ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- NGUYỄN DUY HƢNG ĐIỀU KIỆN KHẢ THI CỦA QUỸ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HẢI DƢƠNG

Chuyên ngành: Quản lý khoa học và công nghệ Mã số 60.34.72 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.Vũ Cao Đàm Hà Nội - 2009

MỤC LỤC

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU

2 4 5 6 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................................6 2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................................8 3. Mục tiêu nghiên cứu ...............................................................................................................9 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................9 5. Mẫu khảo sát ........................................................................................................................10 6.Vấn đề nghiên cứu.................................................................................................................10 7. Giả thuyết nghiên cứu...........................................................................................................10 8. Phƣơng pháp chứng minh .....................................................................................................11 9. Kết cấu của Luận văn ..........................................................................................................12 13 13 1.1. Khái niệm ..........................................................................................................................13 1.1.1. Khái niệm công nghệ ...............................................................................................13 1.1.2. Đổi mới công nghệ ....................................................................................................16 1.1.3. Doanh nghiệp công nghiệp .......................................................................................18 1.1.4. Doanh nghiệp nhỏ và vừa .........................................................................................20 1.1.5. Thị trường chứng khoán ...........................................................................................24 1.1.6. Quỹ đầu tư mạo hiểm. ...............................................................................................25 1.2. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tƣ mạo hiểm. .................................................................26 1.2.1. Giới thiệu chung về Quỹ đầu tư mạo hiểm ...............................................................26 1.2.2. Vai trò của Quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ĐMCN trong các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa. .......................................................................................34 Kết luận Chƣơng 1 ...................................................................................................................35 Error! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM VÀ HOẠT ĐỘNG ĐMCN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HẢI DƢƠNGError! Bookmark not defined.

2.1. Thực trạng hoạt động đầu tƣ mạo hiểm tại Việt Nam. ........ Error! Bookmark not defined. 2.2. Tình hình phát triển và hoạt động của DNNVV ở Hải Dƣơng .......... Error! Bookmark not defined.

2.2.1. Tình hình phát triển các DNNVV. .......................... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Những đóng góp chủ yếu của các DNNVV ............... Error! Bookmark not defined. 2.3. Hiện trạng công nghệ và hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng. .............................................................................. Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Về trình độ sản phẩm .............................................. Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Về trình độ thiết bị công nghệ trong sản xuất. ...... Error! Bookmark not defined. 2.3.3. Về năng lực công nghệ ............................................ Error! Bookmark not defined.

2.3.4. Về cơ sở hạ tầng công nghệ của các doanh nghiệpError! Bookmark not defined. 2.3.5. Về các hoạt động khoa học và công nghệ tại doanh nghiệpError! Bookmark not defined. 2.3.6. Về các hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp ... Error! Bookmark not defined.

2.4. Nguồn tài chính cho hoạt động ĐMCN trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng ................................................................................................. Error! Bookmark not defined. 2.4.1. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ ............. Error! Bookmark not defined. 2.4.2. Nguồn vốn tín dụng từ các Ngân hàng thương mại.Error! Bookmark not defined. 2.5. Mẫu khảo sát và kết quả khảo sát. ...................................... Error! Bookmark not defined. 2.5.1. Kết quả thu nhận qua phỏng vấn ............................ Error! Bookmark not defined. 2.5.2. Bàn luận kết quả phỏng vấn ................................... Error! Bookmark not defined.

2.6. Nguyên nhân quỹ đầu tƣ mạo hiểm chƣa đầu tƣ vốn để các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng ĐMCN. ........................................................................ Error! Bookmark not defined. Kết luận chƣơng 2 ................................................................... Error! Bookmark not defined. Error! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 3 ĐIỀU KIỆN ĐỂ QUỸ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM MANG VỐN ĐẾN CHO DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HẢI DƢƠNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

Error! Bookmark not defined. 3.1. Quan điểm phát triển công nghiệp của tỉnh Hải Dƣơng giai đoạn 2006-2020 theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ........................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2. Định hƣớng thu hút nguồn vốn ĐMCN từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm cho các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng ............................................... Error! Bookmark not defined. 3.3. Kết quả phỏng vấn sâu ....................................................... Error! Bookmark not defined. 3.4. Tính minh bạch là cơ sở phát triển bền vững và thu hút vốn đầu tƣ của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa. ................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.5. Điều kiện để quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ .................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.6. Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tƣ từ Quỹ đầu tƣ mạo hiểm để các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng thực hiện đổi mới công nghệ. . Error! Bookmark not defined. 3.6.1. Đối với Nhà nước: ................................................... Error! Bookmark not defined. 3.6.2. Đối với tỉnh Hải Dương .......................................... Error! Bookmark not defined. 3.6.3. Đối với bản thân doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ

3.7. Một số giải pháp hỗ trợ bổ sung để các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng thu hút đƣợc vốn đầu tƣ từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm thực hiện ĐMCN.Error! Bookmark not defined. Kết luận chƣơng 3 .................................................................... Error! Bookmark not defined. Error! Bookmark not defined. Error! Bookmark not defined. 1. Đối với nhà nƣớc .................................................................. Error! Bookmark not defined. 2. Đối với tỉnh Hải Dƣơng ........................................................ Error! Bookmark not defined. 3. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng ........ Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

36 Error! Bookmark not defined.

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập Chƣơng trình cao học chuyên ngành Quản lý Khoa

học và Công nghệ tại trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học

Quốc gia Hà nội, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo trong

Khoa Khoa học quản lý, các thầy, cô giáo trong trƣờng và Ban lãnh đạo nhà

trƣờng. Với sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS Vũ Cao Đàm và các thầy, cô giáo

trong Khoa, đến nay Luận văn tốt nghiệp chƣơng trình cao học của tôi đã hoàn

thành.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Cao Đàm đã dành nhiều

thời gian, công sức hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Chân

thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Khoa học quản lý - Trƣòng Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, các chuyên gia, các đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều

kiện ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận

văn.

Tuy đã có cố gắng cao, nhƣng không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm

khuyết do đây là đề tài còn khá mới ở nƣớc ta và chƣa đƣợc kiểm nghiệm trên thực

tế, rất mong nhận đƣợc những ý kiến chỉ bảo của các thầy cô giáo, các chuyên gia

trong lĩnh vực nghiên cứu này.

Xin trân trọng cảm ơn!

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DN Doanh nghiệp

DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

ĐMCN Đổi mới công nghệ

TTCK Thị trƣờng chứng khoán

KH&CN Khoa học và công nghệ

R&D Nghiên cứu và triển khai

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề đổi mới công nghệ

là một trong những yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh

nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới công nghệ là chìa khoá để các doanh

nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa nâng cao chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, tăng

sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trƣờng và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Tháng 1 năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của

Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, các DNNVV Việt Nam đặc biệt trong đó là các

doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đứng trƣớc nhiều cơ hội và thách thức rất

lớn khi nƣớc ta thực hiện các hiệp định thƣơng mại với các nƣớc trên thế giới,

hàng rào thuế quan và sự bảo hộ truyền thống của Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp

trong cạnh tranh sẽ bị xóa bỏ. Khi đó hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nƣớc phải

đối mặt với sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ đến từ các nƣớc có công nghệ

sản xuất tiên tiến và hiện đại. Do vậy vai trò của công nghệ đƣợc thể hiện nhƣ là

vũ khí cạnh tranh của các nền kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa.

Trong những năm vừa qua, cùng với sự ra đời và lớn mạnh không ngừng

của hệ thống doanh nghiệp toàn quốc, cùng với các chính sách thu hút đầu tƣ của

tỉnh Hải Dƣơng, mỗi năm trên địa bàn tỉnh có hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa

ra đời. Qua nghiên cứu các tài liệu khảo sát về tình hình các doanh nghiệp tại địa

phƣơng, từ thực tế hoạt động quản lý tại địa phƣơng cho thấy, hiện nay các doanh

nghiệp nhỏ và vừa, nhất là doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa còn gặp rất nhiều

khó khăn nhƣ: quy mô và năng lực nhỏ bé, yếu kém, loại hình doanh nghiệp này

chƣa đƣợc nhìn nhận và đánh giá đúng mức, hoạt động của các doanh nghiệp còn

nhiều bất cập, khó khăn, thiết bị phần lớn lạc hậu, chất lƣợng sản phẩm thấp, giá

thành cao, khả năng cạnh tranh kém, chƣa có chiến lƣợc phát triển lâu dài và bền

vững. Các doanh nghiệp khi thực hiện đổi mới công nghệ cũng gặp rất nhiều khó

khăn, vƣớng mắc nhất là khó khăn về vốn. Để đổi mới công nghệ doanh nghiệp cần

đƣợc đầu tƣ một số vốn nhất định, trong khi đó đầu tƣ đổi mới công nghệ là loại

hình đầu tƣ thƣờng có tính rủi ro cao, vì vậy doanh nghiệp rất khó huy động đƣợc

nguồn vốn từ ngân sách Nhà nƣớc, tín dụng ngân hàng để ĐMCN. Hiện nay các

doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam nói chung và của Hải Dƣơng nói riêng hiện

đang rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng do bị hạn chế trong việc tiếp cận với các

nguồn vốn đầu tƣ, kể cả vốn cổ phần cũng nhƣ vốn vay dài hạn từ các ngân hàng.

Do đó việc huy động vốn từ Quỹ đầu tƣ mạo hiểm để ĐMCN của các doanh

nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đƣợc xem là nguồn cung cấp vốn khả thi cho

các doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.

Nhƣ vậy việc nghiên cứu đề xuất các điều kiện, từ đó đề ra các giải pháp để

quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ vào các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và

vừa trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng nhằm thực hiện đổi mới công nghệ là hết sức cần

thiết.

2. Lịch sử nghiên cứu

Nhà nƣớc đã ban hành Luật chuyển giao công nghệ và một số chính sách

khuyến khích cho hoạt động chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế, hoạt

động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở mỗi

địa phƣơng đƣợc thực hiện với kết quả rất khác nhau, vì mỗi địa phƣơng đều có

những đặc điểm riêng.

Đầu tƣ mạo hiểm là vấn đề mới ở Việt Nam, nó gắn kết chặt chẽ với các yếu

tố thị trƣờng công nghệ, thị trƣờng vốn. Ở nƣớc ta hiện nay đã có một số Quỹ đầu tƣ

mạo hiểm đang hoạt động nhƣ quỹ của tập đoàn IDG (Mỹ), Quỹ đầu tƣ mạo hiểm

Mekong..., nhƣng các quỹ này chỉ mới đầu tƣ vào công nghệ thông tin.

Trên bình diện quốc gia, trong vài năm gần đây đã có một số công trình

nghiên cứu về Quỹ đầu tƣ mạo hiểm và chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới công

nghệ nhƣ sau:

- Đầu tƣ mạo hiểm và Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣợc nghiên cứu lần đầu tiên tại

Việt Nam từ năm 1991, nhóm nghiên cứu gồm Vũ Cao Đàm, Nguyễn Thanh Hà và

Dennis Ray (Mỹ) thực hiện.

- Các biện pháp, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ,

Viện nghiên cứu chiến lƣợc và chính sách khoa học và công nghệ, tháng 10 năm

1999.

- Nâng cao hiệu quả một số chính sách thuế và tín dụng khuyến khích các

doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Viện nghiên cứu chiến lƣợc và chính sách khoa

học và công nghệ, tháng 3 năm 2001.

- Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính sách và biện

pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai trong các cơ

sở sản xuất ở Việt Nam, Trần Ngọc Ca, tháng 6 năm 2003.

- Dự thảo đề án thành lập Quỹ đầu tƣ mạo hiểm công nghệ cao do nhóm

nghiên cứu của Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, năm 2006.

Những nghiên cứu này đã đƣa ra sự cần thiết và vai trò của Quỹ đầu tƣ mạo

hiểm đối với hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp. Trong thực tế các doanh

nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng rất cần vốn đầu tƣ từ Quỹ đầu tƣ mạo

hiểm để thực hiện đổi mới công nghệ, nhƣng trong nhiều năm qua quỹ chƣa đầu tƣ

vốn cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Do đó cần thiết phải có nghiên cứu tìm

ra điều kiện để quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ cho doanh nghiệp công nghiệp

nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng đổi mới công nghệ.

Luận văn kế thừa có chọn lọc những tƣ tƣởng, quan điểm và kết quả nghiên

cứu đã đƣợc công bố, từ đó vận dụng phân tích thực trạng, đề xuất các điều kiện, từ

đó đề ra các giải pháp để Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp

công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh

tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

3. Mục tiêu nghiên cứu

- Đánh giá hiện trạng hoạt động đổi mới công nghệ và đánh giá nhu cầu về

vốn để ĐMCN của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hải

Dƣơng.

- Đề xuất điều kiện và giải pháp để Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ

vào doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: qua hoạt động của các quỹ đầu tƣ mạo hiểm ở Việt Nam tác

giả nhận thấy cần có điều kiện để quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ cho doanh

nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ĐMCN. Có nhiều điều kiện khác nhau để thu hút

vốn đầu tƣ ĐMCN từ các quỹ đầu tƣ mạo hiểm, luận văn tập trung nghiên cứu điều

kiện về tính minh bạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp, vì tính minh bạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

là một trong những cơ sở quan trọng để giữ vững, phát triển doanh nghiệp, đồng

thời giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn đầu tƣ trên thị trƣờng, nhất là

nguồn vốn từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm.

- Về thời gian: Từ năm 2003 đến năm 2008 (năm 2003 là năm mà làn sóng đầu tư

mạo hiểm bắt đầu đầu tư mạnh ở Việt Nam).

5. Mẫu khảo sát

Khảo sát đƣợc thực hiện ở 15 doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, trên địa

bàn tỉnh Hải Dƣơng

6.Vấn đề nghiên cứu

Các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa của nƣớc ta nói chung và ở tỉnh

Hải Dƣơng nói riêng rất cần nguồn vốn đầu tƣ đổi mới công nghệ nhất là nguồn vốn

từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm. Nhƣng trong thực tế tại sao “có cầu” lại không “có cung”?

Phải chăng cần có điều kiện thích hợp để quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ vào

các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng đổi mới công nghệ. Như

vậy, điều kiện nào là khả thi nhất để Quỹ đầu tư mạo hiểm đưa vốn đầu tư vào

doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dương đổi mới công nghệ?

7. Giả thuyết nghiên cứu

Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa là tất

yếu, vì thông qua đổi mới công nghệ doanh nghiệp có thể hạ giá thành và nâng cao

sức cạnh tranh của sản phẩm. Doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ thì không

thể thiếu 3 yếu tố cơ bản đó là: vốn, nhân lực và công nghệ, trong đó yếu tốn vốn

là yếu tố cơ bản và quyết định cho hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.

Tiếp cận nguồn vốn tín dụng dƣới bất kỳ hình thức nào đối với doanh nghiệp

nhỏ và vừa là điều khó khăn do yêu cầu về tài sản thế chấp, các quy định trong

thẩm định cho vay và doanh thu đảm bảo không có. Do vậy các doanh nghiệp

vừa và nhỏ phải tìm kiếm nguồn vốn đầu tƣ thích hợp và Quỹ đầu tƣ mạo hiểm

chính là loại hình đầu tƣ vốn có tính khả thi giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

đổi mới công nghệ.

Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng có nhu cầu về vốn để

đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, nhƣng doanh nghiệp chƣa đủ điều

kiện để nhận đƣợc vốn đầu tƣ của quỹ đầu tƣ mạo hiểm. Để nhận đƣợc vốn đầu

tƣ các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa phải đáp ứng đƣợc những điều

kiện, yêu cầu của nhà đầu tƣ. Theo các chuyên gia kinh tế, các quỹ đầu tƣ đặc biệt

chú ý đến các doanh nghiệp có tính minh bạch cao trong hoạt động sản xuất kinh

doanh.

Do vậy điều kiện khả thi để doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa nhận

đƣợc vốn từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm có thể là: tính minh bạch trong hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể là những điều kiện hết sức khả

thi để quỹ đầu tư mạo hiểm đưa vốn đầu tư vào doanh nghiệp thực hiện

ĐMCN.

8. Phương pháp chứng minh

- Phƣơng pháp phân tích tài liệu:

+ Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng để tìm hiểu, phân tích các tài liệu liên

quan đến đề tài nghiên cứu. Các tài liệu đƣợc phân tích gồm: Các website, sách,

báo, tạp chí, báo cáo các công trình nghiên cứu về vấn đề giải pháp huy động vốn

cho doanh nghiệp từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm.

+ Sử dụng nguồn dữ liệu kết quả nghiên cứu của các công trình nhiên cứu

khoa học đã thực hiện ở Trung ƣơng và ở tỉnh Hải Dƣơng.

- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu:

+ Phƣơng pháp phỏng vấn sâu đƣợc thực hiện để thu thập những thông tin

định tính nhằm bổ sung, giải thích cho các thông tin định lƣợng. Đồng thời,

phƣơng pháp giúp cung cấp những thông tin mới mà số liệu định lƣợng không thu

đƣợc.

+ Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện 15 cuộc phỏng vấn sâu

với những đối tƣợng là chủ các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa điển hình để

đánh giá nhu cầu về vốn ĐMCN và đề xuất điều kiện để Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa

vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp đổi mới công nghệ.

- Phƣơng pháp quan sát: phƣơng pháp quan sát tự do giúp phát hiện vấn đề,

đồng thời làm rõ thêm một số thông tin liên quan cần thiết khác của các doanh

nghiệp.

9. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,

phụ lục và các biểu số liệu, nội dung của Luận văn gồm có 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận

Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động đầu tƣ mạo hiểm tại Việt Nam và hoạt

động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải

Dƣơng

Chƣơng 3: Điều kiện để Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ vào

doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng đổi mới công nghệ.

Kết luận và khuyến nghị.

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm

1.1.1. Khái niệm công nghệ

Thuật ngữ công nghệ đƣợc hình thành từ khá lâu và đƣợc sử dụng khá phổ

biến, đã có nhiều tổ chức quốc tế về khoa học và công nghệ cố gắng đƣa ra một

định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho

việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia, trong từng khu vực và phạm vi toàn

cầu.

Theo quan niệm cổ điển nhất, công nghệ là một trật tự nghiêm ngặt các thao

tác của quá trình chế biến vật chất và/hoặc thông tin.

Theo F.R.Root, "công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng đƣợc vào việc

sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới".

Theo tác giả R.Jones, năm 1970 cho rằng "công nghệ là cách thức mà qua đó

các nguồn lực đƣợc chuyển thành hàng hoá".

Theo tác giả J.Baranson, năm 1976 đƣa ra "công nghệ là tập hợp các kiến

thức về một quy trình hoặc/và các kỹ thuật chế biến cần thiết để sản xuất ra các vật

liệu, cấu kiện và sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh".

Theo J.R.Dunning, năm 1982, "công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức

đƣợc áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất và việc nghiên cứu tiếp cận thị trƣờng

cho những sản phẩm và dịch vụ đang có và tạo ra những sản phẩm và dịch vụ

mới".

Tác giả P.Strunk, năm 1986 cho rằng, "công nghệ là sự áp dụng khoa học

vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý một cách có

hệ thống và có phƣơng pháp. Công nghệ là kiến thức có sẵn trong óc con ngƣời,

không phải là hàng hoá".

Theo Nawar Sharif, năm 1986 đã đƣa ra một định nghĩa khá khái quát về

công nghệ: "công nghệ là một hệ thống tri thức về quá trình chế biến vật chất

hoặc/và thông tin, về phƣơng tiện và phƣơng pháp chế biến vật chất hoặc/và thông

tin". Công nghệ là một tập hợp phần cứng và phần mềm, bao gồm 4 yếu tố: phần

kỹ thuật (vật thể), phần thông tin, phần con ngƣời và phần thiết chế tổ chức.

Đây cũng là 4 yếu tố công nghệ theo quan điểm của Trung tâm chuyển giao

công nghệ Châu Á- Thái Bình Dƣơng (APCTT).

Theo E.M.Graham, năm 1988 đƣa ra định nghĩa: "công nghệ là kiến thức

không sờ mó đƣợc và không phân chia đƣợc, có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để

sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ".

Một số tổ chức quốc tế đã đƣa ra các định nghĩa về công nghệ khác nhau:

- Tổ chức PRODEC, năm 1982 cho rằng, "công nghệ là một loại kỹ năng,

kiến thức, thiết bị và phƣơng pháp đƣợc sử dụng trong sản xuất công nghiệp, chế

biến và dịch vụ".

- Trƣớc đó, năm 1972, tổ chức UNCTAD cho rằng, "công nghệ là một đầu

vào cần thiết cho sản xuất, và nhƣ vậy nó đƣợc mua bán trên thị trƣờng nhƣ một

hàng hoá".

- Ngân hàng thế giới, năm 1985 đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: "công nghệ là

phƣơng pháp chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm, gồm ba yếu tố:

+ Thông tin về phƣơng pháp.

+ Phƣơng tiện, công cụ sử dụng phƣơng pháp để thực hiện việc chuyển hoá.

+ Sự hiểu biết phƣơng pháp hoạt động nhƣ thế nào và tại sao".

- Tổ chức OECD, gồm các nƣớc phát triển châu Âu, Nhật Bản, Mỹ và

Canađa lại có một định nghĩa chung: "công nghệ đƣợc hiểu là một tập hợp các kỹ

thuật, mà bản thân chúng đƣợc định nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc

lựa chọn chỉ dẫn việc ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của

con ngƣời thì sẽ đạt đƣợc một kết quả định trƣớc (và đôi khi đƣợc kỳ vọng) trong

một hoàn cảnh nhất định".

- Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), cho rằng

"công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết

quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và phƣơng pháp".

- Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á - Thái bình dƣơng (ESCAP), "công

nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu và xử lý thông

tin".

- Năm 1987, tác giả Trần Ngọc Ca đã đƣa ra một khái niệm hợp lý về công

nghệ nhƣ sau: Công nghệ có thể đƣợc hiểu nhƣ mọi loại hình kiến thức, thông tin,

bí quyết, phƣơng pháp (gọi là phần mềm) đƣợc lƣu giữ dƣới các dạng khác nhau

(con ngƣời, ghi chép...) và mọi loại hình thiết bị, công cụ, tƣ liệu sản xuất (gọi là

phần cứng) và một số tiềm năng khác (tổ chức, pháp chế, dịch vụ...) đƣợc áp dụng

vào môi trƣờng thực tế để tạo ra các loại sản phẩm và dịch vụ.

- Theo Luật Khoa học và Công nghệ của Việt Nam, năm 2000 đã đƣa ra

định nghĩa: "công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết,

công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm".

- Theo Luật chuyển giao công nghệ, năm 2006: "công nghệ là giải pháp, quy

trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến

đổi nguồn lực thành sản phẩm".

Trên cơ sở tập hợp và khái quát các định nghĩa về công nghệ nêu trên, tác

giả tuân theo khái niệm: công nghệ là tập hợp các phƣơng pháp, quy trình, kỹ

năng, bí quyết, công cụ, phƣơng tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản

phẩm.

1.1.2. Đổi mới công nghệ

1.1.2.1. Khái niệm đổi mới công nghệ

Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, do nhu cầu càng cao của con

ngƣời do tiến bộ của tri thức và khoa học, do cạnh tranh… nên nhu cầu về sản

phẩm ngày càng cao và đa dạng cùng với yêu cầu cao trong việc tiết kiệm chi phí.

Do vậy công nghệ luôn đƣợc thay đổi, cải tiến không ngừng để thoả mãn nhu cầu

đó nên việc thay đổi công nghệ là một xu thế tất yếu của hệ thống công nghệ toàn

cầu và đã mang lại những hiệu quả to lớn đối với sự phát triển của từng doanh

nghiệp, mỗi quốc gia và toàn thế giới, nhờ liên tục đổi mới công nghệ. Vậy đổi

mới công nghệ là gì? Đó chính là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là quá

trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ. Để có

thể quản lý đƣợc hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào những vấn đề cơ bản tất

cả các thay đổi nhỏ về công nghệ ta chỉ coi là cải tiến công nghệ. Do đó ta đƣa ra

khái niệm đổi mới công nghệ nhƣ sau:

Đổi mới công nghệ là sự chủ động thay thế một phần đáng kể (cốt lõi, cơ

bản) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác.

Đổi mới công nghệ là một tiến bộ về công nghệ, tiến bộ này dƣới dạng một

phƣơng pháp mới về sản xuất, một kỹ thuật mới về tổ chức, quản lý, marketing, mà

nhờ chúng sản phẩm sản xuất ra sẽ có năng suất cao hơn, chất lƣợng tốt hơn, chi

phí sản xuất thấp hơn và do đó sẽ tạo đƣợc vị thế cạnh tranh trong doanh nghiệp về

mặt giá thành hay về sự khác biệt của sản phẩm.

Đổi mới công nghệ có thể là đƣa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn

toàn mới hoặc mới sử dụng lần đầu trong hoàn cảnh mới.

Peter Drucker, nhà kinh tế học nổi tiếng ngƣời Áo cho rằng xét ở góc độ

quản trị kinh doanh, có hai nhiệm vụ hàng đầu mà một doanh nghiệp luôn phải

thực hiện đó là tiếp thị (marketing) và đổi mới công nghệ (innovation). Nếu chức

năng tiếp thị là nhằm thoả mãn các những nhu cầu hiện tại của ngƣời tiêu dùng thì

đổi mới công nghệ nhằm thoả mãn nhu cầu tƣơng lai của khác hàng. Nếu thiếu khả

năng và sự kiên trì, bền bỉ trong việc đổi mới công nghệ thì doanh nghiệp sẽ sớm

bị đào thải khỏi thƣơng trƣờng khi nhu cầu khách hàng, công nghệ thay đổi và

cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Do đó đối với một doanh nghiệp, đổi mới công

nghệ luôn đƣợc sử dụng nhƣ một nhân tố trong chiến lƣợc cạnh tranh.

1.1.2.2. Vai trò của đổi mới công nghệ.

Công nghệ là một sản phẩm đặc biệt của con ngƣời và trƣớc hết nó cũng là

một sản phẩm cho nên nó cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm.

Tức là nó cũng đƣợc sinh ra, phát triển và cuối cùng là bị đào thải. Chính vì lẽ đó

việc quan tâm đặc biệt đến đổi mới công nghệ sẽ gắn chặt đến lợi ích sống còn của

doanh nghiệp, đến sự phát triển của nền kinh tế. Nếu một quốc gia nào, hay một

doanh nghiệp nào không có những hoạt động nhằm không ngừng ĐMCN thì chắc

chắn ở quốc gia đó ở doanh nghiệp đó không thể có sự phát triển. Một điều quan

trọng đó là ĐMCN sẽ mang lợi ích cho doanh nghiệp đổi mới cũng nhƣ cho nền

kinh tế, các lợi ích đó là:

- Đổi mới công nghệ cải thiện, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, đây là một lợi

ích thiết thực, trực tiếp và đƣợc các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu.

- Từ việc nâng cao đƣợc chất lƣợng sản phẩm sẽ làm cho doanh nghiệp duy

trì, củng cố và mở rộng thị phần của sản phẩm.

- Một lợi ích rất quan trọng khác đó là đổi mới công nghệ sẽ mở rộng phẩm

cấp của sản phẩm, tạo thêm chủng loại sản phẩm mới.

- Đáp ứng đƣợc các quy định, tiêu chuẩn, luật lệ và các quy định ngày càng

khắt khe đƣợc thế giới và các quốc gia xây dựng lên.

- Giảm tiêu hao nguyên liệu, năng lƣợng, đây là một lợi ích hết sức quan

trọng, nhất là trong bối cảnh thế giới đang lâm vào cảnh thiếu năng lƣợng, giá xăng

dầu tăng rất cao.

- Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất cho con ngƣời

và thiết bị.

- Giảm tác động xấu đến môi trƣờng tự nhiên nói chung và môi trƣờng sống

nói riêng.

Vì tất cả các lý do kể trên có thể khẳng định đổi mới công nghệ là một tất

yếu phù hợp với quy luật phát triển.

Công nghệ và đổi mới công nghệ có ý nghĩa quyết định nâng cao khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp bằng việc nâng cao năng xuất, chất lƣợng hạ giá

thành sản phẩm. Trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn về vốn để đầu tƣ đổi mới

công nghệ các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng rất cần sự đầu

tƣ vốn từ các nguồn vốn khác, đặc biệt là vốn đầu tƣ từ Quỹ đầu tƣ mạo hiểm để

đổi mới công nghệ.

1.1.3. Doanh nghiệp công nghiệp

Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà Xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005,

có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 một số khái niệm cơ bản về doanh nghiệp

đƣợc thống nhất nhƣ sau:

- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,có trụ sở giao dịch

ổn định, đƣợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích

thực hiện các hoạt động kinh doanh.

- Kinh doanh là việc thực hiện liên tục, một số hoặc tất cả các công đoạn của

quá trình đầu tƣ, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị

trƣờng nhằm mục đích sinh lợi.

Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành

nghề mà pháp luật không cấm. Trên thực tế khái niệm doanh nghiệp đƣợc hiểu

nôm na, dùng chung đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần

kinh tế, các loại hình tổ chức, các ngành nghề khác nhau, có tƣ cách pháp nhân.

- Doanh nghiệp nhà nƣớc là doanh nghiệp trong đó nhà nƣớc sở hữu trên

50% vốn điều lệ. Hiện tại ở Việt Nam có loại hình doanh nghiệp 100% vốn nhà

nƣớc, doanh nghiệp có trên 50% vốn nhà nƣớc và công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên 100% vốn nhà nƣớc.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong

đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân. Số lƣợng thành viên không vƣợt quá 50.

Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh

nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn góp của

thành viên chỉ đƣợc chuyển nhƣợng theo quy định của Luật doanh nghiệp.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ

chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về

các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của

công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn không đƣợc quyền phát hành cổ phiếu.

- Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đƣợc chia thành

nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân có cổ

phần. Số lƣợng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lƣợng tối đa. Cổ đông

chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp

trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển

nhƣợng cổ phần của mình cho ngƣời khác. Công ty cổ phần có quyền phát hành

chứng khoán các loại để huy động vốn. Công ty cổ phần có quyền phát hành trái

phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật

và điều lệ công ty.

- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là

chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dƣới một tên chung. Ngoài

các thành viên hợp danh còn có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải

là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của

công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty

trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không đƣợc phát hành

bất kỳ loại chứng khoán nào.

- Doanh nghiệp tƣ nhân là một doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự

chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh

nghiệp. Doanh nghiệp tƣ nhân không đƣợc phát hành bất kỳ một loại chứng khoán

nào. Mỗi cá nhân chỉ đƣợc quyền thành lập một doanh nghiệp tƣ nhân.

- Nhóm công ty là tập hợp công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau

về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trƣờng và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm

công ty bao gồm các hình thức: Công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế và các

hình thức khác.

- Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài thành lập để thực hiện đầu tƣ tại Việt Nam hoặc doanh nghiệp Việt

Nam do nhà đầu tƣ nƣớc ngoài góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.

- Doanh nghiệp công nghiệp là doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá

trình sản xuất, kinh doanh các sản phẩm công nghiệp.

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu loại hình doanh

nghiệp nhỏ và vừa đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đóng góp

ngày càng nhiều cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nƣớc, lại dễ bị tổn

thƣơng nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên cơ sở tập hợp và khái quát các định nghĩa về doanh nghiệp, doanh

nghiệp công nghiệp nêu trên, tác giả tuân theo khái niệm: Doanh nghiệp công

nghiệp là doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh các

sản phẩm công nghiệp.

1.1.4. Doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.1.4.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa

Theo Điều 03 Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của

Chính phủ định nghĩa về DNNVV: "Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất,

kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng

ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300

người".

Trong thực tế hiện nay, một số cơ quan Nhà nƣớc, một số tổ chức chính trị -

xã hội để hỗ trợ doanh nghiệp đã chủ động đƣa ra các tiêu chí quy định doanh

nghiệp nhỏ và vừa để phục vụ cho công tác của mình nhƣ:

- Ngân hàng công thƣơng Việt Nam quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là:

doanh nghiệp có dƣới 500 lao động, vốn cố định nhỏ hơn 10 tỷ VNĐ, vốn lƣu

động dƣới 08 tỷ VNĐ, doanh thu tháng không quá 20 tỷ đồng VNĐ.

- Liên Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Tài chính quy định

doanh nghiệp nhỏ và vừa là: doanh nghiệp có số lao động thƣờng xuyên dƣới 100

ngƣời, doanh thu một năm nhỏ hơn 10 tỷ VNĐ, vốn pháp định không quá 01 tỷ

VNĐ.

- Dự án VIE/US/95/2004 hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam lại có

quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là: doanh nghiệp có số lao động dƣới 200

ngƣời, vốn đăng ký 0,4 triệu USD (khoảng 06 tỷ VNĐ).

Vì vậy, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phƣơng,

trong quá trình thực hiện các biện pháp, chƣơng trình trợ giúp cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa, có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao

động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.

Trong luận văn này tác giả tuân theo khái niệm: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là

cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện

hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm

không quá 300 ngƣời.

1.1.4.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói

chung, doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa nói riêng có những vai trò với mức

độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tƣơng đồng nhƣ nhau: "Trong

tổng số hơn 300.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,5%"1

- Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: "Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại

Việt Nam luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất (95%). Hiện, cả nước có gần 350.000 DNNVV,

tổng số vốn đăng ký của các DNNVV là gần 1.400 nghìn tỷ VND, tức bình quân 4 tỷ VND/DN"2. Vì thế, đóng góp của DNNVV vào tổng sản lƣợng và tạo việc làm là

rất đáng kể.

- Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh

nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh

hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có đƣợc sự ổn định. Vì

thế, DNNVV đƣợc ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.

- Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô

nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.

- Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp

nhỏ và vừa thƣờng chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết đƣợc dùng để lắp

1 http://www.vnchannel.net/news/kinh-te: ra mắt hiệp hội doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, 24.11.2008

2 http://www.vcci.com.vn/vcci/tin-vcci: dnnvv trông chờ chính sách "mở" về tín dụng, 19.11.2008

ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.

- Là trụ cột của kinh tế địa phƣơng: nếu nhƣ doanh nghiệp lớn thƣờng đặt cơ

sở ở những trung tâm kinh tế của đất nƣớc, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt

ở khắp các địa phƣơng và là thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào nguồn

thu cho ngân sách cả ngoại tệ và nội tệ của địa phƣơng, tạo sản lƣợng và giải quyết

việc làm cho ngƣời lao động ở địa phƣơng.

Trong thành tựu chung của DNNVV đóng góp cho nền kinh tế của đất nƣớc,

"các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa không chỉ tăng về số lượng mà còn

tăng lên về chất lượng (vốn, năng động, sáng tạo trong kinh doanh và sản xuất,

thích ứng với sự biến động của thị trường, tạo ra nhiều việc làm để thu hút lao động xã hội, đổi mới trong quản lý…)"3

Với vai trò vô cùng quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh

tế, vì vậy nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh

nghiệp nhỏ và vừa phát triển nói chung và đổi mới công nghệ nói riêng. Nhƣng

trên thực tế ở nƣớc ta, vai trò chính trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế là

ngân hàng và hoạt động đổi mới công nghệ mang tính rủi ro cao cùng với yêu cầu

về tài sản đảm bảo cũng nhƣ các quy định trong thẩm định vay vốn của ngân hàng

đã không thể tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ. Từ

những thực tế khó khăn trong việc huy động vốn kể trên, doanh nghiệp phải tìm

cách huy động vốn từ các nguồn vốn khác trong đó nguồn vốn đầu tƣ mạo hiểm là

một trong những nguồn vốn đƣợc xem là quan trọng và có tính khả thi.

Hình thức đầu tƣ mạo hiểm là nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp, tham

gia chia sẻ thành công nếu doanh nghiệp phát đạt, song cũng gánh chịu rủi ro nếu

thất bại. Chính điều này đảm bảo rằng những khuyến khích đối với các nhà đầu tƣ

3 http://www.vjol.info.vn/index.php/ssir: Phạm Ngọc Dũng, doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam qua 20 năm đổi mới, 22.4.2009

và các doanh nhân khởi nghiệp là thống nhất với nhau.

Do vậy, nguồn vốn từ các Quỹ đầu tư mạo hiểm được xem là một giải pháp

về vốn cho các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ.

1.1.5.1. Chứng khoán.

Chứng khoán là chứng chỉ xác định các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở

hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành bao gồm: cổ phiếu, trái

phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và các chứng khoán khác theo qui định của

pháp luật.

1.1.5.2. Thị trƣờng chứng khoán.

Có nhiều khái niệm về thị trường chứng khoán khác nhau, nhưng nhìn chung có

thể dẫn ra một khái niệm có tính phổ biến: Thị trƣờng chứng khoán là một thị trƣờng mà

ở nơi đó ngƣời ta mua bán, chuyển nhƣợng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm

lời.

1.1.5. Thị trường chứng khoán

Thị trƣờng chứng khoán phải tồn tại ở một nơi mà ở nơi đó việc mua bán

chứng khoán đƣợc thực hiện. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trƣờng

chứng khoán ở các nƣớc có nền sản xuất và lƣu thông hàng hóa lâu đời nhƣ Mỹ,

Anh, Pháp,… nơi đó tồn tại dƣới hai hình thức: Thị trường chứng khoán có tổ chức

và Thị trường chứng khoán phi tổ chức.

Hình thái điển hình của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở giao dịch

chứng khoán. Mọi việc mua, bán, chuyển nhƣợng, trao đổi chứng khoán phải tiến

hành trong Sở giao dịch và thông qua các thành viên, theo quy chế của Sở giao

dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán có thể là tổ chức sở hữu nhà nƣớc, là

doanh nghiệp cổ phần hoặc một hiệp hội và đều có tƣ cách pháp nhân hoạt động

kinh doanh chứng khoán. Có thể dẫn ra những Sở giao dịch chứng khoán nổi tiếng

của thế giới nhƣ: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock

Thị trƣờng chứng khoán phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức

tồn tại, nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau

exchange), LSE (London Stock exchange )…

để tiến hành giao dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào

đó. Thị trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy OTC (Over the

counter)

Ngày nay, nhờ vào thành quả của cách mạng tin học, hệ thống INTERNET

đã gắn kết các thành viên của thị trƣờng lại với nhau, do đó việc trao đổi thông tin,

tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán không phải đến tận quầy của các ngân

hàng và có thể tiến hành ngay trên bàn máy vi tính. Đây là một hình thái của thị

trƣờng chứng khoán phi tổ chức bậc cao mới xuất hiện trong thập kỷ qua. Thị

trƣờng này chƣa có tên chính thức, có ngƣời gọi đó là thì trƣờng thứ ba.

Với sự phát triển phong phú của các hình thái tổ chức của thị trƣờng chứng

khoán từ một nơi chốn cụ thể nhƣ Sở giao dịch chứng khoán đến các quầy giao

dịch của ngân hàng và gần đây là đến không gian rộng lớn của thông tin, do đó đã

tạo điều kiện và môi trƣờng cho mọi thành viên trong xã hội đều có thể trở thành

thành viên của thị trƣờng chứng khoán hiện đại

1.1.6. Quỹ đầu tư mạo hiểm.

Đầu tƣ mạo hiểm (Venture Investment - VI) là thực hiện đầu tƣ vào hoạt

động đổi mới công nghệ của một doanh nghiệp hoặc đầu tƣ để lập ra một doanh

nghiệp mới, mà đặc trƣng cơ bản của nó là còn thiếu độ tin cậy về kết quả kinh

doanh, chƣa tỏ rõ khả năng sinh lợi của mình, những nơi mà các thể chế tài chính

truyền thống (tín dụng, ngân hàng...) không để ý đến. Thay vì cho vay, họ đầu tƣ

vốn để một công ty có thể phát triển, đồng thời có thể nhận lấy một tỷ lệ cổ phần

không có lãi cố định hoặc quyền sở hữu cổ phần trong công ty mà họ đầu tƣ. Xét

về bản chất, hệ thống tín dụng thông thƣờng không thể thúc đẩy đổi mới công nghệ

khi mà khả năng thành công về kỹ thuật và thƣơng mại còn chƣa rõ ràng.

Vốn mạo hiểm (Venture capital - VC) là hình thức vốn đầu tƣ vào các doanh

nghiệp công nghệ cao khởi đầu (technology start-up company) trong giai đoạn sản

xuất thử (pilot) nhằm đạt lợi nhuận siêu ngạch do tính cách mạng của công nghệ

cao đem lại. Vốn mạo hiểm thông thƣờng đƣợc cung cấp thông qua một loại hình

tổ chức tài chính đặc biệt gọi là quỹ mạo hiểm.

Đối tƣợng đầu tƣ của quỹ mạo hiểm là những cá nhân có ý tƣởng độc đáo

khả thi, những công ty vừa và nhỏ đang rất cần vốn, đặc biệt là các công ty đang

đầu tƣ công nghệ mới hoặc các doanh nghiệp mới khởi nghiệp bắt đầu cho ra

những sản phẩm mới có triển vọng trong tƣơng lai.

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm (Venture Capital Fund - VCF) nhìn chung cũng có

những đặc điểm của quỹ đầu tƣ thông thƣờng: đó là một định chế tài chính phi

ngân hàng, là loại hình doanh nghiệp đƣợc chuyên môn hóa trong lĩnh vực đầu tƣ,

mang đặc điểm của một ngành chuyên kinh doanh vốn trung và dài hạn, thông qua

hoạt động đầu tƣ gián tiếp hoặc trực tiếp. Quỹ đầu tƣ cho các nhà đầu tƣ tham gia

vào thị trƣờng tài chính thông qua một danh mục đầu tƣ và thƣờng xuyên đƣợc đặt

dƣới sự giám sát chuyên nghiệp. Tuy nhiên quỹ đầu tƣ mạo hiểm luôn hƣớng đến

những lĩnh vực mới và mục đích chính của quỹ bao giờ cũng hƣớng tới thị trƣờng

chứng khoán, nơi mang lại lợi nhuận cao khi thành công nhƣng cũng chứa đựng

nhiều rủi ro.

1.2. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư mạo hiểm.

1.2.1.1. Sự ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm:

Từ sau thế chiến thứ II, ở Mỹ đầu tƣ mạo hiểm (venture investment) đã xuất hiện nhƣ

một công cụ để giúp các công ty mới thành lập, nhất là các công ty trong lĩnh vực công nghệ cao

giải quyết các khó khăn về tài chính và quản lý. Quỹ vốn mạo hiểm đầu tiên trên thế giới có tên

gọi là Công ty Nghiên cứu và Phát triển Mỹ (ARD Corporation) đƣợc thành lập vào năm 1948

tại thành phố Boston nƣớc Mỹ. Công ty này đƣợc hình thành nhƣ một quỹ hỗ trợ dạng đóng

(closed end). Quỹ này đƣợc hình thành để tìm kiếm các dự án đầu tƣ có nhiều tiềm năng mang

1.2.1. Giới thiệu chung về Quỹ đầu tư mạo hiểm

về lợi nhuận cao và việc đầu tƣ vào công ty Digital Equipment Inc. đã mang lại hơn 50% lợi

nhuận của Quỹ. Sau đó nhiều quỹ vốn mạo hiểm đã ra đời. Vào những năm 50, các tổ chức của

chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ cho các doanh nghiệp nhỏ đƣợc thành lập nhƣ SBA và SBIC nhƣng

qui mô vốn đầu tƣ cho từng doanh nghiệp vẫn còn nhỏ.

Vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX tại Silicon Valley cũng có một vài quỹ

vốn mạo hiểm với qui mô nhỏ do một số cá nhân thành lập để phục vụ cho các công ty khởi

nghiệp. Tuy nhiên vào những năm 1970 đã có những thay đổi quan trọng tác động đến sự phát

triển của các quỹ vốn mạo hiểm khi chính phủ Mỹ ban hành đạo luật về giảm thuế đánh trên

lợi nhuận do tăng vốn (capital gain tax) và Bộ Lao động Hoa kỳ điều chỉnh lại các qui định liên

quan đến việc đầu tƣ của các quỹ hƣu trí, đã thúc đẩy những khoản vốn từ quỹ hƣu trí đầu tƣ

cho các doanh nghiệp mới cần vốn mạo hiểm để đổi lại các khoản lợi nhuận cao trong danh

mục đầu tƣ ngày càng đƣợc đa dạng hóa.

Từ đó đến nay đã có sự tăng vọt về các khoản vốn mạo hiểm cùng với những đợt phát

hành lần đầu ra công chúng và những lần tăng giá cổ phiếu vƣợt trội trên thị trƣờng chứng

khoán. Vào những năm 1980 dù có tốc độ tăng trƣởng nhanh nhƣng khối lƣợng vốn mạo hiểm

cũng chỉ đạt khoảng 10 đến 15 tỷ USD/năm, đến những năm 1990 các nhà đầu tƣ đã bỏ ra 30 tỷ

USD vốn mạo hiểm/năm cho các dự án. Theo nghiên cứu của Wetzel sang thế kỷ XXI hàng năm

có khoảng 50tỷ USD đƣợc các quỹ mạo hiểm đầu tƣ cho các dự án trên toàn cầu. Cùng với Mỹ

và các nƣớc phát triển ở châu Âu, một số nƣớc châu Á nhƣ Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan,

Singapore, Trung Quốc… đã chú trọng tới các hoạt động đầu tƣ mạo hiểm.

1.2.1.2. Một số đặc điểm của đầu tư mạo hiểm:

Tại các nƣớc phát triển cũng nhƣ các nƣớc đang phát triển, nhiều doanh nhân nghĩ đến

vốn mạo hiểm khi họ tổ chức một doanh nghiệp góp vốn mới (new venture). Các công ty mạo

hiểm hay quỹ đầu tƣ mạo hiểm là các công ty có mục tiêu đầu tƣ vào những thị trƣờng tiềm năng

mang tính đặc trƣng, các công ty này có cơ cấu tổ chức đặc biệt để hoàn thành nhiệm vụ của

mình. Thông thƣờng ngƣời ta hay nghĩ các quỹ mạo hiểm luôn sẵn sàng cung cấp vốn cho các

doanh nghiệp mới nhƣng không hẳn nhƣ vậy vì đầu tƣ mạo hiểm chỉ thích hợp với một số lĩnh

vực, loại hình hoạt động chứ không phải cho tất cả các doanh nghiệp và quỹ đầu tƣ mạo hiểm

cũng có những đặc điểm riêng của mình:

Thứ nhất: đầu tƣ vốn vào các doanh nghiệp mà doanh nghiệp không cần

phải có một khoản đặt cọc hay ký quỹ nào.

Thứ hai: vốn mạo hiểm đƣợc đầu tƣ vào doanh nghiệp chủ yếu dựa trên sự

tin tƣởng vào việc tạo dựng thành công doanh nghiệp của ngƣời sáng lập và đội

ngũ lãnh đạo doanh nghiệp.

Thứ ba: vốn mạo hiểm đƣợc đầu tƣ vào một doanh nghiệp nào đó thì có

nghĩa là họ sẽ đồng tham dự vào việc kiểm soát điều hành doanh nghiệp. Điều này

cũng có nghĩa là họ sẽ phải đối mặt với rủi ro bị mất khoản đầu tƣ trong trƣờng

hợp doanh nghiệp bị phá sản. Tuy nhiên, rủi ro cao thì sẽ đƣợc bù đắp bởi lợi

nhuận cao khi doanh nghiệp đó thành công.

Thứ tư: bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý quỹ đầu tƣ mạo

hiểm còn tƣ vấn ở cấp chiến lƣợc, hƣớng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong quản lý và

mở rộng các mối quan hệ nhằm tăng cƣờng năng lực hoạt động kinh doanh, tạo

dựng uy tín, xây dựng thƣơng hiệu và phát triển thị trƣờng.

Do tính chất “mạo hiểm” trong hoạt động đầu tƣ, các chuyên gia quản lý quỹ

đầu tƣ mạo hiểm thƣờng tiến hành rất kỹ việc sàng lọc hay thẩm định đầu tƣ nhằm

tìm ra các doanh nghiệp tiềm năng để đầu tƣ. Việc thẩm định đầu tƣ này đƣợc tiến

hành trên tất cả các mảng của hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc xem xét đội

1.2.1.3. Cơ cấu tổ chức hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm:

Do đầu tƣ mạo hiểm có những đặc điểm mang tính chất đặc thù nên cơ cấu tổ chức hoạt

động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm cũng có những điểm riêng biệt với thành phần và mô hình tổ

chức nhƣ sau:

1.2.1.3.1.Thành phần tham gia:

ngũ lãnh đạo, công nghệ cho đến mô hình kinh doanh.

Thông thƣờng, có ba loại đối tƣợng tham gia vào quá trình đầu tƣ mạo hiểm,

đó là “Ngƣời huy động và quản lý vốn” (General Partners - GP), “Ngƣời cung cấp

vốn” (Limited Partners - LP) và “Các doanh nghiệp nhận vốn đầu tƣ”.

Những ngƣời cung cấp vốn sẽ cam kết và thực hiện góp một khoản vốn vào

quỹ đầu tƣ mạo hiểm và giao cho ngƣời quản lý vốn quản lý thông qua một Hợp

đồng góp vốn. Ngƣời quản lý vốn có trách nhiệm tìm kiếm các cơ hội để đầu tƣ

vốn của quỹ vào các doanh nghiệp có nhu cầu nhận vốn và có khả năng sinh lời

cao. Ngƣời quản lý vốn sẽ đƣợc nhận một khoản thù lao cố định theo định kỳ và

tiền thƣởng do mang lại lợi nhuận cao cho quỹ.

Theo thông lệ, ngƣời huy động và quản lý vốn (GP) đóng góp 1% vốn của

quỹ, những ngƣời cung cấp vốn (LP) sẽ cung cấp 99% vốn còn lại. Ngƣời huy

động và quản lý vốn (GP) là một tập thể gồm các chuyên gia kỹ thuật, chuyên gia

đầu tƣ mạo hiểm và chuyên gia tài chính. Những cung cấp vốn (LP) thông thƣờng

phải đầu tƣ một phần lớn tài sản của họ và nhƣ vậy trong trƣờng hợp quỹ hoạt

động không đƣợc tốt họ sẽ bị thiệt hại lớn huy động và quản lý vốn sẽ cố gắng tạo

ra một kết quả hoạt động trên mức trung bình. Ngƣời cung cấp vốn sẽ đầu tƣ vào

quỹ dựa trên một sự điều tra, nghiên cứu kỹ lƣỡng bao gồm cả kinh nghiệm, quá

trình làm việc của Ngƣời huy động và quản lý vốn và chiến lƣợc đầu tƣ. Ngƣời huy

động và quản lý vốn sẽ điều hành hoạt động hàng ngày của Qũy và nhận một

khoản phí điều hành trong khoảng từ 2-2,5% vốn của qũy. Lợi nhuận của quỹ

thƣờng đƣợc chia theo tỷ lệ 20/80%.

Đặc điểm của hợp đồng đầu tƣ mạo hiểm là chứa rất nhiều động cơ khuyến

khích ngƣời huy động và quản lý vốn và doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng của

mình. Đối với ngƣời huy động và quản lý vốn, cấu trúc thu nhập của họ dựa trên

thành công của qũy tức là tức là đƣợc chia 20% lợi nhuận của qũy mặc dù chỉ đóng

góp 1% trên tổng vốn. Thành công của qũy sẽ đem lại uy tín cho ngƣời huy động

và quản lý vốn và giúp họ dễ dàng thu hút vốn mở qũy khác. Ngoài ra họ còn có

nhu cầu thoát vốn để tái đầu tƣ lợi nhuận hữu hình và vô hình. Để khuyến khích

doanh nghiệp làm tốt, đầu tƣ mạo hiểm thƣờng đƣợc thực hiện theo giai đoạn, do

đó nhà đầu tƣ có toàn quyền quyết định ngƣng rót vốn cho doanh nghiệp trong

trƣờng hợp hoạt động của doanh nghiệp không đƣợc cam kết, trong hợp đồng

quyền này đƣợc quy định thông qua điều khoản "ƣu tiên từ chối" trong hợp đồng.

Doanh nghiệp sẽ lấy lại quyền kiểm soát khi doanh nghiệp hoạt động thành công

Để có một quỹ đầu tƣ mạo hiểm hoạt động tốt, ba thành phần kể trên luôn có mối quan

hệ gắn bó chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho các khoản đầu tƣ, tạo động lực phát

triển cho các tổ chức, cá nhân có vốn tham gia đầu tƣ mạo hiểm. Đồng thời khuyến khích tính

sáng tạo công nghệ, tinh thần dám nghĩ, dám làm và phát huy triệt để năng lực của các nhà

quản lý quỹ.

1.2.1.3.2. Mô hình tổ chức

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm thông thƣờng đƣợc tổ chức dƣới hình thức công ty quản lý quỹ, đó

là một định chế tài chính trung gian trên thị trƣờng tài chính chuyên cung cấp các dịch vụ tổ chức

và quản lý hoạt động đầu tƣ mạo hiểm, thông tin thị trƣờng và vốn đầu tƣ. Những công ty này

thƣờng là công ty hợp danh hữu hạn hoặc là công ty con của các tập đoàn, các tổ chức tài chính,

cũng có thể là công ty cổ phần:

Tổ chức theo hình thức hợp danh hữu hạn (Limited partnership) bao gồm thành viên tổng

quát (general partner) và thành viên hợp danh hữu hạn (limited partners) cùng tham gia. Tổ chức

này hoạt động theo cơ chế phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các thành viên tham gia. Các

thành viên tổng quát là ngƣời lập ra quỹ đầu tƣ mạo hiểm bằng vốn của mình và gọi vốn từ các

thành viên trách nhiệm hữu hạn. Họ cũng là những nhà quản lý vốn mạo hiểm chuyên nghiệp có

chức năng tổ chức, kêu gọi vốn từ các nhà đầu tƣ mạo hiểm, tìm kiếm và lựa chọn các cơ hội đầu

tƣ tốt nhất sau đó tiến hành đầu tƣ và quản lý dự án. Việc đầu tƣ vốn vào các doanh nghiệp đòi

hỏi các thành viên tổng quát phải tốn nhiều thời gian, công sức để theo dõi và giám sát các doanh

nghiệp nhận đầu tƣ. Trong quá trình làm việc, các nhà quản lý quỹ nhận đƣợc một khoản tiền

lƣơng từ chi phí họat động của quỹ và một tỷ lệ tiền thƣởng nhất định từ lợi nhuận thu đƣợc -

điều này tạo ra một động lực mạnh mẽ để các thành viên tổng quát không ngừng nổ lực tạo ra

nhiều lợi nhuận hơn trong quá trình công tác. Còn những thành viên hợp danh hữu hạn là những

nhà đầu tƣ mạo hiểm góp vốn vào quỹ sẽ đƣợc chia lợi nhuận (hoặc chịu rủi ro), nhƣng không

và bán đƣợc cổ phiếu ra thị trƣờng chứng khoán.

tham gia quản lý, họ gần nhƣ không đóng vai trò gì trong các quyết định đầu tƣ của quỹ. Các

thành viên hợp danh hữu hạn thƣờng là các tập đoàn công nghiệp, các tổ chức tài chính hay các

quỹ hƣu trí, các nhà đầu tƣ cá nhân…

Tổ chức quỹ theo hình thức là các công ty con của các tổ chức tài chính hoặc các tập

đoàn kinh tế (corporate subsidiaries). Trong cơ cấu tổ chức này, công ty mẹ trợ vốn mạo hiểm

cho doanh nghiệp nhằm tạo mối quan hệ với những doanh nghiệp mới và phát triển các dịch vụ

khác nhau. Hội đồng quản trị của các công ty con sẽ đƣa ra các quyết định phê chuẩn các khoản

đầu tƣ, còn việc điều hành quản lý các khoản đầu tƣ lại do một công ty quản lý vốn mạo hiểm

đảm trách. Nhìn chung hình thức này không tạo đƣợc một nhà đầu tƣ chuyên nghiệp và nếu có

thì năng lực của họ cũng bị hạn chế do không có quyền đƣa ra các quyết định đầu tƣ. Thù lao cho

các nhà quản lý quỹ mạo hiểm là những khoản lƣơng không gắn liền với thành quả đầu tƣ và họ

phải trung thành với lợi ích từ các công ty mẹ, điều này đôi khi dẫn tới xung khắc về lợi ích giữa

nguồn tài trợ và các đơn vị nhận vốn, giữa quỹ của công ty với các nhà đầu tƣ mạo hiểm khác.

Tổ chức theo mô hình công ty cổ phần (corporation): Theo mô hình này, các thành viên

góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn đầu tƣ. Trong đó các cổ đông nắm một tỷ

lệ cổ phần đáng kể sẽ có đủ điều kiện tham gia hội đồng quản trị với tƣ cách cổ đông sáng lập,

còn lại là cổ đông thƣờng. Thực hiện mô hình này các cổ đông vẫn có thể dễ dàng kiểm soát hoạt

động của công ty thông qua vai trò chủ động của hội đồng quản trị và khả năng lựa chọn công ty

quản lý quỹ. Mô hình này cũng cho phép quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣợc hình thành dƣới dạng quỹ

đóng hoặc mở.

1.2.1.4. Qui trình hoạt động:

Hoạt động đầu tƣ mạo hiểm có độ rủi ro rất cao, vì vậy để hạn chế rủi ro có thể phát sinh,

quy trình hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm thƣờng đƣợc thực hiện theo các bƣớc sau:

1.2.1.4.1.Giai đoạn thành lập quỹ:

Đây là giai đoạn khởi đầu cho việc hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm, trong thời gian này

các nhà quản lý sẽ tiến hành nghiên cứu, tìm kiếm các cơ hội đầu tƣ có triển vọng đồng thời tìm

các nguồn cung cấp vốn. Trong giai đoạn này, các nhà quản lý quỹ cũng tiến hành các thủ tục về

mặt pháp lý để chuẩn bị cho việc thành lập quỹ:

Các thành viên nghiên cứu để có nhận định tổng quát và phát hiện những cơ hội đầu tƣ có

triển vọng mang lại lợi nhuận cao; xem xét những lĩnh vực nên đầu tƣ và cụ thể từng dự án đồng

thời dự kiến các nguồn vốn. Sau đó tiến hành thẩm định dự án để xác định sản phẩm, thị trƣờng,

chiến lƣợc phát triển và hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp với các nguồn tài chính trƣớc

khi quyết định đầu tƣ.

Các thành viên sáng lập quyết định mô hình tổ chức quỹ (có thể lựa chọn 1 trong các hình

thức: công ty đầu tƣ, quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tƣ ở dạng đóng hoặc mở) và xây dựng những cơ sở

pháp lý cần thiết. Xem xét và ra quyết định về mô hình tổ chức, mức vốn, số lần gọi vốn, chi tiết

thể thức đầu tƣ, cơ cấu thành phần quỹ vốn, hội đồng quản trị, ban điều hành… (vì những thành

viên sáng lập có thể là các định chế tài chính, những tập đoàn đầu tƣ, những chuyên gia… nên họ

cần phải xem xét các yếu tố thành lập quỹ để bảo đảm sự thành công).

Khâu cuối cùng của giai đoạn thành lập là các thành viên ra quyết định chiến lƣợc phát

triển quỹ và các kế hoạch thực hiện chiến lƣợc đó.

1.2.1.4.2.Giai đoạn huy động vốn

Việc tổ chức huy động và ấn định ngày đóng quỹ là công việc đƣợc tính toán rất kỹ, cũng

có thể huy động vốn một lần hoặc theo từng đợt phù hợp với nhu cầu đầu tƣ của từng dự án. Vì

việc đóng đầy đủ vốn theo đăng ký có thể kéo dài 2-3 năm nên cần xây dựng một thời biểu nhiều

ngày đóng quỹ (fund closing date). Một lịch trình nhiều lần đóng quỹ giúp cho các nhà đầu tƣ

thấy đƣợc số tiền góp vốn đƣợc đầu tƣ thế nào vào các danh mục đầu tƣ và giá cả thị trƣờng của

các danh mục đó ở từng thời điểm. Các nhà đầu tƣ đƣợc hƣởng quyền lợi dựa trên tỷ lệ góp vốn

và có quyền duy trì hoặc bán các cổ phần của mình.

1.2.1.4.3.Giai đoạn đầu tư

Trong gian đoạn này, các nhà quản lý quỹ tiến hành chọn lọc, thẩm định các dự án đầu

tƣ, thƣơng thuyết mua cổ phần hoặc đầu tƣ trực tiếp vào các dự án để đạt đƣợc lợi nhuận nhƣ

cam kết ban đầu. Để đảm bảo quyền lợi của quỹ gắn liền với hiệu quả hoạt động của các doanh

nghiệp, các nhà quản lý quỹ luôn giám sát các hoạt động của doanh nghiệp để kịp thời tƣ vấn hỗ

trợ; với những kinh nghiệm và kiến thức của mình, họ có thể đƣa ra những giải pháp tối ƣu về

chiến lƣợc sản xuất kinh doanh, quản trị nhân sự, quản trị tài chính cho doanh nghiệp… Trong

quá trình này vẫn có thể có những đợt huy động vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tƣ. Đồng thời trong

suốt quá trình hoạt động của mình, quỹ đầu tƣ sẽ thƣờng xuyên báo cáo về việc sử dụng vốn đầu

tƣ qua các danh mục đầu tƣ và giá trị danh mục ở từng giai đoạn cho các nhà đầu tƣ.

1.2.1.4.4.Giai đoạn gia tăng giá trị

Sau khi tiến hành đầu tƣ theo các danh mục, các nhà quản lý quỹ tiếp tục xây dựng bộ

máy quản trị và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính, kinh doanh tìm cơ hội gia tăng giá trị

vốn quỹ. Trong giai đoạn này, các nhà quản lý quỹ đầu tƣ mạo hiểm tiếp tục hỗ trợ hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhƣ nhân sự, tài chính, marketing… để có thể làm tăng tối đa

giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, đặc điểm cơ bản của đầu tƣ mạo hiểm là đầu tƣ ở giai đoạn đầu

vì vậy vốn mạo hiểm không phải là vốn đầu tƣ dài hạn và các nhà đầu tƣ luôn muốn thu hồi vốn

nhanh để đầu tƣ tiếp nên thời gian hoạt động của một chu kỳ vốn đƣợc coi là hiệu quả chỉ nên

kéo dài từ 4 - 5 năm và không nên quá 7 năm.

1.2.1.4.5.Giai đoạn thoát vốn

Đây là giai đoạn quan trọng có tầm quyết định cả quá trình đầu tƣ vì sau khi giá trị đầu tƣ

đạt đến mức cần thiết, các quỹ đầu tƣ sẽ tìm cách thoát vốn để thu hồi vốn đầu tƣ và lợi nhuận.

Giai đoạn này rất quan trọng, nó phản ánh kết quả của quá trình đầu tƣ và lợi ích đạt đƣợc của cả

quá trình này chỉ phụ thuộc vào kết quả của việc thoát vốn. Tuy nhiên giai đoạn thoát vốn có thể

cơ động do các giai đoạn nắm giữ cổ phần thay đổi nên chiến lƣợc thoát vốn cũng có thể thay đổi

theo thời gian. Thông thƣờng các nhà đầu tƣ mạo hiểm tiến hành thoát vốn bằng những phƣơng

thức cơ bản nhƣ :

- Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO- Initial Public Offering)

- Bán toàn bộ doanh nghiệp: là việc bán công ty cho các tổ chức hoặc cá nhân nào khác

hay tiến hành sáp nhập với các doanh nghiệp khác.

- Nhƣợng lại cổ phần cho các doanh nghiệp nhận đầu tƣ.

- Bán số cổ phần đã đầu tƣ (kể cả việc bán cổ phần cho ngƣời lao động).

Kết quả qua việc thoát vốn của nhà đầu tƣ có thể bằng tiền mặt hoặc các cổ phiếu có khả

năng thanh toán cao trên thị trƣờng vốn. Thời gian của các giai đoạn hình thành quỹ, gọi vốn,

đầu tƣ cho đến thu hồi vốn và lợi nhuận của mỗi quỹ sẽ khác nhau vì số lƣợng và thời gian đầu

tƣ của các dự án ở mỗi quỹ có biến thiên khác nhau. Đầu tƣ mạo hiểm thƣờng có thời gian nhất

định khoảng từ 3 - 5 năm.

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm ngoài việc đóng vai trò là nhà cung cấp vốn thông qua việc mua cổ

phần với khối lƣợng lớn, họ còn tham gia vào quá trình quản lý doanh nghiệp đó bằng cách tham

gia hội đồng quản trị công ty, tham gia hoạch định các chính sách về tài chính, kinh doanh, tìm

kiếm thị trƣờng… Khi quá trình đầu tƣ thành công – công ty phát triển tốt và đƣợc niêm yết trên

thị trƣờng chứng khoán, quỹ sẽ bán cổ phiếu để thu hồi vốn đầu tƣ (đây là cách thoát vốn có lợi

nhất và hay đƣợc sử dụng đối với quỹ đầu tƣ mạo hiểm).

1.2.2. Vai trò của Quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ĐMCN trong các

doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa.

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm là nguồn tài chính phù hợp nhất để đổi mới công

nghệ: nhìn từ khía cạnh quá trình phát triển của doanh nghiệp, vốn mạo hiểm tập

trung chủ yếu vào giai đoạn khởi đầu, khi xác xuất thành công của doanh nghiệp

còn rất thấp từ khía cạnh công nghệ, khác với các khoản đầu tƣ thông thƣờng vốn

mạo hiểm dành phần lớn cho giai đoạn sản xuất thử là giai đoạn áp dụng ý tƣởng

hoặc công nghệ sau khi các kết quả nghiên cứu khoa học-công nghệ đã hoàn tất

nhƣng vẫn chƣa đủ điều kiện đƣa vào ứng dụng để sản xuất đại trà. Nói một cách

tổng quát, vốn mạo hiểm là một mắc xích quan trọng của mô hình tài chính đối với

Bằng trình độ, kinh nghiệm và mạng lƣới liên kết rộng lớn của mình, quỹ đầu tƣ mạo

hiểm không chỉ cung cấp vốn mà còn hỗ trợ các hoạt động khởi đầu của doanh nghiệp nhƣ: tƣ

vấn về mặt pháp lý, tìm kiếm thị trƣờng, liên kết thông tin, quản lý… Đây là điểm khác biệt quan

trọng nhất của đầu tƣ mạo hiểm so với các loại hình đầu tƣ thông thƣờng thông qua các ngân

hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác.

hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm là cầu nối để phát triển khoa học và công nghệ: các ý

tƣởng, công nghệ có thể xuất hiện từ nhiều nguồn khác nhau và có thể từ bất cứ cá

nhân nào, nhƣng trên thực tế chúng thƣờng bắt nguồn từ các nhà khoa học, các cơ

sở nghiên cứu và triển khai hoặc trong các doanh nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên

từ ý tƣởng hoặc công nghệ ban đầu muốn trở thành sản phẩm (có khả năng sử

dụng) cần phải có vốn đầu tƣ để biến ý tƣởng, công nghệ đó thành hiện thực. Đây

là giai đoạn đầu tƣ ban đầu nhiều mạo hiểm nhƣng cũng chứa dựng nhiều nguồn

lợi tiềm năng. Từ đây các quỹ mạo hiểm ra đời và phát triển với mục tiêu triển khai

các ý tƣởng, công nghệ đặc biệt có khả năng mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tƣ

thông qua các hoạt động góp vốn và hỗ trợ những cá nhân, tổ chức trong việc

thành lập, vận hành và đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp.

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm tạo động lực phát triển nguồn nhân lực khoa học và

công nghệ: bên cạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, các quỹ đầu

tƣ mạo hiểm còn tạo động lực quan trọng thúc đẩy các nhà nghiên cứu khoa học và

công nghệ dành thời gian, trí tuệ cho việc tìm kiếm sáng tạo các ý tƣởng, công

nghệ mới. Từ đó có thể thấy vai trò sâu xa của quỹ đầu tƣ mạo hiểm chính là đầu

tƣ vào con ngƣời, cụ thể là những cá nhân, tập thể dựa vào tài năng và trí tuệ của

mình đi đến thành công, bởi những ý tƣởng sáng tạo, độc đáo có nhiều khả năng

trở thành những sản phẩm tốt trong tƣơng lai, chính vì thế chất xám là một trong

những điều kiện quan trọng để nhận đƣợc tài trợ từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm.

Kết luận Chương 1

1. Trong chương 1, tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản được nghiên

cứu trong Luận văn bao gồm: Công nghệ, đổi mới công nghệ, thị trường chứng

khoán, DNNVV, Doanh nghiệp công nghiệp, Quỹ đầu tư mạo hiểm.

2. Đồng thời, phân tích cơ sở lý luận về vai trò của DNNVV trong nền kinh

tế Việt Nam, tầm quan trọng của DNNVV đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp

nhỏ và vừa trong công cuộc phát triển kinh tế, đƣa ra ý kiến về giải pháp cho việc

giải quyết khó khăn về nguồn vốn cho doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa đổi

mới công nghệ đó là quỹ đầu tƣ mạo hiểm.

3. Tác giả cũng trình bày các mô hình hoạt động, các đặc điểm và vai trò của

Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đối với hoạt động ĐMCN để làm cơ sở cho việc nghiên cứu

các điều kiện, từ đó đề ra các giải pháp để quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣa vốn đầu tƣ

cho doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Dƣơng thực hiện ĐMCN tại các

chƣơng sau.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Ngọc Ca (2000), báo cáo đề tài: Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây

dựng một số chính sách và biện pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và

nghiên cứu triển khai trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam.

2. Trần Ngọc Ca (2004), Lý thuyết Công nghệ và Quản lý công nghệ.

3. Trần Ngọc Ca (2005), báo cáo tổng kết đề tài: Đánh giá trình độ và năng lực

công nghệ của các lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

4. Cục Thống kê Hải Dƣơng, Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương các năm 2003,

2004, 2005, 2006, 2007, 2008, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội.

5. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam, Nghị định số 119/1999/NĐ-CP (ngày

18/9/1999) về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ.

6. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam, Nghị định số 81/2002/NĐ-CP (ngày

17/10/2002) về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoa học và

công nghệ.

7. Lê Đăng Doanh - Nguyên Viện Trƣởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung

ƣơng (2006), Tác động của WTO với công nghiệp Việt Nam.

8. Vũ Cao Đàm (2003), Lý thuyết hệ thống, Hà Nội.

9. Vũ Cao Đàm (2006), Phương pháp nghiên cứu khoa học, nhà xuất bản Khoa

học và kỹ thuật, Hà Nội.

10. Vũ Cao Đàm (2006), Lý thuyết xã hội học khoa học và công nghệ, Hà Nội.

11. Vũ Cao Đàm, Nguyễn Thanh Hà, Đầu tư mạo hiểm, Tạp chí hoạt động khoa

học (số tháng 1 năm 2008).

12. Trần Thị Mai Hoa, Đầu tư mạo hiểm - Hình thức đầu tư cần quan tâm, Tạp chí

hoạt động khoa học (số tháng 5 năm 2008).

13. Phạm Văn Năng, Vấn đề đổi mới công nghệ để tăng năng lực cạnh tranh

doanh nghiệp sản xuất, Tạp chí hoạt động khoa học (số tháng 4 năm 2001).

14. Ngô Thị Kim Oanh (2006), Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học: Những khó

khăn trong việc hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

15. Quốc Hội nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khoa học và Công

nghệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật

Đầu tư, Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá.

16. Lê Thành Ý, Hoạt động khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp công

nghiệp, Tạp chí hoạt động khoa học (số tháng 8 năm 2006).