ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐÀM THỊ HOA
QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2016
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐÀM THỊ HOA
QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành Mã số
: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ HUYỀN
Hà Nội – 2016
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đàm Thị Hoa
iii
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
BLDS: Bộ luật dân sự
BLLĐ: Bộ luật lao động
NLPLTTDS: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự
NLHVTTDS: Năng lực hành vi tố tụng dân sự
PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế
PLTTGQTCLĐ : Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động
VADS : Vụ án dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân.
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ
ÁN DÂN SỰ 7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 7
1.1.1. Khái niệm quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 7
1.1.2 Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định pháp luật về quyền tự do khởi
kiện 15
1.2 Lƣợc sử các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong
pháp luật dân sự Việt Nam 18
1.2.1. Thời kỳ Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam 18
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 19
1.2.3. Từ năm 1989 đến năm 2005: 21
1.2.4. Từ năm 2005 đến nay 22
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể 24
1.3.1 Quy định của pháp luật – yếu tố ảnh hƣởng có tính chất quyết định quyền tự
do khởi kiện của chủ thể. 25
1.3.2. Nhận thức của chủ thể - yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến thực hiện quyền
tự do khởi kiện chủ chủ thể. 26
1.3.3 Trách nhiệm của Toà án, cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết các vụ án – yếu
tố ảnh hƣởng tích cực đến thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể. 28
1.3.4 Hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức khác – yếu tố
ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể. 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 31
CHƢƠNG 2: QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO 32
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 32
2.1. Các quy định của pháp luật nội dung về quyền tự do khởi kiện 32
v
2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. 33
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 43
2.3. Bảo đảm quyền tự do khởi kiện của chủ thể thông qua các quy định về hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. 62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 73
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO
KHỞI KIỆN VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
THEP PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ 75
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự 75
3.1.1. Về kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện các quy định về quyền tự do khởi
kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam 75
3.1.2. Về những bất cập, vƣớng mắc nảy sinh trong việc thực hiện các quy định
về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam. 76
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do khởi kiện vụ án
dân sự theo pháp luật Việt Nam 85
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 91
KẾT LUẬN CHUNG 92
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền dân sự cơ bản, một
quyền năng mà pháp luật thừa nhận đối với các chủ thể trong giao lƣu dân sự. Hiến
pháp năm 2013 đƣợc kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 28/11/2013 có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014. Một trong các bƣớc tiến quan trọng của Hiến
pháp năm 2013 là đề cao nhân quyền nhƣ tổng hoà quyền con ngƣời và quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm
2013, cùng với chuyên ngành pháp luật khác, pháp luật dân sự, cụ thể Bộ luật tố tụng
dân sự và Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2015 với tƣ cách là luật chung, là cơ sở để luật
chuyên ngành xây dựng và thực hiện, hai bộ luật này có hiệu lực thi hành toàn bộ bắt
đầu từ ngày 01/01/2017 đã đặc biệt đề cao quyền con ngƣời, quyền dân sự trong đó
quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự của chủ thể pháp luật đƣợc thể hiện khá rõ nét.
Có thể nói, sau hơn 10 năm Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Bộ luật Dân sự 2005
và một số luật chuyên ngành khác có hiệu lực thi hành, các quy định về quyền tự do
khởi kiện đã bộc lộ những hạn chế nhất định, quyền khởi kiện của chủ thể chƣa đƣợc
đảm bảo triệt để do quy định của pháp luật tố tụng còn chung chung hoặc do thiếu vắng
các quy định của luật nội dung nên các cơ quan tài phán chƣa làm hết trách nhiệm của
mình dẫn đến quyền dân sự của chủ thể chƣa đảm bảo triệt để. Bộ luật Dân sự và Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015 đƣợc xây dựng trên cơ sở kế thừa và cơ bản sẽ khắc phục
đƣợc phần lớn những khiếm khuyết của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Tố tụng dân sự
2004, đề cao quyền tự do khởi kiện của các chủ thể, trách nhiệm của cơ quan tài phán
trong xử lý vụ việc, tranh chấp dân sự. Tuy nhiên những quy định về quyền tự do khởi
kiện của chủ thể pháp luật dân sự trong pháp luật dân sự hiện nay, cụ thể là trong Bộ
luật Dân sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 và Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 có hiệu lực một phần vào ngày 01/7/2016 và hiệu lực toàn bộ vào ngày
01/01/2017 và một số luật chuyên ngành khác nhƣ Luật Doanh nghiệp, Luật hôn nhân
và gia đình, luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em... chƣa thực sự đảm bảo trọn vẹn cho việc
thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể trong giao lƣu dân sự?. Nội dung Bộ luật
1
Dân sự, với các văn bản luật chuyên ngành và Bộ luật Tố tụng dân sự có đảm bảo sự
thống nhất hay vẫn còn những quy định về quyền tự do khởi kiện còn chồng chéo?
Chính từ thực trạng đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và
đầy đủ về chế định Quyền tự do khởi kiện trong pháp luật dân sự Việt Nam nhằm góp
phần hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự, đảm bảo quyền tự do khởi kiện
của chủ thể mỗi khi quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm. Với những lý
do đó, việc nghiên cứu đề tài " Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật
Việt Nam" có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một đề tài thu hút khá nhiều sinh viên, học viên,
nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu vì nó có tính ứng dụng trong thực tiễn đời sống
xã hội. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ luận văn cao học luật với đề tài
“Đƣơng sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn
Triều Dƣơng (bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2005); luận văn “Thụ lý vụ
án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009); luận văn “ Khởi kiện vụ án dân sự theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004” của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng ( bảo vệ tại
Khoa Luật Trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011) hay luận văn “ Hoàn thiện chế
định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Thu Hiền ( bảo vệ tại khoa Luật trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội năm
2012)....Tuy nhiên các công trình này cũng chỉ đề cập đến một nội dung cụ thể nào đó
của quyền khởi kiện hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về quyền khởi kiện của đƣơng
sự và chỉ nghiên cứu tập trung vào các quy định của luật tố tụng dân sự ( luật hình
thức) mà không đi sâu nghiên cứu quyền tự do khởi kiện dƣới góc độ luật nội dung và
tố tụng, các đề tài trên đều nghiên cứu trên cơ sở quy định BLTTDS năm 2004,
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành về một nội dung nào đó của quyền khởi kiện hoặc bình luận về các vụ
việc cụ thể liên quan đến quyền khởi kiện. Chẳng hạn nhƣ bài viết “Vấn đề khởi kiện
và thụ lý vụ án dân sự” của ThS. Lê Thị Bích Lan đăng tải trên Tạp chí Luật học của
2
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005); bài viết
“Xây dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh tại toà án” của tác giả Lê Thế Phúc (Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6 năm
2007); “Bàn về điều kiện khởi kiện của các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay” của tác giả Trịnh Huy Tân (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao số 9/2008); “Về việc rút đơn khởi kiện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự” của
ThS Nguyễn Triều Dƣơng (Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 11/2009); “Về điều kiện
khởi kiện tranh chấp thƣơng mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ
án cụ thể” của tác giả Ngô Đình Quyến (Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 3/2008);
"Quyền khởi kiện và việc xác định tƣ cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh
Tuấn (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2008), “Thời hạn giao nộp chứng cứ của đƣơng
sự và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền ( Tạp chí Kiểm sát số
10/2016)...
Các công trình nghiên cứu nhìn nhận, giải quyết vấn đề quyền khởi kiện ở một
góc độ khác nhau và chủ yếu tập trung nghiên cứu trên cơ sở Luật tố tụng dân sự ( luật
hình thức) mà chƣa có công trình nghiên cứu nào toàn diện, chuyên sâu cả về Luật nội
dung đến Luật hình thức về chế định quyền khởi kiện, đặc biệt hiện nay khi Hiến pháp
năm 2013 có hiệu lực thi hành, nội dung đặc biệt đề cao quyền con ngƣời, đòi hỏi các
ngành luật phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thống nhất với các quy định trong Hiến
pháp. Pháp luật dân sự không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng dân sự,
Bộ luật dân sự 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và sẽ có hiệu lực thi
hành toàn bộ kể từ ngày 01/01/2017 và nhiều luật chuyên ngành khác cũng đã đƣợc
Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành nhƣ Luật hôn nhân và gia đình... Trƣớc tình
hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt
Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu,
toàn diện và có hệ thống về quyền khởi kiện vụ án dân sự của chủ thể trong pháp luật
dân sự.
3
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận cũng nhƣ
thực tiễn nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự do khởi
kiện vụ án dân sự, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý, chƣa thống nhất
trong các quy định hiện hành của pháp luật về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ phạm vi quyền tự do khởi kiện của
chủ thể khởi kiện, trách nhiệm cơ quan nhà nƣớc trong việc bảo đảm quyền tự do khởi
kiện của chủ thể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện vụ
án dân sự nhằm đảm bảo quy định thống nhất quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự của
cá nhân, cơ quan, tổ chức khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự .
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện vụ
án dân sự, phạm vi quyền khởi kiện và thực thi quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Toà
án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý, chƣa thông nhất trong các quy định
của pháp luật Việt Nam về quyền tự do khởi kiện Vụ án dân sự;
- Đƣa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền
tự do khởi kiện Vụ án dân sự.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quyền tự do khởi kiện Vụ án dân sự của chủ
thể và trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm
thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ
thể trong thực thi giải quyết nội dung khởi kiện Vụ án dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ
chức dƣới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi sau đây:
4
Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự Việt Nam và một số luật chuyên ngành về
quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự.
Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự do khởi kiện vụa án
dân sự trong đó tập trung nghiên cứu Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự 2015 và
một số luật chuyên ngành khác nhƣ Luật doanh nghiệp, Luật hôn nhân và gia đình,
Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em......; Đề tài đƣợc nghiên cứu trong giai đoạn BLTTDS
2004 và BLDS 2005 sắp hết hết hiệu lực thi hành trong khi BLTTDS và BLDS 2015
đã đƣợc Quốc hội thông qua và đã có hiệu lực hoặc có hiệu lực một phần. Do vậy luận
văn sẽ đi sâu phân tích , đánh giá khoa học, có sự so sánh giữa các quy định của luật cũ
và mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành luật BLDS 2005 và BLTTDS năm 2004
để tìm ra những điểm bất cập trong quy định của BLDS và BLTTDS năm 2015. Vấn
đề thực thi quyền khởi kiện đang áp dụng thông qua các hoạt động tố tụng dân sự tại
Tòa án theo BLTTDS năm 2004 và BLDS năm 2005 và những ngành luật chuyên
ngành khác, đề xuất giải pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu đề tài trên, tác giả tiến hành nghiên cứu
dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của
đề tài, luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác
nhƣ phƣơng pháp phân tích hệ thống; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp so sánh;
phƣơng pháp thống kê...v.v.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền tự do khởi kiện
trong đó tập trung nghiên cứu nội dung quyền tự do khởi kiện, chủ thể thực hiện quyền
khởi kiện và chủ thể trực tiếp giải quyết nội dung khởi kiện theo pháp luật dân sự Việt
Nam. Với việc nghiên cứu quyền khởi kiện một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý
luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện lần đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về các
quy định của pháp luật quyền khởi kiện ở cả luật hình thức và luật nội dung nhằm chỉ
5
ra thực trạng thực thi quyền khởi kiện cũng nhƣ những bất cập, vƣớng mắc trong việc
thực hiện pháp luật, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
quyền khởi kiện trong pháp luật dân sự, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự
do khởi kiện trên thực tế. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, nếu luận văn đƣợc bảo vệ
thành công thì sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho cơ quan tƣ pháp trong thực thi Bộ
luật Tố tụng dân sự , Bộ luật dân sự năm 2015 và một số luật chuyên ngành.
6. Địa điểm nghiên cứu:
Luận văn đƣợc giới hạn phạm vi nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết
cầu bởi 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
Chƣơng 2: Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn thực thi quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật
Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUYỀN TỰ DO KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1.1 Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
“ Khởi kiện là hành vi đầu tiên của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự „ [3, tr 230]. Thống nhất với quan điểm trên, theo TS. Hoàng Ngọc Thỉnh
thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể…Việc
thực hiện quyền này của các chủ thể được gọi là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi
kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tố chức hoặc các chủ thể khác theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác”[4, tr238]. Khởi kiện trƣớc hết
là quyền dân sự của các chủ thể, là phƣơng thức mà các chủ thể yêu cầu toà án bảo vệ
quyền dân sự cho mình, cho nhà nứớc hoặc ngƣời khác. Quyền dân sự này đƣợc pháp
luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện nó đƣợc thể hiện bằng việc toà án xem xét, thụ lý
và giải quyết.
Khi Nhà nƣớc ra đời thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
đƣợc ghi nhận bằng pháp luật của Nhà nƣớc và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết
chế do Nhà nƣớc thiết lập. Theo đó, quyền khởi kiện của cơ quan tổ chức, cá nhân đã
đƣợc pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nƣớc quy định bảo
vệ quyền, lợi hợp pháp của mình.
Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của công
dân La Mã. Theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tƣ pháp của cá nhân thì ngƣời có
quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự trấn áp, họ còn có quyền
khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Ngƣời bị vi phạm có thực
7
hiện quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào
ý chí của ngƣời đó [4, tr 212].
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, quyền khởi kiện đƣợc ghi nhận là một
quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ƣớc
quốc tế khác. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền
con ngƣời và suy cho cùng thì quyền khởi kiện là quyền của một chủ thể trong mối
quan hệ xã hội đƣợc pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi
ích hợp pháp của mình đƣợc thực hiện.
Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng đƣợc
thừa nhận đối với cá nhân đƣợc yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt đƣợc sự tôn
trọng các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển thuật ngữ luật học của
Pháp thì tố quyền trƣớc công lý là khả năng đƣợc thừa nhận đối với các chủ thể đƣợc
cầu viện tới công lý để đạt đƣợc sự tôn trọng các quyền lợi và lợi ích chính đáng. Theo
Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố quyền” đƣợc
dịch là quyền tham gia tố tụng theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với ngƣời có yêu
cầu là quyền đƣợc trình bày về nội dung yêu cầu của mình để Thẩm phán quyết định
xem xét yêu cầu nhƣ vậy là có căn cứ hay không có căn cứ; đối với bên bị kiện quyền
tham gia tố tụng là quyền đƣợc tranh luận về căn cứ của yêu cầu do bên kia đƣa ra”[4,
tr23].
Ở Việt Nam, về phƣơng diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh cho rằng
“tố quyền tức là có quyền đi kiện”[6, tr23]. TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định
trong Giáo trình Luật tố tụng dân của trƣờng Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng “Quyền
khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội
yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể của Nhà
nƣớc hay của ngƣời khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm”[7, tr109-110]. Khái niệm
này dƣờng nhƣ không đề cập tới các việc không có tranh chấp nhƣng nghiên cứu về
khái niệm vụ án dân sự trong Giáo trình này” [7,tr6-7], Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự 1989 và thực tiễn tố tụng tại Toà án thì có thể khẳng định trong
khái niệm trên quyền khởi kiện đƣợc thực hiện đối với cả các việc dân sự không có
tranh chấp.
8
Trong lịch sử pháp lý nƣớc ta, có thời kỳ khái niệm quyền khởi kiện đƣợc hiểu
theo nghĩa rất rộng và đồng nhất với quyền yêu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
BLTTDS hiện nay. Theo đó, quyền khởi kiện đƣợc hiểu là khả năng Nhà nƣớc cho
phép công dân đƣợc yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận
một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao
động. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa BLTTDS 2004, BLTTDS năm 2015 đã tách thủ
tục giải quyết vụ án dân sự trƣớc đây thành hai thủ tục tố tụng riêng biệt là thủ tục giải
quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự nên khái niệm quyền khởi kiện
đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn trƣớc đây, quyền khởi kiện vụ án dân sự không còn bao
hàm cả quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự kiện
pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao
động nhƣ trƣớc đây nữa mà quyền khởi kiện vụ án dân sự đƣợc hiểu là quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong vụ án dân sự.
TheoTS. Phan Chí Hiếu thì: “quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của
cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của
Nhà nƣớc, tập thể hay của ngƣời khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” [7, tr305].
Nhƣ vậy, quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong phạm vi quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nƣớc thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ
chức của mình phụ trách khi quyền, lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc có tranh
chấp. Các phân tích ở trên cho thấy rằng xét về bản chất thì quyền khởi kiện là quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm.
Theo những kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của quyền khởi kiện vụ án dân
sự là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi
phạm. Ở đây cần phân biệt khái niệm vụ án dân sự và việc dân sự.
Trƣớc khi BLTTDS 2004 đƣợc ban hành đã tồn tại ba khái niệm vụ án dân sự, vụ
án kinh tế và vụ án lao động. Khái niệm vụ án dân sự không bao gồm các tranh chấp
phát sinh từ quan hệ lao động, kinh doanh, thƣơng mại, Vụ án dân sự chỉ bao gồm
9
những tranh chấp và những việc không có tranh chấp về dân sự và hôn nhân gia đình
nhƣ: tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc
những việc tranh chấp khác; việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết... mà đƣợc
tòa án thụ lý giải quyết.
BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015 đều không đƣa ra khái niệm về vụ án
dân sự mà chỉ liệt kê những loại việc nào đƣợc xác định là vụ án dân sự, loại việc nào
đƣợc xác định là yêu cầu dân sự, cụ thể tại điều 1 BLTTDS năm 2015 quy định “Bộ
luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự,
thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây
gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về
yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi
chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây
gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án;”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu, Vụ án dân sự là các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan,
tổ chức về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định
của pháp luật TTDS. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nội dung khởi kiện vụ án dân
sự mà không nghiên cứu về yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự.
Chủ thể của quyền khởi kiện là ai? Hay ai là ngƣời có thể thực hiện quyền khởi
kiện? Có 2 quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền khởi kiện.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền lợi của nguyên đơn. Điều 68 khoản 2 BLTTDS năm 2015 quy định:
“ Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa
án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng
là nguyên đơn.”
10
Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của
chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền
này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án. Xét về thực chất thì đây là quyền của chủ
thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu việc kiện để bảo vệ quyền lợi của
mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vụ án dân sự. Đó là
quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Chính việc
khởi kiện của của nguyên đơn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự, không có hành vi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự thì không
có quá trình tố tụng tiếp theo. Nhƣ vậy, việc xác định quyền khởi kiện của nguyên đơn
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tƣ cách của các đƣơng sự khi họ tham gia tố
tụng tại Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng quyền khởi kiện là ngoài quyền yêu cầu Toà án bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn còn quyền phản tố (kiện ngƣợc lại) của bị đơn và quyền
yêu cầu độc lập Toà án bảo vệ quyền lợi của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do
họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của mình trƣớc khi nguyên đơn khởi kiện vụ án.
Nguyên đơn có quyền khởi kiện và bị đơn có quyền phản bác việc khởi kiện của
nguyên đơn. Bên cạnh đó, quyền phản tố của bị đơn cũng cần đƣợc pháp luật ghi nhận.
Điều này xuất phát từ sự bình đẳng giữa các đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp có mối liên quan đến
nhau thì bị đơn có quyền đƣa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và ngƣời có yêu
cầu độc lập và yêu cầu này có thể đƣợc Toà án xem xét giải quyết trong cùng vụ án với
yêu cầu của nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập khi thoả mãn những điều kiện
nhất định. Thực chất của phản tố là một việc kiện ngƣợc lại của bị đơn đối với nguyên
đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập nhƣng đƣợc xét cùng với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhƣ
vậy, xét theo nghĩa rộng về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện thì có thể
xem quyền phản tố cũng là quyền khởi kiện nhƣng là quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị
đơn đối với nguyên đơn và ngƣời có yêu cầu độc lập do các yêu cầu này có mối liên hệ
nhất định.
11
Cũng theo góc nhìn về sự bình đẳng giữa các đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền
lợi của mình thì ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có
quyền đƣa ra yêu cầu độc lập của mình trong vụ án đã đƣợc thiết lập giữa nguyên đơn
và bị đơn. Yêu cầu tố tụng này có thể chống nguyên đơn, bị đơn hoặc chống cả nguyên
đơn và bị đơn. Bản chất của yêu cầu độc lập này là một yêu cầu tố tụng của ngƣời thứ
ba nhằm bảo vệ quyền lợi của mình đang bị tranh chấp hay vi phạm trong một vụ án đã
phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn. Khi nghiên cứu về vấn đề này TS. Nguyễn Công
Bình cho rằng: “Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của ngƣời có quyền và nghĩa vụ
liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn và
bị đơn. Thông thƣờng ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập
có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhƣng do vụ án dân sự đã xuất hiện
giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn”
[2, tr108].
Xét về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi kiện
ngƣợc lại của bị đơn, quyền yêu cầu của ngƣời có quyền nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn hoặc chỉ chống lại
nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.
Nhất trí với quan điểm thứ hai về chủ thể quyền khởi kiện, luận văn nghiên cứu
chủ thể quyền khởi kiện bao hàm quyền khởi kiện của nguyên đơn, quyền phản tố hay
quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn, quyền có yêu cầu độc lập hay quyền khởi kiện
chống lại nguyên đơn, bị đơn hay chống cả nguyên đơn, bị đơn của ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình khi mà vụ án giữa
nguyên đơn và bị đơn đã đƣợc thiết lập.
Nhƣ vậy theo pháp luật Việt Nam, khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ
quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp
đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác hay bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước.
12
1.1.1.2 Khái niệm, đặc điểm về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
Wikipedia tiếng Việt “ Quyền tự do „hoặc “ tự do „ là một khái niệm dùng trong
triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để
lựa chọn, hành động theo đúng ý chí và nguyện vọng của chính mình [10].. Có thể
hiểu, tự do gồm có hai thành tố quan trọng nhất là tự do nhận thức và tự do hành động
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, Ở phƣơng Tây, ngƣời ta cho rằng, tự do là một
quyền tự nhiên, là không gian vốn có của mỗi con ngƣời, và do đó, Nhà nƣớc dân chủ
là kết quả của sự nhƣợng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ để nhà nƣớc có
vốn liếng điều hành xã hội. Từ đó, có thể khẳng định, sự tự nguyện nhƣợng bớt một
phần tự do cá nhân cho chính phủ nhƣ một hình thức góp vốn chính là bản chất khế
ƣớc xã hội. Điều hành đất nƣớc bằng pháp luật, hay các khế ƣớc xã hội chính là điểm
ƣu việt của phƣơng thức quản lý theo mô hình dân chủ.
Russeau viết “Với khế ƣớc xã hội, con ngƣời mất đi cái tự do thiên nhiên và hạn
chế cái quyền đƣợc làm những điều muốn làm mà làm đƣợc; nhƣng mặt khác, con
ngƣời thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có” [1, tr46].
Hết thảy con ngƣời khi sinh ra đều bình đẳng, và đƣợc tự nhiên ban cho những quyền
không thể phủ nhận, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh
phúc. Để đảm bảo những quyền này, các nhà nƣớc đƣợc hình thành trên cơ sở sự đồng
thuận của các thành viên trong một xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một
khái niệm rất nhân văn, nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con ngƣời (nói
riêng). [1, tr46] Điều này đƣợc thể hiện trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
ngƣời năm 1948 (đoạn 1 lời nói đầu) đã ghi rõ rằng:... thừa nhận phẩm giá vốn có và
các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại.
Ở góc độ quốc gia, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776
ghi rằng:“ mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có hể xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự
do và quyền mƣu cầu hạnh phúc „ những quyền này còn đƣợc thể hiện trong Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789 và Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của
Việt Nam. Có thể hiểu quyền tự do của con ngƣời là quyền tự nhiên, vốn có nhƣng
trong khuôn khổ pháp luật của mỗi nhà nƣớc.
13
Quyền tự do khởi kiện có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Quyền tự do khởi kiện đƣợc thể hiện ở quyền tự quyết định có khởi
kiện hay không khởi kiện khi quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Giáo sƣ
Serge Guinchard – một tố tụng gia đầu ngành của Pháp cho rằng, cần phân biệt các bên
đƣơng sự trong vụ kiện với chủ thể của tố quyền, những chủ thể có tố quyền chỉ trở
thành đƣơng sự trong tố tụng, kể từ ngày họ thực hiện quyền đi kiện của mình bằng
một đơn kiện; ngƣợc lại, ngƣời ta có thể là một bên đƣơng sự trong vụ kiện mà không
là chủ thể của tố quyền, đó là trƣờng hợp nguyên đơn kiện nhƣng sau đó bị phủ nhận
quyền khởi kiện bằng một bản án, do không có lợi ích trong việc kiện, hoặc trƣờng hợp
ngƣời bị đòi ra toà với tƣ cách là bị đơn trong vụ kiện, nhƣng vụ kiện này kết thúc bởi
một phán quyết bác bỏ tƣ cách bị đơn của họ[8, tr506].
Để thực hiện đƣợc quyền tự do khởi kiện của mình, chủ thể quyền khởi kiện phải
đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện đầu tiên phải đƣợc kể đến đó là
điều kiện về chủ thể. Chủ thể muốn thực hiện việc khởi kiện thì phải có năng lực pháp
luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS).
NLPLTTDS là khả năng pháp luật quy định cho cá nhân, cơ qua, tổ chức có những
quyền và nghĩa vụ trọng TTDS. NLPLTTDS đƣợc coi là điều kiện đầu tiên đồng thời
là điều kiện cần để một chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, từ đó một chủ
thể chỉ có quyền tham gia tố tụng dân sự khi đƣợc pháp luật thừa nhận có NLPLTTDS.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự là một phạm trù có liên quan đến yếu tố chủ quan nhƣ
khả năng nhận thức, khả năng hành động, ý chí và lý trí, là khả năng của đƣơng sự
trong việc tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho ngƣời
đại diện tham gia tố tụng.
Đối với cá nhân thì năng lực hành vi tố tụng của họ đƣợc xác định trên cơ sở khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân trong việc tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc quy định điều kiện về năng lực hành vi của cá
nhân để họ có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện là nhằm bảo đảm cho ngƣời có
quyền lợi có thể thể hiện ý chí đích thực của mình trong việc bảo vệ quyền lợi trƣớc
Toà án. Tuy nhiên, đối với những đƣơng sự có đủ năng lực hành vi để thực hiện quyền
khởi kiện nếu vì những lý do khác nhau mà họ không thể thực hiện đƣợc quyền khởi
14
kiện thì pháp luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện quyền này
thông qua cơ chế uỷ quyền cho ngƣời khác đại diện thay mặt mình khởi kiện trƣớc Toà
án. Việc cho phép đƣơng sự thực hiện quyền khởi kiện thông qua đại diện theo ủy
quyền là phƣơng tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho đƣơng sự bằng nhiều hình
thức khác nhau có thể thực hiện quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, quyền tự do khởi kiện là quyền năng của chủ thể mà không ai có quyền
quyết định hay hạn chế một cách tùy tiện kể cả nhà nƣớc. Trong giao lƣu dân sự, khi
quyền và lợi ích bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp các chủ thể có quyền khởi kiện
mà không bị bất kỳ một cá nhân, tổ chức hay cơ quan nhà nƣớc nào đƣợc phép cản trở
hoặc hạn chế một cách tùy tiện.
Thứ ba, quyền tự do khởi kiện thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể, ý chí này
đƣợc thể hiện trong nhận thức và hành động, không bị ai ép buộc .
Thứ tư, chủ thể có quyền tự do khởi kiện nhƣng quyền khởi kiện đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Quyền tự do của chủ thể
đƣợc đặt trong mối quan hệ với quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội để
đảm bảo một điều rằng, chủ thể có thể tự do thực hiện quyền khởi kiện nhƣng không
phải lúc nào chủ thể cũng có thể kiện và kiện bất kỳ điều gì. Suy cho cùng, quyền tự do
khởi kiện bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật, những quy định này đƣợc xây
dựng trên cơ sở xem xét đến lợi ích chung của cộng đồng xã hội.
Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự có thể đƣợc hiểu là chủ thể được tự quyết
định thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hay bảo vệ lợi ích công
cộng , lợi ích Nhà nước theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự.
1.1.2 Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định pháp luật về quyền tự do khởi
kiện
Quyền và lợi ích của các chủ thể là động lực để các chủ thể tham gia vào các
quan hệ xã hội. Trong giao lƣu dân sự, quyền và lợi ích của các bên đƣợc xem nhƣ là
tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự“ Tranh chấp pháp lý sẽ không thể xuất hiện, nếu
15
không có yêu cầu khởi kiện của các bên „ Nhƣ vậy quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể là cơ sở để các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện. Các quyền và lợi ích này có
thể là các quyền về tài sản hoặc quyền nhân thân. Tự do khởi kiện vụ án dân sự chính
là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ các quyền dân sự của chủ thể. Cơ sở để pháp
luật quy định khởi kiện vụ án xuất phát từ nguyên tắc quyền dân sự của cá nhân đƣợc
tôn trọng và bảo vệ. Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 có ghi “Mọi
ngƣời đều có quyền đƣợc bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phƣơng
tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã đƣợc
Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Nhƣ vậy, quyền khởi kiện đƣợc ghi nhận trong
pháp Luật quốc tế và là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống
pháp luật mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, nếu nhƣ Hiến pháp 1992 của nƣớc CHXHCN Việt Nam, quyền khởi
kiện đƣợc ghi nhận gián tiếp tại Điều 50: “Ở nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con ngƣời về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội đƣợc tôn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và đƣợc quy định trong Hiến pháp và luật” thì đến Hiến
Pháp 2013 quyền con ngƣời, quyền dân sự đƣợc đề cao, khẳng định trực tiếp, rõ nét
hơn tại điều 14 Hiến pháp 2013:
“ 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. „
Tuy nhiên, dù là đạo luật cơ bản nhƣng để Hiến pháp đi vào cuộc sống, phát huy
tác dụng thì cần phải có một hệ thống văn bản luật và dƣới luật thực sự đồng bộ, phù
hợp với tinh thần của Hiến pháp. Các quy định của Hiến pháp cũng chỉ là quy định “
treo „ nếu không đƣợc luật hóa một cách chính xác và cụ thể. Trên cơ sở quy định của
Hiến pháp năm 2013, một loạt các văn bản Luật và dƣới luật đã đƣợc sửa đổi bổ sung
đã đƣợc Quốc hội thông qua, quyền khởi kiện của các chủ thể đƣợc ghi nhận cụ thể
trong các văn bản pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng. Trên cơ sở quy định
16
BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 quy định cụ thể, chính xác và đầy đủ hơn quyền
dân sự trong đó có quyền tự do khởi kiện của chủ thể:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng. (Điều 2 BLDS năm 2015).
Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự
bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền: Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình;
Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện
nghĩa vụ; Buộc bồi thƣờng thiệt hại; Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan,
tổ chức, ngƣời có thẩm quyền; Yêu cầu khác theo quy định của luật.
Việc ghi nhận quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự chính là công cụ hữu hiệu để
bảo vệ quyền dân sự của chủ thể trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên
quan. Có thể nói khởi kiện là“ phƣơng thức luật định mở rộng cho hết thảy những ai
muốn cầu cứu đến công lý, để xin che chở quyền lợi lâm nguy „[30, tr109].
Tuy nhiên để thực hiện quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể của quyền
khởi kiện phải chứng minh giữa chủ thể và ngƣời bị kiện trƣớc đó đã tồn tại quan hệ
pháp luật dân sự mà theo quan hệ pháp luật này chủ thể quyền khởi kiện bị ảnh hƣởng,
xâm phạm về quyền và lợi ích.Việc chứng minh đƣợc thể hiện ở việc cung cấp tài liệu
chứng cứ chứng minh quan hệ pháp luật dân sự giữa các bên. Điều này đƣợc quy định
trong các luật về nội dung nhƣ Bộ luật dân sự; Luật Doanh nghiệp, Luật bảo vệ và
chăm sóc trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình......
Ngoài điều kiện chứng minh quyền và lợi ích bị xâm phạm thì điều kiện tƣ cách
pháp lý của chủ thể có cho phép chủ thể đƣợc đứng đơn khởi kiện hay không? Bộ luật
tố tụng dân sự 2015 đƣợc ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định Bộ luật tố tụng dân
sự 2005 đã quy định cụ thể về chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự. Thông
thƣờng chủ thể của quyền khởi kiện là nguyên đơn, ngƣời có quyền và lợi ích hợp
pháp bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp. Để thực hiện đƣợc quyền tự do khởi kiện,
17
chủ thể phải có đủ NLPLTTDS và NLHVTTDS. Để thực hiện quyền tự do khởi kiện,
chủ thể phải đảm bảo độ tuổi do luật định, từ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức,
làm chủ đƣợc hành vi của mình, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Đối với những
ngƣời mất năng lực hành vi dân sự hoặc dƣới 15 tuổi việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ trƣợc tòa phải do ngƣời đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Đối với ngƣời
từ đủ 15 đến chƣa đủ 18 tuổi, trong điều kiện nhất định nhƣ đã tham gia độc lâp quan
hệ dân sự trƣớc đó, có tài sản riêng vẫn có thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự với tƣ
cách chủ thể độc lập.
Ngoài ra yêu cầu, vụ việc đƣợc khởi kiện chƣa đƣợc giải quyết bằng một bản án
hay quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nƣơc có thẩm quyền đã có
hiệu lực pháp luật, trừ các trƣờng hợp đặc biệt; việc thực hiện quyền tự do khởi kiện
phải tuân thủ các điều kiện khác nhƣ đúng thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, thẩm
quyền xét xử và các điều kiện về hình thức khởi kiện. Tất cả những điều kiện trên đƣợc
quy định cụ thể trong Bộ LTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015.
1.2 Lƣợc sử các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền khởi kiện của chủ thể có thể nói đƣợc thể hiện rõ nét, cụ thể nhất trong hệ
thống pháp luật về tố tụng và một số quy định trong pháp luật dân sự, do vậy luận văn
tập trung nghiên cứu kỹ quyền khởi kiện qua các thời kỳ chủ yếu trong pháp luật tố
tụng dân sự.
1.2.1. Thời kỳ Nhà nước phong kiến Việt Nam
Quyền khởi kiện đƣợc ghi nhận một cách gián tiếp trong Bộ Luật Hồng Đức và
Bộ Luật Gia Long. Tuy nhiên, những quy định trong các Bộ luật này thể hiện quyền
khởi kiện không có sự phân biệt các vụ kiện về dân sự hay hình sự, tất cả các hành vi
vi phạm pháp luật đều bị các chế tài về hình sự kể cả những vụ việc mà ngày nay
chúng ta coi chỉ có tính chất dân sự.
Căn cứ để khởi kiện là các hành vi phạm tội đƣợc ghi nhận trong luật Hồng Đức
và Luật Gia Long. Ngƣời đứng đơn khởi kiện đƣợc gọi là nguyên cáo, là ngƣời có
quyền lợi bị xâm phạm phải chứng minh đƣợc quyền khởi kiện của mình bằng việc đƣa
18
ra những bằng chứng và chứng cứ để chứng minh về cơ sở của việc kiện. Chẳng hạn,
khởi kiện về điền thổ phải có văn tự, về tài sản phải có chúc thƣ, về nợ phải có giấy tờ
ghi nhận nợ.
Ngƣời bị nguyên cáo kiện đƣợc gọi là bị cáo, cũng có quyền phản đối yêu cầu của
nguyên cáo bằng hình thức tƣơng tự, đƣa ra bằng chứng chứng minh làm cơ sở cho
việc phản đối nộp cho nha môn. Nhƣ vậy, Cổ luật Việt Nam đã có những quy định cơ
bản về điều kiện khởi kiện. Tuy nhiên, Cổ luật cũng có những quy định hạn chế quyền
khởi kiện của các thành viên trong gia đình. Cụ thể là cấm con cháu kiện ông bà, cha
mẹ, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng (Điều 511 Luật Hồng Đức, Điều 306 Luật Gia
Long); con cháu cũng không đƣợc tố cáo ông bà cha mẹ, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ
chồng (Điều 504 Bộ Luật Hồng Đức, Điều 304 Bộ luật Gia Long)...v.v. Chính các quy
định này đã hạn chế quyền khởi kiện của công dân.
Trong thời kỳ Pháp thuộc thì các Bộ luật dân sự đƣợc áp dụng riêng rẽ cho ba kỳ.
Các bộ luật quan trọng ta phải kể đến đến đó là Bộ Luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu ra
đời năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng
Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm 1936. Các Bộ luật trên đều ghi nhận quyền công
dân trong lĩnh vực dân sự.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Trong thời kỳ đầu của cách mạng Tháng 8 năm 1945 Nhà nƣớc ta chủ yếu ban
hành các sắc lệnh nhƣ Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữ tạm thời những luật
lệ hiện hành của chế độ cũ. Sau đó, Nhà nƣớc đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh trong
lĩnh vực dân sự quyền dân sự, quyền khởi kiện đã đƣợc ghi nhận cụ thể, trong đó phải
kể đến Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950“ Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân
luật „ có một ý nghĩa đặc biệt đặt cơ sở, những nguyên tắc cho sự hình thành và phát
triển của dân luật. Đó là nguyên tắc“ Những quyền dân sự đều đƣợc luật bảo vệ khi
ngƣời ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân „ ( Điều 1) hoặc nhƣ“ ngƣời ta
chỉ đƣợc hƣởng dụng và sử dụng các vật thộc quyền sở hữu của mình một cách hợp
pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân „ ( Điều 12)... Trong lĩnh vực
tố tụng Nhà nƣớc ban hành các Sắc lệnh cho phép Tòa án áp dụng thủ tục tố tụng để
19
giải quyết tranh chấp dân sự nhƣ: Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa
án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh 52/SL ngày 17/04/1946 quy định thẩm quyền của
các Tòa án; Sắc lệnh 112/SL ngày 28/06/1946 bổ sung Sắc lệnh 51; Sắc lệnh 130/SL
ngày 19/07/1946 quy định về thể thức thi hành án; Sắc lệnh 85/SL ngày 22/05/1950 cải
cách bộ máy tƣ pháp và tố tụng; Sắc lệnh 159/SL ngày 07/11/1950 quy định về vấn đề
ly hôn. Tuy nhiên, trong điều kiện kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1954 các Sắc
lệnh do Nhà nƣớc ban hành chủ yếu quy định chung quyền dân sự, về thủ tục tố tụng
mà không có quy định cụ thể về quyền khởi kiện.
Sau khi Hiến pháp 1959 đƣợc ban hành, Điều 22 Hiến pháp năm 1959 đã ghi
nhận nguyên tắc “ Công dân nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trƣớc
pháp luật” các BLDS của phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc hết hiệu lực thi hành bởi
Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1959 “ Về vấn đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của
phong kiến đế quốc”, trong giai đoạn này các văn bản pháp luật đƣợc ban hành dƣới
dạng Nghị định của Chính phủ , Quýet định của thủ tƣớng chính phủ về kinh tế, không
có văn bản dƣới luật mang tính dân sự, các quy định này mang nặng tính chất hành
chính, không có quy định điều chỉnh vấn đề thừa kế....Việc giải quyết các vụ án căn cứ
chủ yếu vào các Thông tƣ, chỉ thị, nghị quyết của TAND tối cao.
Trong lĩnh vực tố tụng Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, mọi công
dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật nhƣ Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện Kiểm
sát đã ghi nhận và đảm bảo đầy đủ nguyên tắc đó.
Để cụ thể hóa nguyên tắc trên Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có hƣớng dẫn về
quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự tạo cơ sở cho việc áp
dụng trên thực tế quyền này của công dân. Các văn bản tố tụng đƣợc ban hành thời kỳ
này trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện.
Đó là công văn số 1111/NCLP ngày 13/07/1963 của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục
xử chia tài sản ly hôn đối với ngƣời mất trí; công văn số 05/NCLP ngày 29/06/1966
của Tòa án nhân dân tối cao về tƣ cách bị đơn; Thông tƣ số 39/NCLP ngày 21/01/1972
của Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn về thụ lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về
hôn nhân và gia đình và tranh chấp dân sự; Công văn số 96/NCLP ngày 08/02/1977
20
của Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự. Sau này
Công văn số 546/DS ngày 07/07/1989 về quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức vì lợi
ích của Nhà nƣớc có quy định khi Viện kiểm sát khởi tố vụ kiện thì cần đƣa cơ quan
Nhà nƣớc hoặc hợp tác đứng vào vai trò nguyên đơn trong vụ kiện vì họ là đƣơng sự
chính trong vụ kiện. Tiếp đến là công văn số 05/NCLP ngày 29/06/1986 của Tòa án
nhân dân tối cao về tƣ cách của bị đơn trong vụ kiện dân sự; Nghị quyết 01/NQ/H ĐTP
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 20/01/1988.
Có thể nhận xét trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1989, vấn đề quyền khởi kiện
tiếp tục đƣợc ghi nhận và củng cố. Tuy nhiên để xác định chủ thể có quyền khởi kiện
thì cần phải căn cứ vào pháp luật nội dung, trong đó sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể khi tham gia các quan hệ cụ thể, từ đó mới xác định đƣợc chủ thể mang
quyền và chủ thể có nghĩa vụ. Các văn bản này cũng đề cập đến việc thực hiện quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. Theo đó, nguyên đơn có đủ tƣ cách để đi kiện
phải là ngƣời có năng lực hành vi dân sự và có quyền lợi bị xâm phạm.
1.2.3. Từ năm 1989 đến năm 2005:
Kế thừa và phát triển các quy định về pháp luật dân sự của giai đoạn trƣớc đó,
Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật dân sự nhƣ Pháp lệnh Hợp đồng dân
sự năm 1991, Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp, pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989,
pháp lệnh Thừa kế năm 1990....., Bộ luật dân sự năm 1995 đƣợc ban hành đã thay thế
một loạt các pháp lệnh trƣớc đó trong lĩnh vực dân sự, quyền khởi kiện của cá nhân, cơ
quan, tổ chức đƣợc hình thành, ghi nhận rõ nét hơn.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự Nhà nƣớc đã ban hành ba Pháp lệnh về thủ tục tố
tụng. Đó là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) ngày
29/11/1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) ngày
06/03/1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ)
ngày 11/04/1996. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng về tố tụng dân sự, trong
đó có những quy định liên quan đến quyền khởi kiện của chủ thể.
PLTTGQCVADS 1989 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực thi
quyền khởi kiện của công dân trên thực tế. Điều 1 Pháp lệnh này quy định: “Công dân,
21
pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình”. Điều 34 quy định về phạm
vi khởi kiện, theo đó một ngƣời có thể khởi kiện đối với một ngƣời về một hoặc nhiều
yêu cầu khác nhau, một ngƣời có thể khởi kiện đối với nhiều ngƣời hoặc nhiều ngƣời
có thể khởi kiện một ngƣời về cùng một quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định
của Pháp lệnh năm 1989, trình tự thủ tục giải quyết những vụ việc phát sinh tranh chấp
và không phát sinh tranh chấp đều đƣợc giải quyết theo một thủ tục chung.
PLTTGQCVAKT 1994 và PLTTGQTCLĐ 1996 đã tách hai mảng kinh tế và lao
động ra khỏi trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo quy định của
PLTTQGCVADS năm 1989. Hai Pháp lệnh này về cơ bản đƣợc xây dựng trên cơ sở
PLTTGQCVADS năm 1989 nên các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền
khởi kiện về cơ bản tƣơng tự nhƣ trong PLTTGQCVADS. PLTTQGCVAKT năm
1994 không quy định quyền khởi tố vụ án kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy
nhiên, theo Điều 28 PLTTQGCTCLĐ 1996 thì “đối với những vi phạm pháp luật liên
quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động là ngƣời chƣa thành niên,
ngƣời tàn tật và các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác, nếu không có ai khởi kiện
thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố”.
Có thể nói pháp luật tố tụng thời gian này với ba pháp lệnh riêng rẽ với các thủ
tục khác nhau, đã gây rất nhiều khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện quyền khởi kiện
bởi ngƣời dân vốn hạn chế về kiến thức pháp luật nay lại phải chịu sự phức tạp của các
quy định nên quyền tự do khởi kiện của chủ thể còn nhiều hạn chế.
1.2.4. Từ năm 2005 đến nay
Quyền khởi kiện của chủ thể trong giao lƣu dân sự đã đƣợc ghi nhận tƣơng đối rõ
nét đồng bộ trong cả lĩnh vực luật nội dung và luật tố tụng. BLTTDS năm 2004 có hiệu
lực từ ngày 1/1/2005 đã thay thế ba pháp lệnh PLTTGQCVADS. PLTTQGCVAKT,
PLTTGQCTCLĐ cùng với nó là BLDS năm 2005 đƣợc ban hành và có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/2006 đã ghi nhận quyền khởi kiện của các tổ chức, cá nhân trong các
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, thƣơng mại và lao động. Trong lĩnh vực luật nội
dung, Bộ luật dân sự năm 2005 đã có quy định có tính nguyên tắc bảo đảm quyền khởi
22
kiện của chủ thể“ Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác đƣợc
tôn trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ.
Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ
theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
Công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc xin lỗi
cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thƣờng thiệt hại „ (Điều
9 BLDS năm 2005).
Trong lĩnh vực tố tụng, BLTTDS năm 2004 đã quy định về hai trình tự khác
nhau là trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và trình tự thủ tục giải quyết các
việc dân sự không có tranh chấp. Theo đó các quy định về quyền khởi kiện, quyền yêu
cầu và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện cũng có nhiều thay đổi.
Trong quá trình thực thi BLTTDS 2005, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với
các cơ quan hữu quan xây dựng, ban hành các văn bản hƣớng dẫn các quy định của
BLTTDS. Cụ thể là Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 hƣớng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS;
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005hƣớng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”; Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12-5-2006 hƣớng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS; Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-
8-2006 hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải quyết các
vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS; Thông tƣ liên tịch số 03/2005/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Kiểm sát viên trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự; Thông tƣ liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-
BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28-12-2007 Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng
dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng. Các văn bản
trên đóng vai trò quan trọng trong việc cụ thể hoá BLTTDS, hƣớng dẫn áp dụng thống
23
nhất BLTTDS trên phạm vi toàn quốc, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền khởi
kiện trên thực tế.
Tuy nhiện, sau hơn 10 năm BLTTDS 2004 và BLDS năm 2005 có hiệu lực thi
hành đã bộc lộ những hạn chế, vƣớng mắc cần phải khắc phục sửa đổi nhƣ: vấn đề thời
hiệu khởi kiện, sự thống nhất quy định giữa các luật nội dung, quyền khởi kiện của các
chủ thể trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng...., nhiều quy định không còn phù
hợp với nội dung của Hiến pháp năm 2013 và tiến trình hội nhập quốc tế ngày nay, đặc
biệt quyền tự do khởi kiện của chủ thể còn bị hạn chế phần nhiều do thiếu vắng các quy
định của luật nội dung hoặc quy định của luật tố tụng chƣa đảm bảo quyền tự do khởi
kiện của đƣơng sự.
BLTTDS và BLDS năm 2015 có hiệu lực pháp luật trong thời gian tới đƣợc kỳ
vọng là khắc phục đƣợc những lỗ hổng, những tồn tại mà BLTTDS năm 2004 và
BLDS năm 2005. Quyền dân sự trong đó Quyền khởi kiện của chủ thể đƣợc khẳng
định mạnh mẽ, cụ thể có tính nguyên tắc trong cả luật nội dung và luật tố tụng, quyền
dân sự của chủ thể không chỉ đƣợc“tôn trọng „,“ bảo vệ „ mà còn đƣợc“ công nhận „
và“ bảo đảm „ theo Hiến pháp và pháp luật, cùng với nó là quy định trong BLTTDS
2015 “ Tòa án không đƣợc từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chƣa có điều luật
để áp dụng.”. Đối với những vụ việc chƣa có luật áp dụng, BLDS năm 2015 quy định
áp dụng giải quyết theo tập quán pháp, tƣơng tự luật và lẽ công bằng.
Qua việc nghiên cứu khái quát về quá trình hình thành và phát triển của các quy
định của pháp luật dân sự về quyền khởi kiện có thể thấy Quyền khởi kiện của các chủ
thể qua các thời kỳ ngày càng đƣợc ghi nhận rõ ràng, tiến bộ hơn. Đặc biệt BLTTDS
năm 2015 ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát triển và ngày càng hoàn thiện các quy
định pháp luật tố tụng dân sự về quyền tự do khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
của đƣơng sự.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể
Quyền tự do của con ngƣời nói chung, quyền tự do khởi kiện nói riêng chịu ảnh
hƣởng bởi rất nhiều yếu tố trong đó phải kể đến nhƣ các quy định của pháp luật về
quyền khởi kiện; Trình độ hiểu biết hay khả năng nhận thức của chủ thể; Trách nhiệm
của cơ quan tài phán là TAND; Hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nƣớc...
24
Việc đánh giá các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do khởi kiện của các chủ thể
một cách chính xác là cơ sở để các nhà nghiên cứu và thi hành pháp luật đƣa ra đƣợc
những quyết sách đúng đắn.
1.3.1 Quy định của pháp luật – yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định quyền
tự do khởi kiện của chủ thể.
Giả thiết quyền và lợi ích của mình bị tranh chấp hay vi phạm, chủ thể có quyền
khởi kiện nhƣng không có nghĩa là họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai, kiện đến bất kỳ cơ
quan nào, trong một số trƣờng hợp chủ thể có thể không thực hiện đƣợc quyền khởi
kiện vì lợi ích an ninh quốc gia, cộng đồng xã hội hay còn gọi là giới hạn quyền khởi
kiện. Việc kiện của chủ thể phải dựa trên cơ sở một quan hệ pháp luật nhất định, căn cứ
vào các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật này để xác định ngƣời mà họ
có quyền đi kiện và kiện đến cơ quan nào, theo trình tự thủ tục nhất định. Điều này
chính là sự phản ánh mối quan hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự,
chính những quy định này ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
Mục tiêu của nhà nƣớc pháp quyền là xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp
với thực tế, một yếu tố có tính chất quyết định thực hiện quyền công dân nói chung,
quyền tự do khởi kiện của chủ thể nói riêng.
Sau hơn 10 năm thi hành BLTTDS năm 2004 và BLDS năm 2005 các quy định
về quyền tự do khởi kiện của chủ thể chƣa đƣợc đảm bảo trên thực tế. Nhiều vụ việc đã
không đƣợc cơ quan tòa án thụ lý giải quyết do thiếu vắng các quy định về luật nội
dung hoặc để đƣợc tòa án thụ lý chủ thể quyền khởi kiện phải trải qua rất nhiều các thủ
tục, tốn nhiều thời gian và công sức... Ví dụ: đối với tranh chấp đất đai, theo quy định
của BLTTDS năm 2004 trƣớc khi nộp đơn khởi kiện lên tòa án có thẩm quyền, chủ thể
đơn khởi kiện phải nộp đơn tại UBND xã, phƣờng nơi cƣ trú hoặc nơi có bất động sản,
sau khi hòa giải, có biên bản hòa giải ở địa phƣơng thì chủ thể mới đƣợc quyền khởi
kiện tại tòa án có thẩm quyền và khi đó tòa án mới thụ lý, điều này có ảnh hƣởng rất
lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Hoặc nhƣ do không có pháp luật điều
chỉnh nên khi có tranh chấp xảy ra tòa án không biết xử lý vụ việc thế nào do không có
văn bản hƣớng dẫn, nhiều vụ việc đã không thể thụ lý giải quyết nhƣ việc tranh chấp
25
mồ mả ... điều này đã gây mất lòng tin của nhân dân vào một nền công lý.... Điều này
có thể thấy các quy định của pháp luật ảnh hƣởng rất lớn đến việc thực hiện quyền tự
do khởi kiện của chủ thể.
Tuy nhiên, quyền dân sự trong đó quyền tự do khởi kiện của chủ thể đƣợc đặt
trong mối liên hệ với quyền và lợi ích của chủ thể khác và lợi ích chung của cộng đồng
xã hội. Chính vì vậy pháp luật dân sự đã quy định giới hạn của việc thực hiện quyền tự
do khởi kiện của chủ thể. BLDS năm 2005 quy định có tính chất gián tiếp tại điều 10
“Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của ngƣời khác. Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không đƣợc xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khác.”
Đến BLDS năm 2015 đã quy định rõ ràng về giới hạn quyền dân sự, trong đó có quyền
khởi kiện theo đó “ Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Điều 10 BLDS năm 2015 quy định về Giới hạn
việc thực hiện quyền dân sự nhƣ sau:
“1. Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt
hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái
pháp luật.
2. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều này
thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi
vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường
nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định.”
Nhƣ vậy, quyền dân sự, quyền tự do khởi kiện của chủ thể chịu ảnh hƣởng trực
tiếp bởi các quy định của pháp luật, bởi hành lang pháp lý cho phép chủ thể đƣợc thực
hiện quyền gì và thực hiện nhƣ thế nào? .
1.3.2. Nhận thức của chủ thể - yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thực hiện
quyền tự do khởi kiện chủ chủ thể.
Tự do và nhận thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong bài Biện chứng về
tự do của tác giả Nguyễn Trần Bạt, ông cho rằng“ tự do nhận thức là nền tảng để con
26
ngƣời đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức tức là không có tự do tinh
thần, con ngƣời sẽ không thể có tự do hành động bởi luôn vấp phải các rào cản về mặt
nhận thức, và do đó, con ngƣời sẽ cảm thấy bị hạn chế, bị mất tự do ngay từ trong ý
nghĩ chứ không chỉ trong hành vi của mình.” [1, tr46].
Với khả năng nhận thức của mình chủ thể có thể xác định rõ quyền và lợi ích của
mình bị xâm phạm hay tranh chấp là cái gì? Ai là ngƣời bị coi là đã xâm phạm hay
tranh chấp đối với chủ thể? Khởi kiện lên cơ quan nào? Theo trình tự thủ tục gì? Nếu
có khả năng nhận thức rõ đƣợc vấn đề trên thì chủ thể thực hiện quyền tự do khởi kiện
một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trên thực tế do trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn
chế nên ngƣời đi kiện đã xác định và khởi kiện không đúng ngƣời mà mình có quyền
khởi kiện theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, nguyên đơn kiện về hợp đồng ký kết
với công ty nhƣng lại không khởi kiện công ty – chủ thể có quyền, nghĩa vụ theo hợp
đồng mà khởi kiện chi nhánh của công ty ; chủ sở hữu kiện đòi động sản phải đăng ký
quyền sở hữu đang bị ngƣời thứ ba chiếm hữu trái pháp luật nhƣng lại không khởi kiện
ngƣời đang chiếm hữu mà khởi kiện ngƣời đƣợc chủ sở hữu giao quản lý tài sản ;
ngƣời bị thiệt hại kiện yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng nhƣng lại khởi kiện
ngƣời không có trách nhiệm phải bồi thƣờng…v.v. Trong những trƣờng hợp đặc biệt
này, với tƣ cách là cơ quan bảo vệ công lý và cầm cân nảy mực thì vai trò đôn đốc và
hƣớng dẫn thủ tục tố tụng của Toà án là hết sức cần thiết. Căn cứ vào tiêu chí nhận
thức của chủ thể, pháp luật dân sự đã có những quy định riêng đối với từng đối tƣợng,
theo đó ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức đƣợc coi là ngƣời có đầy đủ
năng lƣc hành vi dân sự và tố tụng dân sự, họ có quyền tự do thực hiện quyền khởi
kiện của mình mà không phụ thuộc vào bất kỳ đối tƣợng nào khác. Đối với những đối
tƣợng khác nhƣ ngƣời mất năng lực hành vi dân sự ( không có khả năng nhận thức);
ngƣời chƣa đủ 18 tuổi ( ngƣời có năng lực hành vi chƣa đầy đủ) hay ngƣời không có
năng lực hành vi ( ngƣời dƣới 6 tuổi) thì việc thực hiện quyền dân sự của họ bị phụ
thuộc vào đối tƣợng khác, pháp luật dân sự gọi là ngƣời đại diện theo pháp luật, khi đó
việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể phụ thuộc vào ngƣời đại diện theo
pháp luật, vào trinh độ hiểu biết của họ..
27
Có thể thấy, khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết của chủ thể có ảnh hƣởng rất
lớn đến việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
1.3.3 Trách nhiệm của Toà án, cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết các vụ án –
yếu tố ảnh hưởng tích cực đến thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
Quy định của pháp luật, khả năng nhận thức, hiểu biết của chủ thể chỉ là yếu tố
cần để tạo cơ sở cho thực hiện quyền tự do khởi kiện, trách nhiệm của toà án trong việc
thụ lý giải quyết vụ án là yếu tố đủ để quyền tự do khởi kiện có hiệu lực và hiệu quả
trên thực tế. Tính độc lập, khách quan của Tòa án là điều không thể thiếu để bảo đảm
quyền tự do khởi kiện. Pháp luật ghi nhận quyền khởi kiện của đƣơng sự nhƣng nếu
nhƣ Toà án - chủ thể có thẩm quyền xem xét để chấp nhận hay bác bỏ quyền này
không độc lập hoặc ngƣời tiến hành tố tụng không vô tƣ, khách quan thì việc ghi nhận
quyền khởi kiện cũng chỉ là trên giấy tờ mà không đƣợc bảo đảm thực hiện trên thực
tế. Sự độc lập của Toà án, sự vô tƣ, khách quan của ngƣời tiến hành tố tụng sẽ là bảo
đảm cần thiết cho quyền khởi kiện đƣợc thực thi trên thực tế.
Nếu nhƣ pháp luật đã có những quy định hợp lý và minh bạch hoá về điều kiện
thụ lý, căn cứ trả đơn, chuyển đơn khởi kiện, đình chỉ giải quyết vụ án nhằm bảo đảm
về mặt pháp lý quyền khởi kiện thì hoạt động tố tụng cụ thể của Toà án trong việc nhận
đơn, xem xét, quyết định việc thụ lý hay không thụ lý yêu cầu của đƣơng sự, chuyển
đơn khởi kiện hay đình chỉ giải quyết vụ án lại có ý nghĩa bảo đảm trên thực tế quyền
tự do khởi kiện của đƣơng sự. Nếu nhƣ pháp luật đã quy định rõ ràng những trƣờng
hợp mà Toà án có quyền trả lại đơn khởi kiện thì Toà án chỉ có quyền từ chối thụ lý
trong những trƣờng hợp đã đƣợc quy định. Ngoài những trƣờng hợp đó thì Toà án phải
xem xét thụ lý đúng thời hạn luật định. Sự chậm trễ của Toà án trong việc thụ lý mà
không có lý do chính đáng, việc chuyển đơn kiện lòng vòng mà không có cơ sở pháp lý
hay đình chỉ giải quyết vụ án ngoài những trƣờng hợp luật định cũng phải đƣợc coi là
đã xâm phạm đến quyền tự do khởi kiện của đƣơng sự. Do vậy, để đánh giá về quyền
tự do khởi kiện có đƣợc thực thi hay không thì ngoài việc căn cứ vào quy định của
pháp luật cần phải xét đến hoạt động tố tụng cụ thể của Toà án trong việc thụ lý, trả
đơn, chuyển đơn khởi kiện hay đình chỉ giải quyết vụ án. Thực tế thi hành BLTTDS
28
hơn 10 năm qua có thể thấy, quyền tự do khởi kiện của chủ thể đã bị hạn chế một phần
do quy định của pháp luật hoặc do hoạt động tố tụng của toà án các cấp, nhiều vụ việc
không đƣợc thụ lý giải quyết do có quy định của luật nội dung hƣớng dẫn giải quyết
hoặc đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến quyền khởi kiện của chủ thể bị ảnh hƣởng. Bên cạnh
đó việc Tòa án xem xét giải quyết vụ việc một cách chính xác khách quan cũng là yếu
tố đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện của chủ thể, vì việc chấp nhận, xem xét thụ lý
đơn khởi kiện mới chỉ là khởi đầu của quá trình bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của
đƣơng sự. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện đó nhƣ thế nào mới là việc bảo vệ quyền
khởi kiện.
1.3.4 Hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác – yếu tố
ảnh hưởng không nhỏ đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
Khi quyền và lợi ích của chủ thể bị coi là xâm phạm hoặc tranh chấp, đa phần chủ
thể có thể trực tiếp thực hiện quyền khởi kiện của mình đến toà án có thẩm quyền,
trong một số trƣờng hợp các vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng hoặc dân sự
phải có xác nhận của cơ quan nhà nƣớc khác thì vụ việc mới đƣợc xem xét thụ lý giải
quyết, chủ thể mới đƣơc thực hiện quyền khởi kiện của mình. Điều này đã ảnh hƣởng
đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể. Cụ thể nhƣ, đối với các việc tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất thì thủ tục tiền tố tụng bắt buộc phải đƣợc thực hiện trƣớc
khi khởi kiện ra toà án là phải tiến hành hoà giải ở cơ sở, cụ thể là vụ việc phải đƣợc
tiến hành tại UBND cấp xã. Khi tiếp nhận đơn nếu UBND cấp xã nhanh chóng xem
xét, nắm bắt nội dung tranh chấp, hoạt động tiến hành hoà giải đƣợc thực hiện ngay sau
đó thì vụ việc đƣợc sớm xử lý. Ngƣợc lại, nếu vụ việc dậm chân tại chỗ ở UBND cấp
xã thì quyền tự do khởi kiện của chủ thể đƣơng nhiên bị ảnh hƣởng. Thực tế chƣa có
một cơ chế nào quy định trình tự, thủ tục, thời hạn tiến hành việc hoà giải nên không có
một cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cán bộ, cơ quan nhà nƣớc trong thực hiện hoà
giải ở cơ sở.... hoặc trƣớc đây luật doanh nghiệp 2005 quy định cổ đông trƣớc khi khởi
kiện ra cơ quan tài phán phải gửi đơn đến ban kiểm soát công ty trƣớc, khi có kết quả
giải quyết thì chủ thể mới đƣợc thực hiện quyền khởi kiện của mình. Đối với các tranh
29
chấp lao động cũng vậy, trƣớc khi thực hiện quyền khởi kiện tại tòa án một số tranh
chấp lao động phải thực hiện thủ tục hòa giải qua các hòa giải viên lao động…
Một yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể đó là
chứng cứ. Chứng cứ là vấn đề mấu chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng
cứ thì chủ thể không thể thực hiện quyền khởi kiện cũng nhƣ không có hoạt động
chứng minh và đƣơng sự không thể bảo vệ đƣợc mình. Chính vì vậy, công tác thu thập
chứng cứ là khâu quan trọng nhất trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt
động chứng minh còn lại nhƣ cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên nếu
chứng cứ này lại nằm ở các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, nếu họ gây khó khăn,
không cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự thì đƣơng sự không thể thực hiện quyền khởi
kiện của mình, ví dụ trong các tranh chấp đất đai, chứng cứ nằm trong cơ quan nhƣ
UBND các phƣờng, xã, Phòng Tài nguyên môi trƣờng, Phòng công chứng…..
Vấn đề thi hành án dân sự cũng là vấn đề cần đƣợc quan tâm, sau khi bản án có
hiệu lực pháp luật, những phán quyết trong bản án có đƣợc thực thi nghiêm túc trong
thực tế ? Điều này ảnh hƣởng đến niềm tin công lý của công dân. Nếu bản án, quyết
định có hiệu lực đƣợc thi hành trên thực tế, tạo niềm tin pháp lý, công dân khi bị xâm
phạm hoặc có tranh chấp dân sự sẽ tìm đến pháp luât, tìm đến toà án để phân xử và
ngƣợc lại quyền tự do khởi kiện sẽ không có khả năng thực thi khi họ không tin vào
công lý, vào hoạt động của cơ quan nhà nƣớc.
30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Để xây dựng cơ sở lý luận và góc nhìn cách khách quan, khoa học về vấn đề
quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự, tại Chƣơng này,
luận văn đã cố gắng phân tích, xây dựng các khái niệm cơ bản về “Quyền khởi kiện”
và “quyền tự do khởi kiện” trên cơ sở tham khảo, kế thừa và phát triển các khái niệm
có liên quan của các nhà khoa học trƣớc đó.
Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự là quyền dân sự, tố tụng dân sự quan trọng
của các chủ thể trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Quyền này có
thể đƣợc hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của nguyên đơn, là cơ sở làm phát sinh vụ án dân sự. Theo nghĩa rộng thì quyền
khởi kiện còn bao hàm cả quyền khởi kiện ngƣợc lại (phản tố) của bị đơn và quyền đƣa
ra yêu cầu độc lập của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ sở của quyền tự do khởi kiện là dựa trên tính chất của quan hệ pháp luật nội
dung có tranh chấp, trên nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận trong dân sự
và nguyên tắc về quyền bình đẳng, quyền định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Việc xác định chủ thể có quyền khởi kiện, có quyền phản tố hay có yêu cầu độc lập
đƣợc dựa trên quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp mà Toà án cần phải giải quyết.
Việc kiện ai, kiện về vấn đề gì cũng phải dựa trên các quan hệ pháp luật nội dung này
để xác định.
Thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể tại Tòa án là quá trình tố tụng phức
tạp, để cho các chủ thể có thể bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc
Tòa án thì phải minh bạch hoá và quy định hợp lý các điều kiện thụ lý vụ án, có cơ chế
hỗ trợ đƣơng sự thực hiện quyền khởi kiện, có cơ chế ràng buộc trách nhiệm, giám sát
hoạt động tố tụng của Toà án, các cơ quan nhà nƣớc, cá nhân, tổ chức và tạo cơ hội cho
đƣơng sự có thể chống lại sự lạm quyền hay vi phạm quyền này từ phía Toà án và các
cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, cá nhân.
31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trần Bạt (2005), Biện chứng của Tự do , Tạp chí Khoa học & Tổ
quốc số 5/2005
2. Nguyễn Công Bình(2008), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam Đại học
Luật Hà Nội, Nxb CAND.
3. Đại học Luật Hà Nội(2005), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Tƣ pháp, Hà
Nội.
4. Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, , Nxb
CAND.
5. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật TTDS Việt Nam, NXB công an
nhân dân.
6. Trần Thúc Linh (1964), Danh từ pháp luật lƣợc giải, Nhà sách Khai Trí, Sài
Gòn.
7. Phan Hữu Thƣ (1994), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Đại học Luật Hà Nội
8.Serge Guinchard et Frédérique Ferrand (2006), Procédure civile, Droit interne
et droit communautaire, Dalloz, 28 édition 2006, p. 128, tr 506
9. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004.
10. Trang web Wikipedia Tiếng Việt , địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/Wikipedia_tiếng_Việt.
11. Bản án dân sự sơ thẩm số: 18/2015/DSST ngày 12/03/2015 của TAND thành
phố Bắc Ninh.
12. Thông báo số 35/TB-TAND ngày 22 /10/2016 của TAND thành phố Bắc
Ninh về việc.
13.TS. Quách Thúy Quỳnh (2012) Về chế định kiện phái sinh (Tạp chí Luật học
số 3/2012).
14. Kiện phái sinh địa chỉ
https://vietnamlawgate.wordpress.com/2015/11/03/kien-phai-sinh-phan-i/
15. Quốc hội (2013)Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2013;
94
16. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội;
17. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội;
18.Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội;
19.Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Hà Nội;
20. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.
21. Từ điển Tiếng Việt (2003), Nxb. Đà Nẵng;
22. Viện Khoa học pháp lý-Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển
bách khoa - Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội;
23. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về Tố tụng dân sự,
Hà Nội.
24. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao Hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải
quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
25. Lê Thị Bích Lan (2005), “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự”, Luật
học, (Số đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005).
26. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết năm 2015 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2016 của các Tòa án nhân dân
27. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành các
quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm”
của Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
28. Liễu Thị Hạnh, Thụ lý vụ án dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
án thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2009;
29. Nguyễn Thu Hiền, Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý án Dân sự trong
pháp luật tố tụng Việt Nam, Luận án thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội, 2012.
30. Văn phòng thƣờng trực về nhân quyền, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2015), Quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
Pháp
95