong sử dụng điện; phản ánh hoạt động phong trào toàn dân

tham gia PCCC trên hệ thống thông tin đại chúng, tập trung vào các dịp lễ,

tết, thời gian diễn ra các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao, các đợt cao điểm

thực hiện Tuần lễ quốc gia an toàn vệ sinh lao động, phòng, chống cháy, nổ,

Tháng an toàn điện, Ngày toàn dân PCCC, Tháng an toàn PCCC, thời điểm

điều kiện thời tiết khắc nghiệt, mùa hanh khô, mùa bão, lũ lụt… hàng năm.

Lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh đã phối hợp với các cơ quan thông

tấn, báo chí của tỉnh xây dựng và đăng phát 13 phóng sự hướng dẫn cảnh báo

về PCCC; 02 chuyên mục phỏng vấn trên Đài Phát thanh và truyền hình của

tỉnh với nội dung về tình hình cháy, nổ. Đăng 02 bài viết trên báo; 1215 tin,

bài trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương, địa phương, đài

truyền thanh nội bộ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và khu dân cư về

công tác PCCC; tập trung vào các nội dung về hướng dẫn kỹ năng và kiến

thức đảm bảo an toàn PCCC tại nhà ở, hộ gia đình, nhà cao tầng và các chợ,

trung tâm thương mại. Xây dựng 05 bài viết gửi Công an các đơn vị, huyện,

thành phố tuyên truyền tại các khu vực lễ hội, nơi đông người, 02 băng tuyên

truyền trên đài phát thanh. Tổ chức khuyến cáo về các biện pháp đảm bảo an

65

toàn về PCCC, phòng ngừa, xử lý các tình huống trong công tác PCCC.

Hướng dẫn kẻ vẽ, căng treo trên 6756 pano, áp phích, băng rôn, khẩu hiệu,

hàng nghìn bảng ảnh tuyên truyền, cổ động với các nội dung giáo dục, vận

động thực hiện an toàn về PCCC trên các tuyến giao thông, trụ sở cơ quan,

doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, khu dân cư, nơi tập trung đông người…

Gửi 694 cuốn tài liệu “Cẩm nang PCCC trong gia đình” do Cục Cảnh sát

PCCC & CNCH – Bộ Công an xây dựng đến 28 phòng, ban thuộc Công an

tỉnh, 10 Công an huyện, thành phố và 229 Công an xã, phường, thị trấn trên

địa bàn tỉnh và đề nghị phối hợp, tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân.

Hàng nghìn lượt cơ quan, doanh nghiệp và trọng hộ đã ký cam kết thực hiện

tiêu chí đảm bảo an toàn về PCCC. Sử dụng nhiều lượt xe lưu động, xe chữa

cháy và tổ chức 75 buổi tuyên truyền trực quan tại các tuyến đường tập trung

đông dân cư, chợ, trường học trên địa bàn thành phố và trung tâm các huyện.

Phối hợp với Tỉnh Đoàn, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức các hoạt động tuyên

truyền, huấn luyện, hướng nghiệp về PCCC cho các đối tượng đoàn viên,

thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp và trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh. Tổ chức mời đoàn

kịch Nhà hát Tuổi trẻ Việt Nam đến công diễn vở kịch “Người trong biển lửa”

và tuyên truyền đến quần chúng nhân dân về hình tượng người chiến sĩ Cảnh

sát PCCC&CNCH trong cuộc chiến với giặc lửa, đấu tranh gìn giữ an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội của đất nước.

Cùng với việc tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại

chúng, hàng năm, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa

bàn tỉnh cũng rất quan tâm và thường xuyên phối hợp với lực lượng Cảnh sát

PC&CC Công an tỉnh tổ chức huấn luyện nghiệp vụ PCCC cho lực lượng

chữa cháy cơ sở, dân phòng tại các địa bàn, cơ sở. Kết quả, trong 05 năm qua,

lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh đã tổ chức mở được 858 lớp tập huấn nghiệp

66

vụ PCCC với 42.162 lượt người tham gia; tiêu biểu như: 352 lớp huấn luyện,

bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC&CNCH cho 27.973 lượt người là cán bộ, công

nhân viên, đội viên đội PCCC cơ sở ở cơ quan, doanh nghiệp, dân phòng, lực

lượng vũ trang, Công an xã, phường, thị trấn, người lao động trực tiếp tại các

khu vực có môi trường nguy hiểm cháy, nổ cao…; 08 buổi hướng dẫn nghiệp

vụ, kiến thức PCCC, kỹ năng thoát nạn, thoát hiểm cho hơn 5000 cán bộ, giáo

viên, học sinh của 08 trường học. Tổ chức Hội nghị tập huấn về PCCC cho

thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thành phố trong

tỉnh; các buổi nói chuyện chuyên đề về cảnh báo nguy cơ, nguyên nhân gây ra

cháy, nổ cho lực lượng tuyên truyền viên ở cơ sở. Phối hợp với UBND các

cấp, Ban quản lý các khu công nghiệp trong tỉnh, Trung tâm phát triển cụm

công nghiệp thành phố tổ chức 04 hội nghị tập huấn chuyên đề, 04 lớp tuyên

truyền pháp luật về PCCC, huấn luyện kiến thức, kỹ năng phòng ngừa tai nạn,

sự cố, nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm về PCCC cho hơn 286 người

đứng đầu cơ sở, cơ quan, doanh nghiệp sử dụng lao động, cán bộ quản lý,

lãnh đạo đoàn thể và nhân dân địa phương tại 04 xã. Phối hợp với Công ty

Điện lực tỉnh tổ chức Hội nghị bàn về biện pháp, giải pháp PCCC đối với hệ

thống dây dẫn và thiết bị điện. Phối hợp với Trung tâm Văn hóa thanh thiếu

niên tỉnh tổ chức chương trình “Một ngày làm chiến sĩ chữa cháy” cho 96

cháu thiếu niên trên địa bàn thành phố; hướng dẫn các cháu về những kỹ năng

thoát nạn, thoát hiểm khi xảy ra đám cháy có khói, khí độc, kỹ năng sử dụng

phương tiện chữa cháy xách tay trang bị trong gia đình để dập lửa, kỹ năng

báo cháy khi có cháy xảy ra, kỹ năng phòng ngừa cháy khi sử dụng thiết bị

điện, bếp gas…

Ngoài ra, hàng năm, vào các thời điểm dịp lễ, Tết, hưởng ứng Tháng

cao điểm về an toàn PCCC, Tuần lễ quốc gia an toàn vệ sinh lao động, phòng,

chống cháy, nổ, Ngày toàn dân PCCC (04/10)…, Công an tỉnh Nam Định đã

67

chỉ đạo Phòng Cảnh sát PCCC & CNCH phối hợp với các đơn vị cơ quan,

doanh nghiệp tổ chức các hội thao nghiệp vụ PCCC & CNCH cho lực lượng

PCCC cơ sở, hội thao kỹ thuật chữa cháy, hội thi tìm hiểu pháp luật về PCCC,

thi tiểu phẩm PCCC, Hội thi lực lượng dân phòng giỏi trên địa bàn thành

phố… thu hút được hàng vạn lượt người tham gia; khơi dậy được ý thức

PCCC trong mỗi cá nhân, doanh nghiệp. Các hội thi, hội thao, hội diễn, sân

khấu về PCCC đã giúp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức

về pháp luật và nghiệp vụ PCCC cho đại bộ phận các tầng lớp nhân dân trên

địa bàn tỉnh, từng bước đưa pháp luật về PCCC đi vào cuộc sống.

Đặc biệt, để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cơ quan chức

năng tham mưu về PC&CC của tỉnh đã tổ chức xây dựng hệ thống giáo án

điện tử phục vụ huấn luyện; thường xuyên đổi mới hình thức, cập nhật thông

tin để bổ sung và làm phong phú nội dung. Thực hiện đẩy mạnh xã hội hóa,

tập trung hướng dẫn lực lượng dân phòng và lực lượng PCCC cơ sở về cách

thức, phương pháp để tự tổ chức các hoạt động tuyên truyền trong nội bộ cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp, gia đình; đưa lực lượng tại chỗ thực sự trở thành

nòng cốt trong công tác vận động quần chúng tham gia PCCC.

Trong 05 năm qua, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã tập trung

xây dựng, bồi dưỡng và nhân rộng hàng trăm mô hình điển hình tiên tiến

trong phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC; đến nay, nhiều tập thể

và cá nhân đã được Chính phủ, Bộ Công an, UBND tỉnh, Công an tỉnh tặng

Bằng khen và Giấy khen.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc tổ chức tuyên truyền kiến

thức pháp luật và kiến thức về PCCC vẫn đang gặp những trở ngại và khó

khăn, đó là: Một số cơ sở chưa thật sự quan tâm đến công tác tuyên truyền

kiến thức về PCCC mà chỉ tập trung đến việc kinh doanh, sản xuất; cá biệt có

những cơ sở đã mua bảo hiểm cháy, nổ nhưng người đứng đầu không quan

68

tâm đến việc duy trì các điều kiện đảm bảo an toàn PCCC; nhận thức của một

bộ phận người dân về an toàn PCCC chưa đầy đủ, còn thờ ơ, xem nhẹ và cho

rằng đó là trách nhiệm của chính quyền và lực lượng Cảnh sát PC&CC; thành

phần tham gia các buổi tuyên truyền kiến thức về PCCC còn hạn chế, đa số

tập trung ở người già và phụ nữ, số lượng thanh niên, người lao động, cán bộ,

đảng viên, công chức còn ít; công tác tuyên truyền có lúc, có nơi còn mang

tính thời vụ, hoặc để đối phó nên hiệu quả đạt được thấp.

2.2.2.4. Công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chữa cháy

Để chủ động trong công tác tổ chức chữa cháy, UBND tỉnh Nam Định

đã chỉ đạo các lực lượng, cơ quan chức năng trong tỉnh, trong đó giao Công

an tỉnh, trực tiếp là Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH xây dựng giáo án và triển

khai huấn luyện theo sát tình hình thực tế của địa phương như: chiến thuật, kỹ

thuật chữa cháy đối với chợ, trung tâm thương mại, các cơ sở sản xuất, kho

tàng có quy mô lớn, nhà cao tầng, nhà khung sắt mái tôn v.v…; xây dựng các

tài liệu hướng dẫn sử dụng trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy mới; không

ngừng đổi mới nội dung, hình thức huấn luyện nhằm khích lệ tính tự học

trong mỗi cán bộ, chiến sĩ.

Hưởng ứng Ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, các cán bộ,

chiến sĩ lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy tỉnh Nam Định luôn tích

cực rèn luyện nâng cao nhận thức chính trị, kiến thức pháp luật, kỹ thuật,

chiến thuật chữa cháy nhằm đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chủ

động xây dựng và tổ chức thực tập các phương án chữa cháy có sự phối hợp

của nhiều lực lượng tại các cơ sở trọng điểm; tham gia thực tập phương án

giải quyết chống biểu tình, bạo loạn; phòng, chống lụt bão, cứu nạn, cứu hộ,

bảo vệ các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao v.v… diễn ra trên địa bàn tỉnh.

Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định đã tham mưu

cho UBND tỉnh chỉ đạo lực lượng PCCC chủ động xây dựng và hướng dẫn

69

lập mới, bổ sung 100% phương án chữa cháy tại các cơ sở thuộc diện quản lý

về PCCC theo Thông tư số 66/2014/TT-BCA của Bộ Công an. Thực hiện rà

soát, củng cố các phương án CNCH đối với một số sự cố thường xuyên xảy ra

trên địa bàn tỉnh. Hướng dẫn người đứng đầu cơ sở có nguy hiểm cháy, nổ

cao xây dựng phương án chữa cháy cụ thể cho lực lượng tại chỗ. Phối hợp tổ

chức thực tập 189 phương án chữa cháy và CNCH có huy động nhiều lực

lượng, phương tiện tham gia nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các tình

huống cháy lớn, các sự cố, tại nạn có quy mô phức tạp tại các đơn vị và cơ sở

trọng điểm về PCCC (như: Kho xăng dầu thuộc Công ty Xăng dầu Hà Nam

Ninh và Công ty cổ phần Xăng dầu, dầu khí Nam Định; tòa nhà cao tầng của

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank…); phối hợp với

UBND các huyện, phường tổ chức thực tập phương án chữa cháy tại trụ sở

UBND các phường và khu dân cư có nguy cơ cháy, nổ cao không có đường

cho xe chữa cháy hoạt động; tổ chức 80 phương án chữa cháy, CNCH tại các

cơ sở trọng điểm; hướng dẫn các cơ sở tự tổ chức thực tập phương án chữa

cháy theo quy định; xây dựng và triển khai thực hiện các phương án đảm bảo

an toàn PCCC tại các lễ hội diễn ra đầu năm (như: chợ Viềng Xuân tại huyện

Vụ Bản và huyện Nam Trực, lễ Khai ấn Đền Trần; lễ hội Phủ Dầy…); phân

công lực lượng và phương tiện tham gia bảo vệ các sự kiện chính trị - văn hóa

lớn của tỉnh (như: kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân

các cấp, đón các đoàn lãnh đạo Đảng và Nhà nước về thăm và làm việc…).

Ngoài ra, UBND tỉnh đã chỉ đạo Công an tỉnh xây dựng và ban hành chương

trình, kế hoạch cụ thể về huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy và CNCH, định kỳ

06 tháng và hàng năm tổ chức hội thao trong lực lượng nhằm rèn luyện và

kiểm tra, đánh giá kỹ năng chiến đấu của đội ngũ lãnh đạo, chỉ hủy và cán bộ,

chiến sĩ chữa cháy.

70

Tuy nhiên, một số phương án chữa cháy còn chưa đạt chất lượng cao,

nội dung vẫn mang nặng tính lý thuyết, chưa đề ra được giải pháp hiệu quả để

xử lý tình huống trong thực tiễn; việc tổ chức thực tập phương án chữa cháy

chưa thường xuyên, còn nặng tính hình thức, thao diễn và tuyên truyền.

Thực tế tình hình cháy: Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Nam Định xảy ra

khoảng 45 vụ cháy có gây thiệt hại về tài sản. Trong 05 năm qua, lực lượng

Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam Định luôn duy trì, đảm bảo 100% lực lượng,

phương tiện thường trực sẵn sàng chiến đấu, tiếp nhận và xử lý thông tin báo

cháy, yêu cầu cứu nạn, cứu hộ 24/24 giờ đảm bảo nhanh chóng, chính xác,

kịp thời; sàng lọc trên 28.535 cuộc điện thoại báo cháy và cứu nạn, cứu hộ

qua số máy 114, trong đó có 171 tin báo cháy và 11 tin yêu cầu CNCH.

Thống kê cho thấy lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam Định đã thực hiện

tốt chức năng, nhiệm vụ và chủ động chữa cháy trong mọi tình huống. Ngay

sau khi nhận được tin báo vụ việc, lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam

Định đã điều động, xuất 115 lượt xe với 963 lượt cán bộ, chiến sĩ đến hiện

trường trực tiếp tham gia chữa cháy và tổ chức cứu chữa kịp thời, hiệu quả

229 vụ cháy, không để xảy ra cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng, bảo vệ an

toàn được nhiều tài sản của Nhà nước và Nhân dân có giá trị lên đến hàng

trăm tỉ đồng. Trong đó, lực lượng tại chỗ đã dập tắt 27 vụ cháy. Sau mỗi vụ

cháy, lực lượng PC&CC tỉnh đều nghiêm túc tổ chức rút kinh nghiệm về công

tác chữa cháy; qua đó nhằm nâng cao khả năng xử lý các tình huống cháy lớn;

cũng như đánh giá được chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ huy và tổ chức

chữa cháy, thể hiện tính chuyên nghiệp của lực lượng.

Ngày 15/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

44/2012/QĐ-TTg và quy định công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trong các sự

cố mang tính thảm họa như lũ lụt lớn, sóng thần, lũ quét, thảm họa cháy rừng,

động đất, sập đổ công trình, hầm lò v.v…thuộc chức năng của lực lượng Cảnh

71

sát PC&CC. Tuy nhiên, hiện nay, công tác tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ đối với

lực lượng Cảnh sát PC&CC Công an tỉnh Nam Định vẫn còn khá mới mẻ;

phương tiện cứu nạn, cứu hộ chưa được trang bị hiện đại, cán bộ làm nhiệm

vụ cứu nạn, cứu hộ còn rất hạn chế nên chưa đáp ứng được những yêu cầu

nhiệm vụ mới. Trong 05 năm qua, Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an

tỉnh Nam Định đã tiếp nhận yêu cầu và kịp thời huy động lực lượng, phương

tiện tổ chức cứu nạn, cứu hộ hiệu quả đối với 84 vụ việc, sự cố, tai nạn (trong

đó chủ yếu là các vụ tai nạn giao thông, sự cố điện, mắc kẹt trong đám

cháy…); hướng dẫn hàng nghìn người thoát nạn an toàn, cứu được tính mạng

và đưa đi cấp cứu 20 người bị thương nặng. Lực lượng cũng thường xuyên tổ

chức các lớp tập huấn kỹ năng sử dụng các trang thiết bị trên xe CNCH

chuyên dụng cho cán bộ, chiến sỹ thực hiện nhiệm vụ cũng như học hỏi, rút

kinh nghiệm các vụ CNCH điển hình trên địa bàn tỉnh và các địa phương khác

trên cả nước.

2.2.2.5. Tổ chức phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các ban, ngành

trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy

Hoạt động PCCC là trách nhiệm của toàn xã hội. Do đó, việc huy động

sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt động PCCC là nguyên tắc cơ

bản, mang tính chủ đạo, được quy định tại Khoản 1, Điều 4, Luật PC&CC.

Nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc này, trong 05 năm qua, Công

an tỉnh Nam Định đã ký kết Quy chế phối hợp với UBND các cấp (huyện,

thành phố, phường…), Ủy ban mặt trận Tổ quốc; với các lực lượng quân đội,

biên phòng, dân phòng; các sở, ban, ngành: Giáo dục và đào tạo, Công

thương, Y tế; công ty Điện lực Nam Định, Ban quản lý các khu công nghiệp,

Ban quản lý các chợ, cơ sở; công ty Kinh doanh dịch vụ và quản lý chợ thành

phố Nam Định… nhằm phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về PCCC; Công an tỉnh cũng phối hợp với Sở Xây dựng

72

tỉnh ký ban hành Quy chế phối hợp trong công tác quản lý đầu tư xây dựng và

phòng cháy, chữa cháy đối với dự án, công trình; Tổ chức thực hiện Quy chế

phối hợp trong công tác PCCC&CNCH trên các phương tiện giao thông; tạo

chuyển biến tích cực về nhận thức cũng như chuyển biến trong việc tổ chức

thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC. Qua đó, tình hình cháy tại các

cơ quan, doanh nghiệp và hộ gia đình trên địa bàn tỉnh đã được kiềm chế cả

về số vụ và thiệt hại.

Tuy nhiên, công tác phối hợp tuyên truyền về PCCC vẫn còn một số

những hạn chế nhất định, như: việc tuyên truyền chưa được thường xuyên,

nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng để thu hút đông

đảo người dân tham gia. Các cơ quan có liên quan chưa thật sự quan tâm đến

hoạt động tuyên truyền về PCCC. Mặt khác, do điều kiện kinh phí phục vụ

công tác tuyên truyền còn hạn chế nên phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng

và hiệu quả của hoạt động tuyên truyền.

2.2.2.6. Công tác nghiệp vụ và điều tra cơ bản

Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát

PC&CC để phục vụ cho việc tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn các biện pháp,

giải pháp đảm bảo an toàn PCCC; xác định trọng tâm, trọng điểm công tác

PCCC theo từng giai đoạn, địa bàn, chuyên đề; xác định nhu cầu kinh phí đầu

tư cho công tác PCCC phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, UBND tỉnh Nam Định đã tập trung

lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng chức năng, trong đó trực tiếp là Phòng Cảnh sát

PCCC&CNCH Công an tỉnh tổ chức thực hiện công tác điều tra cơ bản đối

với các địa bàn, cơ sở trọng điểm trong lĩnh vực PCCC&CNCH; phối hợp với

Công an các huyện, thành phố tiến hành điều tra nắm tình hình, rà soát, phân

loại cơ sở nguy hiểm về cháy nổ. Hiện nay, thống kê trên toàn tỉnh có 5670 cơ

sở thuộc diện quản lý nhà nước về PCCC, trong đó có 1984 cơ sở có nguy

73

hiểm về cháy, nổ. Những địa bàn được xác định là trọng điểm tập trung về

công tác đảm bảo an toàn PCCC gồm các khu, cụm công nghiệp, làng nghề,

thành phố Nam Định, các thị trấn và trung tâm các huyện, khu du lịch biển.

Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh đã trực tiếp khảo sát xây dựng

hồ sơ quản lý, theo dõi về công tác PCCC đối với 821 cơ sở; trong đó có 113

cơ sở loại I, 423 cơ sở loại II và 285 cơ sở loại III. Công an các huyện, thành

phố đã lập hồ sơ đối với 2091 cơ sở; trong đó có 1215 cơ sở loại I, 876 cơ sở

loại II; cụ thể: thành phố Nam Định có 522 cơ sở, huyện Hải Hậu có 286 cơ

sở, huyện Xuân Trường có 169 cơ sở, huyện Trực Ninh có 139 cơ sở, huyện

Nam Trực có 136 cơ sở, huyện Vụ Bản có 81 cơ sở, huyện Ý Yên có 205 cơ

sở, huyện Giao Thủy có 308 cơ sở, huyện Nghĩa Hưng có 146 cơ sở, huyện

Mỹ Lộc có 99 cơ sở. Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh cũng đã

trực tiếp thu thập thông tin, tài liệu và tổ chức lập, quản lý, khai thác sử dụng

có hiệu quả đối với 23 hồ sơ điều tra cơ bản về PCCC; trong đó có 05 hồ sơ

về địa bàn trọng điểm, 02 hồ sơ về khu vực trọng điểm, 03 hồ sơ về cơ sở

trọng điểm, 07 hồ sơ cơ sở bí mật và 06 hồ sơ cộng tác viên bí mật. Định kỳ

hàng năm, Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH tiến hành rà soát, tổng kiểm tra,

đánh giá kết quả nhằm củng cố, chấn chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả

công tác nghiệp vụ cơ bản, công tác lập và thực hiện quản lý hồ sơ nghiệp vụ

về PCCC.

Bảng 2.2. Thống kê các cơ sở về PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định

STT Địa phương Số cơ sở

1. Thành phố Nam Định 522

2. Huyện Hải Hậu 286

3. Huyện Xuân Trường 169

4. Huyện Trực Ninh 139

5. Huyện Nam Trực 136

74

6. Huyện Vụ Bản 81

7. Huyện Ý Yên 205

8. Huyện Giao Thủy 308

9. Huyện Nghĩa Hưng 146

10. Huyện Mỹ Lộc 99

Thành phố Nam Định

Huyện Hải Hậu

Huyện Xuân Trường

Huyện Trực Ninh

Huyện Nam Trực

Huyện Vụ Bản

Huyện Ý Yên

Huyện Giao Thủy

(Nguồn: Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định)

Hình 2.3. Biểu đồ thống kê các cơ sở về PCCC tại tỉnh Nam Định

2.2.2.7. Công tác xây dựng lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở

Công tác xây dựng lực lượng dân phòng và lực lượng PCCC cơ sở đã

được chính quyền địa phương và các doanh nghiệp quan tâm. Thực hiện

Quyết định số 237/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số

04/2004/TT-BCA ngày 31/3/2004 của Bộ Công an về việc hướng dẫn thi

hành Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật PC&CC; UBND tỉnh Nam Định đã chỉ

đạo UBND các cấp, thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể quyết định thành

lập các đội chữa cháy cơ sở, đội dân phòng, ưu tiên đầu tư kinh phí phục vụ

trang bị phương tiện, dụng cụ; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC

và diễn tập các phương án chữa cháy để nâng cao khả năng, nghiệp vụ.

Đến nay, toàn tỉnh Nam Định đã xây dựng, thành lập và kiện toàn được

1.850 đội PCCC dân phòng với 16.650 đội viên, 1.620 đội PCCC cơ sở với

75

18.305 đội viên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của UBND các cấp, thủ trưởng các

cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể và tổ chức xã hội. Củng cố và thành lập mới

các tổ tiểu thương, các đội nữ tiểu thương tự quản về PCCC tại các chợ với

hàng trăm đội viên tham gia; trong đó tập trung chủ yếu tại 02 chợ lớn trên

địa bàn thành phố là chợ Rồng và chợ Mỹ Tho. Các lực lượng này đều được

chính quyền địa phương và lãnh đạo cơ sở thường xuyên tổ chức huấn luyện

nghiệp vụ để chủ động, sẵn sàng xử lý ban đầu các tình huống, sự cố cháy có

thể xảy ra. Đây thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng cháy,

chữa cháy tại cơ sở. Hàng năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo Công an tỉnh mở các

lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC cho lãnh đạo, cán bộ Công an phụ

trách xã và lực lượng Công an xã, thị trấn trong toàn tỉnh, giúp lực lượng này

có đủ kiến thức theo dõi, quản lý, kiểm tra công tác phòng cháy, chữa cháy tại

đơn vị, địa phương.

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, công tác xây dựng lực lượng PCCC

dân phòng, cơ sở, chuyên trách của tỉnh Nam Định còn gặp những khó khăn,

bất cập, như:

- Việc thành lập lực lượng PCCC chuyên ngành theo quy định của Luật

PC&CC rất khó khăn; lực lượng dân phòng, lực lượng PCCC cơ sở đã thành

lập nhưng chưa được đào tạo chuyên sâu về PCCC dẫn đến hiệu quả công

việc thấp.

- Một số địa phương, doanh nghiệp chưa bố trí nguồn ngân sách hoặc

thiếu kinh phí đầu tư cho công tác PCCC nên việc trang bị phương tiện, thiết

bị PCCC còn bị thiếu và lạc hậu; lực lượng dân phòng tham gia công tác

PCCC tại khu dân cư chủ yếu là do tinh thần tự nguyện, việc động viên, khen

thưởng hay chế độ chính sách cũng chưa được quan tâm kịp thời.

2.2.2.8. Cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ chữa cháy

a) Về trang thiết bị, phương tiện chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ

76

Có thể nói, trang thiết bị, phương tiện chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là

một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác

PCCC và CNCH. Lực lượng Cảnh sát PCCC&CNCH tỉnh Nam Định có trách

nhiệm thực hiện bảo quản, bảo dưỡng định kỳ theo đúng quy định, các

phương tiện luôn ở trạng thái thường trực sẵn sàng chiến đấu; có hồ sơ theo

dõi và quản lý chặt chẽ đối với tất cả các phương tiện, công cụ được cấp phát.

Hiện tại, lực lượng PC&CC tỉnh Nam Định có 23 đầu xe chữa cháy và

xe chuyên dùng các loại, trong đó có 13 xe chữa cháy, 02 xe thang, 02 xe chỉ

huy, 01 xe cứu nạn, cứu hộ, 03 xe mô tô chữa cháy, 01 xe cứu thương, 01 xe

téc chở nước, 01 xuồng máy, 02 xuồng tay và 10 máy bơm chữa cháy khiêng

tay. Phương tiện thông tin liên lạc phục vụ báo cháy và chỉ huy chữa cháy bao

gồm: 01 trạm lặp, 07 bộ đàm theo xe, 27 bộ đàm cầm tay, 01 thiết bị liên kết

đa mạng. Ngoài ra, lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh còn được trang bị các

phương tiện, thiết bị khác phục vụ trực tiếp cho công tác chữa cháy, cứu nạn,

cứu hộ như: Ống tụt, đệm nhảy, quần áo, găng tay chuyên dụng chống cháy,

cách điện v.v…

Về cơ bản, phương tiện chữa cháy của lực lượng Cảnh sát PC&CC

Công an tỉnh Nam Định đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tuy nhiên vẫn

chưa thể theo kịp với nhu cầu và tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Phương tiện chữa cháy hiện nay đa số có tuổi thọ trung bình trên 20 năm, mới

chỉ đáp ứng được yêu cầu chữa cháy cơ bản; phương tiện CNCH tuy cũng đã

được trang bị nhưng còn hạn chế, do đó khi có các sự cố phức tạp xảy ra thì

việc xử lý gặp khó khăn, lúng túng.

Những năm qua, Bộ Công an và Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định đã

quan tâm đầu tư cho lực lượng Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy Công an

tỉnh xe chữa cháy hiện đại, có trị giá nhiều tỷ đồng nhằm nâng cao khả năng,

sức mạnh và hiệu quả cứu chữa các vụ cháy. Tuy nhiên, số lượng xe chữa

77

cháy còn ít. Một số xe chữa cháy đã lạc hậu (có xe tuổi đời trên 30 - 50 năm),

chất lượng kém nên hiệu quả chữa cháy không cao, một số phương tiện chữa

cháy đặc chủng chưa được trang bị hoặc đã có nhưng còn ít như: xe thang, xe

thông tin liên lạc và ánh sáng, cano, tàu chữa cháy… Điều kiện về cơ sở vật

chất, phương tiện phục vụ chiến đấu, tập luyện nghiệp vụ chữa cháy, cứu nạn,

cứu hộ còn thiếu thốn, chưa đảm bảo an toàn, chưa đáp ứng được các yêu cầu,

tình huống phức tạp như sự cố xảy ra trên cao, dưới nước, các sự cố liên quan

đến hóa chất độc hại.

b) Về giao thông, nguồn nước

Hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh Nam Định về cơ bản đã đáp ứng

tốt yêu cầu lưu thông của xe chữa cháy. Quá trình quy hoạch, nâng cấp, cải

tạo, sửa chữa hạ tầng giao thông, nguồn nước tại các khu dân cư đều có tham

khảo ý kiến chuyên môn của các cơ quan chức năng có liên quan; đảm bảo

mở rộng cổng đường vào các khu dân cư, cải tạo hạ ngầm hoặc nâng cao

đường điện nhằm tạo thuận lợi cho xe chữa cháy. Một số phường, xã có hồ

nước cũng đã tiến hành nạo vét, sửa chữa để đảm bảo tiêu chuẩn bến lấy nước

dành cho xe chữa cháy.

Đối với các khu dân cư được quy hoạch xây dựng mới như khu đô thị

Hòa Vượng, khu đô thị Thống Nhất, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cơ

quan chuyên môn làm tốt công tác thẩm duyệt quy hoạch về phòng cháy,

chữa cháy ngay từ thời điểm ban đầu; đảm bảo đường giao thông và nguồn

nước thuận tiện cho các hoạt động chữa cháy và chống cháy lan; trên các trục

đường giao thông đều phải lắp đặt các trụ nước chữa cháy để phục vụ cho

công tác lấy nước tại chỗ; đường dây điện được hạ ngầm và tính toán công

suất dự phòng cho mục tiêu phát triển lâu dài. Bên cạnh đó, các khu dân cư

mới hình thành cũng được thiết kế đường thoát hiểm phía sau giữa các dãy

nhà liền kề để đảm bảo phương án cho các hoạt động thoát nạn.

78

Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh còn tồn tại một số khu dân cư cũ nhiều

ngõ, ngách nhỏ xe chữa cháy không vào được; tại một số nơi, lòng, lề đường

bị lấn chiếm cơi nới để kinh doanh, buôn bán, hệ thống dây điện và thông tin

truyền thông chằng chịt, đấu nối, căng mắc tùy tiện, không đảm bảo chiều cao

thông thủy cho xe chữa cháy hoạt động.

c) Về hệ thống cấp nước chữa cháy

Toàn tỉnh đã đầu tư kinh phí thiết kế, xây dựng, lắp đặt 250 trụ cấp

nước chữa cháy và 04 hồ có bến lấy nước phục vụ chữa cháy trên địa bàn các

huyện và thành phố Nam Định; trong đó khu công nghiệp Hòa Xá và cụm

công nghiệp An Xá có 13 trụ nước, 02 bến nước. Nhìn chung, hệ thống cấp

nước chữa cháy của tỉnh đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, qua

kiểm tra thực tế, một số vị trí trụ nước đã lắp không đảm bảo khoảng cách

theo tiêu chuẩn là 150 mét (có nhiều khu vực khoảng cách giữa 02 trụ nước

chữa cháy gần 1000 mét); nhiều trụ nước không có nước, một số khu dân cư

có nguy cơ cháy cao không có nguồn nước phục vụ công tác chữa cháy.

UBND tỉnh đã chỉ đạo Công an tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và phát

triển nông thôn, UBND các huyện, thành phố, Công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên kinh doanh nước sạch Nam Định phối hợp khảo sát, lắp đặt và

xây dựng thêm các trụ cấp nước mới (ước tính cần khoảng 534 trụ) và bến lấy

nước chữa cháy trên địa bàn tỉnh.

2.2.2.9. Công tác cải cách thủ tục hành chính và thẩm duyệt thiết kế về

phòng cháy, chữa cháy

Quán triệt các quy định của Luật PC&CC trong quy hoạch xây dựng

các dự án, công trình; UBND tỉnh Nam Định đã chỉ đạo các cấp, các ngành;

đặc biệt là ngành xây dựng và Ban quản lý các khu công nghiệp, cụm công

nghiệp, làng nghề… trong tỉnh thực hiện nghiêm túc các biện pháp đảm bảo

an toàn PCCC trong công tác quy hoạch và xây dựng; các cơ quan, doanh

79

nghiệp phải tuân thủ các quy định trong thẩm duyệt thiết kế về PCCC. Trong

05 năm qua, cơ quan chức năng và lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam

Định đã tiếp nhận và giải quyết 884 hồ sơ đề nghị cấp các thủ tục về PCCC;

thực hiện cấp 414 giấy phép về vận chuyển chất, hàng nguy hiểm cháy, nổ;

thẩm duyệt 444 hồ sơ, dự án thiết kế; kiểm tra và nghiệm thu về PCCC đối

với 193 hạng mục, công trình xây dựng và quy hoạch đô thị theo đúng quy

định của Luật PC&CC; giải quyết 217 hồ sơ và ra quyết định cấp Giấy chứng

nhận đã qua huấn luyện nghiệp vụ PCCC&CNCH cho 4197 người. Các thủ

tục hành chính đều được thực hiện nhanh chóng, đảm bảo thời gian so với

quy định, tạo được sự thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, người dân và nhận được

sự đồng tình, khen ngợi. Lực lượng chức năng thường xuyên rà soát, điều

chỉnh quy trình tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính về PCCC; thực hiện

Đề án cải cách hành chính trong việc tiếp nhận, giải quyết các công việc của

tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân; cải tiến việc in biểu mẫu cấp phát cho

người dân; phân công những cán bộ có trình độ và kinh nghiệm đảm nhận

việc tiếp công dân; phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ

doanh nghiệp của tỉnh; trong đó, Công an tỉnh đã phối hợp với Trung tâm xúc

tiến đầu tư tiếp nhận hồ sơ đề nghị giải quyết các thủ tục về đầu tư liên quan

đến PCCC trên địa bàn tỉnh.

2.2.2.10. Công tác thanh tra, kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy

và xử lý vi phạm về PCCC

Hoạt động thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa quan trọng đối với công tác

quản lý nhà nước về PCCC. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động

này, lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam Định thường xuyên bồi dưỡng

nghiệp vụ chuyên môn để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra;

phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm hoặc cố tình vi phạm,

chống đối, không chấp hành quy định của pháp luật; tăng cường công tác điều

80

tra cơ bản, phân loại cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC; trên cơ sở đó có biện

pháp quản lý, kiểm tra, hướng dẫn khắc phục đảm bảo sát với thực tế và phù

hợp với từng loại hình, tính chất hoạt động của cơ sở.

a) Đối với công tác kiểm tra

Xuất phát từ sự phát triển ngày càng nhiều các đơn vị, cơ sở cở có tính

chất nguy hiểm cháy, nổ cao; hàng năm, UBND tỉnh Nam Định đều chỉ đạo

các cấp, các ngành, các đơn vị, cơ sở trong tỉnh xây dựng kế hoạch tự tổ chức

kiểm tra, phát hiện và khắc phục những sơ hở, thiếu sót gây mất an toàn cháy,

nổ. Định kỳ, Ban chỉ đạo PCCC của tỉnh sẽ thành lập các đoàn kiểm tra liên

ngành do các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo phụ trách mỗi địa bàn làm

trưởng đoàn, trực tiếp kiểm tra việc triển khai thi hành các quy định của pháp

luật về PCCC ở các huyện, thành phố và các cơ sở trọng điểm về cháy, nổ. Ủy

ban nhân dân tỉnh cũng chỉ đạo Công an tỉnh hằng năm tiến hành tổng rà soát,

phân loại các cơ cở thuộc diện quản lý về PCCC trên địa bàn; qua rà soát cần

kịp thời bổ sung các cơ sở mới phát sinh và thanh loại các cơ sở đã ngừng

hoạt động; đồng thời cần chỉ đạo tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra an

toàn PCCC và tiến hành phân cấp quản lý về PCCC đến công an cấp huyện.

Ngành Công an đã làm tốt chức năng quản lý nhà nước trong công tác

PCCC; thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các nội quy, quy

định đảm bảo an toàn PCCC ở tất cả các cơ quan, doanh nghiệp; tập trung vào

các ngành, lĩnh vực trọng điểm như: ngân hàng, kho bạc, điện lực, bưu chính,

viễn thông, xây dựng, y tế, công thương, giáo dục và đào tạo; tổ chức kiểm tra

theo các chuyên đề, chuyên ngành gồm: chợ, trung tâm thương mại, siêu thị,

các lễ hội, khách sạn - nhà nghỉ, các trường học, nhà ở, khu tập trung đông

dân cư, hộ gia đình kết hợp sản xuất, kinh doanh có điều kiện thuộc các làng

nghề; các khu, cụm công nghiệp; cơ sở sản xuất có liên quan đến vốn đầu tư

nước ngoài; cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà hàng ăn uống; bến bãi, kho tàng,

81

nhà xưởng cho thuê; các trọng hộ kinh doanh hàng nguy hiểm cháy, nổ; cơ sở

dệt may; cơ sở dịch vụ karaoke, vũ trường; cơ sở có công trình nhà cao tầng,

siêu cao tầng; nhà chung cư; trụ sở, doanh trại, kho bãi của các đơn vị Công

an; xăng dầu, khí đốt, khí dầu mỏ hóa lỏng…

Trong 05 năm qua, UBND tỉnh Nam Định đã chỉ đạo các lực lượng

chức năng trong tỉnh tổ chức kiểm tra an toàn về PCCC được 6.867 lượt cơ

sở, trọng hộ, xã, phường trên địa bàn tỉnh theo định kỳ, đột xuất và theo kế

hoạch, chuyên đề; trong đó, chỉ đạo Công an các huyện, thành phố kiểm tra

việc chấp hành pháp luật về PCCC theo từng chuyên ngành, lĩnh vực, quy mô

và tính chất nguy hiểm cháy, nổ; chỉ đạo các phòng, ban thuộc UBND tỉnh

tiến hành kiểm tra an toàn về PCCC được nhiều lượt cơ sở vào các đợt cao

điểm tấn công trấn áp tội phạm. Rà soát các điều kiện đảm bảo an toàn PCCC

đối với những cơ sở trọng điểm có nguy hiểm về cháy, nổ cao.

Qua kiểm tra, lực lượng chức năng đã xây dựng 06 công văn yêu cầu,

kiến nghị, nhắc nhở cơ sở, đơn vị doanh nghiệp khắc phục những thiếu sót,

tồn tại gây mất an toàn về PCCC; hướng dẫn các đơn vị kinh doanh bảo hiểm

cháy, nổ bắt buộc, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thực

hiện Nghị định số 23/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bảo hiểm cháy,

nổ bắt buộc; phát hiện, lập biên bản và ra quyết định xử phạt vi phạm quy

định hành chính trong lĩnh vực an toàn PCCC đối với 291 trường hợp với

tổng số tiền phạt 1.057,05 triệu đồng (hơn 1 tỷ đồng). Ra quyết định đình chỉ

đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh không đảm bảo điều kiện an toàn về

PCCC và triệt phá hoạt động của 03 cơ sở thực hiện sang, chiết khí dầu mỏ

hóa lỏng (LPG) trái phép, thu giữ 05 bộ san nạp tự chế, 03 bình gas loại

12,5kg và 585 bình gas mini loại 0,3kg. Hướng dẫn thực hiện 4.965 biện pháp

bảo đảm an toàn về PCCC đối với các cơ sở có nguy hiểm cháy, nổ cao; trong

đó tập trung vào những nội dung như: Trách nhiệm của người đứng đầu các

82

cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình trong tổ chức các hoạt động an toàn PCCC;

việc chấp hành quy định của pháp luật về PCCC trong đầu tư xây dựng; công

tác tuyên truyền, huấn luyện của lực lượng PCCC tại chỗ và ý thức, nhận

thức, kỹ năng thoát nạn, thoát hiểm của con người khi có sự cố cháy, nổ; tình

trạng hoạt động của các thiết bị cảnh báo cháy, các phương tiện, trang thiết bị

PCCC&CNCH (các hệ thống PCCC, dụng cụ, phương tiện chữa cháy, giao

thông, nguồn nước chữa cháy, hệ thống thiết bị thoát nạn…); công tác tự kiểm

tra PCCC, vệ sinh công nghiệp, quản lý nguồn lửa, nguồn nhiệt, an toàn sử

dụng điện; khả năng xử lý tình huống cháy, nổ xảy ra; công tác lập, thực tập

phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; hoạt động huy động, điều hành, thực

hành của lực lượng PCCC tại chỗ.

Công tác khám nghiệm hiện trường, điều tra, xử lý và kết luận nguyên

nhân vụ cháy được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định; số vụ cháy được

điều tra làm rõ đạt 84,13%; đối với những vụ việc còn chưa rõ nguyên nhân

đều tiếp tục được chuyển cơ quan chức năng để điều tra làm rõ.

b) Đối với công tác thanh tra

Trong 05 năm qua, UBND tỉnh Nam Định đã chỉ đạo Công an tỉnh

thành lập các đoàn thanh tra chuyên ngành về PCCC (trong đó có sự phối hợp

của các đơn vị chức năng như Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH, Thanh tra

tỉnh…) tiến hành tổ chức thanh tra được 03 lượt cơ sở, 03 phường và 02 khu

công nghiệp.

Kết thúc các đợt kiểm tra, thanh tra, lực lượng phòng cháy và chữa

cháy tỉnh đều tổ chức kết luận, sơ kết, rút kinh nghiệm; đối với những sơ hở,

thiết sót, vướng mắc, bất cập, những vấn đề còn tồn tại trong công tác PCCC,

các lực lượng chức năng sẽ có công văn yêu cầu, kiến nghị các cơ quan liên

quan có hướng chỉ đạo, hướng dẫn để kịp thời khắc phục, giải quyết dứt điểm.

83

Qua thanh tra, kiểm tra, người đứng đầu cơ sở đã nhận thức rõ hơn về

vai trò, trách nhiệm của mình trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định

của pháp luật về PCCC; đồng thời đã đề ra các biện pháp để khắc phục những

sơ hở, thiếu sót, vi phạm về PCCC của cơ sở mình.

Những thiếu sót, tồn tại và bất cập của công tác thanh tra, kiểm tra về

an toàn PCCC còn phải kể đến ở đây đó là: Cấp ủy, chính quyền và lãnh đạo

của một vài địa phương, cơ sở thiếu sự quan tâm đến công tác PCCC, còn ỷ

lại và coi đây là trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát PC&CC. Sau hoạt động

kiểm tra, việc tổ chức khắc phục các tồn tại, thiếu sót, các hành vi vi phạm

còn chậm, chưa triệt để, nguy cơ cháy, nổ vẫn còn tồn tại. Những lỗi vi phạm

quy định của pháp luật về PCCC thường gặp là: không lập hồ sơ theo dõi

công tác PCCC; không ban hành nội quy, quy định về PCCC; chế độ bảo

quản, bảo dưỡng phương tiện báo cháy, chữa cháy không đúng quy định; giao

thông nội bộ cho xe chữa cháy hoạt động bị lấn chiếm; không kiểm tra hệ

thống chống sét đánh thẳng; không mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; không tổ

chức tuyên truyền, huấn luyện nghiệp vụ về PCCC; không lập và thực tập

phương án chữa cháy; hệ thống điện và việc sử dụng điện không đảm bảo; sắp

xếp hàng hóa không đúng quy định… Nguyên nhân của những vi phạm này là

do: Lãnh đạo, người đứng đầu của một bộ phận các doanh nghiệp chưa nhận

thức được đầy đủ về tầm quan trọng của công tác PCCC, mặc dù đã được các

cơ quan chức năng kiến nghị nhiều lần nhưng không có biện pháp khắc phục;

bên cạnh đó, do áp lực về kinh doanh nên các doanh nghiệp không dành thời

gian đến công tác PCCC; ngoài ra, một số doanh nghiệp đã mua bảo hiểm

cháy, nổ bắt buộc nên không quan tâm đến công tác PCCC.

84

2.2.3. Đánh giá tổng quát thực trạng quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

2.2.3.1. Ưu điểm, thuận lợi, kết quả đạt được

Trong gần 20 năm, từ khi Luật PC&CC năm 2001 có hiệu lực thi hành

cho đến nay khi đã đi vào cuộc sống, tình hình và bối cảnh chung đã có nhiều

tác động thuận lợi đến công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và việc triển khai thi hành pháp luật về

PC&CC trên cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng. Cùng với sự

quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an, sự đồng thuận ủng hộ của cán

bộ, công nhân viên chức và Nhân dân trong toàn tỉnh, công tác quản lý nhà

nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định đã đạt được nhiều

những kết quả nổi bật rất quan trọng, đó là:

- Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC được tăng

cường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật

về PCCC được ban hành tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh đã tạo nên hành lang

pháp lý tương đối chặt chẽ, đưa việc thực hiện pháp luật về PCCC dần đi vào

nền nếp và có bước chuyển biến rõ rệt. Các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn

thể, tổ chức, cá nhân, người nước ngoài đang làm việc, sinh sống trên địa bàn

tỉnh Nam Định đã triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả và đồng bộ

Luật PC&CC và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, đưa

pháp luật về PCCC thực sự đi vào cuộc sống; góp phần nâng cao năng lực

điều hành, bảo đảm chức năng quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với

công tác PCCC; từ đó tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Trong quá trình triển khai thực hiện

công tác quản lý Nhà nước về PCCC, UBND tỉnh thường xuyên tổ chức kiểm

tra, giám sát để kịp thời chỉ đạo, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm; đồng thời tổ

85

chức cụ thể hóa các quy định của pháp luật về PCCC để thông báo tới các

cấp, các ngành và Nhân dân trong tỉnh thực hiện.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các văn bản hướng dẫn

thi hành Luật và quy định về PCCC được làm thường xuyên, liên tục, gắn với

thời điểm phát động và mở các đợt cao điểm về PCCC; qua đó nhằm nâng cao

nhận thức của Nhân dân, từng bước xã hội hóa công tác PCCC trên địa bàn

tỉnh Nam Định. Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh đã quan tâm hơn

đến việc tuyên truyền kiến thức pháp luật và kiến thức về PCCC với nhiều

hình thức đa dạng, phong phú. Do đó, từ năm 2014 đến nay, tình hình cháy,

nổ trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát và hạn chế, không để có vụ cháy lớn

nào xảy ra.

- Nhiệm vụ PCCC được triển khai đồng bộ cả về bề rộng lẫn chiều sâu.

Cơ cấu Ban chỉ đạo PCCC các cấp, các ngành; lực lượng PCCC cơ sở, đội

dân phòng thường xuyên được xây dựng, củng cố, kiện toàn; nhờ đó đã giúp

phát huy tốt vai trò nòng cốt trong thực hiện công tác PCCC ngay từ cấp cơ

sở. Trong 05 năm qua, nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong

công tác này đã được các cấp, các ngành trong tỉnh biểu dương, khen thưởng.

- Trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, các ngành, các đơn vị và cơ sở đối

với công tác PCCC được nâng lên rõ rệt; UBND các cấp ngày càng nhận thấy

rõ trách nhiệm của mình trong việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện pháp luật về

PCCC. Các đơn vị, địa phương và cơ sở đã quan tâm, chú trọng đến việc đầu

tư kinh phí mua sắm trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ hỗ trợ…, tạo điều

kiện thuận lợi cho các hoạt động PCCC và CNCH; đảm bảo xử lý hiệu quả

đối với các tình huống, sự cố có thể xảy ra; ngăn chặn kịp thời và dập tắt ngay

đối với các đám cháy mới phát sinh.

- Phong trào toàn dân PCCC đã được đẩy mạnh và hoạt động có hiệu

quả; nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào toàn dân PCCC

86

đã được đông đảo người dân đồng tình ủng hộ và tham gia, như: mô hình xây

dựng Cụm cơ quan an toàn về PCCC, Khu dân cư, chung cư an toàn về

PCCC, Chợ an toàn về PCCC, Tổ dân phố an toàn PCCC hay như mô hình

vận động tiểu thương và hộ gia đình tự trang bị bình chữa cháy v.v... Lực

lượng PCCC cơ sở và dân phòng đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt

trong công tác PCCC tại cơ sở và khu dân cư. Hàng năm, lực lượng này đã

dập tắt kịp thời trên 50% tổng số vụ cháy xảy ra, góp phần quan trọng trong

việc ngăn chặn nguy cơ cháy lan, cháy lớn, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế

- xã hội và đảm bảo an ninh, trật tự tại địa phương.

- Với chức năng tham mưu giúp UBND tỉnh trong công tác quản lý nhà

nước về PCCC, lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam Định đã thực sự phát

huy vai trò nòng cốt, chủ đạo của mình; triển khai quyết liệt các biện pháp

nghiệp vụ trong công tác phòng ngừa cháy, nổ; thường xuyên tổ chức kiểm

tra, đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị cơ sở thực hiện các biện pháp, giải pháp

an toàn về PCCC; chủ động sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong

từng thời điểm, từng lĩnh vực; làm tốt công tác thẩm duyệt thiết kế về PCCC

đối với các công trình xây dựng lớn, có nguy hiểm về cháy, nổ. Thông qua

công tác kiểm tra, nắm địa bàn, lực lượng Cảnh sát PC&CC Công an tỉnh đã

phát hiện và kiến nghị khắc phục hàng nghìn sơ hở, thiếu sót gây mất an toàn

về PCCC, ngăn chặn kịp thời các nguy cơ gây cháy, bảo vệ an toàn các cơ sở

trọng điểm, các sự kiện chính trị quan trọng của địa phương và đất nước. Qua

đó, nhận thức của đại bộ phận Nhân dân, đặc biệt là ý thức và sự quan tâm

của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, hộ gia đình về công tác đảm bảo an

toàn PCCC&CNCH đã được nâng lên.

Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát PC&CC Công an tỉnh Nam

Định đã phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị tiếp tục ký kết các Quy chế phối

hợp trong việc triển khai thực hiện các nội dung theo chức năng, nhiệm vụ đã

87

quy định nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PCCC; chủ

động tham mưu, đề xuất UBND tỉnh thành lập Đội dân phòng làm công tác

PCCC theo Quyết định của UBND tỉnh và thành lập đội PCCC chuyên ngành

tại các khu Công nghiệp; củng cố, duy trì và nhân rộng các mô hình PCCC đã

xây dựng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, huấn luyện PCCC.

Có thể khẳng định rằng, hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa

bàn tỉnh Nam Định đã góp phần quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội và bảo đảm an ninh chính trị - trật tự, an toàn xã hội của địa phương.

2.2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân

Trong 05 năm qua, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được,

công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam

Định còn bộc lộ một số những hạn chế, tồn tại và thiếu sót trong quá trình tổ

chức thực hiện, đó là:

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCCC và các văn bản

hướng dẫn thi hành chưa thường xuyên, liên tục. Một bộ phận cán bộ, công

nhân viên chức và người lao động chưa thấy rõ quyền lợi, nghĩa vụ, chức

trách, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình được quy định trong các văn bản quy

phạm pháp luật; lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị, ban, ngành, nhất là ở những

cơ sở sản xuất, kinh doanh, đầu tư, xây dựng… chưa coi trọng việc thực hiện

các biện pháp đảm bảo an toàn PCCC.

- Một số quy định trong Luật PC&CC, Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật PC&CC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Thông

tư số 66/2014/TT-BCA của Bộ Công an và một số quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ

thuật về PCCC chưa được thực thi nghiêm, như: công tác xây dựng lực lượng

dân phòng; việc duy trì các điều kiện đảm bảo an toàn về PCCC đối với các

chợ, trung tâm thương mại, nhà cao tầng, cửa hàng kinh doanh xăng, dầu, khí

đốt hóa lỏng... Nhiều kiến nghị của lực lượng Cảnh sát PC&CC chưa được

88

khắc phục nghiêm túc. Tình trạng vi phạm các quy định về PCCC diễn ra ở

một số ngành nghề còn chưa được xử lý nghiêm. Một bộ phận nhân dân và

người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan

trọng của công tác PCCC; kiến thức về PCCC và thoát nạn chưa được triển

khai và tập huấn sâu rộng; một số tập thể, cá nhân, người dân vẫn còn chủ

quan, lơ là, thiếu ý thức chấp hành nội quy, quy định về PCCC dẫn đến xảy ra

cháy, nổ, sự cố, tai nạn gây thiệt hại về người và tài sản.

- Sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với phong trào toàn dân

PCCC chưa được duy trì thường xuyên. Cấp ủy, chính quyền một số nơi chưa

thật sự chú trọng đến công tác PCCC; nhiệm vụ PCCC chưa được đặt ngang

tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, trật tự trong

giai đoạn hiện nay. Kinh phí đầu tư hàng năm của địa phương cho hoạt động

PCCC nói chung và cho lực lượng Cảnh sát PCCC&CNCH nói riêng trên địa

bàn tỉnh còn thấp, hạn chế; các trang thiết bị và phương tiện chuyên dụng hiện

vẫn do Bộ Công an trang cấp. Thời gian gần đây, việc đầu tư này đã được

quan tâm chú trọng hơn, tuy nhiên, so với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội thì

sự đầu tư đó chưa tương xứng; ngân sách của Bộ Công an cho công tác PCCC

đang ít dần và chủ yếu dựa vào ngân sách địa phương. Một số tổ chức doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh chưa thực sự quan tâm đến công tác PCCC, số vụ

vi phạm quy định về PCCC còn nhiều, gây khó khăn trong việc quản lý. Bên

cạnh đó, chế độ chính sách đối với đội ngũ chữa cháy ở cơ sở tại một số địa

phương, cơ quan, doanh nghiệp cũng chưa được quan tâm thỏa đáng.

- Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành chưa tốt, chưa đồng bộ nên vẫn

còn những bất cập trong công tác quản lý nhà nước; gây nên những nguy cơ

cháy, nổ cao như: quản lý sản xuất, sử dụng hóa chất, vũ khí ,vật liệu nổ; quản

lý chung cư, nhà cao tầng; phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ cháy, nổ do sử

dụng hệ thống và các thiết bị điện…

89

- Tốc độ phát triển đô thị hóa nhanh dẫn đến công tác quy hoạch xây

dựng hệ thống đường giao thông, nguồn nước… nhất là ở các thị trấn, thị tứ,

các khu đô thị mới thiếu đồng bộ, đầy đủ, chưa đáp ứng được các yêu cầu về

chữa cháy. Mặc dù mục tiêu chung đặt ra là kiềm chế sự gia tăng số vụ cháy,

nổ và thiệt hại do cháy, nổ gây ra, nhưng tình hình tai nạn cháy, nổ những

năm gần đây còn nhiều diễn biến phức tạp, xảy ra nhiều vụ cháy lớn; nguy cơ

cháy, nổ có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn và khó kiểm soát.

Nguyên nhân của những thiếu sót trên cụ thể là do:

Một là, hệ thống pháp luật về PCCC về cơ bản là đầy đủ, có tính đồng

bộ nhưng một số quy định trong Luật PC&CC, Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật PC&CC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Thông

tư số 66/2014/TT-BCA của Bộ Công an và một số quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ

thuật về an toàn PCCC có tính khả thi chưa cao, đã bộc lộ sự chồng chéo,

không còn phù hợp với thực tiễn công tác PCCC hiện nay, như: Quy định

hướng dẫn về chế độ kinh phí phòng cháy và chữa cháy trong đầu tư xây

dựng, lập dự án thiết kế, thẩm duyệt, thử nghiệm, kiểm định, thi công, nghiệm

thu các công trình… (Điều 15 Luật PC&CC); Quy định về việc thành lập các

đội PCCC chuyên ngành trong các khu công nghiệp; chế độ chính sách cho

những người tham gia hoạt động PCCC; chiều cao công trình và việc xác định

số tầng tại các quy chuẩn không thống nhất; việc trang bị xe chữa cháy, tàu

chữa cháy cho các công trình đặc thù; quy chuẩn PCCC cho các công trình

siêu cao tầng, công trình ngầm v.v... Mặt khác, một số các văn bản hướng dẫn

thi hành thường ban hành chậm, hoặc, ban hành nhưng chưa hướng dẫn cụ

thể, kịp thời, hoặc, chậm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp đã khiến cho việc tổ

chức thực hiện công tác quản lý nhà nước về PCCC gặp nhiều trở ngại; hiệu

lực, hiệu quả thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy, chữa

cháy gặp nhiều hạn chế.

90

Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực PCCC trên thực tế

còn khá nhiều bất cập. Nhiều nội dung đã quy định rõ về việc các bộ, ngành

chức năng nào sẽ hướng dẫn thực hiện, nhưng đến nay phần lớn những quy

định này vẫn chưa được hướng dẫn. Quá trình phát triển nhanh của kinh tế -

xã hội cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng đã xuất hiện nhiều đối

tượng thuộc diện quản lý mới có nguy hiểm về cháy, nổ, hoặc có nguy cơ

thiệt hại lớn khi có cháy, nổ xảy ra, nhưng chưa được cập nhật kịp thời khiến

cơ sở còn nhiều lúng túng.

Hai là, về nhận thức, một bộ phận lãnh đạo các cấp, các ngành, đơn vị,

người đứng đầu cơ sở và Nhân dân chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan

trọng, vai trò, vị trí của công tác PCCC trong đời sống xã hội; chưa quan tâm

và có trách nhiệm cao đối với công tác PCCC; chưa gắn công tác đảm bảo an

toàn PCCC với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, trật

tự của địa phương.

Luật PC&CC, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC và

các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định về trách nhiệm của

Chủ tịch UBND các cấp, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, người đứng đầu

cơ sở, chủ phương tiện giao thông cơ giới, chủ hộ gia đình và cá nhân trong

công tác PCCC. Tuy nhiên, trên thực tế, sự chuyển biến trong nhận thức một

bộ phận chưa cao, ý thức trong việc thực thi và chấp hành các quy định của

pháp luật về PCCC còn hạn chế.

Ba là, về phía chủ thể quản lý mà đặc biệt là lực lượng Cảnh sát

PC&CC với vai trò là lực lượng nòng cốt trong quản lý nhà nước về PCCC

đang phải đối mặt với một số khó khăn, bất cập về tổ chức bộ máy. Hiện nay,

mô hình tổ chức và biên chế, trang bị phương tiện của lực lượng Cảnh sát

PC&CC đã có sự hướng dẫn cụ thể và thống nhất chung trên toàn quốc nhưng

phân bố chưa đồng đều ở các địa phương, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm

91

vụ cấp bách. Đối với tỉnh Nam Định, đơn vị Cảnh sát PCCC&CNCH của tỉnh

hiện tập trung chính ở trung tâm thành phố Nam Định và một số huyện, khu

vực, địa bàn lân cận; do đó chưa đảm bảo yêu cầu so với quy định về bán kính

bố trí các đội chữa cháy để làm nhiệm vụ bảo vệ khi có sự cố xảy ra (bán kính

bảo vệ theo quy định là 5km/đội chữa cháy).

Bốn là, về năng lực và cơ sở vật chất của lực lượng Cảnh sát PC&CC

tuy đã được đầu tư xây dựng về tổ chức, biên chế cán bộ và đào tạo, trang bị

phương tiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, song vẫn chưa đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ do còn thiếu về nhân lực, yếu về năng lực, trình độ nghiệp vụ.

Số lượng cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ cao còn ít, kinh nghiệm còn hạn

chế; một số cán bộ chiến sĩ chưa được đào tạo bài bản, chính quy nên còn còn

gặp nhiều lúng túng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; trang thiết bị, phương

tiện chữa cháy, CNCH còn thiếu và lạc hậu làm ảnh hưởng đến chất lượng,

hiệu quả chữa cháy (nhất là đối với chữa cháy nhà cao tầng và chung cư),

chưa đáp ứng được yêu cầu công tác PCCC phục vụ mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội của địa phương và đất nước [2].

Năm là, về thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

PCCC: Công tác quản lý vẫn còn mang tính hành chính, thiếu sự đồng bộ,

quyết liệt; công tác kiểm tra an toàn về PCCC chưa bám sát các nội dung cần

kiểm tra và các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành để phát hiện và kiến nghị

đúng các tồn tại, thiếu sót dễ dẫn đến cháy, nổ; còn để tình trạng vi phạm kéo

dài nhưng chưa được xử lý dứt khoát. Công tác thẩm duyệt thiết kế về PCCC

chưa chuyên sâu và thiếu tính kiên quyết trong việc yêu cầu chủ đầu tư, cơ

quan tư vấn thiết kế thực hiện các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC;

nội dung kiểm tra, đối chiếu, thẩm duyệt còn đơn giản, chưa sâu sát, cụ thể, ví

dụ như: kiểm tra các giải pháp đảm bảo an toàn PCCC đối với hệ thống thoát

nạn, tạo áp, hút khói, bố trí dây chuyền công nghệ sản xuất, hệ thống điện,

92

chống sét, thang máy chữa cháy v.v... Việc nghiệm thu PCCC chưa bám sát

vào các nội dung đã thẩm duyệt, không phát hiện được vi phạm trong quá

trình thi công. Công tác xử lý vi phạm cũng chưa được thực hiện nghiêm, còn

tình trạng xuề xòa, nể nang.

Bên cạnh các nguyên nhân nêu trên còn những nguyên nhân khách

quan khác tác động đến hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC có thể kể đến

như là: những khó khăn, bất cập trong quá trình xây dựng kinh tế, xã hội của

đất nước; tác động, ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu; thách

thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; các cuộc chiến tranh thương mại

trên thế giới; hiện tượng lạm phát; các doanh nghiệp Nhà nước lẫn tư nhân

làm ăn thua lỗ; đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn; việc bảo đảm

các điều kiện làm việc cho cán bộ, chiến sỹ và trang thiết bị phương tiện phục

vụ công tác của lực lượng Cảnh sát PC&CC chưa đáp ứng được yêu cầu đã

phần nào làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC.

2.2.3.3. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết trong quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Trước yêu cầu ngày càng cao của việc bảo đảm an toàn PCCC phục vụ

sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, hoạt động quản lý nhà

nước về PCCC đang đứng trước đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ cả về tổ

chức và phương thức nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý.

Yêu cầu đó xuất phát từ những lý do như sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nước về PCCC là một nhiệm vụ trong hoạt động

quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói riêng.

Việc nghiên cứu cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng mô

hình tổ chức, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về PCCC của các chủ thể

quản lý phải được đặt ra và thực hiện trên thực tế.

93

Thứ hai, về phía chủ thể quản lý: Người đứng đầu chính quyền địa

phương, Chủ tịch UBND các cấp và chủ cơ sở chưa thực sự quan tâm đến

công tác PCCC; năng lực và hiệu lực tổ chức, quản lý của lực lượng PCCC có

những mặt còn hạn chế nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn

xã hội trong hoạt động PCCC. Là lực lượng nòng cốt trong công tác quản lý

nhà nước về PCCC tuy nhiên lực lượng Cảnh sát PC&CC đang gặp phải

những khó khăn và bất cập về tổ chức bộ máy, về đội ngũ cán bộ, về phân cấp

trong quản lý nhà nước về PCCC, về biện pháp quản lý các trang thiết bị,

phương tiện PCCC và CNCH. Mô hình tổ chức của lực lượng Cảnh sát

PC&CC hiện vẫn đang tiếp tục có xu hướng rút gọn theo mô hình chung.

Thứ ba, về đối tượng quản lý: Sự phát triển nhanh về số lượng, tăng về

quy mô và tính chất nguy hiểm cháy, nổ của các cơ sở đang đặt ra yêu cầu đối

với các cơ quan chức năng là cần phải nghiên cứu đổi mới phương thức quản

lý nhà nước về PCCC sao cho phù hợp. Mặt khác, ý thức chấp hành pháp luật

về PCCC của một bộ phận cơ quan, tổ chức, đơn vị, cơ sở, chủ hộ gia đình và

người dân còn nhiều hạn chế; người đứng đầu một số cơ quan, tổ chức chưa

nhận thấy hết trách nhiệm của mình trong công tác PCCC; hiệu quả hoạt động

PCCC của các đội PCCC cơ sở còn thấp.

Cùng với đó là nhu cầu tất yếu về an toàn phòng cháy, chữa cháy và sự

cần thiết của quản lý nhà nước về PCCC trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang là con

đường mà nhiều quốc gia lựa chọn để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi, công cuộc toàn cầu hóa và hội nhập quốc

tế cũng đã đặt ra những yêu cầu mới cũng như những thách thức ngày càng

cao đối với công tác đảm bảo an toàn về PCCC. Đối với Việt Nam, trong thời

kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa như hiện nay, cùng với quá trình phát triển

94

kinh tế - xã hội của đất nước thì hoạt động quản lý nhà nước về PCCC đã và

đang có vai trò ngày càng quan trọng. Việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp

hóa – hiện đại hóa trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần đẩy

nhanh tốc độ đô thị hóa, từ đó hình thành và xuất hiện ngày càng nhiều các

trung tâm thương mại, nhà cao tầng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công

nghệ cao... Đồng thời, hiện tượng khí hậu biến đổi phức tạp cũng đang để lại

những hệ quả ngày càng bất lợi cho xã hội; cháy rừng, lũ lụt, hạn hán diễn

biến bất thường, khó kiểm soát. Vấn đề về bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn

trật tự, an toàn xã hội có nhiều biểu hiện và thách thức mới, khó lường. Ý

thức của một bộ phận quần chúng nhân dân về PCCC còn hạn chế. Thêm vào

đó, thời gian qua, nhiều vụ cháy, nổ gây thiệt hại lớn đã xảy ra và có chiều

hướng gia tăng. Do đó, trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế như giai đoạn hiện nay thì công tác đảm bảo an toàn về

PCCC càng trở thành vấn đề cấp bách hơn cả.

Nhu cầu về bảo đảm tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ

chức và phát triển kinh tế - xã hội

Đất nước đang trong thời kỳ phát triển, đời sống của Nhân dân ngày

càng được nâng lên; tốc độ đô thị hóa nhanh và các trung tâm thương mại,

khu đô thị, khu dân cư, chung cư, nhà cao tầng xuất hiện ngày càng nhiều.

Cùng với đó, việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân

và tổ chức trước hiểm họa, nguy cơ cháy, nổ đã trở thành một yêu cầu, nhiệm

vụ cấp thiết hơn bao giờ hết của toàn xã hội. Trong thời gian gần đây, tình

hình cháy, nổ ở các hộ gia đình và khu chung cư có diến biến phức tạp, khó

lường; các vụ cháy, nổ gây thiệt hại lớn trong các khu dân cư đang có chiều

hướng gia tăng; đã xuất hiện những vụ cháy, nổ gây thương vong nghiêm

trọng về người cũng như hủy hoại nhiều tài sản có giá trị; tuy nhiên, ý thức

của một bộ phận người dân về đảm bảo an toàn PCCC vẫn còn rất hạn chế,

95

chủ quan. Chính vì vậy, xuất phát từ thực tiễn này, công tác đảm bảo an toàn

cháy, nổ và bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tổ chức trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội trở thành vấn đề đặt ra cấp bách và rất quan

trọng trong giai đoạn hiện nay.

Tăng cường quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trong một Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của Nhân dân, do

Nhân dân và vì Nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII

của Đảng xác định rõ: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Nâng cao

hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung

tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện ngày càng minh

bạch, an toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo, đầu tư

kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường…”. Việc tăng

cường quản lý nhà nước về PCCC trong một Nhà nước pháp quyền XHCN

nghĩa là: bảo đảm Nhà nước phải thật sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì

Nhân dân; thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ

giữa Nhà nước với cơ quan, tổ chức và Nhân dân trong công tác đảm bảo an

toàn về PCCC. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước trên

lĩnh vực PCCC theo pháp luật; tăng cường pháp chế XHCN và kỷ luật, kỷ

cương trong quản lý nhà nước về PCCC. Chăm lo, phục vụ Nhân dân, bảo

đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân trong công tác PCCC. Nâng

cao vai trò, hiệu lực, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC trong

tình hình mới đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính

sách về PCCC; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng đội ngũ cán

bộ trong sạch, có năng lực. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh

chống tham nhũng, lãng phí trong hoạt động quản lý nhà nước về PCCC.

96

Tiểu kết Chƣơng 2

Trong Chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu về tình hình cháy; các

yêu cầu đối với công tác phòng cháy, chữa cháy trong bối cảnh phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh Nam Định; thực trạng công tác quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy của các chủ thể quản lý và lực lượng Cảnh sát PC&CC trên

địa bàn tỉnh Nam Định.

Trong phần về thực trạng, tình hình cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định,

luận văn đã phân tích làm rõ đặc điểm tình hình, lĩnh vực, nguyên nhân gây

cháy, số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra; đặc biệt đã rút ra các nhóm

nguyên nhân gây cháy chủ yếu.

Luận văn đã phân tích làm rõ các mặt công tác quản lý nhà nước về

PCCC đã được triển khai trên địa bàn tỉnh Nam Định trong 05 năm qua; trên

cơ sở đó đánh giá khái quát các ưu điểm, chỉ ra các mặt còn tồn tại, hạn chế,

thiếu sót và nguyên nhân. Trong phần nhu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước về PCCC, luận văn đã phân tích làm rõ nhu cầu về phòng

cháy, chữa cháy thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhu cầu về bảo đảm tính

mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tổ chức và phát triển kinh tế - xã hội,

tăng cường quản lý về PCCC trong một Nhà nước pháp quyền XHCN.

Những nội dung, tiêu chí quan trọng trên đây là cơ sở để luận văn đưa

ra phương hướng, mục tiêu và các giải pháp quản lý nhà nước về PCCC trên

địa bàn tỉnh Nam Định trong tình hình hiện nay.

97

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

3.1. Phƣơng hƣớng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định

3.1.1. Về quan điểm

3.1.1.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng cháy và chữa cháy

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác

định: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ

bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Chỉ thị số 47-CT/TW

ngày 25 tháng 6 năm 2015 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCCC cũng nhấn mạnh:

“Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý

nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ở các cấp. Phát huy trách nhiệm của lực

lượng Công an nhân dân trong việc hướng dẫn các bộ, ban, ngành, địa

phương thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy…”.

Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các

Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác PCCC và

CNCH, trọng tâm là: Luật PC&CC, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư

của Bộ Công an về công tác PCCC. Cụ thể, chỉ đạo các cấp, các ngành, các

địa phương tiếp tục thực hiện Luật PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật PC&CC; Chỉ thị số 47-CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

PCCC; Chỉ thị số 1634/CT-TTg ngày 31/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về

tăng cường chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm trong công

tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Quyết định số 1110/QĐ-TTg

ngày 17/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tổng thể

98

hệ thống cơ sở của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,

cứu hộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 44/2012/QĐ-

TTg ngày 15/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định về công tác cứu

nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa cháy và các văn bản quy phạm

pháp luật khác về PCCC.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu quả hoạt động của

Ban chỉ đạo PCCC các cấp, trách nhiệm của thủ trưởng các sở, ban, ngành

trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và các quy chế phối hợp về

PCCC, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương nhằm góp

phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với công tác PCCC. Cấp ủy,

chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung

ương, tỉnh đến cơ sở phải xác định PCCC là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm, xuyên suốt trong công tác đảm bảo an ninh trật tự. Cùng với đó, người

đứng đầu các tổ chức cơ sở đảng sẽ phải chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy,

UBND tỉnh nếu để xảy ra cháy, nổ gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài

sản trong phạm vi quản lý của mình. Đảng viên và cán bộ, công nhân viên

chức phải gương mẫu chấp hành các quy định của pháp luật về PCCC; các cơ

quan, tổ chức nghiên cứu và đưa nội dung việc chấp hành các quy định của

pháp luật về PCCC vào tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của tổ chức cơ

sở đảng và đảng viên hàng năm.

3.1.1.2. Đảm bảo tính đồng bộ trong việc nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy

Trong những năm tới, tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa sẽ ngày một

tăng nhanh; các khu đô thị mới, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công

nghệ cao, cảng biển, ga đường sắt sẽ được đầu tư xây dựng; tình hình thời tiết

(nắng, nóng, khô hạn…) vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; trong khi

99

đó, hạ tầng các khu dân cư có nguy cơ cháy nổ cao đang dần dần xuống cấp…

Những điều này cho thấy rằng nguy cơ cháy, nổ luôn luôn tiềm ẩn.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy,

hệ thống quy phạm pháp luật và quy phạm kỹ thuật về phòng cháy và chữa

cháy phải được xây dựng thống nhất, chặt chẽ; các biện pháp nghiệp vụ về

phòng cháy và chữa cháy phải được triển khai đồng bộ; bên cạnh đó phải tăng

cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng cháy và

chữa cháy; làm tốt công tác điều tra cơ bản về phòng cháy và chữa cháy; nâng

cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý vi phạm quy định về phòng cháy và

chữa cháy; cải tiến chất lượng công tác quản lý về phòng cháy trong đầu tư

xây dựng cơ bản, chất lượng công tác kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa

cháy, công tác thanh tra, xử lý vi phạm và điều tra vụ cháy; tăng cường công

tác phối hợp với các lực lượng trong quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa

cháy; hoàn thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ Cảnh sát PC&CC.

3.1.1.3. Kế thừa và phát triển các yếu tố tích cực trong quản lý nhà

nước về phòng cháy, chữa cháy

Có thể thấy, từ thời xa xưa, công tác đảm bảo an toàn về PCCC đã

được ông cha ta rất quan tâm. Nhận thức về mức độ nguy hiểm của giặc lửa

đối với đời sống con người thể hiện ở những thành ngữ, ca dao, lời răn dạy

như: “Thủy - hỏa - đạo - tặc” (xếp hỏa hoạn vào một trong bốn kẻ thù đại họa

nhất), hay như câu ca “Giặc phá không bằng giặc cháy”, “Đốn củi ba năm

thiêu một giờ”… Trong thời kỳ phong kiến, triều đại vua Lý Công Uẩn (năm

1014) đã quy định trong Bộ luật Hồng Đức như sau: “Người nào trông thấy

cháy mà không hô hoán thì bị phạt 20 trượng; người nào trông thấy cháy, hô

hoán mà không cứu chữa thì bị phạt 20 trượng và 20 quan tiền; làm nhà mình

cháy mà lan sang nhà khác thì bị xử phạt coi như tội cướp”. Đến thời Pháp

100

thuộc, chính quyền thực dân cũng đã thành lập một số đội chữa cháy ở một số

thành phố lớn. Năm 1954, khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trong giai

đoạn này, công tác PCCC đã được Đảng, Nhà nước rất quan tâm, thể hiện rất

rõ ở việc đưa phòng cháy vào phong trào bảo vệ trị an, với khẩu hiệu “3

phòng: Phòng gian - Phòng hỏa - Phòng tai nạn”. Năm 1961, mặc dù tình hình

đất nước vẫn đang trong chiến tranh, nhưng nhận thức được tầm quan trọng

của công tác PCCC, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 53/SL-CT ngày

04/10/1961 công bố ban hành Pháp lệnh quy định việc quản lý nhà nước đối

với công tác PCCC. Năm 1991, khi đất nước bắt đầu mở cửa và chuyển sang

nền kinh tế thị trường, để đáp ứng những yêu cầu của công tác PCCC, Chủ

tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị số

175/CT ngày 31/5/1991 về tăng cường công tác PCCC. Chỉ thị này lấy ngày

04 tháng 10 hàng năm là Ngày toàn dân PCCC và tháng 10 là Tháng an toàn

PCCC. Ngày 29 tháng 6 năm 2001, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã

thông qua Luật PC&CC, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/10/2001; tiếp đó,

ngày 22/11/2013, tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông

qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC. Kể từ đó đến nay,

Chính phủ, Bộ Công an đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn

việc thực hiện công tác PCCC; các Bộ, ngành đã phối hợp ban hành nhiều

Quy chuẩn, Tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến công tác PCCC. Có thể nói

rằng: công tác quản lý nhà nước về PCCC luôn có tính kế thừa và phát triển.

Thực hiện phương châm “bốn tại chỗ”: lực lượng tại chỗ, phương tiện

tại chỗ, chỉ huy tại chỗ, hậu cần tại chỗ”. Đảm bảo an toàn PCCC là hoạt động

thường xuyên, liên tục, trên cơ sở lấy phòng ngừa là chính và chủ động chuẩn

bị sẵn sàng các điều kiện để chữa cháy kịp thời khi có cháy xảy ra và giảm tới

mức tối đa thiệt hại do cháy gây ra. Chính từ quan điểm, nguyên tắc này đã

đặt ra yêu cầu cho lực lượng Cảnh sát PCCC&CNCH phải thường xuyên mở

101

lớp tuyên truyền, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ PCCC cho cơ sở. Ngoài

ra, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phải hướng dẫn chi tiết, tỉ mỉ để cơ sở

hiểu và thực hiện tốt công tác PCCC trong phạm vi của mình. Bên cạnh đó,

lực lượng Cảnh sát PCCC&CNCH cũng cần hướng dẫn cơ sở trang bị phương

tiện PCCC phù hợp và đầu tư kinh phí thực hiện công tác này.

3.1.1.4. Đáp ứng yêu cầu về hội nhập quốc tế trong công tác PCCC

Hiện nay, khoa học kỹ thuật đang ngày càng phát triển; do đó, việc hội

nhập quốc tế trong công tác PCCC trở thành một tất yếu khách quan, nhằm

đáp ứng hơn nữa những yêu cầu của công tác PCCC trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lực lượng PC&CC cần mở rộng quan hệ

hợp tác quốc tế, tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan PCCC của

các nước, các tổ chức quốc tế trong đào tạo, trao đổi kinh nghiệm và trang bị

phương tiện, thiết bị PCCC&CNCH; tăng cường trao đổi các đoàn công tác

với các quốc gia tiên tiến, hiện đại trên thế giới nhằm bồi dưỡng, nâng cao

nghiệp vụ cho lực lượng PCCC.

Tiếp tục giao lưu và hội nhập quốc tế về PCCC để lực lượng Cảnh sát

PC&CC có nhiều cơ hội học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin

học và pháp luật quốc tế; được cập nhật nhiều kiến thức, công nghệ tiên tiến,

hiện đại của thế giới về lĩnh vực PCCC&CNCH; có nhiều điều kiện lựa chọn

về thiết bị, phương tiện PCCC hiện đại của các tập đoàn, công ty lớn trên thế

giới với giá cả cạnh tranh. Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, lực

lượng Cảnh sát PC&CC có nhiều cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác về

PCCC; từ đó tận dụng nguồn ngoại lực quan trọng để bổ sung cho nội lực

nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng lực lượng Cảnh sát PC&CC cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

102

3.1.2. Về mục tiêu

Trong thời gian từ nay đến năm 2025, công tác quản lý nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định hướng đến một số mục

tiêu cơ bản như sau:

- Tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của toàn xã hội về

vai trò của các cấp, các ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong tổ

chức thực hiện phòng cháy, chữa cháy; từ đó tiến tới mục tiêu xã hội hóa công

tác này.

- Tập trung xây dựng chiến lược, kế hoạch, phương án về PCCC. Tiếp

tục thực hiện, lập quy hoạch hạ tầng về PCCC giai đoạn 2021 – 2030, tầm

nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 995/QĐ-TTg ngày 9/8/2018 của Thủ

tướng Chính phủ. Tổ chức rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch

phát triển - xã hội đã ban hành để đảm bảo yêu cầu về PCCC. Bên cạnh đó, rà

soát, sửa đổi và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả quy hoạch hạ tầng

phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh; xây dựng kế hoạch, giải pháp PCCC

nhất là đối với địa bàn, công trình trọng điểm quốc gia, khu đô thị, khu công

nghiệp, khu công nghệ cao, khu trung tâm thương mại tập trung đông người,

có nguy cơ cháy, nổ cao, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; xây dựng và hướng

dẫn thực hiện các mô hình tự quản, mô hình liên gia, liên cơ quan, liên khu

vực trong đảm bảo an toàn PCCC.

- Xây dựng chiến lược phát triển công tác phòng cháy, chữa cháy gắn

với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển của hoạt động

phòng cháy, chữa cháy tương xứng với sự phát triển kinh tế xã hội. Việc quy

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương phải đồng bộ với việc

quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng bảo đảm cho công tác phòng cháy, chữa

cháy. Phấn đấu quy hoạch các khu công nghiệp, các khu chế xuất và đưa các

loại hình kinh doanh có nguy cơ cháy, nổ cao ra khỏi các khu dân cư.

103

- Đào tạo, xây dựng lực lượng Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và cứu

nạn, cứu hộ và đội ngũ cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ PCCC tại Công an

các đơn vị, địa phương đảm bảo vững về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ

pháp luật và kiến thức quản lý Nhà nước về phòng cháy chữa cháy.

- Phấn đấu từ nay đến năm 2025, kiện toàn bộ máy Cảnh sát

PCCC&CNCH ở địa phương theo mô hình tổ chức mới từ Trung ương đến

tỉnh, cơ sở, đặc biệt là các Đội Cảnh sát PCCC&CNCH Công an cấp huyện;

phát triển mạng lưới các đơn vị Cảnh sát PCCC&CNCH tại các địa bàn, khu

vực trọng điểm đảm bảo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; chú

trọng phân công, phân cấp việc thực hiện các mặt công tác nghiệp vụ giữa

Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH và Công an cấp huyện để tránh chồng chéo

trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

- Với cuộc cách mạng 4.0, nhiều lĩnh vực sản xuất sẽ vắng bóng con

người trực tiếp theo dõi, điều hành quá trình sản xuất. Do đó, trong thời gian

tới, cần có chính sách trang bị cơ sở vật chất, các phương tiện chữa cháy hiện

đại, đảm bảo xử lý được tất cả các vụ cháy xảy ra ở bất cứ đâu. Nâng cao sự

tự chủ trong sản xuất các phương tiện và hóa chất chữa cháy phố biến, thông

dụng nhằm đáp ứng đủ và sẵn sàng cho lực lượng Cảnh sát PCCC&CNCH

các địa phương trong thời gian từ nay đến năm 2025. Tập trung nghiên cứu,

ứng dụng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, trang thiết bị tự động hóa, công

nghệ cao cho công tác PCCC. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia

xây dựng, phát triển, chuyển giao công nghệ phòng cháy chữa cháy cả trong

nước và quốc tế.

3.1.3. Dự báo tình hình, xu hướng

Việt Nam hiện đã ký kết hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do

song phương và đa phương, như: Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam

và Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh

104

tế Á – Âu, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu,

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP. Các sự kiện quốc tế này đã và

đang tạo ra động lực cho thương mại và đầu tư, qua đó thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, tác động trực tiếp tới môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đây là thời điểm rất quan trọng để đề ra

chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hội

nhập quốc tế của đất nước trong điều kiện kinh tế, chính trị thế giới diễn biến

phức tạp, khó lường, cụ thể: nguy cơ khủng bố gia tăng; các tổ chức, thế lực

thù địch tăng cường các hoạt động “Diễn biến hòa bình” với âm mưu chống

phá ngày càng thâm độc; tình hình an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội có

những diễn biến hết sức phức tạp, nhất là tình hình ở Biển Đông; sự gia tăng

các băng nhóm tội phạm; mâu thuẫn, khiếu kiện, tố cáo của nhân dân liên

quan đến công tác giải phóng mặt bằng ở các dự án có lúc gay gắt; cuộc

khủng hoảng kinh tế, mặt trái của nền kinh tế thị trường tiếp tục nảy sinh

nhiều vấn đề, làm cho sản xuất ở các doanh nghiệp gặp khó khăn; bên cạnh đó

là sự biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gia súc, gia cầm, ô nhiễm môi

trường… xảy ra liên tiếp trong những năm gần đây đã phần nào để lại hậu quả

và thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội.

Trong khi đó, những khó khăn và tồn tại trong lĩnh vực PCCC vẫn chưa

được giải quyết dứt điểm. Cơ sở hạ tầng, đường giao thông, nguồn nước chữa

cháy, lực lượng và phương tiện, hệ thống điện, các cơ sở sản xuất kinh

doanh… chưa đảm bảo; nhu cầu an toàn của xã hội, ý thức chấp hành pháp

luật của người dân chưa cao; các loại tội phạm kinh tế, hình sự, ma túy hoạt

động ngày một tinh vi và phức tạp; xuất hiện loại tội phạm lợi dụng thành tựu

khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao, sử dụng chất nổ, chất cháy để trả thù cá

nhân, giết người, cướp của mang tính côn đồ. Cùng với đó là sự hình thành

của các khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao

105

tiếp tục được mở rộng và phát triển; các tổ hợp được khởi công xây dựng; các

công trình cao tầng được đầu tư; số cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ tăng

nhanh; cơ sở có nguy cơ cháy, nổ cao như các tổng kho xăng dầu, các kho

chứa khí đốt hóa lỏng, các doanh nghiệp có quy mô đầu tư lớn… ngày càng

xuất hiện và luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ cháy nổ; một khi để xảy ra cháy, nổ

sẽ trở thành thảm họa đối với xã hội và môi trường. Những điều này tác động

và ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đảm bảo an ninh trật tự nói chung và an

toàn trong lĩnh vực PCCC nói riêng.

3.2. Các giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy,

chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được; căn cứ vào những dự báo về tình

hình cháy, nổ trong thời gian tới và đặc biệt là qua đánh giá những hạn chế,

thực trạng đã chỉ ra ở Chương 2; luận văn đề xuất, kiến nghị một số nội dung,

giải pháp để sớm tháo gỡ những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về

PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định hiện nay.

3.2.1. Triển khai thực hiện, bổ sung pháp luật về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

3.2.1.1. Triển khai và thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy

trên địa bàn tỉnh Nam Định

Một trong những giải pháp, nhiệm vụ trước mắt, lâu dài trong công tác

quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy của tỉnh Nam Định đó là tiếp tục

tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước

đối với công tác phòng cháy, chữa cháy. Hệ thống các văn bản này bao gồm:

+ Quy định chủ thể quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác PCCC của

các chủ thể quản lý nhà nước về PCCC; tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã

thông qua Luật Phòng cháy và chữa cháy; tiếp đến, ngày 22/11/2013, tại kỳ

106

họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật PC&CC.

Trên cơ sở quy định của Luật PC&CC và các Luật khác, Chính phủ,

các Bộ, ngành đã tích cực phối hợp và xây dựng các Nghị định, Thông tư,

Quy chuẩn, Tiêu chuẩn chuyên ngành về PCCC có liên quan. Cụ thể:

- Chính phủ đã ban hành 28 Nghị định triển khai thực hiện Luật

PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC và 06 Chỉ thị,

06 Quyết định chỉ đạo về công tác PCCC.

- Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành 10 Thông tư hướng dẫn thi hành

Luật PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC và 08

Công văn chỉ đạo công tác PCCC.

Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Xây

dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành nhiều Thông tư liên

tịch phối hợp trong công tác quản lý PCCC theo từng lĩnh vực đặc thù.

Ngoài ra, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Công thương,

Bộ Khoa học và Công nghệ rà soát, bổ sung, chỉnh lý 09 quy chuẩn, 28 tiêu

chuẩn về PCCC và 25 quy trình công tác PCCC.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về

PCCC đã ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức

năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực PCCC.

+ Các quy định về phòng cháy, chữa cháy

Hệ thống pháp luật về phòng cháy được quy định tại Chương II Luật

PC&CC, Chương II Nghị định 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ và Mục 1,

Chương II Thông tư số 66/2016/TT-BCA của Bộ Công an. Đây là cơ sở pháp

lý để các chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy.

Hệ thống pháp luật về chữa cháy được quy định tại Chương III Luật

PC&CC, Chương III Nghị định 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ và Mục 2,

107

Chương II, Thông tư số 66/2016/TT-BCA của Bộ Công an. Đây là cơ sở pháp

lý cho các chủ thể tổ chức thực hiện các biện pháp chữa cháy đạt hiệu quả.

+ Các quy định bảo vệ pháp luật trong quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy

Để ngăn ngừa cháy xảy ra cần đòi hỏi sự chấp hành triệt để các quy

định của pháp luật về PCCC; cần xác định PCCC là trách nhiệm của toàn dân,

của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tiễn,

ý thức về PCCC của nhiều người còn chưa cao. Do đó, song song với các biện

pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục cần phải thực hiện các

biện pháp hành chính - cưỡng chế để bắt buộc các tổ chức, cá nhân phải tuân

thủ các quy định của pháp luật về PCCC.

Hệ thống các văn bản quy định bảo vệ pháp luật trong quản lý nhà nước

về PCCC bao gồm:

- Luật PC&CC và các luật khác có nội dung quy định về PCCC;

- Sau khi Luật PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

PC&CC có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành 28 Nghị định, 06 Chỉ thị, 06

Quyết định chỉ đạo về công tác PCCC. Cụ thể: Nghị định số 35/2003/NĐ-CP

ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

PC&CC; Nghị định số 123/2005/NĐ-CP ngày 05/10/2005 của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC; Nghị định số

130/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt

buộc; Nghị định số 46/2012/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 35/2003/NĐ-CP; Nghị định số 52/2012/NĐ-CP của

Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC;

Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật

PC&CC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PC&CC; Nghị định số

167/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính

108

trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;

PC&CC; phòng, chống bạo lực gia đình…; Chỉ thị số 02/2006/CT-TTg của

Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác

PCCC; Chỉ thị số 1634/2010/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng

cường chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm trong công tác

PCCC…; Quyết định số 1635/QĐ-TTg ngày 22/9/2015 của Thủ tướng Chính

phủ về ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 47-

CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng cháy, chữa cháy…

- Để cụ thể hóa các Nghị định, Chỉ thị, Quyết định của Chính phủ và

Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an đã ban hành 10 Thông tư hướng dẫn thi

hành và 08 Công văn chỉ đạo về công tác phòng cháy chữa cháy, như: Thông

tư số 04/2004/TT-BCA của Bộ Công an về hướng dẫn thi hành Nghị định

35/2003/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 11/2014/TT-BCA về hướng dẫn

thi hành Nghị định 35/2003/NĐ-CP và 46/2012/NĐ-CP của Chính phủ,

Thông tư 66/2014/TT-BCA về hướng dẫn thi hành Nghị định 79/2014/NĐ-

CP của Chính phủ…

- Ngoài ra, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính,

Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành nhiều Thông

tư liên tịch phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về PCCC theo từng lĩnh

vực đặc thù. Đồng thời, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban

hành Nghị quyết và Chỉ thị, Quyết định để quản lý công tác phòng cháy, chữa

cháy tại địa phương.

- Để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về PCCC, Bộ

Công an đã phối hợp với các Bộ gồm: Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ

Khoa học và Công nghệ rà soát, bổ sung, chỉnh lý 09 quy chuẩn, 28 tiêu

chuẩn về PCCC và 25 quy trình công tác PCCC, như: QCVN 01 : 2013/BCT

109

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu; QCVN

06 : 2010/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công

trình; QCVN 12 : 2014/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện

của nhà ở và nhà công cộng...; Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 2622 : 1995 Phòng

cháy, chống cháy cho nhà và công trình - Yêu cầu thiết kế; Tiêu chuẩn quốc

gia TCVN 6161 : 1996 PCCC - Chợ và trung tâm thương mại - Yêu cầu thiết

kế; Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6160 : 1996 PCCC - Nhà cao tầng - Yêu cầu

thiết kế; Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 3890 : 2009 quy định các loại phương

tiện PC&CC cho nhà và công trình - Trang bị, bố trí, kiểm tra, bão dưỡng;

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6223 : 2011 Cửa hàng khí dầu mỏ hóa lỏng

(LPG) - Yêu cầu chung về an toàn; Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9211 : 2012

Chợ - Tiêu chuẩn thiết kế…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về

PCCC đã ban hành như trên là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về PCCC.

Ngoài ra, Nam Định cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 47-

CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng cháy, chữa cháy; huy

động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân vào việc thực

hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.

Bên cạnh đó, trong công tác triển khai thực hiện pháp luật về phòng

cháy, chữa cháy, tỉnh Nam Định cần ưu tiên chỉ đạo xây dựng chiến lược, kế

hoạch, phương án phòng cháy, chữa cháy; trong đó, chú trọng địa bàn, công

trình trọng điểm quốc gia, khu đô thị, khu công nghiệp, khu thương mại có

nguy cơ cháy, nổ cao và rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Thực hiện đồng bộ

quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương gắn với quy hoạch hạ

tầng phòng cháy và chữa cháy, chú trọng xây dựng mạng lưới giao thông và

110

hệ thống cấp nước đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác chữa cháy. Sớm thực

hiện việc bố trí, di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa, hóa chất độc hại,

nguy hiểm, có nguy cơ cháy, nổ cao ra khỏi khu dân cư, nơi đông người theo

quy định của pháp luật. Nghiên cứu các giải pháp đồng bộ nhằm hạn chế đến

mức thấp nhất số vụ cháy, nổ, nhất là số vụ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm

trọng về người và tài sản.

3.2.1.2. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Hiện nay, khung pháp lý về PCCC của nước ta (bao gồm các văn bản

quy phạm pháp luật, các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC) chưa được hoàn

thiện đầy đủ. Mặc dù những quy chuẩn, tiêu chuẩn chung về PCCC đã được

ban hành, nhưng còn thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn cụ thể về PCCC, ví dụ

như: Quy chuẩn PCCC nhà máy điện, quy chuẩn PCCC các công trình ngầm,

quy chuẩn PCCC các công trình siêu cao tầng, quy chuẩn trang bị phương tiện

PCCC cho nhà và công trình… Do đó, việc thực hiện các quy định về PCCC

của một công trình xây dựng chưa được đảm bảo đầy đủ.

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về PCCC đòi hỏi cần phải

được ban hành và hoàn thiện một cách đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, góp

phần đảm bảo an toàn PCCC cho các công trình, phục vụ yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Tỉnh Nam Định cần chú trọng

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong quản lý nhà nước về PCCC và

CNCH; chủ động trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, kịp

thời phát hiện và khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong việc triển khai thi

hành pháp luật về PCCC của mỗi đơn vị, địa phương trong tỉnh nhằm từng

bước nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với công tác PCCC phục vụ

mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Nam Định. Lực lượng

111

Công an nhân dân tỉnh cần phát huy trách nhiệm, vai trò của của mình; tham

mưu đối với UBND tỉnh và chủ động phối hợp với các cấp, các ngành trong

việc chỉ đạo, hướng dẫn, thực hiện và chấp hành các quy định của pháp luật

về lĩnh vực PCCC, CNCH.

Tỉnh Nam Định là một địa phương năng động đang trên đà phát triển và

được đô thị hóa rất mạnh mẽ; do đó luôn tiềm ẩn và phát sinh nhiều vấn đề

liên quan đến công tác PCCC mà các văn bản quy phạm pháp luật, các quy

chuẩn về PCCC chưa thể đề cập. Trong phạm vi quyền hạn của mình, HĐND,

UBND và lực lượng Cảnh sát PC&CC tỉnh Nam Định cũng có thể nghiên cứu

và đề xuất lên Quốc hội và Bộ Công an cho phép địa phương ban hành và áp

dụng các quy chuẩn về PCCC đặc thù để điều chỉnh công tác PCCC trên địa

bàn tỉnh. Trong đó, lãnh đạo tỉnh cần thường xuyên tổ chức rà soát, nghiên

cứu, đề xuất Chính phủ, Quốc hội ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các

Nghị định, văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền liên quan đến công

tác PCCC trong từng lĩnh vực hoạt động, phù hợp với Luật PC&CC và tình

hình thực tế. Cơ quản Cảnh sát PC&CC tỉnh cần thường xuyên rà soát và

tham mưu cho người đứng đầu chính quyền địa phương ban hành những quy

định cụ thể nhằm quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh... đảm bảo tuân thủ

các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC.

Tỉnh cần nghiên cứu có quy định cụ thể trong việc xã hội hóa công tác

PCCC, công tác PCCC tình nguyện để địa phương dễ thực hiện và có điều

kiện thu hút các nguồn lực cho công tác PCCC. Có hướng dẫn, quy định chế

độ chính sách cụ thể cho các lực lượng PCCC&CNCH đã được quy định

trong Luật PC&CC. Nghiên cứu, đề xuất và tham mưu ban hành quy định của

Hội đồng nhân dân tỉnh về tiêu chí (hoặc tiêu chuẩn địa phương) an toàn về

PCCC đối với nhà ở hộ gia đình và nhà ở kết hợp kinh doanh, sản xuất trên

địa bàn tỉnh mang tính bắt buộc áp dụng chung, có các chế tài xử lý vi phạm

112

nếu không tổ chức thực hiện. Đây cũng có thể coi là một nội dung rất cần

thiết, là hành lang pháp lý đảm bảo điều kiện cho công tác quản lý nhà nước

về PCCC đối với nhà ở hộ gia đình và nhà ở kết hợp kinh doanh trên địa bàn

tỉnh. Ngoài ra, tỉnh có thể nghiên cứu đề xuất bổ sung quy định giao Công an

phường, xã, thị trấn là đơn vị tham mưu cho UBND cùng cấp về công tác

PCCC tại khu dân cư, nhà ở hộ gia đình và nhà ở kết hợp kinh doanh, sản

xuất (những cơ sở trước đây không thuộc diện quản lý về PCCC). Nghiên cứu

giao Cảnh sát khu vực là người trực tiếp kiểm tra, hướng dẫn, tuyên truyền về

PCCC tại khu dân cư, nhà ở hộ gia đình và nhà ở kết hợp kinh doanh, sản

xuất; trong đó, lực lượng bảo vệ dân phố, dân quân tự vệ là nòng cốt của lực

lượng phòng cháy, chữa cháy tại chỗ.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy lực lượng làm công tác quản lý nhà

nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Ngày 25/6/2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 47-CT/TW

và chỉ rõ: “Quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy còn buông lỏng,

hiệu lực, hiệu quả chưa cao; vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy

còn phổ biến”. Bởi vậy, định hướng trong thời gian tới, Chỉ thị nhấn mạnh

cần: “Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ quản

lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy ở các cấp. Phát huy trách nhiệm của

lực lượng Công an nhân dân trong việc hướng dẫn các bộ, ban, ngành, địa

phương thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy…”.

Như vậy, trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của Phòng

Cảnh sát PCCC&CNCH Công an tỉnh Nam Định ở Chương 2, có thể thấy yếu

tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC hiện nay đó là:

Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng, năng lực của lực lượng

Cảnh sát làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về PCCC ở các cấp; thực hiện việc

phân cấp trong quản lý; bổ sung biên chế; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng,

113

nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ và đảm bảo trang bị phương tiện, thiết

bị phục vụ công tác quản lý nhà nước về PCCC. Cụ thể:

a) Thống nhất mô hình tổ chức của lực lượng làm công tác quản lý nhà

nước về PCCC tại các đơn vị Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy

- Thống nhất trong việc thành lập các đơn vị Cảnh sát PC&CC chuyên

trách thực hiện nhiệm vụ QLNN về PCCC tại địa phương như: Đội Thanh tra,

kiểm tra an toàn về PCCC; Đội Thẩm duyệt thiết kế về PCCC; Đội Điều tra,

xử lý vi phạm về PCCC; Đội Tuyên truyền và xây dựng phong trào Toàn dân

PCCC và Đội Cảnh sát chữa cháy và CNCH… đảm bảo tính chuyên sâu và

hiệu quả. Chỉ đạo UBND các huyện, thành phố kiện toàn các đội dân phòng

nhằm phát huy vai trò của lực lượng chữa cháy trên địa bàn các khu dân cư.

Chú trọng phát triển mạng lưới các đơn vị Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy tại

các địa bàn, khu vực trọng điểm.

- Đẩy nhanh việc phân cấp cụ thể về thẩm quyền quản lý đối với các cơ

sở theo chức năng nhiệm vụ của các đội công tác; đồng thời, nghiên cứu bổ

sung, điều chỉnh việc phân cấp quản lý nhà nước về PCCC cho các đội Cảnh

sát PC&CC khu vực và Công an các huyện. Nghiên cứu thí điểm giao một số

nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng Cảnh sát khu vực, Công an

xã, bảo vệ dân phố, lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở phù hợp với

quy định của Luật Phòng cháy và chữa cháy và các quy định có liên quan

khác của pháp luật. Chú trọng xây dựng, nhân rộng các điển hình tiên tiến

theo hướng tự phòng, tự quản về an toàn phòng cháy, chữa cháy tại cụm dân

cư, cụm doanh nghiệp.

- Tiếp tục rà soát, thực hiện Quyết định số 1110/QĐ-TTg ngày

17/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Quy hoạch tổng thể

hệ thống cơ sở của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,

cứu hộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Bố trí quỹ đất xây dựng trụ

114

sở làm việc, doanh trại, trung tâm huấn luyện cho các đơn vị Cảnh sát phòng

cháy, chữa cháy tại các địa điểm phù hợp với yêu cầu công tác phòng cháy,

chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Xây dựng, ban hành quy hoạch hạ tầng phòng

cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật.

b) Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ quản lý nhà nước cho

đội ngũ cán bộ Cảnh sát PC&CC; xây dựng đội ngũ cán bộ Cảnh sát

PC&CC có cơ cấu hợp lý và hoạt động chuyên nghiệp

Đội ngũ cán bộ Cảnh sát PC&CC là lực lượng đóng vai trò quyết định

trong việc thực hiện nhiệm vụ về PCCC, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động phòng ngừa vi phạm các quy định về PCCC. Trước yêu cầu ngày càng

cao của công tác PCCC, đội ngũ cán bộ Cảnh sát PC&CC không chỉ cần tăng

về số lượng mà còn phải bảo đảm về mặt chất lượng. Theo đó, cần xây dựng

và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

cho lực lượng Cảnh sát PC&CC trong thời gian tới. Căn cứ vào nhu cầu thực

tiễn và sự phát triển của công tác PCCC để xác định yêu cầu xây dựng đội

ngũ cán bộ, đảm bảo: có trình độ nghiệp vụ PCCC cơ bản hoặc chuyên sâu về

từng lĩnh vực; có khả năng tiếp cận và vận dụng những kiến thức khoa học,

kỹ thuật tiên tiến về PCCC của thế giới; có trình độ pháp luật, kỹ năng quản

lý, kiến thức tin học và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Thực

hiện việc đào tạo cán bộ có trình độ sau đại học, đồng thời cử đi đào tạo, bồi

dưỡng, nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận, học hỏi công nghệ, kinh

nghiệm PCCC ở các nước tiên tiến.

Tập trung bồi dưỡng theo chuyên đề đối với các chức danh: Cán bộ

lãnh đạo chỉ huy cấp phòng, cán bộ thanh tra, kiểm tra, thẩm duyệt, điều tra,

xử lý, tham mưu và chỉ huy chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ. Thực hiện nghiêm

túc quy định của Bộ Công an về việc bố trí, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu

chuẩn chức danh, kết hợp với bố trí cán bộ quản lý cơ sở theo địa bàn, theo

115

lĩnh vực và theo ngành một cách hợp lý; thực hiện tốt việc luân chuyển, đặc

biệt đối với số cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra.

Tăng cường chất lượng huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy; thường xuyên

tập huấn chuyên sâu công tác chỉ huy chữa cháy, tìm kiếm cứu nạn; định kỳ tổ

chức hội thi nghiệp vụ chữa cháy và CNCH; triển khai xây dựng các phương

án lớn huy động nhiều lực lượng, phương tiện tham gia; diễn tập các phương

án phòng, chống tập trung đông người gây rối, bạo loạn, khủng bố.

Xây dựng đội ngũ cán bộ Cảnh sát PC&CC ngày càng vững mạnh, có

phong cách làm việc khoa học, chính quy, hiện đại, chuyên nghiệp, tôn trọng

người dân; khắc phục lối làm việc sự vụ, hành chính hóa, gây phiền hà, sách

nhiễu với các doanh nghiệp và người dân. Làm tốt công tác giáo dục chính trị

tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát PC&CC. Thực hiện tốt các

cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,

“Công an nhân dân chấp hành nghiêm Điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa

vì nhân dân phục vụ”, “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”

trong toàn lực lượng. Xây dựng hình ảnh người chiến sĩ Cảnh sát PC&CC

trung thực, dũng cảm, sáng tạo, tinh nhuệ; có trình độ khoa học kỹ thuật và

hết lòng phục vụ Nhân dân.

Đồng thời, cần kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của Ban chỉ

đạo PCCC các cấp, nhất là cấp huyện và cấp xã. Xác định cơ chế phối hợp

giữa chính quyền địa phương với các cơ quan, tổ chức về thực hiện phương

châm “bốn tại chỗ” trong công tác PCCC. Nghiên cứu, đề xuất phương án, đề

án xây dựng lực lượng Cảnh sát PC&CC nắm vững về pháp luật, tinh thông

về nghiệp vụ, đáp ứng mọi yêu cầu và nhiệm vụ PCCC&CNCH trong tình

hình mới. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nội dung của Đề án nâng cao

năng lực và dự án quy hoạch ngành PCCC trong những năm tiếp theo.

116

3.2.3. Nâng cao nhận thức trong công tác quản lý nhà nước về phòng

cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Để nâng cao nhận thức của người dân về công tác PCCC cần đẩy mạnh

hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về

PCCC; nêu cao ý thức tự giác và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và quần

chúng nhân dân đối với công tác đảm bảo an toàn PCCC. Đây là nhiệm vụ

thường xuyên không chỉ của các cơ quan nhà nước mà còn của cả hệ thống

chính trị và Nhân dân tỉnh Nam Định. Muốn vậy, UBND tỉnh cần phổ biến

rộng rãi hơn nữa các nội dung của Luật PC&CC; tuyên truyền, hướng dẫn

thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn PCCC cho Nhân dân; nêu

gương người tốt, việc tốt; tiếp tục chỉ đạo các ban, ngành tổ chức tổng kết, sơ

kết các mô hình như: “Cụm dân cư, chung cư an toàn về PCCC”, “Cụm cơ

quan, doanh nghiệp an toàn về PCCC”, “Chợ an toàn về PCCC”, các chuyên

ngành an toàn PCCC khác v.v…; đồng thời phát động xây dựng phong trào

“Toàn dân PCCC” cho các năm tiếp theo.

Duy trì thực hiện tốt các Quy chế phối hợp giữa các lực lượng Công an

- Quân đội - Biên phòng, “Cảnh sát PC&CC với Điện lực”, “Cảnh sát

PC&CC với Mặt trận Tổ quốc”…; tạo mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong

công tác tuyên truyền, huấn luyện; Rà soát, củng cố, kiện toàn lực lượng

PC&CC cơ sở, nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng dân phòng; thành

lập mới các đội dân phòng đảm bảo đủ số lượng và chất lượng hoạt động theo

quy định nhằm xây dựng thế trận phòng cháy, chữa cháy toàn dân vững chắc

trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Tập trung đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia PCCC; hướng dẫn

kiến thức, kỹ năng an toàn về PCCC, thoát nạn, thoát hiểm cho đông đảo các

tầng lớp nhân dân trong tỉnh nhằm hạn chế cháy, nổ xảy ra và thiệt hại do

cháy gây ra. Đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, huấn luyện nghiệp

117

vụ về PCCC đảm bảo phong phú, thiết thực và phù hợp với đặc điểm, tình

hình của địa phương, cơ sở; phối hợp với các cơ quan thông tin, báo, đài xây

dựng chuyên mục “Toàn dân PCCC”. Đẩy mạnh tuyên truyền trực tiếp về

kiến thức PCCC tại các cơ quan, doanh nghiệp và khu dân cư. Tổ chức các

lớp huấn luyện nghiệp vụ PCCC&CNCH cho lực lượng PCCC tại chỗ, người

lao động trực tiếp, người sinh sống trong khu vực, nhà và công trình có nguy

hiểm cháy, nổ cao.

Tiếp tục triển khai thực hiện chuyên sâu các mô hình đã có; nghiên cứu

xây dựng mới các mô hình PCCC chuyên ngành khác có nguy cơ về cháy, nổ

cao; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết các mô hình đã xây dựng để rút

kinh nghiệm và làm cơ sở nhân rộng trong toàn tỉnh.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin

trong công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

3.2.4.1. Tăng cường cơ sở vật chất trong công tác phòng cháy, chữa

cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Để hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao, lực lượng PC&CC cần

phải được tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang bị phương tiện về PCCC

đủ mạnh. Cần coi việc đầu tư cơ sở vật chất cho công tác PCCC nói chung và

đặc biệt cho lực lượng Cảnh sát PC&CC nói riêng là trách nhiệm của các cấp,

các ngành từ Trung ương đến địa phương. Tích cực, chủ động mở rộng quan

hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PCCC, tranh thủ được nguồn ngoại lực

trong công tác đào tạo, trang bị phương tiện và chuyển giao công nghệ PCCC

để bổ sung cho nội lực còn nhiều khó khăn của cả nước và của địa phương.

Tăng cường và bám sát các dự án đầu tư, trang bị phương tiện PCCC&CNCH

theo các nguồn vốn huy động và tài trợ do Chính phủ và Bộ cấp. Tiếp tục đầu

tư kinh phí, ngân sách mua bổ sung các loại xe chuyên dùng, trang bị phương

118

tiện, vật tư kỹ thuật, cơ sở, vật chất cần thiết cho lực lượng Cảnh sát PC&CC

đảm bảo đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Bên cạnh đó, duy trì thực hiện các quy định về hỗ trợ thường xuyên cho

các lực lượng dân phòng và lực lượng không chuyên trách tại cơ sở. Quan

tâm tới đầu tư trang thiết bị chữa cháy và tạo điều kiện về chế độ chính sách

đối với lực lượng PCCC quần chúng để hỗ trợ lực lượng này hoàn thành tốt

nhiệm vụ ở cơ sở. Giải quyết chế độ, chính sách kịp thời, thỏa đáng đối với

người bị thương, hy sinh hoặc thiệt hại về tài sản khi tham gia chữa cháy, cứu

nạn, cứu hộ; kịp thời động viên, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích

trong công tác phòng cháy và chữa cháy.

3.2.4.2. Ứng dụng công nghệ thông tin và tiến bộ về khoa học trong

công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn tỉnh Nam Định

Đẩy mạnh việc xã hội hoá công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật -

công nghệ PCCC nhằm phát huy tối đa tiềm lực nghiên cứu khoa học công

nghệ về PCCC của các ngành, địa phương, cơ sở và tổ chức kinh tế - xã hội;

đưa công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ PCCC

vào thực tế của từng đơn vị, cơ sở, địa phương và coi đó là một nhiệm vụ cơ

bản trong công tác PCCC. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong

công tác nghiên cứu khoa học về PCCC với các nước tiên tiến nhằm trao đổi

thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp, nghiên cứu chế tạo, ứng dụng vật

liệu và công nghệ PCCC mới vào lĩnh vực hoạt động PCCC của Việt Nam.

Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt

động quản lý nhà nước về PCCC. Khoa học và công nghệ hiện nay đang phát

triển như vũ bão, các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào Việt Nam ngày càng

nhiều, đi kèm với đó là nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, tiến tiến được

trang bị và lắp đặt. Đây vừa là cơ hội và cũng là thách thức, đòi hỏi lực lượng

PC&CC cũng như các nhà khoa học phải không ngừng nghiên cứu, ứng dụng

119

khoa học kỹ thuật trong quản lý nhà nước về PCCC để nhằm đáp ứng và nâng

cao hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC, góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn

yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn

cao về lĩnh vực PCCC, kể cả đào tạo trong và ngoài nước, đảm bảo đủ trình

độ, năng lực để nghiên cứu và triển khai các hoạt động ứng dụng khoa học kỹ

thuật, công nghệ PCCC của các nước tiên tiến, hiện đại trong khu vực và quốc

tế, góp phần đảm bảo an toàn PCCC phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã

hội của địa phương và đất nước. Có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá

nhân tham gia xây dựng, phát triển hạ tầng kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy,

nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất phương tiện, thiết bị phòng

cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.

3.2.5. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công

tác phòng cháy, chữa cháy; Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo và xử lý vi phạm hành chính trong quản lý nhà nước về phòng cháy,

chữa cháy

Đối với công tác giám sát:

Giám sát đối với công tác PCCC là hoạt động theo dõi, quan sát việc thi

hành, chấp hành pháp luật về PCCC của chủ thể quản lý đối với đối tượng

quản lý về PCCC. Đây là hoạt động nhằm phản ánh những hạn chế, bất cập

trong công tác quản lý nhà nước về PCCC; giúp các cơ quan quản lý nắm rõ

tình hình, đặc điểm nguy hiểm cháy, nổ tại các cơ sở, khu dân cư; từ đó chủ

động khảo sát, dự báo và thực hiện chức năng tham mưu để đề ra và triển khai

có hiệu quả các biện pháp đảm bảo an toàn PCCC trên địa bàn quản lý.

Đối với công tác thanh tra:

Thanh tra PCCC là thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về

PCCC của các cơ sở, nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật và góp phần bảo

120

vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở trong hoạt

động PCCC. Công tác thanh tra phải đảm bảo được tiến hành, thực hiện đúng

thẩm quyền, trình tự, thủ tục đã quy định trong pháp luật về thanh tra và các

văn bản pháp luật khác có liên quan.

Đối với công tác kiểm tra an toàn về PCCC:

Kiểm tra an toàn về PCCC của lực lượng Cảnh sát PC&CC là hoạt

động kiểm tra việc thực hiện pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, nội

quy, quy định về PCCC của cơ quan quản lý nhà nước về PCCC đối với các

cơ sở theo quy định của pháp luật.

Mục đích của hoạt động kiểm tra an toàn về PCCC là nhằm giúp lực

lượng chức năng nắm vững thực trạng công tác đảm bảo an toàn PCCC của

các đối tượng thuộc diện quản lý về PCCC; phát hiện kịp thời các sơ hở, thiếu

sót, vi phạm trong việc thực hiện các quy định của Nhà nước đối với công tác

PCCC về tổ chức, thực hiện các biện pháp, giải pháp phòng ngừa cháy, nổ; về

trang bị và quản lý phương tiện, thiết bị và các hệ thống PCCC; về việc tổ

chức lực lượng và chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện, phương án chữa cháy để

đối phó với các tình huống cháy, nổ có thể xảy ra.

Thông qua kiểm tra còn để giúp lực lượng chức năng phát hiện những

vấn đề mới phát sinh trong thực tế hoạt động PCCC của các cơ sở; từ đó tiến

hành nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện hoặc đổi mới các cách thức quản lý

cũng như các biện pháp, giải pháp kỹ thuật trong phòng ngừa cháy, nổ đối với

từng loại hình cơ sở.

Nội dung kiểm tra về an toàn PCCC bao gồm: kiểm tra các điều kiện

đảm bảo an toàn về PCCC của cơ sở, khu dân cư, hộ gia đình, rừng, phương

tiện giao thông cơ giới theo quy định của Luật PC&CC, Nghị định số

79/2014/NĐ-CP và các quy định khác của pháp luật có liên quan; kiểm tra

việc thực hiện trách nhiệm PCCC của từng đối tượng quy định tại Luật

121

PC&CC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và các quy định của pháp luật có liên

quan; kiểm tra việc chấp hành các quy định của Luật PC&CC, Nghị định

79/2014/NĐ-CP, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các quy định của pháp luật

có liên quan và các yêu cầu về PCCC của cơ quan Cảnh sát PC&CC.

Các lực lượng chức năng của tỉnh Nam Định cần tăng cường phối hợp

trong kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành các quy định của pháp luật về

PCCC theo từng lĩnh vực, chuyên đề, chuyên ngành, quy mô và tính chất

nguy hiểm về cháy, nổ; kiên quyết xử lý, giải quyết dứt điểm những vấn đề

còn tồn tại, bất cập, nhất là trong những lĩnh vực như: đầu tư xây dựng, giải

pháp giao thông, nguồn nước và các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho

công tác PCCC. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác đảm bảo an toàn

phòng cháy, chữa cháy, nhất là tại các khu chung cư, nhà cao tầng, trung tâm

thương mại, chợ, rừng; khắc phục và xử lý nghiêm đối với các trường hợp tổ

chức và cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về PCCC.

Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tham mưu, thẩm duyệt thiết kế

về PCCC, kiểm tra an toàn PCCC, thống kê, phân loại cơ sở thuộc diện quản

lý về PCCC để có biện pháp quản lý hiệu quả; đổi mới công tác kiểm tra

nghiệp vụ đối với cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC, có

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm cho đội ngũ cán bộ này.

Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong

Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình

khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Các khiếu nại, tố cáo có thể được coi là một kênh thông tin khách quan

phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, tình hình thực thi

công vụ của cán bộ, công chức trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước

về PCCC của mình. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh

122

vực PCCC không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước về

PCCC, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về PCCC

với Nhân dân. Thông qua việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo để chứng minh

tính đúng đắn, sự phù hợp của những chính sách, pháp luật về PCCC đã ban

hành và kiểm tra việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC của

cán bộ thực thi nhiệm vụ; từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện các chủ

trương, đường lối của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà

nước về PCCC. Do vậy, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân là

một vấn đề được Đảng, Nhà nước và Nhân dân đặc biệt quan tâm.

Để giảm thiểu các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực PCCC cần phải nâng

cao chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước về PCCC. Lực lượng chức

năng phải chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong thực thi công

vụ; tăng cường mối quan hệ và sự phối hợp với chính quyền và các tổ chức

đoàn thể trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCCC và pháp luật về

khiếu nại, tố cáo; đồng thời luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện

chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực PCCC.

Về công tác xử lý vi phạm hành chính:

Xử lý vi phạm về PCCC là biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước đối

với các tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm quy định về PCCC. Mục đích

của việc xử lý vi phạm là nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, cụ

thể là trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước về PCCC; giáo dục,

phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm và nâng cao ý thức tự giác chấp

hành các quy định về PCCC. Đối với các cơ sở có hành vi vi phạm quy định

về PCCC, không bảo đảm an toàn PCCC, có nguy cơ cháy cao hoặc nếu xảy

ra cháy có khả năng dẫn đến cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng và đe dọa

đến tính mạng nhiều người thì phải có biện pháp xử lý mạnh, kể cả tạm đình

chỉ hay đình chỉ hoạt động. Đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng

123

quy định về PCCC hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong PCCC, gây hậu quả

nghiêm trọng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ tiến hành khởi

tố, xét xử theo quy định của pháp luật.

Đối với công tác quản lý phòng cháy trong đầu tư xây dựng:

Nhiệm vụ của quản lý phòng cháy trong đầu tư xây dựng là: Kiểm tra,

hướng dẫn các cơ sở, đơn vị chủ đầu tư, thiết kế, thi công và các cơ quan có

liên quan thực hiện đầy đủ các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC do

Nhà nước ban hành khi đầu tư xây dựng các công trình; góp phần chủ động

loại trừ, hạn chế những điều kiện, nguyên nhân gây cháy, nổ có thể xảy ra,

hoặc hạn chế thiệt hại đến mức thấp nhất nếu có sự cố cháy, nổ.

Trước những yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, công tác thẩm

duyệt thiết kế về PCCC cần được đơn giản hóa và được ứng dụng mạnh mẽ

về công nghệ thông tin nhằm tạo điều kiện cho chủ đầu tư và các doanh

nghiệp tiến hành sản xuất, kinh doanh. Cơ quan Cảnh sát PC&CC chỉ thẩm

duyệt đối với các dự án có nguy cơ cháy, nổ cao, các công trình xây dựng có

quy mô lớn, liên quan đến nhiều con người theo Danh mục quy định tại Phụ

lục IV ban hành kèm theo Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ; các

công trình xây dựng còn lại ngoài danh mục được giao cho cơ quan quản lý

xây dựng và chủ đầu tư thẩm định phê duyệt thiết kế dự án và cấp phép xây

dựng. Đối với các công trình cần thẩm duyệt thì thời hạn thẩm duyệt cũng

được rút ngắn so với quy định hiện nay.

Thực hiện công khai các dự án, công trình vi phạm quy định về phòng

cháy, chữa cháy trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có giải pháp xử lý

dứt điểm các công trình đang tồn tại vi phạm. Kiên quyết tạm đình chỉ, đình

chỉ đối với những công trình, dự án đang triển khai nhưng có vi phạm pháp

luật về phòng cháy cho đến khi được khắc phục hoàn toàn các sai phạm.

124

Chấm dứt tình trạng đưa vào sử dụng các cơ sở, công trình xây dựng mới khi

chưa được nghiệm thu về phòng cháy, chữa cháy.

Về hoạt động điều tra vụ cháy:

Lực lượng Cảnh sát PC&CC Công an tỉnh cần sớm củng cố và thành

lập bộ phận chuyên trách công tác điều tra nguyên nhân vụ cháy (kể cả việc

tăng cường các phương tiện phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường).

Ngoài ra, để nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên

địa bàn, trong thời gian tới, tỉnh Nam Định cần tập trung nghiên cứu thực hiện

thêm một số giải pháp khác như: Xây dựng chiến lược về PCCC, nhất là đối

với các địa bàn, công trình trọng điểm quốc gia, khu đô thị, các khu công

nghiệp, thương mại... có nguy cơ cháy, nổ cao; Từng bước thực hiện đồng bộ

quy hoạch về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương gắn với quy hoạch về

hệ thống hạ tầng cơ sở bảo đảm cho công tác PCCC theo quy định của pháp

luật; Có phương án chuyển ra khỏi khu dân cư đối với những khu công

nghiệp, khu chế xuất không bảo đảm điều kiện an toàn về PCCC; các cơ sở sử

dụng dây chuyền công nghệ sản xuất đã cũ, lạc hậu qua nhiều năm; các cơ sở

có nguy cơ cháy, nổ cao như cơ sở sản xuất, chế biến gỗ, sang, chiết gas, xăng

dầu, hóa chất...

125

Tiểu kết Chƣơng 3

Trong Chương 3, luận văn tập trung nghiên cứu về các giải pháp nâng

cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về PCCC. Trong phần

các quan điểm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC,

luận văn đã phân tích làm rõ về nội dung đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác PCCC; đảm bảo tính đồng bộ trong việc nâng cao hiệu quả quản

lý nhà nước về PCCC; sự kế thừa và phát triển các yếu tố tích cực trong quản

lý nhà nước về PCCC ở nước ta và hội nhập quốc tế trong công tác PCCC.

Trong phần các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

PCCC trên địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn đã đưa ra năm nhóm giải pháp cơ

bản, trọng tâm cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới đối với

UBND các cấp, thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh nhằm phát

huy những kết quả đã đạt được và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

PCCC tại địa phương.

126

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh đất nước nói chung cũng như tỉnh Nam Định nói riêng

đang còn gặp nhiều khó khăn, thách thức tác động trực tiếp đến công tác đảm

bảo an ninh, trật tự, an toàn về PCCC; Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam Định đã

quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Đảng ủy Công an

Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an về nhiệm vụ công tác PCCC trên địa bàn

tỉnh. Công an tỉnh đã chủ động nắm chắc và dự báo đúng tình hình, kịp thời

tham mưu, đề xuất Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển

khai thực hiện nhiệm vụ công tác PCCC và CNCH, xây dựng phong trào toàn

dân PCCC, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn PCCC và CNCH. Cùng

với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và các cơ quan chuyên

môn; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền các cấp, công

tác PCCC đã có bước chuyển rõ nét về nhận thức và hành động. Ý thức của

người đứng đầu cơ sở được nâng lên; phong trào toàn dân tham gia PCCC

phát triển sâu, rộng, tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong toàn xã hội. Đối với lực

lượng Cảnh sát PC&CC: hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC được tăng

cường; chất lượng một số mặt công tác PCCC ngày càng được nâng lên, đảm

bảo đúng quy trình, quy định; công tác trực ban, trực chiến đấu được duy trì

thực hiện nghiêm túc; tiếp nhận tin báo cháy kịp thời, xuất xe đi làm nhiệm vụ

nhanh chóng, tổ chức cứu chữa nhiều vụ cháy, không để xảy ra cháy lan, cháy

lớn gây hậu quả nghiêm trọng, bảo vệ được nhiều tài sản của Nhà nước và

Nhân dân có giá trị lên đến hàng trăm tỷ đồng; công tác lập và diễn tập

phương án, tình huống, huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy có nhiều đổi mới,

sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức cứu chữa trong thực tế. Công

tác CNCH tuy là hoạt động còn nhiều mới mẻ, nhưng cùng với sự quyết tâm

của lực lượng thì trong thời gian qua, nhiều sự cố, tai nạn đã được kịp thời xử

lý, cứu chữa, khắc phục.

127

Tuy nhiên, thực tiễn quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy của

tỉnh Nam Định những năm qua cho thấy, việc cụ thể hóa đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, việc tăng cường điều

kiện vật chất, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực

này chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nhận thức về công

tác phòng cháy của một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa đầy đủ, thiếu thống

nhất. Cơ chế phối hợp giải quyết những việc liên quan đến hoạt động phòng

cháy, chữa cháy giữa chính quyền, các ban ngành, đoàn thể ở một số nơi

trong tỉnh chưa cụ thể và rõ ràng. Việc tham mưu, đề xuất giải quyết các vụ

việc liên quan đến phòng cháy, chữa cháy có lúc, có nơi còn chậm và hiệu

quả chưa cao. Công tác vận động quần chúng thiếu chiều sâu, thiếu chọn lọc,

chậm đổi mới về phương pháp và hình thức. Cơ cấu tổ chức bộ máy làm công

tác phòng cháy, chữa cháy có nhiều sự biến động qua việc sáp nhập, chia

tách. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác phòng cháy, chữa

cháy chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp

hành pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy chưa thường xuyên.

Để khắc phục bất cập nêu trên, các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn

tỉnh Nam Định cần quan tâm nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm,

đường lối của Đảng về PCCC; đổi mới và hoàn thiện pháp luật quản lý nhà

nước đối với hoạt động phòng cháy, chữa cháy; tăng cường giáo dục chính trị,

đào tạo cán bộ làm công tác phòng cháy, chữa cháy; chú trọng công tác vận

động quần chúng, tín đồ và xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở; ngăn chặn

kịp thời đám cháy... Những giải pháp này cần được triển khai đồng bộ, từ tỉnh

đến cơ sở, trong sự sáng tạo và quán triệt quan điểm toàn diện và lịch sử cụ

thể của chủ thể quản lý nhà nước đối với phòng cháy, chữa cháy, đáp ứng tốt

hơn nhu cầu hoạt động kinh tế - xã hội của người dân, góp phần vào sự ổn

định, phát triển bền vững của tỉnh Nam Định trong thời gian tới./.

128

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2015), Chỉ thị số 47-CT/TW về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCCC, ngày 25 tháng 6 năm

2015.

2. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam,

Hà Nội.

3. Bộ Tài chính và Bộ Công an (2007), Thông tư liên tịch số

41/2007/TTLT-BTC-BCA hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

130/2006/NÐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm

cháy, nổ bắt buộc, ngày 24 tháng 4 năm 2007.

4. Chính phủ (2003), Nghị định số 35/2003/NÐ-CP quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật PC&CC, ngày 04 tháng 4 năm 2003.

5. Chính phủ (2005), Nghị định số 123/2005/NÐ-CP quy định xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực PC&CC, ngày 05 tháng 10 năm 2005.

6. Chính phủ (2006), Nghị định số 09/2006/NÐ-CP quy định về phòng

cháy và chữa cháy rừng, ngày 16 tháng 01 năm 2006.

7. Chính phủ (2006), Nghị định số 130/2006/NÐ-CP quy định chế độ

bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, ngày 08 tháng 11 năm 2006.

8. Chính phủ (2007), Nghị định số 55/2007/NÐ-CP về kinh doanh xăng

dầu, ngày 06 tháng 4 năm 2007.

9. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực

gia đình, ngày 12 tháng 11 năm 2013.

10. Chính phủ (2014), Nghị định số 79/2014/NĐ-CP quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật PC&CC, ngày 31 tháng 07 năm 2014.

129

11. Trần Đình Chung (2014), Quản lý nhà nước về PCCC từ thực tiễn

thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật Hành chính, Đà Nẵng.

12. Ðào Hữu Dân (2001), Nghiên cứu chức năng quản lý nhà nước

trong lĩnh vực PCCC của lực lượng Cảnh sát PC&CC trước yêu cầu đòi hỏi

của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Ðề tài khoa học cấp cơ sở, Trường

Ðại học PCCC, Hà Nội.

13. Ðào Hữu Dân, Trần Viết Chỉnh (2012), Giáo trình Quản lý nhà

nước về phòng cháy và chữa cháy, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.

14. Ðảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn

quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

15. Nguyễn Thị Hương Giang, Tăng cường vai trò quản lý nhà nước

đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị.

16. Nguyễn Chấn Nam (2008), Quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng

cháy, chữa cháy của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, Luận văn

thạc sỹ Quản lý hành chính công, Hà Nội.

17. Quốc hội khóa X (2001), Luật Phòng cháy và chữa cháy, ngày 29

tháng 6 năm 2001.

18. Quốc hội khóa XIII (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, ngày 28 tháng 11 năm 2013.

19. Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Từ và Kiều Hồng Mai (2004), Một

số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các

cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay, Hà Nội.

20. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chỉ thị 1634/CT-TTg về “Tăng cường

chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm trong công tác

phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ”, ngày 31 tháng 8 năm 2010.

130

21. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1635/QĐ-TTg về ban

hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 47-CT/TW ngày

25/6/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác PCCC, ngày 22 tháng 9 năm 2015.

22. UBND tỉnh Nam Định (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành

Luật Phòng cháy và chữa cháy (2001 - 2011), Nam Định.

23. UBND tỉnh Nam Định (2015), Báo cáo 05 năm phát triển kinh tế -

xã hội (2011 - 2015), Nam Định.

131