VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN LUẬN
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG THEO
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN LUẬN
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG THEO
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả, dẫn chứng nêu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và dựa vào những nguồn gốc
rõ ràng của các tài liệu được nghiên cứu.
Tác giả
Mai Thanh Bình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CHỦ RỪNG .......................................................................................... 10
1.1. Quan niệm chung về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ............................ 10
1.2. Pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
......................................................................................................................... 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NAM .................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng ........................................................................................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng tại tỉnh
Quảng Nam ..................................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ
RỪNG THEO PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG ... 60
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa môi trường
và sinh vật và đóng vai trò mật thiết đối với sự phát triển của nền kinh tế tại
mọi quốc gia. Trong luật Bảo vệ và phát triển rừng nước ta có ghi: “Rừng là
một trong những tài nguyên quý báu mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho nước
ta, rừng có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng với môi trường sinh thái,
đóng góp giá trị to lớn với nền kinh tế quốc gia, gắn liền với đời sống của
nhân dân và sự sống còn của dân tộc”[47]. Rừng là nguồn thu nhập chủ yếu
của đồng bào dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân bổ dân cư, điều
tiết lao động trong xã hội giúp xóa đói giảm nghèo cho xã hội.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì tính đến
ngày 31/12/2017, diện tích rừng trên toàn quốc đạt được hơn 14 triệu ha,
trong đó rừng tự nhiên là hơn 10 triệu ha và rừng trồng hơn 4 triệu ha. Diện
tích đủ tiêu chuẩn che phủ toàn quốc tương ứng hơn 40% [12]. Đồng thời,
theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì độ che phủ rừng có tăng
nhưng chủ yếu là rừng trồng với mức sinh học thấp, trong khi rừng tự nhiên
với mức đa sinh học cao thì lại thấp đi đáng kể. Hiện trạng mất rừng và suy
thoái rừng đã và đang gây ra nhưng hậu quả nặng nề đối với môi trường, ảnh
hưởng lớn đến đời sống nhân dân cũng như sư ổn định nhiều mặt của đất
nước. Hiện nay quản lý và sử dụng đất rừng và tài nguyên rừng nói chung
được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý của Nhà nước trong đó có Luật
Bảo vệ và Phát triển Rừng hiện đang có hiệu lực. Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng năm 2004 đã thực thi được gần 15 năm thì bên cạnh những kết quả đạt
được thì còn tồn tại một số những hạn chế và bất cập về phương pháp tiếp
1
cận, phạm vi điều chỉnh, cũng như nhiều chính sách về rừng và nghề rừng của
nước ta không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chưa tiếp thu được các
thông lệ tốt trên thế giới. Việc điều chỉnh lại hệ thống pháp luật về rừng đã
thu hút được sự quan tâm của không chỉ các cơ quan có chức năng quản lý
nhà nước, các cơ quan chuyên ngành pháp luật mà thu hút được sự quan tâm
của nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước, các hiệp hội nghề
nghiệp, các tổ chức xã hội, cũng như cộng đồng giới khoa học, chuyên gia.
Quảng Nam là địa phương có diện tích phần lớn rừng núi, đời sống
người dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu sản xuất nương rẫy, nhận thức về
công tác bảo vệ và phát triển rừng còn hạn chế. Nhu cầu lấy gỗ làm nhà của
người dân miền núi là rất lớn, giá gỗ nguyên liệu cao dẫn đến người dân lấn
chiếm đất lâm nghiệp, khai thác gỗ trái phép ngày càng gia tăng. Chính vì thế,
việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức gắn với trách nhiệm
quản lý, bảo vệ rừng của các cấp ủy đảng, chính quyền, chủ rừng và mọi tầng
lớp nhân dân là rất quan trọng. Nhất là đề cao quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Hiện nay, tỉnh Quảng Nam đang tổ chức
rà soát lại quỹ đất lâm nghiệp trên địa bàn, đẩy mạnh công tác giao đất, giao
rừng, thuê đất thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn, các
tổ chức cá nhân phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cây
dược liệu dưới tán rừng. Hiện có 4 tổ chức thuê dịch vụ môi trường rừng để
trồng sâm Ngọc Linh với diện tích 44,47ha và 2 đơn vị sự nghiệp của địa
phương sử dụng dịch vụ môi trường rừng để trồng sâm Ngọc Linh với diện
tích 10,9ha [36]. Đồng thời, tỉnh Quảng Nam cũng đang quy hoạch phát triển
cây quế Trà My với diện tích 10.000 ha. Đây là tín hiệu tốt để người dân có
công ăn việc làm, tạo sinh kế ổn định cho người dân đi đôi với công tác bảo
vệ và phát triển rừng [36]. Tuy nhiên, diện tích rừng trên địa bàn tỉnh tăng lên
đáng kể nhưng những thách thức phải đối mặt là chất lượng rừng vẫn ngày
2
càng suy giảm do khai thác rừng quá mức cho phép, khai thác bất hợp pháp,
chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và đất rừng. Trách nhiệm quản lý nhà
nước về rừng và đất rừng chưa cụ thể, pháp luật chưa tạo ra những “chủ rừng”
đích thực vì quyền hưởng lợi từ rừng của những người làm nghề rừng, chưa
giúp họ sống được bằng nghề rừng, làm giàu được từ rừng. Trong nhiều năm,
các ưu đãi dành cho người quản lý, bảo vệ rừng chủ yếu là từ khai thác lâm
sản hay sử dụng một phần diện tích đất rừng để phát triển nông nghiệp, ngư
nghiệp mà chưa có quy định nào khuyến khích họ gìn giữ, bảo vệ tài nguyên
rừng. Vì vậy, chủ thể nào được giao quản lý, bảo vệ, phát triển rừng cũng tìm
cách nhanh chóng khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng. Để giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng phù hợp với các yếu tố kinh tế, xã hội , truyền thống văn hóa và lịch
sử và nâng cao hiệu quả triển khai các quy định của pháp luật vào thực tiễn cả
nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Chính vì vậy, tôi chọn “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng được các học giả Việt Nam và nước
ngoài nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau như: lâm nghiệp, kinh tế,
môi trường... Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung này dưới khía cạnh khoa học
pháp lý thì chưa nhiều, tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu một số công trình:
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2007), “Forest law and
sustainable development - Addressing Contemporary Challenges Through
Legal Reform” (Luật lâm nghiệp và Phát triển bền vững - Giải quyết các thách
thức đương đại thông qua cải cách pháp lý). Nghiên cứu này xác định pháp
luật lâm nghiệp trong khuôn khổ pháp lý rộng lớn hơn, khám phá mối liên hệ
3
phức tạp của nó với các ngành luật khác và tổng hợp. Bên cạnh đó, nghiên cứu
này cũng tìm hiểu chi tiết về quy định pháp luật đối với vấn đề quản lý lõi rừng
như phân loại rừng, quy hoạch, nhượng bộ, cấp phép và quản lý rừng tư nhân.
Nghiên cứu kết luận với một số phản ánh về cách tính hiệu quả của pháp luật
về rừng có thể được tăng cường bởi sự chú ý đến các nguyên tắc hướng dẫn
quá trình soạn thảo pháp luật [43].
Tác giả Trần Văn Hải (2014), “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ cũng đã nghiên cứu một cách
khái quát về những vấn đề cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng ở Việt Nam như:
quản lý nhà nước về bảo vệ rừng; chính sách phát triển rừng; quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng; bảo vệ các loài thực vật, động vật hoang dã, quý, hiếm;
nghiên cứu chính sách bảo vệ rừng ở một số quốc gia trên thế giới và kinh
nghiệm đối với Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ
rừng. Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo vệ rừng Việt Nam như chính sách pháp luật bảo vệ rừng;
chính sách đất đai; tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ rừng; hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Mặc dù, đây cũng là công trình nghiên cứu khá
đầy đủ và chi tiết về pháp luật bảo về rừng. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã
cách đây 8 năm, cho nên so với hiện nay nhiều văn bản pháp luật mới ra đời
thì tính mới của nghiên cứu không còn nhiều [39].
Tác giả Hà Công Tuấn (2006), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng”, luận án Tiến sĩ đã phân tích đánh giá nh ững bài
học kinh nghiệm về quản lí rừng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thực
trạng quản lí nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam.
Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam trong những năm tới. Công trình này,
chủ yếu nghiên cứu pháp luật như một công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ rừng
4
mà chưa đề cập được toàn bộ hệ thống pháp luật về quản lý và bảo vệ tài
nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay [57].
Tác giả Phạm Văn Nam (2016), “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận án Tiến sĩ, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Luận án của tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và sự điều chỉnh của pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở
Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật, nêu bật
các yêu cầu đặt ra, cũng như xây dưng hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh đối
với pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng; làm sáng tỏ vai trò của pháp
luật đối với việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Khái quát quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở nước ta.
Nghiên cứu, đánh giá thưc trạng của pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng hiện hành của Việt Nam, chỉ ra nhưng ưu điểm và những mặt còn hạn
chế, bất cập cần được khắc phục. Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực trạng
pháp luật nêu trên, xác định các định hướng và đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng của nước ta hiện nay [40].
Tác giả Lê Thị Lệ Thu (2016), “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ
chức kinh tế theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004”, luận văn thạc sĩ,
Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế; từ đó đề xuất,
định hướng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các tổ chức kinh tế theo Luật
bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [58].
Bên cạnh đó, còn một số công trình như: Luận án tiến sĩ luật học của
tác giả Sofia R.Hirakuri năm 2003 tại Trường Luật, Đại học Washington với
đề tài “Can Law Save the Forests? Lesson from Finland and Brazil” (Liệu
5
rằng pháp luật có thể bảo vệ được rừng? Những bài học từ Phần Lan và
Brazil); Bài báo của tác giả Sofia Hirakuri (2000), “How Finland made forest
owners follow the law” (Phần Lan, làm thế nào để các chủ rừng tuân thủ
pháp luật); Luận văn thạc sỹ Pháp luật về chi trả dịch vụ môi trường rừng tại
Việt Nam hiện nay của tác giả Hồ Vĩnh Phú chuyên ngành Luật kinh tế năm
2014; Luận văn thạc sỹ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
bảo vệ rừng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Nhàng chuyên ngành Luật Hành chính; Luận văn Pháp luật về quản lý và sử
dụng rừng phòng hộ từ thực tiễn huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh của
tác giả Nguyễn Tiến Hưng chuyên ngành Luật kinh tế.
Mặc dù vậy, các công trình này mới dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng và phát triển rừng hay đánh giá
quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ chưa nghiên cứu cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam
hiện nay cũng như thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam. Đây là công trình
đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực này dưới góc độ của một
luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng, thực trạng các quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng tại Luật
Lâm nghiệp năm 2017 và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam, tìm ra
những hạn chế, nguyên nhân qua đó đề xuất, định hướng và đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
6
- Phân tích thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo Luật Lâm nghiệp năm 2017 và thực tiến thực hiện tại tỉnh Quảng Nam.
- Đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo
Luật Lâm nghiệp năm 2017. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng tại tỉnh Quảng Nam .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật theo Luật Lâm nghiệp năm
2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này, so sánh với Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng năm 2004.
Phạm vi nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia
đình, cá nhân và tổ chức kinh tế từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Dữ liệu được
học viên thu thập từ năm 2014 - 2018.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện
dựa trên phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật, đồng thời luận văn vận dụng các tư tưởng chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta về đổi mới tư duy chính trị pháp lý về cải cách hành chính, cải
cách tư pháp trong bảo vệ và phát triển rừng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu khi phân tích
cơ sở lý luận và các quy định nội dung của pháp luật về quyền và nghĩa vụ
7
của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế trong chương 1,
chương 2 của luận văn như: phân tích các khái niệm, vai trò của pháp luật;
phân tích các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ
gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế... Phương pháp này còn được sử dụng để
khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề nghiên cứu trong các
chương của luận án.
Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình thu thập dữ liệu
thông qua các số liệu báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về rừng và
bảo vệ rừng tỉnh Quảng Nam, Trung ương, của các cơ quan nhà nước khác và
số liệu từ các báo cáo nghiên cứu khoa học của các tác giả khác nhau.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ
chức kinh tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã luận giải nội hàm khái niệm “rừng”, các tiêu xác định rừng
theo quy định của Việt Nam; nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm của quyền
và nghĩa vụ của chủ rừng; khái niệm, đặc điểm, vài trò, yêu cầu và nguyên tắc
thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng. Luận văn đưa ra các
định hướng hoàn thiện pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ
chức kinh tế ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng giúp những người hoạt
8
động trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, các chủ rừng những kiến thức
cần thiết trong quá trình thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
là các hộ gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
có thể được sử dụng như nguồn tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu
và giảng dạy khoa học luật môi trường, luật lâm nghiệp trong các trường
chuyên luật và các trường giảng dạy pháp luật lâm nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
9
hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CHỦ RỪNG
1.1. Quan niệm chung về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
1.1.1. Khái niệm rừng, tài nguyên rừng và chủ rừng
1.1.1.1. Khái niệm rừng, chủ rừng
Có nhiều cách định nghĩa rừng khác nhau nhưng hầu hết đều định
nghĩa dựa vào phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quôc (FAO):
“Rừng là một khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của
tán rừng trên 10%, độ cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5 mét, rừng
bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng.” [55, tr.56]
Theo Khoản 3, Điều 2, Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam thì:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm,
vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính
là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác
định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực
vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở
lên [52].
Trong phạm vi luận văn, khái niệm rừng được hiểu theo quy định tạo
Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam.
Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể
cũng có nhiều điểm không giống nhau. Trước hết họ phải thuộc một trong các
nhóm đối tượng được tại Điều 8 Luật Lâm nghiệp 2017 (trừ Ban quản lý rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng được thành lập sau khi giao rừng phòng hộ, rừng
10
đặc dụng). Tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,
cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng
căn cứ trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu
tư (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước
ngoài), khu vực sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ
gia đình, cá nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ
chức kinh tế), nghiên cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh
- quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục
cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được công nhận quyền sử dụng rừng
hoặc quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng [52].
Theo Khoản 9, Điều 2, Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam thì:
Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được Nhà nước
giao rừng, cho thuê rừng; giao đất, cho thuê đất để trồng rừng; tự phục hồi, phát
triển rừng; nhận chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế rừng theo quy định của pháp
luật [52].
1.1.1.2. Khái niệm tài nguyên rừng
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được
hìnhthành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng
các nhucầu trong cuộc sống. Tài nguyên thiên nhiên từ rừng được hiểu như là
nguồn vậtchất hữu ích có sẵn trong tự nhiên để cung cấp cho nhu cầu kinh tế,
xã hội củaloài người và sinh vật.
Tài nguyên thiên nhiên được phân loại thành:
- Tài nguyên không tái tạo là nguồn tài nguyên khi khai thác và sử
dụng sẽbị cạn kiệt dần và không khôi phục lại trạng thái ban đầu như tài
nguyên khoángsản.
- Tài nguyên tái tạo là nguồn tài nguyên sau khi sử dụng có thể tái sinh
vàcó thể ngày càng phong phú hơn nếu được sử dụng hợp lý, quản lý tốt như
11
tàinguyên đất, rừng, biển và tài nguyên nông nghiệp.
Có thể hiểu, tài nguyên rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên có
khảnăng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá to lớn
baogồm rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp, gồm có thực vật
rừng,động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có quan đến rừng (gọi chung là
quần xãsinh vật). Tài nguyên rừng có thể được chia thành các nhóm sau: (1)
Tài nguyêngỗ; (2) Tài nguyên phi gỗ; (3) Tài nguyên đa dạng sinh học; (4)
Tài nguyên đất; (5) Tài nguyên nước. Ngoài ra, rừng còn cung cấp cho con
người lượng oxy dồidào, rừng điều hòa nước, chống xói mòn, giảm thiểu ô
nhiễm, cân bằng khí cacbonic/oxy [37]...
Tuy rừng có vai trò vô cùng to lớn và có giá trị đối với cuộc sống
nhưngchúng ta chưa xếp chúng vào loại tài nguyên nào, chưa đánh giá hết
những vaitrò của rừng.
- Về tài nguyên gỗ, từ trước đến nay, gỗ được con người đánh giá là
nguồntài nguyên cơ bản của hệ sinh thái rừng, nó cung cấp nguyên liệu cho
các ngànhxây dựng, công nghiệp giấy, sản xuất các đồ gỗ, các loại dụng cụ
gia đình...Các cây gỗ còn một giá trị khác quan trọng hơn nữa là bảo vệ đất,
chống xóimòn, điều hòa khí hậu và lưu lượng nước của các dòng chảy lục địa.
- Về tài nguyên phi gỗ, trước đây tài nguyên này thường gọi là lâm
sảnphụ nhưng ngày nay, thuật ngữ “lâm sản ngoài gỗ” được sử dụng để chỉ tất
cảcác loại tài nguyên rừng trừ tài nguyên gỗ. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm
nhữngsản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng như
củi, thangỗ, cành ngọn, gốc cây, những dịch vụ trong rừng như săn bắn, giải
trí, dưỡngbệnh, dịch vụ du lịch sinh thái... Giá trị kinh tế do lâm sản ngoài gỗ
đem lạihàng năm cho con người không thua kém so với gỗ.
- Về tài nguyên đa dạng sinh học, đa dạng sinh học có vai trò cực kỳ
quantrọng trong đời sống con người và môi trường. Các loài sinh vật hoang
12
dại là cơsở và nguyên liệu để cải tiến và tạo ra các loại giống cây trồng, vật
nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, kháng dịch bệnh... Còn rất nhiều loài
cây, loài vật hoang dã đã, đang và sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn thực phẩm
to lớn, nguồndược phẩm quý giá và nguồn gen vô cùng quan trọng trong việc
chọn giống,không những chỉ cho con người hiện nay mà còn cho cả các thế hệ
tương lai.
Trước khi dịch AIDS bùng nổ, chúng ta không hề biết rằng cây hạt dẻ
gai tạivịnh Moreton của Australia lại có thể cho chúng ta một loại chất thúc
đẩy quátrình nghiên cứu phương pháp điều trị bệnh này. Hiện nay, có rất
nhiều công tydược phẩm lớn trên thế giới đã đặt hàng hoặc tài trợ cho các
viện nghiên cứu đadạng sinh học của các nước nhiệt đới để tìm hiểu, nghiên
cứu và khai thác cácloài cây thuốc và con thuốc quý trong rừng của những
quốc gia giàu có về đadạng sinh học này.
Như vậy, nếu không quản lý tốt nguồn tài nguyên này thì hàng trăm
loàicó những công dụng khác nhau có thê bị biến mất trước khi chúng ta nhận
thứcđược tầm quan trọng của chúng.
- Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, tài nguyên đất và nước trong rừng cũng
làmột loại tài nguyên rừng. Như chúng ta đã biết, đất và nước là những nguồn
tàinguyên vô cùng quan trọng đôi với con người. Rừng bảo vệ một diện tích
đất đairất lớn tránh khỏi sự xói mòn và bạc màu, rừng còn điều hòa các dòng
chảy, giữnước, hạn chế nước đổ ra biển, làm tăng lượng nước ngầm cho các
vùng và làmlượng nước sạch được tái tạo nhanh hơn.
Việc thống nhất quản lý tài nguyên đất, trong đó có đất rừng cũng
đượcxác định là tài nguyên đặc biệt của Quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đấtnước, được quản lý theo pháp luật. Nhà nước thực hiện thống nhất
quản lý đốivới tài nguyên rừng bằng việc ban hành pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật vàbảo đảm cho pháp luật được thực thi.
13
Việc quy định tài nguyên rừng thuộc sở hữu toàn dân của Việt Nam có
sựtương đồng với Trung Quốc và Liên bang Nga. Trung Quốc coi tài nguyên
rừngdo Nhà nước thống nhất quản lý và Nhà nước Trung Quốc đã thực thi rất
thànhcông pháp luật lâm nghiệp trong nhiều thập niên vừa qua. Trong khi tình
hình tàinguyên rừng thế giới tiếp tục bị giảm xuống thì diện tích rừng của
Trung Quốcđều giữ đà tăng trưởng, được Cơ quan môi trường Liên hợp quốc
xếp vào danhsách một trong 15 nước có diện tích rừng nhiều nhất thế giới
[37].
Liên bang Nga có hướng đến tư nhân hóa việc khai thác tài nguyên
rừngvà pháp luật lâm nghiệp của Nga chú trọng phát triển ngành Lâm nghiệp
thànhmột ngành công nghiệp khai thác, chế biến gỗ vì trữ lượng gỗ của Nga
rất lớn.Trong khi đó, Phần Lan được xem là quốc gia thực thi thành công
nhấtviệc bảo vệ rừng và quản lý rừng bền vững lại quy định đất đai, rừng
thuộc sở hữu tư nhân. Nhà nước chỉ quản lý những diện tích rừng, đất rừng có
vai tròquan trọng đối với đa dạng sinh học, còn lại các diện tích rừng đều
được giaocho tư nhân quản lý [37, tr.68].
Như vậy, có thể thấy rằng, tài nguyên rừng là một loại tài nguyên
thiênnhiên vô cùng quý giá, các nước trên thế giới đều rất coi trọng việc bảo
vệ, pháttriển và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên này.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
1.1.2.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Quyền của chủ rừng là khả năng của mỗi chủ rừng được tự do hành
động. Khả năng đó được nhà nước ta ghi nhận trong pháp luật và được bảo
đảm bằng quyền lực nhà nước. Các chủ rừng có quyền sở hữu rừng sản xuất là
rừng trồng,đó là quyền được chiếm hữu, được sử dụng, định đoạt đối với cây
trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời
hạn được giao, được thuê để trồng rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ
14
và phát triển rừng và các quy định khác của pháp luật có liên quan [37].
Nghĩa vụ chủ rừng là sự tất yếu hành động của mỗi chủ rừng vì lợi ích
của toàn thể Nhà nước và xã hội. Sự tất yếu đó được Nhà nước quy định
trongHiến pháp và bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp, kể cả biện pháp
cưỡng chế [37].
1.1.2.2. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, do rừng là tài sản đặc biệt nên việc chủ sở được Nhà nước
giao rừng cho các chủ rừng cũng có những đặc điểm và tính chất riêng. Chế
độ sở hữu rừng có sự khác biệt nhất định với chế độ sở hữu đất. Rừng tự
nhiên, là rừng được phát triển bằng vốn của Nhà nước, động vật hoang dã, các
loài vi sinh, các cảnh quan và môi trường rừng được Nhà nước thống nhất
quản lý và định đoạt; rừng sản xuất(rừng sản xuất) là rừng trồng thuộc quyền
sở hữu của chủ rừng. Quy định này nhằm giúp phân biệt giữa quyền sở hữu
rừng tự nhiên và quyền sở hữu rừng trồng. Vấn đề này được quy định cụ thể
tại Điều 7 Luật Lâm nghiệp năm 2017 về sở hữu rừng.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng gắn với chính sách lâm
nghiệp của Nhà nước. Khi thực hiện chuyển từ một nền lâm nghiệp chủ yếu
dựa vào khai thác, lợi dụng tài nguyên rừng làm chính sang bảo vệ, nuôi
dưỡng, gây trồng và làm giàu vốn rừng.Chuyển từ một nền lâm nghiệp quảng
canh và độc canh cây rừng sang nền lâm nghiệp thâm canh và đa canh cây
rừng theo phương thức lâm - nông kết hợp, kinh doanh lợi dụng tổng hợp tài
nguyên rừng.
Thứ ba, chủ rừng ngày càng có nhiều quyền lợi hơn và gắn với các
nghĩa vụ cụ thể hơn. Từng bước chuyển từ lâm nghiệp lấy quốc doanh làm
chính sang nền lâm nghiệp nhân dân có nhiều thành phần kinh tế tham gia
(lâm nghiệp xã hội).Từ các quan điểm trên của Đảng mà quyền và nghĩa vụ
15
của chủ rừng cũng được thể chế hóa, sửa đổi theo, nhất là việc xã hội hóa một
bộ phận rừng tự nhiên sẽ tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư bảo vê và phát triển
rừng tự nhiên nghèo kiệt và rừng non đang phục hồi trở thành rừng tốt, có giá
trị kinh tế và môi trường.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ có thể được chuyển đổi từ chủ rừng này cho
chủ rừng khác theo hình thức giao khoán và theo quy định của Nhà nước về
điều kiện trở thành chủ rừng.
1.2. Pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Hệ thống pháp luật Việt Nam thường được phân chia thành các ngành
luật để nghiên cứu như: Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật kinh
tế… Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các lĩnh vực pháp luật cụ thể thì nó có sự
liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Các quy định về lĩnh vực pháp luật
lại nằm ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu
khái niệm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng như sau:
Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng là một lĩnh vực pháp luật bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh có liên quan đến hoạt động quản lý, bảo vệ và phát
triển nguồn tài nguyên rừng.
Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng có thể được hiểu cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng gồm các nhóm quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động quản lý
tài nguyên rừng của các chủ thể trong xã hội như: Nhóm quy định pháp luật
về quản lý tài nguyên rừng gồm: quản lý nhà nước và quản lý của chủ rừng
16
đối với tài nguyên rừng; Nhóm quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
gồm: pháp luật về bảo vệ thực vật, động vật hoang dã; pháp luật về ưu đãi của
nhà nước đối với chủ thể bảo vệ tài nguyên rừng; pháp luật về vi phạm và xử
lý vi phạm các hành vi xâm hại tài nguyên rừng Nhà nước - với tư cách là chủ
thể đặc biệt thực hiện việc quản lý tài nguyên rừng bằng việc ban hành các
quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quản lý,
bảo vệ, sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên rừng; tổ chức thực hiện các
quy định pháp luật và bảo đảm cho các quy định pháp luật đó được thực thi
hiệu quả [37].
Các chủ thể khác được nhà nước giao, cho thuê tài nguyên rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng như:
- Các tổ chức sự nghiệp được giao quản lý rừng để thực hiện nhiệm
vụcông ích như Ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng...
- Các tổ chức kinh tế được nhà nước giao rừng, cho thuê rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng, cho thuê rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được giao, thuê rừng sản xuất
là rừng trồng để thực hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài được thuê rừng sản xuất là rừng trồng để
thực hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng là sự kết hợp giữa các phương pháp mệnh lệnh,
phương pháp thoả thuận và phương pháp hướng dẫn.
- Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng điều chỉnh các quan hệ trong
việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng, trong việc giao, cho thuê rừng; cấp
phépgây nuôi, xuất nhập khẩu thực vật, động vật hoang dã, xử phạt vi phạm
17
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
- Phương pháp thỏa thuận được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong việc chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, thừa
kế đối với tài nguyên rừng.
- Phương pháp hướng dẫn được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng, hướng dẫn gây nuôi, trồng cấy
thực vật, động vật hoang dã...
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Các quy định pháp luật về quản lý của chủ rừng đối với tài nguyên rừng
- Quản lý tài nguyên rừng của các chủ thể được xác định rõ quyền và
nghĩa vụ của chủ thể này đối với từng loại rừng được giao, được thuê.
- Quản lý tài nguyên rừng của các tổ chức được giao rừng, được thuê
rừng:
+ Tổ chức trong nước gồm: tổ chức là đơn vịsự nghiệp quản lý rừng
được giao rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; tổ chức kinh tế được giao rừng sản
xuất, khucảnh quan của rừng đặc dụng...
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được phép thuê rừng sản xuất là
rừngtrồng hoặc đất rừng sản xuất chưa có rừng để đầu tư kinh doanh phát
triển rừng; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư dự án vào trồng
rừng chỉ được giao có thu tiền hoặc thuê rừng sản xuất là rừng trồng, đất trồng
rừng sản xuất chưa có rừng để kinh doanh, phát triển rừng.
Chủ rừng có quyền: được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; được sử dụng
rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời
hạn giao đất, cho thuê đất; được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư
nghiệp kết hợp theo quy chế quản lý rừng; được hưởng thành quả lao động,
18
kết quả đầu tư trên diện tích được giao, được thuê; bán thành quả lao động,
kết quả đầu tư cho người khác; được kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh
doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái môi trường theo dự án được
cấp có thẩm quyền phê duyệt; được bồi thường thành quả lao động, kết quả
đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan khi Nhà nước có quyết định thu hồi
rừng; được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà
nước để bảo vệ và phát triển rừng và được hưởng lợi do các công trình công
cộng bảo vệ, cải tạo rừng mang lại; được Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp đối với rừng được giao, được thuê.
Chủ rừng có nghĩa vụ: bảo toàn vốn rừng hiện có và phát triển rừng bền
vững theo đúng quy hoạch phát triển; sử dụng rừng đúng mục đích, đúng ranh
giới đã quy định; tổ chức bảo vệ và phát triển rừng; định kỳ báo cáo cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tàinguyên rừng; giao lại rừng khi Nhà
nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử dụng rừng; thực hiện
nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật; không
làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
1.2.3. Yêu cầu của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng
1.2.3.1. Yêu cầu của kinh tế thị trường đối với pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội, trong đó các
quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ
mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ của cư xử của từng thành
viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình
theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Nhận thức được những ưu điểm của nền kinh tế thị trường nên từ Đại
19
hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, thúc đẩy họ cải tiến lối làm
việc nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng nhà quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các
nhà quản lý kém hiệu quả và tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ, bảo
vệ lợi ích của người tiêu dùng [37, tr.69-70].
Đối với hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường đã tạo ra sự đa dạng về hình thức sở hữu, đa dạng về nguồn vốn
đầu tư... Nhà nước thừa nhận có sở hữu tư nhân đối với rừng trồng và quyền
sử dụng rừng đối với các chủ rừng, quyền tài sản đối với rừng và đất rừng.
Nhiều chủ thể tham gia vào việc bảo vệ và phát triển rừng như: nhà nước,
doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, thậm chí cả tổ chức, cá
nhân nước ngoài… Đây cũng là một lợi thế khi chúng ta tiến tới “xã hội hóa”
việc bảo vệ rừng và thu hút nguồn vốn của nhiều chủ thể đầu tư vào bảo vệ và
phát triển rừng.
Do đặc điểm của tài nguyên rừng là thời gian sinh trưởng kéo dài, nhu
cầu đầu tư lớn và thu hồi vốn chậm, trong khi đó các chính sách khuyến khích
bảo vệ và phát triển rừng của nhà nước lại chưa hấp dẫn nên nhiều chủ rừng
chỉ chú trọng khai thác rừng mà chưa thực sự quan tâm đến việc bảo vệ rừng.
Vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt nhiều chủ thể sau khi được nhà nước giao
quản lý rừng, đất rừng đã nhanh chóng tìm cách khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên này, thậm chí tìm cách chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng.
Nhược điểm lớn nữa của kinh tế thị trường là luôn đặt lợi ích lên hàng
đầu nên cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết cái
gọi là “lợi ích công cộng hay hàng hóa công cộng” như đường xá, y tế, môi
trường, đa dạng sinh học…Vì vậy, trong những năm qua, tài nguyên rừng của
20
nước ta bị khai thác cạn kiệt ở nhiều mặt từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ đến động vật
hoang dã, quý, hiếm… Nhiều diện tích rừng độc canh, thậm chínhiều diện
tích rừng bị chuyển đổi sang trồng cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cà
phê…
1.2.3.2. Yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Trong quá trình giao lưu, buôn bán quốc tế, tài nguyên rừng của Việt
Nam bị khai thác quá mức dẫn đến tình trạng suy thoái, cạn kiệt, nhiều loài
thực vật, động vật rừng có nguy cơ tuyệt chủng. Để gìn giữ, bảo vệ và phát
triển nguồn tàinguyên rừng, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ rừng nói riêng. Việt Nam
đã tham gia 23 Công ước quốc tế về môi trường, trong đó các Công ước liên
quan đến bảo vệ và phát triển rừng như:
Nghị định thư bổ sung Công ước này tại Paris năm 1982. Việt Nam
tham gia Công ước này ngày 20/9/1988.Công ước về buôn bán quốc tế về các
giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa (CITES), 1973, Việt Nam tham
gia ngày 20/01/1994.Công ước về Ða dạng sinh học (CBD), 1992, Việt Nam
tham gia ngày 16/11/1994.Công ước RAMSAR có hiệu lực vào năm 1975 và
tính đến tháng 12/2006 có 153 thành viên, ở mọi nơi trên thế giới. Với việc
tham gia Công ước RAMSAR đã tác động rất lớn đến hành động của Việt
Nam để thực thi công ước này. Như vậy, khi mở rộng hội nhập quốc tế và
tham gia các công ước quốc tế trong lĩnh vực này thì yêu cầu đối với pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng của Việt
Nam cũng phải được ban hành và tổ chức thực hiện cho phù hợp [53].
1.2.3.3. Yêu cầu quản lý rừng bền vững đối với pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường
21
luật pháp, tham gia các công ước… thì không thể bảo vệ được diện tích rừng
tự nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các
nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay được cả
cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các
giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và
chứng chỉ rừng. Quản lý rừng bền vững là quản lý rừng ổn định bằng các biện
pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra như: sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ
gia dụng, lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ
chốngcát bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo
tồn các hệ sinh thái...
Dưới khía cạnh phát triển bền vững, thì quản lý rừng bền vững phải đạt
được sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng. Cuộc sống
con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó,
chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.
Ngoài ra, quản lý rừng bền vững phải đạt được sự bình đẳng và công
bằng trong sử dụng tài nguyên rừng ở cùng thế hệ. Đây là một vấn đề khó, bởi
vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn
chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: (i)
sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội và (ii) tất
cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau.
Để thực hiện quản lý rừng bền vững, một trong các biện pháp mà nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng là cấp ch ứng chỉ rừng. Đây được xem là công
cụ nhằm hạn chế tối đa tình trạng khai thác trái phép đối với tài nguyên rừng.
Chứng chỉ rừng là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị quản lý
rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững do tổ
22
chức chứng chỉ hoặc được uỷ quyền chứng chỉ quy định. Chứng chỉ rừng
được xem như cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Khái niệm thương
mại và phát triển bền vững được hình thành trên cơ sở cho rằng có thể sử
dụng các biện pháp thương mại để kiểm soát một cách có hiệu quả các tác hại
về môi trường, phát triển một hệ thống thị trường chỉ chấp nhận tiêu thụ các
sản phẩm có chứng chỉ an toàn môi trường. Chứng chỉ rừng là cần thiết để xác
nhận quản lý rừng bền vững của chủ rừng, cũng như chứng chỉ ISO để xác
nhận quản lý chất lượng sản xuất công nghiệp vì cộng đồng, vì môi trường…
đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng rừng của họ
đã được quản lý bền vững. Người tiêu dùng sản phẩm từ rừng đòi hỏi các sản
phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý
bền vững. Do đó, nhà sản xuất phải chứng minh rằng các sản phẩm rừng của
mình, đặc biệt là gỗ, được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững
bằng cách đã được cấp chứng chỉ rừng.Mục tiêu của chứng chỉ rừng trước hết
là thúc đẩy quản lý rừng bền vững. Tuy nhiên, chứng chỉ rừng cũng tác động
trở lại đối với các hoạt động quản lý rừng của các chủ rừng, quản lý nhà nước
về lâm nghiệp, đến thị trường gỗ và lâm sản. Quản lý rừng bền vững và chứng
chỉ rừng là những tiêu chí quan trọng được các tổ chức quốc tế và các nước trên
thế giới cùng hướng tới xây dựng và thực thi nhằm mục tiêu quản lý rừng bền
vững cũng như phát triển bền vững.
1.2.3.4. Yêu cầu kế tục truyền thống văn hóa, luật tục đối với pháp luật
bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Hầu hết diện tích rừng của Việt Nam nằm ở các vùng đồi núi trải dài từ
bắc vào nam, đây là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong suốt chiều dài lịch sử, bên cạnh các quy định pháp luật của nhà nước,
các dân tộc, làng bản đều có luật tục riêng ghi lại các quy tắc ứng xử hợp lý
của cộng đồng đối với các vấn đề trong xã hội, trong đó có các quy tắc ứng xử
23
nhằm bảo vệ và phát triển rừng. Ví dụ, Luật tục của người Thái quy
định:Rừng phòng hộ ở đầu nguồn nước, tuyệt đối cấm khai thác. Rừng dành
cho việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà, phục vụ cho các nhu cầu của cuộc
sống thì tuyệt đối không được chặt đốt làm nương. Nhiều bản còn có những
khu rừng tre, rừng vầu cấm chặt phá gọi là “rừng măng cấm”. Sau những trận
mưa đầu mùa, măng mọc rộ, dân bản nô nức vào rừng hái măng như nấm. Sau
đó, bản lại “đóng cửa rừng” đợi đến mùa măng sau. Những khu rừng thiêng,
là rừng của thần linh trú ngụ, rừng chôn cất người chết, thì lại càng không bao
giờ có ai dám tàn phá.
Luật tục của người Ê Đê với 236 điều, trong đó có khá nhiều điều quy
định trực tiếp về việc bảo vệ tài nguyên rừng bao gồm các nội dung: bảo vệ
cây đầu nguồn, bảo vệ cây rừng bên bờ suối, bảo vệ cây rừng ở bến nước, bảo
vệ cây rừng ở khu rừng già, bảo vệ cây rừng ở khu rừng non. Bởi cây rừng là
mái nhà của cộng đồng, mất cây rừng đất sẽ xói mòn, nguồn nước sẽ cạn kiệt,
con người và muôn loài sẽ bị huỷ diệt. Do đó bảo vệ cây rừng là bảo vệ môi
trường sinh thái của cộng đồng [12].
Qua phân tích một số luật tục của các đồng bào dân tộc trên đây, có thể
thấy, đồng bào các dân tộc rất xem trọng việc bảo vệ và phát triển rừng và có
quy định đề cao ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
cho các đời sau. Trong thời đại ngày nay, những luật tục của các dân tộc đối với
việc bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, bên cạnh việc ban
hành pháp luật, chúng ta cần có quy định khuyến khích các dân tộc phát huy
những giá trị tốt đẹp của luật tục để phát triển bền vững tài nguyên rừng.
1.2.4. Nguyên tắc của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng trong nền kinh tế thị
trường hiện nay cần được xây dựng dựa trên hệ thống các nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc 1: Nguyên tắc phát triển bền vững của chủ rừng đối với tài
24
nguyên rừng.
Nguyên tắc phát triển bền vững cũng được Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004 của Việt Nam quy định thành nguyên tắc lập quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại Điều 13 và Luật Lâm nghiệp năm 2017 thì
quy định tại Điều 10, đó là: hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phảibảo đảm
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng an ninh; phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp;
đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa
phương.Trong Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định về đất trồng rừng được
xếp trong mục đất nông nghiệp và phân chia thành các loại đất rừng phòng
hộ, đất rừng đặc dụng và đất rừng sản xuất. Nguyên tắc sử dụng đất, có quy
định: việc sử dụng đất phải tôn trọng các nguyên tắc tiết kiệm, có hiệu quả,
bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử
dụng đất xung quanh [47] [52].
Trong Luật Môi trường năm 2014, vấn đề quản lý rừng bền vững được
đề cập đến ở các khía cạnh cụ thể như: tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ
các giống, loài thực vật, động vật hoang dã, bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo
vệ rừng, biển và các hệ sinh thái. Việc khai thác các nguồn lợi sinh vật phải
theo đúng thời vụ, địa bàn, phương pháp và bằng công cụ, phương tiện đã
được quy định, bảo đảm sự khôi phục về mật độ và giống, loài sinh vật;
không làm mất cân bằng sinh thái [50].
Cùng với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với ngành lâm
nghiệp như quản lý, sử dụng hiệu quả rừng và đất rừng; đóng góp tương xứng
với tiềm năng cho nền kinh tế quốc dân; phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập đầy đủ, hài hòa với xu hướng quản trị
rừng trong điều kiện biến đổi khí hậu, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bảo
vệ môi trường, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng
25
phát triển ngành lâm nghiệp như tại các Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ X, XI và XII, nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05
tháng 8 năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn xác định “Để xây dựng nền nông nghiệp
toàn diện cần phát triển toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu
rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái,
lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng” [3].
Ngày 15/11/2017, tại kỳ họp thứ 4, Quốc Hội khóa XIV đã thông qua
Luật Lâm nghiệp gồm 12 chương, 108 điều. So với Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng 2004 thì Luật Lâm nghiệp bổ sung 4 chương mới, phù hợp với sự vận
động của thực tiễn gồm: chế biến, thương mại lâm sản; khoa học và công
nghệ, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; định giá rừng, đầu tư, tài chính trong
lâm nghiệp; quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm. Điểm đối mới quan
trọng nhất của Luật Lâm nghiệp là việc coi lâm nghiệp là ngành kinh tế - xã
hội liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm lâm nghiệp, từ quản lý, bảo vệ, phát
triển đến sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản. Việc mở rộng phạm
vi điều chỉnh theo hướng liên kết theo chuỗi các hoạt động lâm nghiệp nhằm
tạo ra rừng, sản xuất và cung ứng lâm sản đáp ứng cho nền kinh tế quốc dân
và đời sống xã hội, đảm bảo chế biến và xuất khẩu lâm sản có trách nhiệm.
Luật Lâm nghiệp sẽ chính thức đi vào cuộc sống từ 01/01/2019, tạo hành lang
pháp lý và thời cơ, vận hội mới cho lâm nghiệp Việt Nam [52].
Nguyên tắc 2: Nguyên tắc xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước đối với vấn đề quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
“…Muốn quản lý rừng tốt phải có chủ rừng cụ thể ở từng khu rừng và
chủ rừng phải có lợi ích xứng đáng từ rừng đưa lại” [42]. Xác định chủ thể
quản lý, bảo vệ rừng hay chủ rừng, đảm bảo “mỗi khu rừng phải có chủ thực
sự”, do đó, đã trở thành một vấn đề căn bản gắn liền với tiến trình phát triển
26
và cải cách ngành lâm nghiệp Việt Nam trong 30 năm qua [45]. Một loạt các
chính sách như giao đất, giao rừng, khoán quản lý bảo vệ rừng, cho thuê rừng
và môi trường rừng,… lần lượt ra đời, thúc đẩy quá trình trao quyền, khuyến
khích sự tham gia của các chủ thể, đặc biệt chủ thể ngoài ra nước (hộ gia
đình, cộng đồng, cá nhân) vào hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, hướng tới mục
tiêu nâng cao chất lượng quản lý, bảo vệ rừng và góp phần xóa đói giảm
nghèo vùng cao. Dù luật BV&PTR ban hành năm 2004 đã đánh dấu một bước
tiến lớn khi thể chế hóa “quyền sở hữu rừng” cho chủ rừng sản xuất là rừng
trồng; nhưng nhìn tổng thể, quyền sở hữu rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên, ở
Việt Nam vẫn chưa được thừa nhận một cách đầy đủ, “tư duy lý luận về
quyền sở hữu rừng, quyền kinh doanh rừng, quyền hưởng từ các nguồn lợi từ
rừng… lại chưa rõ ràng, minh bạch… khi phần lớn diện tích rừng và đất rừng
vẫn do các tổ chức nhà nước quản lý và sử dụng” [44]. Với khung pháp lý
hiện nay, các chủ rừng chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng rừng, đất rừng;
trong khi quyền định đoạt vẫn thuộc về Nhà nước. Các chủ rừng đặc dụng,
phòng hộ không có quyền định đoạt đối với rừng mà chỉ thực hiện nhiệm vụ
quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng dưới sự giám sát của các cơ quan
chức năng về lâm nghiệp. Các quyền chuyển nhượng, trao đổi, cầm cố hay
góp vốn quyền sử dụng rừng cũng không được cho phép hoặc thừa nhận, kể
cả khi ban quản lý rừng được nhà nước cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Các
chủ rừng sản xuất là rừng tự nhiên cũng chỉ được trao quyền thế chấp, bảo
lãnh phần giá trị gia tăng của trữ lượng gỗ đã tạo thành do công sức đầu tư
của họ. Nhưng trên thực tế, hầu như không có khả năng xác định được phần
giá trị gia tăng này trong trữ lượng gỗ tăng trưởng tự nhiên của rừng vì vào
thời điểm giao rừng giá trị của rừng không được xác định [41]. Nói cách khác,
những quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể quản lý rừng hay
chủ rừng chưa tường minh, cơ hội thực hành quyền trong thực tế rất hạn chế;
27
từ đó ảnh hưởng đến động lực tham gia BV&PTR của các chủ thể liên quan,
trong đó có các hộ gia đình, cộng đồng – những người đã và đang có sinh kế
dựa vào rừng.
Việc Nhà nước trực tiếp nắm giữ tài nguyên rừng nhằm bảo vệ, duy trì
và gia tăng lợi ích của rừng đối với quốc gia trên tất cả các mặt môi trường,
kinh tế và xã hội là lẽ tất yếu. Nhưng trên thực tế, người dân sống ở khu vực
rừng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. dưới áp lực giảm nghèo, dân số
gia tăng thì nhu cầu được khai thác, sử dụng các sản phẩm, nguồn lợi từ rừng
để đáp ứng nhu cầu sinh kế hàng ngày càng nhiều hơn. Xung đột lợi ích, mục
đích sử dụng và chưa có nhận thức chung về bảo vệ tài nguyên rừng dẫn đến
tình trạng người dân tìm cách khai thác rừng “của nhà nước” làm nguồn lợi
cho riêng mình [41]. Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ rõ, giao đất giao rừng
có thể cung cấp lợi ích thực sự cho người dân địa phương, nhưng dưới ảnh
hưởng của các thể chế địa phương, mà các lợi ích này có thể bị phân bổ một
cách thiếu minh bạch và không công bằng giữa các hộ gia đình, cộng đồng; từ
đó làm nảy sinh những mâu thuẫn không đáng có và giảm hiệu quả thực tế
của chính sách này. Những vấn đề nêu trên đặt ra các thách thức về các lựa
chọn trong phân bổ tài nguyên rừng và thực hiện quá trình chuyển giao quyền
như thế nào để quản lý, bảo vệ rừng một cách hiệu quả nhất. Nói cách khác,
minh định rõ ràng hơn về quyền đối với tài nguyên rừng, đất rừng đối với
từng chủ thể liên quan, đặc biệt là hộ gia đình và cộng đồng, sẽ là chìa khóa
quan trọng để giải quyết các vướng mắc hiện nay.
Trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc trong suốt thời gian vừa qua, nhà nước cũng đã quy định về trách
nhiệmcủa các chủ thể bảo vệ rừng, đặc biệt là trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương ởnhiều văn bản khác nhau
như: Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Đất đai năm 2013, Luật
28
Đa sạng Sinh học năm 2012, Luật Môi trường năm 2014, Luật Lâm nghiệp
năm 2017 cũng như các văn bản hướng dẫn dưới luật khác. Tuy nhiên, khi
giải quyết các vụ việc cụ thể thì trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, cá nhân
cụ thể lại không xác định được và xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa
các bộ, ngành, cơ quan như kiểm lâm, cơ quan hải quan, UBND địa phương.
Ví dụ, việc xác định trách nhiệm cho thuê rừng đối v ới các tổ chức, cá nhân
nước ngoài trong thời gian vừa qua. Việc thay đổi quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng ở các địa phương...Do vậy , nguyên tắc này cần được xây dựng theo
một nguyên tắc thống nhất trong hệ thống các văn bản có liên quan đến vấn đề
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
Nguyên tắc 3: Nguyên tắc kỹ thuật
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng cần phải đảm bảo các
nguyên tắc kỹ thuật của ngành lâm nghiệp và các quy chuẩn quốc tế như:
nguyên tắc xác định các tiêu chí phân loại rừng, đất rừng theo mục đích sử
dụng. Diện tích rừng, đất rừng nào phải được xây dựng nhằm mục đích phòng
hộ, diện tích rừng, đất rừng nào xây dựng thành vườn quốc gia, khu bảo tồn…
và tiêu chí cụ thể để xây dựng các khu rừng đó. Ngoài ra, chúng ta còn phải
dựa vào các nguyên tắc về an ninh, quốc phòng để xác định các diện tích đất,
rừng nào thuộc vùng trọng yếu về an ninh quốc phòng… Dựa trên nguyên tắc
này, chúng ta xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, bảo vệ rừng hợp
lý và kế hoạch phát triển kinh tế trung và dài hạn cho các chủ rừng…Tránh tình
trạng quy hoạch sử dụng đất và bảo vệ rừng của accs chủ rừng liên tục bị thay
đổi bởi các mục tiêu phát triển kinh tế của các địa phương. Hệ thống các
nguyên tắc kỹ thuật cần được xây dựng chi tiết và cụ thể làm cốt lõi cho việc
xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát riển rừng chứ không phải là các văn bản
hướng dẫn chi tiết sau khi có luật.
1.2.5. Vai trò của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và
29
nghĩa vụ của chủ rừng
Hệ thống pháp luật về rừng và nghề rừng luôn đóng vai trò rất quan
trọng trong phát triển bềnvững trong giai đoạn hiện nay, trong đó rừng thể
hiện cả vai trò kinh tế trong phát triển; cả vaitrò xã hội trong xóa đói, giảm
nghèo tại vùng cao, vùng sâu, vùng xa; và cả vai trò bảo vệ môitrường và ứng
phó với biến đổi khí hậu. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 đã thực
thiđược hơn 10 năm và được thay thế bằng Luật Lâm nghiệp năm 2017, cái
được cũng nhiều và cái chưa được cũng không ít, kể cả từ tên luật,phương
pháp tiếp cận, phạm vi điều chỉnh, cũng như nhiều chính sách về rừng và
nghề rừng củanước ta không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chưa tiếp
thu được các thông lệ tốt trên thếgiới.
- Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng là cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. Tất cả các hoạt
động bảo vệ và phát triển rừng phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Trong lịch sử, nhà cầm quyền đều sử dụng pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất
để quản lý xã hội, trong đó có vấn đề quản lý tài nguyên rừng. Từ thời phong
kiến đến thời thuộc Pháp, nhà cầm quyền đều quy định về cách thức quản lý,
bảo vệ rừng từ việc xáclập quyền sở hữu đối với rừng, việc xác lập các khu
rừng cấm... Khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, pháp luật cũng
được xem là công cụ quan trọng nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói
chung và bảo vệ và phát triển rừng nói riêng. Pháp luật xác lập quyền sở hữu
đối với tài nguyên rừng.
- Pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc xác định thẩm quyền của các chủ
thểbảo vệ và phát triển rừng. Pháp luật quy định thẩm quyền cụ thể của các cơ
quan nhà nước ở trung ương, địa phương trong việc bảo vệ và phát triển rừng
đặc biệt là vai trò của các chủ rừng. Từng cơ quan có thẩm quyền cụ thể như:
thẩm quyền trong việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng; thẩm quyền
30
trong việc giao rừng, cho thuê rừng; thẩm quyền trong việc chuyển đổi mục
đích sử dụng rừng; thẩm quyền trong việc xử phạt vi phạm đối với các hành
vi xâm hại tài nguyên rừng; thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng...
- Pháp luật xác định thẩm quyền của các chủ thể được nhà nước giao
rừng, cho thuê rừng. Tùy thuộc chủ thể thực hiện mục đích công ích hay mục
đích kinh doanh mà pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Đối
với các chủ thể thực hiện nhiệm vụ công ích thì quy định trách nhiệm nhiều
hơn quyền lợi, đối với các chủ thể có mục đích kinh doanh, pháp luật xác lập
quyền hưởng lợi tương ứng với nghĩa vụ phải thực hiện, đảm bảo phát triển
kinh tế đồng thời với phát triển tài nguyên rừng một cách bền vững.
- Pháp luật là cơ sở cho việc quản lý rừng bền vững. Chủ rừng hoặc
người quản lý rừng tổ chức các hoạt động của một khu rừng xác định luôn thu
được lợi ích về gỗ, lâm sản và giá trị dịch vụ tối đa mà không làm thay đổi
diện tích, trữ lượng và năng suất lâm sản trong đó và không làm ảnh hưởng
tới lợi ích lâu dài của khu rừng. Như vậy, để quản lý rừng bền vững thì công
cụ quản lý không thể thiếu đó là pháp luật. Pháp luật xác định mức độ khai
thác, tiêu chuẩn rừng được khai thác để đảm bảo phát triển rừng bền vững cả
ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Tùy thuộc loại rừng khác nhau, địa hình
khác nhau mà pháp luật quy định mức độ khai thác phù hợp, thậm chíđối với
các diện tích rừng phòng hộ rất xung yếu, các diện tích rừng bảo tồn như
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiênnhiên, pháp luật cấm khai thác gỗ, lâm sản
ngoài gỗ, các chủ thể chỉđược hưởng lợi ích từ việc cung cấp các giá trịdịch
vụ môi trường rừng, khai thác tận thu các cây gãy, đổ, sâu bệnh. Như vậy,
pháp luật chính là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý rừng bền vững.
- Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc cấp chứng chỉ rừng. Để đạt được
mức độ quản lý rừng bền vững, các tổ chức quốc tế hoặc các nhóm sáng kiến
31
thường đề xuất các bộ tiêu chuẩn gồm ba mặt: kinh tế, môi trường và xã hội.
Mỗi mặt gồm một số tiêu chí phải đánh giá, mỗi tiêu chí có nhiều chỉ số biểu
thị dễ định lượng, rồi đến các mức độ cuối cùng là nguồn kiểm chứng…
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Bộ tiêu chuẩn chứng chỉ rừng Việt
Nam theo tiêu chuẩn của Hội đồng quản trịrừng (FSC). Bộ chứng chỉ rừng
Việt Nam khi được thông qua chính là cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm
chứng việc thực thi đúng và đầy đủ pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng. Chỉ khi các chủ rừng tuân thủ đúng và đầy
đủ các quy định của Bộ tiêu chuẩn chứng chỉ rừng thì mới được cấp chứng chỉ
mà yêu cầu đầu tiên là phải thực thi đúng các quy định pháp luật. Chứng chỉ
rừng được cấp cho những diện tích rừng khai thác chính là minh chứng cho
hoạt động quản lý rừng bền vững của chủ rừng.
Việc tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý rừng bền vững ở ba
mặt kinh tế, xã hội, môi trường chính là cơ sở để cấp chứng chỉ rừng.
Qua sự phân tích trên, có thể thấy, pháp luật có vai trò quan trọng đối
với hoạt động quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng - một đối tượng
không thể thiếu trong sự duy trì và phát triển cuộc sống trên hành tinh của
32
chúng ta.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật bảo vệ và phát triển
rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, đề tài rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, rừng là một hệ sinh thái có vai trò vô cùng to lớn đối với sự
phát triển của con người, có thể xem rừng như là cái nôi nuôi dưỡng sự sống,
không còn rừng nghĩa là sự sống trên hành tinh của chúng ta chấm dứt. Vai
trò của rừng không chỉ đối với từng cộng đồng, từng địa phương hay từng
quốc gia mà nó phải được quan tâm, bảo vệ trên phạm vi toàn cầu. Bảo vệ
rừng là trách nhiệm của tất cả chúng ta.
Thứ hai,pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng phải được điều chỉnh dựa trên hệ thống các nguyên tắc phù hợp và
xác định rõ nội dung điều chỉnh làm cơ sở để phân tích thực trạng pháp luật,
đưa ra các đánh giá phù hợp trong chương 2 và đề xuất các giải pháp hoàn
33
thiện trong chương 3.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ chung của chủ rừng
Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể
cũng có nhiều điểm không giống nhau. Trước hết họ phải thuộc một trong các
nhóm đối tượng được nêu như trên (trừ Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng được thành lập sau khi giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng). Tiếp theo
họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, cấp quyết định giao
rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng căn cứ trên dự án
đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu tư (đối với tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài), khu vực
sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ gia đình, cá
nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ chức kinh
tế), nghiên cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh - quốc
phòng (đối với đơn vị vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục cần
thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được công nhận quyền sử dụng rừng hoặc
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng [37, tr.54].
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã bổ sung cộng đồng dân cư là chủ rừng,
theo đó, chủ rừng bao gồm: (1) Ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng
phòng hộ; (2) Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác được thành lập và hoạt động theo quy định
34
của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều này; (3) Đơn vị thuộc
lực lượng vũ trang nhân dân được giao rừng (sau đây gọi là đơn vị vũ trang);
(4) Tổ chức khoa học và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm
nghiệp; (5) Hộ gia đình, cá nhân trong nước; (6) Cộng đồng dân cư; (7)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng
rừng sản xuất [52].
- Quyền chung của chủ rừng quy định tại Điều 73 Luật Lâm nghiệp
năm 2017, gồm: (1) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền
sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của
pháp luật; (2) Được hưởng lâm sản tăng thêm từ rừng do tự đầu tư vào rừng
tự nhiên, rừng trồng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; (3) Sử dụng rừng phù
hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời hạn giao đất, cho thuê đất
trồng rừng theo quy định của Luật này và pháp luật về đất đai; (4) Được cung
ứng dịch vụ môi trường rừng và hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng; (5)
Được hướng dẫn về kỹ thuật và hỗ trợ khác theo quy định để bảo vệ và phát
triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học rừng; được hưởng lợi từ công trình hạ
tầng phục vụ bảo vệ và phát triển rừng do Nhà nước đầu tư; (6) Được Nhà
nước bồi thường giá trị rừng, tài sản do chủ rừng đầu tư, xây dựng hợp pháp
tại thời điểm quyết định thu hồi rừng; (7) Được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đối
với chủ rừng phát triển rừng sản xuất khi bị thiệt hại do thiên tai; (8) Hợp tác,
liên kết với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để bảo vệ và phát triển
rừng; (9) Được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp khác [52].
- Nghĩa vụ chung của chủ rừng quy định tại Điều 74 Luật Lâm nghiệp
năm 2017, gồm: (1) Quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng bền vững theo
Quy chế quản lý rừng, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan; (2) Thực hiện quy định về theo dõi diễn biến rừng; (3) Trả lại
rừng khi Nhà nước thu hồi rừng theo quy định của Luật này; (4) Bảo tồn đa
35
dạng sinh học rừng, thực vật rừng, động vật rừng; (5) Phòng cháy và chữa
cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; (6) Chấp hành sự quản lý, thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (7) Thực
hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật [52].
Bên cạnh quyền và nghĩa vụ chung của chủ rừng nêu trên, Luật cũng
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là ban quản lý rừng đặc
dụng, ban quản lý rừng phòng hộ (Mục 2); chủ rừng là tổ chức kinh tế (Mục
3); chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư (Mục 4); chủ rừng là
đơn vị vũ trang; tổ chức khoa họa và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề
nghiệp; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Mục 5) [52].
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân
Nhà nước phát triển rừng theo hướng “Người làm nghề rừng phải sống
và làm giàu được từ rừng” [12]. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hộ
gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất rừng, giao rừng (rừng phòng hộ,
rừng sản xuất) không thu tiền sử dụng đất, sử dụng rừng. Nhà nước khuyến
khích những hộ gia đình, cá nhân có khả năng quản lý, bảo vệ, phát triển kinh
doanh rừng có thể được nhà nước cho thuê đất, rừng, nhận khoán bảo vệ rừng
từ các tổ chức khác được nhà nước giao đất như các Ban quản lý rừng phòng
hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng, các đơn vị lực lượng vũ trang, các tổ chức
kinh tế… Tuy nhiên, cho dù hộ gia đình, cá nhân được giao, hay được thuê
hoặc nhậnkhoán bảo vệ rừng thì trách nhiệm đầu tiên trong quản lý rừng là
phải bảo toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững, sử dụng rừng đúng mục
đích, đúng ranh giới đã quy định trong quyết định giao, cho thuê rừng và theo
quy chế quản lý rừng. Hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm tổ chức bảo vệ và
phát triển rừng theo quy hoạch, kế hoạch, dự án, phương án đã được phê
duyệt; định kỳ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tài
nguyên rừng và các hoạt động liên quan đến khu rừng như kiểm kê rừng,
36
thống kê rừng, theo dõi diễn biến khu rừng. Chủ thể này cũng phải giao lại
rừng khi nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử dụng
rừng và thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng phòng
hộ, ngoài các trách nhiệm và lợi ích trên, chủ rừng này phải xây dựng khu
rừng theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền quản lý về rừng. Họ được
chuyển đổi diện tích rừng được giao cho hộ gia đình, cá nhân trong cùng xã,
phường, thị trấn; cá nhân được để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế
theo quy định của pháp luật; được phép khai thác những cây sâu, bệnh, gẫy,
đổ trong rừng phòng hộ,khai thác rừng phòng hộ khi đến tuổi khai thác nhưng
phải đảm bảo mật độ phòng hộ của rừng theo quy định. Tuy nhiên, chủ thể
này không được phép chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh… giá trị quyền sử
dụng rừng phòng hộ.
Thứ hai, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng sản
xuất.
Thứ ba, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê rừng sản
xuất thì được hưởng giá trị tăng thêm của rừng do chủ rừng tự đầu tư trong
thời gian được thuê theo quy định của pháp luật; được thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng do mình tự đầu tư. Nếu rừng sản
xuất được thuê là rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà nước thì hộ gia đình, cá
nhân lập hồ sơ khai thác trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nguồn vốn
quyết định, khai thác gỗ quý hiếm thực hiện theo quy định của chính phủ;
được chuyển nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng rừng theo quy định của
pháp luật; chỉ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
rừng tăng thêm do chủ rừng tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng được xác
định tại thời điểm được thuê theo quy định của pháp luật.
37
Bên cạnh đó, phải kể đến quyền hưởng lợi của hộ gia đình, cá nhân đối
với loại rừng được giao, được thuê trong nhiều năm qua chưa được đảm bảo
nên hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng do chủ thể này mang lại vẫn còn khá
khiêm tốn và họ cũng chính là đối tượng vi phạm pháp luật lâm nghiệp nhiều
nhất trongnhững năm vừa qua. Năm 2015, đối tượng vi phạm luật là hộ gia
đình cá nhân là 19.701, năm 2018 là 14.825 và 8 tháng đầu năm 2018 số hộ
gia đình, cá nhân vi phạm là 9.886 [12].
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức
2.1.3.1. Chủ rừng là các tổ chức sự nghiệp của nhà nước
Các quyền và nghĩa vụ của các Ban quản lý và của bên nhận khoán bảo
vệ rừng được thể hiện trong hợp đồng khoán.
Các chủ rừng là các đơn vị sự nghiệp nhà nước đều không được quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê rừng, quyền sử dụng rừng;
không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng
trồng và giá trị quyền sử dụng rừng.
2.1.3.2. Chủ rừng là tổ chức kinh tế trong nước
Chủ rừng là tổ chức kinh tế trong nước có thể được nhà nước giao, cho
thuê diện tích rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng sản xuất là rừng trồng,
rừng phòng hộ hoặc khu bảo vệ cảnh quan của rừng đặc dụng. Vì vậy, tuỳ
thuộc vào loại rừng được giao, được thuê, thậm chí tuỳ thuộc vào phương
thức và nguồn gốc số tiền trả cho việc giao và thuê rừng mà chủ rừng này có
các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Chủ rừng này được nhà nước giao, cho thuê
rừng chủ yếu với mục đích sản xuất kinh doanh nhưng cũng phải đảm bảo bảo
toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững; sử dụng rừng đúng mục đích,
đúng quy hoạch, kế hoạch; được nhà nước công nhận quyền sử dụng rừng
hoặc quyền sở hữu rừng.
2.1.3.3. Chủ rừng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
38
Nếu chủ rừng này được nhà nước cho thuê rừng sản xuất là rừng trồng
trả tiền hàng năm thì được được sở hữu cây trồng, vật nuôi và tài sản trên đất
rừng sản xuất là rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư; được cho tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân thuê lại rừng để kết hợp sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư
nghiệp, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái môi trường,
nghiên cứu khoa học; được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị rừng sản
xuất là rừng trồng do mình đầu tư theo quy định của pháp luật.
2.1.3.4. Chủ rừng là tổ chức, cá nhân nước ngoài
Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, tổ chức được Luật bảo vệ và phát
triển rừng và các văn bản liên quan quy định khá chi tiết và cụ thể về quyền
và nghĩa vụ. Tuy nhiên, nội dung các quy định này còn một số hạn chế như:
Một là, xác định chủ rừng
Hai là, pháp luật về quyền tài sản của chủ rừng còn nhiều bất cập. Việc
thừa nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng là một điểm tiến bộ của
Luật Lâm nghiệp năm 2017. Luật này giải thích “Quyền sở hữu rừng sản xuất
là rừng trồng bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt của
chủ rừng đối với cây trồng, vật nuôi và tài sản khác gắn liền với rừng do chủ
rừng đầu tư trong thời hạn được giao, được thuê để trồng rừng”.
Tuy nhiên, các quy định về quyền sở hữu này chưa rõ ràng đối với các
chủ rừng. Nhà nước chỉ thừa nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng
đối với các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân đầu tư trồng rừng trên đất được
nhà nước giao, cho thuê đất rừng sản xuất; đối với tổ chức kinh tế trong nước
thì chỉ có những tổ chức nào đầu tư trồng rừng trên đất được nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất rừng sản xuất mà tiền đã trả
không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; đối với người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đầu tư trồng rừng trên đất rừng sản xuất được nhà nước giao đất
có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất rừng sản xuất; đối với tổ chức, cá
39
nhân nước ngoài đầu tư trồng rừng trên đất được nhà nước cho thuê đất rừng
sản xuất.
Những doanh nghiệp lâm nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước, nếu được
nhà nước giao đất, giao rừng không thu tiền sử dụng đất hoặc có thu tiền sử
dụng nhưng tiền sử dụng đất, tiền sử dụng rừng đã trả có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước thì số tiền đã trả đó được ghi vào giá trị vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp. Theo quy định này thì “quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng” của nhà nước đã trở thành vốn góp của nhà nước vào doanh nghiệp.
Vậy doanh nghiệp phải có quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng mới phù
hợp. Việc quy định doanh nghiệp lâm nghiệp nhà nước không được quyền
“quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng” đã mâu thuẫn với quy định về
“chuyển quyền sở hữu tài sản” trong Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Đối với
tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm
thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền” và quy định về thực hiện quyền sở hữu
nhà nước đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước trong Bộ
luật Dân sự năm 2015 “Khi tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được đầu
tư vào doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu
đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài
nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật
về doanh nghiệp”.
Về việc chuyển nhượng quyền sử dụng rừng và đất rừng Luật lâm
nghiệp Trung Quốc không quy định dựa trên chủ rừng nào , được giao hay
thuê và tiền trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hay ngoài nhà nước như
Việt Nam mà quy định loại rừng nào được chuyển nhượng , đó là: (1) Rừng
gỗ, rừng kinh tế và rừng nhiên liệu; (2) Quyền sử dụng đất trong khu rừng gỗ,
40
rừng kinh tế và rừng nhiên liệu; (3) Quyền sử dụng đất ở những khu rừng gỗ,
rừng kinh tế và rừng nhiên liệu sau khi đã chặt, đốt; (4) Quyền sử dụng các
loại rừng khác theo quy định của Hội đồng nhà nước.
Theo quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017 và trước đây trong Luật
Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì rất nhiều chủ rừng có quyền sử dụng
rừng, thậm chí không phải là chủ rừng cũng có quyền sử dụng rừng như bên
thuê lại rừng, bên nhận giao khoán bảo vệ rừng. Tuy nhiên, quyền sử dụng
rừng của các chủ rừng là khác nhau đối với các mỗi loại rừng được nhà nước
giao hoặc cho thuê. Đối với chủ rừng được giao rừng đặc dụng và rừng phòng
hộ có quyền sử dụng rừng khác với chủ rừng được giao, cho thuê rừng sản
xuất. Việc bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng chủ yếu phục
vụ lợi ích công cho nên quyền của các chủ rừng này hạn chế hơn với các chủ
rừng quản lý rừng sản xuất.
Việc cho thuê môi trường rừng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng, giải trí được quy định tại Khoản 6 Điều 14 Nghị định
156/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Lâm nghiệp, cụ thể như sau [32]:
- Chủ rừng được phép cho các tổ chức, cá nhân thuê môi trường rừng
đặc dụng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí:
+ Việc cho thuê môi trường rừng đặc dụng để kinh doanh dịch vụ du
lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí phải được thông báo rộng rãi.
+ Giá cho thuê môi trường rừng do các bên tự thỏa thuận nhưng không
thấp hơn 1% tổng doanh thu thực hiện trong năm của bên thuê môi trường
rừng trong phạm vi diện tích thuê môi trường rừng;
+ Trường hợp có hai tổ chức, cá nhân trở lên cùng đề nghị được thuê
môi trường rừng thì tổ chức đấu giá với mức giá khởi điểm không thấp hơn
1% tổng doanh thu thực hiện trong năm của bên thuê môi trường rừng trong
phạm vi diện tích thuê môi trường rừng.
41
+ Thời gian thuê không quá 30 năm, định kỳ 5 năm đánh giá việc thực
hiện hợp đồng, hết thời gian cho thuê nếu bên thuê thực hiện đúng hợp đồng
và có nhu cầu thì chủ rừng xem xét tiếp tục kéo dài thời gian cho thuê;
- Trước khi ký hợp đồng cho thuê môi trường rừng, chủ rừng phải điều
tra thống kê tài nguyên rừng trên diện tích cho thuê để làm căn cứ cho thuê và
giám sát, đánh giá việc thực hiện hợp đồng.
Đây là một hướng đi cần được khuyến khích thực hiện nhưng phải đảm
bảo vai trò của Nhà nước trong thực hiện chức năng quản lý rừng, mục đích
sử dụng rừng của các chủ rừng.
2.1.4. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng và nguyên nhân
Luật Lâm nghiệp được ban hành để thay thế cho Luật Bảo vệ và phát
triển rừng (Luật bảo vệ và phát triển rừng) được Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ 6, khóa XI ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2005.
Sau hơn 12 năm thực hiện, Luật bảo vệ và phát triển rừng đã tạo khuôn khổ
pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng. Trên cơ sở quy định của Luật, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở Trung ương đã ban hành trên 100 văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật, ban hành nhiều chính sách về bảo vệ và
phát triển rừng tạo khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hành vi xã hội trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng, chuyển căn bản từ quản lý bằng mệnh lệnh
hành chính sang chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật và các chính sách đòn bẩy
kinh tế gắn với quy hoạch, kế hoạch, định hướng thị trường [12].
Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng chưa đồng bộ với quy
hoạch sử dụng đất, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chưa sát với thực tế
và thường xuyên bị phá vỡ; phần lớn đất quy hoạch cho lâm nghiệp chưa
42
được rà soát, đo đạc trên thực địa, chưa lập bản đồ địa chính, diện tích đất
rừng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ thấp, còn có
biểu hiện vi phạm pháp luật đất đai với nhiều hình thức khác nhau; tình trạng
phá rừng, lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng và đất rừng trái pháp luật
còn diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương gây bức xúc trong xã hội và làm suy
giảm tài nguyên rừng, nhất là rừng tự nhiên.
Thứ hai, các quy định về phát triển rừng chưa tạo ra được những bước
tiến mới trong kinh doanh rừng trồng; năng suất, chất lượng, giá trị rừng sản
xuất vẫn còn thấp, chủ yếu là trồng rừng gỗ nhỏ; thiếu gắn kết giữa cơ sở chế
biến và vùng nguyên liệu tạo động lực cho phát triển rừng, phát triển nguồn
nguyên liệu đáp ứng nhu cầu cơ bản về nguyên liệu gỗ lớn cho công nghiệp
chế biến và xuất khẩu; chưa đem lại hiệu quả kinh tế để có thể giảm cách biệt
thu nhập so với các cây trồng và ngành nghề khác; cơ chế chính sách hưởng
lợi từ rừng còn nhiều bất cập, chưa tính đến các giá trị dịch vụ môi trường
rừng và chưa đánh giá đúng thành quả của ngành lâm nghiệp. Đa số người
dân làm nghề rừng có thu nhập thấp, tỷ trọng thu nhập từ lâm nghiệp chỉ
chiếm 25% trong tổng thu nhập của nông dân miền núi, nên chưa góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người làm nghề rừng.
Thứ ba, hệ thống tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp, tổ chức của lực
lượng Kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng ở địa phương thiếu thống nhất, tính
ổn định chưa cao, chưa phát huy được hiệu quả tổng hợp.
Thứ tư, công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vào
sản xuất còn nhiều bất cập. Công nghệ sinh học và công tác tạo giống chưa
được ứng dụng trên quy mô rộng; trình độ tay nghề lao động lâm nghiệp thấp,
kỹ thuật canh tác lạc hậu, trồng rừng vẫn chủ yếu là quảng canh.
Chính vì vậy, Quốc hội ban hành Luật Lâm nghiệp để giải quyết những
hạn chế, tồn tại nêu trên là cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội đặt ra;
43
tăng cường quản lý nhà nước về lâm nghiệp; tạo môi trường và động lực phát
triển ngành lâm nghiệp trong quá trình phát triển tổng thể kinh tế - xã hội mà
Đảng và Nhà nước đã xác định.
Luật Lâm nghiệp đã thể chế hóa được 3 chủ trương lớn của các nghị
quyết: Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị
quyết 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và Chỉ thị 13-CT/TW của Ban Bí thư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng.
Theo đó, khẳng định lâm nghiệp là một ngành kinh tế - xã hội vừa thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, vừa phát huy giá trị xã hội là thích ứng với
biến đổi khí hậu với đòi hỏi phải quản lý bền vững [5].
Luật Lâm nghiệp đã thể chế theo Hiến pháp 2013. Hiến pháp 1992 quy
định rừng núi thuộc sở toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý. Hiến pháp
2013 đã nêu rõ, chỉ có tài nguyên rừng sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý.
Còn lại rừng được hình thành từ các tổ chức, cá nhân thì ai là người đầu tư thì
sẽ là chủ sở hữu của rừng. Từ thể chế này, những chế định từ quản lý, các
chính sách cho chủ rừng sẽ khác. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
chỉ quy định đến hình thành rừng, tức là từ quản lý đến bảo vệ, phát triển
rừng. Còn Luật Lâm nghiệp mở rộng đến chế biến và thương mại, khoa học
công nghệ, hợp tác quốc tế. Như vậy, rõ ràng lâm nghiệp là ngành kinh tế - xã
hội có liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm lâm nghiệp: quản lý, bảo vệ, phát
triển, sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản. Đây cũng chính là cụ thể
chiến lược xây dựng nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập [49].
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng tại tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Thực trạng rừng và chủ rừng tại Quảng Nam
44
Là địa phương có diện tích phần lớn là rừng, tỉnh Quảng Nam luôn đề
cao giá trị của rừng, đồng thời cũng coi rừng là một lợi thế trong phát triển
kinh tế - xã hội. Thời gian qua, tỉnh Quảng Nam luôn ưu tiên các biện pháp
cũng như kế hoạch để bảo vệ, phát triển rừng và bước đầu đã mang lại hiệu
quả [69].
Theo kết quả hiện trạng rừng năm 2018, Quảng Nam có diện tích có
rừng là 671.997 ha, trong đó rừng tự nhiên là 455.506 ha, rừng trồng là 216.419
ha. Theo đề án bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách giảm nghèo nhanh
bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2017 -2020 đã đề ra
mục tiêu phải thực hiện giao khoán và bảo vệ rừng 95.910ha và hỗ trợ rừng sản
xuất 750ha. Trong năm 2018, tỉnh Quảng Nam đã thực hiện giao khoán và bảo
vệ 64.410 ha rừng (ứng với nguồn kinh phí thực hiện trong 4 tháng là 8,588 tỉ
đồng) cho 296 cộng đồng và 258 hộ [69].
Trong năm 2017, UBND tỉnh Quảng Nam cũng đã thành lập Ban chỉ
đạo và Văn phòng Ban Chỉ đạo về Chương trình phát triển lâm nghiệp bền
vững giai đoạn 2016 - 2020, đồng thời Sở Nông nghiệp và phát triển nông
thôn tỉnh Quảng Nam cũng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương, đơn vị
rà soát lại Dự án Bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện [68] [69].
Năm 2018, tỉnh Quảng Nam xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện
bảo vệ phát triển rừng đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và bền vững. Kinh phí
triển khai thực hiện tổng vốn sự nghiệp là gần 50 triệu đồng, nguồn vốn đầu
tư đang xem xét bố trí kinh phí ngân sách tỉnh thực hiện nhiệm vụ trồng rừng,
chăm sóc rừng và chuyển hóa rừng giống năm 2018 với số tiền là 3.360,8
triệu đồng [69].
Ngoài ra, tỉnh Quảng Nam triển khai cho thuê rừng để trồng cây dược
liệu và quy hoạch, bảo tồn và phát triển cây dược liệu, cây quế Trà My trên
địa bàn. Đồng thời xây dựng kế hoạch trồng rừng gỗ lớn với tổng diện tích
45
13.950 ha trong giai đoạn 2018 - 2020. Trong 5 tháng đầu năm 2019, tỉnh
Quảng Nam đã trồng được 2.763 ha, đạt tỷ lệ 31% trồng rừng sản xuất. Về
công tác trồng rừng thay thế tổng lũy kế diện tích đến nay được gần 2.000 ha
đạt 93,68% kế hoạch. Khai thác gỗ tận dụng gỗ trên diện tích rừng tự nhiên
chuyển đổi mục đích sử dụng để xây dựng các hạng mục hạ tầng kỹ thuật
thiết yếu khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang là 45,883m3. Khai thác gỗ rừng
trồng tập trung 2.357ha với tổng khối lượng gỗ trên 150m3 [69].
Công tác quản lý bảo vệ rừng trong diện tích rừng cung ứng dịch vụ
môi trường rừng năm 2017 của các đơn vị đã được quan tâm đáng kể, có sự
phối hợp, thông tin về tình hình xâm hại đến rừng giữa các hộ nhóm hộ nhận
khoán và chủ rừng góp phần ngăn chặn, làm giảm các hành vi xâm hại tài
nguyên rừng.
2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng tại tỉnh Quảng Nam
Trong giai đoạn 2014 - 2018, thực hiện chỉ đạo của Trung ương tại Chỉ
thị số 13-CT/TƯ ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng; Quyết định 886/QĐ-TTg ngày 16/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững; và tiếp tục triển khai
thực hiện các chính sách đã được ban hành tại Nghị định 99/2010/NĐ-CP về
chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, Nghị định 75/2015/NĐ-CP về cơ
chế chính sách bảo về và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo
nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020;
Quyết định 38/2016/QĐ-TTg về ban hành hành một số chính sách bảo vệ,
phát triển rừng [66] [67] [68]…
UBND tỉnh Quảng Nam quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện, đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách và văn bản chỉ đạo thực hiện các biện pháp
46
bảo vệ, phát triển rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (phòng cháy, chữa cháy
rừng), cụ thể: Quyết định 682/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 về Chương trình
hành động tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn
tỉnh nhằm thực hiện Chỉ thị 13-CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng và
Nghị quyết 06-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam khóa XXI; Quyết định
120/QĐ-UBND ngày 11/01/2017 về điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch Bảo vệ
và phát triển rừng tỉnh Quảng Nam; Quyết định 3673/QĐ-UBND ngày
17/10/2017 thành lập Ban chỉ đạo và Văn phòng Ban chỉ đạo về Chương trình
mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020 [68],…
Tỉnh Quảng Nam đang tổ chức rà soát lại quỹ đất lâm nghiệp trên địa
bàn, đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng, thuê đất thuê rừng cho hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn, các tổ chức cá nhân phát triển kinh tế
lâm nghiệp, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cây dược liệu dưới tán rừng. Hiện có
4 tổ chức thuê dịch vụ môi trường rừng để trồng sâm Ngọc Linh với diện tích
44,47ha và 2 đơn vị sự nghiệp của địa phương sửa dụng dịch vụ môi trường
rừng để trồng sâm Ngọc Linh với diện tích 10,9ha. Đồng thời, tỉnh Quảng
Nam cũng đang quy hoạch phát triển cây quế Trà My với diện tích 10.000 ha.
Đây là tín hiệu tốt để người dân có công ăn việc làm, tạo sinh kế ổn định cho
người dân đi đôi với công tác bảo vệ và phát triển rừng [36].
Ví dụ về vị phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng:
Ngày 07 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước
Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số
02/2018/HSST ngày 16 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:
Hồ Văn H1; sinh năm: 1986; sinh, trú quán: thôn 4, xã P, huyện P, tỉnh
Q; trình độ văn hoá: 09/12; nghề nghiệp: nông; Quốc tịch: Việt Nam. dân tộc:
Gié- triêng. tôn giáo: không; Con ông: Hồ Văn T (SN: 1949) và bà: Hồ Thị N
(SN: 1959); Vợ: Hồ Thị L (SN:1990), có hai con: lớn sinh năm 2009, nhỏ
47
sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: ngày 24/5/2017 bị Hạt kiểm lâm rừng
phòng hộ ĐăkMi xử phạt hành chính về hành vi “Vận chuyển trái phép lâm
sản”; bị bắt tạm giam ngày 28/11/2017, hiện đang bị tạm giam, có mặt tại
phiên tòa.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:Vào tháng 08 năm 2017, trong quá trình đi
chặt sợi Mây khu vực rừng thuộc thôn 4, xã Phước Công, huyện P, tỉnh Q, Hồ
Văn H1, H2 và Hồ Văn C1 phát hiện thấy 01 cây gỗ Xoan Đào còn đứng
sống và 01 cây gỗ Giỗi đã bị cưa hạ, chưa cưa xẻ (ở vị trí gần nhau). Sau khi
về nhà, H1 rủ H2 và C1 cùng khai thác 02 cây gỗ trên để bán kiếm tiền chia
nhau thì H2, C1 đồng ý. Để tiến hành việc khai thác, H1, C1, H2 cùng nhau
góp tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để đưa H2 đi mua máy cưa (loại cũ),
sau đó cả ba góp thêm mỗi người 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng) để mua
xăng nhớt, đồng thời gọi thuê Hồ Văn D và Hồ Văn T đi theo kéo gỗ về, trả
tiền công mỗi ngày 150.000 đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng).
Nhóm của H1 bắt đầu khai thác cây gỗ Xoan Đào trước, trong thời
gian 03 ngày, đã cưa hạ, xẻ và vận chuyển ra được 06 phách gỗ (diện 1,3m x
15cm x 30cm) rồi dùng hai xe máy của C1 và H2 chở về để ở cạnh đường bê
tông gần Làng. Sau đó, H1, C1, H2 cùng bán số gỗ trên cho một người phụ
nữ (không rõ lai lịch) được 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng),
trả tiền công cho D, T mỗi người 300.000 đồng, còn lại 900.000 đồng cả ba
chia nhau mỗi người 300.000 đồng.
Khoảng 07 ngày sau, H1, C1, H2 cùng D, T tiếp tục vào cưa xẻ và
vận chuyển được 02 phách cây gỗ Giỗi. Cả nhóm kéo 02 phách gỗ từ rừng ra
buộc lên hai xe máy để C1 và D vận chuyển, trên đường chở ra thì bị lực
lượng Kiểm lâm Rừng phòng hộ ĐăkMi phát hiện, lập biên bản tạm giữ
phương tiện cùng tang vật.Quá trình khai thác, H2 là người trực tiếp cưa hạ
48
và cưa xẻ, còn C1 và H1 tham gia phụ lật, kê gỗ giúp cho H2 cưa hạ, xẻ
thuận lợi hơn. D, T tham gia phụ và vận chuyển các phách gỗ do H2, C1, H1
đã cưa xẻ ra.
Ngày 18/9/2017 và ngày 25/9/2017, Cơ quan chức năng đã tiến hành
khám nghiệm hiện trường để xác định vị trí, chủng loại, nhóm gỗ, khối lượng
thiệt hại và xác định loại rừng bị khai thác trái phép, căn cứ vào Quyết định
số: 2198/CN ngày 26/11/1977 của Bộ lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNN);
Nghị định số: 32/2006 ngày 30/03/2006 của Chính Phủ; Quyết định số:
120/UBND ngày 11/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam, đã xác định được:
Cây gỗ Xoan Đào và cây gỗ Giỗi bị khai thác trái phép thuộc khoảnh 6,
tiểu khu 711, xã Phước Công, được quy hoạch là rừng Phòng hộ do Ban quản
lý RPHĐM quản lý. Trong đó:
Cây Xoan Đào thuộc nhóm VI (không thuộc nhóm nguy cấp, quý
hiếm), khối lượng bị thiệt hại: 2,685m3 gỗ tròn.
Cây Giỗi thuộc nhóm III (không thuộc nhóm nguy cấp, quý hiếm), khối
lượng: 10,224m3 gỗ tròn, trong đó thiệt hại do nhóm của H1 đã cưa xẻ, vận
chuyển đi (02 phách) có khối lượng: 0,814m3 gỗ tròn.
Tổng khối lượng thiệt hại là 3,499m3 gỗ tròn.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 12/KL-ĐG ngày 11/12/2017 của
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phước Sơn xác định giá
trị thiệt hại về lâm sản là: 11.311.000đ (Mười một triệu ba trăm mười một
nghìn đồng).
Hành vi trên của Hồ Văn H1, Hồ Văn C1, H2 đã vi phạm Điều 12, Hồ
Văn D, Hồ Văn D vi phạm Điều 22 Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày
11/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản
lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Riêng Hồ Văn H đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Vận chuyển trái
49
phép lâm sản” vào ngày 24/5/2017.
Căn cứ khoản 1 Điều 07 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy
định về thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; Mục 1, phần I,
Thông tư liên tịch 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA -VKSNDTC-TANDTC về
hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh
vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì hành vi vi phạm lần này
của Hồ Văn H không xử phạt vi phạm hành chính mà chuyển sang truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình
sự năm 1999.
Tại bản Cáo trạng số: 03/CT-VKS ngày 15 tháng 01 năm 2018 Viện
kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Hồ Văn H1 về tội: “Vi
phạm các qui định về khai thác và bảo vệ rừng” theo điểm a khoản 1 Điều
175 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố
đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều
175 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự
năm 2015 xử phạt bị cáo Hồ Văn H1 từ 03 đến 06 tháng tù.
Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, Điều
585, Điều 586, Điều 587, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bị cáo và
những người liên quan H2, Hồ Văn C1 phải có trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại cho Ban quản lý rừng phòng hộ ĐăkMi số tiền 11.311.000đ.
Căn cứ Điều Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu 01 máy cưa lốc và 02 phách gỗ Giổi,
khối lượng 0,139 m3 gỗ xẻ để sung công quĩ Nhà nước.
Ngoài ra, đối với rừng phòng hộ ven biển, để quản lý, bảo vệ gắn với
phát triển các dự án theo quyết định mở rộng Khu kinh tế mở Chu Lai của
Thủ tướng Chính phủ nhằm xây dựng vùng kinh tế động lực cho sự phát triển
50
của Quảng Nam và kỳ vọng nơi này sẽ trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ,
giải trí mang tầm Quốc tế, tỉnh Quảng Nam đang sắp xếp, thiết lập các đai
rừng phòng hộ; đảm bảo vừa phát triển được các khu chức năng, khai thác
hiệu quả tiềm năng du lịch, sắp xếp bố trí lại dân cư để đảm bảo an toàn khi
xảy ra thiên tai, đồng thời giữ được hệ thống rừng để chống chịu gió bão, vừa
tạo cảnh quan sinh thái ở khu vực ven biển cũng như góp phần giảm tác động
của biến đổi khí hậu. Theo dự tính, tổng diện tích thiết lập bố trí lại các đai
rừng phòng hộ ven biển khoảng 2.120 ha [63].
Kết quả giao đất giao rừng cho cộng đồng dân cư.
Theo số liệu thống kê giai đoạn 2014-2018 đã giao 3.745,2 ha rừng và
đất rừng cho 23 cộng đồng thôn, làng để quản lý bảo vệ chiếm tỷ lệ 0,5% tổng
diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh. Toàn bộ diện tích được
giao đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất [69].
Trong 3.745,2 ha rừng và đất lâm nghiệp được giao cho cộng đồng có
3.536,5 ha rừng tự nhiên thứ sinh và 208,7ha đất lâm nghiệp chưa có rừng [69].
Kết quả giao đất giao rừng cho hộ gia đình
Theo số liệu thống kê giai đoạn 2014-2018 đã giao 62.655,8 ha rừng và
đất rừng cho 4.607 hộ gia đình để quản lý bảo vệ chiếm tỷ lệ 8,1% tổng diện
tích rừng và đất lâm nghiệp của tỉnh, toàn bộ diện tích được giao đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể giao theo các chương trình như
sau [69]:
+ Theo Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg: 13.316,4 ha/731 hộ.
+ Theo Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg: 16.574,7 ha/722 hộ.
+ Theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP: 8.326,8 ha/695 hộ gia đình.
+ Theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP: 24,5 ha/01 hộ gia đình.
+ Theo Quyết định số 1264/QĐ-UBND Giao đất, giao rừng cho hộ gia
đình: 24.413,4 ha/2.458 hộ.
51
- Trong 62.655,8 ha rừng và đất lâm nghiệp được giao cho hộ gia đình
có 50.240,4 ha đất có rừng (rừng tự nhiên thứ sinh 49.769,9 ha; rừng trồng
470,5 ha) và 12.415,4 ha đất lâm nghiệp chưa có rừng.
Vì vậy, theo bảng trên thì mức giá cho thuê đất rừng trung bình của 8
huyện (Phụ lục) là 57.625.000 đồng/ha/năm.
Theo quy trình kỹ thuật trồng Sâm Ngọc Linh dưới tán rừng phải đảm
bảo độ tàn che từ 70% trở lên. Do đó, tỷ lệ lợi dụng đất để trồng Sâm Ngọc
Linh dưới tán rừng từ 30% đến 40% và được lấy trung bình là 35%. Vì vậy,
mức giá trung bình cho thuê của 01ha đất rừng để trồng Sâm cho 01 năm là
57.625.000 x 0,35 = 19.976.667 đồng (làm tròn là 20.000.000 đồng) [36].
Theo Nghị quyết số 114/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của Hội
đồng nhân dân tỉnh về cơ chế khuyến khích, bảo tồn, phát triển Sâm Ngọc
Linh tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2020 thì việc thuê đất rừng để quản lý
bảo vệ và phát triển Sâm Ngọc Linh dưới tán rừng thuộc đối tượng được ưu
đãi đầu tư. Do đó, theo Quyết định số 42/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014
của UBND tỉnh Quảng Nam thì hệ số ưu đãi tại 08 huyện nói trên là 0,75. Vì
vậy, đơn giá cho thuê trung bình của 01ha đất rừng để trồng Sâm cho 01 năm
là 20.000.000 x 0,75 = 15.000.000 đồng. Do đó, mức giá bình quân cho thuê
đất rừng để quản lý, bảo vệ và phát triển Sâm Ngọc Linh dưới tán rừng trên
địa bàn tỉnh là 15 triệu đồng/01ha/năm [36].
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tổng kiểm tra, rà
soát diện tích đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái phép trên địa bàn; tiến hành
điều tra và xử lý nghiêm các trường hợp lấn chiếm, chuyển nhượng, giao hoặc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp trái phép theo quy định của pháp
luật và tinh thần Chỉ thị số 17/2015/CT-UBND ngày 18/8/2015 của UBND
tỉnh; tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm tra, không để tình trạng này
tiếp tục diễn ra trên địa bàn. Kiểm tra, rà soát, thu hồi hoặc đề nghị cơ quan có
52
thẩm quyền thu hồi những diện tích đất lâm nghiệp đã lấn chiếm trái phép,
giao không đúng quy định của pháp luật hoặc giao cho các doanh nghiệp
nhưng không sử dụng, sử dụng không hiệu quả để có phương án giao đất cho
người dân đang thiếu đất sản xuất. Khẩn trương rà soát diện tích rừng sản
xuất và đất lâm nghiệp hiện do UBND cấp xã quản lý để tổ chức giao cho các
hộ gia đình, cá nhân sản xuất và phát triển kinh tế nhằm giảm áp lực đối với
rừng tự nhiên theo Quyết định số 120/QĐ-UBND ngày 11/01/2017 của
UBND tỉnh, đảm bảo hoàn thành trong năm 2019. Chỉ đạo các cơ quan chức
năng tăng cường phối hợp với UBND cấp xã tổ chức tuần tra, truy quét, ngăn
chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép, nhất là các vùng
giáp ranh theo Quy chế phối hợp đã được ký kết. Chỉ đạo UBND cấp xã tăng
cường công tác quản lý địa bàn, nâng cao trách nhiệm trong tiếp nhận và xử
lý thông tin phản ánh của người dân về tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất
rừng trái phép; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các trường hợp
lơ là, thiếu trách nhiệm hoặc bao che, tiếp tay cho các đối tượng vi phạm.
Khẩn trương xây dựng Phương án triển khai thực hiện các giải pháp, cơ chế,
chính sách về tăng cường hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng, đặc biệt là
chính sách hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ rừng cấp xã trong công tác bảo vệ rừng,
phòng cháy chữa cháy rừng, chính sách về đồng quản lý rừng…Tổ chức việc
lập, thực hiện quy hoạch, kế hoạch, phương án bảo vệ và phát triển rừng trên
địa bàn huyện đến năm 2020 theo hướng dẫn tại Thông tư số 05/2008/TT-BNN
ngày 14/01/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT phù hợp với yêu cầu, thực
trạng của từng huyện và trình cấp thẩm quyền phê duyệt [13].
Nghiêm túc thực hiện việc phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng đối với UBND cấp huyện, cấp xã (quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 2, Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ngày
08/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ). Quy định về xử lý trách nhiệm cá
53
nhân đối với người đứng đầu chính quyền các cấp trong phạm vi trách nhiệm
của mình nếu để xảy ra tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, khai
thác lâm sản, cháy rừng nghiêm trọng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng,
giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp trái quy định của pháp luật, kéo dài mà
trong phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của mình không có biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời và triệt để. Quản lý chặt chẽ các cơ sở chế
biến gỗ trên địa bàn; kiểm tra, rà soát và thực hiện truy xuất nguồn gỗ tại các
cơ sở chế biến để quản lý nguyên liệu hợp pháp. Phối hợp với các ngành chức
năng kiểm tra, rà soát các cơ sở cưa xẻ, chế biến gỗ, đình chỉ ngay những cơ
sở vi phạm pháp luật, thành lập không đúng quy định của Nhà nước. Kiểm
soát chặt chẽ khâu lưu thông, xóa bỏ những tụ điểm kinh doanh, buôn bán gỗ,
lâm sản trái pháp luật trên địa bàn.
2.2.3. Hạn chế trong thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng tại tỉnh Quảng Nam và nguyên nhân
Thứ nhất, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút
các nguồn lực cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ
ràng, khi rừng bị mất, chủ rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) không
phải chịu trách nhiệm trực tiếp. Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù
hợp với thực tiễn, lại chưa được các địa phương thực hiện nghiêm túc. Công
tác quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khoa học, chưa đồng bộ với các quy hoạch
khác như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất đai,... nên quy
hoạch không được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên bị phá vỡ. Công tác
giao, cho thuê rừng, đất rừng, khoán bảo vệ rừng đã đạt được những thành tựu
đáng kể, nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rất chậm,
theo dõi việc sử dụng đất rừng sau khi giao, cho thuê chưa thường xuyên.
Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án.
Việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật
54
chậm, chưa kịp thời quy định các biện pháp phối hợp để xử lý nghiêm các hành
vi vi phạm của lâm tặc và người có trách nhiệm quản lý Nhà nước. Chưa có
chiến lược hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, do vậy việc
ban hành các văn bản đơn hành còn mang tính giải quyết tình thế cấp thiết.
Thứ hai, đối với các hộ gia đình và cộng đồng dân cư miền núi, quyền
sử dụng rừng và đất lâm nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến sinh kế của họ, tuy
nhiên, quyền hưởng hoa lợi từ rừng được giao trên thực tế lại rất hạn chế. Cho
đến nay, người dân chưa thể khai thác rừng tự nhiên vì rừng giao cho các hộ
và cộng đồng đa phần là rừng nghèo, rừng mới phục hồi. Thủ tục khai thác gỗ
từ rừng tự nhiên lại khá phức tạp và quy định không được khai thác gỗ vì mục
đích thương mại gây khó khăn cho các hộ gia đình và cộng đồng mong muốn
có thu nhập chính đáng từ khai thác gỗ rừng tự nhiên. Thêm vào đó, việc
đóng cửa khai thác rừng tự nhiên không có thời hạn rõ ràng khiến các cộng
đồng và hộ gia đình e ngại khi được giao rừng tự nhiên. Hiện cộng đồng và hộ
gia đình chỉ có nguồn thu nhập chính từ rừng tự nhiên là tiền khoán bảo vệ
rừng, tuy nhiên, nguồn kinh phí này khá thấp.
Thứ ba, các quyền quản lý rừng như giao rừng, cho thuê rừng, chuyển
loại rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, thu hồi rừng vẫn chủ yếu do các cơ
quan nhà nước thực hiện mà thiếu sự tham gia của cộng đồng dân cư và các
chủ rừng trong tiến trình chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt – mặc dù khoản 7
Điều 14 Luật Lâm nghiệp 2017 nhấn mạnh “bảo đảm công khai, minh bạch,
có sự tham gia của người dân địa phương; không phân biệt đối xử về tôn giáo,
tín ngưỡng và giới trong giao rừng, cho thuê rừng” và khoản 8 Điều 14 nêu rõ
“… ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống
gắn bó với rừng, có hương ước, quy ước phù hợp với quy định của pháp luật”.
Hai nội dung này thiết nghĩ cần được quy định cụ thể ở các văn bản dưới
55
Luật, đặc biệt là cần làm rõ cơ chế để người dân tham gia trong việc giao
rừng, cho thuê rừng, tránh tình trạng thiếu vắng sự tham gia của các hộ gia
đình và cộng đồng trong các khâu chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt và xác định
ranh giới rừng như trước đây, gây phát sinh tranh chấp không đáng có giữa
các chủ rừng, nhất là giữa chủ rừng nhà nước và các hộ gia đình được giao đất
giao rừng. Ngoài ra, việc ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số
cũng sẽ khó thực hiện nếu thiếu các quy định cụ thể vì xét trong bối cảnh rừng
và đất lâm nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu do các tổ chức nhà nước quản lý. Hơn
nữa, các cộng đồng dân tộc thiểu số hiện cũng không còn thuần nhất do tình
trạng di dân theo kế hoạch và không theo kế hoạch cũng như tác động của yếu
tố kinh tế thị trường [52].
Thứ tư, quyền ngăn chặn cũng chưa được đề cập rõ ràng trong Luật
Lâm nghiệp. Đây là quyền của chủ rừng ngăn chặn người bên ngoài tiếp cận
và sử dụng rừng, tuy nhiên, hiện Luật mới quy định “Nhà nước bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt
động lâm nghiệp” chứ chưa quy định cụ thể bảo vệ như thế nào, đặc biệt là
đối với các điểm nóng về phá rừng, lấn chiếm rừng trái phép. Một số thách
thức khi trao quyền ngăn chặn cho cộng đồng và hộ gia đình là các cộng đồng
có thể được trao quyền này nhưng chưa có đủ năng lực để thực hiện trong khi
sự hỗ trợ của Nhà nước thì chưa đầy đủ và hiệu quả. Mặt khác, trao quyền
ngăn chặn cho một nhóm người sử dụng nhất định cũng đồng nghĩa với việc
tước đi quyền sử dụng rừng của những người khác.
Thứ năm, Luật Lâm nghiệp và các văn bản dưới luật hiện vẫn chưa đưa
ra hướng dẫn về vấn đề liên kết quản lý rừng hay đồng quản lý rừng. Thực
chất, đồng quản lý rừng là một phương thức quản lý có hiệu quả, trong đó chủ
rừng nhà nước chia sẻ quyền, lợi ích và nghĩa vụ quản lý, bảo vệ, phát triển,
sử dụng rừng với cộng đồng dân cư và chính quyền địa phương (xã, thôn) ở
56
các mức độ khác nhau tùy theo năng lực của mỗi bên, nhưng không làm mất
vai trò chủ đạo của chủ rừng nhà nước. Do vậy, cần sớm luật hóa khái niệm
này để có thể áp dụng trong thực tiễn quản lý, bảo vệ rừng hiện nay.
Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, người dân, nhất là ở vùng sâu,vùng xa trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng,
nên vẫn tiếp tục phá rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ
có tiền.
Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức
chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà
nước về rừng và đất lâm nghiệp, ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục
bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai
thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý
nghiêm túc. Sau một thời gian thực hiện các biện pháp kiên quyết ngăn chặn
tình trạng phá rừng theo chỉ đạo của Thủ tướng, một số nơi có biểu hiện thỏa
mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng
phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng
hộ và rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng
được giao. Một số đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay
cho hành vi phá rừng. Các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức
khác có diện tích quy mô nhỏ nên không thể tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng
được giao, vì vậy Nhà nước đang phải hỗ trợ bảo vệ rừng cho những đối
tượng này.
Bốn là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng.
Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở địa phương chưa
thật sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái
57
phép chưa có phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm
chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, còn có những quan điểm khác nhau của các cơ
quan chức năng ở một số địa phương. Trong khi lâm tặc phá rừng, khai thác gỗ
trái phép với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt; chống trả người thi hành
công vụ ngày càng hung hãn; không xử lý kiên quyết, nghiêm minh, lâm tặc sẽ
coi thường pháp luật và tiếp tục chống người thi hành công vụ với mức độ phổ
biến hơn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nội dung pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ở Việt Nam
hiện nay được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trước tiên
phải kể đến Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã thay thế cho Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004, sau đó là hàng loạt các luật liên quan và các văn bản
hướng dẫn dưới luật. Tuy nhiên, nội dung điều chỉnh còn chưa hoàn thiện và
công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ở tỉnh
Quảng Nam còn nhiều bất cập. Qua việc phân tích những nội dung các quy
định pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ở tỉnh Quảng Nam, tác giả rút
ra một số kết luận sau:
Một là, hệ thống pháp luật về về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng của
Việt Nam khá đồ sộ và đầy đủ bao trùm nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt
là Luật Lâm nghiệp năm 2017.
Hai là,các quy định pháp luật cũng chưa xác định rõ được trách nhiệm
của các cơ quan quản lý nhà nước và trách nhiệm của các chủ rừng trong việc
bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, trong thực tế các cơ quan quản lý vẫn đổ
trách nhiệm cho nhau khi có các sai phạm xảy ra.
Ba là,các quy định pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của việc quản lý
rừng bền vững vẫn chưa đáp ứng được và bộ tiêu chuẩn chứng chỉ rừng Việt
Nam vẫn chưa được thông qua nên không chỉ khó khăn trong quản lý bền
58
vững các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ mà còn khó khăn cả trong
việc quản lý bền vững rừng sản xuất lên quan đến quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng.
Chương 2 của luận văn đã phân tích sâu sắc các nội dung của pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng và đánh giá những ưu điểm, nhược điểm
của lĩnh vực pháp luật này. Đây là cơ sở để tác giả đề xuất các định hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ở chương 3
59
của luận văn.
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHỦ RỪNG THEO PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN RỪNG
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam cần dựa trên các nền tảng kinh tế,
xã hội, văn hóa. Nếu các quy định pháp luật này tiếp thu có hiệu quả những
giá trị của các yếu tố kinh tế, xã hội văn hóa, truyền thống... và hạn chế những
mặt tiêu cực của các yếu tố này thì hoạt động bảo vệ và phát triển rừng sẽ
diễn ra hiệu quả và bền vững hơn.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng dựa
trên nền tảng kinh tế - xã hội
Pháp luật cần phải phản chiếu được thực tại của cơ sở kinh tế - xã hội
và tạo được định hướng cho nền kinh tế, xã hội phát triển. Trong hơn ba thập
kỷ đổi mới vừa qua, chúng ta đã đạt được một số thành tựu ban đầu về kinh
tế, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện... Tuy nhiên, hiệu quả đạt được
chưa cao và dù văn bản pháp luật ban hành nhiều nhưng thực hiện pháp luật
trong đời sống thật sự chưa tốt. Vậy, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng nói riêng cần được xây dựng
dựa trên những nghiên cứu, đánh giá cơ bản về cơ sở kinh tế xã hội trong nền
kinh tế thị trường, các yếu tố lịch sử, truyền thống văn hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
60
Chúng ta có thể thấy những tác động tích cực của nền kinh tế thị trường
đối với hoạt động bảo vệ và phát triển rừng như: sự đa dạng về chủ thể bảo vệ
rừng, nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng lớn, các chủ thể quản lý
rừng rất chú trọng đến việc gia tăng lợi ích và các giá trị kinh tế từ rừng... Bên
cạnh đó, những tác động tiêu cực đến hoạt động bảo vệ và phát triển rừng
cũng không phải là nhỏ như: đầu tư vào rừng đòi hỏi nhu cầu vốn lớn và sự
thu hồi vốn chậm nên nhiều chủ thể khi được giao đất, giao rừng tìm mọi cách
khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng và đất rừng được giao, thậm chí tìm mọi
cách để chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và đất rừng để khai thác...
Dựa trên những tác động tích cực và tiêu cực đó của nền kinh tế thị
trường mà nhà làm luật cần xây dựng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng một mặt vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế của các chủ rừng, vừa đảm
bảo được mục tiêu quản lý rừng bền vững mà Nhà nước đặt ra.Để pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng đảm bảo được lợi ích kinh tế của các chủ
rừng thì việc giao đất, giao rừng cho họ, đặc biệt là thời hạn giao, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng... làm
cho họ yên tâm đầu tư sản xuất.
Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững tài nguyên rừng mà Nhà
nước đặt ra thì pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng phải được xây
dựng theo hướng kích thích người dân bảo vệ và phát triển rừng thay vì
hướng tới ưu đãi khai thác tài nguyên rừng, chuyển đổi một phần diện tích đất
rừng... Để làm được việc này thì pháp luật về quyền tài sản liên quan đến
rừng, đất rừng phải rõ ràng, nên xóa bỏ thời hạn giao đất, giao rừng để người
dân yên tâm sử dụng, đánh giá cao và chi trả cho giá trị môi trường của rừng
để các chủ rừng quan tâm bảo vệ và phát triển rừng...
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng dựa
trên nền tảng văn hóa, truyền thống
61
Trong quá trình tìm hiểu về sự phát triển của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng, chúng ta đã thấy, mặc dù các quy định pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng của các triều đại phong kiến và thời thuộc
Pháp không nhiều và đồ sộ như giai đoạn hiện nay nhưng rừng vẫn được bảo
tồn và phát triển. Loại bỏ các yếu tố ảnh hưởng của kinh tế và sự gia tăng dân
số thì chúng ta cũng vẫn nhận thức đượcrằng, nhà cầm quyền ở các giai đoạn
lịch sử đó đã biết phát huy các yếu tố văn hóa cũng như tôn trọng các luật tục
tốt đẹp của các dân tộc đến hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. Chính các
cộng đồng dân cư sinh sống ở các vùng rừng, núi tự biết đặt ra hương ước để
bảo vệ rừng như đã phân tích trong chương 1. Hiện nay, trong thời đại của
nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hơn bao giờ hết
chúng ta cần nhận thức đầy đủ về vai trò của các giá trị văn hóa và truyền
thống ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng nói riêng.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng dựa
trên các hoạt động hợp tác quốc tế
Những cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ và
phát triển rừng nói riêng đều hướng tới việc quản lý tài nguyên rừng một cách
bền vững. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế như: Công ước
RAMSAR, Công ước CITES, Công ước CBD... đều đòi hỏi pháp luật về về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng phải có sự thay đổi để hài hòa với các cam
kết quốc tế đó. Thực tế, nhiều cam kết đó cũng đã được quy định trong các
văn bản pháp luật như: Luật Đa dạng sinh học năm 2012, Luật Môi trường
năm 2014, Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thực hiện
như nghị định, thông tư hướng dẫn... Tuy nhiên, công tác tổ chức thực thi
pháp luậtnói chung và lĩnh vực pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
của chúng ta chưa tốt nên hiệu quả của các cam kết quốc tế này chưa thực sự
62
phát huy. Để hoàn thiện pháp luật về về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
chúng ta cần nghiên cứu kỹ các cam kết quốc tế mà chúng ta đã ký kết để việc
thực thi các cam kết quốc tế đạt được kết quả cao nhất.
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
3.2.1. Hoàn thiện các quy định chung về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng
Nhà nước cần ban hành, sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan
đến các quyền sở hữu rừng trồng sản xuất và quyền hưởng dụng rừng tự nhiên
nhằm hỗ trợ và thúc đẩy cộng đồng dân cư tham gia quản lý, bảo vệ, phát
triển rừng hiệu quả hơn.
Nhà nước cần giao cho cộng đồng dân cư các khu rừng tự nhiên là RPH
và rừng sản xuất giàu hoặc trung bình cùng với đầy đủ quyền lợi (đặc biệt là
quyền khai thác rừng) và các trách nhiệm kèm theo. Nếu giao rừng nghèo thì
Nhà nước cần có hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để cộng đồng có thể đảm bảo
sinh kế và kỹ năng quản lý cho đến khi có thể khai thác từ khu rừng mà cộng
đồng được giao. Đặc biệt, cần ưu tiên giao rừng cho các cộng đồng dân tộc
thiểu số sống dựa vào rừng và ở những cộng đồng mà các luật tục tiến bộ liên
quan đến quản lý, khai thác, bảo vệ rừng còn tồn tại.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch, có sự tham gia của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư trong các hoạt động lâm nghiệp,
đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quyền quản lý rừng như: giao rừng,
thuê rừng, chuyển loại rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích
khác và thu hồi rừng; đóng mở cửa rừng tự nhiên, lập quy hoạch sử dụng đất
và rừng… đặc biệt bảo đảm sự tham gia của các hộ gia đình, cộng đồng và
các chủ rừng khác trong các khâu chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt.
Ngoài ra, cần có các quy định cụ thể về ưu tiên giao rừng và đất lâm
63
nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống gắn bó với rừng, có
hương ước, quy ước bảo vệ rừng; sớm xây dựng Quy chế đồng quản lý rừng
và Quy chế quản lý rừng cộng đồng cùng các chính sách hỗ trợ cần thiết; hỗ
trợ cộng đồng tiếp cận thị trường, liên kết với doanh nghiệp chế biến và
thương mại lâm sản; quy hoạch lại dân cư và việc làm song song với việc quy
hoạch sử dụng rừng và đất cho khu vực miền núi; xây dựng lâm phận quốc
gia ổn định và tạo quỹ đất sản xuất nông lâm ngư kết hợp trong khu vực miền
núi. Đặc biệt, cần có định nghĩa về cộng đồng dân cư linh hoạt hơn, bao gồm
cộng đồng dân cư thôn, nhóm hộ có cùng phong tục tập quán và nhóm sở
thích.
Nhà nước cần có hỗ trợ cụ thể để bảo đảm cộng đồng có đủ năng lực
ngăn chặn người bên ngoài tiếp cận và sử dụng rừng mà không được sự đồng
ý của cộng đồng được giao rừng như: nâng cao năng lực của cộng đồng, có
lực lượng Kiểm lâm hỗ trợ cộng đồng tại các điểm nóng về phá rừng, lấn
chiếm rừng; có chế tài xử phạt nghiêm các vi phạm vào rừng; hỗ trợ đủ kinh
phí bảo vệ rừng…
Song song với đó, cần có chế chính sách để đa dạng hóa các nguồn vốn
nhằm bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên hiện có, đồng thời cho phép cộng đồng
dân cư khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trên diện tích rừng được giao theo Quy
chế quản lý rừng, kể cả trong giai đoạn đóng cửa khai thác rừng tự nhiên;
hướng dẫn cụ thể việc sử dụng đất nông lâm ngư kết hợp, sửa đổi các chính
sách hiện hành về vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất theo hướng tạo
thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vay vốn đầu tư trồng rừng sản
xuất gỗ lớn theo chu kỳ kinh doanh; thí điểm chính sách bảo hiểm đối với rừng
trồng kinh doanh gỗ lớn để người trồng rừng yên tâm đầu tư sản xuất kinh
doanh; tập trung đầu tư để chọn, tạo, nhân giống cây và xây dựng công nghệ
64
phù hợp nhằm phục vụ cho trồng rừng gỗ lớn có năng suất, chất lượng cao.
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật nhằm minh bạch hóa các quyền
tài sản đối với rừng và đất rừng của chủ rừng
Như chúng ta đã biết, việc xác định các quyền tài sản nói chung càng rõ
ràng bao nhiêu thì việc xác định trách nhiệm của chủ sở hữu càng rõ ràng bấy
nhiêu. Chúng ta có thể tiếp cận sửa đổi Luật Đất đai và Luật Lâm nghiệp hiện
hành theo các hướng sau nhằm minh bạch hóa các “quyền tài sản” của các
chủ rừng.
Một là, các quy định này vẫn chưa tách bạch được các nhiệm vụ công
ích và chức năng kinh doanh của các chủ rừng, đặc biệt đối với chủ rừng là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước.
Có như vậy, các doanh nghiệp đầu tư trồng rừng mới có cơ hội cạnh
tranh bình đẳng.Các chủ rừng cần được trao các quyền chuyển, cho thuê, thế
chấp, góp vốn... quyền sử dụng đất rừng gắn liền với tài sản trên đất (cây
rừng) cho tổ chức kinh tế trong nước được nhà nước giao rừng sản xuất có thu
tiền để kinh doanh và phát triển rừng không phụ thuộc vào nguồn gốc tiền đã
nộp có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hay không.
Hai là, về thuê rừng và đất rừng sản xuất để trồng rừng, kinh doanh
rừng, pháp luật không nên có quy định về phân biệt hình thức trả tiền thuê đất
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đất đai 2013.
Trên cơ sở trả tiền thuê đất một lần hay hàng năm mà nhà nước cho các nhà
đầu tư hưởng các quyền tài sản khác nhau. Quy định này làm cho các nhà đầu
tư trong nước (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) khi thực hiện đầu tư vào trồng
rừng sản xuất chỉ được thuê đất với hình thức trả tiền thuê hàng năm và gần
như “quyền tài sản đối với quyền sử dụng đất thuê” là không có. Khi thực
hiện các giao dịch tại thị trường thứcấp họ chỉ có quyền chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, góp vốn… bằng tài sản gắn liền với đất thuê (ở đây là cây
65
rừng) mà không được quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn
bằng quyền tài sản là quyền sử dụng đất và khi nhà nước thu hồi đất cũng
không được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất. Trong khi đó các tổ chức,
cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài không được giao
đất có thu tiền sử dụng đất mà chỉ được thuê đất rừng sản xuất trả tiền thuê
hàng năm hoặc trả tiền thuê một lần cho cả thời gian thuê. Tuy nhiên, đối với
họ việc giao đất có thu tiền hay thuê đất không tạo ra sự khác biệt vì nếu họ
trả tiền thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê thì các quyền mà họ
được hưởng không khác gì so với tổ chức trong nước được nhà nước giao đất
rừng sản xuất có thu tiền sử dụng đất (quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp, góp vốn…bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuê). Quy
định này không thể được coi là bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nền kinh
tế thị trường.
Tổ chức kinh tế trong nước, hộ gia đình, cá nhân khi thuê rừng sản
xuất, đất rừng sản xuất nên trao cho họ quyền được trả tiền một lần hoặc hàng
năm cho thời gian thuê để họ có được các quyền tài sản như các tổ chức, cá
nhân nước ngoài thuê đất rừng sản xuất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê.
Ba là, về đối tượng được nhà nước giao đất rừng sản xuất là cả các tổ
chức kinh tế trong nước và Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện
đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh lâm nghiệp cần phải có những nghiên cứu cụ
thể. Hiện nay, khá nhiều các lâm trường đã từng được nhà nước giao rừng sản
xuất hoạt động không hiệu quả và lại một lần nữa lâm trường kinh doanh rừng
và đất rừng bằng cách khoán lại cho dân. Có lẽ nên quy định các đối tượng
này khi thực hiện các dự án đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh rừng trồng sẽ trả
tiền sử dụng đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất. Có như vậy, giá trị
quyền sử dụng đất rừng sản xuất sẽ sát với giá thực tế hơn và những nhà đầu
tư thực sự có khả năng đầu tư, kinh doanh sản xuất lâm nghiệp, tránh tình
66
trạng xin giao đất rừng rồi lại đểđất hoang nhằm đầu cơ hoặc “phát canh thu
tô trên đất rừng sản xuất được giao”, trừ trường hợp vùng sâu, vùng xa không
có điều kiện để thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất thì sẽ tiến hành giao đất
rừng sản xuất có thu tiền sử dụng đất theo quy định của nhà nước.
Bốn là, về đối tượng được thuê đất rừng sản xuất là tổ chức kinh tế
trong nước, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức, cá nhân nước ngoài, Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước không nên phân biệt các đối tượng
được sử dụng đất dưới hai hình thức giao hay cho thuê đất rừng sản xuất mà
theo nhu cầu của người sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2013 cho phép họ
được lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền hoặc thuê đất. Quy định như vậy,
vừa tạo được cơ hội cho nhà nước tăng thu ngân sách (nếu tổ chức chọn hình
thức giao đất có thu tiền sử dụng đất) mà vẫn không làm mất đi ý nghĩa tích
cực của việc đề ra hình thức thuê đất là tạo điều kiện cho những người có khả
năng tài chính hạn hẹp có cơ hội được sử dụng đất rừng sản xuất để kinh
doanh. Cho phép các chủ thể được lựa chọn hình thức sử dụng đất sẽ thể hiện
sự nhạy bén của nhà nước trong cơ chế thị trường. Sẽ không có lý do nào tỏ ra
thuyết phục cho việc nhà nước bằng việc áp đặt hình thức sử dụng đất đã tự
loại bỏ những cơ hội tăng thêm nguồn thu cho mình như hiện nay.
Năm là, vấn đề quản lý hiện trạng giao khoán đất rừng sản xuất. Nhà
nước cần có quy định cụ thể về việc giao khoán đất rừng nói chung và đất
rừng sản xuất nói riêng vì thực tế hiện trạng này tồn tại nhiều năm. Nhiều lâm
trường quốc doanh (nay là các công ty) sử dụng đất không hiệu quả đã giao
khoán đất lại cho các hộ gia đình, cá nhân tại địa phương để thu một khoản
kinh phí và họ được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn
người dân là những người nhận khoán - trồng rừng thực sự lại không thể có
quyền đối với diện tích đất đang sử dụng và không thể vay vốn để phát triển
sản xuất. Đặc biệt, khi nhà nước thu hồi rừng và đất rừng thì việc giải quyết
tranh chấp liên quan đến tài sản trên đất và giá trị quyền sử dụng đất gặp rất
67
nhiều khó khăn.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về ưu đãi đối với chủ rừng
Về quy định pháp lý của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam chưa
rõ ràng dẫn đến các địa phương vận dụng khác nhau, thiếu thống nhất; việc tự
chủ tài chính còn hạn chế, do đó các Quỹ tỉnh gặp nhiều khó khăn trong tổ
chức hoạt động. Mặt khác, tiền dịch vụ môi trường rừng là một nguồn tài
chính mới, nhiều lãnh đạo, cán bộ chưa hiểu hết bản chất của tiền này, vẫn
xem đây là một nguồn ngân sách nhà nước và vận dụng cơ chế quản lý ngân
sách nhà nước vào quản lý, gây khó khăn trong việc quản lý, sử dụng tiền
dịch vụ môi trường rừng.
Mục đích của việc chi trả dịch vụ môi trường rừng nhằm huy động các
nguồn lực của xã hội để bảo vệ và phát triển rừng, tạo điều kiện để ngành lâm
nghiệp hoạt động đúng quy luật của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, thực hiện
tiến tới xoá bao cấp từ nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các hoạt động
bảo vệ và phát triển rừng. Bên cạnh đó, chi trả dịch vụ môi trường rừng còn
bảo đảm cho người lao động trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất, bảo vệ và
phát triển rừng (người cung ứng dịch vụ môi trường rừng) được chi trả giá trị
của rừng do mình tạo ra, đúng giá trị của rừng đem lại cho xã hội.
Cần có chính sách khuyến khích việc phát triển du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng, du lịch nhà vườn..., kết hợp phát triển nông - lâm - ngư nghiệp để các
chủ rừng - đặc biệt là chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân có nguồn thu nhập
thường xuyên chứ không chỉ phụ thuộc vào chu kỳ khai thác cây rừng vì thời
gian để khai thác được cây rừng ít nhất cũng phải mất 5 đến 7 năm. Hiện nay,
việc phát triển du lịch sinh thái rừng chủ yếu được tổ chức ở các khu vườn
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, chứ nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ
phát triển du lịch sinh thái ở các khu rừng sản xuất.Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ bảo hiểm rừng cây cho người trồng rừng. Hiện nay, hầu hết các
68
công ty bảo hiểm không mấy hứng thú khi đầu tư bảo hiểm rừng cây vì rủi ro
lớn và khó khăn trong việc thẩm định giá trị rừng cây khi bảo hiểm. Nếu rừng
cây của chủ rừng được bảo hiểm thì họ yên tâm đầu tư sản xuất và chính những
tổ chức cho vay vốn cũng yên tâm khi họ cho vay với thời gian dài vì tài sản
thế chấp khi vay vốn chỉ là “tài sản rừng cây được hình thành trong tương lai”.
Các chính sách ưu đãi đầu tư và ưu đãi thuế.
Về hỗ trợ ưu đãi vay vốn đối với chủ rừng phát triển kinh doanh rừng
nhà nước cũng đã có những ưu đãi nhất định - với mức lãi suất là 6,6%/năm
và được giữ nguyên trong suốt thời hạn vay vốn nhưng theo cách hỗ trợ đó thì
người trồng rừng vẫn chưa hết khó khăn vì chu kỳ khai thác cây rừng là dài
trong khi lãi suất vay ngân hàng phải trả hàng tháng và tiền gốc vay phải trả
theo định kỳ. Như vậy, người trồng rừng chưa có nguồn thu thì đã phải trả nợ
ngân hàng cho nên có ưu đãi về lãi suất cũng không hỗ trợ được là bao cho
người trồng rừng. Nhà nước nên hỗ trợ lãi suất 0% và cho vay theo chu kỳ
khai thác cây rừng cho người trồng rừng vì như vậy họ mới yên tâm đầu tư
sản xuất. Nguồn lợi kinh tế từ rừng không nhiều nhưng nếu bảo vệ và phát
triển được rừng thì toàn bộ nền kinh tế được hưởng lợi và chúng ta mới có thể
nói tới phát triển bền vững.
Về ưu đãi thuế, nhà nước nên có những ưu đãi nhiều hơn về thuế thu nhập
doanh nghiệp như kéo dài hơn nữa thời gian miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào trồng rừng, kinh doanh
rừng ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Vì ở những
vùng này chỉ có các doanh nghiệp lâm nghiệp đầu tư thì kinh tế mới thực sự phát
triển bền vững và đời sống của người dân nơi đây mới được nâng cao.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
3.3.1. Đổi mới về tổ chức quản lý nhà nước đối với tài nguyên rừng
69
Công tác tổ chức quản lý nhà nước đối với tài nguyên rừng cần phải
được hoàn thiện từ cấp trung ương đến cấp địa phương. Đổi mới tổ chức quản
lý cả hệ thống cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan chuyên môn - kiểm
lâm.Trước hết, đổi mới cách thức quản lý ở cấp tỉnh, trong đó Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam giữ vai trò chủ đạo trong việc
thực hiện quản lý quyền và nghĩa vụ vủa chủ rừng và thực hiện cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan chức năng.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam phối hợp với Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh trong công tác quản lý đất lâm nghiệp, xác
định ổn định quy hoạch đất lâm nghiệp trên bản đồ và ngoài thực địa theo
Nghị quyết của Quốc hội; chỉ đạo thực hiện công tác giao đất, cho thuê đất
lâm nghiệp gắn với giao rừng, cho thuê rừng; hoàn thiện hồ sơ đối với các
diệntích đất đã giao, cho thuê và tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất lâm nghiệp.
Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Tài chính phối hợp với Sở Nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh xây dựng các cơ chế, chính sách; đảm bảo cân đối
kế hoạch ngân sách cho quản lý bảo vệ rừng…
Ở cấp địa phương, cần phối hợp đồng bộ giữa UBND các cấp và sự
phối hợp giữa các UBND cấp tỉnh đối với các diện tích rừng liên tỉnh. Sự phối
hợp giữa UBND cấp tỉnh với các Bộ, ngành ở trung ương.Đối với lực lượng
chuyên trách bảo vệ rừng nâng cao năng lực của cơ quan kiểm lâm thông qua
các dự án đào tạo nâng cao năng lực; đầu tư bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa
cháy rừng; tăng cường trang bị vũ khí quân dụng và công cụ hỗ trợ cho kiểm
lâm, bổ sung nhân lực cho lực lượng kiểm lâm vìhiện nay bình quân một cán
bộ kiểm lâm đang phụ trách bảo vệ một nghìn (1.000) ha rừng. Đây được xem
là “nhiệm vụ bất khả thi” vì diện tích quá lớn, địa hình hiểm trở, khó quản
lý.Bên cạnh đó, trong những năm qua, chưa UBND cấp tỉnh, cấp huyện hay
70
cấp xã nào bị xử lý nghiêm khắc về việc quản lý yếu kém gây cháy rừng, mất
rừng, chuyển đổi đất rừng... Điều đó, chưa phản ánh đúng thực trạng quản lý
tài nguyên rừng của nước ta. Vậy, để quản lý rừng bền vững thì việc làm rõ
trách nhiệm của các cơ quan chức năng được xem như một biện pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng là cơ sở cho việc quản lý, bảo vệ rừng thành công còn công tác tổ
chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng mới thực sự gìn giữ và phát triển rừng bền vững. Chính
vì vậy, một trong các giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng đó là công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện.
Một là, các cơ quan chức năng như hệ thống cơ quan kiểm lâm phải
thường xuyên thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của chủ rừng của các chủ rừng như: hoạt động trồng rừng, phát
đốt nương rẫy, hoạt động phòng cháy, chữa cháy rừng, hoạt động gây nuôi,
trồng cấy thực vật, động vật hoang dã, hoạt động khai thác, vận chuyển lâm
sản... để kịp thời ngăn chặn và xử lý các vi phạm; cơ quan kiểm lâm thường
xuyên tham mưu đầy đủ cho UBND địa phương để có những chỉ đạo và giải
quyết, xử lý ngăn chặn kịp thời các vi phạm.
Hai là, Cục Kiểm lâm và UBND cấp tỉnh, cấp huyện phải trực tiếp tổ
chức các đoàn thanh tra, kiểm tra để thực hiện việc kiểm tra, giám sát chính
các cơ quan kiểm lâm cấp dưới nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi vi
phạm của chính lực lượng bảo vệ rừng. Trong thời gia vừa qua, không ít vụ
việc vi phạm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng có sự tiếp tay của
71
kiểm lâm.
Bà là,các cơ quan UBND, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở
Tài nguyên và môi trường và UBND cấp huyện, cấp xã tùy theo chức năng và
thẩm quyền cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc giao đất, giao rừng, cho thuê
đất, cho thuê rừng cho các đối tượng theo quy định của pháp luật, đặc biệt là
việc cho thuê rừng, đất rừng cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện, những chủ thể được giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất, cho thuê đất rừng mà không tiến hành triển khai dự án theo
đúng thời hạn quy định và mục đích sử dụng thì kiên quyết thu hồi.
Đối với việc chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng, đặc biệt là
chuyển rừng, đất rừng thành đất trồng cây công nghiệp, đất phi nông nghiệp
cần phải được thẩm định qua các hội đồng khoa học, các chuyên gia và thực
hiện theo đúng thẩm quyền đã quy định.
Tuy nhiên, không phải chủ thể nào cũng tự nguyện thực hiện việc chi
trả này. Bên cạnh việc tổ chức thực hiện tốt pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng thì công tác kiểm tra, giám sát cũng đóng vai trò quan trong
trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng.
3.3.3. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng
Việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nói chung và hệ thống
văn bản về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng nói riêng sẽ không có ý nghĩa nếu
người dân không biết gì về những quy định đó. Chính vì vậy, một trong
những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật quan trọng nữa là
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Chỉ có tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật mới tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức và sự tôn trọng
pháp luật của người dân nông thôn và miền núi và của chính những người tổ
72
chức thực thi pháp luật. Từ việc nhận thức được vai trò to lớn của rừng và
hiểu đúng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, người dân mới thực
sự quan tâm bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn, bảo vệ môi trường sinh
thái và đa dạng sinh học...
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan chức năng như UBND các cấp,
cơ quan kiểm lâm... cũng đã thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật đến người dân, đặc biệt là người dân miền núi - những
người trực tiếp bảo vệ và phát triển rừng. Công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng đã đạt được kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền chủ yếu mới chú trọng vào
những người dân ở tại địa bàn có rừng mà chưa có những nội dung tuyên
truyền phù hợp cho cả những đối tượng sử dụng sản phẩm từ rừng để họ có
thái độ tốt trong việc sửdụng các sản phẩm đó, ví dụ: không dùng các sản phẩm
đồ gỗ từ những loại gỗ bị cấm hoặc không tiêu thụ sản phẩm có nguồn gốc từ
động vật hoang dã...; tuyên truyền để mỗi người dân hiểu được giá trị môi sinh
hàng ngày của mỗi chúng ta do bảo vệ và phát triển rừng mà có. Vì vậy, biện
pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
phải đồng bộ để mỗi người dân đều nhận thức được vaitrò của việc bảo vệ và
phát triển rừng chứ không chỉ là tuyên truyền cho những người dân trực tiếp
bảo vệ rừng.
Bên cạnh đó, biện pháp tuyên truyên, phổ biến giáo dục pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng cũng phải hết sức chú ý tới đối tượng trực
tiếp tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật - đó chính là các cán bộ
của các cơ quan chức năng. Ví dụ: cán bộ kiểm lâm, cán bộ quản lý thị trường
phải hiểu và nắm bắt rất rõ các loài thực vật, động vật nguy cấp, quý hiếm mà
pháp luật cấm tiêu thụ. Đây không phải là điều dễ dàng vì họ có thể nhận diện
được các cây gỗ quý - bị cấm khai thác, sử dụng nhưng nhận diện được sản
73
phẩm của các loài gỗ quý đó thì không hề đơn giản nên đôi khi người dân vi
phạm mà cán bộ không biết.
Theo tôi, việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng là giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật chứ không phải là xử phạt thật nặng đối với người dân. Vì chỉ khi
người dân nhận thức được giá trị của việc quyền và nghĩa vụ của chủ rừng và
lợi ích đích thực mà họ được hưởng thì hoạt động quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng mới có thể bền vững, còn hình phạt nặng, phạt tiền cao nhưng nhà nước
không đạt được mục tiêu quản lý rừng bền vững mà cũng chẳng thu được tiền
khi họ không có tài sản gì để nộp.
3.3.4. Tăng cường nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho hoạt
động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng
Trong những năm qua, nhà nước đã dành một khoản đầu tư lớn từ ngân
sách cho việc bảo vệ và phát triển rừng. Hiện nay, riêng giai đoạn 2011 -
2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng nhu cầu vốn là 49.317 tỷ đồng,
trong đó: vốn ngân sách: 14.067 tỷ đồng, chiếm 29% tổng nhu cầu vốn, bình
quân mỗi năm 1.407 tỷ đồng; vốn ngoài ngân sách: 35.250 tỷ đồng, chiếm
71% tổng nhu cầu vốn, bình quân mỗi năm 3.500 tỷ đồng, chủ yếu chi cho
trồng rừng sản xuất và bảo vệ rừng.
Tuy nhiên, với diện tích rừng trải dài trên lãnh thổ với độ che phủ
39,5% diện tích đất tự nhiên và nhu cầu đầu tư bảo vệ rất lớn thì khoản đầu tư
trên không phải là lớn. Trên thực tế, nhu cầu đầu tư cho hoạt động quản lý và
bảo vệ nguồn tài nguyên này là rất lớn, đặc biệt là hoạt động phòng cháy,
chữa cháy rừng.
Chúng ta đều biết, xảy ra cháy rừng gây ra những thiệt hại rất lớn
không chỉ về tài sản mà còn để lại hậu quả nặng nề về môi sinh, đa dạng sinh
học và không có khả năng phục hồi. Chính vì vậy, công tác phòng cháy, chữa
74
cháy rừng cần phải được coi trọng đặc biệt. Hiện nay, công cụ phòng cháy,
chữa cháy rừng tại các địa phương, cơ sở còn rất thô sơ, chủ yếu là dụng cụ
thủ công như: dao, cuốc, rựa, cào, bàn đập, bình bơm đeo vai, mắt cắt thực bị,
máy phát điện. Vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư và tăng cường cơ sở
vật chất cho hoạt động của chủ rừng là rất cần thiết.
Theo quy định hiện hành, ngân sách nhà nước hỗ trợ ban đầu khi thành
lập Quỹ bảo vệ và phát triển rừng là một trăm tỷ đồng (100.000.000.000đ) và
cấp đủ trong thời hạn hai năm kể từ khi thành lập. Tuy nhiên, để việc chi trả
dịch vụ môi trường rừng được thực hiện tốt, trongnhững năm đầu khi nguồn
hình thành quỹ chưa ổn định, thậm chí có chủ thể còn chây ì không nộp phí
thì nhà nước nên cấp ngân sách hàng năm cho Quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng, ngoài các giải pháp đã phân tích như: đổi mới công tác quản lý
nhà nước, tăng cường kiểm tra, giám sát, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật thì việc tăng cường nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất được xem như
điều kiện quan trọng để thực hiện tốt việc bảo vệ và phát triển rừng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ những nghiên cứu trong chương 3, chúng ta có thể rút ra một số kết
luận sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật trong lĩnh vực
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng cần dựa trên những đặc điểm về cơ sở kinh tế
- xã hội, văn hóa, truyền thống... của Việt Nam. Có như vậy thì các quy định
pháp luật mới thực sự “sống” trong thực tế.
Thứ hai, một số định hướng cơ bản để tiến tới hoàn thiện các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng như: đảm bảo mục tiêu quản lý
rừng bền vững của nhà nước và thực hiện thành công chiến lược lâm nghiệp
75
của Việt Nam đến năm 2020 mà chính phủ đã phê duyệt. Khi sửa đổi các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực quyền và nghĩa vụ của chủ rừng cần chú ý đến
việc minh bạch hóa các quyền tài sản liên quan rừng và đất rừng như Luật
Lâm nghiệp năm 2017 và Luật Đất đai năm 2013 cho từng đối tượng cụ thể.
Thứ ba, các giải pháp hoàn thiện pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng phải được thực hiện đồng bộ từ giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật cho phù hợp đến ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng... như: Ban hành các thông tư liên tịch về
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan; ban hành bộ tiêu chuẩn về quản lý rừng
bền vững và cấp chứng chỉ rừng Việt nam; xây dựng Luật bảo tồn và phát
triển thực vật, động vật hoang dã.
Thứ tư, Cùng với việc triển khai các giải pháp hoàn thiện pháp luật thì
các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật cũng cần chú trọng thực
hiện. Đây chính là cơ sở để tổ chức thực hiện pháp luật và bảo đảm cho pháp
luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng được thực thi có hiệu quả.
Những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật đề cập trong chương 3 là cơ sở giúp các nhà hoạch
định chính sách và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật QL&BVTNR đạt
hiệu quả cao. Đây cũng là cơ sở để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn các vấn đề có liên quan đến hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, sử dụng
rừng, phát triển rừng; quản lý, bảo vệ, phát triển thực vật, động vật hoang dã
76
và đa dạng sinh
KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, khi môi trường ngày càng bị suy thoái, sự
sống trên hành tinh đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ theo chiều hướng ngày một
xấu đi của hiện tượng biến đổi khí hậu thì việc bảo vệ và phát triển rừng bền
vững càng quan trọng hơn bao giờ hết. Đó không phải là mục tiêu của riêng
quốc gia nào mà đó là mục tiêu của toàn nhân loại hướng tới. Để thực hiện
việc bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam một cách bền vững, mỗi ngành khoa
học lại có cách tiếp cận và đề xuất riêng. Dưới góc độ luật học, tác giả nghiên
cứu các quy định pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ở Việt Nam hiện
nay và đề xuất các giải pháp phù hợp. Với cách thức tiếp cận từ khía cạnh
pháp luật, luận án đã nghiên cứu và luận giải được các vấn đề về:
- Cơ sở lý luận của pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng như
phân tích, bình luận và làm rõ các khái niệm, xây dựng nội dung, nguyên tắc
điều chỉnh, đánh giá vai trò của pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
cũng như xác định các yêu cầu đối với với pháp luật quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng.
- Luận văn phân tích sự phát triển của pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng của Việt Nam qua các thời kỳ và chỉ ra các nhân tố hợp lý, tích
cực cũng như các mặt còn hạn chế để giúp cho việc hoàn thiện pháp luật
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng hiện nay.
- Hệ thống các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
của Việt Nam hiện nay khá đồ sộ và cũng có những điểm tiến bộ nhất định
nhưng vẫn còn không ít những hạn chế cản trở sự phát triển bền vững tài
nguyên rừng.
- Luận văn đã đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp tương đối
77
cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng ở Việt Nam hiện nay. Định hướng hoàn thiện pháp luật quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng phải dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội, với quan điểm, đường
lối của Đảng và phù hợp với các yếu tố văn hóa, truyền thống.
Tóm lại, nghiên cứu pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là
một lĩnh vực mới mẻ, với nhiều vấn đề gai góc và phức tạp. Đây là công trình
đầy tâm huyết và công phu của tác giả với mục đích tìm ra những điểm phù
hợp và những điểm còn hạn chế của hệ thống pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng của nước ta, trên cơ sở đó đề xuất các khuyến nghị sửa đổi cho
78
phù hợp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Mai Anh và cộng sự (2017), Đề xuất sửa đổi một số quy định về sở hữu
rừng trong Dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi), Tạp chí Khoa
học và Công nghệ Lâm nghiệp Tháng 10/2017.
2. Lê Văn Bách (2011), Tổng quan về lâm trường quốc doanh, các vấn đề
khuyến nghị của Lê Văn Bách - Ban chính scsh về các tổ chức quản lý rừng
Tổng cục Lâm nghiệp năm 2011.
3. Bộ Chính trị (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
4. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 97-KL/TW ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
5. Bộ Chính trị (2017), Chỉ thị 13-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Thông tư số
38/2007/TT-BNN ngày 25/4/2007 hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng,
cho thuê rừng.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Thông tư số
69/2011/TT-BNNPTNT, ngày 21/10/2011 của Bộ Nông nghiệp và PTMT
hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quy chế quản lý đầu tư xây dựng
công trình lâm sinh ban hành kèm theo Quyết định số 73/2010/QĐ-TTg
ngày 16 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Thông tư số
01/2012/TT-BNNPTNT ngày 04/01/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Quy định hồ sơ lâm sản hợp pháp và kiểm tra nguồn gốc lâm sản
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Báo cáo kết quả rà soát cơ
chế, chính sách liên quan đến kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn
2012- 2020.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(2013) Báo cáo phân tích đánh giá
thực trạng quản lý, sản xuất kinh doanh các công ty Lâm nghiệp
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Tờ trình số 1300 TTr-
BNN-TCLN, ngày 18/4/2013 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc Báo
cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh.
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014 - 2018), Báo cáo tổng kiểm
kê rừng cả nước năm 2014 - 2018, Hà Nội.
13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2015), Báo cáo thuyết minh xác
lập Dự án Luật Lâm nghiệp thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm
2004.
14. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2015), Thông tư 40/2015/TT-
BNNPTNT ngày 21 tháng 10 năm 201 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
thông tư số 01/2012/TT-BNNPTNT quy định hồ sơ lâm sản hợp pháp và
kiểm tra nguồn gốc lâm sản.
15. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 21/2016/TT-
BNNPTNT ngày 28/6/2016 Thông tư Quy định về khai thác chính và tận
dụng, tận thu lâm sản, Hà Nội.
16. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 27/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy định về Quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản, Hà Nội.
17. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 28/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy định về Quản lý rừng bền vững, Hà Nội.
18. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 30/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy định Danh mục loài cây trồng lâm nghiệp chính; công nhận giống và
nguồn giống; quản lý vật liệu giống cây trồng lâm nghiệp chính, Hà Nội.
19. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 31/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy định về phân định ranh giới rừng, Hà Nội.
20. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 32/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy định phương pháp định giá rừng; khung giá rừng, Hà Nội.
21. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2018), Thông tư số 33/2018/TT-
BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
quy định về điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng, Hà Nội.
22. Bộ Tài chính (2009), Công văn số 15238/BTC-ĐT, ngày của Bộ Tài chính
gửi các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương
của các đoàn thể; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước về việc thực hiện một số giải pháp
về quản lý, thanh toán các nguồn vốn đầu tư XDCB năm 2009.
23. Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2016), Thông tư số
93/2016/TTLT-BTC-BNNPTNT ngày 27/6/2016 Hướng dẫn chế độ quản
lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện NĐ số 75/2015/NĐ-CP ngày
09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng,
gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số giai đoạn 2015 - 2020
24. Chính phủ (2006), Nghị định 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
03/3/2006 về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004
25. Chính phủ (2010), Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của
Chính phủ về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng.
26. Chính phủ (2007), Nghị định 48/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày
28/3/2007 về nguyên tắc và phương pháp định giá các loại rừng
27. Chính phủ (2008), Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
27/12/2008 về một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp
và thủy sản.
28. Chính phủ (2010), Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày
24/9/2010 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
29. Chính phủ (2008), Nghị định 05/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
14/01/2008 về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng.
30. Chính phủ (2015), Nghị định 75/2015/NĐ-CP về cơ chế chính sách bảo về
và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ
trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020
31. Chính phủ (2016), Nghị định 168/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 quy định
về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các Ban quản lý rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV Nông, lâm nghiệp Nhà
nước
32. Chính phủ (2018), Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, Hà
Nội.
33. Chính phủ (2019), Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 của
Chính phủ về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, Hà Nội.
34. Chính phủ (2019), Nghị định số 06/2019/NĐ của Chính phủ ngày
22/01/2019 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và
thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã
nguy cấp, Hà Nội.
35. Đoàn Diễm (2017), Quyền sở hữu và quyền hưởng dụng rừng tự nhiên ở
Việt Nam, Hội thảo Đóng góp ý kiến cho dự thảo Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng (Sửa đổi), Hà Nội, Việt Nam.
36. HĐND tỉnh Quảng Nam (2014), Nghị quyết số 114/2014/NQ-HĐND ngày
11/7/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ chế khuyến khích, bảo tồn,
phát triển Sâm Ngọc Linh tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2020.
37. Bùi Kim Hiếu (2017), Quản lý nhà nước về lâm nghiệp, Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội.
38. Lưu Tuấn Hiếu (2018), Quản lý và phát triển lâm nghiệp bền vững trong
nền kinh tế thị trường hiện nay, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm
nghiệp số 3, 2018.
39. Nguyễn Thanh Huyền (2004), “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo vệ
rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
40. Nguyễn Thanh Huyền (2012), “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ
tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận án Tiến sĩ, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
41. Vũ Long (2012), Một vài ý kiến về giao đất giao rừng cho hộ gia đinh-
Chính sách và Thực tiễn”. Báo cáo tham luận tại Hội thảo “Giao đất lâm
nghiệp-Chính sách và thực trạng”, 10/4/2012, Hà Nội.
42. Tô Đình Mai (1997), Mấy vấn đề về chính sách phát triển Lâm nghiệp đến
năm 2010, Tạp chí Lâm Nghiệp 1997 (4+5), 38-40.
43. Ngân hàng Thế giới (2007), “Forest law and sustainable development -
Addressing Contemporary Challenges Through Legal Reform” (Luật lâm
nghiệp và Phát triển bền vững - Giải quyết các thách thức đương đại thông
qua cải cách pháp lý).
44. Lê Du Phong, Tô Đình Mai (2007), Góp phần nghiên cứu chính sách lâm
nghiệp ở Việt Nam trong thòi kỳ công nghiệp hóa, Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội.
45. Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị (2014), Báo cáo giao đất giao rừng trong
bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: cơ hội phát triển rừng và cải thiện
sinh kế vùng cao T6-2014
46. Quốc hội CHXHCNVN (2009), Luật Thuế tài nguyên năm 2009
47. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2004), Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
2004.
48. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai năm 2013.
49. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 2013.
50. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Môi trường 2014.
51. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự 2015.
52. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2017), Luật Lâm nghiệp năm 2017
53. RAMSAR (1971), Công ước về các vùng đất ngập nước, Paris.
54. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam (2018), Báo cáo
tổng kết thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Quảng Nam.
55. Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc FAO (2015), Báo cáo
về phát triển rừng bền vững.
56. Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc FAO (2011), Cải cách
quyền hưởng dụng rừng - Các vấn đề, nguyên tắc và quy trình, Báo cáo Lâm
nghiệp của FAO số 165. Rome.
57. Hà Công Tuấn (2006), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ rừng”, luận án Tiến sĩ, Đại học Nông nghiệp I.
58. Lê Thị Lệ Thu (2016), “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế
theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004”, luận văn thạc sĩ, Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam
59. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày
12/11/2001 về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được
thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
60. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày
05/02/2007 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam
giai đoạn 2008-2020.
61. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 17/2015/QĐ-TTg Ban hành
quy chế quản lý rừng phòng hộ.
62. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định 38/2016/QĐ-TTg về ban hành
hành một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng.
63. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định 49/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng sản xuất.
64. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định 886/QĐ-TTg ngày 16/6/2017 của
Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền
vững
65. UBND tỉnh Quảng Nam (2014 - 2018), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh Quảng Nam 2014 - 2018.
66. UBND tỉnh Quảng Nam (2017),Quyết định 120/QĐ-UBND
ngày
11/01/2017 về điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh
Quảng Nam;
67. UBND tỉnh Quảng Nam (2017), Quyết định 682/QĐ-UBND ngày
06/3/2017 về Chương trình hành động tăng cường công tác quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh nhằm thực hiện Chỉ thị 13-CT/TƯ của
Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 06-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng
Nam khóa XXI.
68. UBND
tỉnh Quảng Nam (2017),Quyết định 3673/QĐ-UBND ngày
17/10/2017 thành lập Ban chỉ đạo và Văn phòng Ban chỉ đạo về Chương
trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020
69. UBND tỉnh Quảng Nam (2018), Báo cáo hiện trạng rừng, tài nguyên rừng,
giao rừng, cho thuê rừng tại tỉnh Quảng Nam.
70. https://vi.wikipedia.org
PHỤ LỤC
Bảng mức giá của loại đất rừng sản xuất tại 08 huyện năm 2017
Mức giá (đồng/m2)
Mức giá
Mức giá
trung bình
trung bình
TT
Huyện
Cao
Thấp
Trung
mỗi huyện
của 8 huyện
nhất
nhất
bình
(đồng/ha)
(đồng/ha)
1
2
3
4=(2+3)/2
5=4*10.000
6= ∑ 5/8
Nam Trà
1
My
8.000 3.200
5.600
56.000.000
2 Bắc Trà My
8.000 3.500
5.750
57.500.000
3 Hiệp Đức
5.000 2.000
3.500
35.000.000
4 Nông Sơn
6.000 2.000
40.000.000
4.000
57.625.000
5 Phước Sơn
7.000 4.000
5.500
55.000.000
6 Nam Giang
9.000 4.500
6.750
67.500.000
7 Đông Giang 11.500 4.000
7.750
77.500.000
8 Tây Giang
11.500 3.000
7.250
72.500.000
(Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam)