VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

---------

VŨ LÊ THÀNH NAM

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

---------

VŨ LÊ THÀNH NAM

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự

Mã số: 8380104

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới

sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Hiển. Các số liệu, những kết luận

nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học viên

Vũ Lê Thành Nam

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUYỀN BÀO

CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................... 6

1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền bào chữa của bị cáo trong tố

tụng hình sự ............................................................................................... 6

1.2 Lịch sử hình thành và phát triển về quyền bào chữa của bị cáo trong

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................ 13

1.3 Quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số

quốc gia trên thế giới ............................................................................... 20

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP

DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA

BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHÌN TỪ THỰC TIỄN THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 26

2.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về

quyền bào chữa của bị cáo ...................................................................... 26

2.2 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền

bào chữa của bị cáo trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hà Nội. ..... 39

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO NHÌN TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................... 58

3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền

bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự .............................................. 58

3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy

định về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành

phố Hà Nội ............................................................................................... 66

KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BCVND Bào chữa viên nhân dân

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX Hội đồng xét xử

HTND Hội thẩm nhân dân

NBC Người bào chữa

NTHTT Người tiến hành tố tụng

KSV Kiểm sát viên

TA Tòa án

TBC Tự bào chữa

TGVPL Trợ giúp viên pháp lý

TGPL Trợ giúp pháp lý

TP Thẩm phán

TTHS Tố tụng hình sự

VAHS Vụ án hình sự

VKS Viện kiểm sát

Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

trên phạm vi Thành phố Hà Nội các năm, từ năm 2015 đến năm 2019 ......... 39

DANH MỤC BẢNG

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân luôn là một trong những mục tiêu

hàng đầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các nghị

quyết của Đảng về tư pháp luôn luôn nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con người trong

hoạt động tư pháp, đặc biệt Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã đặt ra

nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng

nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ

pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.

Quán triệt quan điểm của Đảng, vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS, nhất là

bào chữa của bị cáo luôn được các nhà lập pháp quan tâm.

Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh

“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm

của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công

khai, dân chủ, nghiêm minh nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử,

coi đây là khâu đột phá trong hoạt động tư pháp”. Hiến pháp 2013 cũng quy định cụ

thể tại khoản 5 Điều 103 rằng “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.

Quyền bào chữa của bị cáo được thúc đẩy không chỉ đảm bảo tốt quyền và lợi ích

chính đáng cho bị cáo mà còn có thể thúc đẩy tranh tụng tại phiên tòa hình sự được

thực chất và hiệu quả, góp phần tạo đột phá trong trong hoạt động tư pháp.

Ngày nay, quyền con người của bị cáo vẫn chưa thực sự được bảo đảm, vẫn

còn những vụ án oan sai, những vi phạm quyền bào chữa ảnh hưởng tới quyền và

lợi ích hợp pháp của bị cáo gây dư luận xấu đối với hoạt động tư pháp nói chung và

cho hoạt động TTHS nói riêng. Nguyên nhân một phần xuất phát từ chính việc chưa

đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo. Cụ thể, như sự yếu kém về kiến thức, hiểu biết

pháp luật của BC; giáo dục pháp luật, quyền được thông tin pháp luật chưa được

chú trọng; thủ tục nhờ NBC còn có những bất cập; tranh tụng tại phiên tòa chưa

được bảo đảm...

1

Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài về “Quyền bào chữa của bị cáo

trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là rất cần thiết nhằm góp

phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như các quy định của pháp luật về quyền bào

chữa của bị cáo, nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử, hướng tới xây dựng

một nền tư pháp hiện đại, trong sạch, vững mạnh.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Tính cho đến thời điểm nghiên cứu có thể chia các công trình nghiên cứu về

quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự thành hai nhóm lớn sau:

Thứ nhất, Về tài liệu nghiên cứu là luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài

nghiên cứu khoa học gồm có công trình: Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền

bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị

Sơn, năm 2003; “Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo” của tác giả Bùi Bảo Trâm, năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Quyền con

người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác

giả Đỗ Thị Hường, năm 2011; “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Lại Văn Trình, năm 2011...

Thứ hai, Về tài liệu nghiên cứu là bài viết tạp chí gồm có: “Những hạn chế

trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ” của tác giả

Hoàng Thị Minh Sơn, đăng trên tạp chí luật học năm 2008; “Quyền bào chữa của

người bị buộc tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Tôn Thiện

Phương đăng trên tạp chí Kiểm sát, năm 2016; “Đảm bảo quyền bào chữa theo quy

định của Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Hà Thái

Thơ và Huỳnh Xuân Tình đăng trên tạp chí Lý luận chính trị, năm 2016; “Đảm bảo

quyền bào chữa của pháp nhân bị buộc tội” của tác giả Đỗ Tiến Dũng đăng trên Tạp

chí Khoa học kiểm sát, năm 2017; “Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 dưới

góc nhìn của luật sư bào chữa” của tác giả Nguyễn Thanh Long đăng trên tạp chí

Khoa học kiểm sát, năm 2017… và một số công trình nghiên cứu khác. Các công trình,

bài viết đã nghiên cứu về vấn đề quyền bào chữa của bị cáo ở nhiều góc độ khác nhau.

Các công trình, bài viết đã nghiên cứu về vấn đề quyền tự bào chữa của bị

cáo ở nhiều góc độ khác nhau. Các nghiên cứu này bước đầu đề cập đến một số nội

2

dung của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự của bị ở những khía cạnh

cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những

hạn chế nhất định ở tính hệ thống, tính toàn diện. Có rất ít các công trình nghiên

cứu chuyên sâu về quyền bào chữa của bị cáo. Hơn nữa, nhiều công trình đã nghiên

cứu và được công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những quy định mới về quyền

bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài

Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về quyền bào chữa của bị cáo trong

TTHS Việt Nam.

Thứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa các yếu tố tạo nên tính đặc thù của quyền

bào chữa của bị cáo gắn với giai đoạn xét xử, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa

nhằm hình thành, phát triển quyền bào chữa đối tượng này cũng như cơ chế đảm

bảo thực thi quyền.

Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định

của pháp luật tố tụng hình sự cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả bào chữa của

BC trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài xác định như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị

cáo trong tố tụng hình sự như: Khái niệm, ý nghĩa, lịch sử hình thành và phát triển

của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; nghiên cứu các chế

định về quyền bào chữa của trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên

thế giới…

Thứ hai, nghiên cứu và phân tích, đánh giá các quy định về quyền bào chữa

của bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ ba, đánh giá, phân tích thực tiễn áp dụng về quyền bào chữa của bị cáo

trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hà Nội để làm rõ những mặt hạn chế

trong thực tiễn áp dụng; chỉ ra nguyên nhân của mặt hạn chế về thực tiễn áp dụng

quyền bào chữa của bị cáo trong việc giải quyết vụ án hình sự; đề xuất một số kiến

3

nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bào

chữa của bị cáo trong trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu là quyền bào chữa của bị cáo được quy định trong

pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Về mặt thời gian: Nghiên cứu văn bản pháp luật và một số công trình khoa

học liên quan đến sự hình thành và phát triển của quyền bào chữa của bị cáo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt kể từ khi quy định trong Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.

Về mặt không gian: Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và

thực tiễn về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà

Nội, thủ đô có mật độ dân số lớn nhất cả nước. Có sự tìm hiểu chế định về quyền bào

chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về

nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về

chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020.

Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương

pháp phân tích, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị

cáo như khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa của bị cáo trong việc giải quyết các vụ

án hình sự; lịch sử hình thành và phát triển của quyền bào chữa của bị cáo trong pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam. Các quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng như quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong

pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. Thêm vào đó công trình còn

sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê để làm sáng tỏ những vấn đề về thực tiễn áp

dụng của quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.

4

6. Những đóng góp mới của đề tài.

Đề tài với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận, nội dung quy định của

pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt là

những điểm mới trong BLTTHS 2015 và phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các

quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị cáo trên địa bàn

thành phố Hà Nội từ đó có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, đề

tài sẽ đóng góp cho các nhà lập pháp những kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện

BLTTHS năm 2015 cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để việc áp

dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội được thống nhất.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

đề tài gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử quyền bào chữa của bị cáo trong

tố tụng hình sự

Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp

luật về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự nhìn từ thực tiễn thành phố

Hà Nội.

Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng

cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bào chữa của bị cáo nhìn từ

thực tiễn Thành phố Hà Nội.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUYỀN BÀO CHỮA

CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng

hình sự

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

Quyền con người là một trong những thành tựu vĩ đại của nhân loại, có giá

trị và ý nghĩa to lớn đối với tất cả mọi người trên thế giới. Quyền con người được

ghi nhận ở hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế như: Công ước quốc tế về các quyền

dân sự và chính trị (năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và

văn hóa (năm 1966); Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948)... Quyền con

người không hoàn toàn tuyệt đối đối với mỗi con người cụ thể, nó có thể bị giới hạn

theo quy định của luật pháp nhằm đảm bảo quyền con người của mọi người, giá trị

đạo đức, lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Một trong những quyền con người cơ

bản là quyền tự bảo vệ mình trước bất kỳ sự xâm phạm nào. Khẳng định con người

có thể phòng ngừa, ngăn chặn hay chống lại bất kỳ hành vi nào xâm phạm tới họ

trong khuôn khổ pháp luật.

Pháp luật Việt Nam thừa nhận và tôn trọng các quyền con người của mọi

người dân. Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con

người, quyền công dân về chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội được công nhận, tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Và Hiến pháp cũng quy định

rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật

trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn

xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.

TTHS dưới góc độ một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia

đã cụ thể hóa các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp

năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người trong TTHS. TTHS là quá

trình áp dụng pháp luật hình sự. [52, tr18] Quá trình áp dụng đó là việc thông qua

6

cưỡng chế để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và phòng chống tội phạm. Có

thể hiểu TTHS là quá trình thực hiện các quy định mang tính chất hình thức, trình

tự, thủ tục bắt buộc trên cơ sở pháp luật hình sự nhằm xác định một hành vi nào đó

có phải tội phạm hay không, xác định cá nhân, pháp nhân không có tội hay có tội.

Người bị tình nghi phạm tội hay người bị buộc tội là một bên trong mối quan hệ với

bên buộc tội là đại diện các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, có nghĩa vụ

chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình nghi, người bị buộc tội. Các Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng kiến thức pháp luật, chuyên môn được

giao nhiệm vụ buộc tội, chứng minh việc buộc tội của mình là chính xác nhằm đấu

tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên người bị tình nghi, người bị buộc tội chưa

thể bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của TA. “Để chống lại

xu hướng áp đặt của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, pháp luật đã

dành cho người bị buộc tội quyền tự bảo vệ mình, phản bác sự buộc tội, chứng

minh mình vô tội trước các cáo buộc của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, đó chính là quyền bào chữa”[59, tr.7].

Hiện nay, quyền bào chữa được hiểu bao gồm hai quyền là quyền TBC và

quyền nhờ người khác bào chữa. Cũng chưa có một khái niệm pháp lý nào về

“quyền TBC và nhờ NBC” của người bị buộc tội nói chung và của BC nói riêng

trong TTHS. Việc đưa ra khái niệm quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội

nói chung và của BC nói riêng trong TTHS là cần thiết nhằm hiểu rõ khái niệm này

trong xây dựng pháp luật và trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong nghiên cứu lý

luận, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số quan điểm về khái niệm quyền bào chữa

trong TTHS nhưng vẫn chưa có sự thống nhất và còn nhiều tranh luận.

Quan điểm thứ nhất ủng hộ theo quan điểm của nhà luật học Xô viết

Stragovic M.S cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng

tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can (bị cáo) không có lỗi hoặc nhằm làm

giảm trách nhiệm của bị can (bị cáo)” và “Quyền bào chữa của bị can (bị cáo) là

tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can (bị cáo) để bảo vệ

khỏi mọi sự buộc tội và được bị can (bị cáo) sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa

7

ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của

mình”. [50, tr.196]

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không

chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm

trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và

lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan

tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án. [18, tr.5]

Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi

phạm tội, người bị kết án, bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự và người đại

diện hợp pháp của họ hay NBC, giám định viên, nhân chứng... nếu quyền và lợi ích

của họ bị xâm phạm.

Quan điểm thứ tư theo PGS.TS Phạm Hồng Hải cho rằng: “Quyền bào

chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can,

BC, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm

phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong VAHS”.

[26, tr.34]

Quan điểm thứ năm cho rằng: “Quyền bào chữa của bị can, BC là tổng thể

các quyền mà pháp luật quy định bị can, BC có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần

hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.” [18, tr.5]

Quan điểm thứ sáu cho rằng: “Quyền bào chữa là quyền của người bị bắt,

tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử dùng để bảo vệ trước các chủ

thể tiến hành tố tụng từ thời điểm bị buộc tội đến khi có quyết định của Cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc có tội hay không có tội.” [59, tr.7]

Quan điểm thứ bảy cho rằng: “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong

TTHS là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, BC thực hiện trên cơ sở phù hợp

với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình

sự trong VAHS hoặc để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”[60, tr.10]

8

Quan điểm thứ tám dựa trên cơ sở BLTTHS năm 2015 hiện hành thì không

chỉ có người bị tạm giữ, bị can, BC có quyền tự mình bào chữa và nhờ NBC mà còn

mở rộng quyền cho cả người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt.

Như vậy, khái niệm quyền bào chữa trong TTHS đã được hiểu rất khác nhau.

Tuy nhiên, nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, BC như quan điểm thứ

nhất, thứ hai và thứ năm thì rất hẹp, không đảm bảo được đầy đủ quyền TBC và

NBC cho người bị buộc tội trong thời gian họ bị bắt, bị tạm giữ.

Nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội,

người bị kết án, người bị hại,... như quan điểm thứ ba, thứ tư thì rất rộng và không

hợp lý, vì:

Thứ nhất, nội dung của quyền bào chữa là quyền chứng minh sự vô tội hoặc

phạm tội nhẹ hơn, do đó, quyền này chỉ thuộc về người bị buộc tội.

Thứ hai, người bị hại, nguyên đơn dân sự… là người bị thiệt hại về thể chất,

tinh thần hoặc vật chất, họ không bị Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng buộc

tội, do đó, quyền bào chữa không thuộc về họ. Họ chỉ có quyền khai báo những gì

họ biết về hành vi phạm tội (buộc tội) và chứng minh những thiệt hại liên quan đế

họ do hành vi phạm tội gây ra, vì vậy, quyền TBC và nhờ NBC luật TTHS không

đặt ra đối với các chủ thể này.

Thứ ba, người bị kết án là người đã được TA tuyên bố là có tội bằng bản án

đã có hiệu lực pháp luật. Tôi cho rằng, về cơ bản, quyền TBC và nhờ NBC thì luật

TTHS cũng không đặt ra đối với người bị kết án, trừ trường hợp đặc biệt và chỉ

trong trường hợp cần thiết khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xem

xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là

thủ tục đặc biệt, là thủ tục TA xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật chứ không phải là một cấp xét xử. Tuy nhiên, để bảo đảm cho HĐXX ra quyết

định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm một cách đúng đắn, khoản 2 Điều 383 BLTTHS

năm 2015 quy định “Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, TA phải triệu tập người bị kết án, NBC

… tham gia phiên tòa giám đốc thẩm”. Như vậy, ở thủ tục đặc biệt này, quyền TBC

9

và nhờ NBC của người bị kết án chỉ được đặt ra trong trường hợp cần thiết và nếu

họ được TA triệu tập.

Về nội dung của quyền TBC và nhờ NBC bao gồm cả việc bảo vệ các quyền

và lợi ích khác của đối tượng hưởng quyền không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ

sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ trong vụ án theo quan điểm thứ hai,

thứ sáu và thứ bảy là chưa phù hợp. Bởi với định hướng tôn trọng, bảo vệ quyền

con người của người bị buộc tội trong TTHS nên các hoạt động tố tụng luôn mang

những yếu tố bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nói chung cho người bị buộc tội.

Quy định quyền TBC và nhờ NBC cũng có ý nghĩa như vậy, việc quy định quyền

TBC, quyền nhờ NBC đã bao gồm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

người bị buộc tội nên việc giới hạn việc bảo đảm quyền và lợi ích khác không trực

tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là

không cần thiết.

Về thuật ngữ “quyền bào chữa” và thuật ngữ “quyền TBC và nhờ NBC”.

Quyền bào chữa vẫn thường được hiểu dưới hai khía cạnh là quyền TBC và quyền

nhờ NBC của chủ thể hưởng quyền. Về cơ bản có thể nhận định hai thuật trên tương

đương nhau, tuy nhiên chúng tôi cho rằng nên sử dụng thuật ngữ “quyền TBC và

nhờ NBC”. Thuật ngữ này cho thấy cái nhìn vừa khái quát vừa cụ thể hơn so với

thuật ngữ “quyền bào chữa”, nhấn mạnh tính chủ động của đối tượng hưởng quyền

bởi trước hết họ có quyền tự mình đưa ra các chứng cứ, chứng minh mình vô tội,

phản bác các lập luận buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cùng với đó họ có thể

nhờ người khác bào chữa cho mình theo qui định pháp luật. Quyền TBC và nhờ

NBC không phải hai quyền riêng biệt mà chúng có sự thống nhất, bổ sung cho nhau

nhằm mục đích chung là bào chữa để phản bác sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự. Bên cạnh đó quyền TBC và quyền nhờ NBC cũng có những điểm khác biệt

nhất định cần phân biệt để có thể áp dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn.

Như vậy, quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nói chung và bị cáo nói

riêng là các quyền mà pháp luật quy định cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm chứng minh sự vô

tội, bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

10

Có thể nhận thấy các nghiên cứu về quyền TBC và nhờ NBC chủ yếu theo

hướng khái quát về chủ thể, ví dụ như quyền bào chữa của người bị buộc tội; quyền

bào chữa của bị can, BC; quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, BC... Hoặc

các nghiên cứu theo hướng nguyên tắc quyền bào chữa, nguyên tắc suy đoán vô tội,

nguyên tắc tranh tụng... Như vậy, có thể nhận thấy rất ít các nghiên cứu về quyền

TBC và nhờ NBC theo làm rõ giá trị quyền con người mà chưa chú trọng đến

nghiên cứu qui phạm pháp luật về quyền TBC và nhờ NBC. Hoặc các nghiên cứu

dưới dạng tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, ví dụ từng chủ thể cụ thể

như người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can

hoặc BC trong khi việc nghiên cứu này có những ý nghĩa vô cùng quan trọng đối

với mỗi thời điểm, giai đoạn giải quyết VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC là vô cùng

cần thiết khi BC bước vào giai đoạn xét xử VAHS, việc đưa ra lời khai, chứng cứ,

chứng minh sự vô tội, phản bác lại các lập luật buộc tội của bên buộc tội trước

HĐXX... giúp BC có thể tránh phải chịu tội oan, sai.

Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân đã bị TA có quyết định đưa ra xét xử. Sau

khi nhận hồ sơ và quyết định truy tố (bản Cáo trạng) của Cơ quan công tố, TA xem

xét thấy rằng đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra

bổ sung, không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án thì TA ra quyết định đưa vụ

án ra xét xử. Từ thời điểm này bị can trở thành BC trong TTHS. Về bản chất người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC là một

người nhưng ở mỗi thời điểm, giai đoạn tố tụng khác nhau mà có tên gọi khác nhau.

Có thể thấy bị cáo gắn với giai đoạn xét xử VAHS, giai đoạn vô cùng quan trọng với

hoạt động tranh tụng tại phiên tòa và hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của TA

trong việc giải quyết VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC trong giai đoạn này có ảnh

hưởng và ý nghĩa to lớn trong việc bác bỏ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng có thẩm quyền, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính BC.

Đặc điểm để phân biệt quyền bào chữa của bị cáo khác với quyền bào chữa

của người bị buộc tội, quyền bào chữa của bị can. Theo đó bị cáo là cá nhân hoặc

pháp nhân đã bị TA có quyết định đưa ra xét xử. Sau khi nhận hồ sơ và quyết định

truy tố (bản Cáo trạng) của Cơ quan công tố, TA xem xét thấy rằng đủ điều kiện

11

đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không có căn cứ

tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án thì TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm

này bị can trở thành BC trong TTHS. Về bản chất người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC là một người nhưng ở mỗi thời

điểm, giai đoạn tố tụng khác nhau mà có tên gọi khác nhau. Có thể thấy bị cáo gắn

với giai đoạn xét xử VAHS, giai đoạn vô cùng quan trọng với hoạt động tranh tụng

tại phiên tòa và hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của TA trong việc giải quyết

VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC trong giai đoạn này có ảnh hưởng và ý nghĩa to

lớn trong việc bác bỏ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

thẩm quyền, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính BC.

Có thể đưa ra khái niệm quyền TBC và nhờ NBC của BC như sau: Quyền tự

bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo là các quyền mà pháp luật quy định bị

cáo có thể sử dụng trong giai đoạn xét xử nhằm chứng minh sự vô tội, bác bỏ một

phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1.1.2 Ý nghĩa của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

Quyền TBC và nhờ NBC của Bị cáo trong TTHS có một số ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất, việc quy định quyền TBC và nhờ NBC thể hiện sự tôn trọng, công

nhận quyền con người cơ bản, đảm bảo nhân quyền cho người bị buộc tội nói chung

và BC nói riêng. Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia

trên thế giới. Vấn đề lợi dụng dân chủ, nhân quyền nhằm chống phá, gây chia rẽ,

mất đoàn kết nội bộ của một quốc gia là không thể chấp nhận. Theo tinh thần của

Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các

quyền con người cơ bản theo Hiến pháp và pháp luật đồng thời quy định quyền con

người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường

hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức

xã hội, sức khỏe cộng đồng.

Thứ hai, việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền TBC và nhờ

NBC của bị cáo thể hiện tính nhân đạo Xã hội chủ nghĩa trong TTHS. Cơ quan,

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện và không được

hạn chế quyền TBC và nhờ NBC của chủ thể hưởng quyền. Ngoài ra trong trường

12

hợp nhất định như không có khả năng TBC, người dưới 18 tuổi, người bị xét xử về

tội phạm có mức hình phạt cao... thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ

định NBC cho người bị buộc tội.

Thứ ba, bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC thể hiện tính dân chủ xã hội chủ

nghĩa trong TTHS. Xuyên suốt quá trình từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, quyền

TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội được bảo đảm. Người bị buộc tội, NBC cho

người bị buộc tội có các quyền cơ bản như thu thập chứng cứ, trình bày quan điểm,

ý kiến, tranh luận... Đặc biệt tại phiên tòa công khai, bình đẳng, tranh tụng, có đầy

đủ các bên tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng thì BC và NBC của BC càng có

điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền của mình.

Thứ tư, bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC của người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC góp phần tích cực vào việc bảo

vệ pháp luật, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống

tư pháp. Ngoài ra việc bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC còn góp phần vào việc xác

định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong quá trình tố tụng không để lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật

1.2 Lịch sử hình thành và phát triển về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.1 Quyền bào chữa của bị cáo từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến

trước khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành.

Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ được thành lập,

nhiệm vụ chính của thời kỳ này là chống thù trong giặc ngoài, xây dựng Chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,

đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Về quyền TBC và nhờ

NBC chưa được quan tâm đúng mức, kể cả từ phía bản thân người bị buộc tội, của

BC nói riêng lẫn từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời nghề

bào chữa cũng chưa phát triển, số lượng LS từ thời Pháp thuộc là rất hạn chế và ít

được sử dụng.

13

Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng việc đảm bảo quyền bào chữa trong

TTHS vẫn được phát triển theo hướng dân chủ. Quyền bào chữa của BC đã ngày

càng hoàn thiện, đảm bảo được tính nhân đạo của pháp luật nước ta.

Vụ án Tạ Đình Đề là một trong những vụ án điển hình về thực trạng áp dụng

quyền nhờ người bào chữa trong giai đoạn này khi ông là người 2 lần vướng vào

vòng lao lý. Quá trình giải quyết vụ án đã để lại nhiều bài học sâu sắc cho nền tư

pháp nước ta, đặc biệt là ở vụ án thứ nhất. Trong vụ án này, Tạ Đình Đề phạm vào

tội cố ý làm trái chế độ và tội hối lộ. Tại Cơ quan điều tra, định kiến trong khi điều

tra là một phần lý do dẫn đến oan trái cho ông. Nội dung vụ việc là: Trước tình hình

nhiều công nhân trong đơn vị không mặn mà với công việc được giao khiến năng

suất lao động và chất lượng sản phẩm rất thấp. Sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ,

ông Đề đã đưa ra sáng kiến áp dụng hình thức khoán sản phẩm, khoán công việc

đến từng tổ sản xuất, từng người công nhân và được công nhân viên nhất trí. Sau

đó, ông Đề chi thưởng cho người nào có sáng kiến, cải tiến, chi mua kỹ thuật, chi

tiếp khách, chi bồi dưỡng và chi thưởng cho mỗi cán bộ, công nhân viên của xưởng

dụng cụ cao su, mỗi người 1/2 tháng lương hết 10.000 đồng. Ông nói về việc mình

từng khai nhận: “tôi không chuẩn bị gì đâu. Sự thật diễn ra trong thực tế ra sao thì

khai báo đúng thế”. Thế nhưng tại Cơ quan điều tra, mỗi lần ông Đề đưa ra các

chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình thì sự buộc tội của Cơ quan điều tra lại

càng gay gắt hơn. Khi vụ án chuyển sang cơ quan truy tố, Tạ Đình Đề đặt niềm tin

rất lớn vào cơ quan giám sát pháp luật, thành khẩn khai báo. Tuy nhiên, khi đọc bản

cáo trạng, ông Đề đã bị choáng váng về những quy kết mà ông cho là suy diễn. Cơ

quan truy tố quyết định việc Tạ Đình Đề bị đưa ra TA sơ thẩm với bản cáo trạng:

“thấy việc gì có lợi cho đơn vị mình phụ trách thì bất kể là móc ngoặc, xin nhượng,

mua bán đổi chác…là tiến hành. Thấy mặt hàng gì có khả năng tổ chức sản xuất thì

tung tiền ra mua kỹ thuật về sản xuất”. Theo quy định của pháp luật, “Cán bộ tư

pháp phải tự kiểm nghiệm, đảm bảo cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải công

khai, minh bạch, dân chủ, công tâm, khách quan; vừa đấu tranh kiên quyết, kịp thời

với các loại tội phạm, vừa không được làm oan cho bất cứ người nào, thực hiện có

hiệu quả Chiến lược Cải cách tư pháp trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp

14

quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy nhiên, trong vụ án này, hồ sơ vụ án được

xây dựng không khách quan, cố tình suy diễn theo chiều hướng buộc tội nhưng

chẳng những không được Cơ quan truy tố phát hiện, khắc phục mà họ còn đồng tình

rất cao với Cơ quan điều tra.

Mặc dù ở giai đoạn điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra và truy tố có sự định

kiến với hành vi của Tạ Đình Đề, quyền TBC trong giai đoạn này của ông không

được đảm bảo nhưng tại phiên tòa xét xử BC Tạ Đình Đề, TP Phùng Lê Trân đã thể

hiện thái độ độc lập trong xét xử của TA. HĐXX đã phân tích dựa trên các chứng cứ

tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai tại phiên tòa của BC, quá trình tranh luận của

LS Hoàng Thế Kế với KSV để đưa ra kết luận. LS Hoàng Thế Kế tranh luận: “Qua

nghiên cứu các số liệu mà cáo trạng nêu ra để quy kết tội cho các BC, trong đó có

nhiều khoản chi liên quan đến công tác xây dựng cơ bản. Nhưng các vấn đề liên quan

đến công tác xây dựng cơ bản đã được Cơ quan điều tra tách ra vụ án khác. Do vậy,

VKS dùng số liệu ấy để quy kết cho Tạ Đình Đề và các BC là chưa có cơ sở”. LS tiếp

tục bào chữa cho BC Tạ Đình Đề bằng việc chỉ ra những lý lẽ không có căn cứ của

KSV: “Các số liệu về chi sai nguyên tắc chế độ mà cáo trạng quy kết là dựa vào bản

báo cáo của Đoàn Thanh liên bộ. Nhưng nghiên cứu kỹ báo cáo đó cho thấy không

rõ do ai lập, ai là trưởng đoàn? Do vậy, nó không có giá trị pháp lý. Vì vậy, những số

liệu mà VKS lấy đó làm căn cứ quy kết cho các BC cũng không có cơ sở pháp lý…”.

Về hành vi tham ô của Tạ Đình Đề, LS bào chữa cho rằng: “Số tiền 4.800 đồng

không phải chi cho các cá nhân mà căn cứ vào các chứng từ chi khẳng định số tiền

đó đã được chi cho công tác quản lý, khen thưởng trong 4 năm hoạt động của Ban

Thể dục thể thao”. Như vậy, BC Tạ Đình Đề không phạm tội tham ô như cáo trạng

quy kết. Về thiệt hại do hành vi cố ý làm trái gây ra, LS cho rằng: “Thiệt hại là dấu

hiệu bắt buộc của loại tội này. Nhưng hồ sơ chưa thể hiện rõ thiệt hại vật chất là bao

nhiêu. Bản cáo trạng chỉ nêu chung chung về thiệt hại, là không có căn cứ kết luận

thiệt hại do hành vi phạm tội cố ý làm trái gây ra”. [54, tr.151 -153]

Sau khi nghe lời bào chữa của LS cũng như sự đối đáp, tranh luận của KSV,

TP Phùng Lê Trân đã phân tích sâu sắc và lần lượt bác bỏ thẳng thừng các lập luận

của cáo trạng đã quy kết cho Tạ Đình Đề. Bà phân tích, báo cáo của Đoàn thanh tra

15

liên bộ chưa có căn cứ để tin. Xét về nguyên tắc thì không có quyết định thành lập

Đoàn thanh tra liên bộ. Báo cáo thanh tra không có ngày tháng, không ghi những ai,

tên gì, của cơ quan nào được cử tham gia đoàn thanh tra, không có tên Trưởng

đoàn, đoàn gồm có mấy nguời…nên không thể xem đây là văn bản có giá trị pháp

lý. Hơn nữa, trong Công văn số 72 ngày 04/12/1974 của Bộ trưởng Bộ Giao thông

vận tải cũng đã khẳng định có những việc liên quan đến Tổng Cục Đường sắt và Bộ

có trách nhiệm, không phải Giám đốc xưởng tự ý làm. Điều đó cũng đã chỉ ra

những khuất tất lạ lùng trong việc bắt giam ông Đề và chứng minh những việc ông

Đề làm là có chỉ đạo từ cấp trên. Có thể nói, phiên tòa xét xử lần thứ nhất do TP

Phùng Lê Trân chủ tọa là biểu tượng của văn minh tư pháp. Phiên tòa đã xảy ra

cách đây nửa thế kỉ nhưng sự thể hiện các nguyên tắc về tranh tụng, nguyên tắc suy

đoán vô tội, về sự độc lập của TP và đặc biệt là nguyên tắc quyền bào chữa vẫn là

sự mẫu mực cho đến ngày nay.

1.2.2 Quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong BLTTHS năm 1988

Ở giai đoạn này, quyền bào chữa của BC không chỉ được ghi nhận trong

BLTTHS mà còn được bảo đảm bằng nhiều điều khoản ở các văn bản quy phạm

pháp luật khác, như Luật tổ chức TA nhân dân năm 1992, Pháp lệnh tổ chức điều

tra hình sự năm 1989, Pháp lệnh về tổ chức Đoàn LS năm 1987.

Thực trạng tư pháp lúc bấy giờ cho thấy, có những người đã bị kết án oan mà

một trong số các nguyên nhân có sự không bảo đảm quyền tự bào chữa và nhờ

người bào chữa cho họ. Điển hình là vụ án Huỳnh Văn Nén ở tình Bình Thuận. Ông

Huỳnh Văn Nén bị kết án về tội giết người và cướp tài sản. Mặc dù phải chấp hành

hình phạt tù nhưng bị án này và người thân vẫn không ngừng kêu oan. Ông

Nén được xác định là người bị các cơ quan tố tụng của tỉnh Bình Thuận tuyên án

oan trong hai vụ án giết người. Đó là mức án 5 năm tù cho tội không tố giác tội

phạm trong vụ án giết bà Dương Thị Mỹ (vụ án Vườn điều) và mức chung thân cho

vụ án giết bà Lê Thị Bông. Qua đấu tranh truy xét, cơ quan tố tụng xác định ông

Nén là hung thủ duy nhất giết bà Lê Thị Bông, một người cùng xã với ông. Tại

phiên tòa sơ thẩm, ông Huỳnh Văn Nén nhận tội, nhưng đến phiên phúc thẩm ông

phản cung, nói toàn bộ lời khai của mình trước đây là do bị bức cung, nhục hình

16

nên phải nhận tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nén đã cởi áo của mình cho HĐXX

và những người tham dự phiên tòa xem. Tuy nhiên, những lời tố cáo của ông không

được HĐXX chấp nhận, do đó, bản án chung thân là bản án có hiệu lực mà ông Nén

phải thi hành. Như vậy, có thể thấy tại phiên tòa phúc thẩm, quyền TBC của BC

Huỳnh Văn Nén đã không được đảm bảo. HĐXX đã không chú ý đến lời phản cung

của BC mà đã bỏ qua, tiếp tục kết án chung thân đối với Huỳnh Văn Nén. Khi BC

kêu oan, HĐXX phúc thẩm phải lật lại các chứng cứ, quá trình điều tra để làm rõ

những lời BC kêu oan, đảm bảo tính khách quan, công bằng cũng như bảo đảm

quyền bào chữa của BC. Chính sự chủ quan của các CQTHTT trong suốt quá trình

giải quyết vụ án đã dẫn đến việc oan sai cho BC Huỳnh Văn Nén. Tháng 10/2014,

quyết định giám đốc thẩm của Tòa hình sự TA nhân dân tối cao hủy bản án chung

thân của Huỳnh Văn Nén, giao cơ quan điều tra điều tra lại. Sau nhiều nỗ lực của

các cá nhân, LS và Đại biểu Quốc hội, ông Nén đã được đình chỉ điều tra. Sau

hai lần gia hạn điều tra, ngày 22/10/2015 ông Huỳnh Văn Nén được tại ngoại để

chữa bệnh. Ngày 28/11/2015, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Thuận trao quyết

định đình chỉ điều tra bị can đối với ông Huỳnh Văn Nén, chấm dứt 17 năm 5 tháng

ngồi tù oan của ông cho cả hai vụ án trên.Tuy nhiên, sau hơn 17 năm ở tù, ông Nén

được trở về nhà với thân thể nhiều bệnh tật, tinh thần không tốt.

Có thể thấy, ở giai đoạn này, quyền bào chữa của BC vẫn chưa được đảm

bảo, vẫn còn bị xâm phạm bằng các hình thức mớm cung, bức cung hay không công

nhận bằng chứng mà bên gỡ tội đưa ra, không xem xét quan điểm phúc cung, bào

chữa của BC. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết vụ án, dẫn

đến những sai lầm đáng tiếc liên tiếp xảy ra.

1.2.3 Quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong BLTTHS năm 2003

Tới BLTTHS năm 2003, các quy định pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa

có nhiều thay đổi, trong đó đáng chú ý nhất là diện đối tượng được bảo đảm quyền

bào chữa trong TTHS đã được mở rộng. Theo thống kê của Bộ tư pháp về TGPL thì

“sau hai năm thực hiện Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, đến

nay 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã thành lập các Trung tâm TGPL. Các trung

tâm đã thực hiện hơn 230 nghìn vụ việc, trong đó TGPL cho người nghèo, đồng bào

17

dân tộc thiểu số với khoảng 150 nghìn vụ việc, chiếm 55% tổng số vụ.” [28] Trong

thời kỳ này, mặc dù số lượng LS đã tăng lên đáng kể, tuy nhiên so với số dân vẫn

chiếm tỷ lệ rất thấp. Cả nước năm 2014 “có 8.675 LS và gần 500 TGVPL, đặc biệt

số VAHS có NBC ở nước ta mới khoảng 20% (gồm cả LS tham gia theo diện chỉ

định), 80% các VAHS còn lại BC “trắng” NBC. Tỷ lệ LS nước ta cũng mới ở mức

trung bình là 1 LS/14.000 người dân, trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1.526,

Singapore là 1/1.000, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250.”[5]. Chính vì vậy, quyền TBC

và nhờ NBC của BC nói riêng và người bị buộc tội nói chung vẫn chưa thể được

đảm bảo tốt nhất. Khi nói đến NBC, người dân thường chỉ nghĩ đến LS, trong khi

những người hỗ trợ pháp lý khác lại là nguồn dồi dào ở các địa phương như

BCVND, TGVPL. Thế nhưng còn rất nhiều người dân chưa biết đến những người

này để nhờ bào chữa. Do vậy, vai trò của BCVND, TGVPL khá mờ nhạt trong công

tác thực hiện việc bào chữa cho bị cáo.

Trong giai BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành, qua phân tích các vụ án,

có thể thấy quyền TBC và nhờ người khác bào chữa ở một khía cạnh nào đó vẫn

chưa thực sự được tôn trọng và bảo đảm. Việc các CQTHTT liên tục gây khó khăn

cho quá trình bào chữa của BC còn xảy ra ở khá nhiều nơi, đặc biệt là vấn đề về

trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC và vấn đề công nhận giá trị của tài liệu

chứng cứ mà bên gỡ tội đưa ra.

Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang là một trong những vụ án điển

hình mà ở đó nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của BC bị vi phạm nghiêm trọng.

Vào tháng 8/2003, một phụ nữ 31 tuổi ở xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, Bắc

Giang chết với nhiều vết đâm chém trên người. Cơ quan điều tra xác định nạn nhân

bị giết. Sau đó ông Chấn bị khởi tố về tội Giết người. Tháng 3 năm 2004, TA nhân

dân tỉnh Bắc Giang tuyên án tù chung thân với ông Chấn. Tham gia bào chữa cho

ông Nguyễn Thanh Chấn tại phiên tòa phúc thẩm ngày 27/7/2004, ngoài LS Nguyễn

Đức Biền (Đoàn LS tỉnh Bắc Giang) còn có LS Bùi Văn Thấm (Đoàn LS Hà Nội).

Để bào chữa cho BC Nguyễn Thanh Chấn, tại phiên tòa, LS Bùi Văn Thấm đã trình

bày những căn cứ mà án sơ thẩm đã kết tội BC cần được xem xét lại như thời gian

chị Hoan bị giết ông Chấn đang ở quán bán hàng, lời kêu oan của BC tại phiên tòa,

18

biên bản khám nghiệm hiện trường, hung khí gây án và đặc biệt là phản bác lại án

sơ thẩm. Án sơ thẩm nêu: BC không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh

cho hành vi không phạm tội của mình, lời nại của BC tại phiên tòa chỉ nhằm trốn

tránh trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên lý do trên là không đúng vì Điều 63 BLTTHS

quy định: Khi điều tra, truy tố và xét xử VAHS, cơ quan điều tra, VKS và TA phải

chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không và ai là người phạm tội... Do đó,

nghĩa vụ chứng minh không thuộc về BC mà trách nhiệm của các CQTHTT. Như

vậy, có thể thấy LS bào chữa cho BC Nguyễn Thanh Chấn đã đưa ra những lý lẽ

trên cơ sở các tình tiết và chứng cứ của vụ án để cho HĐXX phúc thẩm thấy những

căn cứ để kết tội BC ở TA cấp sơ thẩm là chưa vững chắc và chưa có cơ sở thuyết

phục. LS cũng yêu cầu HĐXX cấp phúc thẩm xem xét lời kêu oan của BC cùng với

những tình tiết còn chưa rõ ràng trong vụ án để đưa ra quyết định có căn cứ và

chính xác. Tuy nhiên, TA cấp sơ thẩm đã không chấp nhận lời bào chữa của LS

cũng như lời kêu oan của BC, không xem xét lại các tình tiết mà LS đã nêu mà dựa

vào biên bản nhận tội của ông tại cơ quan điều tra để bác đơn kháng cáo của BC,

tuyên y án sơ thẩm. Có thể thấy ở cả hai lần xét xử, các CQTHTT đều không bảo

đảm quyền bào chữa của BC, không chú ý xem xét toàn diện những vấn đề còn mẫu

thuẫn, chưa rõ ràng, mà chỉ đánh giá phiến diện từ một phía. Các CQTHTT gây khó

dễ, các tài liệu chứng cứ mà bên phía BC đưa ra bị xem nhẹ, và gần như là không có

giá trị. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ oan sai trong thời kỳ này.

BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 đã có nhiều sự thay đổi

phù hợp với quá trình cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. Quyền TBC và nhờ

NBC của BC ngày càng được bảo đảm. Trong các vụ án gần đây như vụ án Trịnh

Xuân Thanh, Đinh La Thăng... quyền bào chữa và việc sử dụng quyền bào chữa của

BC đã phát huy tác dụng, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của BC.

Cho đến thời điểm hiện nay, tổ chức Đoàn LS đã được thành lập ở tất cả các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để phục vụ cho công tác bào chữa. BCVND

ngày càng được chú trọng và phát triển. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo luật cũng

ngày càng được quan tâm, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân

lực có chất lượng cao, có tính chuyên môn về pháp luật, góp phần nâng cao chất

19

lượng NBC, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đặc biệt là việc thành lập Đại

học Kiểm sát Hà Nội, Học viện Tòa án cũng như phát triển các cơ sở đào tạo luật có

truyền thống trên khắp cả nước như Học viện tư pháp, Đại học Luật Hà Nội, Khoa

luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh...

Trong thực tiễn, việc áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào

chữa của BC đã được các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quan tâm và thực

hiện ngày càng tốt hơn, thể hiện tinh thần và trách nhiệm trong hoạt động tố tụng. Để

đạt được kết quả đó, một phần là do những quy định về quyền bào chữa trong TTHS đã

và đang dần có sửa đổi, bổ sung tương đối rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tiễn. Cũng

vì thế mà việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được dân chủ, khách quan, công bằng,

đúng người và đúng tội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, thực tiễn áp dụng pháp

luật về việc bảo đảm quyền bào chữa của BC vẫn còn một số bất cập, hạn chế cần được

sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế, bảo đảm tốt nhất quyền TBC và quyền nhờ NBC

của BC.

1.3 Quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc

gia trên thế giới

1.3.1. Trong luật tố tụng hình sự Trung Quốc

BLTTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không đề cập rõ tên các

nguyên tắc như BLTTHS Việt Nam. Tuy nhiên tại Điều 11 quy định: “Trừ khi Luật

này có quy định khác, TA nhân dân phải tiến hành xét xử công khai các vụ án. BC

có quyền bào chữa, và TA nhân dân phải có trách nhiệm đảm bảo cho BC thực hiện

quyền bào chữa của mình.” Cho thấy, quyền bào chữa của BC được luật TTHS

Trung Quốc coi là một nguyên tắc cơ bản.

Cụ thể tại Điều 32 quy định cụ thể: “Ngoài quyền TBC, nghị can hoặc BC có

thể chọn một hoặc hai người khác làm NBC. Những người sau đây có thể được

chọn là NBC: 1) LS; 2) Người do tổ chức hoặc đơn vị công tác của nghi can hoặc

BC đề nghị; 3) Người giám hộ hoặc họ hàng và bạn bè của nghi can, BC.” Luật

TTHS Trung Quốc giới hạn nghi can và BC được chọn “một hoặc hai người khác

làm NBC”. Đáng lưu ý tại Điều 39 còn quy định: “Trong quá trình xét xử, BC có

thể từ chối NBC tiếp tục bào chữa cho mình và có thể chỉ định NBC khác.”

20

1.3.2. Trong luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga

Điều 16 BLTTHS Liên Bang Nga quy định: “Người bị tình nghi và bị can

được đảm bảo quyền bào chữa thông qua việc tự mình bào chữa hoặc nhờ sự giúp

đỡ của NBC, người đại diện hợp pháp. TA, VKS, Dự thẩm viên và Điều tra viên giải

thích cho người bị tình nghi và bị can về quyền của họ và bảo đảm cho họ khả năng

được bào chữa bằng tất cả phương pháp và biện pháp mà BLTTHS không cấm.

Trong một số trường hợp, người bị tình nghi và nghi can có nhận được sự giúp đỡ

miễn phí của NBC”. [57, tr.29]

1.3.3. Trong luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là quốc gia áp dụng án lệ, đất nước tồn tại song song hai hệ thống

pháp luật liên bang và pháp luật các bang. Bởi vậy mà quy định về quyền TBC và

nhờ NBC cũng rất đa dạng và được rút ra từ các bản án lệ cụ thể. Tu chính pháp thứ

VI được cơ quan lập pháp Hoa Kỳ thông qua ngày 15/12/1791 nêu: “Trong mọi

truờng hợp truy tố hình sự, BC có quyền được xét xử một cách nhanh chóng và

công khai bởi một bồi thẩm đoàn không thiên vị của bang hoặc khu vực nơi tội

phạm đã xảy ra, bang và khu vực này trước đó đã được pháp luật xác định là có

thẩm quyền, và BC phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội; phải được

đối chất với những nhân chứng chống lại mình; được quyền triệu tập những nhân

chứng có lợi cho mình, và có sự giúp đỡ của LS bào chữa” [12]. Đây là quy định

nền tảng, các bộ luật cơ bản và đạo luật liên bang về TTHS Hoa Kỳ đã cụ thể hóa

các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết VAHS. Bên cạnh

đó nguyên tắc tố tụng công bằng cũng được dẫn chiếu trong nhiều án lệ nhằm đảm

bảo tốt nhất quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Như vậy, những bảo đảm về

quyền bào chữa nói chung của người bị buộc tội dù theo tinh thần Tu chính pháp

thứ VI hay nguyên tắc tố tụng công bằng đều được cụ thể hóa trong những án lệ của

Tòa tối cao Mỹ. Xem vụ Herring v. New York, 422 U.S. 853, 862 (1975), Tòa tối

cao Mỹ đã bình luận như sau: “Một trong những cơ sở nền tảng trong hệ thống

TTHS tranh tụng của chúng ta đó là sự xem xét công bằng, khách quan những

chứng cứ của các bên trong vụ án nhằm mục đích người phạm tội phải gánh chịu

trách nhiệm hình sự, và người vô tội phải được tự do. Việc tranh tụng nếu thiếu

21

vắng vai trò của NBC sẽ làm giảm đi giá trị vốn có của chức năng bào chữa trong

TTHS tranh tụng” [61]. Các bản án lệ cũng khẳng định quyền bào chữa, quyền

được chỉ định NBC khi người bị buộc tội ở trong các “hoàn cảnh đặc biệt” [62]

như người bị buộc tội là người chưa thành niên, bị buộc tội với mức án tới chung

thân... hay việc không được phép từ chối NBC chỉ định khi người bị buộc tội đang ở

trạng thái không đảm bảo về tâm lý và tinh thần. Ngoài ra đáng chú ý trong vụ

Strickland v. Washington, 466 U.S. 668, 686 (1984): “Bào chữa không hiệu quả

phải được xác định thông qua những hoạt động yếu kém của NBC trong việc thực

hiện chức năng bào chữa trong quá trình tố tụng đối tụng khiến TA không thể dựa

vào đó để đưa ra một phán quyết đúng đắn” [64].

* Một số đánh giá, kinh nghiệm rút ra từ các quy định về quyền tự bào

chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo trong luật tố tụng hình sự các nước

nêu trên

Một là, về cơ bản các quốc gia đều tôn trọng và quy định quyền TBC và nhờ

NBC của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Thể hiện sự thống nhất, đảm

bảo các quy định của pháp luật quốc tế về quyền bào chữa cho người bị buộc tội.

Theo pháp luật quốc tế quyền bào chữa là một quyền được xét xử đúng đắn có tính

chất quan trọng được luật pháp nhân quyền quốc tế và tập quán quốc tế bảo vệ.

Quyền bào chữa là một phần trong chuẩn mực jus cogens của quyền được xét xử

công bằng [11, tr14]. Dù các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng, thẩm vấn

hay hỗn hợp giữa tranh tụng và thẩm vấn đều hướng tới sự đảm bảo xét xử công

bằng. Việc đảm bảo và mở rộng quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội nói

chung và BC nói riêng trong TTHS là xu thế tất yếu nhằm đảm bảo tối đa sự công

bằng, bình đẳng trong giải quyết các VAHS, đi đến cùng sự thật vụ án và đảm bảo

các quyền và lợi ích chính đáng người bị buộc tội.

Hai là, đối với các trường hợp không thể tự mình bào chữa do hoàn cảnh đặc

biệt, người chưa thành niên phạm tội, người bị buộc tội với các tội có mức án cao

như chung thân, tử hình đều được xem xét chỉ định NBC. Tuy nhiên các quốc gia

cũng chưa có quy định cụ thể về việc người bị buộc tội có quyền từ chối việc chỉ

định NBC, từ chối việc bào chữa của NBC chỉ định tại phiên tòa. Luật TTHS Trung

22

Quốc quy định: “Trong quá trình xét xử, BC có thể từ chối NBC tiếp tục bào chữa

cho mình và có thể chỉ định NBC khác.” Điều đó cho thấy, việc quy định về vấn đề

này là cần thiết bởi quyền TBC và nhờ NBC là quyền của người bị buộc tội. Mặc dù

vậy thì việc từ chối NBC chỉ định của người chưa thành niên, người hạn chế trong

khả năng nhận thức làm chủ hành vi, bị bệnh không tỉnh táo về tâm lý và tinh thần

cần được xem xét thấu đáo để đảm bào quyền và lợi ích chính đáng cho họ.

Ba là, về giới hạn số người tham gia bào chữa. Người bị buộc tội nói chung và

BC nói riêng đều được nhìn nhận có quyền TBC và nhờ NBC. Các quốc gia thường

tôn trọng tối đa quyền này dưới góc nhìn có lợi cho các chủ thể trên mà không giới hạn

số lượng NBC. Đáng lưu ý Luật TTHS Trung Quốc và Đức giới hạn số lượng người

tham gia bào chữa cho BC. KSV (Công tố viên) tham gia phiên tòa thường được giới

hạn số lượng, nhưng đội ngũ LS và NBC cho người bị buộc tội là không có giới hạn.

Như vậy có dẫn tới làm giảm chất lượng tranh tụng không? Chúng tôi cho rằng việc

giới hạn số lượng NBC cho BC như pháp luật TTHS Trung Quốc và Đức là không cần

thiết. Bởi lẽ quyền nhờ NBC của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng là rất

quan trọng. Tranh tụng không thể bị ảnh hưởng bởi số lượng NBC, vì bên buộc tội có

cả một quá trình điều tra, truy tố với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, là người đại

diện nhà nước, đại diện cho công quyền nên việc người bị buộc tội nói chung và BC

nói riêng nhờ nhiều NBC là hoàn toàn bình thường và hoàn toàn do quyền tự định đoạt

của chủ thể hưởng quyền. Chất lượng tranh tụng tốt hay không là các bên có thiện chí

đi đến cùng sự thật của vụ án hay không, bên buộc tội và bên gỡ tội có tranh tụng dựa

trên các lý lẽ, chứng cứ, lập luận thuyết phục hay không... chứ không phụ thuộc vào số

lượng người buộc tội và NBC.

Bốn là, cơ chế, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo

đảm quyền bào chữa. Luật TTHS Trung Quốc cho rằng TA nhân dân phải có trách

nhiệm bảo đảm quyền bào chữa cho BC. Luật TTHS Liên Bang Nga quy định trách

nhiệm này cho cả VKS, Điều tra viên và Dự thẩm viên... Việc quy định trách nhiệm

bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC là cần thiết và tất yếu bởi lẽ:

23

Thứ nhất, địa vị pháp lý của các bên buộc tội và gỡ tội là khác nhau. Bên

buộc tội có thể dựa vào quyền lực của Nhà nước trao cho họ mà gây áp lực, khó

khăn hoặc hạn chế quyền bào chữa của bên bị buộc tội;

Thứ hai, ngoài việc qui định quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội

thì pháp luật cũng cần qui định cơ chế, đặc biệt là trách nhiệm của các cơ quan,

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền này của người bị

buộc tội được thực thi trên thực tế. Nếu pháp luật không định ra cơ chế rõ ràng thì

quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong các văn bản pháp luật

chỉ “rung động trong không khí” mà thôi.

Năm là, năng lực bào chữa của người được nhờ tham gia bào chữa. Về vấn

đề này trong trường hợp người bị buộc tội tự mời NBC thì đây là việc thỏa thuận

của các bên. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền chỉ định NBC cho người bị

buộc tội, hoặc từ chối việc yêu cầu thay đổi NBC của người bị buộc tội thì năng lực

bào chữa của NBC cho họ trong vụ án cụ thể đó cần được đánh giá. Pháp luật

TTHS Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện “yếu kém” hoạt động bào chữa tại phiên tòa

của NBC khiến TA “không thể dựa vào đó để đưa ra một phán quyết đúng đắn”.

Tuy nhiên để chất lượng bào chữa được hiệu quả, thì việc nâng cao chất lượng NBC

phải được chú trọng từ khi đào tạo, giáo dục con người hoặc cơ quan có thẩm quyền

khi chỉ định NBC cho người bị buộc tội phải đảm bảo năng lực của người được chỉ

định (ví dụ đã từng bào chữa trong các vụ án có cùng tội danh).

Như vậy, có thể thấy, tuy mỗi quốc gia, mỗi mô hình tố tụng khác nhau có

các quy định khác nhau về phạm vi, chủ thể, mức độ hưởng quyền TBC và quyền

nhờ NBC nhưng đều hướng tới một mục đích là làm sao để bảo đảm quyền TBC và

nhờ NBC của người bị buộc tội, của bị cáo được thực hiện một cách tốt nhất nhằm

giúp Tòa án ra bản án công bằng, khách quan, dân chủ, đúng người, đúng tội.

Những quy định đó là những bài học quý báu cho Việt Nam trong quá trình xây

dựng, sửa đổi, bổ sung và áp dụng pháp luật tố tụng về quyền TBC và nhờ NBC của

người bị buộc tội, của BC nhằm phát huy các ý nghĩa tích cực của quyền này trong

thực tiễn TTHS, hướng tới bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng cho chủ thể

hưởng quyền cũng như xây dựng một nền tư pháp mạnh mẽ, hội nhập quốc tế.

24

Tiểu kết chương 1

Quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự là các quyền mà pháp luật

quy định bị cáo có thể sử dụng trong giai đoạn xét xử nhằm chứng minh sự vô tội,

bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Lịch sử

hình thành và phát triển. Quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, được hướng dẫn bởi các sắc lệnh và các

thông tư liên ngành. Các văn bản này quy định cụ thể từng nội dung quyền bào

chữa qua đó là nền tảng lý luận cơ bản và quan trọng để hoàn thiện quyền bào chữa

của bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Thông qua hoạt động nghiên cứu

về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở các nước trên thế

giới đã chỉ ra được những “hạt nhân hợp lý” trong xây dựng và tổ chức thực hiện

chế định này ở các nước thuộc truyền thống pháp luật khác nhau. Qua đó tiếp thu

những “hạt nhân hợp lý” đó để hoàn thiện quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ luật

tố tụng hình sự nước ta.

25

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY

ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ

TỤNG HÌNH SỰ NHÌN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về

quyền bào chữa của bị cáo

Thay thế BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được những

hạn chế nêu trên đồng thời có nhiều điểm mới phù hợp với quá trình cải cách tư

pháp, hội nhập quốc tế của đất nước, đặc biệt là các chế định về quyền TBC và nhờ

NBC của BC.

Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm

giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền TBC, nhờ LS hoặc người khác bào

chữa”. Đồng thời tại Chương VIII, Hiến pháp năm 2013 về TA nhân dân, VKS

nhân dân quy định: “Quyền bào chữa của bị can, BC, quyền bảo vệ lợi ích hợp

pháp của đương sự được bảo đảm” (khoản 7 Điều 103). So với các bản Hiến pháp

trước, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa

không chỉ là bị can, BC, mà còn bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ. Đồng thời,

không chỉ quy định vấn đề này ở Chương TA nhân dân và VKS nhân dân, mà còn

được bổ sung và đặt trong Chương quyền con người, quyền công dân nhằm khẳng

định quyền bào chữa là một trong những quyền con người, quyền công dân quan

trọng nhất của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm

quyển bào chữa của người bị buộc tội. Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định:

“Người bị buộc tội có quyền TBC, nhờ LS hoặc người khác bào chữa. Cơ quan,

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo

đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa,

quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, so với

BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng được bào chữa.

Ngoài ba chủ thể được bảo đảm quyền bào chữa (người bị tạm giữ, bị can, BC),

26

BLTTHS năm 2015 bổ sung người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt

cũng được bảo đảm quyền bào chữa (Điều 58). Quyền nhờ NBC của người bị buộc

tội trong đó có BC cũng được quy định cụ thể hơn đó là có thể nhờ LS hoặc người

khác bào chữa. Trong những trường hợp luật định, nếu người bị buộc tội hoặc

người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì các cơ quan nói trên phải yêu

cầu, đề nghị cử cử NBC cho họ. BLTTHS năm 2015 cũng nâng cao trách nhiệm của

cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa

của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Không chỉ có trách nhiệm bảo đảm

cho người bị tạm giữ, bị can, BC thực hiện quyền bào chữa của họ như trước mà

BLTTHS năm 2015 hiện nay đã nêu rõ, cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng trước hết phải thông báo, giải thích đầy đủ cho người bị buộc tội biết về quyền

bào chữa của họ, từ đó mới có thể bảo đảm cho họ được thực hiện tốt quyền TBC và

nhờ NBC của mình.

Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định

cụ thể, chi tiết hơn, đồng thời bổ sung một số quyền mới cho BC nhằm đảm bảo cho

BC thực hiện tốt quyền TBC và nhờ NBC của mình.

Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị can trở thành BC, lúc này BC có

các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2015. Trước hết,

BC có quyền nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi,

hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản

án, quyết định của TA và các quyết định tố tụng khác (điểm a khoản 2 Điều 61

BLTTHS năm 2015).

BLTTHS năm 2015 cũng quy định cho BC có quyền tham gia phiên tòa. Việc

tham gia phiên tòa ảnh hưởng trực tiếp đến việc bào chữa của BC, đặc biệt là quyền

TBC. BC là người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong của

BLHS, bị đưa ra xét xử vì vậy để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của BC nói

chung, quyền bào chữa nói riêng thì BC đương nhiên phải có quyền tham gia phiên

tòa. Tại phiên tòa, BC có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa hoặc thông qua LS

hoặc người được nhờ bào chữa khác để thực hiện quyền này. BC cũng có quyền được

thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình. Quyền của BC đồng thời cũng

27

là nghĩa vụ của cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, chính vì vậy việc

thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ cho BC là trách nhiệm của các cơ quan,

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Ngoài ra, tại điểm d khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm

cho BC quyền được đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi Người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên

dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người

tham gia tố tụng khác và Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa.

Việc mở rộng đối tượng và phạm vi đề nghị của BC như trên vừa đảm bảo cho

quyền bào chữa của BC nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của BC nói chung mà

còn giúp cho quá trình giải quyết vụ án diễn ra một cách khách quan, vô tư và đúng

pháp luật.

Bên cạnh đó, nếu BLTTHS năm 2003 chỉ cho phép BC đưa ra tài liệu, đồ

vật, yêu cầu thì BLTTHS năm 2015 còn quy định cho BC có quyền đưa ra chứng

cứ. Những chứng cứ mà BC đưa ra nếu đảm bảo các quy định về điều kiện, trình tự,

thủ tục thu thập chứng cứ thì có thể được TA chấp nhận, trở thành căn cứ để BC có

thể bào chữa để gỡ tội hoặc giảm nhẹ hình phạt của mình. Việc bổ sung cho BC có

quyền đưa ra chứng cứ như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền

bào chữa của BC.

Để bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và gỡ tội, BC có quyền trình bày

ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (điểm e khoản 2 Điều 61). Việc trình bày ý kiến về

các chứng cứ, tài liệu, đồ vật của BC sẽ khiến cho HĐXX có cái nhìn toàn diện hơn

về nội dung vụ án từ đó đảm bảo tính khách quan, công bằng trong quá trình giải

quyết vụ án. Ngoài ra, việc yêu cầu Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm

tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật, chứng cứ cũng giúp cho BC chủ động hơn trong

việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp BC phát hiện

các tài liệu, đồ vật, chứng cứ có sự giả tạo, không liên quan đến vụ án thì việc đưa

ra yêu cầu để Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá lại không

28

chỉ đảm bảo quyền và lợi ích cho BC mà còn giúp cho quá trình giải quyết vụ án

được khách quan, đúng pháp luật. Vì vậy, việc quy định quyền này cho BC là hoàn

toàn hợp lý.

So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa

quyền TBC và nhờ NBC của BC. Việc tiếp tục khẳng định quyền này đồng thời mở

rộng các quyền khác cho BC là nhằm bảo vệ quyền con người của BC trong TTHS

theo đúng tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Một trong

những quyền quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền TBC và nhờ NBC của BC

được BLTTHS năm 2015 ghi nhận đó là quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến,

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội (điểm h khoản 2 Điều 61). Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội xuất phát từ quyền con người. Việc

quy định quyền này cho BC không chỉ nhằm bảo vệ quyền con người mà còn phù

hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội, không ai bị coi là có tội cho đến khi có bản án

kết tội người đó có hiệu lực và các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng muốn

buộc tội một người thì phải tìm chứng cứ chứng minh. Nếu có đủ chứng cứ chứng

minh một người phạm tội thì TA có quyền kết tội người đó cho dù người đó có

nhận tội hay không.

Một quyền mới mà BLTTHS năm 2015 quy định cho BC là đề nghị chủ tọa

phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý;

tranh luận tại phiên tòa (điểm i khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015). Quy định này

cho thấy pháp luật tố tụng đã trao cho BC sự chủ động hơn trong quá trình bào chữa

của mình. Nếu như trước đây, BC là đối tượng phải trả lời các câu hỏi mà HĐXX và

những NTHTT đưa ra thì hiện nay theo quy định của pháp luật thì BC có quyền hỏi

những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý. Việc hỏi những người tham

gia phiên tòa sẽ giúp BC làm rõ những vấn đề, tình tiết còn chưa rõ ràng, cụ thể từ đó

bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời góp phần tìm ra sự thật

khách quan của vụ án. Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm

2015 vẫn bảo đảm quyền tranh luận tại phiên tòa của BC. Đây là một quyền quan trọng

giúp BC trực tiếp thực hiện quyền TBC của mình trong giai đoạn xét xử.

29

Ngoài các quyền nêu trên, BLTTHS năm 2015 tiếp tục khẳng định các quyền

của BC như: Nói lời sau cùng trước khi nghị án (điểm k khoản 2 Điều 61 BLTTHS

năm 2015); Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên

bản phiên tòa (điểm l khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015); Kháng cáo bản án,

quyết định của TA (điểm m khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015); Khiếu nại quyết

định, hành vi tố tụng của cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm n

khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015) và một số quyền khác theo quy định của pháp

luật TTHS Việt Nam. Những quyền nói trên đều có sự ảnh hưởng đến quyền TBC

của BC trong suốt giai đoạn xét xử. Ngoài ra, quyền được xem lại biên bản phiên

tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; quyền kháng cáo;

quyền khiếu nại cũng giúp cho BC kiểm tra lại quá trình xét xử có đảm bảo tính

khách quan, chính xác hay không từ đó có những yêu cầu phù hợp nhằm đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Như vậy, có thể thấy, so với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 có

nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng quyền hơn cho BC. Các quyền mới

được quy định cho BC không chỉ nhằm bảo vệ quyền con người của BC nói chung,

quyền TBC và nhờ NBC của BC nói riêng mà còn nhằm nâng cao trách nhiệm của

các cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các quyền

này, tránh tình trạng oan sai, hàm oan người vô tội.

Về quyền nhờ NBC của BC, BLTTHS năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung so

với BLTTHS năm 2003, trước hết là ở đối tượng được bào chữa cho BC. BLTTHS năm

2015 đã mở rộng diện NBC gồm cả TGVPL nhằm bào chữa miễn phí cho các đối tượng

thuộc diện chính sách thay vì chỉ gồm LS, người đại diện của người bị buộc tội, BCVND

như BLTTHS năm 2003 (Điều 72). Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, đối tượng tham gia

bào chữa cho BC phổ biến trong VAHS chủ yếu là đội ngũ LS. Hiện nay, do trình độ và

ý thức pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế nên khi nói đến NBC người ta chỉ nghĩ đến

LS còn những người khác không phải là LS thì không phải là NBC.

Cần phải hiểu rằng, LS là khái niệm nghề nghiệp còn NBC là một khái niệm

tố tụng. Điều 2 Luật LS năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “LS là

người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện

30

dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Khoản 1 Điều 22 Luật

LS cũng quy định: “LS tham gia tố tụng với tư cách NBC cho người bị tạm giữ, bị

can, BC hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị

đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VAHS”. Ngoài việc nhờ

LS làm NBC cho mình, BC còn có thể thông qua người đại diện hợp pháp của mình

mà thực hiện quyền bào chữa. Tuy nhiên, hiện nay BLTTHS 2015 vẫn chưa có một

quy định cụ thể nào về người đại diện hợp pháp của BC trong VAHS như đối với

một số người tham gia tố tụng khác. Theo đó, theo cách hiểu truyền thống thì vấn

đề “người đại diện hợp pháp” của BC chỉ đặt ra khi họ là người chưa thành niên,

người có nhược điểm vể thể chất hoặc nhược điểm về tâm thần và pháp nhân

thương mại phạm tội. Theo quy định của pháp luật, khi người đại diện hợp pháp của

BC tham gia tố tụng thì họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC đồng thời họ vẫn

có quyền và nghĩa vụ với tư cách là người đại diện hợp pháp của BC. Như vậy, tư

cách tố tụng là NBC không loại trừ quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp

của BC.

Ngoài LS, người đại diện hợp pháp của BC thì BLTTHS 2015 còn quy định

BCVND cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là NBC. Chế định BCVND xuất

hiện từ trước khi có BLTTHS 1988 có hiệu lực và tồn tại cho đến ngày nay. Khoản

3 Điều 72 BLTTHS 2015 quy định khá rõ về BCVND là công dân Việt Nam từ 18

tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp

lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho

người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình. BCVND tham gia tố tụng để bào

chữa cho BC trong hai trường hợp: Thứ nhất, nếu BC hoặc người đại diện hợp pháp

của họ không mời NBC thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị Mặt

trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của

tổ chức mình (điểm c khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2015); Thứ hai, Ủy ban Mặt trận

tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tự cử BCVND tham gia TTHS.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 75 BLTTHS năm 2015, Mặt trận tổ quốc Việt Nam,

các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền và trách nhiệm tự cử BCVND tham

31

gia TTHS để bào chữa cho BC là thành viên của tổ chức mình. Với các quy định

như trên, BLTTHS 2015 đã làm rõ hơn về chế định BCVND so với BLTTHS 2003

từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong

việc áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, việc bổ sung TGVPL là NBC cho BC nói riêng và trong VAHS nối

chung đã thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật TTHS của nước ta. BC là

người đã thực hiện hành vi trái pháp luật, bị đưa ra xét xử và sẽ phải chịu sự trừng

phạt của pháp luật nhưng không vì thế mà pháp luật không thể hiện sự nhân đạo, sự

khoan hồng đối với những BC có hoàn cảnh đặc biệt như người thuộc hộ nghèo,

người có công với cách mạng,… Các quy định khác về quyền và nghĩa vụ của

TGVPL được quy định cụ thể trong Luật TGPL năm 2017. Theo đó, khoản 2 Điều

18 Luật TGPL năm 2017 quy định TGVPL có quyền và nghĩa vụ: Thực hiện TGPL;

được bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc

can thiệp trái pháp luật; từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL trong các

trường hợp pháp luật quy định; được bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn,

nghiệp vụ TGPL; bảo đảm chất lượng vụ việc TGPL; tuân thủ nguyên tắc hoạt động

TGPL; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy nơi thực hiện TGPL; bồi thường hoặc hoàn

trả một khoản tiền cho tổ chức thực hiện TGPL đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi

của mình gây ra khi thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật; tham gia các

khóa tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ

TGPL; thực hiện nhiệm vụ khác theo phân công và được hưởng chế độ, chính sách

theo quy định.

Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn mở rộng trường hợp cơ quan tố tụng bắt

buộc phải chỉ định NBC cho BC. Ngoài các trường hợp BC có nhược điểm về thể

chất mà không thể TBC được; người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18

tuổi hay BC bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà BLHS quy định mức cao nhất

là tử hình như quy định của BLTTHS năm 2003 thì hiện nay, những BC bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là

20 năm tù, tù chung thân cũng được Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ

định NBC. Những tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20

32

năm tù, tù chung thân đều là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại phiên toà, do

tính chất nghiêm trọng của vụ án, không khí xét xử căng thẳng, một số trường hợp

BC trong vụ án bị xét xử theo khung hình phạt có mức cao như trên đã không giữ

được bình tĩnh, hoảng loạn. Vì vậy, BC trong trường hợp này rất cần có NBC, những

người sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của BC lúc này đồng thời là chỗ dựa về

mặt tinh thần cho BC. Mặt khác, sự có mặt của NBC sẽ giúp cho vụ án có tính chất

đặc biệt nghiêm trọng được nhìn từ nhiều góc độ, được tiến hành một cách khách

quan, có sự cọ sát giữa buộc tội và gỡ tội, để các quyết định và hành vi tố tụng của

các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được chính xác hơn, tránh được các

quyết định sai lầm đặc biệt là việc tuyên một bản án thiếu chính xác.

Ngoài ra để khắc phục những hạn chế của BLTTHS năm 2003 về việc cấp

giấy chứng nhận NBC, BLTTHS năm 2015 đã thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận

NBC” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, đồng thời, rút ngắn thời gian đăng ký bào

chữa từ 03 ngày xuống còn 24 giờ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để NBC nhanh

chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, trong thời hạn 12 giờ, kể từ

khi có đề nghị của NBC và họ xuất trình đủ giấy tờ và điều kiện để tham gia bào

chữa thì Điều tra viên, KSV, TP được phân công thụ lý chính đối với vụ án phải cấp

Giấy đăng ký NBC cho họ. Văn bản thông báo cho người đăng ký bào chữa (trường

hợp chấp nhận đăng ký) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng thay vì chỉ có

giá trị trong từng giai đoạn tố tụng. Đồng thời, BLTTHS năm 2015 còn có quy định

về việc thu hồi “Giấy đăng ký bào chữa” trong trường hợp NBC vi phạm pháp luật.

Luật mới đã đơn giản hóa thủ tục, giảm thời gian và hạn chế những cản trở, gây khó

khăn từ những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Cũng như BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định BC, người đại

diện của BC có quyền lựa chọn NBC. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 còn trao thêm

quyền lựa chọn NBC này cho người thân thích của BC (khoản 1 Điều 75 BLTTHS

năm 2015). Người thân thích của BC hiểu thông qua khái niệm người thân thích của

người tham gia tố tụng theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015

là người có quan hệ với người tham gia tố tụng gồm vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố

chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà

33

nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú

ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột. Việc trao quyền lựa chọn NBC cho những

người thân thích nói trên của BC không phải là hạn chế quyền của BC mà thông qua

đó đảm bảo tốt hơn quyền nhờ NBC của BC đặc biệt là đối với các BC chưa thành

niên, có hạn chế về mặt thể chất,… Bên cạnh quyền lựa chọn NBC, BC cũng có

quyền thay đổi, từ chối NBC (Điều 77 BLTTHS năm 2015). Trong các trường hợp

được chỉ định NBC, BC cũng có quyền thay đổi hoặc từ chối NBC. Đã là quyền thì

không bắt buộc phải thực hiện, chính vì vậy, việc BC có thể thay đổi hoặc từ chối

nhờ NBC là hoàn toàn hợp lý. So với quyền TBC thì quyền nhờ NBC của BC mang

tính lựa chọn nhiều hơn. BC thông qua NBC để bào chữa cho mình trước TA, như

vậy việc BC có gỡ được tội hay có giảm nhẹ được hình phạt hay không có vai trò

rất lớn của NBC. Chính vì vậy khi lựa chọn NBC cho mình, BC phải có sự cân

nhắc, suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết

vụ án nếu BC nhận thấy NBC cho mình có sự không khách quan, không tận tâm vì

công việc hoặc BC ăn năn hối lỗi cảm thấy không cần phải bào chữa mà sẽ nhận tội

trước tòa thì việc trao cho BC quyền thay đổi hoặc từ chối NBC của BC vừa nhằm

bảo đảm quyền bào chữa vừa nâng cao trách nhiệm của NBC.

Quyền nhờ NBC của BC ngoài việc được thể hiện thông qua quyền lựa chọn,

thay đổi, từ chối NBC thì còn được thể hiện thông qua các quy định về quyền và

nghĩa vụ của NBC. Tiếp tục kế thừa những quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng

theo hướng mở rộng hơn, BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của NBC như sau:

Để bảo đảm tranh tụng dân chủ, luật đã bổ sung cho NBC quyền thu thập

chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời quy

định NBC có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ

vật liên quan và yêu cầu Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá

(Điều 73). NBC có thể thu thập tài liệu, đồ vật, chứng cứ và phát hiện các tình tiết

liên quan đến việc bào chữa thông qua việc tiếp xúc với BC, người thân thích của

họ, những người có liên quan đến vụ án hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu

cầu của BC nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. Đây là quy định

nhằm đảm bảo bình đẳng về quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật của NBC với

34

KSV và những người tham gia tố tụng khác trước tòa. NBC là người gỡ tội cho BC

nên họ phải có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật để nhằm chứng minh sự vô

tội, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho BC. Ngoài việc thu

thập các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan trực tiếp đến vụ án, NBC còn cần

thu thập các tài liệu về nhân thân, hoàn cảnh gia đình BC như các giấy tờ chứng

nhận thành tích trong công tác, trong học tập, sản xuất và chiến đấu; các giấy tờ

chứng nhận BC thuộc diện chính sách, ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; các

giấy tờ chứng nhận về hoàn cảnh gia đình và sức khỏe của BC,… để xuất trình cho

HĐXX xem xét và sử dụng cho việc bào chữa khi cần thiết.

Việc quy định LS có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên

quan đến việc bào chữa một mặt nâng cao vai trò đối trọng, giám sát của LS để

phản biện trước quan điểm buộc tội của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng hoặc quan điểm của những người tham gia tố tụng có quyền lợi đối lập với

quyền lợi của người được bào chữa; mặt khác, tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa NBC

với các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm mục đích bảo đảm cho quá

trình giải quyết các VAHS được tiến hành nhanh chóng, khách quan, dân chủ và

đúng pháp luật.

Bên cạnh đó, nhằm khắc phục những thiếu sót của BLTTHS năm 2003,

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tố tụng

phải thông báo trước cho NBC về thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố

tụng để NBC tham gia theo quy định (Điều 79). Việc quy định cụ thể hơn về trách

nhiệm của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như trên một mặt nâng cao

chất lượng thực hiện hoạt động bào chữa của NBC, mặt khác đảm bảo việc giải

quyết VAHS diễn ra đúng quy định của pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp cho BC.

Đồng thời với việc bổ sung quyền của NBC, BLTTHS năm 2015 quy định rõ

nghĩa vụ, trách nhiệm của NBC. Trường hợp NBC vi phạm pháp luật, vi phạm đạo

đức nghề nghiệp thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị hủy bỏ việc đăng ký

bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình

sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật (Điều 73). Quy định rõ

35

hơn về trách nhiệm của NBC như BLTTHS năm 2015 là phù hợp với xu thế pháp

luật của thế giới và tinh thần cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. NBC có vai trò

quan trọng trong việc bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói

chung và của BC nói riêng. Nếu trong quá trình bào chữa, NBC có vi phạm thì phải

được xử lý theo đúng quy định của pháp luật như vậy mới nâng cao được trách

nhiệm của NBC trong việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò của mình.

Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là chính sách hai cấp xét xử mà nhà

nước ta đã và đang áp dụng.Việc này nhằm hạn chế và khắc phục các nhược điểm

như kết tội oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc áp dụng hình phạt không phù hợp với tội

trạng, bỏ qua các tình tiết giảm nhẹ mà đáng ra bị cáo được hưởng… cũng như

nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho công dân trong hoạt động xét xử. Thông qua hai

cấp xét xử người phạm tội được thực hiện tốt hơn các quyền của mình. Cấp xét xử

phúc thẩm sẽ sửa chữa và khắc phục nếu việc xét xử của cấp sơ thẩm còn khiếm

khuyết, oan sai. Đây là chính sách có tính nhân đạo và tính khoa học của nhà nước.

So với phiên tòa sơ thẩm vai trò của NBC trong hoạt động xét xử phúc thẩm

giữ một vị trí quan trọng không kém. Trong phiên tòa phúc thẩm, NBC có quyền

đại diện thân chủ của mình đưa ra các quan điểm để yêu cầu tòa án xem xét lại một

phần bản án hoặc toàn bộ bản án. NBC có thể đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm

chấp nhận bằng việc bổ sung chứng cứ vụ án nhằm mục đich chứng minh cho yêu

cầu của bị cáo là có cơ sở.

Trong phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có quyền thay đổi yêu cầu của mình. Nếu

có căn cứ xác thực cho thấy cần thiết phải xem xét lại toàn bộ bản án thì bị cáo,

NBC của BC có quyền yêu cầu tòa án xem xét lại toàn bộ vụ án. Nếu chỉ có cơ sở

để xin giảm nhẹ mức hình phạt NBC sẽ bào chữa để nhằm mục đích xin giảm nhẹ

hình phạt. Dựa trên các tình tiết của vụ án NBC và thân chủ phải có sự thống nhất

để xem xét vụ án theo hướng nào để đảm bảo cho bị cáo quyền lợi tôt nhất.

Những điểm mới về quyền của NBC được quy định trong BLTTHS năm

2015 như đã nêu về việc mở rộng quyền của NBC trong từng giai đoạn tố tụng đặc

biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm VAHS và, đặt ra vấn đề

trách nhiệm, nghĩa vụ của NBC đã cho thấy pháp luật tố tụng ngày càng nâng cao

36

việc bảo đảm quyền bào chữa của BC. Với những quy định nêu trên, quyền và lợi

ích hợp pháp của BC sẽ càng được đảm bảo, tránh xảy ra tình trạng oan sai đồng

thời nâng cao trách nhiệm của NBC nói riêng và các Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng nói chung.

Quyền TBC và nhờ NBC của BC không chỉ được thể hiện trực tiếp thông

qua các quy định về quyền của BC, quyền của NBC mà còn được thể hiện gián tiếp

thông qua cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền này cụ thể là thông qua các quy định

về nghĩa vụ đảm bảo việc thực hiện quyền TBC và nhờ NBC của BC của các Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Quyền TBC và nhờ NBC của BC được thể hiện rõ nhất ở quá trình tranh

tụng, đặc biệt là phần tranh luận tại phiên tòa. Để bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC

của BC, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ nguyên tắc tranh tụng trên nền tảng

Hiến định (Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Nguyên tắc trang tụng trong

xét xử được bảo đảm”) qua đó nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, Người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều

kiện quan trọng nhất là các bên buộc tội và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau

và TA phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực

hiện chức năng của mình. Tư tưởng bình đẳng này không chỉ được thể hiện tại

phiên tòa mà còn ở các giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Theo đó, nguyên tắc xác

định trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội

đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra

yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và TA phải có trách nhiệm trong

việc tạo điều kiện cho KSV, BC, NBC, những người tham gia tố tụng khác thực

hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh luận dân chủ trước TA.

Nhằm bảo đảm quyền buộc tội và bào chữa của các bên, nguyên tắc cũng

bảo đảm sự có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật, nếu vắng mặt

phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do

Bộ luật quy định. Trên cơ sở có đủ các chủ thể tranh tụng cũng như chứng cứ liên

quan đến việc giải quyết vụ án, các bên sẽ tranh luận công khai tại phiên tòa để bảo

vệ quan điểm của mình; TA kiểm tra, đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh

37

tụng tại phiên tòa để đưa ra kết luận cuối cùng về các vấn đề có tội hay không có

tội, liên quan đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ định

tội và quyết định hình phạt, xác định mức bồi thường thiệt hại đối với BC và đây

cũng chính là cơ sở để TA ra bản án, quyết định cuối cùng.

Ngoài ra, khi xét xử, HĐXX phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của

NBC và KSV tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự

thật vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của NBC hoặc những người tham

gia phiên tòa thì HĐXX phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.

Trên cơ sở đó, nếu xét thấy chứng cứ mà LS thu thập không được HĐXX

chấp nhận thì NBC có thể thực hiện quyền kháng cáo để cấp phúc thẩm xét xử lại

theo trình tự phúc thẩm (nếu chứng cứ đó được nêu ra tại phiên tòa sơ thẩm) hoặc

NBC có thể kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm

để xem xét lại bản án phúc thẩm (nếu các chứng cứ đó được NBC nêu ra tại phiên

tòa phúc thẩm).

Một trong những quy định mới và quan trọng của BLTTHS năm 2015 là quy

định về pháp nhân thương mại phạm tội. Đây là quy định có ý nghĩa bước ngoặt,

thay đổi một số quan điểm lý luận về tội phạm đã tồn tại lâu dài trong hệ thống lý

luận luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về vấn đề quyền TBC và nhờ NBC của BC

là pháp nhân thương mại chưa được thể hiện rõ như đối với BC là thể nhân. Trong

Chương XXIX của BLTTHS 2015 quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự

của pháp nhân, chỉ duy nhất một khoản nhắc đến quyền bào chữa của người đại

diện cho pháp nhân: “Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền TBC,

nhờ NBC cho pháp nhân” (điểm l, khoản 1 Điều 435). Điều 431 Chương XXIV

BLTTHS 2015 cũng xác định phạm vi tố tụng đối với truy cứu trách nhiệm hình sự

pháp nhân, mục đích là kết nối các quyền, nghĩa vụ của pháp nhân sang các quy

định phù hợp với quyền, nghĩa vụ của cá nhân. Tuy nhiên, việc kết nối quyền, nghĩa

vụ tố tụng của pháp nhân sang quyền, nghĩa vụ cá nhân có thể dẫn đến cách hiểu, áp

dụng không thống nhất. Mặt khác, các chương khác của BLTTHS không quy định

hoặc quy định không rõ về việc bảo đảm quyền bào chữa cho pháp nhân. Tuy

BLTTHS năm 2015 đã có nhiều điểm mới kế thừa và phát triển về quyền TBC và

38

nhờ người khác bào chữa của BC trong BLTTHS năm 2003 nhưng trong quá trình

nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần phải sửa

đổi, bổ sung và hướng dẫn để bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật của

các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ví dụ như các vấn đề về đăng ký bào

chữa, BCVND, tranh luận của KSV tại phiên tòa, quyền TBC và nhờ NBC của BC

là pháp nhân thương mại,...

2.2 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền

bào chữa của bị cáo trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hà Nội.

2.2.1 Những kết quả đạt được của thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật

về quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự trên địa bàn

Thành phố Hà Nội thời gian qua

Về tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà

Nội: căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên

phạm vi Thành phố Hà Nội các năm, từ năm 2015 đến năm 2019 từ phòng thống kê

tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội.

Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên

phạm vi Thành phố Hà Nội các năm, từ năm 2015 đến năm 2019

Năm Số vụ án thụ lý, giải quyết Bị can

2015 2016 2017 2018 2019 6291 5898 6087 6144 6546 10481 9614 10261 10384 11059

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội

Qua số liệu thống kê trên thấy, tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự

trên địa bàn Thành phố Hà Nộ có xu hướng tăng dần về số vụ. Công tác cải cách tư

pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hà Ni tiếp tục tăng

cường. Tuy nhiên, tình hình diễn biến về tội phạm trên địa bàn Thành phố Hà Nội

có chiều hướng gia tăng. Tội phạm hoạt động với phương thức mới ngày càng phức

tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.

39

Đối với thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về quyền bào chữa

của bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội thời gian

qua đã đạt được một số kết quả như sau:

Một là, việc thực hiện quyền TBC của BC. Thực tiễn cho thấy, các phiên tòa

xét xử đã từng bước bảo đảm được sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh của pháp

luật. Việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng được đổi mới theo tinh thần cải

cách tư pháp. Bên cạnh đó, TA cũng đã tạo điều kiện bảo đảm cho những người

tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình.

Những người tham gia tố tụng được trình bày hết ý kiến của mình, đặc biệt là LS và

BC. Các phán quyết của TA căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, các quan điểm của KSV và

những người tham gia tố tụng khác. Chất lượng xét xử các VAHS ngày càng được

nâng cao, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng nói chung và quyền bào

chữa của BC nói riêng cũng ngày càng được đảm bảo.

Hiện nay, có nhiều vụ án quyền TBC của BC được tạo điều kiện để phát huy

tối đa và đã đạt hiệu quả cao. Có thể kể đến như vụ án của hoa hậu Trương Hồ

Phương Nga. Tại phiên tòa này, tất cả các nguyên tắc tranh tụng đều được đề cao.

HĐXX đã chấp nhận tất cả chứng cứ mới mà các LS, các đương sự trình bày ở tòa

và niêm phong để thẩm định. Điều này thể hiện HĐXX đã đảm bảo việc thực hiện

một trong những quyền mới của NBC được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015 đó

là quyền cung cấp chứng cứ. Ngoài ra, HĐXX cũng đã quyết định trả hồ sơ để điều

tra bổ sung để xem xét các chứng cứ và các tình tiết mới của vụ án. Trong năm ngày

diễn ra phiên xử, có rất nhiều tình tiết của vụ án đáng chú ý. Trong đó, việc BC

Trương Hồ Phương Nga tích cực thực hiện quyền bào chữa của mình, bác bỏ các

luận điểm buộc tội, đồng thời đưa ra nhiều quan điểm, lý lẽ bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho mình. Bên cạnh đó, BC cũng đã từ chối trả lời nhiều câu hỏi của TA,

VKS và cho rằng mình không buộc phải trả lời. Cũng tại phiên tòa này, các bên

được quyền trình bày quan điểm không giới hạn thời gian, được nhiều chuyên gia

luật đánh giá là điểm tiến bộ trong quá trình tố tụng. Trên thực tế, phần trình bày

của các bên thường bị ngắt quãng bởi lý do đi ngoài trọng tâm cáo trạng đã truy tố.

40

Thế nhưng, trong phiên tòa này, người tham gia tố tụng vẫn có quyền được trình

bày, tranh luận để làm rõ tới cùng luận điểm của mình. Trong quá trình xét xử,

NTHTT và người tham gia tố tụng khá bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng

cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra các yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ

án. Ở vụ án trên, BC Trương Hồ Phương Nga đã cương quyết giữ im lặng, từ chối

trả lời câu hỏi của HĐXX và VKS trong năm ngày xét xử đầu tiên của phiên sơ

thẩm lần hai, xét dưới góc độ quyền TBC của BC thì việc im lặng này không được

coi là sự “ngoan cố” của BC. Như vậy, trong vụ án này, HĐXX và các chủ thể đã

tạo điều kiện khá thuận lợi để BC và NBC của BC bào chữa cũng như nhưng người

tham gia tố tụng khác được thực hiện các quyền của mình tại phiên tòa.

Nghiên cứu việc xét xử BC Đinh La Thăng trong vụ án góp vốn 800 tỷ đồng

của PVN vào Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank): Theo cáo

trạng, ông Đinh La Thăng ký thỏa thuận tham gia góp vốn 800 tỷ đồng với cựu chủ

tịch Hội đồng quản trị Oceanbank Hà Văn Thắm nhưng không thông qua hội đồng

quản trị. Ông Thăng bị cáo buộc dù được báo cáo năng lực yếu kém của Oceanbank

song vẫn ký ban hành Nghị quyết góp vốn khi chưa được sự đồng ý của Thủ tướng.

Ông cũng không thực hiện theo yêu cầu của Bộ Tài chính về đảm bảo các điều kiện

về góp vốn. Theo Luật tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 quy định:

“một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ

chức tín dụng…” nhưng ông Thăng không thực hiện việc thoái vốn. Hậu quả, toàn

bộ 800 tỷ đồng của PVN bị mất hoàn toàn khi Oceanbank kinh doanh thua lỗ, mất

vốn chủ sở hữu và Ngân hàng Nhà nước phải mua lại Oceanbank với giá 0 đồng.

Tại phiên tòa xét xử sáng ngày 24/3/2017, BC Đinh La Thăng khẳng định

không chỉ đạo việc góp vốn mà làm đúng theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. BC

luôn khẳng định mình không thực hiện tội phạm như cáo trạng trình bày. Ông cho

rằng: “Chẳng nhẽ cứ phải những quan điểm VKS đưa ra, BC nhận ngay mới là

không quanh co chối tội?”. Ông Thăng đối đáp và tiếp tục giữ nguyên quan điểm

cho rằng tại lần góp vốn thứ ba thì ông không tham gia, không biết, không chỉ đạo.

Tại phiên tòa, BC Đinh La Thăng liên tục đưa ra quan điểm tranh luận để bào chữa

cho mình. BC cho rằng việc mình bị quy kết việc chỉ đạo đi đàm phán với các đối

41

tác trong việc góp vốn vào ngân hàng là không hợp lý. Tại phiên tòa, BC lập luận,

khi biểu quyết thông qua nghị quyết, chỉ cần một người không đồng ý thì cũng có

thể cho dừng lại. VKS cho rằng BC độc đoán, chuyên quyền, nhưng đây là việc làm

dân chủ, mọi việc phải được tất cả mọi người đồng ý. Đây là sự dân chủ, và là cách

làm của Hội đồng thành viên PVN, thống nhất cao mới thông qua. BC cũng cho

rằng việc đầu tư của PVN vào Oceanbank đã mang lại lợi nhuận cao (224 tỷ). Do

vậy, BC cho rằng mình không phải chịu trách nhiệm. Vụ án trên cho thấy BC đã tự

đưa ra các quan điểm bác bỏ quan điểm buộc tội của VKS đồng thời lập luận các lý

lẽ chứng minh bảo vệ quan điểm của mình.

Hai là, việc nhờ người khác bào chữa của BC. Thủ tục nhờ NBC của BC

không ngừng được pháp luật tháo gỡ các khó khăn. Việc áp dụng vào thực tiễn các

quy định về nhờ NBC đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong những năm gần đây,

cùng với sự phát triển về số lượng và chất lượng của đội ngũ LS, BCVND, TGVPL,

số vụ án có NBC tham gia mặc dù còn khiêm tốn nhưng so với trước đây thì đã tăng

lên đáng kể.

Việc tham gia tố tụng của NBC đã góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của BC, đồng thời giúp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải

quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Hoạt động của NBC đã đem

lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của BC, thực hiện dân

chủ, đồng thời bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự tham gia của

NBC đã góp phần không nhỏ giúp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải

quyết vụ án đúng đắn, tránh được việc chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội mà không

xem xét chứng cứ gỡ tội cho BC. Trong vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm,

tinh thần đổi mới của phiên tòa đã có sự tiến bộ, không hạn chế, tạo điều kiện cho

NBC, BC thực hiện quyền bào chữa. Có thể thấy việc tham gia tố tụng của NBC nói

chung đã đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ,

khắc phục được những vi phạm tố tụng; làm rõ sự thật khách quan, đảm bảo cho

việc xét xử của TA được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; loại trừ

dần tình trạng lạm dụng quyền trong việc áp dụng pháp luật và củng cố niềm tin của

nhân dân đối với Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiều vụ án đã có

42

đủ cơ sở pháp lý để kết tội BC nhưng sự tham gia của NBC tại phiên tòa cũng giúp

cho HĐXX làm sáng tỏ thêm tính chất, hành vi phạm tội của BC, động cơ, mục

đích, nguyên nhân phạm tội, giúp HĐXX xem xét, cân nhắc để ra một bản án công

minh, đúng pháp luật, giúp BC nhận thức được hành vi phạm tội của mình, chấp

hành bản án một cách tự giác, yên tâm cải tạo thành người tốt.

Việc tham gia của NBC vào các hoạt động TTHS đã có tác dụng rất lớn trong

việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự đúng đắn, hợp pháp của các hoạt

động TTHS. Tranh tụng tại phiên tòa đã từng bước được xác lập với vai trò độc lập

của LS trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng. LS ngày càng tham gia một cách

tích cực, chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ trước tòa. [17, tr53]

Nghiên cứu tiếp việc xét xử BC Đinh La Thăng trong vụ án góp vốn 800 tỷ

đồng của PVN vào Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank) cho

thấy không chỉ việc TBC của BC được bảo đảm mà người được BC nhờ bào chữa

cũng được tạo thuận lợi và thực hiện tốt việc bào chữa cho các BC. Trước những

cáo buộc về thân chủ, LS Phan Trung Hoài đã trình bày bài bào chữa của mình. LS

nhận định, kết quả thẩm tra công khai tại phiên tòa cho thấy, có căn cứ để khẳng

định mặc dù việc góp vốn 100 tỷ đồng đợt thứ ba của PVN tại Oceanbank về mặt

pháp lý và vi phạm Khoản 2 Điều 55 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, nhưng

chưa đủ căn cứ quy buộc trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý làm trái. Sau khi LS

Phan Trung Hoài trình bày lời bào chữa của mình, LS thứ hai bào chữa cho BC

Thăng là ông Nguyễn Huy Thiệp tiếp tục bào chữa. Theo ông Thiệp, thân chủ bị

cho là vi phạm trong việc quyết định đầu tư tiền vào Oceanbank khi chưa họp Hội

đồng quản trị trước khi ký thỏa thuận và chưa xin ý kiến Thủ tướng trước khi ký

nghị quyết góp vốn. Nhưng ông Thiệp cho rằng chưa có văn bản nào quy định quy

trình đúng là phải ký nghị quyết sau khi xin ý kiến Thủ tướng... HĐXX để LS bào

chữa đọc bài bào chữa cho BC dài đến 2 tiếng đồng hồ mà không bị ngắt. Với sự

tham gia của NBC, quyền và lợi ích chính đáng của BC đã được bảo vệ đáng kể.

Đặc biệt, trong vụ án này, các LS cùng tham gia một cách tích cực, chủ động hơn

trong việc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ trước tòa. Trước các quan điểm TBC và

các quan điểm bào chữa của NBC cho BC, Đại diện VKS đã trả lời, đối đáp với các

43

quan điểm bào chữa của BC và NBC thông qua tranh luận, giải đáp các vấn đề chưa

rõ, thể hiện sự tôn trọng quyền TBC và nhờ NBC của BC cũng như tinh thần bình

đẳng, đánh giá khách quan, toàn diện vụ án. Có thể thấy, trong vụ án trên, tinh thần

bào chữa của BC cũng như các LS được nêu cao. Bằng việc liên tục đưa ra các lập

luận chặt chẽ, logic, phân tích kỹ càng các tài liệu, chứng cứ của vụ án, những NBC

đã bước đầu đạt được mục đích của quá trình bào chữa.

Ba là, cơ chế bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC của BC xuất phát từ các Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ngày càng được nâng cao. Các Cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã nhận thức

được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, BC cũng

chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là

nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Hiện nay, những Người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người trực tiếp giải

quyết VAHS, hơn ai hết, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hiểu thấu đáo

những quy định của pháp luật về quyền TBC và nhờ NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải

thích cho BC hiểu rõ quyền TBC và nhờ NBC, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để

quyền này được thực hiện có hiệu quả. Trong vụ bác sĩ Hoàng Công Lương - BC

trong vụ tai biến chạy thận tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hoà Bình vào ngày 29.5.2017

khiến 9 người tử vong, bác sĩ Lương, công tác tại Khoa hồi sức tích cực, Bệnh viện

đa khoa tỉnh Hòa Bình bị truy tố về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm

trọng" đã gây xôn xao trong dư luận hiện nay. Trong 12 ngày diễn ra phiên tòa sơ

thẩm xét xử vụ án trên, quyền TBC và nhờ NBC của BC đã được bảo đảm thông qua

các hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền. Người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng đã tạo điều kiện thuận lợi cho NBC của BC Hoàng Công Lương để quá

trình bào chữa và xác định sự thật của vụ án được diễn ra khách quan, nhanh chóng

và đúng pháp luật. Theo lời LS Trần Hồng Phúc, một trong những LS bào chữa cho

BC Lương cho biết: “Sau phiên toà, tôi đã được một số lãnh đạo các cơ quan tư pháp

Trung ương khích lệ, động viên, mong các LS bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và bày tỏ quan điểm tiếp

tục ủng hộ phiên toà công khai, xét xử khách quan, toàn diện, đúng pháp luật”. LS

44

Phúc chia sẻ thêm, vụ án đã có kết luận điều tra bổ sung, có thể chỉ vài hôm nữa các

LS sẽ nhận được văn bản này theo luật định. Tuy nhiên, việc tiếp tục kết luận bác sĩ

Hoàng Công Lương phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” hay

không sẽ sớm được cơ quan truy tố xem xét thận trọng. Sau 12 ngày diễn ra phiên sơ

thẩm, HĐXX công bố quyết định trả lại hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung. Tại phiên sơ

thẩm, các LS bào chữa cho các BC được đánh giá cao. Việc TA nhân dân tỉnh Hoà

Bình quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án chạy thận làm chết người là lương

tâm và trách nhiệm của những người làm công tác xét xử. Đó cũng là công sức của

tập thể đội ngũ cán bộ y tế cả nước, của các nhà báo cũng như các LS tham gia tố

tụng tại phiên toà. Như vậy, có thể thấy trong vụ án trên không có sự “gây khó khăn”

từ phía các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với BC và NBC mà còn có

sự phối hợp chặt chẽ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của BC nói riêng và những người tham gia tố tụng khác nói chung.

2.2.2 Những tồn tại và hạn chế của thực trạng áp dụng các quy định của pháp

luật về quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự trên địa bàn

Thành phố Hà Nội thời gian qua

2.2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc từ phía Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Một là, về trình tự thủ tục đăng ký bào chữa cho BC. Thủ tục đăng ký bào

chữa cho BC là một trong những bước để NBC có thể thực hiện quyền bào chữa

cho BC. Mặc dù vậy, trong thời gian qua, việc đăng ký bào chữa để tham gia tố

tụng của NBC còn gặp nhiều khó khăn không chỉ ở giai đoạn xét xử mà ngay từ các

giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Trước đây, tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS năm

2003 có quy định trong ba ngày (trong trường hợp tạm giữ thì thời hạn này là 24

giờ) kể từ khi nhận được đề nghị của NBC kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào

chữa, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, cấp giấy chứng nhận

NBC để họ thực hiện bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý

do. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định này rất ít khi được thực hiện, vẫn còn nhiều

trường hợp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây khó khăn, cản trở cho

hoạt động bào chữa của LS.

45

BLTTHS năm 2015 đã chuyển việc cấp giấy chứng nhận bào chữa sang thủ

tục đăng ký bào chữa (Điều 78 BLTTHS năm 2015). Mặc dù vậy, có thể thấy rằng

hai quy định này về bản chất không có gì thay đổi. Bởi khi tiến hành đăng ký hay

được cấp giấy chứng nhận bào chữa thì LS vẫn phải nộp một số giấy tờ cho Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, và đặc biệt là vẫn phải phụ thuộc vào ý chí

chủ quan của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, những bất cập về

trình tự thủ tục đăng ký bào chữa vẫn còn là vấn đề cần được giải quyết. Ngoài ra

việc chỉ định người bào chữa, từ chối đăng ký bào chữa, hủy bỏ việc đăng ký bào

chữa còn chưa đảm bảo tốt nhất quyền TBC và nhờ NBC cho BC nói riêng và

người bị buộc tội nói chung.

Hai là, sự tham gia bào chữa của NBC. Theo quy định của pháp luật, NBC

có quyền tham gia tố tụng từ rất sớm, trong thực tế, việc tham gia của NBC hầu hết

ở giai đoạn hồ sơ đã được chuyển sang TA để chuẩn bị xét xử. Tâm lý của một số

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ở giai đoạn điều tra cho rằng, việc NBC

tham gia tố tụng ở giai đoạn điều tra có thể bày cách khai cho bị can, gây cản trở

cho quá trình điều tra…Vì vậy, có trường hợp bị can, người thân của họ cần NBC

tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra thì hoặc là Cơ quan điều tra im lặng, không ra

quyết định công nhận NBC, hoặc ra quyết định công nhận NBC nhưng luôn tạo ra

lý do để NBC không tham gia được vào quá trình điều tra. Đối với nhiều vụ án do

người chưa thành niên phạm tội, khi hồ sơ chuyển sang TA, TP nghiên cứu hồ sơ để

xét xử mới phát hiện ra BC là người chưa thành niên phạm tội và làm công văn yêu

cầu LS bào chữa có khi chỉ cách thời điểm bào chữa vài ngày. Những trường hợp

này không chỉ hạn chế quyền bào chữa của BC mà còn vi phạm nghiêm trọng thủ

tục đặc biệt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong

BLTTHS.

Ba là, trong việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho BC. Quyền được giải

thích về quyền và nghĩa vụ của BC đã được BLTTHS năm 2003 và mới đây là

BLTTHS năm 2015 ghi nhận rất rõ ràng. Bộ luật quy định các Cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đam cho BC

thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trên

46

thực tế các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn vi phạm quyền này của

BC. Nhiều trường hợp BC không biết mình có quyền bào chữa, quyền nhờ người

khác bào chữa cho mình, nhất là đối với các trường hợp phạm những tội đặc biệt

nghiêm trọng bị cách ly, không được gặp người thân, không được tiếp xúc văn bản

pháp luật. Nếu không được giải thích về quyền và nghĩa vụ thì việc biết có thể mời

NBC và việc có NBC là vô cùng khó khăn.

Bốn là, trong việc tiếp xúc giữa NBC và BC bị tạm giam. Sau khi nhận được

giấy chứng nhận bào chữa, việc LS tiếp cận thân chủ của mình cũng không phải là

dễ dàng. Từ trước đến nay, có rất nhiều vụ án đã được cấp giấy chứng nhận bào

chữa nhưng LS vẫn không được vào trại giam để gặp BC vì Người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng, đặc biệt là Điều tra viên luôn tìm mọi lý do để né tránh không đi

cùng. Và nếu không có Điều tra viên đi cùng, Ban giám thị trại giam cũng không

cho phép LS vào gặp. LS Trần Công Ly Tao từng chia sẻ: “Vừa rồi tôi có nhận bào

chữa cho một BC ở tỉnh Dăk Lăk do Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng xét

xử. Mặc dù được tòa này cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng khi vào trại giam

xin gặp BC thì phía trại giam yêu cầu phải có lệnh tiếp xúc can phạm do TA cấp thì

mới cho phép tôi vào. Tôi vội vàng chạy về Đà Nẵng để xin giấy nhưng tòa này cho

rằng họ không có chức năng cấp loại giấy đó và việc này là do phía trại giam có

nghĩa vụ phải cho gặp. Chính việc tùy tiện ra những điều kiện oái oăm này đã làm

mất rất nhiều thời gian và công sức của tôi”. Khi NBC tiếp xúc BC bị tạm giam,

thời hạn gặp rất hạn chế, chỉ khoảng 1 tiếng cho mỗi lần gặp. Nhiều trường hợp,

Điều tra viên và cán bộ trại giam lại có mặt cùng ở đó làm cho việc tác nghiệp, trao

đổi giữa NBC và BC rất khó khăn.

Năm là, trong việc tạo điều kiện cho NBC tiếp xúc với tài liệu của vụ án. Hồ

sơ, tài liệu của vụ án cũng là một trong những nguồn quan trọng giúp NBC có thể

thu thập chứng cứ để bào chữa cho BC. Pháp luật quy định cho NBC có quyền đọc,

ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa.

Tuy nhiên, trên thực tế, quyền này vẫn chưa được các Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng bảo đảm thực hiện tốt. Khi NBC muốn tiếp xúc với hồ sơ vụ án, không

ít trường hợp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây khó khăn bằng nhiều lý

47

do khác nhau. Ví dụ vụ án BC Nguyễn Hùng Chiến bị TA nhân dân tỉnh Đồng Nai sẽ

mở phiên xét xử về tội cố ý gây thương tích ngày 28/11/2016. Trước đó, vụ án đã

được đưa ra xét xử nhưng phiên tòa phải tạm hoãn để làm rõ một số vấn đề do kết

quả giám định tâm thần của hai Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có mâu

thuẫn. Sau đó, TA nhân dân tỉnh Đồng Nai đã có công văn gửi Bộ Y tế và bộ này đã

có công văn phúc đáp về một số vấn đề liên quan đến vụ án. LS Trần Bá Học, người

bảo vệ quyền lợi cho BC Nguyễn Hùng Chiến, đã đến tòa để yêu cầu được sao chụp

công văn trên. Thư ký phiên tòa trả lời TP thụ lý vụ án đang nghiên cứu, nếu được sự

đồng ý của TP LS sẽ được sao chụp tài liệu này sau. Tuy nhiên, hôm sau LS Học đến

TA nhân dân tỉnh Đồng Nai để xin sao chụp các công văn này thì TP thụ lý vụ án từ

chối cung cấp vì cho rằng các công văn này là công văn trao đổi liên ngành, không

phải chứng cứ để LS nghiên cứu. Theo LS Học, phiên tòa sắp mở lại nhưng LS

không được cung cấp các tài liệu liên quan đến vụ án sẽ ảnh hưởng đến việc tranh

tụng của LS tại tòa. Đồng thời, LS này cũng cho rằng cần phải đưa các công văn hỏi

và trả lời liên quan đến nội dung vụ án giữa Bộ Y tế và TA nhân dân tỉnh Đồng Nai

vào hồ sơ vụ án. Như vậy, có thể thấy, quyền tiếp cận với tài liệu có trong hồ sơ vụ

án của NBC vẫn còn nhiều hạn chế trên thực tiễn

Sáu là, đối với các trường hợp phải chỉ định NBC. Để đảm bảo quyền bào

chữa của BC, pháp luật quy định Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nghĩa

vụ chỉ định NBC cho BC trong một số trường hợp đặc biệt. Mặc dù vậy, trên thực tế

các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường không chủ động yêu cầu cử

NBC. Thường khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà BC không có NBC thì TA

mới yêu cầu chỉ định NBC cho họ. Lúc này, NBC khó có thể bắt kịp tài liệu chứng

cứ vụ án để có thể bào chữa cho BC. Chưa kể có những trường hợp, NBC được chỉ

định tham gia còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Chẳng hạn, giữa năm 2010, TAND

thành phố Cần Thơ chuẩn bị xét xử một vụ hiếp dâm trẻ em. BC không mời LS nhưng

thuộc trường hợp bắt buộc phải có NBC nên tòa ra văn bản yêu cầu Đoàn LS cử LS.

Không hiểu sao văn bản này lại bị thất lạc, không đến được đoàn LS nên không biết để

chỉ định. Hệ quả là ngày phiên tòa diễn ra thì không có LS. Vị thư ký phiên tòa phải

chạy đôn chạy đáo tìm LS thay thế và gặp được một LS tới tham gia một phiên tòa dân

48

sự nhưng vừa bị tạm hoãn. Sau khi nghe thư ký nhờ vả, vị LS này đã nhận lời ngay và

vội vàng vào phòng xử… xem cáo trạng rồi bào chữa luôn cho BC..

Bảy là, vị trí và vai trò của NBC tại phiên tòa còn mờ nhạt chưa được coi

trọng đúng mức. Lời bào chữa cùng các đề nghị của NBC chưa được HĐXX thấu

đáo. Từ thực tiễn này cho thấy, quyền bào chữa của BC còn chưa được thực hiện

tốt, nhiều trường hợp còn mang tính hình thức và nhận thức từ các cơ quan và người

có thẩm quyền tố tụng coi trọng “án tại hồ sơ”, chưa coi trọng “án tại phiên tòa”.

Tám là, sự hạn chế về quyền bào chữa của BC còn thể hiện trong quá trình

tranh tụng tại phiên tòa, chuyên môn nghiệp vụ của bên buộc tội còn hạn chế. Tại

phiên tòa, nhiều quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích cho BC của NBC hoặc của chính

BC không được ghi nhận và bị bác bỏ mà không đưa ra cơ sở pháp lý. Sau một thời

gian tranh luận gay gắt, NBC và BC thường vẫn chỉ nhận được một câu trả lời mang

tính truyền thống của KSV, là giữ nguyên quan điểm buộc tội của VKS. Nếu một bên

dừng lại không tiếp tục đối đáp nữa và cho rằng đấy là quan điểm cuối cùng rồi thì rõ

ràng bên phía bên kia cũng không còn điều kiện để tiếp tục đối đáp. Tại phiên tòa

trong vụ án Trịnh Xuân Thanh, các bên mới chỉ đối đáp lượt thứ hai đã phải dừng lại

do đại diện VKS cho rằng, quan điểm đối đáp của mỗi bên có sự khác biệt về cách

nhìn nhận, đánh giá chứng cứ khác nhau nên để HĐXX phán quyết.

Tại phiên tòa, còn nhiều trường hợp TP chủ tọa phiên tòa và thậm chí cả Hội

thẩm cắt ngang lời NBC khi NBC đang trình bày đúng trọng tâm của vụ án; nội

dung tranh tụng của NBC không được ghi nhận trong bản án. Thực tế cho thấy, rất

ít bản án có ghi ý kiến tranh luận của NBC. Việc tranh luận, đối đáp giữa hai bên

buộc tội và gỡ tội chưa thực sự dân chủ, bên buộc tội chưa tích cực trả lời những

câu hỏi của các bên khác. Nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được vận dụng triệt để,

quyền TBC và nhờ NBC của BC chưa được coi trọng, bên buộc tội và bên gỡ tội

chưa thực sự bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu hay viện dẫn các

quy định pháp luật để HĐXX làm căn cứ ra phán quyết. Bên cạnh đó, quy định của

BLTTHS năm 2015 còn rất mới nên thứ TBC, đối đáp trong vụ án này còn chưa

thuần thục, đôi khi còn có sự trùng lặp về câu trả lời hay ý kiến, quan điểm của

người tham gia tố tụng.

49

2.2.2.2. Hạn chế từ phía người được nhờ bào chữa, chỉ định bào chữa

Một là, việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa và chất lượng bào chữa. Thực tế

cho thấy, vẫn còn nhiều trường hợp NBC thực hiện nhiệm vụ của mình một cách

qua loa, đại khái, không tâm huyết, đặc biệt là trong các trường hợp được chỉ định

bào chữa. NBC được chỉ định tham gia còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Một KSV

VKSND thành phố Đà Nẵng cho biết quá trình ngồi ghế công tố trong các VAHS

có LS bào chữa chỉ định, ông đã gặp rất nhiều tình huống tương tự. Một câu khá

phổ biến của các LS là “tôi không tranh luận về tội danh hay khung hình phạt, chỉ

xin tòa xem xét giảm nhẹ cho BC với các tình tiết giảm nhẹ sau đây…”. Trong khi

đó, những tình tiết giảm nhẹ mà LS trình bày thì đã được chính đại diện VKS nêu

trong phần luận tội trước đó rồi. “Hiện tượng này khiến cho nhiều người có tâm lý

rằng LS chỉ định tham gia phiên tòa chỉ là hình thức, chỉ có mặt cho đủ thủ tục tố

tụng mà thôi, nói gì đến chất lượng tranh tụng hay nhiệt huyết bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của BC”, vị KSV nói. LS là một bên trong quá trình tố tụng, tuy nhiên nhiều

trường hợp bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi vào những tình

tiết của vụ án một cách toàn diện, để khai thác bảo vệ quyền lợi chính đáng của BC.

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng, hiệu quả tranh tụng tại

phiên tòa thấp, chưa đáp ứng yêu cầu. Riêng đối với những vụ án kinh tế tham

nhũng lớn, thường 100% vụ án có LS tham gia và tham gia rất sớm ngay từ khi

khởi tố bị can, tiêu biểu như các vụ án Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng, vụ án

Châu Thị Thu Nga, vụ án Trầm Bê…nên việc tranh tụng tại phiên tòa xét xử thường

quyết liệt, gay gắt hơn. Bên cạnh đó, còn có những NBC do nhận nhiều vụ án cùng

lúc, dẫn đến nhiều trường hợp, do các vụ án trùng ngày trùng giờ nên đến khi ra tòa

phải nhờ người khác bào chữa thay. Còn có những trường hợp NBC không tham gia

tố tụng tại phiên tòa mà chỉ gửi bài bào chữa của mình, đưa ra quan điểm của mình

dựa trên những tài liệu có trong hồ sơ vụ án đến tòa. Vì vậy, lời bào chữa của LS

nhiều khi không chính xác, đồng thời cũng không thuyết phục được HĐXX. Hơn

nữa, việc không có mặt tại phiên xét xử, NBC cũng không thể giúp đỡ kịp thời cho

thân chủ của mình khi có bất ngờ xảy ra.

50

Hai là, việc tôn trọng sự thật của vụ án. Thực tiễn cũng cho thấy, một bộ

phận LS còn vi phạm hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Có người thay vì công việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị việc bào chữa cho BC tại

phiên tòa lại đi gặp gỡ người này, người khác để “chạy án”. Có người tuy biết rõ

thân chủ đã phạm tội nhưng dùng lý lẽ ngụy biện, đổ lỗi cho cơ quan điều tra, dẫn

đến có những trường hợp, có vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần hoặc

điều tra lại theo kiến nghị vô lý của LS, mặc dù sau đó, hồ sơ cũng không được bổ

sung tình tiết gì mới. Theo phản ánh của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, nhiều LS tìm mọi cách kể cả bất hợp pháp để làm giảm nhẹ tội cho thân chủ

của mình. LS còn giúp BC mớm cung, phản cung. Nhiều trường hợp BC nhận tội,

nhưng đến khi xét xử lại khai ngược lại, khai là bị bức cung. Việc làm này đã tác

động tiêu cực tới quá trình xét xử, làm cho vụ án được giải quyết không khách

quan, người có tội có thể không bị xử lý hoặc loại khỏi vòng tố tụng, còn người

không có tội lại bị khởi tố, bắt giam, tuyên có tội.[52, Tr.176-179]

Ba là, không ít LS còn coi trọng vấn đề thù lao mà quên đi đạo đức nghề

nghiệp. Thậm chí còn có LS lợi dụng sự không hiểu biết của thân chủ để vòi thêm

tiền. Ví dụ vụ án Lương Anh Tiến (trú tại phường 2, quận 8, TP Hồ Chí Minh),

hành nghề LS, năm 2013 bị cơ quan tố tụng Trung ương ra quyết định khởi tố và

thực hiện lệnh tạm giam về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Theo tài liệu điều

tra của cơ quan chức năng, Lương Anh Tiến là LS được thuê bào chữa cho bị can

Nguyễn Minh Tuấn, nguyên Giám đốc Công ty cổ phần Du lịch Lộc Bình Phú; 1

trong gần 30 bị can bị điều tra, xử lý về tội danh làm giả tài liệu của cơ quan, tổ

chức; lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo thỏa thuận, số tiền công bồi dưỡng thuê LS

là 100 triệu đồng. Nhưng sau đó, Tiến đã chủ động gặp gia đình Nguyễn Minh

Tuấn, hứa hẹn sẽ tác động với cơ quan tố tụng để bỏ tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản” cho Tuấn, qua đó, Tuấn sẽ chỉ bị nhận mức án thấp nhất. Đổi lại cho sự bỏ

tội danh này, gia đình Tuấn sẽ phải chi 3 tỷ đồng. Tin lời LS Tiến, gia đình Tuấn đã

đưa trước hơn 800 triệu đồng. Tuy nhiên, khi vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm,

Nguyễn Minh Tuấn vẫn bị TAND TP Hồ Chí Minh tuyên phạt 11 năm tù về 2 tội

danh nêu trên. Sự việc sau đó được trình báo đến cơ quan chức năng.

51

Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ LS, BCVND, TGVPL còn chưa đồng đều,

nhiều vụ án chất lượng bào chữa của NBC không những không mang lại hiệu quả

mà còn gây khó khăn đến quá trình giải vụ án cũng như đảm bảo quyền và lợi ích

chính đáng cho người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng.

2.2.2.3. Hạn chế từ phía bị cáo

BC là nhân vật trung tâm của vụ án, là người bị buộc tội. Do đó, hơn ai hết

họ phải là người ý thức được hoàn cảnh của mình và có xử sự phù hợp để được đảm

bảo quyền và lợi ích chính đáng cho mình. Tuy nhiên, nhiều khi quyền của họ

không được đảm bảo mà lý do xuất phát từ chính bản thân họ, điển hình như:

Một là, về trình độ hiểu biết pháp luật của BC. Trình độ hiểu biết pháp luật

không cao của BC cũng có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng TBC của BC. Khi

TBC trước tòa, BC chủ yếu xin HĐXX xem xét giảm nhẹ tội thay vì đưa ra lời bào

chữa gỡ tội cho mình. Tại phiên tòa trong vụ án Trịnh Xuân Thanh, ở phần BC

TBC cho mình trước tòa, do các BC bị truy tố và đưa ra xét xử trong vụ án này đều

liên quan đến quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao nên họ chỉ nắm

sâu về chuyên môn, nghiệp vụ công tác chứ chưa phải am tường, hiểu rõ về pháp

luật. Vì thế, họ không thể có các lập luận, quan điểm về mặt pháp lý hay các vấn đề

ở tầm vĩ mô pháp luật để TBC nên họ cần có LS biện hộ cho mình. Đây cũng là hạn

chế lớn nhất của các BC, kể cả khi các BC đã làm công tác quản lý Nhà nước ở vị

trí cao nhưng hiểu biết về pháp luật cũng không phải chuyên sâu.

Hai là, BC chưa biết hoặc chưa có niềm tin vào LS, BCVND, TGVPL.

Người dân vẫn chưa đánh giá cao vai trò của LS, BCVND, TGVPL trong việc tham

gia bào chữa cho cho mình. Khi gặp vướng mắc pháp luật thì ưu tiên nhờ vả người

có chức có quyền. Đây là khó khăn về thực tiễn trong xã hội mà nhiều người dân

vẫn chưa thay đổi nhận thức này.

Ba là, về tính chủ động của BC trong việc thực hiện quyền bào chữa của

mình. Trong việc TBC và nhờ NBC, BC cũng như những người bị buộc tội khác

thường thiếu tính chủ động khi rơi vào vòng lao lý. Họ thường phó mặc cho các

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định số phận của mình. Họ cũng

thường có tâm lý lo sợ, không dám TBC hoặc nhờ người khác bào chữa vì cho rằng

52

như thế sẽ bị coi là ngoan cố và sẽ bị kết tội nặng hơn. Còn những trường hợp BC

muốn tìm NBC cho mình nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, tiền thù lao lại cao nên đành

cam chịu. Ngoài ra, BC cũng thường không chủ động trong việc thu thập tài liệu

chứng cứ gỡ tội cho mình...

2.2.3 Nguyên nhân của mặt hạn chế

Thực tiễn hoạt động tư pháp cho thấy, những tồn tại, hạn chế trong thời gian

qua đều do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về pháp luật và con người.

2.2.3.1. Nguyên nhân từ các quy định của pháp luật

Quá trình xây dựng pháp luật luôn gắn liền với thực tiễn đời sống của xã hội.

Do vậy, khi xã hội có những chuyển biến thì pháp luật cũng phải có những thay đổi

phù hợp, đặc biệt là trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Trước đây, BLTTHS

năm 1988 và BLTTHS năm 2003 đều chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của

hoạt động xét xử. Do đó, bên buộc tội và bên gỡ tội chưa thực sự bình đẳng với nhau,

vẫn còn bị hạn chế trong việc trình bày các quan điểm, tình tiết để xem xét, đánh giá

bản chất của vụ án. Vì thế, việc đảm bảo cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt

hiệu quả cao. Phần lớn các quy định của pháp luật lúc bấy giờ đè nặng trách nhiệm

chứng minh lên vai HĐXX. Hơn nữa, các chủ thể tham gia tranh tụng không nhận thức

đúng và đầy đủ về vai trò của mình nên cũng không tích cực, chủ động mà phó mặc và

phụ thuộc vào TA. Để khắc phục những thiếu sót trên, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Việc thừa nhận nguyên tắc tranh tụng bảo đảm cho

các chủ thể tham gia tố tụng mà đặc biệt là BC và NBC cho BC bảo vệ quyền và lợi ích

của mình một cách hiệu quả nhất. Với vai trò là trọng tài phán quyết vụ án, TA chỉ điều

hành để bên buộc tội và bên gỡ tội tranh tụng với nhau. Từ đó, TA có thể xem xét một

cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để có quyết định đúng đắn về vụ án.

Bên cạnh đó, pháp luật TTHS trước đây và cả pháp luật TTHS hiện hành vẫn

chưa phân rõ trách nhiệm chỉ định NBC của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng. Theo quy định của pháp luật, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

nghĩa vụ chỉ định NBC cho BC trong những trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, những

quy định này còn mang tính chung chung khi chưa xác định rõ trách nhiệm của các

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành

53

tố tụng bao gồm cả Cơ quan điều tra, VKS và TA. Ngoài ra, pháp luật TTHS còn

thiếu các chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm trong việc đảm bảo quyền

bào chữa của BC, như trường hợp né tránh việc tiếp cận hồ sơ, tài liệu vụ án; có mặt

trong buổi hỏi cung bị can, hay việc gặp BC đang bị tạm giam…

2.2.3.2. Nguyên nhân từ phía cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Có thể nói, những vụ án oan sai trong thời gian vừa qua phần lớn nguyên nhân

là do sai lầm nghiêm trọng từ phía Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, mà chủ

thể thực thi chính là các Điều tra viên, KSV, TP và HĐXX. Trên thực tế, còn có

những trường hợp mà năng lực, phẩm chất của những Người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng không đạt yêu cầu, đặc biệt là về ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị

và nghề nghiệp. Chất lượng của quá trình xét xử phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều

khiển của TP Chủ tọa phiên tòa, vai trò chủ động xét hỏi và tranh luận của KSV [4,

tr78]. Do đó, đòi hỏi họ phải là người có cái tâm trong sáng, đồng thời phải là người

có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Một bộ phận KSV chưa đề cao trách

nhiệm của mình, năng lực trình độ cũng như kinh nghiệm thực tế còn yếu, đồng thời

cũng chưa nhận thức và vận dụng đúng các quy định của pháp luật. Do vậy, việc xác

định các chứng cứ và kiểm tra chứng cứ cũng chưa thực sự khách quan.

Hơn nữa, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn chưa có ý thức đảm bảo

được quyền bào chữa cho BC. Việc này xuất phát từ truyền thống TTHS từ xa xưa. Các

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường chỉ chú ý đến việc trừng trị kẻ phạm

tội, hướng tới việc giải quyết nhanh chóng các VAHS mà vô hình chung quên đi việc

đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Mặt

khác, số lượng và chất lượng của đội ngũ những Người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng còn chưa đảm bảo. Trên thực tế hiện nay, việc một Người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải tiến hành cùng lúc nhiều vụ án là rất phổ biến, bởi số lượng Người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng còn thiếu rất nhiều. Không chỉ về mặt số lượng mà chất

lượng của những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng chưa thực sự tốt. Chính

sự thiếu về số lượng, yếu về chất lượng của đội ngũ những Người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng đã làm cho chất lượng giải quyết các vụ án không cao, quyền và lợi ích hợp

pháp của BC cũng không được đảm bảo. Đặc biệt là quyền bào chữa của BC.

54

Ngoài ra, ý thức tuân thủ pháp luật của một số cán bộ có thẩm quyền tiến

hành tố tụng còn hạn chế, mặc nhiên coi người bị buộc tội là người có tội. Do đó,

phát sinh những hành vi vi phạm pháp luật như bức cung, nhục hình, cản trở việc

thực hiện quyền bào chữa của bị can, BC…. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến

những hạn chế việc thực hiện các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của

người bị buộc tội, của BC, dẫn đến oan, sai trong thực tiễn TTHS.

2.3.3.3 Nguyên nhân từ phía bị cáo

Trình độ hiểu biết pháp luật tố tụng của BC về quyền của chính bản thân

mình còn hạn chế. Trong khi pháp luật cho phép BC có quyền TBC và nhờ NBC từ

rất sớm nhưng đa số BC đều không nhờ NBC từ thời điểm bị bắt, bị tạm giữ, bị

khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Có những BC khi được tuyên vô tội cho biết, nếu ngay

từ khi khởi tố mà họ được biết có thể mời NBC thì số phận pháp lý của họ không

phải long đong như vậy.

Sự thiếu hiểu biết những thông tin cần thiết về pháp luật, cộng với trình độ

học vấn thấp đã khiến BC không thể thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả

quyền TBC bào chữa của mình. Thậm chí có những trường hợp BC không biết chữ,

buộc phải điểm chỉ vào biên bản hỏi cung của Cơ quan điều tra mà không hề biết họ

viết những gì trong đó. Và chính những biên bản hỏi cung này mà họ phải chịu

những ngày tháng bị giam.

2.2.3.4. Nguyên nhân từ phía người bào chữa

Với tinh thần cải cách tư pháp, LS là một trong những nhân tố chính đem lại

thành công của phiên tòa tranh tụng, đặc biệt có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói chung cũng như BC nói riêng. Tuy nhiên,

hiện nay, cả về chất lượng và số lượng, đội ngũ LS chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu

của cải cách tư pháp. Mặc dù đã tăng nhanh, nhưng số lượng LS vẫn không đủ để đáp

ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý của nhân dân. Hơn nữa, ở nước ta còn có sự phát triển

không cân đối về số lượng LS giữa các khu vực với nhau, mà tiêu biểu là giữa khu vực

nông thôn với thành thị. Có thể thấy, Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh có

sự phát triển mạnh mẽ về đội ngũ LS, bởi đây là các thành phố lớn và cũng là những

55

thành phố phát triển nhất của đất nước. Trong khi đó, ở một số khu vực có rất ít LS,

đoàn LS, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Chất lượng của đội ngũ LS cũng chưa thực sự đảm bảo cũng là một trong

những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện quyền bào chữa của BC không được

đảm bảo. Do pháp luật trước đây không quy định về việc đào tạo nghề LS đối với

những người muốn hành nghề LS, nên phần lớn các LS đã được cấp chứng chỉ hành

nghề chưa qua đào tạo một cách cơ bản về kỹ năng. Ở nước ta, đa số các LS hành

nghề trong tất cả các lĩnh vực như hình sự, dân sự và cả hành chính. Do vậy, tính

chuyên môn của các LS không cao, và điều đó cũng có những ảnh hưởng nhất định

đến chất lượng bào chữa cho các thân chủ của mình. Ngoại trừ một số ít LS có trình

độ chuyên môn sâu, còn đa số LS còn hạn chế về kiến thức lẫn kinh nghiệm tư vấn,

tranh tụng, đặc biệt là trong các vụ án có liên quan đến pháp luật nước ngoài.

Trên thực tế, việc bào chữa cho BC hầu hết chỉ do các LS thực hiện. Trong

khi đó, ở nhiều địa phương, đoàn LS cố số thành viên rất ít, phần lớn là các LS cao

tuổi…nên việc tham gia vào hoạt động bào chữa có nhiều hạn chế. Ngoài ra, trình

độ của LS cũng không đồng đều, bởi họ được đào tạo ở những trình độ pháp lý khác

nhau. Trong đội ngũ LS, còn có khá nhiều người còn thiếu hổng những kiến thức cơ

bản về pháp luật. Nhiều LS cho rằng, trách nhiệm trước thân chủ của họ sẽ chấm

dứt khi phiên tòa sơ thẩm chấm dứt. Và kể từ thời điểm này, họ không còn quan

tâm đến số phận và không tiếp tục giúp đỡ BC nữa. Chính vì vậy, có những trường

hợp TA cấp sơ thẩm kết tội quá nặng hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

nhưng BC cũng không biết để kháng cáo. Do vậy, các quyền và lợi ích hợp pháp

của BC không được bảo vệ đến cùng.

Bên cạnh đó, số lượng LS so với dân số còn rất thấp, đội ngũ LS lại phát

triển không cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, miền núi và đồng bằng,

trung du và vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế khó khăn. Số lượng LS chủ yếu

tập trung ở các thành phố lớn, nhất là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí

Minh, còn tại nhiều địa phương, số lượng LS không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch

vụ pháp lý ngày càng gia tăng của người dân, ngay cả trong việc thực hiện bào chữa

trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của LS.

56

Ngoài ra, các quy định mới về BCVND, TGVPL và NBC khác theo quy định

pháp luật còn mới chưa được chú trong, quan tâm, đầu tư đúng mức. Người bị buộc

tội nói chung và BC nói riêng còn xa lạ với BCVND và TGVPL.

Tiểu kết chương 2

Quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 đã có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản so với trong Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003, qua đó tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho bị cáo bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình trong các vụ án hình sự. Thực trạng áp dụng các quy định

của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị cáo trong thời gian qua trên

địa bàn thành phố Hà Nội đạt được kết quả tốt đẹp, bên cạnh đó cũng có nhiều hạn

chế từ nhiều phía xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm: Nguyên nhân

từ các quy định của pháp luật; từ phía cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng; từ phía bị cáo; phía người bào chữa. Thông qua việc chỉ ra được nguyên nhân

của hạn chế của việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự,

qua đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp sát với thực tiễn tại thành phố Hà Nội

57

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO NHÌN TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bào

chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

Đảng và Nhà nước ta đã xác định tính cần thiết và cấp bách phải đẩy mạnh

cải cách tư pháp, các đạo luật mới về tư pháp vừa có hiệu lực đều đặt ra yêu cầu

nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, trong đó đảm bảo quyền TBC và nhờ

NBC cho BC. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về mặt lý luận cũng như pháp luật

thực định và thực tiễn áp dụng các quy định về quyền TBC và nhờ NBC của BC

trong thời gian qua, tôi đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định

pháp luật như sau:

Một là, trách nhiệm chứng minh tội phạm. Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy

định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là

mình vô tội...”.

Theo quy định của Điều 15 BLTTHS năm 2015 thì trách nhiệm chứng minh

tội phạm thuộc về “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Như vậy, các Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (ở giai đoạn xét xử là VKS và TA) được coi là

cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc

đồng nhất trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về “các Cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng” sẽ không làm nổi bật được nhiệm vụ là cơ quan xét xử của TA,

không làm rõ được vai trò là bên khách quan xem xét các quan điểm, chứng cứ luận

tội và gỡ tội để đưa ra được một phán quyết công tâm. Mặt khác, dễ gây hiểu nhầm

TA làm thay chức năng buộc tội của cơ quan truy tố. Bên cạnh đó có thể làm giảm

chất lượng tranh tụng tại phiên tòa khi TA được coi là một bên chứng minh tội phạm

và buộc tội đối với BC.

58

Do vậy tôi kiến nghị sửa đổi Điều 15 BLTTHS năm 2015 như sau: “Trách

nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan có thẩm quyền điều tra và Viện kiểm

sát. Tòa án thực hiện chức năng xét xử. Người bị buộc tội có quyền nhưng không

buộc phải chứng minh là mình vô tội...”

Hai là, về quy định người bào chữa tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015:

“Người bào chữa có thể là:

a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng

được trợ giúp pháp lý”.

Dễ dàng nhận ra sự mở rộng đối tượng có thể là NBC, đây là điểm rất tích

cực so với các BLTTHS trước đó. Về LS, TGVPL đã có luật điều chỉnh khá cụ thể.

Tuy nhiên về BCVND và người đại diện của người bị buộc tội thì vẫn còn nhiều

băn khoăn khi áp dụng vào thực tiễn.

Thứ nhất, quy định về “BCVND”. BLTTHS năm 2015 có quy định về

“BCVND” nhưng chưa quy định rõ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp nào

được cử và hình thức cử ra sao. Điều này không chỉ gây khó khăn cho cơ quan cử,

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà còn ảnh hưởng đến quyền bào chữa

của BC. Bên cạnh đó kiến nghị cần có văn bản pháp luật quy định chi tiết các điều

kiện trở thành BCVND theo hướng có sự tham gia rộng rãi của nhân dân mà đặc

biệt đội ngũ cán bộ tư pháp đã nghỉ hưu, những người đã và đang làm nghề luật ở

mọi lĩnh vực hay thậm chí là những người có hiểu biết pháp luật.

Thứ hai, “người đại diện của người bị buộc tội” là ai thực sự chưa rõ ràng.

Người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội hay người đại diện theo ủy

quyền? Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm

về thể chất, tâm thần không thể tự bào chữa, có người đại diện theo pháp luật nhưng

người này không tự thực hiện quyền đại diện thì có quyền ủy quyền cho một người

khác thực hiện (trong đó có ủy quyền tham gia bào chữa cho người bị buộc tội)

được không? Tôi cho rằng người đại diện của người bị buộc tội chỉ có thể là người

59

đại diện theo pháp luật để đảm bảo quyền lợi của người bị buộc tội dưới 18 tuổi,

người có nhược điểm về thể chất, tinh thần không thể tự bào chữa. Trong trường

hợp người đại diện này không thực hiện quyền đại diện mà ủy quyền cho người

khác thì người đó hoàn toàn có thể tham gia bào chữa cho người bị buộc tội.

Thứ ba, đối với đại diện theo pháp luật của pháp nhân cũng như quyền tự

bào chữa và nhờ người bào chữa của pháp nhân chưa được quy định cụ thể. Mới có

một quy định duy nhất là “Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền

TBC, nhờ NBC cho pháp nhân” (điểm l, khoản 1 Điều 435). Các quy định về pháp

nhân trong BLTTHS năm 2015 cũng theo hướng kết nối quyền và nghĩa vụ của

người bị buộc tội là pháp nhân sang quyền và nghĩa vụ của cá nhân (người đại diện

theo pháp luật). Tôi cho rằng, quy định như vậy là chữa thực sự hợp lý, dẫn đến

cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất. Kiến nghị cần có các quy định hướng dẫn cụ

thể về quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội là pháp nhân để đảm bảo tốt

nhất quyền TBC và nhờ NBC cho chủ thể này.

Ba là, về chỉ định NBC tại Điều 76 BLTTHS năm 2015 quy định các trường

hợp phải chỉ định NBC. Trong đó có các trường hợp “bị can, BC về tội mà BLHS

quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình”

hay “người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể TBC; người có

nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”. Tôi cho rằng cần mở rộng đối

tượng được chỉ định NBC là“người từ đủ 75 tuổi trở lên”. Thể hiện sự nhân đạo

của pháp luật đồng thời bảo đảm cho người từ đủ 75 tuổi trở lên có điều kiện tốt

nhất bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình khi mà sức khỏe thể chất, tinh

thần của họ cơ bản đã suy giảm ở độ tuổi này.

Bốn là, về thủ tục đăng ký bào chữa quy định tại Điều 78 BLTTHS năm 2015.

Thứ nhất, khoản 1 Điều 78 quy định “mọi trường hợp tham gia tố tụng,

người bào chữa phải đăng ký bào chữa”, đồng thời khi đăng ký bào chữa họ phải

xuất trình các giấy tờ theo khoản 2, khoản 3 điều này. Tôi cho rằng việc chuyển từ

việc cấp giấy chứng nhận bào chữa (mang tính chất “ban phát” của CQTHTT cho

NBC) sang thủ tục đăng ký bào chữa (mang tính chủ động hơn cho người bị buộc

tội nói chung và BC nói riêng trong việc thực hiện quyền nhờ NBC) là bước tiến

60

tích cực trong hoạt động TTHS. Tuy nhiên tôi nhận thấy quy định vẫn mang tính

chất “xin cho” giữa người bào chữa với Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Như vậy việc thực hiện quyền TBC nhờ NBC của BC nói riêng và người bị buộc tội

nói chung không được bảo đảm đầy đủ. Ở khía cạnh này tôi kiến nghị bỏ thủ tục

đăng ký bào chữa, sửa đổi theo hướng nếu những người có thể là NBC theo quy

định BLTTHS được người bị buộc tội nhờ bào chữa thì đương nhiên có quyền tham

gia tố tụng. Nếu thuộc các trường hợp không được bào chữa theo khoản 4 Điều 72

BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định NBC từ chối NBC

hoặc có vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa thì Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng thông báo dừng việc bào chữa của NBC và nêu rõ lý do theo quy định

của BLTTHS, đồng thời thông báo để người bị buộc tội lựa chọn NBC khác,

CQCTQTT yêu cầu, đề nghị cử chỉ định NBC khác theo quy định tại Điều 76

BLTTHS năm 2015.

Thứ hai, tại khoản 6 Điều 78 quy định:

“Văn bản thông báo NBC có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố

tụng, trừ các trường hợp:

a) Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC;

b) Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại

điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC…”

Theo đó, đối với trường hợp đã có văn bản thông báo NBC nhưng xảy ra các

trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 6 Điều 78 BLTTHS thì Cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng sẽ xử lý như thế nào? Có cần ra văn bản thông báo hay

không thì BLTTHS năm 2015 lại không quy định. Vì vậy, để đảm bảo quyền định

đoạt của BC, đề xuất sửa đổi bổ sung khoản 6 rõ hơn như sau:

“Văn bản thông báo NBC có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố

tụng. Trong các trường hợp sau đây thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

phải ra thông báo chấm dứt hoặc thay đổi NBC:

a) Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC;

b) Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại

điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC…”

61

Thứ ba, khoản 7 Điều 78 quy định:

“Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ việc đăng ký bào chữa và

thông báo cho NBC, cơ sở giam giữ khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Khi phát hiện NBC thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4

Điều 72 của Bộ luật này;

b) Vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa.”

Tôi cho rằng quy định này chưa đảm bào được quyền TBC và nhờ NBC của

BC nói riêng và người bị buộc tội nói chung. Bởi vì: (1) việc hủy bỏ đăng ký bào

chữa (bản chất việc hủy bỏ này là việc dừng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

NBC khi tham gia TTHS) lại chỉ đặt ra với người đã đăng ký bào chữa. Vậy trường

hợp NBC chỉ định thuộc các trường hợp điểm a, điểm b khoản này được chỉ định và

đã tham gia tố tụng thì xử lý thế nào?; (2) việc chỉ thông báo cho NBC và cơ sở

giam giữ là chưa hợp lý, tôi cho rằng người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói

riêng cần thiết được thông báo rõ ràng trong trường hợp này để họ có thể lựa chọn

NBC khác.

Do đó, tôi kiến nghị sửa đổi khoản này theo hướng dừng việc bào chữa của

cả NBC đăng ký và NBC chỉ định nếu thuộc các trường hợp theo điểm a, điểm b

điều này; mở rộng đối tượng thông báo là người bị buộc tội có NBC bị dừng việc

bào chữa và các tổ chức đã cử người NBC chỉ định quy định tại khoản 2 Điều 76

BLTTHS năm 2015; quy định rõ quyền được nhờ NBC khác cũng như trách nhiệm

của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc yêu cầu, đề nghị cử người

bào chữa khác theo quy định pháp luật.

Năm là, Quy định về trách nhiệm thông báo cho NBC. Khoản 1 Điều 79

BLTTHS năm 2015 quy định: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo

trước một thời gian hợp lý cho NBC về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố

tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này”.

Quy định trên là thực sự cần thiết, luật cho phép NBC tham gia tố tụng cùng

người bị buộc tội trong một số hoạt động nhất định (ví dụ khi lấy lời khai, hỏi cung

bị can, đối chất...), được gặp người bị buộc tội (Điều 80 BLTTHS năm 2015)...

Điều đó đảm bảo sự giám sát hoạt động tố tụng, đảm bảo tính minh bạch, dân chủ

62

trong hoạt động TTHS nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung và đặc biệt là đảm

bảo tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng

trong TTHS. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy sự tham gia này còn rất hạn chế và bị cản

trở bởi nhiều lý do từ nhiều phía trong đó có Người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, đồng thời việc tham gia đó là không đương nhiên mà cần một sự đồng ý và

phải tuân theo một thủ tục nhất định trong đó có việc xuất trình các thông báo theo

khoản 1 Điều 79 này. Tuy nhiên quy định này còn khá nhiều bất cập khi áp dụng

trên thực tiễn. Cụ thể thế nào là “một thời gian hợp lý” chưa có quan điểm thống

nhất. Ai là người ấn định thời gian được cho là hợp lý? Ai là người đánh giá tính

hợp lý khi có khiếu nại xảy ra? Nếu do Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì

có đảm bảo tính khách quan không? tôi cho rằng bản thân quy định này đã mơ hồ

như vậy sẽ dẫn đến việc thực hiện các quy định khác sẽ không được bảo đảm mà

đặc biệt là sự tham gia các “hoạt động mà họ có quyền tham gia theo quy định của

Bộ luật này” của NBC sẽ không được bảo đảm. Bên cạnh đó thông báo có thể qua

điện thoại, email, fax hay các phương tiện điện tử khác hay không? Hay chỉ có thể

thông báo bằng văn bản?

Tôi kiến nghị đơn giản hóa thủ tục thông báo, cho phép thông báo qua điện

thoại, email và các phương tiện điện tử khác. Đồng thời cho phép Người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng và người BC tự thỏa thuận “một thời gian hợp lý” nhằm

đảm bảo sự tham gia của NBC trên cơ sở đảm bảo thời hạn tố tụng, tính cấp thiết

của hoạt động tố tụng. Đồng thời cần thiết sửa đổi, bổ sung quy định này theo

hướng quy định rõ thời gian hợp lý là bao lâu, các trường hợp có sự kiện bất khả

kháng, trở ngại khách quan mà NBC không thể có mặt thì xử lý như thế nào.

Sáu là, về việc thu thập chứng cứ, tài kiệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa

của NBC, khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp không thể

thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì NBC có thể

đề nghị Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập”. Đây là quy định mới có

ý nghĩa tích cực đảm bảo cho NBC thực hiện tốt vai trò của mình. Tuy nhiên, trong

quy định trên cũng có những bất cập khi Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

gây khó khăn cho NBC như trường hợp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

63

không thực hiện ngay mà kéo dài thời gian hay chỉ triển khai mang tính “lấy lệ” hay

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lại trả lời NBC với nội dung chứng cứ, tài

liệu mà NBC đề nghị thu thập là không cần thiết trong giải quyết vụ án hoặc nêu ra

những lý do, trở ngại nào đó mà không tiến hành thu thập chứng cứ, khi NBC thắc

mắc thì chỉ được trả lời là họ không có nghĩa vụ phải thông báo kết quả thu thập

chứng cứ với NBC vì pháp luật không có quy định. Như vậy, để khắc phục được

những hạn chế có thể xảy ra như nêu trên, thiết nghĩ cần có các quy định cụ thể về

trách nhiệm của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thông báo bằng

văn bản cho NBC về kết quả thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong trường hợp

NBC đề nghị cũng như cần có các quy định rõ ràng về chế tài đối với cơ quan, tổ

chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, thiện chí, cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu

cầu, đề nghị của NBC mà không có lý do chính đáng trừ trường hợp chứng cứ, tài

liệu đó thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy

định cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải cung cấp. Đồng thời, cũng phải có quy

định về trách nhiệm cụ thể của Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án

mà lơ là, không công tâm, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện đề nghị của NBC về

thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không vì lý do chính đáng.

Bảy là, về giới hạn xét xử, BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp xét

thấy cần xét xử BC về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì TA trả hồ sơ để

VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho BC hoặc người đại diện của BC, NBC

biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì TA có quyền xét xử BC về tội danh

nặng hơn đó. (khoản 3 Điều 298). (1) Với quy định này thực sự chưa rõ ràng là có

bắt buộc phải thông báo cho “NBC” hay không khi quy định là “BC hoặc đại diện

của BC, NBC”. Quan điểm của tôi cho rằng nếu có NBC thì cần thiết phải thông

báo để đảm bảo quyền TBC và nhờ NBC cho BC. (2) Bên cạnh đó, nếu tội nặng

hơn là trường hợp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định NBC cho

BC thì làm thế nào?

Kiến nghị cần thiết có hướng dẫn cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung khoản này

như sau: “Trường hợp xét thấy cần xét xử BC về tội danh nặng hơn tội danh VKS

truy tố thì TA trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho BC, người đại

64

diện của BC, NBC biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì TA có quyền xét xử

BC về tội danh nặng hơn đó. Trường hợp tội danh nặng hơn đó là tội mà BLHS quy

định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù; tù chung thân, tử hình thì TA

chỉ định NBC theo khoản 2 Điều 76 Bộ luật này”.

Tám là, các trình tự tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải

được tiến hành trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng, dân chủ.

Thủ tục tranh tụng tại phiên toà (từ Điều 306 đến Điều 304 BLTTHS năm 2015)

phải được sửa đổi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh tụng giữa BC, NBC với

bên buộc tội, đảm bảo tốt nhất quyền TBC và nhờ NBC của BC. Các bên tham gia

phiên tòa thực hiện quyền đưa ra các chứng cứ và tiến hành hoạt động đối chứng.

TP lắng nghe các bên trình bày chứng cứ và đóng vai trò là người trọng tài, điều

khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên diễn ra tại phiên tòa, mà

không phải là người thẩm tra. Trách nhiệm của TP là xem xét các chứng cứ và tranh

luận giữa các bên và đưa ra phán quyết. Bản án của TA phải dựa trên kết quả tranh

tụng và tuân thủ các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Các kết

luận của Cơ quan Điều tra và VKS về hành vi phạm tội sẽ là cơ sở pháp lý ban đầu

để TA xem xét và cân nhắc khi ra bản án. Điều này, một mặt sẽ giảm bớt gánh nặng

của TA trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, mặt khác, đề cao vai trò tranh tụng của

các bên, đồng thời nâng cao tính khách quan cho bản án. Tuy nhiên, HĐXX hoàn

toàn không được xem nhẹ quan điểm, lý lẽ và các chứng cứ mà BC, NBC trình bày

tại phiên tòa, đó cũng là những yếu tố quan trọng đề HĐXX đánh giá toàn diện, đa

chiều và đúng đắn vụ án từ đó đưa ra phán quyết đảm bảo sự công minh, chính xác.

Chín là, cần thiết ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn toàn diện

về các quy định liên quan đến quyền TBC và nhờ NBC trong BLTTHS năm 2015.

Bộ luật này mới có hiệu lực thi hành, đã quy định rất nhiều điểm tích cực như mở

rộng diện người được đảm bảo quyền bào chữa (Điều 72); đổi mới quy định về cấp

đăng ký bào chữa (Điều 78); bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm cho NBC

thực hiện tốt quyền của mình (Điều 73); mở rộng trường hợp phải có NBC (Điều

76)... và hàng loạt các đổi mới tạo điều kiện và nâng cao chất lượng tranh tụng, bảo

đảm các quyền khác của BC nói riêng và người bị buộc tội nói chung. Tuy nhiên, để

65

việc áp dụng các quy định này được thống nhất và hiệu quả cần có sự quy định

hướng dẫn rõ ràng. Ví dụ một số vấn đề như: Về tranh luận tại phiên tòa, khoản 2

Điều 322 quy định KSV phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến

cùng từng ý kiến của BC, NBC, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Vậy căn

cứ nào để xác định là đã “đối đáp đến cùng”? Nếu trong trường hợp KSV phát

biểu: “VKS giữ nguyên quan điểm truy tố” thì có được coi là đối đáp đến cùng hay

không cũng cần phải giải thích, hướng dẫn cụ thể...

3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy định về

quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội

Không ngừng nghiên cứu hoàn thiện các quy định để bảo đảm cho BC thực

hiện tốt các quyền bào chữa của mình theo quy định của pháp luật. Theo đó, các Điều

tra viên, KSV, TP phải giải thích rõ ràng, cụ thể cho BC hiểu đồng thời bảo đảm cho

BC thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật như

quyền không bị coi là có tội cho tới khi hành có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật

của TA, quyền được thông báo về lý do bị buộc tội, quyền được có thời gian và điều

kiện chuẩn bị bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền được xét xử đúng thời

hạn, quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình, quyền tranh luận hay

quyền kháng cáo, khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường khi bị oan, sai.

Đặc biệt trong giai đoạn xét xử VAHS cần nâng cao trách nhiệm của các cơ

quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền TBC và

nhờ NBC của BC. HĐXX cần tập trung tạo điều kiện cho bên gỡ tội thể hiện quan

điểm, lý lẽ của mình khi họ bảo vệ quyền lợi cho BC, không được có thái độ ưu tiên

hơn cho KSV mà hạn chế quyền tranh luận của BC hay NBC bảo vệ cho BC. Việc

tranh luận, đối đáp qua lại giữa hai bên buộc tội và gỡ tội, giữa KSV và NBC phải

thật sự dân chủ. Khi các bên tranh luận, TP và HTND phải chú ý ghi chép lời tranh

luận giữa các bên, không được đặt những câu hỏi xen ngang ý kiến của LS đang

phát biểu, chú ý đến những chi tiết quan trọng, những chứng cứ mới, tạo điều kiện

cho các bên tranh luận về những nội dung, tình tiết chưa thực sự sáng tỏ. Đồng thời,

TP, HTND phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật tránh tình trạng Hội thẩm có tâm lý

66

trông chờ vào vai trò của Chủ tọa phiên tòa, không tích cực quan sát, lắng nghe việc

tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Về phía NBC, cần nâng cao năng lực, trách nhiệm bào chữa của mình bằng

việc viện dẫn đúng văn bản pháp luật làm căn cứ cho việc gỡ tội, tìm hiểu rõ các

chứng cứ đồng thời lập luận chặt chẽ, đi thẳng và trực tiếp vào nội dung tranh luận

với KSV tránh trường hợp phân tích, đối đáp lại với KSV mà không có căn cứ rõ

ràng, cụ thể.

Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền TBC và nhờ NBC của BC trong

TTHS ở nước ta hiện nay cho thấy, tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong công

tác đảm bảo các quyền nói trên cho BC nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế không

chỉ bắt nguồn từ phía các quy định của pháp luật mà còn từ việc nhận thức của

những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; từ các công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật; từ các công tác xã hội nhằm nâng cao chất lượng bào chữa cho

BC,… Những hạn chế đó đòi hỏi phải sớm được khắc phục đồng thời cần phải nâng

cao hơn nữa hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật về quyền TBC và nhờ NBC

của BC đặc biệt là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. Đề có thể nâng cao

chất lượng, hiệu quả trong việc áp dụng các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo

quyền TBC và nhờ NBC của BC trong quá trình tố tụng, chúng tôi xin đưa ra một

số giải pháp, kiến nghị mang tính định hướng như sau:

Một là, về phía các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng:

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng là những chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của

pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối

tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình.

Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền TBC và nhờ NBC

của người bị buộc tội chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và

đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế,

không phải tất cả những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều nhận thức đúng

vấn đề này. Là người trực tiếp giải quyết VAHS, hơn ai hết, Người có thẩm quyền

67

tiến hành tố tụng phải am hiểu thấu đáo những quy định của pháp luật về quyền

TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Họ có nghĩa vụ

phải giải thích cho người bị buộc tội hiểu rõ những quyền nói trên, đồng thời tạo

điều kiện thuận lợi để những quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy,

ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, những Người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn

đề này. Các cơ quan tư pháp, đặc biệt là Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

cần triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng

vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn

và nhận thức của đội ngũ tiến hành tố tụng, phải tập trung thực hiện tốt một số giải

pháp sau:

Thứ nhất, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những Người

có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức

mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến

thức chuyên môn, đánh giá trình độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng

xứng đáng. Phát động các phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác

phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm,

miễn nhiệm.

Thứ hai, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những Người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự

tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn. Sự có

mặt của NBC trong vụ án không gây khó khăn cho các Cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ chứ không phải là “đối thủ”

của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, Người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng cần phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa.

Thứ ba, nâng cao chất lượng tranh luận của KSV tại phiên tòa bằng việc rút

kinh nghiệm từ các lần tranh luận trước, có sự giám sát, chỉ đạo của lãnh đạo cấp

trên trong từng lần tranh luận. KSV có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện

quyền bào chữa của BC. Việc tranh luận giữa KSV – bên buộc tội với BC và NBC

– bên gỡ tội không chỉ đối trọng nhau mà còn góp phần tìm ra sự thật khách quan

68

của vụ án, giúp cho HĐXX đưa ra quyết định đúng đắn, công bằng. Vì vậy, nâng

cao hiệu quả tranh luận của KSV bằng việc giám sát, rút kinh nghiệm sẽ khiến cho

việc thực hiện quyền lực Nhà nước vừa được đảm bảo vừa không xâm phạm đến

các quyền bào chữa của BC.

Thứ tư, cần trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thực tế cho thấy hiện nay, nhiều Cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng như VKS, TA chưa được trang bị đầy đủ các phương

tiện phục vụ các công tác trong quá trình giải quyết VAHS điều đó ảnh hưởng trực

tiếp tới việc đảm bảo chất lượng của công tác giải quyết, xét xử vụ án. Bên cạnh đó,

chế độ dành cho những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế

chưa đảm bảo nhu cầu của họ nên dễ này sinh tâm lý chán nản, không tận tâm với

nghề hay bỏ nghề,… làm mất đi không ít những người thực sự có kĩ năng, chuyên

môn, nghiệp vụ trong việc giải quyết vụ án. Chính vì vậy, cần có sự quan tâm đầy đủ

hơn đến những Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói riêng và những người làm

tư pháp nói chung để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác.

Thứ năm, cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với công tác

thi hành pháp luật, cải cách tư pháp, trong đó có hoạt động tố tụng hình sự thông

quan việc đảm bảo quyền của bị cáo, theo đó cấp ủy nên có những chuyên đề giám

sát đối với các cơ quan tư pháp, tự kiểm tra báo cáo việc thực hiện hoạt động này,

Ngoài ra còn giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến việc thưc hiện

đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo mà các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, kịp

thời phát hiện, chỉ đạo ngăn chặn những hành vi gây ảnh hưởng đến nội dung quyền

bào chữa của bị cáo. Bên cạnh đó cấp ủy địa phương cần tang cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với các tổ chức và hoạt động của Luật sư tại địa phương thông quan việc

ban hành nghị quyết, chỉ thị chuyên đề, chương trình hoạt động để tang cường lãnh

đạo và chỉ tại công tác

Thứ sáu, các cấp, các ngành trong hoạt động tư pháp cần có sự phối hợp,

giám sát, kiểm tra lẫn nhau để qua từng vụ án thấy được những điểm chưa làm

được, những điểm còn hạn chế, thiếu sót để từ đó khắc phục, rút kinh nghiệm cho

69

những vụ án sau. Đồng thời, cần rà soát công tác quản lý của các cấp lãnh đạo để từ

đó nâng cao trách nhiệm đối với ngành mình quản lý.

Hai là, về phía NBC. Đối với NBC, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp

luật và kỹ năng hành nghề là một việc làm cần thiết. NBC phải nhận thức và nêu

cao hơn nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người

bị tạm giữ, bị can, BC. NBC phải thường xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật

và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của

người bị tạm giữ, bị can, BC có hiệu quả. Hiện nay, đối tượng được tham gia bào

chữa đã được mở rộng, không chỉ là LS mà còn là BCVND, TGVPL. Vì vậy, việc

nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm cho những người này cũng

cần phải được đảm bảo. Bên cạnh đó, không chỉ là bồi dưỡng chuyên môn mà cần

phải nâng cao giá trị đạo đức, giá trị nghề cho những người thực hiện bào chữa bởi

nếu không có sự tận tậm với người nhờ bào chữa, chỉ làm cho có, cho xong việc thì

không thể đem lại hiệu quả cao trong công tác bào chữa. Thái độ của NBC khi tham

gia tố tụng cần có sự chủ động tích cực hơn nữa trong việc thực hiện các quyền và

nghĩa vụ của mình. Việc thực hiện đó thể hiện trách nhiệm của NBC với người đã

nhờ mình bào chữa cũng như trách nhiệm bào chữa chỉ định theo quy định của pháp

luật. Ví dụ trong việc liên lạc với Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để tham

gia các hoạt động tố tụng mà mình được quyền tham gia, chủ động nắm bắt thời

gian, địa điểm của các hoạt động tố tụng đó. Chủ động trong việc đối đáp, tranh

luận, bảo vệ quan điểm bào chữa tại phiên tòa,...

Ba là, về công tác tuyên truyền pháp luật:

Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiểu

biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý

thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và

lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm

tội. Do đó, cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị

buộc tội nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của NBC là không cần thiết và

tốn kém. Nhận thức không đúng về vai trò và vị trí của NBC chính là rào cản lớn

70

làm cho sự tham gia của NBC bị hạn chế, trong khi bản thân người bị buộc tội và

người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa có hiệu quả. Việc

NBC tham gia tố tụng để bảo vệ cho người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng

phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ, người đại diện hợp pháp cũng

như người thân thích của họ. Do vậy, việc thay đổi nhận thức về vai trò của NBC là

cách thức tốt để trang bị cho người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng những

phương tiện, biện pháp giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe

dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ phía những Người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm thực hiện quyền bào chữa

của mình.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế

Trong bối cảnh Thủ đô Hà Nội đang trên đà hội nhập quốc tế, việc tang

cường phát triển, giao lưu hợp tác và các tổ chức quốc tế về kinh tế - văn hóa – xã

hội, không ngừng hội nhập quốc tế, việc đề cập đến hoạt động tố tụng hình sự và

công tác bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo có yếu tố nước ngoài trong tố tụng

hình sự là luôn cần thiết. Để đảm bảo quyền này và thực hiện chiến lược cải cách tư

pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2006 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về việc:“Nâng cao chất lượng tranh tụng tại

các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”

Các cơ quan có thẩm tiến hành tố tụng tiếp thu có chọn lọc mô hình tố tụng

tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Hiện nay, mô hình tố tụng của nước ta không còn

nguyên bản là mô hình tố tụng thẩm vấn, mà đã có sự pha trộn giữa mô hình tố tụng

tranh tụng với mô hình tố tụng thẩm vấn để trở thành mô hình tố tụng hỗn hợp.

Tranh tụng trong mô hình tố tụng Việt Nam hiện nay tuy chưa triệt để nhưng đàm

bảo được mục đích cuối cùng của xét xử chính là xác định sự thật vụ án, xét xử

đúng người đúng tội. Vì thế cần tiếp tục tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ trong

mô hình tố tụng của thế giới để nâng cao vai trò của tranh tụng trong tố tụng hình

sựgóp phần thực hiện việc quyền bào chữa của bị cáo có yếu tố nước ngoài. Ngoài

ra, cần đảm việc thông báo, cấp tống đạt văn bản tố tụng liên quan đến vụ việc mà

bị cáo có yếu tố nước ngoài để cơ quan ngoại giao, đại diện lãnh sự có thể bảo hộ

71

công dân nước mình, tăng cường kí kết các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế

liên quan đến chính sách bảo hộ công dân khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại

nước sở tại, nhất là việc đảm bảo cho việc bào chữa của họ đúng theo quy định của

nước sở tại và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tiểu kết chương 3

Các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền

bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội được xây

dựng dựa những vấn đề lý luận về quyền bào chữa và thực tiễn áp dụng của quyền

bào chữa của bị cáo trên phạm vi thành phố Hà Nội sao cho vừa đảm bảo được

quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt bị cáo. Các kiến

nghị giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện liên quan

đến quyền bào chữa trong tố tụng hình sự góp phần tăng cường nâng cao nhận thức,

trách nhiệm và kỹ năng của người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào

chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Giúp người bào chữa, bị cáo có thể bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp, đảm bảo được các hoạt động tố tụng. Qua đó nâng cao

chất tranh tụng, giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội tiết

kiệm thời gian, công sức của người tiến hành tố tụng, các chi phí tố tụng khác liên

quan đến việc giải quyết vụ án hình sự nhưng vẫn đảm bảo không để lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội.

72

KẾT LUẬN CHUNG

Ngày nay, quyền con người đã được ghi nhận và bảo đảm trên phạm vi toàn

cầu. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng bảo đảm các quyền con người, quyền công

dân của mọi người dân. Trong đó có các quyền con người của người bị buộc tội nói

chung và bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự. Quyền tự bào chữa và nhờ người

bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự cũng xuất phát từ các quyền con người cơ

bản, được Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật mới về tư pháp chú trọng bảo đảm.

Nghiên cứu lý luận chung về quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của

người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự cho thấy quyền

này mang tính tất yếu, khách quan thuộc về người người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Các

chủ thể trên có thể thực hiện các quyền mà pháp luật quy định nhằm chứng minh sự

vô tội, bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Trong đó khẳng định quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo gắn chặt

chẽ với giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà trọng tâm là xét xử sơ thẩm và xét xử

phúc thẩm. Việc đánh giá, kiến nghị, bảo đảm quyền tự chữa và nhờ người bào

chữa của bị cáo phải được xem xét một cách toàn diện các nguyên tắc cơ bản và các

quyền khác của bị cáo trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, nghiên cứu quy định trong

pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới cho thấy hầu hết các quốc gia

đều ghi nhận và bảo đảm quyền tự bào chữa nhờ người bào chữa, tuy nhiên tùy vào

đặc thù của từng quốc gia mà quyền này có những điểm khác biệt nhất định. Đối

với Việt Nam cũng vậy, cần có sự tiếp thu chọn lọc, phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh, thực tiễn hiện nay.

Nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa và nhờ người bào

chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự từ năm 1945 đến nay và thực tiễn trên địa bàn

Thành phố Hà Nội cho thấy quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo

không ngừng được phát triển, bổ sung và hoàn thiện. Đặc biệt Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015 có nhiều điểm mới quan trọng so với Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003 về quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa. Các vụ án trong lịch sử như các

vụ án Tệ Đình Đề, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn đến các vụ án thời gian

73

gần đây như vụ án Đinh La Thăng, Trương Hồ Phương Nga, Hoàng Công Lương...

cho thấy các quy định về quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo trong

tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án, vụ án nào quyền

tự bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo được bảo đảm thì vụ án được giải

quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án nào quyền tự bào chữa và nhờ

người bào chữa không được bảo đảm tốt thì có nguy cơ rất lớn dẫn tới oan, sai.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới quan trọng so với Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2003 về tự bào chữa và nhờ người bào chữa. Tuy chỉ mới

có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã cho

thấy nhiều điểm tích cực khi áp dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu nhận thấy vẫn còn

một số bất cập trong các quy định của pháp luật về quyền tự bào chữa và nhờ người

bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự cần được hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung.

Bên cạnh đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nghiên cứu còn chỉ ra một số

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy định về quyền tự bào

chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn Thành

phố Hà Nội.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt:

1. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp (1956), Thông tư số 2225/HCTP ngày 24/10/1956 về chấn

chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (1983), Thông tư số 691/QLTP ngày 31/10/1983 về công tác

bào chữa, Hà Nội.

4. Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

5. Công Thành (2014), “Cần hướng dẫn cụ thể về chế định bào chữa viên

nhân dân”, Báo Pháp luật Việt Nam (http://baophapluat.vn/tu-phap/can-

huong-dan-cu-the-ve-che-dinh-bao-chua-vien-nhan-dan-196129.html).

6. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh

số 47/SL ngày 10/10/1945 về cho phép áp dụng luật cũ không đi lại nguyên

tắc độc lập và chế độ chính trị của Nhà nước mới, Hà Nội.

7. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh

số 64/SL ngày 23/11/1945 về thành lập ban thanh tra đặc biệt, Hà Nội.

8. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh

số 21/SL ngày14/02/1946 về tổ chức Tòa án quân sự, Hà Nội.

9. Chủ tịch lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 46/SL

ngày 10/10/1945 quy định tổ chức đoàn thể luật sư, Hà Nội.

10. Chủ tịch Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1949), Sắc lệnh số 69/SL

ngày 18/6/1949, Hà Nội.

11. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc – UNDP (2010), Báo cáo quyền

bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam, Hà Nội.

12. Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền ngày

25/9/1789,

https://photos.state.gov/libraries/amgov/30145/publicationsotherlang/VIET

NAMESE.pdf.

75

13. Đào Trí Úc (2004), “Cải cách tư pháp – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (9).

14. Đinh Văn Quế (2000), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

15. Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng

hình sự, sự thể chế hóa cho phù hợp với Hiến pháp”,Trang thông tin điện tử

Bộ tư pháp (http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-

traodoi.aspx?ItemID=18, (49)

16. Đỗ Tiến Dũng (2017), “Bảo đảm quyền bào chữa của pháp nhân bị buộc

tội”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát (5).

17. Đỗ Thị Hường (2011), Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào

chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ.

18. Hoàng Thị Sơn (2000), “Về khái niệm quyền bào chữa bảo đảm quyền bào

chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí luật học, (5).

19. Hội đồng nhà nước (1987), Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, Hà Nội.

20. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị

can, BC trong TTHS, Luận án Tiến sĩ Luật học.

21. Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, Đại hội

đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217 (III)

ngày 10/12/1948.

22. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,

Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số

2200 (XXI) ngày 16/12/1966.

23. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và

văn hóa, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị

quyết số 2200A (XXI) ngày 16/12/1966.

24. Liên Hợp Quốc (1969), Công ước viên về luật điều ước quốc tế,

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Cong-uoc-Vien-

LuatDieu-uoc-quoc-te-23-05-1969-27-01-1980-86933.aspx.

76

25. Nguyễn Đức Hiển (2001), “Những vụ tù oan, đâu là nguyên nhân”, Báo

Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh.

26. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa cảu bị can, bị cáo là

người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ

Luật học.

27. Nguyễn Thanh Long (2017), “Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

dưới góc nhìn của LS bào chữa”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (5).

28. Nguyễn Văn Thái (2014), “Tháo gỡ khó khăn trong công tác trợ giúp pháp

lý”, Báo Nhân dân điện tử (http://www.nhandan.com.vn/phapluat/cai-cach-

tu-phap/item/22682902-thao-go-kho-khan-trong-cong-tac-tro-giup-phap-

ly.html).

29. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946,

Hà Nội.

30. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959,

Hà Nội.

31. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Hà Nội.

32. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 1980, Hà Nội.

33. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hà Nội.

34. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự năm 1985, Hà Nội.

35. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Hà Nội.

36. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 1992, Hà Nội.

37. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

38. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.

39. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.

40. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Hà Nội.

41. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Hà Nội.

42. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

77

43. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),

Hà Nội.

44. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Hà Nội.

45. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội.

46. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội.

47. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.

48. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),

Hà Nội.

49. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Hà Nội.

50. Stragovich M.S (1968), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Xô Viết, Nhà xuất

bản Khoa Học, Tập 1.

51. TA nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 16-TATC ngày 27/09/1974 về

hướng dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự, Hà Nội.

52. TS Lê Hữu Thể- TS Đỗ Văn Đương- ThS Nguyễn Thị Thủy (2013), Những

vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình

sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự

Thật.

53. TS Phạm Mạnh Hùng (2010), “Một số vấn đề về pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự và hệ thống tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức”, Tạp chí Kiểm

sát, (1).

54. TS. Dương Thanh Biểu, (2013), Theo dòng công lý (Tái bản, Hồi ức về

những vụ án nổi tiếng một thời), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

55. TS. Dương Thanh Biểu (2007), “Bàn về tranh luận của Kiểm sát viên tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm”, Tạp chí Kiểm sát, (13).

56. TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi –Viện Khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao (2015), “Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Trang thông

tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao (http://www.vksndtc.gov.vn/tin-

chi-tiet-5290).

78

57. TS. Phạm Mạnh Hùng (2011), Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản trong Bộ

luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp

Bộ.

58. TS. Trần Quang Tiệp (2009), Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia Sự Thật.

59. ThS. Hà Thái Thơ – ThS. Huỳnh Xuân Tình (2016), “Đảm bảo quyền bào

chữa theo quy định của Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015”,

Tạp chí Lý luận chính trị, (7).

60. ThS. NCS. Tôn Thiện Phương (2016), “Quyền bào chữa của người bị buộc

tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, (10).

* Tài liệu nước ngoài

61. https://supreme.justia.com/cases/federal/us/422/853/case.html.

62. https://supreme.justia.com/cases/federal/us/387/1/case.html.

63. https://supreme.justia.com/cases/federal/us/287/45/case.html.

64. https://supreme.justia.com/cases/federal/us/466/668/case.html

79