- 1 -
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chúng ta vẫn nói rừng là vàng nhưng thực tế rừng đã đem lại cho chúng ta
những lợi ích gì? Trên thế giới cũng như Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên
cứu và công nhận giá trị to lớn của rừng. Song một nghịch lý là một bộ phận không
nhỏ người dân sống phụ thuộc vào rừng vẫn đang trong tình trạng đói nghèo! Làm
thế nào để phát triển tài nguyên rừng, để rừng thật sự là "rừng vàng" đã và đang là
vấn đề cần quan tâm của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, trong đó có liên quan đến
nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước. Giao đất lâm nghiệp được coi là một
trong những chính sách đúng đắn góp phần nâng cao ý thức cũng như tính tự chủ
của người dân trong việc quản lý, phát triển tài nguyên rừng; phát triển kinh tế xã
hội nâng cao đời sống nhân dân vùng ven rừng và trong rừng.
Trong những năm qua cùng với việc triển khai hàng loạt các chương trình
trồng rừng quy mô lớn 661, 327…chính sách giao đất lâm nghiệp cũng được đẩy
mạnh trên toàn quốc, từ trung ương đến cơ sở, nó đã và đang phát huy được tác
dụng trong phát triển kinh tế xã hội nói chung, kinh tế HGĐ làm rừng nói riêng.
Công tác GĐGR được tiến hành đồng thời từ việc giao đất trống đồi núi trọc, giao
rừng tự nhiên nghèo, giao rừng trồng, rừng đặc sản như quế, hồi, thông… Đến nay
theo số liệu thống kê của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường (30/9/2007) đã có
8.111.898 ha đất lâm nghiệp đã được giao cho 1.109.451 tổ chức, HGĐ và cá nhân.
Trong đó có 3.164.821 ha đất lâm nghiệp đã được giao và cấp giấy chứng nhận cho
1.1102.258 hộ gia đình, cá nhân, với diện tích trung bình là 2,87 ha/hộ gia đình.
Như vậy đến nay đã có khoảng 62% tổng diện tích đất lâm nghiệp được giao,
nếu xét về tiến độ GĐGR thì đây không còn là vấn đề cấp bách. Vấn đề ở chỗ người
dân đã làm gì trên đất được giao? Hay xét ở khía cạnh lớn hơn chính sách này đã
ảnh hưởng đến cuộc sống cộng đồng, đến tài nguyên rừng như thế nào? Tích cực
hay tiêu cực, mức độ tác động mạnh hay yếu? Nó đã thực sự phát huy hết mục tiêu
đề ra hay chưa… đó vẫn còn là những câu hỏi!
- 2 -
Những nghiên cứu tổng kết cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được: Nâng độ che phủ lên 43%; tổng trữ lượng gỗ là 813,3 triệu m3 và khoảng 8,5 tỉ cây tre,
nứa; tổng diện tích lâm sản ngoài gỗ được gây trồng là 379.000 ha, chủ yếu tập
trung ở 3 vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Bắc [2]… không thể không kể
đến những hạn chế của chương trình này. Theo nhóm nghiên cứu Trường Đại học
Lâm nghiệp trong "Lâm nghiệp giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở Việt Nam" đã
đưa ra kết luận giao đất lâm nghiệp chưa giúp được người nghèo thoát nghèo!
Vậy đâu là thực tế của vấn đề? Phải chăng những diện tích rừng được giao chỉ
mới phát huy tác dụng của nó trong các vùng kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao,
những vùng kinh doanh rừng thuận lợi? Cộng đồng vùng sâu vùng xa vẫn đang
trong vòng quay luẩn quẩn của đói nghèo, vẫn khó khăn mặc dù đã làm chủ những
diện tích rừng lớn? Làm thế nào để rừng phát huy được tác dụng của nó; góp phần
xoá đói giảm nghèo cho cộng đồng sống gần rừng và trong rừng; đặc biệt những
cộng đồng vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí thấp. Muốn làm được điều đó phải
đánh giá được hiện trạng GĐGR, hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp được giao tại
các khu vực này, đánh giá được hiệu quả cũng như ảnh hưởng của chương trình
GĐGR đến đời sống người dân nói chung đến sinh kế nói riêng. Qua đó tìm ra được
những điểm mạnh, những điểm còn hạn chế làm cơ sở đề xuất các hướng khắc phục
đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình theo đúng ý nghĩa của nó.
Là một huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế, có tỉ lệ đất có rừng
tương đối lớn, trong những năm qua Nam Đông cũng đã tích cực tiến hành chính
sách giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng, HGĐ, cá nhân… quản lý. Song trong quá
trình thực hiện GĐGR, quản lý và sử dụng rừng được giao đã gặp nhiều khó khăn,
hiện tại đời sống của người dân một số nơi đã được giao đất chưa được cải thiện
hoặc cải thiện rất ít. Phải chăng chương trình này chưa phù hợp hay chưa phát huy
được thế mạnh của nó trên vùng đất này? Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề tôi
tiến hành luận văn "Đánh giá tác động của chính sách giao đất giao rừng tới sinh
kế người dân tại xã Thượng Quảng - huyện Nam Đông - tỉnh Thừa Thiên Huế".
- 3 -
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Lý thuyết về sinh kế của người dân
2.1.1 Ở ngoài nước 2.1.1.1 Khái niệm sinh kế
- Theo DFID 2001: Sinh kế có thể mô tả như tổng hợp của nguồn lực và năng
lực liên quan tới các quyết định và hoạt động của một người nhằm cố gắng kiếm
sống và đạt được các mục tiêu và mơ ước của mình.
- Sinh kế của một HGĐ, hay một cộng đồng còn được gọi là kế sinh nhai hay
phương kế kiếm sống của HGĐ hay cộng đồng đó. Ý tưởng về sinh kế được định
nghĩa bởi Robert Chambers vào những năm 80, sau đó được phát triển hơn nữa bởi
Chamber và Conway [30] vào đầu những năm 1990. Từ đó một số cơ quan phát
triển đã tiếp nhận khái niệm sinh kế và cố gắng đưa vào thực hiện. Theo tác giả một
sinh kế gồm có: Những khả năng, những tài sản (bao gồm cả nguồn tài nguyên vật
chất và xã hội) và những hoạt động cần thiết để kiếm sống. Một sinh kế được xem
là bền vững khi nó có thể đối phó và khôi phục trước tác động của những áp lực và
những cú sốc, và duy trì hoặc tăng cường những năng lực lẫn tài sản của nó trong
hiện tại và tương lai, trong khi không làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Chiến lược sinh kế là quá trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ, bao gồm
những vấn đề như thành phần hộ, tính gắn bó giữa các thành viên, phân bố các
nguồn lực vật chất và phi vật chất của hộ [33]. Để duy trì cuộc sống HGĐ thường
có các chiến lược sinh kế khác nhau. Theo Seppala chiến lược sinh kế có thể chia
làm 3 loại:
Chiến lược tích luỹ: Là chiến lược dài hạn nhằm hướng tới tăng trưởng và có thể là
kết hợp của nhiều hoạt động hướng tới tích luỹ của cải và giàu có.
Chiến lược tái sản xuất: Là chiến lược trung hạn gồm nhiều hoạt động tạo thu nhập,
những ưu tiên có thể nhắm tới hoạt động cộng đồng và an ninh xã hội.
Chiến lược tồn tại: Là chiến lược ngắn hạn, gồm cả các hoạt động tạo thu nhập chỉ
để tồn tại mà không có tích luỹ.
Tóm lại sinh kế của HGĐ, cộng đồng là kế sinh nhai hay phương kế kiếm
sống của HGĐ, cộng đồng đó nó bao gồm các nguồn lực và năng lực liên quan đến khả năng kiếm sống và đạt được những mơ ước của họ.
- 4 -
2.1.1.2 Quan điểm sinh kế bền vững
- Sinh kế bền vững có thể được tạo lập khi đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Chống đỡ được với những cú sốc và áp lực bên ngoài
+ Không phụ thuộc vào các hỗ trợ từ bên ngoài (hoặc được hỗ trợ bằng cách
thức bền vững về kinh tế và thể chế).
+ Được thích nghi hoá để duy trì sức sản xuất lâu dài của nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
+ Bền vững mà không làm suy yếu và ảnh hưởng tới các giải pháp sinh kế của
Tài sản sinh kế
Quá trình thay đổi thể chế
H
N
S
Các tổn thương - Cú sốc - Xu thế - Mùa vụ
P
F
Chiến lược sinh kế
Cấu trúc - Cấp của chính phủ - Khu vực -Luật Tư -Chính sách nhân - Văn hoá - Thể chế
Thu nhập sinh kế - Tăng thu nhanh - Sức khoẻ tăng - Giảm các tổn thương - Cải thiện an ninh lương thực
những người khác [33]. Khung sinh kế bền vững được mô tả vắn tắt trên sơ đồ hình 2.1.
Chú giải F: Vốn tài chính H: Vốn con người S: Vốn xã hội N: Vốn tự nhiên P: Vốn vật chất.
Hình 2.1: Khung sinh kế bền vững [32] - Để đạt tới mức độ bền vững rõ ràng là một cộng đồng, một HGĐ, hoặc một
cá nhân cần có một số tài sản được khái niệm hoá là "năm loại vốn cần có để đạt được sinh kế bền vững" FAO 2001 [33]
+ Vốn thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng, nước và đồng cỏ.
+ Vốn nhân lực: Sức khoẻ, mức độ dinh dưỡng, kỹ năng và trình độ học vấn.
+ Vốn xã hội: Quan hệ họ hàng, bạn bè, xã hội kể cả các mối quan hệ với các
cơ quan tổ chức chính thức mà một người có thể dựa vào đó để mở rộng các giải
pháp sinh kế.
+ Vốn tài chính: Tiền mặt như thu nhập hay tiền tiết kiệm có thể sử dụng làm
vốn luân chuyển.
- 5 -
+ Vốn cơ sở vật chất: Được xếp vào 3 nhóm là tài sản tư nhân như gia súc và
công cụ canh tác, tài sản công cộng như đường xá, cơ sở hạ tầng xã hội như trường
học và bệnh viện.
2.1.2 Ở trong nước
- Theo từ điển tiếng Việt: Sinh kế chính là cách làm ăn để mưu sự sống. - Theo Bùi Đình Toái: Khái niệm về sinh kế có thể miêu tả như là một tập hợp
của các nguồn lực và khả năng của con người có thể kết hợp được với những quyết
định và những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt
đến mục tiêu và ước nguyện (tham vọng của họ) [25]
- Sinh kế còn có thể được mô tả như tổng hợp của các nguồn lực liên quan tới
các quyết định và hoạt động của một người nhằm cố gắng kiếm sống và đạt được
các mục tiêu và mơ ước của mình [29]. Tiêu chí sinh kế bền vững gồm: an toàn
lương thực, cải thiện điều kiện môi trường cộng đồng-xã hội, cải thiện điều kiện vật
chất, được bảo vệ tránh rủi ro và các thay đổi đột ngột.
- Theo Đinh Đức Thuận một sinh kế được gọi là bền vững thì một HGĐ hay
một cá nhân cần phải có một số tài sản hay vốn nhất định. Có 5 loại vốn cần phải có
để có thể được gọi là sinh kế bền vững [24]
* Vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là các yếu tố trong nguồn lực tự nhiên được con người sử dụng
trong kế sinh nhai của mình. Vốn tự nhiên được hình thành từ rất nhiều nguồn khác
nhau. Từ các nguồn lợi vô hình như không khí, môi trường sống... đến các nguồn
lợi hữu hình chúng ta có thể sử dụng trực tiếp được: tài nguyên đất, tài nguyên
khoáng sản, tài nguyên rừng…
Nguồn vốn tự nhiên được coi như là sự khởi đầu trong sinh kế. Là một trong 5
nguồn vốn không thể thiếu của khung sinh kế bền vững tuy nhiên nhiều thảm hoạ
đe doạ kế sinh nhai cũng như đời sống của con người lại xuất phát từ các tiến trình
của tự nhiên: Bão lụt, hạn hán, động đất… Bên cạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên,
tính mùa vụ, những biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng lớn
năng suất và giá trị của nguồn vốn tự nhiên qua các thời điểm. Làm thế nào duy trì
nguồn vốn tự nhiên cho con người đặc biệt cho người nghèo? Đó là để đạt được
mục tiêu sinh kế bền vững là phải tin và theo đuổi mục tiêu ổn định nhiều loại
nguồn lực khác nhau. Tuy nhiên phải đảm bảo không ảnh hưởng đến sự ổn định của
- 6 -
môi trường (ổn định nguồn vốn tự nhiên và các dịch vụ của nó, như bảo vệ môi
trường sống, bảo vệ đất chống xói mòn thoái hoá, bảo vệ và cải tạo nguồn nước).
* Vốn con người
Của cải vật chất chỉ được làm ra dưới bàn tay lao động của con người, do vậy
nguồn lực con người là vô cùng quan trọng. Nguồn nhân lực bao gồm kỹ năng, kiến
thức, khả năng lao động, sức khoẻ và trình độ học vấn của con người. Các bộ phận
đó giúp con người tìm kiếm và theo đuổi những phương thức kiếm sống khác nhau,
thực hiện các chiến lược sinh kế khác nhau nhằm đạt được mục tiêu kế sinh nhai và
mơ ước của họ.
Xét ở phạm vi gia đình, nguồn nhân lực có sẵn cả về số lượng và chất lượng,
nó thay đổi tuỳ thuộc vào quy mô hộ, sức khoẻ, kỹ năng, trình độ học vấn… của các
thành viên. Đây được xem là nền tảng, là phương tiện để đạt được mục tiêu thu
nhập. Đối với người nghèo việc tạo lập nguồn nhân lực tốt là vô cùng quan trọng,
song đây lại là vấn đề khó giải quyết. Mặc dù việc hỗ trợ nguồn nhân lực có thể
thực hiện cả trực tiếp và gián tiếp, song để thực sự mang lại hiệu quả chỉ khi con
người, chính bản thân họ sẵn sàng đầu tư vào vốn nhân lực của họ bằng cách tham
gia vào các khoá đào tạo hay trường học. Trong trường hợp con người bị ngăn cản
bởi những việc làm trái với lẽ thường (những tiêu chuẩn xã hội hay chính sách cứng
nhắc ngăn cấm phụ nữ tới trường…) thì việc hỗ trợ gián tiếp vào việc phát triển vốn
con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong nhiều trường hợp ta nên kết hợp cả
hai hình thức hỗ trợ. Cơ chế phù hợp cho việc kết hợp hỗ trợ là thực hiện các
chương trình trọng điểm. Các chương trình trọng điểm có thể hướng vào việc phát
triển nguồn nhân lực, đề xuất những thông tin qua việc phân tích các phương thức
kiếm sống để chắc chắn rằng các nỗ lực tập trung vào nơi cần thiết nhất. Cải thiện
phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông tin, công nghệ và nâng cao
chế độ dinh dưỡng và sức khoẻ sẽ góp phần làm phát triển nguồn lực con người.
* Vốn xã hội
Vốn xã hội là những nguồn lực xã hội được con người sử dụng để theo đuổi
mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm các tương tác theo chiều dọc và chiều
ngang và toàn mạng lưới, các mối quan hệ họ hàng, bạn bè, xã hội, các mối quan hệ
với các tổ chức, cơ quan mà người đó có thể dựa vào đó để mở rộng các giải pháp
sinh kế. Vốn này gồm cả việc tác động làm tăng uy tín và khả năng làm việc của
- 7 -
con người, mở rộng tiếp cận với các thể chế, như các thể chế, chính trị và cộng đồng
cũng được coi là vốn xã hội.
Trong 5 yếu tố cơ bản của kế sinh nhai, nguồn vốn xã hội có quan hệ sâu sắc
nhất với sự chuyển dịch quá trình và cơ cấu. Thực sự có thể là hữu ích nếu xem vốn
xã hội như sản phẩm của một tiến trình hoặc cấu trúc, thông qua các mối quan hệ
này các tiến trình và cấu trúc trở thành sản phẩm của nguồn vốn xã hội. Mối quan
hệ này đưa ra hai con đường và có thể làm cho nó phát triển hơn. Trong khi việc
trao quyền cho các nhóm có thể xem như một mục tiêu chính, vốn xã hội có thể
được xem là sản phẩm phụ trong các hoạt động khác. Thông thường, những biến
động gia tăng nguồn vốn xã hội được theo đuổi cần phải có sự hỗ trợ từ các lĩnh vực
khác. Do đó cần gắn chặt trách nhiệm của các tổ chức tiết kiệm và tín dụng vào
nguồn vốn xã hội. Cũng như việc kết hợp quản lý các rủi ro cần phải dựa vào việc
kết nối các hành động để hạn chế chúng.
* Vốn tài chính
Vốn tài chính là nguồn lực tài chính mà con người sử dụng để đảm bảo kế sinh
nhai của họ. Nó không chỉ đơn thuần mang tính chất kinh tế mà còn bao gồm những
dòng tích trữ, khả năng tiêu thụ sản phẩm (bằng tiền mặt hay tiết kiệm để có thể sử
dụng làm vốn luân chuyển).
Có hai nguồn vốn tài chính chủ yếu. Vốn có sẵn: tiết kiệm được ưa thích vì
không bị ràng buộc về pháp lý và không có sự đảm bảo về tài sản. Có thể tồn tại
dưới nhiều hình thức: Tiền mặt, nữ trang, tín dụng ngân hàng…Vốn tài chính tồn tại
dưới dạng các tổ chức cung cấp tín dụng. Đối với người nghèo nguồn vốn tài chính
là vô cùng quan trọng, song việc tiếp cận cả hai hình thức này đều rất khó khăn.
Làm thế nào để tạo nguồn vốn tài chính cho người nghèo? Thông thường các DA
phát triển không giao tiền cho người nghèo mà giúp họ tiếp cận vốn tài chính này
thông qua các trung gian gián tiếp, có thể là: mang tính tổ chức như tăng hiệu quả
tiết kiệm và dòng tài chính nhờ sự hỗ trợ để phát triển hiệu quả, những tổ chức dịch
vụ tài chính cho người nghèo. Đến khi họ có đủ niềm tin, sự tiếp cận và sự hiểu biết
rộng để họ có thể khuyến khích mọi người tiết kiệm. Sự lựa chọn của người khác để
có thể giúp phát triển những tổ chức trợ cấp hiệu quả hơn đến người nhận cuối
cùng. Có tính chất cơ quan- tăng sự tiếp cận dịch vụ tài chính, vượt qua rào cản liên
- 8 -
đới những người nghèo với nhau (cung cấp cho họ sự đảm bảo hoặc máy móc đồng
nhất để họ có được những loại tài sản hoạt động song song nhau). Lập pháp trên sự
điều chỉnh-cải thiện môi trường dịch vụ tài chính để tổ chức hoặc giúp đỡ chính phủ
cung cấp tốt hơn độ an toàn cho những tổ chức dịch vụ tài chính sẽ tồn tại theo thời
gian và sẽ tiếp tục đưa ra lãi suất hợp lý, họ không thể giao phó tiết kiệm của họ cho
những tổ chức đó hoặc tin rừng sẽ được trả nợ. Khi tiết kiệm không theo một hình
thức rõ ràng đặc biệt đến nhu cầu và văn hoá của chính người sử dụng, cách thức hỗ
trợ khác nhau có thể thích hợp.
* Vốn vật chất
Vốn vật chất bao gồm các cơ sở hạ tầng xã hội và các tài sản HGĐ hỗ trợ cho
sinh kế như: Hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống thuỷ lợi, các phương
tiện đi lại vận chuyển…
Đối với người nghèo, đặc biệt vùng sâu vùng xa thì việc tiếp cận với các dịch
vụ này rất khó khăn và hạn chế. Hạn chế cả về số lượng và chất lượng, đây cũng là
một nguyên nhân quan trọng cản trở tiến trình phát triển của người nghèo, của cộng
đồng vùng sâu vùng xa. Tạo lập vốn vật chất cho người nghèo là việc làm cấp thiết.
Trước đây DFDI đã khuyến khích việc dự trữ trực tiếp hàng hoá sản xuất cho người
nghèo. Tuy nhiên có nhiều hạn chế như dẫn đến sự phụ thuộc và phá vỡ thị trường
tư nhân; làm giảm sự tham gia cải thiện cơ cấu và thể chế để sản xuất bền vững,
hàng hoá sản xuất được sử dụng tốt nhất. Vì vậy mục tiêu sinh kế cần tập trung vào
giúp đỡ người nghèo tiếp cận cơ sở hạ tầng thích hợp, những thứ giúp ích cho kế
sinh nhai của họ. Cơ sở hạ tầng chỉ là một loại tài sản nhằm cải thiện dịch vụ hỗ trợ
một cách dễ dàng để người nghèo có thể tiếp cận với những nhu cầu của họ.
Nguồn vốn con người
Nguồn vốn xã hội
Nguồn vốn tự nhiên
Nguồn vốn tài chính
Nguồn vốn vật chất
- Đặc điểm của 5 loại tài sản sinh kế:
Hình 2.2: Tài sản sinh kế của người dân [33]
- 9 -
Hình dạng của ngũ giác diễn tả khả năng tiếp cận của người dân với các loại
tài sản. Tâm điểm là nơi không tiếp cận được với loại tài sản nào. Các đặc điểm
nằm trên chu vi là tiếp cận tối đa với các loại tài sản.
+ Những ngũ giác hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho những cộng đồng
khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó.
+ Chất lượng của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay đổi
liên tục theo thời gian.
+ Hình dạng của ngũ giác mô tả khả năng tiếp cận của người dân với các loại
tài sản. Điều quan trọng là 1 tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một
người có thể tiếp cận chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên) họ cũng có thể có được
nguồn tài chính vì họ có thể sử dụng đất đai không chỉ cho những hoạt động sản xuất trực tiếp mà còn cho thuê. Tương tự như vậy, vật nuôi (tài sản hữu hình) có thể
tạo ra nguồn vốn xã hội (uy tín và sự liên hệ với cộng đồng) cho người sở hữu chúng… Sơ đồ ngũ giác rất hữu ích cho việc tìm ra điểm nào thích hợp, những tài sản nào sẽ phục vụ cho nhu cầu của nhóm xã hội khác nhau và cân bằng giữa những tài sản đó như thế nào.
2.2 Lịch sử giao đất giao rừng
2.2.1 Ở ngoài nước 2.2.1.1 Xu hướng của thế giới về sử dụng rừng và đất rừng
Phi tập trung hoá ngành lâm nghiệp là xu hướng chủ đạo hiện nay của thế giới,
đặc biệt là các nước đang phát triển. Đó là xu hướng phân quyền cao độ cho người
dân, cộng đồng và công ty tư nhân quản lý rừng. Tuy nhiên, cũng có một số nước
như Malaysia và Nam Phi, sở hữu Nhà nước đối với rừng là 100%. Tiếp đó Đức và
New Zealand cũng là hai nước có tỷ trọng Nhà nước quản lý rừng cao là 54% và
Nhóm cộng đồng và dân bản xứ, 24.6%
Cộng đồng, 13.1%
Chính phủ, 2.8%
Cá nhân và công ty tư nhân, 44.6%
77%. Trong khi đó tại Nhật Bản, Nhà nước quản lý 31% tổng diện tích rừng [23]
Hình 2.3: Sở hữu rừng của 24 nước có độ che phủ rừng lớn nhất thế giới.
- 10 -
Xét hiệu quả quản lý rừng thông qua năng suất sinh khối trên một héc-ta, thì
Đức và New Zealand đạt rất cao, lần lượt là 268 và 125 m³/ha (hình 2.3). Câu hỏi
đặt ra liệu có phải chỉ có người dân và doanh nghiệp mới quản lý hiệu quả tài
nguyên rừng? Nếu xét về hiệu quả của hệ thống lâm trường quốc doanh ở Việt Nam
hiện nay và hiệu quả quản lý ở Đức và New Zealand, thì hiệu quả của hai hình thức
quản lý rừng này trái ngược nhau. Như vậy, vấn đề không phải Nhà nước hay dân là
chủ sở hữu và quản lý mà quan trọng là chính sách điều chỉnh chủ thể ấy như thế
nào để đảm bảo có trách nhiệm và động lực để quản lý tốt tài nguyên. Xét về góc độ
quản lý tài nguyên, cần thiết có bàn tay can thiệp của Nhà nước để khắc phục những
méo mó của thị trường. Tuy nhiên việc can thiệp chính sách sai lầm không những
không tạo điều kiện cho thị trường phát triển và còn làm bóp méo thị trường và kìm
hãm thị trường phát triển [23]
Tổng diện
Diện
Độ che
Trữ
Sản
Năng
Dân số
tích tự
tích
phủ
lượng
lượng
suất
Nước
rừng
nhiên
(tr.người)
(km²)
(km²)
(%)
(m³/ha)
(1000m³) (m³/km²)
Việt Nam
80,0
332,000
98,190
35,2
38
7,133
72
Nhật Bản
127,0
376,520
240,810
60
145
29,494
122
Malaysia
24,4
328,550
192,920
58,7
119
22,507
116
Newzealand
4,0
267,990
79,460
30,6
125
26,965
339
Đức
82,4
349,270
107,400
30,7
268
54,634
508
Bảng 2.1: Hiệu quả quản lý rừng ở các quốc gia
(Nguồn: REFAS 2005) Bên cạnh xu hướng phi tập trung hoá, xu hướng phân cấp quản lý rừng từ
trung ương xuống địa phương cũng đang là xu hướng chủ đạo của chính phủ các
nước trên thế giới (Warner, 2006). Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý liên quan tổng
thể đến các thể chế chính sách khác của hệ thống chính trị mà trong phạm vi một
ngành không thể giải quyết được. Vì thế trong trường hợp này cần có sự thống nhất
giữa các ngành liên quan để thực thi chính sách lâm nghiệp hiệu quả.
- 11 -
2.2.1.2. Chính sách giao đất lâm nghiệp của các nước trên thế giới
Nepal
Trong thời gian qua Nepal được đánh giá là một trong những nước đi đầu
trong việc phát triển lâm nghiệp cộng đồng ở Châu Á [35] và được tổng hợp:
- Từ trước những năm 1978 đất lâm nghiệp chủ yếu thuộc quyền quản lý của
các đồn điền, đã xảy ra quá trình chuyển từ đất có rừng sang làm nông nghiệp.
Người dân địa phương tỏ ra không quan tâm đến việc bảo vệ các khu rừng do Chính
phủ quản lý và kết quả là một nửa triệu ha rừng đã bị tàn phá.
- Năm 1978, chính sách lâm nghiệp cộng đồng được ban hành, trong đó quy
định cộng đồng được quyền quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vị trí
lãnh thổ của họ nhằm đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng, lâm nghiệp cộng đồng và
lâm nghiệp tư nhân được xác định là quan trọng và ưu tiên phát triển nhất.
- Năm 1992, chính sách mới nhấn mạnh hơn về lâm nghiệp cộng đồng và hỗ
trợ mạnh mẽ các nhóm sử dụng để mở rộng các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng.
Chính sách này có nhiều thay đổi cho phù hợp và tạo hiệu quả cao.
- Sự thành công được đánh giá cao nhất của lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal là
đã đưa vào vận hành một hình thức tổ chức quản lý mới là các nhóm sử dụng rừng
(Forest users groups - FUS). Nhóm sử dụng rừng ra đời phụ thuộc chủ yếu vào
những người dân cùng sử dụng các khu rừng đó. Nhóm sử dụng rừng là một tổ chức
cơ sở có tư cách pháp nhân, không phụ thuộc vào các đường biên giới lãnh thổ. Sự
thành công của các nhóm sử dụng rừng chỉ rõ ý nghĩa to lớn của công tác hình
thành các tổ chức cơ sở đối với phát triển lâm nghiệp cộng đồng.
Ấn Độ
Những điểm nổi bật trong chính sách quản lý rừng ở Ấn Độ đó là duy trì mối
quan hệ thực chất giữa rừng với người dân các bộ tộc và những người nghèo sống ở
trong rừng và gần rừng, bảo vệ quyền lợi, nhận rừng và hưởng lợi về rừng lâu đời
của họ [35]. Vào những năm 70 của thế kỷ 20 Ấn Độ đã phát triển LNXH, năm
1986 Ấn Độ đã hoàn thành mục tiêu phát triển LNXH tại các bang khác nhau. Ấn
Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của Chính phủ.
Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả các sản phẩm không phải là
gỗ còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có sự thay đổi nhiều giữa các bang
(CRES, 1997). Tại Ấn Độ, người ta nghiên cứu một số biện pháp nhằm tạo ra hoặc
tăng thêm các tổ chức địa phương có hiệu lực lâu dài cho quản lý rừng cộng đồng.
- 12 -
Philippin
Từ những năm 1970 Chính phủ đã quan tâm đến phát triển lâm nghiệp xã hội.
Nhà nước xây dựng các DA lâm nghiệp xã hội tổng hợp do Bộ tài nguyên thiên
nhiên chủ trì và phối hợp với các bộ có liên quan, phân chia thành từng vùng phát
triển lâm nghiệp xã hội do giám đốc vùng phụ trách, xây dựng mạng lưới đến cấp
huyện. Philippin chú trọng chuyển giao kỹ thuật nông lâm kết hợp và kỹ thuật canh
tác đất dốc nói chung đến người nông dân để phát triển nông nghiệp. Năm 1982
Chính phủ xây dựng DA phát triển lâm nghiệp xã hội quốc gia công nhận quyền sử
dụng đất lâu dài cho cộng đồng. Một dạng hợp đồng sử dụng là hợp đồng thuê quản
lý rừng (FLMA) được ký với cá HGĐ, cộng đồng hoặc các nhóm. Trong thời hạn
thực hiện hợp đồng chủ nhân (FLMA) được phép thu hoạch chế biến sản phẩm, bán
hoặc các hình thức sử dụng khác. Một dạng thứ 2 của hợp đồng cộng đồng ở
Philippin là công nhận quyền quản lý của các dân tộc thiểu số trên mảnh đất tổ tiên
họ để lại, người dân được ký hợp đồng nhận đất nhận rừng với Chính phủ trong 25
năm và có thể kéo dài trong 25 năm tiếp theo.
Trong thế kỷ 20 việc quản lý rừng và xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp
trên thế giới đã có nhiều chuyển biến. Có thể tóm tắt những xu hướng như sau:
+ Chuyển mục tiêu quản lý từ sử dụng rừng sản xuất gỗ là chủ yếu sang thực
hiện mục tiêu sử dụng rừng kết hợp cả 3 lợi ích: Kinh tế - sinh thái - xã hội. Nhiều
nước đã tuyên bố thực hiện, hoặc áp dụng nhiều biện pháp quản lý rừng theo hướng
tăng cường bảo vệ rừng như: đình chỉ khai thác rừng tự nhiên; nâng cao diện tích
rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, các khu bảo tồn thiên nhiên; phát triển du lịch sinh
thái, chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát huy tác dụng sinh thái của rừng.
+ Phân cấp quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp (phi tập trung hoá), xu
hướng là chuyển giao dần trách nhiệm và quyền lực về quản lý rừng từ cấp trung
ương xuống các cấp địa phương và cơ sở.
+ Xúc tiến GĐGR cho nhân dân và cộng đồng, giảm bớt can thiệp của nhà
nước, thực hiện tư nhân hoá đất đai và các cơ sở kinh doanh lâm nghiệp, để tạo điều
kiện cho việc quản lý rừng năng động hơn, đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
+ Thu hút sự tham gia của các nhóm dân cư được hưởng lợi trong quá trình
xây dựng kế hoạch quản lý rừng, khuynh hướng chung là khi xây dựng kế hoạch
- 13 -
quản lý rừng, chủ rừng rất quan tâm thu hút sự tham gia của các nhóm có liên quan
đến quyền lợi từ rừng.
+ Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào công tác quản lý
rừng, xu hướng là phát triển các hình thức tổ chức để thu hút các cộng đồng địa
phương vào quản lý rừng như: liên kết quản lý rừng, phát triển các chương trình lâm
nghiệp cộng đồng, các công trình bảo tồn thiên nhiên theo làng…
2.2.2 Ở trong nước
2.2.2.1 Quan điểm của Việt Nam về giao đất giao rừng
Ở Việt Nam, đất đai kể cả đất lâm nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, người dân
được giao quyền khai thác và quyền sử dụng. Vấn đề giao đất lâm nghiệp đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ 20 như Chỉ
thị 29-CT/TW ngày 12 tháng 11 năm 1983 của Ban Bí thư, Luật đất đai 1987, 1993,
1998, 2001 và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 1991 và 2004. Gần đây, nhà nước
cũng đã chủ trương thực hiện xã hội hoá nghề rừng bằng việc thông qua Luật Đất
đai 2003, Luật Bảo vệ Phát triển rừng 2004 và Chiến lược Phát triển lâm nghiệp đến
năm 2020 (Bộ NN&PTNT, 2007). Việc đẩy mạnh vấn đề GĐGR cho cá nhân, hộ
nông dân, cộng đồng dân cư và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là bằng
chứng rõ ràng thể hiện quan điểm của Nhà nước. Hiện nay có khoảng 24 triệu người
dân sống ở miền núi với rất nhiều thành phần dân tộc khác nhau, nhà nước có chủ
trương giao đất để góp phần cải thiện sinh kế bằng nghề rừng, góp phần bảo vệ và
phát triển rừng.
2.2.2.2 Lịch sử giao đất giao rừng
Quá trình giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1968 và trải
qua nhiều thời kỳ khác nhau:
- Thời kỳ 1968 - 1982: Là thời kỳ phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế
HTX, ở giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại 2 thành
phần kinh tế chính là quốc doanh lâm nghiệp và hợp tác xã trong kinh doanh rừng.
Việc tổ chức thực hiện việc giao đất lâm nghiệp ở giai đoạn này còn nhiều thiếu sót
do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân, tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt hình thức, chạy theo số lượng diện tích, chưa có QH
đất đai, chưa phân 3 loại rừng và chỉ giao đất cho các lâm trường quốc doanh, các
HTX.
- 14 -
- Thời kỳ 1983 - 1992: Giao đất lâm nghiệp thời kỳ này dựa trên cơ sở
QHSDĐ. Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Quyết định số 1171 LN/QĐ ngày 30/12/1986
về quy chế quản lý 3 loại rừng: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, tiến
hành phân cấp quản lý rừng... Chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang tự chủ sản xuất
kinh doanh và từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Trong giai đoạn
nay đất chưa được giao cho cá nhân, HGĐ nhưng các cá nhân, HGĐ bắt đầu được
phép nhận khoán sử dụng đất trong một số năm nhất định.
- Thời kỳ 1993 đến nay: Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khoá IX thông
qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực ngày 15/10/1993. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung
năm vào 1998 và năm 2001, Luật này thể hiện chủ chương chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước về đất đai, cụ thể hoá điều 17 và 18 hiến pháp năm 1992 Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với sự ra đời của Luật đất đai năm 1993, Chính phủ đã ban hành một số
chính sách quan trọng: Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về việc giao đất lâm
nghiệp cho tổ chức, HGĐ, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp. Quyết định 202/TTg ngày 2/5/1994 về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi
tái sinh rừng và trồng rừng. Nghị định số 01/CP ngày 4/1/1995 về việc giao khoán
đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp
nhà nước. Nghị định 163/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất
lâm nghiệp cho tổ chức, HGĐ, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp (Chính phủ, 1999). Nghị định này thay thế cho nghị định 02/CP (1994). Sự
ra đời của các chính sách này nhằm gắn lao động với đất đai, tạo thành động lực để
phát triển sản xuất lâm nông ngư nghiệp, ổn định kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng. Để hướng dẫn việc giao đất, cho thuê đất và cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp
theo Nghị định số 163/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng
cục Địa chính đã ra Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày
06/6/2000, đề ra những quy định về thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSDĐ
lâm nghiệp và tổ chức thực hiện giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp. Để đảm bảo lợi
ích hài hoà giữa Nhà nước với người trực tiếp bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng
- 15 -
rừng, Chính phủ ban hành Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 về
quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của HGĐ, cá nhân được giao, cho thuê, nhận khoán rừng
và đất lâm nghiệp nhằm tạo động lực khuyến khích bảo vệ và phát triển rừng.
2.2.2.3 Những nghiên cứu về giao đất giao rừng
Trong những năm qua, đã có nhiều DA và công trình nghiên cứu về công tác
GĐGR trong phạm vi cả nước. Các DA, công trình nghiên cứu đó đều thể hiện những cách tiếp cận riêng từ định hướng cho tới việc thực hiện GĐGR cũng như
hiệu quả sau giao đất, giao rừng.
- DA "Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp" là DA xuất phát từ yêu cầu cấp
bách của nước ta sau khi ban hành Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991. Mục
tiêu của DA là bằng quá trình tìm tòi học hỏi và hợp tác để góp phần tìm ra các giải
pháp chiến lược nhằm từng bước thực thi có hiệu quả mục tiêu phát triển ngành lâm
nghiệp trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. DA đã góp phần xây dựng phương pháp mới về giao đất lâm nghiệp, trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các năm trước và dựa vào các văn bản pháp quy liên quan đến Luật đất đai, Luật bảo vệ và phát triển rừng. Phương pháp này gồm 3 thành phần cơ bản sau:
+ Ưu tiên đáp ứng yêu cầu của Chính phủ làm sao để rừng và đất rừng có chủ
thực sự, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của người dân về quyền sử dụng
rừng và đất rừng một cách bền vững ngay trên quê hương của họ, gắn lợi ích của
người dân và cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia về kinh tế xã hội và môi
trường sinh thái.
+ Căn cứ vào quỹ đất và nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp của các đối tượng trên từng địa bàn xã để tiến hành giao cho các thành phần kinh tế như: Lâm trường quốc doanh, HTX kiểu mới, cộng đồng thôn bản, các HGĐ, cá nhân sử dụng vào mục đích lâm nghiệp, với phương châm giao một lần và khép kín trên địa bàn từng
xã.
+ Căn cứ vào các cơ sở pháp lý hiện hành, xây dựng cơ chế chính sách quản lý
sử dụng đất đai thích hợp nhằm khuyến khích và tạo ra động lực phát triển sản xuất,
góp phần thúc đẩy nhanh quá trình giao đất lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc [19]
- Hội thảo với chủ đề "Chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doanh rừng trồng", do Vụ Chính sách, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Phát triển lâm nghiệp- Bộ
NN&PTNT phối hợp tổ chức từ ngày 13 đến ngày 15/7/1998 tại tỉnh Thanh Hoá, đã
- 16 -
xem xét khuôn khổ pháp lý và tác động của hệ thống pháp lý đang tồn tại đối với
từng loại rừng và nhận thấy còn một số vấn đề sau:
+ Cần xác định rõ địa vị pháp lý của các loại chủ rừng bao gồm: HGĐ, cá
nhân, doanh nghiệp tư nhân kinh doanh trồng rừng, lâm trường quốc doanh, BQL
rừng đặc dụng, phòng hộ, các khu rừng là công ty liên doanh, các khu rừng là nhà
đầu tư nước ngoài, các cộng đồng dân cư…
+ Cần xác định rõ hơn quyền hạn của họ đối với đất đã giao, đất cho thuê để
trồng rừng trong thời gian hàng chục năm, những khuyến nghị trên nhằm góp phần
tạo nên những động lực mới đẩy mạnh các hoạt động trồng rừng ở nước ta trong
thời gian tới [18]
- Đề tài " Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng chính sách quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các hộ nông dân" của tác giả Nguyễn
Đình Tư và Nguyễn Văn Tuấn đã tiến hành nghiên cứu phân tích các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng hệ thống chính sách, chế độ quản lý và khuyến khích phát triển rừng cho các HGĐ nông dân. Trên cơ sở tổng kết đánh giá hệ thống chính sách, chế độ hiện hành, bước đầu đề xuất các khuyến nghị về việc hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các HGĐ nông dân [27]
- Báo cáo "Người nông dân mong muốn được lợi ích gì trên đất được giao để trồng rừng" của tác giả Phạm Sinh đã đề xuất một số quan điểm có liên quan đến lợi ích của người trồng rừng và đưa ra một số mong muốn của họ khi nhận đất nhận rừng sản xuất kinh doanh [21]
- Đề tài “Những định hướng và các giải pháp bước đầu nhằm đổi mới việc giao đất giao rừng ở miền núi” của Nguyễn Đình Tư đã xem xét tình hình giao đất
giao rừng từ năm 1968-1992, đánh giá được thực trạng sau khi nhận đất, nhận rừng. Đề tài cũng đã chỉ ra được những định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đổi
mới công tác giao đất giao rừng ở miền núi [26]
2.3 Đánh giá tác động của chính sách, ý nghĩa và các phương pháp
2.3.1 Ý nghĩa của việc đánh giá tác động của chính sách giao đất giao rừng đến sinh kế người dân
Xét ở tầm vĩ mô, rừng là quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta không chỉ
về kinh tế, xã hội mà quan trọng hơn là môi trường sống trong bối cảnh hiện tại.
Song xét ở tầm vi mô thì rừng càng quan trọng hơn với đời sống cộng đồng gần rừng, trong rừng đời sống phụ thuộc vào rừng. Tuy nhiên trong một thời gian dài
- 17 -
rừng đã cạn kiệt do cách sử dụng không hợp lý. Yêu cầu quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng kết hợp với phát triển kinh tế cho cộng đồng miền núi, đặc biệt cho người
nghèo đã kết hợp với hàng loạt các chủ trương và chính sách lâm nghiệp của nhà
nước, trong đó có chính sách GĐGR. Sau một thời gian thực hiện đến nay tiến trình
GĐGR đã đạt được những kết quả nhất định cả về diện tích và hiệu quả sử dụng đất
lâm nghiệp được giao. Tuy nhiên không thể không kể đến những hạn chế, mà hạn
chế này lại tập trung chủ yếu ở vùng sâu vùng xa, trình độ dân trí thấp, kinh tế kém
phát triển.
Vậy chính sách này đã đưa lại những gì cho người dân, đặc biệt người nghèo?
Trước hết chúng ta phải đánh giá được tiến độ thực hiện GĐGR tại địa phương;
đánh giá ảnh hưởng của chính sách đến đời sống cộng đồng; xác định những điểm mạnh và điểm yếu, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện GĐGR.
Đó là cơ sở để xác định những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách GĐGR; để rừng thật sự gắn bó với người dân; là một công cụ, phương tiện trong kế sinh nhai của họ. Đây chính là nhiệm vụ của công tác đánh giá mà cụ thể là đánh giá ảnh hưởng của chính sách giao đất lâm nghiệp đến sinh kế người dân. Mỗi vùng, miền có đặc thù riêng; có quá trình GĐGR do đó việc đánh giá tác động cũng phải tiến hành cho từng địa phương cụ thể thì kết quả mới chính xác; giải pháp đề ra được cụ thể và có tính phù hợp cao.
2.3.2 Các phương pháp đánh giá tác động của chính sách 2.3.2.1 Ở ngoài nước
Đánh giá tác động của một chương trình, một chính sách hay một DA…phát triển lâm nghiệp là rất quan trọng, trong những năm gần đây nó càng được quan tâm hơn. Thông thường việc đánh giá đều tập trung vào 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và
môi trường. Song với thực trạng đời sống quá thấp kém của một bộ phận không nhỏ người nghèo trên thế giới, trong những năm gần đây sinh kế là vấn đề được đặt ra
thường xuyên hơn. Tuy nhiên đây vẫn còn là vấn đề mới, việc đánh giá ảnh hưởng
của các chính sách, DA đến sinh kế còn rất hạn chế và chủ yếu dựa vào các tiêu chí
cho đánh giá ảnh hưởng của kinh tế, xã hội và môi trường.
Năm 1974, giáo sư John E-Gunter trường Đại học tổng hợp thuộc bang
Michigan-Mỹ xuất bản giáo trình đánh giá hiệu quả của các chính sách kinh doanh
rừng. Các chỉ tiêu đánh giá mà giáo trình đề cập tới là: Lãi suất đơn, lãi kép, thời
gian và năm chiết khấu. Các chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả của các chính sách kinh doanh rừng về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
- 18 -
Tại Philippin (1974) đã tiến hành đánh giá hiệu quả DA trang trại trồng rừng
nguyên liệu giấy của các HGĐ cho loài cây mọc nhanh Albizzia Falcataria thuộc
công ty công nghiệp giấy Philippin (PICOP). Hiệu quả DA trồng rừng được đánh
giá theo hai mặt là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế. Còn hiệu quả về mặt xã
hội và sinh thái môi trường chưa được qua tâm đánh giá đầy đủ [16].
Theo số liệu lưu trữ của TREE CD-ROM (Cab International for Asia) từ năm
1939-1995, có rất nhiều công trình đánh giá hiệu quả kinh tế trong lâm nghiệp.
Trong đó có 19 công trình đánh giá hiệu quả kinh tế cho lâm nghiệp nhiệt đới, đặc
biệt có 9 công trình đánh giá hiệu quả các DA trồng rừng. Nhưng những công trình
này chỉ tập trung đánh giá hiệu quả các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: Đánh giá
hiệu quả cải thiện gen cây trồng, đánh giá hiệu quả biện pháp phòng chống cháy
rừng ở Anh, đánh giá hiệu quả bón phân cho trồng rừng ở Đức [16]
Đánh giá hiệu quả của các chính sách đất đai có hai phương pháp nổi bật:
Phân tích hiệu quả của chính sách bằng phương pháp Delphi: Delphi được
định nghĩa là "Một nhóm các biện pháp để luận ra và tinh lọc các quan điểm của
một nhóm người" (Watherman and Swenson, 1974). Linstone and Turoff (1975,
1990, 2000) coi phương pháp Delphi là việc trao đổi thông tin có cấu trúc cho phép
một nhóm người giải quyết một vấn đề phức tạp. Họ xác định được 7 tình trạng
hoặc kiểu vấn đề mà phương pháp Delphi có thể ứng dụng tốt nhất trong đó có vấn
đề đánh giá hiệu quả của chính sách kinh tế-xã hội, như chính sách giao đất giao
rừng….
Phân tích hiệu quả của chính sách bằng phương pháp phân tích kinh tế lượng: Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các mô hình, dữ liệu và một số phép phân
tích khác nhau để mô tả thế giới thực và góp phần vào những cuộc thảo luận về
chính sách. Các kỹ thuật kinh tế lượng đã cho phép kiểm định những ý nghĩa của lý
thuyết kinh tế thông qua những phương pháp chuẩn để ước lượng các quan hệ giữa
những biến được quan sát và để kiểm định các giả thuyết về các quan hệ đó.
Hiện nay có 4 trường phái về các nhóm mô hình, gồm: (i)- Các mô hình tăng
trưởng tuyến tính; (ii)- Mô hình Lewis; (iii)- Mô hình Chenery; (iiii)- Các mô hình
phụ thuộc quốc tế. Đồng thời cũng có hai trường phái lý thuyết chính sách gồm: (i)-
Lý thuyết tân cổ điển cho rằng Nhà nước đóng vai trò quan trọng cho sự thành công
- 19 -
của quá trình phát triển trong một số lĩnh vực; (ii)- Lý thuyết tăng trưởng mới cho
rằng nguồn lực tăng trưởng nội sinh là quan trọng và nhấn mạnh đặc biệt về vai trò
chính sách của chính phủ.
Một số quan điểm của các nhà khoa học trên thế giới về phương pháp đánh giá
tác động DA có thể được tóm tắt như sau:
- Đánh giá là quá trình xem xét một cách hệ thống, khách quan nhằm cố gắng
xác định tính phù hợp, hiệu quả và tác động của các hoạt động ứng với mục tiêu đã
vạch ra. Công tác đánh giá đòi hỏi sự tham gia của các bên liên quan. Đó là một hệ
thống phân tích được thực hiện bởi các nhà quản lý và các bên được hưởng lợi; cho
phép họ điều chỉnh, xác định lại chính sách hoặc mục tiêu, chiến lược, sắp xếp lại
các tổ chức, đơn vị để triển khai lại các nguồn lực nếu cần thiết. Nó là cơ hội cho cả
người bên trong và bên ngoài cộng đồng dừng lại phản ánh về quá khứ và đưa ra
quyết định cho tương lai.
- Đánh giá tác động là xem xét một cách toàn diện các tác động trên nhiều mặt.
Trên cơ sở đó xem xét sự tương xứng giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp cũng
như các kết quả đạt được của chương trình, dự án.
- Tùy theo tính chất, thể loại mà công tác đánh giá chương trình, DA có những
điểm khác nhau. Chương trình, DA đầu tư sản xuất chú trọng tới việc phân tích khía
cạnh hiệu quả kinh tế. DA hỗ trợ phát triển lại đặt trọng tâm ở khía cạnh xã hội và
những DA bảo tồn lại chú ý đến khía cạnh môi trường hơn.
- Có rất nhiều công trình đánh giá chương trình, DA của nhiều tác giả nổi
tiếng, trong đó phải kể đến các lý thuyết về hướng dẫn và đánh giá được đề cập chi
tiết trong các công trình nghiên cứu của WHO, Gittinger, Dixon & Hufschmtdt
L.Therse Barker, Jim Woodhill, FAO, WB…
- Các đánh giá liên quan đến đo lường hay những nhận định, tiêu biểu là các
công trình nghiên cứu của WHO, L.Therse Barker. Đây là quá trình nhằm đánh giá
mức độ đạt được những mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương ứng với chúng là hệ thống
các hoạt động, nguồn lực đã được triển khai và sử dụng như thế nào. Với một DA,
đánh giá là xem xét một cách hệ thống để xác định tính hiệu quả, mức độ thành
công của DA, tác động xã hội cũng như các tác động kinh tế môi trường đối với
người hưởng thụ.
- 20 -
- Các tác giả khác như Jim Woodhill, Lisa Robins, Joachim Theis,
Heather.M.Grady đã phân chia thành 2 loại đánh giá: Đánh giá mục tiêu và đánh giá
tiến trình. Đánh giá mục tiêu là xem xét liệu DA có đạt mục tiêu hay không, nó tập
trung phân tích các chỉ số đo hiệu quả thu được. Đánh giá tiến trình, mở rộng hơn so
với loại đánh giá trên, sử dụng tri thức và hiểu biết của nhiều người để xem xét
nhiều vấn đề của DA.
- Đánh giá tác động không phải là hoạt động tiến hành 1 lần vào cuối chương
trình, DA. Theo Katherine & John thì đó chỉ là lần đánh giá tổng thể, còn trong quá
trình thực hiện, đánh giá chương trình, DA được tiến hành vào những thời điểm
quan trọng, gọi là đánh giá giai đoạn trên cơ sở các hoạt động giám sát liên tục.
Nhiều tác giả cho rằng điều cốt yếu là phải đánh giá có sự tham gia của các bên, đặc
biệt là người hưởng lợi từ chương trình, DA.
- Các phương pháp đánh giá cũng được phát triển mạnh mẽ từ những năm 50,
60 của thế kỷ trước; khi các chính sách, chương trình, DA cộng đồng ra đời, chủ
yếu là các công cụ của PRA như: Điều tra khảo sát (survey), phỏng vấn sâu (indepth
interview), thảo luận nhóm tập trung (focus group), bảng câu hỏi (questionare), họp
với những người thụ hưởng (meeting), động não, nhật ký theo dõi DA (project
monitoring diary), tranh ảnh… Những hình thức khuyến khích sự tham gia của
cộng đồng (đóng kịch, sắm vai, bài hát, trò chơi…) cũng được sử dụng để chính
người dân địa phương tham gia thấy được những kết quả cụ thể của các chính sách,
chương trình, DA [24].
2.2.2.2 ë trong níc
Ở Việt Nam, các chương trình, DA đầu tư phát triển rừng đã được tiến hành
cách đây trên nửa thế kỷ nhưng chỉ vài chục năm gần đây mới thực hiện trên quy
mô lớn. Thời kỳ đầu, chúng ta mới chú trọng đến hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả
tổng hợp rất ít được quan tâm. Cho đến nay, vấn đề đánh giá tác động sinh kế người
dân còn rất mới mẻ và hạn chế.
Tác phẩm được coi là có hệ thống và mang tính thực tiễn cao là tác phẩm
“Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở Việt Nam” của Đinh Đức Thuận
và nhóm cộng sự trường ĐH Lâm nghiệp. Trong tác phẩm này đã đánh giá chung
- 21 -
tình hình đời sống người dân nghèo vùng sâu của 4 tỉnh nghiên cứu (Thanh Hoá,
Bắc Kạn, Quảng Trị và Đăk Nông). Phân tích về sinh kế và các tác động đến sinh
kế người dân.
Trong năm 1994, nhiều công trình khác đã tiến hành những nghiên cứu về tác
động môi trường và hiệu quả kinh tế-xã hội từ các phương thức canh tác như: Thái
Phiên, Nguyễn Tử Siêm với công trình: “Hiệu quả các biện pháp canh tác trên đất
dốc” và “sử dụng đất trống, đồi núi trọc và bảo vệ rừng”[17]. Đặng Trung Thuận,
Trương Quang Hải và tập thể với công trình: “Nghiên cứu và đề xuất mô hình phát
triển kinh tế môi trường tại một số vùng sinh thái điển hình”. Phùng Ngọc Lan,
Vương Văn Quỳnh với đề tài: “Nghiên cứu khả năng giữ nước và bảo vệ đất của
các phương thức canh tác trong các HGĐ huyện Hàm Yên-Tuyên Quang” [11]. Tuy
nhiên, các tác giả này chưa đánh giá toàn diện các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường.
Năm 1995, Trần Hữu Dào đã nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh doanh cả 3
mặt kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình trồng rừng Quế thâm canh thuần
loài quy mô HGĐ tại Văn Yên - Yên Bái [6]. Trong đề tài tác giả đã trình bày, sử
dụng các phương pháp, kỹ thuật mới, tiến bộ trong phân tích kinh tế lâm nghiệp.
Tuy nhiên, đề tài vẫn thiên về đánh giá hiệu quả kinh tế hơn hiệu quả xã hội và môi
trường.
Tóm lại, đánh giá tác động một chương trình, DA thực chất là một quá trình
phân tích và so sánh sự khác biệt về một số chỉ tiêu đánh giá ở các thời điểm trước
và sau thực hiện chương trình, DA đó. Đồng thời có thể so sánh giá trị các chỉ tiêu
ấy ở vùng có và không có chương trình, DA đó để thấy rõ sự thay đổi. Những tác
động này có thể là tích cực hay tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp, ngắn hạn hay dài
hạn… Hiện nay, công tác đánh giá các tác động tổng hợp về sinh kế người dân và
với các chương trình, DA lâm nghiệp nói riêng ở nước ta còn nhiều mới mẻ và
nhiều hạn chế. Phải đánh giá được những mặt tích cực những tồn tại mới tìm được
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình này. Trước thực trạng đó
việc đánh giá hiệu quả của các DA là rất quan trọng và cần thiết nhằm đánh giá
những mặt tích cực để phát huy, mặt hạn chế để khắc phục chính là tìm ra cơ sở
nâng cao hiệu quả của các DA cũng như chính sách GĐGR ở từng địa phương.
- 22 -
CHƯƠNG III
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiện trạng, hiệu quả và ảnh hưởng của chính sách giao đất lâm
nghiệp và khoán bảo vệ rừng đến sinh kế người dân tại địa phương làm cơ sở đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách GĐGR tại địa phương.
3.1.2 Mục tiêu cụ thể.
+ Đánh giá được kết quả thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp và khoán
quản lý bảo vệ rừng tại xã Thượng Quảng.
+ Đánh giá được tác động của chương trình giao đất lâm nghiệp, khoán quản
lý bảo vệ rừng tới sinh kế của người dân địa phương.
+ Đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách GĐGR, đặc
biệt là tác động của nó đến sinh kế người dân vùng được GĐGR.
3.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Đối tượng nghiên cứu
+ Các chính sách giao đất lâm nghiệp của Nhà nước và các văn bản hướng
dẫn, chỉ đạo của các cấp chính quyền tại địa phương về việc thực hiện chính sách
giao đất giao rừng.
+ Tình hình thực hiện và kết quả của công tác giao đất giao rừng tại xã
Thượng Quảng.
+ Quá trình phát triển kinh tế của HGĐ nhận đất, nhận rừng, những biến đổi về
nguồn vốn tự nhiên, nguồn vốn con người, nguồn vốn xã hội, nguồn vốn tài chính,
nguồn vốn vật chất của người dân địa phương.
3.2.2 Phạm vi nghiên cứu
* Về thời gian: Chương trình GĐGR được tiến hành từ năm 2003 nên luận văn
đi sâu đánh giá những thay đổi tại năm 2002 (năm trước khi tiến hành giao đất) và
năm 2008 (năm điều tra) để đánh giá. Thời gian thu thập số liệu từ ngày 11/03/2009
đến ngày 21/5/2008.
- 23 -
* Về địa điểm: Do thời gian và trong khuôn khổ một báo cáo tốt nghiệp nên
luận văn chỉ thực hiện tại xã Thượng Quảng - Nam Đông - Thừa Thiên Huế.
* Về nội dung: Báo cáo chỉ đi sâu đánh giá quá trình GĐGR và các tác động
của chương trình giao đất, giao rừng tới sinh kế của người dân địa phương. Từ đó
làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình.
3.3 Nội dung nghiên cứu
+ Điều kiện cơ bản của xã có ảnh hưởng đến tiến trình cũng như kết quả của
chính sách GĐGR.
+ Một số chính sách về giao đất lâm nghiệp, khoán quản lý bảo vệ rừng, cho
thuê đất lâm nghiệp và một số văn bản chính khác có liên quan, kể từ khi ra đời
Nghị định 01/CP và NĐ 02/CP đến nay.
+ Chính sách GĐGR, các chính sách bảo vệ và phát triển rừng đã được áp
dụng tại xã Thượng Quảng từ khi tiến hành GĐGR.
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất lâm nghiệp đến sinh kế người
dân thông qua các chỉ tiêu như ảnh hưởng đến nguồn vốn tự nhiên, nguồn vốn con
người, nguồn vốn xã hội, nguồn vốn vật chất và nguồn vốn tài chính.
+ Đánh giá mặt mạnh và mặt yếu, thuận lợi và khó khăn làm cơ sở đề xuất các
giải pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình GĐGR tại địa phương.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Quan điểm phương pháp luận
GĐGR là một chính sách lớn của Nhà nước nhằm phát triển hiệu quả nghề
rừng, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng… Cũng như bất kỳ một chương trình,
một DA, một chính sách nào, chính sách GĐGR từ khi đi vào hoạt động cũng có
những tác động đến cộng đồng địa phương, nếu xét ở góc độ đời sống thì chính sách
này đã ảnh hưởng đến sinh kế người dân. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng, phạm vi
ảnh hưởng… là khác nhau. Trong sinh kế, ảnh hưởng của chính sách đến từng yếu
tố, từng nguồn lực cũng khác nhau. Có những tác động là trực tiếp song cũng có
những tác động mang tính gián tiếp, có những tác động là tích cực và có cả những
tác động tiêu cực…. Tuy nhiên những tác động đó có thể thay đổi theo thời gian và
- 24 -
không gian cụ thể. Xác định bản chất của những tác động này làm cơ sở để điều
chỉnh quy mô, nội dung, chiều hướng... của các chương trình, DA sao cho đạt hiệu
quả cao nhất, hiệu quả tổng hợp trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực; hạn chế thấp nhất
các tác động tiêu cực.
Khi đánh giá tác động của GĐGR phải đứng trên nhiều lĩnh vực, nhiều khía
cạnh, đánh giá trên sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, song với giới hạn của
thời gian cùng những hạn chế của tài liệu hiện có luận văn chỉ giới hạn trong một số
yếu tố. Những yếu tố này được xem là cơ bản, điển hình có liên quan mật thiết đến
các hoạt động, tiến trình thực hiện GĐGR và các DA, chương trình bảo vệ, phát
triển tài nguyên rừng. Những yếu tố này được đánh giá trong góc độ đời sống cộng
đồng chính là ảnh hưởng của GĐGR đến sinh kế của người dân. Để việc đánh giá
đạt hiệu quả cao cần phải áp dụng tổng hợp biện pháp, kết hợp đánh giá định tính và
định lượng. Sử dụng các phương pháp tiếp cận và phân tích vấn đề có sự tham gia
của người dân.
Sử dụng phương pháp so sánh theo thời gian để đánh giá tác động trước và sau
khi GĐGR. Phương pháp cho điểm để đánh giá các yếu tố định tính là các tác động
đến môi trường và xã hội. Toàn bộ quá trình nghiên cứu, đánh giá của luận văn
được tóm tắt qua sơ đồ hình 3.1.
- 25 -
Xác định vấn đề nghiên cứu
Xây dựng đề cương nghiên cứu
Thu thập thông tin hiện trường
Điều kiện cơ bản Tình hình giao đất, giao rừng Tình hình sử dụng đất LN được giao
Xử lý, tính toán
Đánh giá tác động
Vốn vật chất Vốn tài chính Vốn xã hội Vốn con người Vốn tự nhiên
Kết luận, khuyến nghị
Hình 3.1: Sơ đồ tóm tắt quá trình nghiên cứu của luận văn 3.4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn
3.4.2.1 Phương pháp chọn mẫu điều tra
Chọn địa điểm nghiên cứu là công việc được thực hiện trước khi thu thập số
liệu chính thức. Nguyên tắc chọn địa điểm nghiên cứu là nơi đại diện tương đối tại
khu vực nghiên cứu. Theo Donovan (1997), tiêu chuẩn chọn địa điểm nghiên cứu
- 26 -
là: Thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận và địa hình. Trong vùng nghiên cứu, tất
cả các thôn bản được lựa chọn đều gần rừng thì yếu tố về địa hình và khả năng tiếp
cận tương đối đồng nhất.
+ Lựa chọn xã nghiên cứu: Xã Thượng Quảng với các tiêu chí nghiên cứu:
địa hình, thành phần dân tộc, trình độ dân trí và khả năng tiếp cận.
+ Lựa chọn HGĐ nghiên cứu: Căn cứ vào cơ chế quản lý rừng và đất rừng tại
địa bàn nghiên cứu
- Quản lý theo HGĐ
- Quản lý theo nhóm HGĐ
Song hình thức quản lý theo HGĐ là chủ yếu, nghiên cứu kinh tế HGĐ làm cơ
sở để đánh giá sự phát triển kinh tế của cộng đồng địa phương. Đối với phỏng vấn
HGĐ, luận văn chỉ thực hiện đối với 60 hộ bao gồm: 20 hộ khá, 20 hộ trung bình và
20 hộ nghèo. Họp thôn để lựa chọn ra mỗi thôn 10 hộ bao gồm hộ khá, TB và hộ
nghèo điển hình về điều kiện kinh tế, diện tích và trình độ canh tác để phỏng vấn.
Về phân loại hộ gia đình căn cứ vào thống kê hàng năm của xã về phân loại hộ.
Lựa chọn hộ điển hình bằng cách họp thôn và bình bầu.
3.4.2.2 Phương pháp điều tra, phỏng vấn thu thập số liệu
* Phương pháp kế thừa tài liệu
+ Kế thừa số liệu của dự án SNV điều tra thống kê trước khi tiến hành giao đất
giao rừng một cách hệ thống và quy mô trên toàn địa bàn huyện Nam Đông và tại
xã Thượng Quảng, để xác định các tiêu chí cần điều tra vào thời điểm trước GĐGR.
+ Kế thừa tài liệu và các kết quả nghiên cứu về các vấn đề có liên quan: Quy
trình GĐGR, hồ sơ địa chính, báo cáo đánh giá kết quả quá trình GĐGR trên địa
bàn, thống kê hiện trạng tài nguyên rừng….
+ Thông tin về điều kiện cơ bản của xã: tự nhiên, kinh tế, xã hội; hiện trạng tài
nguyên rừng; bản QH phát triển tài nguyên rừng, kinh tế, xã hội hiện tại và những
năm tới.
* Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân
+ Tìm hiểu tình hình chung của địa phương thông qua điều tra tuyến lát cắt;
kết hợp phỏng vấn cán bộ địa phương, cán bộ KL, những người sản xuất có kinh
- 27 -
nghiệm để có cái nhìn tổng quát nhất về tình hình kinh tế, tài nguyên rừng và đất
rừng, nhận thức và hiệu quả chương trình GĐGR…
+ Họp thôn và thảo luận các nội dung:
- Xác định tiêu chí, tiến hành phân loại kinh tế HGĐ trước và sau GĐGR.
- Đánh giá kết quả GĐGR tại địa phương.
- Phân tích mặt mạnh, mặt yếu, hạn chế; tìm hiểu nguyên nhân nhằm đề
xuất phương hướng, giải pháp khắc phục. Phát huy tối đa tính cộng đồng, tính xã
hội hoá nghề rừng nhằm sử dụng và phát triển hợp lý tài nguyên rừng, gắn rừng với
tiến trình phát triển cộng đồng.
+ Điều tra HGĐ: Thông qua phỏng vấn với các chỉ tiêu sau
- Phỏng vấn HGĐ, cá nhân nhận giao đất, giao rừng (thông qua phiếu
điều tra). Nội dung điều tra được ghi trong phiếu điều tra như sau: Họ và tên chủ hộ,
số nhân khẩu, lao động, giới tính, trình độ văn hoá, tình hình sử dụng đất đai của hộ,
các loại chi phí, thu nhập của hộ trong năm… Trước khi điều tra, dựa theo kết quả
khảo sát sơ bộ trong dân ý kiến cán bộ xã, kết hợp với số liệu thống kê giao đất của
xã, tiến hành phân loại các hộ điều tra thành 3 nhóm theo chỉ tiêu kinh tế: khá, trung
bình và hộ nghèo.
3.4.2.3 Phương pháp đánh giá các tác động của giao đất giao rừng
Tác động đến nguồn vốn tự nhiên
+ Bảo vệ và cải thiện chất lượng tài nguyên đất.
+ Tăng nguồn nước của địa phương.
+ Tăng tỉ lệ che phủ rừng.
Tác động nguồn đến vốn con người
+ Tăng kiến thức và kỹ năng trong sản xuất và đời sống.
+ Tăng nhận thức về môi trường, tài nguyên rừng.
+ Thay đổi nhận thức, vai trò về giới trong sản xuất và xã hội.
Tác động đến nguồn vốn xã hội
+ Tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn tài chính cho người dân.
+ Tạo việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng.
+ Củng cố hệ thống tổ chức xã hội.
- 28 -
+ Góp phần vào công tác xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
Tác động đến nguồn vốn tài chính: Góp phần phát triển kinh tế HGĐ.
+ Thay đổi cơ cấu chi phí HGĐ sau GĐGR.
+ Thay đổi cơ cấu thu nhập của HGĐ sau GĐGR.
+ Tăng thu nhập/ha đất lâm nghiệp nhờ thay đổi phương thức canh tác.
+ Giảm tỉ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn xã.
Tác động đến nguồn vốn vật chất
+ Tăng nội thất, đồ dùng cho sinh hoạt hàng ngày.
+ Tăng phương tiện vận chuyển, nghe nhìn.
3.4.2.4 Phương pháp xử lý số liệu
+ Phân tích định tính: Được sử dụng chủ yếu trong suốt quá trình nghiên cứu
nhằm tổng hợp phân tích các tác động của chương trình GĐGR chưa thể định lượng
hoá. Kết hợp với các bảng và số liệu minh họa.
+ Phân tích định lượng: Dùng để bổ sung cho phân tích định tính; đánh giá ảnh
hưởng của chính sách GĐGR đến nguồn lực kinh tế.
+ Tham vấn và đánh giá của chuyên gia: Là một công cụ quan trọng trong quá
trình phân tích và diễn giải thông tin. Phương pháp này được áp dụng từ bước thiết
kế điều tra tới các bước thu thập số liệu tại hiện trường, phân tích tổng hợp và hoàn
thiện báo cáo.
3.4.2.5 Phương pháp đánh giá tác động tổng hợp
Sử dụng phương pháp giám sát & đánh giá tác động tổng hợp của 2 tác giả
người Đức: Kari Herweg & Kurt Steiner.
- 29 -
CHƯƠNG IV
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
4.1 Điều kiện tự nhiên
4.1.1 Vị trí địa lý
Xã Thượng Quảng nằm về phía Tây của huyện Nam Đông, cách thị trấn Khe
Tre khoảng 16 km, là một xã miền núi ở thượng nguồn sông Hương, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Toạ độ địa lý:
- Điểm cực Bắc: 16010’47” vĩ Bắc, 107035’50” kinh Đông. - Điểm cực Tây: 16008’24” vĩ Bắc, 107035’25” kinh Đông. - Điểm cực Đông: 16007’36” vĩ Bắc, 107038’35” kinh Đông. - Điểm cực Nam: 16000’37” vĩ Bắc, 107032’42” kinh Đông.
Phạm vi ranh giới hành chính:
- Phía Đông giáp xã Thượng Long
- Phía Tây giáp xã Hương Nguyên, huyện A Lưới.
- Phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam.
- Phía Bắc giáp xã Hương Sơn.
Diện tích tự nhiên là 15661.15 ha chiếm 24,04% diện tích toàn huyện, xã được
tổ chức thành 7 thôn và một khu dãn dân. Xã Thượng Quảng là vùng phòng hộ đầu
nguồn sông Hương, vì vậy chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc bảo vệ, điều
tiết nguồn nước, bảo vệ môi trường sinh thái của cả tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.1.2 Địa hình, địa thế
Thượng Quảng nằm trong vùng núi trung bình, tương đối phức tạp và không
thuần nhất, bao gồm nhiều dãy núi chạy từ Bắc đến phía Tây với các chỉ số độ cao:
Độ cao trung bình là 400m
Độ cao tuyệt đối lớn nhất là 882m
Độ cao tuyệt đối nhỏ nhất là 130m Độ dốc trung bình từ 20 - 360
Địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc thấp (dưới 150) nên thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp; đặc biệt trồng rừng công nghiệp và các loài cây
công nghiệp, cây ăn quả.
- 30 -
4.1.3 Khí hậu, thủy văn
4.1.3.1 Khí hậu
Xã Thượng Quảng thuộc tiểu vùng khí hậu thung lũng nhiệt đới gió mùa, chia
thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô
- Mùa khô: bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây
Nam, thường có nhiệt độ cao, lượng mưa ít, có lúc xuất hiện các đợt nắng nóng kéo
dài, ít mưa và thường xuất hiện những cơn mưa giông về buổi chiều kéo theo gió
Tây Nam.
- Mùa mưa: kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, lượng mưa trong năm
phân bố không đều, tập trung vào các tháng 10, 11, 12. Do ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc và vòng cung của dãy Trường Sơn nối liền đèo Hải Vân tạo nên khí hậu
có mưa kéo dài và rét. Có những tháng như tháng 10, 11 lượng mưa rất lớn dễ gây
nên lũ lụt.
- Chế độ nhiệt:
+ Nhiệt độ bình quân năm : 24,40C + Nhiệt độ tối cao tuyệt đối : 400C + Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối : 90C
+ Số giờ nắng trung bình trong năm : 1.195 giờ.
- Chế độ mưa: Nằm ở sườn Đông của dãy Trường Sơn và ngay dưới chân của
dãy Bạch Mã, nhưng Nam Đông là vùng đồi núi thấp nên chịu ảnh hưởng của mưa
từ phía Tây, vì vậy mùa mưa thường đến sớm (tháng 5) và kết thúc vào tháng 7.
Ngoài ra, vào thời kỳ đầu của gió mùa mùa hạ, dãy hội tụ nhiệt đới đi ngang qua
lãnh thổ Thừa Thiên Huế kèm theo áp thấp nhiệt đới gây mưa lớn, tạo nên một đỉnh
mưa phụ vào tháng 6 (Tiểu mãn).
Lượng mưa trung bình vào khoảng 3.500 mm/năm. Mưa tập trung chủ yếu vào
các tháng 9, 10, 11 và 12. Giữa các tháng mưa nhiều nhất (tháng 10) và tháng mưa
ít nhất (3) lượng mưa chênh lệch rất lớn, khoảng 973 mm, tức là tháng nhiều mưa
nhất gấp từ 20 đến 30 lần tháng ít mưa nhất trong năm. Mùa ít mưa là mùa trùng với
thời kỳ khô nóng, bốc hơi mạnh nên gây khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất. Vào
- 31 -
mùa mưa lại thường xảy ra lũ lụt, gây nhiều thiệt hại cho các hoạt động kinh tế và
đời sống nhân dân. Lượng mưa cao kèm theo độ dốc lớn là nguyên nhân gây ra lũ
quét, làm xói lở đường xá, sụt lở đất, đất bạc màu...
Tổng lượng mưa bình quân năm từ 3500-4200mm, mưa tập trung với cường
độ mạnh, lượng mưa vào mùa khô chiếm 60-70% lượng mưa cả năm, số ngày mưa
trung bình trong năm từ 145 - 180mm.
- Chế độ gió: Có hai hướng gió chính
+ Gió mùa Tây Nam có tần suất dao động từ 22-48% trong các tháng và đạt cực
đại vào tháng 7. Trong thời gian chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam thường có các
đợt nắng nóng kéo dài, thời tiết khắc nghiệt làm ảnh hưởng đến năng suất của một số
cây trồng, đặc biệt đối với các loài cây nông nghiệp và cây công nghiệp.
+ Gió mùa Đông Bắc hoạt động từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau và thường gây
nên mưa nhiều, rét đậm và gây hại đáng kể cho sản xuất nông lâm nghiệp.
- Chế độ ẩm: Nam Đông là khu vực có độ ẩm tương đối cao, trung bình năm là
86%. Thời kỳ có độ ẩm thấp từ tháng 4 đến tháng 12 (trị số từ 79–82%), trong đó
tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 7 (79%). Độ ẩm cao nhất là trong 3 tháng 10, 11
và 12, độ ẩm trung bình đều trên 90%. Nói chung, hệ số biến động của độ ẩm trung
bình năm dao động chỉ vài %. Tuy nhiên, độ ẩm thấp nhất tuyệt đối năm có thể
giảm tới 28-30%, những chỉ số này chủ yếu xảy ra vào tháng 3 và 4. Vì vậy, tiểu
vùng khí hậu Nam Đông thuộc khí hậu nhiệt đới ẩm trên núi, mùa hè mát mùa đông
hơi lạnh.
Lượng bốc hơi trung bình năm ở Nam Đông đạt trên 906 mm, chỉ chiếm 28%
tổng lượng mưa năm. Điều đó chứng tỏ nguồn nước mặt rất dồi dào. Tuy nhiên do
biến động của bốc hơi ngược với tiến trình năm của lượng mưa, nghĩa là thời kỳ
mưa ít nhất sẽ có lượng bốc hơi nhiều nhất nên gây ra hạn hán ở nhiều nơi.
- Chế độ gió, bão: Khí hậu khu vực bị chi phối bởi hai chế độ gió chính
+ Gió mùa Tây Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió trung bình
từ 2-4m/s, tốc độ lớn nhất 23m/s có kèm theo không khí nóng.
+ Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ trung
bình 7m/s, tốc độ gió lớn nhất 20m/s có kèm theo mưa và lạnh.
- 32 -
4.1.3.2 Thủy văn
- Nước mặt: Là một xã miền núi có địa hình phức tạp, cùng với lượng mưa
trung bình hàng năm lớn nên hệ thống sông suối ở đây khá dày đặc.
Xã Thượng Quảng có 2 khe suối chính là A Răng và Ka Đe, trong đó dòng Ka
Đe tập trung tất cả hệ thống khe suối của vùng tiểu khu 39 bắt nguồn từ các đỉnh núi
đổ về. Lòng khe hẹp và dốc, có nhiều nhánh rải đều thuận lợi cho canh tác, tuy
nhiên mực nước chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô. Vào mùa mưa, bề ngang
khe suối đạt từ 15 - 20m, sâu trên 2m, lưu lượng nước rất lớn, tốc độ dòng chảy
mạnh và xiết dễ gây ngập úng và lũ quét. Ngược lại, vào mùa khô đặc biệt vào
những tháng nắng nóng thì các khe hầu như không có nước để phục vụ sinh hoạt,
gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của người dân.
Sự phân phối lượng dòng chảy trong năm không đều theo cả không gian và
thời gian. Trong năm dòng chảy được phân ra làm hai mùa rõ rệt: Mùa lũ và mùa
cạn.
- Nước ngầm: Do cân bằng nước trong năm của Thượng Quảng dương nên
lượng nước ngầm khá phong phú. Tuy nhiên, với địa hình miền núi nên tầng nước
ngầm khá phức tạp, phụ thuộc vào địa hình và nền địa chất địa phương. Nhìn chung,
vùng nước ngầm ở khu vực trung tâm xã phong phú hơn địa hình ở vùng cao. Nước
ngầm phong phú nhất tập trung ở vùng địa hình thấp, có vật liệu phù sa bồi tụ,
thuận lợi cho việc canh tác lúa nước và đào ao nuôi cá. Tại các bậc thềm phù sa cổ,
nguồn nước ngầm cũng khá phong phú, mực nước dao động từ 5-6m, nguồn nước
này có thể phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là cây công nghiệp dài
ngày.
- Chất lượng nguồn nước và vấn đề sử dụng nước: Nhìn chung nước sông ở
Thượng Quảng thuộc loại nước sạch nên ngoài việc sử dụng cho phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, dân sinh… Còn phục vụ cho nhu cầu giải trí và các ngành
nghề khác. Tuy nhiên, do lượng mưa phân phối không đều trong các tháng (lượng
nước tập trung chủ yếu vào tháng 10, 11, 12, các tháng còn lại chỉ chiếm khoảng
30-50%) nên gây thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt.
- 33 -
4.1.4 Điều kiện thổ nhưỡng
Do nền địa chất phức tạp với tính chất đa nham của vùng bao gồm: Đá Granit,
điorit, catket, phiến thạch sét, phù sa bồi tụ…. Cùng với tác động của khí hậu nhiệt
đới ẩm, nên nơi đây có nhiều loại đất. Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, xã Thượng
Quảng gồm các loại đất chủ yếu:
- Đất phù sa cổ: Phân bố chủ yếu ở các khu vực gần dân cư, ven các sông
suối. Đây là loại đất có tỷ lệ cuội tròn cao, phù hợp với một số cây trồng, chủ yếu là
cây ăn quả. Tuy nhiên, do có nhiều đá nên gây khó khăn cho việc canh tác.
- Đất vàng đỏ trên phiến thạch sét: Đây là loại đất có tầng đất mỏng, nghèo
dinh dưỡng và phân bố ở độ dốc cao. Phần lớn, trên loại đất này đang có rừng tự
nhiên, rừng trồng và đối tượng rừng phục hồi sau nương rẫy.
- Đất mùn đỏ trên núi: Đây là loại đất phân bố trên núi cao, thường có độ cao
trên 800m so với mực nước biển. Chủ yếu trên đất đang có rừng tự nhiên.
4.1.5 Hiện trạng tài nguyên rừng
Hiện trạng tài nguyên rừng của xã Thượng Quảng được nêu trên bảng 4.1.
Bảng 4.1: Thống kê hiện trạng tài nguyên rừng xã Thượng Quảng
Tỉ trọng (%)
STT
Các loại rừng và đất rừng
Ký hiệu Diện tích (ha)
A. PHÂN THEO LOẠI RỪNG
6195,90
1
Rừng sản xuất
RSX
49,20
6397,00
2
Rừng phòng hộ
RPH
50,80
3
Rừng đặc dụng
RĐD
0,00
0,00
B. PHÂN THEO HIỆN TRẠNG
1 Đất trống IA (trảng cỏ)
IA
74,57
0,59
2 Đất trống IB (cây bụi)
IB
145,65
1,16
3 Đất trống IC (cây gỗ rải rác)
IC
1452,00
11,53
4 Núi đá
NDA
6,27
0,05
5
RT
433,00
3,44
6
PH
1762,00
13,99
7 8 9
Rừng trồng Rừng phục hồi (<75m3/ha) Rừng nghèo (75-150m3/ha) Rừng trung bình (151-225 m3/ha) Rừng giàu (226-300 m3/ha)
NG TB G
4362,07 2151,63 2205,61
34,64 17,09 17,51
Tổng diện tích đất lâm nghiệp
12592,9
100,00
- 34 -
- Rừng ở đây có nhiều loại cây gỗ quý như: lim, chò, sến, gõ, kiền, đào, huê…
Đất lâm nghiệp toàn xã là 15157,85 ha chiếm 97,55% tổng diện tích đất tự nhiên,
bao gồm:
+ Đất có rừng sản xuất là: 6195,90ha, chiếm 40,88% diện tích đất lâm nghiệp
và 39,56% diện tích tự nhiên.
+ Đất có rừng phòng hộ: 6397 ha chiếm 53,40% diện tích lâm nghiệp và 40,85
tổng diện tích đất tự nhiên.
+ Diện tích rừng giàu là: 2396,61ha, chiếm khoảng 15,50% tổng diện tích
rừng, còn lại đa số là rừng tự nhiên là rừng nghèo và rừng phục hồi, chất lượng rừng kém, trữ lượng chỉ đạt 30-80m3/ha.
- Hiện nay tại xã Thượng Quảng đang áp dụng cơ chế quản lý rừng theo 2 hình
thức: Giao cho nhóm HGĐ; cộng đồng quản lý. Các quy chế quản lý, bảo vệ và
chính sách hưởng lợi theo quy định của Nhà nước.
4.1.6 Động vật hoang dã và lâm sản ngoài gỗ
- Địa phương nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa là nơi cư trú và sinh trưởng
của nhiều loài động vật hoang dã và quý hiếm đặc trưng cho miền nhiệt đới. Trong
số đó có sự hiện diện của các loài như: Sóc, Lợn rừng, Rắn hổ mang, Rắn lồng, Sao
la, chồn, trĩ, công... Đây là những loại động vật quý hiếm, có ý nghĩa về khoa học
và giá trị thực tiễn cao.
- Lâm sản ngoài gỗ được khai thác sử dụng bao gồm các loại như: Cây dược
liệu, cây vật liệu, cây lương thực- thực phẩm, làm thức ăn gia súc…
+ Cây dược liệu: nhân trần, sâm cau, thiên niên kiện, hà thủ ô…
+ Cây vật liệu: Lá nón, tre, mây song, lá đót…
+ Cây lương thực, thực phẩm: Củ mài, măng, nấm hương, rau ngót rừng…
4.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
4.2.1 Dân số, lao động và dân tộc
Xã Thượng Quảng hiện có 352 hộ (136 hộ Kinh chiếm 38,63%, 216 hộ Kotu
chiếm 61,37% số hộ của toàn xã), 1689 nhân khẩu (727 Kinh chiếm 43,04%, 926
Kotu chiếm 56,96% số khẩu của toàn xã). Tình hình tăng dân số của xã rất nhanh,
tỷ lệ phát triển tự nhiên 1,9%. Số hộ sinh con thứ 3 còn nhiều, với số hộ nghèo
chiếm 23,57% tổng số hộ toàn xã. Nguồn lao động chủ yếu là trong lĩnh vực sản
- 35 -
xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi); một bộ phận rất ít hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ (buôn bán nhỏ); hành chính; xây dựng...và một số ngành nghề khác.
Năm 2008 số lao động xuất khẩu toàn xã là 7 lao động.
Bảng 4.2: Một số chỉ tiêu dân số năm 2008 (đến 31/12/2008)
Tổng số
Chia ra
STT
Thôn
Kinh
Ko tu
Hộ
Khẩu
Hộ
Khẩu
Hộ
Khẩu
1
Thôn 1
76
347
10
54
66
293
2
Thôn 2
40
177
01
05
39
172
3
Thôn 3
77
325
-
-
77
325
4
Thôn 4
34
172
-
-
34
172
5
Thôn 5
43
216
43
216
-
-
6
Thôn 6
44
242
44
242
-
-
7
Thôn 7
38
210
38
210
-
-
727
Tổng
352
1689
136
216
962
(Nguồn: Số liệu báo cáo xã Thượng Quảng cuối năm 2008)
Qua bảng 4.2 ta thấy ở xã số hộ nghèo còn nhiều, đặc biệt những hộ người
Thượng, tập trung ở các thôn 1, 2, 3 và 4 là những thôn người Kotu ở xã.
4.2.2 Tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của xã
Thượng Quảng là một xã miền núi nghèo, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông
lâm nghiệp. Theo báo cáo đầu năm 2009 của UBND xã Thượng Quảng, giá trị sản
xuất các ngành nông lâm ngư nghiệp năm 2008 là 7,4 tỷ đồng; trong đó: trồng trọt
4,7 tỷ đồng chiếm 63,51%; chăn nuôi 1,2 tỷ đồng chiếm 16,22%; lâm nghiệp 1,1 tỷ
đồng chiếm 14,86%; thuỷ sản 0,4 tỷ đồng chiếm 5,41% tổng giá trị sản xuất nông
lâm ngư nghiệp.
* Trồng trọt
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức, DA nông lâm nghiệp (Hành lang xanh, ADB,
135...) ngành trồng trọt tại xã Thượng Quảng có những bước tiến đáng kể trong việc đưa các giống cây trồng năng suất cao, thời gian sản xuất ngắn thay cho các giống
cây địa phương năng suất, chất lượng thấp. Bước đầu giải quyết vấn đề lương thực cho nhân dân trong xã.
- 36 -
Bảng 4.3: Một số loại cây trồng chủ yếu tại xã
STT
Loại cây trồng
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
1
Lúa nước
114,5
49,6
567,9
2
Ngô địa phương
5,0
31,0
15,5
3
Ngô lai
20,0
33,8
67,6
4
Sắn địa phương
25,0
165,0
412,5
5
Sắn công nghiệp
17,0
246,9
419,7
6
Khoai lang
11,0
49,3
54,3
7
Đậu các loại
18,0
5,1
9,2
8
Lạc
2,5
13,0
3,3
(Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội xã Thượng Quảng ngày 18/12/2008)
Theo báo cáo tổng kết tình hình sản xuất năm 2008 của xã Thượng Quảng, cho
thấy cây lúa nước vẫn chiếm giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu cây trồng nông
nghiệp. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 239,2 ha; trong đó diện tích lúa
nước 114,5 ha; cây có củ lấy bột 63 ha (trong đó sắn nguyên liệu 14 ha). ngô 25 ha,
lạc 2,5 ha; đậu các loại 18 ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt 651 tấn, sản lượng
thóc là 567,9 tấn chiếm tới 87,25%.
Kinh tế vườn được người dân quan tâm, chú trọng đến việc tăng giá trị và hiệu
quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, chủ yếu phát triển cây ăn quả ví dụ: cam, quýt,
cau.... Toàn xã có 331 vườn/357 hộ với diện tích 68 ha trong đó vườn có thu nhập
từ 2 triệu đồng trở lên là 41 vườn, từ 1 đến 2 triệu đồng là 22 vườn, từ 0,5 đến 1
triệu đồng là 78 vườn và dưới 0,5 triệu là 190 vườn.
* Chăn nuôi
Trước đây, nền nông nghiệp chính của xã là sản xuất lúa và canh tác nương
rẫy, nhưng hiện nay nhận thức được phát triển kinh tế hộ là mục tiêu then chốt nên
cán bộ và nhân dân trong xã đã chuyển hướng phát triển kinh tế vào khâu chăn nuôi,
tỷ trọng chăn nuôi cũng tăng dần trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tổng đàn gia
súc theo điều tra hiện có 1190 con, đàn trâu hiện có 277 con, đàn bò 326 con, đàn
lợn 587 con (trong đó lợn nái 59 con), tổng đàn gia cầm 2350 con. Tỷ trọng ngành
chăn nuôi chiếm 20,33% trong nông nghiệp, trồng cỏ chăn nuôi phát triển hiện có 9
ha.
- 37 -
Theo kết quả điều tra hộ cho thấy hầu hết quy mô chăn nuôi trong từng HGĐ
chỉ ở mức nhỏ lẻ, quy mô trang trại chưa có nên sản xuất không mang tính chất
hàng hoá. Do vậy, các loại gia cầm chỉ chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình và lễ
hội, số còn lại đem bán tạo thu nhập là không đáng kể.
Bảng 4.4: Thống kê số lượng gia súc - gia cầm xã năm 2008
STT
Loại gia súc, gia cầm
ĐVT
Số lượng
1
Tổng đàn gia súc
Con
1190
Đàn trâu
Con
277
1.1
- Trâu kéo
Con
180
Đàn bò
Con
326
1.2
- Bò cày kéo
Con
5
- Bò lai Sind
Con
97
Đàn lợn
Con
587
1.3
- Lợn nái
Con
59
2
Tổng đàn gia cầm
Con
2350
2.1
Gà
Con
1781
2.2
Vịt – Ngan
Con
569
3
Diện tích ao nuôi cá
Ha
9.8
3.1
Năng suất
Tạ/ ha
3,15
3.2
Sản lượng
Tạ
30
(Nguồn: Báo cáo kinh tế- xã hội xã Thượng Quảng năm 2008) Tuy nhiên, với sự giúp đỡ của các chương trình xoá đói, giảm nghèo, người
dân đã từng bước tiếp cận và nắm bắt những kiến thức khoa học trong chăn nuôi,
từng bước có sự phát triển về số lượng cũng như chất lượng các loại vật nuôi.
Công tác thú y đã từng bước được quan tâm củng cố, đội ngũ cán bộ thú y
thôn, xã có chuyển biến rõ nét trong công tác tiêm phòng và điều trị.
Lâm nghiệp
Phong trào trồng rừng phát triển khá năm 2008 trồng mới 70 ha đưa diện tích
trồng rừng đến cuối năm 433 ha với 167 HGĐ. Việc đầu tư thâm canh được nhân
dân quan tâm, một số HGĐ đã chủ động gieo ươm cây giống các loại phục vụ cho
công tác trồng rừng năm 2008. Tiếp tục khai thác 30 ha rừng trồng ước tính giá trị
520 triệu đồng.
- 38 -
Nuôi cá nước ngọt
Phong trào nuôi cá nước ngọt tiếp tục phát triển ổn định, diện tích nuôi cá
nước ngọt năm nay là 9,8 ha với 182 HGĐ chiếm tỷ lệ 51% tổng số HGĐ trong xã,
ước sản lượng thu hoạch 16,7 tấn/năm.
Công nghiệp, TTCN và thương mại dịch vụ
Toàn xã có 35 các cơ sở kinh doanh vừa và nhỏ, hầu hết tiếp tục duy trì và
phát triển khá chủ yếu các ngành nghề mộc, xưởng cưa, cửa hàng kinh doanh vật
liệu xây dựng, hàng tạp hoá... góp phần tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho
người lao động trên địa bàn xã. Các dịch vụ như bưu điện, vận tải ngày càng phát
triển. Tuy nhiên tỷ trọng trong lĩnh vực này chiếm tỷ lệ rất nhỏ 9,5% trong cơ cấu
thành phần kinh tế.
4.2.3 Hiện trạng cơ sở hạ tầng
Về giao thông
Xã Thượng Quảng có đường tỉnh lộ 14B chạy qua ở phía Đông Bắc của xã
(chạy ngang qua UBND xã) với chiều dài khoảng 1.217 km. Hệ thống đường liên
thôn đã bê tông hoá 7,5 km (trong tổng số 14 km các đường đi trong xã). Tất cả các
thôn đều có đường đến trung tâm xã. Để phục vụ cho đi lại và giao thương vật tư
hàng hoá, hiện có 10 cầu và cống đã được xây dựng.
Về điện lưới và các nguồn năng lượng khác
Hiện nay 98,3% số hộ trong xã đã sử dụng điện lưới quốc gia. Nguồn năng
lượng được người dân sử dụng nhiều nhất vẫn là củi và một số phế phẩm từ nông
nghiệp. Trên địa bàn chưa có mô hình sử dụng khí sinh học.
Hệ thống thông tin liên lạc
Theo số liệu lấy từ niên giám thống kê năm 2008 của huyện Nam Đông, hệ
thống thông tin liên lạc của xã không ngừng phát triển, từ năm 2003, toàn xã có 19
máy điện thoại cố định, năm 2008 lên tới trên 100 máy điện thoại cố định, 50 máy
điện thoại di động. Thư tín, báo chí về tận cơ sở, kịp thời đưa tin các sự kiện diễn ra
trong nước và Quốc tế. Công báo được cấp phát về tận thôn.
Thuỷ lợi và cung cấp nước
Trong xã có 15 km kênh mương, tuy nhiên chỉ có 3,2 km được bê tông hoá, số
còn lại là mương đất, nên chưa đáp ứng tốt nhu cầu tưới tiêu trong sản xuất nông
- 39 -
nghiệp vào mùa khô. Nguồn cung cấp nước chủ yếu cho các hộ dân được lấy từ
giếng đào. Đã có 97% hộ sử dụng nước sạch. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận dân
cư sử dụng nước khe suối.
4.2.4 Điều kiện y tế, văn hoá, giáo dục
Điều kiện y tế
Xã có 1 trạm y tế với 5 giường bệnh. Gồm 1 bác sỹ, 5 y tá và một nữ hộ sinh.
Công tác khám chữa bệnh thường xuyên, việc chăm sóc sức khoẻ và phòng chống
dịch bệnh, ốm đau tương đối hiệu quả. Trong năm 2008 đã tiến hành khám chữa
bệnh cho 5324 lượt người, trung bình 3,14 lần khám/người.năm.
Về giáo dục
Toàn xã có một trường tiểu học với 12 lớp học, mỗi thôn có một nhà trẻ, công
tác huy động trẻ tới trường được chính quyền địa phương hết sức quan tâm. Năm
2008, học sinh tiểu học trong độ tuổi được đến trường đạt 99%; trẻ 5 tuổi vào mẫu
giáo đạt 100%; trẻ từ 3-5 tuổi đạt 98,5%; nhà trẻ đạt 37%. Chú trọng phát triển
ngành học mầm non, nâng cao trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội nhằm
chăm lo sự nghiệp giáo dục, chống học sinh bỏ học. Nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội khuyến học, huy động các nguồn lực hỗ trợ kịp thời, động viên khen
thưởng những học sinh đạt thành tích cao trong học tập.
Về văn hoá, văn nghệ, thể thao
Trong những năm gần đây, phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao
của xã được bà con tham gia rất sôi nổi. Hàng năm tổ chức nhiều hoạt động văn
hoá, văn nghệ, các hoạt động thi đấu thể thao. Các phong trào bảo vệ môi truờng, vệ
sinh đường làng ngõ xóm được hưởng ứng rất nhiệt tình. Trong năm 2008, toàn xã
đã tổ chức 01 giải bóng đá truyền thống, 03 giải bóng chuyền, các trò chơi dân gian
và các môn thi đấu khác thu hút trên 300 lượt vận động viên và hàng nghìn người
dân tham gia. Xã cũng gửi vận động viên tham gia các phong trào thể thao toàn
huyện, tỉnh và gặt hái nhiều thành công.
Nhìn chung, ngoài việc chăm lo sản xuất, nhân dân trong xã cũng rất tích cực
tham gia các phong trào văn hoá, thể thao tạo sự đoàn kết trong tập thể và nâng cao mức sống tinh thần của cộng đồng.
- 40 -
Tình hình an ninh, quốc phòng
Toàn xã đẩy mạnh phong trào quốc phòng toàn dân, tăng cường cụm tuyến an
toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng các hoạt động và tổ chức tốt
công tác huấn luyện cho lực lượng dân quân, quản lý tốt quân dự bị động viên đồng
thời hàng năm hoàn thành tốt công tác tuyển quân.
Tình hình an ninh chính trị toàn xã luôn được giữ vững, trong những năm gần
đây không có vụ gây rối làm mất trật tự trên địa bàn nào xảy ra. Công tác an ninh,
trật tự địa phương luôn được tăng cường tạo sự yên tâm cho nhân dân.
Một số chương trình, DA đầu tư về xã
Trong những năm gần đây có rất nhiều chương trình, DA được ưu tiên đưa về
xã nhằm phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống của người dân. Cụ thể từ
năm 2004 đến nay xã đã tiếp nhận và triển khai các DA: WB3, ADB đầu tư về lâm
nghiệp, Hành lang xanh, ETSP và chương trình 134.
(1) DA WB3 là DA mới đưa về xã vào cuối năm 2006, DA WB3 mới tiến
hành khảo sát địa bàn xã và tiến hành họp dân ở thôn 1, thôn 2, thôn 3, thôn 4. Mục
đích của DA này sẽ cho người dân vay vốn để đầu tư vào trồng rừng.
(2) DA ADB là một DA lớn được tiến hành ở 7 thôn với các chủ đầu tư khác
nhau với các hạng mục đầu tư khác nhau:
+ Nếu chủ đầu tư là UBND xã thì đầu tư cho dân xây dựng giếng và cung cấp
giống cây trồng vật nuôi như: lợn, cỏ chăn nuôi, cau, cam…để phát triển sản xuất,
cải thiện đời sống. Đi kèm với việc cung cấp những nguồn lực trên thì DA còn tập
huấn cho người dân về những kỹ thuật chăn nuôi và trồng cây.
+ Nếu chủ đầu tư là huyện thì tổ chức tập huấn cho người dân về kỹ thuật,
cung cấp cây giống (chủ yếu là keo) để trồng rừng.
+ Nếu chủ đầu tư là tỉnh tổ chức tập huấn cho dân những kỹ thuật, cung cấp
giống, vốn để xây dựng các mô hình vườn rau, vườn cây ăn quả và chăn nuôi bò, cá.
(3) DA hành lang xanh được tiến hành từ cuối năm 2006 ở thôn 1, thôn 2, thôn
3 của xã với mục đích trồng mây, tre lấy măng, lồ ô. DA đã cung cấp cho người dân
vốn và kỹ thuật trồng.
- 41 -
(4) DA ETSP được tiến hành từ năm 2005-2006, chủ yếu là chuyển giao kỹ
thuật về phát triển lâm sản ngoài gỗ, nông nghiệp, giới và có đầu tư mô hình trồng
cỏ chăn nuôi, trồng đậu, trồng lúa.
(5) Chương trình 134 được tiến hành trong 3 năm từ 2004-2007 chủ yếu là xây
dựng nhà ở, đo đất thổ cư. Và cũng có một hạng mục về xây dựng cơ sở hạ tầng
nhằm phục vụ dân sinh, sản xuất như: xây dựng trạm y tế, nhà họp dân…
(6) DA SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan về hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên.
(7) Chương trình 135
Như vậy, Thượng Quảng là một xã được nhiều chương trình, DA đầu tư. Hầu
như phần lớn các DA đều có tập huấn kỹ thuật và đầu tư nguồn lực cụ thể. Đây là
một trong những điều kiện hết sức thuận lợi nhằm giúp cho người dân phát triển sản
xuất, cải thiện, nâng cao đời sống.
4.3 Nhận xét chung về tình hình cơ bản của xã Thượng Quảng
Thuận lợi
+ Quỹ đất bằng có khả năng sản xuất nông nghiệp chưa sử dụng còn nhiều, có
thể khai hoang để sản xuất nông nghiệp, trồng cây lương thực đảm bảo nhu cầu tại
chỗ của người dân.
+ Tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp phong phú, có giá trị và diện tích lớn,
cần phải có kế hoạch quản lý và khai thác có hiệu quả; gắn lợi ích của người dân
với hoạt động quản lý bảo vệ rừng để tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời
sống nhân dân.
+ Lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó…
+ Được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo
+ Có nhiều chương trình, DA được đưa về triển khai ở xã hỗ trợ cho phát triển
kinh tế và xã hội.
Khó khăn
+ Đất đai với tính chất xấu, đã bị thoái hoá do quá trình sử dụng không hợp lý.
Diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp có tỉ lệ đá lẫn, cuội cao do đó gây khó
khăn cho canh tác.
+ Diện tích rừng tự nhiên lớn song chất lượng rừng đã bị suy giảm nghiêm
trọng do hoạt động du canh du cư và canh tác rương rẫy không hợp lý trong một
thời gian dài. Phân chia rừng theo trạng thái thì trạng thái I là 1934,22 ha chiếm tới
- 42 -
30,89% tổng diện tích rừng của toàn xã. Với tính chất đất đã bị thoái hóa, tiểu khí
hậu khắc nghiệt, đây là diện tích cần có biện pháp tác động tích cực như trồng rừng
cải tạo đất, trồng rừng phủ xanh, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh… mới có khả năng
phục hồi rừng.
+ Khí hậu khắc nghiệt, biên độ dao động nhiệt trong ngày, giữa các ngày và
giữa các mùa trong năm lớn; đặc biệt là chế độ mưa phân bố không đều, mùa mưa
gây lũ lụt, mùa nắng lại xảy ra hạn hán ảnh hưởng rất lớn đến điều tiết nước cho sản
xuất và sinh hoạt.
+ Người dân tham gia quản lý rừng rất tích cực nhưng còn gặp nhiều khó khăn
như thiếu phương tiện, thông tin, kỹ thuật, nguồn vốn…
+ Trình độ canh tác còn thấp kém, thiếu kiến thức thâm canh cây trồng, phòng
trừ sâu bệnh, quản lý sản xuất, thông tin thị trường.
+ Thiếu nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất; đời sống của người dân còn
nhiều khó khăn.
+ Chịu ảnh hưởng nhiều của các phong tục tập quán cổ hủ của địa phương.
Tóm lại
- Về điều kiện tự nhiên, bên cạnh những thuận lợi cũng không thể không kể
đến những khó khăn cho sản xuất và đời sống của cộng đồng địa phương. Để khắc
phục chúng ta phải có các biện pháp tác động và hỗ trợ cho địa phương thông qua
các công trình thuỷ lợi điều tiết nước cho sản xuất và sinh hoạt. Xác định tập đoàn
cây trồng thích hợp, kết hợp với việc xây dựng lịch mùa vụ hợp lý, QH vùng sản
xuất nông lâm nghiệp cho thuận lợi và phù hợp…
- Tạo nguồn vốn cho sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng: điện lưới, đường giao
thông, hệ thống truyền thông… phục vụ cho sản xuất và nâng cao dân trí. Tổ chức
các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật trong sản xuất nông lâm nghiệp cho người
dân.
- Với diện tích rừng và đất lâm nghiệp không nhỏ, phong tục tập quán sống
của cộng đồng cho thấy vai trò quan trọng của rừng trong đời sống người dân địa
phương. Để cộng đồng thực sự gắn bó với rừng thì rừng phải đảm bảo được cuộc
sống cho họ. Làm được việc đó chúng ta phải thực hiện tốt công tác GĐGR. Hướng
dẫn, tập huấn cho người dân biết sử dụng hiệu quả diện tích đất được giao. Giáo dục
ý thức cộng đồng về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
- 43 -
CHƯƠNG V
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1 Tình hình thực hiện chương trình giao đất giao rừng tại Thượng Quảng
Nhằm mục tiêu quản lý sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng, bảo vệ, bảo tồn
và phát triển tài nguyên rừng hiện có. Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết
định 178/2001/QĐ - TTg ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của HGĐ,
cá nhân được giao, thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Trên cơ sở những chủ
trương chính sách trong các giai đoạn trước, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết
Định 667/QĐ-UB ngày 13/3/2002 về việc thành lập BCĐ triển khai công tác giao,
cho thuê, khoán rừng và đất lâm nghiệp cho HGĐ và cá nhân. Làm nhiệm vụ tham
mưu cho UBND thực hiện Nghị Định 163/1999/NĐ-CP và Nghị Định 01/CP ngày
04/01/1995…Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của HGĐ,
cá nhân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; thừa nhận tư cách pháp nhân,
đảm bảo bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật của các HGĐ, cá nhân.
Tạo điều kiện thuận lợi và làm cho người dân yên tâm để nhận đất sản xuất, chủ
trương giao đất đã thực sự đi vào cuộc sống của người dân. Quyết định thể hiện các
nội dung:
- Đất lâm nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức, HGĐ và cá nhân sử dụng
ổn định lâu dài bao gồm: Đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng, đất chưa có rừng
được QH để trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ phục hồi rừng.
- Nhà nước giao đất từng loại đất lâm nghiệp cho từng đối tượng sử dụng:
+ Rừng phòng hộ: Sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, đất, chống xói
mòn, hạn chế thiên tai, cải thiện môi trường.
+ Rừng sản xuất: Sử dụng chủ yếu để sản xuất gỗ củi, LSNG, đặc sản.
+ Rừng đặc dụng: Sử dụng chủ yếu để bảo vệ thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh
thái quốc gia, nguồn gen, nghiên cứu khoa học.
- Mức giao khoán rừng theo mức: Căn cứ vào NĐ 163/1999/NĐ-CP và tuỳ
thuộc vào tình hình thực tế quỹ đất của từng địa phương.
- Quyền lợi của người được giao đất, giao rừng: Được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, được nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp trên đất lâm
- 44 -
nghiệp được giao, hưởng chính sách hỗ trợ của nhà nước trong việc bảo vệ phát
triển rừng, được đền bù, bồi hoàn thành quả lao động trên mảnh đất trong trường
hợp bị thu hồi theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, người được giao đất còn
có quyền cho thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp, chuyển đổi quyền sử dụng đất.
Được hưởng một lượng tăng trưởng gỗ củi khi được phép khai thác.
- Nghĩa vụ của người được giao đất khoán rừng: chịu trách nhiệm trước nhà
nước về thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý bảo vệ rừng, quản lý lâm
sản trên đất lâm nghiệp được giao. Người được giao đất lâm nghiệp phải đền bù cho
chủ cũ những sản phẩm họ đã làm ra trên đất lâm nghiệp theo thời giá và có sự thoả
thuận. Nộp thuế đất theo quy định của pháp luật.
Chính sách GĐGR được tiến hành rộng khắp tỉnh Thừa Thiên Huế, xuống
từng huyện, xã, thị trấn có rừng và đất lâm nghiệp. Tại Thượng Quảng- Nam Đông,
chủ trương GĐGR được bắt đầu tiến hành từ năm 1993 song việc thực hiện chưa
đồng bộ, diện tích rừng được giao còn manh mún nhỏ lẻ. Người dân chưa được
hưởng nhiều quyền lợi từ diện tích đất được giao, hay chủ trương GĐGR chưa thực
sự đến với người dân. Chính sách quản lý bảo vệ rừng lỏng lẻo nên rừng tiếp tục bị
tàn phá, suy giảm cả về chất lượng và trữ lượng. Canh tác nương rẫy không hợp lý
cũng là nguyên nhân không nhỏ gây mất rừng, thoái hoá đất, diện tích đất bị bỏ hoá
do mất khả năng canh tác ngày càng tăng. Đời sống nhân dân phụ thuộc chặt vào
rừng, đã đói nghèo nay càng khó khăn hơn do sức ép gia tăng dân số trong khi diện
tích và năng suất canh tác ngày càng giảm.
Từ năm 2002, sau khi ra đời Quyết định 178/2001/QĐ - TTg ngày 12/11/2001
của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của HGĐ, cá nhân được
giao, thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp chương trình GĐGR được đẩy mạnh.
Đặc biệt chú trọng trong các xã, huyện vùng sâu vùng xa, các địa phương sống phụ
thuộc chặt vào rừng như ở Nam Đông, A Lưới. Các xã chiếm tới hơn 80% diện tích
là đất lâm nghiệp như Thượng Quảng, Thượng Long, Hương Lộ… Qua 8 năm đẩy
mạnh chủ trương GĐGR tại Thừa Thiên Huế nói chung, Thượng Quảng - Nam
Đông nói riêng, đã thu được nhiều thành tựu đáng kể.
- 45 -
5.1.1 Thành tựu
Thượng Quảng là một xã miền núi với tổng diện tích đất lâm nghiệp 12.461,6
ha chiếm 80,56% diện tích tự nhiên toàn xã, như vậy rừng và đất rừng đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng. Mật độ dân số thấp, diện tích canh
tác lớn song đời sống nhân dân hết sức khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo rất cao đặc biệt là
cộng đồng dân tộc Ko tu, đời sống người dân phụ thuộc chặt vào rừng. Trong một
thời gian dài, việc đốt nương làm rẫy và khai thác rừng không hợp lý đã làm cho
diện tích rừng địa phương suy giảm nghiêm trọng, chuyển thành rừng nghèo kiệt.
Nhiều nương rẫy bỏ hoá không còn khả năng phục hồi và canh tác trở thành đất
trống đồi trọc hoặc phát triển thành đồng cỏ. Dân số tăng trong khi thu nhập ngày
càng hạn chế đẩy người dân đến cuộc sống ngày càng bần cùng hơn.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước, giao rừng và đất lâm nghiệp cho các
HGĐ, cộng đồng và cá nhân quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ phát
triển rừng đồng thời rừng thực sự trở thành công cụ và tư liệu sản xuất, đem lại thu
nhập cho nhân dân vùng rừng, sống phụ thuộc vào rừng. Trong những năm qua
Thừa Thiên Huế nói chung, Thượng Quảng - Nam Đông nói riêng hết sức đẩy mạnh
chương trình giao đất khoán rừng đến từng HGĐ, cá nhân và cộng đồng, dưới sự trợ
giúp của các chương trình trong và ngoài nước. Chương trình thực hiện đầy đủ và
có quy mô ở Thượng Quảng bắt đầu từ năm 2003. Qua 8 năm thực hiện đến nay
diện tích rừng được giao cho các HGĐ quản lý sử dụng là 4563 ha chiếm 36,62%,
khoán quản lý bảo vệ là 5,94%; giao cho cộng đồng 130,68 ha chiếm 1,05%.
Rừng được giao chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ và khoanh nuôi phục hồi rừng
tự nhiên sản xuất. Hiện nay, trên địa bàn xã đang thí điểm giao rừng tự nhiên cho
cộng đồng quản lý tại thôn 4, với diện tích là 130.68 ha. Kế hoạch đến năm 2010 sẽ
mở rộng diện tích giao rừng phòng hộ cho cộng đồng quản lý. Tuy nhiên, để công
tác giao rừng đạt hiệu quả cao, địa phương cần quan tâm hơn đến chế độ hưởng lợi
để thu hút sự tham gia của người dân. Kết quả thực hiện công tác GĐGR ở xã
Thượng Quảng thể hiện qua bảng 5.1.
- 46 -
Bảng 5.1: Kết quả công tác GĐGR xã Thượng Quảng
Đất đã giao cho các đối tượng
Đất chưa được giao
Loại đất
Tổng diện tích (ha)
STT
HGĐ
Nhóm hộ
Cộng đồng
∑DT (ha)
Tỉ lệ (%)
DT (ha)
Tỉ lệ (%)
15661.2 1298.7 4563.0 130.7 5992.4 38.3 9668.8
61.7
1
687.8
687.8
687.8
100
0.0
0.0
1.1
74.8
74.8
74.8
100
0.0
0.0
-
50.8
50.8
50.8
100
0.0
0.0
-
24.1
24.1
24.1
100
0.0
0.0
1.2
613.0
613.0
613.0
100
0.0
0.0
2
12592.9
610.8 4563.0 130.7 5304.5 42.1 7288.4
57.9
2.1
6397.0
0.0
0.0 6397.0
100
2.1.1
6267.2
0.0
0.0 6267.2
100
2.1.2
129.8
0.0
0.0
129.8
100
2.2
6195.9
491.7 4563.0 130.7 5185.4 83.7 1010.5
16.3
2.2.1
2171.3
2157.6
13.7 2171.3
100
0.0
0.0
2.2.2
433.5
372.6
372.6 86.0
60.9
14.0
2.2.3
1726.8
1600.0 117.0 1717.0 99.4
9.8
0.6
2.2.4
195.3
119.1
119.1 61.0
76.2
39.0
Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất trồng cây hàng năm khác Đất trồng cây lâu năm Đất lâm nghiệp Đất rừng phòng hộ Đất rừng tự nhiên phòng hộ Đất rừng trồng phòng hộ Đất rừng sản xuất Đất rừng tự nhiên sản xuất Đất rừng trồng sản xuất Đất khoanh nuôi phục hồi rừng sản xuất Đất trồng rừng sản xuất 2.2.5 Đất trống 2.2.6 Đất núi đá
161.0
161.0 0.0
9.7 1501.0 6.3
90.3 100
1662 6.27
9.5
9.5
9.5
100
0.0
0.0
3
4
190.3
61.1
61.1 32.1
129.2
67.9
5
2180.6
0.0
0.0 2180.6
100
Đất nuôi trồng thuỷ sản Đất khác đã sử dụng Đất khác chưa sử dụng
(Nguồn: báo cáo số liệu phòng tài nguyên và môi trường Nam Đông)
- 47 -
Cùng với thành quả GĐGR là sự khởi sắc về kinh tế, trong toàn xã không còn
hộ đói; tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 49,59% xuống 23,23%; bộ mặt nông thôn đã có nhiều
thay đổi. Đời sống nhân dân được cải thiện; nhận thức của người dân đặc biệt là
nhận thức về vai trò của rừng tăng lên đáng kể….
5.1.2 Hạn chế
Trong cùng một địa bàn, diện tích đất giao cho các đối tượng là khác nhau căn
cứ vào năng lực của từng hộ. Do đó các nhóm hộ khá và giàu sẽ được nhận diện tích
đất lớn hơn các HGĐ nghèo và trung bình. Diện tích canh tác lớn cùng với việc đầu
tư hiệu quả giúp cho các hộ khá và giàu có được nguồn thu đáng kể từ đất và rừng
được giao, ngược lại với các nhóm hộ trung bình và đặc biệt là hộ nghèo lợi nhuận
từ canh tác đất vẫn thấp. Hay GĐGR chưa là giải pháp hoàn hảo để giảm nghèo mà
nó cần các chính sách phù trợ để người nhận đất thật sự có khả năng thoát nghèo từ
mảnh đất của mình.
5.2 Đánh giá tác động của chính sách giao đất giao rừng đến sinh kế người dân
tại xã Thượng Quảng
Sinh kế có thể hiểu là phương kế kiếm sống nó bao gồm rất nhiều công cụ
nhưng chung quy lại có 5 nguồn vốn: tự nhiên, con người, xã hội, tài chính và vật
chất. Như vậy để đánh giá tác động của GĐGR đến sinh kế người dân chúng ta phải
đánh giá thông qua tác động của nó đến 5 nguồn vốn nói trên.
Cũng như đánh giá tác động của các chương trình DA khác, sinh kế người dân
là một chỉ tiêu tổng hợp bao gồm nhiều tiêu chí nhỏ, vì vậy việc đánh giá phải linh
hoạt, tuỳ thuộc vào chỉ tiêu lựa chọn mà việc đánh giá có thể thông qua đánh giá
định tính hay đánh giá định lượng; đánh giá cụ thể hay đánh giá tổng hợp. Sử dụng
tối đa các chỉ tiêu có thể định lượng nhằm làm cho việc đánh giá được cụ thể và
chính xác thông qua các con số, các hàm toán học.
Thượng Quảng là một xã miền núi với hơn 80% diện tích là đất lâm nghiệp;
quá trình GĐGR được bắt đầu tiến hành từ năm 1993 và tiến hành có hệ thống từ
năm 2003 dưới sự trợ giúp của dự án SNV- For Hue. Đến nay bộ mặt nông thôn đã
có những thay đổi đáng kể; là kết quả của các chương trình, DA phát triển nông-lâm
- 48 -
nghiệp, nông thôn; trong đó có sự đóng góp của chương trình GĐGR. Vậy chương
trình GĐGR đã có vai trò như thế nào trong cải thiện đời sống cộng đồng địa
phương? Nó đã phát huy hết khả năng trong một xã miền núi, đời sống người dân
phụ thuộc chặt vào rừng hay chưa? Cần làm gì để nâng cao hơn nữa hiệu quả của
chương trình?.. Để trả lời các câu hỏi này cần phải đánh giá tác động của chính sách
đến tiêu chí tổng hợp nhất là tiêu chí sinh kế người dân. Thông qua việc đánh giá
này chúng ta nhận ra được những tác động tích cực, tiêu cực; những thành quả đạt
được cũng như hạn chế để tìm hướng khắc phục nâng cao hiệu quả của chương trình
tại địa phương cũng như kinh nghiệm cho các địa phương khác.
5.2.1 Tác động của chính sách giao đất giao rừng đến nguồn vốn tự nhiên
Nguồn vốn tự nhiên có thể được xem là điều kiện cơ bản và tiên quyết đối với
một xã miền núi, đời sống người dân phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất nông-
lâm nghiệp: trồng trọt và chăn nuôi. Nhìn một cách tổng hợp, GĐGR ảnh hưởng
đến việc quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng do đó tất yếu ảnh hưởng đến
nguồn vốn tự nhiên như: môi trường đất, nước, tài nguyên rừng…
Trước giao đất, giao rừng việc quản lý tài nguyên rừng lỏng lẻo dẫn đến khai
thác không hợp lý, suy kiệt tài nguyên gỗ cũng như tàn phá môi trường rừng; đất
lâm nghiệp canh tác kém hiệu quả và không bền vững, xói mòn đất, giảm khả năng
giữ nước trong đất… Sau khi GĐGR, tình trạng này đã được cải thiện, có thể đánh
giá tác động đó thông qua các chỉ tiêu cụ thể sau.
5.2.1.1 Bảo vệ và cải thiện chất lượng tài nguyên đất
Thay đổi cơ cấu sử dụng đất
Với địa hình đồi núi dốc như Thượng Quảng việc canh tác nương rẫy không
hợp lý là nguyên nhân không nhỏ gây thoái hoá đất. Từ khi có chương trình GĐGR
đến nay cơ cấu sử dụng đất tại địa phương đã có sự thay đổi đáng kể thể hiện qua
bảng 5.2.
- 49 -
Bảng 5.2: Cơ cấu đất nông nghiệp trước và sau khi GĐGR
Trước GĐGR
Hiện nay
Tăng
DT
Tỉ lệ
DT
Tỉ lệ
STT
Loại đất
giảm
(ha)
(ha)
(%)
(ha)
(%)
Tổng diện tích đất nông
32,4
1
13323,2
13355,6
nghiệp
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
631,5
100
762,7
100
131,2
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
599,6
94,95
238,8
37,82
-360,8
1.1.1.1 Đất trồng lúa
148,5
23,51
114,5
18,13
-34
1.1.1.1.1 Đất chuyên trồng lúa nước
114,5
18,13
58,8
9,31
55,7
0,00
0,00
0
1.1.1.1.2 Đất trồng lúa nước còn lại
89,7
14,21
0,00
0,0
-89,7
1.1.1.1.3 Đất trồng lúa nương
9,0
1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
112,5
17,82
1,43
-103,5
1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác
338,5
53,61
115,3
18,26
-223,2
Đất bằng trồng cây hàng năm
1.1.1.3.1
32,8
5,20
16,8
2,66
-16
khác
Đất nương rẫy trồng cây
1.1.1.3.2
305,7
48,41
98,5
15,60
-207,2
hàng năm khác
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
31,9
5,05
523,9
82,97
492
Đất trồng cây công nghiệp
1.1.2.1
29,2
4,62
506,2
80,17
477
lâu năm
1.1.2.2 Đất trồng cây ăn quả lâu năm
0,2
0,03
0,5
0,08
0,3
1.1.2.3 Đất trồng cây lâu năm khác
2,5
0,40
17,2
2,72
14,7
1.2
Đất lâm nghiệp
12691,7
100 12592,8
100
-98,9
433
1.2.1
Đất có rừng
10481,3
82,58 10914,3
86,67
1.2.1.1 Đất có rừng tự nhiên
10481,3
82,58 10481,3
83,23
0
1.2.1.2 Đất có rừng trồng
0,0
0,00
433,0
3,44
433
1.2.2
Đất trống
2210,4
17,42
1678,5
13,33
-531,9
(Nguồn: Báo cáo kinh tế Thượng Quảng năm 2002, 2008)
- 50 -
Như vậy cơ cấu đất nông nghiệp trước và sau khi GĐGR không có sự thay đổi
lớn, trong đó đất dành cho sản xuất nông nghiệp chiếm trong khoảng 4,7%. Tuy nhiên
trong từng loại đất đã có sự chuyển dịch đáng kể, trong đó thay đổi lớn nhất là đất
nương rẫy. Một diện tích lớn đất trồng lúa nương (89,7 ha) và đất trồng cây hàng năm
khác (305,7 ha) được chuyển sang trồng cây ăn quả, đặc biệt là cây công nghiệp lâu
năm. Cây công nghiệp được lựa chọn trồng chính ở đây là cao su. Qua 8 năm GĐGR
địa phương đã nâng diện tích trồng cao su từ 29,2 ha lên 451,3 ha. Bên cạnh đó 112,54
ha đất đồng cỏ trước đây dùng cho chăn nuôi cũng được đưa vào canh tác, chỉ phát
triển 9 ha trồng cỏ giống mới phục vụ chăn nuôi. Xây dựng các mô hình nông lâm kết
hợp có hiệu quả.
Sự chuyển dịch cơ cấu đất thể hiện trình độ canh tác của người dân đã được nâng
lên. Thay thế cây hàng năm trên đất dốc bằng các loại cây lâu năm không chỉ cho hiệu
quả kinh tế cao hơn mà còn là các mô hình bảo vệ đất; hạn chế xói mòn thoái hoá đất;
góp phần điều tiết nguồn nước và bảo vệ môi trường. Cơ cấu sử dụng đất cũng thay
đổi theo từng nhóm hộ phỏng vấn, kết quả thể hiện qua bảng 5.3.
Bảng 5.3: Cơ cấu sử dụng đất các nhóm HGĐ trước GĐGR và hiện nay Đơn vị tính: ha/hộ
Trước GĐGR
Hiện nay
STT
Chỉ tiêu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Hộ khá
Hộ TB
Hộ Nghèo
3,563
2,745
1,748
2,795
2,875
1.853
1
Đất sản xuất nông nghiệp
1.1
Đất nương rẫy + hoa màu
1,617
3,250
2,450
1,550
1,280
1,150
1.2
Đất lúa nước
0,313
0,295
0,198
1,515
1,725
0,236
0
0
0
1,851
1,235
0,612
2
Đất rừng trồng
0,552
0
0
1,578
1,281
0,972
3
Đất trồng cây công nghiệp
Như vậy cả ba nhóm hộ điều tra diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp thay đổi
không đáng kể, riêng nhóm đất nương rẫy trồng hoa màu giảm ở hộ khá và trung bình,
nhóm hộ nghèo tăng ít; diện tích trồng lúa nước lại tăng. Sự thay đổi lớn nhất trong cơ cấu
- 51 -
sử dụng đất là sự xuất hiện của diện tích đất rừng trồng và đất trồng cây công nghiệp
trong cả ba nhóm hộ. Diện tích đất rừng được giao căn cứ vào năng lực sản xuất của
từng HGĐ. Riêng nhóm hộ khá trình độ canh tác tốt, có khả năng đầu tư cao, nhân
công sản xuất tốt… do vậy được giao diện tích (3,50 ha/hộ) lớn hơn hẳn so với các hộ
trung bình (2,45ha/hộ) và hộ nghèo (1,55ha/hộ). Diện tích cây công nghiệp tăng ở
nhóm hộ khá, nhóm hộ trung bình và hộ nghèo sau GĐGR mới xuất hiện diện tích này.
Cơ cấu sử dụng đất của các nhóm hộ được thể hiện qua hình 5.1.
DT (ha)
4
4
Đất sản xuất nông nghiệp Đất nương rẫy + hoa màu Đất lúa nước Đất rừng trồng Đất trồng cây công nghiệp
3
3
2
2
1
1
0
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Trước GĐGR
Hiện nay
Hình 5.1: Cơ cấu sử dụng đất của các nhóm hộ trước GĐGR & hiện nay
Cơ cấu sử dụng đất trước và sau khi GĐGR thay đổi lớn ở nhóm đất trồng rừng
và cây công nghiệp, riêng đất sản xuất nông nghiệp thay đổi hơn. Trong nhóm đất
nông nghiệp trước GĐGR diện tích chủ yếu là đất nương rẫy hoa màu, sau đó một
phần diện tích này cùng đất trống được chuyển đổi sang trồng rừng, trồng cây công
nghiệp và cây ăn quả. Vì vậy sau GĐGR trong cơ cấu sử dụng đất xuất hiện diện tích
lớn đất rừng trồng và đất trồng cây công nghiệp trong cả 3 nhóm hộ điều tra.
Giảm xói mòn đất
Tăng độ che phủ của rừng, cải thiện kết cấu rừng cũng như canh tác hợp lý trên
đất nương rẫy, đất dốc là phương pháp hiệu quả cải thiện tình trạng xói mòn đất tại địa
- 52 -
phương. Kết quả phỏng vấn HGĐ kết hợp với điều tra hiện trường nhằm đánh giá khả
năng giảm xói mòn đất thể hiện qua bảng 5.4.
Bảng 5.4: Đánh giá tình trạng xói mòn đất trước GĐGR và hiện nay
Trước GĐGR
Hiện nay
Số hộ
Tỉ lệ
Số hộ
Tỉ lệ
STT
Chỉ tiêu
đánh giá
(%)
Đánh giá
(%)
1
Nhiều
18
30,00
5
8,33
2
Không nhiều
11
18,33
10
16,67
3
Ít
15
25,00
15
25,00
4
Rất ít
12
20,00
11
18,33
5
Không có
4
6,67
19
31,67
Trong tổng số 60 hộ phỏng vấn có tới 19 hộ (chiếm 31,67%) đánh giá tình trạng
xói mòn đất hiện nay là không có, 11 hộ đánh giá xói mòn rất ít và 15 hộ đánh giá xói
mòn ít, chỉ có 5 hộ đánh giá xói mòn nhiều. Phản ánh tình trạng xói mòn trước GĐGR
có tới 18 hộ nhận xét xói mòn nhiều, 15 hộ đánh giá xói mòn ít và chỉ 4 hộ đánh giá
không có xói mòn.
Như vậy GĐGR góp phần giảm quá trình xói mòn đất ở địa phương. Hiện nay
các mô hình canh tác trên đất dốc được áp dụng, canh tác nương rẫy tạm thời được
thay thế bằng các diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả lâu năm. Nhiều
diện tích đất trống đồi trọc QH cho lâm nghiệp được giao cho người dân quả lý sử
dụng, trồng rừng sản xuất. Rừng tự nhiên được bảo vệ tốt nên không chỉ làm tăng độ
che phủ mà còn làm tăng chất lượng rừng, khả năng bảo vệ đất của rừng được cải
thiện.
Cải thiện chất lượng đất
Trước GĐGR chủ yếu là đất trống, đồi trọc; đất cỏ bỏ hóa; đất nương rẫy canh
tác cây hàng năm. Sau khi GĐGR một diện tích lớn đã được chuyển đổi sang trồng
rừng và trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả. Để đánh giá khả năng cải tạo đất
rừng sau khi GĐGR, điều tra so sánh chất lượng tầng đất mặt giữa các đối tượng trên
cho kết quả như bảng 5.5.
- 53 -
Bảng 5.5: Chất lượng tầng đất mặt tại các trạng thái
Trước GĐGR
Sau GĐGR
Đất
Đất
Đất canh tác
Đất
Chỉ tiêu so sánh
đồi trọc
đồng cỏ
nương rẫy
rừng trồng
Độ dầy tầng thảm mục
0 cm
0.5-1 cm
0.5-1 cm
2-3 cm
Độ dầy tầng
12-15 cm
15-18 cm
20-25 cm
25-30 cm
Độ ẩm
Khô
Hơi khô
Hơi ẩm
Ẩm
Thành phần cơ giới
Cát pha
Thịt nhẹ
Thịt nhẹ
Thịt TB
Màu sắc
Trắng xám
Nâu nhạt
Nâu nhạt
Nâu xám
Thành phần các loài sinh
Kiến, giun
0
0
Kiến
vật đất
đất, dế trũi…
Phương thức canh tác thay đổi đã kéo theo sự thay đổi tính chất đất. Trên địa bàn
chủ yếu là đất bàn đỏ trên phiến thạch sét, tầng đất mỏng và nghèo dinh dưỡng. Trước
GĐGR chủ yếu canh tác nương rẫy và bỏ hóa. Có thể đồng nhất đất trước GĐGR với
các đối tượng đất đồi trọc, đất đồng cỏ và đất canh tác nương rẫy hiện nay; đất sau khi
giao được trồng rừng sản xuất (Keo lai, Keo tai tượng…), cây công nghiệp dài ngày
như cao su. Khi so sánh hai nhóm đối tượng này ta thấy chất lượng đất được cải thiện
rõ rệt. Dưới tán rừng đã tồn tại tầng thảm mục 2-3 cm chủ yếu là cành khô, lá rụng rất
có ý nghĩa trong việc tạo mùn cho đất, tạo keo tăng cường kết cấu đất, giữ ẩm, là nơi
hoạt động của các vi sinh vật phân huỷ trả lại chất dinh dưỡng cho đất. Sự che phủ của
tán rừng, cây bụi thảm tươi và tầng thảm mục dưới tán là lớp bảo vệ đất tránh xói mòn,
hoạt động của vi sinh vật đất… làm tăng độ dầy tầng đất mặt lên 25-30cm. Lớp đất
mặt ẩm; hàm lượng mùn tăng nên có màu nâu xám; thành phần cơ giới là đất thịt trung
bình; xuất hiện nhiều loài sinh vật đất ưa ẩm: giun đất, dế trũi…Các tầng đất khác
không có sự thay đổi đáng kể.
5.2.1.2 Thay đổi nguồn nước tại địa phương
Nguồn nước cho sinh hoạt
Nguồn nước sinh hoạt tại địa phương chủ yếu là nước suối và nước giếng đào do
đó các hoạt động làm thay đổi nguồn nước sinh hoạt có hiệu quả là các hoạt động có
- 54 -
thể cải thiện được nguồn nước cả về nước mặt và nước ngầm. Kết hợp giữa phỏng vấn
hộ gia đình và điều tra thực địa theo bảng 5.6.
Bảng 5.6: Tác động của GĐGR đến sự thay đổi nguồn nước sinh hoạt
Số hộ
Tỉ lệ
Ghi chú
STT
Mức đánh giá
(%)
đánh giá
1
Ít nước hơn
7
11,67
2
Không thay đổi
15
25,00
3
Nhiều nước hơn
38
63,33
4
Tổng số
60
100,00
Sau khi GĐGR nguồn nước sinh hoạt của cộng đồng được cải thiện, qua phỏng
vấn nhận thấy có tới 38 hộ (chiếm 63,33%) đánh giá lượng nước sinh hoạt nhiều hơn,
nước suối nhiều hơn và điều hoà hơn, giảm thời gian thiếu nước sinh hoạt vào mùa
khô. Mực nước trong các giếng đào tăng lên; 15 hộ đánh giá nguồn nước không thay
đổi và chỉ 7 hộ (11,67%) đánh giá ít nước hơn.
Một hiệu quả cũng dễ nhận thấy từ chất lượng nước được người dân đánh giá,
hiện nay nước trong các sông suối và giếng đào tại địa phương trong hơn. Như vậy sử
dụng đất hợp lý kết hợp quản lý rừng hiệu quả đã góp phần cải thiện nguồn nước địa
phương cả về nước mặt và nước ngầm, cải thiện chất lượng nguồn nước cũng như hạn
chế xói mòn.
Nước sản xuất
Hệ thống thuỷ lợi của xã còn thấp kém do đó nguồn nước cung cấp cho sản xuất
chủ yếu từ hệ thống sông suối tự nhiên. Trên toàn xã chưa có hồ chứa nước dự trữ cho
sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô. Sự thay đổi lượng nước sản xuất có thể nhận thấy
qua sự mở rộng diện tích đất sản xuất lúa nước và tăng diện tích lúa và hoa màu trong
mùa khô. Kết quả phỏng vấn hộ gia đình và số liệu thống kê xã qua bảng 5.7.
- 55 -
Bảng 5.7: Diện tích lúa và hoa màu canh tác về mùa khô
Trước GĐGR
Hiện nay
STT
Loại hình canh tác
Diện tích
Tỉ lệ
Diện tích
Tỉ lệ
(ha)
(%)
(ha)
(%)
58,8
100
114,5
100
1
Tổng diện tích lúa nước
2
Lúa nước vào mùa khô
25,7
43,71
63,8
55,72
338,5
100
115,3
100
3
Tổng diện tích hoa màu
4
Hoa màu vào mùa khô
53,8
15,89
42,7
37,03
GĐGR không chỉ cải thiện điều kiện nước sinh hoạt cho cộng đồng mà còn tăng
lượng nước cung cấp cho sản xuất. Kết quả thống kê cho thấy từ năm 2002 đến nay,
trên địa bàn xã đã mở rộng đáng kể diện tích đất trồng lúa nước từ 58,8 ha lên 114,5 ha
(tăng 55,7 ha). Đặc biệt nguồn nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp cũng được cải
thiện đáng kể vào mùa khô, nếu năm 2002 chỉ có 25,7 ha đất lúa nước được đưa vào
sản xuất trong mùa khô (chiếm 43,71%) thì đến năm 2008 diện tích này đã là 63,8 ha
(chiếm 55,72%).
Về canh tác cây hoa màu, sau GĐGR nương rẫy đã được QH lại nên phần lớn
diện tích này được chuyển đổi sang trồng các loại cây dài ngày cho hiệu quả kinh tế
cao, hạn chế xói mòn do canh tác nương rẫy trên đất dốc; diện tích hoa màu giảm từ
338,5 ha xuống còn 115,3 ha. Tuy nhiên tỉ lệ canh tác hoa màu về mùa khô lại tăng từ
15,89% lên 37,03%; trong đó chủ yếu là diện tích trồng ngô và lạc giống mới, chịu hạn
và cho năng suất cao.
Quản lý sử dụng tài nguyên rừng, đất rừng hợp lý góp phần đáng kể cải thiện chế
độ nước tại địa phương. Nâng cao mực nước sông suối vào mùa khô cung cấp cho sản
xuất cây hoa màu, lương thực. Điều tiết dòng chảy hạn chế lũ lụt vào mùa mưa, góp
phần ổn định đời sống cộng đồng địa phương.
5.2.1.3 Tăng tỉ lệ che phủ của rừng
Tỉ lệ che phủ của rừng được xác định bằng tỉ lệ phần trăm giữa diện tích có rừng
so với tổng diện tích tự nhiên, tỉ lệ che phủ là chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự gia tăng
hay suy giảm tài nguyên rừng về số lượng. Kết quả điều tra cho thấy GĐGR đã làm
tăng tỉ lệ che phủ thể hiện qua bảng 5.8.
- 56 -
Bảng 5.8: Tỉ lệ che phủ của rừng trước GĐGR và hiện nay
STT
Chỉ tiêu
Trước GĐGR Hiện nay
Tăng giảm
Diện tích tự nhiên (ha)
15630,0
15630,0
0,0
10481,3
10914,3
Diện tích có rừng (ha)
433,0
1 Rừng tự nhiên (ha)
10481,3
10481,3
0,0
2 Rừng trồng (ha)
0
433,0
433,0
3 Diện tích trồng cao su (ha)
29,2
451,3
422,1
Tỉ lệ che phủ (không tính
4
67.06
69.83
2.77
diện tích cao su) (%)
Tỉ lệ che phủ (có tính
5
67.25
69.95
2.70
diện tích cao su) (%)
Từ năm 2002 đến nay trên toàn xã đã giữ được diện tích rừng tự nhiên đồng thời
xây dựng được 433,0 ha rừng trồng do đó đã nâng tỉ lệ che phủ của rừng lên 2,77%;
với một địa phương có rừng tự nhiên chiếm tới 67,06% thì độ tăng tỉ lệ che phủ như
trên không là con số nhỏ. Mặt khác nếu tính cả diện tích trồng cao su thì tỉ lệ che phủ
của rừng hiện tại là 69,95%.
GĐGR đã thành công bước đầu ở duy trì tài nguyên rừng hiện có, mở rộng diện
tích rừng trong tương lai, tiến tới kinh doanh rừng bền vững góp phần phát triển kinh
tế nông thôn.
5.2.2 Tác động của chính sách giao đất giao rừng đến nguồn vốn con người
5.2.2.1 Tăng kiến thức và kỹ năng trong sản xuất và đời sống
Các hoạt động kèm theo của chương trình GĐGR là các DA phát triển nông thôn,
DA trồng rừng… Tại địa phương từ khi GĐGR đã có rất nhiều DA được triển khai.
Qua đó đã tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật, tập huấn sản xuất góp phần
nâng cao kỹ năng, kiến thức trong sản xuất và đời sống cộng đồng. Phỏng vấn 60 hộ
trên địa bàn xã để xác định mức độ quan tâm của người dân đối với các lớp tập huấn
nhận thấy mức độ tham gia của các HGĐ với từng lớp tập huấn là khác nhau, kết quả
thể hiện trong bảng 5.9.
- 57 -
Bảng 5.9: Thống kê các lớp tập huấn được tổ chức sau khi GĐGR
Người tham gia
Tổng số
Tỉ lệ
STT
Tên khoá học
Thời điểm tổ chức
(người)
(%)
37
61,67
1
Kỹ thuật trồng cây bản địa.
Tháng 08- 2002
Tập huấn xúc tiến tái sinh và làm
22
36,67
2
Hàng năm
giàu rừng tự nhiên.
Tập huấn và hỗ trợ phát triển
3
vườn ươm giống cây Lâm Nghiệp
Hàng năm
35
58,33
cộng đồng.
Tập huấn & chỉ đạo trồng rừng
4
Hàng năm
34
56,67
keo.
Tập huấn chăn nuôi lợn, nuôi cá
5
nước ngọt, xây dựng tủ thuốc thú
Tháng 07- 2006
29
48,33
y.
Tập huấn kỹ thuật phòng trừ bệnh
6
cho cây ăn quả có múi và cây
Tháng 02- 2004
41
68,33
chuối.
7
Tập huấn thâm canh lúa nước.
Hàng năm
48
80,00
Tham quan học hỏi, tập huấn về
8
"trường học hiện trường cho nông
Hàng năm
39
65,00
dân".
Tham quan phát triển cây ăn quả
9
Tháng 08- 2005
12
20,00
và cao su ở Miền Nam.
Tham quan học tập trồng cỏ và
10
Tháng 06 - 2005
3
5,00
chăn nuôi bò ở Quảng Ngãi.
Tập huấn quản lý và sử dụng an
11
Hàng năm
28
46,67
toàn thuốc bảo vệ thực vật.
Hỗ trợ kỹ thuật phòng trừ bệnh
12
cho cây cau & các loại cây ăn quả
Hàng năm
31
51,67
khác.
- 58 -
Sau các lớp tập huấn trình độ của người dân được nâng lên, đặc biệt là các lớp
tham quan học hỏi kinh nghiệm. Trình độ thấp nên người dân dễ tiếp thu hơn khi tham
quan các mô hình thực tiễn, sự trao đổi kinh nghiệm giữa người địa phương cùng làm
nghề rừng sẽ dễ tiếp thu nên hiệu quả đào tạo nâng cao. Bên cạnh đó sau các lớp tập
huấn về kỹ thuật người dân có kiến thức về chăm sóc, phòng bệnh cho cây con vườn
ươm, nhận thức được tầm quan trọng của việc lựa chọn cây giống tốt và cây con khoẻ
mạnh để trồng rừng. Các kỹ thuật trồng và chăm sóc rừng như ý nghĩa của việc bón lót
cho cây, việc phòng trừ sâu bệnh cho rừng trồng. Biết cách tính hiệu quả kinh tế từ đó
xác định được loại cây trồng, vật nuôi phù hợp cho thu nhập cao nhất….
Như vậy bản thân chính sách GĐGR không làm thay đổi được trình độ cũng như
nhận thức của người dân trong sản xuất và đời sống mà chính là các chương trình, các
DA kèm theo sau quá trình GĐGR đã góp phần nâng cao kiến thức của người dân một
cách đáng kể. Từ sự thay đổi nhận thức đó kéo theo hàng loạt các hoạt động mang
hướng tích cực trong sản xuất và đời sống của cộng đồng: Thay đổi phương thức sản
xuất; thay thế cây trồng hàng năm cho năng suất thấp bằng các giống mới cho năng
suất cao; chuyển đổi canh tác nương rẫy tạm thời bằng việc trồng cây công nghiệp dài
ngày, cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế cao; bảo vệ rừng tự nhiên, trồng và chăm sóc
rừng kinh tế…
5.2.2.2 Tăng nhận thức về môi trường, tài nguyên rừng
Là xã miền núi vùng sâu vùng xa trình độ dân trí thấp, với 78,24% diện tích là
rừng tự nhiên đời sống người dân phụ thuộc chặt vào rừng. Trước khi có chính sách
GĐGR các hoạt động sản xuất chính ở đây là đốt nương làm rẫy để lấy lương thực;
chăn thả gia súc gia cầm cung cấp thực phẩm. Rừng cung cấp cho cộng đồng gỗ làm
nhà và bán kiếm tiền sinh sống; củi để đun và cây làm thuốc chữa bệnh. Dân số tăng
làm nhu cầu sinh hoạt cũng tăng theo, canh tác nương rẫy không hợp lý dẫn đến thoái
hoá đất nên cây trồng cho năng suất thấp, sức ép dân số đè lên diện tích rừng hiện có.
Trong một thời gian ngắn (10 năm) nhiều diện tích rừng tự nhiên bị khai thác quá mức,
xuất hiện các trạng thái rừng IB, IC. Nhận thức của người dân về rừng chỉ là công cụ
để kiếm sống.
Sau khi GĐGR tức là rừng đã có chủ, nhận thức của người dân về môi trường; về
tài nguyên đất, rừng được cải thiện đáng kể. Rừng tự nhiên được khoán cho HGĐ, cá
- 59 -
nhân, cộng đồng… quản lý bảo vệ do đó ý thức trách nhiệm của mỗi người trong cộng
đồng được nâng lên. Người dân được hưởng tiền khoán bảo vệ rừng, thu hái lâm sản
ngoài gỗ, tận thu cây già cỗi và khai thác có kiểm soát để làm nhà, chuồng trại chăn
nuôi… Số vụ cháy rừng và vi phạm trong quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn xã giảm
đáng kể, kết quả thống kê qua bảng 5.10.
Bảng 5.10: Tổng hợp các vụ cháy rừng và vi phạm trong quản lý bảo vệ rừng
Năm 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08
6 3 2 1 2 0 0 1 0 0 0 1 0 A
4 4 3 2 5 1 0 0 1 0 0 0 0 B
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0,7 0,5 0,3 C(ha)
(Nguồn: Hạt KL Nam Đông)
(A: Số vụ cháy rừng, B: Số vụ khai thác trộm, C: Diện tích rừng bị xâm lấn để trồng cây khác)
Từ khi GĐGR địa phương đã kiểm soát được tình trạng cháy rừng, đặc biệt là
cháy trong mùa khô có gió Lào liên tục từ tháng 3 đến tháng 8. Trước khi GĐGR số vụ
cháy trong một năm có thể đến 6 vụ nhưng sau khi GĐGR chỉ còn 1 vụ, có năm không
xảy ra vụ cháy rừng nào.
Rừng được bảo vệ nghiêm ngặt không chỉ bằng pháp luật mà cả hệ thống hương
ước làng bản nên số vụ khai thác trộm cũng giảm đáng kể từ 4 vụ (năm 1996) xuống 1
vụ (năm 2004) và không có vụ vi phạm nào trong các năm còn lại.
Nhiều diện tích đất lâm nghiệp đã được giao cho HGĐ, cá nhân, cộng đồng quản
lý sử dụng. Người dân được DA hỗ trợ giống, phân bón, tập huấn kỹ thuật để trồng
rừng sản xuất với các loài cây chu kỳ kinh doanh ngắn, hiệu quả kinh tế cao như Keo
tai tượng, Keo lai… Đất nương rẫy bỏ hoá, đất trống đồi trọc được chuyển đổi trồng
cây công nghiệp dài ngày (cao su), cây ăn quả… do đó số vụ đốt nương làm rẫy, phá
rừng để trồng cấy các loài cây khác giảm rõ rệt. Tính từ năm 2002 không có diện tích
rừng nào trên địa bàn xã bị xâm lấn để trồng các loài cây khác.
5.2.2.3 Thay đổi nhận thức, vai trò về giới trong sản xuất và đời sống
Một hiện tượng còn tồn tại ở phần lớn các xã vùng sâu vùng xa là sự bất bình
đẳng về giới. Đời sống người dân phụ thuộc chặt vào rừng, các hoạt động sản xuất chủ
yếu là canh tác nương rẫy, chăn thả gia súc, thu hái lâm sản trong rừng; trong các hoạt
động này phụ nữ luôn đóng vai trò chính. Song các buổi họp thôn, các lớp tập huấn
- 60 -
chuyển giao kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm sản xuất… lại chủ yếu do nam giới tham
gia; vì vậy hiệu quả không cao hay có thể nói lý thuyết không đi đôi với thực hành. Để
khắc phục tình trạng trên, thời gian qua địa phương cũng đã có rất nhiều hoạt động
nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong quản lý tài nguyên rừng: Lớp tập huấn
về quản lý tài chính HGĐ cho phụ nữ; tập huấn và xây dựng mô hình chế biến thức ăn
gia súc; hỗ trợ các đề xuất của Hội phụ nữ liên quan đến hoạt động quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên…
Song song với việc thực hiện GĐGR cho người dân, BCĐ đã chủ trương thay đổi
nhận thức và vai trò của giới trong sản xuất và đời sống bằng cách tăng sự tham gia
của phụ nữ trong các bước GĐGR, các lớp tập huấn… Kết quả thể hiện qua bảng 5.11.
Bảng 5.11: Mức độ tham gia của nữ giới trong hoạt động GĐGR & các lớp tập huấn
Tổng số
Nữ giới
Tỉ lệ
STT
Hoạt động
(người)
(%)
người TG
Họp GĐGR.
57
45,61
26
Xây dựng kế hoạch.
49
44,90
22
1 GĐGR
Giải quyết tranh chấp.
16
31,25
5
Tham gia nhận thực địa.
54
42,59
23
Đứng tên trong sổ đỏ.
43
16,28
7
Lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật.
45
21
2
46,67
Tham quan học hỏi.
52
27
3
51,92
4 Kỹ thuật vườn ươm.
35
21
60,00
Phòng trừ sâu bệnh.
41
17
5
41,46
Tập huấn xây dựng mô hình chế biến
42
38
6
90,48
thức ăn gia súc.
7 Quản lý tài chính.
47
100
47
Trong các cuộc họp GĐGR, yêu cầu của BCĐ phải có ít nhất 1/3 là nữ giới, do
đó nữ giới được ưu tiên đi họp bàn, đưa ra ý kiến, tham gia các hoạt động mà trước đó
chỉ có nam giới đảm nhận: xây dựng kế hoạch, nhận đất trên thực địa, đứng tên trên sổ
đỏ.
Sau GĐGR, địa phương cũng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nhằm phổ cập kiến
thức, chuyển giao kỹ thuật giúp nhân dân kinh doanh có hiệu quả diện tích đã được
- 61 -
giao, phát triển kinh tế HGĐ. Trong các lớp tập huấn, nữ giới được ưu tiên tham gia,
hầu hết chiếm khoảng 50%, một số lớp nữ giới chiếm tới 100% (lớp quản lý tài chính),
hay chiếm tới 90,48% (lớp tập huấn xây dựng mô hình chế biến thức ăn gia súc).
Bên cạnh việc nâng cao vai trò của nữ giới trong các hoạt động sản xuất và xã
hội, đã thay đổi ý thức trách nhiệm tham gia các hoạt động sản xuất của nam giới thể
hiện qua thay đổi phân công lao động nam/nữ giới trước và sau khi GĐGR. Kết quả
phỏng vấn theo bảng 5.12.
Bảng 5.12 : Phân công lao động của nam/nữ giới trước và sau khi GĐGR
Công việc nữ giới
Công việc nam giới
Công việc chung
Loại
Trước
Sau
Trước
Sau
Trước
Sau
hình
Cày bừa,
Cấy lúa,
Cày bừa,
Gặt hái, chăm sóc,
mang
1. Đất
chăm
Cấy lúa
cuốc đất,
Gặt hái
đề xuất và quyết
phân bón
ruộng
sóc lúa
chuyên chở
định công việc
ra ruộng
Lập kế hoạch,
Tra đậu,
Trồng lúa
Cày bừa,
Chỉa,
trồng rừng, trồng
trồng lúa
nương,
Phát - đốt -
cuốc đất,
trồng
cây công nghiệp
2. Đất
Ba trăng,
sắn công
cốt - chỉa,
chuyên
lúa
dài ngày, cây ăn
rẫy
sắn, ngô,
nghiệp,
chuyên chở
chở.
nương
quả, chăm sóc và
khoai…
ngô lai…
thu hoạch
Bảo vệ và
Lấy củi,
Lấy củi,
Săn bắt thú
Bảo vệ rừng TN,
tham gia
Kiếm
3. Đất
gỗ, thu hái
thu hái
rừng, lấy
tận thu gỗ và lâm
tái sinh
thức ăn
rừng
LSNG
LSNG
gỗ
sản ngoài gỗ.
rừng TN
Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội đồng thời được
giải phóng sức lao động khỏi các công việc nặng nhọc. Trước đây các hoạt động sản
xuất nông - lâm nghiệp: trồng, chăm sóc, thu hái, kiếm gỗ củi, thức ăn… phần lớn do
phụ nữ đảm nhiệm, nam giới chỉ tham gia vào khâu làm đất thì nay đã có sự phân công
trách nhiệm chung. Cả nam và nữ giới đều đóng vai trò như nhau trong việc thảo luận
lập kế hoạch cũng như ra quyết định sản xuất kinh doanh trên mảnh đất của gia đình.
Điều này không chỉ thể hiện bình đẳng giới mà hiệu quả công việc cũng tăng lên,
- 62 -
những người trực tiếp sản xuất được đưa ra ý kiến của mình nên phương án sản xuất
hiệu quả cao hơn.
5.2.3 Tác động chính sách giao đất giao rừng đến nguồn vốn xã hội
5.2.3.1 Tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính cho người dân
Nguồn vốn sản xuất là rất quan trọng, đặc biệt với cộng đồng nghèo, thiếu vốn
đầu tư nên năng suất cây trồng vật nuôi thấp, do đó hiệu quả kinh tế cũng không cao.
Với người dân xã Thượng Quảng đặc biệt cộng đồng người Kotu nghèo vùng sâu xa
thì khả năng tự đầu tư cho sản xuất là rất khó khăn, trong những năm trước đây việc
tiếp cận với các nguồn vốn là rất khó khăn và hạn chế, tuy nhiên hiện nay đã được cải
thiện đáng kể. Kết quả điều tra thể hiện qua bảng 5.13.
Bảng 5.13: Khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính của người dân trước GĐGR và hiện nay
Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Thời Giá trị Tỉ lệ Giá trị Tỉ lệ Giá trị Tỉ lệ Nguồn vốn điểm (tr.đ) (tr.đ) (tr.đ) (%) (%) (%)
Tổng 100 5,4 100 100 2,0 7,5 Trước Tự có 73,04 3,7 68,52 25,13 0,5 5,5 GĐGR Vay cá nhân 26,96 1,7 31,48 74,87 1,5 2,0
Tổng 100 7,2 15,8 100 11,9 100
Tự có 39,24 4,0 33,50 27,86 2,0 6,2 Hiện Vay cá nhân 3,16 1,0 8,38 6,96 0,5 0,5 nay Vay ngân hàng 22,15 2,1 17,92 23,40 1,7 3,5
Vay từ các dự án 35,44 4,8 40,20 41,78 3,0 5,6
Như vậy trước GĐGR vốn đầu tư cho sản xuất của cả 3 nhóm hộ chỉ từ hai
nguồn: vốn tự có và vay cá nhân; trong đó nhóm hộ khá và hộ trung bình có tỉ lệ vốn
tự có tương đối lớn chiếm 68,25-73,04% còn lại là từ nguồn vay cá nhân, riêng nhóm
hộ nghèo chủ yếu là vốn vay cá nhân chiếm 74,87%, vốn tự có chỉ chiếm 25,13%.
Sau GĐGR cơ cấu vốn đã thay đổi lớn trong cả 3 nhóm hộ. Nguồn vốn đa dạng
hơn, bên cạnh vốn tự có và vay cá nhân còn có vốn vay ngân hàng và từ các dự án. Tỉ
trọng các nguồn vốn vay cũng thay đổi lớn, trong đó vốn vay cá nhân chiếm tỉ lệ rất
nhỏ (dưới 10%); tỉ trọng lớn là vốn vay từ các dự án có thể lên tới 41,78% (ở nhóm hộ
nghèo); ngoài ra vốn ngân hàng cũng khá quan trọng chiếm từ 17,92-23,40% ở các
- 63 -
nhóm hộ. Riêng vốn tự có chiếm tỉ trọng giảm trong cả 3 nhóm hộ. Như vậy quá trình
giao đất giao rừng cùng các dự án đầu tư cho phát triển nông-lâm nghiệp, nông thôn
tại địa phương đã góp phần đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư, tăng khả năng tiếp cận của
người dân với các nguồn vốn sản xuất, góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
5.2.3.2 Tạo việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng
Tăng nhu cầu lao động trong các hoạt động sản xuất
Giao đất, giao rừng làm tăng diện tích canh tác, đa dạng hoá phương thức canh
tác mỗi HGĐ đó là cơ sở tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Kết quả
điều tra ba nhóm hộ về nhu cầu lao động trong các hoạt động sản xuất/năm như bảng
5.14.
Làm
Vườn, chăn
Làm
∑số công lao
Làm ruộng
nương
nuôi
rừng
Thời điểm
động/năm
(công)
A
B
C
D
Hộ khá
243
90
120
28
5
Hộ TB
205
60
110
15
20
Bảng 5.14: Số công lao động được sử dụng vào trong các hoạt động sản xuất
Trước
Hộ nghèo
GĐGR
200
55
95
15
35
TB
216
68
108
19
20
Hộ khá
460
110
40
125
185
Hộ TB
435
95
55
115
170
Hiện
Hộ nghèo
nay
385
80
70
85
150
TB
427
95
55
108
168
Như vậy giữa các nhóm hộ với năng lực sản xuất khác nhau diện tích canh tác
cũng khác nhau, từ đó nhu cầu công lao động cũng khác nhau. Trong đó nhóm hộ khá
bao giờ cũng có nhu cầu công lao động lớn hơn các nhóm hộ còn lại.
Nếu xét riêng từng hoạt động sản xuất, trước GĐGR số ngày công lao động của
hộ khá dành cho nghề rừng là thấp nhất (5 ngày công) những ngày này người dân chủ
yếu vào rừng kiếm lá thuốc. Với nhóm hộ TB và hộ nghèo số ngày công vào rừng lớn
hơn (20-35 công) ngoài việc kiếm các dược liệu người dân còn khai thác rừng phục vụ
các nhu cầu khác củi đun; gỗ làm nhà cửa, chuồng trại, bán lấy tiền…Canh tác nương
rẫy giữ vai trò chủ đạo nên số công lao động là lớn nhất trong cả 3 nhóm hộ; với 125
- 64 -
công/năm nhóm hộ khá; 110 công/năm nhóm hộ trung bình và 95 công/năm nhóm hộ
nghèo. Sau đó là sản xuất lúa; 90 công/năm cho nhóm hộ khá và 55-60 công/năm
nhóm hộ trung bình và nghèo.
Sau GĐGR, cơ cấu sử dụng đất thay đổi dẫn đến nhu cầu lao động trong các hoạt
động sản xuất nông lâm nghiệp cũng thay đổi theo. Hiện nay sản xuất lâm nghiệp đóng
vai trò chủ đạo. Trong đó nhóm hộ khá với năng lực đầu tư lớn nên diện tích rừng
được giao là lớn nhất, nhu cầu tới185 công/năm; nhóm hộ trung bình và hộ nghèo diện
tích nhỏ hơn cần 150-170 công/năm. Diện tích lúa và vườn cây ăn quả được mở rộng
nên nhu cầu lao động tăng trong cả 3 nhóm hộ, cao nhất vẫn là nhóm hộ khá. Chăn
nuôi cũng phát triển hơn. Chỉ riêng diện tích nương rẫy bị thu hẹp nên nhu cầu về lao
động giảm đáng kể; nhóm hộ khá và trung bình diện tích nương rẫy còn lại thấp nhu
Trước GĐGR
Hiện nay
Ngày công 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
Công việc
Tổng số
Làm rừng
Làm nương
Vườn, chăn nuôi
Làm ruộng, màu
cầu 40 - 55 công/năm; hộ nghèo 70 công/năm.
Hình 5.2: Số công lao động bình quân trước GĐGR và hiện nay
Qua hình nhận thấy sau GĐGR nhu cầu về công lao động tăng lên ở hầu hết các
hoạt động sản xuất. Chỉ riêng canh tác nương rẫy có số công lao động giảm do một
diện tích lớn được chuyển sang trồng cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp và trồng
rừng sản xuất. Do đó nhu cầu công lao động trong nhóm làm vườn chăn nuôi tăng, đặc
biệt tăng nhanh trong nghề rừng. Tổng công lao động cho các hoạt động sản xuất sau
GĐGR tăng lên gần gấp đôi.
- 65 -
Tăng thời gian làm việc bình quân trong năm của lao động chính
Do khối lượng công việc tăng nên thời gian làm việc bình quân của từng cá nhân
trong HGĐ cũng phải tăng theo. Kết quả thống kê số ngày công bình quân của lao
động chính trước và sau khi GĐGR cho cả ba nhóm hộ như bảng 5.15.
Tổng
Làm
Làm
Vườn,
Làm
Nhàn
Thời điểm
số
ruộng
nương
chăn nuôi
rừng
rỗi
Số ngày
365
90
115
28
20
107
Bảng 5.15: Thời gian làm việc bình quân/năm của lao động chính trước và khi GĐGR
Trước
Tỷ lệ (%)
GĐGR
100
25,00
31,94
7,78
5,56
29,72
Số ngày
365
95
25
85
115
40
Hiện
Tỷ lệ (%)
nay
100
26,39
6,94
23,61
31,94
11,11
Cơ cấu sử dụng đất, phương thức canh tác thay đổi đã kéo theo phân bổ lao động
trong các hoạt động sản xuất thay đổi. Trước khi GĐGR lao động địa phương tập trung
vào làm nương rẫy chiếm tới 115 công (31,94%) trong tổng số 238 ngày công/lao
động.năm. Nhóm làm rừng chiếm số ngày công thấp nhất 20 ngày (5,56%). Việc làm
ít, thời gian nông nhàn kéo dài, lao động chính nghỉ việc tới 107 ngày/năm (chiếm
29,72%).
Sau khi GĐGR diện tích canh tác tăng lên, công việc không chỉ đơn thuần là đốt
nương làm rẫy, nhiều diện tích nương đã đưa vào trồng rừng, trồng cây công nghiệp
kinh tế cao đòi hỏi phải được chăm sóc tốt, liên tục. Khối lượng và tính chất công việc
thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch về phân bổ lao động. Hoạt động sản xuất chính là
trồng, chăm sóc rừng chiếm tới 115 công (31,94%), làm nương rẫy chiếm 25 công
(6,94%). Thời gian nhàn rỗi chỉ còn 40 ngày/năm.
5.2.3.3 Góp phần vào công tác xoá đói giảm nghèo ở địa phương
Trong thời gian qua đã có nhiều chương trình, chính sách, DA… được triển khai
ở Thượng Quảng như: Chính sách GĐGR, các chính sách khuyến nông khuyến lâm,
các DA nông lâm nghiệp (Hành lang xanh, ADB, 135…), các DA hỗ trợ phát triển
nông thôn của các tổ chức nước ngoài… Hiệu quả của các DA, chương trình này được
ghi nhận bởi tác động làm thay đổi bộ mặt nông thôn, cải thiện đáng kể đời sống nhân
- 66 -
dân. Song hiệu quả chính xuất phát từ chương trình nào? Phỏng vấn HGĐ để đánh giá
cho kết quả như bảng 5.16.
Bảng 5.16: Mức độ đóng góp của các chương trình, chính sách vào công tác xoá đói giảm nghèo
Mức độ đóng góp vào xoá đói giảm nghèo
Nhiều
Bình thường
Ít
STT Chương trình, chính sách
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số hộ
Số hộ
(%)
(%)
hộ
(%)
1 GĐGR
8
17
35
58,33
28,33
13,33
2 KNKL
25
21
14
23,33
35,00
41,67
Chương trình 134, 135
3
11
22
27
45,00
36,67
18,33
Chương trình 661
4
16
13
31
51,67
21,67
26,67
Chương trình PT nông thôn
5
27
18
15
45,00
30,00
25,00
của các tổ chức nước ngoài
6
Các chính sách PTLN khác
23
22
15
38,33
36,67
25,00
Chương trình GĐGR được các hộ phỏng vấn đánh giá cao nhất trong việc góp
phần xoá đói giảm nghèo tại địa phương (chiếm 58,33% số hộ phỏng vấn), thấp nhất là
chương trình khuyến nông-lâm, chương trình 661 cũng được đánh giá cao (51,67%).
Cần phải nhận thấy rằng chính sách GĐGR không chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn có
tác động gián tiếp đến việc cải thiện đời sống nhân dân, vì nó cung cấp tư liệu sản xuất
cơ bản và thiết yếu cho cộng đồng lấy sản xuất nông-lâm nghiệp là chính. GĐGR tạo
điều kiện ban đầu cho các chương trình, DA khác triển khai, chẳng hạn DA 661 chủ
yếu triển khai trên đất đã có chủ cụ thể; các DA phát triển nông-lâm nghiệp, nông thôn
trong nước và nước ngoài cũng cần có đất làm cơ sở để tiến hành. Như vậy đối tượng,
tư liệu lao động cũng như nguồn vốn người dân đóng góp vào các chương trình, DA là
mảnh đất được giao. GĐGR là thiết yếu và góp phần không nhỏ trong cải thiện đời
sống cộng đồng, phát triển nông thôn.
5.2.3.4 Củng cố hệ thống tổ chức xã hội
Quá trình GĐGR phải thành lập TCT, các ban giám sát và đánh giá… thông qua
đó nhiều tổ chức đoàn thể được thành lập và củng cố. Đặc biệt là các tổ chức giúp đỡ
nhau sản xuất, phát triển kinh tế. Kết quả điều tra tại xã theo bảng 5.17
- 67 -
Bảng 5.17 : Các tổ chức xã hội trước và sau khi GĐGR
Trước
STT
Tổ chức
Hiện nay
GĐGR
1
Hội phụ nữ
x
x
2
Hội cựu chiến binh
x
x
3
Hội phụ lão
x
x
4
Đoàn thanh niên
x
x
5
Hội nông dân tập thể
x
x
6
Hội những người làm vườn
x
7
Câu lạc bộ gia đình văn hóa
x
8
Hội khuyến nông-lâm xã
x
Bên cạnh các tổ chức đoàn thể có sẵn tại xã, sau khi GĐGR hoạt động sản xuất được thúc đẩy là cơ sở thành lập các tổ chức xã hội mới. Trong đó tập trung vào thành lập các hội nhằm xây dựng đời sống mới không chỉ phát triển về kinh tế mà cả về văn
hoá, xã hội. Các tổ chức này được thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động, đặc biệt có hiệu quả ở các hội tham quan trao đổi kinh nghiệm sản xuất; từ các mô hình của HGĐ, các hội viên có cơ hội xem xét học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình có hiệu quả. Bên cạnh đó các hội viên còn giúp nhau cả giống, vốn, nhân lực…
Hội khuyến nông-lâm xã thực hiện các chức năng quan trọng trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách nông - lâm nghiệp; phổ biến kiến thức trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ đặc biệt là việc đưa các giống mới có năng suất và giá trị kinh tế cao vào sản xuất tại địa phương. Coi trọng vấn đề giới, củng cố hội phụ nữ, nâng cao vai trò của phụ nữ trong xã hội cũng như trong các hoạt động sản xuất và đời sống.
5.2.4 Tác động chính sách giao đất giao rừng đến nguồn vốn tài chính 5.2.4.1 Thay đổi cơ cấu chi phí hộ gia đình
Chi phí sản xuất sẽ phản ánh mức độ phát triển kinh tế, chi phí lớn và đa dạng
chứng tỏ kinh tế nhiều thành phần; chi phí cho thành phần nào càng lớn thì thành phần
đó càng đóng vai trò quan trọng và chủ chốt trong nền kinh tế. Phân tích cơ cấu chi phí
HGĐ trước và sau khi GĐGR sẽ cho thấy mức độ thay đổi trong cơ cấu sản xuất HGĐ.
Đánh giá sự thay đổi này qua ba nhóm hộ khá, trung bình và nghèo cho kết quả như
bảng 5.18.
- 68 -
Bảng 5.18: Cơ cấu chi phí hộ gia đình trước GĐGR và hiện nay
Trước GĐGR Hiện nay
Cây Cây Cây Cây Cây ăn Chăn Rừng Cây ăn Chăn Rừng Nhóm hộ nông công Tổng Tổng nông công quả nuôi trồng quả nuôi trồng nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp
Chi phí 4,56 1,85 0,59 0,52 0,00 7,53 15,80 5,63 1,26 1,08 4,79 3,04 (triệu đồng) Khá Tỉ lệ 60,60 24,62 7,83 6,95 0,00 100 100 35,65 7,95 6,84 30,31 19,24 (%)
Chi phí 4,13 0,85 0,42 0,00 0,00 5,40 11,94 4,51 0,70 0,78 3,93 2,02 (triệu đồng) Trung
bình Tỉ lệ 76,39 15,78 7,83 0,00 0,00 100 100 37,77 5,85 6,52 32,94 16,92 (%)
Chi phí 1,53 0,23 0,23 0,00 0,00 1,99 7,18 2,35 0,45 0,30 3,08 1,00 (triệu đồng) Nghèo Tỉ lệ 76,64 11,61 11,76 0,00 0,00 100 100 32,74 6,29 4,12 42,89 13,96 (%)
- 69 -
Như vậy đã có sự thay đổi lớn cả về cơ cấu và tổng chi phí của cả 3 nhóm hộ khá,
trung bình, nghèo trước và sau khi GĐGR. Trước khi giao đất ở nhóm hộ khá tổng chi
phí sản xuất một năm là 7,53 triệu đồng trong đó chủ yếu là chi phí cho cây nông
nghiệp 4,56 triệu đồng chiếm 60,60%, thứ hai là cây ăn quả 1,85 triệu đồng chiếm
24,62%; số còn lại chi phí cho cây công nghiệp và chăn nuôi. Cây công nghiệp ở đây
chủ yếu là quế, hồi với diện tích canh tác nhỏ lẻ.
Nhóm hộ trung bình, tổng chi phí một năm cho sản xuất là 5,4 triệu đồng; cũng
tập trung chủ yếu cho cây nông nghiệp 4,16 triệu đồng (76,39% tổng chi phí); số còn
lại đầu tư cho cây ăn quả và chăn nuôi; ở nhóm hộ trung bình trước khi GĐGR không
trồng cây công nghiệp.
Chi phí sản xuất trong một năm ở nhóm hộ nghèo là rất thấp 1,99 triệu đồng;
trong đó vẫn tập trung chủ yếu vào cây nông nghiệp 1,53 triệu đồng, chiếm 76,64%
tổng chi phí; còn lại 0,46 triệu đồng cho cây ăn quả và chăn nuôi; nhóm hộ nghèo cũng
không sản xuất cây công nghiệp.
Tại thời điểm nghiên cứu, tổng chi phí sản xuất tăng lên ở cả 3 nhóm hộ, trong đó
tăng mạnh nhất ở nhóm hộ nghèo (khoảng 3,5 lần) và tăng 2 lần ở nhóm hộ khá và
trung bình. Cơ cấu chi phí cũng có sự thay đổi lớn; bên cạnh chi phí cho cây nông
nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi còn chi phí lớn cho rừng trồng và cây công nghiệp.
Do đó mặc dù chi phí cho cây nông nghiệp vẫn là lớn nhất song tỉ lệ đã giảm một nửa
so với trước GĐGR: nhóm hộ khá 5,63 triệu (35,65% tổng chi phí), nhóm hộ trung
bình 4,51 triệu đồng (37,77%) và 2,35 triệu đồng (32,74%) nhóm hộ nghèo. Trong khi
tỉ lệ chi phí cho trồng cây ăn quả và chăn nuôi hầu như không thay đổi.
Sở dĩ có sự thay đổi này là do một tỉ lệ chi phí không nhỏ đầu tư vào rừng trồng
và cây công nghiệp. Tổng chi phí cho 2 loại rừng này cũng tương đương với cây nông
nghiệp: nhóm hộ khá là 7,83 triệu đồng (chiếm 49,55%), nhóm hộ trung bình là 5,95
triệu đồng (49,86%) và 4,08 triệu đồng (56,85%) cho nhóm hộ nghèo. Sự thay đổi cơ
cấu chi phí của 3 nhóm hộ được thể hiện qua hình 53.
- 70 -
Tỉ lệ (%)
Rừng trồng
1.00
Cây công nghiệp Chăn nuôi
0.80
Cây ăn quả
Cây NN
0.60
0.40
0.20
ĐT
0.00
Hộ khá
Hộ TB Hộ nghèo Hộ khá
Hộ TB Hộ nghèo
Cơ cấu chi phí trước GĐGR
Cơ cấu chi phí sau GĐGR
'
Hình 5.3: Cơ cấu chi phí của các nhóm hộ trước và sau khi GĐGR
Qua hình có thể nhận thấy thay đổi rõ nét nhất ở tỉ lệ chi phí cho cây nông
nghiệp, cây công nghiệp và rừng trồng. Sau khi giao đất, tỉ lệ đầu tư cho cây nông
nghiệp giảm đi một nửa, chi phí cho cây ăn quả và chăn nuôi thay đổi không đáng kể,
phần còn lại tập trung vào rừng trồng và cây công nghiệp. Trước khi GĐGR chỉ có
nhóm hộ khá mới canh tác cây công nghiệp (quế, hồi) diện tích nhỏ lẻ, chi phí không
đáng kể; sau khi giao đất cả 3 nhóm hộ đều trồng cây công nghiệp với tỉ trọng không
nhỏ trong cơ cấu chi phí đặc biệt lớn nhất ở nhóm hộ nghèo.
5.2.4.2 Thay đổi cơ cấu thu nhập hộ gia đình
Cũng quan trọng như cơ cấu chi phí trong việc phản ánh sự phát triển kinh tế. Cơ
cấu thu nhập sẽ phản ánh tổng thu nhập, tỉ lệ thu nhập từ các nguồn của nền kinh tế.
Thu nhập càng lớn, cơ cấu càng phức tạp thì kinh tế càng phát triển và đa dạng các
thành phần. Do đó để đánh giá ảnh hưởng của GĐGR đến phát triển kinh tế, tiến hành
so sánh cơ cấu kinh tế của 3 nhóm hộ: khá, trung bình, nghèo tại 2 thời điểm trước và
sau khi GĐGR. Kết quả thể hiện qua bảng 5.19.
- 71 -
Bảng 5.19: Cơ cấu thu nhập của các nhóm hộ trước và sau khi GĐGR
Trước GĐGR Hiện nay
Cây Cây Chăn Cây Rừng Rừng Cây Cây Chăn Cây Rừng Rừng Nhóm hộ nông ăn quả nuôi công tự nông ăn nuôi công tự trồng trồng Tổng Tổng
nghiệp nghiệp nhiên nghiệp quả nghiệp nhiên
Thu nhập 12,75 2,85 4,76 1,53 2,90 0,00 24,78 55,58 14,65 3,56 8,22 16,90 0,36 11,89 (triệu đồng) Khá Tỉ lệ 51,44 11,50 19,21 6,16 11,68 0,00 100 100 26,37 6,41 14,78 30,41 0,64 21,40 (%)
Thu nhập 9,86 1,25 3,26 0,00 2,66 0,00 17,02 40,99 11,23 1,65 5,94 13,89 0,38 7,91 (triệu đồng) Trung
Tỉ lệ bình 57,91 7,34 19,15 0,00 15,60 0,00 100 100 27,40 4,03 14,48 33,88 0,91 19,29 (%)
Thu nhập 5,99 0,60 1,54 0,00 3,26 0,00 11,38 26,22 7,81 0,95 2,22 10,87 0,45 3,92 (triệu đồng) Nghèo Tỉ lệ 52,62 5,23 13,53 0,00 28,62 0,00 100 100 29,77 3,62 8,47 41,46 1,72 14,96 (%)
- 72 -
Sau khi GĐGR đã có sự thay đổi cả về tổng thu nhập và cơ cấu thu nhập của 3
nhóm hộ. Thời điểm trước GĐGR tổng thu nhập các hoạt động sản xuất trong 1 năm
của nhóm hộ khá là 24,78 triệu đồng; trong đó nguồn thu chính từ sản xuất nông
nghiệp 12,75 triệu đồng (chiếm 51,44% tổng thu nhập). Sau đó là thu nhập từ chăn
nuôi 4,76 triệu đồng (12,91%). Thu nhập từ cây ăn quả và rừng tự nhiên tương đương
nhau (khoảng 11%), số còn lại từ cây công nghiệp 1,53 triệu đồng (6,16%).
Nhóm hộ trung bình tổng thu nhập 17,02 triệu đồng/năm. Chủ yếu cũng từ sản
xuất nông nghiệp 8,96 triệu đồng (chiếm 57,91% tổng thu nhập). Thu nhập từ chăn
nuôi là 3,26 triệu đồng (19,15%). Nguồn thu từ rừng tự nhiên lớn hơn nhóm hộ khá
chiếm 15,60%, phần còn lại là từ cây ăn quả. Nhóm hộ trung bình không có nguồn thu
từ cây công nghiệp.
Ở nhóm hộ nghèo, bên cạnh nguồn thu chính từ sản xuất nông nghiệp 5,99 triệu
đồng (chiếm 52,62% tổng thu nhập), còn một nguồn thu quan trọng từ rừng tự nhiên
3,26 triệu đồng (28,62%). Thu nhập từ cây ăn quả và chăn nuôi rất thấp. Thực tế cho
thấy người nghèo với trình độ canh tác thấp chỉ thu nhập được 11,38 triệu đồng/năm,
đời sống nhân dân phụ thuộc chặt vào rừng; ngoài thời gian canh tác nương rẫy người
dân vào rừng khai thác gỗ, củi để bán lấy tiền và phục vụ sinh hoạt; kiếm thực phẩm:
rau rừng, măng tre, nấm, săn bắn, bẫy chim thú; kiếm lá thuốc;…
Sau khi GĐGR, tổng thu nhập/năm tăng lên ở cả 3 nhóm hộ; tăng khoảng 2 lần ở
nhóm hộ khá và trung bình; tăng gần 3 lần ở nhóm hộ nghèo. Đặc biệt trong cơ cấu thu
nhập; nguồn thu từ cây nông nghiệp giảm mạnh chiếm 26,37% tổng thu nhập ở nhóm
hộ khá; 27,40% ở nhóm hộ trung bình và 29,77% ở các hộ nghèo. Thay thế vào vị trí
thu nhập cao nhất là cây công nghiệp, ở cả 3 nhóm hộ đều có cây công nghiệp; trong
đó tỉ trọng thu nhập lớn nhất lại ở nhóm hộ nghèo chiếm 41,46% tổng thu nhập (10,87
triệu đồng), nhóm hộ khá là 30,41% (16,90 triệu đồng), nhóm hộ trung bình là 33,88%
(13,89 triệu đồng).
Bên cạnh đó cũng phải kể đến nguồn thu đáng kể từ rừng trồng, sau GĐGR cả 3
nhóm hộ đều có rừng trồng với nguồn thu 11,89 triệu đồng (chiếm 21,40% tổng thu
nhập) ở nhóm hộ khá; 7,91 triệu đồng (19,29%) ở nhóm hộ trung bình và 3,92 triệu
đồng (14,96%) các hộ nghèo.
Như vậy cần phải nhận thấy rằng sau 8 năm GĐGR, thu nhập của các nhóm hộ đã
có sự thay đổi đáng kể về cả tổng thu nhập và cơ cấu thu nhập. Song nếu xét riêng về
- 73 -
tổng thu nhập thì sự tăng lên là không đáng ghi nhận, bởi vì sau 8 năm đã có sự thay
đổi đáng kể về giá trị tiền tệ song tổng thu nhập tăng lên chỉ gấp 2 lần so với thời điểm
trước GĐGR. Tuy nhiên cần phải ghi nhận ở sự thay đổi cơ cấu thu nhập từ các nhóm
Tỉ lệ (%)
Rừng trồng
1.00
Rừng tự nhiên
0.80
Cây công nghiệp
Chăn nuôi
0.60
Cây ăn quả
Cây NN
0.40
0.20
0.00
ĐT
Khá
Nghèo
Khá
Nghèo
Trung bình
Trung bình
Cơ cấu thu nhập trước GĐGR
Cơ cấu thu nhập sau khi GĐGR
hộ. Sự thay đổi đó có thể thể hiện qua hình 5.4.
Bảng 5.4: Cơ cấu thu nhập trước và sau khi GĐGR
Hình cơ cấu thu nhập cho thấy, sau khi GĐGR có sự thay đổi lớn ở 4 nguồn: cây
nông nghiệp, cây công nghiệp, rừng tự nhiên và rừng trồng. Sau khi giao đất, tỉ lệ thu
nhập từ cây nông nghiệp giảm đi một nửa; thu nhập từ rừng tự nhiên còn lại rất nhỏ;
thay thế vào đó là nguồn thu nhập lớn từ cây công nghiệp và nguồn thu đáng kể từ
rừng trồng. Cây công nghiệp được lựa chọn trồng chính là cao su; rừng trồng cây
nguyên liệu chu kì kinh doanh ngắn, hiệu quả kinh tế cao: Keo lai, Keo tai tượng…
Thu nhập từ cây ăn quả và chăn nuôi thay đổi không đáng kể.
5.2.4.3 Tăng thu nhập trên 1 ha canh tác
Tăng thu nhập nhờ thay đổi giống cây trồng hàng năm
Sau GĐGR, nhiều diện tích canh tác nương rẫy được chuyển sang trồng các loại
cây có giá trị kinh tế cao hơn như cây công nghiệp, cây ăn quả, diện tích còn lại QH
trồng lúa và cây hoa màu. Tuy nhiên đã có sự thay đổi lớn về giống cây trồng, kết quả
điều tra theo bảng 5.20.
- 74 -
Bảng 5.20: Cơ cấu cây ngắn ngày trước GĐGR và hiện nay
Trước GĐGR
- Lúa Ba trăng - Sắn địa phương - Khoai lang - Đậu giống địa phương - Lạc giống địa phương - Ngô giống địa phương Hiện nay - Lúa lai năng suất cao: Khang Dân, X21, XI23, T92-1 - Sắn KM94 - Khoai lang giống mới - Đậu XV15 - Lạc giống mới - Ngô lai
Trong cơ cấu cây trồng hàng năm thì lúa, ngô và sắn đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo lương thực, chăn nuôi và bán tạo thu nhập cho HGĐ. Trước khi
GĐGR, canh tác nương rẫy chủ yếu là quảng canh, giống địa phương cho năng suất
thấp. Hiện nay nhiều giống mới cho năng suất và giá thành cao được đưa vào sản xuất
thay thế các giống cũ; phần lớn diện tích lúa nước hiện nay trồng giống mới như
Khang dân, X21, Xi23; hoa màu trồng sắn KM94 cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thức ăn gia súc, ngô lai chịu hạn và cho năng suất cao 2-3 bắp/cây.
Bên cạnh các cây trồng chính, các loài cây trồng xen cũng được cơ cấu bằng các giống
mới: khoai lang giống mới, đậu lai XV15 không chỉ tăng năng suất mà còn tăng số vụ
canh tác/năm.
Nhờ thay đổi phương thức canh tác và đưa các giống mới vào sản xuất, tích luỹ
từ cây nông nghiệp ngắn ngày trên 1 ha cũng tăng lên. Kết quả điều tra thể hiện qua
bảng 5.21.
Bảng 5.21: Kết quả sản xuất kinh doanh cây ngắn ngày của các HGĐ Đơn vị tính: Triệu đồng
Trước GĐGR
Hiện nay
Loại cây trồng
Thu nhập Chi phí
Tích luỹ Thu nhập Chi phí Tích luỹ
7,85
4,00
3,85
11,51
5,00
6,51
Lúa nước
9,30
5,67
3,63
18,93
10,00
8,93
Ngô
9,90
4,00
5,90
16,99
10,67
6,32
Sắn
8,99
4,87
4,11
12,79
7,33
5,46
Khoai lang
6,12
4,00
2,12
8,25
4,68
3,57
Đậu
6,90
4,79
2,11
10,10
5,33
4,77
Lạc
- 75 -
Là các giống sinh trưởng nhanh, cho năng suất cao nên yêu cầu trình độ thâm
canh và đầu tư phân bón cao hơn các giống địa phương. Các giống cây trồng mới đều
là các loài đã được trồng khảo nghiệm cho năng suất cao và chịu được điều kiện khí
hậu khắc nghiệt của địa phương, riêng giống ngô, sắn còn chịu được tính hạn vào mùa
khô. Mặc dù đầu tư lớn nhưng năng suất và giá thành sản phẩm cao nên tích luỹ từ
canh tác các loài cây trồng hàng năm đều tăng đáng kể, trong đó tăng nhiều nhất là cây
ngô trung bình thu được 8,93 triệu đồng/ha.năm, tăng 5,3 triệu đồng/ha.năm so với
giống cũ. Tích luỹ từ canh tác lúa giống mới, lạc giống mới cũng tăng đáng kể 2,66
triệu đồng/ha.năm. Tích luỹ từ sắn, khoai lang, đậu cũng tăng khoảng 1 triệu
Tích luỹ
10.0
9.0
Trước GĐGR Hiện nay
8.0
7.0
6.0
5.0
4.0
3.0
2.0
1.0
Loại C.Tr
0.0
Lúa
Ngô
Sắn
Đậu
Lạc
Khoai lang
đồng/ha.năm. Mức tăng thu nhập được thể hiện qua hình 5.5.
Hình 5.5: Tích luỹ từ các cây nông nghiệp ngắn ngày trước GĐGR và hiện nay
Trong nhóm cây trồng hàng năm, tích luỹ thu được từ việc đổi mới thâm canh và
dùng giống mới đều tăng; so với thời điểm trước GĐGR lợi nhuận từ cây ngô tăng lớn
nhất (gấp 2 lần); từ cây lúa và lạc cũng gần gấp đôi… những biến chuyển này không
chỉ góp phần phát triển kinh tế gia đình mà còn đảm bảo an ninh lương thực, ổn định
đời sống cộng đồng nghèo đặc biệt vào các mùa giáp hạt.
- 76 -
Tăng thu nhập nhờ thay đổi loại hình canh tác
Trước GĐGR, hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân trong xã là đốt nương
làm rẫy, trong một thời gian dài nhiều diện tích đã bị bỏ hoá không còn khả năng phục
hồi; tài nguyên rừng suy giảm trong khi đời sống nhân dân tiếp tục khó khăn do canh
tác không hợp lý gây thoái hoá đất, năng suất cây trồng ngày một giảm. Tính đến năm
2002 (thời điểm trước khi GĐGR) trên địa bàn xã có 878,3 ha đất nương rẫy và đất
đồng cỏ dùng để chăn thả gia súc; trong đó đất nương rẫy trồng cây hàng năm là 733,9
ha; đất đồng cỏ là 112,5 ha; đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả là 31,9 ha. Sau khi
GĐGR diện tích này đã được QH sử dụng hợp lý bằng cách: Trồng các loại cây có giá
trị kinh tế cao, xây dựng các mô hình canh tác bảo vệ đất, canh tác nương rẫy theo
hướng bền vững, đảm bảo an ninh lương thực địa phương. Theo cách đó diện tích
nương rẫy còn 213,8 ha trồng cây hàng năm, đất đồng cỏ dùng chăn nuôi là 9 ha, còn
lại 523,9 ha chuyển sang trồng cây công nghiệp dài ngày (chủ yếu là cao su), cây ăn
quả lâu năm và các loại cây trồng lâu năm khác. Thay đổi phương thức canh tác trên
đất nương rẫy bằng các loài cây có giá trị kinh tế cao; trồng rừng và trồng cây công
nghiệp trên đất trống, đất đồng cỏ hoang hoá đã góp phần tăng tích luỹ/ha canh tác.
Kết quả điều tra thể hiện qua bảng 5.22.
Bảng 5.22: Chỉ tiêu chi phí và thu nhập cho cây trồng lâu năm
Loại cây trồng
Cao su
STT
Chỉ tiêu
Keo lai
Keo tai tượng
(6 năm đầu)
1
Tổng chi phí (triệu đồng)
8,76
9,27
13,14
2
Tổng thu nhập (triệu đồng)
67,50
72,50
60,00
3
CPV (triệu đồng)
7,82
8,35
11,88
4
BPV (triệu đồng)
39,51
39,23
37,60
5
NPV (triệu đồng)
31,69
30,88
25,72
6
BCR
5,05
4,70
3,17
7
IRR (%)
45%
37%
38%
- 77 -
Như vậy giá trị hiện tại của chi phí CPV của cây cao su là lớn nhất (11,88 triệu
đồng) sau đó đến Keo tai tượng (8,35 triệu đồng) thấp nhất là Keo lai (7,82 triệu
đồng). Thực tế cho thấy trồng rừng cao su kinh doanh trong thời gian dài, đối tượng
khai thác là nhựa mủ do vậy cần phải đầu tư cao hơn cả về kỹ thuật, phân bón, giá
thành cây con cũng cao hơn khoảng 6000đ/cây con. Keo lai và Keo tai tượng là hai
loài sinh trưởng nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn, đối tượng khai thác là gỗ nguyên liệu
giấy, công nghiệp ván nhân tạo… nên mức độ đầu tư thấp hơn, giá thành cây giống
cũng thấp 500đ/cây.
Giá trị hiện tại của thu nhập (BPV) của Keo lai là cao nhất (39,51 triệu đồng) sau
đó đến Keo tai tượng và cao su. Giá trị hiện tại ròng (NPV) của cả ba loài đều dương
và khá cao Keo tai tượng 30,88 triệu đồng, Keo lai 31,96 triệu đồng và cao su là 25,72
triệu đồng chứng tỏ việc kinh doanh là có lãi tương đối lớn.
Hệ số sinh lãi (BCR) cho thấy với kinh doanh Keo tai tượng cứ bỏ ra 1 đồng thì
thu được 4,7 đồng lãi, kinh doanh Keo lai cứ bỏ ra 1 đồng thì thu được 5,05 đồng lãi,
kinh doanh cao su tỉ lệ này là 3,17, có thể đánh giá tỉ lệ sinh lãi của 3 loài trên đều rất
cao.
Tỉ lệ thu hồi nội bộ (IRR) cho thấy tỉ lệ lãi suất hồi quy của việc kinh doanh ba
loài trên đều rất cao, thấp nhất là Keo tai tượng cũng đạt chỉ tiêu IRR 37%, sau đó đến
mô hình trồng cao su 38%, cao nhất là cây Keo lai chỉ tiêu IRR đạt tới 45%.
Như vậy trên những diện tích đất hoang hoá không có giá trị kinh tế trước đây đã
được thay thế bằng các diện tích trồng cây công nghiệp, trồng rừng sản xuất cho giá trị
kinh tế cao; thay thế canh tác nương rẫy trên đất dốc bằng cây dài ngày góp phần bảo
vệ đất, tạo thu nhập ổn định cho cộng đồng địa phương.
5.2.4.4 Giảm tỉ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn xã
Là một xã miền núi vùng sâu vùng xa, trình độ dân trí thấp, đời sống phụ thuộc
chặt vào sản xuất nông lâm nghiệp. Trong một thời gian dài Thượng Quảng đều có tỉ
lệ hộ đói, nghèo lớn. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Sau 8 năm thực hiện
chương trình GĐGR đến nay tỉ lệ hộ đói, nghèo trên địa bàn xã giảm đáng kể, kết quả
thể hiện qua bảng 5.24.
- 78 -
Bảng 5.23: Tỉ lệ hộ đói, nghèo các thôn trước GĐGR và hiện nay
Trước GĐGR
Hiện nay
Hộ nghèo
Hộ đói
Hộ nghèo
Hộ đói
∑
∑
STT Đơn vị
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
(hộ)
(hộ)
(%)
hộ
(%)
(%)
hộ
(%)
hộ
hộ
61
1
Thôn 1
2
3,28
76
7
9,21
0
0,00
12
22,95
28
2
Thôn 2
3
10,71
40
13
32,5
0
0,00
14
60,71
55
3
Thôn 3
7
12,73
77
32
41,56
0
0,00
30
67,27
23
4
Thôn 4
1
4,35
34
12
35,29
0
0,00
13
60,87
32
5
Thôn 5
0
0,00
43
7
16,28
0
0,00
11
34,38
36
6
Thôn 6
1
2,78
44
2
4,55
0
0,00
7
19,44
27
7
Thôn 7
0
0,00
38
0
0
0
0,00
7
25,93
∑
262
94
14
352
73
0
Trên địa bàn xã chia làm 7 thôn, mức sống của cộng đồng còn thấp nên không thể
phân loại hộ theo chuẩn nghèo của Nhà nước mà việc phân chia dựa vào bình bầu của
cộng đồng; sau mỗi năm đều tiến hành họp thôn để phân loại hộ, do đó tỉ lệ này cũng
thay đổi theo từng năm và chuẩn nghèo cũng thay đổi theo mức độ phát triển kinh tế
của địa phương. Từ trước khi GĐGR (thống kê năm 2002) tất cả các thôn trong xã đều
có hộ nghèo. Các hộ nghèo tập trung vào thôn 1-4; trong đó thôn 3 có tỉ lệ hộ nghèo
cao nhất 67,27% (gồm 37 hộ). Trong 4 thôn đều có hộ đói, riêng thôn 3 có tới 7 hộ
(chiếm 12,73%), thôn 2 có 3 hộ (chiếm 10,71%). Là các thôn nằm trong vùng sâu xa,
tập trung phần lớn là người Kotu, trình độ canh tác thấp, đời sống phụ thuộc chặt vào
rừng.
Tỉ lệ hộ nghèo thấp ở các thôn 5-7, trong đó thấp nhất ở thôn 6 là 19,44% (gồm
7/36 hộ); chỉ có 1 hộ đói ở thôn 6 (chiếm 2,78%). Phần lớn trong thôn là người Kinh,
với các hộ này khả năng canh tác tốt, thu nhập từ trồng trọt chăn nuôi là đáng kể, bên
cạnh đó còn có các nguồn thu từ hoạt động thương mại, dịch vụ khác.
Sau khi GĐGR (thống kê năm 2008) tỉ lệ hộ nghèo ở các thôn đều giảm, tỉ lệ hộ
nghèo cao tập trung ở các thôn 2-4; trong đó cao nhất là thôn 3 là 41,56% (gồm 32/77
hộ), sau 8 năm nhân khẩu và tổng số hộ tăng song số hộ nghèo vẫn duy trì ở mức 30
- 79 -
hộ. Tỉ lệ hộ nghèo thấp tập trung ở thôn 1, 5-7; riêng thôn 7 đã xoá được nghèo. Mặc
dù còn tồn tại một số thôn có tỉ lệ hộ nghèo còn ở mức tương đối cao song tốc độ giảm
nghèo xét chung trên địa bàn xã là tương đối nhanh. Điều đáng kể nhất là trên địa bàn
xã đã xoá được đói, kể cả các thôn phần lớn là cộng đồng Kotu vùng sâu xa (thôn 1-4)
cũng không còn hộ đói.
Kết quả đó là tác động tổng hợp của nhiều chính sách; song khởi đầu và cơ sở là
chính sách GĐGR. Đặc biệt có ý nghĩa với cộng đồng người Kotu trình độ thấp, đời
sống phụ thuộc chặt vào rừng. Sau khi GĐGR, người dân được chủ động sản xuất kinh
doanh trên mảnh đất được giao; kèm theo đó là các chương trình, DA phát triển nông-
lâm nghiệp, nông thôn nhiều lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật, các nguồn hỗ trợ vốn,
giống, phân bón… được đưa đến tay người dân. Trình độ canh tác được nâng lên,
người dân đã thay đổi phương thức canh tác từ quảng canh sang thâm canh, từ khai
thác rừng sang quản lý, bảo vệ và trồng rừng kinh tế, sản xuất nông lâm kết hợp, trồng
cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Trên các diện tích nương rẫy, cơ cấu cây trồng
hàng năm cũng thay đổi, nhiều giống mới được đưa vào sản xuất cho năng suất và giá
thành sản phẩm cao…. từ đó giúp người dân tăng thu nhập trên mảnh đất được giao
thay vì việc vào rừng kiếm sống. Sự thay đổi tỉ lệ hộ nghèo các thôn trên địa bàn xã
Tỉ lệ (%) 80
70
Trước GĐGR Hiện nay
60
50
40
30
20
10
Đơn vị
0
Thôn 1 Thôn 2 Thôn 3 Thôn 4 Thôn 5 Thôn 6 Thôn 7
thể hiện qua hình 5.7.
Hình 5.6: Tỉ lệ hộ nghèo các thôn trong xã trước GĐGR và hiện nay
- 80 -
So sánh từ thời điểm trước GĐGR đến nay, tỉ lệ hộ nghèo trong tất cả các thôn
trong xã đều giảm; trong đó giảm mạnh nhất ở thôn 7, đến nay đã xoá được nghèo; các
thôn 1, thôn 6 cũng là những thôn có tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Như vậy GĐGR đã tạo
tiền đề cho việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo của địa phương. Để người dân
kinh doanh có hiệu quả cao nhất trên mảnh đất đã giao, bảo vệ và phát triển tốt tài
nguyên rừng của địa phương, cần có thêm các chính sách khuyến nông-lâm, thu hút
các DA đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp, đặc biệt là cung cấp thông tin thị trường,
vốn và kỹ thuật, xây dựng các mô hình trồng rừng hiệu quả để người dân học tập kinh
nghiệm, yên tâm sản xuất và bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có tại địa phương.
5.2.5 Tác động chính sách giao đất giao rừng đến nguồn vốn vật chất
Vốn vật chất là một nguồn quan trọng trong sinh kế người dân, đặc biệt quan
trọng với các cộng đồng nghèo vùng sâu xa. Với các cộng đồng này, sống trong điều
kiện cơ sở hạ tầng: điện, đường giao thông, trường học, cơ sở y tế… thường ở mức
thấp nên cơ hội tiếp cận thông tin kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật đều rất thấp. Đời
sống người dân chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, trình độ canh tác thấp, khả năng
tiếp cận thị trường hạn chế do đó nền kinh tế kém phát triển, đói nghèo là tất yếu. Để
cải thiện sinh kế người dân, nhiệm vụ không kém phần quan trọng là cải thiện điều
kiện vật chất cho các cộng đồng này.
Đánh giá tác động của chính sách đến nguồn vốn vật chất thông qua tác động đến
cơ sở hạ tầng xã hội và các tài sản HGĐ hỗ trợ cho sinh kế: Hệ thống giao thông,
thông tin liên lạc, hệ thống thuỷ lợi, các phương tiện vận chuyển nghe nhìn.
5.2.5.1 Tăng nội thất, đồ dùng cho sinh hoạt hàng ngày
Kết quả điều tra cho thấy sau 8 năm thực hiện chương trình GĐGR, đời sống
cộng đồng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Đời sống khá giả hơn, nhu cầu
mua sắm đồ dùng cho sinh hoạt cũng tăng. Trong xã, nhiều nhà xây kiên cố thay thế
cho nhà tranh, xây dựng được hệ thống dẫn nước dùng cho sinh hoạt và sản xuất ở
vùng trung tâm xã. Một số gia đình đã xây dựng được khu vệ sinh, nhà tắm, giếng
cung cấp nước sạch cho sinh hoạt. Trong mỗi HGĐ, đã mua sắm được các thiết bị
dùng trong sinh hoạt hàng ngày: giường, tủ, bàn ghế… Một số gia đình đã xây dựng
được khu bếp ăn và các thiết bị vệ sinh sạch sẽ.
- 81 -
GĐGR không chỉ góp phần đáng kể phát triển kinh tế địa phương mà còn góp
phần thay đổi bộ mặt nông thôn, đời sống người dân thay đổi do kinh tế quyết định
đồng thời kiến thức đời sống được nâng cao thông qua các chương trình phổ cập, tập
huấn cho cộng đồng. Nhận thức về chất lượng cuộc sống: vệ sinh, sức khoẻ, đời sống
tinh thần… được cải thiện đáng kể.
5.2.5.2 Tăng phương tiện vận chuyển, nghe nhìn
Nền kinh tế phát triển, thương mại dịch vụ mở rộng nên nhu cầu vận chuyển lưu
thông hàng hoá tăng; cùng với sự đầu tư cơ sở hạ tầng của nhiều DA về địa phương
nên hệ thống đường giao thông thuận lợi hơn nhiều so với những năm trước đây. Hệ
thống đường liên thôn đã bê tông hoá 7,5km. Tất cả các thôn trong xã đều có đường
đến trung tâm xã, hiện có 10 cầu và cống được xây dựng.
Theo thống kê, năm 2002 trên địa bàn xã không có xe chuyên chở hàng hoá hiện
đại: công nông, ô tô tải… việc vận chuyển chủ yếu bằng xe ngựa và sức người gùi,
kéo; hiện nay toàn xã đã có 10 xe công nông chuyên chở, 1 xe ô tô tải, bình quân 30%
số hộ có xe máy.
Khả năng tiếp cận thông tin kinh tế xã hội của người dân đã được nâng lên; đến nay 98,3% số hộ trong xã đã sử dụng điện lưới quốc gia. Niên giám thống kê năm 2008 của huyện Nam Đông, hệ thống thông tin liên lạc của xã tăng ở mức trung bình. Từ năm 2003, toàn xã có 19 máy điện thoại cố định. Năm 2008 lên tới trên 100 máy
điện thoại cố định, trên 50 máy điện thoại di động. Thư tín, báo chí về tận cơ sở, kịp thời đưa tin các sự kiện diễn ra trong nước và Quốc tế, Công báo được cấp phát về tận thôn.
Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện về mặt vật chất, bên cạnh đó sự phát triển cơ sở hạ tầng giúp người dân có cơ hội tiếp cận thông tin bên ngoài, nâng cao trình độ trong sản xuất và đời sống. GĐGR đã trực tiếp và gián tiếp cải thiện
nguồn vốn vật chất cho cộng đồng địa phương trong sinh kế của họ.
5.3 Đánh giá tác động tổng hợp của chính sách giao đất giao rừng tại địa phương
Sau khi thống kê kết quả của từng chỉ tiêu trong 5 nguồn vốn của sinh kế. Họp
thôn, thảo luận để phân hạng, cho điểm kết quả của từng chỉ tiêu theo ba thời kỳ:
Trước GĐGR, hiện nay và chiến lược trong thời gian tới. Tổng hợp các kết quả cho
điểm của từng chỉ tiêu trên lên sơ đồ hình mạng nhện để đánh giá tác động tổng hợp
của chính sách, kết quả thể hiện qua bảng 5.25 và hình 5.8.
- 82 -
Bảng 5.24: Các chỉ tiêu đánh giá tác động tổng hợp chính sách GĐGR
Thời điểm
STT
Chỉ tiêu đánh giá
Đơn vị
Trước GĐGR 1,5
Hiện nay 3
Khả năng giảm xói mòn
1
Điểm
Thay đổi nguồn nước sản xuất và sinh hoạt tại
2
2
3
Điểm
địa phương
Thay đổi cơ cấu sử dụng đất
3
1
2,5
Điểm
Tỉ lệ
78,43
81,13
(%)
4
Tăng tỉ lệ che phủ của rừng
2
2,5
Điểm
5
Cải thiện chất lượng đất
1
2,5
Điểm
Tăng kiến thức và kỹ năng trong sản xuất và
6
2
3
Điểm
đời sống
7
Tăng nhận thức về tài nguyên rừng
Điểm
1
3
Nhận thức vai trò về giới trong sản xuất và đời
8
2
3
Điểm
sống xã hội
9
Tạo việc làm tăng thu nhập
1
2,5
Điểm
Tỉ lệ
48,59
23,23
(%)
10 Đóng góp vào công tác xoá đói giảm nghèo
Điểm
2
3,5
11
Củng cố hệ thống tổ chức xã hội
Điểm
2
2,5
Tỉ lệ
0,00
16,69
(%)
12
Tỉ trọng chi phí cho lâm nghiệp
Điểm
1
2.5
Tỉ lệ
20,72
54,89
(%)
13
Tỉ trọng thu nhập từ lâm nghiệp
Điểm
3,5
1,5
14
Thu nhập/ha canh tác nương rẫy
2
3,5
Điểm
15
Tăng nội thất, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày
1
2
Điểm
16
Tăng phương tiện vận chuyển nghe nhìn
1
2
Điểm
- 83 -
Ở thời điểm hiện tại tất cả các chỉ báo tác động đều được cho điểm cao hơn so
với những năm trước GĐGR. Trong đó tác động được đánh giá cao nhất là khả năng
tăng nhận thức về tài nguyên rừng của cộng đồng và khả năng giảm xói mòn đất, cao
hơn trước đó từ 2 – 2,5 điểm. Các chỉ số khác: Thay đổi cơ cấu sử dụng đất, tạo việc
làm tăng thu nhập, tăng tỉ trọng chi phí và thu nhập từ lâm nghiệp cũng được đánh giá
cao hơn 1 – 1,5 điểm so với thời điểm trước.
Một số chỉ báo được đánh giá thấp như tăng tỉ lệ che phủ của rừng, tăng nội thất
đồ dùng sinh hoạt, phương tiện vận chuyển nghe nhìn; mặc dù được đánh giá là có
hiệu quả song mức tăng điểm thấp từ 0,5-1 điểm so với thời điểm trước giao đất. Kết
quả đánh giá tác động tổng hợp có thể biểu diễn qua biểu đồ hình mạng nhện sau.
Năm 2002 Năm 2008
Khả năng giảm xói mòn
4
Tăng phương tiện VC&NN
Thay đổi lượng nước
3
Tăng nội thất, đồ dùng SH
Thay đổi CCSD đất
2
Tăng thu nhập/ha nương rẫy
Tăng TLCP rừng
1
0
Cải thiện CL đất
Tỉ trọng TN lâm nghiệp
Tỉ trọng CP lâm nghiệp
Tăng kiến thức và kỹ năng
Tăng nhận thức về TN rừng
Củng cố tổ chức xã hội
Nhận thức về giới
Đóng góp vào xoá đói giảm nghèo
Tạo việc làm tăng thu nhập
Hình 5.7: Tổng hợp các chỉ báo tác động tổng hợp bằng phương pháp cho điểm của
Kari Herweg & Kurt Steiner
- 84 -
Vòng nhện biểu thị cho điểm đánh giá của các chỉ tiêu so sánh thời điểm hiện tại
đều nằm ngoài với thời điểm trước GĐGR (năm 2002). Như vậy có thể đánh giá một
cách tổng hợp tác động của quá trình GĐGR đến sinh kế người dân mang tính tích cực
& toàn diện. Một số chỉ tiêu tăng mạnh thể hiện qua các điểm cách xa nhau như: tăng
nhận thức về tài nguyên rừng, tăng tỉ trọng thu nhập từ lâm nghiệp, giảm khả năng xói
mòn đất… Những chỉ tiêu có tăng nhưng được đánh giá thấp như: tăng tỉ lệ che phủ
của rừng, củng cố tổ chức xã hội.
5.4 Thành tựu và tồn tại chính sách giao đất giao rừng ở Thượng Quảng
5.4.1 Thành tựu và nguyên nhân
5.4.1.1 Thành tựu đạt được
- GĐGR góp phần đáng kể trong việc bảo vệ tài nguyên rừng, ý thức của người
dân về rừng được tăng lên rõ rệt. Rừng không chỉ là công cụ để kiếm sống mà còn có ý
nghĩa cả về kinh tế, xã hội. Rừng được bảo vệ nghiêm ngặt bởi chính cộng đồng địa
phương, cải thiện cả về số lượng (tăng tỉ lệ che phủ của rừng thông qua diện tích rừng
trồng sản xuất), về chất lượng thông qua các biện pháp xúc tiến tái sinh, bảo vệ và cải
tạo rừng…
- Tác động không kém phần quan trọng của GĐGR là cải thiện và bảo vệ nguồn
tài nguyên đất, nước tại địa phương. Khả năng hạn chế xói mòn đất là một chỉ tiêu
quan trọng, mà nguyên nhân chính là giữ rừng tự nhiên, xây dựng rừng trồng và xây
dựng mô hình canh tác hợp lý trên đất dốc. Không chỉ khả năng hạn chế xói mòn đất
được đánh giá cao mà chất lượng đất cũng được cải thiện; độ ẩm, độ phì và độ dầy
tầng đất đều tăng, trên đất rừng trồng đã tồn tại tầng thảm mục, thảm tươi, đất tơi xốp.
Chất lượng và khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất cũng tăng lên, nguồn
nước được cải thiện cả về nước mặt và nước ngầm.
- GĐGR kết hợp với các chương trình trồng và bảo vệ rừng đã góp phần đáng kể
trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương. Nhìn chung nhu cầu
về lao động và thời gian làm việc trung bình của một lao động chính đều tăng ở cả 3
nhóm hộ điều tra. Canh tác trên đất rừng theo nguyên tắc thâm canh cũng tạo việc làm
đều đặn trong năm, giảm thời gian nông nhàn. Có việc làm thu nhập của cộng đồng
- 85 -
cũng tăng lên. Sau 8 năm GĐGR đã làm giảm đáng kể tỉ lệ hộ nghèo, đặc biệt xoá đói
trên địa bàn xã, hay GĐGR đóng góp tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo tại địa
phương.
- GĐGR góp phần tăng tỉ trọng chi phí và thu nhập từ lâm nghiệp, tỉ trọng lớn thể
hiện vai trò của lâm nghiệp trong nền kinh tế địa phương ngày càng cao. Bên cạnh đó
GĐGR còn góp phần quan trọng trong việc tăng thu nhập/ha đất canh tác nhờ các mô
hình canh tác ổn định & cho hiệu quả kinh tế cao: Mô hình trồng cây công nghiệp, cây
ăn quả dài ngày, thay cho việc canh tác nương rẫy trên đất dốc gây xói mòn đất và thu
nhập thấp. Cơ cấu cây trồng vật nuôi thay đổi, nhiều giống mới được đưa vào sản xuất
cho năng suất và giá thành sản phẩm cao. Hiệu quả từ nông - lâm nghiệp tăng lên đáng
kể.
- Sau khi GĐGR đời sống kinh tế được cải thiện nhờ đó cơ sở hạ tầng địa phương
cũng được nâng lên. Trong HGĐ, nhà xây kiên cố dần thay thế cho nhà tranh tre mái
gianh, mua sắm các thiết bị cho sinh hoạt nghe nhìn. Tăng khả năng tiếp cận thông tin
về kinh tế, thị trường, khoa học kỹ thuật, nhờ đó trình độ sản xuất và sinh hoạt cũng
được nâng lên.
5.4.1.2 Nguyên nhân
- Mỗi một mảnh rừng sau khi giao đã có chủ cụ thể, ý thức quản lý bảo vệ của
người dân thay đổi đáng kể. Rừng không chỉ được quản lý bảo vệ bằng pháp luật mà
còn bằng hệ thống hương ước làng bản.
- Quá trình QH sử dụng đất có sự tham gia của người dân nên phương án QH phù
hợp với nhu cầu, thực tế phát triển của địa phương. Giao đất, giao rừng gắn liền với
QH sử dụng đất đã đem lại hiệu quả sử dụng cao.
- Rừng và đất rừng sau khi được giao cho người dân đã có rất nhiều chương trình,
DA phát triển nông lâm nghiệp được triển khai sau đó, do đó nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, phát triển kinh tế địa phương.
- Cùng với các chương trình, DA đầu tư phát triển nông lâm nghiệp, nông thôn là
các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm sản xuất… nhờ đó nâng
cao trình độ của người dân trong sản xuất và đời sống.
- 86 -
5.4.2 Những hạn chế còn tồn tại
Nhìn chung các chỉ tiêu được đánh giá là có tăng hơn so với thời điểm trước
giao đất song chương trình vẫn còn những hạn chế nhất định như sau:
- Về cơ cấu sử dụng đất: Mặc dù đã tạo ra được cơ cấu sử dụng đất tương đối hợp
lý song diện tích cây công nghiệp và rừng trồng cho giá trị kinh tế cao vẫn còn thấp ở
cả 3 nhóm hộ khá, TB, nghèo. Đất hoang hoá còn diện tích lớn chưa được đưa vào
canh tác.
- Tài nguyên rừng đã được cải thiện, tuy nhiên mới chỉ ghi nhận ở số lượng (tăng
tỉ lệ che phủ), còn chất lượng chưa tốt; tỉ lệ rừng nghèo, trảng cỏ (IA, IB, IC) vẫn còn
chiếm diện tích lớn chưa có khả năng cải thiện trong thời gian trước mắt.
- Đã góp phần tạo việc làm tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, tuy nhiên
chỉ mới thông qua nghề rừng, tăng diện tích canh tác nông lâm nghiệp mà chưa mở
rộng được các ngành nghề mới: tận thu lâm sản ngoài gỗ (làm đồ thủ công mỹ nghệ để
xuất khẩu, trồng và khai thác dược liệu…), phát triển các ngành nghề chế biến nông
lâm sản tạo việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động phụ và lúc nông nhàn,
tăng giá trị sản phẩm.
- Diện tích giao cho các hộ gia đình tuỳ thuộc vào năng lực sản xuất của từng hộ,
các hộ khá được nhận diện tích lớn, đầu tư hiệu quả nên thu nhập/ha đất canh tác và
tổng thu nhập lớn hơn các nhóm hộ trung bình và hộ nghèo; chênh lệch giàu nghèo
ngày càng tăng chưa có hướng khắc phục.
- Năng suất rừng thấp, chất lượng sản phẩm cũng không cao, chu kỳ kinh doanh
còn dài.
Phải nhận thấy rằng các tác động của chính sách giao đất giao rừng tới sinh kế
người dân đều theo chiều hướng tích cực; tuy nhiên vấn đề chúng ta cần xem xét ở đây
là sinh kế của cộng đồng đó có thực sự bền vững hay không?
- Trên diện tích đất được giao người dân canh tác cây nông lâm nghiệp, cây công
nghiệp, song giá trị kinh tế của những cây này chưa cao; nhiều diện tích đất còn để
trống hay cộng đồng chưa phát huy được hết tiềm năng đất đai, với những nguyên
nhân sau:
- 87 -
+ Nguồn vốn đầu tư được đa dạng hoá và ưu đãi cho phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp, song thủ tục vay vốn ưu đãi còn rườm rà, đối với cộng đồng địa phương đặc
biệt là cộng đồng nghèo người Kotu trình độ thấp thì khả năng tiếp cận là rất khó khăn.
Quy định số vốn ưu đãi người dân được vay từ ngân hàng NN&PTNT cũng còn hạn
chế nhiều. Khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ các DA nước ngoài
thấp.
+ Trình độ canh tác thấp, kiến thức bản địa chỉ phù hợp với các giống cây trồng địa
phương. Kỹ thuật canh tác với các cây trồng mới được phổ cập thông qua các lớp tập
huấn, song do kinh phí và thiếu cán bộ kỹ thuật nên số lượng còn ít và nội dung còn sơ
sài. Tổ chức khuyến nông lâm chưa phát huy hết vai trò và khả năng giúp người dân
tiếp cận khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Trình độ dân trí thấp ảnh hưởng đến khả năng
tiếp thu kiến thức mới. Công cụ sản xuất thô sơ, năng suất thấp.
+ Cơ cấu cây trồng tại địa phương chưa đa dạng, việc khảo nghiệm và đưa giống
mới vào sản xuất vẫn còn hạn chế. Tập quán canh tác cũ vẫn còn duy trì, bên cạnh các
giống mới cho năng suất chất lượng cao được đưa vào sản xuất, vẫn còn tồn tại các
giống địa phương năng suất thấp.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt còn thấp: Hệ thống thuỷ lợi chưa đáp
ứng được nhu cầu điều tiết nước cho sản xuất, úng lụt về mùa mưa và thiếu nước vào
mùa khô (kéo dài tới 6 tháng, nhiều diện tích không có nước cho canh tác). Hệ thống
giao thông mặc dù đã được chú trọng phát triển song đường đi vào các thôn đặc biệt là
thôn vùng sâu xa còn rất khó khăn ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt và vận
chuyển lưu thông hàng hoá.
+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm còn rất hạn chế, các hàng nông sản chủ yếu phục vụ
nhu cầu tại chỗ của địa phương, sản phẩm từ rừng trồng và cây công nghiệp giá thành
thấp do sản phẩm không đúng quy cách và khó khăn trong vận chuyển.
- Công nghiệp chế biến nông lâm sản tại địa phương còn kém phát triển; công
nghệ thô sơ. Hiện nay chỉ có một số cơ sở nhỏ của tư nhân chế biến lâm sản: làm đồ
gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ đáp ứng nhu cầu tại chỗ. Sản phẩm từ rừng chủ yếu
- 88 -
vẫn bán ở trạng thái thô, giá trị thấp. Sản phẩm nông nghiệp được dùng trực tiếp để
chăn nuôi.
- Hệ thống giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ đã được chú trọng song còn hạn chế
nhiều đặc biệt với cộng đồng người Thượng ở vùng sâu xa. Trình độ dân trí thấp, chịu
nhiều phong tục lạc hậu nên việc khám chữa bệnh gặp nhiều khó khăn. Vận động trẻ
em đến trường và duy trì lớp học cũng cần nhiều đầu tư hơn nữa nhằm phát huy nguồn
lực con người trong tương lai.
5.5 Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách giao đất
giao rừng tại địa phương
Mục tiêu quan trọng của chương trình GĐGR là bảo vệ phát triển tài nguyên
rừng, sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng vào phát triển kinh tế xã hội tại địa phương,
đảm bảo đời sống cho người dân vùng ven rừng và trong rừng, đời sống phụ thuộc vào
rừng. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn đề xuất một số giải pháp chính nhằm nâng
cao hiệu quả chương trình GĐGR tại địa phương như sau:
(1) Giải pháp về chính sách
- Có các chính sách thu hút đầu tư của các tổ chức, cá nhân (đặc biệt DA của các
tổ chức nước ngoài) vào phát triển nông lâm nghiệp tại. Đồng thời phát huy hiệu quả
các DA hiện đang thực thi tại địa phương, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
- Có chính sách hưởng lợi rõ ràng và hợp lý trên diện tích rừng cho thuê, khoán
bảo vệ nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển diện tích rừng tự nhiên hiện có tại
địa bàn xã.
- Thực thi chính sách giao thí điểm rừng tự nhiên cho các HGĐ và cộng đồng
quản lý, nhằm nâng cao ý thức bảo vệ và làm giàu rừng, tận thu sản phẩm từ rừng để
phát triển kinh tế. Đặc biệt chú ý đến nguồn lợi lâm sản ngoài gỗ phong phú và có giá
trị cao tại địa phương.
- Điều chỉnh diện tích đất lâm nghiệp giao cho các hộ cho phù hợp với năng lực
sản xuất nhằm phát huy tối đa tiềm năng đất đai; có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo
phát triển sản xuất, rút ngắn dần khoảng cách giàu-nghèo trên địa bàn xã.
- 89 -
(2) Giải pháp về khoa học kỹ thuật
- Tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, đưa các tiến bộ thâm canh và
khảo nghiệm giống mới. Đa dạng hoá vật nuôi, cây trồng cho năng suất chất lượng cao
và phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương; nâng cao hiệu quả thâm canh đồng thời
hướng tới sản xuất bền vững.
- Nghiên cứu để đưa các ngành nghề phụ như thủ công mỹ nghệ về địa phương,
tận thu lâm sản ngoài gỗ làm hàng xuất khẩu, đem lại thu nhập đáng kể cho cộng đồng
trong những lúc nông nhàn và các lao động phụ.
- Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản bằng việc xây dựng các
khu chế biến có vốn đầu tư nhà nước, khuyến khích tư nhân tham gia vào lĩnh vực chế
biến thông qua nguồn vốn vay ưu đãi và các lớp tập huấn khoa học-công nghệ mới
nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông lâm sản tại địa phương, đồng thời tạo việc làm
tăng thu nhập cho người lao động.
- Tổ chức các đợt tham quan, trao đổi kinh nghiệm, tham vấn hiện trường qua đó
nông dân bày tỏ quan điểm, nhận thức, học hỏi kinh nghiệm. Lãnh đạo nhận thấy điểm
yếu kém về khoa học kỹ thuật để có biện pháp bổ túc kịp thời.
- Phát huy có hiệu quả tổ chức khuyến nông - lâm địa bàn để làm cầu nối đưa các
tiến bộ khoa học kỹ thuật và các chủ trương chính sách của nhà nước trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp đến với người dân, đặc biệt là các thôn vùng sâu xa.
(3) Giải pháp về nguồn vốn
- Nhà nước cần có các chính sách tín dụng có thời hạn phù hợp với chu kỳ kinh
doanh cây lâm nghiệp dài, khuyến khích các HGĐ, cá nhân vay vốn đầu vào sản xuất
với lãi suất ưu đãi. Đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng đáp ứng vốn
vay ưu đãi của ngân hàng NN&PTNT trên địa bàn đối với sản xuất nông lâm nghiệp.
- Khuyến khích các dự án đầu tư vốn vào sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng,
góp phần cải thiện đời sống cũng như điều kiện sản xuất cho người dân.
(4) Giải pháp về thị trường
Thị trường là một trong những vấn đề mà người dân quan tâm nhất trong giai
đoạn rừng chuẩn bị cho khai thác gỗ như hiện nay (rừng Keo). Vì vậy, cần triển khai
- 90 -
ngay công tác tổ chức thực hiện quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về chính sách khuyến khích ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá Nông lâm sản.
- Với thị trường sản phẩm đầu ra: Việc giải quyết cần phải có sự kết hợp chặt
chẽ giữa Nhà nước và bản thân các trang trại. Khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia vào thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra sự năng động và cạnh tranh
lành mạnh góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế của các HGĐ.
- Về phía người dân: Tích cực, chủ động tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản
phẩm. Sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm như: bán buôn toàn
bộ sản phẩm cho các cơ sở hoặc tư thương, trực tiếp bán lẻ sản phẩm cho người tiêu
dùng hoặc thông qua các đại lý tại chợ thị trấn, thành phố… để tiêu thụ sản phẩm;
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá bằng việc bố trí sản xuất phù hợp
với quy hoạch của vùng…
(5) Hoàn thiện kịp thời hệ thống CSHT
- Trong đó, đặc biệt ưu tiên cho đường giao thông để tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình sản xuất, vận chuyển sản phẩm rừng trồng trong các kỳ khai thác. Cải thiện
hệ thống thuỷ lợi điều tiết nước cho sản xuất: cung cấp nước về mùa khô, thoát nước
về mùa mưa lũ.
- Củng cố hệ thống trạm y tế chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, đặc biệt với các
thôn vùng sâu xa (thôn 1-4). Xây dựng trường lớp, nâng cao trình độ dân trí người dân.
(6) Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan chính quyền địa phương trong các
công việc như hướng dẫn, giúp đỡ, các hoạt động của các HGĐ làm nghề rừng. Đặc
biệt giữa UBND xã với các cơ quan KL, Địa chính cấp huyện, Ngân hàng… nhằm
theo dõi trách nhiệm của họ với các hoạt động chăm sóc, bảo vệ rừng
- UBND xã cùng với các cơ quan ban ngành trong huyện cần tuyên truyền, hỗ trợ
người dân hợp tác với nhau tạo nên các mô hình sản xuất mới có quy mô, tạo điều kiện
để phát triển hơn nữa.
- Phát huy triệt để hiệu quả hoạt động của tổ chức khuyến nông lâm xã, xây dựng
hệ thống khuyến nông lâm thôn bản, để mỗi người cán bộ thực sự trở thành cầu nối
hữu hiệu nhất truyền đạt kiến thức tới người dân trong các hoạt động sản xuất nông
lâm nghiệp.
- 91 -
CHƯƠNG VI
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
6.1 Kết luận
Kết quả điều tra và phân tích cho thấy quá trình GĐGR ở Thượng Quảng đã tác
động đến sinh kế người dân như sau
6.1.1 Tác động nguồn vốn tự nhiên
Bảo vệ và cải thiện chất lượng chất lượng tài nguyên đất
- Thay đổi cơ cấu sử dụng đất: Cơ cấu đất nông nghiệp trước và sau khi GĐGR
không có sự thay đổi lớn trong đó đất dành cho sản xuất nông nghiệp chiếm trong
khoảng 4,7%. Tuy nhiên trong từng loại đất đã có sự chuyển dịch đáng kể, trong đó
thay đổi lớn nhất là đất nương rẫy. Một diện tích lớn đất trồng lúa nương (89,7 ha) và
đất trồng cây hàng năm khác (305,7 ha), đất đồng cỏ (112,54 ha) được chuyển sang
trồng cây ăn quả và cây trồng lâu năm khác đặc biệt là cây công nghiệp lâu năm. Diện
tích cao su hiện nay là 451,3 ha.
- Giảm xói mòn đất: GĐGR góp phần giảm quá trình xói mòn ở địa phương. Có
tới 19/60 hộ phỏng vấn sau khi GĐGR không xảy ra xói mòn (chiếm 31,67%), 11
người đánh giá quá trình xói mòn còn rất ít, chỉ 5 người nhận xét đánh giá xói mòn còn
nhiều; trong khi trước GĐGR có tới 18 người được phỏng vấn cho rằng xói mòn nhiều
(chiếm 30%) và xói mòn không nhiều 11 người và 4 người đánh giá không có quá
trình xói mòn.
- Cải thiện chất lượng đất: Chất lượng đất được cải thiện rõ rệt. Dưới tán rừng đã
tồn tại tầng thảm mục 2-3 cm, độ dầy tầng đất mặt lên 25-30cm. Lớp đất mặt ẩm; hàm
lượng mùn tăng nên có màu nâu xám; thành phần cơ giới là đất thịt trung bình; xuất
hiện nhiều loài sinh vật đất ưa ẩm: giun đất, dế trũi…
Thay đổi nguồn nước tại địa phương
- Nước cho sinh hoạt: Sau GĐGR nguồn nước cho sinh hoạt cũng tăng cả nước
mặt (sông, suối) và nước ngầm (giếng khơi). Kết quả phỏng vấn hộ có tới 38 người
(chiếm 63,33%) đánh giá nguồn nước sinh hoạt hiện nay nhiều hơn so với thời điểm
- 92 -
trước GĐGR, 15 người (25%) đánh giá nguồn nước không thay đổi, và 11,67% đánh
giá nguồn nước thấp hơn.
- Nước sản xuất: Tăng nguồn nước cho sản xuất không chỉ thể hiện diện tích
canh tác lúa nước tăng từ 58,8 ha lên 114,5 ha (tăng 55,7 ha). Đặc biệt nguồn nước
cung cấp cho sản xuất nông nghiệp cũng được cải thiện đáng kể vào mùa khô, nếu
năm 2002 chỉ có 25,7 ha đất lúa nước được đưa vào sản xuất trong mùa khô (chiếm
43,71%) thì đến nay diện tích này đã là 63,8 ha (chiếm 55,72%). Tỉ lệ canh tác hoa
màu về mùa khô tăng từ 15,89% lên 37,03%; trong đó chủ yếu là diện tích trồng ngô
và lạc giống mới, chịu hạn và cho năng suất cao.
Tăng tỉ lệ che phủ của rừng
Từ năm 2002 đến nay trên toàn xã đã giữ được diện tích rừng tự nhiên đồng thời
xây dựng được 433,0 ha rừng trồng do đó đã nâng tỉ lệ che phủ của rừng lên 2,77%;
với một địa phương có rừng tự nhiên chiếm tới 78,24% thì độ tăng tỉ lệ che phủ như
trên không là con số nhỏ. Mặt khác nếu tính cả diện tích trồng cao su thì tỉ lệ che phủ
của rừng hiện tại là 81,13%.
6.1.2. Tác động của chính sách GĐGR đến nguồn vốn con người
Tăng kiến thức và kỹ năng trong sản xuất và đời sống
Từ khi GĐGR đã có rất nhiều DA phát triển nông- lâm nghiệp được triển khai,
các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật nhờ đó nâng cao kiến thức cho cộng đồng cả về
sản xuất và đời sống: Kỹ thuật trồng cây bản địa, tập huấn xúc tiến tái sinh và làm giàu
rừng tự nhiên, tập huấn và hỗ trợ phát triển vườn ươm giống cây lâm nghiệp cộng
đồng… với tổng số người tham gia ít nhất là 36,67%.
Tăng nhận thức về môi trường, tài nguyên rừng
Sau khi GĐGR tức là rừng đã có chủ. Rừng tự nhiên được khoán cho HGĐ, cá
nhân, cộng đồng… quản lý bảo vệ do đó ý thức trách nhiệm của mỗi người trong cộng
đồng được nâng lên. Số vụ cháy rừng và vi phạm trong quản lý bảo vệ rừng trên địa
bàn xã giảm đáng kể, đến nay chỉ có rất ít số vụ khai thác trộm trên địa bàn xã, cháy
rừng cũng giảm đáng kể, đặc biệt hiện tượng xâm lấn rừng trồng cây khác được hạn
chế triệt để.
- 93 -
Thay đổi nhận thức, vai trò về giới trong sản xuất và xã hội
Song song với việc thực hiện GĐGR cho người dân, BCĐ đã chủ trương thay đổi
nhận thức và vai trò của giới trong sản xuất và đời sống bằng cách tăng sự tham gia
của phụ nữ trong các bước GĐGR, thấp nhất cũng có 16,28% trong tổng số là nữ giới
(đứng tên trong sổ đỏ), cao nhất tới 45,61% (họp GĐGR). Các lớp tập huấn chuyển
giao kỹ thuật cũng được nữ giới hưởng ứng, cao nhất có thể đạt 100% (lớp về quản lý
tài chính).
Phân công lao động trong xã hội cũng có sự thay đổi lớn theo chiều hướng giải
phóng nữ giới khỏi công việc nặng nhọc, tăng cường vai trò trong việc họp bàn ra
quyết định. Công việc được chia sẻ chung trong gia đình.
6.1.3 Tác động nguồn vốn xã hội
Tạo việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng
- Tăng nhu cầu lao động trong các hoạt động sản xuất: Sau GĐGR nhu cầu về
công lao động tăng lên ở hầu hết các hoạt động sản xuất. Chỉ riêng canh tác nương rẫy
có số công lao động giảm do một diện tích lớn được chuyển sang trồng cây ăn quả lâu
năm, cây công nghiệp và trồng rừng sản xuất. Do đó nhu cầu công lao động trong
nhóm làm vườn chăn nuôi tăng, đặc biệt tăng nhanh trong nghề rừng. Tổng công lao
động cho các hoạt động sản xuất sau GĐGR tăng lên gần gấp đôi.
- Tăng thời gian làm việc bình quân trong năm của lao động chính: Trước khi
GĐGR lao động địa phương tập trung vào làm nương rẫy chiếm tới 115 công trong
tổng số 238 ngày công/lao động.năm. Nhóm làm rừng chiếm số ngày công thấp nhất
20 ngày (5,56%), lao động chính nghỉ việc tới 107 ngày/năm (chiếm 29,72%). Sau khi
GĐGR hoạt động sản xuất chính là trồng, chăm sóc rừng chiếm tới 115 công
(31,94%), làm nương rẫy chiếm 25 công (6,94%). Thời gian nhàn rỗi chỉ còn 40
ngày/năm.
Góp phần vào công tác xoá đói giảm nghèo ở địa phương
Kết quả phỏng vấn và so sánh, cùng với các chương trình khác thì chính sách
GĐGR có tới 35 hộ (chiếm 58,33%) đánh giá là đóng góp nhiều, 17 hộ (chiếm
28,33%) đánh giá bình thường và 8 hộ (chiếm 13,33%) đánh giá đóng góp thấp vào
công tác xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
- 94 -
Củng cố hệ thống tổ chức xã hội
Quá trình GĐGR phải thành lập TCT, các ban giám sát và đánh giá… thông qua
đó nhiều tổ chức đoàn thể được thành lập và củng cố. Đặc biệt là các tổ chức giúp đỡ
nhau sản xuất, phát triển kinh tế: Tổ chức tham quan trao đổi kinh nghiệm, hội khuyến
nông-lâm, hội những người làm vườn…
6.1.4 Tác động nguồn vốn tài chính
Thay đổi cơ cấu chi phí HGĐ
Có sự thay đổi lớn cả về cơ cấu và tổng chi phí của cả 3 nhóm hộ khá, trung bình,
nghèo từ trước và sau khi GĐGR. Tổng chi phí sản xuất tăng lên ở cả 3 nhóm hộ,
trong đó tăng mạnh nhất ở nhóm hộ nghèo (khoảng 3,5 lần) và tăng 2 lần ở nhóm hộ
khá và trung bình. Chi phí cho cây nông nghiệp vẫn là lớn nhất song tỉ lệ đã giảm một
nửa so với trước GĐGR: nhóm hộ khá 5,63 triệu (35,65% tổng chi phí), nhóm hộ trung
bình 4,51 triệu đồng (37,77%) và 2,35 triệu đồng (32,74%) nhóm hộ nghèo; chi phí
cho trồng cây ăn quả và chăn nuôi hầu như không thay đổi. Tổng chi phí cho rừng
trồng và cây công nghiệp cũng tương đương cây nông nghiệp: nhóm hộ khá là 7,83
triệu đồng (chiếm 49,55%), nhóm hộ trung bình là 5,95 triệu đồng (49,86%) và 4,08
triệu đồng (56,85%) cho nhóm hộ nghèo.
Thay đổi cơ cấu thu nhập HGĐ
Sau khi GĐGR, tổng thu nhập/năm tăng lên ở cả 3 nhóm hộ; tăng khoảng 2 lần ở
nhóm hộ khá và trung bình; tăng gần 3 lần ở nhóm hộ nghèo. Đặc biệt trong cơ cấu thu
nhập; nguồn thu từ cây nông nghiệp giảm mạnh chiếm 26,37% tổng thu nhập ở nhóm
hộ khá, 27,40% ở nhóm hộ trung bình và 29,77% ở các hộ nghèo. Thu nhập từ cây
công nghiệp lớn nhất ở nhóm hộ nghèo 10,87 triệu đồng (chiếm 41,46% tổng thu
nhập), nhóm hộ khá là 16,90 triệu đồng (30,41%), nhóm hộ trung bình là 13,89 triệu
đồng (33,88%). Thu nhập từ rừng trồng 11,89 triệu đồng (chiếm 21,40% tổng thu
nhập) ở nhóm hộ khá; 7,91 triệu đồng (19,29%) ở nhóm hộ trung bình và 3,92 triệu
đồng (14,96%) các hộ nghèo. Thu nhập từ cây ăn quả và chăn nuôi thay đổi không
đáng kể; thu nhập từ rừng tự nhiên giảm mạnh ở cả 3 nhóm hộ đặc biệt là nhóm hộ
nghèo.
- 95 -
Tăng thu nhập trên 1 ha canh tác nương rẫy
- Tăng thu nhập nhờ thay đổi giống cây trồng hàng năm: Nhiều giống mới cho
năng suất và giá thành cao được đưa vào sản xuất thay thế các giống cũ; phần lớn diện
tích lúa nước hiện nay trồng giống mới như Khang dân, X21, Xi23; hoa màu trồng sắn
KM94, ngô lai chịu hạn và cho năng suất cao 2-3 bắp/cây. Khoai lang giống mới, đậu
lai XV15 không chỉ tăng năng suất mà còn tăng số vụ canh tác/năm. Lãi thu được từ
cây nông nghiệp ngắn ngày trên 1 ha cũng tăng lên; cây ngô trung bình thu được 8,93
triệu đồng/ha.năm tăng 5,3 triệu đồng/ha.năm. Lãi từ canh tác lúa giống mới, lạc giống
mới cũng tăng đáng kể 2,66 triệu đồng/ha.năm. Tích luỹ từ sắn, khoai lang, đậu cũng
tăng khoảng 1 triệu đồng/ha.năm.
- Tăng thu nhập nhờ thay đổi loại hình canh tác: Thay đổi cơ cấu cây trồng trên
đất nương rẫy bằng việc trồng các loài cây có giá trị kinh tế cao đã góp phần tăng lợi
nhuận/ha canh tác. Lợi nhuận từ khai thác nhựa cao su được đánh giá là cao nhất
khoảng 15 triệu đồng/ha.năm; cao su tính cho 6 năm đầu sau khi đã tính chiết khấu thu
được 7,79 triệu đồng/ha.năm. Với các loại cây trồng rừng sản xuất (Keo lai và Keo tai
tượng) cũng thu lãi khoảng 8 triệu đồng/ha.năm. Riêng canh tác nương rẫy với các loại
cây trồng hàng năm (lúa, ngô, sắn, khoai lang…) thu được 5,93 triệu đồng/ha.năm.
Thay đổi phân loại kinh tế HGĐ
Sau khi GĐGR (thống kê năm 2008) tỉ lệ hộ nghèo ở các thôn đều giảm, tỉ lệ hộ
nghèo cao tập trung ở các thôn 2-4; trong đó cao nhất là thôn 3 là 41,56% (gồm 32/77
hộ), sau 8 năm nhân khẩu và tổng số hộ tăng song số hộ nghèo vẫn duy trì ở mức trên
30 hộ. Tỉ lệ hộ nghèo thấp tập trung ở thôn 1, 5-7; đặc biệt thôn 7 đã xoá được nghèo.
Mặc dù còn tồn tại một số thôn có tỉ lệ hộ nghèo còn ở mức tương đối cao song tốc độ
giảm nghèo xét chung trên địa bàn xã là tương đối nhanh. Đã xoá được đói trên toàn
xã.
6.1.5 Tác động đến nguồn vốn vật chất
Tăng nội thất, đồ dùng cho sinh hoạt hàng ngày
Kết quả điều tra cho thấy sau 8 năm thực hiện chương trình GĐGR, đời sống
cộng đồng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Trong mỗi HGĐ, đã mua sắm
- 96 -
được các thiết bị dùng trong sinh hoạt hàng ngày: giường, tủ, bàn ghế… Một số gia
đình đã xây dựng được khu bếp ăn và các thiết bị vệ sinh sạch sẽ.
Tăng phương tiện vận chuyển, nghe nhìn
Hiện nay toàn xã đã có 10 xe công nông chuyên chở, 1 xe ô tô tải, bình quân 20%
số hộ có xe máy. Khả năng tiếp cận thông tin kinh tế xã hội của người dân đã được
nâng lên; đến nay 98,3% số hộ trong xã đã sử dụng điện lưới quốc gia, hệ thống thông
tin liên lạc của xã tăng ở mức trung bình, thư tín, báo chí về tận cơ sở.
6.2 Tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được, đề tài còn có một số tồn tại sau:
- Sự hạn chế về điều kiện nghiên cứu nên việc thu thập số liệu chưa đầy đủ để
đánh giá sâu những tác động quá trình GĐGR tại địa phương, vì vậy luận văn mới chỉ
dừng lại ở những tiêu chí chủ yếu, dễ xác định.
- Thời gian nghiên cứu hạn chế nên phạm vi nghiên cứu còn hẹp, hệ thống dữ liệu
không đầy đủ nên ảnh hưởng đến kết quả của luận văn. Những đề xuất có thể chưa là
giải pháp tối ưu.
6.3 Khuyến nghị
Từ những tồn tại trên luận văn đưa ra một số khuyến nghị cho các nghiên cứu tiếp theo
như sau:
- Có nghiên cứu thực trạng trình độ khoa học kỹ thuật tại địa phương để có giải
pháp phù hợp nâng cao trình độ canh tác, cải thiện năng suất cây trồng vật nuôi góp
phần phát triển kinh tế địa phương, sử dụng tối đa tiềm năng đất đai.
- Nghiên cứu về giải pháp thu hút đầu tư phát triển nông lâm nghiệp địa phương
của các tổ chức trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận khoa học kỹ
thuật mới và nguồn vốn hỗ trợ lãi suất đầu tư cho sản xuất.
- Có các nghiên cứu đầy đủ về thị trường, các kênh tiêu thụ sản phẩm giúp người
dân nắm bắt được nhu cầu thị trường, góp phần nâng giá trị và khả năng tiêu thụ sản
phẩm cho cộng đồng.
- Nghiên cứu về tiềm năng lâm sản ngoài gỗ tại địa phương, đề xuất hướng đi
đúng đắn để khai thác nguồn lợi này, góp phần phát triển kinh tế cho cộng đồng.