ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI BÁ THÀNH

QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘITHEO

QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI BÁ THÀNH

QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘITHEO

QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, tính

chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn đều được rút

ra từ kết quả nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Bùi Bá Thành

i

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục từ viết tắt

Danh mục bảng

Danh mục hình

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ BÀO

CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...... 7

1.1 Khái niệm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ...... 7

1.1.1. Tự bào chữa là quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế .. 7

1.1.2. Chủ thể của quyền tự bào chữa trong TTHS ....................................... 12

1.1.3. Nội dung quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự ............................. 15

1.1.4. Cơ chế đảm bảo thi hành quyền tự bào chữa trong TTHS ................... 16

1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật TTHS20

1.2.1. Cơ sở của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật TTHS ............. 20

1.2.2. Ý nghĩa của quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội ..... 23

1.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS một số nước .................................. 26

1.3.1. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Trung Quốc ............................... 26

1.3.2. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Nhật Bản ................................... 26

1.3.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức ........... 28

1.3.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Australia .................................... 29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 31

CHƯƠNG 2: QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................. 32

2.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trước năm 2015 .. 32

2.1.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến

trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành................................ 32

ii

2.1.2. Quyền tự bào chữa trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Bộ luật

TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003. ................................... 35

2.1.3. Quyền tự bào chữa từ từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến trước khi

Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực ............................................................ 36

2.2. Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật TTHS

năm 2015...................................................................................................... 37

2.2.1. Quyền tự bào chữa của người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp ....................................................................................................... 37

2.2.2. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ ............................................ 39

2.2.3. Quyền tự bào chữa của bị can ............................................................. 43

2.2.4. Quyền tự bào chữa của bị cáo ............................................................. 51

2.2.5. Quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi ......................................... 57

2.2.6. Trách nhiệm bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội của các

cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ................................... 61

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 64

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ

BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................ 65

3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc

tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................ 65

3.1.1. Thực tiễn bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội theo quy

định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .............................................. 66

3.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền

tự bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự .................................... 76

3.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả

thực thi quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tôi .................................... 76

3.2.2. Phương hướng hoàn thiện quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tội.. 78

iii

3.2.3. Các kiến nghị pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền

tự bào chữa đối với người bị buộc tội ........................................................... 80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 92

KẾT LUẬN ................................................................................................. 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 96

iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ Luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

TTHS : Tố tụng hình sự

VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

v

DANH MỤC BẢNG

Nội dung STT Bảng Trang

Bảng 3.1 Tình hình thụ lý, giải quyết VAHS trong cả nước 1 65 giai đoạn 2016-2018

Một số nguyên nhân từ chối quyền tự bào chữa của 2 Bảng 3.2 72 bị can, bị cáo do luật sư cung cấp

vi

DANH MỤC HÌNH

STT Hình Nội dung Trang

Biều đồ tỉ lệ các vụ án đã được thụ lý, giải quyết 1 Hình 3.1 66 giai đoạn 2016 - 2019

2 Hình 3.2 Tỉ lệ nhu cầu tự bào chữa của bị can, bị cáo 71

vii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tự bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền bào chữa -

một quyền cơ bảncủa người bị buộc tội. Bào chữa là quyền con người được

nhà nước đảm bảo bằng pháp luật tố tụng hình sự thông qua các quy định và

các biện pháp thực thi có hiệu quả quyền bào chữa trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự. Điều đó cũng có ý nghĩa rằng, việc bảo đảm quyền tự bào chữa

trong tố tụng hình sự có vai trò quan trọng, và cũng là một bộ phận cấu thành

của các thiết chế bảo đảm quyền con người, tiêu chí cơ bản trong quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhiều văn bản

phản ánh các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của

Nhà nước ta khẳng định tầm quan trọng của quyền bào chữa nói chung và

quyền tự bào chữa nói riêng trong hoạt động tố tụng hình sự. Nghị quyết số

08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới xác định:

“Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh

tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến

của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn

và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách

nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi

cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa” [1];

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020khẳng định “nâng cao chấtlượng tranh tụng tại

các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạtđộng tư pháp” [2].

Quyền tự bào chữa được xác định là quyền con người của người bị

buộc tội khi tham gia tố tụng, đồng thời là bộ phận không thể tách rời của

1

quyền bào chữa tạo thành thể thống nhất được ghi nhận trong các bản Hiến

pháp của nước ta từ 1945 đến nay, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Việc đảm

bảo thực thi có hiệu quả quyền tự bào chữa đóng góp to lớn vào việc bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội; giúp cơ quan tiến hành

tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện và chính xác.

Tuy vậy, thực tiễn TTHS cho thấy việc bảo đảm quyền tự bào chữa của

người bị buộc tội còn có những chế, bất cập, chưa bảo đảm đầy đủ hoạt động

tự bào chữa trong các giai đoạn tố tụng hình sự của các cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng. Việc vi phạm quyền tự bào chữa của người bị buộc

tội còn xảy ra, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng chứng minh sự vô tội hoặc

các tình tiết giảm nhẹ tội dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan thậm

chí còn làm oan người vô tội. Những hạn chế, bất cập này cần phải được khắc

phục nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người trong TTHS, góp phần thực

thi có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. Vì vậy,

học viên chọn đề tài: “ Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội theo quy

định trong Bộ luật TTHS năm 2015” làm luận văn thạc sĩ của mình.

Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận quyền để tiếp tục nghiên cứu,

làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật TTHS về quyền tự

bào chữa, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS có liên quan.

Thông qua đó, bằng những nhận định khoa học và đánh giá thực tiễn đưa ra

đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc

áp dụng các quy định của pháp luật về quyền tự bào chữa trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu

Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý

để bảo vệ quyền con người, góp phần xây dựng một nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu bảo vệ các

2

quyền tự do, dân chủ của công dân. Vấn đề tự bào chữa trong TTHS được ghi

nhận trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới như Nga, Đan Mạch... Ở

Việt Nam, quyền tự bào chữa không được quy định thành những chương, điều

cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ được quy định rải rác ở

một số điều luật trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 (điều

11), Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2014. Mặc dù về kỹ thuật lập

pháp,quyền tự bào chữa vẫn còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, việc ghi nhận

quyền tự bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đấu tranh phòng,

chống tội phạm, phản ánh tư tưởng nhân văn trong chính sách đối với người

bị buộc tội.

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên một

số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành nghiên cứu về đề tài này như:

- Nguyễn Ngọc Chí: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự - yếu tố quan

trọng trong việc bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,

Luật học 27 (2011) 221-239.

- Hoàng Thị Sơn: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong

luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, năm 2003.

- Hoàng Thị Sơn: Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào

chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4/2002.

- Hoàng Thị Sơn: Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền

bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 5/2000.

- Trần Văn Bảy: Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người

bào chữa trong TTHS Việt Nam, Tạp chí KHPL, số 1/2001.

- Nguyễn Duy Hưng (2006): Bị can và bảo đảm quyền của bị can trong

BộluậtTTHS năm 2003 - thực trạng và định hướng hoàn thiện. Tài liệu hội

thảo đềtài khoa học cấp bộ Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

ViệtNam, Tp. Hồ Chí Minh.

3

- Phạm Hồng Hải: Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người

bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 2003, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số

5/2004.

- Lê Hồng Sơn: Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong

TTHS, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002.

Các công trình, bài viết nêu trên chỉ đề cập đến quyền bào chữa chứ

chưa thực sự nghiên cứu quyền tự bào chữa như một chế định độc lập. Mặc

dù là một bộ phận không thể tách rời của quyền bào chữa, nhưng quyền tự

bào chữa cũng có sự độc lập tương đối trong mối tương quan với các quyền

khác được pháp luật quy định. Thêm nữa, trong các công trình nghiên cứu kể

trên, các tác giả cũng chỉ nghiên cứu pháp luật thực định, đi sâu vào các nội

dung quyền bào chữa mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về

quyền tự bào chữa.

Hiện nay chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu chuyên sâu về

quyền tự bào chữa của người bị buộc tội ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Bên cạnh

đó, một số công trình được công bố cách đây khá lâu khi một số quy định

pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền tự bào chữa chưa được ghi nhận trong

pháp luật thực định, vì vậy, chúng ta cần được tiếp tục nghiên cứu tổng quát,

toàn diện hơn trên tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp và thực tiễn áp

dụng hiện nay để đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn nhất.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm sáng tỏ thêm cơ

sở lý luận và thực tiễn, nội dung của quyền tự bào chữa, chỉ ra những kết quả

và những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền tự bào chữa ở nước ta hiện

nay. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự bào

chữa trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, góp phần giải quyết vụ án hình

sự khách quan, trung thực và hiệu lực, hiệu quả.

4

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được

đặtra là:

1. Nghiên cứu khái quát quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong

TTHS như: khái niệm, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nguyên tắc.

2. Phân tích các nội dung cơ bản của quyền tự bào chữa giành cho

người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam

3. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng, qua đó rút ra kết quả đạt được

và những tồn tại, hạn chế.

4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng thực

hiện quyền tự bào chữa, người viết đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện,

nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong

TTHS Việt Nam.

4. Phạm vi –ý nghĩa nghiên cứu

Với đề tài này, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào quyền tự

bào chữa của người bị buộc tội dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định

của pháp luật đặc biệt là những quy định trong BLTTHS năm 2015 về nội

dung của quyền này và chỉ ra vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật

của quyền tự bào chữa.

Đề tài đưa ra những luận cứ đồng thời phân tích các quy định hiện hành

của bộ luật TTHS năm 2015, làm kết quả để hoàn thiện pháp luật tố tụng hình

sự về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời đề tài đưa ra những lý

luận chặt chẽ để các chủ thể tham gia tố tụng nhận thức đúng vai trò về quyền

tự bào chữa của người bị buộc tội nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của người bị buộc tội, góp phần giải quyết vụ án khách quan công bằng, hạn

chế oan sai, bỏ lọt tội phạm qua đó xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững

mạnh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin

(chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí

Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp.

Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh, phân tích và phương

pháp tổng hợp kết hợp với việc phân tích thực tiễn áp dụng quyền tự bào chữa

thông qua báo cáo công tác của các cơ quan tư pháp và minh họa với các vụ

án cụ thể, điều luật cụ thể để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các

vấn đề tương ứng để nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp

thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; kết hợp với việc phân tích thực tiễn.

6. Bố cục của Luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,

Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền tự bào chữa của người bị

buộc tội trong tố tụng hình sự

Chương 2: Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong luật tố tụng

hình sự Việt Nam

Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu

quả thực thi các quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong

luật tố tụng hình sự Việt Nam

6

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ BÀO

CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1 Khái niệm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng

hình sự

1.1.1. Tự bào chữa là quyền con người được ghi nhận trong pháp luật

quốc tế

Tự bào chữa là tự mình sử dụng lập luận, chứng cứ để bênh vực cho

hành vi của bản thân đang bị xem là phạm pháp hoặc đang bị lên án, đang bị

buộc tội.Theo từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để

bênh vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án

hoặc cho một việc làm đang bị lên án” còn “tự bào chữa là tự mình thực

hiện” [45]. Trong khoa học pháp lý TTHS, khái niệm quyền bào chữa được

nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Quyền tự bào chữa là một bộ phận

không tách rời của quyền bào chữa và là một chuẩn mực bắt buộc trong quyền

được xét xử công bằng và được xem là một trong những quyền cơ bản của

con người. Theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền bào chữa có lịch sử phát triển

lâu đời với những cách hiểu và quy định khác nhau từ thời Trung cổ ở Châu

Âu. Để quyền tự bào chữa được thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực thi trên

thực tế thì quyền này phải được quy định trong các văn bản pháp lý mang tính

bắt buộc thi hành. Trước hết, quyền tự bào chữa phải được xây dựng dựa trên

cơ sở, chuẩn mực quốc tế, sau đó, được nội luật hóa bằng các quy định pháp

luật trong từng quốc gia cụ thể, với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Khi

nghiên cứu về quyền tự bào chữa, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu chế định

này trong mối tương quan với quyền bào chữa. Với quá trình hình thành và

phát triển lâu đời, hiện nay, quyền tự bào chữa đã được công nhận như là một

7

chuẩn mực mang tính toàn cầu, được tất cả các quốc gia trên thế giới công

nhận. Để có cái nhìn tổng quát về quyền tự bào chữa, chúng ta có thể tham

khảo những quy định đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong các văn bản

pháp lý quốc tế.

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) đã xác

định những quyền cơ bản của một người khi phải đối mặt với những cáo buộc

hình sự. Tại Điều 10 của UDHR ghi nhận “Mọi người đều bìnhđẳng về quyền

được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án độc lập và khách quan để

xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào

đối với họ”[38]. Điều 11 của Tuyên ngôn xác định“Bất cứ ai bị cáo buộc về

một hành vi phạm tội đều được quyềnsuy đoán vô tội cho đến khi được chứng

minh là phạm tội trước một phiên tòa công khai, nơi mà anh ta được cung cấp

những bảo đảm cần thiết cho việcbào chữa”[37]. Với cách quy định này,

Tuyên ngôn không quy định trực tiếp thế nào là quyền tự bào hay quyền tự bào

chữa cho một người chữa nhưng Tuyên ngôn đã ghi nhận một trong những tiêu

chí cơ bản của xét xử công bằng là quyền được có những bảo đảm hợp lý cho

việc bào chữa của người bị buộc tội. Theo tinh thần chung của UDHR thì các

quy định về bảo đảm quyền bào chữa nói chung trong đó có quyền tự bào chữa

đã được ghi nhận và cụ thể hóa ở nhiều văn kiện quốc tế khác.

Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966

(ICCPR) của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc có hiệu lực ngày 23/3/1976; Việt

Nam gia nhập Công ước vào ngày 24/9/1982, tạikhoản 3 Điều 14 của Công

ước quy định các quyền cơ bản hay những bảo đảm tối thiểu mà một người

được hưởng trong quá trình tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử công bằng,

trong đó có quyền tự bào chữa. Với những quy định này, trong quá trình xét

xử hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn

toàn bình đẳng những quyền cơ bản như:

8

“(a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn

ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;

(b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ

với người bào chữa do chính mình lựa chọn;

(c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;

(d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông

qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về

quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp

pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và

không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;

(e) Được đối chất hoặc yêu cầu đối chất những nhân chứng buộc

tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tham gia;

(f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói

được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;

(g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận là mình có tội.” [38]

Quyền tự bào chữa có vai trò đặc biệt do đây là quyền đầu tiên và

không thể bị tách rời, mang tính chất bảo đảm cho các quyền khác của con

người được thi hành trong quá trình tố tụng. Khoản 3 Điều 14 ICCPR khẳng

định trong quá trình xét xử hình sự, mọi người phải được đáp ứng những bảo

đảm tối thiểu liên quan đến quyền tự bào chữa. Các quyền đó bao gồm quyền

được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử

nhanh chóng, được đối chất với người làm chứng...Để có thể thực hiện việc

bào chữa, người bị buộc tội phải được thông báo về lý do buộc tội (điểm a).

Trong bộ Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù

dưới bấtkỳ hình thức nào (1988)được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông

qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 tiếp tục nhấn mạnh quyền được

9

thông báo này của người bị bắt giữ, theo đó “Bất kỳ người nào bị bắt giữ đều

phải được thông báo ngay khi bị bắt giữ về lý do của việc bắt giữ, và phải

được thông báo ngay về bất kỳ lời buộc tội nào đối với họ”[47]. Bên cạnh

quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa (điểm b), bị cáo lại có

quyền được xét xử nhanh chóng, quyền tự bào chữa và quyền nhờ luật sư,

quyền được có phiên dịch. Bị can, bị cáo không phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội và nghĩa vụ chứng minh trong

vụ án hình sự thuộc về bên buộc tội.

Những quy định này được cụ thể hóa tại Bình luận chung số 32 của Ủy

ban giám sát thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị về

quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng đã hướng dẫn

cụ thể về các bảo đảm tối thiểu được quy định tại Điều 14 Công ước. Thuật

ngữ “thời gian đầy đủ (hay thời gian thích đáng)” được giải thích là : thời

gian đầy đủ” cho việc chuẩn bị phụ thuộc vào từng vụ việc.... Tòa án chỉ có

thể ra quyết định hoãn xét xử khi bị đơn bị kết tội hình sự nghiêm trọng và

cần thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa. Các điều kiện đầy đủ bao gồm:

quyền tìm kiếm các tài liệu, chứng cứ khác; việc tiếp cận này bao gồm các tài

liệu liên quan đến việc khởi tố và thông tin có thể dùng để bào chữa.Bình luận

chung số 32 hướng dẫn cụ thể một số quy định như: bị cáo có quyền có mặt

trong khi bị xét xử, nhưng trong một số trường hợp bị cáo có thể vắng mặt

nếu sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến công lý và bị cáo đã được cơ

quan tư pháp thông báo kịp thời cho họ về thời gian, địa điểm xét xử và yêu

cầu họ tham gia trước đó nhưng họ vẫn từ chối thực hiện quyền có mặt trong

phiên tòa (Đoạn 36). Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào

chữa. Việc tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa của bị cáo phải được cơ

quan có thẩm quyền thông báo. Cá biệt ở một số trường hợp, tòa án có thể chỉ

định một luật sư không theo ý muốn của bị cáo. Nhưng, việc hạn chế ý muốn

10

tự bào chữa của bị cáo phải thực sự “có mục đích hợp lý và khách quan và

không vượt quá sự cần thiết thực thi công lý” [48]. Cơ quan điều tra không

được can thiệp hoặc gây áp lực tâm lý đối với người bị tình nghi hay bị can

nhằm ép họ nhận tội. Đối với những lời khai hoặc lời nhận tội có được bằng

phương thức tra tấn, thì không được coi là chứng cứ, trừ khi chúng được sử

dụng làm bằng chứng của việc tra tấn hoặc những đối xử khác trái với quy

định (Đoạn 41 Bình luận chung số 32). Như vậy quy định tại Điều 14 đã xác

định nội dung của quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ

người khác bào chữa.

Ngoài ra quyền tự bào chữa còn được ghi nhận và bảo đảm ở nhiều văn

bản pháp lý khác có liên quan như “Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc

về vai trò của Luật sư”, “Quy chế Roma về Tòa án hình sự quốc tế”, Công

ước Châu Âu về quyền con người (ECHR), Công ước Châu Mỹ về quyền

conngười (AmCHR) và Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền

các dân tộc (AfCHPR), tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người

bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào được Đại Hội đồng Liên Hợp

Quốc thông qua bằng Nghịquyết 43/173 ngày 9/12/1988.

Công ước Châu Âu về quyền con người (EHRC) cũng có các quy định

về quyền tự bào chữa cho người bị cáo buộc về hình sự. Theo đó bất kỳ ai khi

bị cáo buộc phạm tội hình sự có các quyền tối thiểu sau:

“…(a) Được thông báo kịp thời bằng một ngôn ngữ mà người đó

hiểu chi tiết về bản chất và lý do buộc tội mình;

(b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ

với người bào chữa do chính mình lựa chọn;

(c) Được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý do người

đó lựa chọn; hoặc nếu họ không có đủ khả năng chi trả cho người bào

chữa, họ sẽ được cung cấp sự trợ giúp pháp lý miễn phí vì lợi ích của

công lý;

11

(d) Đối chất hoặc được đối chất những nhân chứng buộc tội mình,

và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tham gia đối chất với điều

kiện tương tự như những nhân chứng buộc tội;

(e) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói

được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;…”[39].

Như vậy, qua nghiên cứu các văn bản pháp lý quốc tế được cộng đồng

thế giới thừa nhận rộng rãi, quyền tự bào chữa đặt ra với người bị buộc tội, có

thể khẳng định, quyền tự bào chữa là một bộ phận không thể tách rời của

quyền bào chữa nói chung. Bên cạnh đó, quyền tự bào chữa cũng liên quan mật

thiết đến những quyền, những đảm bảo pháp lý tối thiểu đối với người bị buộc

tội như các quyền về biết lý do bị buộc tôi, quyền được trợ giúp pháp lý, quyền

được đối chất… Quyền tự bào chữa được ghi nhận có ý nghĩa vô cùng to lớn

trong hoạt động đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

1.1.2. Chủ thể của quyền tự bào chữa trong TTHS

Quyền tự bào chữa chỉ đặt ra trong trường hợp một người thực hiện

hành vi phạm tội hoặc họ bị tình nghi phạm tội bởi hành vi của mình đã thực

hiện. Có thể hiểu quyền tự bào chữa của người bị buộc tội chỉ xuất hiện khi

xuất hiện quyền buộc tội theo thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền. Việc một người bị buộc tội đương nhiên dẫn đến hệ quả về việc một

người có khả năng phải chịu TNHS, do đó, để tránh cho một người khả năng

phải chịu trách nhiệm pháp lý cao nhất thì quyền bào chữa nói chung và tự

bào chữa nói riêng ra đời, tạo ra một khả năng đối trọng cần thiết, hướng đến

việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trên bình diện quốc tế, người

buộc tội ở mỗi quốc gia khác nhau, mỗi thể chế chính trị khác nhau lại có

những cách tiếp cận khác nhau.

Trên thực tế, những vấn đề pháp lý liên quan đến người bị buộc tội là

một nội dung quan trọng mà các nước đều quan tâm, do đó được quy định khá

12

đầy đủ, toàn diện trong BLTTHS các nước. Pháp luật tố tụng hình sự Liên Xô

trước đây và Liên bang Nga ngày nay có nhiều điểm chung với pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam. Trong pháp luật TTHS Liên Bang Nga, một trong các

chủ thể tham gia tố tụng hình sự được xác định bao gồm: “người bị tình nghi,

bị can, bị cáo”. Theo quy định này, người bị buộc tội được hiểu khá rộng, bao

gồm: người bị bắt và người bị tạm giữ trong các trường hợp. Đối với những

người bị buộc tội này, họ có các quyền như sau: quyền từ chối khai báo,

quyền bào chữa, quyền gặp gỡ riêng và bí mật với người bào chữa. Có thể

thấy, người bị buộc tội trong TTHS Liên bang Nga bao gồm cả những người

bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Pháp luật TTHS ở Đan Mạch cũng ghi

nhận khái niệm “người bị tình nghi”. Trong hệ thống pháp luật TTHS Đan

Mạch, hoạt động buộc tội được tiến hành song song với hoạt động khởi tố, bao

gồm cả khởi tố vụ án và khởi tố bị can. Với quy định như vậy có thể hiểu người

bị buộc tội theo pháp luật TTHS Đan Mạch chỉ bao gồm: bị can và bị cáo.

Hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự và các quy định của pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam chưa đưa ra được khái niệm thống nhất về người bị

buộc tội. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 chỉ ghi nhận quyền

của người bị buộc tội mà chưa xác định được định nghĩa pháp lý với nhóm

người này. Theo đó, tại Điều 31 quy định: “Người bị buộc tội được coi là

không có tội cho đến khiđược chứng minh theo trình tự luật định và có bản án

kết tội của Tòa án đã cóhiệu lực pháp luật” [9]. Trong BLTTHS năm 2015,

thuật ngữ người bị buộc tội đã được giải thích: “Người bị buộctội gồm người

bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”[12].Từng loại người được liệt kê nêu

trên được định nghĩa trong nhiều điều, nhiều phần riêng, tùy thuộc vào giai

đoạn tố tụng họ xuất hiện. Theo nội dung được quy định trong những văn bản

này thì, thuật ngữ “người bị buộc tội” thường chỉ quy định theo hướng liệt kê

các đối tượng thuộc diện nghi là phạm tội, thêm nữa, quy định pháp luật về

13

nhóm người này cũng còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lý. Người bị buộc tội

nên được hiểu là người bị tình nghi phạm tội, người này đang được đặt trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự và có thể bị các cơ quan tiến hành tố tụng

áp dụng biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách

quan vụ án. Người bị buộc tội có thể phải nhận một số quyết định áp dụng

pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng như: lệnh bắt, lệnh tạm giam, quyết

định tạm giữ, quyết định khởi tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử…Tuy nhiên,

theo qui định của pháp luật họ vẫn là người vô tội, chỉ khi nào bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật của tòa án xác định họ là người có tội thì họ mới bị

coi là người phạm tội.

Trong TTHS, người bị buộc tội được xác định là người bị các cơ quan

tiến hành tố tụng đặt ra nghi vấn là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội, mà BLHS coi là tội phạm. Hành vi phạm tội có thể ở dạng hành động

hoặc không hành động. Ở dạng hành động, đó là các hành vi vi phạm những

điều cấm trong pháp luật hình sự. Ở dạng không hành động là việc không

thực hiện những nghĩa vụ bắt buộc phải làm trong những điều kiện, hoàn cảnh

nhất định. Việc thực hiện hành vi nêu trên là nguyên nhân dẫn đến hậu quả

hay đe dọa gây ra hậu quả là những thiệt hại cho các quan hệ xã hội được

pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Những người này chưa bị bản án, quyết

định của Tòa án có hiệu lực pháp luật xác định là có tội nên họ đương nhiên

không bị coi là có tội. Nhóm đối tượng này có thể là những người bị bắt, tạm

giữ, tạm giam, bị can, bị cáo trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Những

người này không được xác định một cách ngẫu nhiên, theo ý muốn chủ quan

của bất kỳ một chủ thể nào mà phải là những người được quy định rõ trong

luật với các trường hợp cụ thể khác nhau khi họ tham gia vào tiến trình TTHS

và có quyền và nghĩa vụ cụ thể. Người bị buộc tội phải là người bị tình nghi

phạm tội được đặt trong một quá trình TTHS theo các quy định pháp luật.

14

Việc tình nghi trong TTHS không phải và không thể là sựngờ vực, suy đoán

chủ quan, cảm tính. Người bị tình nghi là phạm tội được đặt trong hoàn cảnh

họ bị các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước dựa vào các căn cứ pháp lý

kết hợp với hành vi, sự việc, sự vật được phản ánh trên thực tế để xác định

rằng hành vi của người bị tình nghi này có dấu hiệu phạm tội do BLHS quy

định hay không? Không chỉ dừng lại ở đó, người bị buộc tội phải nhận một

hoặc nhiều quyết định mang tính quyền lực Nhà nước như lệnh bắt, quyết

định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ

án ra xét xử…do các cơ quan hay người có thẩm quyền trong việc giải quyết

vụ án hình sự ban hành. Các quyết định đó gắn với chủ thể bị buộc tội, đưa họ

thành chủ thể tham gia vào tiến trình tố tụng, đồng thời trao cho họ có các

quyền, nghĩa vụ tương ứng với từ giai đoạn. Việc trao cho người bị buộc tội

những quyền cơ bản, mặc dù có những hạn chế do họ đang bị tình nghi hoặc

bị kết án, đã phản ánh tính nhân văn tiến bộ của pháp luật hiện đại. Tóm lại,

nhóm người bị buộc tội là chủ thể của quyền tự bào chữa trong TTHS. Những

người này có thể là người bị tình nghi, người bị buộc tội đang tham gia trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự, họ đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp

dụng các biện pháp cưỡng chế về TTHS nhằm xác định sự thật khách quan

của vụ án. Như vậy, người bị buộc tội có thể là: người bị bắt, người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo. Về cơ bản, những người này chưa bị coi là người phạm

tội, đối với họ, vấn đề đặt ra xem xét chỉ là tình nghi phạm tội.

1.1.3.Nội dung quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự

Thông qua những tìm hiểu về quyền tự bào chữa trong TTHS và chủ

thể của quyền tự bào chữa đã được đề cập ở phần trên, người viết đã có những

tổng hợp, so sánh và đưa ra được nhận định: quyền tự bào chữa là một bộ

phận không thể tách rời quyền bào chữa, những đảm bảo cho quyền tự bào

chữa là đảm bảo cho quyền được xét xử công bằng được thực hiện, quyền tự

15

bào chữa bắt buộc phải đặt trong mối tương quan với những quyền cơ bản

khác trong TTHS khi một người đứng trước khả năng bị buộc tội từ phía cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền. Điều đó mang vai trò to lớn nhằm hướng đến

mục đích xét xử công bằng, bảo đảm quyền con người tối thiểu cho nhóm

người bị buộc tội. Quyền tự bào chữa bắt đầu từ khi một người bị bắt hay tạm

giữ về hình sự và kéo dài xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự cho

đến khi người này bị kết án bởi tòa án có thẩm quyền. Theo những chuẩn mực

quốc tế được thừa nhận trong các công ước quốc tế, điều ước quốc tế nêu trên

có thể nhận định quyền tự bào chữa được phản ánh trực tiếp thông qua các

quyền năng sau:

Một là, quyền được thông báo về việc bị buộc tội và lý do buộc tội.

Hai là, quyền được cung cấp đủ điều kiện và thời gian chuẩn bị để tự

bào chữa và nhờ người khác bào chữa.

Ba là, quyền được có mặt tại phiên tòa xét xử mình và tự bào chữa tại đây.

Bốn là, quyền được tranh luận, đối chất với nhóm chủ thể buộc tội mình.

Năm là, quyền không bị ép đưa ra lời khai chống lại mình.

Sáu là, quyền được có phiên dịch trong suốt quá trình tố tụng nếu như

không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ được sử dụng trong quá trình tố tụng.

Bảy là, quyền tự bào chữa là một bộ phận của quyền bào chữa, quyền

tự bào chữa không loại trừ khả năng nhờ người khác bào chữa của người bị

buộc tội

1.1.4. Cơ chế đảm bảo thi hành quyền tự bào chữa trong TTHS

Quyền tự bào chữa và những quyền cơ bản khác của con người được

ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở để đảm bảo thực thi

quyền con người. Việc đảm bảo quyền tự bào chữa phải được ghi nhận theo

hướng các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia thể chế hóa những tiêu

chuẩn, tiêu chí được xác định trong các văn bản pháp lý quốc tế, đảm bảo phù

16

hợp với điều kiện, hoàn cảnh khi áp dụng tại quốc gia mình. Các văn bản

pháp lý quốc gia phải ghi nhận từ Hiến pháp đến những luật, bộ luật chuyên

ngành, ở phạm vi vấn đề nghiên cứu là những luật hay bộ luật về TTHS.

Những quy định đó phải đầy đủ, được áp dụng chính xác. Điều đó thể hiện

việc Nhà nước trao cho mọi người, chứ không chỉ riêng bất kỳ nhóm người

thiểu số nào những phương tiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Đồng

thời với đó là việc Nhà nước phải tạo lập những cơ chế để giải quyết và đảm

bảo những quyền của những người bị buộc tội. Những quyền này khi áp dụng

sẽ kéo theo việc mọi chủ thể trong xã hội phải tôn trọng, không loại trừ các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các

cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tôn trọng các quyền của người

bị buộc tội đã được pháp luật ghi nhận, điều đó thể hiện qua việc thực hiện

đúng và đầy đủ những quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện tối đa cho người

bị buộc tội thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong quan hệ pháp luật

hình sự, xuất hiện mối quan hệ giữa một bên là người bị buộc tội và một bên

là đại diện các cơ quan tiến hành tố tụng, có nghĩa vụ chứng minh hành vi

phạm tội của người bị tình nghi là có hành vi phạm tội. Phải khẳng định trong

mối quan hệ này, những người bị buộc tội đương nhiên được coi là nhóm

người yếu thế hơn so với cơ quan, người tiến hành tố tụng được ủy quyền

thực hiện quyền lực Nhà nước trong giải quyết vụ án hình sự. Để chống lại

khả năng bị các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp đặt ý

chí mang tính buộc tội một chiều, pháp luật nói chung đã trao cho người bị

buộc tội quyền tự bảo vệ mình, quyền được chứng minh và tự chứng minh sự

vô tội trước các cáo buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó chính là quyền

tự bào chữa. Pháp luật TTHS một mặt là công cụ của Nhà nước để bảo vệ

quyền con người, mặt khác cũng tạo ra cơ chế để công dân nói chung và

người bị buộc tội nói riêng tự bảo vệ quyền lợi của mình thông qua các hành

17

vi tố tụng ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Nhà nước ban hành pháp luật

TTHS như một công cụ đảm bảo thực thi quyền con người, pháp luật TTHS

quốc gia sẽ nội luật hóa các Công ước quốc tế, điều ước quốc tế về quyền con

người trong đó những đảm bảo về quyền tự bào chữa không thể không được

đề cập. Việc Nhà nước ghi nhận những quy định về quyền tự bào chữa cũng

thể hiện sự cam kết cũng như trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

Quyền tự bào chữa trong TTHS được ghi nhận trong pháp luật quốc gia

nhưng phải dựa trên nền tảng cơ bản là các Bộ luật về nhân quyền trong pháp

luật quốc tế. Bởi, những văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền “là giá trị

chung của nhân loại, là kết quả đấu tranh hàng nghìn năm của những tư

tưởng tiến bộ với những thế lực độc tài, là sự cố gắng không mệt mỏi của các

quốc gia và cộng đồng quốc tế sau những biến cố mang tính lịch sử, chà đạp

quyền con người như cuộc chiến tranh thế giới thứ II…”. [34. Tr119.]. Việc

nội luật hóa các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế cũng thể hiện sự thay đổi mang

tính tích cực và những nhận thức tiến bộ của mỗi quốc gia trong tiến trình

phát triển của đời sống xã hội.

Từ những nghiên cứu về khái niệm người bị buộc tội và quyền tự bào

chữa đã nêu, người viết có thể đưa ra khái niệm về quyền tự bào chữa của

người bị buộc tội như sau: “Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội là tổng

hợp các hành vi tố tụng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp

luật quy định cho họ nhằm giúp họ tự mình đưa ra các chứng cứ để bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp trước các cơ quan có thẩm quyền trong các

quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.”

Từ định nghĩa đã nêu trên, quyền tự bào chữa của người bị buộc tội

được xác định có một số đặc điểm như sau:

- Hoạt động thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc tội có thể

biểu hiện dưới hai dạng hành động hoặc không hành động. Điều này phản ánh

18

thông qua việc người bị buộc tội đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để chống lại

những cáo buộc hướng về mình hoặc họ lựa chọn phương thức không hành

động mà thể hiện trực tiếp thông qua quyền im lặng;

- Quyền tự bào chữa chỉ xuất hiện và thuộc về người nào đó khi họ bị

buộc tội. Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về

người bị tình nghi phạm tội, túc là những người bị bắt, bị tạm giữ nhưng chưa

bị khởi tố và người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ. Như vậy, chủ

thể của quyền bào chữa là người bị buộc tội, bao gồm người bị bắt, bị tạm

giữ, bị can, bị cáo.

- Quyền tự bào chữa xuất hiện sớm nhất khi cơ quan có thẩm quyền

tiến hành các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ trong một số trường hợp

nhất định. Quyền tự bào chữa kết thúc chậm nhất khi người bị kết án trình

bày tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình tại phiên tòa giám đốc

thẩm hoặc những tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án. Nói

cách khác, quyền tự bào chữa xuất hiện từ khi giữ người trong trườn hợp khẩn

cấp, bắt người, có quyết định tạm giữ hoặc từ khi khởi tố bị can. Quyền tự

bào chữa kết thúc khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật.

Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của việc buộc tội không

còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án thì chức năng bào

chữa sẽ kết thúc sớm hơn.

- Bản chất của tự bào chữa là bảo vệ mình khỏi sự buộc tội, kết tội một

cách oan, sai của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự bằng cách đưa ra

những lập luận, bằng chứng chứng minh sự vô tội hay những căn cứ làm giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự. Tự bào chữa là các hoạt động của người bị buộc tội

từ khi bị buộc tội đến khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa

án không bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua hành vi cụ thể(có thể là hành

động hoặc không hành động) họ sử dụng các quyền luật định để làm sáng tỏ

19

những tình tiết chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự cũng như những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Đó có thể là

hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của

cơ quan tiến hành tố tụng; hoặc nhằm đưa ra chứng cứ nhằm làm giảm nhẹ

trách nhiệm của người bị buộc tội; hoặc các hành vi tố tụng nhằm đảm bảo

các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của người bị buộc tội kể cả khi

chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm hình sự trong

vụ án.

Quyền tự bào chữa được thể hiện thông qua hình thức trực tiếp một người

bị coi là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực hiện các

quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố

tụng trong các quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu quyền tự bào chữa là một bộ phận

của quyền bào chữa của người bị cáo buộc phạm tội được quy định trong

pháp luật quốc tế mà các quốc gia có trách nhiệm bảo đảm nhằm giải quyết vụ

án khách quan, công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong hoạt

động TTHS giải quyết cụ án hình sự.

1.2.Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật

TTHS

1.2.1. Cơ sở của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật TTHS

Quyền con người là đặc quyền tự nhiên và riêng có của con người được

nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật của quốc gia ghi nhận và đảm bảo thi hành.

Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người, cùng với quá

trình đấu tranh lâu dài của các dân tộc trên thế giới, quyền con người ngày

càng được tôn trọng, bảo đảm. Suy đến cùng các cuộc đấu tranh của con

người trên thế giới đều hướng tới việc đòi hỏi bảo đảm bảo vệ tốt hơn quyền

20

con người. Chủ nghĩa Mác – Lênin coi "quyền con người mang đặc tính tự

nhiên nhưng có nội dung xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng

chế độ xã hội, từng Nhà nước". [45].

Tố tụng hình sự là một lĩnh vực đặc thù, gồm toàn bộ các hoạt động của

các chủ thể tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, công

bằng, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong đó có

người bị buộc tội. Đây là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm mà ở đó quyền conngười

có nguy cơ cao bị xâm phạm. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người

trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền bào chữa nói

chung và quyền tự bào chữa nói riêng được ghi nhận là quyền cơ bản của luật

tố tụng hình sự. Theo quy định thì không ai bị coi là có tội cho đến khi được

chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ căn cứ hoặc có căn cứ

nhưng căn cứ không đủ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật

này quy định thì cơ quan hay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết

luận người bị buộc tội không có tội. Mặc dù người bị bắt, người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo đang là đối tượng bị nghi ngờ, có khả năng bị buộc tội thực hiện

tội phạm từ phía các cơ quan nhà nước nhưng về mặt pháp lý họ chưa có tội.

Do đó, họ vẫn phải được bảo đảm các quyền công dân, quyền con người như

các công dân khác; mặc dù, trong một số trường hợp, những quyền này có thể

bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi người bị bắt, bị tạm

giữ, bị can, bị cáo bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp

cưỡng chế như bị bắt, tạm giữ thì họ đã phải chịu những hạn chế, xâm phạm

nhất định về quyền của họ như quyền tự do, quyền bảo hộ về danh dự, nhân

phẩm... Để bảo đảm sự đúng đắn, khách quan trong quá trình các cơ quan tiến

hành tố tụng giải quyết vụ án, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến quyền con

21

người trong tố tụng hình sự, pháp luật đã quy định quyền bào chữa, trong đó

có các nội dung về quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội và trách nhiệm

của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm

cho người bị buộc tội thực hiện các quyền này.

Pháp luật tố tụng hình sự hướng đến mục đích chủ động phòng ngừa,

đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm; phát hiện chính xác, nhanh

chóng, kịp thời, xử lý công minh, công bằng mọi hành vi phạm tội, không để

lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi

người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Để xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, cần thiết phải thu thập

đầy đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau. Phải đánh giá toàn

diện các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, chứng cứ do các cơ quan tiến hành tố

tụng thu thập cũng như chứng cứ do bên gỡ tội cung cấp. Việc xác định sự

thật khách quan sẽ không thể thực hiện được hoàn chỉnh nếu chỉ nghe ý kiến

từ một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan và phiến diện. Thông qua

đó, các cơ quan tiến hành tố tụng có cái nhìn toàn diện các tình tiết trong vụ

án để đưa ra kết luận. Như đã trình bày, trong tố tụng hình sự, quyền bào chữa

và tự bào chữa luôn đi đôi cùng quyền buộc tội. Việc giải quyết một vụ án

hình sự sẽ không bảo đảm tính chính xác, khách quan nếu chỉ coi trọng chức

năng buộc tội mà không bảo đảm chức năng bào chữa. Khi đó, trong các hoạt

động tố tụng sẽ mang nặng ý chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng

và người tiến hành tố tụng. Họ chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc

tội mà bỏ qua các chứng cứ gỡ tội nên không đánh giá được toàn diện các

chứng cứ để xác định sự thật vụ án. Trên thực tế, việc bảo đảm quyền bào

chữa và tự bào chữa đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu

22

quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn

đến tình trạng làm oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm; xâm phạm

đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân. Chính vì thế,

việc quy định quyền tự bào chữa nói riêng trong tố tụng hình sự là vô cùng

cần thiết.

1.2.2.Ý nghĩa của quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội

Thứ nhất, các quy định về quyền tự bào chữa góp phần bảo đảm quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Quyền bào chữa nói chung và

quyền tự bào chữa nói riêng là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân,

được ghi nhận xuyên suốt trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như các văn

bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Việc ghi nhận bảo đảm quyền tự bào

chữa có ý nghĩa to lớn về mọi mặt, là một biểu hiện của tư tưởng bảo vệ

quyền con người, quyền công dân. Quyền tự bào chữa được ghi nhận cho thấy

mức độ quan tâm rất lớn của các nhà làm luật trong việc xây dựng những cơ

chế bảo đảm cho những người bị buộc tội những quyền và lợi ích căn bản.

Với cơ chế này, người bị buộc tội trước hết khi đứng trước những cáo buộc từ

phía cơ quan công quyền, họ được quyền đưa ra những lý lẽ, bằng chứng

nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ vấn đề TNHS của mình.

Quyền tự bào chữa không chỉ là tiêu chuẩn mà còn là yêu cầu trong hoạt động

tố tụng hình sự; là cơ chế để bảo vệ những người bị xếp trong nhóm bị tình

nghi phạm tội trong tố tụng hình sự. Việc ghi nhận quyền tự bào chữa trong tố

tụng hình sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong tố tụng hình sự. Việc ghi

nhận và đảm bảo thực thi quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ

sở pháp lý cho người bị buộc tội thực hiện việc chứng minh sự vô tội của

mình, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội, bác bỏ buộc tội của người, cơ quan có

thẩm quyền và làm giảm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà người đó

đã thực hiện.

23

Thứ hai, các quy định về quyền tự bào chữa góp phần giải quyết vụ án

khách quan, công bằng. Quyền tự bào chữa không chỉ là quyền của người bị

buộc tội. Mà song song với đó là những quy định liên quan đến trách nhiệm

và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đứng

từ phía các chủ thể buộc tội, bên cạnh tìm kiếm, đánh giá những chứng cứ

buộc tội có liên quan đến vụ án, họ cũng phải tìm kiếm, cân nhắc, xem xét

những chứng cứ mang tính chất gỡ tội có liên quan đến quá trình giải quyết

VAHS. Một trong số những căn cứ gỡ tội là những lời khai, những hành động

của người bị buộc tội nhằm tự bào chữa cho hành vi có thể coi là tội phạm do

mình đã thực hiện. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ buộc tội và gỡ tội là yêu

cầu bắt buộc đối với bất kể vụ án hình sự nào. Nếu xem trong những chứng

cứ buộc tội mà bỏ qua những chứng cứ gỡ tội – mà lời tự bào chữa là một yếu

tố cấu thành thì sẽ dẫn đến những hậu quả, sai lầm ảnh hưởng trực tiếp đến số

phận pháp lý của một con người như quyết định hình phạt nặng hơn tính chất,

mức độ hành vi phạm tội, thậm chí là oan, sai trong TTHS. Ngược lại, nếu chỉ

tập trung vào những chứng cứ gỡ tội, những lời tự bào chữa của người bị

buộc tội, hệ quả tất yếu dẫn đến có thể là việc quyết định hình phạt nhẹ hơn,

thậm chí bỏ lọt tội phạm. Từ đó dẫn đến mục đích của luật hình sự hướng đến

không được đảm bảo, gây mất niềm tin trong quần chúng nhân dân, vấn đề

này sâu xa hơn còn trực tiếp dẫn đến việc xâm hại các khách thể được luật

hình sự bảo vệ do xử lý không chính xác vấn đề trách nhiệm pháp lý của

người phạm tội. Vì vậy, cơ quan và người có thẩm quyền trong các cơ quan tố

tụng phải bảo đảm quyền tự bào chữa được tôn trọng và đảm bảo thi hành

trong suốt quá trình giải quyết VAHS, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm

trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ ba, các quy định về quyền tự bào chữa góp phần xây dựng nền tư

pháp trong sạch vững mạnh. Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội chỉ

được bảo đảm nếu cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có

24

nhận thức đúng đắn về nội dung, ý nghĩa và vai trò của nó. Cơ quan THTT,

người THTT là những chủ thể tiến hành các hoạt động tố tụng theo thẩm

quyền nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án hình sự. Bởi thế, họ phải nhận thức

được việc bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc chính là

giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Khi trực tiếp giải

quyết vụ án hình sự, các chủ thể THTT phải am hiểu thấu đáo những quy định

của pháp luật về quyền tự bào chữa. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền tự bào chữa, đồng thời tạo điều kiện

thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Hiệu quả đảm bảo thực

hiện quyền tự bào chữa một mặt nâng cao hiệu quả của hoạt động bào chữa

nói chung, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đang bị buộc

tội; mặt khác, còn đảm bảo việc các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện đúng,

đủ nhiệm vụ quyền hạn của mình, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động giải

quyết vụ án hình sự. Việc đảm bảo quyền tự bào chữa được thi hành có hiệu

lực hiệu quả trong thực tiễn tố tụng không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm

của những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền được Nhà nước tin tưởng giao

nhiệm vụ. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm trong đảm bảo quyền tự bào

chữa nói riêng cũng như đảm bảo quyền con người nói chung còn góp phần

nâng cao pháp chế, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai trong

TTHS, từng bước gây dựng niềm tin trong quần chúng nhân dân vào một nền

tư pháp thực sự trong sạch, là chỗ dựa, là cơ sở bảo vệ Nhà nước.

Thứ tư, tự bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của tố tụng

hình sự, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng.

Chính sự đối trọng này đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được dân chủ,

khách quan. Điều đó phản ánh rõ cách tiếp cận: có buộc tội mà không có bào

chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không

phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi

chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa.

25

1.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS một số nước

1.3.1. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Trung Quốc

Ở Trung Quốc, các tội danh và các hình phạt liên quan được quy định

tại Luật Hình sự, được sửa đổi năm 1997, được biết đến bởi rất nhiều sửa đổi

sau này của Nghị viện Nhân dân Toàn quốc. Quyền bào chữa trong tố tụng

hình sự được xác định chủ yếu bởi Luật Tố tụng Hình sự, được sửa đổi phần

lớn vào tháng ba năm 2012 [47. Tr 16].

Ở giai đoạn điều tra, quyền tự bào chữa đặt ra yêu cầu “các cơ quan an

ninh công cộng bảo vệ quyền tự bào chữa và các quyền tố tụng khác của

người bị tình nghi hình sự” [41]. Một người bị tình nghi hình sự có quyền tự

bào chữa và chỉ định một “người bào chữa” như luật sư bào chữa vào bất kì

thời điểm nào kể từ thời điểm bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu hay thời

điểm phải chịu các biện pháp cưỡng chế bắt buộc. “Cơ quan điều tra có nghĩa

vụ thông báo cho người bị tình nghi hình sự rằng họ có quyền này” [41].

Quyền tự bào chữa bao gồm cả việc “đưa ra các ý kiến; làm đơn kiện; yêu cầu

thay đổi các biện pháp bắt buộc; và yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp thông

tin về tội danh bị tình nghi và các thông tin có liên quan khác về vụ án” [41].

“Trước khi kết thúc điều tra, theo yêu cầu, cơ quan điều tra phải lắng nghe và

ghi chép lại ý kiến của người bị tình nghi” [41]. Vào bất kì giai đoạn nào

trong tố tụng nếu người bị tình nghi thấy rằng cơ quan công quyền hay cán bộ

của các cơ quan đó gây trở ngại cho việc thực hiện quyền tố tụng, họ có

quyền khiếu nại lên cơ quan kiểm sát, hay cơ quan cao nhất tiếp theo, cơ quan

này sau đó có nghĩa vụ phải khẩn trương xem xét đơn kiện và, nếu đã xác

minh, phải xử lí hành vi cản trở đó[47. Tr 17].

Trong giai đoạn truy tố, quyền tự bào chữa của người bị tình nghi được

mở rộng ở một số khía cạnh. Bắt đầu từ ngày xem xét vụ án bởi viện kiểm sát,

người bị buộc tội có thể tiếp cận, trích và sao tài liệu được thu thập trong vụ

26

án[41]. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát có nghĩa vụ thông báo cho người bị tình

nghi hình sự quyền được chỉ định luật sư bào chữa của họ trong vòng 3 ngày

kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án được chuyển để xem xét[41].

Ở giai đoạn xét xử, bị cáo có thể trình bày các tài liệu và ý kiến chứng

minh cho sự vô tội của mình, những tiểu tiết của tội danh bị cáo buộc, hay cho

nhu cầu giảm nhẹ hình phạt hay miễn trách nhiệm hình sự, và có thể hành

động để bảo vệ các quyền tố tụng và ‘các quyền và lợi ích hợp pháp khác’ của

bản thân. Bị cáo có thể đề nghị tòa hay viện kiểm sát yêu cầu đưa đến trước

tòa những bằng chứng có thể chứng minh sự vô tội của bị cáo[41]. Bên cạnh

khả năng tự bào chữa, ý kiến của luật sư bào chữa phải được Tòa án Nhân dân

Tối cao lắng nghe, trong trường hợp Tòa đang xem xét vụ án có thể dẫn tới án

tử hình [41].

1.3.2. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Nhật Bản

Hiến pháp Nhật Bản là đạo luật tối cao của quốc gia này, được ưu tiên

áp dụng so với tất cả các luật và bộ luật khác của chính phủ [47. Tr 20]. Hiến

pháp thời hậu chiến, có hiệu lực từ năm 1947, được phát triển chủ yếu từ các hệ

tư tưởng Anglo-America và có hẳn một chương về việc đảm bảo các quyền cơ

bản của con người [42]. Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định các vấn đề

vềtố tụng hình sự tại Nhật Bản bao gồm những điều khoản cụ thể liên quan tới

các quyền khác nhau trao cho người bị tình nghi và bị cáo [42].

Điều 11 của Hiến pháp giải thích mục đích của chương này; quy định

không được phép ngăn cản người Nhật Bản hưởng bất kì quyền cơ bản nào

của con người. Hơn nữa, những quyền này được đảm bảo, được hưởng vĩnh

viễn và bất khả xâm phạm. Chương này của Hiến pháp cũng khái quát và xác

định quyền bào chữa theo pháp luật Nhật Bản. Điều 34 quy định: “không ai bị

bắt hay giam giữ mà không có ngay đặc quyền được bào chữa”. Ngoài ra,

Điều 37(3) cũng quy định rằng “ vàomọi thời điểm bị can, bị cáo phải được

27

luật sư bào chữa có đủ năng lực trợ giúp - người có thể được nhà nước chỉ

định sử dụng nếu bị cáokhông thể tự bào chữa,”[42]. Những quyền được đưa

ra theo Bộ luật Tố tụng Hình sự gây ra lo ngại đặc biệt trong quá trình thẩm

vấn. Người bị tình nghi có thể bị giam giữ tới 23 ngày trong các trại tạm giam

[42], việc thú tội trong thời gian này sẽ không coi là bị ép buộc, Mặc dù

ICCPR là một điều ước, các văn kiện và nghị quyết diễn giải, như Bộ Nguyên

tắc (Body ofPrinciples) của Đại hội đồng Liên hợp quốc nêu rõ người bị tình

nghi và những người bị giam giữ có toàn quyền được bào chữa nhưng đây

không phải là chếđịnh bắt buộc theo quy định của pháp luật Nhật Bản.Mặc dù

Hiến pháp Nhật Bản coi quyền bào chữa như một quyền cơ bản và tự do,

nhưng những hạn chế nhất định đã giới hạn luật sư do Nhà nước chỉ định chỉ

dành cho bị cáo vàkhông cho người bị tình nghi, vấn đề này đã hạn chế rất lớn

“quyền” theo như cách hiểu của cộng đồng quốc tế và có thể cả những người

soạn thảo Hiến pháp ban đầu. Khả năng để luật sư bào chữa tiếp cận thân chủ

còn bị hạn chế hơn trong thực tế và trong việc giải thích Hiến pháp theo tư

pháp và hành pháp – là những hạn chế nhìn chung bị cộng đồng quốc tế đánh

giá là vi phạm quyền bào chữa cơ bản.

1.3.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Cộng hòa liên bang Đức

Hiến pháp Đức, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland (Luật

cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức) có hiệu lực từ sau chiến tranh thế giới

thứ hai ở Tây Đức, và được giữ lại sau khi nước Đức thống nhất hai miền.

Nguồn chính của các quy định tố tụng hình sự Đức và liên quan tới quyền bào

chữa là Strafprozeßordnung (Bộ luật Tố tụng Hình sự (CCP)). Bộ luật này có

hiệu lực từ năm 1877 với rất ít sửa đổi. Điều 1 của Hiến pháp Đức quy định

công nhận tính chất không thể xâm phạm và không thểchuyển dịch của quyền

con người và tác động ràng buộc của những quyền đó đối với cơ quan lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp không quy định rõ ràng

28

vềquyền bào chữa; thực tế quyền bào chữa được quy định trong CCP [47. tr

25].CCP có một chương đầy đủ dành cho các quyền luật định và thủ tục tiếp

cận người bào chữa cho cá nhân theo hệ thống luật hình sự [47. tr 25]. Phần

đầu tiên của chương này quy định bị cáo phảiđược “sự hỗ trong đó có quyền

bào chữa và tự bào chữa vào bất kì giai đoạn nào của quá trình tố tụng”[43].

Xét vềhình thức, phần đầu này bao quát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự

trong đó quyền bào chữa không bị giới hạn ở giai đoạn trước khi xét xử hay

trong giai đoạn xét xử[43]. CCP yêu cầu người bị tình nghi phải được thông

báo về những quyền này vào thời điểm bắt đầu mỗi cuộc thẩm vấn, cho dù

cuộc thẩm vấn đó là do cảnh sát [43], thẩm phán hay công tố viên thực hiện

và cho dù người bị tình nghi có đang bị giam giữ hay bị buộc tội không[43].

Thông tin này chỉ cần được cung cấp cho những người bị tình nghi và không

phải trong trường hợp cảnh sát hỏi ai đó “một cách không chínhthức”

[43].Bởi vì trên thực tế, người bị tình nghi không thể bị cưỡng ép phải hiện

diện để cảnh sát thẩm vấn [43], do đó sự có mặt của luật sư trong trường hợp

này là không bắt buộc. Trước khi thẩm vấn chính thức, người bị tình nghi có

quyền hỏi ý kiến của luật sư. Trên thực tế cảnh sátthường cho phép luật sư

hiện diện[43], vì người bị tình nghi thường giữ im lặng cho đến khi luật sư

của họ có mặt [43]. Nếu người bị tình nghi bị buộc phải tham gia các cuộc

thẩm vấn để chuẩn bị buộc tội, thì quyền bào chữa phải được bảo đảm.CCP

quy định việc chỉ định bắt buộc luật sư bào chữa cho những vụ án có thể dẫn

tới hình phạt nghiêm khắc hay bị cáo bị khuyết tật để có thể tự bào chữa [47.

tr 26]. Thẩm phán thụ lý vụ án sẽ tiến hành chỉ định luật sư ở thời điểm sau

khi công bố cáo trạng.

1.3.3.Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Australia

Hệ thống pháp luật của Australia được điều chỉnh bởi Hiến pháp của Khối

thịnh vượng chungcủa Australia. Không có quy định cơ bản rõ ràng nào về

29

quyền bào chữa trong Hiến pháp, tuy nhiên quyền được xét xử công bằng thì

tồn tại như một quyền của hệ thống thông luật cơ bản [47. tr 27]. Hơn nữa,

Tòa Thượng thẩm khẳng định rằng Hiến pháp Australia đã bao gồm quyền

được xét xử công bằng thông qua những khái niệm mặc nhiên về công bằng

tư pháp theo Hiến pháp Australia [47. tr 28]. Ở bang Victoria và Vùng Thủ đô

Australia, hiến chương quyền con người được áp dụng.Theo Phần 25(2)(b)

của Hiến chương quyền con người của bang Victoria, một bị can hình sựđược

có “đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị cho việc bào chữa và có quyền

liên hệ với luật sư hay người tư vấn do mình lựa chọn”. Một quy định rõ hơn

về TGPL, cụ thể là yêu cầu một người bị tình nghi có thể tiếp cận với TGPL

được đưa ra tại Phần 25(2)(e)-(f). Quy định này bị coi là chưa xác định rõ

ràng quyền bào chữa trong quá trình điều tra trước xét xử. Đạo luật Hợp nhất

Pháp luật Hình sự 1935 (Criminal Law Consolidation Act 1935) của Nam

Australia có một quy định rõ ràng về quyền bào chữa, tuy nhiên quy định này

dường như không bao gồm giai đoạn điều tra, cũng như không bao gồm việc

chỉ định người đại diện pháp luật được nhà nước cung cấp [47. tr 28]. Hiến

pháp Australia và hệ thống thông luật không quy định rõ về quyền tự bào

chữa. Hệ thống pháp luật Australia chỉ coi việc không có luật sư bào chữa có

thể bị coi là xét xử không công bằng, thủtục tố tụng hình sự có thể bị đình,

hoãn lại để nhận được TGPL, hay một yêu cầu hỗ trợ do tòa trực tiếp đưa ra.

30

KÉT LUẬN CHƯƠNG 1

Qua nghiên cứu một số nội dung về quyền tự bào chữa người bị buộc tội

trong luật TTHS có thể rút ra một số nhận xét như sau:

1. Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội được quy định xuất phát từ

việc bảo đảm thực hiện quyền con người và những quyền cơ bản của công

dân. Đồng thời, việc thực hiện tốt nguyên tắc cũng giúp các cơ quan THTT

xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp TTHS được tiến hành đúng

mục đích xét xử công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội.

2. Việc thực hiện tốt nguyên tắc góp phần bảo đảm cho việc thực hiện

nhất quán nguyên tắc công bằng, nhân đạo, tôn trọng quyền con người của

phápluật hình sự.

3. Quyền tự bào chữa là một trong những chế định quan trọng của pháp

luật TTHS. Mặc dù quyền tự bào chữa đã được quy định và thừa nhận nhưng

xung quanh khái niệm và nội dung của nó cũng còn nhiều ý kiến khác nhau

cần được xem xét và làm rõ từ góc độ lý luận và thực tiễn.

31

CHƯƠNG 2:QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trước 2015

2.1.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa từ sau cách mạng tháng Tám 1945

đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa ra đời, nhiệm vụ cấp bách đặt ra lúc này là củng cố chính quyền

Cách mạng, xử lý nghiêm minh mọi hành vi chống đối của các thế lực thù

địch nhằm giữ vững thành quả cách mạng. Lúc này, do điều kiện lịch sử tác

động, do vậy, quyền tự bào chữa được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp lý khác

nhau. Trong Sắc lệnh 33c ngày 13/9/1945 về việc thiết lập các Toà án quân

sự, tại đoạn 4 Điều V quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một

người khác bênh vực cho” [14]. Sắc lệnh số 13-SL ngày 24/01/1946 về tổ

chức Toà án và các ngạch thẩm phán, tại Điều thứ 44 quy định: “Trong việc

đại hình, nếu trước toà thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông

chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho hắn”[15]. Đến điều thứ 46:“ Các

luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các Toà án trừ những Toà án sơ cấp”

[15]. Những quy định này không loại trừ khả năng tự bào chữa của người bị

buộc tội, nhưng phải khẳng định quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo lúc này

chưa được coi trọng bởi nó chỉ được đề cập thông qua quyền biện hộ của luật

sư. Trong Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức Tòa án quân sự, ở

Điều 5 đã quy định rõ ràng hơn và mở rộng hình thức thực hiện quyền bào

chữa: “Bị cáo có quyền tự bênh vực hay nhờ luật sư hoặc người khác bênh

vực cho”[16]. Trong sắc lệnh số 40 ngày 29/03/1946 về việc bảo vệ tự do cá

nhân, người bị bắt: “do có lời nói hay việc làm có thể làm hại cho sự đấu

tranh giành độc lập, cho chế độ dân chủ, cho sự an toàn của công chúng và

32

cho sự đoàn kết của quốc gia... có quyền gửi bài trần tình hoặc nhờ vợ hay

chồng, ông bà con cháu, anh em ruột, chú bác cô dì, anh em thúc bá hay luật

sư đại diện bào chữa cho mình”[17]. Điều 10 Sắc lệnh số 163-SL về việc tổ

chức Toà án binh lâm thời đặt tại Hà Nội ngày 23/08/1946 quy định: “Bị can

có thể tự bênh vực lấy hay nhờ một luật sư hoặc một người khác bào chữa

cho” [18]

Trong những ngày đầu mới giành độc lập, các văn bản nêu trên là bộ

phận góp đặt nền móng cho pháp luật TTHS Việt Nam, là công cụ sắc bén để

bảo vệ và củng cố các chính quyền, đảm bảo quyền lợi cho công dân nước

Việt Nam mới, trong đó có quyền tự bào chữa trước Toà án được ghi nhận từ

rất sớm. Ngay từ những ngày đầu giành chính quyền, Nhà nước ta khi xây

dựng pháp luật về TTHS đã ghi nhận quyền tự bào chữa. Mặc dù các quy định

về tự bào chữa chưa rõ ràng và được ghi nhận rải rác, thiếu tập trung ở các

văn bản pháp luật khác nhau nhưng bằng những quy định nêu trên,phần nào

đó đã khẳng định khả năng đảm bào quyền tự bào chữa. Tuy nhiên quyền tự

bào chữa chưa xác định được nội dung cũng như chủ thể của mình; người bị

buộc tội đa phần chỉ được hiểu là bị can, bị cáo và khái niệm về bị can, bị cáo

chưa được sử dụng một cách thống nhất trong các văn bản pháp luật; người bị

bắt được nhắc đến với với tư cách là người bị buộc tội khá mờ nhạt.

Ngày 09/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới ra

đời đã đề cập đến nhiều nguyên tắc quan trọng trong đó có nguyên tắc bảo

đảm quyền bào chữa: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn

luật sư”[6]. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tự bào chữa

cho bị cáo được quy định thành một nguyên tắc mang tính Hiến định. Đây là

cơ sở cho quá trình phát triển và hoàn thiện chế định về quyền bào chữa trong

TTHS Việt Nam sau này. Quyền bào chữa được xác định gồm hai nội dung:

bị cáo được quyền tự bào chữa lấy và mượn luật sư bào chữa cho. Tuy vậy, ở

33

giai đoạn này, quyền tự bào chữa chỉ được giành cho bị cáo, điều này cho

thấy sự giới hạn của quyền cũng như việc các chủ thể bị buộc tội khác không

có khả năng tiếp cận và sử dụng quyền năng này.

Đến năm 1959, Hiến pháp 1959 ra đời, quyền tự bào chữa không được

nhắc đến trong bất kỳ điều khoản nào của Hiến pháp mà chỉ được quy định

chung tại Điều 101 với nội dung: “quyền bào chữa của người bị cáo được bảo

đảm”[7]. Đây là điểm hạn chế nhưng cũng là một bước tiến mới trên nền dân

chủ. Nếu như Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở việc quy định quyền tự bào chữa

cho bị cáo thì Hiến pháp 1959 còn phát triển thêm cơ chế bảo đảm thực quyền

bào chữa của bị cáo. Cùng với sự ra đời của Hiến pháp, ngày 14/07/1960,

Quốc hội ban hành luật Tổ chức TAND quy định mở rộng sự tham gia của

luật sư ở Tòa án các cấp và cụ thể hơn nữa quyền bào chữa của bị cáo. Bị cáo

được bảo đảm quyền tự bào, trong trường hợp đặc biệt, tòa án có quyền chỉ

định người bào chữa cho bị cáo để đảm bảo lợi ích cho bị cáo. Bị cáo có

những quyền năng nhất định để đảm bảo khả năng bào chữa của mình, điều

đó đã được cụ thể hóa trong thông tư 06/TT ngày 09/09/1967 hướng dẫn việc

bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo. Theo đó, trong phiên tòa “Toà án phải

xem bị cáo đó được tống đạt bản cáo trạng hay chưa; bị cáo có quyền yêu cầu

toà án thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nếu nhận thấy những người

này có quan hệ đối với vụ án có thể làm cho việc xét xử không được công

bằng; trình bày chứng cứ, đề xuất những lời thỉnh cầu và phát biểu lời cuối

cùng trước khi Toà án vào nghị án. Toà án có nhiệm vụ giải thích cho bị cáo

biết những quyền đó trong phần chuẩn bị phiên toà xét xử. Sau khi VKS luận

tội, Toà án cần để cho bị cáo trình bày lời bào chữa nếu họ không có người

bào chữa” [19]. Ngày 27/08/1974, TAND tối cao ban hành thông tư số 16-

TATC, bản hướng dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình xác định: “quyền bào

chữa là quyền của bị cáo”. Với quy định này, Toà án phải bảo đảm cho bị cáo

34

thực hiện đầy đủ quyền bào chữa và phải nghiên cứu những lời bào chữa của

bị cáo một cách khách quan. Thời gian giao bản cáo trạng cho bị cáo là “chậm

nhất là 5 ngày trước khi xét xử, bị cáo phải nhận được bản cáo trạng”[20].

Quyền bào chữa của bị cáo tiếp tục được Hiến pháp 1980 ghi nhận tại

Điều 133 “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật sư được

thành lập để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý”. Ở đây, quyền tự

bào chữa đã được cụ thể hóa với những quyền năng nhất định và cụ thể hơn

hẳn giai đoạn trước, tuy vậy, do vẫn chưa được quy định trong một bộ luật cụ

thể nên các quy định vẫn chỉ mang tính đơn lẻ trong phạm vi của ngành tòa

án. Thêm nữa, giai đoạn này, đối tượng được quy định có quyền bào chữa bị

thu hẹp hơn giai đoạn trước đó, khi mà quyền tự bào chữa chỉ giành cho bị

cáo. Điều đó đã gây ra những trở ngại không nhỏ trong quá trình bảo vệ

quyền lợi bản thân của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết VAHS.

Mặc dù giai đoạn trước năm 1988, chịu tác động của hoàn cảnh lịch sử

đất nước, tuy nhiên các quy định về quyền tự bào chữa trong TTHS vẫn được

phát triển theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện. Quyền tự bào chữa đã

được mở rộng, phát triển và được bảo đảm thể hiện tinh thần nhân đạo và bản

chất nhân văn của hệ thống pháp luật XHCN. Dù vậy, những quy định về

quyền tự bào chữa trong thời kỳ này tồn tại những yếu điểm như sau: khả

năng tự bào chữa chỉ dành cho đối tượng duy nhất là bị cáo và tự bào chữa chỉ

thực hiện ở giai đoạn xét xử. Như vậy, mặc dù từ các giai đoạn trước của quá

trình giải quyết vụ án, người bị buộc tội với những tư cách khác nhau tương

ứng từng giai đoạn chưa có quyền tự bào chữa, điều đó hạn chế rất nhiều khả

năng gỡ tội cho người bị buộc tội.

2.1.2. Quyền tự bào chữa trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Bộ luật

TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng bức thiết của tiến trình đổi mới đất

nước, trong đó có những yêu cầu về đổi mới và nâng cao hiệu quả pháp luật

35

tố tụng hình sự, ngày 20/06/1988 Bộ luật TTHS đầu tiên của nước Cộng hoà

XHCN Việt Nam ra đời. Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành từ

ngày 01/01/1989, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước nhà,

quyền tự bào chữa được ghi nhận, tuy chưa phải là một điều luật riêng nhưng

đã thể hiện góc nhìn và sự đề cao vị trí của quyền tự bào chữa với những

người đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng nghi ngờ thực hiện hành vi phạm

tội. Điều 12 Bộ luật TTHS năm 1988 quy định:

“Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác

bào chữa.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm

cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”[10]

Quy định tại Bộ luật TTHS năm 1988 so với các quy định trong các

văn bản trước đây có đề cập đến quyền tự bào chữa đã bổ sung thêm một chủ

thể có quyền này bên cạnh bị cáo là bị can. Bộ luật cũng đã đưa ra khái niệm

pháp lý tương đối cụ thể về bị can, bị cáo, không còn tình trạng nhầm lẫn giữa

hai nhóm người này như trong giai đoạn trước. Đến Hiến Pháp năm 1992 tiếp

tục ghi nhận quyền tự bào chữa như một quyền không thể tách rời của bị cáo,

theo đó: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào

chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình” [8].

2.1.3. Quyền tự bào chữa từkhi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến trước khi

Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực

Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới tuy nhiên nhiều quy định của Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 1988 liên quan không còn phù hợp nữa. Với tinh thần đổi mới toàn

diện, thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

được Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tư thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu

36

lực từ ngày 01/7/2004. Với Bộ luật TTHS năm 2003, quyền tự bào chữa được

quy định theo hướng mở rộng hơn. Điều 11 Bộ luật TTHS ghi nhận: “bảo

đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người bị tạm giữ,

bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT,

VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực

hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này” [11]. Với cách

quy định như vậy chúng ta xác định được nhóm người có quyền tự bào chữa

được bổ sung thêm người bị tạm giữ; hay nói cách khác, nhóm người bị buộc

tội trong giai đoạn này được xác định là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và

với họ, quyền tự bào chữa là quyền được pháp luật quy định.

2.2. Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật

TTHS năm 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời, được xác định là lần sửa đổi

mang tính căn bản, toàn diện gồm 510 điều, trong đó, bổ sung mới 176 điều,

sửa đổi 317 điều, bãi bỏ 26 điều. Bộ luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và thực hiện chủ

trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra, truy

tố, xét xử và bảo đảm quyền con người. Trong đó, quyền tự bào chữa được đề

cập một cách tương đối đầy đủ với quy định đây là quyền giành cho người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là quy định mang tính phổ quát, đảm

bảo tương quan giữa quyền bào chữa với khả năng bị buộc tội từ các chủ thể

mang tính quyền lực nhà nước.

2.2.1. Quyền tự bào chữa của người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp

Bộ luật TTHS năm 2015 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của

lịch sử lập pháp nước nhà khi lần đầu tiên ghi nhận quyền tự bào chữa cho hai

nhóm người là người bị bắt và người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Quy

37

định về người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ghi nhận tại Điều

110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

“1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được

giữ người:

a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội

phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại

nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực

hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc

hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần

ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.” [12]

Đối với người bị bắt chúng ta đặt ra hai trường hợp theo quy định tại

điều 58 Bộ luật TTHS năm 2015 là người bị bắt trong trường hợp phạm tội

quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã. Đối với nhóm người này

quyền tự bào chữa của họ được thể hiện qua các nội dung quy định tại điều 58

Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“a) Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh

bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;

b) Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;

c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu

người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;

38

g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.”[12]

Người bị bắt được quyền nghe đọc lệnh bắt, được giải thích lệnh bắt.

Việc bắt người phải được lập thành văn bản, có sự chứng kiến của đại diện cơ

quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương. Trách nhiệm thông báo cho gia

đình, chính quyền địa phương nơi người bị bắt cư trú thuộc về cơ quan ra lệnh

bắt hoặc cơ quan nhận người bị bắt. Hoạt động thông báo của cơ quan có

thẩm quyền trong vấn đề này còn thể hiện quyền của người bị bắt. Hoạt động

thông báo nhanh, chính xác, kịp thời, đúng đối tượng sẽ tạo điều kiện thuận

lợi cho người bị bắt liên hệ với gia đình, tổ chức để hỗ trợ họ trong quá trình

tố tụng. Quyền của người bị bắt tương ứng với những nghĩa vụ, trách nhiệm của

cơ quan , người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với

những nội dung có quy định tương tự phản ánh quyền tự bào chữa của người bị

bắt, giữ trong trường hợp khẩn cấp, người viết sẽ phân tích kỹ trong những phần

tương ứng phía sau để tránh sự trùng lặp về kết cấu nội dung luận văn.

Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt là người bị nghi

phạm tội vì vậy lời khai ban đầu của họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc

xác định lý do họ bị giữ, bị bắt và góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ

án. Đây cũng chính là những hoạt động ban đầu, những biểu hiện ban đầu của

quyền tự bào chữa đối nhằm chống lại những hoạt động buộc tội từ phía các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết VAHS.

2.2.2. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ

Người bị tạm giữ là người đã bị hoặc chưa bị khởi tố về hình sự, những

người này là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang,

trường hợp người phạm tộitự thú. Mặc dù có thể chưa bị khởi tố về hình sự

nhưng trên thực tế họ đã phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan nhà nước có

39

thẩm quyền. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải đưa ra những câu trả lời

trong những hoạt động thẩm vấn, điều tra ban đầu của cơ quan tiến hành tố

tụng. Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự đó là bị

can, bị cáo, người bị kết án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết

định truy nã hoặc ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng

là người bị tạm giữ. Trong thời gian tạm giữ, những người này được đảm bảo

quyền tự bào chữa thông qua các quy định sau.

Thứ nhất, người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ. Pháp luật

quy định: “người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ” (điểm

d khoản 2 Điều 59 Bộ luật TTHS năm 2015). Ngay tại thời điểm bị bắt để tạm

giữ, người này được nghe đọc biên bản bắt người và có quyền ghi ý kiến

không đồng ý của mình vào biên bản và ký xác nhận. Nội dung của quyết

định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, người bị tạm giữ được giao 1 bản

quyết định này. Ở nội dung này, việc người bị tạm giữ được biết lý do mình bị

giữ là yêu cầu bắt buộc. Điều đó tránh cho mọi công dân sự xâm hại từ phía

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ, hạn chế

sự lạm quyền, vượt quyền của các cơ quan này. Quyết định tạm giữ phải bảo

đảm về sự cần thiết khi áp dụng và thỏa mãn các căn cứ pháp luật. Trong thời

hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ được gửi cho

VKS cùng cấp; nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết

thì VKS ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm

giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.Việc đảm bảo người bị tạm giữ

phải được biết lý do cơ quan tố tụng đưa ra để tạm giữ mình còn là bước đầu

tiên để người này xác định được vấn đề mình đang phải đối diện. Thông qua

đó, người bị tạm giữ có những sự chuẩn bị nhất định về những chứng cứ, lập

luận để bảo vệ mình trong quá trình tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng

ở những bước tiếp theo.

40

Thứ hai, người bị tạm giữ có quyền được giải thích về quyền và

nghĩa vụ. Người bị tạm giữ có những quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong

Bộ luật tố tụng hình sự tuy nhiên, do trình độ văn hóa, điều kiện sống và

những yếu tố khách quan khác xung quanh mỗi người dẫn tới việc nhận thức

và hiểu biết về quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền tự bào chữa của họ

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có sự khác biệt, thậm chí là chênh

lệch. Để có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa, người bị tạm giữ phải được

giải thích về quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định cho họ. Chỉ khi được giải

thích cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ, người bị tạm giữ mới có nhận thức

đầy đủ và sử dụng pháp luật có hiệu quả để bảo vệ những quyền và lợi ích

hợp pháp của mình. Thêm nữa, người bị tạm giữ sẽ có sự ổn định về mặt tâm

lý, tin tưởng vào sự khách quan của cơ quan tiến hành tố tụng và vào quyết

định của họ trong tố tụng, tạo ra bầu không khí thuận lợi và hợp tác trong quá

trình tiếp xúc với người THTT, cơ quan THTT. Như đã trình bày về quyền

của người bị buộc tội sẽ tương ứng với nghĩa vụ từ phía buộc tội, theo đó,

pháp luật đưa ra những yêu cầu đối với người thi hành quyết định tạm giữ

phải giải thích cho người bị tạm giữ biết được quyền và nghĩa vụ của họ theo

quy định tại Điều 59 BLTTHS năm 2015.

Thứ ba, người bị tạm giữ có quyền trình bày lời khai. Điểm c khoản 2

Điều 59 Bộ luật TTHS ghi nhận, người bị tạm giữ có quyền “Trình bày lời

khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội”[12] Lời khai, ý kiến của người bị tạm giữ là

những vấn đề liên quan đến việc họ bị bắt giữ, bị truy nã, tự thú, đầu thú. Cơ

quan ra quyết định tạm giữ là chủ thể tiến hành lập biên bản ghi lời khai của

người bị tạm giữ. Lời khai của người bị tạm giữ phải được ghi nhận cụ thể,

chi tiết trong biên bản lấy lời khai, khi đó, lời khai mới được coi là một loại

nguồn chứng cứ trong TTHS. Lời khai của người bị tam giữ là một trong các

41

căn cứ để các cơ quan THTT xem xét giải quyết vụ án. Lời khai và hoạt động

lấy lời khai trong giai đoạn này được xem như việc thực hiện quyền tự bào

chữa một cách cụ thể nhất khi sự tiếp xúc của người bị buộc tội và chủ thể

buộc tội là trực tiếp, không qua bất kỳ khâu trung gian nào. Yêu cầu đảm bảo

quyền tự bào chữa cho người bị tạm giữ ở giai đoạn này thể hiện thông qua

việc điều tra viên đọc lại biên bản ghi lời khai cho người bị tạm giữ nghe,

đồng thời điều tra viên giải thích cho họ biết quyền được bổ sung và nhận xét

về biên bản. Tín hợp pháp của biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ

được căn cứ dựa trên chữ ký của điều tra viên và chữ ký hoặc điểm chỉ của

người bị tạm giữ trong trường hợp người này không biết chữ. Nếu người bị

tạm giữ không thể ký được vì một trong các lý dó: nhược điểm về thể chất,

tâm thần hay vì lý do sức khỏe thì trong biên bản phải ghi rõ lý do.

Thứ tư, người bị tạm giữ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

Người bị tạm giữ có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh họ

không liên quan đến vụ việc mà vì đó họ bị bắt giữ. Người bị tạm giữ cũng có

quyền yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu cầu CQĐT đưa ra những bằng chứng

được coi là có căn cứ bắt giữ họ. Thông qua hoạt động này, người bị tạm giữ

có thể bác bỏ, phản bác lại những căn cứ mà các cơ quan THTT sử dụng để

áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với họ.

Thứ năm, người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ, quyết

định,hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Người bị

tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ trái pháp luật hoặc các hành vi trái

với quy chế về tạm giữ. Người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ

nếu thấy việc mình bị tạm giữ là sai trái không có căn cứ, khiếu nại các quyết

định khác có liên quan như khám nhà, khám người, tạm giữ đồ vật, tài liệu

khi khám xét. Khiếu nại này được gửi cho cơ quan có thẩm quyền, các cơ

quan này xem xét và giải quyết.Trước đây, Bộ luật TTHS năm 1988 chỉ quy

42

định người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ. Đến Bộ luật TTHS

năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015 đã đưa thêm “quyền khiếu nại quyết

định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT”. Quyết định

này thể hiện sự mở rộng tính dân chủ trong TTHS; tạo điều kiện thuận lợi cho

người bị tạm giữ thực hiện quyền tự bào chữa cho mình.

Như vậy, việc quy định một cách cụ thể về các quyền của người bị tạm

giữ cũng chính là những đảm bảo để người bị tạm giữ được tự mình “bào

chữa” bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp hoặc minh oan cho mình.

2.2.3. Quyền tự bào chữa của bị can

Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự, tham gia tố tụng ở các

giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố

tụng của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình chỉ điều tra, VKS đình chỉ vụ án,

tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc

tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố bị can, họ

trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều đó không đồng nghĩa với

việc xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, Điều

13 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không

có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy

định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”[12]. Các cơ

quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất

định đối với họ để xác định sự thật. Họ là đối tượng bị buộc tội trong vụ án và

để bảo đảm quyền tự bào chữa cho bị can, Luật tố tụng hình sự quy định cho

họ các quyền như sau.

Thứ nhất, bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Chỉ khi

bị can biết được họ bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội gì, họ mới có thể có

thể chuẩn bị cho việc đưa ra các chứng cứ, lập luận nhằm chống lại việc bị

buộc tội đó hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự họ phải chịu. Để bảo đảm

43

quyền này cho bị can, tại khoản 3 Điều 179 BLTTHS năm 2015 quy định “24

giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết

định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát

cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được

quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc

quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ,

tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan

điều tra”[12]. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ

bỏ quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao

ngay cho người đã bị khởi tố. Đối với trường hợp Viện kiểm sát khởi tố bị

can, Cơ quan điều tra cũng phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của Viện

kiểm sát cho bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho họ. Quyết định khởi tố

bị can thể hiện rõ bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật

hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội, những tình tiết khác của tội phạm.

Quyết định khởi tố bị can được giao cho bị can sẽ giúp họ biết mình bị khởi tố

về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự và một số chi tiết liên quan

đến vụ án. Từ đó, bị can sẽ có những chuẩn bị tốt hơn cho việc thực hiện các

hoạt động nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của họ. Trong trường

hợp có sự thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra cũng

phải thông báo cho bị can biết.

Thứ hai, bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Cùng

với quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì, bị can có quyền được giải thích

về quyền và nghĩa vụ. Cơ quan điều tra phải giải thích để bị can nắm, hiểu rõ

về các quyền, nghĩa vụ của mình. Bị can là người đang bị cơ quan nhà nước

có thẩm quyền buộc tội, họ là người cần phải biết quyền và nghĩa vụ của mình

để thực hiện quyền tự bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của

bản thân. Khi không nắm được những việc được làm hay không được làm, họ

44

sẽ không biết hành vi nào là được phép thực hiện, hành vi nào bị cấm, dẫn

đến việc họ có nguy cơ tiếp tục phạm những tội phạm khác. Có trường hợp,

do hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị can không thực hiện đầy đủ quyền tự

bào chữa do lo sợ hành vi đó không hợp pháp. Khi bị can được giải thích về

quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị can sẽ biết rõ quyền, nghĩa

vụ của họ. Trên cơ sở đó họ sẽ lựa chọn được hành vi có thể bảo vệ tối đa lợi

ích của mình mà không trái với quy định pháp luật. Để bảo đảm quyền này

cho bị can, pháp luật đã quy định cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng phải giải thích cho bị can biết các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại

Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khi thực hiện một số hoạt động tố

tụng như: khi giao quyết định khởi tố cho bị can; sau khi giao quyết định truy

tố; trước khi hỏi cung.

Thứ ba, bị can có quyền trình bày lời khai. Bị can có quyền trình bày

trước Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về những vấn đề có liên quan đến vụ

án, liên quan đến vấn đề họ đang bị buộc tội và thái độ khai báo thành khẩn

của bị can được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Lời khai của bị

can là một loại nguồn chứng cứ, trên cơ sở quy định của pháp luật các cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ xem xét, đánh giá tính

khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp để ra quyết định tố tụng được

chính xác. Do đó việc bị can trình bày lời khai trước cơ quan tiến hành tố tụng

là hoạt động quan trọng trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, giúp bị

can có thể thực hiện tốt hơn việc tự bào chữa để bảo vệ quyền lợi của chính

họ. Quy định như vậy còn góp phần nâng cao trách nhiệm của những người

tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn

trọng quyền trình bày lời khai của bị can; không được dùng các biện pháp trái

pháp luật để buộc bị can khai báo bởi đó là vi phạm quyền của bị can và có

thể dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra; cao hơn là vi phạm quyền con

45

người được pháp luật bảo vệ. Để bảo đảm quyền trình bày lời khai cho bị can,

pháp luật quy định bị can có thể trình bày lời khai ngay sau khi có quyết định

khởi tố bị can. Việc lấy lời khai của bị can phải được thực hiện theo trình tự,

thủ tục pháp luật quy định nhằm bảo đảm việc khai báo của bị can là tự

nguyện, phù hợp ý chí của bị can và việc ghi nhận lời khai của bị can bảo đảm

tính trung thực, chính xác. Các cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời

nhận tội của bị can làm chứng cứ duy nhất để kết tội mà phải tiến hành kiểm

tra tính chính xác của lời khai, sự phù hợp với các tình tiết và các chứng cứ

khác của vụ án (Điều 98 Bộ luật TTHS năm 2015).

Mỗi lần hỏi cung, người lấy cung phải lập biên bản, biên bản phải ghi

đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Và để đảm bảo

những lời khai này là được chính xác, thể hiện ý chí thật sự của bị can, pháp

luật quy định nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời

khai của bị can. Sau khi hỏi cung, người lấy khẩu cung phải đọc biên bản cho

bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì

người lấy khẩu cung và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang

thì bị can ký vào từng trang biên bản. Trường hợp bị can viết bản tự khai thì

người lấy lời khai và bị can cùng ký xác nhận vào bản tự khai đó. Trường hợp

hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải

giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị

can biết quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch; người phiên dịch phải ký

vào từng trang của biên bản hỏi cung. Trường hợp hỏi cung bị can có mặt

người bào chữa, người đại diện của bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra

phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi

hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện cùng ký vào biên bản

hỏi cung. Trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì biên bản phải ghi

đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can. Trường hợp Kiểm sát

46

viên hỏi cung bị can thì biên bản được thực hiện theo quy định của Điều này.

Biên bản hỏi cung bị can được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ

sơ vụ án (Điều 184 Bộ luật TTHS năm 2015).

Điều 183 Bộ luậtTTHS có những quy định nhằm tạo điều kiện thuận

lợi cho bị can đưa ra chứng cứ, lời khai vànhững lời giải thích, bịcan có thể tự

viết lời khai của mình [12]. Pháp luật có quy định các điều kiện của quá trình

hỏi cung bị can để bảo đảm việc khai báo của bị can là tự nguyện, phù hợp ý

chí của bị can như không được hỏi cung vào ban đêm trừ trường hợp không

thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Việc đưa ra lời khai

(trình bày về những tình tiết của vụ án) là quyền của bị can chứ không phải

trách nhiệm của họ. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại điều 15 Bộ luật

TTHS hiện hành quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các

cơ quan THTT, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh

là vô tội”[12]. Thái độ khai báo thành khẩn của người bị buộc tội lại được coi

là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật nghiêm cấm

mọi hình thức truy bức, nhục hình (Điều 10 bộ luật TTHS năm 2015) và quy

định khi hỏi cung bị can, ĐTV hoặc KSV bức cung hoặc dùng nhục hình đối

với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Quy định này là

một đảm bảo pháp lý quan trọng để vụ án được làm sáng tỏ một cách công

minh, khách quan, đúng pháp luật. Thực tiễn quá trình tố tụng ở nước ta đã

cho thấy rất nhiều tồn tại, hạn chế nhất là những hành vi ép cung bị can, thậm

chí có những trường hợp dùng nhục hình dẫn đến chết người. Vì thế, yêu cầu

đặt ra với CQĐT cần phải tôn trọng quyền trình bày lời khai của bị can để có

thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện, không được

dùng những biện pháp trái pháp luật để lấy lời khai của người bị buộc tội.

Thứ tư, bị can có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Bị can có

quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án. Khi nhận được

các tài liệu, đồ vật do bị can cung cấp, cơ quan điều tra phải tiến hành kiểm

47

tra, đánh giá một cách khách quan để xác định tính liên quan của những thứ

được bị can cung cấp. Bị can cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như: yêu

cầu thông báo về nội dung kết luận giám định; được trình bày những ý kiến

của mình về kết luận giám định: được yêu cầu giám định bổ sung, giám định

lại. Trong trường hợp CQĐT, VKS không chấp nhận yêu cầu của bị can thì

phải nêu rõ lý do và phải thông báo cho họ biết (Điều 214). Nếu việc điều tra

bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 157 Bộ luật TTHS mà bị

can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì CQĐT hoặc VKS ra quyết định

phục hồi điều tra (Điều 235)... Cụ thể hóa nội dung này, trong Thông tư số

02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01 tháng 02 năm

2018 đã đưa ra những quy định mang tính đột phá nhằm đảm bảo quyền tự

bào chữa cho bị can. Theo đó, bị can có quyền “đọc, ghi chép bản sao tài liệu

hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài

liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi họ có yêu cầu theo quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự”[22]. Bị can hoặc được quyền đọc, ghi chép tài liệu từ

sau khi kết thúc Điều tra, trong giai đoạn truy tố đến trước khi Tòa án có

quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc cho bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu

hoặc tài liệu đã được số hóa phải bảo đảm các yêu cầu về giữ bí mật theo quy

định của pháp luật, không gây cản trở và bảo đảm thời hạn của hoạt động

Điều tra, truy tố, xét xử. Như vậy cơ quan THTT không được có bất cứ hành

vi nào cản trở bị can đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Tuy nhiên, việc đưa ra tài

liệu, đồ vật, yêu cầu là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can. Việc

chứng minh hành vi phạm tội thuộc cơ quan THTT.

Thứ năm, bị can có quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề

nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,

người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; (các Điều từ 51

đến 54, Điều 68, Điều 69 và Điều 70 BLTTHS năm 2015). Người tiến hành

tố tụng, người giám định, người dịch thuật, người phiên dịch, có vai trò rất

48

quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung, các tình tiết của vụ án, ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền lợi của bị can nên yêu cầu đặt ra với họ sự vô tư, khách

quan. Vì thế, nếu có căn cứ cho rằng việc những người này tham gia tố tụng

sẽ làm ảnh hưởng đến sự khách quan của hoạt động xác định sự thật vụ án thì

bị can, bị can có quyền đề nghị thủ trưởng Cơ quan điều tra hoặc Viện trưởng

Viện kiểm sát nơi bị can bị điều tra thay đổi người tiến hành tố tụng, người

giám định, người phiên dịch. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS có quy định cụ thể

các trường hợp người tiến hành tố tụng phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị

thay đổi (Điều 49 BLTTHS năm 2015).

Thứ sáu, bị can có quyền được nhận quyết định khởi tố; quyết định

áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra;

quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình

chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quy định này của Bộ luật TTHS

là căn cứ quan trọng giúp cho bị can thực hiện tốt quyền bào chữa; bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trên

cơ sở xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ thu thập được liên quan đến vụ

án, trong từng giai đoạn cụ thể, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng đưa ra những nhận định, quyết định cụ thể theo quy định của pháp luật

(kết quả của các bước chứng minh tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng).

Việc quy định quyền nhận các quyết định này cho bị can, bảo đảm cho bị can

khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến các tình tiết trong vụ án, về căn cứ,

cơ sở mà các cơ quan tiến hành tố tụng nghi ngờ họ phạm tội, các vấn đề liên

quan đến những người tham gia tố tụng trong vụ án và tình tiết trong vụ án.

Trên cơ sở đó, bị can mới có thể chuẩn bị các ý kiến, đưa ra các tài liệu,

chứng cứ để bào chữa. Để cụ thể hóa quy định này, Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 có các quy định về việc giao nhận các quyết định tố tụng cụ thể

49

như: quy định về việc gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho bị can tại

khoản 3 Điều 229; quy định về việc giao nhận kết luận điều tra hoặc quyết

định đình chỉ điều tra cho bị can, người bào chữa tại khoản 3 Điều 230; quy

định về việc giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định

tạm đình chỉ vụ án cho bị can tại khoản 2 Điều 240.

Thứ bảy, bị can có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi có căn cứ cho rằng cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tốtụng ban hành quyết định hoặc có

hành vi tố tụng không đúng quy định của pháp luật, các tình tiết của vụ án,

làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của bị can thì họ có quyết khiếu nại đến

người có thẩm quyền về quyết định hoặc hành vi đó. Cùng với việc khiếu nại,

bị can sẽ cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho khiếu nại của mình

để người có thẩm quyền xem xét, đánh giá và giải quyết khiếu nại. Kết quả

giải quyết phải được thông báo bằng văn bản cho bị can biết. Việc bảo đảm

quyền khiếu nại cho bị can tạo cơ sở, điều kiện cho bảo đảm quyền bào chữa

của họ. Khi bị can thực hiện tốt quyền khiếu nại, có nghĩa họ cũng đang thực

hiện quyền để bảo đảm quyền bào chữa của mình. Với quy định như vậy, các

cơ quan, người tiến hành tố tụng phải thận trọng, tuân thủ nghiêm các quy

định của pháp luật trong khi tiến hành tố tụng, phải tôn trọng các quyền và lợi

ích hợp pháp của bị can.

Thứ tám, bị can có quyền tham gia một số hoạt động điều tra. Khoản

2 Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “…Khi khám nghiệm hiện

trường phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại,

người làm chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám

nghiệm…”[12]. Tại khoản 3 Điều 204 BLTTHS năm 2015 xác định: “…Khi

tiến hành thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên

50

môn tham gia. Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào

chữa, bị hại, người làm chứng có thể tham gia…”[12]

2.2.4. Quyền tự bào chữa của bị cáo

Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, bị can tham gia

tố tụng với tư cách khác là bị cáo. Việc bảo đảm quyền tự bào chữa của bị cáo

trong giai đoạn này chịu ảnh hưởng từ các hoạt động tố tụng của Tòa án và

đểbảo đảm quyền tự bào chữa cho họ, pháp luật quy định các quyền tự bào

chữa của bị cáo như sau.

Thứ nhất, bị cáo có quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét

xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết

định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng

khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các quyết định tố tụng là

những văn bản có liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bị cáo, trong đó

có quyền bào chữa. Khi bị cáo được nhận được đầy đủ các quyết định này, họ

sẽ tiếp cận được những thông tin cần thiết, có điều kiện tốt hơn trong việc

thực hiện quyền bào chữa cũng nhưcác quyền và nghĩa vụ tố tụng khác. Để

bảo đảm quyền được nhận các quyết định của Tòa án cho bị cáo, pháp quy

định cụ thể việc giao các quyết định của Tòa án tại Điều 286 BLTTHS năm

2015. Trong đó quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền

quan trọng của bị cáo. Cùng với thông tin được thể hiện trong kết luận điều

tra, bản cáo trạng và các tình tiết của vụ án, việc nghiên cứu quyết định đưa

vụ án ra xét xử cũng là cơ sở để bị cáo thực hiện quyền bào chữa. Dựa vào nội

dung của quyết định, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử, thời gian,

địa điểm mở phiên tòa, họ tên của người tiến hành tố tụng, người bào chữa,

người phiên dịch (nếu có); người được triệu tập tới phiên tòa để xét hỏi; vật

chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa. Qua đó, bị cáo sẽ có điều kiện, cơ sở

để thực hiện các quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến

51

hành tố tụng, quyền yêu cầu xem xét thêm vật chứng mới... Trong trường hợp

bị cáo chưa nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn chậm

nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng

xét xử phải hoãn phiên tòa. Quy định này cũng đặt ra yêu cầu đối với các cơ

quan THTT phải giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật, các văn bản,

quyết định được ban hành phải có căn cứ và hợp pháp.

Thứ hai, bị cáo có quyền tham gia phiên toà. Trong tố tụng hình sự,

phiên tòa có vị trí trung tâm, tại đây mọi tình tiết của vụ án, căn cứ buộc tội bị

cáo, các tình tiết gỡ tội sẽ được xác định một cách công khai với sự tham gia

của các bên tố tụng. Một bên buộc tội và một bên gỡ tội sẽ cùng tranh luận về

những vấn đề có liên quan. Việc tham gia phiên toà của bị cáo và các bên là

yêu cầu bắt buộc cho vụ án được xét xử trực tiếp và là điều kiện thuận lợi để

làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, qua đó xác định được sự thật của vụ án.

Xét xử là khâu trung tâm của quá trình tố tụng, có tác dụng quyết định đến

quyền và lợi ích của bị cáo. Cho nên, sự có mặt tại phiên toà của bị cáo là bảo

đảm quan trọng, cần thiết cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình. Thực tế

đã chứng minh, trong điều kiện công khai, dân chủ tại phiên toà, có nhiều

trường hợp bị cáo đã phản cung ngay tại phiên tòa, đưa ra những lời khai

hoàn toàn khác với những gì đã được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Có trường

hợp sau khi được tòa trả hồ sơ điều tra lại đã cho thấy lời khai tại Toà án là

chính xác. Bằng chính những lời nói của mình qua việc trả lời, tranh tụng tại

phiên toà, bị cáo có điều kiện thuận lợi nhất để bảo vệ mình. Đây là biểu hiện

cụ thể nhất của quyền tự bào chữa của bị cáo. Do vậy mà pháp luật qui định

nếu bị cáo vắng mặt tại phiên toà thì Toà án phải hoãn hoặc tạm đình chỉ

phiên toà. Nhân danh Nhà nước, HĐXX sẽ đánh giá, cân nhắc và quyết định

những vấn đề quan trọng nhất của tố tụng hình sự là: xác định tội danh, quyết

định hình phạt đối với bị cáo căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được

52

thẩm tra tại phiên toà, kết quả tranh luận tại phiên toà và trên cơ sở xem xét

đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa

và những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa, bị cáo có thể thể hiện

đầy đủ nhất ý chí của mình, trình bày lời khai một cách toàn diện nhất, đưa ra

các lý lẽ, các chứng cứ, đồ vật, tài liệu, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ

tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, thực

hiện quyền bào chữa tại phiên tòa có thể coi là hành vi tố tụng quan trọng

nhất của bị cáo. Và để bảo đảm cho bị cáo có thể thực hiện quyền bào chữa tại

phiên tòa, pháp luật quy định bị cáo có quyền tham gia phiên tòa và Tòa án

chỉ được xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp được quy định tại

khoản 2 Điều 290 Bộ luật TTHS năm 2015. Đối với các trường hợp khác nếu

bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa;

nếu bị cáo vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị áp giải.

Thứ ba, bị cáo có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Trong

quá trình tham gia tố tụng tại các giai đoạn khác nhau với các tư cách khác

nhau, bị cáo đã được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ. Tuy nhiên, giai đoạn xét xử là giai đoạn

xác định trách nhiệm pháp lý của bị cáo nên bị cáo cần phải được biết các

quyền, nghĩa vụ của họ ở giai đoạn này. Quyền được giải thích về quyền và

nghĩa vụ của bị cáo được ghi nhận tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Bộ luật

TTHS năm 2015. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa sẽ

thay mặt HĐXX giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo. Biết mình có những

quyền gì và nghĩa vụ gì sẽ giúp cho bị cáo chủ động hơn, hòa nhập tốt hơn

vào diễn biến phiên tòa; thực hiện tốt nhất quyền bào chữa để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ tư, bị cáo có quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị

thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người

53

định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập

người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,

người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; theo quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự.Người dịch thuật; người làm chứng, bị hại, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá

tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

có vai trò rất lớn trong việc giải quyết vụ án. Vì vậy, để xác định chính xác sự

thật vụ án và tránh sự xâm phạm đến quyền và lợi ích của bản thân, bị cáo có

quyền đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Chánh án Tòa án có thẩm

quyền thay đổi hoặc triệu tập những người mình coi là có liên quan đến hoạt

động tự bào chữa xuyên suốt quá trình tham gia phiên tòa.

Thứ năm, bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Bị cáo có

quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật tại phiên tòa để gỡ tội, chứng minh bị cáo

không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh, đánh giá các đồ vật,

tài liệu mà bị cáo đưa ra để cân nhắc, đưa ra phán quyết. Bên cạnh đó, bị cáo

có thể đưa ra những yêu cầu: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; yêu

cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét; yêu cầu hoãn phiên tòa (Điều

305 BLTTHS năm 2015); yêu cầu xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi

những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận (Điều 258

BLTTHS năm 2015). HĐXX phải xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo.

Thứ sáu, bị cáo có quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.

Bị cáo có quyền trình bày ý kiến của mình về các vấn đề như: nội dung bản

cáo trạng của Viện kiểm sát đưa ra, những tình tiết của vụ án, lời khai của

những người tham gia tố tụng khác, các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được

khi Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát hỏi. Bị cáo có quyền đưa ra

54

những ý kiến, những lập luận và đối đáp với những ý kiến không thống nhất

của các chủ thể khác. Bản chất đây là quá trình tự bào chữa trong tranh tụng.

Khi trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa, bị cáo bình đẳng với KSV và

những người tham gia tranh luận khác. Theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình

đẳng trong tranh tụng - Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 và theo quy định tại

Điều 322 Bộ luật TTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm tạo

điều kiện cho bị cáo tranh luận, trình bày hết ý kiến nhằm làm rõ sự thật

khách quan của vụ án.

Thứ bảy, bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Trong

quá trình tranh luận tại phiên tòa, bị cáo là đối tượng duy nhất được nói lời

sau cùng. Bị cáo có quyền trình bày tất cả những vấn đề còn vướng mắc trước

khi Hội đồng xét xử nghị án. Lời nói sau cùng của bị cáo là kết luận của bị

cáo sau khi Hội đồng xét xử đã hỏi, nghe xét hỏi và tranh luận tại phiên toà về

việc không nhận tội hay đề nghị với Toà án lưu ý, xem xét đến vấn đề này hay

vấn đề khác hoặc đề nghị được khoan hồng, giảm nhẹ trách nhiệm. Thực tiễn

xét xử những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp ở phần nói lời sau

cùng, sau khi nhận tội, bị cáo đã khai toàn bộ sự thật của vụ án và những tình

tiết khác có liên quan. Đây không những chỉ là việc thành khẩn khai báo, ăn

năn hối cải, mà còn có thể được coi là việc tích cực giúp đỡ các cơ quan có

trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm. Thời gian trình bày lời sau cùng của

bị cáo không bị hạn chế về thời gian. Trong trường hợp, lời nói sau cùng với

việc trình bày những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, và với

những đề nghị hợp lý của bị cáo đòi hỏi cần xét hỏi thêm thì Hội đồng xét xử

phải quyết định quay trở lại thủ tục xét hỏi để làm sáng tỏ các vấn đề mới

được nêu ra. Các vấn đề đó phải được thẩm tra tại phiên toà và là căn cứ để

giải quyết vụ án.

Thứ tám, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

Một trong những điều kiện bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói

55

chung của bị cáo là quy định của pháp luật về quyền của họ được kháng cáo

đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, khi án chưa có

hiệu lực, bị cáo vẫn là người chưa có tội (mặc dù trong trường hợp án sơ thẩm

đã kết tội bị cáo). Họ có quyền kháng cáo yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại

theo trình tự phúc thẩm. Với việc giải quyết án phúc thẩm, Toà án cấp trên

trực tiếp xét lại bản án, quyết định của Toà án đã xét xử sơ thẩm. Qua đó, cấp

phúc thẩm thẩm tra tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm,

phát hiện, khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai phạm trong quá trình xét

xử sơ thẩm. Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền

kháng cáo của mình. Trước khi bắt đầu hoặc cho đến trước khi HĐXX nghị

án, bị cáo có quyền bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo. Việc sửa đổi, bổ sung đã

trình bày không được làm xấu hơn tình trạng pháp lý của bị cáo. Khi xét xử

phúc thẩm, Toà án bên cạnh việc xem xét lại phần của bản án bị kháng cáo có

thể xem xét lại cả phần không bị kháng cáo nhằm đánh giá một cách khách

quan, khoa học. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm không có nhiệm vụ xem xét

lại phần của bản án không bị kháng cáo để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối

với bị cáo. Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm, bị

cáo có quyền thu thập, bổ sung chứng cứ mới. Toà án có nghĩa vụ xem xét,

đánh giá các chứng cứ mới này cùng với các chứng cứ trước đây. Song song

với việc bị cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình, Toà án có nghĩa vụ xét

xử lại vụ án nhưng không có quyền làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, tức là

không được tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đây là yêu cầu

quan trọng cho bị cáo thực hiện quyền bảo vệ quyền, lợi ích của mình, tạo cho

tâm lý của bị cáo được ổn định, tin tưởng vào pháp luật và cơ quan bảo vệ

pháp luật. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, nếu có những căn cứ cho rằng bị

cáo không phạm tội thì Toà án tuyên bố bị cáo không phạm tội, lưu bản án sơ

thẩm và đình chỉ vụ án. Trường hợp bị cáo cho rằng bản án, quyết định sơ

thẩm không phù hợp với thực tế; bản án không đúng, không phù hợp hoặc

56

nặng hơn so với tính chất, mức độ của hành vi của mình, bị cáo có quyền

kháng cáo bản án của Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc

từ ngày bản án, quyết định được niêm yết hoặc bị cáo nhận được bản án,

quyết định của Tòa án để yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định chưa có hiệu

lực pháp luật của Tòa án.

Thứ chín, bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị cáo có quyền gửi khiếu

nại đến Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Chánh án Tòa án có thẩm quyền

khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng. Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo

như quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định

hoãn phiên tòa... Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan,

người có thẩm quyền THTT nếu các hành vi đó là trái pháp luật.

2.2.5. Quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi

Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự

Việt Nam được hiểu là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 bởi theo

quy định của BLHS năm 2015, trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra với người từ 14

tuổi trở lên với một số tội phạm nhất định theo quy định tại Điều 12 BLHS

năm 2015 và “người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về

mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”[12].

Quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi là tổng thể các

quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có thể sử

dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách

nhiệm cho họ. Ðiều 422 Bộ luật TTHS năm 2015 xác định:

“1. Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa.

2. Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có quyền lựa chọn

người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội.

57

3. Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không có người

bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa theo quy

định tại Điều 76 của Bộ luật này.”,[12]

Nghiên cứu so sánh với BLTTHS năm 2003, chúng ta thấy, BLTTHS

năm 2015 có nhiều thay đổi cơ bản về quyền bào chữa nói chung và tự bào

chữa nói riêng, nhằm cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013 và bảo vệ tốt

hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, thể hiện qua những quy

định cụ thể sau:

Thứ nhất tại điều 422 Bộ luật TTHS năm 2015 đã lần đầu tiên quy định

quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi so với quy định tại Điều 305 Bộ

luật TTHS năm 2003. Đây là thay đổi mang tính đột phá trong quá trình lập

pháp, thể hiện sự thay đổi cơ bản về tư duy pháp lý, góp phần đảm bảo quyền

được tự đưa ra những quan điểm, lý lẽ, bằng chứng của nhóm người bị buộc

tội dưới 18 tuổi. Đây không chỉ là nhóm người dễ bị tổn thương trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự mà còn là nhóm người có nguy cơ cao nhất chịu

những tác động tiêu cực từ những hạn chế của hoạt động tố tụng hình sự.

Thứ hai, quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi góp phần thể hiện

đậm nét “nguyên tắc suy đoán vô tội”. Thông qua đó, nâng cao năng lực và

trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, loại trừ trường hợp chỉ chứng

minh một chiều theo hướng suy đoán có tội và định kiến người dưới 18 tuổi.

Nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người dưới 18 tuổi,

đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là các cơ

quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội và một bên là người dưới 18

tuổi với chức năng bào chữa. Đây là nguyên tắc tiến bộ, bảo vệ chính sách

nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm

hình sự và đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong

58

việc chứng minh tội phạm. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để

buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định thì cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người dưới 18 tuổi

không có tội. Bô Luật TTHS năm 2015 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận

chính thức nguyên tắc suy đoán vô tội. Quy định như trên nhằm bảo đảm phù

hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm

1966, Công ước quốc tế về quyền Trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Nguyên

tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa,

cũng như bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được

trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Quy định này có ưu điểm là

quyền của người dưới 18 tuổi cơ bản được bảo đảm, trách nhiệm của cơ quan

tiến hành tố tụng được nâng lên.

Thứ ba, ngoài ba chủ thể có quyền bào chữa là người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo. BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào

chữa cho mình (điểm g khoản 1 Điều 58 BLTTHS). Như vậy, cùng với sự mở

rộng diện người được bào chữa thì thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng

cũng sớm hơn, nếu như trước đây, nguời bào chữa được tham gia bảo vệ

quyền lợi cho người dưới 18 tuổi từ khi bị tam giữ thì theo BLTTHS mới,

người bào chữa được tham gia tố tụng và bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18

tuổi ngay từ khi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt. Quy định như

vậy không chỉ nhằm thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

cho người dưới 18 tuổi mà còn là một trong những giải pháp để hạn chế oan,

sai ngay từ đầu.

Thứ tư,Bộ luật TTHS mở rộng các trường hợp bắt buộc cơ quan tố tụng

chỉ định bào chữa.Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng

59

hình sự là quy định mang tính nhân đạo của luật tố tụng hình sự nước ta. Theo

đó, trong một số trường hợp đặc thù, do tính chất và hậu quả của tội phạm,

hoặc do hạn chế về năng lực nhận thức, năng lực hành vi, dù bị can, bị cáo

không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải chỉ định

người bào chữa để đảm bảo quyền lợi cho họ. Ngoài các trường hợp bắt buộc

phải có người bào chữa là bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung

hình phạt là tử hình; bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược

điểm về thể chất, tinh thần thì BLTTHS năm 2015 còn mở rộng thêm người

có mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân cũng thuộc

diện bắt buộc phải có người bào chữa. Vì đây là những trường hợp phạm tội

đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả pháp lý rất lớn. Do đó, mở rộng diện người

thuộc trường hợp chỉ định bào chữa như trên không chỉ có ý nghĩa nhân đạo

mà còn có ý nghĩa to lớn trong nỗ lực bảo đảm quyền con người, quyền công

dân trong tố tụng hình sự. Quy định như vậy không những không hạn chế

quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi mà còn mở rộng khả năng đảm bảo

quyền bào chữa nói chung cho đối tượng này, tránh cho họ những hậu quả

pháp lý đáng lẽ họ không phải nhận.

Thứ năm, Bộ luật TTHS hoàn thiện một số quyền của người dưới 18

tuổi. Nhằm bảo đảm cho người dưới 18 tuổi thực hiện tốt quyền tự bào chữa

và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung

một số quyền cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo: (1) Được nhận các

quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Có quyền tự

do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (4) Được nhận bản bào chữa

của người bào chữa; (5) Đề nghị thay đổi người dịch thuật; (6) Bị cáo có

quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa

đồng ý. [12]

60

Bảo đảm quyền tự bào chữa của người chưa thành niên được pháp luật

tố tụng hình sự thực hiện bằng các hình thức, biện pháp khác nhau. Thứ

nhất, các biện pháp liên quan đến ban hành các quy định đúng đắn, khả thi,

hợp lý trong pháp luật tố tụng hình sự và đảm bảo thực hiện các quy định đó

trong thực tiễn. Quy định đầy đủ quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên; quy định các thủ tục tố tụng, bảo đảm hạn chế mức thấp nhất việc áp

dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa

thành niên; quy định các biện pháp pháp lý cho việc thực hiện các quyền của

bị can, bị cáo là người chưa thành niên; đồng thời quy định các biện pháp xử

lý các vi phạm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên.Thứ

hai, biện pháp xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Cần xây dựng một chế độ trách nhiệm

rõ ràng, minh bạch của các chủ thể này trong quá trình điều tra, truy tố, xét

xử.Thứ ba, các biện pháp xử lý vi phạm quyền của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên. Tùy theo mức độ mà đưa ra hình thức xử lý cho phù hợp, có

thể áp dụng các biện pháp xử lý như: Xử lý kỷ luật đối với người tiến hành tố

tụng; bồi thường thiệt hại cho bị can, bị cáo; truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với hành vi vi phạm nghiêm trọng đến quyền con người; thay đổi người tiến

hành tố tụng. Thứ tư, biện pháp bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của bị can,

bị cáo là người chưa thành niên. Khiếu nại, tố cáo là những biện pháp quan

trọng tạo điều kiện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên phát hiện cơ

quan tiến tụng hoặc người tiến hành tố tụng vi phạm đến những quyền của bị

can, bị cáo được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.2.6. Trách nhiệm bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội của

các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng

Để đảm bảo quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, Bộ luật TTHS

năm 2015 đã quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người

61

tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích

và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền

bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ

án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có

tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự của người bị buộc tội [12]. Khi không đủ và không thể làm

sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy

định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người

bị buộc tội không có tội[12]. Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn

trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân;

thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã

áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi

phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền

khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động

tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của

bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan, người có thẩm quyền phải

tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi

văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu

nại và có biện pháp khắc phục.

Xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, công tác kiểm tra, giám

sát phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Theo đó:

“Cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp

62

luật để xử lý và thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mọi hành

vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình; kiến

nghị và gửi tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét,

khởi tố đối với người thực hiện hành vi phạm tội.

Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không

thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong

cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát.[12]

63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua phân tích các quy định của pháp luật về các nội dung cơ bản của

quyền tự bào chữa của người bị buộc tội cho thấy:

1. Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong BLTTHS năm 2015 bao

gồm quyền tự bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo

2. Bộ luật TTHS năm 2015 có các quy định rất tiến bộ, phù hợp với

thông lệ quốc tế về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi

3. Bộ luật TTHS năm 2015 có các quy định xác định nghĩa vụ đảm bảo

quyền tự bào chữa của những người bị buộc tội tương đối đầy đủ và rõ ràng.

64

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ

BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM

3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền tự bào chữa của người bị

buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Trong thực tiễn, việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về bảo

đảm quyền bào chữa nói chung và quyền tự bào chữa nói riêng của người bị

buộc tội đã được các cơ quan THTT quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn,

thể hiện tinh thần, trách nhiệm trong các hoạt động tố tụng. Một trong những

nguyên nhân đạt được kết quả đó là do những qui định về bào chữa và tự bào

chữa trong Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung tương đối

rõ ràng, cụ thể nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử được dân chủ,

khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội theo tinh thần nghị quyết 08/NQ

của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tiễn, quá trình áp

dụng pháp luật yêu cầu bảo đảm quyền tự bào chữa cũng còn có một số vấn

đề bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, đảm bảo tốt

nhất quyền tự bào chữa của người bịbuộc tội.

Quan sát số liệu thống kê và báo cáo của ngành tòa án cho thấy chất

lượngxét xử vụ án hình sự ngày càng được nâng cao, quyền và nghĩa vụ của

ngườitham gia tố tụng ngày càng được bảo đảm, điều đó phần nào cho thấy

quyền bàochữa trong đó có quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo đượcbảo đảm. Tuy vậy, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, bị sửa vẫn

còn khá cao.Điều này một phần là do sự tham gia của người bào chữa trong

các vụ án hình sựcòn hạn chế, số vụ án có người bào chữa còn thấp.

65

3.1.1.Thực tiễn đảm bảo quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội theo quy

định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015

3.1.1.1. Thực trạng

Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự thời gian qua đã đảm bảo đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại các phiên tòa được thực

thi nghiêm túc, nhất là tại phiên tòa xét xử các tội phạm tham nhũng và phiên

tòa xét xử các vụ án lớn được xã hội quan tâm như: vụ án Châu Thị Thu Nga,

Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng và vụ án tổ chức đánh bạc tại Phú Thọ

[50]... Hình phạt áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo đúng pháp luật, vừa

nghiêm minh, vừa đảm bảo tính khoan hồng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Chánh án Toà án nhân dân

tối cao thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng quy định của pháp luật trong việc

ban hành các quyết định đối với các vụ án có bị cáo bị tuyên hình phạt tử hình

để trình Chủ tịch nước ân giảm.

Bảng 3.1. Tình hình thụ lý, giải quyết VAHS trong cả nước

giai đoạn 2016-2018

2016 2017 2018 Số vụ án thụ lý Số bị cáo Số án sửa, hủy Tỷ lệ 0,76% 0,73% 0,79% 152.511 147.130 141.869 90.948 87.093 83.118 691 635 656

(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)

Riêng trong năm 2018 các Tòa án đã thụ lý 83.118 vụ với 141.869 bị

cáo (giảm 3.975 vụ với 5.261 bị cáo so với cùng kỳ năm 2017); đã giải quyết,

xét xử được 80.566 vụ với 135.805 bị cáo (đạt tỷ lệ 96,93% về số vụ và

95,73% về số bị cáo, vượt 6,93% chỉ tiêu đề ra). Tòa án các cấpthụ lý theo thủ

tục sơ thẩm 68.934 vụ với 120.225 bị cáo, đã giải quyết, xét xử 67.465 vụ với

116.379 bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tử hình hoặc tù chung thân

đối với 860 bị cáo; xử phạt tù có thời hạn 73.659 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho

66

ởng án treo 20.210 bị cáo, chiếm 19,2%; miễn trách nhiệm hình sự hoặc ởng án treo 20.210 bị cáo, chiếm 19,2%; miễn trách nhiệm h hưởng án treo 20.210 bị cáo, chiếm 19,2%; miễn trách nhiệm h

miễn hình phạt cho 58 bị cáo; tuy ạt cho 58 bị cáo; tuyên 06 bị cáo không phạm tội; c ị cáo không phạm tội; còn lại là các

ạt khác. Thụ lý theo thủ tục phúc thẩm 13.732 vụ với 20.847 bị cáo, đã ạt khác. Thụ lý theo thủ tục phúc thẩm 13.732 vụ với 20.847 bị cáo, đ hình phạt khác. Thụ lý theo thủ tục phúc thẩm 13.732 vụ với 20.847 bị cáo, đ

giải quyết, xét xử 12.698 vụ với 18.731 bị cáo v ụ lý theo thủ tục giám đốc ử 12.698 vụ với 18.731 bị cáo và thụ lý theo thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm 452 vụ với 797 bị cáo, đ ải quyết, xét xử 403 vụ với 695 bị ẩm, tái thẩm 452 vụ với 797 bị cáo, đã giải quyết, xét xử 403 vụ với 695 bị

cáo. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy l ỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,79%, tăng 0,06% so v à 0,79%, tăng 0,06% so với cùng kỳ

58% và do nguyên nhân khách quan năm 2017 (do nguyên nhân chủ quan 0,58% và do nguyên nhân khách quan năm 2017 (do nguyên nhân ch

0,11%); bị sửa là 4,91%, tăng 0,26% so v à 4,91%, tăng 0,26% so với cùng kỳ năm 2017 (do nguy ỳ năm 2017 (do nguyên

160000

140000

120000

100000

Số vụ án thụ lý Số vụ án thụ lý

80000

Số vụ xét xử Số vụ xét xử

Số án sửa, hủy Số án sửa, hủy

60000

40000

20000

0

2016

2017

2018

nhân chủ quan 0,32% v ủ quan 0,32% và do nguyên nhân khách quan 4,59%).[50 50]

Hình 3.1. Thống k ống kê số lượng vụ án hình sự giai đoạn 2016 ạn 2016 – 2018

(Nguồn: Tòa án nhân dân òa án nhân dân tối cao)

ẩm 256 vụ với 602 bị cáo Trong năm 2018, các Tòa án đã xét xử sơ thẩm 256 vụ với 602 bị cáo Trong năm 2018,

ạm các tội tham nhũng, so với năm 2017, số bị cáo bị xét xử các tội về phạm các tội tham nhũng, so với năm 2017, số bị cáo bị xét xử các tội về ạm các tội tham nhũng, so với năm 2017, số bị cáo bị xét xử các tội về

tham nhũng tăng 186 bị cáo. ụ án tham nhũng, kinh tế lớn, đặc biệt ũng tăng 186 bị cáo. Các vụ án tham nhũng, kinh tế lớn, đặc biệt

nghiêm trọng, phức tạp v ọng, phức tạp và các vụ án dư luận xã hội quan tâm đ ội quan tâm được giải quyết

kịp thời, nghiêm minh, đi ụ án Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Cố êm minh, điển hình như: vụ án Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Cố

67

ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm

trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN); vụ

án Đinh La Thăng phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý

kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm

đoạt tài sản” liên quan đến việc góp vốn 800 tỷ đồng của Tập đoàn Dầu khí

Quốc gia Việt Nam (PVN) vào Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương

(Oceanbank); vụ án Phạm Ngọc Ngoạn phạm tội “Cố ý làm trái quy định của

Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty in,

thương mại và dịch vụ AGRIBANK; vụ án Bùi Văn Khen phạm tội “Cố ý

làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”

xảy ra tại Công ty cho thuê tài chính thuộc Ngân hàng Đầu tư và phát triển

Việt Nam; vụ án Châu Thị Thu Nga phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư xây dựng nhà đất (Housing

Group); vụ án Huỳnh Thị Huyền Như phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản”; vụ án Lâm Ngọc Khuân phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Vi

phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra

tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Phương Nam; vụ án đánh bạc hàng nghìn tỷ

đồng xảy ra tại Phú Thọ với mạng lưới ở nhiều địa phương trên phạm vi cả

nước [50]... Trong số 602 bị cáo phạm tội tham nhũng đã xét xử, các Tòa án

cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tù chung thân và tử hình đối với 11 bị cáo; xử phạt

tù từ trên 15 năm đến 20 năm đối với 34 bị cáo; tù từ trên 7 năm đến 15 năm

đối với 70 bị cáo; tù từ 3 năm đến 7 năm đối với 132 bị cáo; tù từ 3 năm trở

xuống đối với 218 bị cáo; còn lại là các hình phạt khác. Các Tòa án đã áp

dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, lợi dụng chức

vụ chiếm đoạt tài sản lớn của Nhà nước, đồng thời cũng chú ý áp dụng các

biện pháp kê biên tài sản, các biện pháp tư pháp và các hình phạt bổ sung

nhằm đảm bảo việc thu hồi tài sản của Nhà nước đã bị các bị cáo chiếm đoạt

68

hoặc gây thiệt hại. Các Tòa án cũng đã trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều

tra bổ sung đối với 138 vụ phạm tội về kinh tế; 118 vụ phạm tội về tham

nhũng; 18 vụ phạm tội về chức vụ.

Việc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung về cơ bản

đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật. Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các

bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đúng quy định của

pháp luật, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình

hình hiện nay. Các Hội đồng xét xử đều cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá thận

trọng khi xem xét cho bị cáo hưởng án treo. Trong năm qua, số bị cáo được

Tòa án cho hưởng án treo là 20.210 bị cáo, chiếm tỷ lệ 19,2%, trong đó 99,3%

các trường hợp cho hưởng án treo không bị hủy, sửa án. Việc xem xét, quyết

định áp dụng hình phạt khác không phải là hình phạt tù đảm bảo có căn cứ,

đúng quy định của pháp luật. Khi xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đặt

tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

các Tòa án đều cân nhắc đầy đủ các điều kiện về tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình trạng tài sản của bị cáo.

Riêng đối với hệ thống Tòa án quân sự các cấp, trong năm 2018 đã thụ

lý 185 vụ với 421 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 154 vụ án với 337 bị cáo

(đạt tỷ lệ 83,2% số vụ và 80,04% số bị cáo); cụ thể: thụ lý theo thủ tục sơ

thẩm 151 vụ với 354 bị cáo; đã giải quyết, xét xử 123 vụ với 279 bị cáo (đã

xử phạt tù có thời hạn 127 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo 69 bị

cáo, chiếm 24%; còn lại là các hình phạt khác); thụ lý theo thủ tục phúc thẩm

32 vụ với 65 bị cáo, đã giải quyết, xét xử theo thủ tục phúc thẩm 27 vụ với 54

bị cáo; thụ lý theo thủ tục giám đốc thẩm 02 vụ với 02 bị cáo, đã giải quyết,

xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm 02 vụ với 02 bị cáo. Tỷ lệ các bản án,

quyết định bị hủy là 1.9% (đều do nguyên nhân khách quan); bị sửa là 5,1%

(do nguyên nhân chủ quan 1,9% và do nguyên nhân khách quan 3,2%).

69

Nhìn chung, công tác xét xử các vụ án hình sự trong năm qua đảm bảo

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục

được chú trọng theo hướng thực chất, hiệu quả. Các Tòa án không hạn chế

thời gian dành cho tranh tụng, tôn trọng và đảm bảo cho các bên tham gia tố

tụng đưa ra chứng cứ và trình bày hết các ý kiến của mình, trên cơ sở kết quả

tranh tụng, Hội đồng xét xử đưa ra các phán quyết đúng pháp luật, được dư luận

xã hội ủng hộ. Công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng được thực

hiện đúng theo các quy định của pháp luật tố tụng... Một số Tòa án có tỷ lệ giải

quyết các vụ án hình sự đạt tỷ lệ cao, như: Tòa án nhân dân hai cấp thành phố

Hồ Chí Minh và các tỉnh Lạng Sơn, Bến Tre, Nam Định, Quảng Trị...

3.1.1.2.Những bất cập, hạn chế

Qua số liệu thống kê và báo cáo của ngành tòa án cho thấy chất lượng

xét xử vụ án hình sự ngày càng được nâng cao, quyền và nghĩa vụ của người

tham gia tố tụng ngày càng được bảo đảm, trong đó có quyền tự bào chữa.

Điều đó phần nào cho thấy quyền bào chữa trong đó có quyền tự bào chữa

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo đảm. Tuy vậy, tỷ lệ các bản án,

quyết định bị hủy, bị sửa vẫn còn khá cao. Điều này một phần là do sự thực

hiện quyền tự bào chữa trong các vụ án hình sự còn hạn chế. Hiện nay cả

nước có hơn 13000 Luật sư và hơn 5000 thực tập làm nghề Luật sư [50].

Theo đánh giá của Liên đoàn Luật sư thì vị thế của Luật sư đã được nâng cao

rõ rệt; các cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng, tạo thuận lợi hơn cho Luật sư

khi hành nghề; các Đoàn Luật sư được địa phương quan tâm hơn, hỗ trợ nhiều

hơn vè kinh phí, cơ sở vật chất. Tuy nhiên, số lượng Luật sư phân bổ chưa

đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, chưa đáp ứng yêu cầu của xã

hội, mới có khoảng 20% vụ án hình sự có Luật sư tham gia; Luật sư chuyên

sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại còn ít. Trình độ, năng lực

của Luật sư cũng còn hạn chế; còn vi phạm đạo đức nghề nghiệp; cá biệt có

70

Luật sư lợi dụng hành nghề để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lợi dụng diễn đàn

để tuyên truyền chống nhà nước ảnh hưởng uy tín của Luật sư…

Trong “Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại

Việt Nam” của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cũng đã tiến

hành nghiên cứu khảo sát thực tiễn về quyền bào chữa và Tự bào chữa ở Việt

Nam. Theo đó, cuộc khảo sát đã gửi đi bảng hỏi 5200 bảng (chiếm gần 40%

tổng số luật sư hành nghề ở Việt Nam hiện nay) [47] và tổng số lượng bảng

hỏi thu về là 300 bảng hỏi, trong đó có 75% luật sư trả lời là nam giới và 21%

người trả lời là nữ. Những người có độ tuổi dưới 30 chiếm 13%, từ 30-45 tuổi

chiếm 49% và trên 45 tuổi là 27%. Tỷ lệ phiếu không trả lời thông số này

chiếm gần 11%. Bảng hỏi được gửi theo tỷ lệ phân bổ khu vực tại các địa

phương. Tuy nhiên, tỷ lệ bảng hỏi thu về của các luật sư tại các tỉnh có kinh tế

và đội ngũ luật sư phát triển nhất (Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh) chiếm đa số

(58%), tiếp đến là các luật sư thuộc các tỉnh đồng bằng (Đà Nẵng, Huế, Nam

Định, Thanh Hóa, Bà Rịa Vũng Tàu) chiếm thứ hai (32%), cuối cùng là các

tỉnh miền núi (Bắc Giang, Bình Phước, Tây Ninh, Quảng trị, Lạng Sơn)

chiếm ít nhất (6%) [51]. Các luật sư tham gia trả lời các bảng hỏi chủ yếu

cũng là những người có kinh nghiệm trong các vụ án hình sự (86% luật sư đã

từng tham gia từ 2 vụ án trở lên. Phần lớn số luật sư tham gia trả lời bảng hỏi

cũng là những luật sư hành nghề trong lĩnh vực hình sự. Nhóm Nghiên cứu đã

tiến hành 183 cuộc phỏng vấn sâu tại các địa phương, các cơ quan tiến hành

tố tụng, cơ quan bổ trợ tư pháp. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng đề cương

nghiên cứu và bảng hỏi, nhóm nghiên cứu đã tổ chức một cuộc thảo luận

nhóm có sự tham dự của các luật sư, điều tra viên tại Hà Nội. Trong quá trình

khảo sát, nhóm nghiên cứu cũng tổ chức được 2 cuộc thảo luận tập trung liên

quan đến chủ đề “Quyền được bào chữacho bị can, bị cáo theo pháp luật Việt

Nam”. Một cuộc thảo luận được tiến hành tại Hà Nội và một cuộc thảo luận

71

được thực hiện tại Tp. Hồ Chí Minh. Các cuộc thảo luận đều có sự tham dự

của các luật sư chuyên sâu hành nghề trong lĩnh vực hình sự, thẩm phán, thư

ký tòa án, điều tra viên và kiểm sát viên. Theo các luật sư được khảo sát, tỷ lệ

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo “muốn được tự bào chữa” và “không muốn

Không có ý kiến 7%

Muốn tự bào chữa 45%

Không muốn tự bào chữa 48%

tự bào chữa” là gần tương đương nhau (45% và 48%).

Hình 3.2. Tỉ lệ nhu cầu tự bào chữa của bị can, bị cáo

Các luật sư trả lời phỏng vấn sâu đưa ra các lý do giải thích cho mong

muốn “tự bào chữa” của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như: “không nên sử

dụng luật sư từ người thứ ba” (ngụ ý “ngườithứ ba” là cán bộ của các cơ

quan tiến hành tố tụng), “do đã có người bào chữa do cơ quan tiếnhành tố

tụng giới thiệu”, “phí luật sư quá cao”, “không tin tưởng vào luật sư”, “luật

sư không đápứng được yêu cầu về chất lượng”. Các luật sư trả lời phỏng vấn

còn bổ sung thêm nhiều lý do bị can, bị cáo muốn tự bào chữa được tổng hợp

trong bảng sau đây.

72

Bảng 3.2. Một số nguyên nhân từ chối quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo

do luật sư cung cấp

Lý do bị can, bị cáo đưa ra Tỉ lệ Số LS cho ý kiến Tổng số luật sư khảo sát

17 34%

13 26%

9 18% 50

8 3 16% 6%

2 4%

Tự tin về khả năng tự bào chữa của mình, họ nghĩ rằng chỉ có họ mới rõ nhấthành vi và động cơ của hành vi Không đủ kinh phí để thuê luật sư Không có kiến thức nên không đánh giá được vai trò của luật sư Cho rằng tự bào chữa dễ được thông cảm hơn Không tin vào tính trung lập của luật sư Muốn giữ bí mật một số thông tin và mong muốn phản cung, họ cho rằng như thế sẽ hiệuquả

(Nguồn: Khảo sát thực tế của Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình

sự và thực tiễn tại Việt Nam)

Theo những người đã từng thụ án hoặc từng bị tạm giam để điều tra,

10/18 người cho biết CQĐT cũng khuyên họ nên thuê luật sư sau khi đã kết

thúc điều tra. Có 2 người cho biết CQĐT chỉ nói cho họ là “có quyền được

mời luật sư” nhưng không giúp đỡ họ liên lạc với luật sư. Có một người được

CQĐT cho điện thoại liên lạc với luật sư. Tuy nhiên, 5 người cho biết là cán

bộ điều tra nói với họ “luật sư chẳng giúp được gì”, “tội của anh rõ như thế

rồi thì liệu luậtsư có gỡ được không?”, “gia đình có tiền để thuê luật sư

không?”. Trong số 18 người được phỏng vấn sâu thì có 12 người được gia

đình thuê cho luật sư để bào chữa,03 người không thuê luật sư vì “gia đình

không có tiền”, 03 người không thuê luật sư vì cho rằng luật sư “không giúp

được gì”. Không có bất kỳ người nào đã từng thụ án hay từng bị tạm hoặc cán

bộ thụ lý vụ án cung cấp sách luật để tự nghiên cứu.

73

3.1.1.3. Nguyên nhân của bất cập, hạn chế

Từ thực tiễn trên, người viết tổng kết được hạn chế chế của việc thực

hiện quyền của người bị buộc tội nằm trong các nguyên nhân sau:

Thứ nhất: trong việc giải thích quyền và nghĩa vụ của cơ quan THTT

và người THTT. Người bị buộc tội có quyền được giải thích về quyền và

nghĩa vụ. Tuy nhiên trên thực tế các cơ quan THTT và người THTT vẫn

không thực hiện đúng chức năng của mình. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ

cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng còn không ít trường hợp không đúng

với quy định của Bộ luật TTHS, chỉ giải thích nghĩa vụ mà không giải thích

họ có quyền gì, hoặc nếu có cũng chỉ đọc quy định của Bộ luật TTHS về

quyền và nghĩa vụ mà không giải thích cho họ về việc thực hiện các quyền và

nghĩa vụ đó dẫn đến hậu quả là họ không biết mình có quyền gì, gây ảnh

hưởng đến việc xác định sự thật vụ án.

Thứ hai, tình trạng mớm cung, bức cung, dùng nhục hình. Khi tiến

hành điều tra, cơ quan THTT lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can,

bị cáo. Lời khai là một loại nguồn chứng cứ quan trọng giúp cơ quan THTT

xác định đúng sự thật vụ án và là cơ sở để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

chứng minh sự vô tội hoặc gỡ tội cho mình. Lời khai với tính chất quan trọng

như vậy nhưng trên thực tế, tình trạng mớm cung, ép cung vẫn xảy ra trong

quá trình THTT. Mặc đù đó chỉ là những: “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng

lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xác định sự thật của vụ án, làm thay đổi

số phận con người. Trong giai đoạn điều tra: ĐTV đã ép bị can khai theo ý

chủ quan của mình,giai đoạn xét xử, vẫn còn nhiều trường hợp HĐXX khi hỏi

mang tính chất mớm cung như : “có phải không”, quát nạt bị cáo.

Ví dụ: trong vụ án trộmcắp tượng phật ở Bắc Giang. Ngày 12/01/2006,

TAND tỉnh Bắc Giang mở phiên toà sơ thẩm đưa các đối tượng trộm cắp “cổ

vật” ra xét xử. Căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại Toà, TAND tỉnh Bắc

74

Giang đã buộc trả hồ sơ cho VKSND tỉnh Bắc Giang làm rõ nhiều tình tiết,

trong đó chủ yếu là vấn đề các bị cáo bị bức cung, nhục hình nhiều bị cáo đưa

ra chứng cự ngoại phạm. Nhưng tại phiên toà ngày 19/62006, những yêu cầu

này của Toà án vẫn không được VKS và CSĐT thực hiện một cách nghiêm

túc, kết luận điều tra bổ sung còn dẫn không trung thực lời khai của các nhân

chứng, nên đã bị nhân chứng tố cáo tại Toà. Bị cáo Nguyễn Quý Đoan vẫn

giữ nguyên quan điểm từ phiên toà trước, tố cáo các điều tra viên ép cung,

mớm cung để dắt dây ra hàng loạt các bị cáo sau này. Các bị cáo khai các điều

tra viên Hà Văn Quang, Chu Bá Huy, Thân Văn Túc, Nguyễn Ngọc

Oanh…đã viết trước các bản cung rồi bắt các bị cáo chép lại hoặc ký nhận ở

dưới. Các điều tra viên đã lấy cung vào ban đêm: dùng que, gậy vụt vào đầu,

mặt, chọc vào cổ họng, dùng còng số 8 khoá tay, sau đó treo ngược lên trần

nhà suốt đêm từ hôm trước đến sáng hôm sau. Thậm chí, có bị cáo còn bị lột

hết quần áo và tra tấn vào bộ phận sinh dục (lời khai tại Toà của bị cáo Trung,

Thương). Đặc biệt có một bị cáo là Phan Hữu Hường đã chết và theo luật sư

thì có nhiều “bất bình thường” trong bản kết luận về nguyên nhân cái chết của

bị cáo này. Ngày 28/6/2006, sau 5 ngày tranh tụng và 2 ngày nghị án, TAND

tỉnh Bắc Giang đã quyết định trả hồ sơ vụ án cho VKS, yêu cầu CQĐT điều

tra bổ sung, quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn với các bị cáo trong vụ

án với hình thức cho tại ngoại.[52]

Thứ ba, là hạn chế xuất phát từ bản thân người bị buộc tội. Họ thiếu

tính chủ động trong việc tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa. Họ thường

không dám tự bào chữa một phần do thiếu hiểu biết về pháp luật, một phần do

tâm lý “sợ” cơ quan THTT. Chất lượng tự bào chữa của người bị buộc tội

không cao do họ thiếu hiểu biết pháp luật. Khi tự bào chữa, bị cáo thường chủ

yếu xin HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho mình chứ chưa đưa ra những lý lẽ

để bào chữa. Người bị buộc tội không thực hiện được các quyền của họ đặc

biệt là liên quan đến việc thu thập tài liệu, đồ vật là chứng cứ của vụ án.

75

3.2.Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

quyền tự bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự

3.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu

quả thực thi quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tôi

Quyền tự bào chữa của những người bị nghi là đã thực hiện tội phạm là

chế định quan trọng trong pháp luật TTHS, việc hoàn thiện chế định này có ý

nghĩa rất quan trọng, góp phần bảo đảm tính chính xác, khách quan của quá

trình điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của

những người tham gia tố tụng là người bị nghi ngờ phạm tội, bị can, bị cáo.

Vấn đề bảo đảm quyền tự bào chữa đã được Luật Tố tụng hình sự Việt

Nam ghi nhận và ngày càng được hoàn thiện đã bảo đảm tốt hơn quyền con

người. Đồng thời với việc bảo vệ quyền của người yếu thế, việc bảo đảm thực

hiện tốt quyền tự bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của cơ

quan tiến hành tố tụng. Điều đó buộc các cơ quan này phải thật sự cẩn trọng,

có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, góp phần giảm thiểu

sai lầm, giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng, hiệu quả;

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người không có tội hoặc

bỏ lọt tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải không ngừng nâng cao,

hoàn thiện năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ trực tiếp tham

gia vào quá trình giải quyết vụ án nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người

trong tố tụng hình sự.

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình

cải cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, Đảng và Nhà nước rất

chú trọng việc đẩy mạnh cải cách tư pháp, xác định đó là khâu đột phá quan

trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này đã thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết của

76

Đảng như: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị

vềchiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “Xây dựng và hoàn thiện

phápluật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục

tiêu,định hướng của chiến lược cải cách tư pháp”[2]; Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệthống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

là: Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp…

và cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình

đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia

và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm chất lượng

tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa án làm căn

cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao

chất lượng hoạt động tư pháp….Nhưng tại Báo cáo tổng kết 08 năm thực hiện

Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã chỉ rõ “Hoạt

động của các cơ quan tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa [4]”. Để góp phần thực hiện tốt cải cách tư pháp, đẩy mạnh tranh tụng

trong xét xử theo tinh thần của các Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số

48- NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, một trong những

yêu cầu đặt ra là hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm quyền tự bào

chữa trong TTHS.

Cùng với yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, sự phù hợp với pháp

luật quốc tế, với các văn kiện pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia

nhập ví dụ như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966

(ICCPR), Công ước chống tra tấn;Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định

quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời ghi nhận

77

thêm quyền bào chữa cho người bị bắt. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp ghi nhận

“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự

bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”, “Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103), “Quyền bào chữa của bị

can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”

(khoản 7 Điều 103). Do đó cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung

các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 cho phù hợp với Hiến pháp năm

2013 và bảo đảm tính thống nhất với các văn bản pháp luật khác. Cùng với

việc ghi nhận quyền tự bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có

nhiều quy định nhằm bảo đảm quyền này được thực hiện một cách có hiệu

quả nhất. Nhưng các quy định này còn rải rác, chưa tập trung, còn nhiều bất

cập. Các quy định pháp luật chưa thống nhất và toàn diện nên chưa hình thành

được cơ chế pháp lý đủ mạnh để có thể bảo đảm cho các chủ thể của quyền

được tham gia các giai đoạn tố tụng một cách thuận lợi, bảo đảm phương tiện,

biện pháp thực tế để luật sư thực hiện hiệu quả quyền, nghĩa vụ của mình

Trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền tự bào chữa

trong TTHS có hiệu quả hay không, trước hết phụ thuộc vào nội dung các quy

phạm pháp luật về quyền bào chữa được xây dựng, hoàn thiện như thế nào.

Do đó việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự

bào chữa trong tố tụng hình sự là hết sức cần thiết và cấp bách nhằm đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội.

3.2.2. Phương hướng hoàn thiện quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tội

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện hệ

thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật... Xây dựng cơ chế thực

hiện có hiệu quả trên thực tế chủ trương tăng cường, nâng cao chất lượng

78

tranh tụng tại phiên tòa... đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư

pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý... bảo đảm

quyền được giữ bí mật cá nhân của công dân. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa

xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể tham

gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công bằng, dân chủ, nghiêm minh...

Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng và hiệu quả tranh tụng tại phiên

tòa, coi đây là khâu đột phá của cải cách tư pháp”[2]. Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung, phát triển

năm 2011 đã xác định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,

đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn

quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ

của nhân dân”. Nên việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình

sự cũng phải hướng đến mục tiêu tôn trọng, bảo vệ tối đa quyền con người

của những người đang bị tình nghi phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

họ trong việc chủ động thực hiện các quyền mà pháp luật quy định cho họ.

Đồng thời có quy định cụ thể, rõ ràng để các cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình.

Với sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo

đảm quyền bào chữa như đã phân tích ở trên, cần định ra phương hướng cho

việc hoàn thiện các quy định pháp luật này để bảo đảm nguyên tắc này được

áp dụng một cách có hiệu quả; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm tốt

hơn quyền con người. Cụ thể: Một là, ghi nhận đầy đủ các nội dung của

quyền tự bào chữa cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và thống nhất với

các văn bản pháp luật khác theo hướng mở rộng phạm vi quyền tự bào chữa.

Hai là, quy định cụ thể, chi tiết quyền tự bào chữa, bảo đảm tính khả thi của

quy định. Ba là, quy định đầy đủ các điều kiện, có cơ chế chặt chẽ ràng buộc

trách nhiệm để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nâng

79

cao trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm quyền bào chữa cho người

bị cáo buộc phạm tội.

3.2.3. Các kiến nghị pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tôi

3.2.3.1. Hoàn thiện pháp luật

Để thực thi có hiệu quả quyền tự bào chữa của người bị buộc tội cần

thực hiện tốt các vấn đề sau:

Thứ nhất, về hình thức trong bộ luật TTHS. Cần hoàn thiện chương quy

định về bào chữa trong BLTTHS trong đó xác định quyền tự bào chữa là một

bộ phận quan trọng không thể tách rời. Hiện nay các quy định liên quan đến

quyền bào chữa không tập trung, chưa được quy định riêng biệt, mà nằm rải

rác ở nhiều chương, phần và các điều khoản khác nhau. Việc sắp xếp các quy

định rải rác như trên dễ dẫn đến trường hợp quy định không đầy đủ các nội

dung liên quan đến quyền tự bào chữa; quy định thiếu chặt chẽ, logic và

không thể hiện được vị trí quan trọng của bào chữa trong tố tụng hình sự;

đồng thời sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Do đó cần thiết phải sắp

xếp các quy định liên quan đến bào chữa thành một chương riêng để bảo đảm

tính thống nhất, khoa học của các quy định; giúp cho việc việc quy định áp

dụng thuận lợi hơn đồng thời khẳng định vị trí quan trọng của bào chữa và tự

bào chữa trong TTHS. Theo đó, tại chương V bộ luật TTHS năm 2015 cần

ghi nhận cụ thể định nghĩa pháp lý của quyền bào chữa, trong nội dung điều

luật này cần xác định quyền bào chữa gồm quyền tự bào chữa và quyền được

ủy quyền cho người khác bào chữa. Quy định như vậy mới đảm bảo sự thống

nhất, tránh sự tùy nghi của cơ quan THTT khi giải quyết VAHS, bởi nếu chỉ

quy định như chương V bộ luật TTHS hiện nay, hoạt động bào chữa chỉ được

hiểu đơn thuần là việc một người bị buộc tội được người bào chữa bảo vệ cho

quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà bỏ lửng quy định về việc họ có thể tự

bào chữa.

80

Thứ hai, quy định tại Điều 58 và Điều 59 Bộ luật TTHS năm 2015 chưa

có sự phân định rõ ràng về đối tượng bị bắt hoặc bị giữ, từ đó dẫn đến khó

khăn trong xác định đối tượng, từ đó hạn chế khả năng áp dụng các quyền và

nghĩa vụ pháp lý được quy định trong đó có quyền tự bào chữa. Thêm nữa,

Bộ luật TTHS chưa đưa ra được khái niệm thế nào là người bị bắt, người bị

tạm giữ, trong khi đó đã phần nào đưa ra được định nghĩa về bị can, bị cáo.

Điều đó gây ra sự không cân bằng, thiếu tính hoàn thiện trong kỹ thuật lập

pháp. Ở góc độ này, người viết kiến nghị tại hai Điều 58 và 59 Bộ luật TTHS

hiện hành nên sửa đổi theo hướng, ở mỗi điều chỉ quy định về một chủ thể

duy nhất. Điều 58 quy định về người bị tạm giữ, Điều 59 quy định về người bị

bắt. Trong quy định của từng điều cần ghi nhận thế nào là người bị bắt, thế

nào là người bị giữ; chứ không nên quy định như hiện nay, là liệt kê ra các

trường hợp bắt hoặc giữ người. Sau định nghĩa cần xác định rõ quyền và

nghĩa vụ của mỗi chủ thể, trong đó đảm bảo quyền tự bào chữa của các chủ

thể này.

Thứ ba, quy định về người bị buộc tội trong Bộ luật TTHS năm 2015

chưa thực sự đầy đủ, còn bỏ sót một trường hợp cũng được xác định là người

bị buộc tội đó là người bị tình nghi.Người bị tình nghi trong vụ án là người bị

buộc tội trong trường hợp cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra

ban đầu, bao gồm người có hành động phạm pháp bị mời làm việc, người bị

bắt, hoặc bị tạm giữ, nhưng chưa bị khởi tố bị can. Khái niệm buộc tội cần

được hiểu là một người bị cơ quan bảo vệ pháp luật nghi ngờ do hành động

phạm pháp của họ và trên cơ sở các hoạt động điều tra ban đầu như bị triệu

tập, bị mời làm việc, bị xác minh, bị lấy lời khai... Theo suy luận chung, có

buộc tội thì có bào chữa, do đó, quyền tự bào chữa của người bị tình nghi

cũng xuất phát từ thời điểm này. Việc quy định người bị tình nghi cũng là

người bị buộc tội hoàn toàn khác với việc quy định về “đối tượng hiềm nghi”

trong hoạt động nghiệp vụ cơ bản của lực lượng công an nhân dân. Người bị

81

tình nghi trong TTHS với tư cách là người bị buộc tội chỉ xuất hiện khi cơ

quan điều tra xác định được người này là người thực hiện hành vi có thể coi là

tội phạm, qua đó cần mời họ lên cơ quan điều tra để tiến hành xác định sự liên

quan của họ. Còn đối tượng hiềm nghi được xác định rất rộng bao gồm cả

người, sự việc và hiện tượng. Ở giai đoạn này, người được xếp vào dạng đối

tượng hiềm nghi chỉ là người có nghi vấn phạm tội, chưa có bất kỳ sự buộc

tội nào xuất hiện. Xác minh hiềm nghi sẽ chỉ cho ra kết quả là : “có hay

không hoạt động phạm tội, từ đó mới có căn cứ để tiến hành quyết định thu

thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, khi đó, sự

buộc tội mới xuất hiện, kéo theo những quy định về bào chữa và tự bào chữa.

Từ thực tiễn hoạt động TTHS và sự phân định rạch ròi của BLTTHS về người

tham gia tố tụng đã thể hiện một người bị khởi tố (bị can) phải được Viện

kiểm sát phê chuẩn, trước đó cơ quan điều tra đã thu thập chứng cứ phục vụ

cho việc khởi tố tương đối vững chắc để buộc tội (yếu tố nghi ngờ, giả thiết

trở nên rất ít hoặc không có) nếu không muốn nói là sau khi khởi tố bị can chỉ

là những hoạt động củng cố, bổ sung chứng cứ, các hoạt động phần lớn làm

đủ theo thủ tục tố tụng. Đối với khái niệm về người bị tình nghi trong

BLTTHS thực tại còn xảy ra khả năng cho rằng, xuất phát từ nguyên tắc suy

đoán vô tội, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của

tòa án có hiệu lực pháp luật và theo chuẩn mực chung của thế giới về quyền

con người cần mở rộng đối tượng, phạm vi tố tụng trong khái niệm người bị

buộc tội trong vụ án.

Thứ tư, về quyền lựa chọn hình thức bào chữa: theo quy quy định của

pháp luật TTHS hiện hành, bị can, bị cáo có quyền “quyền tự bào chữa, nhờ

luật sư hoặc người khác bào chữa.” cho mình (Điều 16 Bộ luật TTHS). Đây là

hai quyền năng có đồng thời ở bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa cho

mình. Tuy nhiên, với cách quy định nêu trên, có thể hiểu rằng bị can, bị cáo

82

đã chọn cho mình quyền tự bào chữa thì họ không có quyền nhờ người khác

bào chữa nữa và ngược lại. Điều 16 Bộ luật TTHS với tên gọi: “Bảo đảm

quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của bị hại, đương sự” dường như chỉ nghiêng về quy định nghĩa vụ của cơ

quan tiến hành tố tụng mà chưa khẳng định thực sự quyền được tự bào chữa

của chính người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền chống lại việc buộc

tội của các cơ quan này. Vì vậy, cần quy định theo hướng xác định rõ nghĩa

vụ của cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ tôn trọng quyền đó mà còn phải

tạo điều kiện để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của

mình trên thực tế. Về phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo pháp luật nên tạo

cho họ sự lựa chọn rộng hơn trong việc bào chữa cho mình. Theo đó, nội

dung Điều 16 Bộ luật TTHS hiện hành nên sửa đổi, bổ sung như sau: “Người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ luật sự hoặc người

khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm

cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa

cho họ”.

Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 16 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

Điều 16: Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tình nghi,

người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong TTHS.

1. Người bị tình nghi trong việc thực hiện tội phạm, người bị tạm giữ,

bị can và bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho

mình từthời điểm người đó bị bắt, bị tạm giữ hoặc bị buộc tội.

2. Cơ quan và người THTT có nghĩa vụ đảm bảo cho người bị tình nghi

trong việc thực hiện tội phạm, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo được thực

hiện đầy đủ quyền bào chữa của họ mà Bộ luật này quy định.

3. Cơ quan và người THTT có nghĩa vụ giải thích đầy đủ cho người

bịtình nghi trong việc thực hiện tội phạm, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về

tinhthần và lời văn (nội dung) quyền bào chữa của họ mà Bộ luật này quy định.

83

4. Ngay từ thời điểm người phạm tội bị bắt, bị tạm giữ hoặc bị buộc tội,

cơ quan hoặc người THTT phải có nghĩa vụ giải thích cho họ đầy đủ nội

dungcơ bản sau đây của quyền bào chữa:

a) Họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.

b) Họ có quyền im lặng và không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô

tội của mình.

c) Tất cả những gì họ nói ra có thể được sử dụng làm chứng cứ để

chứngminh tội của họ tại phiên toà.

5. Việc giải thích quyền bào chữa phải được lập thành văn bản và có

chữ ký xác nhận của người đã được giải thích.

Thứ năm, trong chương quy định về quyền bào chữa nói chung cần bổ

sung quy định các cơ quan THTT, người THTT cần tạo điều kiện cho người

bị buộc tội muốn tự mình bào chữa được tiếp xúc với các văn bản quy phạm

pháp luật và tài liệu có liên quan đến việc giải quyết VAHS. Trong quá trình

tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến xét xử,

người bị buộc tội cần phải được cung cấp hồ sơ, tài liệu cũng như các văn bản

pháp quy có liên quan nhằm đảm bảo tối đa việc mình có thể nhìn nhận đánh

giá được vấn đề của vụ án. Thông qua đó, đưa ra những lý lẽ, lập luận và

chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

3.2.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền tự bào chữa

a. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cáccơ quan

THTT

Thứ nhất, đối với Tòa án, cần tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc

Hiến pháp năm 2013 và các Nghị quyết, văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác

tư pháp và cải cách tư pháp. Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải

quyết, xét xử các loại vụ án, đảm bảo các phán quyết của Toà án phải đúng

84

pháp luật, đảm bảo công lý, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đẩy

mạnh tranh tụng tại phiên tòa. Tích cực tham mưu về các chủ trương, biện

pháp tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng; phối hợp với các cơ

quan tiến hành tố tụng khẩn trương đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các

vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án lớn mà dư luận và xã hội quan

tâm. Khắc phục triệt để việc để các vụ án quá thời hạn xét xử do lỗi chủ quan

của Tòa án; phấn đấu không để xảy ra việc xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm.

Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

Tiến hành sơ kết việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó

tiếp tục hướng dẫn và yêu cầu các Tòa án tăng cường hơn nữa công tác này,

đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải cách tư pháp. Thường

xuyên phối hợp chặt chẽ, kịp thời với Công an, Viện kiểm sát trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc

tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, phiên tòa trực tuyến theo tinh thần cải

cách tư pháp; tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư và trợ giúp viên pháp lý tham

gia trong các giai đoạn tố tụng. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử,

hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; rà soát để sửa đổi, bổ sung và ban

hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về các vấn đề được

giao và các vấn đề vướng mắc từ thực tiễn xét xử, đẩy mạnh công tác lựa

chọn, công bố, bình luận án lệ. Thường xuyên tổ chức Hội nghị tập huấn, trao

đổi, giải đáp các vấn đề nghiệp vụ theo chuyên đề, lĩnh vực. Tiến hành rà soát

để đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp, nhằm khắc

phục những hạn chế, bất cập về cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ

của các Tòa án nhân dân. Đẩy mạnh các phong trào thi đua; tổ chức thực hiện

tốt Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Tiếp tục thực hiện việc kiểm

85

điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết TW4 về tăng cường

xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thứ hai, đối với Viện kiểm sát, cần thể chế hoá kịp thời đường lối, chủ

trương, chính sách lớn của Đảng xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

và các văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tại kỳ

họp thứ nhất Quốc hội khoá XIII đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ

sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Cần nghiên cứu, lý giải chính xác về thiết chế Viện kiểm sát trong cơ cấu

quyền lực ở Nhà nước ta, cung cấp các luận cứ khoa học để xác định rằng

hoạt động của Viện kiểm sát là một hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước

độc lập bên cạnh những hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước khác;

chứng minh đầy đủ về vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong hệ

thống các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tư pháp, cũng như

yêu cầu phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chức năng kiểm sát

hoạt động tư pháp trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát cần tổng kết một cách

sâu sắc việc thực hiện chức năng công tố, đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự để đề xuất các biện pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra như các Nghị quyết của

Đảng đã yêu cầu. Trước mắt, trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn, cần áp

dụng đồng bộ các giải pháp về nghiệp vụ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ sung

biên chế; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị công tác; quản lý, chỉ đạo,

điều hành… để nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất các kiến giải sửa đổi Bộ

luật Tố tụng Hình sự và các văn bản pháp luật liên quan nhằm thể chế hoá chủ

trương củaĐảng về xây dựng một nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm

86

của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm

cao hơn, chủ động hơn trong quá trình chứng minh tội phạm, theo sát, gắn

chặt với hoạt động điều tra.

Thứ ba, đối với hệ thống cơ quan điều tra. Từ thực tiễn thực hiện

nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, đổi mới cơ quan điều tra,

bên cạnh yêu cầu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động trinh sát và

hoạt động điều tra, cần hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo

nguyên tắc phải tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao để cơ quan

điều tra trở thành công cụ đủ mạnh của nhà nước, nhằm ngăn chặn, đấu tranh

có hiệu quả mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội…,

không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà

nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công

cuộc đổi mới đất nước. Đồng thời,việc đổi mới tổ chức cơ quan điều tra phải đáp

ứng được yêu cầu kịp thời, nhanh, nhạy trong việc điều tra, khám phá tội phạm.

b. Nâng cao chất lượng, bổ sung đủ số lượng đội ngũ ngườiTHTT,

đội ngũ bổ trợ tư pháp

Trong các hoạt động thì yếu tố con người luôn ở vị trí trung tâm, có

tácđộng quyết định đến hiệu quả của hoạt động ấy. Do đó để việc thực hiện

quyền tự bào chữa của người bị buộc tội có hiệu quả thì bên cạnh việc hoàn

thiện pháp luật thì các giải pháp liên quan đến yếu tố con người là rất quan

trọng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương III khóa VIII của Ban chấp hành

trung ương Đảng đã chỉ rõ “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch,

vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có năng lực chuyên

môn…Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng

loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”.

87

Đối với công chức ngành Tòa án: xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

Tòa án trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh vững vàng; thực hiện tốt quy tắc

ứng xử của cán bộ, công chức Toà án nhân dân. Làm tốt công tác đào tạo, bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, cán bộ công chức, Hội thẩm

Tòa án nhân dân hai cấp và công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ

cán bộ, công chức Tòa án nhân dân hai cấp. Tăng cường giám sát việc thực

hiện công vụ của cán bộ, thẩm phán để nắm bắt thông tin, qua đó xử lý kịp

thời đối với các hành vi vi phạm. Đánh giá chất lượng công tác xét xử của các

thẩm phán để tham mưu cho Hội đồng tuyển chọn thẩm phán trong việc bổ

nhiệm , tái bổ nhiệm Thẩm phán [50]. Tiến hành rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ

sung những quy định không còn phù hợp, nhằm khắc phục những hạn chế, bất

cập về cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án nhân dân.

Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức

và Thẩm phán theo vị trí việc làm; rà soát lại số lượng biên chế, đội ngũ

Thẩm phán của các Tòa án nhân dân để điều chỉnh phù hợp đối với từng Tòa

án theo nhu cầu công việc; nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền tăng

cơ cấu, số lượng Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp cho các Tòa án

nhân dân cấp huyện trong tổng biên chế hiện nay để bảo đảm thực hiện nhiệm

vụ được giao. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, tạo nguồn Thẩm phán và

điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ, Thẩm phán. Tăng cường công tác

kiểm tra, thanh tra trong hoạt động công vụ. Xử lý nghiêm những tập thể, cá

nhân có sai phạm gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới công tác

đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chủ động xây dựng kế hoạch gắn với nhu cầu

thực tiễn; thực hiện nghiêm túc chủ trương của Ban cán sự đảng Tòa án nhân

dân tối cao về việc tăng cường việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng bằng

hình thức trực tuyến. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

vụ và các kiến thức xã hội, trình độ ngoại ngữ, tin học, khả năng sử dụng các

88

kỹ thuật tiên tiến cho cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp để tạo nguồn nhân

lực có chất lượng cho các Tòa án.

Đối với cán bộ kiểm sát: Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng đội

ngũ cán bộ, Kiểm sát viên “Vững vềchính trị,giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về

pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương vàtrách nhiệm” gắn với việc tiếp

tục đẩy manh việc “Học tập vàlàm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để

thực hiện tốt nhất lời dạy của Bác Hồ đối với người cán bộ Kiểm sát. Tạo sự

chuyển biến sâu sắc trong công tác cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ phải

bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu

dài. Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ theo quy

hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến

thức mới cho cán bộ. Kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đào tạo tại trường

lớp với việc tăng cường trách nhiệm đào tạo của người trực tiếp quản lý, sử

dụng cán bộ và việc tự đào tạo của cán bộ, Kiểm sát viên. Nghiên cứu, hoàn

thiện khung chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bảo đảm

tính thiết thực, hiệu quả, trong đó có những chương trình đào tạo, bồi dưỡng

phải mang tính bắt buộc và được thực hiện theo định kỳ.

Tăng cường điều kiện vật chất của cơ quan tiến hành tố tụng: Việc áp

dụng công nghệ thông tin trong hoạt động, thủ tục hành chính tư pháp tại các

cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận

thông tin của người dân về hoạt động tố tụng hình sự. Do đó cần quan tâm

hơn nữa đến việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên

môn và hoạt động quản lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận với

các cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết.

c Về nhận thức.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của người dân. Tăng cường công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật đến người dân nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng

89

xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng tập trung nhiều dân tộc thiểu số

đặc biệt thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động...

Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật là một phương pháp hiệu quả để

nâng cao nhận thức cho người dân về về kiến thức pháp luật nói chung, trong

đó có quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự. Qua đó giúp cho người dân tự

ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản

thân và lợi ích chung của xã hội, đồng thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng

nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi

phạm tội. Việc thay đổi nhận thức về quyền tự bào chữa là cách tốt nhất để

trang bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những phương tiện, biện pháp

giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm

các quyền tố tụng từ phía những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố

tụng; họ có thể tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa để bảo vệ các quyền, lợi

ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó cần tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân

các thông tin về trợ giúp pháp lý để người dân biết được hoạt động trợ giúp

pháp lý và các nội dung như đối tượng được trợ giúp, hình thức trợ giúp, chế

độ miễn phí đối với các đối tượng... để họ có thể chủ động yêu cầu sự trợ giúp

khi cần thiết.

Thứ hai, nâng cao nhận thức của cơ quan, người tiến hành tố tụng:

Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội không thể được bảo đảm nếu cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không nhận thức đúng nội

dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng được nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử nhằm mục đích phát hiện chính xác, nhanh chóng và

xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không

làm oan người vô tội. Các hoạt động của họ liên quan, tác động trực tiếp đến

toàn bộ quá trình tố tụng và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên

90

trong tố tụng. Do đó, hiệu quả của việc thực hiện quyền tự bào chữa trong tố

tụng hình sự phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng. Và xét trên một khía cạnh nào đó thì trách nhiệm,

thực thi nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng là yếu tố có ảnh hưởng

rất lớn, mang tính quyết định đến hiệu quả của việc thực hiện quyền tự bào

chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trước hết, bản thân các cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nhận thức được việc bảo đảm

quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chính là yếu tố quan

trọng giúp họ giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp

luật. Và họ có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo được thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên thực tế thì không phải người

tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này. Là

người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người tiến hành tố tụng

phải am hiểu thấu đáo những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào

chữa. Do đó cần nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố tụng về

việc bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

có vai trò quan trọng; ý nghĩa của nó trong quá trình tố tụng. Khi đó họ sẽ có

ý thức, nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ; trách nhiệm

trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu cho người bào chữa trong quá trình tố tụng;

thực hiện tốt nghĩa vụ giải thích cho người bị buộc tội hiểu rõ quyền tự bào

chữa và tạo điều kiện thuận lợi để quyền tự bào chữa được thực hiện hiệu quả.

91

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên

tắc bảo đảm quyền tựbào chữa của người bị buộc tội như: sửa đổi, bổ sung

một số quy định của Bộ luật TTHS, mở rộng đối tượng có quyền tự bào chữa,

đổi mới, nâng cao năng lực các cơ quan THTT, người THTT, đội ngũ bổ trợ

tư pháp... góp phần hoàn thiện pháp luật và thực hiện tốt hơn quyền tự bào

chữa trong thực tiễn.

1. Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nhu cầu cấp thiết và tất yếu khách

quan để đáp ứng: Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp; nâng cao chất

lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết số

08/NQ-TƯ của Bộ Chính trị; hệ thống pháp luật TTHS, hình sự và dân sự nói

chung và các quy định liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa còn chưa hoàn

thiện; những bất cập, tồn tại và yếu kém trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét

xử các vụ án hình sự những năm gần đây; trình độ nghiệp vụ và kỹ năng nghề

nghiệp, phẩm chất đạo đức và tác phong công tác của một bộ phận cán bộ các

cơ quan THTT các cấp, LS... chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình

hình mới.

2. Để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự bào chữa trong giải quyết

vụ án hình sự, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau, đó là: Các giải

pháp đổi mới về tổ chức bộ máy của hệ thống CQĐT, VKS, Tòa án; đổi mới

công tác quản lý, đào tạo và bồi dưỡng những người THTT; các giải pháp về

trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật; giải pháp về nâng cao nhận thức của các chủ

thể tham gia tố tụng.

3. Các giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS có liên

quan đến việc bảo đảm quyền tự bào chữa trong TTHS được đề xuất nhằm

92

góp phần thiết thực vào quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; giải

quyết các vấn đề vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử

các vụ án hình sự.

93

KẾT LUẬN

Ghi nhận và bảo đảm quyền con người trên là sự thể hiện của một Nhà

nước tiến bộ, dân chủ, văn minh. Trong hoạt động tố tụng hình sự, quyền con

người dễ bị xâm phạm và hậu quả của sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm

trọng cả về vật chất, thể chất, tinh thần trong những khoảng thời gian dài. Bảo

đảm quyền con người được phản ánh trong pháp luật TTHS bằng các quy

định đúng đắn, hợp lý, khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực

tế là quan trọng nhất.

Bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội là bộ phận quan

trọng không thể tách rời trong nội dung bảo đảm quyền con người thông qua

các quy định của pháp luật TTHS. Điều đó phản ánh nguyên tắc dân chủ, thể

hiện tính nhân đạo trong TTHS. Vì vậy, chế định này cần tiếp tục được hoàn

thiện hơn nữa theo hướng mở rộng đối tượng được tự bào chữa: thêm đối

tượng “người bị tình nghi”. Cho phép người bị buộc tội tham gia một số giai

đoạn tố tụng và trong tất cả các vụ án hình sự; đề cao hơn nữa trách nhiệm

của các cơ quan THTT trong việc bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của người

bị buộc tội, tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền của mình. Việc

đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là góp phần

nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo

cho các cơ quan THTT xử lý nhanh chóng, kịp thời, chính xác, nghiêm minh

đối với các loại tội phạm, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không làm oan người vô tội. Xây dựng Nhà nước Việt Nam thực sự là Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay

khi chúng ta muốn quán triệt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về việc giải

quyết vụ án hình sự phải chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà thì

sự tôn trọng nguyên tắc này càng mang tính chất thiết thực hơn bao giờ hết.

94

Quyền tự bào chữa là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong

tố tụng hình sự và được xem như là phương tiện pháp lý cần thiết để chủ thể

nói trên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền Tự bào chữa càng

được coi trọng thì tính tranh tụng càng được coi trọng. Hệ quả tất yếu là hạn

chế khả năng làm oan, làm sai người vô tội trong xét xử.Quyền tự bào chữa là

một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, là phương

tiện pháp lý để chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện

quyền bào chữa của người bị buộc tội góp phần bảo đảm công tác điều tra,

truy tố, xét xử khách quan, toàn diện, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một

Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.

2. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc

4. Báo cáo tổng kết 08 năm thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương III khóa VIII của Ban chấp hành

trung ương Đảng.

6. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

7. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.

8. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội

9. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

10. Quốc hội (1988), Bộ luật TTHS, Hà Nội.

11. Quốc hội ( 2003), Bộ luật TTHS, Hà Nội.

12. Quốc hội ( 2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

13. Quốc hội (2014), Luật tổ chức toà án nhân dân, Hà Nội.

14. Sắc lệnh 33c ngày 13/9/1945 về việc thiết lập các Toà án quân sự

15. Sắc lệnh số 13-SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Toà án và các ngạch

thẩm phán

16. Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức Tòa án quân sự

17. Sắc lệnh số 40 ngày 29/03/1946 về việc bảo vệ tự do cá nhân, người bị bắt

18. Sắc lệnh số 163-SL về việc tổ chức Toà án binh lâm thời đặt tại Hà Nội

19. Thông tư 06/TT ngày 09/09/1967 hướng dẫn việc bảo đảm quyền bào

chữa cho bị cáo.

96

20. TAND tối cao. Thông tư số 16-TATC Ngày 27/08/1974, bản hướng

dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự

21. Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành theo văn bản hợp nhất số 13/

VBHN-BCA ngày 7/4/2014

22. Thông tư số 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01

tháng 02 năm 2018

23. Nguyễn Ngọc Chí (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam –

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (2017), Đại học Luật Hà

Nội.NXB Công an nhân dân.

25. Nguyễn Ngọc Chí (2011): Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự - yếu tố

quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 221-239.

26. Hoàng Thị Sơn (2003): Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo

trong luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội .

27. Hoàng Thị Sơn (2002): Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo

quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4/2002.

28. Hoàng Thị Sơn (2000): Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm

quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 5/2000.

29. Trần Văn Bảy (2001): Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của

người bào chữa trong TTHS Việt Nam, Tạp chí KHPL số 1/2001.

30. Nguyễn Duy Hưng (2004): Bị can và bảo đảm quyền của bị can trong

Bộ luật TTHS 2003 - thực trạng và định hướng hoàn thiện.

31. Phạm Hồng Hải (2004): Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của

người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003, Tạp chí nhà nước và pháp luật số

5/2004.

32. Lê Hồng Sơn (2002): Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa

trong TTHS, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002.

97

33. Nguyễn Đức Mai (2002): “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

của TTHS Việt Nam”.

34. Nguyễn Ngọc Chí (2015): Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp

hình sự. NXB Hồng Đức

35. Phạm Hồng Hải (1999): “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc

tội”, NXB CAND, Hà Nội.

36. Nguyễn Thái Phúc (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa

trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (4), tr.41.

37. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948.

38. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR).

39. Công ước Châu Âu về quyền con người (EHRC).

40. E.ph. Cutsova (1983): “Quyền bào chữa và bảo vệ các lợi ích trong tố

tụng hình sự Xô viết”, Tạp chí luật họcBộ tư pháp-Viện Khoa học pháp lý.

41. Ths. Nguyễn Xuân Hà, Ths Lê Tiến, Nguyễn Vĩnh Long (2007), Bộ

Luật Tố tụng Hình sự nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. Thông tin khoa

học Kiểm sát – Viện Khoa học Kiểm sát, Số 3+4/2007.

42. Bộ Luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản theo bản dịch của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao năm 2012.

43. Bộ Luật Tố tụng Hình sự Cộng hòa liên bang Đức theo bản dịch của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2012.

44. Từ điển luật học (1999), Nxb từ điển Bách Khoa.

45. Từ điển Tiếng Việt (2002). NXB Đà Nẵng.

46. C.Mác – Ăngghen (1988), Về quyền con người, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội

47. “Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt

Nam” của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Hà Nội. Năm

2010.

48. Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới

bất kỳ hình thức nào (1988).

98

49. Bình luận chung số 32 của Ủy ban giám sát thực hiện Công ước quốc tế

về các quyền dân sự, chính trị về quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền

được xét xử công bằng.

50. Tòa án nhân dân tối cao. (2019). Báo cáo công tác tòa án từ đầu nhiệm

kỳ đến 2018 và nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Hà Nội.

51. Cổng thông tin điện tử Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

52. https://dantri.com.vn/xa-hoi/vu-trom-cap-tuong-phat-o-bac-giang-an-

oan-do-dung-nhuc-hinh-1384928767.htm.

99