BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÕ MINH THẮNG
SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÕ MINH THẮNG
SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. ĐOÀN VĂN DŨNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã huyện
Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị” là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học chưa từng được ai
công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2020
Học viên
Võ Minh Thắng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn này, đầu tiên cho tôi gửi lời cảm ơn chân
thành tới các quý thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia đã dạy dỗ nhiệt
tình trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường. Bên cạnh đó
bản thân tôi cũng nhận được nhiều sự giúp đỡ, động viên từ nhiều cơ quan tổ
chức và cá nhân.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Đoàn Văn Dũng
công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia là người trực tiếp hướng dẫn tôi
tận tình, chu đáo, định hướng về mặt nội dung và tạo điều kiện thuận lợi trong
quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Huyện uỷ, HĐND - UBND
huyện Hải Lăng và UBND các xã thuộc huyện Hải Lăng đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi hỗ trợ cho tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ và chia sẽ với tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã cố gắng lắng nghe, tiếp thu và nắm bắt song chắc chắn rằng
luận văn còn hạn chế và thiếu sót. Vì thế, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các quý thầy cô và độc giả để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Võ Minh Thắng
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH
CẤP XÃ ........................................................................................................ 9
1.1. Đơn vị hành chính, đơn vị hành chính cấp xã ...................................... 9
1.2. Khái niệm sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ..................................... 11
1.3. Pháp luật về địa giới hành chính cấp xã ............................................. 13
1.4. Đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã .... 16
1.4.1. Đặc điểm việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ................................ 16
1.4.2. Yêu cầu việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã .................................. 17
1.4.3. Nguyên tắc việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ............................. 20
1.5. Quy định việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ............................... 22
1.5.1. Thẩm quyền quyết định việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã .......... 22
1.5.2. Lộ trình, thời gian thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã........... 23
1.5.3. Về đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ......................................... 24
1.6. Yếu tố tác động đến việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ............. 25
1.7. Kinh nghiệm sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ................................ 27
1.7.1. Kinh nghiệm sắp xếp tổ chức bộ máy của tỉnh Hà Tĩnh ...................... 27
1.7.2. Đơn vị hành chính ở Nhật Bản ........................................................... 32
1.7.3. Đơn vị hành chính ở Cộng hòa Pháp................................................... 36
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 37
Chương 2. THỰC TRẠNG SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................... 38
2.1. Điều kiện về tự nhiên, tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội huyện
Hải Lăng ..................................................................................................... 38
2.1.1. Điều kiện về tự nhiên .......................................................................... 38
2.1.2. Về tình hình kinh tế - xã hội huyện Hải Lăng ..................................... 42
2.2. Thực trạng đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải Lăng ..................... 45
2.3. Công tác sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải Lăng .......... 57
2.3.1. Sự cần thiết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã .................................... 57
2.3.2. Tổ chức sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã .......................................... 59
2.4. Tổ chức, hoạt động đơn vị hành chính cấp xã mới thành lập sau sáp
nhập............................................................................................................. 65
2.4.1. Tổ chức bộ máy của đơn vị hành chính mới sau sáp nhập .................. 65
2.4.2. Hoạt động của đơn vị hành chính mới sau sáp nhập ........................... 77
2.4.3. Đánh giá việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ................. 80
2.5. Những thuận lợi, khó khăn khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã... 82
2.5.1. Thuận lợi ............................................................................................ 82
2.5.2. Khó khăn, vướng mắc ......................................................................... 83
2.5.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc .................................. 86
2.6. Bài học rút ra sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã . 87
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 90
Chương 3. GIẢI PHÁP SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................... 91
3.1. Quan điểm chỉ đạo ............................................................................... 91
3.2. Một số giải pháp về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã...................... 93
3.2.1. Giải pháp chung.................................................................................. 93
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể ...................................................................... 95
3.3. Kiến nghị, đề xuất .............................................................................. 124
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................. 126
KẾT LUẬN ............................................................................................... 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
CBCC
Cán bộ công chức
ĐC-NN-XD&MT Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường
ĐVHC
Đơn vị hành chính
HĐND
Hội đồng nhân dân
NQ
Nghị quyết
TC-KT
Tài chính - Kế toán
TH&THCS
Tiểu học và Trung học cơ sở
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TP-HT
Tư pháp - Hộ tịch
UBMT TQVN
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UBND
Ủy ban nhân dân
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VH-XH
Văn hóa - Xã hội
VP-TK
Văn phòng - Thống kê
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu về quy mô dân số các xã, thị trấn thuộc huyện Hải Lăng ............ 46
Bảng 2.2. Số liệu về diện tích tự nhiên các xã, thị trấn thuộc huyện Hải Lăng ....... 48
Bảng 2.3. Kết quả lấy ý kiến cử tri về phương án sáp nhập xã, thị trấn ......... 64
Bảng 2.4. Kết quả biểu quyết HĐND xã, thị trấn, huyện về phương án sáp
nhập xã, thị trấn ............................................................................................ 65
Bảng 2.5. Số lượng cán bộ 4 xã, thị trấn sau sáp nhập .................................. 75
Bảng 2.6. Số lượng công chức 4 xã, thị trấn sau sáp nhập ............................ 76
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tác phẩm “Đại Nam hội điển sự lệ” vua Gia Long khẳng định: “Nước
là góp làng xã lại mà thành...”. “Làng” là một từ thuần Việt, được sử dụng rất phổ
biến trong dân gian, xã là danh từ chỉ một làng lớn. Lịch sử hình thành và phát triển
của nước Việt Nam đã chỉ ra rằng: Làng, xã là nền tảng của đất nước, tình hình
chính trị - xã hội của đất nước có ổn định hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự
ổn định ở cấp xã. Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền cấp xã vững mạnh, ở đó
mọi chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh,
quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát huy; còn ở đâu chính quyền cơ
sở yếu kém thì ở đó phong trào quần chúng kém phát triển, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn, xuôi về dòng lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là
cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi”.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975 đến nay, đơn vị hành chính
các cấp ở nước ta đã được điều chỉnh, sắp xếp lại phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
và đã đạt được một số kết quả tích cực góp phần phát huy nguồn lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; từ
năm 1986 - 2016, số đơn vị hành chính cấp huyện tăng từ 431 lên 731 đơn vị, cấp
xã tăng từ 9.657 lên 11.162 đơn vị. Bên cạnh kết quả đạt được, việc chia, tách đơn
vị hành chính các cấp thời gian qua đã nảy sinh một số bất cập và hạn chế. Nhiều
đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quy mô quá nhỏ, không gian phát triển bị chia
cắt, gây ra nhiều khó khăn, cản trở trong công tác lập kế hoạch, quy hoạch dài hạn,
định hướng phát triển kinh tế - xã hội tầm vĩ mô cũng như quy hoạch, kế hoạch phát
triển vùng; nguồn lực của địa phương và Trung ương cho phát triển kinh tế - xã hội
bị phân tán, nhất là trong điều kiện Trung ương đang đẩy mạnh phân cấp, trao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương. Việc tăng số lượng
đơn vị hành chính các cấp đã dẫn đến tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan,
1
đơn vị trong hệ thống chính trị ở địa phương tăng; ngân sách nhà nước chi cho hoạt
động của bộ máy, xây dựng trụ sở, mua sắm mới trang thiết bị làm việc tăng; đại đa
số các đơn vị cấp xã thu ngân sách tại địa phương không đủ cân đối chi thường
xuyên, chủ yếu Trung ương phải hỗ trợ.
Sự phát triển của kinh tế thị trường và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội
làm cho các mối quan hệ và hành vi xã hội diễn ra nhanh hơn, đa dạng hơn, đa
chiều hơn, đòi hỏi bộ máy quản lý xã hội phải tinh gọn, vận hành theo phương thức
quản trị hiện đại. Tính dân chủ, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là
đặc trưng tất yếu của nền hành chính phục vụ. Sự cạnh tranh của khu vực tư bởi yếu
tố lương, thưởng sẽ thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; hiện tượng chảy máu
chất xám từ khu vực công sang khu vực tư diễn ra nhiều hơn. Khu vực công muốn
thu hút và giữ chân được người tài phải chú trọng cải cách tiền lương, tạo động lực
làm việc để công chức yên tâm phục vụ cho nền công vụ. Để làm được việc đó, một
trong những phương thức mà các quốc gia thực hiện là tinh gọn bộ máy, tinh giản
biên chế, giảm chi phí một cách hợp lý. Hiện nay, ở các quốc gia phát triển, như:
Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan,… cũng đang đẩy mạnh việc sắp xếp lại các xã theo
mô hình liên kết các xã nhỏ thành xã lớn hoặc liên xã để quản lý phù hợp với yêu
cầu quản trị quốc gia. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0… tạo tiền đề mở rộng tầm hạn quản trị của các nhà lãnh đạo,
các tổ chức của khu vực công. Quản lý hành chính sẽ không nhất thiết phải gắn chặt
với một địa giới hành chính cụ thể. Mô hình chính phủ điện tử, chính quyền thông
minh, mô hình quản trị “phi địa giới” cũng đã và đang được triển khai mạnh mẽ ở
cả cấp trung ương và địa phương tại Việt Nam.
Nhận thức được những hạn chế này, Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2010 đã xác định cần: "Quy định các tiêu chí cụ thể đối với
từng loại đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia
tách nhiều như thời gian qua" và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh
cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã
đề ra nhiệm vụ: “Khẩn trương xây dựng và đưa vào thực hiện quy hoạch tổng thể
2
đơn vị hành chính các cấp, trên cơ sở đó ổn định cơ bản các đơn vị hành chính ở cả
3 cấp tỉnh, huyện, xã”. Nắm bắt được yêu cầu và đòi hỏi từ thực tiễn, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 về việc sắp xếp đơn vị
hành chính cấp xã để tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp với thực
tiễn và xu thế phát triển của đất nước. Mục đích thực sự của sắp xếp các đơn vị
hành chính là làm cho bộ máy công quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn, phương thức vận hành nền công vụ tốt hơn để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội. Do đó, cần phải có tư duy mới và năng lực
trong thiết kế, vận hành bộ máy quản trị quốc gia, quản trị địa phương tương xứng
với quy mô quản trị được mở rộng hơn. Vì vậy, vấn đề được đặt ra chính là tính
hiệu quả của bộ máy cũng như cơ sở hạ tầng sau sắp xếp để sau khi sắp xếp các đơn
vị hành chính phát huy được tính hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã
hội thay vì sáp nhập kiểu “cơ học”, giảm được một số đầu mối, con người. Vì đích
đến của việc sắp xếp phải là tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả như mục tiêu mà
Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) đặt ra. Chưa kể, khi sáp nhập các xã, thị trấn sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới
như sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật, dư thừa cán bộ, chi phí xây dựng trụ sở
mới, chi phí thay đổi tên, địa chỉ nhà, hộ khẩu, chứng minh nhân dân, hay các các
giao dịch hành chính khác.
Một số vấn đề nữa cần được làm rõ khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành
chính như: Sau khi sáp nhập thì trung tâm xã đặt ở đâu? Tất cả các tài sản liên quan
đến các xã, thiết chế văn hóa, trường học sắp xếp như thế nào? Nếu không cẩn thận
sẽ gây lãng phí tài sản rất lớn, chưa kể những đơn vị hành chính dân số đông, diện
tích rộng thì làm như thế nào trong khi đại hội Đảng ở cơ sở đã cận kề. Cũng cần
nhấn mạnh rằng, cái khó nhất của việc sắp xếp các đơn vị hành chính nằm ở vấn đề
nhân sự, bố trí và sắp xếp nhân sự. Bởi thực tế vẫn còn tâm lý ngại thay đổi, đụng
chạm. Cán bộ được coi là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại và là người thực
hiện chính sách. Do đó, nếu không lựa chọn được cán bộ tốt thì chính sách có hay
đến mấy cũng thất bại. Vẫn biết việc lựa chọn, sắp xếp bố trí cán bộ là công việc
3
khó, hay thậm chí là “nhạy cảm” và điều đó rất cần sự quyết tâm, nêu gương, trách
nhiệm của người đứng đầu cấp ủy cấp trên trong lựa chọn, sắp xếp cán bộ tại các
đơn vị hành chính sau sáp nhập.
Xuất phát từ thực tiễn đặt ra, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã đặt ra lần
này có quy mô rộng, bao trùm hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, em
chọn đề tài: “Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng
Trị” làm đề tài luận văn cao học Quản lý công.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã và đang được quan tâm
nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau thông qua các đề tài, tạp chí nghiên
cứu, tham luận tại các hội thảo khoa học của các nhà lý luận, nhà quản lý; các công
trình nghiên cứu có thể kể đến như:
- Cuốn sách “Chính quyền cấp xã và việc tổ chức, điều hành hoạt động của
UBND cấp xã” do Dương Bạch Long biên soạn. Cuốn sách này được NXB Chính
trị Quốc gia phát hành năm 2013. Và cuốn sách “Luật CBCC và những quy định
mới nhất đối với cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, cấp
xã, phường, thị trấn” của tác giả Phan Khắc Nhưỡng được NXB Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2013. Hai cuốn sách này đã phân tích vị trí, vai trò của chính quyền
cấp xã trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước.
- Cuốn “Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam theo các Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung 2001” do Nguyễn Đăng Dung làm chủ biên.
Cuốn sách đã nêu và phân tích những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước ta
qua các bản Hiến pháp, trong đó đề cập sâu về cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, các cấp hành chính
địa phương tại các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Vấn đề có ý nghĩa của
công trình khoa học này là cùng với việc phân tích, so sánh về cơ cấu tổ chức bộ
máy các cơ quan nhà nước, các tác giả đã nêu bật được những điểm mới, những
4
bước phát triển của các cơ quan qua các bản hiến pháp (mô hình tổ chức, phương
thức hoạt động, các mối quan hệ tương tác trong vận hành…) và đưa ra những hạn
chế, bất cập đòi hỏi phải có định hướng khắc phục, đổi mới để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và từng cơ quan, hệ thống cơ
quan nhà nước nói riêng. Những kết quả của công trình này là những gợi mở để tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, trong đó có bộ máy chính quyền
cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế.
- Cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Văn Yểu và Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên. Cuốn sách
đã tái hiện quá trình hoàn thiện lý luận về Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; làm sâu sắc hơn
các quan điểm về nhà nước pháp quyền, đặc biệt là việc xây dựng nhà nước pháp
quyền trong điều kiện tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Những kết luận, luận giải được thể hiện trong công
trình này đã tạo những cơ sở lý luận cơ bản cho việc phân tích, đánh giá yêu cầu và
định hướng đổi mới, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh trong điều kiện hiện nay.
Cuốn “Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945-
2002)“ của Nguyễn Quang Ân, NXB Thông Tấn - Hà Nội, xuất bản năm 2003. Đây
là một công trình nghiên cứu công phu đề cập tới sự thay đổi địa giới hành chính, sự
thay đổi các địa danh hành chính của các địa phương trong cả nước trong hơn một
thập kỷ từ năm 1802 đến 2002.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác lập đơn vị hành chính các cấp, đáp
ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước - Đề tài độc lập cấp Nhà nước do Thứ
trưởng Thường trực Bộ Nội vụ Trần Hữu Thắng làm Chủ nhiệm (2011). Đề tài này
đã đề cập đến một số nội dung như: Quan điểm xác lập ĐVHC địa phương nước ta
hiện nay; căn cứ phân định ĐVHC nhà nước; một số vấn đề về xác lập ĐVHC -
lãnh thổ; về mô hình tổ chức và quản lý đô thị Việt Nam hiện đại và hội nhập quốc
tế; quy trình, thủ tục chia, tách và thành lập ĐVHC các cấp. Tuy nhiên, mục tiêu,
5
cách thức tiếp cận của đề tài không thiên về mục tiêu hoàn thiện pháp luật mà thiên
về các yếu tố mang tính kỹ thuật nhiều hơn. Đây là công trình nghiên cứu, điều tra
được thực hiện công phu, nghiêm túc, về cơ bản đã giải quyết được mục tiêu, nhiệm
vụ đặt ra của Dự án, các đề xuất và kiến nghị nêu ra đều thiết thực, phù hợp với
định hướng xây dựng chính quyền địa phương hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về
sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước và
tính tất yếu phải sắp xếp, tổ chức lại bộ máy trong hệ thống chính trị để phù hợp với
điều kiện, thực tiễn phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, đánh giá, phân tích và
đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả, tổ chức hoạt động của đơn vị hành chính cấp
xã sau khi sáp nhập.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Thứ nhất, thực hiện tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu; khái lược, tổng hợp những nội dung vấn đề đã được
nghiên cứu, từ đó có những nhận định về tình hình nghiên cứu để khẳng định việc
nghiên cứu đề tài sắp xếp đơn vị hành chính là cần thiết.
- Thứ hai, xác định được những vấn đề lý luận về đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn.
- Thứ ba, nêu lên thực trạng sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã ở huyện Hải Lăng,
từ đó có những nhận xét, đánh giá (thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân).
- Thứ tư, từ ba nhiệm vụ ở trên đưa ra các giải pháp nhằm ổn định, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy và hoạt động đơn vị sau sáp nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải Lăng.
- Phạm vi nghiên cứu:
6
+ Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về hiện trạng đơn vị hành chính các xã, thị
trấn ở huyện Hải Lăng chưa đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện để thực hiện việc sắp
xếp đơn vị hành chính.
+ Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị.
+ Về thời gian: Đề tài nghiên cứu về đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải
Lăng qua các thời kỳ.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài luận văn là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về cải cách bộ máy nhà nước, nhất là đối với việc sắp xếp, kiện toàn lại
tổ chức bộ máy của chính quyền cơ sở.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, luận văn đã kết hợp giữa các phương
pháp trong từng phần của luận văn, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương
pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận văn và phương pháp thống kê, kinh
nghiệm thực tiễn sắp xếp đơn vị hành chính các cấp trong quá trình cải cách bộ máy
nhà nước ở nước ta hiện nay, trong đó:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng trong
việc thu thập và nghiên cứu tài liệu liên quan tới sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã.
- Phương pháp thống kê - so sánh: Trên cơ sở các quy định, số liệu thu thập
về sắp xếp đơn vị hành chính các cấp cũng như kết quả khảo sát thực tiễn về thực
trạng sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải Lăng, tác giả đã tiến hành thống
kê, so sánh các số liệu để có minh họa sinh động và thực tế cho đề tài luận văn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ những thông tin có được qua quá
trình nghiên cứu các tài liệu và số liệu thu thập được có liên quan đến đề tài luận
văn, tác giả đã phân tích và tổng hợp các thông tin đó để có những đánh giá về
những thuận lợi, khó khăn của việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải
Lăng, từ đó đề ra các quan điểm, giải pháp nhằm ổn định tổ chức bộ máy và nâng
7
cao hoạt động đơn vị cấp xã sau sáp nhập.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đề xuất với Đảng, Nhà nước
phương hướng, giải pháp hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã dựa trên những cơ
sở khoa học và thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về hiện trạng đơn
vị hành chính cấp xã cũng như tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã huyện
Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Từ đó đưa ra các giải pháp trong việc sắp xếp, tổ chức lại
đơn vị hành chính cấp xã nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện để xây dựng tổ
chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu về sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã trên cơ sở pháp
lý và lý luận thực tiễn sẽ đóng góp một cách thiết thực cho việc triển khai thực hiện
Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII), đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện
bộ máy chính quyền địa phương nói chung, bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã.
Chương 2: Thực trạng sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải Lăng,
tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Giải pháp sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
1.1. Đơn vị hành chính, đơn vị hành chính cấp xã
Đơn vị hành chính là khái niệm được sử dụng để chỉ những khu vực lãnh thổ,
đất đai, dân cư lớn nhỏ khác nhau do nhà nước phân định về giao cho chính quyền
của từng đơn vị hành chính quản lý. Đơn vị hành chính là vùng không gian, lãnh
thổ, có ranh giới xác định, được phân chia trong một lãnh thổ quốc gia thống nhất,
nhằm mục đích thực hiện công việc quản lý hành chính nhà nước.
Đơn vị hành chính còn gọi là thực thể địa phương, đơn vị cấu thành hoặc
phân khu quốc gia, là một phần của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, được phân
định nhằm phục vụ mục đích quản lý. Các đơn vị hành chính có mức độ tự chủ nhất
định, hoạt động trong khuôn khổ chính quyền địa phương của chúng. Các quốc gia
phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính nhỏ hơn để dễ bề quản lý đất đai và
các vấn đề dân sinh. Một quốc gia có thể được phân làm các tỉnh, đến lượt các tỉnh
lại được chia làm các khu tự quản.
Về mặt khái niệm, đơn vị hành chính khác với lãnh thổ phụ thuộc. Đơn vị
hành chính là bộ phận cấu thành quốc gia có chủ quyền, trong khi lãnh thổ phụ
thuộc chỉ ràng buộc vào quốc gia ở mức độ lỏng lẻo hơn. Tuy nhiên, thuật ngữ "đơn
vị hành chính" có thể bao hàm lãnh thổ phụ thuộc hoặc các khu vực lãnh thổ được
thừa nhận là đơn vị hành chính (chẳng hạn như cách phân chia trong cơ sở dữ liệu
địa lý). Phân chia đơn vị hành chính là công việc có tính tất yếu đối với bất cứ nhà
nước nào để tổ chức quyền lực nhà nước trên lãnh thổ quốc gia. Tùy theo đặc điểm
về tự nhiên, dân cư, lịch sử, văn hóa - xã hội khác nhau mà mỗi quốc gia, mỗi thời
kỳ các đơn vị hành chính được tổ chức với các cấp cụ thể nhằm bảo đảm sự phát
triển đời sống kinh tế - xã hội và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước, lần đầu tiên xuất hiện ở
Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ VII dưới thời thống trị của nhà Đường. Tuy nhiên phải
đến khi họ Khúc giành được quyền tự chủ vào đầu thế kỷ thứ X, ý tưởng biến làng
9
Việt cổ truyền thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước trước đây mới được
khẳng định và chính thống hoá. Mặc dầu vậy, vai trò của cấp xã thời kỳ này cũng
chưa thật rõ. Thời kỳ đầu một xã chỉ có một làng, nhưng dần dần trong quá trình
phát triển, một xã có khi bao gồm vài ba làng, thậm chí nhiều hơn nữa. Khi ấy sự
khác nhau giữa xã và làng còn ở cả quy mô nữa.
Xã là tên gọi chung của các đơn vị hành chính thuộc cấp thấp nhất ở khu vực
nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam hiện nay.
Thuật ngữ đơn vị hành chính cấp xã được dùng để chỉ toàn bộ cấp đơn vị
hành chính thấp nhất của Việt Nam, nghĩa là bao gồm cả xã, phường và thị trấn.
Phân cấp hành chính này có xuất xứ từ Trung Quốc và đã xuất hiện ở Việt Nam từ
thời Bắc thuộc.
Hiến pháp 2013, tại Điều 110 quy định: “Các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: nước chia thành tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc
tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành
chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh
chia thành phường và xã; quận chia thành phường…”.
Như vậy, cấp xã bao gồm xã, phường, thị trấn là cấp hành chính cuối cùng
trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta, là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống của
nhân dân và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Cấp xã là cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền
nhà nước nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống kinh tế - xã hội.
Cấp xã là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải tìm đến. Đường lối, chính
sách, pháp luật có đi vào thực tiễn cuộc sống hay không, có tác dụng, hiệu quả đến
đâu, đúng sai ra sao được thể hiện ngay trong thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước
của chính quyền cấp xã. Vì vậy, tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý nhưng
cấp xã luôn có tầm quan trọng đặc biệt, liên quan đến sự ổn định, bền vững, thành
10
bại của chế độ.
Với vị trí đặc thù như vậy nên đơn vị hành chính cấp xã có vị trí đặc biệt quan
trọng trong hệ thống chính trị, hành chính của đất nước ta. Là cầu nối trực tiếp của hệ
thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương theo
thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Ở nước ta,
chính quyền cấp xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu tổ
chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư và toàn thể người dân trong xã; là mắt
xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều được thực hiện ở cấp xã.
1.2. Khái niệm sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Sắp xếp ở đây được hiểu là quá trình thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất, chia
tách, giải thể hoặc điều chỉnh địa giới hành hình của đơn vị hành chính cấp xã nhằm
các mục đích quản lý hoặc đảm bảo các tiêu chuẩn, yêu cầu theo quy định.
Mặc dù có nhiều quan niệm về sáp nhập, hợp nhất tổ chức nói chung và sáp
nhập, hợp nhất tổ chức hành chính nhà nước nói riêng nhưng nhìn chung đều có sự
thống nhất khi coi sáp nhập, hợp nhất tổ chức là một hoạt động kết hợp của hai hay
nhiều tổ chức tương đồng với nhau và cho ra đời một pháp nhân mới.
Andrew J.Sherman (2006) cho rằng:“sáp nhập là một sự kết hợp của hai tổ
chức có sự tương đồng với nhau”; còn Patrick A. Gaughan (2011) định nghĩa “việc
sáp nhập là một sự kết hợp của hai tổ chức trong đó chỉ có một tổ chức tồn tại và
các tổ chức còn lại chấm dứt sự tồn tại”
Hợp nhất tổ chức là trường hợp hai hoặc một số tổ chức cùng loại (gọi là tổ
chức bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một tổ chức mới (gọi là tổ chức hợp nhất)
bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức
hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các tổ chức bị hợp nhất.
Sáp nhập, hợp nhất mang lại ý nghĩa to lớn cho các tổ chức nói chung và đơn
11
vị hành chính cấp xã nói riêng. Sáp nhập, hợp nhất tạo ra sức mạnh lớn hơn, tạo lợi
thế cạnh tranh cho các tổ chức hợp nhất với các tổ chức khác.
Sáp nhập, hợp nhất đều dẫn tới nhu cầu giảm việc làm, nhất là các công việc
gián tiếp. Bởi vậy, đây sẽ là dịp để các tổ chức sàng lọc và sa thải những vị trí làm
việc kém hiệu quả, từ đó góp phần không nhỏ vào việc tinh gọn bộ máy của tổ chức.
Qua đó, tổ chức sẽ có cơ hội được tiếp nhận nguồn lao động có kỹ năng tốt và nhiều
kinh nghiệm.
Sáp nhập đơn vị hành chính hay chia tách đơn vị hành chính làm phát sinh
việc điều chỉnh địa giới hành chính. Theo từ điển tiếng Việt trực tuyến, sáp nhập
được định nghĩa là động từ “nhập với nhau thành một” hoặc “gộp lại với nhau: Sáp
nhập hai xã làm một”. Trong đó, định nghĩa thứ nhất hàm nghĩa việc nhập lại với
nhau từ hai đối tượng trở lên để trở thành một đối tượng mới nhưng mang đặc tính
khác với đối tượng được sáp nhập ban đầu; định nghĩa thứ hai hàm nghĩa nhập lại
với nhau từ hai đối tượng trở lên có cùng đặc tính để trở thành một đối tượng mới
với những đặc tính tương tự với đối tượng ban đầu. Qua thực tế hoạt động điều
chỉnh địa giới hành chính hiện nay cho thấy, việc sáp nhập đơn vị hành chính có thể
được tiến hành bằng nhiều cách như sáp nhập nguyên nhiều đơn vị hành chính cùng
cấp thành địa giới của một đơn vị hành chính (theo định nghĩa thứ hai) hoặc sáp
nhập một phần lãnh thổ của đơn vị hành chính khác (có thể cùng cấp hoặc khác cấp)
vào đơn vị hành chính hiện hành, từ đó mở rộng hơn địa giới hành chính hiện có
(theo định nghĩa thứ nhất). Cả hai nghĩa trên đều thể hiện được ý nghĩa của hoạt
động sáp nhập địa giới hành chính. Như vậy, sáp nhập đơn vị hành chính được hiểu
là việc đưa một phần hoặc toàn bộ địa giới hành chính của một hoặc một số đơn vị
hành chính vào một đơn vị hành chính để trở thành một đơn vị hành chính mới về
quy mô dân số, diện tích tự nhiên và các tiêu chí khác. Về góc độ pháp lý, sáp nhập
địa giới hành chính là một thủ tục pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành nhằm tạo ra một địa giới hành chính với một cấp chính quyền mới, trên cơ sở
một số đơn vị hành chính đã có trước khi thực hiện. Đơn vị hành chính mới được
sáp nhập có thể trở thành một trong những trường hợp sau: Sáp nhập nhằm mở rộng
12
địa giới hành chính (có thể giữ nguyên tên gọi, loại đơn vị hành chính) nhưng nhằm
mục đích sau này nâng cấp/thay đổi về loại đơn vị hành chính (như loại I, loại II,
loại III). Sáp nhập có thể chỉ lại một giải pháp để bảo đảm sự hợp lý trong tổ chức
địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính với nhau (như trường hợp sáp nhập
phần địa giới hành chính vào địa giới hành chính khác sau khi đã tách một phần lớn
để nâng cấp).
Theo Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 Bộ Chính trị thì sắp xếp
đơn vị hành chính cấp xã là việc tổ chức hợp lý đơn vị hành chính phù hợp với thực
tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn thiện thể chế về đơn vị hành
chính, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; góp
phần phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội. Phấn đấu đến năm 2030 các đơn vị hành chính cấp xã được sắp xếp cơ
bản phù hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng yêu cầu xây dựng nước
ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Pháp luật về địa giới hành chính cấp xã
Pháp luật về địa giới hành chính cấp xã là khung pháp lý quan trọng về quy
trình, thủ tục và các tiêu chuẩn về thành lập mới, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều
chỉnh đơn vị hành chính cấp xã, thẩm quyền và nguyên tắc thực hiện việc điều
chỉnh định giới hành chính cấp xã, có những đặc thù, vai trò riêng trong hệ thống
pháp luật, đó là:
Thứ nhất, pháp luật về địa giới hành chính cấp xã do các cơ quan quyền lực
nhà nước ở trung ương (Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội) và các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ Nội vụ...) ban hành. Đây là lĩnh vực
pháp luật hành chính, song điểm khác biệt so với đặc điểm của pháp luật hành chính
là thường chỉ do cơ quan quản lý hành chính nhà nước ban hành, cơ quan quyền lực
nhà nước ở trung ương thường chỉ ban hành pháp luật để quy định những vấn đề
chung và cơ bản mà không quy định chi tiết, cụ thể. Có thể thấy, đây là một điểm
đặc thù của pháp luật về thành lập, giải thể, sáp nhập, chia tách đơn vị hành chính,
13
điều chỉnh địa giới hành chính cấp xã, nó xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của
đối tượng điều chỉnh là các đơn vị hành chính cấp xã quyết định đến hiệu quả quản
lý nhà nước và việc thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước, sự phát triển
kinh tế - xã hội cả nước. Chính vì vậy, căn cứ vào Hiến pháp năm 2013 quy định Ủy
ban thường vụ Quốc hội “quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8 Điều
74), Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng đã quy định: “Căn cứ vào quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định cụ thể tiêu chuẩn của từng tiêu chí, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành
chính” (khoản 4 Điều 3).
Thứ hai, pháp luật về địa giới hành chính cấp xã có tính chất ý chí, quyền
lực, được quy định theo trình tự, thủ tục rất chặt chẽ, đòi hỏi phải thực thi nghiêm
chỉnh. Xuất phát từ đặc điểm của pháp luật hành chính, pháp luật về địa giới hành
chính cấp xã mang đặc điểm chung của nguyên tắc quyền uy - phục tùng. Nội dung
quy phạm pháp luật không có sự thỏa thuận hay tính bình đẳng mà chỉ có thuộc tính
bắt buộc hay trách nhiệm thực hiện. Các cơ quan nhà nước ở địa phương có trách
nhiệm tổ chức thực hiện, như lấy ý kiến nhân dân, hoàn thiện hồ sơ đúng quy định,
tổng hợp báo cáo cơ quan cấp trên để tổng hợp, báo cáo lên Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định. Khoản 2 Điều 130 Luật tổ chức chính
quyền địa phương quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng đề án thành lập,
giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc báo cáo
Chính phủ”.
Thứ ba, pháp luật về địa giới hành chính cấp xã có tính thống nhất cao. Xuất
phát từ thẩm quyền quy định về phân loại đơn vị hành chính, các tiêu chí, trình tự,
thủ tục tiến hành thuộc về Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, do đó
hệ thống pháp luật về lĩnh vực này tương đối ít nhưng có sự thống nhất cao.
Thứ tư, pháp luật về địa giới hành chính cấp xã mặc dù có tính quyền lực,
song việc thi hành pháp luật lại căn cứ vào nhiều yếu tố khác, đặc biệt là các yếu tố
tự nhiên, lịch sử, văn hóa... của đơn vị hành chính, do đó, nó cũng có tính ước lệ
14
cao. Các quy định thường mang tính chất xác định “phạm vi” để định lượng các tiêu
chí. Ví dụ: Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành
chính quy định: Tiêu chuẩn của xã: Quy mô dân số: a) Xã miền núi, vùng cao từ
5.000 người trở lên; b) Xã không thuộc điểm a khoản này từ 8.000 người trở lên. Diện tích tự nhiên: a) Xã miền núi, vùng cao từ 50 km2 trở lên; b) Xã không thuộc điểm a khoản này từ 30 km2 trở lên. Tiêu chuẩn của thị trấn: Quy mô dân số từ 8.000 người trở lên; Diện tích tự nhiên từ 14 km2 trở lên.
Pháp luật về địa giới hành chính cấp xã cũng đã chú trọng việc bảo đảm
quyền dân chủ của nhân dân tại địa bàn dân cư, trong đó Luật tổ chức chính quyền
địa phương quy định Đề án thành lập, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa
giới hành chính phải được lấy ý kiến của nhân dân là cử tri ở đơn vị hành chính chịu
ảnh hưởng trực tiếp của việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành
chính. Sau khi lấy ý kiến cử tri về việc thành lập, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều
chỉnh địa giới hành chính, nếu có trên 50% tổng số cử tri trên địa bàn tán thành thì
cơ quan xây dựng đề án có trách nhiệm hoàn thiện đề án và gửi Hội đồng nhân dân
ở đơn vị hành chính, có liên quan để lấy ý kiến. Như vậy, lần đầu tiên pháp luật đã
nâng cao một bước quyền dân chủ nhân dân trong lĩnh vực địa giới hành chính.
Trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Chính phủ đã ban
hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020,
trong đó cũng xác định nhiệm vụ: “Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất
lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù
hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực,
hiệu quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù
hợp”. Báo cáo chính trị trình Đại hội XII đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế vùng, trong đó: “Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân
định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch
vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng
theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa
15
phương trong vùng. Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành
chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực
tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá”. Trên các văn
kiện của Đảng, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi của thời kỳ đổi mới, đồng
thời ban hành hệ thống nhiều luật mới liên quan đến điều chỉnh địa giới hành chính,
như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai, Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ, nhằm cụ thể hóa chủ trương xây dựng một nền hành chính
trong sạch, vững mạnh, đơn giản, hiệu quả, hạn chế tính trạng chia tách, thành lập
mới các đơn vị hành chính.
1.4. Đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
1.4.1. Đặc điểm việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Việc ổn định các đơn vị hành chính là một vấn đề quan trọng trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế, việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực quốc gia, bảo đảm lợi ích
tổng thể của quốc gia ngày càng cần được chú ý. Việc chia, tách, xác lập mới đơn vị
hành chính thường xuyên không chỉ làm lãng phí nguồn lực đầu tư, làm phân tán
nguồn lực mà về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đề ra
nhiệm vụ: "Khẩn trương xây dựng và đưa vào thực hiện quy hoạch tổng thể đơn vị
hành chính các cấp, trên cơ sở đó ổn định cơ bản các đơn vị hành chính ở cả ba cấp
tỉnh, huyện, xã".
So với các đợt sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thuộc Chương
trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước, việc sắp xếp các đơn vị hành chính
cấp xã theo Nghị quyết số 37-NQ/TW có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên cơ sở rà soát, đối chiếu với
các tiêu chuẩn cụ thể.
Đơn vị hành chính cấp xã thuộc diện sắp xếp phải có diện tích tự nhiên và
quy mô dân số chưa đạt 50% tiêu chuẩn quy định. Diện tích tự nhiên của đơn vị
16
hành chính được xác định theo số liệu kiểm kê đất đai gần nhất của Bộ Tài nguyên
và Môi trường tính đến thời điểm lập Đề án sắp xếp; quy mô dân số được xác định
theo số liệu dân số bình quân năm gần nhất do Tổng cục Thống kê công bố tính dến
thời điểm lập Đề án sắp xếp. Ngoài ra, còn có quy định khuyến khích việc thực hiện
sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã khác theo yêu cầu của địa phương để giảm số
lượng đơn vị hành chính.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã được thực hiện thống nhất trên cả
nước theo đúng quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 37-NQ/TW
là: “Vừa căn cứ theo các tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số, đồng thời
phải chú trọng cân nhắc kỹ các yếu tố đặc thù về lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân
tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, điều kiện địa lý - tự nhiên, cộng đồng
dân cư và yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự xã hội”.
- Thứ hai, việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã được xác định rõ về
mục tiêu định lượng và lộ trình cụ thể.
Các quy định phải dựa trên cơ sở một trong những quan điểm chỉ đạo của đợt
sắp xếp mà Nghị quyết số 37-NQ/TW đặt ra là: “Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ
thực hiện theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có trọng tâm, cách làm phù hợp chặt
chẽ, thận trọng, hiệu quả, chắc chắn, nơi đã rõ, có điều kiện thuận lợi thì làm trước,
phù hợp với quy hoạch tổng thể, yêu cầu phát triển, bảo đảm ổn định chính trị - xã
hội, không gây xáo trộn lớn. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của
Đảng, tuân thủ Hiến pháp”.
- Thứ ba, những vấn đề liên quan đến triển khai sắp xếp các đơn vị hành
chính cấp xã đều được hoạch định cụ thể và đảm bảo việc thực hiện.
1.4.2. Yêu cầu việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010
đã đặt ra yêu cầu: "Quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính
ở nước ta để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia, tách nhiều như thời gian
qua". Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú ý đến việc bảo đảm tính
ổn định các đơn vị hành chính nhằm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
17
Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước, thời gian qua, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về phân loại đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn; Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại
đơn vị hành chính nhằm tạo cơ sở cho công tác tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ,
công chức... cho phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính. Mục tiêu của việc
ban hành các văn bản này chính là nhằm tạo ra sự ổn định đơn vị hành chính nói
chung trong đó có đơn vị hành chính cấp xã. Nghị quyết số 653/2019/NQ-
UBTVQH14 ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các
đơn vị hành chính cấp xã trong giai đoạn 2019-2021 quy định việc sắp xếp đơn vị
hành chính cấp xã phải đảm bảo các yêu cầu:
- Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã phải đảm bảo chặt chẽ, có sự lãnh đạo
tập trung, thống nhất của cấp ủy đảng; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, không
gây xáo trộn trong đời sống sinh hoạt của nhân dân.
- Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã gắn với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh
giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.
- Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục
và hồ sơ theo quy định của pháp luật.
- Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu phải có quyết tâm
chính trị cao, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự thống nhất cao trong
hệ thống chính trị và sự đồng thuận ủng hộ của nhân dân.
- Trong quá trình thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính phải đồng thời
giải quyết chế độ, chính sách hợp lý cho cán bộ, công chức, người lao động có liên
quan và có lộ trình bố trí, sắp xếp để bảo đảm đúng số lượng quy định.
Ngoài ra, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã cần phải dựa trên các tiêu
chuẩn cụ thể:
- Tính phù hợp với đặc điểm tự nhiên: Trong thực tiễn, giữa các địa phương
thường có những ranh giới tự nhiên như sông, suối, núi... và có thể lấy đây là một
18
cơ sở để xác lập phạm vi địa giới của một xã. Tính phù hợp với đặc điểm tự nhiên
còn xuất phát từ đặc điểm của từng vùng miền mà sáp nhập đơn vị hành chính cấp
xã cho phù hợp; với địa bàn những vùng khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì
việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã phải khác với khu vực đồng bằng, đô thị.
- Diện tích tự nhiên là một tiêu chí cần chú ý. Tiêu chí này phản ánh mức độ
khó khăn, thời gian thực thi công vụ và thời gian đi lại của công dân đến các cơ quan
quản lý nhà nước. Chẳng hạn, thời gian người dân đến trụ sở chính quyền huyện, xã ở
các vùng sâu sẽ nhiều hơn ở đồng bằng... Tuy nhiên, tiêu chí diện tích tự nhiên cần
đặt trong tổng thể các yếu tố khác. Với sự phát triển của mạng lưới thông tin truyền
thông hiện nay, vấn đề khoảng cách, diện tích tự nhiên không còn đóng vai trò quan
trọng như giai đoạn trước đây trong việc sáp nhập đơn vị hành chính.
- Tiêu chí về lịch sử: Không gian lãnh thổ là một vấn đề có lịch sử lâu dài.
Đặc điểm của không gian lãnh thổ đã để lại dấu ấn lên tâm lý, tập quán canh tác,
sinh hoạt của dân cư. Chính vì vậy, khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã phải chú
trọng, cân nhắc kỹ các yếu tố đặc thù về truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của các địa phương.
- Đơn vị hành chính phải bảo đảm tính kế thừa sự ổn định của các đơn vị
hành chính lãnh thổ hiện tại. Điều đó có nghĩa khi sáp nhập đơn vị hành chính cấp
xã mới cần phải nghiên cứu, sử dụng các yếu tố tích cực hình thành do các hoạt
động của cộng đồng dân cư trong lịch sử tạo ra và hiện vẫn đang phát huy tác dụng.
+ Tính ổn định và phát triển của sản xuất xã hội, thúc đẩy tăng trưởng, khai
thác được tiềm năng, thế mạnh của địa phương, phục vụ sản xuất và đời sống xã
hội. Đó là mặt cơ bản của việc ổn định xã hội và phát triển cộng đồng;
+ Những giá trị chuẩn mực tốt đẹp của cộng đồng;
+ Tinh thần đoàn kết cộng đồng tạo nên sức mạnh bảo vệ lãnh thổ, duy trì an
ninh của cộng đồng, nhất là những địa phương ở biên giới.
- Phù hợp với truyền thống văn hóa của dân cư: Mỗi khu vực, mỗi cộng đồng
dân cư có những đặc trưng, bản sắc riêng đã được hình thành trong một thời kỳ
tương đối dài. Chính vì vậy, việc sáp nhập đơn vị hành chính không nên tạo ra sự
19
chia cắt về vùng, miền văn hóa hoặc kết hợp giữa nhiều vùng, miền văn hóa có thể
dẫn đến những xung đột;
- Phù hợp với yêu cầu bảo đảm an ninh, quốc phòng: Việc chia, tách, xác lập
đơn vị hành chính phải bảo đảm phục vụ tốt hơn cho công tác bảo vệ an ninh, quốc
phòng, giữ vững trật tự an toàn xã hội, tránh những xung đột, tranh chấp do việc
chia, tách, xác lập đơn vị hành chính mới.
1.4.3. Nguyên tắc việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định 03 nhóm nguyên tắc cơ
bản trong việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính nói
chung, trong đó có cấp xã tại Điều 128: Về định hướng xác lập đơn vị hành chính,
Luật xác định nguyên tắc ổn định tổ chức và giảm bớt đầu mối quản lý nhà nước
theo tinh thần cải cách hành chính. Khoản 1 Điều này quy định “đơn vị hành chính
được tổ chức ổn định trên cơ sở các đơn vị hành chính hiện có. Khuyến khích việc
nhập các đơn vị hành chính, cùng cấp”. Về điều kiện bảo đảm xác lập, điều chỉnh
địa giới hành chính, Luật đưa ra các điều kiện giới hạn “thực hiện trong các trường
hợp cần thiết” (khoản 2 Điều 128). Luật xác định rõ hơn các trường hợp hạn chế
việc giải thể đơn vị hành chính (khoản 3 Điều 128): Do yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương hoặc của quốc gia; do thay đổi
các yếu tố địa lý, địa hình tác động đến sự tồn tại của đơn vị hành chính đó. Như
vậy, các quy định này vừa mang tính nguyên tắc định hướng, vừa mang tính chất là
điều kiện pháp lý để xác định sự cần thiết khi xây dựng đề án sắp xếp đơn vị hành
chính các cấp, góp phần hạn chế tình trạng chia tách, thành lập mới các đơn vị hành
chính trong thời gian vừa qua.
- Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã phải thực hiện đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Nghị
quyết số 653/2019/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản
pháp luật khác có liên quan.
- Sau khi sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thì các đơn vị hành chính
được sắp xếp phải đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số theo quy định
20
tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13, trừ trường hợp nhập từ 03 đơn vị hành
chính cùng cấp trở lên hoặc nhập 02 đơn vị hành chính cùng cấp nhưng do có yếu tố
đặc thù mà không thể nhập thêm đơn vị hành chính khác liền kề.
- Gắn việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh
giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động; giải quyết chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động.
Ngoài ra, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã cần đảm bảo một số nguyên
tắc cơ bản khác:
- Bảo đảm quyền lãnh đạo thống nhất và quyền chủ động trong phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Bảo đảm tính thống nhất, chỉnh thể trong tổ chức
quản lý và sự hài hòa về lợi ích. Mặt khác, quá trình sáp nhập đơn vị hành chính
phải tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, phát huy
lợi thế của địa phương.
- Kế thừa các yếu tố lịch sử trong sáp nhập đơn vị hành chính. Mỗi đơn vị
hành chính có bề dày lịch sử, cộng đồng dân cư, truyền thống văn hóa, tâm lý cộng
đồng cố kết qua thời gian. Các hình thức định cư của cộng đồng cùng với quy mô
lãnh thổ của nó là yếu tố địa xã hội của đơn vị hành chính - lãnh thổ. Yếu tố lãnh
thổ và yếu tố dân cư là hai yếu tố không thể tách rời nhau chính vì vậy việc xác lập,
chia, tách hay sáp nhập các đơn vị hành chính cần phải tạo ra gắn kết giữa hai yếu
tố này. Việc tùy tiện nhập, tách các đơn vị hành chính cấp xã, vi phạm các yếu tố
lịch sử về lãnh thổ và cộng đồng dân cư sẽ dẫn đến những hậu quả về kinh tế - xã
hội, ảnh hưởng đến sự đoàn kết cộng đồng.
- Nguyên tắc bảo đảm sự ổn định tương đối của các đơn vị hành chính. Sự ổn
định của các đơn vị hành chính là điều kiện tiên quyết để đảm bảo giữ vững sự ổn
định, phát triển kinh tế - xã hội. Việc điều chỉnh các đơn vị hành chính chỉ tiến hành
khi thực sự cần thiết, khi có cơ sở thực tiễn. Mặt khác, việc đảm bảo ổn định tương
đối đơn vị hành chính cũng đòi hỏi phải hạn chế việc sáp nhập các đơn vị hành
21
chính cấp xã một cách tùy tiện, chủ quan, sáp nhập cơ học các đơn vị hành chính
nông thôn vào đô thị. Điều này không những không tạo ra động lực phát triển mà
còn gây khó khăn cho việc khai thác các nguồn lực của các địa phương.
- Nguyên tắc bảo đảm sự phân công, phối hợp thông suốt của hệ thống chính
quyền các cấp. Việc sáp nhập về quy mô của đơn vị hành chính cấp xã phải bảo
đảm sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Nguyên tắc đáp ứng yêu cầu của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong đời sống xã hội. Việc sáp nhập các đơn
vị hành chính phải tính toán có quy mô hợp lý giúp cho người dân có thể thuận lợi
trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dễ dàng tiếp cận với các cơ quan công
quyền. Ngoài ra, cũng cần tính đến việc cung ứng các loại hình dịch vụ công đặc
biệt là các dịch vụ công cơ bản như giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã
hội... giúp cho việc đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên.
1.5. Quy định việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
1.5.1. Thẩm quyền quyết định việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã cụ thể hóa Hiến pháp
năm 2013, Điều 129 quy định thẩm quyền quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính, đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính, giải quyết tranh
chấp liên quan đến ĐGHC của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về thẩm
quyền xây dựng, trình đề án xác lập, điều chỉnh địa giới hành chính: Luật cũng giao
cho Chính phủ và chính quyền địa phương trong việc xây dựng, thẩm định, trình
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
thuộc thẩm quyền và quyết định việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới hành chính; phân loại đô thị; đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính; giải quyết tranh
chấp liên quan đến địa giới hành chính. Đối với cấp xã, Chính phủ là chủ thể có
thẩm quyền cao nhất xây dựng, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định.
22
1.5.2. Lộ trình, thời gian thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp
đơn vị hành chính cấp xã, quy định:
- Năm 2019: Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định pháp luật
liên quan đến sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã. Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp
các đơn vị hành chính cấp xã có diện tích tự nhiên và quy mô dân số chưa đạt 50%
tiêu chuẩn theo quy định. Đồng thời, khuyến khích các địa phương thực hiện việc
sắp xếp các đơn vị hành chính còn lại chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định để giảm số
lượng đơn vị hành chính. Kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động và giải quyết chế độ, chính sách dôi dư tại các
cơ quan, tổ chức, đơn vị ở các đơn vị hành chính cấp xã tiến hành sắp xếp (thực
hiện hàng năm trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trong giai đoạn
2019 - 2021).
- Năm 2020: Tổ chức thành công đại hội đảng bộ cấp xã nhiệm kỳ 2020 -
2025 tại những đơn vị hành chính mới hình thành sau khi sắp xếp. Tiến hành sắp
xếp, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và giải quyết chế độ, chính sách đối với
những người dôi dư sau đại hội đảng bộ cấp xã nhiệm kỳ 2020 - 2025 tại những đơn
vị hành chính cấp xã mới hình thành sau khi sắp xếp.
- Năm 2021: Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân và
kiện toàn tổ chức của hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021 -
2026 tại những đơn vị hành chính mới hình thành sau khi sắp xếp. Tiến hành sắp
xếp, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và giải quyết chế độ, chính sách đối với
những người dôi dư sau khi kiện toàn tổ chức của hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp xã nhiệm kỳ 2021 - 2026 tại những đơn vị hành chính cấp xã mới hình
thành sau khi sắp xếp. Tổng kết việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã trong
giai đoạn 2019 - 2021. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy định pháp
luật về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và xu thế
phát triển của đất nước; xây dựng và hình cấp có thẩm quyền về quy hoạch tổng thể
đơn vị hành chính các cấp. Trên cơ sở đó, thực hiện việc sắp xếp các đơn vị hành
23
chính cấp xã trong giai đoạn 2022 - 2030.
1.5.3. Về đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
- UBND cấp tỉnh rà soát các tiêu chí về diện tích tự nhiên và quy mô dân số
để xây dựng Đề án sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã; trong đó, diện tích tự
nhiên của đơn vị hành chính được xác định theo số liệu kiểm kê đất đai gần nhất
của Bộ Tài nguyên và Môi trường tính đến thời điểm lập đề án sắp xếp đơn vị hành
chính; quy mô dân số của đơn vị hành chính được xác định theo số liệu dân số bình
quân năm gần nhất do Tổng cục Thống kê công bố tính đến thời điểm lập đề án sắp
xếp đơn vị hành chính và báo cáo Chính phủ, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem
xét, quyết định theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
và hướng dẫn của Bộ Nội vụ thực hiện trong giai đoạn 2019 - 2021. Đề án phải
được UBND cấp huyện, cấp xã tổ chức lấy ý kiến cử tri trong phạm vi địa bàn sắp
xếp liên quan, tổng hợp các ý kiến gửi UBND cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng
cấp theo trình tự, thủ tục tổ chức lấy ý kiến cử tri quy định tại Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 và hướng dẫn của Chính phủ. Phương án, đề án sắp
xếp đơn vị hành chính cấp xã phải được HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã tại các
đơn vị hành chính có liên quan thảo luận, biểu quyết tán thành hoặc không tán thành
chủ trương sắp xếp. Các kết quả trên là một bộ phận quan trọng trong hồ sơ đề án
báo cáo Chính phủ, trình ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Việc lấy ý kiến cử tri về Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã được thực
hiện trên cơ sở UBND cấp tỉnh gửi nội dung phương án, đề án sắp xếp đơn vị hành
chính có liên quan đến UBND cấp huyện, cấp xã để thực hiện việc lấy ý kiến cử tri.
Danh sách cử tri được niêm yết trong thời hạn 15 ngày trước ngày tổ chức lấy ý
kiến cử tri. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã phải hoàn thành việc lấy ý kiến cử
tri và tổng hợp kết quả lấy ý kiến cử tri gửi Ủy ban nhân dân cấp trên và Hội đồng
nhân dân cùng cấp trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi
phương án, đề án sắp xếp đơn vị hành chính và mẫu phiếu lấy ý kiến. Các nội dung
khác về trình tự, thủ tục tổ chức lấy ý kiến cử tri về phương án, đề án sắp xếp đơn vị
hành chính cấp xã thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa
24
phương và hướng dẫn của Chính phủ.
- Họp HĐND các cấp thông qua đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã:
Trên cơ sở đề án, phương án sắp xếp đơn vị hành chính của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, ý kiến của cử tri địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
tại các đơn vị hành chính có liên quan thảo luận, biểu quyết về việc tán thành hoặc
không tán thành chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính theo trình tự từ cấp xã đến
cấp huyện, cấp tỉnh. Việc thảo luận, biểu quyết về chủ trương sắp xếp đơn vị hành
chính được thực hiện tại kỳ họp Hội đồng nhân dân.
1.6. Yếu tố tác động đến việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
- Về thể chế: Tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật. Sáp nhập cấp
xã sẽ đặt ra yêu cầu phải sửa đổi một loạt các văn bản quy phạm pháp luật. Trước
hết là các luật về tổ chức bộ máy: Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, Luật cán bộ, công chức, Luật Viên chức; các nghị định hướng
dẫn thi thành; các chính sách đối với cán bộ, công chức; các chính sách phát triển
vùng; các chương trình mục tiêu quốc gia. Cùng với đó, tính đặc thù riêng biệt của
các địa phương khi tiến hành sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã cũng sẽ là một
thách thức không nhỏ đặt ra cho những cơ quan, những nhà hoạch định chính sách,
pháp luật ở Việt Nam. Nếu không bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, tính liên thông,
tính phối hợp và có cái nhìn tổng quát trong quá trình sửa đổi, bổ sung hệ thống
chính sách, pháp luật sẽ rất khó bảo đảm được tính bền vững, tính hiệu quả của
Nghị quyết 37.
- Về thời gian: Khối lượng công việc khi thực hiện sáp nhập các đơn vị hành
chính rất lớn nhưng làm trong thời gian ngắn. Nghị quyết 37 đã đề ra lộ trình tới
năm 2021, các xã không đạt 50% cả hai tiêu chí về diện tích tự nhiên và quy mô dân
số sẽ được sáp nhập. Thời gian chỉ còn hơn 2 năm thực hiện từ cuối năm 2019, năm
2020 và quý I năm 2021, cả hệ thống chính trị sẽ tập trung vào thực hiện Đại hội
Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025; bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ
2021-2026. Thời gian rất gấp, trong khi khối lượng công việc rất lớn: chờ Nghị
quyết của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Nội vụ về sắp xếp các đơn vị hành chính;
25
xây dựng đề án của các địa phương; phê duyệt đề án của các cấp, các cơ quan chức
năng; tổ chức lấy ý kiến nhân dân; thông qua nghị quyết của HĐND; sửa đổi các
văn bản pháp luật liên quan; bố trí kinh phí thực hiện sắp xếp,… Có thể thấy, thời
gian gấp, khối lượng công việc lại nhiều, lộ trình nhiều công đoạn đòi hỏi sự đồng
thuận, nhất trí cao,.. là một thách thức đòi hỏi năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ,
công chức khi triển khai thực hiện.
- Về yếu tố con người: Tầm hạn quản trị của chính quyền địa phương được
mở rộng, đòi hỏi năng lực đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tương ứng; tư duy
quản trị phải hiện đại. Sáp nhập các xã không đủ tiêu chí về diện tích, dân số không
đơn thuần là sự thay đổi theo phép cộng gộp cơ học các đơn vị hành chính nhỏ lại
với nhau, mà bản chất là kéo theo sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
phương thức quản trị quốc gia. Mục đích thực sự của sắp xếp các đơn vị hành chính
là làm cho bộ máy công quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; phục vụ nhân dân,
phục vụ xã hội tốt hơn; phương thức vận hành nền công vụ tốt hơn để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, cần phải có tư duy mới và năng lực trong thiết kế,
vận hành bộ máy quản trị quốc gia, quản trị địa phương xứng với tầm hạn quản trị
được mở rộng hơn. Mặt khác, công tác triển khai việc sáp nhập xã, thị trấn của các
địa phương vẫn còn lúng túng, các cấp chính quyền ở cấp huyện, xã cũng như đội
ngũ cán bộ xã chưa thống nhất về chủ trương của Đảng trong việc sắp xếp các đơn
vị hành chính cấp xã.
- Về sắp xếp, tổ chức bộ máy: Giải quyết những vấn đề về nhân sự, việc sắp
xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính luôn gặp những vấn đề về nhân sự, về việc bố
trí, sắp xếp nhân sự. Chính vì vậy, cần tập trung vào tuyên truyền mạnh mẽ, tạo nên
sự đồng thuận của cán bộ, công chức ở các đơn vị cần sáp nhập. Khi sắp xếp đương
nhiên sẽ có một lượng cán bộ công chức dôi dư nhưng địa phương lại chưa xác định
được giải pháp để giải quyết số lượng này như thế nào, trong bối cảnh Chính phủ
mới ban hành Nghị định 34/2019NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số quy định về
cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở xã, thôn,
tổ dân phố thì số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách
26
cấp xã giảm so với quy định hiện hành. Mặt khác, việc bố trí Công an chính quy về
đảm nhân các chức danh ở cấp xã nên số lượng dôi dư nhiều. Do đó, các địa
phương còn tâm lý ngại, né tránh và không muốn làm.
- Yếu tố lịch sử, văn hóa: Việc sáp nhập dân cư phải xem xét đến yếu tố lịch
sử, văn hóa, tập quán của từng địa phương, do đó trong công tác chỉ đạo sáp nhập
cần có lộ trình phù hợp. Đối với những địa bàn mà thực hiện sáp nhập có sự đồng
thuận cao của nhân dân, hiển thị rõ lợi ích trong quản lý nhà nước và phát triển kinh
tế-xã hội thì tiến hành sáp nhập; những địa phương mà nhân dân chưa đồng thuận
thì hết sức thận trọng tổ chức họp dân, vận động, thuyết phục và làm từng bước.
Trước lúc tiến hành sáp nhập cần nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhất là
ý kiến của nhân dân về những vấn đề còn bàn cãi, tranh luận chưa thống nhất. Đặc
biệt là nắm rõ về những đặc thù phong tục tập quán, lối sống của từng vùng, trong
đó phải chú ý đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đạo. Riêng đối với các
địa bàn miền núi, vùng biên giới phải cân nhắc về quy mô số hộ theo quy định gắn
với các yếu tố địa hình gắn với quy mô dân cư đang sinh sống, từ đó đặt ra một lộ
trình sáp nhập hết sức khoa học và phù hợp. Nơi nào dễ làm trước, nơi nào khó làm
sau. Những nơi khó cần điều tra rà soát lại các yếu tố đặc thù, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của dân, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để vận động tuyên
truyền cho người dân hiểu về một chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước đồng
thời mạnh dạn đề xuất những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, tìm hướng giải quyết phù
hợp, thỏa đáng. Điều quan trọng phải đạt được mục tiêu sau sáp nhập là ổn định dân
cư, thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo trật tự trị an thôn xóm văn minh, hiện đại.
1.7. Kinh nghiệm sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
1.7.1. Kinh nghiệm sắp xếp tổ chức bộ máy của tỉnh Hà Tĩnh
Bài học kinh nghiệm lớn nhất của Hà Tĩnh trong quá trình sắp xếp, tinh gọn
bộ máy cán bộ, công chức là lấy đồng thuận của dân làm gốc. Tất cả các khâu từ lập
phương án, thống nhất tên gọi, nơi đặt trụ sở xã mới, lựa chọn cán bộ khi sáp nhập
đơn vị hành chính cấp xã đều lắng nghe dân.
27
Năm 2012, Hà Tĩnh đã bắt tay vào công cuộc sáp nhập thôn, xóm theo Nghị
quyết Trung ương 6, khóa XII. Từ thực tiễn này, cả hệ thống chính trị ở Hà Tĩnh đã
được trang bị nhiều bài học quý trong việc sáp nhập ở thôn, xóm, tổ dân phố, đơn vị
sự nghiệp. Đặc biệt là việc sắp xếp tinh gọn đội ngũ cán bộ thôn vốn rất dày đặc. Từ
2.780 thôn (năm 2012), đến nay Hà Tĩnh chỉ còn 2.007 thôn, giảm được 773 thôn.
Đội ngũ cán bộ thôn xóm cũng được tinh giản đáng kể, giảm trên 24 nghìn cán bộ
cốt cán ở thôn, xóm, tổ dân phố.
Sau khi sắp xếp, số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã ở Hà
Tĩnh hiện nay chỉ còn 8 người, trong khi đó xã loại 1 theo quy định của Nghị định
số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ là 14 người. Riêng đối với
những xã khó khăn, do không bố trí được người kiêm nhiệm các tổ chức có chức
năng, nhiệm vụ tương đồng thì bố trí tối đa không quá 9 người. Từ khi thực hiện
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII đến nay, Hà Tĩnh đã giảm 981/3.486 người hoạt
động không chuyên trách cấp xã.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn đó, đầu năm 2019, Hà Tĩnh bắt đầu định
hình lộ trình thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị và
Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội một cách bài
bản, chặt chẽ. Với tâm thế táo bạo, quyết liệt, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp từ
tỉnh đến cơ sở Hà Tĩnh từng bước có cách làm sáng tạo quá trình sáp nhập xã.
Sau khi có chủ trương, Nghị quyết và các văn bản Trung ương được ban
hành, Hà Tĩnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai thực hiện đồng
bộ các chủ trương, nghị quyết của Trung ương. Tỉnh chủ động xây dựng các
phương án, đề án về sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã khách quan, khoa học với
tinh thần quyết tâm cao nhưng không áp đặt cứng nhắc để thực hiện có hiệu quả các
chủ trương, nghị quyết của Trung ương, đồng thời đảm bảo phù hợp với điều kiện,
tình hình thực tiễn của địa phương. Mặt khác, đa phần cán bộ, đảng viên, công chức
đã có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết thực hiện chủ trương sáp nhập đơn vị hành
chính các cấp. Xác định rõ thái độ, trách nhiệm của việc quán triệt, tuyên truyền,
lãnh đạo, chỉ đạo và gương mẫu tham gia tổ chức thực hiện. Người dân tỏ thái độ
28
đồng thuận và tin tưởng với chủ trương, nghị quyết về thực hiện sáp nhập đơn vị
hành chính cấp xã.
Một lợi thế của Hà Tĩnh đó là hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất như hạ tầng
giao thông, công nghệ thông tin, viễn thông được quan tâm đầu tư thỏa đáng, ngày
càng hoàn thiện, công tác cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác điều hành, quản lý trên phạm vi rộng. Do đó, sau sắp
xếp các đơn vị hành chính cấp xã, công tác điều hành, quản lý của bộ máy sẽ ngày
càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình
hình mới.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trong giai đoạn “nước rút”, trùng vào
thời điểm chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở nhiệm kỳ 2020-2025 và bầu
cử đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026. Vì thế, việc triển khai thực hiện các
chủ trương, nghị quyết của Trung ương trong khoảng thời gian ngắn ít nhiều sẽ có
những tác động, khó khăn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai
thực hiện, nhất là ở cấp cơ sở.
Xây dựng phương án sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã không chỉ đơn thuần
xét các tiêu chí “cứng” về quy mô dân số và diện tích tự nhiên mà còn phải chú
trọng cân nhắc kỹ các yếu tố “mềm”, đó là đặc thù về lịch sử, truyền thống, văn
hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, điều kiện địa lý - tự nhiên,
cộng đồng dân cư và yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Để hình thành được đề án sáp nhập đã là một bài toán lớn đối với mỗi địa phương.
Tại Can Lộc, từ cuối 2018, huyện đã tập trung tuyên truyền, truyền tải chủ
trương sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã đến từng người dân, thành lập Ban chỉ
đạo, tổ chức rà soát toàn bộ các xã, thị trấn và xác định các xã không đảm bảo 50%
của cả 2 tiêu chí buộc phải sắp xếp. Theo đó, địa phương này có 8 xã thuộc diện
phải sáp nhập là: Kim Lộc, Song Lộc, Trường Lộc, Yên Lộc, Vĩnh Lộc, Khánh Lộc,
Tiến Lộc và thị trấn Nghèn. Trong đó, có 2 nhóm 3 xã sáp nhập làm 1, Tiến Lộc sáp
nhập vào thị trấn Nghèn. Sau sáp nhập, huyện Can Lộc giảm được 5 xã.
29
Quá trình sáp nhập xã của địa phương phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
Ngoài việc phải thực hiện gấp rút thì từ trước đến nay đã nhiều lần có chủ trương
chia tách, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp, điều này khiến nhân dân có nhiều
tâm tư. Đặc biệt, những năm gần đây, các địa phương tập trung nhân lực, vật lực
đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Hệ thống cơ sở vật chất, hạ
tầng được đầu tư xây dựng bài bản, đồng bộ. Bây giờ sáp nhập sẽ lãng phí không ít.
Điều này không chỉ nhân dân băn khoăn mà cấp ủy, chính quyền các cấp cũng gặp
khó trong việc giải bài toán cơ sở hạ tầng sau sáp nhập. Các xã cũ sau khi sáp nhập
nếu không có phương án sử dụng hợp lý sẽ dư thừa nhiều, nhất là trụ sở làm việc
của xã, trường học, trạm xá, nhà văn hóa thôn. Theo thống kê, sau khi sắp xếp xã,
có 34 trụ sở hành chính trước mắt được sử dụng để làm trụ sở xã mới, 46 trụ sở
hành chính dư thừa (trong đó có 34 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 8 xã đảm bảo yêu
cầu hoạt động, 4 trụ sở xuống cấp).
Không chỉ cơ sở hạ tầng mà công tác sắp xếp, bố trí cán bộ cũng là vấn đề
trọng tâm, là mối quan tâm hàng đầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc xây
dựng phương án, thực hiện các chính sách giải quyết đối với cán bộ dôi dư sau sáp
nhập là bài toán khó giải nhất do liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như
ngân sách, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, việc lựa chọn, bố trí cán
bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cho xã mới gặp rất nhiều khó
khăn do đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay cơ bản đã được chuẩn hóa theo quy
định nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể của Trung ương. Số lượng cấp trưởng, nhất là
cán bộ cấp phó dư thừa, sau khi sáp nhập 3 xã với nhau thì việc lựa chọn, bố trí cán
bộ, công chức cho xã mới khá bất cập. Công tác cán bộ làm sao phải đảm bảo “gọn”
nhưng phải “tinh”. Nếu thực hiện không tốt sẽ tác động lớn đến tâm tư, tình cảm
của cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
Ngoài ra, nhiều xã thuộc diện sáp nhập đang “đau đầu” với tình trạng nợ
đọng, nhất là nợ xây dựng cơ bản, thậm chí là nợ đọng kéo dài và có một số chính
sách liên quan trực tiếp đến người dân với các mức độ khác nhau chưa được giải
quyết dứt điểm. Tình trạng nợ cũ và các chính sách tồn đọng của người dân không
30
được giải quyết dứt điểm, dễ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, gây bức xúc, bất bình
trong doanh nghiệp và nhân dân.
* Bài học kinh nghiệm
- Thứ nhất, lấy dân làm gốc, chẳng hạn như ở huyện Can Lộc, tại các xã, thị
trấn sáp nhập, Ban Thường vụ Huyện uỷ dự sinh hoạt với các chi bộ thôn, xin ý
kiến đảng viên về các nội dung như tên gọi của xã, nơi đặt trụ sở xã, lắng nghe đề
xuất của đảng viên. Sau khi thống nhất được phương án, lấy ý kiến cử tri về chủ
trương sáp nhập. Nơi nào đảng viên thông qua thì nhân dân cũng đồng thuận.
Huyện còn làm công tác tư tưởng đối với cả con em xa quê hương, động viên cán
bộ chủ chốt gần đến tuổi nghỉ hưu, điều chỉnh công chức trong huyện để không dôi
dư nhiều, duy trì các đoàn thể ở xã cho đến đại hội các đoàn thể vào năm 2021 để
sắp xếp cán bộ.
- Thứ hai, giải bài toán về cơ sở vật chất, hạ tầng sau sáp nhập, công tác cán
bộ, xử lý nợ đọng đang được các địa phương ở Hà Tĩnh lần lượt hóa giải. Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh Hoàng Trung Dũng nhấn mạnh, quan điểm nhất quán
của tỉnh là phải tối ưu hóa phương án sử dụng cơ sở vật chất. Trụ sở các xã cũ sẽ tiếp
tục chuyển giao cho xã mới, trên cơ sở đánh giá đúng chất lượng và công năng sử
dụng, các cơ sở vật chất dư thừa sẽ được làm thủ tục chuyển về thôn, xóm hoặc đấu
giá xử lý đúng quy định, tránh lãng phí hoặc để xuống cấp, hư hỏng. Tuy nhiên,
không phải xã nào cũng sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất sau sáp nhập. Ngay cả khi
sáp nhập thôn, xóm, tổ dân phố ở Hà Tĩnh dư thừa hơn 600 nhà văn hóa thôn, tổ dân
phố. Đến nay, sau 5 năm những số nhà văn hóa dư thừa này vẫn đang “nghẽn”
phương án sử dụng do vướng những bất cập về thủ tục pháp lý. Đây là bài học nhãn
tiền, các địa phương cần phải xây dựng phương án tối ưu nhất đối với hệ thống hạ
tầng sau sáp nhập xã để tránh tình trạng lãng phí tiền của do nhân dân đóng góp.
- Thứ ba, tập trung gỡ khó công tác cán bộ, để “gọn” bộ máy, Hà Tĩnh rà soát
cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách cấp xã, huyện trên toàn
tỉnh. Căn cứ vào Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/7/2015 về việc tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nghị quyết số
31
26/2015/NĐ-CP quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về
tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, thực hiện bố trí, luân
chuyển chéo, ngang, dưới lên trên, trên xuống dưới, kịp thời bổ sung những vị trí,
chức danh còn khuyết…Từ đó Hà Tĩnh đã cơ bản giải quyết ổn thỏa đội ngũ cán bộ,
công chức, người hoạt động không chuyên trách dư thừa.
Ngày 20/8/2019, HĐND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành Nghị quyết số
164/2019/NQ-HĐND về một số chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động; người hoạt động không chuyên trách cấp xã trong quá trình sắp
xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2019-2021. Trong
đó có nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ tài chính cho đội ngũ cán bộ dôi dư sau sáp
nhập. Và để “tinh” bộ máy, với phương châm lựa chọn cán bộ tâm huyết, trách
nhiệm, “vừa hồng vừa chuyên”, tỉnh Hà Tĩnh đã và đang rà soát, xây dựng lộ trình,
quy chuẩn cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cấp xã.
- Thứ tư, sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã là bước “đệm” nhân sự cho Đại
hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2020-2025, có thể sẽ có chuyện chạy chức, chạy
quyền. Do đó, không chỉ Hà Tĩnh mà tất cả các địa phương trên toàn quốc cần tăng
cường công tác giám sát, có chế tài giám sát cụ thể để “tai mắt” của dân là HĐND,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể vào cuộc một cách sâu sát.
1.7.2. Đơn vị hành chính ở Nhật Bản
Trong suốt 100 năm qua, kể từ thời Minh Trị năm 1867, Nhật Bản đã tiến
hành nhiều cuộc cải cách hệ thống chính quyền địa phương với mục đích xây dựng
một hệ thống chính quyền địa phương hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Dưới thời
Minh Trị, chính quyền địa phương được tổ chức theo mô hình tập trung quyền lực
và hệ thống thứ bậc giống như mô hình của Đức và Pháp. Tuy nhiên, mô hình chính
quyền Nhật Bản đã chuyển sang thời kỳ mới khi Hiến pháp năm 1946 quy định
nguyên tắc “tự trị địa phương” một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương. Trên cơ sở đó, Luật Tự trị địa phương ban hành năm
1947, là văn bản pháp lý quan trọng quy định về tổ chức, hoạt động, chức năng và
32
quyền hạn của các cơ quan ở địa phương. Theo quy định của Luật này, chính quyền
địa phương của Nhật Bản có một số đặc điểm chính như sau: thứ nhất, được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tự trị địa phương. Nguyên tắc này đảm bảo quyền tự
chủ của chính quyền địa phương khi thực hiên chức năng, nhiệm vụ của mình cũng
như hạn chế sự can thiệp của chính quyền trung ương vào các công việc của địa
phương; thứ hai, mô hình chính quyền được tổ chức theo hai cấp: Cấp vùng và cấp
địa phương. Mỗi cấp gồm có hội đồng và cơ quan hành pháp được tổ chức theo
nguyên tắc bầu cử trực tiếp; thứ ba, chức danh tỉnh trưởng và thị trưởng được bầu
cử trực tiếp; thứ tư, chính quyền địa phương bên cạnh việc thực hiện các thẩm
quyền chung mà pháp luật đã quy định cụ thể thì còn được trao quyền thực hiện các
hoạt động mà pháp luật chưa quy định nếu hoạt động đó là vì lợi ích của người dân
địa phương. Quy định này, tạo cho chính quyền địa phương sự chủ động, sáng tạo
và đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của nhân dân.
Đơn vị hành chính cấp hạt là đơn vị hành chính địa phương cấp cơ sở của
Nhật Bản. Cấp này được thành lập từ năm 1882, các đơn vị hành chính cấp hạt gồm
ba loại: thành phố, thị trấn, làng. Cuộc cải cách tiêu biểu của Nhật Bản là tiến hành
việc sáp nhập cấp chính quyền cấp cơ sở, việc sáp nhập này được thực hiện lần thứ
nhất năm 1888 - 1889 được gọi là cải cách thời Minh Trị, thông qua việc sáp nhập
các đơn vị hành chính cấp cơ sở, và số lượng đã giảm xuống 1/5 (từ 71.314 xuống
còn 15.859 đơn vị hành chính cấp cơ sở). Lần sáp nhập lớn thứ hai được thực hiện
từ năm 1953 đến năm 1961 - thời Showa - đã giảm số lượng đơn vị hành chính cấp
cơ sở xuống còn 3.472 đơn vị. Lần sáp nhập thứ ba được thực hiện từ năm 1999 đến
năm 2006 (thời Heiwa), số lượng đơn vị hành chính cấp cơ sở đã giảm thêm được
một nữa. Kết quả là sau ba cuộc sáp nhập lớn, hiện nay Nhật Bản chỉ có 47 đơn vị
hành chính cấp vùng và khoảng 1.800 đơn vị hành chính cấp cơ sở. Việc tiến hành
sáp nhập các đơn vị hành chính cấp cơ sở đã có ý nghĩa quyết định trong việc hoàn
thiện hệ thống chính quyền địa phương; giảm các chi phí quản lý cho quản lý hành
chính, đảm bảo nguồn lực tài chính, nhân sự cho địa phương, nhất là trong các lĩnh
vực quản lý đòi hỏi chí phí đầu tư cao, hay cần phải có sự phối kết hợp quản lý ở
33
địa bàn rộng để có thể phát huy được nội lực của từng địa phương như vấn đề xử lý
rác thải, cung cấp nước, vệ sinh y tế.
Lý do đầu tiên dẫn đến việc sáp nhập các thành phố là nhằm đẩy mạnh quá
trình phi tập trung hóa. Để đẩy mạnh cuộc cải cách theo hướng phi tập trung hóa
và nhận được lợi ích từ quá trình này, cần tăng cường tính độc lập và sự đảm bảo
về tài chính của các cơ quan chính quyền địa phương. Thứ hai, do sự khác biệt về
nguồn lực tài chính giữa chính quyền trung ương và các địa phương, cần xây dựng
một hệ thống chính quyền địa phương hoạt động có hiệu quả để giảm bớt các gánh
nặng tài chính. Thứ ba, tỷ lệ sinh giảm và số người già tăng lên đang có những ảnh
hưởng to lớn đến các chính quyền thành phố. Những chính quyền thành phố nơi
có ít dân cư sinh sống sẽ khó có thể duy trì được nguồn ngân sách vốn đã hạn hẹp
của mình. Điều này gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện vai trò tự quản của
chính quyền địa phương.
Do việc sáp nhập các chính quyền địa phương được tiến hành trên cơ sở bắt
buộc và dựa trên những hướng dẫn về tài chính, mặc dù số lượng các thành phố đã
giảm, song mục tiêu mà Chính phủ đề ra là khó thực hiện được. Thực chất, nếu xét
về thủ tục, việc sáp nhập các thành phố chính là việc giao cho các cơ quan tự quản
quyền hoạt động độc lập. Cái gọi là “tự quản địa phương” là khái niệm nhằm làm rõ
mối quan hệ giữa “quyền và nghĩa vụ” của các cơ quan chính quyền địa phương.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tăng gánh nặng tài chính của chính quyền và
nhân dân địa phương. Với lý do ngay cả khi sáp nhập giữa các vùng, các chính
quyền địa phương vẫn phải tự chịu trách nhiệm phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương mình. Tại Nhật đã diễn ra nhiều chiến dịch vận động dân chúng phản đối
việc sáp nhập, hoặc tìm ra một phương thức phát triển độc lập cho chính quyền địa
phương hoặc sử dụng trưng cầu dân ý để quyết định vấn đề này.
Trước tình hình đó, ngày 27/11/2003, Ủy ban Phi tập trung hóa đã trình lên
Thủ tướng một báo cáo về thực trạng và giải pháp xây dựng chính quyền địa
phương từ nay về sau. Tháng 3/2004, Ủy ban Phi tập trung hóa đã chính thức thảo
luận về cuộc cải cách chính quyền địa phương tiếp theo.
34
Trọng tâm tiếp theo của cuộc cải cách là việc sắp xếp lại các tỉnh thành
những cơ quan tự quản trên cơ sở rộng rãi. Báo cáo lần thứ 27 của Ủy ban Phi tập
trung hóa đã đưa ra những đề xuất, kiến nghị về việc bãi bỏ các tỉnh và thành lập
các tiểu bang xuất phát từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, do việc sáp nhập các thành phố dẫn đến sự độc lập của các chính
quyền địa phương, các cơ quan trợ giúp và vai trò của các tỉnh sẽ bị giảm bớt.
Thứ hai, sự phục hồi của các ngành công nghiệp địa phương, chính sách lao
động, bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia đang là những vấn đề thời sự nóng hổi
đối với các cơ quan tự quản trên cơ sở rộng rãi. Trong bối cảnh đó, việc mở rộng
địa giới của các tỉnh là cần thiết.
Thứ ba, để tiếp nhận việc chuyển giao các chức năng và quyền hạn từ Nhà
nước, cần xây dựng các cơ quan tự quản trên cơ sở rộng rãi.
Mục đích của việc đưa ra đề xuất cải cách hành chính là hợp nhất các tỉnh
hiện có thành 7 đến 9 tiểu bang nhằm tạo ra những cơ quan tự quản rộng rãi để xử
lý các công việc hành chính nhà nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh và đóng góp
tích cực cho cộng đồng quốc tế. Hệ thống các bang cũng đồng nghĩa với việc giải
thể và cơ cấu lại hệ thống chính quyền 2 cấp và các tỉnh vốn được hình thành kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ khi mới hình thành, hệ thống chính quyền địa
phương đã đã có một lịch sử phong phú và đa dạng. Đó là tiền đề quan trọng để duy
trì và mở rộng các tỉnh để vai trò hỗ trợ cho các cơ quan tự quản nhằm đáp ứng các
nhu cầu hiện nay.
Như vậy, với số dân khoảng 126,5 triệu người, Nhật Bản đã xây dựng được
một hệ thống chính quyền địa phương gọn nhẹ, tự chủ, độc lập, hoạt động có hiệu lực
và hiệu quả thông qua việc thiết lập mô hình chính quyền hai cấp, mở rộng địa bàn
quản lý của chính quyền cấp cơ sở cùng với việc giảm số lượng đơn vị hành chính
cấp cơ sở, tăng quyền tự chủ trong sử dụng ngân sách địa phương. Bên cạnh đó, việc
nâng cao năng lực của đội ngũ công chức ở địa phương thông qua việc sửa đổi các
quy định về tuyển dụng, sử dụng và đào tạo đội ngũ công chức được Nhật Bản xác
định là một trong những điều kiện tiên quyết để chính quyền địa phương có thể đáp
35
ứng đươc yêu cầu quản lý trong một phạm vi rộng hơn, với số lượng dân cư lớn hơn.
1.7.3. Đơn vị hành chính ở Cộng hòa Pháp
Pháp là một nước có chính sách phân chia lãnh thổ - hành chính khá ổn định.
Theo cấu trúc hành chính hiện nay, cấu trúc lãnh thổ của Pháp được chia thành các
cấp: Cấp vùng, tỉnh, các quận, huyện và cấp xã. Xã hay thị xã là phân cấp hành
chính thấp nhất tại Cộng hòa Pháp. Năm 1837, xã tại Pháp được trao tư cách pháp
nhân và chính vì lý do này mà việc sáp nhập các xã lại với nhau rất khó khăn, khiến
cho nhiều thành phố của Pháp có diện tích không đổi từ khi thành lập.
Trong việc phân chia lãnh thổ, các nhà hành chính Pháp chính quan niệm: Sự
can thiệp của nhà nước để cơ cấu lại đơn vị hành chính lãnh thổ phải chú ý cấu trúc
hình thành mang tính tự nhiên và cấu trúc có sự can thiệp của chính quyền. Khi
phân chia lãnh thổ phải tính đến sự thuận tiện trong quan hệ giao dịch giữa công
dân và chính quyền, phù hợp với nhu cầu của người dân và hiệu quả của các dịch vụ
hành chính. Một cấu trúc lãnh thổ - hành chính đang tồn tại, phát triển bình thường,
không tranh chấp, không có những vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến chính sách, đến
kinh tế... thì không có lý do để xem xét lại nó. Chính vì vậy, các đơn vị hành chính -
lãnh thổ của Pháp nói chung và đơn vị hành chính cấp xã nói riêng rất ổn định trong
hơn hai trăm năm qua.
36
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về chủ
trương, sự cần thiết, tính tất yếu của việc thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính
cấp xã; nêu lên những đặc điểm, nguyên tắc, yêu cầu sắp xếp đơn vị hành chính và
một số yếu tố tác động đến đến việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã. Những quan
điểm chỉ đạo về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội
nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) và Nghị quyết số 37-
NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính
cấp huyện và cấp xã.
Những cơ sở lý luận trong Chương 1 là tiền đề để tác giả luận văn nghiên
cứu thực trạng sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải Lăng ở Chương 2 và đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức, sắp xếp bộ máy và ổn định
hoạt động của đơn vị hành chính xã, thị trấn mới sau sáp nhập nói riêng và bộ máy
chính quyền cấp xã, huyện Hải Lăng nói chung ở Chương 3 luận văn.
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Điều kiện về tự nhiên, tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội huyện
Hải Lăng
2.1.1. Điều kiện về tự nhiên
* Vị trí địa lý
Hải Lăng là huyện phía Nam của tỉnh Quảng Trị, cách thành phố Đông Hà
(trung tâm tỉnh Quảng Trị) về phía Nam khoảng 21 km, cách thành phố Huế về phía
Bắc khoảng 50km.
Huyện Hải Lăng có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 01 thị trấn. Tổng
diện tích tự nhiên của huyện là 42479,65 ha, chiếm 8,99% diện tích cả tỉnh. Hải
Lăng có đủ 3 vùng sinh thái: Đồng bằng, đồi núi và biển (có bờ biển dài 14 km);
mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ tiện lợi và quan trọng, tạo ra
thế mạnh trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của huyện. Quốc lộ 1A và
đường sắt Bắc Nam chạy qua trung tâm huyện theo hướng Bắc - Nam với chiều dài
19 km, vì vậy, Hải Lăng chịu sức hút về các hoạt động kinh tế - xã hội cả Hải Lăng,
thị xã Quảng Trị ở phía Bắc và Huế ở phía Nam.
Đặc trưng của địa hình Hải Lăng nghiêng từ Tây sang Đông. Vùng đồi núi và
ven biển bị chia cắt bởi các sông, suối, một số khu vực đồng bằng có địa hình thấp
trũng do đó việc phát triển giao thông, mạng lưới điện cũng như tổ chức sản xuất cũng
gặp những khó khăn nhất định. Có thể chia địa hình ra 3 vùng: Vùng đồi núi (55% diện
tích tự nhiên), vùng đồng bằng (32%), vùng cồn cát, bãi cát ven biển (12%).
- Vùng gò đồi và núi: Đa phần các khu vực phía Tây đường sắt Bắc Nam bao
gồm lãnh thổ chủ yếu của các xã: Hải Phú, Hải Lâm, Hải Sơn, Hải Chánh, Hải
Trường, núi thấp có độ cao bình quân 100 - 150m, vùng gò đồi có độ cao bình quân
40 - 50 m.
- Vùng đồng bằng: Nằm giữa gò đồi và cồn cát, bãi cát; bao gồm địa bàn các
38
xã: Hải Quy, Hải Hưng, Hải Định, Hải Phong, thị trấn Diên Sanh và một phần của
các xã: Hải Phú, Hải Thượng, Hải Lâm, Hải Trường, Hải Sơn, Hải Chánh, Hải
Dương, Hải Quế, Hải Ba.
- Vùng cồn cát, bãi cát ven biển: Nằm giữa đồng bằng và Biển Đông; tập
trung phía Đông đường tỉnh lộ 68, thuộc các xã Hải An, Hải Khê và một phần của
các xã Hải Ba, Hải Quế, Hải Dương. Có độ cao bình quân 6 - 7m. Đất đai chủ yếu
là đất cồn cát, bãi cát.
* Khí hậu
Hải Lăng cũng nằm trong vùng miền khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng có địa
hình thấp và bị phân dị, do đó khí hậu có đặc điểm mùa hè có gió mùa Tây Nam
khô nóng, nhưng mức độ khắc nghiệt giảm dần từ phía Bắc đến phía Nam của
huyện; gió Mùa Đông Bắc ẩm ướt về mùa đông. Nền nhiệt tương đối cao, tổng nhiệt lượng cả năm trên dưới 90000C, nguồn nhiệt lượng này cho phép trồng trọt
với đa dạng cây trồng và cải tạo mùa vụ trong năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm hầu hết các vùng trong huyện khoảng 24 - 250C. Nhiệt độ tháng cao nhất (từ tháng 5 đến tháng 7) khoảng 350C, có khi gần lên tới 400C; tháng thấp nhất (tháng 1, tháng 2) khoảng 180C, có khi xuống tới 12-130C, nói chung biên độ nhiệt khá lớn.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.500 - 2.700 mm, cao hơn mức trung
bình cả nước. Tổng lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 9, 10, 11 (chiếm từ
75 - 80% lượng mưa cả năm). Số ngày mưa phân bố không đều, trong các tháng cao
điểm trung bình mỗi tháng có 17 - 18 ngày mưa, thường có kèm theo bão, gây lũ lụt
làm ngập úng, ảnh hưởng đến bố trí thời vụ và bố trí sản xuất nông nghiệp. Về mùa
gió Tây Nam khô nóng, độ ẩm không khí thường xuyên dưới 50%, có khi xuống
dưới 40%. Đây là một trong những nguyên nhân làm hao hụt nguồn nước, gây khô
hạn và dễ gây cháy rừng. Mùa bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 11, các
cơn bão đổ bộ vào đất liền Quảng Trị nói chung và Hải Lăng nói riêng thường là
các cơn bão số 7, 8, 9 và 10. Năm nhiều nhất có bốn cơn bão, năm ít nhất không có
cơn bão nào để bộ, trong những năm gần đây số lượng bão và mức độ tàn phá giảm
hẳn so với trước kia. Bão thường kèm theo mưa to kết hợp triều cường trên diện
39
rộng làm thiệt hại đến cơ sở vật chất kỹ thuật và mùa màng.
* Đất đai:
Hải Lăng có 42479,65 ha diện tích đất tự nhiên. Có 11 nhóm đất, bao gồm:
Nhóm đất cồn cát biển có 6.641 ha; Nhóm đất cát biển (loại đất C) 4.840 ha; Nhóm
đất phù sa được bồi và phù sa ngòi suối 2.643 ha; Nhóm đất phù sa không được bồi
(Kể cả loại đất P/c và P/f) 1.193 ha; Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng và đất đỏ
vàng biến đổi do trồng lúa nước 723 ha; Nhóm đất phù sa Glây, đất thung lũng dốc
tụ, đất lầy 8.495 ha; Nhóm đất than bùn: 23 ha; Nhóm đất xám bạc màu, đất nâu
vàng trên phù sa cổ 1.502 ha; Đất nâu tím trên đá sét tím, đất đỏ vàng trên đá biến
chất và đá sét 16.049 ha; Đất vàng đỏ trên đá mác ma axít và vàng nhạt trên đá cát
3.026 ha; Đất xói mòn trơ sỏi đá 780 ha. Do đặc trưng điều kiện khí hậu nóng ẩm,
mưa nhiều, cho nên thảm thực vật, đặc biệt là rừng tự nhiên của Hải Lăng trước
chiến tranh rất phong phú, nhiều chủng loại gỗ quý và động vật cũng rất phong phú
nhưng do chiến tranh và chất độc hóa học trong chiến tranh đã hủy diệt phần lớn
rừng tự nhiên của huyện. Sau chiến tranh, nạn khai thác rừng bừa bãi đã gây hậu
quả làm giảm trữ lượng nguồn tài nguyên rừng. Số liệu thống kê diện tích đất lâm
nghiệp của huyện là 22.716,35 ha, trong đó: đất rừng sản xuất 14.590,42 ha; đất
rừng phòng hộ 8.125,93 ha. Diện tích đất rừng phòng hộ này cơ bản được bảo vệ,
khoanh nuôi ổn định và phát triển. Loài cây của rừng trồng bao gồm keo, bạch đàn,
thông, phi lao, muồng và một số cây bản địa khác.
* Tài nguyên nước mặt:
- Với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.500 - 2.700mm, sẽ cho tổng
trữ lượng nước hàng năm gần 1,3 tỷ m3.
- Sông ngòi: Trên địa bàn huyện gồm có 5 con sông chính: Hệ thống sông Ô
Lâu nằm về phía Nam của huyện, có dòng chính dài khoảng 65 km và bao quát lưu vực có diện tích 855 km2, lưu lượng dòng chảy trung bình năm khoảng 44 m3/s, mật độ dòng chảy là 0,81km/km2.
+ Sông Nhùng: Chạy từ vùng đồi núi của huyện, từ Hải Lâm chảy qua trung
tâm vùng đồng bằng, hàng năm cung cấp phù sa và nước tưới cho 1 phần diện tích
40
canh tác cho cả đồng bằng và gò đồi.
+ Sông Bến Đá: Có chiều dài ngắn, chảy từ vùng gò đồi qua địa bàn của xã
Hải Trường, hàng năm cung cấp một lượng nước đáng kể cho sản xuất.
+ Sông Vĩnh Định (Sông đào thời nhà Lê): Chảy dọc theo hướng Bắc - Nam,
qua trung tâm đồng bằng của huyện, nối liền sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu, có
chiều dài khoảng 20 km. Sông Vĩnh Định có ý nghĩa rất lớn trong việc cung cấp
nước tưới và tiêu úng về mùa lũ lụt, điều hòa lượng nước trong khu vực.
+ Nguồn nước ao, hồ: Trên địa bàn huyện có một số hồ đập quan trọng, phục
vụ cho phát triển sản xuất và đời sống dân sinh, đồng thời góp phần cải tạo môi
trường như: Đập Trấm, Khe Chanh, Miếu Bà, Thác Heo, Khe Rò, Phước Môn, Phú
Long, Khe Khế...
- Diện tích đất sông suối, mặt nước chuyên dùng là 1132,84 ha.
- Tài nguyên biển và nuôi trồng thủy sản:
+ Hải Lăng có bờ biển dài khoảng 14 km, dọc theo 2 xã Hải An và Hải Khê.
Ngư trường đánh bắt rộng và không bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của địa
phương. Vùng biển Quảng Trị nói chung và của Hải Lăng nói riêng là nơi có nhiều
loài hải sản quý và thường xuyên được bù đắp như: Các loại Tôm, Cua, cá Hồng, cá
Mú, cá Thu, cá Ngừ, Mực ống, Mực nang, ốc các loại và nhiều loại đặc sản quý
khác. Tuy nhiên, vùng biển Hải Lăng là bãi ngang (không có cửa lạch làm nơi neo
đậu tàu thuyền), do đó việc tổ chức khai thác hải sản với quy mô lớn gặp khó khăn.
+ Bên cạnh tài nguyên biển, Hải Lăng còn có 556,7 ha mặt nước nuôi trồng
thủy sản, hiện nay diện tích trên đã đưa vào sử dụng. Ngoài ra, Hải Lăng có vùng
đất cát ven biển khá rộng lớn, có thể khai thác sử dụng nuôi tôm thâm canh trên cát
theo quy trình công nghiệp.
* Tài nguyên khoáng sản:
Tài nguyên khoáng sản của Hải Lăng nghèo nàn và phần lớn thuộc nhóm
không kim loại. Theo tài liệu điều tra của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng
Trị thì hiện nay Hải Lăng có các loại khoáng sản chủ yếu sau:
- Than bùn: Trữ lượng không lớn, nhiệt lượng có thể đạt tới 3.500 kcal/kg,
41
dùng làm chất đốt và sản xuất phân bón; phân bố Khe Chè, trằm Hải Thọ (thị trấn
Diên Sanh), Hải Hưng và Hải Quế...
- Silicát: Phân bố dọc bờ biển phía đông của huyện, độ hạt mịn 0,5 - 1mm,
thành phần Si02 từ 99,16 - 99,55% chất lượng tốt và trữ lượng khá lớn.
- Titan: Phân bố dọc các vùng cát ven biển, tập trung chủ yếu là Hải Khê,
Hải Dương.
- Các loại khoáng sản khác: Đất sét phân bố dọc hai bên bờ sông Nhùng, nhất là ở Hải Thượng, trữ lượng 3.157.900m3, hiện nay đang được quy hoạch khai thác
sản xuất gạch, ngói cho Nhà máy gạch ngói công suất 20.000 viên/năm. Riêng đất
sét ở Hải Chánh đã khai thác với quy mô khá lớn phục vụ cho Nhà máy gạch
Tuynen. Ngoài ra còn một số khoáng sản khác như cuội, sỏi, cát xây dựng, phân bố rải
rác ở nhiều nơi trong huyện, trong đó tập trung nhiều ở dọc theo các con sông lớn.
- Đất sét trắng có ở Hải Phú, Hải Thượng.
Tóm lại: Với đặc điểm vị trí địa lý như vậy, Hải Lăng có lợi thế trong việc
phát triển các mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội với các vùng trong tỉnh
và trong khu vực. Mặt khác có nhiều thuận lợi để khai thác tiềm năng đất đai, tài
nguyên và trí lực của huyện trong chiến lược thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Về tình hình kinh tế - xã hội huyện Hải Lăng
Trong những năm qua, trong bối cảnh đan xen giữa khó khăn và thuận lợi,
Hải Lăng đã có nhiều nổ lực phấn đấu trong phát triển kinh tế - xã hội và đạt được
những thành tựu quan trọng. Kinh tế tiếp tục phát triển, các ngành sản xuất đều tăng
trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế
hoạch đề ra:
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2015-2020 đạt 12,05%
(NQ: 13-14%). Thu nhập bình quân đầu người: 58,7 triệu đồng, tăng gần gấp 2 lần
so với đầu nhiệm kỳ (NQ: 54-55 triệu đồng). Tổng thu NSNN trên địa bàn 5 năm
đạt 335 tỷ đồng, tăng 10,3%, tốc độ tăng bình quân hàng năm 18,5% (NQ: 14-15%).
Thu nội địa tăng liên tục qua các năm, từ 50,8 tỷ đồng năm 2015 lên 98 tỷ đồng
42
năm 2020.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: nông-lâm-ngư: 26,46%, giảm 9,74%
(NQ: 26-27%); CN-TTCN-XD: 37,65%, tăng 6,25% (NQ: 37-38%); thương mại-
dịch vụ: 35,89%, tăng 3,49% (NQ: 35-36%).
- Sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp phát triển theo chiều sâu, bền vững và đạt
nhiều kết quả quan trọng cả về quy mô, năng suất, giá trị sản phẩm. Tốc độ tăng
trưởng đạt 5,06%/năm (NQ: 5,5-6%/năm). Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với
xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, theo hướng sản xuất nông nghiệp an toàn,
sản phẩm sạch, hữu cơ, liên doanh, liên kết, nâng cao giá trị sản phẩm trên đơn vị
diện tích. Tập trung chỉ đạo việc dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, thành lập tổ
hợp tác, nhóm hộ thuê đất để xây dựng cánh đồng lớn, sản xuất lúa chất lượng cao,
lúa đặc sản, lúa hữu cơ. Năng suất lúa bình quân giai đoạn 2015-2020 đạt trên 60
tạ/ha, tăng 5 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 8,3 vạn tấn/năm, tăng 0,44
vạn tấn (NQ: 7,9-8 vạn tấn). Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, có nhiều mô hình mới, cách làm hay
với sự hưởng ứng tích cực, hiệu quả của các tầng lớp nhân dân. Bình quân toàn
huyện đạt 18,47 tiêu chí/xã; có 01 xã đạt NTM kiểu mẫu, 12/19 xã đạt chuẩn NTM,
chiếm 63,2% (NQ: 8-10 xã đạt chuẩn NTM). Trong 5 năm, huy động hơn 1.486,67
tỷ đồng đầu tư xây dựng nông thôn mới.
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng phát triển mạnh, giá trị sản
xuất đạt 3.655 tỷ đồng, tăng 2.095 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn
2015-2020 đạt 14,7%/năm, tỷ trọng chiếm 38,42% (NQ: 37-38%). Thu hút thêm 17
dự án đầu tư vào địa bàn, với tổng số vốn đăng ký 1.055 tỷ đồng; trong đó, có thêm
12 dự án đầu tư vào 03 cụm công nghiệp (Diên Sanh, Hải Thượng, Hải Chánh), đưa
tổng số dự án trong các cụm công nghiệp đến nay là 23 dự án (có 14 dự án đang
hoạt động với tổng số vốn 898 tỷ đồng), giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn
2.500 lao động. Tỷ lệ lấp đầy 3 cụm công nghiệp được nâng lên.
- Thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng 15,59%/năm,
chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế: 36,89% (NQ: 35-36%). Xã hội hóa đầu tư
43
xây dựng mới 06 chợ nông thôn, nâng tổng số lên 14 chợ, hình thành 02 điểm
TMDV theo quy hoạch NTM. Toàn huyện có 4.446 cơ sở hoạt động TM-DV, thu
hút 6.402 lao động (tăng 454 cơ sở, 443 lao động).
- Công tác quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường,
phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường. Tỷ lệ hộ sử
dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh đạt 100%, tăng 2,5% (NQ: 100%); tỷ lệ hộ gia
đình có hố xí tự hoại, bán tự hoại 97%, tăng 12,8% (NQ: 95%). Lập dự án đầu tư
xây dựng khu xử lý nước thải cụm công nghiệp Diên Sanh. Thu hút dự án Nhà máy
chế biến rác thải với tổng mức đầu tư 270 tỷ đồng. Công tác thu gom, xử lý rác thải
sinh hoạt được quan tâm (đạt tỷ lệ 90,08%), 100% thôn có bãi rác trung chuyển,
92% hộ gia đình thu gom rác thải; tổ thu gom rác thải hoạt động khá tích cực, môi
trường cơ bản được đảm bảo.
- Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển vững chắc, chất lượng nguồn nhân
lực được nâng cao. Mạng lưới trường học sắp xếp theo hướng tinh gọn, hợp lý; thực
hiện sáp nhập 21 trường TH, 19 trường THCS thành 19 trường TH&THCS; sáp
nhập trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm vào trường THPT Bùi Dục Tài; sáp nhập 3
trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, Giáo dục thường xuyên, Dạy nghề tổng
hợp thành Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên; qua đó, đã
giảm từ 67 đơn vị giảm còn 43 đơn vị. Công tác hướng nghiệp, dạy nghề và phân
luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT được chú trọng. Tích cực thực hiện
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
65%, tăng 21% (NQ: 65-70%), trong đó lao động có bằng cấp, chứng chỉ là 39%,
tăng 11% (NQ trên 38%). Sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao được quan
tâm, phát triển.
- Công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, các chính sách an sinh
xã hội thường xuyên quan tâm. Hằng năm, tạo việc làm mới cho 1.100 lao động
(NQ 1.000-1.200); xuất khẩu hơn 200 lao động/năm (NQ: 70 lao động/năm). Tỷ lệ
hộ nghèo giảm bình quân hàng năm 1,57% (NQ: 2-2,5%), hiện còn 4,49%. Tích cực
vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa và các nguồn tài trợ khác để xây dựng, sửa chữa
44
516 nhà, tổng kinh phí 14,843 tỷ đồng. Hoạt động tín dụng, ngân hàng phát huy
hiệu quả. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn tích cực huy động vốn,
đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, góp phần tích cực vào việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Tổng dư nợ đạt trên 1.560 tỷ đồng,
tăng trưởng bình quân hàng năm 16,78%, trong đó, cơ cấu cho vay sản xuất kinh
doanh 56,35%.
- Chất lượng chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, công tác dân số- kế hoạch hóa
gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm. Số bác sĩ/1 vạn dân đạt 5,2 bác
sĩ, tăng 1,9 bác sĩ (NQ: 4,5 bác sĩ); số giường bệnh/1 vạn dân đạt 12,7 giường, tăng
3,4 giường (NQ: 13 giường); nhiều chỉ tiêu về y tế, chăm sóc sức khỏe đạt và vượt
mục tiêu Đại hội nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra.
- Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo đảm trật tự an toàn xã
hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, với tình hình phát triển kinh tế - xã hội tương đối ổn định, gắn với
tiềm năng, động lực và là trung tâm của Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị (Quyết
định số 42/2015/QĐ-TTg ngày ngày 16/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ), Hải
Lăng đang trở thành đầu tàu, trung tâm phát triển của tỉnh Quảng Trị. Do đó, công
tác sắp xếp đơn vị hành chính xã, thị trấn đảm bảo tiêu chuẩn quy định và ổn định tổ
chức bộ máy các cấp là nhiệm vụ chính trị quan trọng trong việc phát triển kinh tế,
xã hội cũng như đảm bảo quốc phòng an ninh tại địa phương.
2.2. Thực trạng đơn vị hành chính cấp xã huyện Hải Lăng
* Đơn vị hành chính cấp xã trước khi sáp nhập
Huyện Hải Lăng có danh xưng từ lâu, trong quá trình chuyển đổi từ phủ
(trước năm 1945), huyện (1945-1954), quận (1954-1975 dưới chính quyền Sài
Gòn), huyện Hải Lăng (1975-1977) sáp nhập với Triệu Phong thành huyện Triệu
Hải (1977-1990), từ 1990 đến nay là huyện Hải Lăng theo quyết định số 91-HĐBT
ngày 23 tháng 3 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ Việt Nam).
Tính đến ngày 31/12/2019, huyện Hải Lăng gồm có 20 đơn vị hành chính
cấp xã (19 xã và 01 thị trấn); trong đó, 12 đơn vị hành chính loại II và 8 đơn vị hành
45
chính loại III; toàn huyện có 71 thôn, khóm.
- Về quy mô dân số: Tính đến ngày 31/12/2019, dân số huyện Hải Lăng là
81.832 người; là một huyện thuần nông, tốc độ đô thị hóa diễn ra còn chậm, dân số
thành thị có 3.150 người, chiếm 3,84% và dân số nông thôn có 78.682 người, chiếm
96,16%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,84%. Hầu hết là người dân trên địa bàn
huyện là người dân tộc Kinh và một số rất ít người do lấy vợ, chồng là người dân
tộc Thái, Mông, Mường, Khơ Mú, Vân Kiều, Hoa nên chuyển đến sinh sống tại địa
phương. Có 3 tôn giáo đang hoạt động, đó là Phật giáo, Công giáo, Tin lành với
20.798 tín đồ.
Bảng 2.1. Số liệu về quy mô dân số các xã, thị trấn thuộc huyện Hải Lăng
Quy mô dân số (thời điểm 31/12/2018) TT Đơn vị
1 Thị trấn Hải Lăng 2 Xã Hải Thọ 3 Xã Hải An 4 Xã Hải Khê 5 Xã Hải Thiện 6 Xã Hải Thành 7 Xã Hải Hòa 8 Xã Hải Tân Xã Hải Xuân 9 10 Xã Hải Quy 11 Xã Hải Vĩnh 12 Xã Hải Quế 13 Xã Hải Lâm 14 Xã Hải Ba 15 Xã Hải Phú 16 Xã Hải Thượng 17 Xã Hải Dương 18 Xã Hải Trường 19 Xã Hải Sơn 20 Xã Hải Chánh Tổng cộng Số liệu Công an huyện cung cấp 3856 7790 6025 3964 4066 2139 5593 5428 5046 5086 5487 4248 4616 6771 5306 5362 6057 6938 5417 8675 107870 Số liệu Cục Thống kê cung cấp 3150 5354 4123 2643 3008 1904 3871 3990 3988 4302 4054 3285 3786 4980 4407 4963 4050 5173 4308 6493 81832 (Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2019)
Qua bảng số liệu cho thấy, quy mô dân số của các xã, thị trấn thuộc huyện
46
Hải Lăng do Công an huyện Hải Lăng và Cục Thống kê Quảng Trị cung cấp có sự
chênh lệch tương đối lớn. Số liệu do Cục Thống kê cung cấp là tổng dân số bao
gồm số nhân khẩu thực tế thường trú. Một người được coi là nhân khẩu thực tế
thường trú tại hộ, nếu người đó thực tế vẫn thường xuyên ăn ở tại hộ tính đến thời
điểm điều tra đã được 6 tháng trở lên; hoặc mới chuyển đến ở ổn định tại hộ, không
phân biệt đã hay chưa được đăng ký hộ khẩu thường trú; một số nhân khẩu đi làm
ăn xa hoặc học sinh, sinh viên đi học ngoài địa bàn tỉnh thì không được thống kê.
Mặt khác, số liệu dân số Công an huyện Hải Lăng cung cấp là số liệu nhân khẩu
thực tế có tên đang quản lý tại sổ hộ khẩu của từng địa phương. Do đó, một số xã có
mức chênh lệch dân số lớn như: Xã Hải Thọ: 2436 người; xã Hải Chánh: 2182
người; xã Hải Dương: 2007 người.
- Về diện tích tự nhiên: Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 42479,65 ha;
trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp 11879,8 ha; đất nuôi trồng thủy sản 565,71 ha;
đất lâm nghiệp 23012,06 ha; đất nông nghiệp khác 30,34 ha; đất phi nông nghiệp
5401,73 ha; đất chưa sử dụng 1590,01 ha. Qua bảng số liệu cho thấy, một số đơn vị
hành chính cấp xã có tỷ lệ diện tích tự nhiên nhỏ gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn
quy định, đó là Thị trấn Hải Lăng 19,35%, xã Hải Thành 19,66%, Hải Quy 23,1%,
Hải Tân 25,79%; trong khi đó, một số đơn vị hành chính có tỷ lệ diện tích lớn so
với quy định như Hải Lâm 275,71%, Hải Sơn 189,4%, Hải Trường 148,9%.
47
Bảng 2.2. Số liệu về diện tích tự nhiên các xã, thị trấn thuộc huyện Hải Lăng
TT Đơn vị Diện tích (ha)
1 Thị trấn Hải Lăng 270,9
2 Xã Hải Thọ 2189,4
3 Xã Hải An 1119,57
4 Xã Hải Khê 842,31
5 Xã Hải Thiện 1279,75
6 Xã Hải Thành 589,83
7 Xã Hải Hòa 1183,23
8 Xã Hải Tân 773,84
9 Xã Hải Xuân 831,59
10 Xã Hải Quy 692,89
11 Xã Hải Vĩnh 1087,35
12 Xã Hải Quế 1502,1
13 Xã Hải Lâm 8271,42
14 Xã Hải Ba 2271,72
15 Xã Hải Phú 1738,49
16 Xã Hải Thượng 1679,74
17 Xã Hải Dương 2410,76
18 Xã Hải Trường 4466,86
19 Xã Hải Sơn 5682,02
20 Xã Hải Chánh 3595,88
Tổng cộng 42479,65
(Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2019)
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành
chính và Công văn số 219/SNV-XDCQ ngày 16/4/2019 của Sở Nội vụ tỉnh Quảng
Trị về việc sử dụng nguồn số liệu quy mô dân số do Cục Thống kê Quảng Trị cung
cấp để thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính; huyện Hải Lăng gồm có:
48
- Có 08 đơn vị hành chính cấp xã có 02 tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên và
quy mô dân số đạt từ 50% quy định trở lên, gồm: Hải Chánh, Hải Sơn, Hải Trường,
Hải Phú, Hải Thượng, Hải Ba, Hải Dương, Hải Thọ.
- Có 05 đơn vị hành chính cấp xã có 01 tiêu chuẩn đạt từ 50% trở lên và 01
tiêu chuẩn chưa đạt 50% quy định, trong đó:
+ 03 đơn vị hành chính chưa đạt 50% tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, gồm:
Hải An, Hải Quy, Hải Vĩnh.
+ 02 đơn vị hành chính chưa đạt 50% tiêu chuẩn về quy mô dân số, gồm: Hải
Lâm, Hải Quế.
- Có 07 đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn về diện tích tự
nhiên và quy mô dân số, gồm: Hải Tân, Hải Hòa, Hải Thiện, Hải Thành, Hải Xuân,
Hải Khê, Thị trấn Hải Lăng.
* Đơn vị hành chính cấp xã thuộc diện sáp nhập (chưa đạt 50% quy
định về diện tích tự nhiên và quy mô dân số):
Xã Hải Thiện:
Hải Thiện là đơn vị loại III, thuộc khu vực đồng bằng; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 12,8 km2, đạt tỷ lệ 42,66%
- Dân số trung bình: 3.008 người, đạt tỷ lệ 37,6%; trong đó:
+ Dân số là người dân tộc: Không
+ Dân số theo tôn giáo: 174 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Thành, Hải Quế, Hải Ba;
+ Phía Tây giáp xã Hải Vĩnh, Hải Thọ;
+ Phía Nam giáp xã Hải Thành;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Vĩnh.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 19 người, gồm 9 cán bộ, 10 công chức; thiếu 01 chức danh PCT HĐND xã.
49
Trình độ chuyên môn: Đại học 16 người, Cao đẳng 02 người, Trung cấp 01 người.
Lý luận chính trị: Trung cấp 16 người, Sơ cấp 03 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 15 người; trong đó,
13 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 41 người; trong đó,
12 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 29 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 24 người
Xã Hải Thành:
Hải Thành là đơn vị loại III, thuộc khu vực đồng bằng; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 5,9 km2, đạt tỷ lệ 19,66%
- Dân số trung bình: 1.904 người, đạt tỷ lệ 23,8%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: Không
+ Dân số theo tôn giáo: 380 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Dương;
+ Phía Tây xã Hải Thiện, Hải Thọ;
+ Phía Nam giáp xã Hải Hòa;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Quế.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 17 người, gồm 7 cán bộ, 10 công chức; thiếu 03 chức danh cán bộ (Phó Bí thư
Đảng ủy, PCT UBND, Bí thư Xã đoàn). Trình độ chuyên môn: Đại học 8 người,
Trung cấp 9 người. Lý luận chính trị: Trung cấp 15 người, Sơ cấp 02 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 14 người; trong đó,
12 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
50
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 31 người, trong đó,
11 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 20 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 22 người.
Xã Hải Tân:
Hải Tân là đơn vị loại II, thuộc khu vực đồng bằng; đối chiếu với tiêu chuẩn quy
định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 7,74 km2, đạt tỷ lệ 25,79%
- Dân số trung bình: 3.990 người, đạt tỷ lệ 49,88%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: Không
+ Dân số theo tôn giáo: 1780 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Hòa và xã Phong Hòa (huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên - Huế)
+ Phía Tây xã Hải Sơn, Hải Trường
+ Phía Nam giáp xã Phong Hòa (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế)
+ Phía Bắc giáp xã Hải Thọ, Hải Hòa.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 23 người; trong đó, số lượng hiện
có là 20 người, gồm 10 cán bộ, 10 công chức; thiếu 01 công chức VH-XH. Trình độ
chuyên môn: Thạc sỹ 01 người, Đại học 16 người, Cao đẳng 01 người, Trung cấp
02 người. Lý luận chính trị: Trung cấp 14 người, Sơ cấp 06 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 15 người, trong đó,
13 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 50 người, trong đó,
51
13 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 37 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 25 người.
Xã Hải Hòa:
Hải Hòa là đơn vị loại III, thuộc khu vực đồng bằng; đối chiếu với tiêu chuẩn
quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 11,83 km2, đạt tỷ lệ 39,44%
- Dân số trung bình: 3.871 người, đạt tỷ lệ 48,39%; trong đó:
+ Dân số là người dân tộc: 3 người, gồm: Hà Phương Anh, bà Hoàng Thị Vui
(dân tộc Thái); Hoàng Thị Đào (dân tộc Mông).
+ Dân số theo tôn giáo: 1296 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Dương;
+ Phía Tây xã Hải Tân;
+ Phía Nam giáp xã Phong Bình, tỉnh Thừa Thiên Huế;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Thành.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 19 người, gồm 10 cán bộ, 9 công chức. Trình độ chuyên môn: Đại học 15
người, Cao đẳng 01 người, Trung cấp 03 người. Lý luận chính trị: Cao cấp 02
người, Trung cấp 13 người, Sơ cấp 04 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 15 người, trong đó,
13 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 70 người, trong đó,
16 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 54 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 24 người.
52
Xã Hải Xuân:
Hải Xuân là đơn vị loại III, thuộc khu vực đồng bằng; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 8,32 km2, đạt tỷ lệ 27,72%
- Dân số trung bình: 3.988 người, đạt tỷ lệ 49,85%; trong đó:
+ Dân số là người dân tộc: 01 người (Ven Thị Mùi, dân tộc Khơ Mú)
+ Dân số theo tôn giáo: 2637 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Vĩnh;
+ Phía Tây xã Hải Quy;
+ Phía Nam giáp xã Hải Vĩnh, Hải Thượng;
+ Phía Bắc giáp xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 19 người, gồm 9 cán bộ, 10 công chức; thiếu 01 PCT UBND xã. Trình độ
chuyên môn: Thạc sỹ 01 người, Đại học 14 người, Cao đẳng 01 người, Trung cấp
03 người. Lý luận chính trị: Trung cấp 14 người, Sơ cấp 05 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 17 người, trong đó,
15 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 58 người, trong đó,
17 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 41 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 25 người.
Xã Hải Khê:
Hải Khê là đơn vị loại III, thuộc khu vực vùng biển bãi ngang; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 8,42 km2, đạt tỷ lệ 28,08%
53
- Dân số trung bình: 2.643 người, đạt tỷ lệ 33,04%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: 08 người, gồm: Hồ Thị Chuyền (dân tộc Vân Kiều); Đinh
Thị Tươi (dân tộc Mường); Y Gúi, Trần Thị Anh Thư, Trần Đức Toàn (dân tộc Rơ
Ngao); Cao Thị Vân (dân tộc Ralay); Xin Ngọc Linh, Xin Ngọc Mỹ (dân tộc Hoa).
+ Dân số theo tôn giáo: 418 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp biển Đông;
+ Phía Tây xã Hải Dương, Hải Quế;
+ Phía Nam giáp xã Điền Hương, huyện Phong Điền, tỉnh TT-Huế;
+ Phía Bắc giáp xã Hải An.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 19 người, gồm 10 cán bộ, 9 công chức; thiếu 01 công chức VH-XH. Trình độ
chuyên môn: Đại học 16 người, Trung cấp 03 người. Lý luận chính trị: Trung cấp
17 người, Sơ cấp 02 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 16 người; trong đó,
14 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 21 người; trong đó, 9
người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của UBND
tỉnh Quảng Trị và 12 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 21 người.
Thị trấn Hải Lăng:
Thị trấn Hải Lăng là đơn vị loại III, thuộc khu vực đô thị; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 2,71 km2, đạt tỷ lệ 19,35%
- Dân số trung bình: 3.150 người, đạt tỷ lệ 39,38%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: Không
54
+ Dân số theo tôn giáo: 267 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Thọ;
+ Phía Tây xã Hải Lâm;
+ Phía Nam giáp xã Hải Thọ;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Lâm.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 21 người; trong đó, số lượng hiện
có là 15 người, gồm 8 cán bộ, 7 công chức; thiếu 02 chức danh cán bộ (Bí thư Đảng
ủy, Chủ tịch UBMT TQVN), 02 công chức ĐC-XD-MT&ĐT. Trình độ chuyên
môn: Đại học 11 người, Trung cấp 02 người. Lý luận chính trị: Trung cấp 17 người,
Sơ cấp 02 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thị trấn 16 người; trong
đó, 15 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 01
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở khóm 72 người; trong đó,
11 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 61 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 24 người.
* Đơn vị hành chính cấp xã liên quan đến việc sáp nhập:
Xã Hải Thọ:
Hải Thọ là đơn vị loại II, thuộc khu vực vùng biển bãi ngang; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 21,89 km2, đạt tỷ lệ 72,98%
- Dân số trung bình: 5.354 người, đạt tỷ lệ 66,93%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: 9 người
+ Dân số theo tôn giáo: 1125 người
- Về vị trí địa lý:
55
+ Phía Đông giáp xã Hải Thành, Hải Hòa;
+ Phía Tây xã Hải Lâm;
+ Phía Nam giáp xã Hải Trường;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Thiện, Hải Thượng.
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 23 người; trong đó, số lượng hiện
có là 22 người, gồm 10 cán bộ, 12 công chức. Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ 01
người, Đại học 18 người, Trung cấp 03 người. Lý luận chính trị: Trung cấp 16
người, Sơ cấp 06 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 16 người; trong đó,
14 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 52 người; trong đó,
20 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 32 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 24 người.
Xã Hải Vĩnh:
Hải Vĩnh là đơn vị loại II, thuộc khu vực vùng biển bãi ngang; đối chiếu với tiêu
chuẩn quy định về đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13:
- Diện tích tự nhiên: 10,87 km2, đạt tỷ lệ 36,25%
- Dân số trung bình: 4.054 người,, đạt tỷ lệ 50,68%; trong đó:
+ Dân số là dân tộc: Không
+ Dân số theo tôn giáo: 385 người
- Về vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp xã Hải Ba, Hải Thiện;
+ Phía Tây xã Hải Xuân;
+ Phía Nam giáp xã Hải Thiện, Hải Thọ;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Ba và xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.
56
- Về tổ chức bộ máy:
+ Số lượng cán bộ, công chức được giao là 23 người; trong đó, số lượng hiện
có là 20 người, gồm 9 cán bộ, 11 công chức; thiếu 01 Bí thư Đảng ủy, 01 công chức
Văn phòng - Thống kê. Trình độ chuyên môn: Đại học 15 người, Cao đẳng 01
người, Trung cấp 04 người. Lý luận chính trị: Cao cấp 01 người, Trung cấp 16
người, Sơ cấp 03 người.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã 17 người; trong đó,
15 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 và 02
người bố trí theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 01/8/2017 của UBND
tỉnh Quảng Trị.
+ Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn 63 người; trong đó,
20 người bố trí theo Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 11/02/2014 của
UBND tỉnh Quảng Trị và 43 người hoạt động không chuyên trách khác.
+ Số lượng đại biểu HĐND: 21 người.
2.3. Công tác sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện Hải Lăng
2.3.1. Sự cần thiết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Thực hiện các nghị quyết, kế hoạch của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của
hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cải cách tiền lương: Kết luận số 64-
KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”; Nghị
quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Kế hoạch số 56-KH/TU của Tỉnh ủy
Quảng Trị ngày 17/12/2013 thực hiện Kết luận số 64-KL/TW, việc sắp xếp tổ chức
bộ máy và chia, tách đơn vị hành chính đã đạt được một số kết quả tích cực, thúc
đẩy sự phát triển về kinh tế - xã hội... Tuy nhiên, có một số bất cập và hạn chế như
bộ máy các cơ quan nhà nước ngày càng cồng kềnh, tăng biên chế cán bộ, công
chức, viên chức. Chi ngân sách nhà nước tăng, do tăng biên chế và quỹ tiền lương
xây dựng trụ sở, mua sắm mới trang thiết bị làm việc, tăng chi thường xuyên. Việc
57
này cũng gây ra nhiều khó khăn trong công tác lập kế hoạch, quy hoạch dài hạn,
định hướng phát triển kinh tế - xã hội tầm vĩ mô, làm cho không gian phát triển bị
chia cắt, manh mún, phân tán các nguồn lực.
Để khắc phục tình trạng trên, xây dựng bộ máy tinh gọn, nâng cao chất lượng
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy KT-XH phát triển, giữ vững QP-AN, xây
dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Vì vậy, Trung ương Đảng ban hành
Nghị quyết số 18-NQ/TW về sáp nhập bộ máy chính trị trong hệ thống chính trị các
cấp; Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 về việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp
huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019-2021. Đối chiếu với tiêu chuẩn quy định tại
Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì các đơn
vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên và quy mô dân
số phải thực hiện sắp xếp và các xã có liên quan đến việc sắp xếp đơn vị hành chính
của huyện Hải Lăng trong giai đoạn 2019-2021 gồm các xã, thị trấn sau:
- Thị trấn Hải Lăng có diện tích tự nhiên là 2,71 km2 (đạt 19,36%), quy mô dân số là 3.150 người (đạt 39,38%); Xã Hải Thiện có diện tích tự nhiên là 12,8 km2
(đạt 42,67%), quy mô dân số là 3.008 người (đạt 37,6%); Xã Hải Thành có diện tích tự nhiên là 5,9 km2 (đạt 19,67%), quy mô dân số là 1.904 người (đạt 23,8%); Xã Hải Tân có diện tích tự nhiên là 7,74 km2 (đạt 25,8%), quy mô dân số là 3.990 người (đạt 49,88%); Xã Hải Hòa có diện tích tự nhiên là 11,83 km2 (đạt 39,43%), quy mô dân số là 3.871 người (đạt 48,39%); Xã Hải Xuân có diện tích tự nhiên là 8,32 km2 (đạt
27,73%), quy mô dân số là 3.988 người (đạt 49,85%); Xã Hải Khê có diện tích tự nhiên là 8,42 km2 (đạt 28,08%), quy mô dân số là 2.643 người (đạt 33,04%).
- Có 02 xã có liên quan việc sắp xếp với đơn vị hành chính: Xã Hải Thọ có diện tích tự nhiên là 21,89 km2 (đạt 72,97%), quy mô dân số là 5.354 người (đạt 66,93%); Xã Hải Vĩnh có diện tích tự nhiên là 10,87 km2 (đạt 36,23%), quy mô dân
số là 34.054 người (đạt 50,68%).
Do vậy, việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn
theo quy định về quy mô dân số, diện tích tự nhiên một yêu cầu cần thiết, qua đó
từng bước xây dựng đô thị hoá; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
58
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và
nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, góp phần phát huy mọi nguồn
lực trong đầu tư xây dựng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân
2.3.2. Tổ chức sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
2.3.2.1. Đơn vị hành chính cấp xã giữ nguyên do yếu tố đặc thù
Xã Hải Khê giáp ranh với các xã: Hải Dương, Hải Quế và Hải An, nhân dân
xã Hải Khê chủ yếu sản xuất, sinh sống bằng nghề đánh bắt thủy, hải sản; có phong
tục, tập quán sinh sống, sinh hoạt riêng, khác biệt với các xã liền kề làm nông
nghiệp nên sáp nhập với một trong các xã liền kề là không phù hợp.
Về quốc phòng, an ninh: Xã Hải Khê là xã thuộc khu vực biên giới biển theo
Nghị định số 71/2015/NĐ-CP ngày 03/9/2015 của Chính phủ, là xã trọng điểm về
quốc phòng an ninh theo Quyết định số 2981/QĐ-BQP ngày 26/7/2016 của Bộ
Quốc phòng và là xã trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự theo Quyết định số
3260/QĐ-BCA ngày 11/8/2011 và Quyết định số 3651/QĐ-BQP ngày 18/7/2018
của Bộ Công an. Nếu sáp nhập với các xã khác sẽ làm tăng địa bàn quản lý biên
giới biển không hợp lý. Mặt khác, xã Hải Khê nằm trong vùng quy hoạch Khu Kinh
tế Đông Nam Quảng Trị, một số khu vực dân cư phải thực hiện di dân tái định cư
nên trước mắt phải ổn định tổ chức bộ máy để triển khai các nhiệm vụ theo kế
hoạch của tỉnh, huyện đề ra.
2.3.2.2. Đơn vị hành chính cấp xã tổ chức sắp xếp
* Sáp nhập xã Hải Thiện và xã Hải Thành để thành lập xã Hải Định
Xã Hải Thiện tiếp giáp với xã Hải Thành, trước đây Hải Thiện và Hải Thành
là một xã (xã Hải Định), nhân dân hai xã có truyền thống đoàn kết, tương đồng về
văn hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, việc sáp nhập hai xã đáp ứng yêu cầu đảm
bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội.
Sáp nhập nguyên trạng toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã
Hải Thiện và xã Hải Thành để thành lập xã Hải Định. Sau sắp xếp, xã Hải Định
gồm có:
59
- Diện tích tự nhiên 18,7 km2.
- Quy mô dân số 4.912 người.
- Địa giới hành chính mới:
+ Phía Đông giáp xã Hải Dương;
+ Phía Tây giáp thị trấn Diên Sanh;
+ Phía Nam giáp xã Hải Phong;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Quế và xã Hải Hưng.
Xã Hải Định sau khi thành lập chưa đạt tiêu chuẩn diện tích tự nhiên và quy
mô dân số theo Nghị quyết số 1211 nhưng không thể sáp nhập thêm với xã khác,
bởi vì: Xã Hải Thiện và xã Hải Thành giáp ranh với các xã: Hải Quế, Hải Hòa, Hải
Thọ, Hải Vĩnh, Hải Ba, Hải Dương, trong đó, xã Hải Vĩnh, Hải Hòa và Hải Thọ đã
có phương án sáp nhập với đơn vị hành chính khác, còn lại xã Hải Dương, Hải Quế,
Hải Ba có khoảng cách với xã Hải Thiện và xã Hải Thành qua một cánh đồng trũng
với diện tích khá lớn, mặt khác xã Hải Dương, Hải Quế, Hải Ba nằm trong vùng
quy hoạch Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị được quy hoạch xây dựng và phát
triển để trở thành đô thị và là vùng kinh tế trọng điểm về công nghiệp, thương mại,
dịch vụ phía Đông của huyện Hải Lăng nên được xác định là một trong những địa
bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự.
* Sáp nhập xã Hải Tân và xã Hải Hòa để thành lập xã Hải Phong
Xã Hải Tân tiếp giáp với xã Hải Hòa, trước đây Hải Tân và Hải Hòa là một
xã (xã Hải Phong), nhân dân hai xã có truyền thống đoàn kết, tương đồng về văn
hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, việc sáp nhập hai xã đáp ứng yêu cầu đảm bảo
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội.
Sáp nhập nguyên trạng toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Hải
Tân và xã Hải Hòa để thành lập xã Hải Phong. Sau sắp xếp, xã Hải Phong gồm có:
- Diện tích tự nhiên 19,57 km2.
- Quy mô dân số 7.861 người.
- Địa giới hành chính mới:
+ Phía Đông giáp xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh TT-Huế;
60
+ Phía Tây giáp xã Hải Trường và thị trấn Diên Sanh;
+ Phía Nam giáp xã Hải Sơn;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Dương và xã Hải Định.
Xã Hải Phong sau khi thành lập chưa đạt tiêu chuẩn diện tích tự nhiên và quy
mô dân số theo Nghị quyết số 1211 nhưng không thể sáp nhập thêm với xã khác,
bởi vì: Xã Hải Hòa giáp ranh với các xã Hải Tân, Hải Dương, Hải Thành, Hải Thọ;
xã Hải Tân giáp ranh với xã Hải Hòa, Hải Thọ, Hải Trường, Hải Sơn. Trong đó xã
Hải Thành, xã Hải Thọ đã có phương án sáp nhập với đơn vị hành chính khác, còn
lại xã Hải Dương, Hải Trường, Hải Sơn có diện tích lớn và địa bàn rộng, nếu sáp
nhập xã Hải Hòa, xã Hải Tân với một trong các xã Hải Sơn, Hải Trường, Hải
Dương thì đơn vị hành chính vượt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số
nhưng địa bàn quá rộng, địa hình phức tạp, khó khăn cho công tác quản lý, do đó
không thể sáp nhập thêm.
* Sáp nhập xã Hải Xuân và xã Hải Vĩnh để thành lập xã Hải Hưng
Xã Hải Xuân tiếp giáp với xã Hải Vĩnh, trước đây Hải Xuân và Hải Vĩnh là
một xã (xã Hải Hưng), nhân dân hai xã có truyền thống đoàn kết, tương đồng về
văn hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, việc sáp nhập hai xã đáp ứng yêu cầu đảm
bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội.
Sáp nhập nguyên trạng toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Hải
Xuân và xã Hải Vĩnh để thành lập xã Hải Hưng. Sau sắp xếp, xã Hải Hưng gồm có:
- Diện tích tự nhiên 19,19 km2.
- Quy mô dân số 8.042 người.
- Địa giới hành chính mới:
+ Phía Đông giáp xã Hải Ba;
+ Phía Tây giáp xã Hải Quy;
+ Phía Bắc giáp xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị;
+ Phía Nam giáp xã Hải Định và thị trấn Diên Sanh.
Xã Hải Hưng sau khi thành lập đạt tiêu chuẩn quy mô dân số, chưa đạt tiêu
chuẩn quy mô diện tích theo Nghị quyết số 1211 nhưng không thể sáp nhập thêm
61
với xã liền kề, bởi vì: Xã Hải Xuân giáp ranh với xã Hải Vĩnh, Hải Quy, Hải
Thượng, trong đó, xã Hải Quy được UBND tỉnh, Sở Nội vụ tỉnh đưa vào quy hoạch
để mở rộng thị xã Quảng Trị, còn lại xã Hải Thượng địa bàn quá rộng, nếu sáp nhập
thêm xã Hải Thượng thì đơn vị hành chính mới có địa bàn quá rộng, khó khăn cho
công tác quản lý. Mặt khác, do yếu tố lịch sử truyền thống làng xóm, nếu sáp nhập
sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
* Sáp nhập thị trấn Hải Lăng và xã Hải Thọ để thành lập thị trấn Diên Sanh
Thị trấn Hải Lăng giáp ranh với xã Hải Thọ và Hải Lâm, trong đó, xã Hải
Thọ có địa bàn thuận lợi, kinh tế thương mại dịch vụ và các làng nghề truyền thống
phát triển khá phong phú, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, do đó sáp nhập thị
trấn Hải Lăng với xã Hải Thọ thành thị trấn mới sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn đô thị
loại V, đồng thời phù hợp với quy hoạch, mở rộng địa giới hành chính thị trấn Hải
Lăng theo quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
theo Quyết định số 1509/QĐ-UBND ngày 26/8/2013 của UBND tỉnh Quảng Trị.
Sáp nhập nguyên trạng toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của thị
trấn Hải Lăng và xã Hải Thọ để thành lập thị trấn Diên Sanh. Sau sắp xếp, thị trấn
Diên Sanh gồm có:
- Diện tích tự nhiên 24,6 km2.
- Quy mô dân số 8.504 người.
- Địa giới hành chính mới:
+ Phía Đông giáp xã Hải Phong;
+ Phía Tây giáp xã Hải Lâm;
+ Phía Nam giáp xã Hải Trường;
+ Phía Bắc giáp xã Hải Định và xã Hải Hưng.
Thị trấn Diên Sanh sau khi thành lập đạt tiêu chuẩn diện tích tự nhiên, quy
mô dân số theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH và phù hợp với phương án quy
hoạch, mở rộng địa giới hành chính thị trấn Hải Lăng.
62
* Kết quả lấy ý kiến cử tri và biểu quyết HĐND xã, thị trấn, huyện về
phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Để triển khai việc lấy ý kiến cử tri và trình HĐND cùng cấp thông qua
phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trong giai đoạn 2019-2021, UBND
huyện Hải Lăng ban hành Công văn số 615/UBND-NV ngày 18/7/2019 về việc lập,
niêm yết danh sách cử tri để lấy ý kiến về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp
xã theo Công văn số 444/SNV-XDCQ ngày 17/7/2019 của Sở Nội vụ tỉnh Quảng
Trị và Công văn số 706/UBND-NV ngày 14/8/2019 về việc tổ chức lấy ý kiến cử tri
về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã; trong đó, chỉ đạo các xã, thị trấn
sáp nhập tổ chức họp Đảng bộ mở rộng mời Mặt trận và các đoàn thể cấp xã, thôn,
khóm; họp nhân dân theo khu vực để quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước về
sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, thành lập Ban chỉ đạo xã, thị trấn và Tổ lấy ý
kiến về phương án sáp nhập.
Từ ngày 15/8/2019 đến ngày 22/8/2019, sau hội nghị cử tri, các xã, thị trấn
đã thành lập các tổ đi đến từng hộ gia đình phát phiếu lấy ý kiến để cử tri tham gia ý
kiến. Quá trình lấy ý kiến cử tri về phương án sáp nhập xã, thị trấn được Đảng ủy,
UBND các xã, thị trấn triển khai thực hiện nghiêm túc, đảm bảo công khai, dân chủ,
đúng tiến độ và theo quy định tại Nghị định số 54/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 của
Chính phủ hướng dẫn việc lấy ý kiến cử tri về thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính; kết quả cử tri đồng ý về phương án sáp nhập: Hải
Tân 91,8%; Hải Hòa 88,32%; Hải Thiện 97,57%; Hải Thành 71,7%; Hải Xuân
70,9%; Hải Vĩnh 91,39%; Hải Thọ 97,26%; thị trấn Hải Lăng 98,3%.
63
Bảng 2.3. Kết quả lấy ý kiến cử tri về phương án sáp nhập xã, thị trấn
Số lượng cử tri Kết quả lấy ý kiến
Số cử Tổng Số cử Xã, thị Số cử tri TT số cử tri trấn tri lấy Tỷ lệ Tỷ lệ không Tỷ lệ tri trên đồng ý kiến đồng địa bàn ý ý
1 Hải Tân 4.166 4.012 96,3% 3.828 91,8% 184 4,42%
2 Hải Hòa 4.162 4.055 97,43% 3.676 88,32% 379 9,1%
3 Hải Thiện 2.019 2.017 99,9% 1.970 97,57% 47 2,33%
4 Hải Thành 1.659 1.414 85,2% 1.190 71,7% 215 13%
5 Hải Xuân 3.696 3.492 94,4% 2.621 70,9% 871 23,5%
6 Hải Vĩnh 4.168 3.889 93,31% 3.809 91,39% 80 1,92%
7 Hải Thọ 3.764 3.764 100% 3.661 97,26% 103 2,76%
Thị trấn 8 2.361 2.361 100% 2.320 98,3% 41 1,7% Hải Lăng
(Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2019)
Từ ngày 23/8/2019 đến ngày 25/8/2019, HĐND các xã, thị trấn đã tổ chức kỳ
họp bất thường để biểu quyết thông qua và ban hành Nghị quyết về phương án sáp
nhập đơn vị hành chính xã, thị trấn; kết quả biểu quyết của đại biểu HĐND: Hải
Tân 84%; Hải Hòa 95,8%; Hải Thiện 82,6%; Hải Thành 90,9%; Hải Xuân 84%; Hải
Vĩnh 90,4%; Hải Thọ 95,8%; thị trấn Hải Lăng 91,7%. Trên cơ sở kết quả lấy ý
kiến cử tri và biểu quyết của HĐND các xã, thị trấn, ngày 27/8/2019, HĐND huyện
Hải Lăng đã họp và tán thành phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa
bàn huyện với tỷ lệ 86,2%.
64
Bảng 2.4. Kết quả biểu quyết HĐND xã, thị trấn, huyện
về phương án sáp nhập xã, thị trấn
Kết quả biểu quyết
TT Đơn vị Tỷ lệ Tỷ lệ Tổng số đại biểu HĐND Số đại biểu không đồng ý Số đại biểu đồng ý Tỷ lệ đại biểu tham dự kỳ họp
Số lượng đại biểu HĐND Số đại biểu tham dự kỳ họp 25 21 23 19 20 21 19 23 22 29 25 24 23 22 25 21 24 24 86,2% 84% 95,8% 82,6% 90,9% 84% 90,4% 95,8% 91,7% 25 21 23 19 20 21 19 23 22 86,2% 84% 95,8% 82,6% 90,9% 84% 90,4% 95,8% 91,7% 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 I HĐND huyện II HĐND cấp xã 1 HĐND xã Hải Tân 2 HĐND xã Hải Hòa 3 HĐND xã Hải Thiện 4 HĐND xã Hải Thành 5 HĐND xã Hải Xuân 6 HĐND xã Hải Vĩnh 7 HĐND xã Hải Thọ 8 HĐND thị trấn Hải Lăng (Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2019)
Nhìn chung, quá trình chuẩn bị, tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến cử tri và tổ
chức kỳ họp HĐND của các xã, thị trấn về phương án sáp nhập đơn vị hành chính
cấp xã được thực hiện đảm bảo theo quy định.
2.4. Tổ chức, hoạt động đơn vị hành chính cấp xã mới thành lập sau sáp nhập
2.4.1. Tổ chức bộ máy của đơn vị hành chính mới sau sáp nhập
Để kịp thời triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 832/NQ-
UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn
vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Trị; ngày 07/01/2020, UBND tỉnh Quảng Trị
ban hành Kế hoạch số 74/KH-UBND triển khai thực hiện Nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã và ngày 13/01/2020, ban
hành Công văn số 159/UBND-NC về việc điều chỉnh thời gian triển khai thực hiện
sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, theo đó, các đơn vị hành chính cấp xã thực hiện
sáp nhập chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01/3/2020.
65
2.4.1.1. Phương án sắp xếp, bố trí nhân sự các xã, thị trấn sáp nhập
* Đối với cán bộ
- Cán bộ cấp xã được bố trí, sắp xếp phải đủ tiêu chuẩn để tái cử nhiệm kỳ
2020-2025 và các chức danh lãnh đạo HĐND, UBND nhiệm kỳ 2021-2026 theo
Quy định số 35-QĐ/TU ngày 10/12/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị.
Đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử thì vận động nghỉ công tác ngay
sau sắp xếp hoặc sắp xếp giữ chức vụ phù hợp để đến thời điểm tổ chức đại hội cấp
xã thì nghỉ công tác hưởng chế độ theo quy định hiện hành.
- Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có 02 người giữ chức vụ Bí
thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND của đơn vị hành chính cũ chuyển sang thì có thể
xem xét bố trí 01 người giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy và 01 người giữ chức vụ Chủ tịch
HĐND hoặc có thể xem xét bố trí chức danh tương đương ở đơn vị hành chính mới
hoặc ở đơn vị hành chính khác. Trường hợp Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND là
cán bộ, công chức huyện luân chuyển về thì có thể xem xét điều động trở lại hoặc điều
động đồng chí Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch HĐND khác lên công tác ở huyện.
- Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có 02 người trở lên giữ chức
vụ Phó Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch UBND và có 02 người trở lên giữ chức vụ Phó Bí
thư Đảng ủy của đơn vị hành chính cũ chuyển sang thì có thể xem xét bố trí tăng
thêm số lượng Phó Bí thư Đảng ủy hoặc điều động, tuyển dụng lên cán bộ, công chức
cấp huyện (nếu có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định) hoặc xem xét bố trí chức
danh tương đương ở đơn vị hành chính khác. Trường hợp Phó Bí thư Đảng ủy - Chủ
tịch UBND và Phó Bí thư Đảng ủy là cán bộ, công chức huyện luân chuyển về thì có
thể xem xét điều động trở lại. Số lượng Phó Bí thư Đảng ủy tăng thêm không vượt
quá số lượng Phó Bí thư Đảng ủy hiện có và số lượng Bí thư Đảng ủy của các Đảng
ủy trước khi sáp nhập mà không bố trí làm Bí thư Đảng ủy của Đảng ủy mới.
- Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có 02 người giữ chức vụ Phó
Chủ tịch HĐND thì có thể xem xét bố trí tăng thêm số lượng Phó Chủ tịch HĐND
nhưng không được vượt quá tổng số Phó Chủ tịch HĐND hiện có trước khi sáp
nhập hoặc xem xét thực hiện quy trình điều động, bố trí, tuyển dụng lên huyện hoặc
66
bố trí chức vụ khác tại xã mới.
- Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có 02 người giữ chức vụ Phó
Chủ tịch UBND thì có thể xem xét bố trí tăng thêm số lượng Phó Chủ tịch UBND
nhưng không được vượt quá tổng số Phó Chủ tịch UBND hiện có trước khi sáp
nhập hoặc xem xét thực hiện quy trình điều động, bố trí, tuyển dụng vào công chức
cấp xã, cấp huyện (nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn) hoặc điều động, bố trí bố trí chức
vụ tương đương tại xã khác.
- Cán bộ cấp xã là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận, Trưởng các đoàn thể chính trị -
xã hội: Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có 02 người trở lên của đơn
vị hành chính cũ chuyển sang thì xem xét bố trí 01 người giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận, Trưởng các đoàn thể chính trị - xã hội, những người còn lại nếu có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện thì có thể tuyển dụng vào công chức cấp xã, cấp huyện (nếu đủ
điều kiện, tiêu chuẩn) hoặc bố trí chức danh cán bộ khác phù hợp tại xã mới hoặc
đơn vị hành chính khác.
- Những cán bộ dôi dư không sắp xếp được, cán bộ không đảm bảo tiêu
chuẩn theo quy định thì vận động thực hiện chính sách tinh giản biên chế, thôi việc
theo quy định.
* Đối với công chức
- Các chức danh công chức: Văn phòng - Thống kê, Địa chính - Nông nghiệp
- Xây dựng và Môi trường (đối với xã) hoặc Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi
trường (đối với thị trấn), Văn hóa - Xã hội, Tư pháp - Hộ tịch, Tài chính - Kế toán:
Những đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp có số lượng công chức nhiều hơn so
với quy định thì được bố trí tăng thêm nhưng không được vượt quá số lượng hiện có
sau khi sáp nhập đơn vị hành chính hoặc điều động, bố trí ở đơn vị hành chính khác
nếu còn vị trí hoặc thực hiện chính sách tinh giản biên chế, thôi việc.
- Chức danh Trưởng Công an ở đơn vị hành chính mới thực hiện ngay việc
bố trí Công an chính quy về đơn vị hành chính mới. Trưởng Công an xã cũ dôi dư
thì bố trí vị trí cán bộ, công chức khác phù hợp nếu còn vị trí hoặc tuyển dụng vào
công chức cấp huyện hoặc thực hiện chính sách tinh giản biên chế, thôi việc.
67
- Chức danh Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự ở đơn vị hành chính mới
được bố trí 01 người theo quy định. Nếu dôi dư thì bố trí vị trí cán bộ, công chức
khác phù hợp nếu còn vị trí hoặc tuyển dụng vào công chức cấp huyện hoặc thực
hiện chính sách tinh giản biên chế, thôi việc.
- Những công chức dôi dư không sắp xếp được, không đảm bảo tiêu chuẩn
theo quy định tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Công chức đủ điều kiện về tinh giản biên
chế thì vận động thực hiện chính sách tinh giản biên chế, thội việc theo quy định.
* Đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã bố trí theo đúng số
lượng quy định tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Số người hoạt động không
chuyên trách dôi dư không bố trí được thì xem xét cho thôi việc ngay và giải quyết
các chế độ, chính sách theo quy định.
* Về thời hiệu thực hiện số lượng cán bộ, công chức
- Đối với cán bộ: Nhiệm kỳ 2015-2020 tại thời điểm sáp nhập, hợp nhất có
thể có số lượng nhiều hơn quy định nhưng tối đa không vượt quá số lượng hiện có
(trừ các trường hợp đến tuổi nghỉ hưu, nghỉ công tác hoặc chuyển công tác khác).
Nhiệm kỳ 2020-2025 thực hiện sắp xếp để có số lượng đảm bảo quy định; đối với
những địa phương khó khăn, chưa hoàn thành việc sắp xếp, bố trí cán bộ thì số
lượng có thể nhiều hơn quy định, song không vượt quá số lượng cán bộ tại thời
điểm sáp nhập. Chậm nhất là 05 năm kể từ ngày 01/01/2020 (Nghị quyết số
832/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có hiệu
lực) phải đảm bảo số lượng theo quy định.
- Đối với công chức: Chậm nhất là 05 năm kể từ ngày 01/01/2020 (Nghị quyết
số 832/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có hiệu
lực) thì số lượng công chức ở đơn vị hành chính mới phải đảm bảo theo quy định.
68
* Khung số lượng để sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức
Khung số lượng để sắp xếp, bố trí và xác định số lượng cán bộ, công chức
dôi dư của đơn vị hành chính sáp nhập được huyện Hải Lăng căn cứ theo quy định
tại Quyết định số 987/QĐ-UBND ngày 15/5/2017 của UBND tỉnh Quảng Trị về
việc giao số lượng cán bộ, công chức cho các xã, phường, thị trấn, theo đó:
- Đơn vị hành chính cấp xã loại I: Bố trí 25 cán bộ, công chức; trong đó, 12
cán bộ và 13 công chức.
- Đơn vị hành chính cấp xã loại II: Bố trí 23 cán bộ, công chức; trong đó, 11
cán bộ và 12 công chức.
- Đơn vị hành chính cấp xã loại III: Bố trí 21 cán bộ, công chức; trong đó, 11
cán bộ và 10 công chức.
2.4.1.2. Tổ chức bộ máy sau sáp nhập
- Đảng bộ xã, thị trấn mới: Việc kiện toàn Đảng bộ ở các xã, thị trấn mới và
chỉ định danh sách cấp ủy viên, Ban Thường vụ Đảng ủy và các chức danh chủ chốt
tại các đơn vị hành chính xã, thị trấn mới được thực hiện theo Điều lệ Đảng, theo đó,
Huyện ủy Hải Lăng đã thành lập Đảng bộ xã Hải Phong trên cơ sở hợp nhất Đảng bộ
xã Hải Tân và Đảng bộ xã Hải Hòa; thành lập Đảng bộ xã Hải Định trên cơ sở hợp
nhất Đảng bộ xã Hải Thiện và Đảng bộ xã Hải Thành; thành lập Đảng bộ xã Hải
Hưng trên cơ sở hợp nhất Đảng bộ xã Hải Xuân và Đảng bộ xã Hải Vĩnh; thành lập
Đảng bộ thị trấn Diên Sanh trên cơ sở hợp nhất Đảng bộ xã Hải Thọ và Đảng bộ thị
trấn Hải Lăng. Ban Thường vụ Huyện ủy Hải Lăng cũng đã chỉ định cấp ủy viên, Ban
Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã, thị trấn mới thành lập.
- Chính quyền địa phương ở xã, thị trấn mới:
+ HĐND xã, thị trấn mới: Đại biểu Hội đồng nhân dân của các xã, thị trấn cũ
được hợp thành Hội đồng nhân dân ở xã, thị trấn mới. Hội đồng nhân dân ở xã, thị
trấn mới hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ 2016-2021 theo quy định của Luật Tổ
chức chính quyền địa phương. HĐND huyện Hải Lăng đã Quyết định hợp nhất
HĐND xã Hải Thành và HĐND xã Hải Thiện thành HĐND xã Hải Định nhiệm kỳ
2016-2021, gồm 45 đại biểu; hợp nhất HĐND xã Hải Tân và HĐND xã Hải Hòa
69
thành HĐND xã Hải Phong nhiệm kỳ 2016-2021, gồm 49 đại biểu; hợp nhất HĐND
xã Hải Xuân và HĐND xã Hải Vĩnh thành HĐND xã Hải Hưng nhiệm kỳ 2016-
2021, gồm 46 đại biểu; hợp nhất HĐND xã Hải Thọ và HĐND thị trấn Hải Lăng
thành HĐND thị trấn Diên Sanh nhiệm kỳ 2016-2021, gồm 48 đại biểu. Thường
trực HĐND huyện Quyết định chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ trì kỳ họp
thứ nhất của HĐND xã, thị trấn mới, nhiệm kỳ 2016-2021.
+ UBND xã, thị trấn mới: Để kiện toàn các chức danh theo quy định, ngày
26/02/2020 và ngày 27/02/2020, HĐND xã, thị trấn mới đã tổ chức kỳ họp thứ nhất
nhiệm kỳ 2016-2021. Triệu tập viên thông báo triệu tập và chủ tọa kỳ họp thứ nhất
Hội đồng nhân dân xã, thị trấn mới cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu ra Chủ tịch
Hội đồng nhân dân theo giới thiệu của chủ tọa kỳ họp. Tại kỳ họp, Hội đồng nhân
dân bầu Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội
đồng nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu Chủ tịch Ủy
ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân; bầu Phó Chủ tịch, Ủy
viên Ủy ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:
Việc kiện toàn tổ chức, nhân sự Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và tổ chức xã hội khác theo đơn vị hành chính xã, thị trấn mới được thực
hiện theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều lệ của các tổ chức
chính trị - xã hội; hướng dẫn của Ban Thường vụ Huyện ủy Hải Lăng và các tổ chức
ban ngành, đoàn thể tỉnh Quảng Trị. Theo đó, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam huyện Hải Lăng và các đoàn thể huyện Hải Lăng đã ban hành Quyết
định thành lập các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã trên cơ sở hợp nhất các tổ chức
chính trị - xã hội thuộc các xã, thị trấn sáp nhập.
- Đơn vị sự nghiệp y tế:
Trạm Y tế xã, thị trấn có chức năng cung cấp, thực hiện các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân trên địa bàn xã. Trạm Y tế xã có trụ sở riêng, có
con dấu để giao dịch và phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ; Là đơn vị y tế
thuộc Trung tâm Y tế huyện, chịu sự quản lý toàn diện, điều hành trực tiếp của
70
Giám đốc Trung tâm Y tế huyện. Chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Huyện Hải Lăng có 20 Trạm Y tế xã, thị trấn; sau khi sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp xã, UBND tỉnh Quảng Trị đã chỉ đạo Sở Y tế tỉnh Quảng Trị xây
dựng phương án thành lập Trạm Y tế mới trên cơ sở hợp nhất các Trạm Y tế ở các
xã, thị trấn thuộc diện sắp xếp đơn vị hành chính. Đến nay (01/4/2020), các đơn vị y
tế thuộc các xã, thị trấn sáp nhập vẫn đang hoạt động ổn định, chưa thực hiện tổ
chức sắp xếp lại.
- Đơn vị sự nghiệp giáo dục: Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả và Quyết định số 1322/QĐ-UBND ngày 15/6/2018 của UBND tỉnh về
việc ban hành đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị hành chính cấp xã; thôn, bản,
khu phố; cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập; năm 2018, UBND
huyện Hải Lăng đã thực hiện hoàn thành việc sáp nhập 19 Trường Tiểu học với 21
Trường THCS trên địa bàn huyện thành 19 Trường TH&THCS nên khi Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 832/NQ-UBTVQH14 ngày
17/12/2019 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Quảng Trị thì các Trường
TH&THCS, Mầm non của các xã, thị trấn sáp nhập vẫn đang giữ nguyên, chưa thực
hiện sắp xếp, tổ chức lại.
+ Xã Hải Phong gồm có 04 đơn vị trường học: Trường TH&THCS Hải Tân,
Trường TH&THCS Hải Hòa, Trường Mầm non Hải Tân, Trường Mầm non Hải Hòa.
+ Xã Hải Định gồm có 03 đơn vị trường học: Trường TH&THCS Thiện
Thành, Trường Mầm non Hải Thiện, Trường Mầm non Hải Thành.
+ Xã Hải Hưng gồm có 04 đơn vị trường học: Trường TH&THCS Hải Xuân,
Trường TH&THCS Hải Vĩnh, Trường Mầm non Hải Xuân, Trường Mầm non Hải Vĩnh.
+ Thị trấn Diên Sanh gồm có 04 đơn vị trường học: Trường TH&THCS Hải
Thọ, Trường TH&THCS thị trấn Hải Lăng, Trường Mầm non Hải Thọ, Trường
Mầm non Hải thị trấn Hải Lăng.
71
- Tổ chức thôn, khóm:
Thực hiện việc sáp nhập các thôn, khóm chưa đảm bảo tiêu chuẩn quy định
tại Thông tư số 14/2018/TT-BNV ngày 03/12/2018 của Bộ Nội vụ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31 tháng 8 năm 2012 của
Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố; năm
2019, huyện Hải Lăng đã sáp nhập 43 thôn thành 18 thôn, giảm 25 thôn; giữ nguyên
49 thôn; sáp nhập 04 khóm thành 02 khóm, giảm 02 khóm; giữ nguyên 02 khóm.
Sau sáp nhập, huyện Hải Lăng giảm từ 98 thôn, khóm (92 thôn, 06 khóm) xuống
còn 71 thôn, khóm (67 thôn, 04 khóm).
+ Đối với các xã sáp nhập: Giữ nguyên các thôn ở xã cũ trước khi sắp xếp để
chuyển thành thôn thuộc xã mới.
+ Đối với thị trấn Diên Sanh: Sau khi thành lập gồm có 5 thôn (thôn 1, thôn
2, thôn 3, thôn 4, thôn Công Thương Nghiệp), 4 khóm (khóm 6, khóm 7, khóm 8,
khóm 9). Khi thực hiện sáp nhập các khóm của thị trấn Hải Lăng cũ, huyện Hải
Lăng đã xây dựng phương án đổi tên các khóm từ khóm 6 đến khóm 9 và dự kiến
đặt tên các thôn của xã Hải Thọ cũ từ khóm 1 đến khóm 5. Do đó, sau khi thị trấn
Diên Sanh thành lập, UBND huyện Hải Lăng đã chỉ đạo UBND thị trấn Diên Sanh
thực hiện các quy trình, thủ tục đổi tên thôn 1 thành khóm 1, đổi tên thôn 2 thành
khóm 2, đổi tên thôn 3 thành khóm 3, đổi tên thôn 4 thành khóm 4, đổi tên thôn
Công Thương Nghiệp thành khóm 5 theo quy định tại Thông tư số 14/2018/TT-
BNV ngày 03/12/2018 của Bộ Nội vụ.
Hiện nay, các thôn, khóm ở các xã, thị trấn sáp nhập đang hoạt động ổn định,
tổ chức bộ máy đã được kiện toàn theo Đề án sáp nhập thôn, khóm năm 2019 của
UBND huyện Hải Lăng. Tuy nhiên, việc thực hiện chuyển đổi tên thôn thành khóm
ở thị trấn Diên Sanh chưa hoàn thành.
- Tổ chức Hội quần chúng cấp xã:
Để nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức hội quần chúng; tinh gọn
các tổ chức hội, giảm đầu mối quản lý, tiết kiệm chi phí hành chính, cơ sở vật chất,
trụ sở làm việc; đảm bảo khắc phục được tình trạng trùng lắp, chồng chéo về nội
72
dung, lĩnh vực hoạt động và đảm bảo nguyên tắc: tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo
kinh phí, trụ sở, phương tiện hoạt động của các tổ chức hội theo tinh thần chỉ đạo tại
Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng và Kết luận số 102-
KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng. Năm 2018, UBND
huyện Hải Lăng đã tổ chức sắp xếp, tổ chức lại các tổ chức hội hoạt động trên địa
bàn huyện, theo đó, thực hiện hợp nhất Hội Tù Chính trị yêu nước và Hội Cựu
Thanh niên xung phong thành Hội Tù Chính trị - Cựu Thanh niên xung phong; hợp
nhất Hội Khuyến học và Hội Cựu Giáo chức thành Hội Khuyến học - Cựu giáo
chức; hợp nhất Hội Từ thiện, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin và Hội Bảo trợ
Người khuyết tật - Trẻ mồ côi thành Hội Người khuyết tật - Nạn nhân da
cam/dioxin - Bảo trợ xã hội; giữ nguyên Hội Làm vườn và giải thể Hội Kế hoạch
hóa gia đình cấp xã. Sau khi sắp xếp, hợp nhất, số tổ chức hội cấp xã trên địa bàn
huyện Hải Lăng còn lại 157 hội, giảm được 58 tổ chức hội cấp xã.
Đối với các tổ chức hội thuộc xã, thị trấn sáp nhập: Sau khi có Nghị quyết số
832/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, UBND huyện Hải Lăng
tiếp tục chỉ đạo hợp nhất tổ chức hội tương đồng giữa các đơn vị sáp nhập và thực
hiện kiện toàn bộ máy lâm thời, sắp xếp lại các tổ chức hội viên để đảm bảo điều
hành hoạt động của mỗi tổ chức. Do đó, số lượng tổ chức hội ở xã, thị trấn sáp nhập
giảm thêm 28 hội so với đợt sắp xếp, hợp nhất năm 2018. Hiện nay, toàn huyện Hải
Lăng còn lại 129 tổ chức hội.
2.4.1.3. Sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên
trách cấp xã
* Số lượng cán bộ, công chức 8 xã, thị trấn trước khi thực hiện sáp nhập là
156 người, trong đó:
- Cán bộ 73 người:
+ Trình độ chuyên môn: Đại học: 60 người; Trung cấp: 13 người.
+ Lý luận chính trị: Cao cấp: 02 người; Trung cấp: 70 người.
- Công chức 83 người (có 01 viên chức kế toán tại UBND Hải Thiện được
73
biệt phái từ Trường TH&THCS Hải Chánh):
+ Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ: 02 người; Đại học: 55 người; Cao đẳng: 06
người; Trung cấp: 20 người.
+ Lý luận chính trị: Trung cấp 51 người.
* Cơ sở để sắp xếp, bố trí và xác định số lượng cán bộ, công chức dôi dư sau
sáp nhập: Do UBND tỉnh Quảng Trị chưa ban hành văn bản hướng dẫn bố trí cán
bộ, công chức theo Nghị định 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ nên
UBND huyện Hải Lăng dự kiến xác định theo số lượng cán bộ, công chức thuộc xã
loại 2 (21 biên chế) tại Nghị định 34/2019/NĐ-CP và bố trí 21 cán bộ, công chức
theo vị trí tại Quyết định số 987/QĐ-UBND ngày 15/5/2017 của UBND tỉnh. Để
kịp thời ổn định tổ chức bộ máy các đơn vị sáp nhập đi vào hoạt động từ ngày
01/3/2020, Ban Thường vụ Huyện ủy Hải Lăng đã chỉ đạo UBND huyện Hải Lăng
xây dựng kế hoạch, phương án sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức các xã, thị trấn
sáp nhập trình Ban Thường vụ Huyện ủy Hải Lăng cho ý kiến thống nhất.
Kết quả sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức sau sáp nhập:
- Đối với cán bộ:
Chức vụ Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận TQVN và Trưởng các đoàn thể xã, thị trấn mỗi chức vụ bố trí 01 người
đảm nhận; các chức vụ Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy hoặc Thường trực Đảng
ủy, Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND mỗi đơn vị bố trí từ 01 đến 02
người; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy bố trí 01 người. Huyện Hải Lăng đã điều động
3 cán bộ lên huyện công tác, trong đó, điều động 01 Phó Bí thư Đảng ủy xã Hải Thọ
đến công tác tại Ủy ban Mặt trận TQVN huyện; điều động 01 Phó Bí thư Đảng ủy
xã Hải Vĩnh đến công tác tại Hội Chữ thập đỏ huyện và giữ chức vụ Chủ tịch Hội;
điều động Chủ tịch UBND xã Hải Hòa đến công tác và giữ chức Phó Trưởng phòng
Tài chính - Kế hoạch huyện. Điều Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Hải Tân đến
làm Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Hải Trường.
Huyện Hải Lăng đã thực hiện luân chuyển Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng
huyện đến làm Chủ tịch UBND thị trấn Diên Sanh, nhiệm kỳ 2016-2021. Bố trí 01
74
cán bộ (Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Hải Thọ) nghỉ công tác chờ sắp xếp, bố
trí sau Đại hội Đảng các xã, thị trấn.
Bảng 2.5. Số lượng cán bộ 4 xã, thị trấn sau sáp nhập
TT
Đơn vị
Tổng số
Chủ tịch HĐND
Chủ tịch UBND
Bí thư Đảng ủy
Phó Chủ tịch HĐND
Phó Chủ tịch UBND
Loại đơn vị hành chính
Ủy viên Thường vụ Đảng ủy
Phó BTĐU hoặc Thường trực Đảng ủy
Chủ tịch UBMT và Trưởng các đoàn thể
1
Loại 2
2
1 2 1 2 1 2 5 14
3
1 2 1 2 1 2 5 14
4
1 1 1 1 2 1 2 5 14
Thị trấn Diên Sanh Hải Phong Hải Định Hải Hưng
Loại 2 Loại 2 Loại 2
1 1 1 1 2 1 2 5 14
Tổng cộng
4 6 20 2 4 8 8 4 56 (Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2020)
+ Đối với công chức: Các chức danh công chức của các đơn vị sau sáp nhập
được bố trí tăng thêm theo số lượng hiện có của mỗi chức danh trước khi sáp nhập,
một số chức danh như Văn phòng - Thống kê, Văn hóa - Xã hội có số lượng 4 đến 5
người đảm nhận. UBND huyện Hải Lăng điều động 04 công chức đến công tác tại
UBND các xã ngoài đơn vị sáp nhập. Tuyển dụng đặc biệt vào công chức cấp xã đối
với 02 trường hợp, trong đó, Chủ tịch Hội Nông dân thị trấn Hải Lăng làm Địa
chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường thị trấn Diên Sanh; Viên chức Kế toán
Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Hải Chánh làm Tài chính - Kế toán xã Hải
Định. Bên cạnh đó, huyện Hải Lăng cũng thực hiện đồng bộ Đề án bố trí Công an
chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã; theo đó, đã sắp xếp để bố trí
Trưởng Công an chính quy đối với 4 xã, thị trấn sáp nhập.
75
Bảng 2.6. Số lượng công chức 4 xã, thị trấn sau sáp nhập
TT Đơn vị VP- TK ĐC- XD Tư pháp VH- XH TC- KT Công an Quân sự Tổng số
Loại đơn vị hành chính
1 5 3 3 4 2 1 1 19 Loại 2
2 5 3 3 4 2 1 1 19 Thị trấn Diên Sanh Hải Phong
3 Hải Định 4 3 2 4 2 1 1 17
4 5 4 3 4 2 1 1 20 Loại 2 Loại 2 Loại 2 Hải Hưng 8 4 4 75 Tổng cộng 19 13 11 16 (Nguồn số liệu từ Phòng Nội vụ huyện Hải Lăng năm 2020)
+ Đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã: Số lượng người hoạt
động không chuyên trách 8 xã, thị trấn sáp nhập là 92 người; trong đó: 54 Đại học,
3 Cao đẳng, 20 Trung cấp, 5 Sơ cấp và 10 chưa qua đào tạo. Thực hiện Nghị định
số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ thì số lượng người hoạt động
không chuyên trách cấp xã giảm so với số lượng 18 chức danh quy định tại Nghị
quyết 26/2013/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Quảng Trị về số lượng, chức danh, mức
phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách và khoán kinh phí hoạt
động đối với các tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn và thôn, bản, khu
phố tỉnh. Hiện tại, HĐND tỉnh chưa có Nghị quyết quy định số lượng theo Nghị
định số 34/2019/NĐ-CP nên UBND huyện chưa có cơ sở sắp xếp, bố trí. Tuy nhiên,
để kịp thời kiện toàn một số chức danh theo quy định, Ban Thường vụ Huyện ủy
Hải Lăng đã chỉ đạo sắp xếp, bố trí chức danh cấp phó Mặt trận và các đoàn thể ở
xã, thị trấn và UBND huyện Hải Lăng tiếp tục xây dựng phương án bố trí các chức
danh người hoạt động không chuyên khác để khi HĐND tỉnh Quảng Trị ban hành
Nghị quyết về bố trí số lượng và chức danh người hoạt động không chuyên ở cấp xã
thì triển khai thực hiện kịp thời nhằm ổn định bộ máy đơn vị hành chính mới.
76
Số lượng cán bộ, công chức dôi dư sau sáp nhập xã, thị trấn:
- Số lượng cán bộ, công chức 8 xã, thị trấn trước khi thực hiện sáp nhập là
156 người; đã thực hiện sắp xếp, bố trí và giải quyết chế độ, chính sách, đối với:
+ Điều động lên công tác tại các cơ quan cấp huyện: 3 cán bộ;
+ Điều động công tác tại UBND các xã ngoài sáp nhập: 5 công chức;
+ Bố trí nghỉ công tác chờ sắp xếp sau Đại hội Đảng bộ xã, thị trấn khác: 01 cán bộ;
+ Nghỉ hưu đúng tuổi theo chế độ: 03 cán bộ, công chức;
+ Nghỉ hưu trước tuổi theo Nghị định 26/2015/NĐ-CP của Chính phủ: 07 cán bộ;
+ Nghỉ hưu trước tuổi theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ: 09 cán bộ;
+ Nghỉ việc ngay: 02 cán bộ.
- Số lượng cán bộ, công chức của 4 xã, thị trấn sau sáp nhập là 131 người
(bao gồm, có 01 cán bộ luân chuyển và 04 Trưởng Công an chính quy). Do đó, số
lượng dôi dư theo quy định của xã loại II tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP là 47 cán
bộ, công chức (12 cán bộ, 35 công chức).
2.4.2. Hoạt động của đơn vị hành chính mới sau sáp nhập
- Để ổn định hoạt động của các đơn vị hành chính mới, Ban Thường vụ
Huyện ủy, UBND huyện Hải Lăng và các ban ngành cấp huyện đã tiếp tục công tác
tuyên truyền, giải thích về chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và tinh
gọn bộ máy; chỉ đạo tập trung giải quyết các vướng mắc, khó khăn ban đầu liên
quan đến đời sống sinh hoạt, sản xuất, phát triển kinh tế của nhân dân trên địa bàn.
Xây dựng kế hoạch sản xuất, xác định cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp mới phù
hợp với quy mô của đơn vị hành chính mới và phù hợp điều kiện tự nhiên về thổ
nhưỡng, và khí hậu của từng khu vực; Bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, phát triển toàn diện các lĩnh vực. Tăng cường
quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai. Đẩy mạnh
cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, quản lý nghiêm túc bộ
máy phục vụ nhân dân gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Giữ vững quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, cứu hộ, cứu nạn.
77
- Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã, thị trấn sau sáp nhập đã
cơ bản đi vào hoạt động ổn định; chủ động ban hành các nghị quyết, chương trình,
kế hoạch hành động thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo; trong đó tập trung vào
nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát triển kinh tế, khuyến khích,
tạo điều kiện cho người dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế với những cây trồng, vật nuôi
đã phát huy hiệu quả; nhất là xây dựng các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương để chuẩn bị cho công tác Đại hội Đảng bộ cơ
sở nhiệm kỳ 2020 - 2025. Chủ động phân công công việc đối với cán bộ, công chức
theo các chức danh; đối với các vị trí có nhiều người đảm nhận thì bố trí mỗi người
phụ trách một lĩnh vực và có 01 người chịu trách nhiệm chính.
- Về công tác bàn giao, tiếp nhận: UBND huyện Hải Lăng đã ban hành văn
bản chỉ đạo các xã, thị trấn sáp nhập tiến hành rà soát, thống kê, kiểm kê đầy đủ, kịp
thời và chính xác về tài sản, tài chính, nguồn vốn, nguồn đầu tư, trang thiết bị, cơ sở
vật chất, phương tiện làm việc; hồ sơ, tài liệu của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã, thị trấn cũ để thực hiện bàn giao cho xã,
thị trấn mới. Đối với các công việc phát sinh trong quá trình bàn giao, tiếp nhận
hoặc chưa hoàn thành việc bàn giao, tiếp nhận tại thời điểm xã, thị trấn mới đi vào
hoạt động thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm phối hợp để
tiếp tục thực hiện các nội dung bàn giao, tiếp nhận theo quy định. Quyết định thành
lập Tổ công tác của UBND huyện về kiểm tra, thẩm định kết quả bàn giao, tiếp
nhận tại các xã, thị trấn sáp nhập do Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện làm
Tổ trưởng.
- Bố trí, sử dụng trụ sở làm việc: Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã
trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm tinh gọn bộ máy, giảm đầu mối,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Tuy nhiên, việc
sử dụng các công sở, trung tâm học tập cộng đồng xã sau sáp nhập sao cho phù hợp,
hạn chế thấp nhất sự lãng phí tiền của của Nhà nước và Nhân dân vẫn đang là bài
toán khó đối với hầu hết các địa phương. Việc bố trí, sử dụng trụ làm việc, cơ sở hạ
tầng, thiết bị làm việc đối với các xã, thị trấn sáp nhập được UBND huyện Hải Lăng
78
chỉ đạo giao cho Cấp ủy, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể của đơn vị hành
chính mới họp bàn thống nhất phương án sắp xếp, bố trí; theo đó, các đơn vị đã sắp
xếp, bố trí:
+ Xã Hải Phong: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ban chỉ huy Quân
sự xã sử dụng trụ sở làm việc của xã Hải Tân cũ. Đảng ủy, Mặt trận, các đoàn thể và
Công an xã sử dụng trụ sở làm việc của xã Hải Hòa cũ.
+ Xã Hải Định: UBND xã và các ban, ngành thuộc UBND xã sử sụng trụ sở
làm việc của xã Hải Thiện cũ. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Mặt trận và các đoàn
thể xã sử dụng trụ sở làm việc của xã Hải Thành cũ.
+ Hải Hưng: Đảng ủy, UBND xã, Công an xã sử sụng trụ sở làm việc của xã
Hải Vĩnh cũ. Hội đồng nhân dân, Mặt trận, các đoàn thể và Ban chỉ huy Quân sự xã
sử dụng trụ sở làm việc của xã Hải Xuân cũ.
+ Thị trấn Diên Sanh: Đảng ủy, UBND thị trấn Diên Sanh sử sụng trụ sở làm
việc của thị trấn Hải Lăng cũ. Hội đồng nhân dân, Mặt trận, các đoàn thể, Công an và
Ban chỉ huy Quân sự thị trấn Diên Sanh sử dụng trụ sở làm việc của xã Hải Thọ cũ.
Thực tế tại huyện Hải Lăng cho thấy, trụ sở các xã, thị trấn sau sáp nhập có
tình trạng vừa thiếu lại vừa thừa và tùy tình hình thực tế tại địa phương nên việc bố
trí trụ sở làm việc của các cơ quan, ban ngành ở xã, thị trấn không có sự thống nhất,
như: Xã Hải Phong bố trí HĐND và UBND xã là 01 trụ sở làm việc; xã Hải Hưng,
thị trấn Diên Sanh bố trí Đảng ủy và UBND là 01 trụ sở làm việc; còn xã Hải Định
bố trí UBND xã 01 trụ sở làm việc. Bên cạnh đó, các địa phương chưa thực hiện
việc quy hoạch, bố trí, xây dựng hoặc cải tạo trụ sở làm việc để bố trí 01 địa điểm
làm việc chung cho bộ máy cấp xã. Do đó, còn ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo,
điều hành, phối hợp công việc giữa các ban ngành ở xã, thị trấn và giao dịch công
việc của người dân tại địa phương.
- Việc chuyển đổi các loại giấy tờ cho cá nhân, tổ chức tại các xã, thị trấn mới:
+ UBND các xã, thị trấn sáp nhập đã chủ động triển khai, hướng dẫn cho các
tổ chức, cá nhân thực hiện thủ tục chuyển đổi các loại giấy tờ và không thu các loại
lệ phí khi thực hiện việc chuyển đổi do thay đổi địa giới đơn vị hành chính. Đồng
79
thời, các thủ tục hành chính, hồ sơ giấy tờ liên quan việc chuyển đổi giấy tờ được
niêm yết công khai trên cổng thông tin điện tử, trụ sở UBND huyện, xã, thị trấn và
thông báo đến các thôn, khóm để người dân biết.
+ Trường hợp cá nhân, tổ chức chưa chuyển đổi thì các loại giấy tờ đã được
cơ quan có thẩm quyền cấp trước đây theo đơn vị hành chính cũ nếu chưa hết thời
hạn theo quy định vẫn được tiếp tục sử dụng.
2.4.3. Đánh giá việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
* Về hoạt động quản lý nhà nước
Việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Hải Lăng
nhằm thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 37-NQ/TW
ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp
xã. Việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã hoàn toàn phù hợp với yêu cầu
thực tiễn, gắn liền với thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế và
thực hiện chế độ tiền lương, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính tiến hành
rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, công chức để có phương án bố trí, sắp xếp lại
đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp ở đơn vị hành chính mới, giải quyết chế độ,
chính sách đối với những người chưa đạt chuẩn hoặc hạn chế về năng lực, từ đó
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã,
góp phần phục vụ nhân dân tốt hơn. Tuy nhiên, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính
mới có địa bàn rộng hơn, công tác quản lý nhà nước của chính quyền phức tạp hơn,
một số địa bàn dân cư nằm cách xa trung tâm hành chính của xã, do đó, việc nắm
bắt tình hình ở các địa bàn dân cư của chính quyền cấp xã sẽ gặp khó khăn. Việc
sắp xếp cán bộ, công chức và giải quyết dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính gặp
khó khăn, ảnh hưởng đến tâm tư của cán bộ, công chức. Công tác bố trí cán bộ,
công chức công tác tại đơn vị hành chính mới cao hơn so với quy định, do đó, để
đảm bảo đúng quy định cần đòi hỏi phải có thời gian, lộ trình cụ thể cho việc bố trí,
tinh giản đội ngũ cán bộ, công chức dôi dư.
80
* Về kinh tế - xã hội
Khi sáp nhập sẽ tăng quy mô về diện tích tự nhiên và quy mô dân số, do đó,
sẽ thuận lợi cho việc hoạch định các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, tập trung
được nguồn lực cũng như triển khai thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước và tổ
chức các phong trào hoạt động. Tập trung được nguồn lực đầu tư, phát triển cơ sở
hạ tầng cho một đơn vị hành chính mới thành lập. Tránh được tình trạng đầu tư dàn
trải, kém chất lượng, thất thoát nguồn kinh phí của nhà nước. Mở ra nhiều cơ hội để
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của địa phương, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư, thu hút
được sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp. Địa giới hành chính mở rộng làm
thay đổi về kinh tế, tăng giá trị sử dụng của đất đai, tạo ra những ngành nghề và
việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học,
công nghệ. Kinh tế sẽ đa dạng và phát triển, đời sống của người dân được cải thiện
và nâng cao. Mô hình kinh tế đa dạng, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh, quá
trình đô thị hóa được kích thích đẩy mạnh. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập
cho người lao động. Tỷ lệ lao động trên một đơn vị hành chính cấp xã tăng cao,
thuận lợi cho huy động nguồn lực trong một địa phương. Tuy nhiên, khi sắp xếp
đơn vị hành chính cần phải xây dựng quy hoạch lại cho phù hợp với đơn vị hành
chính mới, tạo sự tốn kém về ngân sách, ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư phát triển.
Phải cơ cấu lại nền kinh tế nông nghiệp kèm theo đa dạng hóa cơ cấu sản xuất, kinh
doanh; phân công lại lao động trên địa bàn đơn vị hành chính mới, tạo điều kiện cho
việc định cư ổn định. Tác động đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức do xáo
trộn và tác động tâm lý đến một số cán bộ, công chức thuộc diện dôi dư do sắp xếp.
* Về quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự xã hội
Khi sắp xếp đơn vị hành chính mới có điều kiện tăng nguồn nhân lực cho
khu vực phòng thủ cũng như công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng trên cơ sở tăng
số lượng dân cư, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động và sử dụng lực lượng dự bị
động viên, dân quân tự vệ. Tăng cường khả năng bảo đảm kinh tế tại chỗ cho các
lực lượng trong khu vực phòng thủ và nâng cao hiệu quả công tác giữ vững an ninh
81
- quốc phòng của địa phương. Mặt khác, khi sắp xếp đơn vị hành chính dễ xảy ra
xung đột giữa các đơn vị hành chính cũ, do đó, tiềm ẩn những nguy cơ phức tạp,
khó lường đối với tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
* Về thủ tục hành chính
Giảm đầu mối thủ tục hành chính, thuận lợi hơn cho người dân. Xây dựng bộ
máy chính quyền địa phương ở cấp xã tinh gọn hơn, hợp lý hơn, đảm bảo hoạt động
có hiệu lực hiệu quả, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn, đặc biệt góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội ở những địa phương thuộc diện sắp xếp. Nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức trong thực thi công vụ, có trình độ chuyên môn cao từ đó
đáp ứng được yêu cầu công việc phục vụ nhân dân được tốt hơn. Tuy nhiên, sẽ tăng
số lượt giao dịch thủ tục hành chính đối với tổ chức đơn vị giải quyết thủ tục hành
chính mới. Nhiều thủ tục giấy tờ cần phải chuyển đổi giữa đơn vị hành chính cũ và
đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp, mất nhiều thời gian điều tra, xác minh. Khó
khăn cho việc đi lại làm các thủ tục hành chính của nhân dân do sau khi sắp xếp một
số khu vực xa với trung tâm hành chính của xã.
2.5. Những thuận lợi, khó khăn khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
2.5.1. Thuận lợi
- Sự vào cuộc và tạo điều kiện của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai
thực hiện chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính chưa đạt chuẩn từ đó tạo cơ sở
thống nhất chung cho quá trình tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp trên địa
bàn huyện. Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương nghiêm túc thực hiện đúng
tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ trong việc sắp xếp.
- Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã là phù hợp với điều kiện phát triển
của đất nước nói chung và địa phương nói riêng, nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành
chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn
thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; góp phần phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở thành
82
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ban Thường vụ Huyện ủy, UBND huyện Hải Lăng đã kịp thời ban hành
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên tổ chức hội nghị để triển khai
công tác sáp nhập xã, thị trấn đến các thôn, khóm trên địa bàn. Chỉ đạo các xã, thị
trấn quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã,
thành lập Ban chỉ đạo xã, thị trấn, Tổ lấy ý kiến về phương án sáp nhập.
- Tên gọi của đơn vị hành chính cấp xã mới sau sáp nhập đã tạo được sự
đồng thuận, thống nhất cao, bởi vì các xã, thị trấn sáp nhập này có nguồn gốc trước
đây là một làng, một xã nhưng sau đó do địa bàn các xã quá rộng, không đủ điều
kiện quản lý, mặt khác để thuận lợi trong việc tổ chức các cuộc kháng chiến chống
Mỹ nên chia tách ra.
- Quá trình lấy ý kiến cử tri về phương án sáp nhập xã, thị trấn được Đảng
ủy, UBND các xã, thị trấn triển khai thực hiện nghiêm túc, đảm bảo công khai, dân
chủ, đúng tiến độ và theo quy định tại Nghị định số 54/2018/NĐ-CP ngày
16/4/2018 của Chính phủ hướng dẫn việc lấy ý kiến cử tri về thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính; kết quả cử tri đồng ý về phương
án sáp nhập đạt kết quả cao: Hải Tân 91,8%; Hải Hòa 88,32%; Hải Thiện 97,57%;
Hải Thành 71,7%; Hải Xuân 70,9%; Hải Vĩnh 91,39%; Hải Thọ 97,26%; thị trấn
Hải Lăng 98,3%.
2.5.2. Khó khăn, vướng mắc
- Sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII), tỉnh Quảng Trị đã chỉ đạo sáp nhập thôn, khóm chưa đảm
bảo tiêu chuẩn quy định tại Thông tư số 09/2017/TT-BNV ngày 29/12/2017 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 03/8/2012 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố; huyện
Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị đã xây dựng Đề án sáp nhập từ 98 thôn, khóm, còn lại 57
thôn, khóm. Tuy nhiên, đến ngày 03/12/2018 Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số số
14/2018/TT-BNV (thay thế Thông tư số 09/2017/TT-BNV), tỉnh Quảng Trị tiếp tục
83
chỉ đạo rà soát lại phương án, theo đó, sau khi rà soát phương án theo tiêu chuẩn
mới, huyện Hải Lăng thực hiện sáp nhập còn lại 71 thôn, khóm. Như vậy, chỉ sau
thời gian ngắn văn bản tiếp tục có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung; điều này gây khó
khăn trong công tác triển khai thực hiện, nhất là những công việc quan trọng liên
quan nhiều cấp, nhiều ngành và phải lấy ý kiến người dân... Hoặc Nghị định số
34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy
định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,
ở thôn, tổ dân phố, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/6/2019 và đến ngày
06/11/2019, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 13/2019/TT-BNV hướng dẫn một số
quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã, ở thôn, tổ dân phố. Đến nay (01/5/2020), tỉnh Quảng Trị vẫn chưa có văn bản
quy định về số lượng, chức danh đối với người hoạt động không chuyên trách cấp
xã nên các xã, thị trấn sau sáp nhập vẫn chưa kiện toàn được các chức danh người
hoạt động không chuyên trách theo quy định.
- Sắp xếp nhiều đơn vị hành chính là nhiệm vụ chính trị lớn, liên quan đến
nhiều lĩnh vực, chưa có tiền lệ thực hiện, vì vậy trong quá trình thực hiện các bước
công việc, nhất là ở cấp xã còn thiếu sự chủ động, trong chờ vào sự hướng dẫn của
cấp trên.
- Công tác tuyên truyền, vận động để tạo ra sự đồng tình ủng hộ của người
dân trong việc triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính gặp nhiều khó khăn.
Một bộ phận người dân có tâm lý sáp nhập xã thì ảnh hưởng đến truyền thống, văn
hóa làng xã.
- Sau khi sắp xếp, một số đơn vị hành chính cấp xã mới thành lập trên cơ sở
sáp nhập 02 xã vẫn không đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên và quy mô dân số
nhưng không thể sáp nhập thêm xã khác vì các yếu tố đặc thù và sự đồng thuận của
người dân chưa cao.
- Hải Lăng là địa phương có số lượng đơn vị hành chính cấp xã phải sắp
xếp nhiều nên số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã phải xem xét sắp xếp, bố trí hoặc giải quyết chế độ, chính sách đối với
84
cán bộ, công chức dôi dư rất lớn, đây là vấn đề phức tạp, khó khăn trong sắp xếp
đơn vị hành chính. Bên cạnh đó, đồng thời, thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-
CP của Chính phủ và thực hiện bố trí Công an chính quy làm Trưởng Công an xã
nên số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách các xã, thị
trấn sáp nhập dôi dư số lượng lớn.
- Các ngành cấp tỉnh chậm ban hành phương án khung, hướng dẫn để sắp
xếp, tổ chức bộ máy xã sáp nhập. Một bộ phận cán bộ, công chức còn tâm tư, lo
lắng phải chuyển đổi vị trí việc làm khác, nghỉ công tác để sắp xếp, bố trí; nhất là ổn
định tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, sắp xếp cán bộ, chuẩn bị văn kiện đại
hội và các công việc khác chuẩn bị đại hội.
- Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 quy định lộ trình sắp xếp giảm cán
bộ, công chức ở các xã sắp xếp trong thời gian 5 năm nhưng đối với chức danh theo
quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ như: Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng các đoàn thể cấp xã, Trưởng Công an, Chỉ huy
trưởng Quân sự là cán bộ, công chức. Khi sáp nhập 02 xã (thị trấn) thành 01 đơn vị
hành chính mới thì cũng chỉ bố trí 01 người giữ chức danh cấp trưởng, còn lại dôi
dư là phải sắp xếp giảm ngay nên rất khó khăn, vì bố trí làm cấp phó là chức danh
người hoạt động không chuyên trách, chỉ hưởng phụ cấp, không được hưởng lương.
Ngoài ra, do không thực hiện tuyển dụng mới nên đối với một số cán bộ Bí thư
Đoàn xã, thị trấn hết tuổi theo Điều lệ Đoàn rất khó để sắp xếp, bố trí chức danh
khác hoặc việc xây dựng nguồn quy hoạch cán bộ trẻ kế cận tại địa phương.
- Theo quy định tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 25/12/2019 của Bộ
Nội vụ thì trường hợp tuyển dụng đặc biệt vào công chức cấp xã đối với cán bộ thì
yêu cầu phải có thời gian công tác làm cán bộ và tham gia bảo hiểm xã hội đủ 5
năm (60 tháng) trở lên; trong khi đó, một số chức danh cán bộ như Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận, Trưởng các đoàn thể cấp xã có thời gian công tác chưa đủ 5 năm nên
không thể sắp xếp, bố trí làm công chức cấp xã đối với những trường hợp đảm bảo
về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Khi sáp nhập xã, thị trấn, quy mô tổ chức bộ máy đông, vị trí các trụ sở
85
chưa phù hợp trong việc thực hiện giao dịch của người dân, còn chật hẹp nên khó
khăn trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành, trong khi nguồn ngân sách địa
phương chưa đảm bảo để đầu tư, xây dựng mới trụ sở làm việc.
- Nguồn kinh phí thực hiện công tác sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã chưa
được quy định, hướng dẫn rõ ràng nên các đơn vị, địa phương gặp khó khăn trong
việc đề xuất và giải quyết cấp kinh phí.
2.5.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
* Nguyên nhân khách quan
- Trung ương chậm ban hành văn bản quy định, hướng dẫn việc sắp xếp đơn
vị hành chính cấp xã thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban
chấp hành Trung ương khóa XII và chưa đồng bộ, thiếu tính ổn định, cụ thể dẫn đến
khó thực hiện, ảnh hưởng đến việc sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ,
công chức, viên chức của các địa phương.
- Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã là vấn đề phức tạp, liên quan đến
tất cả các mặt của đời sống xã hội ở địa phương, liên quan đến quá trình lịch sử,
truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán... ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng
của cán bộ và Nhân dân nên việc tuyên tuyền để tạo ra sự đồng tình ủng hộ cần
phải có thời gian.
- Ngân sách của địa phương còn khó khăn nên việc bố trí kinh phí phục vụ
việc sắp xếp đơn vị hành chính còn hạn chế.
* Nguyên nhân chủ quan
- Một số cấp ủy, người đứng đầu chưa có quyết tâm chính trị cao, chỉ đạo
chưa thật sự quyết liệt, còn tư tưởng trông chờ, giữ ổn định tổ chức, biên chế của
đơn vị mình. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong triển khai thực hiện có lúc
chưa chặt chẽ. Nhiều nội dung của Nghị quyết là vấn đề mới, khó nên một số cấp ủy
xây dựng kế hoạch thực hiện còn chậm, còn có biểu hiện trông chờ sự chỉ đạo,
hướng dẫn cụ thể của cấp trên và triển khai thực hiện còn lúng túng.
- Thời gian triển khai thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã quá gấp
nên chất lượng của việc xây dựng Đề án sáp nhập cũng như tổ chức thực hiện các
86
công việc sau khi có Nghị quyết số 832/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh
Quảng Trị gặp nhiều khó khăn.
- Mặc dù Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 25/6/2019; tuy nhiên, UBND tỉnh Quảng Trị chậm ban hành Quyết định giao
số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã nên ảnh
hưởng đến việc bố trí các chức danh theo quy định.
- Việc xây dựng cơ chế, chính sách còn chậm, chưa phù hợp với tiến độ sắp
xếp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn đối với cấp dưới
chưa sát sao nên việc thực hiện có lúc, có nơi còn chậm. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác quản lý tổ chức bộ máy, biên chế và quản lý cán bộ, công
chức còn thiếu đồng bộ, chưa thống nhất giữa các cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và cơ quan thuộc khối Nhà nước.
2.6. Bài học rút ra sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Một là, mấu chốt trong sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã là cán bộ, đảng
viên phải thông, người dân phải hiểu và đồng thuận. Muốn vậy phải làm tốt công
tác tuyên truyền, vận động quán triệt nội dung Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày
24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp
xã để mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa
của việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã nhằm tạo sự đồng thuận
và thống nhất cao trong tổ chức thực hiện.
Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp phải có
quyết tâm chính trị cao, quyết liệt và bám sát vào chủ trương, chỉ đạo của Trung
ương, của tỉnh, sự giúp đỡ, phối hợp của các sở, ngành của tỉnh để vận dụng sáng
tạo, hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương trong quá trình triển khai
thực hiện. Xây dựng kế hoạch thời gian cụ thể, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát.
87
Từ thực tiễn thực hiện trong thời gian qua có một số yếu tố để việc sắp xếp đơn vị
hành chính được thuận lợi, đó là phải bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ; cách làm phù
hợp, chặt chẽ, thận trọng, hiệu quả, chắc chắn; phù hợp với quy hoạch tổng thể, yêu
cầu phát triển. Bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, không gây xáo trộn lớn; bảo đảm
sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của cấp ủy đảng; quá trình thực hiện phải
có kế hoạch, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, tổ chức liên quan; thời gian,
lộ trình thực hiện cụ thể.
Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nghị quyết, quy định của Trung ương
vào tình hình thực tế ở địa phương, trên cơ sở đó ban hành các văn bản hướng dẫn
sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ, công chức, viên chức, người hoạt động bán
chuyên trách phù hợp, gắn với ban hành các chế độ, chính sách của tỉnh (ngoài
chính sách chung của Trung ương) hỗ trợ đối với số cán bộ dôi dư do sắp xếp, số
cán bộ có nguyện vọng nghỉ trước tuổi.
Bốn là, gắn sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã với việc đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh
giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức. Phát huy hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội; nâng cao đời sống nhân
dân, giữ vững quốc phòng an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội; không ảnh
hưởng nhiều đến sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của nhân dân. Cấp ủy, chính
quyền các cấp, nhất là người đứng đầu phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn,
chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Coi trọng và làm tốt công tác tuyên
truyền; kiên trì vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính
trị và sự đồng thuận ủng hộ của nhân dân. Phải căn cứ theo các nguyên tắc, tiêu
chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số; đồng thời phải chú trọng cân nhắc kỹ
các yếu tố đặc thù về lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, điều kiện địa lý - tự nhiên, cộng đồng dân cư và yêu cầu bảo
đảm quốc phòng an ninh, chính trị, trật tự xã hội. Trong quá trình thực hiện phải
đồng thời giải quyết chế độ chính sách hợp lý cho cán bộ, công chức, viên chức có
liên quan và có lộ trình bố trí, sắp xếp để bảo đảm đúng số lượng quy định.
88
Năm là, sâu sát tình hình, thường xuyên giao ban, giải quyết kịp thời những
khó khăn, vướng mắc. Sau sáp nhập, tiếp tục bám sát địa phương và cơ sở để giải
quyết kịp thời những phát sinh trong sắp xếp cán bộ, công chức, chế độ, chính sách,
thủ tục hành chính và công việc cho người dân, doanh nghiệp sau những ngày đầu
chính quyền cấp xã đi vào hoạt động.
Sáu là, tập trung nghiên cứu, vận dụng sáng tạo các quy định, hướng dẫn của
cấp trên để xây dựng quy chế, quy định, chế độ công tác phù hợp, hiệu quả đối với
các mô hình mới, đồng thời quan tâm lựa chọn, bố trí cán bộ có trình độ, năng lực
để đảm nhiệm những công việc nhất thể hóa chức danh lãnh đạo.
Bảy là, chỉ đạo giải quyết, xử lý dứt điểm các tồn tại, khó khăn, vướng mắc,
lắng nghe và thực hiện các đề xuất, kiến nghị chính đáng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cần phát huy vai trò của cấp
ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; nâng cao trách
nhiệm, gương mẫu của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên.
Tám là, đổi mới cơ chế quản lý tài chính, tăng quyền tự chủ cho các đơn vị,
đồng thời công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách, khuyến khích tăng thu nhập
cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
Ngoài ra, để người dân được hưởng lợi là mục tiêu lớn trong sáp nhập đơn
vị hành chính cấp xã. Sau sáp nhập, các địa phương cần quan tâm, đầu tư nguồn
lực thỏa đáng phát triển kinh tế, cơ sở vật chất, giao thông, nâng cao đời sống
nhân dân. Đây cũng là cách để tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Ngoài ra, việc
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, nhân dân sau sắp xếp các đơn vị hành
chính cấp xã là việc làm cần thiết. Qua đó kịp thời phát hiện những khó khăn,
vướng mắc nảy sinh ở cơ sở để tháo gỡ, tuyên truyền vận động nhân dân đồng
thuận thực hiện nhiệm vụ chính trị chung.
89
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các
cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước là nhiệm vụ chính trị
quan trọng. Thời gian thực hiện rất gấp, trong khi khối lượng công việc rất lớn: chờ
Nghị quyết của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Nội vụ về sắp xếp các đơn vị hành
chính; xây dựng đề án của các địa phương; phê duyệt đề án của các cấp, các cơ
quan chức năng; tổ chức lấy ý kiến nhân dân; thông qua nghị quyết của HĐND; sửa
đổi các văn bản pháp luật liên quan; bố trí kinh phí thực hiện sắp xếp,… Có thể
thấy, thời gian gấp, khối lượng công việc lại nhiều, lộ trình nhiều công đoạn đòi hỏi
sự đồng thuận, nhất trí cao,.. là một thách thức đòi hỏi năng lực thực thi của đội ngũ
cán bộ, công chức khi triển khai thực hiện.
Thực trạng công tác triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
trên địa bàn huyện Hải Lăng bước đầu đã đạt được những kết quả hết sức quan
trọng, trong đó, các cấp chính quyền của huyện Hải Lăng đã tập trung, chú trọng
công tác tuyên truyền, vận động để tạo sự đồng thuận, thống nhất cao và nhận thức
ngày càng sâu sắc hơn trong toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về
chủ trương sắp xếp, tổ chức lại bộ máy trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, qua
khảo sát tại một số địa phương sáp nhập cho thấy việc nghiên cứu, thực hiện công
tác đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu,
yêu cầu đề ra. Việc nắm bắt tư tưởng cán bộ, đảng viên trong quá trình sắp xếp tổ
chức bộ máy ở một số nơi còn lúng túng, chưa kịp thời, dẫn đến việc triển khai thực
hiện còn gặp khó khăn. Tinh giản biên chế nhìn chung mới tập trung giảm số lượng,
chưa gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Qua phân tích, đánh giá việc thực hiện sắp nhập đơn vị hành chính cấp xã,
huyện Hải Lăng, tác giả đã nêu ra những tác động, thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân
việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã. Đây là cơ sở cho việc nghiên cứu, tìm
ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn tại huyện Hải Lăng để ổn định bộ máy và
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã sau sáp nhập.
90
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
3.1. Quan điểm chỉ đạo
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và quyền làm chủ của
nhân dân; bám sát Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong
việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đặt trong tổng thể
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp
ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành
động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên,
liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững
chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì
thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy
định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không
nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp
tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
- Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật, kỷ cương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống
nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ
thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương,
đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng
địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
- Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế thừa,
ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương
91
thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài;
bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người
chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp.
- Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường
tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng
thuận trong xã hội, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên
tạc, chống phá, chia rẽ nội bộ.
- Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu
vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh
bạch, không thương mại hoá. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự
nghiệp công lập và ngoài công lập.
- Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá
trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và cải
cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp, có trọng tâm, trọng
điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ
sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
- Thống nhất nhận thức và hành động, quyết tâm thực hiện tinh giản biên chế
nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo
đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Tinh giản biên chế đi đôi với cải
cách tiền lương và đổi mới tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Tỷ lệ tinh giản biên chế được xác định theo từng
cơ quan, tổ chức, đơn vị, phù hợp với thực tế số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị.
- Công tác sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã chưa đảm bảo tiêu chuẩn quy
92
định là một đòi hỏi cấp bách để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới, nhằm tập trung các nguồn lực và phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế
của từng địa phương thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, nếu hạn chế tối đa việc chia tách đơn vị hành chính khi chưa đủ cơ sở
khoa học và thực tiễn thì sẽ tiết kiệm được cho ngân sách những khoản kinh phí rất
lớn để: Thành lập bộ hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính các cấp, xuất bản các loại
bản đồ, át lát hành chính; xây dựng trụ sở cơ quan, mua sắm trang thiết bị đối với
các đơn vị hành chính mới và không làm tăng biên chế đội ngũ cán bộ, công chức
vốn đã rất cồng kềnh, kém hiệu quả hiện nay; tránh cho cả xã hội và nhân dân
những xáo động, lãng phí lớn ảnh hưởng đến đời sống và công việc như thay đổi
con dấu, bảng hiệu, địa chỉ thư tín, hộ khẩu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà, các loại giấy tờ giao dịch khác và rất nhiều sự phiền toái khác do
thay đổi đơn vị hành chính.
- Việc ổn định lâu dài đơn vị hành chính cấp xã nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết các dân tộc cùng chung sức chung lòng xây dựng quê hương giàu đẹp,
đồng thời không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, chia rẽ đặc biệt đối với
các trường hợp đề nghị chia tách vì lý do khác biệt dân tộc, tôn giáo hoặc chênh
lệch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời hạn chế được tình trạng tranh chấp địa giới
hành chính có nguyên nhân từ chia, tách.
3.2. Một số giải pháp về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
3.2.1. Giải pháp chung
- Cần phải rà soát, bổ sung, hoàn thiện hoặc ban hành mới các văn bản pháp
luật, quy phạm pháp luật liên quan đến việc sắp xếp đơn vị hành chính bảo đảm
đồng bộ, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nguyện
vọng chính đáng, hợp lý của đa số nhân dân. Trước mắt áp dụng cho các đơn vị
thực hiện sắp xếp trong giai đoạn 2019 - 2021; sau khi tổng kết, tiếp tục hoàn thiện
phục vụ cho giai đoạn tiếp theo.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hoặc ban hành mới các văn bản quy định pháp
luật về sắp xếp tổ chức bộ máy; bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các
93
chế độ, chính sách cho những đối tượng bị tác động khi thực hiện sắp xếp các đơn
vị hành chính cấp xã.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự
thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền,
trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân về mục tiêu, yêu
cầu, ý nghĩa của việc thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã. Trong quá
trình thực hiện, không được có tư duy nóng vội, chủ quan duy ý chí, chạy theo chỉ
tiêu, thành tích. Ổn định tư tưởng, tâm tư, tình cảm của đội ngũ cán bộ, công chức
các xã, thị trấn thuộc diện sắp xếp. Trên các kênh thông tin truyền thông của tỉnh và
địa phương cần thường xuyên có những bài viết chất lượng của các chuyên gia, nhà
khoa học, nhà quản lý thực tiễn để phân tích, đánh giá, nhận định, các ý kiến đóng
góp giải pháp cho việc sáp nhập các đơn vị hành chính.
- Xây dựng và phê duyệt quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính của từng địa
phương phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện, của tỉnh
và đảm bảo mục tiêu chung của cả nước là đến năm 2030 các đơn vị hành chính cơ
bản đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Các địa phương khi xây dựng đề án và tổ chức thực hiện sáp nhập các đơn
vị hành chính phải có luận chứng, luận cứ khoa học đầy đủ, phải có sự tham vấn của
các chuyên gia, nhà quản lý thực tiễn và đồng thuận của nhân dân địa phương mới
triển khai thực thi.
- Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu đề cao trách nhiệm,
tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong tổ chức triển khai thực hiện và bảo đảm
sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành khi triển khai
thực hiện. Lãnh đạo địa phương và đội ngũ công chức tham mưu phải quán triệt sâu
sắc và hiểu rõ mục tiêu của Nghị quyết, mục đích của việc sắp xếp các đơn vị hành
chính không phải là giảm bớt đơn vị hành chính mà là tinh gọn bộ máy phù hợp để
phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền công
vụ. Kết quả thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã phù hợp theo quy định
94
là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể cấp ủy,
chính quyền và người đứng đầu.
- Xây dựng khung danh mục vị trí việc làm để các địa phương tiến hành xây
dựng vị trí việc làm. Trên cơ sở đó, xây dựng lộ trình thực hiện tinh giản biên chế,
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động theo các nghị
quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước và phù hợp với thực tế.
- Thực hiện dân chủ, khách quan, minh bạch trong việc rà soát, đánh giá, xếp
loại, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại các tổ chức trong bộ
máy hệ thống chính trị, bảo đảm lựa chọn được những người có phẩm chất, năng
lực để đảm nhận những vị trí công việc tại những đơn vị hành chính mới.
- Quan tâm giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động bị tác động do sắp xếp. Chậm nhất sau 5 năm kể từ
khi cấp có thẩm quyền quyết định sáp nhập, hợp nhất thì biên chế và số lượng cấp
phó của các đơn vị hành chính mới bảo đảm đúng theo quy định.
- Các cơ quan, ban ngành có liên quan ở cấp tỉnh, cấp huyện cần kịp thời
hướng dẫn chính quyền địa phương các cấp triển khai và tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân trong việc thực hiện thủ tục chuyển đổi các loại giấy tờ liên quan nhân
thân hoặc liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh khi thực hiện việc chuyển
đổi do thay đổi địa giới đơn vị hành chính.
- Ngân sách nhà nước bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ cho các địa phương trong
việc xây dựng đề án và thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã;
đồng thời tăng cường công tác kiểm tra bảo đảm việc sử dụng kinh phí đạt hiệu quả
cao nhất.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Đổi mới tư duy về ổn định tổ chức bộ máy
Cần phải đổi mới nhận thức về vai trò của đơn vị hành chính đối với hoạt
động quản lý nhà nước, đời sống kinh tế - xã hội. Sự phân chia đơn vị hành chính -
lãnh thổ không bao hàm ý nghĩa phân định và giới hạn không gian phát triển kinh tế
và không gian pháp lý của một quốc gia mà để thực hiện công việc quản lý nhà
95
nước. Việc chia tách, sáp nhập một đơn vị hành chính cấp xã hay đơn vị hành chính
khác không phải là việc riêng của địa phương mà có tác động đến hệ thống hành chính
nhà nước, đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của cả nước.
Cần phải đổi mới tư duy về tổ chức đơn vị hành chính theo hướng sự cần thiết
phải tồn tại các đơn vị hành chính cùng cấp, nhưng có quy mô khác nhau. Cần xóa
bỏ tư duy cào bằng, trung bình chủ nghĩa trong việc tổ chức các đơn vị hành chính.
Trong những năm qua, chúng ta có xu hướng tạo ra các đơn vị hành chính cấp xã có
quy mô tương đương nhau, điều này thực sự không hợp lý. Việc tồn tại các loại
hình đơn vị cùng cấp có quy mô khác nhau là một thực tế phổ biến trên thế giới.
Các quốc gia như New Zealand, Australia, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác có các
đơn vị hành chính cùng cấp nhưng quy mô khác nhau. Các nước này thay vì điều
chỉnh, chia tách thì xây dựng các đơn vị hành chính cùng cấp thành các loại. Chúng
ta đã có quy định về việc phân loại đơn vị hành chính tại Nghị quyết số
1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên cần
được xem là cơ sở để tổ chức quản lý cho phù hợp, không nên xem đó là những
mục tiêu định hướng cho việc xin nâng cấp khi chưa hội đủ những điều kiện cần và
đủ, chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn.
3.2.2.2. Về công tác tuyên truyền, vận động sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
Trong công tác tuyên truyền cần làm rõ tầm quan trọng, ý nghĩa và những tác
động tích cực của việc thực hiện chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; sự tinh gọn và hiệu lực, hiệu quả
tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp nhằm tổ chức
thực hiện có hiệu quả chủ trương trên. Làm cho mọi tầng lớp nhân dân, cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và người lao động thông suốt về nhận thức tư
tưởng, thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện; tạo sự nhất trí, ủng hộ cao trong cán
bộ, đảng viên, nhân dân ở các địa phương trực tiếp triển khai chủ trương sắp xếp
các đơn vị hành chính cấp xã.
96
Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành
chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn
thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội cho phát triển
kinh tế, xã hội trong từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc. Việc tổ chức thực
hiện phải bám sát yêu cầu, nội dung, lộ trình sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã
không đạt tiêu chuẩn cho giai đoạn tiếp theo 2021-2030 nêu trong Nghị quyết số 37-
NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 653/2019/UBTVQH14
ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Kế hoạch thực hiện sắp xếp
đơn vị hành chính ở cấp huyện, cấp xã của Chính phủ, chương trình hành động của
các địa phương, đơn vị thực hiện chủ trương này. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo Đại
hội đảng bộ cấp xã nhiệm kỳ 2020 - 2025 và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 theo đơn vị hành chính mới sau khi sắp xếp; tổng kết
việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã giai đoạn 2019 - 2021; xây
dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính của quốc gia và từng
địa phương phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm đến 2030 các
đơn vị hành chính trong cả nước cơ bản đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đề cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người
đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; nhấn mạnh kết quả thực hiện
sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã phù hợp theo quy định là một trong các tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể cấp ủy, chính quyền và người
đứng đầu. Làm rõ việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã gắn với việc tinh giảm
biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phải thực
hiện theo tinh thần các nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước,
hướng dẫn của các ban, Bộ, ngành liên quan về vấn đề này và phù hợp với tình hình
thực tế.
Phản ánh quá trình triển khai thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính
cấp xã; tuyên truyền nội dung kế hoạch, các văn bản hướng dẫn và trách nhiệm của
97
các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện chủ trương này. Thông tin công khai,
minh bạch các phương án, đề án sắp xếp, các chế độ, chính sách đến cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động dôi dư do thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp
huyện, cấp xã. Phản ánh công tác kiểm tra, giám sát, công tác xử lý vi phạm trong
quá trình thực hiện; biểu dương điển hình tiên tiến.
Ngoài ra, theo dõi, nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, kịp thời
phát hiện và tham gia giải quyết làm ổn định tình hình khi có những vấn đề phát sinh
trong quá trình triển khai do không được thông tin đầy đủ; việc xây dựng các đề án,
dự án không đảm bảo các yêu cầu chính đáng cần được tôn trọng của nhân dân về
văn hóa, tín ngưỡng; công tác xây dựng chương trình, đề án chậm không đảm bảo
tiến độ; công tác lấy ý kiến nhân dân không đúng quy trình; không đảm bảo công
khai minh bạch trong giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động dôi dư; cố tình bổ nhiệm, đề bạt, tuyển dụng cán bộ; gây khó khăn
cho nhân dân trong chuyển đổi các giấy tờ; luận điệu xuyên tạc, kích động nhân dân
của kẻ xấu phá hoại hay trục lợi từ việc thực hiện chủ trương này.
3.2.2.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về sắp xếp đơn vị hành chính
cấp xã
Trong thời gian qua, chưa có nhiều nghiên cứu tổng thể, quy hoạch có tính
chiến lược tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ. Việc đánh giá, tổng kết tác động của
việc chia tách, thành lập mới các đơn vị hành chính chậm được thực hiện, nhất là
cấp xã là cấp có biến động đơn vị hành chính nhiều nhất. Chưa xuất phát từ việc
xem xét hiệu quả phân bổ các nguồn lực của cả quốc gia để phân định, điều chỉnh
đơn vị hành chính. Các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất của các cơ quan nghiên cứu
khoa học về ảnh hưởng, tác động của điều chỉnh địa giới hành chính chưa được thể
chế vào các văn bản hiện hành để hạn chế tối đa việc thành lập đơn vị hành chính
mới. Các tiêu chí về địa lý nhân văn, địa lý tự nhiên, tài chính cũng chưa được
nghiên cứu, đặt ra khi xây dựng những quy định về điều chỉnh địa giới hành chính
cũng như chia tách, thành lập đơn vị hành chính. Do vậy, công tác hoàn thiện hệ
thống văn bản về chia tách, sáp nhập đơn vị hành chính là vấn đề rất cần được quan
98
tâm trong điều kiện hiện nay.
Tập trung ngay vào nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để thiết lập hệ thống luận
điểm, luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc đổi mới tư duy và nhận thức về mô hình
quản trị quốc gia, quản trị địa phương phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong tình hình mới; nội dung cần phải làm rõ đó là: Triết lý vận hành, quản trị quốc
gia, quản trị địa phương trong tình hình hiện nay. Quản trị địa phương sẽ theo mô
hình nào để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Mô hình cung cấp dịch vụ công “phi địa giới” cần
được triển khai tới đâu khi địa giới hành chính các địa phương sau sáp nhập được
mở rộng. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, năng lực đội ngũ nhân sự của chính
quyền địa phương tại các ĐVHC sẽ được thiết lập như thế nào khi được mở rộng
tầm hạn quản trị và tinh gọn bộ máy. Các địa phương sau khi được sáp nhập có
phạm vi quản lý rộng, quy mô dân số lớn sẽ được phân cấp, phân quyền tới đâu.
Các thiết chế giám sát, dân chủ đại diện ở địa phương sẽ như thế nào để bảo đảm
quyền dân chủ, giám sát của người dân.
Bài học rút ra của nhiều cấp ủy, đơn vị trong triển khai thực hiện nhiệm vụ
sắp xếp tinh giản tổ chức bộ máy là tập trung, dồn sức, xây dựng phương án, gắn lộ
trình, thận trọng, tránh nóng vội. Do đó, việc triển khai sáp nhập các đơn vị hành
chính mới đây đã được các địa phương tiến hành bài bản, bám sát chỉ đạo của cấp
trên, đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Một số địa phương đã ban hành Nghị
quyết chuyên đề về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức thuộc đơn vị sáp
nhập; đồng thời, đã tổng kết thực tiễn, kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
cũng đang là một bài học quan trọng rút ra trong công tác sắp xếp, tinh giản tổ chức
bộ máy năm 2019. Như vậy, công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật để thể chế hoá
các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng chính quyền cơ sở
nói chung và sắp xếp tổ chức lại bộ máy nói riêng là nhiệm vụ thiết yếu, vấn đề tài
chính, đầu tư xây dựng cơ bản, quy hoạch, sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức... rất
được quan tâm. Cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh cho
từng loại đối tượng công chức ở mỗi cấp chính quyền. Xác định rõ các mối quan hệ
99
hành chính giữa các vị trí công tác theo các quan hệ ngang và quan hệ dọc, các quy
hình và phương pháp xử lý công việc, giao quyền, trách nhiệm và xử lý trách nhiệm
đối với các chức danh. Cải cách nội dung chương trình và phương thức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, kết hợp tốt giữa hình thức đào tạo chính quy, tập trung
với các hình thức tự đào tạo, bồi dưỡng. Hoàn thiện các chính sách đãi ngộ đối với
cán bộ, công chức trong hệ thống chính quyền địa phương các cấp, trong đó chính
sách về tiền lương có ý nghĩa quyết định; tiền lương của cán bộ, công chức phải trở
thành một động lực quan trọng thúc đẩy công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, hạn
chế được các nguy cơ tiêu cực trong việc thi hành công vụ, đặc biệt là tệ tham
nhũng. Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức ở
các cấp chính quyền; tạo cơ chế pháp lý thích hợp để các tầng lớp nhân dân tham
gia trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảm bảo
cho mỗi công chức thật sự là các "công bộc" của nhân dân.
3.2.2.4. Giải pháp về tổ chức bộ máy
* Tổ chức phân loại đơn vị hành chính xã, thị trấn mới sau sáp nhập
Trong 8 xã, thị trấn thực hiện sáp nhập, có 5 đơn vị loại III, 3 đơn vị loại II.
Đơn vị hành chính mới sau sáp nhập có nhiều tiêu chuẩn thay đổi như quy mô dân
số, diện tích tự nhiên hoặc chỉ tiêu về kinh tế - xã hội. Do đó, các đơn vị hành chính
cấp xã phải tiến hành rà soát, đánh giá lại hiện trạng so với tiêu chuẩn phân loại và
loại đơn vị hành chính quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày
25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trên cơ sở đó đề nghị phận loại đơn vị
hành chính mới; đồng thời, qua xác định hiện trạng so với mức quy định để xây
dựng kế hoạch, giải pháp sớm đạt hoặc vượt các chỉ tiêu để nâng xếp loại đơn vị
hành chính mới.
Việc đổi tên thôn thành khóm (hoặc tổ dân phố): Đối với thôn 1, thôn 2, thôn
3, thôn 4, thôn Công Thương Nghiệp (xã Hải Thọ cũ) sau khi sáp nhập với thị trấn
Hải Lăng để thành lập thị trấn Diên Sanh thì UBND huyện Hải Lăng chỉ đạo UBND
thị trấn Diên Sanh xây dựng phương án đổi tên thôn thành khóm (hoặc tổ dân phố);
trong đó, trường hợp đổi tên thôn, khóm thì UBND thị trấn Diên Sanh lập hồ sơ,
100
xây dựng phương án và tổ chức lấy ý kiến của toàn thể cử tri hoặc cử tri đại diện hộ
gia đình trong thôn về phương án đổi tên theo quy định tại Thông tư số 14/2018/TT-
BNV ngày 03/12/2018 của Bộ Nội vụ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 04/2012/TT-BNV ngày 31 tháng 8 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng
dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố.
* Sắp xếp các Trạm Y tế thuộc xã, thị trấn sáp nhập
Theo quy định tại Thông tư số 33/2015/TT-BYT ngày 27/10/2015 của Bộ Y
tế về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế xã, phường, thị trấn thì
Trạm Y tế xã là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện, chịu sự quản lý toàn diện,
điều hành trực tiếp của Giám đốc Trung tâm Y tế huyện. Do đó, Sở Y tế tỉnh Quảng
Trị tích cực chỉ đạo Trung tâm Y tế tuyến huyện phối hợp chặt chẽ với cấp ủy,
chính quyền địa phương xây dựng phương án trong việc sắp xếp cơ sở y tế của các
đơn vị hành chính xã mới.
Việc quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế mới sau khi sắp xếp,
sáp nhập phải thực hiện theo đúng quy định, hướng dẫn của Bộ Y tế và các quy định
của pháp luật. Khi bàn giao phải giữ nguyên hiện trạng về số lượng viên chức, lao
động hợp đồng hiện đang làm việc tại các trạm y tế; tài sản, tài chính, đất đai, tài
liệu, hồ sơ và các vấn đề khác có liên quan. Từng bước cơ cấu lại đội ngũ viên chức
theo vị trí việc làm được phê duyệt, bảo đảm hợp lý về trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, chức danh nghề nghiệp viên chức và phát huy năng lực, sở trường để mỗi viên
chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Về nhân sự: Trong quá trình sắp xếp, sáp nhập trạm y tế, phải tạm dừng
việc bổ nhiệm chức vụ trạm trưởng, phó trạm trưởng cho đến khi sắp xếp xong tổ
chức bộ máy các trạm y tế. Việc sắp xếp, bố trí trạm trưởng, phó trạm trưởng của
trạm y tế mới phải ưu tiên những người đang giữ chức vụ lãnh đạo ở các đơn vị phải
sáp nhập khi bảo đảm đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. Trong quá trình sắp
xếp tổ chức bộ máy phải bảo đảm chế độ, chính sách và quyền lợi cho viên chức
theo quy định.
101
- Về cơ sở vật chất: Sau khi sáp nhập, cơ sở vật chất, trang thiết bị của trạm y
tế cũ sẽ giữ nguyên hiện trạng. Trạm Y tế mới sẽ được sắp xếp hoạt động tại trụ sở
chính và xem xét bố trí cơ sở 1, cơ sở 2. Trụ sở chính là trạm y tế tại xã đặt trụ sở
chính của đơn vị hành chính, cơ sở 1, cơ sở 2 là trạm y tế cũ (còn lại).
- Về hoạt động: Các hoạt động khám chữa bệnh, tiêm chủng, phòng chống
dịch bệnh... sẽ được triển khai cả ở trụ sở chính và cơ sở 1, cơ sở 2. Nghĩa là sau khi
sáp nhập, địa điểm để người dân khám chữa bệnh, tiêm chủng... không thay đổi.
* Sắp xếp các đơn vị trường học thuộc xã, thị trấn sáp nhập
Đối với 4 xã, thị trấn sau sáp nhập có 8 Trường Mầm non, 8 Trường Tiểu
học và Trung học cơ sở; để ổn định bộ máy các đơn vị trường học, UBND huyện
Hải Lăng sớm chỉ đạo, thực hiện việc xây dựng phương án sắp xếp lại các trường
học ở các xã, thị trấn mới theo quy định của pháp luật và chủ trương thực hiện sắp
xếp tinh gọn tổ chức bộ máy; sắp xếp, bố trí đội ngũ giáo viên theo quy định; có
phương án sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, trường lớp học, tránh lãnh phí để đảm
bảo cho công tác dạy và học đạt chất lượng, hiệu quả.
3.2.2.5. Về quản lý, sử dụng cán bộ, công chức sau sáp nhập xã, thị trấn
* Sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức dôi dư:
Khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã
là việc giải quyết vấn đề cán bộ, công chức dôi dư. Bộ máy đơn vị hành chính của 4
xã, thị trấn sau sáp nhập của huyện Hải Lăng đã ổn định đi vào hoạt động từ ngày
01/3/2020, số lượng cán bộ, công chức dôi dư là 47 người. Trước mắt, các cấp có
thẩm quyền cần tính toán đến việc cơ cấu nhân sự trước Đại hội cho phù hợp, tạo
điều kiện, ưu tiên những cán bộ, công chức dôi dư có năng lực (đã được quy hoạch)
để tham gia cơ cấu. Bên cạnh đó, phải xây dựng phương án, lộ trình cụ thể để tiếp
tục sắp xếp cán bộ, công chức cấp xã theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày
24/4/2019 của Chính phủ và Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của
Bộ Nội vụ, gắn thời gian cụ thể. Ngoài việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức còn
dôi dư thay thế cho cán bộ, công chức nghỉ hưu; cần xem xét, đánh giá ngũ cán bộ,
công chức cấp xã để xây dựng phương án bố trí, sắp xếp, điều chuyển sang các xã,
102
thị trấn trong huyện (nếu có trình độ chuyên môn phù hợp vị trí việc làm và còn chỉ
tiêu biên chế tại các xã) hoặc xét chuyển thành công chức cấp huyện.
Đối với các công chức được sắp xếp vào các vị trí chưa đủ điều kiện về bằng
cấp chuyên môn thì xem xét cần có lộ trình, để có thời gian thực hiện. Bởi thực tế,
những cán bộ, công chức dôi dư đều có đủ năng lực, trình độ và tuổi còn trẻ nên cần
có thời gian chờ thay thế những người sắp đến tuổi nghỉ hưu. Mặt khác, nếu được
sắp xếp sang vị trí việc làm mới, họ cũng cần có thời gian để được đào tạo, chuyển
đổi bằng cấp chuyên môn cho phù hợp. Đối với đội ngũ lãnh đạo các trường học,
trạm y tế xã bố trí sắp xếp đảm bảo nguồn nhân sự có trình độ, năng lực phù hợp
với vị trí lãnh đạo và thực tế công việc. Các trường hợp dôi dư do sáp nhập trường
học và trạm y tế thực hiện việc điều chuyển đến các đơn vị khác còn thiếu trên địa
bàn huyện Hải Lăng.
Tích cực gặp gỡ, trao đổi, vận động cán bộ, công chức thực hiện nghỉ hưu
trước tuổi để giải quyết chế độ, chính sách theo Nghị định 26/2015/NĐ-CP, Nghị
định 108/2014/NĐ-CP và ban hành chính sách đặc thù của địa phương, ngoài chính
sách quy định để hỗ trợ thêm đối với cán bộ, công chức nghỉ việc nhằm khuyến
khích và động viên quá trình công tác, cống hiến. Chẳng hạn như trường hợp ông
Phạm Đức Trung - nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Tiên Điền (nay là
thị trấn Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh đã chủ động xin nghỉ việc sau
khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính, mặc dù theo tuổi thì ông còn 10 năm nữa
mới nghỉ hưu. Với chế độ, chính sách theo quy định và chính sách đặc thù của tỉnh
Hà Tĩnh, ông Phạm Đức Trung nghỉ việc đã nhận lương cùng hỗ trợ nghỉ việc lên
đến 760 triệu đồng, đang thu hút sự chú ý của dư luận.
* Quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã
- Đổi mới công tác quy hoạch
Đảng ta xác định: Chuẩn bị đội ngũ kế tục là việc làm thường xuyên và phải
tiến hành theo quy hoạch. Theo đó, quy hoạch cán bộ trở thành một trong những
khâu chủ yếu của công tác cán bộ và phải được làm từ cán bộ lãnh đạo cao nhất
trong Đảng, Nhà nước cho đến cán bộ cơ sở. Để công tác quy hoạch cán bộ, công
103
chức cấp xã đạt hiệu quả cao, trước hết phải đổi mới nội dung và phương thức quy
hoạch, có quy chế, quy trình chặt chẽ và đi vào tiêu chuẩn hóa. Quy hoạch đi liền
với đào tạo, bồi dưỡng để kịp thời chuyển tiếp từng bước các thế hệ lãnh đạo; bảo
đảm phải hình thành cho được đội ngũ cán bộ, công chức có ba độ tuổi kế tiếp nhau.
Trong quy hoạch, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần thực hiện theo hướng
‘‘động’’ và ‘‘mở’’, mỗi chức danh phải quy hoạch từ 2-3 người và một người quy
hoạch cho 1-2 chức danh; phải đạt số lượng gấp 1,5 - 2 lần so với các chức danh
hiện tại và quy định thời gian cụ thể. Quy hoạch phải được nhận xét, đánh giá, bổ
sung và được rà soát, kiểm tra, điều chỉnh hằng năm. Thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo vị trí lãnh đạo tập trung
của Ban Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch UBND cấp xã, phát huy trách nhiệm người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; mở rộng dân chủ trong việc phát hiện
nguồn, nhân tài.
Trên cơ sở tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ, công chức cấp xã được
xây dựng, các cấp ủy Đảng xác định cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Trong từng chức danh cán bộ, công chức cấp xã, dự kiến được nhu cầu, khả năng ổn
định và biến đổi cụ thể. Tiến hành rà soát, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức
theo yêu cầu quy hoạch: cán bộ được đào tạo bài bản, hoàn thành tốt nhiệm vụ, có
khả năng đảm nhận chức vụ cao hơn; cán bộ có triển vọng phát triển, nhưng cần
được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn;
cán bộ, công chức hạn chế về năng lực, sức khỏe, không hoàn thành nhiệm vụ cần
được phân công, bố trí lại công tác; cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và ổn
định công tác. Trên cơ sở dự báo biến động và nhu cầu cho từng thời kỳ, cân đối số
lượng, cơ cấu cán bộ, công chức cấp xã hiện có trong từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, của từng chức danh mà lựa chọn cán bộ, công chức đưa vào diện quy
hoạch kế cận cho từng chức danh trước mắt và lâu dài.
- Đẩy mạnh việc luân chuyển, thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Sáp nhập không chỉ đơn thuần là việc gộp cơ học mà còn phải sắp xếp, tinh
giản đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ dôi dư. Vấn đề về tinh giản biên chế đã có
104
nhiều văn bản quy định, hướng dẫn và đưa ra nhiều giải pháp từ lâu nhưng không
giải quyết được triệt để vì nhận thức của không ít người còn nặng nề tư tưởng giữ
ghế. Có nghĩa, ai đã vào biên chế là nghĩ sẽ ngồi ở vị trí biên chế suốt đời; ai được
bổ nhiệm chức vụ nào đó thì không muốn thoái, chỉ muốn tiến. Tâm lý đó đè nặng
nên khi thay đổi về tổ chức, dôi dư số trưởng, phó, biên chế thì rất khó giải quyết.
Do đó, khi lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý của các đơn vị hành chính thực hiện
sáp nhập thì cần xem xét đến yếu tố thi tuyển; đối với nhân sự bầu cử thì phải qua
sát hạch như xây dựng chương trình hành động, đề án về nhiệm vụ và có lộ trình để
đánh giá kết quả thực hiện và lấy ý kiến, phiếu tín nhiệm đối với cán bộ bầu cử. Tuy
nhiên, việc thi tuyển cán bộ, nếu không củng cố các quy định thật chặt và không xử
lý nghiêm minh những sai phạm thì dễ dẫn đến nhờn luật. Chính vì vậy phải củng
cố các quy phạm pháp luật, trừng trị thật đích đáng, nghiêm khắc đối với tội lạm
quyền lực, phục vụ lợi ích riêng, lợi ích nhóm.
Đẩy mạnh việc luân chuyển cán bộ theo hướng điều động, luận chuyển một số
Trưởng, phó các Phòng, ban chuyên môn ở huyện về giữ các chức vụ Bí thư, Phó Bí
thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, thị trấn và một số chuyên viên các Phòng, ban
chuyên môn thuộc huyện về giữ chức Phó Chủ tịch UBND cấp xã; đồng thời điều
động, luân chuyển một số Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND cấp xã về làm
trưởng, phó các phòng, ban chuyên môn của huyện. Kết hợp việc luân chuyển cán bộ
với việc bố trí cán bộ chủ chốt cấp xã không phải là người địa phương. Cán bộ, công
chức được điều động, luân chuyển về cấp xã phải có trình độ đại học chuyên môn, đủ
năng lực và đảm bảo đủ tiêu chuẩn của vị trí công tác được điều động, luân chuyển
đến, có quá trình và kinh nghiệm công tác ít nhất là 5 năm trở lên.
Tăng cường chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định số 158/2007/NĐ-CP
của Chính phủ: Chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định số 158/2007/NĐ-CP của
Chính phủ là một trong những giải pháp góp phần phòng ngừa tình trạng cán bộ,
công chức, viên chức công tác tại một vị trí, một bộ phận quá lâu dẫn đến việc nắm
bắt được những sơ hở về cơ chế, chính sách trong lĩnh vực mình công tác, quản lý
để lợi dụng thực hiện hành vi tiêu cực, tham nhũng. Tuy nhiên, cần đổi mới phương
105
thức thực hiện chuyển đổi vị trí công tác; gắn việc chuyển đổi vị trí công tác với
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cán bộ thuộc diện chuyển đổi vị trí công tác
ngoài việc có cơ hội tiếp xúc với công việc mới, địa bàn mới cũng là điều kiện để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đó trưởng thành hơn, chứ không chỉ quan niệm đơn thuần
là chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng, chống tham nhũng, coi họ là tác nhân của
tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, ban hành chính sách đãi ngộ đối với một số nhóm
đối tượng đặc thù phải chuyển đổi vị trí công tác; ngoài chính sách hỗ trợ về vật
chất, cần có chính sách về công tác cán bộ, đó là cam kết nhận lại đơn vị cũ khi hết
thời hạn chuyển đổi; được ưu tiên cử đi học tập nâng cao trình độ; có kế hoạch bồi
dưỡng phát triển những cán bộ có triển vọng sau khi thực hiện chuyển đổi… nhằm
tạo sự yên tâm công tác cho những đối tượng thuộc diện chuyển đổi vị trí công tác.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng:
Tính đến ngày 01/4/2020, số lượng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn
huyện Hải Lăng có 390 người. Về trình độ chuyên môn, trong đó, Thạc sỹ 7 người,
Đại học 312 người, Cao đẳng 20 người, Trung cấp 51 người. Như vậy, theo quy
định tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ thì sau 5
năm số cán bộ, công chức (71 người) phải đạt chuẩn trình độ Đại học trở lên. Trong
thực tế còn không ít cán bộ, công chức cấp xã mới chỉ dừng lại ở trình độ cầm tay
chỉ việc; một số chức danh cán bộ cấp xã tuy đã đạt tiêu chuẩn về trình độ nhưng do
độ tuổi cao, năng lực hạn chế lại chưa đủ điều kiện nghỉ hưu, chưa có chính sách hỗ
trợ hợp lý nhằm động viên, khuyến khích những cán bộ này nghỉ việc nên chưa thể
bố trí, bổ nhiệm được cán bộ trẻ để thay thế. Do vậy, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương, của hệ thống chính trị luôn
là một trong những nội dung quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Thực
hiện nghiêm túc hình thức đào tạo với từng chức danh, độ tuổi cán bộ, công chức
cấp xã. Đối với cán bộ đạt tiêu chuẩn về văn hóa nhưng thiếu kiến thức khác, tiếp
tục duy trì phương thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày những kiến thức còn thiếu,
theo chức danh công việc, không đào tạo, bồi dưỡng chỉ cốt để có bằng cấp; đối với
cán bộ trẻ trong diện quy hoạch có triển vọng phát triển, phải có kế hoạch đào tạo
106
chính quy, tập trung, đúng yêu cầu đào tạo từng loại chức danh cán bộ, công chức
(kể cả đào tạo lại). Mặt khác, tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức về quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế, đạo đức, tác phong, lề lối làm việc và
kinh nghiệm giải quyết những tình huống cụ thể ở cơ sở.
- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức cấp xã:
Đánh giá cán bộ là vấn đề hệ trọng, rất nhạy cảm và phức tạp, là khâu mở
đầu quyết định đến các khâu khác của công tác cán bộ. Bởi vì, đánh giá cán bộ đúng
thì mới bố trí cán bộ đúng viêc, đúng tầm; đánh giá cán bộ sai dẫn đến bố trí cán bộ
sai, hỏng việc, hỏng cán bộ, vì vậy cần quán triệt quan điểm:
Đánh giá cán bộ, công chức cấp xã phải đáp ứng yêu cầu: lấy tiêu chuẩn cụ
thể của từng chức danh làm chuẩn mực, thước đo để đánh giá, phân loại cán bộ,
công chức. Từ đó, làm rõ những ưu điểm, khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực công tác và chiều hướng phát triển của
cán bộ, công chức cấp xã; đảm bảo tính khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và
phát triển. Phải trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,
thảo luận dân chủ, kết luận theo đa số, công khai đối với cán bộ, công chức được
đánh giá.
Một là, trên cơ sở tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể từng chức danh và
đặc điểm của từng địa phương, UBND huyện cần phải tiến hành tiêu chuẩn hóa các
chức danh cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương mình. Việc tiêu chuẩn hóa chức
danh cán bộ, công chức cấp xã phải theo hướng lượng hóa, cụ thể hóa và phát triển.
Hai là, khi đánh giá phải đặt mỗi cán bộ, công chức cấp xã trong một môi
trường, điều kiện cụ thể, trong mối quan hệ đường lối, chính sách, tổ chức và cơ chế
quản lý để xem xét quá trình phát triển toàn diện của cán bộ, công chức. Tránh đánh
giá một cách chủ quan, phiến diện, một chiều, thiếu khoa học.
Ba là, đánh giá cán bộ, công chức cấp xã phải theo định kỳ hằng năm hoặc
chuyên đề (thông qua các diễn đàn chi bộ để đánh giá vai trò, trách nhiệm của đảng
viên và cán bộ, công chức). Trong đánh giá, thì bản thân cán bộ và cơ quan có thẩm
quyền các cấp, nơi công tác và sinh sống phải thực hiện tốt trách nhiệm của mình từ
107
bước tự đánh giá đến góp ý, tham gia đánh giá, nhận xét, quyết định.
Bốn là, kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ, công chức cấp xã phải mang tính
tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức và cá nhân (người có trách nhiệm) tham gia
nhận xét, đánh giá. Từ kết quả đó, CBCC cấp xã được phân loại theo 4 mức: Hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ ; hoàn thành tốt nhiệm vụ ; hoàn thành nhiệm vụ nhưng
còn hạn chế về năng lực; không hoàn thành nhiệm vụ.
- Định hướng, phân công nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức sau sáp nhập
Các xã, thị trấn sau sáp nhập có một số chức danh do nhiều cán bộ, công
chức đảm nhận như Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch
UBND; Văn phòng - Thống kê, Văn hóa - Xã hội, Tư pháp - Hộ tịch, Tài chính - Kế
toán nên việc phân công, bố trí nhiệm vụ mỗi địa phương mỗi khác, không thống
nhất. Do đó, cần có định hướng, hướng dẫn phân công nhiệm vụ rõ ràng, không
trùng lặp, chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ, gắn với trách nhiệm của mỗi cán bộ,
công chức; đồng thời phát huy sự phối hợp, giúp đỡ nhau trong công việc.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát quản lý cán bộ
Kiểm tra giám sát và quản lý cán bộ là hoạt động nhằm nắm chắc thông tin,
diễn biến về tư tưởng, hoạt động của cán bộ, giúp cho cấp uỷ, lãnh đạo phát hiện
vấn đề nảy sinh, kịp thời điều chỉnh và tác động làm cho đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ luôn luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc quy định. Thực tế cho
thấy, một số cán bộ khi mới được bầu, được bổ nhiệm đều là những người tốt, có
đạo đức, trung thành tận tụy, liêm khiết, có uy tín. Song trong quá trình hoạt động,
một phần do thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ, không được quản lý tốt đã dẫn đến
thoái hoá biến chất, sa ngã. Để giữ gìn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần phải
tăng cường công tác quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ theo phương châm:
- Cấp uỷ và tổ chức Đảng phải trực tiếp tiến hành quản lý, kiểm tra cán bộ.
Mọi hoạt động của cán bộ đều phải được quản lý kiểm tra và giám sát chặt chẽ.
- Tăng cường việc kiểm tra giám sát của quần chúng đối với cán bộ, của cán
bộ cấp dưới đối với cán bộ cấp trên và ngược lại.
108
- Kiểm tra phải có kết luận cụ thể rõ ràng, phải đạt được mục đích là nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ phải chú trọng tính toàn diện, tính kịp
thời cả về chính trị, tư tưởng đạo đức và kết quả hoạt động chuyên môn; về sinh
hoạt tư tưởng; quản lý và kiểm tra chế độ tự học tập, rèn luyện của cán bộ. Kết hợp
chế độ kiểm tra định kỳ thường xuyên với việc kiểm tra đột xuất. Đặc biệt là xây
dựng quy chế bắt buộc mọi cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải chịu sự kiểm tra
giám sát của quần chúng. Thực tế trong những năm qua, quần chúng có vai trò rất
lớn trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, nhiều vụ việc tiêu cực tham nhũng
của cán bộ đều do quần chúng hoặc các cơ quan thông tin đại chúng phát hiện, tố
giác và đấu tranh. Cần có quy chế cụ thể để quần chúng tham gia vào hoạt động
này. Làm tốt việc kiểm tra giám sát sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại,
phân cấp quản lý, theo dõi giám sát bảo vệ cán bộ, đưa công tác này vào nền nếp.
- Đổi mới chính sách đối với cán bộ
Chính sách là sản phẩm của con người, nhằm tác động vào một khâu hay một
quá trình để vận động cùng chiều với quy luật phát triển khách quan của xã hội,
nhằm đạt tới những mục tiêu đã định. Chính sách đúng hướng, có lợi nhất góp phần
thúc đẩy sự phát triển. Chính sách sai sẽ là vật cản gây ách tắc trong quá trình vận
hành kinh tế - xã hội, làm giảm tốc độ phát triển hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
Đổi mới chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, mục tiêu trước mắt là tháo
gỡ những bất cập, những tồn đọng về chế độ chính sách đối với cán bộ theo các quy
định hiện hành. Mục tiêu lâu dài là tiến hành để đổi mới toàn diện đối với cấp cơ sở,
trong đó tập trung vào việc đổi mới chính sách cán bộ xã, phường, thị trấn vào
những năm tiếp theo. Đây là những vấn đề mà Đảng cộng sản và Nhà nước ta luôn
quan tâm. Bởi chính giải quyết cơ bản được các vấn đề của cấp cơ sở sẽ tạo điều
kiện thuận lợi để mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến
với từng người dân, làm cho dân hiểu, dân tin và thực sự đi vào cuộc sống. Đồng
thời chính quyền cấp xã sẽ là những nhịp cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân.
109
Đời sống và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp, nếu giải
quyết được hài hòa lợi ích vật chất và tinh thần cho họ thông qua các chính sách,
chế độ, thì cán bộ, công chức, viên chức mới yên tâm tập trung cho công tác, giảm
bớt sự ràng buộc, phụ thuộc vào kinh tế gia đình. Chính sách đãi ngộ vật chất, động
viên tinh thần một cách hợp lý và thỏa đáng là một nhân tố quan trọng góp phần làm
trong sạch đội ngũ, giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không tham nhũng,
lãng phí tiền bạc và công sức của nhân dân. Đó cũng là nhân tố làm tăng cường ý
thức trong dân, phục vụ dân, bởi họ hiểu chính sách, chế độ mà họ được hưởng là
tiền của công sức của nhân dân đóng góp. Chính sách đãi ngộ về vật chất và động
viên tinh thần còn là yếu tố quan trọng để đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ,
trọng dụng những người có đức, có tài trong và ngoài Đảng tham gia các hoạt động
ở cơ sở, để họ đóng góp vào công việc chung của đất nước.
3.2.2.6. Giải pháp về vấn đề tài chính
Trong quá trình thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, về vấn đề tài
chính cần lưu ý những nội dung sau:
- Một là, hướng dẫn chế độ, tiêu chuẩn, định mức các khoản chi liên quan
đến việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã.
Để thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã có nhiều khoản chi tiêu
tài chính liên quan, đó là: Chi xây dựng Đề án sắp xếp đơn vị hành chính thuộc
phạm vi quản lý của địa phương; Chi tổ chức tuyên truyền, vận động thực hiện chủ
trương sắp xếp của Bộ Chính trị, của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Đề án sắp xếp
khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Chi tổ chức lấy ý kiến cử tri theo quy định
của pháp luật; Chi giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính.
Trong các nội dung chi, nhiều nội dung đã có văn bản pháp luật hướng dẫn.
Vì vậy, có thể căn cứ pháp luật hiện hành để hướng dẫn vận dụng. Đối với những
nội dung phát sinh mới cần phải nghiên cứu để ban hành theo thẩm quyền hoặc
trình Chính phủ ban hành. Mặt khác, ngoài chế độ đối với cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động dôi dư đã có quy định chung tại Nghị định số 113/2018/NĐ-
110
CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ, do tính chất đặc biệt của đợt sắp xếp, Ủy ban
thường vụ Quốc hội có quy định trên cơ sở cân đối ngân sách, các địa phương cần
cân nhắc để có chính sách khuyến khích hỗ trợ ngoài chính sách tinh giản biên chế
hiện hành cho đợt sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã này. Để bảo đảm
thực hiện đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước cũng cần có hướng dẫn cụ
thể, phù hợp điều kiện mỗi địa phương.
- Hai là, hướng dẫn việc bảo đảm kinh phí thực hiện sắp xếp đối với các địa
phương nhận bổ sung, cân đối từ ngân sách trung ương sau khi đã sử dụng nguồn
kinh phí thường xuyên, ngân sách nhà nước được giao trong thời kỳ ổn định ngân
sách. Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có
quy định cho trường hợp này, nhưng để có cơ sở trình cấp có thẩm quyền quyết định
việc hỗ trợ theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước cần phải có hướng dẫn cụ thể
việc tổng hợp nhu cầu, kiểm tra số liệu để bảo đảm kịp thời, không làm ảnh hưởng
đến việc sắp xếp.
- Ba là, tổ chức công tác kiểm tra bảo đảm sử dụng kinh phí đạt hiệu quả cao.
Đây là một trong các giải pháp được nêu cùng với việc bố trí hỗ trợ nguồn kinh phí
cho các địa phương được xác định trong Nghị quyết số 37-NQ/TW. Để tránh việc
sử dụng kinh phí không đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức, việc kiểm tra phải được
thực hiện cùng với quá trình sắp xếp đơn vị hành chính.
- Bốn là, hướng dẫn xử lý những vấn đề tài chính, tài sản đối với các đơn vị
hành chính cấp xã sau sắp xếp. Căn cứ Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 sẽ có
một số nội dung cần quan tâm nghiên cứu, hướng dẫn, đó là:
+ Về thực hiện pháp luật tài chính do sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã: cần
phải tiến hành rà soát để đảm bảo tuân thủ đối với đơn vị hành chính mới sau sắp
xếp, trong đó có việc liên quan đến chuyển đổi các loại giấy tờ cá nhân, tổ chức
theo quy định như: “Không thu các loại lệ phí khi thực hiện việc chuyển đổi do thay
đổi địa giới hành chính”…
+ Nhất thiết không vì sắp xếp mà ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ tài
chính, ngân sách trên địa bàn khi xác định, giao nhiệm vụ thu, nhiệm vụ chi cho đơn
111
vị hành chính mới. Để có cơ sở xác định, phải nắm chắc số liệu đã thực hiện tại thời
điểm sắp xếp, từ cơ sở nộp thuế đến dự toán thu, dự toán chi đã thực hiện và còn lại.
+ Về quản lý tài sản công có nhà đất, các tài sản công khác trong quá trình
sắp xếp đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc: “mọi tài sản công đều phải được
Nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử dụng và các hình thức trao quyền khác cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối tượng khác theo quy định của Luật quản lý, sử dụng
tài sản công và pháp luật có liên quan”. Để thực hiện cần có hướng dẫn cụ thể về
kiểm kê tài sản và có cơ chế quản lý thích hợp theo quy định của Luật quản lý, sử
dụng tài sản công, không để thất thoát, lãng phí. Mặc dù đây là những vấn đề thuộc
phạm vi trách nhiệm quản lý của địa phương nhưng cũng cần có hướng dẫn để áp
dụng thống nhất.
3.2.2.7. Giải pháp ổn định hoạt động đơn vị hành chính cấp xã mới sau
sắp xếp
Sau khi sáp nhập, các xã, thị trấn tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt
được, ra sức khắc phục những khó khăn, tồn tại, tiếp tục phát huy nội lực, khai thác
tốt tiềm năng trong nhân dân để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; huy động mọi nguồn lực để thực hiện
tốt các nhiệm vụ được giao.
- Về phát triển kinh tế:
Tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển bền vững, phối hợp với các cơ quan chuyên môn cấp huyện điều chỉnh
các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội phù hợp với thực tiễn của địa phương. Quản lý và
thực hiện tốt công tác thu, chi ngân sách theo chỉ tiêu trên giao hàng năm. Chú trọng
đến các nguồn thu chính như thuế nhà đất, thuế công nghiệp. Nguồn chi phải đảm
bảo hoạt động chi thường xuyên trong năm. Từng bước thực hiện tốt công tác tự
chủ theo quy định, chống lãng phí và thực hành tiết kiệm. Quản lý, sử dụng việc
thu, chi các loại quỹ vận động trong nhân dân đúng quy định.
112
Ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn vốn
đầu tư phát triển, phân bổ ngân sách chi thường xuyên, tổ chức bộ máy, biên chế
cán bộ, công chức và tiền lương, phụ cấp… thích hợp với từng loại hình đơn vị
hành chính.
Xây dựng kế hoạch sản xuất, xác định cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp mới
phù hợp với quy mô của đơn vị hành chính mới và phù hợp điều kiện tự nhiên về
thổ nhưỡng và khí hậu của từng khu vực; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường; chủ động phòng chống thiên tai. Công tác quốc phòng, an ninh; bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, cứu hộ, cứu nạn.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch xây dựng cơ bản, nhất là những dự án
do UBND huyện Hải Lăng phân cấp cho địa phương làm chủ đầu tư, phối hợp quản
lý tốt việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các dự án theo đúng quy hoạch.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với ứng dụng khoa
học, công nghệ, tạo đột phá để tăng năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới đã đạt được trong giai
đoạn 2010-2020. Huy động mọi nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu đạt
theo chuẩn mới. Giữ vững, ổn định tình hình nông thôn; bảo vệ môi trường sinh
thái. Tiếp tục thực hiện chỉnh trang nông thôn, xây dựng tuyến đường kiểu mẫu,
ngày nông thôn mới, xây dựng thôn nông thôn mới, gia đình nông thôn mới.
- Về văn hóa - xã hội
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình hành động về văn hóa, giáo
dục, y tế; nâng cao chất lượng phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư" gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Duy trì và
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị, làng, thôn, khóm văn hóa.
Thực hiện tốt chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với
cách mạng và các đối tượng chính sách, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Quan
tâm hỗ trợ người lao động thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển sản xuất,
tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững và tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội.
113
Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách theo quy định. Quan tâm
chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chủ động
phòng ngừa dịch bệnh; thực hiện tốt công tác dân số, gia đình và trẻ em. Huy động
các nguồn lực để đầu tư mua sắm trang thiết bị, dụng cụ y tế nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu khám chữa bệnh. Tăng cường công tác quản lý hoạt động y, dược tư nhân;
thường xuyên kiểm tra, giám sát, phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực
phẩm; kịp thời phát hiện, khống chế không để dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra và lây
lan trên địa bàn.
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng hợp tác đào tạo, nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng xu hướng phát triển cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Đẩy mạnh công tác định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh sau
tốt nghiệp THCS, THPT theo hướng gắn việc nâng cao chất lượng giáo dục phổ
thông với giáo dục nghề nghiệp và dạy nghề. Xây dựng trường kiểu mẫu, trường
chất lượng cao; tăng cường giáo dục đạo đức, kỹ năng, giáo dục thể chất cho học
sinh, bảo đảm an toàn trường học.
Phấn đấu đạt chỉ tiêu đào tạo nghề, tạo việc làm mới và xuất khẩu lao động
hằng năm. Đẩy mạnh công tác dạy nghề, gắn với giải quyết việc làm. Chú trọng đào
tạo nghề cung ứng nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động, nhu cầu các dự án đầu
tư tại Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị.
- Về quốc phòng, an ninh
Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, gắn chặt với quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân, bảo đảm hoàn thành các chương trình huấn luyện, diễn
tập xây dựng và cũng cố lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, hoàn
thành tốt các chỉ tiêu giao quân, chỉ tiêu xây dựng lực lượng. Trang bị đầy đủ cơ sở
vật chất phục vụ cho huấn luyện và trực sẵn sàng chiến đấu.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác huấn luyện quân sự, giáo
dục chính trị, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và
Nhân dân. Chủ động xây dựng các phương án phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu
nạn. Xây dựng lực lượng công an, quân sự từ huyện đến cơ sở ngày càng vững về
114
chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện tốt Kế hoạch bố trí Công an chính quy về cơ
sở; Nghị quyết số 01-NQ/HU ngày 15/6/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy Hải
Lăng về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân sự, công an xã, thị trấn, dân quân
tự vệ, dự bị động viên, công an viên, bảo vệ dân phố giai đoạn 2015-2020, định
hướng đến năm 2025.
Tăng cường công tác vận động quần chúng tham gia phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc; qua đó tuyên truyền sâu rộng ý thức cảnh giác trong nhân dân,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt chương
trình mục tiêu 3 giảm, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn trộm cắp, tiếp tục
ngăn ngừa nạn ma túy và các tệ nạn xã hội, không để xảy ra trọng án trên địa bàn.
Thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy, không để tình trạng cháy nổ gây thiệt
hại về người và tài sản của nhân dân.
- Về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của chính quyền cấp xã
Các đơn vị hành chính cấp xã sau sáp nhập có địa bàn dân cư rộng, cách xa
trung tâm của xã mới nên sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước của chính
quyền địa phương cũng như vấn đề đi lại của người dân trong công tác giao dịch
các hồ sơ giấy tờ. Hiện nay, Chính phủ và các địa phương đang thực hiện đẩy mạnh
cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, công nghệ
thông tin được áp dụng rất mạnh mẽ trong hoạt động của chính quyền địa phương.
Vì vậy, địa bàn quản lý xa nhưng nếu đẩy mạnh cải cách hành chính theo chỉ đạo
của Chính phủ, thực hiện tốt ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng tốt những
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì hiệu quả làm việc của
chính quyền địa phương trong quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội cũng
như phục vụ cho người dân sẽ tốt hơn và hiệu quả hơn. Do đó, việc các đơn vị hành
chính sáp nhập lại có diện tích tự nhiên rộng hơn không phải là vấn đề gây khó khăn
hay băn khoăn cho công tác quản lý trong điều kiện hiện nay.
115
Đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, quản
lý nghiêm túc bộ máy phục vụ nhân dân gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả. Tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập các “cơ cấu mềm” như
các ban chỉ đạo, hội đồng, dự án… liên xã, liên huyện, liên tỉnh để giải quyết các
vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý lãnh thổ, phát triển kinh tế và nâng cao chất
lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
Trong quá trình chúng ta đang thực hiện thông điệp của Chính phủ là xây
dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân và ứng dụng công nghệ
thông tin mạnh mẽ để xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, việc sáp
nhập này tác động trở lại, buộc phải đẩy mạnh nhiều hơn nữa, nếu muốn làm việc
được. Nếu không thực hiện, sẽ không vượt qua được thách thức. Khi sáp nhập, bắt
buộc bộ máy chính quyền địa phương phải chuyển động theo, tiếp cận và đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý của các cơ quan, trong
việc giao tiếp với người dân, không nhất thiết buộc người dân phải đến trụ sở. Việc
sáp nhập này không chỉ là thách thức, mà còn là cơ hội để chính quyền địa phương
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và đẩy mạnh cải cách, nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của mình. Đây vừa là thách thức, nhưng cũng là cơ hội.
- Về chuyển đổi hồ sơ, giấy tờ cho người dân
Đảng ủy, chính quyền cấp xã cần xác định việc thực hiện chuyển đổi các
giấy tờ cho người dân là nhiệm vụ trọng tâm, đảm bảo hoạt động ổn định sau sáp
nhập, không làm xáo trộn, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Quán triệt
nghiêm túc tinh thần trên tới toàn thể cán bộ, công chức; cử cán bộ trực tại các trụ
sở cũ để hướng dẫn người dân khi có nhu cầu giải quyết thủ tục hành chính, thực
hiện chuyển đổi giấy tờ cá nhân liên quan. Tăng cường tuyên truyền trên hệ thống
truyền thanh về chủ trương cũng như hướng dẫn người dân các bước khi thực hiện
chuyển đổi, đính chính thông tin giấy tờ. Đồng thời, chính quyền cấp xã phối hợp
với các cơ quan chức năng cấp huyện để thành lập các đoàn, tổ công tác để đi đến
từng khu vực, thôn, xóm thực hiện chuyển đổi giấy tờ cho người dân như chứng
minh nhân dân, sổ hộ khẩu và một số giấy tờ liên quan đến thông tin cá nhân. Bên
116
cạnh đó, thường xuyên bố trí cán bộ, công chức có trình độ, năng lực giải quyết tốt
công tác thay đổi thông tin, địa chỉ trên các loại giấy tờ, hồ sơ của các tổ chức, cá
nhân. Phối hợp công tác điều tra dữ liệu dân cư với công tác cấp mới, cấp đổi, thay
đổi thông tin trên các loại giấy tờ, tránh gây phiền hà và làm phát sinh những chi
phí không đáng có.
- Sử dụng hợp lý trụ sở dôi dư sau sáp nhập xã, thị trấn
Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã trong tình hình hiện nay theo tinh
thần Nghị quyết 832/NQ-UBTVQH14 là hết sức cần thiết, nhằm tinh gọn bộ máy,
giảm đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở.
Tuy nhiên, việc sử dụng các công sở, trung tâm học tập cộng đồng xã sau sáp nhập
sao cho phù hợp, hạn chế thấp nhất sự lãng phí tiền của của Nhà nước và Nhân dân
vẫn đang là bài toán khó đối với hầu hết các địa phương.
Đối với công sở các xã sau khi sáp nhập không được lựa chọn sử dụng thì
được hợp nhất vào các xã mới thành lập, đồng thời nghiên cứu, có phương án sử
dụng cho phù hợp phục vụ hoạt động cho tập thể, cho nhân dân, bố trí các cơ
quan, tổ chức Nhà nước còn khó khăn về nơi làm việc hoặc thực hiện chuyển đổi
theo quy định của Nhà nước.
Giao trụ sở dôi dư cho các thôn, khu dân cư làm nhà văn hóa là một giải
pháp, nhất là với các nơi chưa có nhà văn hóa. Sử dụng trụ sở dôi dư thành nhà làm
việc của các cơ quan, đơn vị, khối đoàn thể, công an xã, ban quản lý các khu di tích
của địa phương hoặc sử dụng trụ sở dôi dư của các xã làm trạm y tế, điểm giao dịch,
trưng bày quảng bá các sản phẩm địa phương hoặc nơi sinh hoạt cộng đồng... cũng
nên được tính đến. Mục tiêu cần đạt được là trụ sở xã dôi dư sau sáp nhập được sử
dụng hiệu quả, tránh lãng phí, góp phần phát triển văn hóa, giáo dục, thương mại,
dịch vụ... của các địa phương.
Cùng với việc sắp xếp, bố trí các trụ sở không sử dụng thì trong thời gian tới
cần quan tâm công tác quy hoạch cơ sở hạ tầng, đảm bảo địa điểm trung tâm, thuận
lợi đối với hoạt động giao dịch của người dân và tạo điều kiện cho bộ máy chính
quyền cấp xã hoạt động có chất lượng và hiệu quả là điều hết sức quan trọng. Cần
117
phải thấy được, trụ sở chính quyền cấp xã không chỉ là nơi hội họp, làm việc mà
còn biểu hiện bộ mặt của chính quyền cấp xã, quyền lực của nhà nước.
3.2.2.8. Một số giải pháp về nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chính
quyền cấp xã
- Xây dựng, củng cố chỉnh quyền cấp xã hướng đến xây dựng mô hình
chính quyền tự quản địa phương
Cần thiết phải khắc phục quan niệm chính quyền cơ sở chỉ thuần túy là cấp
chính quyền thấp nhất và cấp dưới trực thuộc của cấp huyện, cấp tỉnh, chịu sự lãnh
đạo, điều hành trực tiếp của chính quyền cấp trên, có trách nhiệm thực hiện các
nhiệm vụ cấp trên giao phó theo đúng quan hệ quyền uy và phục tùng. Cách quan
niệm về chính quyền cơ sở như vậy đã biến chính quyền cơ sở thành "cái phễu",
thành công cụ giải quyết mọi vấn đề của cấp trên. Trong mối quan hệ hành chính -
quyền lực, chính quyền cơ sở là chính quyền cấp dưới các cấp huyện, cấp tỉnh, do
đó có trách nhiệm phục tùng chính quyền cấp trên, thực hiện các nhiệm vụ quản lý
nhà nước theo sự phân cấp của luật pháp, sự ủy quyền của chính quyền cấp trên.
Nhưng với tính cách là một cấp chính quyền có phạm vi tự chủ xác định nhằm thực
hiện quyền tự quản cộng đồng, chính quyền cơ sở có vai trò và vị trí độc lập tương
đối, có quyền tự quyết định các công việc của mình trong phạm vi quyền tự chủ
theo luật định và nhu cầu của chế độ tự quản cộng đồng dân cư trên địa bàn.
Đây là xu hướng tất yếu mà nhiều quốc gia đang thực hiện trong quản trị địa
phương. Bởi lẽ, địa phương gắn với lãnh thổ. Quản trị địa phương là quản lý theo
chiều ngang, quản lý mọi vấn đề thuộc phạm vi lãnh thổ địa phương. Đối với chính
quyền xã được hình thành ở đơn vị hành chính xã là đơn vị hành chính tự nhiên
thỏa mãn cả hai đặc trưng cộng đồng dân cư và cộng đồng lãnh thổ. Muốn quản lý
tốt cộng đồng dân cư sinh sống trên phạm vi lãnh thổ tự nhiên thì không chỉ theo
pháp luật, bằng pháp luật mà cần dựa trên cơ sở phong tục, tập quán, truyền thống
của địa phương. Vì vậy, những công việc nào của cộng đồng làng xã thì nên để cho
cộng đồng làng xã thực hiện. Trong phạm vi quản lý của mình, chính quyền tự quản
được giao quyền về tổ chức, nhân sự, tài chính… để thực thi chức năng, nhiệm vụ,
118
quyền hạn. Điều này vừa tăng tính trách nhiệm của chính quyền xã vừa giảm tải
công việc của chính quyền cấp trên; đồng thời tránh được sự đùn đẩy trách nhiệm
và phân biệt thứ bậc trong vận hành quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi thực hiện tự
quản địa phương, người dân có điều kiện và cơ hội được thực hiện quyền làm chủ
của mình một cách trực tiếp, thực chất và hiệu quả.
Tự quản không phải “phép vua thua lệ làng” mà dựa trên cơ sở luật pháp,
trên cơ sở xác định rõ phạm vi việc gì chính quyền xã được làm thì chính quyền xã
được quyết và được bảo đảm thực hiện. Quyền lực nhà nước luôn là thống nhất,
thông suốt từ trung ương tới cơ sở. Trong nhà nước pháp quyền, luật pháp là công
cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội. Mọi tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật. Vì vậy, đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính quyền xã theo mô hình
tự quản vẫn phải nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực hiện thống nhất trên cả nước.
- Đổi mới hiệu quả hoạt động chính quyền cấp xã
Khoản 2 Điều 111 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Cấp chính quyền địa
phương gồm có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân được tổ chức phù hợp với
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Việc
thể chế hóa quy định này của Hiến pháp đặt ra các yêu cầu đổi mới cách thức tổ
chức, hoạt động của chính quyền xã theo hướng tổng hợp đa ngành, liên ngành và
không đơn thuần chỉ là “cánh tay nối dài” của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhìn
chung, ở cấp cao hơn, các cơ quan nhà nước cần phải được tổ chức thành một hệ
thống các cơ quan có tính chuyên môn hóa cao, để có điều kiện chuyên sâu nghiên
cứu, chỉ đạo, quản lý hoặc giải quyết về một lĩnh vực cụ thể nhất định trong hoạt
động của nhà nước, còn ở cấp cơ sở như xã, thường mang tính đa ngành, liên ngành.
Chẳng hạn, khi giải quyết các công việc quan trọng có liên quan đến cơ sở, như tài
chính, giáo dục, xây dựng, trật tự - an ninh thì UBND xã bắt buộc vừa phải tuân
theo các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải tuân theo quyết nghị của
HĐND xã. Như vậy, nếu các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ở cấp cao hơn do
nhiều loại cơ quan khác nhau cùng thực hiện thì ở cấp xã chỉ do một cơ quan là
119
UBND xã, thực hiện theo cách tổng hợp đa ngành và liên ngành. Bởi lẽ, một đặc
trưng nổi bật ở cấp cơ sở, trong đó có cấp xã, là sự thống nhất, đôi khi đến mức nhất
thể hóa, quá trình lãnh đạo, quản lý với quá trình trực tiếp triển khai thực hiện trên
thực tế các đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Do phải quản lý một địa bàn lãnh thổ nhất định với một số thôn/làng có truyền
thống tự quản khá cao và chịu sự khế ước của một số đặc điểm vùng miền, có khi
của cả đặc điểm tộc người và tôn giáo, nên chính quyền xã có vai trò độc lập tương
đối. Vì thế, xét về nguyên tắc, trong tổ chức và hoạt động của chính quyền xã, luôn
đòi hỏi tính chất đa ngành, liên ngành với một số nét đặc thù và tính độc lập nhất
định tùy từng loại hình xã (xã đồng bằng, xã vùng ven đô, xã vùng núi, xã vùng
đông dân tộc ít người, xã có nhiều tín đồ các tôn giáo,...).
+ Đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân xã: Trong nhiều năm, khi tổng
kết hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã, một thực tế được nhiều người thừa
nhận là tình trạng hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả và thường bị Ủy ban nhân
dân cùng cấp chi phối. Trước tình hình trên, việc thực hiện thí điểm mô hình Bí thư
Đảng uỷ kiêm Chủ tịch HĐND xã. Việc thực hiện mô hình này sẽ đáp ứng yêu cầu
đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã, sẽ gắn được chức năng kiểm tra, kiểm
soát của Đảng với chức năng giám sát của HĐND xã. Từ đó có thể nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của tổ chức Đảng và HĐND trên địa bàn xã, thị trấn.
+ Đối với hoạt động của Ủy ban nhân dân xã: Ở đây có nhiều vấn đề phải
làm rõ, như: xây dựng UBND xã thành một cơ quan phối hợp hành động đa chức
năng, nhiều tác dụng, vừa là cơ quan quyết nghị những vấn đề thuộc đơn vị xã,
đồng thời là cơ quan chấp hành của các cơ quan nhà nước cấp trên và cũng như là
cơ quan hành chính nhà nước điều hành các công việc trên phạm vi địa phương
mình; hay vai trò của cơ quan này như một cơ quan tư pháp để giải quyết những
tranh chấp dân sự, những việc liên quan đến hôn nhân và gia đình; khám phá và giải
quyết những vi phạm pháp luật nhỏ mà tính chất nguy hiểm ở mức độ thấp. Thực tế
đó đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước ở mỗi nơi cũng cần có những tính chất đặc thù
nhất định. Chẳng hạn, ở những vùng nông nghiệp thì trong UBND xã cần có một
120
cán bộ chuyên trách về nông nghiệp; còn tại những vùng rừng núi thì nên có một
cán bộ chuyên phụ trách về lâm - nông nghiệp,.... Như vậy, mỗi địa phương khác
nhau có thể tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với những đặc thù của địa phương,
nhưng vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc chung về chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của một UBND xã.
- Phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể
Cần phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng
và công tác mặt trận, các đoàn thể nhân dân ở xã, thị trấn; trong đó, đặt trọng tâm
vào việc đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng, nhất là
đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân
dân trong xã, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở và đối với những
chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền và đoàn thể. Cần
coi trọng việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa bí thư cấp uỷ với chủ
tịch HĐND, chủ tịch UBND, chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và những người
đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội sát hợp với
nhu cầu, lợi ích của hội viên, đoàn viên; đáp ứng yêu cầu tham gia giám sát, phản
biện đối với công tác lãnh đạo, quản lý của tổ chức đảng và chính quyền xã.
- Xây dựng thôn, khóm tự quản là vấn đề cần thiết trong đổi mới tổ
chức, hoạt động của chính quyền cấp xã hiện nay
Thôn, khóm tự quản cần phải có quy mô dân số nhất định, vì nó còn liên
quan đến cơ sở vật chất và hệ thống tổ chức phù hợp cho một đơn vị dân cư tự
quản. Để xây dựng thôn, thôn tự quản phải phân cấp hợp lý các nhiệm vụ chỉ đạo
điều hành sản xuất, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh,
xây dựng nông thôn mới cho thôn, thôn tự lo. Các khoản đóng góp của nhân dân
trong thôn nên nộp về UBND xã quản lý giữ hộ, khi làm xã phải khảo sát thiết kế
dự toán và xuất kinh phí cho thôn tổ chức thực hiện dưới sự giám sát của đại diện
nhân dân trong thôn. Làm xong, xã phải cùng thôn nghiệm thu quyết toán theo đúng
định mức kinh tế, kỹ thuật và đơn giá với đầy đủ chứng từ theo đúng nguyên tắc
121
quản lý tài chính và trưởng thôn báo cáo công khai ngay với nhân dân trong thôn.
Các hoạt động thể thao văn hoá của thôn, họp nhân dân trong thôn, sinh hoạt đoàn
thể của thôn nằm trong kế hoạch, chi phải có giấy chi của người chủ trì được thôn
phê duyệt, Chủ tịch UBND mới cắt chi.
Cách quản lý trên đây đối với thôn và đoàn thể cơ sở thôn giúp Chủ tịch
UBND xã nắm chắc và quản lý được các hoạt động của thôn thôn. Thôn không giữ
tiền hoàn toàn loại trừ được tiêu cực tham nhũng ở cơ sở thôn. Từng bước xây dựng
hoàn thiện cơ sở vật chất đáp ứng cho các hoạt động theo mô hình tự quản của thôn.
Thôn phải có quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất riêng của mình để từng bước hoàn
thiện lưới điện, hệ thống đường xá trong thôn, xóm đến tận hộ gia đình.
Xây dựng thôn, xóm tự quản gắn với xây dựng làng văn hoá, gia đình văn
hoá là điều kiện quan trọng để tạo ra quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân thôn,
thôn trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội, trật tự trị an để xây
dựng cuộc sống mới khu dân cư và xây dựng nông thôn mới văn minh, tiến bộ. Thông
qua xây dựng thôn, xóm tự quản mà cũng cố được hệ thống chính trị cơ sở thôn, xóm
trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết, gần gũi với cuộc sống mọi mặt của nhân dân.
Chi bộ phải lo lãnh đạo nhân dân thôn, xóm mình thực hiện các nhiệm vụ theo mô hình
xây dựng thôn, xóm tự quản, sát với cuộc sống của nhân dân.
Làm tốt việc xây dựng thôn, xóm tự quản thì cấp xã chỉ phải tập trung giải
quyết những vấn đề chung của toàn xã và những vấn đề vượt quá khả năng giải
quyết của thôn. Từ đó dẫn đến đổi mới hoạt động của các ngành, các đoàn thể của
xã hướng xuống thôn, xóm vừa giúp các tổ chức ở cơ sở thôn, xóm, vừa xây dựng
phong trào của chính mình ngay tại cơ sở.
3.2.2.9. Xây dựng bộ tiêu chí sắp xếp đơn vị đơn vị hành chính hợp lý, không
đơn giản chỉ là quy mô dân số, diện tích tự nhiên.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác đã có thay đổi, đặt ra
vấn đề thu gọn đầu mối quản lý bằng việc tổ chức lại các đơn vị tổ chức hành chính
là cần thiết. Do đó, việc sắp xếp đơn vị hành chính để đảm bảo các tiêu chuẩn chủ
trương là đúng đắn. Cần xây dựng một bộ tiêu chí hợp lý, không đơn giản chỉ là quy
122
mô dân số, diện tích tự nhiên mà còn có các yếu tố như: cơ cấu dân số, cơ cấu kinh
tế ra sao, có tiện lợi cho việc thu thuế, cũng như việc triển khai các hoạt động kinh
tế theo định hướng của Nhà nước hay không; kết cấu hạ tầng liên kết giữa cấp xã,
huyện như thế nào, một mặt quản lý dân cư một cách thuận lợi, mặt khác cũng góp
phần thúc đẩy giao thương giữa đơn vị hành chính cấp xã, huyện.
Bên cạnh đó, phải tính đến điều kiện thực thi quản lý trật tự an toàn xã hội
thích hợp với năng lực bộ máy; cũng cần tính đến công nghệ quản lý, trong bối cảnh
hiện nay chúng ta đang xây dựng môi trường quản lý, làm việc trên không gian
mạng. Một yếu tố cốt lõi nhất là văn hóa. Bởi xây dựng đơn vị hành chính cấp xã
không chỉ thuần túy là dân cư mà đó còn là những giới hạn tương đồng về văn hóa.
Văn hóa là cái gốc để giữ sự liên kết của cộng đồng dân cư. Nếu yếu tố này không
được xem xét đến thì việc sáp nhập có thể trở thành câu chuyện “cưỡng bức” tập tục
văn hóa của một cụm dân cư này có thể xung đột với tập tục văn hóa của cụm dân
cư khác. Yếu tố này cũng chi phối tới hoạt động quản lý nhà nước, bởi văn hóa là
gốc rễ của mọi hành vi thì việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã với những tập
tục, thói quen, thậm chí tín ngưỡng tôn giáo, nếu không có sự đồng thuận thì dễ có
sự xung đột. Theo đó, cần rà soát lại các tiêu chí tổng thể để nhận diện quy mô cấp
xã như thế nào cho hợp lý, dưới xã có bao nhiêu đơn vị thôn, bản; kết nối, giao dịch
dân cư như thế nào là phù hợp. Cần nhấn mạnh tới tiêu chí về địa lý, điều kiện giao
thông đi lại. Đồng bằng có diện tích lớn, đi trong một tiếng đồng hồ là có thể hết địa
phận xã, trong khi ở miền núi, với điều kiện phương tiện chưa hiện đại, thì việc đi
lại cũng như giao dịch của người dân với chính quyền cấp xã cũng phải tính bao
nhiêu thời gian.
Xây dựng quy trình thẩm định việc chia tách đơn vị hành chính chặt chẽ hơn.
Khi có đề án xin điều chỉnh, chia tách cần phải có sự thẩm định khoa học, đánh giá
toàn diện về hiệu quả kinh tế - xã hội. Đề án chia, tách, sáp nhập đơn vị hành chính
cấp xã mới cần được bổ sung thêm đề án phát triển kinh tế - xã hội, thuyết minh
được đầy đủ tính khoa học, tính hiệu quả, tính khả thi của việc điều chỉnh. Khi đề
án phát triển này không chứng minh được cơ sở phát triển của việc chia, tách thì
123
không cho chia, tách. Xây dựng cơ chế lấy ý kiến của người dân đối với việc chia,
tách, thành lập đơn vị hành chính mới. Đồng thời, cần mở rộng sự tham gia ý kiến
của cộng đồng xã hội đối với các đề án liên quan đến việc sắp xếp đơn vị hành
chính. Việc tăng cường tiếng nói từ phía người dân cũng là yêu cầu cần thiết để xem
xét về tính hợp lý, tính hiệu quả của việc thành lập đơn vị hành chính mới.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với Trung ương:
Đề nghị Trung ương ban hành thêm chính sách cho đội ngũ cán bộ, công
chức dôi dư sau sắp xếp nhằm đảm bảo quyền lợi, khuyến khích những người đã có
cống hiến lâu năm có nguyện vọng xin nghỉ việc.
Bộ Nội vụ cần có cơ chế riêng đối với trường hợp xét chuyển cán bộ, công
chức cấp xã thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh để thuận lợi trong quá trình thực
hiện việc điều chuyển (khi chuyển thay đổi hình thức sát hạch qua phỏng vấn bằng
hình thức xét hồ sơ, trình độ và năng lực công tác), vì hiện nay cán bộ, công chức
cấp xã khi chuyển thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh vẫn phải do cấp tỉnh tổ chức
sát hạch đạt yêu cầu thì mới cho chuyển.
* Đối với UBND tỉnh Quảng Trị:
Xây dựng hệ thống danh mục, bản mô tả vị trí việc làm cán bộ, công chức và
người hoạt động không chuyên trách cấp xã nhằm thực hiện nhiệm vụ, giải pháp
của Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) về cải cách chính sách tiền lương, tiến tới
trả lương cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Nghị quyết số 653/2019/NQ-UBTVQH14 ngày 12/3/2019 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định, kinh phí thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã
do ngân sách địa phương bảo đảm. Do đó, đề nghị tỉnh Quảng Trị xem xét ban hành
chính sách riêng để hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức dôi dư nghỉ việc do sáp
nhập đơn vị hành chính, nhất là đối với các trường hợp nghỉ việc mà không đủ điều
kiện để giải quyết các chế độ, chính sách (Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính
phủ, Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương).
124
* Đối với UBND huyện Hải Lăng:
Để đảm bảo các đơn vị hành chính mới hình thành sau sắp xếp ổn định, phát
triển theo đúng chủ trương, ngoài những định hướng, giải pháp cho việc ổn định,
phát triển của xã, thị trấn, đề nghị UBND huyện Hải Lăng có giải pháp, ưu tiên tiếp
tục đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo các điều kiện thuận
lợi thuận nhất cho người dân trong việc ổn định sản xuất, kinh doanh tại đơn vị
hành chính mới.
Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá sự tham gia của người dân trong việc
giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã.
Tổ chức sơ kết công tác sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn huyện
để đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc và bài học kinh nghiệm
để làm cơ sở xây dựng Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã đạt chuẩn quy định,
giai đoạn 2022 - 2030.
125
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Đơn vị hành chính cấp xã là một bộ phận quan trọng trong hệ thống lãnh thổ
hành chính nhà nước. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đối với đơn vị hành chính
cấp xã đến nay đã phát sinh những yêu cầu thay đổi cả về chất lượng hoạt động và
số lượng đơn vị. Tình trạng đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quy mô quá nhỏ,
không gian phát triển bị chia cắt đang gây nhiều khó khăn cho yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Với mục tiêu sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã đặt ra lần này có
quy mô rộng, bao trùm hơn và bắt đầu từ chính các đơn vị hành chính cấp xã, đó là
nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát
triển của đất nước; bảo đảm hoàn thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; góp phần phát huy mọi
nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm
quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm ổn định, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của tổ chức bộ máy và hoạt động đơn vị sau sáp nhập. Dựa trên những lý luận và
thực tiễn tại địa phương, luận văn đưa ra giải pháp thiết thực, bảo đảm tính khả thi;
giải pháp chú trọng đến việc sắp xếp, bố trí và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức ở đơn vị hành chính mới, đẩy mạnh cải cách hành chính, hoạt động của
chính quyền địa phương trong quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội cũng
như phục vụ cho người dân sẽ tốt hơn và hiệu quả hơn.
126
KẾT LUẬN
Chính quyền xã, thị trấn được xác định là cấp cơ sở, gần dân nhất, nơi dân
trực tiếp trước tiên để giải quyết các công việc hành chính như chứng nhận, xác
thực, đăng ký…; tiếp nhận và xử lý theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của công dân. Mỗi đơn vị hành chính đều gắn liền với một bộ phận dân cư
nhất định mà cuộc sống của họ được bảo đảm bởi các hoạt động kinh tế - xã hội
diễn ra trên địa bàn đơn vị hành chính đó. Bất cứ sự thay đổi nào về địa giới đơn vị
hành chính đều kèm theo sự thay đổi về những điều kiện tự nhiên - xã hội nhất định,
gây nên những xáo trộn, khó khăn nhất định cho người dân địa phương, cũng như
tạo ra những trở ngại nhất định trong việc phục vụ nhân dân, quản lý hành chính của
bộ máy chính quyền nhà nước. Mặt khác, xã là nơi các cộng đồng dân cư sinh sống,
được hình thành và gắn bó thông qua quan hệ láng giềng, có nhiều mối quan hệ rất
cần được giải quyết không chỉ trên cơ sở pháp luật mà còn cả trên cơ sở đồng thuận
và tự nguyện, tự quản. Vì vậy, việc ổn định đơn vị hành chính cấp cấp xã là điều hết
sức cần thiết trong điều kiện phát triển hiện nay.
Từ khi đất nước hoàn toàn thống nhất tới nay, các đơn vị hành chính đã có
nhiều lần thay đổi lớn. Quá trình chia, tách đơn vị hành chính các cấp, bên cạnh một
số kết quả trước mắt đạt được như việc quản lý của chính quyền gần dân, có những
thay đổi nhất định về kinh tế - xã hội thì việc chia, tách cũng dẫn đến phân tán các
nguồn lực, tiềm năng phát triển của các địa phương, làm cho bộ máy nhà nước thêm
cồng kềnh, tăng biên chế,... Do đó, sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã là một chủ
trương lớn, được đánh giá như một cuộc cách mạng về cải cách hành chính và là
công việc rất hệ trọng, liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến ổn định chính trị - xã
hội, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt là tâm tư, nguyện
vọng của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các địa phương.
Công tác sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Hải Lăng
đã thực sự đi vào cuộc sống được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân đón nhận, qua đó góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu
quả đầu tư kinh tế, xã hội; hiệu lực hoạt động hệ thống chính trị và mở ra thời cơ
127
mới, thách thức mới đối với sự phát triển của địa phương. Việc sắp xếp đơn vị hành
chính cấp xã mới được hình thành sau sắp xếp phải đạt tiêu chuẩn về diện tích tự
nhiên, quy mô dân số theo quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13. Tuy
nhiên, một số đơn vị sau khi sắp xếp vẫn chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định với các
lý do căn bản là có yếu tố đặc thù về truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cộng đồng
dân cư hoặc yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, vấn đề sắp xếp tổ
chức bộ máy là một bài toán khó, khi thực hiện cần linh hoạt nhưng phải đảm bảo
nguyên tắc; đồng thời, phải xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện cụ thể và cần phải
có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận, giám sát của người dân.
Nhìn chung, mọi việc thay đổi, điều chỉnh địa giới hành chính cần phải do
người dân quyết định, phải được sự đồng tình của người dân. Cần phải coi sự đồng
tình, ủng hộ của người dân là vấn đề có tính nguyên tắc trong việc sáp nhập, điều
chỉnh đơn vị hành chính. Do đó, việc triển khai thực hiện sắp xếp các đơn vị hành
chính cấp xã phải đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ, phù hợp, chặt chẽ, thận trọng,
không gây xáo trộn lớn và bất ổn về chính trị - xã hội và trên tinh thần việc sáp nhập
xã, thị trấn nhằm đảm bảo tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; sáp nhập
để mạnh hơn, sáp nhập để có điều kiện nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn
chứ không phải sáp nhập chỉ đơn thuần, cơ học về mặt hành chính
Nhận thức sự cần thiết, tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề, luận văn đã
nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện, ổn định bộ máy chính quyền đối với xã, thị trấn sáp nhập trong thời gian tới.
Hy vọng rằng, với các giải pháp về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn
huyện Hải Lăng thì kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hơn cơ
sở pháp lý về vấn đề này. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của đơn vị hành chính cấp xã nói chung và các xã, thị trấn sáp nhập nói riêng trong
thời gian tới. Vừa thể chế hoá kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nhất là về tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế và cải cách
thủ tục hành chính. Vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
128
ở địa phương, vừa bảo đảm vai trò thống nhất quản lý của chính quyền trung ương,
vừa bảo đảm sự phân cấp, phát huy vai trò chủ động, tự lực của chính quyền địa
phương và tối đa hoá nguồn lực, lợi thế của vùng, miền. Vừa bảo đảm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
129
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Andrew J. Sherman, Milledge A. Hart(2009), Mua bán và sáp nhập tổ chức từ 1 A đến Z, NXB.Tri thức.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hải Lăng (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện Hải 2 Lăng (1930-1975).
Ban chấp hành Trung ương Đảng (2007), Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày
3 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy Nhà nước.
Ban chấp hành Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
4 25/10/2017 về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 về việc tiếp tục đổi 5 mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng.
Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 về hội quần 6 chúng.
Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 về việc sắp 7 xếp đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã, Hà Nội.
Bộ Nội vụ (2011), Báo cáo tổng quan kết quả đề tài độc lập cấp Nhà nước “Cơ
8 sở lý luận và thực tiễn của việc xác lập đơn vị hành chính các cấp, đáp ứng yêu
cầu ổn định và phát triển đất nước”.
Bộ Nội vụ (2017), Thông tư số 09/2017/TT-BNV ngày 29/12/2017 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 03/8/2012 9 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân
phố, Hà Nội.
Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 14/2018/TT-BNV ngày 03/12/2018 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31 tháng 8 năm 10 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ
dân phố, Hà Nội.
Bộ Nội vụ (2019), Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 hướng dẫn
11 một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, Hà Nội.
Bộ Y tế (2015), Thông tư số 33/2015/TT-BYT ngày 27/10/2015 về việc hướng 12 dẫn chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
Chính phủ (2007), Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 về việc quy
13 định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định về
14 chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn.
Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 ban hành chương 15 trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.
Chính phủ (2014), Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính 16 sách tinh giản biên chế.
Chính phủ (2015), Nghị định 26/2015/NĐ-CP ngày 09/3/2015 quy định chế độ đối
17 với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Chính phủ (2018), Nghị định số 54/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 hướng dẫn
18 việc lấy ý kiến cử tri về thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn
vị hành chính.
Chính phủ (2019), Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 về việc sửa
19 đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, Hà Nội.
Học viện Hành chính quốc gia (2000), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành 20 chính ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
Huyện ủy Hải Lăng (2015), Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Hải Lăng lần thứ 21 XV.
22 Ngô Đăng Tri, Đỗ Thị Thanh Loan: "Bốn lần điều chỉnh địa giới hành chính
Thành phố Hà Nội thời kỳ 1954 - 2008, ý nghĩa và kinh nghiệm";
https://khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn/bn-ln-iu-chnh-a-gii-hanh-chinh-thanh-ph-
ha-ni-thi-k-1954-2008-y-ngha-va-kinh-nghim/.
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 23 2013.
24 Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị (2020), Hướng dẫn số 48/HD-SNV ngày 17/01/2020
về sắp xếp, bố trí và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức và người 25 hoạt động không chuyên trách khi sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã theo
Nghị quyết số 832/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
UBND huyện Hải Lăng (2019), Công văn số 615/UBND-NV ngày 18/7/2019
26 về việc lập, niêm yết danh sách cử tri để lấy ý kiến về phương án sắp xếp đơn
vị hành chính cấp xã.
UBND huyện Hải Lăng (2019), Công văn số 706/UBND-NV ngày 14/8/2019
27 về việc tổ chức lấy ý kiến cử tri về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp
xã.
UBND tỉnh Quảng Trị (2014), Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày
11/02/2014 quy định số lượng, chức danh, mức phụ cấp đối với những người
28 hoạt động không chuyên trách và khoán kinh phí hoạt động đối với các tổ chức
chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn và thôn, bản, khu phố trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị.
UBND tỉnh Quảng Trị (2017), Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày
01/8/2017 quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn xét chọn, hợp đồng, quản 29 lý, sử dụng đối với khuyến nông và thú y cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai
đoạn 2017 - 2020.
UBND tỉnh Quảng Trị (2017), Quyết định số 987/QĐ-UBND ngày 15/5/2017 30 về việc giao số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
UBND tỉnh Quảng Trị (2018), Quyết định số 1322/QĐ-UBND ngày 15/6/2018 31 về việc ban hành đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị hành chính cấp xã; thôn,
bản, khu phố; cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập.
UBND tỉnh Quảng Trị (2019), Kế hoạch số 74/KH-UBND ngày 07/01/2020 về
32 việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp
xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Trị.
UBND tỉnh Quảng Trị (2020), Công văn số 159/UBND-NC ngày 13/01/2020 về 33 việc điều chỉnh thời gian triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13
34 ngày 25/5/2016 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành
chính, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019), Nghị quyết 653/2019/UBTVQH14 ngày
35 12/3/2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai
đoạn 2019 - 2021, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019), Nghị quyết 832/NQ-UBTVQH14 ngày 36 17/12/2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Trị.
"Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền
địa phương ở Việt Nam", https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/kinh-nghiem- 37 cai-cach-cua-nhat-ban-va-viec-xay-dung-mo-hinh-chinh-quyen-dia-phuong-o-
viet-nam.htm.
"Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền
địa phương ở Việt Nam", https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/kinh-nghiem- 38 cai-cach-cua-nhat-ban-va-viec-xay-dung-mo-hinh-chinh-quyen-dia-phuong-o-
viet-nam.htm.
"Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, huyện ở Hà Tĩnh - Bài 1: Những bài học
39 kinh nghiệm", http://daidoanket.vn/mat-tran/sap-xep-don-vi-hanh-chinh-cap-
xa-huyen-o-ha-tinh-bai-1-nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-tintuc448568.