ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN QUANG DUY

SÁNG TẠO NHÂN VẬT ANH HÙNG TRẦN NGUYÊN HÃN

QUA BA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ: SÓNG HẬN SÔNG LÔ;

NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG; NGƯỜI VỀ CHỐN CŨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN QUANG DUY

SÁNG TẠO NHÂN VẬT ANH HÙNG TRẦN NGUYÊN HÃN

QUA BA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ: SÓNG HẬN SÔNG LÔ;

NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG; NGƯỜI VỀ CHỐN CŨ

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Duy

i

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn

Ngọc Thiện - người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về tri thức, phương

pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, quý thầy cô giáo Khoa Ngữ văn,

Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng

nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi

hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Duy

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 10

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .......................................... 10

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 11

6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 11

7. Dự kiến đóng góp ...................................................................................... 12

8. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 12

NỘI DUNG ....................................................................................................... 13

Chương 1: QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ DIỆN

MẠO CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM .................................... 13

1.1. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử ............................................................ 13

1.2. Diện mạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ........................................... 18

1.2.1. Tiểu thuyết lịch sử trong văn học trung đại ..................................... 18

1.2.2. Tiểu thuyết lịch sử từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 ...................... 20

1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử từ năm 1945 đến 1985 ...................................... 23

1.2.4. Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới (Từ năm 1986 đến nay) .......... 25

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28

Chương 2: BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO NHÂN

VẬT ANH HÙNG TRẦN NGUYÊN HÃN QUA BA TIỂU THUYẾT

LỊCH SỬ: SÓNG HẬN SÔNG LÔ; NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG;

NGƯỜI VỀ CHỐN CŨ ..................................................................................... 30

iii

2.1. Hình ảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XV qua ba tiểu thuyết lịch sử:

Sóng hận sông Lô; Người con trang Sơn Đông; Người về chốn cũ .............. 30

2.2. Sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyễn Hãn qua ba tiểu thuyết lịch sử:

Sóng hận sông Lô; Người con trang Sơn Đông; Người về chốn cũ ................... 35

2.2.1. Người con trung hiếu, nặng lòng với quê hương, gia đình và

dòng tộc ..................................................................................................... 35

2.2.2. Người anh hùng với lý tưởng, khát vọng lớn lao ............................ 39

2.2.3. Người anh hùng mưu lược, tài trí trong chiến trận.......................... 44

2.2.4. Cái chết bi kịch của người anh hùng ............................................... 56

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60

Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRẦN NGUYÊN HÃN QUA BA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ: SÓNG

HẬN SÔNG LÔ; NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG; NGƯỜI VỀ

CHỐN CŨ ......................................................................................................... 62

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình .......................... 62

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả tâm lý ................................. 64

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ ......................................... 69

3.3.1. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại .................................... 69

3.3.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm ....................... 74

3.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua giọng điệu ....................................... 78

3.4.1. Giọng điệu ngợi ca........................................................................... 78

3.4.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm ....................................................... 84

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 87

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN VĂN ..................................................................................................... 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Lịch sử là một đề tài lớn, nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ

thỏa sức sáng tạo. Viết về đề tài lịch sử là một truyền thống của nền văn học

Việt Nam và đến nay nó vẫn tồn tại một cách bền bỉ, thậm chí là bộ phận phát

triển mạnh mẽ của văn học Việt Nam đương đại. Đã có nhiều nhà văn dành

trọn tâm huyết và rất thành công khi tìm đến với đề tài lịch sử. Chúng ta có thể

kể đến Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Vũ

Ngọc Tiến, Hoàng Quốc Hải... Với đề tài lịch sử, các nhà tiểu thuyết đã dựng

lại cả một giai đoạn, một thời kỳ với những biến động xã hội, đồng thời đem

đến một cái nhìn, một tư tưởng và gửi gắm những suy tư, trăn trở về con người,

cuộc đời xưa và nay.

1.2. Trần Nguyên Hãn là nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, có công lớn

trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh dưới ngọn cờ khởi

nghĩa của Lê Lợi đầu thế kỷ XV. Nhưng cuộc đời của một vị tướng lừng danh

đã kết thúc một cách bi thảm với cái chết oan khuất. Những tài liệu chính sử

viết về Trần Nguyên Hãn không nhiều. Trong những năm gần đây, ba bộ tiểu

thuyết lịch sử viết về Trần Nguyễn Hãn đã ra đời và thu hút được sự chú ý của

bạn đọc. Đó là các tác phẩm Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người con

trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ (Xuân Mai). Cả ba tiểu

thuyết trên đã dựng lại cả giai đoạn lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XV- một trong

những giai đoạn lịch sử bi tráng và hào hùng của dân tộc. Đồng thời, qua những

tác phẩm đó, các nhà văn còn tập trung sáng tạo nhân vật lịch sử Trần Nguyên

Hãn để đem đến cho người đọc hình ảnh người anh hùng, người con đất Sơn

Đông “bằng xương bằng thịt” mà nhân dân ta tự hào và ngưỡng vọng.

1.3. Khi viết ba tiểu thuyết trên, các nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn

Anh Đào, Xuân Mai đã sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu chính sử và các

truyền thuyết dân gian được lưu truyền ở địa phương. Các tác giả đã hư

1

cấu, sáng tạo nghệ thuật, qua đó tái dựng chân dung người anh hùng lịch sử

Trần Nguyên Hãn.

Vì vậy, để khẳng định thành công của các tác giả đối với những tiểu

thuyết lịch sử này, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Sáng tạo nhân vật

anh hùng Trần Nguyên Hãn qua ba tiểu thuyết lịch sử: Sóng hận sông Lô;

Người con trang Sơn Đông; Người về chốn cũ”. Nghiên cứu vấn đề này sẽ

giúp chúng ta hiểu rõ hơn về người anh hùng Trần Nguyên Hãn và một giai

đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Đồng thời, đó còn là một hướng đi cần

thiết trong việc nhìn nhận, khám phá tài năng nghệ thuật của các nhà văn,

khẳng định những đóng góp quan trọng của các tác giả đối với tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam thời kỳ đổi mới.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Nghiên cứu về nhân vật lịch sử Trần Nguyên Hãn

Trần Nguyên Hãn (1386 - 1429) xuất thân dòng dõi vua Trần Thái Tông,

là cháu nội của Chương Túc Quốc Thượng hầu, Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán

và là cháu 6 đời của Chiêu Minh đại vương, Tướng quốc Thái sư Trần Quang

Khải. Ông là người Sơn Đông (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) có học thức, giỏi binh

pháp. Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn sinh vào thời kỳ đất nước có nhiều biến

động ở cuối thế kỷ XIV. Nhà Trần suy yếu. Hồ Quý Ly rắp tâm chiếm đoạt

ngôi vua, đã thẳng tay giết hại tôn tộc nhà Trần. Năm 1406, giặc Minh dùng

chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, sang xâm lược nước ta. Năm 1407, chúng bắt

được toàn bộ vua quan triều đình nhà Hồ đem về Trung Quốc. Từ đó, đất nước

ta chịu cảnh áp bức, bóc lột thậm tệ của giặc Minh.

Vào lúc này, Trần Nguyên Hãn (người con làng Quan Tử, trang Sơn

Đông, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới - nay là xã Sơn Đông, huyện Lập

Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) đã trở thành lao động chính trong gia đình, vừa tiếp tục

học tập, vừa làm ruộng, ép dầu. Nhìn lũ giặc hoành hành khắp nơi trong vùng,

Trần Nguyên Hãn bầm gan tím ruột, nhưng cố nuốt hận, ra sức rèn luyện võ

2

nghệ, nghiền ngẫm binh thư, nuôi chí cứu nước giúp dân. Tháng 2 năm Canh

Dần (1410), ông bí mật chiêu tập thanh niên trai tráng trong vùng tổ chức luyện

quân, lập căn cứ tại rừng Thần, ao Tó, đầm Trạch (nay gọi là đầm Đa Mang)

thuộc hai xã Sơn Đông, Văn Quán để chờ thời cơ đánh giặc cứu nước. Cuối

năm Ất Mùi (1415), Trần Nguyên Hãn cùng với Nguyễn Trãi (anh em con cô

con cậu) trèo đèo, lội suối tìm đến Lam Sơn để theo Lê Lợi khởi nghĩa. Gần tết

năm Mậu Tuất (1418), Trần Nguyên Hãn đem 200 quân tinh nhuệ của nghĩa

quân Rừng Thần cùng hơn 100 ngựa chiến vào tụ nghĩa với nghĩa quân Lam

Sơn. Trần Nguyên Hãn đã dâng Lê Lợi thanh bảo kiếm của Tướng quốc Thái

sư Trần Quang Khải để tỏ một lòng một dạ phò Lê Lợi làm minh chủ chống

giặc cứu nước.

Tài năng, nhân cách, đức độ của Trần Nguyên Hãn được thể hiện rõ nét

trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Trong suốt những năm sát

cánh cùng Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn đã cùng với nghĩa quân Lam Sơn không

quản ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh làm nên những chiến thắng thần kỳ, bảo

vệ vững chắc giang sơn, Tổ quốc. Trần Nguyên Hãn luôn bất chấp nguy hiểm,

gian khổ để làm tròn trách nhiệm của một kẻ bề tôi trung quân báo quốc, được

Lê Lợi tin dùng, các tướng sĩ nể phục, kính trọng, tôn vinh. Năm 1428, kháng

chiến thành công, Lê Lợi lên ngôi, Trần Nguyên Hãn được gia phong “Tả

tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Khu mật đại sứ”. Tuy nhiên, sau

khi đất nước được thanh bình, Lê Thái Tổ nghe theo lời xiểm nịnh của bọn gian

thần dẫn đến cái chết bi thảm của Trần Nguyên Hãn trên bến Đông Hồ. Nhưng

dù bị oan khuất, Trần Nguyên Hãn vẫn luôn tỏ rõ lòng trung thành của mình

với vua Lê và luôn nghĩ đến gia đình, dòng họ. Theo các tài liệu còn lưu giữ

được, vào ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (tức 30-3-1429), vua Lê nghe theo lời

xiểm nịnh của bọn gian thần bèn sai 42 lực sĩ xá nhân đi bắt Trần Nguyên Hãn

về triều hỏi tội. Trước tình hình đó, gia nhân và lính hầu nhà Trần Nguyên Hãn

rất đông và nhiều người có võ nghệ, họ vô cùng tức tối và khuyên ông chống

3

lại lệnh vua, nhưng ông nói: “Việc lớn đã thành, nay vua muốn giết ta... Ta

không thể sống được với nhà vua, nhưng nếu ta ra mặt chống lại, nhà vua sẽ

viện cớ đó tàn sát giết hại hết con cháu họ Trần. Nay chỉ để mình ta và gia

quyến chịu chết là hơn!” [3, tr.42]. Trên đường về Thăng Long, khi thuyền vừa

cập bến Đông Hồ (thuộc dòng sông Lô), Trần Nguyên Hãn ngửa mặt lên trời

khấn rằng: “Tôi với Hoàng Thượng cùng mưu cứu nước cứu dân. Nay sự

nghiệp lớn đã thành, Hoàng Thượng nghe lời gièm pha mà hại tôi. Hoàng

Thiên có biết xin soi xét cho” rồi ông tự trầm mình [3, tr.41-42].

Theo tài liệu dòng họ Trần Nguyên Hãn, 26 năm sau, năm Diên Ninh thứ

2 (1455), vua Lê Nhân Tông xuống chiếu minh oan cho Trần Nguyên Hãn, trả

lại ruộng đất, của cải cho con cháu ông, ra lệnh phục chức, truy phong ông là

“Phúc Thần”, cho gọi con cháu ra làm quan nhưng không ai ra, đồng thời tôn

phong ông hiệu “Khai quốc Nguyên huân”. Đời nhà Mạc (1527-1593), ông

được truy phong là “Tả tướng quốc Trung liệt đại vương”. Đời nhà Nguyễn,

năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), triều đình ban sắc phong cho ông là “Tuấn hương

lương trực Tả tướng quốc Trần phủ quân chi thần”.

Hiện nay, những tài liệu chính sử viết về Trần Nguyên Hãn không nhiều.

Tư liệu để lại về danh nhân này là rất ít so với một con người, một cuộc đời và

một thời đại như vậy. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có viết ngắn gọn về ông:

“Lê Hãn là cháu của tư đồ nhà Trần là Trần Nguyên Đán, có học thức, tinh binh

pháp, thì Thái Tổ yêu dùng, thường dự bàn mưu kín và theo đi đánh dẹp, đến

đâu là lập công ngay. Năm Mậu Thân thứ 1, bàn công, được gia hữu tướng

quốc, cho quốc tính, công lao danh vọng hơn người. Hãn nói riêng với người

thân rằng: “Vua có tướng như Việt Vương (Câu Tiễn). Không có thể cùng

hưởng yên vui được”, bèn xin về nghỉ. Vua cho. Hãn là con cháu nhà Trần, bị

vua ngại. Khi đã về Sơn Đông (ấp thuộc huyện Lập Thạch), ở làng mà dựng

nhà đóng thuyền, không tránh hình tích, có kẻ gièm là mưu phản. Vua tin, sai

lực sĩ đến bắt. Xuống thuyền đậu ở bến Sơn Đông, tự trầm chết” [32, tr.530].

4

Tài năng quân sự kiệt xuất cùng tấm lòng yêu nước thương dân của Trần

Nguyễn Hãn được các nhà nghiên cứu, bác học, sử học và quân sự đánh giá cao.

Nhà bác học Lê Quý Đôn trong Lê triều thông sử ở thế kỷ XVIII có viết:

“Ông Hãn luôn luôn nuôi chí cứu đời giúp dân” và “Ông Hãn là người tinh

binh pháp, hữu học thức” [Dẫn theo 3, tr.45].

Trong bài “Trần Nguyên Hãn, nhà chỉ huy sáng tạo”, Thượng tướng,

GS. Hoàng Minh Thảo đánh giá: “Trong tất cả những hoạt động quân sự của

mình, khi trực tiếp chỉ huy một đạo quân, khi đảm nhiệm một hướng, khi vận

động phục kích, khi công thành, khi đối đầu trực tiếp với lực lượng thiện chiến

nhất của giặc, khi lĩnh nhiệm vụ diệt phá hậu cần của chúng, Trần Nguyên Hãn

đều hoàn thành xuất sắc, xứng đáng là một vị tướng giỏi” [Dẫn theo 3, tr.46].

GS. Lê Văn Lan, trong bài “Về thời đại của Trần Nguyên Hãn” viết:

“Ông là người có một phẩm chất lớn mà một phần quan trọng trong việc làm

nên bản lĩnh, nhân cách của ông là: thức - hiểu. Trần Nguyên Hãn rất hiểu đời,

hiểu người và hiểu mình” [Dẫn theo 3, tr.47-48].

Tại cuộc hội thảo về thân thế, sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn tại huyện

Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú năm 1988, GS. Văn Tạo, Viện trưởng Viện sử học

nói: “Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn là một vĩ nhân, một vị anh hùng dân

tộc, xứng đáng được nhân dân phụng thờ” [Dẫn theo 3, tr.48].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến thăm, dâng hương đền thờ Tả

tướng quốc Trần Nguyên Hãn ngày 19/3/1999 khẳng định: “Trần Nguyên Hãn

không chỉ là một vị tướng kiệt xuất trong chiến thắng chống quân Minh ở thế

kỷ XV mà ông còn là một Anh hùng dân tộc” [Dẫn theo 3, tr.48].

Trong bài tham luận “Cuộc đời và sự nghiệp của Đức Tổ Trần Nguyên

Hãn gắn liền với non sông, đất nước” năm 2017, ông Trần Quang Trung đã

khẳng định tài năng xuất chúng của Trần Nguyên Hãn: “Ngay từ nhỏ, Đức Tổ

tỏ ra là người thông minh, tài trí, xuất chúng và có chí lớn. Năm 16 tuổi đã đọc

5

hết Tứ thư ngũ kinh và sách Binh thư yếu lược, đây chính là nền tảng hình

thành nên tài thao lược quân sự của Người sau này... Trong số rất nhiều trận

đánh do Trần Nguyên Hãn chỉ huy khiến quân Minh phải kinh hồn, bạt vía, có

lẽ trận đánh thành Xương Giang và tiêu diệt 10 vạn quân viện binh của giặc

sang cứu thành Đông Quan đã đi vào lịch sử dân tộc như mốc son chói lọi trong

cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược - đội quân phương Bắc hùng

mạnh nhất trong thế kỷ XV” [54].

Tóm lại, Trần Nguyên Hãn là người “hữu học thức, tinh binh pháp”, một

tài năng quân sự lỗi lạc. Ông là anh hùng dân tộc và có công lớn trong sự

nghiệp bảo vệ giang sơn, Tổ quốc. Chỉ vì sự ganh ghét, đố kỵ của bọn gian thần

mà dẫn đến cái chết bi thảm của ông trên bến Đông Hồ. Tuy nhiên, với lòng

trung quân ái quốc và chiến công lừng lẫy trong cuộc kháng chiến chống giặc

ngoại xâm, tên tuổi của ông vẫn luôn sống mãi trong lòng dân tộc.

2.2. Nghiên cứu về những tác phẩm văn học viết về Trần Nguyên Hãn

Ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô, năm 2013 (Vũ Ngọc Tiến),

Người con trang Sơn Đông, năm 2013 (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ,

năm 2014 (Xuân Mai) là những tác phẩm mới được ra đời trong những năm

gần đây. Ngay từ khi xuất hiện, ba tiểu thuyết lịch sử đã trở thành đối tượng thu

hút và quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học.

Trong buổi tọa đàm ra mắt cuốn tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô

(ngày 10/8/2013) của Vũ Ngọc Tiến, đã có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê

bình đánh giá, nhận định về những nét đặc sắc và thành công của tác phẩm này.

Nhà văn Hoàng Quốc Hải, một cây bút tiểu thuyết lịch sử cho rằng Sóng

hận sông Lô là “cuốn sách kịp thời cảnh tỉnh những ai giả vờ, hoặc cố tình ngủ

quên trước hiểm họa đất nước. Đồng thời thổi một luồng sinh khí mới vào tinh

thần yêu nước có lúc bị xúc phạm” [Dẫn theo 41]. Nhà văn tâm đắc với những

thông điệp nổi và chìm trong tiểu thuyết này.

6

Nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn Văn Hồng “cảm nhận tính kịch trong

tiểu thuyết, đặc biệt là với nhân vật Trần Nguyên Hãn” [Dẫn theo 41].

PGS.TS. La Khắc Hòa cho rằng “Vũ Ngọc Tiến đã dựng được cái khung

mới cho tiểu thuyết lịch sử ở ta. Vũ Ngọc Tiến không viết Lịch Sử như ngụ

ngôn, rút ra bài học; nhà văn đã kể “câu chuyện thú vị” về Lịch Sử để người

đọc nhận lấy thông điệp” [Dẫn theo 41].

Trong bài viết “Một cách viết mới về đề tài lịch sử” ở cuối tiểu thuyết

Sóng hận sông Lô, PGS.TS. Vũ Nho đã có nhận định về những thành công của

tác phẩm. Tác giả cho rằng Vũ Ngọc Tiến “không chỉ khắc họa được chân dung

Trần Nguyên Hãn, một người cương trực, dũng mãnh và cái chết oan khuất của

ông, mà còn dựng lên chân dung một loạt những nhân vật quan trọng tham gia

khởi nghĩa Lam Sơn và tham gia sáng lập nhà Hậu Lê... Tất nhiên, tác giả

không minh họa Lịch sử, nhưng tô đậm và làm rõ hơn những nhân vật lịch sử”

[Dẫn theo 52, tr.341]. Bên cạnh đó, PGS. TS. Vũ Nho còn đánh giá cao nét đặc

sắc trong Sóng hận sông Lô khi nhận thấy Vũ Ngọc Tiến đã lồng vào tác phẩm

những kiến thức về lịch sử, địa lý, triết học, tôn giáo. Cuối bài viết, PGS.TS.

Vũ Nho khẳng định đây là “một cuốn sách công phu, hấp dẫn. Điều quan trọng

nhất là tác giả đã suy nghĩ và tìm lời giải về các nhân vật lịch sử, làm phong phú,

rõ thêm những vấn đề của thời đó, mời gọi người đọc cùng tưởng tượng, suy

ngẫm về lịch sử, đặc biệt là về âm mưu thâm độc của giặc ngoại xâm phương Bắc

thời hậu chiến đối với nước ta” [Dẫn theo 52, tr.347].

Trong bài viết “Đọc Sóng hận sông Lô: Lê Lợi giết Trần Nguyên Hãn?”

(ngày 14/8/2013), nhà văn Đông La nhận định Vũ Ngọc Tiến viết Sóng hận

sông Lô theo cách viết của Tiểu thuyết giáo trình ở Mỹ. Vũ Ngọc Tiến đã bồi

đắp một cách tự nhiên cho người đọc nhiều tri thức về “tôn giáo, lịch sử, địa lí,

triết học quyện trong các tình tiết của cốt truyện” [30].

Nhà văn Phạm Thuận Thành trong bài “Mấy cảm nhận về Sóng hận sông

Lô của Vũ Ngọc Tiến” (ngày 14/8/2013) nói rằng khi đọc Sóng hận sông Lô,

7

ông đã “được khám phá cả một chương oai hùng của dân tộc: Cuộc kháng

chiến trường kì chống quân xâm lược Minh do Lê Lợi lãnh đạo” [46].

Tiểu thuyết dã sử Người con trang Sơn Đông của nhà văn Nguyễn Anh

Đào cũng được người đọc đón nhận và có những đánh giá bước đầu. Trong bài

tham luận “Cuộc đời và sự nghiệp của Đức Tổ Trần Nguyên Hãn gắn liền với

non sông, đất nước” (ngày 25-2-2017), ông Trần Quang Trung nhận định:

“Trong cuốn sách của Nguyễn Anh Đào nêu lên rất nhiều chi tiết phi lịch sử khi

cho rằng, sau khi Hồ Quý Ly cướp ngôi, âm mưu hãm hại tôn tộc nhà Trần, để

bảo toàn gia tộc, Trần Nguyên Đán đành phải hạ mình, gửi con trai mình là

Trần Nguyên Mộng cho Quý Ly như một thứ con tin rồi xin cầu hôn với con

gái riêng của Quý Ly để được phong chức Đông cung Phán thủ. Tác giả còn lý

giải, nhờ đó mà gia đình Trần Nguyên Đán vượt qua được hoạn nạn, giữ được

giống nòi kế thế mai sau. Cuốn sách cũng không đề cập đến việc chạy nạn lên

Sơn Đông của hai vợ chồng Trần Án - thân sinh Đức Tổ Trần Nguyên Hãn,

thậm chí còn viết nhầm lẫn họ của Tổ Mẫu là Đặng Thị Hoàn. Theo cách phân

tích diễn giải của tác giả thì hai vợ chồng cụ Trần Án lên Sơn Đông là để khai

hoang lập ấp, kiếm kế sinh nhai, chứ không phải đi lánh nạn. Tác giả còn hư

cấu một cách thái quá, không phù hợp với lịch sử, khi nói rằng hai vợ chồng

Trần Án lên Sơn Đông 3 năm chưa có con. Một buổi tối, bà Hoàn đi tắm sông,

được một tiên đồng giáng thế, sau đó mang thai, sinh ra Trần Nguyên Hãn.

Chưa hết, tác giả còn tự ghép mối quan hệ giữa Trần Nguyên Hãn với Nguyễn

Trãi là quan hệ chú cháu chứ không phải con cô, con cậu... Rõ ràng, với việc sử

dụng thủ pháp hư cấu chủ quan mang tính võ đoán của tác giả đã làm cho cuốn

tiểu thuyết lịch sử bị méo mó, không có giá trị thông tin, cũng như ý nghĩa về

mặt lịch sử” [54]. Như vậy, ông Trần Quang Trung cho rằng tác giả của tiểu

thuyết Người con trang Sơn Đông đã hư cấu quá nhiều, không đúng với sự thật

lịch sử. Mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật là vấn đề vẫn còn

nhiều tranh luận. Hư cấu là một yêu cầu tất yếu của nghệ thuật nhưng không

8

được đi ngược với chân lý lịch sử. Từ cuốn Về lợi ích và tác hại của chủ nghĩa

lịch sử (F. Nietzsche) đến cuốn Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử (Karl

Popper) đã xuất hiện nhiều quan điểm làm cho không chỉ các nhà sử học, nhà

văn viết tiểu thuyết lịch sử, mà cả những người đọc tiểu thuyết lịch sử cũng

phải suy nghĩ. Karl Popper cho rằng lịch sử cần được viết lại, vì mỗi thế hệ mới

lại đặt ra trước nó những vấn đề mới, nghĩa là không có lịch sử như trong quá

khứ mà chỉ có những cách giải thích lịch sử khác nhau và không có cách giải

thích lịch sử nào là cuối cùng.

Về tiểu thuyết Người về chốn cũ của Xuân Mai, nhà văn Phạm Ngọc

Chiểu trong bài viết “Một nỗi đau truyền đời” (ngày 15/6/2014) đã có những

cảm nhận sâu sắc khi đọc tác phẩm. Với những tư liệu chính sử không nhiều và

một vài câu chuyện dã sử được lưu truyền trong dân gian nhưng Xuân Mai đã

xây dựng thành công nhân vật Trần Nguyên Hãn, “giới thiệu với người đọc cả

cuộc đời của nhân vật, với đầy đủ dung mạo, tính tình, mối quan hệ xã hội, rồi

những biến cố lịch sử nhân vật trải qua cách nay ngót sáu trăm năm” [6]. Nhân

vật chính của Người về chốn cũ là một nhân vật có thật trong lịch sử và được

nhà văn Xuân Mai “chăm chút tái hiện từ lúc sinh ra cho đến tận cuối đời...

Một Trần Nguyên Hãn hiện lên trước mắt người đọc khá sống động, từ lúc còn

là cậu bé con, đến lúc là trang nam nhi tuấn tú luôn ấp ủ thù nhà nợ nước, biết

yêu và lấy vợ, sinh con, cho đến khi là tướng võ nghệ cao cường, tinh thông

binh pháp, đánh đâu thắng đó. Những trận Trần Nguyên Hãn cùng Thượng

tướng Doãn Nỗ dẫn quân vào đánh chiếm hai xứ Tân Bình, Thuận Hoá, sau

đánh thành Xương Giang trên xứ Bắc chỉ vẻn vẹn trong có hai giờ lấy được

thành, cho đến những trận đánh viện binh của Liễu Thăng khi cùng Lê Sát, lúc

cùng Lê Lý… được ngòi bút Xuân Mai tái hiện thật sinh động” [6]. Trong

Người về chốn cũ, Xuân Mai còn “kết hợp đưa vào mạch truyện chính rất nhiều

truyện dân gian, những phong tục tập quán, những lễ hội, những trò chơi dân

gian... Có thể thấy nhà văn Xuân Mai có một vốn liếng văn học dân gian dày

dặn, phong phú và ông có ý thức dân gian hoá lịch sử nên đã chọn lọc, đưa vào

9

Người về chốn cũ những chuyện dân gian khá đắc địa, giúp cho tiểu thuyết có

không khí xã hội sinh động để nhân vật chính có đất sống và hoạt động như

thật, không bị khô cứng. Tôi rất ấn tượng với trang miêu tả về cái chết đầy bi

tráng của Trần Nguyên Hãn và đoàn người đi theo ông khi họ nhất loạt gác

chèo để thuyền lao xuống ghềnh Đông Hồ. Câu hỏi lớn của Trần Nguyên Hãn

khi ông ngửa mặt hỏi trời cao trước khi chết thật có sức lay động người đọc -

một thành công trong sáng tạo của Xuân Mai khi khép lại câu chuyện về bậc

danh tướng” [6]. Nhà văn Phạm Ngọc Chiểu đã có những đánh giá về thành

công của Xuân Mai, đặc biệt trong việc tái dựng một cách sống động nhân vật

anh hùng trong lịch sử dân tộc và đem đến cho tác phẩm một không gian lễ hội,

không gian văn hóa đậm đà bản sắc.

Chúng tôi nhận thấy các bài viết về ba tiểu thuyết lịch sử này còn chưa

nhiều và mới chỉ dừng lại ở những nhận định, đánh giá có tính chất khái quát.

Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về ba tiểu

thuyết lịch sử (Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông, Người về chốn

cũ) và về nhân vật Trần Nguyên Hãn. Tuy nhiên, những ý kiến và nhận định về

ba tiểu thuyết trên là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi tiến hành khảo sát,

nghiên cứu và triển khai đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ sự sáng tạo của ba nhà

văn khi xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn và nghệ thuật xây dựng

nhân vật qua ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người

con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ (Xuân Mai). Từ đó,

khẳng định vị trí và những đóng góp quan trọng của các tác giả trong đời sống

văn học Việt Nam hiện đại.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu sự sáng tạo của các nhà văn khi xây dựng

nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông

10

Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào) và Người về

chốn cũ (Xuân Mai). Trong những trường hợp cần thiết, chúng tôi liên hệ so sánh

với những tác phẩm cùng đề tài lịch sử để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát chủ yếu trong phạm vi ba cuốn tiểu thuyết lịch sử

Sóng hận sông Lô của nhà văn Vũ Ngọc Tiến (Nxb Hội Nhà văn, 2013), Người

con trang Sơn Đông của nhà văn Nguyễn Anh Đào (Nxb Phụ nữ, 2013) và

Người về chốn cũ của nhà văn Xuân Mai (Nxb Văn học, 2014).

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích, phát hiện những sáng tạo của các nhà văn khi xây dựng nhân

vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô

(Vũ Ngọc Tiến), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào) và Người về

chốn cũ (Xuân Mai).

Phân tích được những nét độc đáo của Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào,

Xuân Mai trong nghệ thuật xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua

ba tiểu thuyết lịch sử.

Chỉ ra những điểm giống và khác nhau của ba nhà văn khi xây dựng

nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn. Từ đó, thấy được nét riêng và phong

cách độc đáo của mỗi nhà văn.

6. Phương pháp nghiên cứu

Tiến hành luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương pháp sau đây:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi tìm hiểu phương pháp phân

tích, tổng hợp nhằm tìm hiểu tài liệu có liên quan đến đề tài. Phân tích những dẫn

chứng cụ thể, tiêu biểu để làm rõ sự sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn

qua ba tiểu thuyết lịch sử. Phương pháp tổng hợp giúp chúng tôi có cái nhìn khái

quát về vấn đề nghiên cứu và khái quát lại nội dung chính ở các chương, mục.

- Phương pháp so sánh văn học: Đặt hình tượng nhân vật anh hùng Trần

Nguyên Hãn trong tiểu thuyết lịch sử của Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào và

Xuân Mai trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, khác biệt.

11

- Phương pháp tiếp cận Thi pháp học: Phương pháp này giúp người

nghiên cứu giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi

đối tượng nghiên cứu: hình tượng nhân vật.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trong quá trình nghiên cứu, chúng

tôi có liên hệ, sử dụng một cách đúng mực kiến thức của ngành lịch sử, văn hóa

học, triết học... nhằm giúp cho việc đánh giá và nhìn nhận vấn đề nghiên cứu

được toàn diện, sâu sắc hơn.

7. Dự kiến đóng góp

Đây là công trình khoa học đầu tiên, kịp thời nghiên cứu về ba cuốn tiểu

thuyết lịch sử viết về Trần Nguyên Hãn trong văn học đương đại đã và đang thu

hút sự chú ý của người đọc. Từ công trình này, người viết muốn khẳng định vị

trí và những đóng góp của các nhà văn vào quá trình phát triển của tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam.

8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn có kết cấu 3 chương:

Chương 1: Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử và diện mạo của tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam.

Chương 2: Bức tranh đời sống xã hội và sáng tạo nhân vật anh hùng Trần

Nguyên Hãn qua ba tiểu thuyết lịch sử: Sóng hận sông Lô; Người con trang

Sơn Đông; Người về chốn cũ.

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua

ba tiểu thuyết lịch sử: Sóng hận sông Lô; Người con trang Sơn Đông; Người về

chốn cũ.

12

NỘI DUNG

Chương 1

QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ DIỆN MẠO

CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM

1.1. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử

Trong cuốn Tiểu thuyết hiện đại của hai giáo sư người Pháp Dorothy

Brevvster và Jonh Bureell, tiểu thuyết lịch sử được hiểu như sau: “Những

chuyện đó chỉ là những tiểu thuyết về quá khứ, và chỉ vì nhân nhượng mà ta gọi

là tiểu thuyết lịch sử. Gọi theo tên hiệu này hay tên hiệu khác tùy thuộc vào

cách nhà phê bình định nghĩa, đọc và ưa thích (hay chán ghét) chúng. Vì khi

thích một cuốn truyện nào thì nhà phê bình thường muốn đưa nó vào một loại

văn học có danh” [7, tr.211]. Như vậy, với quan niệm này thì tiểu thuyết lịch sử

trước tiên là tiểu thuyết viết về thời quá khứ của một dân tộc, một quốc gia nào

đó và điều quan trọng nó phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người phê

bình muốn xếp nó vào loại nào.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học lịch sử, tiểu thuyết lịch

sử được quan niệm như sau: “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa

đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện

chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng lời ăn

tiếng nói, trang phục, phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác

phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa nói chuyện đời nay, hấp thu

những bài học quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã

qua, song không vì thế mà hiện đại hóa người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử

của thể loại này” [20, tr.302].

Còn Từ điển văn học, tiểu thuyết lịch sử được quan niệm: “Tác phẩm tự

sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính. Lịch sử trong ý nghĩa khái quát,

là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội. Các khoa học xã hội (cũng được

gọi là các khoa học lịch sử) đều nghiên cứu quá khứ của loài người trong tính

13

cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy, những tiêu điểm chú ý của các sử gia lẫn

các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử, thường đều là sự hình thành, hưng

thịnh, diệt vong của các nhà nước, những biến cố lớn trong đời sống xã hội của

cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia như chiến tranh, cách

mạng..., cuộc sống và sự nghiệp của những nhân vật có ảnh hưởng đến tiến

trình lịch sử” [42, tr.1725].

Như vậy, tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng của

tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài và cảm hứng sáng tạo nghệ

thuật. Đối tượng của tiểu thuyết lịch sử là nhân vật, sự kiện, thời kỳ hay tiến

trình lịch sử. Đó có thể là một thời quá khứ xa xôi hay một thời kỳ lịch sử đặc

biệt. Tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi người viết vừa phải có kiến thức uyên bác, tỉ mỉ

của một nhà sử học, lại vừa phải có khả năng sáng tạo nghệ thuật.

Cho đến nay, có cả một hệ thống quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Trong

khuôn khổ của Luận văn, người viết xin được đưa ra quan điểm về tiểu thuyết

lịch sử của một số tác giả, nhà nghiên cứu và phê bình văn học sau:

Alexandre Dumas, nhà tiểu thuyết lịch sử người Pháp cho rằng: “Lịch sử

đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi mà thôi”

[Dẫn theo 39, tr.31]. Quan điểm của Dumas rõ ràng đứng về phía hư cấu lịch

sử, xem những sự kiện, nhân vật lịch sử chỉ là phương tiện để nhà văn viết tiểu

thuyết và gửi gắm suy nghĩ, ý tưởng riêng của mình.

Lucacs, nhà mỹ học Mác xít lớn với nhiều công trình mỹ học, trong đó

có cuốn nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử khẳng định tiểu thuyết lịch sử phải có

nhiệm vụ nghệ thuật hóa lịch sử: “Nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử là chứng

minh sự tồn tại của hoàn cảnh và nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật”

[Dẫn theo 39, tr.31].

Trong Lời đầu sách cuốn tiểu thuyết Người về chốn cũ, nhà văn Xuân

Mai đã dẫn ý kiến của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều khi bàn về tiểu thuyết lịch

sử. Theo Nguyễn Quang Thiều, các tác phẩm văn học về đề tài lịch sử cần phải

14

làm hiện lên chân lý và nhân cách của lịch sử: “Các nhà văn không phải là các

nhà sử học. Bởi vậy, sáng tạo văn học về đề tài lịch sử không phải là công việc

ghi chép các chi tiết hay tổng hợp những tư liệu về một sự kiện lịch sử, một giai

đoạn lịch sử hay một nhân vật lịch sử. Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử là làm

hiện lên chân lý và nhân cách của sự kiện lịch sử ấy và của nhân vật làm ra lịch

sử ấy... Vì vậy, trực tiếp hay hay gián tiếp thì cái cốt yếu trong tác phẩm văn

học viết về lịch sử là dựng lên nhân cách và tinh thần sống của những con

người làm nên lịch sử bằng cái nhìn vừa mang tính khoa học, vừa đầy trí tưởng

tượng phong phú của mình” [Dẫn theo 37].

Nhà văn Hoàng Quốc Hải cho rằng, công việc của người viết tiểu thuyết

lịch sử “là tái hiện lịch sử như nó có. Nhưng không phải tái hiện tất cả những gì

mà lịch sử chứa đựng. Nghĩa là phải chọn lựa những con người tiêu biểu cho cả

hai mặt thiện và ác, những con người có tác dụng chi phối lịch sử. Các sự kiện

lịch sử cũng vậy thôi, phải chọn lấy những sự kiện gây ấn tượng mang dấu mốc

tiêu biểu cho từng chặng đường lịch sử” [19]. Mặc dù là nhà văn chuyên viết

khá sát sự thực lịch sử nhưng theo Hoàng Quốc Hải, tiểu thuyết lịch sử cần có

sự hư cấu: “Cho nên lịch sử đối với nhà văn chỉ là cái cớ... Do đó nhiệm vụ

của nhà văn viết về lịch sử là giải mã lịch sử chứ không lặp lại các thông

tin lịch sử... Sự hư cấu là một tất yếu nằm trong thuộc tính của mọi loại

hình tiểu thuyết... Lại hỏi: Biên độ hư cấu đến mức nào? Đáp: Không giới

hạn” [Dẫn theo 12, tr.260-262].

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, tác giả của những cuốn tiểu thuyết lịch sử

Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa lại quan niệm: “Tôi quan

niệm rằng tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà

là phản ánh những vấn đề của con người hiện tại... Trong tiểu thuyết tất cả là

giả định để độc giả rộng quyền hư cấu tưởng tượng, độc giả là người tham dự

vào tiểu thuyết, tạo ra những góc nhìn còn ẩn khuất trong lịch sử” [28]. Như

15

vậy, lịch sử không phải là đích đến của nhà văn mà đó chỉ là cái cớ, là phương

tiện để nhà văn thể hiện cách đánh giá, nhìn nhận, suy ngẫm về nhân vật lịch sử

và sự kiện lịch sử.

Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng: “Trong quá trình sáng tác, các

nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử, vừa phải phát huy

cao độ vai trò của hư cấu, sáng tạo nghệ thuật” [11, tr.164]. Với quan niệm này,

tác giả nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật

trong tiểu thuyết lịch sử.

Trong tiểu luận đề dẫn Hội thảo về chủ đề “Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn

nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh”, Nguyễn Đăng Điệp nhận định: “Khác

với truyền thống coi lịch sử là đại lịch sử (đã xong xuôi), lý thuyết hiện đại, hậu

hiện đại khẳng định lịch sử là quá trình chưa hoàn tất mà đang được cấu tạo lại

với sự xuất hiện của các tiểu lịch sử. Tại đấy, lịch sử được hình dung như

những mảnh vỡ... Có người khẳng định, nhà văn có quyền tưởng tượng đến vô

hạn và tác phẩm của họ thực chất là cách cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá

nhân. Tại đó, có một thứ lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận

(trung tâm), và lịch sử, khi đã đi vào lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức

trên cơ sở hư cấu và nguyên tắc trò chơi vốn là một đặc trưng của nghệ

thuật” [12, tr.5-8]. Như vậy, theo quan điểm của tác giả, tiểu thuyết lịch sử cần

được sáng tạo theo quan điểm cá nhân, phát huy cao độ vai trò của yếu tố hư cấu.

Trong phần lời bạt kỷ yếu của chính Hội thảo trên, Trần Đình Sử cũng

nhận định ủng hộ cho tính hư cấu của văn học về đề tài lịch sử: “Trên thế giới

sự đổi thay của tiểu thuyết lịch sử gắn với quan niệm về lịch sử. Từ chủ nghĩa

cấu trúc đến hậu cấu trúc, từ hậu cấu trúc đến chủ nghĩa tân lịch sử người ta

nhận rõ lịch sử chỉ là sự trần thuật về lịch sử, tạo nên sự hoài nghi đối với tính

chân thực của văn bản lịch sử... Do đó, “sự thật lịch sử” là một khái niệm ẩn

dụ, mang tính chủ quan” [Dẫn theo 12, tr.467-469].

16

Tác giả Văn Giá trong bài “Tiểu thuyết lịch sử theo lối phác giản, đời

thường” đã căn cứ vào thái độ tiếp cận lịch sử của các tác giả viết tiểu thuyết

lịch sử và thấy có hai cách phổ biến: “Thứ nhất: ngợi ca, tôn vinh triều đại hoặc

nhân vật lịch sử; thứ hai, dựng lại một cách chân thực lịch sử với tất cả những

gì mà thông sử cho biết trong hầu hết những mặt tốt xấu vốn có... Ở cả hai cách

này có một điểm chung là đều lấy lịch sử thông sử làm hệ quy chiếu, từ đó nhìn

lịch sử theo một tâm thế nghiêm trang, thành kính, cách nhìn “sử thi”. Với cách

nhìn này, các nhà tiểu thuyết lịch sử lấy việc phục dựng nguyên trạng lịch sử làm

đích. Người đọc không chỉ được thỏa mãn trí tưởng tượng nghệ thuật sống động,

mà còn lĩnh hội được khá nhiều tri thức lịch sử của các thời đại đã qua” [14].

Trong bài viết “Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật”, Đỗ Ngọc Yên nhấn

mạnh người nghệ sĩ hoàn toàn có quyền tái hiện lịch sử theo cách riêng của

mình nhưng tuyệt nhiên không được phép bịa đặt ra lịch sử. Ông nói những

người sáng tác “vừa phải tôn trọng đến mức tối đa sự thật lịch sử, nhưng mặt

khác bằng cảm xúc, tài năng cá nhân, anh ta cần phải sáng tạo ra một lịch sử

khác, mà tôi gọi là lịch sử của văn học nghệ thuật. Nhưng như vậy không có

nghĩa anh ta chỉ là người sao chép lại nguyên si những sự kiện đã từng xảy ra

trong đời sống thực. Tôi rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của đại thi hào Nga

Macxim Goorki khi ông ta nói về vai trò của cảm xúc và tưởng tượng cá nhân

trong sáng tạo nghệ thuật một cách thật sự hóm hỉnh đại ý rằng: Nếu một bài

thơ viết về chiếc bánh mỳ mà không có gì khác chiếc bánh mỳ thì người ta sẽ

chọn chiếc bánh mỳ, chứ không ai chọn bài thơ cả” [56].

Trong buổi tọa đàm về cuốn tiểu thuyết lịch sử Kim thiếp vũ môn của tác

giả Thâm Giang Trần Gia Ninh, GS.TS. Trần Nho Thìn cũng thể hiện quan

niệm chung về tiểu thuyết lịch sử: "Lịch sử là tài sản chung của mọi người, nói

lịch sử là nói sự thật. Nhưng tiểu thuyết lại đòi hỏi phải hư cấu. Vậy hư cấu thế

nào thì vừa? Có lẽ nên hư cấu sao cho độc giả đã bắt đầu đọc là muốn đọc tới

17

cùng, khi ấy họ không còn câu nệ lắm với sự thật lịch sử" [Dẫn theo 22]. Tác

giả quan niệm tiểu thuyết lịch sử cần có sự kết hợp giữa sự thật lịch sử và hư

cấu nghệ thuật để tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn đối với người đọc.

Như vậy, cho đến nay những ý kiến, quan niệm về tiểu thuyết lịch sử vẫn

còn nhiều tranh luận và chưa thống nhất. Tuy nhiên, mỗi quan niệm dù nhấn

mạnh vào các khía cạnh khác nhau của thể loại, chung quy vẫn đề cập đến yếu

tố lịch sử và yếu tố tiểu thuyết - hạt nhân cốt lõi trong tiểu thuyết lịch sử.

Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Luận văn cũng xin đưa ra quan

điểm về tiểu thuyết lịch sử: Tiểu thuyết lịch sử trước hết phải là những tác

phẩm viết về đề tài lịch sử của quá khứ, với những gì đã diễn ra trong quá khứ,

được khuất lấp trong một khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, nhiệm vụ của nhà

văn không phải là khôi phục lịch sử, tái tạo lịch sử cho người đọc. Nhiệm vụ đó

là của nhà Sử học. Nhà văn và người đọc, không nên mặc định, “đóng đinh”

trong cái gọi là “sự thật lịch sử”. Thực ra, viết tiểu thuyết lịch sử không phải là

kể lại lịch sử mà cần có sự hư cấu, sáng tạo của một tác phẩm nghệ thuật. Sự

hư cấu, sáng tạo đó tạo nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo và đặc sắc.

Nhà văn không phán xét, không mong muốn thay đổi lịch sử mà thể hiện cách

cắt nghĩa, lý giải vấn đề để rút ra những bài học nhân sinh sâu sắc. Qua những

tác phẩm đó, nhà văn đem đến cho người đọc một cái nhìn, một quan điểm, một

tư tưởng... về lịch sử.

1.2. Diện mạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

1.2.1. Tiểu thuyết lịch sử trong văn học trung đại

Văn học Việt Nam phát triển gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của lịch

sử. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ trung đại là một bộ phận không nhỏ

trong di sản văn học dân tộc. Trong thời kỳ văn học trung đại, xuất hiện các bộ

tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán như: Nam triều công nghiệp diễn chí

(Nguyễn Khoa Chiêm), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Hoàng

Việt long hưng chí (Ngô Giáp Đậu), Việt Lam tiểu sử (Lê Hoan)... Trong các bộ

18

tiểu thuyết lịch sử này, nhà văn đã trung thành tuyệt đối với các sự kiện lịch sử,

nhân vật lịch sử. Tác giả là một thư ký cần mẫn, ghi chép khá đầy đủ và chi tiết

những bước đi của lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này rất gần với sử kí. Đọc

những tác phẩm này, người đọc có thể tìm thấy nhiều tư liệu lịch sử chính xác.

Nam triều công nghiệp diễn chí (truyện kể về công lao sự nghiệp của

Nam triều) là một tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán (có khoảng 8

tập) của Nguyễn Khoa Chiêm viết vào khoảng thế kỷ 18. Đây có thể coi “là tác

phẩm mở đầu cho thể loại thiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại...

Trên nền những sự kiện lịch sử thế kỷ 16 - 17, thân thế, hành trang, tính cách

của nhiều nhân vật lịch sử cũng hiện lên khá rõ” [42, tr.1033].

Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái) là tác phẩm văn xuôi đầu

tiên có quy mô lớn (17 hồi) của một bộ sử thi. Tác phẩm đã hội tụ được tinh

hoa của văn xuôi tự sự trung đại và giữ một vị trí quan trọng trong dòng tiểu

thuyết lịch sử chương hồi ở Việt Nam.

Tác phẩm chủ yếu phản ánh cuộc tranh chấp quyền lực giữa các tập

đoàn phong kiến thời Lê mạt và phong trào Tây Sơn. Thời gian miêu tả tác

phẩm trong khoảng hơn 30 năm cuối thế kỷ 18, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa

(1767) đến lúc Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802). Đây chính là giai đoạn rất

nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam, cả cơ cấu xã hội phong kiến cùng

những hình thái ý thức, tư tưởng, đạo đức bị đảo lộn và lay chuyển tận gốc.

Thành công lớn nhất của tiểu thuyết này là xây dựng được những nhân

vật điển hình đa dạng, vừa khái quát, vừa sâu sắc. Tác phẩm đã xây dựng được

một thế giới nhân vật phong phú gồm vua chúa, văn thần, võ tướng, con buôn,

cung tần mĩ nữ, trí thức... Các nhân vật được khắc họa sinh động và có cá tính

rõ nét. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa mang giá trị văn học và xứng đáng

là đỉnh cao của văn xuôi tự sự trung đại.

Sau khi đạt đến đỉnh cao với Hoàng Lê nhất thống chí, tiểu thuyết

chương hồi rơi vào tình trạng bế tắc nhưng còn lại hai đại diện cuối cùng là

Hoàng Việt long hưng chí (Ngô Giáp Đậu) và Việt Lam tiểu sử (Lê Hoan).

19

Hoàng Việt long hưng chí là tiểu thuyết chương hồi (34 hồi) của Ngô

Giáp Đậu được hoàn thành năm 1904. Tác phẩm kể lại quá trình hưng vương

của Hoàng đế Gia Long trong giai đoạn lịch sử nửa sau thế kỷ XVIII, đầu thế

kỷ XIX. Đồng thời, tiểu thuyết chương hồi này còn chỉ ra nguyên nhân sụp đổ,

lụn bại của phong trào Tây Sơn. Trong tác phẩm này, Ngô Giáp Đậu chú trọng

nhiều đến sự kiện mà ít chú ý tới việc xây dựng tính cách nhân vật. Tác giả ghi

chép khá tỉ mỉ, chi tiết từng bước đi của quá trình “long hưng”. Với Hoàng Việt

long hưng chí, Ngô Giáp Đậu đã làm sống lại dòng chảy của tiểu thuyết

chương hồi ở Việt Nam trong giai đoạn xế chiều, đồng thời ông cũng khẳng

định được một vị trí xứng đáng trong tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.

Việt Lam tiểu sử (Lê Hoan) là tác phẩm có quy mô rộng lớn (gồm 60

hồi), phản ánh những biến cố lịch sử quan trọng ở thế kỷ XV. Đó là cuộc khởi

nghĩa Lam Sơn với chiến công của người anh hùng Lê Lợi. Là một đại biểu

cuối cùng của tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam, tác phẩm đã có những bước

phát triển về mặt thể loại để chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại ở

giai đoạn sau.

Có thể nói, các tiểu thuyết lịch sử trung đại đã xây dựng thành công một

số nhân vật điển hình, tuy nhiên cách miêu tả theo lối ước lệ tượng trưng vẫn là

phương thức miêu tả chính mà các tác giả lựa chọn. Các nhân vật được chú ý

nhiều ở hành động, tâm lý nhân vật ít được đề cập đến, và mức độ đề cập cũng

đơn giản hơn chứ không phức tạp như trong tiểu thuyết hiện đại. Diễn biến tâm

lý nhân vật chỉ mang tính chất mô tả chứ chưa thực sự đi sâu vào miêu tả thế

giới tâm lý tinh vi, phức tạp trong tâm hồn nhân vật.

1.2.2. Tiểu thuyết lịch sử từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945

Đầu thế kỷ XX là giai đoạn diễn ra quá trình hiện đại hóa văn học Việt

Nam. Nó đưa văn học dân tộc rời khỏi phạm trù trung đại đến với phạm trù

hiện đại. Từ đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử bắt đầu có những chỗ đứng

vững chắc trong nền văn học và trở thành lực lượng nòng cốt cho sự phát triển

20

của văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này phát triển mạnh

mẽ cả về số lượng và chất lượng. Có thể kể đến các tác phẩm như Trùng Quang

tâm sử (Phan Bội Châu); Vua Hàm Nghi, Vua Quang Trung, Bánh xe khứ quốc

(Phan Trần Chúc); Tiếng sấm đêm đông, Đinh Tiên Hoàng, Vua Bố Cái, Trần

Nguyên chiến kỉ, Hai Bà đánh giặc, Mai Hắc Đế, Lý Nam Đế (Nguyễn Tử

Siêu); Hòm đựng người, Bà Chúa Chè, Chúa Trịnh Khải (Nguyễn Triệu Luật);

Chiếc ngai vàng, Cái hột mận, Ai lên Phố Cát (Lan Khai); Vua Hàm Nghi với

việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thám (Ngô Tất Tố); Đêm hội Long Trì, An

Tư (Nguyễn Huy Tưởng); Giọt máu chung tình, Gia Long phục quốc (Tân Dân

Tử); Lê Thái Tổ (Chu Thiên)...

Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này mang nội dung yêu nước sâu sắc. Các tác

phẩm đã ca ngợi những tấm gương yêu nước, căm thù giặc, những trang anh

hùng, những liệt nữ đã hi sinh cho sự nghiệp giữ gìn non sông đất nước. Những

nhân vật lịch sử đều đẹp một cách lý tưởng, thể hiện sự sùng bái, ngưỡng vọng

của cả cộng đồng. Các tác phẩm tiêu biểu cho nội dung này có thể kể đến

Trùng Quang tâm sử (Phan Bội Châu); Tiếng sấm đêm đông (Nguyễn Tử Siêu);

Giọt máu chung tình (Tân Dân Tử); Trần Nguyên chiến kỉ, Hai Bà đánh giặc

(Nguyễn Tử Siêu)... Đây là thời kỳ đất nước ta đang chịu cảnh áp bức, đô hộ

của thực dân Pháp. Trước thực tại đất nước, đã có nhiều phong trào yêu nước

nổi lên mạnh mẽ như phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam

Quang phục hội... Những phong trào yêu nước đó đã tác động tới các nhà viết tiểu

thuyết lịch sử để họ cho ra đời những tác phẩm có nội dung yêu nước sâu sắc.

Bên cạnh nội dung yêu nước, tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này còn mang

nội dung thế sự. Nhà văn lựa chọn viết về những giai đoạn lịch sử đầy biến

động, phức tạp của đất nước. Các tác giả đã đi sâu khai thác nhằm phơi bày

thực trạng xã hội: số phận bất hạnh của những người dân thường, quan lại

phong kiến dâm loạn, tàn ác... Các tác phẩm tiêu biểu cho nội dung này có thể

21

kể đến như Đinh Tiên Hoàng (Nguyễn Tử Siêu); Cái hột mận, Ai lên phố cát

(Lan Khai); Đêm hội Long Trì (Nguyễn Huy Tưởng)...

Tiểu thuyết lịch sử đầu thế kỷ XX đến năm 1945 có sự vận động đa

dạng, phong phú và nổi bật ở một số xu hướng chính:

Thứ nhất là “xu hướng thông qua việc khắc họa hình ảnh những người

anh hùng yêu nước để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, khích lệ ý thức trách

nhiệm của người dân đối với vận mệnh đất nước” [39, tr.45]. Nhà Nho, nhà chí

sĩ cách mạng Phan Bội Châu là người tiêu biểu cho cách viết này.

Thứ hai, xu hướng “khai thác những chuyện thật của lịch sử đan xen với

truyền thuyết” [39, tr.45]. Nguyễn Tử Siêu, Tân Dân Tử... là những người tiêu

biểu cho xu hướng này.

Thứ ba, “xu hướng khai thác những câu chuyện thế sự, đời tư trong đề tài

lịch sử, cách viết in đậm màu sắc lãng mạn, đã li khai hoàn toàn với tiểu thuyết

chương hồi” [39, tr.45]. Tiểu biểu cho xu hướng này là các tác giả Phan Trần

Chúc, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật...

Thứ tư, “xu hướng xem lịch sử chỉ là cái cớ để nhà văn triển khai những

băn khoăn, trăn trở về thân phận con người, về ý thức công dân và sứ mệnh của

nghệ thuật” [39, tr.45]. Người viết đã phát huy khả năng sáng tạo, hư cấu nghệ

thuật. Tiêu biểu cho xu hướng này là lối viết của Nguyễn Huy Tưởng. Xu

hướng này đặt nền móng và được phát huy rất mạnh ở giai đoạn sau, đặc biệt là

từ năm 1986 đến nay với nhiều tiểu thuyết lịch sử có tiếng vang lớn của văn

học Việt Nam.

Tóm lại, tiểu thuyết lịch sử đầu thế kỷ XX đến năm 1945 bước đầu đã có

những cách tân về nghệ thuật nhằm hiện đại hóa thể loại. Tuy nhiên, tiểu thuyết

lịch sử thời kỳ này nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn

học trung đại. Tiểu thuyết lịch sử vẫn chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương

hồi, kết cấu thời gian đơn tuyến. Nhân vật chủ yếu được khắc họa qua hành

động. Tâm lý nhân vật ít được miêu tả và chưa rõ nét. Yếu tố độc thoại nội tâm

22

đã bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn còn mờ nhạt. Lối diễn đạt còn chịu ảnh hưởng

của câu văn biền ngẫu, sử dụng nhiều điển tích, điển cố...

1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử từ năm 1945 đến 1985

Cách mạng Tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc bước sang một trang

mới. Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra một bước ngoặt mới cho nền văn học dân tộc.

Từ năm 1945 đến năm 1985, đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố lịch sử trọng

đại. Trong vòng 30 năm (1945-1975), dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc

kháng chiến với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Sau 1975, đất nước được giải

phóng và đứng trước những nhiệm vụ không nhỏ: bảo vệ Tổ quốc và xây dựng

đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn học Việt Nam đã nảy nở, phát

triển trong bối cảnh lịch sử ấy. Chính vì vậy, văn học đã gắn bó chặt chẽ với

từng bước đi của lịch sử, với vận mệnh dân tộc và đời sống nhân dân. Văn học

đi sâu phục vụ Cách mạng, phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc. Trước bối

cảnh hiện thực của đất nước thời kỳ này, thơ trữ tình, kí, truyện ngắn là những

thể loại phát triển mạnh.

Trước yêu cầu thúc bách của thời đại, tiểu thuyết lịch sử vẫn duy trì được

một quá trình phát triển liên tục. Các tiểu thuyết lịch sử vẫn thực hiện sứ mệnh

cao cả của văn học nghệ thuật đó là cổ vũ, ca ngợi cuộc chiến đấu, ca ngợi chủ

nghĩa anh hùng cách mạng; đồng thời giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân

tộc và ý chí đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Nhân vật quần chúng được các

nhà văn chú ý khắc họa, mang vẻ đẹp tiêu biểu của cộng đồng. Do đó, tiểu

thuyết lịch sử thời kỳ này mang đậm âm hưởng sử thi. Các tác phẩm tiêu biểu

như Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi, Người Thăng Long (Hà Ân); Hùng

khí Thăng Long, Bóng nước Hồ Gươm (Chu Thiên); Cờ nghĩa Ba Đình, Biến

động (Thái Vũ); Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng); Sao Khuê lấp lánh

(Nguyễn Đức Hiền); Đô đốc Bùi Thị Xuân (Quỳnh Cư); Lá cờ thêu sáu chữ

vàng, Kể chuyện Quang Trung (Nguyễn Huy Tưởng) ...

23

Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã hoàn toàn được hiện đại hóa, thoát khỏi

lối viết của tiểu thuyết chương hồi, trong diễn đạt không còn kiểu câu văn biền

ngẫu. Đồng thời, các nhà văn đã có sự sáng tạo, hư cấu nghệ thuật ở một chừng

mực nhất định để tạo nên những hình tượng nghệ thuật sinh động, đặc sắc.

Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1945 - 1985 nổi bật ở một số xu hướng như sau:

Thứ nhất, “khắc họa những sự kiện trọng đại nhằm lý giải dấu mốc bi

tráng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc” [39, tr.51]. Tiểu biểu là

tác phẩm Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), Bóng nước Hồ Gươm (Chu Thiên)...

Thứ hai, “khắc họa kiểu nhân vật quần chúng nhân dân, qua đó làm sống

dậy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc” [39, tr.52]. Đây là xu hướng phát

triển rất mạnh ở giai đoạn này. Tiêu biểu là những tác phẩm như Quận He khởi

nghĩa (Hà Ân), Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng)...

Thứ ba, “khắc họa những vĩ nhân, danh nhân trong lịch sử” [39, tr.52].

Xu hướng này phát triển mạnh ở cả hai chặng đường trước và sau năm 1985.

Tiêu biểu là các tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng),

Người Thăng Long (Hà Ân)... Tuy nhiên, việc khắc họa những anh hùng lịch sử

ở hai giai đoạn trước và sau năm 1985 của các nhà văn cũng có sự khác nhau.

Trước năm 1985, các nhà văn xuất phát từ điểm nhìn của lịch sử khi miêu tả

nhân vật. Các tác giả nhìn nhận nhân vật trong mối quan hệ với cộng đồng, với

vai trò xã hội. Sau năm 1985, các nhà văn đặt nhân vật dưới nhiều điểm nhìn

khác nhau như điểm nhìn lịch sử, điểm nhìn văn hóa... khi miêu tả nhân vật

lịch sử. Nhân vật một mặt được nhìn nhận trong mối quan hệ với cộng đồng

và xã hội, một mặt được chú ý ở góc độ con người đời thường. Bên cạnh vẻ

đẹp của một anh hùng, vĩ nhân, các nhân vật lịch sử còn hiện lên gần gũi, chân

thực, đời thường.

Tóm lại, tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã tạo dựng được một bức tranh

hoành tráng về lịch sử và khắc họa được những nhân vật lịch sử có tính cách đa

dạng, có chiều sâu nội tâm. Tuy nhiên, so với các thể loại khác (thơ trữ tình, kí,

24

truyện ngắn) thì tiểu thuyết lịch sử phát triển kém sôi động hơn. Thời gian này,

số nhà văn quan tâm đến thể loại văn học lịch sử chưa có nhiều. Nền văn học

nước nhà đang phải đảm nhiệm vai trò phục vụ trước mắt hai cuộc chiến tranh

cứu nước và giải phóng dân tộc, cho nên thể loại văn học lịch sử hiện đại của

chúng ta chưa phát triển mạnh. Mặc dù chưa có được những tác phẩm thật sự

xuất sắc, gây được tiếng vang lớn nhưng tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này vẫn có

những tìm tòi, thể nghiệm riêng so với giai đoạn trước đó.

1.2.4. Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới (Từ năm 1986 đến nay)

Với phương châm đổi mới để tồn tại và phát triển, Đại hội Đảng lần VI

(1986) đã mở ra bước ngoặt, đem lại những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về

nhiều mặt. Tinh thần “đổi mới tư duy” đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân

chủ hóa trong văn học phát triển mạnh mẽ. Xu hướng dân chủ hóa được biểu

hiện trên nhiều bình diện của sáng tác văn học, từ đề tài, chủ đề, cốt truyện, kết

cấu cho đến giọng điệu và ngôn ngữ. Tinh thần đổi mới, dân chủ đã khơi dậy

những suy nghĩ, những tìm tòi, sáng tạo mới trong giới văn nghệ sĩ. Nó đã

truyền được cảm hứng, tạo dựng không gian văn hóa mới cho những khao khát

của người nghệ sĩ thăng hoa để cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật có sức

sống mạnh mẽ. Để đem lại sự chuyển biến sâu sắc, mới mẻ về tư tưởng và nghệ

thuật tiểu thuyết, các tác giả tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã có những thể

nghiệm, tìm tòi và cách tân độc đáo.

Với việc tự do sáng tác được mở rộng, đề tài lịch sử bắt đầu sống lại và

trở thành một trong những đề tài chủ chốt của văn học. Tiểu thuyết lịch sử

nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng với những bộ tiểu thuyết cỡ lớn, như

muốn chứng minh cho tiềm năng bị bỏ quên của nó. Quả thực, văn học giai

đoạn này đang chứng kiến sự xuất hiện của một loạt tiểu thuyết lịch sử có tiếng

vang. Có thể nói, tiểu thuyết lịch sử đang lên ngôi trên văn đàn Việt Nam. Các

tác phẩm tiêu biểu như: Gươm thần vạn kiếp (Ngô Văn Phú); Bão táp cung

đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ (Hoàng

25

Quốc Hải); Danh tướng Trần Hưng Đạo, Vằng vặc sao Khuê (Hoàng Công

Khanh); Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác); Gió lửa (Nam Dao); Mười hai

sứ quân, Hào kiệt Lam Sơn, Bắn rụng mặt trời (Vũ Ngọc Đĩnh); Hồ Quý Ly,

Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh); Quân sư Nguyễn

Trãi (Trần Bá Chí); Lê Lợi, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Nam Đế (Hàn Thế

Dũng); Giàn thiêu (Võ Thị Hảo); Trần Quốc Toản (Lưu Sơn Minh); Tây Sơn bi

hùng truyện (Lê Đình Danh); Đàn đáy (Trần Thu Hằng); Hội thề (Nguyễn

Quang Thân); Sóng hận Sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người về chốn cũ (Xuân

Mai); Tể tướng Lưu Nhân Chú (Hồ Thủy Giang), Người con trang Sơn Đông

(Nguyễn Anh Đào)...

Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới đã thể hiện khát vọng vượt thoát cái

cũ, truy tìm cái mới trong sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử. Từ góc nhìn của

chủ thể sáng tạo, giờ đây văn học không chỉ là tiếng nói của dân tộc, cộng đồng

mà còn là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương thức tự biểu hiện bao

gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà văn về xã hội và

con người. Nhà văn có quyền bày tỏ công khai sự nhận thức của cá nhân trước

những chân lý tưởng như bất di bất dịch, giải thiêng các thần tượng, nghi ngờ

những tín điều, đề xuất những chuẩn mực mới. Cái nhìn của nhà văn giai đoạn

này mang màu sắc và kinh nghiệm cá nhân rõ nét. Các tác giả thiên về luận giải

lịch sử hơn là mô tả, minh họa lịch sử.

Chẳng hạn trong Người về chốn cũ, nhà văn Xuân Mai đã đưa ra một

cách nhìn nhận, luận giải mới về người anh hùng Trần Nguyên Hãn. Bên cạnh

một Trần Nguyên Hãn anh hùng, còn có một Trần Nguyên Hãn gần gũi, đời

thường, luôn có những suy tư trăn trở để giữ đạo trung hiếu, để đem lại cuộc

sống no ấm cho nhân dân. Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh),

nhân vật Hồ Quý Ly cũng được nhà văn xây dựng “với những kiến giải rất

riêng, lý giải theo một góc độ mới, đó là một vị anh hùng đa mưu túc trí, nhiều

26

tham vọng, lắm toan tính, một nhà tư tưởng lớn, một con người có đời sống nội

tâm phong phú” [53].

Có thể nhận diện tiểu thuyết lịch sử ở giai đoạn này có một số xu hướng

chính như sau:

Thứ nhất, “tái hiện những sự kiện lịch sử theo lối biên niên, kết cấu theo

kiểu chương hồi của truyền thống” [39, tr.57]. Đây là xu hướng phát triển mạnh

từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 do ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi

truyền thống thời trung đại. Từ năm 1945 đến 1985, khi công cuộc hiện đại hóa

văn học đã hoàn tất thì xu hướng này không còn nữa. Từ sau 1985, các nhà tiểu

thuyết đã mượn mô hình kết cấu chương hồi quen thuộc để làm mới truyền

thống từ cái nhìn hiện đại về cách khắc họa nhân vật, ngôn ngữ. Số lượng

những tác phẩm viết theo hướng này không nhiều, tiêu biểu như Mười hai sứ

quân, Hào kiệt Lam Sơn, Bắn rụng mặt trời (Vũ Ngọc Đĩnh); Tây Sơn bi hùng

truyện (Lê Đình Danh).

Thứ hai, “khắc họa những nhân vật lịch sử nổi tiếng và suy tư về các vấn

đề đương đại” [39, tr.58]. Xu hướng tiểu thuyết lịch sử này phát triển mạnh ở

thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI bởi nó thể hiện đủ nhất những đặc trưng của thể

tài khi viết về những nhân vật có vai trò quan trọng đối với lịch sử dân tộc.

Tiêu biểu cho xu hướng này là những tác phẩm: Danh tướng Trần Hưng Đạo,

Vằng vặc sao khuê (Hoàng Công Khanh); Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh);

Lê Lợi, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh (Hàn Thế Dũng)...

Thứ ba, “khắc họa cả một thời đại lịch sử lớn với nhiều sự kiện, nhiều

nhân vật” [39, tr.59]. Ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, xu hướng này chưa phát

triển. Đến giai đoạn 1945-1985, xu hướng này bắt đầu xuất hiện và sau 1985 thì

xu hướng này phát triển mạnh. Tiêu biểu cho xu hướng này là bộ tiểu thuyết về

triều Trần của Hoàng Quốc Hải (Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận,

Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ); trường thiên tiểu thuyết Sông Côn

mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác...

27

Thứ tư, “mượn lịch sử để gửi gắm những vấn đề thế sự” [39, tr.59]. Xu

hướng này đã xuất hiện trước năm 1945 với những sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng (Đêm hội Long Trì), Nguyễn Triệu Luật (Bà Chúa Chè), Lan Khai (Cái

hột mận). Từ năm 1945 đến 1985, xu hướng này tạm thời bị gián đoạn và sau

1985 thì tiếp tục phát triển mạnh.

Thứ năm, “tái hiện những vấn đề về lịch sử - văn hóa” [39, tr.59]. Xu

hướng này chỉ xuất hiện sau năm 1985. Những tác phẩm viết theo xu hướng

này có sự hòa trộn giữa văn hóa, phong tục và lịch sử. Tiêu biểu là các tác

phẩm Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Đất trời (Nam Dao)... Trong

bầu không khí dân chủ và tự do sáng tạo, các nhà văn đã có những tìm tòi, cách

tân trong thể tài lịch sử. Lịch sử trong tiểu thuyết lúc này trở thành lịch sử trong

cảm nhận cá nhân, được nhà văn nhìn nhận bằng điểm nhìn văn hóa, triết học

và thụ hưởng trên tinh thần nhân văn hiện đại.

Thứ sáu, “tái hiện những phần khuất lấp và “xét lại” nhân vật lịch sử”

[39, tr.60]. Đây là xu hướng chỉ phát triển từ sau năm 1985. Tiêu biểu là Giàn

thiêu (Võ Thị Hảo), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khuê), Vua Minh Mạng (Hoài

Anh). Tiểu thuyết lịch sử đã thể hiện những suy tư về đời sống của các nhà văn.

Các cây bút tiểu thuyết đã thoát khỏi những ràng buộc trong sáng tạo nghệ

thuật để trình bày những suy ngẫm, chiêm nghiệm của cá nhân.

Tóm lại, trong không khí dân chủ của thời kỳ đổi mới, các nhà văn đã có

sự đổi mới, cách tân mạnh mẽ trong sáng tạo nghệ thuật. Tiểu thuyết lịch sử

giai đoạn này có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều xu hướng và có những đóng

góp quan trọng cho sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử nói riêng, văn học Việt

Nam nói chung.

Tiểu kết chương 1

Hiện nay, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau về tiểu thuyết lịch sử.

Xuất phát từ đặc trưng của thể loại tiểu thuyết nên quan niệm về tiểu thuyết lịch

sử rất phong phú, linh hoạt, mỗi quan niệm thường nhấn mạnh vào một đặc

điểm nào đó của thể loại. Tuy chưa có sự thống nhất nhưng các quan niệm về

28

tiểu thuyết lịch sử chung quy vẫn đề cập đến yếu tố lịch sử và yếu tố tiểu

thuyết, giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật.

Trải qua những giai đoạn khác nhau, tiểu thuyết lịch sử vẫn duy trì được

một quá trình phát triển liên tục. Ở mỗi giai đoạn, tiểu thuyết lịch sử đều có

những thành tựu trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Những tác phẩm

về đề tài lịch sử ngày càng khẳng định được vị trí trên văn đàn và đóng góp vào

sự phát triển chung của nền văn học dân tộc.

29

Chương 2

BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO NHÂN VẬT

ANH HÙNG TRẦN NGUYÊN HÃN QUA BA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ:

SÓNG HẬN SÔNG LÔ; NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG;

NGƯỜI VỀ CHỐN CŨ

2.1. Hình ảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XV qua ba tiểu thuyết lịch sử:

Sóng hận sông Lô; Người con trang Sơn Đông; Người về chốn cũ

Lịch sử là đề tài truyền thống của nền văn học dân tộc. Viết về đề tài

này, mỗi nhà văn đều tìm về một thời kỳ và một giai đoạn lịch sử khác nhau để

thể hiện sự chiêm nghiệm về con người, về thời đại. Bức tranh đời sống xã hội

ở từng giai đoạn lịch sử được các nhà văn dựng lên sinh động, hấp dẫn, giúp

người đọc như được sống lại thời kỳ quá khứ xa xưa.

Qua ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người con

trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ (Xuân Mai), các nhà

văn đã tái hiện cho chúng ta thấy phần nào hình ảnh xã hội Việt Nam đầu thế

kỷ XV. Đó là thời kỳ với những biến động xã hội dữ dội và là một trong những

trang sử bi tráng, hào hùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Sau khi nhà Hồ sụp đổ, đất nước ta rơi vào thảm cảnh chịu sự áp bức, đô

hộ của giặc Minh. Những nơi chúng chiếm đóng, bốn bề đều “tua tủa những

cung tên, giáo mác trông như một con ác thú ngày đêm rình rập, bất ngờ nuốt

chửng con mồi” [9, tr.24]. Đi đến đâu cũng thấy bóng dáng, tội ác của kẻ thù:

“Dọc đường đi, chỗ nào cũng thấy cảnh quân Ngô ức hiếp dân lành, săn bắt gà

lợn, cưỡng bức con gái” [9, tr.53]. Sự hiện diện của chúng đã gây bao cảnh

tang tóc, đau thương cho nhân dân Đại Việt: “Phía trước mặt hai người, sau lũy

tre làng có mấy cột khói đang cuồn cuộn bốc cao. Từ nơi ấy rất nhiều tiếng nổ

“đùng, đoàng” rộ lên liên tiếp. Không cần hỏi Trần Nguyên Hãn cũng biết, bọn

giặc Minh đang đốt nhà, cướp của của nhân dân. Dọc đường vào Lam Sơn,

Trần Nguyên Hãn không còn nhớ đây là lần thứ mấy phải chứng kiến cảnh

30

tượng này?” [37, tr.117-118]. Tội ác của chúng đối với nhân dân ta không thể

nào mà kể hết được. Chúng đốt phá, cướp bóc, bắt đàn bà con gái để thỏa mãn

dục vọng tầm thường: “Giặc Minh đi đến đâu thì chó, gà vắng đến đấy. Của tha

hồ chúng cướp, người chúng tha hồ giết. Đàn bà, con gái chúng bắt vào đồn

làm hầu hạ, làm đồ chơi” [37, tr.119]. Nỗi đau của chúng gây ra cho nhân dân

Đại Việt là quá lớn. Bàn tay chúng nhúng đầy máu và tội ác. Chúng đã gây ra

biết bao cảnh bất nhân, bất nghĩa trên mảnh đất Đại Việt.

Giặc Minh sang xâm lược nước ta với chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ”.

Thực chất, âm mưu của chúng là để vơ vét tài nguyên của đất nước, để làm chủ

một vùng đất phía Nam với nhiều sản vật quý hiếm mà cha ông chúng đã nhòm

ngó từ lâu: “Quan lại nhà Minh đã thi hành chính sách triệt để cướp bóc, vơ vét

từ trâu bò, voi ngựa, thóc gạo, thuyền bè đến vàng bạc, châu báu. Tất cả các

nghề thủ công, buôn bán đều bị bọn chúng đánh thuế. Nhân dân khắp nơi còn

bị chúng cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc; Xuống biển mò ngọc trai; Lên rừng

khai thác lâm thổ sản cùng các hương liệu quý. Rồi đi lao dịch. Thợ thủ công,

dân phu, phụ nữ, trẻ em, đào hát, phường nhạc cùng nhiều người khác bị bắt

đem về Trung Quốc làm nô tì, phục vụ cho bọn quan lại nhà Minh. Quân Minh

còn cướp ruộng đất của nông dân xung quanh Trại đóng quân của chúng, biến

thành đồn điền cho quân lính đi cày, cấy” [37, tr.95]. Chúng đã thi hành chính

sách vơ vét đến tận cùng khiến đời sống của nhân dân ta điêu đứng, làng xóm

hoang tàn. Tội ác chồng chất của chúng đến “trúc Lam Sơn không ghi hết tội”,

“nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Tác giả cũng đã để cho nhân dân lao

động cất lên tiếng nói căm phẫn đến đau đớn, tột cùng: “Dân tình chúng tôi khổ

lắm ông ơi! Cùng với phải đóng sưu cao thuế nặng, bà con còn phải vào rừng

sâu tìm sa nhân, bẫy bắt hươu đen, rồi thì đi xây nhà, đắp lũy. Làm không

được, bọn chúng đánh đập rất dã man: Người lớn bị thiêu sống, trẻ con bị chôn

sống” [37, tr.145]. Giặc Minh gieo rắc tội ác trên khắp mọi miền. Hễ ở đâu có

bóng dáng chúng thì ở đó nhân dân không được hưởng yên vui, no ấm. Đời

31

sống của nhân dân lao động chông chênh như đang đứng trên miệng bờ vực

thẳm. Để xây dựng thành Xương Giang vững chắc, chúng đã huy động hết sức

người, sức của khiến bà con điêu đứng, lầm than. Bà con “khắp vùng Lạng

Giang này, từ người trẻ đến người già đều phải đến Xương Giang làm lao dịch.

Nào khoét đồi lấy đất, nào đào hầm hào, nào đóng gạch, nào nung gạch ngói,

nào xây thành, nào xây dinh thự. Thôi thì, việc gì dân cũng phải làm. Biết bao

người dân hiền lành đã ngã xuống làm nền móng cho thành Xương Giang cao

chất ngất như bây giờ” [37, tr.179].

Không chỉ đốt phá, vơ vét tài sản của nhân dân, chúng còn tàn phá những

công trình văn hóa, tâm linh của người Việt. Ngôi chùa Thiên Ân “có tòa chính

điện bằng gỗ đã bị giặc Minh đốt trụi, chỉ còn trơ lại nền gạch vỡ nát, loang lổ

những dấu vết ám khói, mọc đầy cỏ dại. Tăng đường và trai đường phía sau tòa

chính điện cũng đổ nát, hoang tàn theo phong hóa của thời gian” [52, tr.134].

Nhiều “đình chùa miếu mạo bị triệt phá” [37, tr.159] bởi âm mưu thâm độc của

kẻ thù. Những nơi chúng đến, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đã bị xóa

sạch. Chúng tàn phá không thương tiếc tất cả những gì thuộc về sản phẩm trí

tuệ của dân tộc ta, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa.

Điều còn làm nên thành công của ba tiểu thuyết là các tác giả đã tái dựng

không khí chiến trận hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà người đứng

đầu là anh hùng Lê Lợi. Trước cảnh nước mất, nhà tan, người anh hùng xứ

Thanh đã kêu gọi hào kiệt bốn phương tụ nghĩa để đánh đuổi giặc Minh xâm

lược. Những buổi đầu, nghĩa quân còn gặp nhiều khó khăn do lương thực, binh

lính còn ít, lại chỉ làm chủ một vùng đất nhỏ hẹp. Dưới sự lãnh đạo xuất chúng

của Lê Lợi, cùng với sự đoàn kết đồng lòng của anh em tướng sĩ và sự ủng hộ

của nhân dân, nghĩa quân Lam Sơn ngày một lớn mạnh và làm chủ một vùng

đất đai rộng lớn. Đó chính là cơ sở giúp cho Lê Lợi và nghĩa quân tấn công triệt

hạ những nơi trọng yếu cuối cùng của giặc để giải phóng đất nước. Những trận

32

chiến đó chính là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, làm cho kẻ thù kinh hồn bạt

vía: “Đoàn quân Bắc tiến dũng mãnh của Bình Định vương chia làm ba cánh

quân ào ạt tràn về bao vây thành Đông Quan. Từng cánh quân theo kế sách của

Nguyễn Trãi trên đường ra Bắc lại chia nhiều mũi nhỏ tỏa ra chiếm giữ các

vùng quê trù phú ở đồng bằng và trung du Bắc Hà nên khi hợp quân thành ba

hướng bao vây Đông Quan thì cả một vùng lãnh thổ rộng lớn đã rợp bay cờ

nghĩa Lam Sơn” [52, tr.66]. Chiến thắng của quân ta trước kẻ thù xâm lược

ngày càng giòn giã: “Lúc này, thế quân ta như chẻ tre, vừa đánh vừa reo hò

khoa trương thanh thế. Quân địch chống cự một cách yếu ớt, nhiều tên bó giáo

xin hàng, còn lại, sẵn sàng chờ cho quân ta bắt sống để mong toàn được tính

mạng” [9, tr.166]. Trước thanh thế và sức mạnh như nước vỡ bờ của nghĩa

quân, giặc Minh đã thất bại thảm hại. Vương Thông ngoan cố là vậy nhưng

cuối cùng cũng phải quy hàng “khi thấy đầu Thôi Tụ treo trước cổng thành nhe

răng cùng với ấn tín, giáp trụ của An Viễn hầu Liễu Thăng” [9, tr.173].

Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân được sống trong cảnh yên vui,

no ấm. Khắp mọi miền Tổ quốc đang tràn ngập một sinh khí mới: “Mùa xuân

Đại Việt năm nay đến sớm. Mới tết Ông Táo mà hoa đào ở các làng Nhật Tân,

Quảng Bá, Nghi Tàm... đã thi nhau đua nở. Phía Nam kinh thành, làng Hoàng

Mai cũng bắt đầu ánh lên màu vàng của những cánh hoa mai ôm lấy những giọt

sương sớm long lanh ngũ sắc” [9, tr.183]. Thiên nhiên đua nhau khoe sắc như

đón mừng ngày vui độc lập, như báo hiệu cuộc sống đủ đầy của người dân lao

động: “Cành đào, cành mận bung nở những chùm hoa khoe sắc màu rực rỡ.

Hoa chanh, hoa bưởi trong vườn cũng đang vào độ mãn khai. Những làn gió

xuân thổi đung đưa ngọn cờ lau lả lướt ngoài bờ sông. Trong các xóm ngõ, chỗ

nào cũng ngan ngát mùi hương thôn dã, nơi bắt đầu có dấu hiệu của sự no ấm,

thanh bình” [9, tr.225].

33

Bên cạnh điểm tương đồng, sự khác biệt giữa ba tác phẩm được thể hiện

rõ trong việc phản ánh hiện thực xã hội qua không gian văn hóa làng quê. So

với tiểu thuyết Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), việc tái hiện không gian văn

hóa, sinh hoạt làng quê được thể hiện đậm nét hơn trong hai tiểu thuyết Người

con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào) và Người về chốn cũ (Xuân Mai).

Trong Người con trang Sơn Đông, lễ hội truyền thống, lâu đời của bà con nhân

dân được Nguyễn Anh Đào chú ý tô đậm: “Sơn Đông vừa qua những ngày lễ

hội tưng bừng, dưới sông đua thuyền, trên bờ rước kiệu, trai thi tài đấu vật, đấu

cờ, gái thi múa hát... không khí náo nhiệt chưa từng có” [9, tr.225]. Đến với

Người về chốn cũ, những hội thi, những trò chơi, lễ hội cổ truyền... được Xuân

Mai tái hiện mang đậm không gian văn hóa Việt. Đó là hội thi nấu cơm: “Chưa

rõ từ bao giờ, cứ vào ngày mùng tám, tháng giêng hằng năm, ăn Tết xong, trang

Sơn Đông lại tổ chức hội thi nấu cơm. Những nồi cơm đoạt giải: Thứ nhất, nồi

nấu cơm phải là nồi đồng điếu, thân và cổ nồi phải sạch bóng, đỏ au màu đồng.

Cơm chín phải đầy đến cổ nồi. Thứ hai, cơm phải thật trắng, thật thơm và thật

dẻo. Khi đơm cơm ra bát, lấy đũa cả đè lên, các hạt cơm phải dính chặt lại với

nhau, khi úp bát xuống, cơm phải tuột ra khỏi bát thật gióc, khi cắt ra thành

miếng, miếng cơm phải vừa mịn, vừa dẻo, vừa thơm như xôi. Thứ cơm này gọi

là “cơm in”. Thứ ba, trong nồi không có cháy, lượt cơm dưới đáy nồi không

khô cứng, xung quanh nồi không ướt” [37, tr.54]. Đó là hội thi đánh phết - một

trò chơi dân gian truyền thống của trang Sơn Đông mùng 7 tháng giêng hằng

năm. Đó còn là lễ hội mùa xuân của bà con nhân dân làng Cổ Loa, làng Phù

Ninh, “lễ hội cổ truyền của Đại Việt, một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh

cộng đồng đã được hình thành từ rất lâu đời. Lễ hội truyền thống này không

những thể hiện tinh thần tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn mà còn là

sự tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa, những người có

công với dân với nước” [37, tr.210-211]. Những trò chơi, lễ hội, phong tục tập

34

quán được Nguyễn Anh Đào và Xuân Mai thể hiện sinh động, giúp cho người

đọc như được đắm mình trong không gian văn hóa độc đáo và đặc sắc.

Như vậy, ba tiểu thuyết lịch sử đã tái hiện sinh động bức tranh đời sống

xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XV. Đó là thời kỳ mà đất nước có nhiều biến động,

nhân dân phải sống trong cảnh tang tóc, lầm than. Giặc Minh đã gieo rắc tội ác

khắp nơi, khiến cho làng xóm tiêu điều, xơ xác. Chúng tàn phá, hủy hoại cả giá

trị vật chất và tinh thần dân tộc. Không khí chiến trận hào hùng cùng với đời

sống hòa bình, no ấm của nhân dân cũng được tái dựng đặc sắc và thành công.

Bên cạnh điểm tương đồng, ba tiểu thuyết lịch sử cũng có nét khác biệt trong

việc phản ánh hiện thực xã hội qua không gian văn hóa làng quê. Khác với

Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), đến với Người con trang Sơn Đông

(Nguyễn Anh Đào) và Người về chốn cũ (Xuân Mai), người đọc như được sống

lại trong không gian lễ hội, văn hóa, phong tục của nhân dân đầu thế kỷ XV.

2.2. Sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyễn Hãn qua ba tiểu thuyết lịch

sử: Sóng hận sông Lô; Người con trang Sơn Đông; Người về chốn cũ

2.2.1. Người con trung hiếu, nặng lòng với quê hương, gia đình và dòng tộc

Ở trang Sơn Đông, gia đình Trần Nguyên Hãn làm nghề ép dầu dọc. Cha

mẹ Trần Nguyên Hãn vất vả, tần tảo sớm hôm để lo cho cuộc sống gia đình.

Vào mùa dọc chín, vợ chồng Trần Nguyên Án bơi thuyền dọc sông Lô lên mãi

vùng Phú Thọ, Tuyên Quang, vào rừng hái dọc. Từ nhỏ, Trần Nguyên Hãn đi

thu lượm dọc để chia sẻ nỗi vất vả cùng cha mẹ: “Thuyền vừa cập bến, Trần

Nguyên Hãn nhảy xuống thuyền cùng cha mẹ đưa dọc lên bờ xong lại nhặt dọc

xếp sang hai chiếc rổ” [37, tr.39]. Ngày ngày, Trần Nguyên Hãn theo cha ra

chợ bán dầu. Nỗi vất vả nhọc nhằn của cha mẹ cùng với thảm cảnh đời sống

nhân dân dưới ách áp bức của giặc Minh đã hằn sâu trong tâm trí Trần Nguyên

Hãn. Bố mất, Trần Nguyên Hãn đã là một chàng trai trưởng thành. Chàng lấy

vợ và thay mẹ chăm lo quán xuyến công việc gia đình. Công việc “ruộng

nương, ép dầu dọc đều một tay Hãn làm” [37, tr.54]. Theo học thầy Nguyễn

35

Thái An, Trần Nguyên Hãn thông minh, sáng dạ. Thầy giảng giải cho Hãn về

Tứ thư ngũ kinh, về cách làm người để trở thành người “quân tử, để cuối cùng

thành thánh nhân” [37, tr.53]. Chàng trai Trần Nguyên Hãn đã trưởng thành để

thầy gửi gắm, kí thác những mong mỏi của mình. Trước những lời dạy bảo của

thầy, Trần Nguyên Hãn biết bản thân cần làm gì để người cha “ở dưới suối

vàng không phải tủi hổ” [37, tr.53] vì mình. Đó là lẽ sống của một người con

trung hiếu, hết lòng thương yêu cha mẹ. Là dòng dõi con cháu nhà Trần, Trần

Nguyên Hãn luôn tâm niệm phải sống sao để không làm hoen ố danh tiếng của

dòng tộc. Được mẹ trao thanh bảo kiếm gia truyền của Thượng tướng, Thái sư

Trần Quang Khải, chàng xúc động, nghẹn ngào: “Thưa mẹ. Con hiểu ý nguyện

của mẹ. Xin mẹ hãy tin con. Nếu còn một ngày sống trên đời này, con sẽ không

bao giờ để danh tiếng của thanh bảo kiếm bị mai một. Con sẽ dùng nó vào việc

đại nghĩa” [37, tr.89]. Lời nói vừa thể hiện một lý tưởng lớn, vừa thể hiện một

nhân cách lớn. Đó là một người con hiếu trung, nặng lòng với gia đình và dòng

tộc anh hùng. Nghe thiền sư Cúc Khê kể về sự suy vong và những cái chết

thảm của cha, chú, thân tộc nhà Trần mà “lòng chàng như có dao đâm, muối

xát” [52, tr.140]. Nhà Trần đã suy vi nhưng ký ức hào hùng về dòng tộc không

khi nào nguội tắt trong tâm trí người con Sơn Đông trang.

Cha mẹ mất, hai vợ chồng Trần Nguyên Hãn vẫn “lo cày cuốc, trồng trọt

ở khu đất Gò Rạch ven sông, kiêm nghề ép dầu. Những lúc rảnh rỗi, vợ ở nhà

lo cơm nước, Hãn mang cần câu ra bờ sông chỗ bến Đông Hồ cuốc giun làm

mồi thả xuống nước để kiếm con chày, con dói về nấu canh dọc. Đôi khi vào

mùa nước lũ còn kéo lên được cả cá anh vũ” [9, tr.21]. Tuổi trẻ Trần Nguyên

Hãn gắn bó với quê hương, đồng ruộng, với dòng Lô mênh mang mà sau này ra

trận chàng không thể nào quên. Với Trần Nguyên Hãn, Sơn Đông thật thân

thương và bình dị. Chàng luôn cảm nhận được hương vị của cuộc sống quê

hương mình: “Trong làn sương mỏng tang lành lạnh, từ đâu đó đưa tới mùi

thơm ngan ngát. Trần Nguyên Hãn hít căng lồng ngực” [37, tr.80] để cảm nhận

36

mùa thu của mùa gặt ở Đa Cai. Đó là sự cảm nhận của người con gắn bó sâu

sắc, nặng tình nặng nghĩa với quê hương. Đồng thời, đó còn là tình yêu quê

hương đất nước nồng nàn và thâm trầm, sâu kín.

Tham gia nghĩa quân Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn không khi nào nguôi

ngoai nỗi nhớ về gia đình, về quê hương. Gia đình và quê hương luôn ở trong

trái tim, lồng ngực của chàng trai Sơn Đông. Nó như mạch máu trong cơ thể

mà chàng không thể tách rời: “Không ngủ được, Trần Nguyên Hãn trằn trọc trở

mình sang bên trái. Tiếng gà đâu đó eo óc gáy nhắc chàng nao nao nhớ về trang

Sơn Đông? Mấy năm trời rồi không có tin tức gì về vợ con, làng xóm. Không

biết ở Đa Cai có gì thay đổi? Lê Thị Tuyển, vợ chàng, Trần Trung Khoản, con

chàng, hiện ra sao? Nỗi nhớ gia đình, quê hương lắm lúc làm chàng rưng rưng

hai con mắt” [37, tr.140]. Nhiều năm chiến đấu xa nhà, chàng mới có dịp hiếm

hoi về thăm gia đình. Gặp lại người vợ tảo tần sớm hôm nơi quê nhà, Trần

Nguyên Hãn “vùng dậy, chạy ra sân giang tay ôm chặt vợ con, giàn giụa nước

mắt. Ông cay đắng cầm tay bà, mân mê những chỗ nứt nẻ, chai sạn” [52, tr.145].

Trên chiến trận, Trần Nguyên Hãn là người anh hùng bất khuất, kiên cường.

Đứng trước vợ con, ông hiện lên mang vẻ đẹp thật bình dị, đời thường. Bên

cạnh hình ảnh một trang anh hùng, ta còn thấy một Trần Nguyên Hãn hiện lên

nặng sâu tình nghĩa.

Sơn Đông là nơi chàng sinh ra, lớn lên với biết bao kỷ niệm thuở thiếu

thời. Sau bao năm chiến đấu đánh đuổi giặc Minh xâm lược, Trần Nguyên Hãn

trở về chốn cũ. Chàng ngắm trời ngắm đất quê hương đến no nê. Chàng đắm

mình vào dòng sông Lô yêu dấu, hiền hòa sau bao năm xa cách vì binh lửa:

“Như muốn trút hết bụi đường, Trần Nguyên Hãn liền nhào xuống sông. Chàng

lặn một hơi thật dài, thật sâu rồi bất ngờ ngoi lên ở giữa dòng sông. Hai tay

vuốt mặt, vuốt đầu, miệng nhổ nước phì phì một chặp đoạn lại dang tay bơi sải.

Bơi đi bơi lại chán, chàng lại bơi ngửa. Hết bơi ngửa lại bơi ếch. Vẫy vùng,

ngụp lặn thỏa thuê với con sông quê cho tới khi mười đầu ngón tay nhăn lại,

37

Trần Nguyên Hãn mới chịu lên bờ” [37, tr.233]. Mỗi dấu chân ở vùng đất quê

hương lại gợi cho chàng biết bao kỉ niệm của thời thơ ấu: “Kia là nơi Hãn hay

cùng lũ bạn thả diều mỗi mùa hạ tới. Kia là chỗ Hãn hay đánh đáo, đánh khăng.

Và, kia là nơi tập trận giả, mỗi bên một phe rồi lấy đất ném nhau, có khi biêu

trán, chảy cả máu đầu” [37, tr.234]. Dù đã là quan Tả tướng quốc, Trần Nguyên

Hãn vẫn là người con của Sơn Đông. Những kỷ niệm, những hình ảnh từ thuở

hàn vi cứ hiện lên vẹn nguyên trong tâm hồn chàng. Đi đến đâu, hình bóng quê

nhà vẫn cứ xốn xang trong ký ức. Từng nhành cây, ngọn cỏ của mảnh đất Sơn

Đông đều ăn sâu vào máu thịt của người con nặng lòng với quê hương xứ sở:

“Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai Trần Hãn sẽ rời mảnh đất Sơn Đông thân

yêu mà bấy lâu chàng gắn bó. Từ con đường nhỏ hai bên cỏ mọc đến những

bậc lên xuống ở bến Đông Hồ, những đám bèo lênh đênh trên mặt ao Tó rải tím

màu hoa, những ngọn cây dọc hình con thoi vươn thẳng trên Gò Rạch phía sau

nhà... Tất cả đều tan trong máu thịt chàng” [9, tr.228].

Cáo quan hồi hương, Trần Nguyên Hãn tìm đến nơi an nghỉ của cha mẹ.

Chàng đến mộ của những bậc sinh thành để thắp nén nhang thành kính, để báo

cáo với gia đình và dòng tộc chàng đã sống và chiến đấu hết mình vì lý tưởng

cao cả: “Con kính lạy hương hồn cha mẹ! Cha mẹ ơi! Sau mười năm theo Lê

Lợi giết giặc, con lại về với cha mẹ đây. Ở dưới suối vàng, xin cha mẹ hãy yên

lòng. Đất nước đã sạch bóng quân thù rồi. Gươm báu mẹ trao cho con ngày ấy,

con đã không làm hổ thẹn với dòng tộc” [37, tr.235]. Trước khi vào Lam Sơn tụ

nghĩa, Trần Nguyên Hãn đã được mẹ trao cho thanh bảo kiếm gia truyền -

thanh kiếm mà Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải đã dùng để giết giặc

Nguyên Mông. Gia đình và dòng tộc nhà Trần có quyền tự hào về Trần Nguyên

Hãn. Chàng đã viết tiếp những trang sử vẻ vang của dòng họ anh hùng trong

lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Cả cuộc đời mình, Trần Nguyên Hãn luôn sống để xứng đáng với hai

tiếng hiếu trung. Dù ở bất cứ nơi đâu, chàng đều khắc khoải, nặng lòng với gia

38

đình và quê hương xứ sở. Ở Trần Nguyên Hãn, ta thấy hiện lên một phẩm chất

lớn, nhân cách lớn.

2.2.2. Người anh hùng với lý tưởng, khát vọng lớn lao

Trần Nguyên Hãn là người anh hùng có lý tưởng và khát vọng lớn. Lý

tưởng, khát vọng đó được hun đúc từ truyền thống của gia đình, dòng tộc và

mối thù sâu sắc với giặc Minh xâm lược.

Chứng kiến tội ác man rợ của giặc Minh gây ra cho nhân dân Đại Việt,

Trần Nguyên Hãn bầm gan, tím ruột. Mỗi lần đi chợ bán dầu, chàng đều “tranh

thủ tìm hiểu, nghe ngóng tình hình đất nước qua những câu chuyện bàn dân

thiên hạ đang bàn tán xôn xao” [37, tr.105]. Là một trang thanh niên lớn lên

giữa thời tao loạn, Trần Nguyên Hãn mang trong mình bầu nhiệt huyết và khát

vọng tráng chí mãnh liệt. Chàng ý thức được muốn diệt thù, báo quốc cần phải

học tập, rèn luyện để thực hiện lý tưởng và hoài bão cao đẹp. Với lý tưởng cứu

dân, cứu nước, Trần Nguyên Hãn đêm ngày nghiền ngẫm binh thư, ra sức rèn

luyện võ nghệ. Càng học, chàng càng bộc lộ tài năng thiên bẩm về võ thuật.

Ngày ngày, Trần Nguyên Hãn “sớm tối ra gò cao cạnh bờ sông tập luyện. Hãn

rủ thêm một số bạn bè cùng trang lứa trong làng tập luyện. Đám trẻ bảo nhau

chặt cây chuối ghép làm thuyền cùng đua bơi trên ao Tó” [9, tr.18]. Chàng nhắc

nhở những người bạn đồng trang lứa “đã là trai nước Việt thì phải nuôi chí

đánh đuổi giặc thù, không để cho chúng ngang nhiên giày xéo” [9, tr.19].

Tuổi trẻ Trần Nguyên Hãn gắn liền với gánh dầu, thanh gươm và những

đêm thức trắng nghiền ngẫm binh thư. Thanh gươm thể hiện lý tưởng, khát

vọng và chí làm trai của chàng. Khác với tiểu thuyết Sóng hận sông Lô (Vũ

Ngọc Tiến), trong hai tiểu thuyết Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh

Đào) và Người về chốn cũ (Xuân Mai), mỗi tác giả đã có sự hư cấu, sáng tạo

khác nhau để làm nên những giai thoại ly kỳ, hấp dẫn về thanh gươm của người

anh hùng. Trong tiểu thuyết Người con trang Sơn Đông, Trần Nguyên Hãn

cuốc đất ngoài vườn thì tìm được một lưỡi gươm cũ. Trong tác phẩm Người về

39

chốn cũ, khi cày trên nương “chàng đang định cho trâu nghỉ một lúc thì không

may lưỡi cày lại cày bật lên một thanh sắt, dài bằng một thanh gươm” [37, tr.60].

Lau sạch lưỡi gươm còn dính đầy bùn đất, Trần Nguyên Hãn mang về và đêm

hôm ấy “lưỡi gươm bỗng tỏa ra muôn ánh hào quang lấp lánh, sáng rực cả góc

nhà” [9, tr.22]. Phải chăng đây chính là cơ duyên mà trời đất linh thiêng đã trao

cho người con trai họ Trần để chàng đi đánh giặc, đòi lại non sông gấm vóc Đại

Việt. Nhân một lần đi bán dầu, cơ duyên lại đưa chàng tìm thấy một chuôi

gươm bỏ không của ông lão hàng chài vớt ở dưới sông. Vừa cắm lưỡi gươm

vào chuôi thì “lạ quá, lưỡi và chuôi vừa khin khít và chặt cứng như cùng do

một người nào đó mới làm ra” [9, tr.23].

Hằng ngày, Trần Nguyên Hãn vẫn miệt mài với công việc nào là “đi lấy

hạt dọc, ép dầu dọc, nào cày ruộng, làm nương, nào đi chợ, nào đêm đêm lại

vùi đầu vào đọc sách với mài gươm” [37, tr.67-68]. Thanh gươm như tiếp thêm

sức mạnh, ý chí cho người con Sơn Đông trang. Cứ mỗi khi đêm xuống, “ngồi

bên tảng đá, chàng lại tiếp tục mài. Tiếng mài gươm “xoèn xoẹt” siết vào màn

đêm nghe vừa hối hả, vừa kiên nhẫn” [37, tr.72]. Hình ảnh Trần Nguyên Hãn

mài gươm dưới trăng thật đẹp, như tạc vào không gian một người con đang nung

nấu tâm can, khát vọng diệt thù. Lòng căm thù giặc và khát vọng vì dân vì nước

đều được Trần Nguyên Hãn gửi gắm vào lưỡi gươm. Tiếng mài gươm như xé tan

không gian tịch mịch của một vùng quê nghèo, như báo hiệu sắp có một người

anh hùng xuất hiện để cứu giúp muôn dân thoát khỏi thảm cảnh lầm than.

Để nuôi khát vọng diệt thù, báo quốc, Trần Nguyên Hãn đã lập ra căn cứ

Rừng Thần. Rừng Thần là nơi để chàng “chiêu tập các trai đinh trang Sơn

Đông đến cùng mình luyện tập võ nghệ” [37, tr.101]. Chàng và những người

bạn cùng chí hướng ra sức “múa gươm và đi những bài quyền. Trang Sơn Đông

từ đó bỗng trở nên náo nhiệt và như chờ đón một sự thay đổi lớn lao sắp sửa

xảy ra” [9, tr.38]. Vừa trông coi doanh trại ở Rừng Thần, Trần Nguyên Hãn còn

vận động bà con nhân dân “đóng góp lương thảo, vũ khí và cho trai làng gia

40

nhập nghĩa binh. Nhân dân quanh vùng hưởng ứng rất đông. Chẳng mấy chốc

mà cái tên Rừng Thần đã bay ra khắp nơi, thanh thế nghĩa quân ngày càng lên

cao” [9, tr.42]. Rừng Thần đã trở thành căn cứ chiến lược ban đầu mà chàng

tâm huyết xây dựng. Nó thôi thúc chí trai, khát vọng của một trang nam nhi yêu

nước luôn đặt ra câu hỏi “phải làm gì để cứu nước, cứu dân” [9, tr.50]. Lý

tưởng, hoài bão của chàng không phải là lý tưởng của một con người tầm

thường. Đó là hoài bão, khát vọng của một chàng trai trẻ tràn đầy bầu nhiệt

huyết, muốn thay đổi “càn khôn”. Với Trần Nguyên Hãn, đã là trang nam nhi

thì sống “phải lạ” ở trên đời. Chàng không muốn để cho tạo hóa xoay vần thời

cuộc. Chàng muốn khẳng định tài năng của mình trước cuộc đời. Sống đối với

chàng là phải sống sao cho phi thường, hiển hách, để không hổ thẹn với gia

đình và truyền thống dòng tộc.

Trần Nguyên Hãn lớn lên trong hoàn cảnh xã hội có những biến động dữ

dội. Nhà Trần - một trong những triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử phong

kiến Việt Nam đã sụp đổ. Là dòng dõi tôn thất nhà Trần, chàng trai trẻ Trần

Nguyên Hãn đã nhìn rõ được quy luật thịnh - suy, bĩ - thái của sự vận động xã

hội. Một số tôn thất nhà Trần như Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng... đã dấy binh

để khôi phục triều đại đã mất. Trần Nguyên Hãn không đi theo và bị lôi cuốn

bởi các cuộc khởi nghĩa đó. Với lý tưởng vì dân vì nước, chàng đã đi tìm một

minh chủ đủ đức, đủ tài có khả năng tập hợp lực lượng đánh đuổi giặc ngoại

xâm. Trần Nguyên Hãn đã đặt lợi ích của cả dân tộc lên trên lợi ích của cá

nhân, gia đình và dòng họ. Trước sự thôi thúc của thời đại và khát vọng chí làm

trai, Trần Nguyên Hãn đã từ biệt quê hương tìm vào Lam Sơn để tụ nghĩa cùng

Lê Lợi và anh em tướng sĩ. Dưới ngọn cờ nghĩa, Trần Nguyên Hãn nói lời thề

sắt son sẽ “một lòng tận tụy dưới trướng Đại vương, cùng anh em đồng cam

cộng khổ, quyết dâng xương máu để rửa hận non sông, báo đền xã tắc. Nếu có

lòng dạ nào khác, xin được rơi đầu đền tội” [9, tr.83]. Lời thề của Trần Nguyên

Hãn thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Chàng lặn lội tìm vào

41

Lam Sơn vì mục đích và lý tưởng cao cả, đó là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ

cõi Đại Việt, đem lại cuộc sống thái bình cho nhân dân: “Đúng! Ta là cháu nội

quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, hậu duệ của Thái sư Trần Quang Khải nhưng ta

đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn không phải với mục đích khôi phục lại một

vương triều đã sụp đổ, mà cũng như các đệ, là để cứu dân cứu nước thoát khỏi

ách đô hộ vô cùng tàn bạo, dã man của giặc Minh!” [37, tr.148-149].

Lý tưởng, khát vọng lớn của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn là còn

giúp nhân dân có đời sống ấm no, thịnh vượng. Từ bỏ chốn quan trường với

những toan tính của người đời, Trần Nguyên Hãn xin vua Lê được cáo quan về

Sơn Đông để thực hiện tâm nguyện làm giàu cho quê hương, đất nước: “Kính

xin bệ hạ Hoàng đế rủ lòng ban ân cho kẻ hạ thần hèn mọn này được cáo quan

để về quê cũ. Thần xin nguyện đem hết lòng dựng xây xứ sở quê hương, để

xứng đáng là thần dân Đại Việt được sống dưới ân đức mưa nhuần của bệ hạ”

[9, tr.206]. Về quê hương nơi mình gắn bó như máu thịt, nhân dân Sơn Đông

trang náo nức rủ nhau ra đón quan Tả tướng quốc. Bến Đông Hồ trên dòng Lô

giang “chật cứng người lớn, trẻ con và cả những cụ già râu tóc” [9, tr.211]. Họ

đón chào người con quê hương trở về như một người anh hùng “mà giờ họ

cung kính gọi là đức ông” [52, tr.248].

Trần Nguyên Hãn “xuất thế” nhưng cũng chính là lúc ông “nhập thế” sâu

sắc nhất, gắn bó sâu nặng với đời sống của nhân dân. Với tài năng và cả lòng

say mê, nhiệt huyết, Trần Nguyên Hãn có những dự định và việc làm cụ thể để

giúp cho đời sống nhân dân ngày càng thay da đổi thịt. Ý định của Tả tướng

quốc là sẽ “đi thăm vùng chợ Gốm, giúp dân mở mang nghề làm gốm sành nâu

và sứ da lươn, nghề ép dầu lạc để trả nghĩa những người dân đã cưu mang mình

thuở hàn vi, đóng vai anh bán dầu đi tìm minh chủ” [52, tr.238]. Trần Nguyên

Hãn muốn làm đa dạng, phong phú thêm những mặt hàng cho nhân dân chợ

Gốm, “không chỉ có đồ gốm sành, gốm da lươn mà còn mở rộng ra, làm cả đồ

gốm sứ trắng với nước men như ngọc, nhiều hoa văn tuyệt tác” [52, tr.247]. Đó

42

không chỉ là khát vọng làm giàu cho quê hương mà còn là mong ước để lại tinh

hoa và nét đẹp văn hóa cho dân tộc. Ông mong sao nghề gốm sứ quê hương sẽ

mang những nét đẹp trác tuyệt như nghề gốm của làng Bát Tràng dưới xuôi.

Với hoài bão đó, “ông sai người gánh theo cả mấy bồ đựng đầy đồ sứ Bát

Tràng làm mẫu tặng bà con trong làng nghề gốm sành, cậy nhờ ba nghệ nhân

cùng đi ở lại một năm hướng dẫn cho dân làm thêm mặt hàng gốm sứ trắng như

nguyên mẫu của làng Bát Tràng. Ông chân tình nói với mọi người rằng, mình

mong muốn hàng gốm sứ ở đây sẽ được đưa ra bến Kim Xuyên, rong ruổi xuôi

ngược để dân giàu nước mạnh” [52, tr.258]. Bên cạnh nghề gốm, Trần Nguyên

Hãn còn vận động bà con nhân dân làm “sống lại nghề đan thuyền”, “tập trung

phát triển trồng trọt, chăn nuôi” [37, tr.273]. Biết được tiềm năng của vùng đất

quê hương, Trần Nguyên Hãn tận tâm tận lực xây dựng bến Kim Xuyên bởi nơi

đây “sẽ phải là đầu mối giao thương hỗ trợ đắc lực cho dân khai quặng thiếc,

đãi vàng chở về xuôi. Vàng thô sẽ được thợ kim hoàn của triều đình nâng tuổi,

đóng góp vào cho quốc khố. Thiếc rất cần làm phụ gia cho các lò luyện sắt của

triều đình để rèn gươm, giáo và làm giáp trụ chống giặc phương Bắc” [52, tr.237].

Mong muốn, khao khát của ông là được chứng kiến những người dân nghèo đổi

đời và cùng mọi người “chung tay gắng sức gây dựng Kim Xuyên thành nơi đô

hội, sầm uất như phố Hiến dưới xuôi” [52, tr.249]. Với những đóng góp, cống

hiến trên mà “Đa Cai như cô gái đến tuổi dậy thì, mỗi ngày một khởi sắc, một

thay da đổi thịt. Thôn làng như béo đẫy ra trong mùa thu hoạch” [37, tr.273].

Chỉ trong một thời gian ngắn Tả tướng quốc về hưu, công cuộc khuyến nông,

khuyến công, khuyến thương ngày càng phát triển và làm thay đổi bộ mặt của

một vùng quê nghèo. Cả một vùng Sơn Đông “đời sống nhân dân được nâng

cao, xóm làng hòa thuận, không có nạn trộm cắp hoặc người dân bỏ làng phiêu

bạt kiếm sống như trước đây” [9, tr.218-219]. Những lời tâm sự của Trần

Nguyên Hãn với thiền sư Kiến Phúc đã thể hiện tâm huyết chấn hưng Đại Việt

của chàng: “Đệ sẽ lập đội thương thuyền nhằm khuấy động việc giao thương

43

khắp cả nước Đại Việt thì mới giúp Hoàng thượng nhanh chóng tái thiết đất

nước thời hậu chiến” [52, tr.261]. Đó là ý tưởng táo bạo, thể hiện tầm nhìn xa

trông rộng của Tả tướng quốc.

Cáo quan về hưu, Trần Nguyên Hãn vẫn luôn canh cánh một tấm lòng vì

giang sơn xã tắc. Ông không uống rượu, bình thơ, thưởng nguyệt, không hưởng

thụ cuộc sống an nhàn mà vẫn chung tay cùng nhân dân bảo vệ đất nước. Trần

Nguyên Hãn vẫn miệt mài truyền đạt cho mọi người về binh pháp, về Tứ thư

ngũ kinh, về những kinh nghiệm trận mạc mà mình có được. Ông thuê một tốp

thợ tới đóng thuyền, đóng chải tại nhà để “bà con tham gia hội thi bơi chải vào

mùa xuân tới, sau là để các trai đinh Đa Cai luyện tập, thi thố tài năng trên sông

nước” [37, tr.270]. Đất nước đã sạch bóng quân thù nhưng trên khu Rừng Thần

huyền thoại, các môn sinh trang Sơn Đông vẫn “tìm về học võ, tập đua ngựa, nghe

giảng Binh thư, Tứ thư, Ngũ kinh do Trần Nguyên Hãn truyền giáo” [37, tr.272].

Đó chính là lý tưởng bảo vệ giang sơn Tổ quốc thời hậu chiến, thể hiện tầm

nhìn chiến lược của một vị tướng tài ba, uyên bác.

Có thể thấy, cả cuộc đời mình, Trần Nguyên Hãn đều sống và chiến đấu

vì lý tưởng và hoài bão cao đẹp, nhân văn. Trong thời loạn lạc, đó là khát vọng

đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành độc lập cho dân tộc. Khi đất nước hòa bình,

Trần Nguyên Hãn vẫn luôn khắc khoải với khát vọng canh tân đất nước và bảo

vệ giang sơn Đại Việt.

2.2.3. Người anh hùng mưu lược, tài trí trong chiến trận

Trần Nguyên Hãn là người anh hùng “hữu học thức, tinh binh pháp”.

Mang trong mình dòng máu của tôn tộc nhà Trần, tài năng của Trần Nguyên

Hãn đã sớm được bộc lộ. Ngay từ nhỏ, Trần Nguyên Hãn đã là một người

thông minh, sáng dạ. Lớn lên, Trần Nguyên Hãn theo học những người thầy

đáng kính, học vấn uyên bác. Có lần thầy nhận xét “Hãn là người có chí khác

thường, học lực giỏi giang. Nhưng có một điều lạ, là thầy chỉ dạy Tứ thư, Ngũ

kinh mà sao cả sách binh thư Hãn cũng thuộc làu” [9, tr.12]. Với lý tưởng và

44

khát vọng lớn, Trần Nguyên Hãn luôn luôn “miệt mài với cuốn Binh gia diệu lý

yếu lược và cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Cả hai cuốn sách đều đã nhàu

cũ, bìa gáy bóng lên bởi thấm mồ hôi tay qua không biết bao nhiêu lần gấp,

mở” [9, tr.13]. Đó đều là những cẩm nang binh pháp gia truyền của dòng họ

nhà Trần. Miệt mài đọc sách binh thư, Trần Nguyên Hãn còn ra sức rèn luyện

võ nghệ. Với tư chất thiên bẩm cùng với khả năng học tập không ngừng, Trần

Nguyên Hãn hội tụ đầy đủ phẩm chất của người anh hùng mưu lược, tài trí.

Từ khi còn trẻ, Trần Nguyên Hãn đã mang tư chất của một trang tuấn

kiệt. Chàng lập ra căn cứ Rừng Thần để cùng những người bạn đồng trang lứa

rèn luyện võ nghệ. Tầm nhìn của chàng về Rừng Thần như mang tầm nhìn của

một nhà quân sự, một nhà chiến lược: “Thế đất chỗ này có thể xây dựng thành

căn cứ lâu dài, vừa che mắt địch, vừa có thể trồng lúa, trồng khoai, tăng gia sản

xuất để lấy lương thực nuôi quân. Khi chiến sự xảy ra thì tất đó là nơi “tiến khả

dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, thật là đắc địa cho một nhà quân sự” [9, tr.41]. Rừng

Thần chính là nơi chắp cánh cho khát vọng lớn của một nhân cách lớn. Nó thể

hiện khí phách, lý tưởng của một người luôn vì dân, vì nước.

Tài năng quân sự kiệt xuất, lỗi lạc của Trần Nguyên Hãn được tỏa sáng

trong những năm theo Lê Lợi khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược. Hiểu

được tài năng binh pháp của Trần Nguyên Hãn, Bình Định vương đã phong cho

chàng làm Tư đồ - chức quan võ cao nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Được giao

nhiệm vụ quan trọng, Trần Nguyên Hãn ngày đêm cùng quân sĩ tập luyện để

chờ ngày xuất trận đánh đuổi giặc thù. Những chiến thắng lừng lẫy của cuộc

khởi nghĩa Lam Sơn đều gắn liền với tên tuổi Trần Nguyên Hãn và quyết định

đến sự tồn vong của dân tộc.

Thắng lợi quan trọng đầu tiên thể hiện tài năng quân sự tuyệt vời của

Trần Nguyên Hãn là giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Giải phóng vùng đất

phía Nam rộng lớn, đất đai phì nhiêu chính là bàn đạp để nghĩa quân tiến đánh

ra Bắc, đập tan những căn cứ quân sự chiến lược cuối cùng của giặc Minh.

45

Bình Định vương Lê Lợi “hiểu rõ đây là nhiệm vụ đặc biệt khó khăn vì địa

hình hiểm trở, cách quá xa hậu cứ an toàn của nghĩa quân” [52, tr.40] nên đã cử

Trần Nguyên Hãn cầm quân triệt hạ hai thành trì quan trọng này. Nhiệm vụ

nặng nề đó, ngoài Trần Nguyên Hãn ra, “thật khó tìm ai thay thế” [52, tr.40].

Để tiến tới được Tân Bình, Thuận Hóa, chướng ngại và thách thức đầu

tiên với Trần Nguyên Hãn và nghĩa quân đó là phải nhổ được đồn Hà Khương -

một tiền đồn nằm án ngữ trên con được Nam chinh xa xôi. Và nơi đây cũng là

nơi ghi dấu đậm nét tài thao lược của Trần Nguyên Hãn. Nắm được tình hình

của giặc và địa hình sông núi, Trần Nguyên Hãn đã phân tích tỉ mỉ cho anh em

tướng sĩ cách đánh phù hợp nhất để giành thắng lợi. Dựa theo địa thế đồn giặc

nằm ở Bắc sông Bố Chính, là vùng đất liền với bờ sông có núi non hiểm trở

nên “theo kế sách và theo lệnh của chủ tướng Trần Nguyên Hãn, nghĩa quân

nhanh chóng được chia làm hai. Một nửa theo Thượng tướng Doãn Nỗ đi làm

nhiệm vụ phục binh, còn một nửa theo Trần Nguyên Hãn nhận nhiệm vụ đi nhử

địch” [37, tr.151-152]. Với địa hình hiểm trở như vậy, kế hoạch nhử địch quả là

một mưu lược đúng đắn. Binh pháp đánh giặc của những bậc tiền nhân đã được

chàng vận dụng linh hoạt. Theo đúng kế hoạch, trong lúc giao chiến “Trần

Nguyên Hãn quay gươm, ra hiệu cho nghĩa quân quay đầu, rút chạy. Nhậm

Năng đắc thắng, ngửa mặt lên trời, ha hả cười, rồi thúc ngựa, thúc quân thừa

thắng đuổi theo, quyết bắt sống Trần Nguyên Hãn” [37, tr.154]. Truy kích Trần

Nguyên Hãn, đạo quân của Nhậm Năng đã bị quân ta phục kích và chặt đứt làm

đôi. Tướng Nhậm Năng dày dạn kinh nghiệm trận mạc đã thất bại đau đớn

trước người anh hùng trẻ tuổi. Với mưu kế nhử địch, nghĩa quân Lam Sơn đã

nhổ được đồn Hà Khương. Chiến thắng đó đã làm cho tên tuổi của Trần

Nguyên Hãn bước đầu được khẳng định. Nó đã đặt nền móng đầu tiên chứng tỏ

tài năng cầm quân thiện chiến của chàng: “Có thể nói, đây là chiến công vang

dội đầu tiên của đội quân Lam Sơn do Trần Hãn chỉ huy, trên con đường tiến

về phía Nam giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa. Tin vui đến với Lê Lợi, củng cố

46

thêm cho ông một niềm tin vào tài thao lược của chàng trai đất Sơn Đông. Và

việc ông lựa chọn Trần Hãn làm tướng trong cuộc Nam chinh này là hoàn toàn

đúng” [9, tr.106]. Thắng lợi đó cũng đã củng cố niềm tin cho chàng trai trẻ. Nó

là cơ sở, bàn đạp để Trần Nguyên Hãn mở đợt tổng công kích vào hai thành trì

quan trọng của giặc là Tân Bình và Thuận Hóa.

Để hạ hai thành Tân Bình, Thuận Hóa, “binh pháp cổ truyền của dòng họ

Đông A mà Trần Hưng Đạo tổng kết: Dĩ đoản binh, chế trường trận, được Trần

Nguyên Hãn vận dụng một cách sáng tạo với phương châm hành động: Lấy ít

địch nhiều: Thường dùng mai phục - Lấy yếu chống mạnh: Hay đánh bất ngờ”

[37, tr.157]. Cuộc chiến ở thành Tân Bình đã thể hiện sức mạnh như vũ bão của

nghĩa quân Lam Sơn. Quan Tư đồ cho quân ta “công phá thành Tân Bình từ

bốn mặt. Chỉ ít ngày sau, tường thành nhiều chỗ bị sạt lở bởi chày, vồ tới tấp

nện vào. Cổng thành phía Bắc, rồi phía Đông bị bật tung, quân ta ào ạt xông

vào trong thành. Quân giặc hoảng loạn, nháo nhác, đứa tháo chạy, đứa quỳ gối

xin hàng. Những tên chống trả đều bị lưỡi gươm của Trần Hãn và mũi giáo của

quân Lam Sơn giết chết” [9, tr.107]. Thành Tân Bình đã bị tan tành trước sức

tấn công mãnh liệt của nghĩa quân. Thành Thuận Hóa do quân Ngô chiếm đóng

trở nên trơ trọi, đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước thanh thế quá

lớn của nghĩa quân ở chiến dịch công phá Tân Bình, quân giặc ở thành Thuận

Hóa hoảng loạn. Quân ta tiến vào Thuận Hóa như chỗ không người. Quân giặc

“đã được lệnh rút về thành để sẵn sàng hạ khí giới khi đại quân Lam Sơn kéo

đến” [9, tr.109]. Với tài mưu lược của quan Tư đồ, nghĩa quân đã làm chủ một

vùng đất đai rộng lớn, phì nhiêu của Tân Bình - Thuận Hóa. Nhân dân hân

hoan trong niềm vui chiến thắng bởi từ nay họ đã thoát khỏi ách đô hộ tàn bạo

của quân xâm lược phương Bắc. Chiến thắng này đã làm nức lòng nghĩa quân

Lam Sơn, củng cố niềm tin vững chắc của Lê Lợi và tướng sĩ đối với người anh

hùng trẻ tuổi, đa mưu túc trí, ứng biến linh hoạt.

Sau khi chiếm giữ được những vùng quan trọng, thanh thế nghĩa quân

Lam Sơn ngày càng lên cao. Trước sức mạnh đó, Lê Lợi đã quyết định tiến

47

công ra Bắc để công phá thành Đông Quan bằng ba mũi tiến công. Mũi cánh

quân thứ ba bằng thủy quân đánh vào cửa Nam thành Đông Quan được giao

cho Trần Nguyên Hãn. Là dòng dõi tôn thất nhà Trần vốn giỏi nghề sông nước,

Lê Lợi đã đặt niềm tin vào người con đất Sơn Đông: “Quan Tư Đồ tinh binh

pháp, lại sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, bên bờ con sông Lô, có dòng ăn

thông vào tới tận đầu làng... Bố trí cho Trần Nguyên Hãn phụ trách 100 chiến

thuyền, tấn công vào cửa Nam là hợp lẽ” [37, tr.168].

Với nhiệm vụ quan trọng này, tài năng thủy chiến của Trần Nguyên Hãn

lại có dịp được tỏa sáng. Trên hành trình tiến quân ra Bắc để vây giáp Đông

Quan, Trần Nguyên Hãn đã cho “các đội thủy binh vừa đi vừa tập luyện cách

đánh dưới nước hay đổ bộ lên bờ [52, tr.59]. Chính vì vậy, chàng đã có những

chiến thắng quan trọng, giòn giã tại cửa Ba Lạt, cửa Bạch Đằng và Lục Đầu

Giang. Trên các bến sông, sau khi đánh tan thủy binh của quân xâm lược

phương Bắc, thuyền binh Lam Sơn đang “chia thành đội hình theo đúng binh

pháp bí truyền của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn năm xưa, neo đậu rất

quy củ” [52, tr.61]. Với tài năng thống lĩnh, huấn luyện thủy binh của Trần

Nguyên Hãn, những chàng trai ngư phủ trẻ tuổi “vừa buông tay chèo tay lưới

gia nhập nghĩa quân, mới chỉ vừa được mình trực tiếp huấn luyện những điểm

cơ bản của Vạn kiếp tông bí truyền thư rồi trên đường ra Bắc ôn tập thực hành,

nhưng họ đã nhanh chóng thuần thục. Trận đánh đầu tiên ở cửa Ba Lạt khiến

quân Minh nháo nhác, ngỡ thiên binh, thiên tướng từ trên trời xuống giáng cho

chúng một đòn khủng khiếp, không kịp trở tay. Đến trận lớn ở cửa Bạch Đằng,

nhất là trận Lục Đầu Giang thì đội hình thủy binh của ông đã trở nên thiện

chiến, không khác gì thủy binh lão luyện của Trần Khánh Dư năm nào đánh với

bọn Nguyên - Mông, hay Trần Khát Chân dong buồm vượt biển đi cứu người

yêu ở nước Chiêm Thành là công chúa Huyền Trân sắp bị hỏa táng theo chồng

bởi một tục lệ man rợ” [52, tr.61-62]. Theo dòng Lục Đầu Giang, Trần Nguyên

Hãn vừa đánh địch, vừa tiến thẳng ra sông Hát, thuận dòng chàng cho quân

48

đánh thẳng xuống sông Nhị Hà và chiếm bến Đông Bộ Đầu giáp thành Đông

Quan. Tại Đông Bộ Đầu, đội thủy quân do Trần Nguyên Hãn thống lĩnh đã

“đánh chìm của chúng nhiều chiến thuyền. Hàng nghìn tên giặc chết chìm

xuống lòng sông Nhị. Cầu phao do Trương Phụ bắc qua sông cách đây mấy

năm chỗ bến Đông Bộ Đầu bị thủy quân của Trần Hãn phá sập. Quân ta làm

chủ hoàn toàn đoạn sông nằm sát thành Đông Quan, cắt đứt mọi liên lạc giữa

Đông Quan với các thành Thị Cầu, Điêu Diêu ở phía Đông Bắc” [9, tr.137].

Sức mạnh ngút trời của đội thủy binh khiến cho chúng ta nhớ lại những trận

chiến nổi tiếng năm xưa của dòng họ nhà Trần, làm sống lại hào khí Đông A

một thời mà nay chỉ còn “vang bóng”. Với chiến thắng này, đội thủy quân của

ông cũng đã “góp phần cùng với nghĩa quân tiến vây hãm thành Đông Quan,

buộc tướng Vương Thông của quân Minh phải co cụm lại, cố thủ ở trong

thành” [37, tr.169]. Như vậy, ba cánh quân của nghĩa quân Lam Sơn đã bao

vây, cô lập thành Đông Quan. Trước tình thế đó, nhà Minh đã cử hai đạo viện

binh sang nước ta để cứu nguy cho Đông Quan đang bị vây hãm, kìm kẹp.

Để đối phó với viện binh của quân Minh, Trần Nguyên Hãn đã nắm bắt

tình hình một cách nhạy bén để đưa ra được những nhận định đúng đắn về thời

cuộc chiến sự: “Thần nhận thấy rằng, trong hai đạo viện binh của nhà Minh thì

đạo quân do tướng Liễu Thăng chỉ huy lắm quân, nhiều ngựa hơn. Vì vậy,

chúng ta cần dốc sức tấn công trước. Mà muốn diệt được đạo quân này, thần

nghĩ, trước hết chúng ta phải hạ được thành Xương Giang. Bởi Xương Giang

nằm trên đường từ Lạng Sơn về Đông Quan. Đánh thành Xương Giang là đánh

thông đường để đại binh của ta tiến lên Lạng Sơn dành thế chủ động chặn

đường viện binh của giặc” [37, tr.174]. Đây đúng là tầm nhìn trí tuệ của một

nhà chiến lược, một nhà quân sự đại tài bởi nếu tiêu diệt được thành Xương

Giang, quân ta sẽ làm chủ được tuyến đường huyết mạch nối với thành Đông

Quan. Và như vậy, nghĩa quân sẽ giành được thế chủ động trong việc tiêu diệt

49

viện binh của Liễu Thăng. Một khi đội quân viện binh bị tiêu diệt, thành Đông

Quan sẽ trơ trọi và việc Vương Thông quy hàng chỉ còn là vấn đề thời gian.

Là người “hữu học thức, tinh binh pháp”, Trần Nguyên Hãn được Lê Lợi

giao cho là chủ tướng chỉ huy đánh thành Xương Giang. Trước khi đánh thành,

“Bình Định vương đã phong cho Hãn chức Thái úy, đứng đầu hàng quan võ”

[9, tr.143]. Hạ được một thành trì kiên cố, hiểm yếu như Xương Giang là nhiệm

vụ không hề đơn giản, có thể nói là thử thách lớn nhất trong cuộc đời cầm quân

của Trần Nguyên Hãn. Với nhiệm vụ quan trọng này, Trần Nguyên Hãn “ngày

đêm vắt óc suy nghĩ, quên ăn quên ngủ” [9, tr.146]. Nhưng càng khó khăn lại

càng chứng tỏ tài trí, mưu lược tuyệt vời của người anh hùng. Trước trận chiến

lớn, Thái úy đã bỏ thời gian đi thị sát xung quanh thành để đề ra chiến lược và

phương pháp đánh phù hợp. Sau khi quan sát, tìm hiểu địa thế, Thái úy đã phân

tích những điểm mạnh của thành Xương Giang với các anh em tướng sĩ:

“Thành Xương Giang là đối tượng chiến lược duy nhất mà nghĩa quân phải tiêu

diệt trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang nước ta. Để đạt được mục tiêu

này không phải là chuyện đơn giản. Là bởi vì, đây là thành đã được quân Minh

và máu xương của nhân dân ta xây đắp và bồi trúc gần hai mươi năm nên rất

kiên cố. Hơn thế, thành lại nằm ở một địa thế rất hiểm yếu. Các anh em biết

không, ba phía Đông, Tây, Nam thành đều có sông bao bọc. Riêng phía Bắc lại có

núi như một bức tường thành ngăn cách. Bên cạnh nào núi, nào sông còn có nhiều

khe sâu nối tiếp nhau, đan xen chằng chịt, tạo cho Xương Giang có cái vẻ vừa kín

đáo, vừa bí hiểm. Thành nằm trên một vùng đất tương đối cao. Tường thành vừa

cao, vừa dày. Trong thành là doanh trại, là kho tàng, là các bệ đất đặt pháo. Ngoài

thành được bao bọc bởi ba bên bốn bề đều có hào sâu” [37, tr.181-182]. Với tài

năng quân sự lão luyện, thích ứng một cách linh hoạt với mọi loại địa hình,

Thái úy đã chỉ ra rằng “muốn thắng địch, mà phải thắng nhanh chóng, ta phải thực

hiện một kế sách khác, nghĩa là phải hết sức sáng tạo và táo bạo” [37, tr.182]. Kế

hoạch “sáng tạo và táo bạo” ở đây chính là “sử dụng hai phương pháp đánh.

50

Đánh với mọi thứ chiến cụ và hỏa lực mà nghĩa quân đang có. Đồng loạt nội công,

ngoại kích cả bốn bên thành, cả trên mặt thành và dưới hầm sâu” [37, tr.183]. Để

công phá thành, Thái úy đã “cho người quan sát địa thế, vẽ bản đồ rồi tìm chỗ

thuận lợi để đào hầm, đánh độn thổ, mở đường đột nhập vào thành Xương

Giang” [9, tr.146]. Trước kế hoạch bất ngờ nhưng quyết đoán, tự tin của Thái

úy, khắp mặt trận hào hứng, sục sôi chờ ngày giết giặc. Mọi người ai nấy cũng

đều vui mừng, phấn khích sẵn sàng báo đền nợ nước.

Trận tổng công kích thành Xương Giang dưới sự chỉ huy của Thái úy

Trần Nguyên Hãn đã thể hiện sức mạnh “xuất quỷ nhập thần” của nghĩa quân

Lam Sơn. Giữa lúc quân Minh đang “chập chờn thức ngủ thì bỗng có hàng loạt

tên lửa, súng lửa từ các quả đồi xung quanh thành bắn tới tấp vào thành. Hai

loại vũ khí hiện đại nhất của nghĩa quân Lam Sơn là hỏa tiễn, hỏa pháo này,

ngay từ đầu đã gây sức phá hủy rất lớn! Nhà cháy, kho quân lương cháy. Lửa,

khói bốc lên ngùn ngụt. Bầu trời sáng rực. Quân tướng nhà Minh nhớn nhác

chưa kịp hiểu đầu đuôi sự kiện dữ dội xảy ra từ đâu thì từ bốn phía thành lại rộ

lên tiếng trống, tiếng thanh la cùng tiếng hò reo xung trận, vây thành rầm rầm

vang lên” [37, tr.186]. Ở bên ngoài, nghĩa quân Lam Sơn dùng thang mây “leo

lên mặt thành rồi nhảy ào xuống, xông thẳng vào trung tâm chỗ ăn nghỉ của

những viên tướng giữ thành” [9, tr.155]. Sức mạnh của nghĩa quân ào ạt như

những đợt sóng trào. Ở trong thành, “đùng một cái, nghĩa quân từ các đường

hầm ngầm, đội đất vụt lên, bất thần xuất hiện giữa lòng thành, đông như kiến

cỏ” [37, tr.187]. Quân Minh hoảng hốt, náo loạn “do bị bất ngờ trước đội quân

hàng vạn người từ dưới đất lên, từ trên trời xuống” [9, tr.154]. Hai tướng trấn

giữ thành là Lý Nhậm và Kim Dận đã nhảy từ trên thành cao xuống tự tử.

Thành Xương Giang kiên cố, một pháo đài tưởng chừng như không thể công

phá, không thể đánh bại đã bị hạ trong một thời gian ngắn. Toàn bộ quân địch

bị tiêu diệt. Tài mưu lược của Thái úy Trần Nguyên Hãn được Lê Lợi ngợi

khen và cảm phục: “Đúng là Thái úy Trần Nguyên Hãn đã không phụ lòng ta.

51

Tài cầm quân của Thái úy quả là bản triều không ai sánh kịp” [37, tr.188]. Theo

Lê Lợi, chiến thắng Xương Giang lẫy lừng chính là “nhờ vào lối đánh táo bạo,

cùng sự điều hành phù hợp nhiều loại vũ khí, sự phối hợp tuyệt vời giữa quân

với dân cùng tiến đánh của Thái úy Trần Nguyên Hãn” [37, tr.187]. Kể từ sau

chiến thắng Xương Giang, mọi người đều công nhận tài năng quân sự xuất

chúng của Thái úy Trần Nguyên Hãn. Chiến thắng này được nhà bác học Lê

Quý Đôn đánh giá cao: “Có thể nói, trong lịch sử chống ngoại xâm, đây là lần

hiếm hoi có một trận thắng quân ta triệt hạ được một thành trì quan trọng có số

quân lớn. Có lẽ thành công của chiến thắng Xương Giang chỉ đứng sau sự kiện

Lý Thường Kiệt hạ thành Ung Châu” [Dẫn theo 3, tr.24-25]. Thượng tướng,

GS. Hoàng Minh Thảo cũng đã ca ngợi chiến thắng Xương Giang huyền thoại

gắn liền với tên tuổi người anh hùng Trần Nguyên Hãn: “Trong suốt 9 tháng

trời, nhiều lớp tướng lĩnh, nhiều đợt nghĩa quân đã thay nhau công phá mà

Xương Giang vẫn nằm trong tay giặc. Từ Đông Đô, Trần Nguyên Hãn đã được

Lê Lợi điều về đây. Và cuối cùng, dưới sự chỉ huy của ông, cuộc vây hãm 9

tháng ròng đã biến thành một trận công phá bằng cường lực có sự tham gia của

tất cả các lực lượng, diễn ra trong vòng một canh giờ với thắng lợi tuyệt đối:

thành bị hạ, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt” [Dẫn theo 3, tr.24]. Quả thật, đây là

chiến thắng “kinh thiên động địa”, “long trời lở đất” của nghĩa quân Lam Sơn.

Chỉ trong vòng chưa đầy một canh giờ, thành Xương Giang kiên cố, vững chắc

là vậy đã bị triệt hạ. Chiến thắng này xứng đáng được ghi vào sử sách như một

trong những chiến công chói lọi nhất trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại

xâm của dân tộc ta. Nếu không có chiến thắng ở thành Xương Giang trước khi

viện binh của Liễu Thăng kéo đến, cuộc chiến có thể còn kéo dài, nhân dân ta

có thể vẫn trong cảnh lầm than, tang tóc.

Sau khi thành Xương Giang bị hạ, Liễu Thăng đem 10 vạn viện binh

theo đường Quảng Tây, Mộc Thạch đem 5 vạn quân theo đường Vân Nam rầm

rập tiến sang nước ta để cứu nguy cho Vương Thông. Với tài năng quân sự lỗi

52

lạc, Trần Nguyên Hãn tiếp tục được Lê Lợi giao cho nhiệm vụ là chủ tướng

tổng công kích trận Chi Lăng - Xương Giang với mục đích tiêu diệt viện binh

Liễu Thăng hùng mạnh.

Với kế hoạch vừa đánh vừa nhử địch, Liễu Thăng đã bị rơi vào trận địa

mai phục của quân ta ở Chi Lăng. Cảnh núi non, sông suối hùng vĩ như một

trận đồ bát quái khiến Liễu Thăng khó mà toàn mạng. Ải Chi Lăng đã trở thành

mồ chôn tên giặc viễn chinh và đồng bọn. Với số quân còn lại, chúng vừa đánh,

vừa chống đỡ, vừa lê lết rút về Xương Giang. Tại đây, kế hoạch bao vây kẻ thù

được Thái úy tính toán tỉ mỉ, thận trọng. Tất cả các con đường tiến, thoái của

chúng đều được nhà quân sự tài ba tính toán chu toàn:

“Quân thủy, bộ của ta sẽ lợi dụng đoạn sông Thương chảy qua nơi này

để bố trí bao vây địch ở mặt phía Tây, khi cần thiết sẽ theo sông Thương, sông

Lục Nam tiếp ứng cho các lực lượng khác. Một bộ phận quân bộ nữa chiếm

lĩnh những điểm cao bên tả ngạn sông Thương, lập thành những trại quân.

Phía Đông Nam có sông Lục Nam ngăn cách với thành Chí Linh. Đối

với địch, dòng sông này sẽ là một con hào tự nhiên khó mà vượt qua được. Đối

với ta, lại rất thuận lợi cho thủy quân cùng bộ binh bao vây, khống chế địch.

Phía Bắc, đã có hai đạo quân: Một, của tướng Lê Sát và Lưu Nhân Chú;

Một nữa, của tướng Lê Lý và Lê Lan từ Phố Cát tiến xuống, hình thành thế bao

vây, ép chặt địch.

Phía Nam, cách Xương Giang hai mươi cây số, tại thành Thị Cầu, sau

khi thắng ở Chi Lăng đã có tướng quân Trần Lựu trấn giữ, chặn con đường về

Đông Quan của địch.

Địch còn khoảng 7 vạn quân. Với số quân này vẫn có thể bọn chúng liều

lĩnh phá vây để tháo chạy, hoặc là về nước, hoặc là tiến xuống Đông Quan. Vì

thế, thưa Vệ Quốc công, đề nghị Bộ chỉ huy phải tăng cường lực lượng bố trí

bịt kín các ngả đường về Quảng Tây và xuống Đông Quan” [37, tr.194-195].

53

Với tầm nhìn chiến lược của Thái úy, viện binh của giặc đã hoàn toàn lọt

vào vòng vây khép kín của nghĩa quân Lam Sơn từ đường thủy cho đến đường

bộ. Quân Minh tuy đông nhưng chẳng khác nào đám tàn binh đang nằm chờ

chết. Chúng đã kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Trên cánh đồng Xương

Giang, Thái úy Trần Nguyên Hãn đã “bày sẵn trận địa mai phục, đánh tổng lực

bằng cả hỏa công, tên bắn và đào hố ngụy trang bên trên cho người, ngựa sập

bẫy” [52, tr.79-80]. Trận tổng công kích trên cánh đồng Xương Giang lại một

lần nữa chứng minh tài năng quân sự tuyệt vời của Thái úy Trần Nguyên Hãn.

Giặc Minh thất bại thảm hại, “phần bị giết chết, phần phải bỏ chạy. Viện binh

tan vỡ hết” [37, tr.199]. Thượng thư Hoàng Phúc bị bắt, Tổng binh Thôi Tụ bị

giết chết tại trận. Quân ta bắt được nhiều binh lính, thu được nhiều khí giới,

vàng bạc... Thắng lợi này bên cạnh sự đồng lòng của nghĩa quân, sự ủng hộ của

toàn dân, còn là tài năng, trí tuệ mẫn tiệp của người anh hùng Trần Nguyên

Hãn: “Quân sư biết không, với vai trò là một chủ tướng, qua trận Chi Lăng -

Xương Giang này, Thái úy Trần Nguyên Hãn đã tạo nên một nghệ thuật quân

sự tiêu diệt địch thật tuyệt vời - Nguyễn Trãi chưa kịp hỏi thêm, Lê Lợi nói tiếp

- Đấy là, dụ địch đến, rồi khéo léo dẫn chúng vào trận địa mai phục mà tiêu

diệt; Là ghìm chân địch, căng địch ra mà đánh. Là khi cần lại gói chúng lại mà

tiêu diệt; Là tích cực “đánh vào lòng người”, làm lung lay ý chí quân xâm lược

và tăng thêm sức mạnh cho các lực lượng tiến công” [37, tr.200]. Lời nhận xét

của Lê Lợi tràn đầy niềm ngợi ca, tự hào đối với người anh hùng mà ông đang

có trong tay. Tài năng quân sự của Thái úy Trần Nguyên Hãn quả thật đã được

nâng đến tầm nghệ thuật. Đó là nghệ thuật dụ địch, ghìm chân địch, bao vây

địch và làm lung lay ý chí xâm lược của địch. Tài năng đó quả thật khó có ai bì

được. Tên tuổi của Trần Nguyên Hãn chẳng khác nào những anh hùng nhà

Trần xưa kia. Chàng được nhân dân ca ngợi, tôn kính. Trần Nguyên Hãn đã

tiếp bước những người anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật

Duật, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng... làm rạng danh

dòng họ Trần anh hùng.

54

Với chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, Trần Nguyên Hãn lại một lần

nữa khẳng định mình là nhà quân sự thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn. Chiến

thắng này được nhà bác học Lê Quý Đôn đánh giá là một trong những chiến

thắng lớn nhất trong lịch sử dân tộc trong việc đánh đuổi giặc phương Bắc: “Có

lẽ từ triều Trần bắt được Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi cho đến lúc ấy, nước Nam

thắng giặc phương Bắc, chưa có trận nào lớn như vậy” [Dẫn theo 3, tr.35]. Tiến

sĩ, nhà thơ Lý Tử Tấn, bạn cùng khoa với Nguyễn Trãi, cùng tham gia nghĩa

quân từ những ngày đầu, trong bài Phú Xương Giang cũng đã ca ngợi chiến

thắng Chi Lăng - Xương Giang:

Xương chất thành núi,

Máu chảy đầy sông,

Bốn cõi mây mờ quét sạch,

Giữa trời ánh sáng huy hoàng,

Kìa trận Hợp Phì oanh liệt thuở trước,

Trận Xích Bích toàn thắng ngày xưa,

Sao bằng đây, Xương Giang vẻ vang! [Dẫn theo 3, tr.35].

Hợp Phì, Xích Bích là những trận chiến kinh điển trong lịch sử Trung

Quốc thời Tam quốc. Dưới con mắt của Lý Tử Tấn, những trận chiến đó cũng

không thể so sánh với chiến thắng Xương Giang lừng lẫy, vẻ vang mà Trần

Nguyên Hãn là chủ tướng.

Có thể nói, tinh hoa của nghệ thuật quân sự, tài trí tuyệt vời của Trần

Nguyên Hãn đã được tỏa sáng trong những năm theo Lê Lợi đánh đuổi giặc

Minh. Trần Nguyên Hãn lập được nhiều chiến công vang dội và là ngôi sao

sáng chói trong hàng ngũ tướng lĩnh Lam Sơn. Với đóng góp và cống hiến đó,

non sông Đại Việt được độc lập, thống nhất. Trần Nguyên Hãn xứng đáng là

anh hùng dân tộc, một bậc khai quốc công thần triều Lê và được nhân dân ngợi

ca, ngưỡng vọng.

55

2.2.4. Cái chết bi kịch của người anh hùng

Sau khi tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông

buộc phải quy hàng và cam kết rút quân về nước. Đất nước sạch bóng quân thù,

giang sơn thu về một mối. Công cuộc xây dựng đất nước thời hậu chiến đặt ra

nhiều khó khăn và thách thức với một vương triều vừa mới được thành lập.

Đất nước hòa bình, Trần Nguyên Hãn được vua Lê gia phong Tả tướng

quốc, Bình chương quân quốc trọng sự. Đối với Trần Nguyên Hãn, mặc dù là

công thần triều Lê nhưng vì xuất thân xứ Bắc, lại là dòng dõi con cháu nhà

Trần nên chàng không tránh khỏi sự đề phòng của vua Lê và sự đố kỵ của

những kẻ xu nịnh. Mặc dù luôn tận trung báo quốc nhưng Lê Lợi chưa khi nào

yên tâm về lai lịch của Tả tướng quốc. Vì chiếc ngai vàng của nhà Lê mà Lê

Lợi đã có những toan tính nhằm loại bỏ dần những bậc trung thần có công với

đất nước: “Lại nói riêng về nhóm công thần gốc sĩ phu Bắc Hà, các ông võ

tướng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú nên loại bỏ sớm,

còn như Nguyễn Trãi, Bùi Cầm Hổ, Bùi Ư Đài là quan văn ít nguy hiểm nên

giữ lại dùng vào việc kiến quốc một thời gian, chờ khi triều đình nhà Lê ta trực

tiếp đào tạo, kén chọn được lớp người sĩ phu kiểu mới, chỉ biết có Lê Lợi và

triều Lê như đã nói khi nãy thì cho các ông ấy cáo lão về quê” [52, tr.103].

Trước chốn quan trường nhiều âm mưu, thủ đoạn, Trần Nguyên Hãn đã

cáo quan về ở ẩn tại quê nhà Sơn Đông. Khất quy hưu, Trần Nguyên Hãn đã

tận tâm tận lực góp sức vào công cuộc khuyến nông, khuyến công của quê

hương đất nước. Chàng muốn đem tài năng, trí lực của mình để giúp nhân dân

thoát nghèo.

Trên mảnh đất quê hương, Trần Nguyên Hãn đã dựng lại căn nhà mới

gọn gàng, đẹp đẽ cho gia đình. Tuy có khang trang hơn những ngôi nhà tranh,

vách đất ở Sơn Đông nhưng nó vẫn rất đỗi giản dị, bình thường so với một bậc

khai quốc công thần có nhiều cống hiến cho đất nước. Bên cạnh việc làm giàu

56

cho quê hương, Trần Nguyên Hãn còn “cho đóng những chiếc thuyền, kiểu

dáng như thuyền chiến có hình đầu rồng, đuôi én để tổ chức cho mọi người

cùng thi bơi, cùng đọ kiếm trên mặt nước, diễn lại những trận đánh của quân ta

ở bến Đông Bộ Đầu, từng gây khiếp đảm cho quân giặc” [9, tr.217]. Bè lũ gian

thần như Trịnh Bá Hoành, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản... vì ganh ghét với tài

năng của Trần Nguyên Hãn nên luôn tìm cách để tiêu diệt cái gai trong mắt

chúng. Chúng vu khống nói ông xây phủ đệ lớn, đóng thuyền to, tuyển tráng

binh, chở binh khí, luyện tập thủy quân để làm phản. Chúng tô vẽ, phóng đại

những việc làm của Tả tướng quốc để khép người anh hùng vào tội bất trung.

Theo chúng, những việc làm của Trần Nguyên Hãn “đâu chỉ làm ra dáng một

sứ quân, nghênh ngang một cõi mà làm vậy là rõ ràng Hãn có ý thoán nghịch,

phản lại triều đình” [37, tr.280].

Từ sự nghi kỵ của mình cộng với “mưu hèn, kế bẩn” của bọn gian thần,

vua Lê đã ban chiếu sai 42 lực sĩ xá nhân đi bắt Trần Nguyên Hãn về triều đình

hỏi tội. Sóng gió bất ngờ ập đến gia đình. Mọi người đều khuyên chàng chống

lại lệnh vua nhưng Trần Nguyên Hãn can ngăn: “Cho dù ta biết trước là ta

không thể sống được với nhà vua nên ta mới xin khất quy hưu nhưng nay nếu

ta ra mặt chống lại, viện vào cái cớ này, nhà vua sẽ tàn sát, sẽ giết hại hết

con cháu, dòng dõi nhà Trần mất. Tốt hơn hết là chỉ để một mình ta chịu

chết thôi!” [37, tr.287-288]. Chàng không muốn vì mình mà làm ảnh hưởng

đến gia đình, dòng tộc. Trần Nguyên Hãn luôn là người lấy việc trung quân báo

quốc làm đầu. Cả cuộc đời mình, chàng sống và chiến đấu cũng vì lý tưởng đó.

Chàng tin thời gian sẽ chứng minh cho tấm lòng thanh sạch, hiếu trung của

mình: “Người quân tử, lấy việc trung với vua, hiếu với nước làm đầu. Ta dẫu

có bị đức vua xử tội chết thì cũng là để giữ trọn hai chữ hiếu trung. Nếu có sự

oan khiên thì cuối cùng sẽ được minh giải. Đời nay không giải được thì đời sau,

đời sau nữa sẽ giải được” [9, tr.227].

57

Trên dòng sông Lô xuôi về kinh thành, Trần Nguyên Hãn đã chọn cho

mình cái chết để chứng minh cho sự thanh sạch của một bậc công thần khai

quốc luôn vì nước, vì dân. Cái chết bi kịch của Trần Nguyên Hãn được mỗi tác

giả sáng tạo một cách khác nhau.

Trong tiểu thuyết Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Trần Nguyên Hãn

bị bọn gian thần sát hại. Chúng âm mưu đục thủng đáy thuyền của Tả tướng

quốc: “Thuyền đi qua bến Kim Xuyên, đến vũng nước xoáy dưới chân mỏm

đá nhô ra lòng sông, viên quản gia chợt hốt hoảng phát hiện đáy thuyền bị

đục thủng, nước ùa vào, còn hai tên cai ngục biến mất từ lúc nào không

biết” [52, tr.317]. Trần Nguyên Hãn bế người quản gia đang ngất xỉu nhảy

xuống dòng sông Lô. Chứng kiến cái chết của người anh hùng, “đất trời bỗng

nhiên nổi cơn sấm chớp bão bùng, mưa rơi xối xả. Dòng Lô cuộn lên từng đợt

sóng hận, bọt tung trắng xóa, hối hả trôi nhanh về phía hạ lưu” [52, tr.318].

Thiên nhiên như đang cất lên tiếng khóc tiễn đưa, uất hận cho cuộc đời của

người anh hùng đời đời hiếu trung.

Trong tiểu thuyết Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), khi

thuyền vừa rời bến Đông Hồ, Trần Nguyên Hãn dùng mũi gươm đâm xuống

đáy thuyền. Nước ào ào tràn vào, “con thuyền lật đật, chao nghiêng, rồi chìm

dần, chìm dần...” [9, tr.232]. Dòng Lô mênh mang đã đón lấy người con của

trang Sơn Đông cùng với những gia thần nội thủ trung nghĩa. Ngài đã ung dung

đi vào “cõi thiên thu bất diệt, mang theo báu vật truyền đời, để lại niềm

thương nhớ đời đời cho người dân ven sông Lô cũng như muôn dân Đại

Việt” [9, tr.232]. Trần Nguyên Hãn đón nhận cái chết một cách thanh thản,

nhẹ nhàng như đi vào cõi bất tử, vĩnh hằng.

Đến với tiểu thuyết Người về chốn cũ (Xuân Mai), Trần Nguyên Hãn

cùng các huynh đệ đã tự trầm tại thác Đông Hồ trên sông Lô. Khi đến sát ghềnh

Đông Hồ, những người cầm lái đồng loạt gác mái dầm lên. Không có lái, con

thuyền quay ngang, lao đánh “rầm” xuống ghềnh. Thuyền chở Tả tướng quốc

và những anh em trung nghĩa vỡ tan trên sông. Sóng nước Lô giang “chồm tới

58

ào ạt cuốn những cánh tay chới với, những mái đầu nhấp nhô vào lòng, rồi mất

hút!” [37, tr.291].

Thời nhà Nguyễn, vua Tự Đức như thấu hiểu công lao và tấm lòng son

sắt của Trần Nguyên Hãn mà có làm bài thơ vịnh Tả tướng quốc:

Việt vương kỳ tướng dĩ tiên tri,

Ủy chất quân môn khước bất nghi.

Khả tích biển chu tùy Phạm Lãi,

Ngũ Hồ bất đáo tại giang mi.

Bản dịch của Phạm Tú Châu:

Việt vương tướng lạ biết từ lâu,

Yết kiết quân môn chẳng ngại cầu.

Đáng tiếc là thuyền theo Phạm Lãi,

Ngũ Hồ không tới, tới dòng sâu [Dẫn theo 2, tr.10].

Câu nói của Trần Nguyên Hãn trước khi chết cũng được các nhà văn

sáng tạo một cách khác nhau.

Trong tiểu thuyết Sóng hận sông Lô, Trần Nguyên Hãn nhìn về làng Sơn

Đông lần cuối như từ biệt quê hương, chàng ngửa cổ lên mà than rằng: “Trời

ơi! Hoàng thượng ở ngôi cao có biết, đến tận lúc này thần thà đem cái chết để

tỏ dạ trung thành với triều đình? Thần đi đây! Hoàng thượng hãy ngồi vững

trên ngai vàng của mình!...” [52, tr.317]. Trần Nguyên Hãn quả xứng đáng là

bậc trung thần của triều Lê. Tấm lòng trung quân của Tả tướng quốc thật khiến

người đời ngợi ca, khâm phục.

Với tiểu thuyết Người con trang Sơn Đông, Trần Nguyên Hãn giơ cao

gươm báu, chỉ lên trời và nói lớn: “Tôi với vua cùng lo cứu dân, cứu nước,

nay việc lớn đã thành, sao nhà vua lại mưu hại tôi? Trời cao có thấu

chăng!” [9, tr.232]. Câu nói của người anh hùng như một câu hỏi lớn để đi tìm

lời đáp: Tại sao một người luôn vì dân vì nước lại phải chết một cách oan uổng.

Ông trời liệu có thấu cho nỗi oan khiên của người anh hùng? Đáp lại câu hỏi

59

của Trần Nguyên Hãn “chỉ có tiếng vọng của Ngài âm vang trong sóng nước, lan

truyền khắp cả một khúc Lô Giang lúc này đang chau mày sóng lớp...” [9, tr.232].

Trong tiểu thuyết Người về chốn cũ, Trần Nguyên Hãn ngửa mặt lên trời

mà dõng dạc nói: “Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân. Nay

nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời gièm pha mà hại tôi, Hoàng thiên

có biết không?” [37, tr.289]. Đáp lại câu hỏi nhức nhối của chàng “chỉ có bốn

bề im lặng. Bầu trời cuối mùa xuân ngổn ngang mây đen, mây trắng mịt mù dường

như thấu hiểu nỗi lòng của Hãn nhưng lại không thể lên tiếng” [37, tr.289]. Câu hỏi

thể hiện sự uất hận đến nghẹn ngào của người anh hùng dân tộc. Vua Lê đã

nghe theo lời gièm pha của bọn gian thần mà giết hại một công thần lập quốc.

Tuy nhiên, trời đất linh thiêng và nhân dân Đại Việt luôn thấu hiểu cho tấm

lòng cúc cung tận tụy, vì dân vì nước của Tả tướng quốc.

Như vậy, cái chết của Trần Nguyên Hãn được mỗi nhà văn hư cấu, sáng

tạo riêng. Trần Nguyên Hãn chết để khẳng định sự trong sạch và tấm lòng trung

quân, ái quốc của mình. Trong sử sách, cái chết của Tả tướng quốc là một

“khoảng trống”. Chính “khoảng trống” này đã giúp cho các nghệ sĩ thỏa sức

sáng tạo khi xây dựng hình tượng nhân vật lịch sử.

Tiểu kết chương 2

Ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông,

Người về chốn cũ đã tái hiện sinh động bức tranh đời sống xã hội Việt Nam đầu

thế kỷ XV. Đó là một thời kỳ bi thương, tang tóc nhưng cũng đầy hào hùng của

một dân tộc anh dũng, kiên cường. Bức tranh đời sống của nhân dân, bức tranh

văn hóa hiện lên với đầy đủ sắc màu làm cho người đọc thêm yêu Tổ quốc, yêu

những giá trị văn hóa dân tộc.

Sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn, nhà văn Vũ Ngọc Tiến,

Nguyễn Anh Đào và Xuân Mai đều tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng

nhân vật lịch sử. Xuyên suốt ba tiểu thuyết, người đọc thấy hiện lên một người

60

con trung hiếu, nặng lòng với quê hương, gia đình và dòng tộc; một người anh

hùng với lý tưởng lớn, khát vọng lớn và tài năng lỗi lạc, kiệt xuất trong nghệ

thuật quân sự.

Bên cạnh những điểm tương đồng, ba nhà văn đã có sự sáng tạo khác

nhau khi xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn. Các tác giả đã thiên

về những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của nhân vật chính. Tiểu thuyết

Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào) và Người về chốn cũ (Xuân

Mai) đã thể hiện trọn vẹn cuộc đời người anh hùng Trần Nguyên Hãn từ lúc

sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết. Đến với Sóng hận sông Lô, Vũ Ngọc Tiến lại

tập trung vào giai đoạn khi Trần Nguyên Hãn đã là một thanh niên trưởng

thành. Cuộc đời lúc nhỏ của Trần Nguyên Hãn không được nhà văn chú ý tô

đậm mà chỉ được hiện lên qua một vài hồi ức của nhân vật khi sống cùng thiền

sư Cúc Khê trên núi rừng Tam Đảo. Câu nói và cái chết bi kịch của Trần

Nguyên Hãn được tác giả hư cấu, sáng tạo khác nhau. Những nét khác biệt đó

thể hiện sự sáng tạo riêng, độc đáo của mỗi tác giả khi xây dựng nhân vật lịch sử.

Từ một nguyên mẫu có thật trong lịch sử, các nhà văn đã có những sáng tạo

thành công khi xây dựng nhân vật Trần Nguyên Hãn. Các tác giả không minh họa

lịch sử, không kể lại các sự kiện lịch sử một cách cứng nhắc mà đã thi vị hóa con

người đóng vai trò trong các sự kiện đó. Bởi vì, “nhân vật của tiểu thuyết lịch sử

phải sinh động hơn nhân vật lịch sử, vì nhân vật tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự

sống, còn nhân vật lịch sử thì đã sống” (Lucasc). Các nhà văn đã làm sống lại và

đem đến cho người đọc hình ảnh một Trần Nguyên Hãn “bằng xương bằng

thịt”. Bên cạnh một anh hùng, một vĩ nhân, Trần Nguyên Hãn hiện lên thật gần

gũi, chân thực, đời thường.

61

Chương 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRẦN NGUYÊN HÃN QUA BA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ:

SÓNG HẬN SÔNG LÔ; NGƯỜI CON TRANG SƠN ĐÔNG;

NGƯỜI VỀ CHỐN CŨ

Nhân vật “là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong

một sáng tác” (Tô Hoài). Nhân vật là đứa con tinh thần, là sản phẩm sáng tạo

nghệ thuật của người nghệ sĩ. Xây dựng thành công nhân vật trong tác phẩm tự

sự đòi hỏi nhà văn cần phải có vốn sống, kinh nghiệm, bản lĩnh sáng tạo và kĩ

thuật viết điêu luyện. Qua ba tiểu thuyết lịch sử (Sóng hận sông Lô, Người con

trang Sơn Đông, Người về chốn cũ), nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào

và Xuân Mai đã sử dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau.

Trong khuôn khổ Luận văn, chúng tôi sẽ tập trung vào một số biện pháp nghệ

thuật nổi bật, tiêu biểu nhất, từ đó khẳng định được tài năng và phong cách độc

đáo của mỗi nhà văn khi xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn.

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình

Ngoại hình là một khái niệm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, tác

phong, cử chỉ... của nhân vật. Miêu tả ngoại hình nhân vật là thủ pháp nghệ thuật

không thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói

riêng. Nhà văn có thể khắc họa ngoại hình nhân vật một cách trực tiếp qua ngôn

ngữ người kể chuyện hoặc miêu tả gián tiếp qua cái nhìn của nhân vật khác.

Ngay từ khi mới sinh ra, chân dung Trần Nguyên Hãn đã mang những

nét khác thường. Vẻ đẹp nhân vật hiện lên bằng nét vẽ của bút pháp hiện đại:

“Trần Nguyên Hãn mới được hơn tháng tuổi mà dài rộng như con nhà người ta

ba bốn tháng. Tóc bé xanh ngần. Miệng bé rộng. Tai bé to. Mắt bé sáng và

xếch. Có người tỏ ra biết xem tướng khen thằng bé có quý tướng, sau này ắt

phải làm quan” [37, tr.26]. Tác giả dường như báo trước một con người phi

phàm, có thể làm được những việc lớn làm rạng danh tổ tông. Lớn lên, “Trần

62

Nguyên Hãn đã ra dáng một trang thanh niên. Mái tóc Hãn xanh dày, lông mày

Hãn rậm, mắt Hãn sáng, bắp chân, bắp tay Hãn nổi lên cuồn cuộn” [37, tr.53].

Đó là chân dung của một trang nam nhi khỏe khoắn, gân guốc sinh ra để lo toan

gánh vác việc nhà, việc nước. Vẻ đẹp của chàng giống như vẻ đẹp của những

dũng sĩ bước ra từ câu chuyện cổ tích: “Chăm chỉ tập luyện nên chẳng bao lâu

Trần Hãn đã ra dáng một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng hơn người” [9, tr.18].

Qua con mắt sắc sảo của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn là một trang anh hùng

tuấn kiệt, một trang nam nhi tràn đầy lý tưởng và khí phách: “Nguyễn Trãi

khoan thai đứng dậy, nheo mắt ngắm nhìn chàng trai cao lớn, mặt mũi khôi ngô

tuấn tú, kém mình chừng mười tuổi” [9, tr.45]. Vẻ đẹp của Trần Nguyên Hãn là

vẻ đẹp của một trang anh hùng “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Chàng mang vẻ đẹp “vạm vỡ, quắc thước” [52, tr.305] của một người đầu đội

trời, chân đạp đất. Trong trận chiến nhổ đồn Hà Khương nằm cạnh sông Bố

Chính, Trần Nguyên Hãn hiện lên như một viên dũng tướng uy nghi, khí chất

bất phàm: “Nhậm Năng giương mắt nhìn viên tướng Lam Sơn còn trẻ măng

nhưng đầy khí phách... Gần mười năm nay trấn trị xứ Tân Bình, Thuận Hóa,

Nhậm Năng chưa phải đối mặt với một tướng Đại Việt nào như lần này gặp

Trần Hãn” [9, tr.103]. Đó là khí chất của người anh hùng đầy bản lĩnh, có niềm

tin mãnh liệt vào chiến thắng.

Trong ba tiểu thuyết lịch sử, nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào,

Xuân Mai tuy không chú trọng nhiều đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật Trần

Nguyên Hãn những cũng đã làm nổi bật chân dung một trang nam nhi tuấn tú,

rắn rỏi, tràn đầy khí phách và lý tưởng. Đó là hình ảnh, chân dung của một

trang anh hùng. Qua ba tác phẩm, độc giả còn thấy sự khác nhau trong bút pháp

miêu tả ngoại hình của ba nhà văn. Trong tiểu thuyết Người về chốn cũ, nhà

văn Xuân Mai chịu ảnh hưởng của bút pháp hiện đại khi miêu tả ngoại hình

nhân vật. Đến với tiểu thuyết Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông,

Vũ Ngọc Tiến và Nguyễn Anh Đào miêu tả ngoại hình nhân vật mang những

63

đặc điểm của bút pháp văn học trung đại: Chỉ bằng vài nét phác thảo đã làm nổi

bật thần thái, khí chất nhân vật lịch sử.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả tâm lý

Miêu tả tâm lý là một trong những biện pháp nghệ thuật quan trọng khi

xây dựng nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật. Nó chính là linh hồn làm nên sức

sống cho nhân vật. Tâm lý nhân vật là những tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc,

phản ứng tâm lý của nhân vật trước cảnh ngộ mà nhân vật chứng kiến hoặc thể

hiện trên bước đường đời của mình. Tiểu thuyết Việt Nam, đặc biệt là tiểu

thuyết hiện đại, các tác giả thường hướng ngòi bút của mình vào thế giới bên

trong nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sinh động, gần gũi và chân thực.

Miêu tả tâm lý nhân vật là một trong những biện pháp nghệ thuật thành

công và đặc sắc nhất trong ba tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Vũ Ngọc Tiến,

Nguyễn Anh Đào, Xuân Mai. Các tác giả đã làm nổi bật những suy tư, trăn trở,

giằng xé... của Trần Nguyên Hãn để người đọc thấy được hình ảnh một người

con nặng lòng với gia đình, quê hương và một người anh hùng luôn vì dân vì

nước, vì non sông xã tắc Đại Việt.

Từ biệt quê hương, Trần Nguyên Hãn tìm vào Lam Sơn với lý tưởng và

khát vọng của một trang anh hùng thời loạn. Tụ nghĩa cùng Lê Lợi và nghĩa

quân, người con Sơn Đông trang luôn tâm niệm “sẽ chứng tỏ cho Đại vương

biết, Trần Hãn này chỉ có một lòng diệt thù, báo quốc, chứ không bao giờ nghĩ

đến việc đem công trạng để đổi lấy vương vị” [9, tr.67]. Trong lòng Trần

Nguyên Hãn chỉ có một lý tưởng vì dân vì nước chứ không có mưu đồ, tư lợi.

Chàng lên đường một phần vì chứng tỏ chí trai, một phần muốn làm rạng danh

cho gia đình, quê hương và dòng tộc. Trong thâm tâm Trần Nguyên Hãn, ý

nghĩ khôi phục một triều đại đã sụp đổ không bao giờ xuất hiện.

Những năm tháng binh đao khói lửa, nếm mật nằm gai cùng nghĩa quân,

hình ảnh Trần Nguyên Hãn hiện lên với những suy tư, trăn trở được ba nhà văn

khắc họa rõ nét. Trước trận chiến hạ đồn Hà Khương trên đường thiên lý xuống

64

phương Nam, “Trần Hãn ngồi tựa lưng vào thân cây, hai mắt lim dim, nghĩ

ngợi. Giá có ai trong lúc này cùng ngồi với ta để bàn luận, tìm ra kế sách thì

hay biết mấy” [9, tr.97]. Chàng luôn tìm cách để thắng nhanh nhất và ít tổn thất

lực lượng nhất. Đối với Trần Nguyên Hãn, sinh mạng của nghĩa quân cũng như

sinh mạng của anh em ruột thịt. Họ cũng có vợ con, gia đình. Chứng kiến sự hi

sinh của những người chiến binh mà trong lòng Trần Nguyên Hãn uất hận,

nghẹn ngào. Chàng cảm thấy mình là người có lỗi khi những đồng đội thân

thiết lần lượt ngã xuống: “Trần Nguyên Hãn còn có nỗi buồn riêng... Một

người tướng tài là phải biết quý từng giọt máu của người lính. Vậy mà Hãn đã

để quân sĩ trên chiến thuyền nhà Minh giết mất họ. Máu của họ đã đổ xuống

sông. Thân xác họ đã chìm xuống đáy sông!” [37, tr.192-193].

Hình ảnh về quê hương, gia đình, dòng tộc luôn ở trong tâm trí người

con viễn chinh xa xứ. Những trạng thái tâm lý tinh vi, tế nhị của nhân vật đã

được ba nhà văn thể hiện một cách điêu luyện. Ở nơi chiến trận xa xôi, Trần

Nguyên Hãn luôn “nao nao nhớ nhà. Vào lúc gà lên chuồng này, vợ con

chàng ở Đa Cai đang làm gì nhỉ? Vắng chàng, Lê Thị Tuyển xoay xỏa ra

sao?” [37, tr.123]. Đó là tâm tư của một chàng trai giàu tình thương yêu gia

đình, vợ con. Hình ảnh người vợ tảo tần, kiên trinh chờ đợi luôn thường trực

trong trái tim của người anh hùng. Dù đã nhiều năm chinh chiến xa nhà nhưng

“lòng chàng vẫn luôn nhớ về bóng dáng vợ con cùng với gánh dầu dọc trên vai

rong ruổi các chợ xa, chợ gần trong những ngày kiếm sống” [9, tr.126]. Gia

đình có một vị trí đặc biệt trong tâm hồn người con Sơn Đông trang. Họ là

nguồn động lực tinh thần để chàng thực hiện hoài bão và làm tròn chí nguyện

của trang nam nhi thời loạn: “Chàng nghĩ về cha mẹ, hai đấng sinh thành ra

chàng đã phải sống cả một cuộc đời nghèo khổ để nuôi dưỡng chàng và đặt bao

nhiêu hy vọng, niềm tin vào nơi chàng. Chàng nghĩ về vợ Lê Thị Tuyển, người

luôn luôn động viên cổ vũ chàng trong cuộc sống đầy những khó khăn, thiếu

thốn. Chàng nghĩ về con trai Trần Trung Khoản, chú bé mới hơn một tuổi mà

65

kháu khỉnh, thông minh. Nó là chắt đích tôn của Trần Nguyên Đán, lớn lên liệu

có làm được gì rạng danh cho tổ tông?” [37, tr.107]. Khi được cụ Tú nhắc lại

quá khứ huy hoàng của dòng tộc - dòng họ Trần anh hùng, chàng không tránh

khỏi bùi ngùi với tâm trạng buồn, vui lẫn lộn: “Trong lòng Hãn lúc này cũng

không rõ nỗi buồn vui. Đúng hơn là chàng không có một giây phút ngẫm nghĩ

cho thật sâu lắng để mà nên buồn hay vui, khi cụ Trần Tú nhắc lại thời vàng

son của dòng tộc” [9, tr.120]. Nhìn dòng sông nơi xứ người, chàng nôn nao nhớ

về dòng Lô quê nhà: “Dòng sông đen sẫm lại. Sóng nước ì oạp vỗ vào bờ ào ạt.

Nơi đây sao giống dòng sông Lô đến thế! Trần Nguyên Hãn lại nôn nao nhớ

quê. Chàng nhớ từ những buổi chiều cùng bọn trẻ thôn Đa Cai tắm cho trâu

ngoài bến Đông Hồ, những hôm đem quang gánh ra đón cha mẹ đi hái dọc mãi

trên Phú Thọ, Tuyên Quang ngoài bến sông đến những lần hẹn Tuyển bên bãi

ngô non” [37, tr.146-147]. Tiếng ngựa trong tàu hí vang cũng “nhắc chàng nhớ

đến những ngày chăn trâu trên Rừng Thần cùng Bờ và bạn bè cùng trang lứa

vừa phi trên lưng trâu, múa gươm là những cây sắn, đánh nhau không phân

thắng bại. Ai mà ngờ được những trò chơi từ thuở thiếu thời ấy lại giúp cho

Trần Nguyên Hãn sau này, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, nhảy lên lưng ngựa

chiến là phi như gió được ngay. Ai cũng khen chàng cưỡi ngựa giỏi, múa gươm

tài” [37, tr.140-141]. Những trò chơi thuở thiếu thời cùng với bạn bè là hình

ảnh rất đỗi thân thương, giản dị. Bao năm xa nhà, những hình ảnh mộc mạc,

đơn sơ ấy chàng không thể nào quên. Đắm mình trong không khí lễ hội cùng bà

con nhân dân, Trần Nguyên Hãn “lại da diết nhớ về những ngày ở Đa Cai với

những hội đánh Phết, hội thi nấu cơm [37, tr.165]. Đó đều là những hội thi

chàng tham gia nơi quê nhà. Giữa không gian lễ hội mang đậm màu sắc văn

hóa đó, là nơi chàng hò hẹn, gặp gỡ người vợ tảo tần. Uống bát nước của người

dân nghèo, lòng chàng lại cồn cào nhớ đến mẹ, đến quê hương: “Uống liền một

hơi hết bát nước, Trần Nguyên Hãn thật lòng khen và nôn nao nhớ về Đa Cai,

nhớ đến những buổi tối mùa đông cả nhà ngồi bên bếp lửa. Những tối ấy bao giờ

66

mẹ cũng cho cha con Hãn ăn sắn nướng, uống với nước vối” [37, tr.177-178]. Nhìn

cảnh nhân dân nô nức đón Tết độc lập, “càng khiến Trần Nguyên Hãn chạnh

lòng nhớ quê da diết” [52, tr.133]. Ở Trần Nguyên Hãn, người đọc thấy được

hình ảnh một người con luôn đau đáu, khắc khoải nỗi nhớ về quê hương, xứ sở.

Người thầy dạy dỗ Trần Nguyên Hãn cũng trở đi trở lại trong tâm trí

chàng. Hình ảnh những người thầy đáng kính gắn với cuộc đời Trần Nguyên

Hãn được các nhà văn hư cấu, sáng tạo một cách khác nhau. Đó là thiền sư Cúc

Khê (Sóng hận sông Lô), thầy Tú (Người con trang Sơn Đông), thầy Nguyễn

Thái An (Người về chốn cũ). Dù có đi đến đâu thì hình ảnh những người thầy

tài, đức luôn sống trong tâm khảm người con trai họ Trần: “Chàng nghĩ về thầy

Nguyễn Thái An, người đã thắp lên trong tâm hồn Hãn, ngay từ thuở thiếu thời,

những khát khao đền nợ nước, trả thù nhà” [37, tr.107]. Trước mỗi lần xuất

chinh hay những trận thắng của nghĩa quân, chàng đều giành một ngăn trong

trái tim cho người thầy mà mình trân trọng, tôn kính: “Riêng Trần Nguyên Hãn

chợt ứa nước mắt, nôn nao nhớ thiền sư Cúc Khê ... trên núi rừng Tam Đảo linh

thiêng và huyền bí gắn bó với mình suốt 20 năm giữa thời tao loạn, thế cuộc

đảo điên” [52, tr.56]. Thiền sư Cúc Khê chính là “người thầy và người cha nuôi

dạy ông lớn khôn, tinh thông võ nghệ, hiểu thấu đạo lý trong Nho - Phật - Lão

giáo” [52, tr.58]. Thầy là người giáo dục cho chàng phẩm chất, nhân cách của

một bậc chính nhân quân tử và truyền cho chàng ước mơ, hoài bão về chí làm

trai. Với mỗi chiến công lập được, Trần Nguyên Hãn luôn xốn xang nghĩ về

thầy: “Giờ đây, trên khoang thuyền vững chãi mới cướp được của giặc, ông

đắm chìm vào quá khứ xa xăm, với bao hoài niệm về một thời ẩn mình trên núi

Tam Đảo, được thiền sư Cúc Khê dạy văn, luyện võ. Ở đó, ông đã có với bà

Đào biết bao kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, hái hoa, bắt bướm. Rồi khi ông vừa

tròn 20 tuổi, thầy lại chiểu theo di huấn của ông nội, xe kết duyên nồng cho hai

người. Trong gian nhà nhỏ sau chùa, đôi vợ chồng trẻ đã sống những năm

tháng đẹp nhất của đời người. Làm sao quên được mỗi sáng luyện võ hay đêm

67

về đọc binh thư, ông được nàng săn sóc, động viên bằng củ khoai, mẩu sắn

nặng sâu tình nghĩa. Những đêm thanh vắng, giữa non xanh Tam Đảo

thiêng liêng và kì vĩ, ông đã được thỏa thê tận hưởng hạnh phúc vợ chồng”

[52, tr.62-63]. Không chỉ dạy văn, luyện võ cho chàng, thầy Cúc Khê còn kết

nối con tim chàng trai trẻ với người con gái xinh đẹp, nết na. Thầy là người để

chàng gửi gắm những tâm tư, lý tưởng, hoài bão của một thời trai trẻ tràn đầy

bầu nhiệt huyết.

Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân được sống trong cảnh thái bình.

Vương triều mới được thành lập nên không tránh khỏi những kẻ xu nịnh để

chúng mưu quyền, đoạt vị. Những sĩ phu Bắc Hà có tài, có tâm đều bị bọn gian

thần đố kỵ, ganh ghét. Cùng với sự đố kỵ của bọn gian thần, Trần nguyên Hãn

cũng không tránh khỏi sự nghi kỵ của vua Lê bởi nguồn gốc xuất thân danh gia

vọng tộc. Một mình bơ vơ chốn quan trường, Trần Nguyên Hãn cảm thấy mình

lẻ loi, đơn độc, “cảm thấy mình chơi vơi như người đang bơi giữa dòng nước

xoáy, nhìn ra xung quanh bốn phía, không thấy đâu là bến bờ. Mọi sự ở chốn

cung đình hình như đang ngấm ngầm một cơn giông tố, báo hiệu những đảo

lộn, trắng thành đen, đen thành trắng sẽ xảy ra bất cứ lúc nào” [9, tr.199]. Nỗi

niềm suy tư, giằng xé về thế cuộc đảo điên trong tâm hồn nhân vật được nhà

văn thể hiện tinh tế. Nỗi giằng xé như chạm, như khắc vào trái tim làm người

anh hùng quặn đau, rỉ máu trước nhân tình thế thái. Rời xa triều chính với

những cơn sóng ngầm, Trần Nguyên Hãn cáo quan về quê bởi “mảnh đất quê

hương, nơi chôn rau cắt rốn lại hiện lên như vẫy gọi chàng. Về thôi! Về với

Sơn Đông Trang, với Rừng Thần yêu dấu. Về với sông Lô hiền hòa như lòng

mẹ muôn phương, với bến Đông Hồ nước trong và mát” [9, tr.205]. Quyết định

cáo quan hồi hương khiến chàng “thấy trong lòng thanh thản, nhẹ nhõm như

bầu trời đang đầy mây vần vũ bỗng trong sáng hẳn ra” [37, tr.229]. Trở về với

nguồn cội, Trần Nguyên Hãn thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa.

Những lo toan, vướng bận, toan tính của người đời đã được rũ bỏ. Tả tướng

68

quốc vui sống cùng bà con nhân dân, đóng góp công sức với khát khao làm

thay đổi đời sống còn nghèo khó của vùng đất quê hương.

Qua hình tượng nhân vật Trần Nguyên Hãn, người đọc thấy được biệt tài

miêu tả tâm lý nhân vật của ba nhà văn. Từ những trang viết với ngôn ngữ điêu

luyện, chắt lọc, người đọc thấy được một tâm hồn, một nhân cách luôn khắc

khoải, ưu tư vì gia đình, quê hương, vì giang sơn xã tắc.

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ

“Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học

được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” [20, tr.215]. Ngôn ngữ tạo nên những

hình tượng nghệ thuật, truyền tải những tâm tư, tình cảm của nhà văn đến với

bạn đọc. Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong tác phẩm, bao gồm có

ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn

Anh Đào, Xuân Mai đã rất thành công khi miêu tả tính cách, nội tâm nhân vật

với cả hai dạng thức là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm. Mỗi trang viết

của họ khi xây dựng nhân vật đều tạo nên sức hấp dẫn, thú vị bởi tài năng trong

nghệ thuật sử dụng ngôn từ.

3.3.1. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại

Trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh

Đào, Xuân Mai đều tập trung xây dựng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Qua

ngôn ngữ đối thoại, nhà văn đã thổi linh hồn vào nhân vật, làm cho nhân vật

hiện lên sinh động, chân thực như từ cuộc đời bước vào trong trang văn.

Từ khi còn là chàng thanh niên với gánh dầu dọc trên vai, Trần Nguyên

Hãn đã nuôi khát vọng, lý tưởng của một trang anh hùng. Trước sự xâm lăng,

giày xéo của giặc phương Bắc, chàng trai trẻ căm phẫn đến tột cùng. Cuộc đối

thoại với tên giặc Minh đóng ở thành Tam Giang đã thể hiện rõ bản lĩnh, khí

phách và lòng căm thù giặc sâu sắc của Trần Nguyên Hãn: “- Tao không muốn

làm Quốc vương. Tao muốn đánh đuổi chúng mày ra khỏi nước Nam!” [9, tr.26].

Đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi để đem lại cuộc sống no ấm, thái bình cho

nhân dân chính là mục đích, lẽ sống của chàng trai họ Trần.

69

Ở nơi rừng núi xa xôi, Trần Nguyên Hãn ngày đêm nghiền ngẫm binh

thư để mong một ngày tìm được minh chủ. Cuộc đối thoại với ông lão chài lưới

ven sông đã thể hiện khát vọng và tráng chí bốn phương của người con Sơn

Đông trang: “- Ấy chết! Xin ông đừng nói thế. Khi nước loạn thì mọi người đều

phải ra tay cứu nước. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, chứ cứ gì ai.

Việc dựng cờ là việc to tát, phải theo ý giời. Còn đối với cháu, chỉ mong có một

minh chủ cùng chí hướng, dù ở đâu dưới gầm trời Nam này thì cháu cũng tìm

đến và xin làm một tên tiểu tốt, dốc lòng phò tá” [9, tr.33]. Chàng đã phân tích

cho ông tình hình đất nước một cách tỉ mỉ, thấu đáo. Dù còn trẻ tuổi nhưng

Trần Nguyên Hãn đã có cái nhìn sâu sắc về thời cuộc: “- Ông nên biết rằng,

giặc Ngô kéo sang, đưa ra chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực chất là để

cướp nước ta, lập làm quận huyện của chúng, giống như thời nhà Đường đô hộ.

Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng là tôn thất nhà Trần thật, nhưng không đủ tài

đức, dẫu có xưng là hoàng đế thì thiên hạ cũng không còn mấy ai theo nữa. Vì

họ Trần đã suy. Hào khí Đông A đã tắt. Đại Việt lúc này cần có một người

khác làm minh chủ, phất cao ngọn cờ kháng Minh thì mới thu phục được muôn

dân, hào kiệt bốn phương mới tụ hội” [9, tr.34]. Chàng hiểu rõ âm mưu thâm

độc của giặc Minh khi kéo quân sang nước ta. Chàng cũng thấy được sự suy vi

của nhà Trần và lúc này đất nước cần một anh hùng đủ tài, đủ đức để kêu gọi

nhân dân đứng lên đánh đuổi kẻ thù xâm lược.

Trước hiện thực đau thương, tang tóc của cả dân tộc, Trần Nguyên Hãn

đã bộc bạch những lời tâm huyết của mình với thầy Nguyễn Thái An: “- Bẩm

thầy! Đúng là như vậy ạ. Chỉ có điều xin thầy hãy hiểu cho con, bấy lâu nay

con nuôi chí cứu dân, giúp dân không có nghĩa là con muốn khôi phục lại

cơ nghiệp nhà Trần. Con có ý thức dẹp giặc, muốn lo cho dân, muốn cứu

dân khỏi ách lầm than, không có nghĩa là con muốn dựng lại một vương

triều đã sụp đổ” [37, tr.96]. Đánh đuổi giặc thù, cứu giúp muôn dân Đại Việt

thoát khỏi ách lầm than là lý tưởng của chàng trai trẻ. Trần Nguyên Hãn không

70

hề có ý nghĩ khôi phục một vương triều đã mất. Với chàng, triều Trần và hào

khí Đông A đã là ánh hào quang của quá khứ. Còn hiện tại, cứu nước cứu dân

là trách nhiệm của muôn dân Đại Việt.

Cảm phục trước tài năng, uy đức bao trùm của chủ tướng Lê Lợi, Trần

Nguyên Hãn đã vượt một chặng đường dài đến xin tụ nghĩa. Chàng lặn lội tìm

vào Lam Sơn một phần để thỏa chí tang bồng, một phần là vì đại nghiệp của

giang sơn xã tắc: “- Bẩm Đại Vương! Cơ nghiệp nhà Trần đã mất vào tay họ

Hồ. Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng dấy binh nhưng đều đã thất bại. Tôi chỉ là

người dân bán dầu ở Sơn Đông trang không hề có mong muốn khôi phục Trần

triều. Trong lúc xã tắc không có chủ, nòi giống điêu linh do ách đô hộ của giặc

Ngô, là con dân Đại Việt ai cũng mong chờ một ngọn cờ dấy nghĩa để đánh

đuổi giặc thù. Nay Chúa công đã có hịch truyền, là đấng nam nhi, tôi không thể

vì vợ bìu con ríu mà ngày ngày gánh hai thùng dầu trên vai, giương mắt nhìn

tội ác của quân giặc đang giày xéo non sông Đại Việt” [9, tr.65]. Trần Nguyên

Hãn nhận thức rõ được thực tại và hoàn cảnh đất nước: Những người dân Đại

Việt yêu nước hãy cùng nhau tìm một minh chủ tài năng, nhân nghĩa để thống

nhất quần hùng đánh đuổi giặc ngoại bang. Người con Sơn Đông ngày đêm rèn

luyện võ nghệ, nghiền ngẫm binh thư cũng chỉ mong được một lần báo đền nợ

nước: “- Thưa chúa công và các đại huynh... Riêng tôi, mười năm mài gươm chờ

thời đánh giặc để đền nợ nước, trả thù nhà nay đã tìm được minh chủ, nếu được tin

dùng, Hãn tôi sẽ quên mọi riêng tư mà hết lòng vì nghiệp lớn” [37, tr.133].

Là người thông thạo binh thư, Trần Nguyên Hãn đã được Lê Lợi giao

cho nhiệm vụ quan trọng trong cuộc chinh phạt xuống dải đất phía Nam Đại

Việt: Giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Trước trận đánh hạ đồn Hà Khương ở

Bố Chính, chàng đã bồi dưỡng những kiến thức mình có được với Thượng

tướng Doãn Nỗ. Đó là những kiến thức binh pháp mà đạo làm tướng cần phải

có được khi đối mặt với kẻ thù: “- Phàm cái nguồn để biến đổi quân kì quân,

chính là ở chỗ: Đến thì không nói. Dùng binh thì bí mật. Cho nên việc thì nắm

71

trước, động thì lặng im, dùng thì người ta không ngờ, mưu thì người ta không

biết. Phàm muốn thắng thì trước tỏ cho địch biết là ta yếu rồi mới đánh. Vì thế,

quân ít mà công nhiều. Chưa thấy thắng mà đã đánh thì quân tuy nhiều cũng

thua! Người đánh giỏi thì bình tĩnh mà không rối. Thấy thắng thì đánh. Thấy

không thắng thì dừng” [37, tr.149]. Cách tiến thoái, đóng quân, quan sát trận

địa cũng là những điều quan trọng mà người làm tướng cần phải nắm vững: “-

Vào trận, nếu thấy đường tiến dễ, đường lui khó thì nên săn ở phía trước. Nếu

đường tiến khó, đường lui dễ thì nên đến sát mà đánh. Đóng quân ở nơi thấp,

nước không có chỗ thông, lại hay mưa dầm thì nên tháo nước vào cho ngập.

Đóng quân ở nơi chằm hoang, cây cỏ um tùm, gió thổi lồng lộng thì nên đốt mà

tiêu diệt. Quân đóng mãi một nơi, tướng sĩ trễ nải, quân không đề phòng thì nên

lẻn mà đánh úp” [37, tr.150]. Tài năng của người làm tướng, của những “bậc

thánh võ trị đời” còn là ở việc “đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không

có lũy, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng như mưa rơi trên không mà dựng

lên cuộc đời vô sự” [37, tr.150]. Có thể thấy, những kiến thức binh thư gia

truyền của dòng họ nhà Trần đã được Trần Nguyên Hãn vận dụng, nắm vững

một cách thuần thục. Nó thể hiện sự đúng đắn, tài tình trong binh pháp đánh

giặc: tránh điểm mạnh mà đánh vào điểm yếu của giặc; biết phát huy điểm

mạnh, lợi thế của đất nước, của quân và dân, buộc quân giặc phải đánh theo

cách đánh của ta đã chuẩn bị trước; buộc giặc từ thế mạnh chuyển sang thế yếu,

từ chủ động thành bị động để rồi tiêu diệt chúng.

Với Thái tử Tư Tề, Trần Nguyên Hãn cũng dành cho chàng những đặc

ân. Là người nhân nghĩa lại sẵn sàng xả thân vì đại nghiệp nên Tư Tề được

Trần Nguyên Hãn yêu mến, cảm phục. Những lúc rảnh rỗi, Trần Nguyên Hãn

thường truyền đạt cho Tư Tề những kiến thức binh thư. Trần Nguyên Hãn đã

phân tích tình thế giữa ta và địch trong chiến dịch Thuận Hóa cho Tư Tề nghe

để từ đó quân ta chọn cách đánh phù hợp trong chiến dịch ấy: “Mấy năm trước

ta đem quân vào Thuận Hóa trong thế ta yếu, địch mạnh, lại đang kiểm soát

72

lãnh thổ toàn vùng, khi cần có thể cố thủ trong thành cao, hào sâu, khí giới và

lương thực đầy đủ. Ta chỉ hơn giặc ở hai chữ Đại Nghĩa nên lòng dân ủng hộ.

Vì thế ta phải mất công đưa quân chui lủi trong rừng, vào tận chân đèo Hải Vân

đánh ra; trước là giải phóng làng quê để có thêm sức người sức của; sau mới

đánh thành bằng công kiên chiến, giải quyết dứt điểm chiến dịch” [52, tr.213].

Khi được Tư Tề hỏi về kế sách chống giặc Minh nếu chúng lại sang xâm lược,

Trần Nguyên Hãn đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng là xây dựng lực lượng hùng

hậu, thiện chiến và quy củ: “Ngay từ bây giờ, Tư Tề phải giúp Hoàng thượng

gây dựng binh lực hùng mạnh, biên ngũ chặt chẽ để kiểm soát quân lương.

Binh lực triều đình gồm có: nhỏ nhất 1 Ngũ là 5 người; 10 Ngũ là 1 Tốt 50

người, 10 Tốt là 1 Lữ 500 người; 10 Lữ là 1 Thê 5 ngàn người, do một tướng

giỏi chỉ huy; 10 Thê là 1 Đạo 5 vạn người do một đại tướng chỉ huy, giỏi binh

pháp, văn võ song toàn, trung quân ái quốc; cả nước cần 10 Đạo là đủ chống

giặc phương Bắc. Binh lực lại chia ra Chính binh và Du binh. Chính binh trang

bị đầy đủ, chốt ở nơi xung yếu để đánh giặc những đòn quyết định. Du binh là

quân cơ động, trang bị gọn nhẹ, không đóng mãi ở một chỗ mà luôn di chuyển.

Du binh đi đến đâu hòa lẫn vào dân, cùng giúp dân cấy lúa, trồng rau hay vỡ

đất trồng khoai. Mặt khác, Du binh trong lúc lưu trú ở nơi nào thì huấn luyện

dân binh nơi đó, cứ một Ngũ Du binh thì huấn luyện được ba Ngũ Dân binh để

khi có giặc dùng đến. Làm được như vậy thì mạnh như giặc Mông Thát ta cũng

chẳng sợ” [52, tr.215]. Đó là những lời tâm huyết, thể hiện tầm nhìn chiến lược

của một vị tướng tài ba, uyên bác. Với Thượng tướng Doãn Nỗ và Thái tử Tư

Tề, cơ hội được trò chuyện với Trần Nguyên Hãn là bài học quý báu như ngàn

vàng. Trước những lời gan ruột của Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ cũng như Tư

Tề ngồi nghe như “nuốt từng lời” của vị đại tướng lão luyện binh pháp, dày dạn

kinh nghiệm trận mạc.

Trở về nơi chôn nhau cắt rốn, Trần Nguyên Hãn mang trong mình khát

vọng cháy bỏng đến tột cùng là giúp đời sống nhân dân thay da đổi thịt. Với Tả

73

tướng quốc, chức tước chẳng qua chỉ là hư danh. Điều chàng tâm huyết nhất

vẫn là làm được điều gì đó có ý nghĩa cho quê hương xứ sở: “- Phải rồi! Đừng

gọi ta là Tả tướng quốc nữa. Với ta, chức tước chẳng qua là cái nhãn mác người ta

gắn cho ai thì người đó được. Nay gắn cho người này, mai gắn cho người khác.

Xem vậy nó có gì quan trọng đâu. Cái qúy nhất của cuộc đời mỗi con người, theo

ta nghĩ, là mình đã làm được việc gì có ích cho thiên hạ” [37, tr.242]. Ngôn ngữ

đối thoại với người dân Sơn Đông thật gần gũi, thân tình, thể hiện vẻ đẹp của

một nhân cách luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân.

Có thể nói, nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào, Xuân Mai đã xây

dựng thành công nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại. Qua mỗi cuộc đối thoại,

nhân vật hiện lên mang vẻ đẹp phẩm chất, nhân cách cũng như tài năng binh

pháp trong nghệ thuật quân sự. Trần Nguyên Hãn là người anh hùng dân tộc

với tấm lòng trung quân, ái quốc và căm thù giặc cháy bỏng.

3.3.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm

Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào,

Xuân Mai còn tập trung khắc họa nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, để từ đó

thâm nhập vào thế giới tâm hồn của nhân vật. Độc thoại nội tâm là “lời phát

ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội

tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy

trực tiếp của nó” [20, tr.122].

Trong ba tiểu thuyết lịch sử, ngôn ngữ độc thoại với những tâm tư, suy

nghĩ, trằn trọc của nhân vật được nhà văn khắc họa sinh động, cụ thể và chân

thực. Mỗi lời độc thoại của nhân vật, người đọc lại thấy hiện lên hình ảnh một

con người luôn đau đáu tâm can về lẽ sống, về giang sơn xã tắc.

Sau bao năm nếm mật nằm gai, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược

nhà Minh đã kết thúc thắng lợi trong niềm hân hoan vô bờ của nhân dân Đại

Việt. Đất nước độc lập, nhân dân được sống trong cảnh thái bình nhưng “bão

táp cung đình” lại nổi lên. Chứng kiến cảnh tượng đó, một công thần dựng

74

nước như Trần Nguyên Hãn không tránh khỏi bùi ngùi, xót xa: “Nhưng ở Khu

mật viện ta biết làm thế nào để được Thân hòa. Giữa chốn quan trường hiểm ác,

nếu ta đem Thân hòa bằng sự trong trắng, liêm khiết đôi khi thành vật cản,

ngứa mắt đám người cơ hội, gian manh, hiểm ác. Làm người lương thiện để có

Thân hòa thực khó lắm thay!” [52, tr.169]. Lời dạy của thầy được Trần Nguyên

Hãn khắc cốt ghi tâm. Trong những năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm,

chàng đã đem thân mình hòa vào đại nghiệp, hòa hợp với tất cả mọi người để

tạo nên khối đại đoàn kết. Đất nước hòa bình, lời dạy của thầy mà Trần Nguyên

Hãn muốn thực hiện cũng không dễ dàng. Giữa chốn quan trường, chàng đã

nhìn thấy được sự gian ác, hiểm độc của con người: “Ta đâu biết giữa muôn

loài thì loài người vốn đa phức, đa mưu trong sự tranh giành quyết liệt. Con thú

hoang tàn sát nhau chỉ bằng sức mạnh và nanh vuốt, chứ con người tàn sát, hủy

hoại nhau lấy mưu gian, quỷ kế làm đầu, sau mới dùng đến vũ khí. Vậy thì thầy

ơi! Trong cõi nhân sinh liệu con có làm được như thầy theo triết lý của Phật

hoàng Trần Nhân Tông “vạn sự thủy lưu thủy, bách niên tâm dĩ tâm” được

không, thưa thầy?” [52, tr.169]. Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật mang đậm lối

sống, triết lý nhà Phật: Vạn sự ở đời cứ trôi chảy, như nước đẩy nước xuôi. Là

người sống theo triết lý nhà Phật, thì không nên vướng bận chuyện tầm thường

thế tục. Trần Nguyên Hãn muốn sống với triết lý đó nhưng giữa sự đảo lộn của

thời thế, chàng cũng không dễ gì thực hiện được. Trong chốn quan trường

nhiều toan tính, tư lợi, Trần Nguyên Hãn đã cố nhẫn nhịn để chung sức cùng

vua Lê “chấn hưng Đại Việt”. Chữ “Nhẫn” mà thầy Cúc Khê dặn dò, chàng “đã

cố làm theo, nhưng người đời chắc gì đã cho thế là đủ. Giữa chốn quan trường,

ta phải tiếp tục chữ Nhẫn của thầy đến mức nào, đến bao giờ” [52, tr.187].

Dẫu có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc Minh

nhưng Trần Nguyên Hãn thấy rằng mình cũng “chỉ là những hạt cát trên bãi

biển, góp công sức vào cùng với muôn vạn quân sĩ đánh đuổi giặc thù cho vẹn

đạo làm người, thỏa chí làm trai” [9, tr.200-201]. Những lời độc thoại cho thấy

75

trái tim đau đớn, rụng rời của người anh hùng: “Còn ta? Không biết ta chính là

Phạm Lãi hay Văn Chủng đây? Phạm Lãi đã đến được Ngũ Hồ để sống những

ngày cuối đời thảnh thơi, ngao du cùng mây nước. Còn ta? Ta sẽ đến được nơi

đâu trên mảnh đất chật hẹp này?” [9, tr.205]. Phạm Lãi và Văn Chủng là hai

mưu sĩ đại tài của Việt vương Câu Tiễn ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến

Quốc. Họ là người có công lớn trong việc giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt

nước Ngô. Tuy nhiên, kết cục số phận của hai người họ lại hoàn toàn khác

nhau. Phạm Lãi đã thoát chết nhờ con thuyền nhỏ trên Thái Hồ (Ngũ Hồ rộng

lớn như biển cả, còn gọi là Thái Hồ), đưa ông cùng nàng Tây Thi xinh đẹp chạy

trốn, sống một cuộc đời phóng khoáng, tự do. Văn Chủng vì muốn thăng quan

tiến chức mà cuối cùng phải chịu kết cục bi thảm. Trần Nguyên Hãn giúp Lê

Lợi cũng như Phạm Lãi, Văn Chủng giúp Việt vương Câu Tiễn. Vì lòng trung

quân ái quốc, Trần Nguyên Hãn trở về quê nhà Sơn Đông với mong muốn

chung tay gắng sức cùng Hoàng thượng chấn hưng nước nhà thời hậu chiến.

Nhưng khi vua Lê đã để bụng nghi ngờ, liệu chàng sẽ sống ra sao? Tả tướng

quốc sẽ có một cuộc sống tự do, tự tại như Phạm Lãi hay chịu kết cục bi thảm

như Văn Chủng đây? Câu hỏi như vò xé, bóp nát trái tim của người anh hùng

bách chiến bách thắng đang cảm thấy bơ vơ, bế tắc nơi triều chính.

Về với quê hương là dịp để ông góp sức mình thay đổi đời sống nhân

dân. Ngôn ngữ độc thoại cho thấy một người anh hùng với tấm lòng trung

quân, ái quốc và một tâm hồn luôn khắc khoải, da diết để chấn hưng nước nhà:

“Hoàng thượng lên ngôi, không muốn ta nắm binh quyền thì ta cáo lão về quê,

đem phần đời còn lại góp vào công cuộc tái thiết đất nước cũng là hạnh phúc

của kẻ thần tử vì vua và cũng vì dân. Ông nghĩ vậy, thấy lòng thanh thản, nhẹ

nhõm” [52, tr.245-246]. Tìm về chốn cũ, ông hăm hở bắt tay xây dựng cuộc

sống ấm no cho bà con. Với những đóng góp của Tả tướng quốc vào công cuộc

khuyến nông, khuyến công, khuyến thương, quê nhà như căng tràn một sức

sống mới.

76

Tuy đã cáo quan nhưng bè lũ gian thần triều Lê luôn tìm đủ mọi cách

hãm hại Tả tướng quốc. Ông xót xa, uất hận khi tấm lòng trung quân, ái quốc

của mình bị nghi ngờ: “Hỡi ôi! Vì thiếu chút bình tâm mà nhà vua tin lời xúi

bẩy, ra lệnh bắt ta. Bởi vậy, dẫu ta có trở thành anh hùng cũng vẫn không là

một công thần trọn vẹn của triều Lê. Việc đã đến nông nỗi này, ta còn sống làm gì

nữa? Ta tự chết là để nhà vua khỏi mang tội lớn giết một công thần khai quốc, giết

một tướng tài đã cùng mình làm nên sự nghiệp nhà Lê đó!” [37, tr.290]. Đến lúc

sắp rời xa trần thế, Tả tướng quốc vẫn nghĩ cho vua Lê. Trần Nguyên Hãn tự

trầm tại bến Đông Hồ để giữ lại danh tiết cho bản thân cũng như “tiếng thơm”

cho vua Lê khi không phải ra tay giết hại một công thần lập quốc.

Có thể thấy rằng, cả ba tiểu thuyết lịch sử đã thể hiện biệt tài của các nhà

văn trong nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ độc thoại nhân vật. Ngôn ngữ độc

thoại đã góp phần đi sâu vào nội tâm, chiều sâu tâm lý, những góc khuất ẩn

tàng trong tâm hồn nhân vật. Nhân vật được soi chiếu, nhìn nhận một cách đa

diện, đa chiều. Nhân vật hiện lên không chỉ mang “quân phục lịch sử” mà chân

thực, sống động, gần gũi với con người ngoài đời.

Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ (đối thoại và độc thoại), ba nhà văn

đều có nét tương đồng khi sử dụng lớp ngôn ngữ trang trọng, cổ kính, phù hợp

với nhân vật và thời đại lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh lớp ngôn ngữ trang

nghiêm cổ kính, người đọc còn thấy được nét riêng trong cách sử dụng ngôn

ngữ của các tác giả. Trong Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), ngôn ngữ nhân

vật, đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại mang đậm tinh thần, giáo lý nhà Phật. Trong

tác phẩm, người đọc thấy dấu ấn rõ nét của Phật giáo. Đến với Người con trang

Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), người đọc nhận thấy sự đan xen của ngôn ngữ

suồng sã với ngôn ngữ trang trọng, cổ kính, sử dụng những điển tích, điển cố

văn học. Với tiểu thuyết Người về chốn cũ (Xuân Mai), người đọc thấy hấp dẫn

bởi lớp ngôn ngữ dung dị, gần gũi, đời thường pha lẫn màu sắc triết luận.

77

3.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua giọng điệu

Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà

văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng

hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành

kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...” [20, tr.134]. Trong tác phẩm tự

sự, giọng điệu có vai trò rất lớn tạo nên phong cách, chiều sâu tư tưởng, tài

năng... của nhà văn. Mỗi nhà văn đều có một giọng điệu riêng và mang đậm cá

tính sáng tạo của tác giả.

Trong ba tiểu thuyết Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông,

Người về chốn cũ có sự đan xen của nhiều giọng điệu. Nhưng chúng tôi nhận

thấy giọng điệu chủ đạo của ba tiểu thuyết là giọng điệu ngợi ca và giọng điệu

xót xa, thương cảm. Trong khuôn khổ Luận văn, chúng tôi sẽ đi sâu tập trung

vào hai giọng điệu cơ bản này.

3.4.1. Giọng điệu ngợi ca

Giọng điệu ngợi ca là giọng điệu xuyên suốt trong ba tiểu thuyết Sóng

hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào)

và Người về chốn cũ (Xuân Mai). Đây là giọng điệu rất phù hợp với những tác

phẩm thiên về ca ngợi chiến công của nhân vật anh hùng trong lịch sử.

Tìm vào Lam Sơn với chí nguyện của trang nam nhi thời loạn, Trần

Nguyên Hãn đã nhanh chóng khẳng định được tài năng của người con mang

dòng dõi tôn thất nhà Trần. Trên hành trình đi tìm minh chủ, một mình Trần

Nguyên Hãn đã tiêu diệt một toán giặc Minh đang đuổi theo cận vệ của võ

tướng Đinh Lễ. Tài năng của Trần Nguyên Hãn khiến Đinh Lễ cũng phải cảm

phục: “Xin tráng sĩ đừng quá khiêm nhường. Việc tráng sĩ lấy đầu bọn giặc dễ

như giở bàn tay vừa rồi, quả là trong thiên hạ xưa nay hiếm” [9, tr.77]. Đinh Lễ

đã đánh giá rất cao tài năng bất phàm của chàng trai đất Sơn Đông. Đó là một

người anh hùng mà trong thiên hạ không dễ gì gặp được. Không chỉ tài năng

mà nhân phẩm, đức độ của Trần Nguyên Hãn cũng được võ tướng Lam Sơn

78

tấm tắc ngợi khen: “Cháu tin Trần Hãn là người trung nghĩa. Hôm đó, nếu

không có người này ra tay thì cháu đã không còn mạng sống để trở về gặp được

Đại vương. Một đấng hào kiệt như thế, nhất thiết phải có mặt trong hàng ngũ

tướng lĩnh của nghĩa quân” [9, tr.81]. Phải chăng tạo hóa sắp đặt “đã mang đến

cho Chúa công Lam Sơn một võ tướng dũng mãnh, kiệt xuất, không ai sánh

kịp” [9, tr.76].

Với tầm nhìn sâu rộng của một nhà chỉ huy, Lê Lợi đã giao cho Trần

Nguyên Hãn những nhiệm vụ quan trọng trong nghĩa quân Lam Sơn. Trần

Nguyên Hãn chính là cánh tay đắc lực trong hàng ngũ tướng lĩnh để giúp Lê

Lợi thực hiện khát vọng độc lập của dân tộc Đại Việt. Giải phóng Tân Bình -

Thuận Hóa là một trong những chiến công đầu tiên của Trần Nguyên Hãn.

Nhiệm vụ quan trọng là vậy, nặng nề là vậy nhưng chàng đã hoàn thành xuất

sắc nhờ tài thao lược, điều binh khiển tướng: “Chỉ sau vài trận đánh của nghĩa

quân Lam Sơn, quân Minh đã nhanh chóng bị tan rã. Lính và dân thuộc giặc

Minh trước đây ở khắp nơi đều quy thuận. Quân, tướng nhà Minh phải rút chạy

vào thành cố thủ. Thế là cùng với cả một vùng rộng lớn của Tân Bình - Thuận

Hóa được giải phóng, nghĩa quân Lam Sơn cũng trưởng thành vượt bậc: Từ chỗ

chỉ chống vây quét, tiến lên những trận tiến công lớn như hạ thành, vây thành,

tiêu diệt quân chủ lực địch. Công lao cũng như uy tín của Trần Nguyên Hãn từ

đấy càng tăng thêm. Quan Tư Đồ càng được Bình Định vương trọng dụng, tin

yêu. Các tướng lĩnh càng cảm phục và quân sĩ càng tin tưởng vào tài thao lược

của chủ tướng Trần Nguyên Hãn” [37, tr.157]. Với chiến thắng này, Trần

Nguyên Hãn đã góp phần mở rộng căn cứ của nghĩa quân xuống dải đất phía

Nam Đại Việt chứ không còn quẩn quanh ở một vài vùng đất nhỏ bé xứ Thanh.

Đại công của chàng xứng đáng được ca ngợi, tôn vinh. Chàng đã trở thành tấm

gương sáng ngời cho các tướng sĩ noi theo.

Với sự thông thạo binh thư và tài năng thiện chiến trong chiến đấu, Trần

Nguyên Hãn được Lê Lợi tin tưởng và giao cho nhiệm vụ là chủ tướng trận

79

chiến hạ thành Xương Giang. Đó là một thành trì kiên cố, tưởng chừng như

không thể công phá và được xây dựng bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của

nhân dân lao động. Nhưng với cách đánh thần tốc, táo bạo, bất ngờ, Xương

Giang thành đã bị hạ chỉ trong một thời gian ngắn. Trận chiến “long trời lở đất”

đã làm cho tên tuổi của chàng bay cao. Chiến thắng Xương Giang khiến Lê Lợi

cảm phục và ngợi ca tài năng quân sự đỉnh cao của Thái úy Trần Nguyên Hãn:

“Đối phương đã tử thủ nhưng dưới sự chỉ huy tài ba của Thái úy, nghĩa quân

vẫn thành công. Trong lịch sử chống ngoại xâm trước đây, cha ông ta đã đánh

thắng nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Thanh... nhưng cũng mới chỉ phá được trại,

phá được đồn, hoặc phá lũy phòng thủ, chứ triệt hạ được một thành trì quan

trọng với một số quân đông như Xương Giang thì chỉ đứng sau sự kiện Lý

Thường Kiệt hạ thành Ung Châu mà thôi” [37, tr.187-188].

Sau khi hạ thành, những “vàng bạc, lụa là, châu báu mà bọn giặc vơ vét

được của nhân dân chưa kịp đem về nước còn chất đầy trong kho, Thái úy lấy

ra đem chia cho các tướng sĩ, những người có công trong việc phá thành, giết

giặc” [9, tr.156]. Tiền bạc và công danh, Trần Nguyên Hãn không hề màng tới.

Đối với chàng, ra trận giết giặc và cứu giúp muôn dân mới là chí nguyện và lý

tưởng của trang nam nhi thời loạn. Trần Nguyên Hãn hiện lên với vẻ đẹp sáng

ngời - vẻ đẹp của tài năng lớn, nhân cách lớn. Người con đất Sơn Đông thật

xứng đáng với hai tiếng anh hùng trong tâm thức của nhân dân Đại Việt: “Hãn

là người có công chống giặc Minh được vua Lê phong tới chức Tả tướng quốc

mà chàng không màng tới danh lợi, người như vậy không đáng gọi là anh hùng

sao?” [37, tr.240]. Với chiến thắng Xương Giang và sự thất bại thảm hại của

đội quân cứu viện, Vương Thông ở thành Đông Quan buộc phải quy hàng.

Buổi hội thề đã diễn ra trong niềm tự hào của nghĩa quân và nỗi nhục nhã ê chề

của Vương Thông cùng các tướng sĩ nhà Minh. Trong buổi hội thề, Trần

Nguyên Hãn được vinh dự đứng ở vị trí thứ hai sau Lê Lợi: “Trong hàng ngũ

chư tướng Lam Sơn, Hãn là người rất trẻ, lại đứng đầu hàng quan võ, nổi lên

80

với những chiến tích phi thường. Vì vậy, sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, Bình Định

vương đã để Trần Hãn ngồi cạnh mình ở vị trí thứ hai. Đó cũng là cách để

Vương Thông mục sở thị bằng xương bằng thịt, một vị tướng lừng danh của

Đại Việt đang đối mặt với hắn trong cuộc chiến ngoại giao này” [9, tr.179-180].

Trong những võ tướng của nghĩa quân Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn là

người lập được nhiều chiến công vang dội, làm nức lòng nghĩa quân và nhân

dân. Những chiến thắng quan trọng, đánh dấu bước ngoặt chiến lược của cuộc

chiến đều mang đậm dấu ấn, tài năng thao lược của Trần Nguyên Hãn cũng như

quyết định đến sự tồn vong của xã tắc: “Mười năm qua đệ đã tham gia chỉ huy

bốn trận: Nào là chiến dịch Tân Bình - Thuận Hóa; Nào là tiến vây Đông Quan;

Nào là hạ thành Xương Giang; Rồi chủ tướng tổng công kích trận Chi Lăng -

Xương Giang. Trong bốn trận ấy, đánh bộ có, đánh voi có, đánh ngựa có, đánh

thủy có, phục kích có, bình định có, công thành có, truy kích cũng có... Nghĩa

là đệ đã phải đương đầu với đủ các lực lượng, đủ các loại binh chủng, đủ các

loại địa hình. Thế mà trận nào đệ cũng giành chiến thắng giòn giã. Là người

trong cuộc, có thể đệ chưa biết đâu, mọi người đều thừa nhận đệ là người nổi

bật nhất trong hàng các võ tướng của Lê Lợi đấy. Uy tín của đệ trong quân sự

thật tuyệt vời” [37, tr.220]. Lời nhận xét của Nguyễn Trãi tràn đầy niềm tự hào

xen lẫn cảm phục đối với người huynh đệ thân thiết. Nó đã khái quát được

những chiến thắng lừng lẫy cùng tài năng cầm quân đánh giặc với đủ phương

pháp đánh trên mọi loại địa hình phức tạp của Trần Nguyên Hãn. Tài năng,

nhân phẩm của chàng cũng được Nguyễn Thị Lộ - người phụ nữ đẹp người,

đẹp nết, có học vấn ngợi ca, trân trọng: “Tôi vẫn thường nghe tiên sinh nhà tôi

nói về Tướng quốc, một võ tướng tài ba, mưu lược, từng Nam chinh Bắc chiến

lập nhiều công trạng, thật xứng đáng với truyền thống gia phong” [9, tr.187].

Theo Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn “thật là một cặp trời

phú cho hai dạng tài năng hiếm có ở đời. Một người anh hùng vung gươm xông

pha giữa muôn trùng trận mạc, trăm trận trăm thắng; còn một người thư thái,

81

ung dung nơi thư phòng, dùng bút lông đẩy lui hàng vạn quân giặc cướp nước

đến từ phương Bắc, lời văn nhẹ nhàng, uyển chuyển mà ngời sáng lên sức

mạnh của đại nghĩa thắng hung tàn” [52, tr.156]. Quả thật, hai người cháu của

quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là những tài năng kiệt xuất mà ông trời đã ban

cho Lê Lợi. Họ là nhà văn hóa, nhà quân sự được nhân dân ngợi ca và tôn kính.

Có duyên gặp gỡ và trò chuyện với họ là niềm tự hào, hạnh phúc của tất cả mọi

người: “Chia tay Trần Nguyên Hãn, dắt tay Thào Mỵ ra về, Tư Tề thấy lòng nhẹ

nhõm, sung sướng lâng lâng. Chàng thầm nhủ: Đời ta có được hai người như ông

Hãn và thầy Trãi bên mình, hỏi còn có hạnh phúc nào hơn!” [52, tr.215].

Trở về quê nhà Sơn Đông, Trần Nguyên Hãn được vua Lê Thái Tổ ban

thưởng cho 100 mẫu ruộng làm của riêng. Với một người không ham quyền

chức, lợi lộc cho nên Trần Nguyên Hãn luôn trì hoãn việc đi nhận ruộng: “Theo

quy định của nhà vua, Trần Nguyên Hãn được đi ngựa một ngày để nhận đủ

100 mẫu ruộng. Ngựa đi tới đâu thì những thửa ruộng nằm ở bên tay trái đều

thuộc về chàng cả. Biết vậy, nhưng vì tính không tham lam nên Trần Nguyên

Hãn cứ nhẩn nha uống nước, hút thuốc mãi, đợi đến lúc mặt trời lên cao đến

con sào chàng mới cùng mấy người tùy tùng rời khỏi Đa Cai” [37, tr.260].

Được cô gái đang cắt cỏ trên đồng (Chúa Lối) mời về nhà, chàng không ngần

ngại nhận lời mà quên mất mình đi nhận ruộng trong một ngày. Chia tay cô gái

cắt cỏ xinh đẹp, duyên dáng, Trần Nguyên Hãn bèn cho ngựa quay trở về Đa

Cai. Điều đó thể hiện nhân cách lớn của người anh hùng luôn lo lắng, trăn trở

với đời sống của nhân dân lao động. Chàng không ham ruộng đất vua ban mà

quất ngựa đi đến tối ngày cho dù mình xứng đáng được hưởng sau những năm

tận hiến cho giang sơn xã tắc. Nhân dân cảm phục, biết ơn sâu sắc đối với Tả

tướng quốc cũng là bởi ở nhân cách cao đẹp đó.

Cáo quan về quê nhà, Trần Nguyên Hãn không đắm mình vào những

cuộc vui của một bậc đại công thần triều Lê. Chàng luôn suy tư, trăn trở với

mong muốn làm thay đổi đời sống của nhân dân: “Sau khi xuống ngựa, buông

82

kiếm, cởi bỏ giáp trụ, ông muốn làm một việc gì lớn lao, có ích cho nước nhà

thời hậu chiến. Ông mong muốn cả một vùng đất trải dài dọc theo sông Lô, từ

châu Tam Đới đến trấn Tuyên Hóa sẽ mau trở nên giàu có, nghề nông, nghề thủ

công và giao thương với miền xuôi bằng đường thủy trên sông Lô mỗi ngày

thêm sầm uất” [52, tr.236-237]. Trần Nguyên Hãn muốn đem hết tài năng, trí

lực để cùng Hoàng thượng chấn hưng nước nhà thời hậu chiến. Việc làm của

Trần Nguyên Hãn được người thầy đáng kính - thầy Nguyễn Thái An cảm

phục. Thầy tự hào với cốt cách, nhân phẩm hơn người của học trò: “Không ở

lại triều đình là tôi biết cái cốt cách của anh khác với đời thường nhiều lắm.

Nói thật là, thầy rất mừng. Bởi quyền lực là thứ làm cho con người ta hư hỏng

nhanh nhất... Anh khất quy hưu về với dân làng, mong làm giàu cho Đa Cai,

thú thật thầy không còn cái mừng nào mừng hơn” [37, tr.253]. Làm đến chức

Tả tướng quốc triều Lê nhưng quyền lực, danh vọng không níu chân được Trần

Nguyên Hãn ở lại triều đình. Về quê không phải là sự kết thúc mà là tiếp tục

một hành trình mới - hành trình thúc đẩy sự phát triển của công cuộc khuyến

nông, khuyến công, khuyến thương cho nhân dân, đất nước. Sơn Đông như

thay da đổi thịt khi quan Tả tướng quốc về quê. Đời sống no ấm, không khí

tưng bừng rộn rã đang len lỏi khắp vùng. Nhân dân “từ trẻ thơ đến cụ già, ai

nấy đều tươi rói vẻ mặt, trong lòng thầm cảm ơn quan Tả tướng, nhờ có Ngài

mà dân chúng được như hôm nay thân phận đổi đời” [9, tr.225]. Trong lòng

nhân dân, Tả tướng quốc không chỉ là anh hùng trên chốn sa trường mà còn cả

trong cuộc sống đời thường.

Như vậy, xuyên suốt ba tiểu thuyết lịch sử, người đọc thấy được giọng

điệu ngợi ca tài năng, phẩm chất và nhân cách người anh hùng Trần Nguyên

Hãn. Đóng góp và cống hiến của Tả tướng quốc thật xứng đáng với câu đối mà

Trần Danh Xí viết về Người:

Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa,

Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên.

83

Có nghĩa là:

Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này,

Lòng trung quân của Người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời biết

[Dẫn theo 2, tr.11].

3.4.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm

Trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào, Xuân

Mai không chỉ ca ngợi nhân vật lịch sử mà còn có sự suy ngẫm, chiêm nghiệm

về số phận con người lịch sử. Ba tiểu thuyết là những suy ngẫm với giọng điệu

xót xa, thương cảm của các nhà văn về cuộc đời và số phận của người anh hùng

Trần Nguyên Hãn.

Là người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nhưng vì là dòng

dõi tôn thất nhà Trần nên Trần Nguyên Hãn không tránh khỏi sự đề phòng của

vua Lê. Tin dùng Trần Nguyên Hãn nhưng Lê Lợi đã có những toan tính cho

riêng mình và cho triều Lê. Trong đêm tâm sự với người cháu Đinh Liệt ở làng

Bồ Đề, Bình Định vương đã tỏ rõ sự lo lắng với Trần Nguyên Hãn nói riêng và

với những sĩ phu Bắc Hà nói chung: “Sao đêm ngủ chung giường ta thấy ông

cứ nhất thiết phải loại bỏ sớm các tướng Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo?

Cái đêm trước hội nghị tướng lĩnh, ta nghe ông Hãn phân tích về thất bại của

nhà Hậu Trần rất thành tâm, chí lý và ông cũng sung sướng tự hào vì được theo

về dưới trướng của cậu Lê Lợi, sao cậu vẫn ngờ vực?” [52, tr.124-125]. Đinh

Liệt thương cảm, xót xa cho tương lai của người anh hùng trung nghĩa, nặng

lòng vì nước vì dân. Đồng thời, đó còn là sự tra vấn, đối thoại với người đọc

của tác giả về những vấn đề của lịch sử để cùng nghiền ngẫm, suy nghĩ. Cả

cuộc đời, người con họ Trần luôn phấn đấu hi sinh vì khát vọng, hoài bão cao

đẹp. Chàng không hề có những toan tính, tư lợi cho bản thân và gia đình.

Nhưng Lê Lợi lại không nghĩ như vậy. Lai lịch của chàng làm cho vua Lê phải

bận tâm: “Sao với ông Hãn, thầy Trãi thì ta vẫn băn khoăn, không hiểu cậu

mình còn muốn gì ở họ? Chẳng lẽ lai lịch của hai vị đại thần đó làm cậu khó

84

chịu đến mức thế ư? Nếu ta là cậu lê Lợi, có lẽ ta sẽ làm ngược lại, cậu muốn là

giời muốn. Dường như lên ngôi Hoàng đế rồi, cậu chẳng tin ai ngoài bản thân

mình và đứa cháu non dại này” [52, tr.241-242]. Những lời dặn dò của Lê Lợi

đã làm cho chàng trai trẻ Đinh Liệt đắm chìm trong suy tư, dằn vặt. Chàng

nhức nhối, ai oán cho số phận của người anh hùng có công lập quốc: “Ngẫm lại

toàn bộ câu chuyện trong cái đêm ngủ chung giường với cậu ở tòa nhà gỗ bên

làng Bồ Đề ta đã ngầm hiểu rằng, cậu sợ ông Hãn cướp ngôi Nguyên Long nên

tự mình ra tay diệt trước, còn bộ tứ quyền lực Sát, Ngân, Vấn, Hoành thì cậu

yên tâm phó thác cho ta” [52, tr.242].

Chiến tranh kết thúc, một vương triều mới được hình thành nhưng không

tránh khỏi những cơn sóng ngầm dữ dội. Ở nơi triều chính ngổn ngang công

việc, Trần Nguyên Hãn luôn cảm thấy có một lực cản vô hình cản trở mình

trong công cuộc tái thiết nước nhà. Tác giả đã lục lọi đến tận thẳm sâu tâm hồn

nhân vật để người đọc thấy được sự vật vã tâm can của người anh hùng, đồng

thời cũng là sự chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời: “Ôi, bao chuyện xưa cứ dồn

nhau kéo về trong đêm nay để vò xé đến tan nát trái tim người anh hùng bách

chiến. Lúc con người đó mang gươm ra trận lấy đầu tướng giặc thì thanh thản

và nhẹ tênh. Còn bây giờ, khi bóng giặc không còn, nước đã có vua, triều đình

bề thế, vậy mà sao nhân tâm rối loạn, phải trái, trắng đen khó phân biệt làm

vậy?” [9, tr.205]. Chưa bao giờ, trái tim người anh hùng bách chiến bách thắng

lại tan nát, rụng rời đến vậy. Ranh giới giữa phải và trái, trắng và đen dường

như bị xóa nhòa và khó phân biệt. Trần Nguyên Hãn cảm thấy mình chơi vơi

giữa dòng nước mà không biết đâu là bờ bến. Những dòng miêu tả tâm lý tinh

vi, tế nhị cho thấy sự xót xa, uất hận xen lẫn triết lý, chiêm nghiệm sâu sắc

trước sự đổi thay của thế thái nhân tình: “Ôi, sao con người ta, lúc hoạn nạn thì

hòa vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mà khi công danh phú quý thì cách nhau

một trời một vực, lại không thể cùng chung sống” [9, tr.200]. Xuất thân là dòng

dõi tôn tộc nhà Trần nên Trần Nguyên Hãn luôn cảm thấy mình “đã gây bao

nhiêu điều phiền toái, khó xử cho Lê Lợi” [37, tr.224].

85

Từ bỏ chốn quan trường, Trần Nguyên Hãn cáo quan về Sơn Đông để

thực hiện lý tưởng còn dang dở mà chàng chưa thực hiện được nơi triều chính.

Bóng dáng Trần Nguyên Hãn không còn nhưng vua Lê chưa khi nào yên tâm

về chàng. Mong muốn cuộc sống bình dị của Tả tướng quốc nơi quê nhà cũng

không thành hiện thực trước sự đề phòng của vua Lê và sự gièm pha của những

kẻ xu nịnh: “Đang ở vương triều ta xin về chốn cũ là muốn được sống yên ổn,

hạnh phúc mãi bên nàng và các con. Nào ngờ cái mong ước giản dị đó của ta

cũng không thành” [37, tr.286-287]. Ngày Trần Nguyên Hãn rời quê hương

theo những tên lực sĩ xá nhân về kinh thành là một ngày buồn của nhân dân

Sơn Đông. Người anh hùng mà họ tôn kính đã tự trầm tại bến Đông Hồ trên

dòng Lô giang. Biết tin Trần Nguyên Hãn “tuẫn tiết trên sông Lô, cả thôn Đa

Cai nhớn nhác như kiến vỡ tổ. Từ đầu thôn đến cuối thôn đâu đâu cũng có tiếng

con khóc cha, vợ khóc chồng và tiếng hờ gọi, kêu gào thảm thiết” [37, tr.293].

Tiếng khóc của nhân dân Đa Cai cũng là tiếng khóc của cả dân tộc tiếc thương

cho cuộc đời, số phận của người anh hùng lừng lẫy. Đó không phải là tiếng

khóc của cá nhân mà là của Tổ quốc khóc thương cho một tâm hồn lớn, nhân

cách lớn. Và như vậy, tiếng khóc mang tầm vóc sử thi sâu sắc.

Cái chết của Tả tướng quốc đã để lại niềm thương tiếc vô bờ cho nhân

dân Đại Việt. Đinh Liệt, người học trò vẫn luôn cảm phục Nguyễn Trãi và Trần

Nguyên Hãn cũng không tránh khỏi đau đớn, dằn vặt khôn nguôi: “Ông Hãn ơi,

đừng oán trách! Ta chỉ là quân xe nằm im trong góc bàn cờ, chờ đến nước cờ

cậu Lê Lợi cần thì bất ngờ xuất xe giam quân xe, quân pháo đối phương hay ăn

quân tượng, quân sĩ cho cậu đánh thắng ván cờ quyền lực. Bao năm qua, ta coi

cậu Lê Lợi thực là vị thánh. Giờ ở tuổi này, trải bao biến cố ta mới ngộ ra cậu

mình cũng chỉ vì ngai vàng quyền lực mà mê muội, tàn nhẫn nào có hơn gì bộ

tứ Sát, Ngân, Vấn, Hoành bỉ lậu, vô học!” [52, tr.328]. Xen lẫn chất giọng xót

xa là giọng điệu tra vấn, “nhận thức lại” lịch sử tưởng chừng như đã “khép

kín”. Phải chăng, bên cạnh một lãnh đạo xuất chúng, phi thường, Lê Lợi cũng

86

mang trong mình sự ích kỷ, hẹp hòi của một con người bình thường? Phải

chăng, chính điều đó đã dẫn tới cái chết bi thảm, oan khuất của Tả tướng quốc

trên dòng sông Lô? Thời gian đã đi qua, dòng Lô vẫn miệt mài chảy theo năm

tháng và chứng kiến những thăng trầm, biến thiên trong lịch sử dân tộc. Gấp lại

trang sách, ta lại thấy trào dâng nước mắt, xót xa đến quặn lòng trước cuộc đời

bi kịch của một trang anh hùng tuấn kiệt ưu thời mẫn thế.

Có thể thấy, ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến),

Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ (Xuân Mai)

có sự đa dạng về giọng điệu. Bên trong giọng điệu xót xa thương cảm, ta thấy

có sự đan xen của giọng điệu triết lý, tra vấn (Sóng hận sông Lô), giọng điệu

triết lý, chiêm nghiệm (Người con trang Sơn Đông) và giọng điệu lo âu khắc

khoải (Người về chốn cũ). Điều đó đã tạo nên màu sắc đa thanh, đa giọng điệu

cho tác phẩm nghệ thuật. Đó cũng là nét riêng biệt trong giọng điệu, thể hiện tài

năng và phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn khi xây dựng nhân vật lịch sử.

Tiểu kết chương 3

Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào và Xuân Mai đã có sự thành công xuất

sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua bộ ba

tiểu thuyết lịch sử của văn học Việt Nam đương đại. Bên cạnh những điểm

tương đồng, mỗi nhà văn cũng có những nét sáng tạo riêng trong nghệ thuật

xây dựng nhân vật, từ miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ đến giọng điệu. Những nét

khác biệt đó đã tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn và phong cách riêng của mỗi tác

giả trong ba tiểu thuyết lịch sử.

Từ một nguyên mẫu với những tư liệu chính sử để lại không nhiều, ba

nhà văn đã có sự hư cấu nghệ thuật khi xây dựng nhân vật lịch sử. Sự hư cấu đó

tạo nên một hình tượng nghệ thuật sinh động, đặc sắc. Nhân vật được soi chiếu,

nhìn nhận một cách đa diện, đa chiều. Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào, Xuân

Mai đã làm nổi bật mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Hư

87

cấu, sáng tạo nhưng không đi ngược với chân lý lịch sử, không phản lịch sử mà

vẫn làm hiện lên chân lý và nhân cách của lịch sử. Với những tác phẩm về đề

tài lịch sử, đã có nhiều nhà văn phát huy vai trò của yếu tố hư cấu nghệ thuật.

Trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú (Hồ Thủy Giang), nhân vật Lưu

Nhân Chú được tác giả hư cấu và có những kiến giải riêng - người anh hùng tài

trí, mưu lược nhưng cũng hiện lên dung dị với tất cả giá trị Người phổ quát mà

nó vốn có. Trong Phẩm tiết (Nguyễn Huy Thiệp), nhân vật Quang Trung được

tác giả hư cấu và tiếp cận ở góc độ mới, không phải ở góc độ một anh hùng, vĩ

nhân mà là con người của đời thường, thế sự. Nhân vật hiện lên với những tâm

tư, tình cảm của một thân phận con người trong đời sống.

Karl Popper - một nhà triết học người Áo cho rằng lịch sử cần được viết

lại, vì mỗi thế hệ mới lại đặt ra trước nó những vấn đề mới, nghĩa là không có

lịch sử như trong quá khứ mà chỉ có những cách giải thích lịch sử khác nhau và

không có cách giải thích lịch sử nào là cuối cùng. Vì vậy, sự hư cấu và cách

tân, đổi mới của các nhà văn là điều cần thiết. Từ sự cách tân đó, tác giả đặt ra

những vấn đề mới để người đọc lý giải, suy ngẫm, chiêm nghiệm.

88

KẾT LUẬN

1. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết lịch sử

ngày càng khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong đời sống văn học.

Với bộ ba tiểu thuyết lịch sử (Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông,

Người về chốn cũ), nhà văn Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào, Xuân Mai đã có

những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại

nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng. Tìm đến đề tài truyền thống nhưng

ba nhà văn đã có sự tìm tòi, cách tân trong những tác phẩm nghệ thuật của

mình. Các nhà văn không kể lại lịch sử, đi tìm sự thật lịch sử mà có cách cắt

nghĩa, kiến giải riêng để giúp độc giả có cái nhìn đầy đủ, chân thật về cuộc đời,

số phận của người anh hùng Trần Nguyên Hãn. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến,

Nguyễn Anh Đào, Xuân Mai đã đi sâu vào khai thác con người lịch sử với đời

sống tư tưởng, tâm hồn phong phú, đa diện, đa chiều.

2. Ba tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô (Vũ Ngọc Tiến), Người con

trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Người về chốn cũ (Xuân Mai) đã có

những sáng tạo thành công và làm nổi bật vẻ đẹp của người anh hùng Trần

Nguyên Hãn. Qua ba tiểu thuyết lịch sử này, độc giả thấy hiện lên vẻ đẹp của

một người con trung hiếu, nặng lòng với gia đình, quê hương và dòng tộc; một

trang nam nhi với lý tưởng, khát vọng và nhân cách lớn; một người anh hùng

mưu lược, tài trí trong chiến trận mà tài năng quân sự đã nâng đến tầm nghệ

thuật. Trần Nguyên Hãn hiện lên với vẻ đẹp cả về tài năng, nhân cách và đức

độ. Là bậc đại công thần khai quốc nhưng cuộc đời của Tả tướng quốc Trần

Nguyên Hãn lại kết thúc bi thảm và oan khuất. Tuy nhiên, với những đóng góp

và cống hiến cho non sông đất nước, Trần Nguyên Hãn xứng đáng được coi là

anh hùng dân tộc, được nhân dân ngợi ca, ngưỡng vọng và chiêm bái.

Bên cạnh những điểm tương đồng, mỗi tác giả cũng có sự sáng tạo khác

nhau khi xây dựng nhân vật anh hùng lịch sử. Ba nhà văn đã thiên về phản ánh

và chú ý tô đậm những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của nhân vật chính.

89

Câu nói và cái chết bi kịch của Trần Nguyên Hãn cũng được các tác giả hư cấu

và có những sáng tạo riêng. Xây dựng nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn,

bên cạnh những kiến thức về mặt lịch sử, các tác giả đã khéo léo lồng vào đó

những kiến thức về địa lý, triết học, tôn giáo (Sóng hận sông Lô) và những kiến

thức về văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của nhân dân Đại Việt (Người con

trang Sơn Đông, Người về chốn cũ). Nét khác biệt đó đã tạo nên sự lôi cuốn,

hấp dẫn riêng của từng tác phẩm khi viết về đề tài và nhân vật lịch sử.

3. Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào, Xuân Mai đã có sự thành công xuất

sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Xây dựng nhân vật Trần Nguyên Hãn,

ba nhà văn đã thành công trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình để làm nổi bật vẻ

đẹp gân guốc, khỏe khoắn cũng như thần thái, khí chất của một trang anh hùng

tuấn kiệt. Qua ba tiểu thuyết lịch sử này, người đọc còn thấy được biệt tài của

các nhà văn khi phân tích và miêu tả tâm lý nhân vật. Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn

Anh Đào, Xuân Mai đã làm nổi bật những trăn trở, suy tư, giằng xé của một

tâm hồn luôn khắc khoải, ưu tư vì quê hương, gia đình, dòng tộc và giang sơn

xã tắc Đại Việt. Thành công của ba nhà văn khi xây dựng nhân vật còn được

thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Qua hai dạng thức ngôn

ngữ này, các tác giả đã để cho nhân vật tự bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất, nhân cách

cũng như những tâm sự về cuộc đời, về sự đổi thay của nhân tình thế thái.

Giọng điệu khi xây dựng nhân vật cũng là biện pháp nghệ thuật làm nên thành

công của ba tác phẩm. Xuyên suốt ba tiểu thuyết lịch sử, chúng ta nhận thấy

giọng điệu ngợi ca phẩm chất, nhân cách, tài năng của Trần Nguyên Hãn. Đồng

thời, đó còn là giọng điệu xót xa, thương cảm trước cuộc đời và số phận bi

thảm, oan khuất của người anh hùng có công lập quốc.

Bên cạnh những điểm tương đồng, nghệ thuật xây dựng nhân vật anh

hùng Trần Nguyên Hãn trong ba tiểu thuyết cũng có những điểm khác biệt. Sự

khác nhau đó được thể hiện trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ

cũng như giọng điệu... Chính điều đó đã tạo nên nét độc đáo và phong cách

90

riêng của mỗi nhà văn trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử của văn học Việt Nam

đương đại.

4. Sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn qua ba tiểu thuyết lịch

sử (Sóng hận sông Lô, Người con trang Sơn Đông, Người về chốn cũ) vẫn còn

nhiều điều cần quan tâm và đưa ra bàn luận, nghiên cứu. Trong khuôn khổ của

Luận văn, chúng tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề

trên. Từ đó, khẳng định vị trí, tài năng và đóng góp của mỗi nhà văn trong dòng

chảy chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam.

91

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1. Nguyễn Quang Duy (2018), “Sáng tạo nhân vật anh hùng Trần Nguyên Hãn

qua ba tiểu thuyết lịch sử của Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Anh Đào và Xuân Mai”,

Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (278), tr. 30-34.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Tuấn Anh (2013), “Lịch sử như là hư cấu - Quan điểm sáng tạo mới về

đề tài lịch sử”, Tạp chí Sông Hương, (298), tr. 82-89.

2. Trần Phước Bình (sưu tập, năm 2016), “Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn bị

hại”, Bản tin dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, (5), tr. 9-11.

3. Đào Trần Quang Cát (biên soạn, 2016), Thân thế sự nghiệp Tả tướng quốc

Trần Nguyên Hãn (Tài liệu lưu hành nội bộ), Ban liên lạc dòng họ Trần

Nguyên Hãn chịu trách nhiệm xuất bản, Hà Nội.

4. Đào Trần Quang Cát (2016), “Dòng dõi Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn”,

Bản tin dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, (5), tr. 5-6.

5. Đào Trần Quang Cát (2017), “Báo cáo của Ban liên lạc dòng họ Trần

Nguyên Hãn”, Đại hội đại biểu dòng họ lần thứ II, Sơn Đông - Lập Thạch -

Vĩnh Phúc ngày 25/02/2017.

6. Phạm Ngọc Chiểu (2014), Một nỗi đau truyền đời, http://www.phongdiep.net,

ngày 15/06/2014.

7. Dorothy Brevvster và Jonh Bureell (1971), Tiểu thuyết hiện đại (Bản dịch

của Dương Thanh Bình), Tủ sách Kim Văn, Ủy ban dịch thuật phủ quốc vụ

khanh đặc trách văn hóa, xuất bản Sài Gòn.

8. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Anh Đào (2013), Người con trang Sơn Đông, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

10. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

12. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên, 2012), Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn nghệ

thuật Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

13. Hà Minh Đức (chủ biên, 2007), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

93

14. Văn Giá (2007), Tiểu thuyết lịch sử theo lối phác giản đời thường, http://

vietvan.vn, ngày 28/12/2007.

15. Hoàng Quốc Hải (1993), Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

16. Hoàng Quốc Hải (1994), Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

17. Hoàng Quốc Hải (1996), Bão táp cung đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

18. Hoàng Quốc Hải (1998), Huyền Trân công chúa, Nxb Thuận Hoá, Huế.

19. Hoàng Quốc Hải (2011), Công việc của người viết tiểu thuyết lịch sử,

http://vannghequandoi.com.vn, ngày 23/10/2011.

20. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

22. Nguyễn Hằng (2017), Hư cấu và sự thật trong tiểu thuyết lịch sử,

http://dantri.com.vn, ngày 06/05/2017.

23. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

24. Đỗ Thị Thanh Huyền (2015), Nghệ thuật thể hiện hình tượng nhân vật

trong tiểu thuyết lịch sử Bắc cung Hoàng hậu của Nguyễn Vũ Tiềm, Luận

văn Thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội 2.

25. Yên Hương (2001), “Lịch sử chỉ là một mặt của cuốn sách”, Hà Nội mới, (9).

26. Nguyễn Xuân Khánh (2002), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

27. Nguyễn Xuân Khánh (2002), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

28. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Nghề văn thật hấp dẫn, http://www.nhandan.com.vn,

ngày 21/07/2006.

29. Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

30. Đông La (2013), Đọc Sóng hận sông Lô: Lê Lợi giết Trần Nguyên Hãn?,

http://trannhuong.net, ngày 14/8/2013.

31. Phong Lê (2008), Hiện đại hóa Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

94

32. Ngô Sĩ Liên (2011), Đại Việt sử kí toàn thư (Bản dịch tiếng Việt, tái bản),

Nxb Thời đại, Hà Nội.

33. Trần Thị Kim Liên (2013), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết lịch sử của

Nguyễn Triệu Luật, Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

34. Nguyễn Triệu Luật (1998), Tuyển tập tiểu thuyết lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội.

35. Yến Lưu (2012), Nỗi đau lịch sử và sự đổi thay, http://tapchinhavan.vn,

ngày 8/12/2012.

36. Phương Lựu (chủ biên, 2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

37. Xuân Mai (2014), Người về chốn cũ, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), Tư duy phân tích và giả định lịch sử trong tiểu

thuyết Việt Nam sau 1986, http://vannghequandoi.com.vn, ngày 17/1/2012.

39. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2012), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

40. Hoài Nam (2008), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: Truyện kể hay tiểu

thuyết?, http://vietbao.vn, ngày 17/10/2008.

41. Vũ Nho (2013), Cuộc tọa đàm về Sóng hận sông Lô vang dội sóng Trường

Sa, http://xuandienhannom.blogspot.com, ngày 11/08/2013.

42. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

43. Đỗ Hải Ninh (2012), Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

đương đại, http://phongdiep.net, ngày 10/4/2012.

44. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

45. Nguyễn Thị Phương Thanh (2005), Những cách tân đáng chú ý của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam thời Đổi mới, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư

phạm Hà Nội.

46. Phạm Thuận Thành (2013), Mấy cảm nhận về Sóng hận sông Lô của Vũ

Ngọc Tiến, http://trannhuong.net, ngày 14/8/2013.

47. Bùi Việt Thắng (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

95

48. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), “Tiểu thuyết hướng nội trong văn xuôi hiện

đại”, Tạp chí Văn học, (6).

49. Nguyễn Ngọc Thiện (2015), Văn chương, nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận

(tiểu luận - phê bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

50. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương - tiến trình - tác giả - tác phẩm,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Vũ Ngọc Tiến (2000), Khói mây Yên Tử, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

52. Vũ Ngọc Tiến (2013), Sóng hận sông Lô, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

53. Lê Thu Trang (2010), Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh,

Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

54. Trần Quang Trung (2017), “Cuộc đời và sự nghiệp của Đức Tổ Trần

Nguyên Hãn gắn liền với non sông, đất nước” - Tham luận trong hội thảo về

Trần Nguyên Hãn, Ban liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn tổ chức, Sơn

Đông - Lập Thạch - Vĩnh Phúc ngày 25/02/2017.

55. Viện Văn học (1990), Văn học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Đỗ Ngọc Yên (2016), Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật, http://vanvn.net,

ngày 17/08/2016.

96