ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ________ NGUYỄN THỊ HỒNG
1. Lee do chin đề tài
TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC CỦA ĐẢNG - NGUỒN SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (Giai đoạn từ 1986 đến nay)
Theo Quyết định 20-QĐ/TW ngày 23 tháng 9 năm 1987 của Ban Bí t ân rộng,
quả càng ca
hiệu
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Lưu trữ
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ________ NGUYỄN THỊ HỒNG
TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC CỦA ĐẢNG - NGUỒN SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (Giai đoạn từ 1986 đến nay)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Chuyên ngành: Lưu trữ Mã số: 60 32 03 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lệ Nhung
Hà Nội, 2016
MỤC LỤC
Nội dung
Trang số
Mở đầu 04
13 Chương 1: Tổng quan về các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011
1.1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phông lưu trữ và phông lưu trữ 13 ĐHĐBTQ của Đảng
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về phông lưu trữ 13
1.1.2. Lịch sử các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng 15
1.1.2.1. Giới hạn thời gian và tài liệu của các phông ĐHĐBTQ của Đảng 15
1.1.2.2. Mức độ hoàn chỉnh của Phông 17
1.1.2.3. Khối lượng tài liệu 19
1.1.2.4. Thành phần và nội dung tài liệu 19
1.1.2.5. Về đặc điểm của tài liệu 21
1.2. Tổng quan về các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng 24
1.2.1. Khái quát về Đảng Cộng sản Việt Nam và các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng. 24
29 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các ĐHĐBTQ của Đảng
1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn 29
1.2.2.2. Các cơ quan của các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng 32
38 1.3. Giới thiệu một số nét về cơ quan quản lý tài liệu các phông lưu ĐHĐBTQ của Đảng
41 Chương 2: Giá trị sử liệu tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Sử liệu và các nguồn sử liệu 41
43 2.2. Giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng giai đoạn từ 1986 đến năm 2011.
43 2.2.1. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết thúc từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
46 2.2.2. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện trình Đại hội.
53 2.2.3. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng CNXH ở Việt Nam
2.2.4. Nguồn sử liệu phản ánh sự kiên định của Đảng về mục tiêu xây dựng 56
2
CNXH ở Việt Nam
58 2.2.5. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại.
75 2.3. Một số đặc điểm của nguồn sử liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
81 Chương 3: Một số giải pháp về phát huy giá trị sử liệu tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011
81 3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 trong thời gian qua
3.1.1. Công tác tổ chức khoa học tài liệu 81
3.1.2. Công tác khai thác, sử dụng tài liệu 84
89 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
90 3.2. Một số giải pháp về phát huy giá trị sử liệu tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011
90 3.2.1. Sưu tầm, bổ sung tài liệu còn thiếu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng để đảm bảo sự hoàn chỉnh của hồ sơ, tài liệu trong phông
3.2.2. Xác minh thẩm định tài liệu 91
92 3.2.3. Xây dựng các chuyên đề nghiên cứu lịch sử đảng bằng nguồn tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
93 3.2.4. Hoàn thiện một số khâu nghiệp vụ trong công tác tổ chức khoa học tài liệu
3.2.5. Tăng cường các hình thức công bố, khai thác sử dụng tài liệu 96
3.3. Kiến nghị 98
Kết luận 102
Tài liệu tham khảo 104
Phụ lục 111
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ khi Ban Bí thư ban hành Quyết định số 20-QĐ/TW ngày 23/9/1987, Quy
định số 210-QĐ/TW ngày 06/03/2009 và Quy định số 270-QĐ/TW ngày 06 tháng 12
năm 2014 về Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung ương Đảng luôn nhấn
mạnh và giao nhiệm vụ cho cơ quan quản lý Kho Lưu trữ Trung ương (Lưu trữ lịch sử
của Trung ương Đảng) nhiệm vụ bảo quản tài liệu của các tổ chức tiền thân của Đảng,
các tổ chức tiền thân của các tổ chức chính trị - xã hội; tài liệu của các kỳ ĐHĐBTQ
của Đảng và Đại hội đại biểu của Đảng bộ các cấp, tài liệu của các cấp uỷ, cơ quan, tổ
chức đảng, của Đảng Cộng sản Việt Nam (trước kia là Đảng Lao động Việt Nam;
Đảng Cộng sản Đông Dương); tài liệu của Ban Chấp hành Trung ương; tài liệu của
Trung ương Cục miền Nam, các xứ uỷ, khu uỷ, liên khu uỷ; tài liệu của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng…. Đây đều là những tài liệu có tầm quan trọng đặc
biệt, là bằng chứng lịch sử, là căn cứ để tổng kết lý luận và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, đồng thời còn là di sản văn hoá vô cùng quý báu của Đảng, của dân tộc ta. Trong
các khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương phải kể đến đó
là khối tài liệu của các phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đây là một cơ quan đặc biệt, một hình thức tổ chức đặc biệt của tổ chức
chính trị.
Tài liệu các phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ năm 1986
đến nay (sau đây gọi tắt là các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng) là toàn bộ tài liệu
sản sinh ra trong quá trình tổ chức và hoạt động của từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng, bao
gồm: tài liệu về chuẩn bị tổ chức Đại hội như chuẩn bị nhân sự, văn kiện; thư điện đối
ngoại về Đại hội; tài liệu về diễn biến Đại hội và toàn bộ đơn, thư, ý kiến góp ý của
các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong và ngoài nước góp ý về các nội
dung của Đại hội; tài liệu về phục vụ các mặt hoạt động khác của Đại hội.
Toàn bộ khối tài liệu này là bản chính, bản gốc, có độ chính xác và tin cậy cao
được sản sinh đồng thời trong qúa trình hoạt động và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng ta. Các văn kiện Đại hội đều đã được xuất bản công khai và phổ biến tới toàn thể
nhân dân. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ
4
chính các văn kiện này. Tuy nhiên, quá trình xây dựng văn kiện đã hình thành rất
nhiều bản dự thảo có giá trị, những bản dự thảo này đều có bút tích sửa trực tiếp của
các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí là Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ
viên Trung ương, những ý kiến đóng góp của nhân dân vào văn kiện… khối tài liệu
này không phải ai cũng biết và không phải ai cũng có thể tiếp cận được. Hiện toàn bộ
tài liệu từ bản dự thảo các văn kiện, các bản góp ý sửa trực tiếp của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, của đông đảo quần chúng nhân dân đến các bản chính, bản gốc
đều đã được thu thập, được chỉnh lý hoàn chỉnh và được bảo quản tại Kho Lưu trữ
Trung ương.
Có thể nói, tài liệu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986
đến nay là nguồn sử liệu quý để nghiên cứu lịch sử của Đảng ta, nghiên cứu sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng qua các kỳ Đại hội.
Tuy nhiên, qua khảo sát ban đầu, chúng tôi nhận thấy cho đến nay số lượng các
hồ sơ, tài liệu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng được sử dụng như một
nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử Đảng từ năm 1986 đến nay chưa nhiều, chưa
tương xứng với tiềm năng thông tin mà tài liệu trong phông phản ánh. Bởi lẽ khi
chúng ta nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua chính tài liệu lưu trữ - khối
tài liệu có giá trị xác thực nhất, có độ tin cậy cao nhất về lịch sử Đảng từ trước đến nay
nói chung và giai đoạn 1986 đến nay nói riêng sẽ thể hiện được đầy đủ nhất, chân thực
nhất, có độ tin cậy cao nhất về lịch sử của Đảng ta. Đây là hạn chế rất đáng tiếc, làm
lãng phí những thông tin quý giá được phản ánh trong các tài liệu lưu trữ.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tài liệu các phông lưu
trữ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng – Nguồn sử liệu nghiên cứu lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam (giai đoạn từ 1986 đến nay)” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Giới thiệu khái quát quá trình hình thành, hoạt động của các kỳ ĐHĐBTQ của
Đảng và khối lượng, thành phần nội dung, đặc điểm của khối tài liệu này.
- Phân tích làm rõ những giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ
của Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là lịch sử các
kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức tốt và đẩy mạnh phát huy giá trị của
khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng tại Kho Lưu trữ Trung ương phục
vụ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới.
5
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các tài liệu giấy hình thành trong quá trình hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến nay
hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương, cụ thể là các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ lần thứ VI, ĐHĐBTQ lần thứ VII, ĐHĐBTQ lần thứ VIII, ĐHĐBTQ lần
thứ IX, ĐHĐBTQ lần thứ X, ĐHĐBTQ lần thứ XI.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi thời gian: Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tài liệu các phông lưu
trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sở dĩ chúng tôi chọn mốc bắt đầu từ năm 1986 vì năm này Đảng ta tổ
chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Đây là Đại hội đặt nền móng
cho công cuộc đổi mới của nước ta. Chúng tôi lấy năm 2011 là mốc kết thúc vì năm
2011 Đảng ta tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Từ năm 1986 đến năm
2011, công cuộc “Đổi mới” của đất nước diễn ra được 25 năm. Công cuộc “Đổi mới”
đã đưa nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Và sau 25 năm “Đổi mới”, đất nước ta đạt được những kết
quả đáng ghi nhận, nước ta dần tiến kịp với các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự thay đổi trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
ta. Cùng với sự “Đổi mới” của đất nước thì Đảng ta “Đổi mới” về tư duy, đổi mới về
phương thức lãnh đạo…
- Về phạm vi nội dung vấn đề nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát toàn bộ mục lục
hồ sơ của các phông ĐHĐBTQ của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XI cũng như tiếp
cận trực tiếp tài liệu lưu trữ, chúng tôi nhận thấy tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ
của Đảng phản ánh toàn bộ quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả từng kỳ ĐHĐBTQ
của Đảng. Đại hội tiến hành tổng kết đánh giá kết quả cũng như hạn chế của quá trình
hoạt động trong nhiệm kỳ qua, đồng thời đưa ra mục tiêu và định hướng đường lối
lãnh đạo đất nước trong nhiệm kỳ tới, quyết định cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai
kỳ Đại hội, đó chính là BCHTW. Giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 thể hiện ở chỗ: là căn cứ để nghiên
cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
Tiếp đó là căn cứ để nghiên cứu đường lối, chính sách do cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ
6
Đại hội quyết định trong giai đoạn lịch sử của đất nước ta từ năm 1986 đến năm 2011.
Đồng thời đây là nguồn sử liệu nghiên cứu đường lối đối nội, đối ngoại; nghiên cứu
công tác xây dựng Đảng; nghiên cứu quá trình đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến
năm 2011 dưới sự lãnh đạo của Đảng mà ĐHĐBTQ của Đảng là cơ quan vạch ra và
thông qua chủ trương, đường lối đó, nghiên cứu quá trình chuẩn bị nhân sự BCHTW
khoá tới... Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu và
làm sáng tỏ một số giá trị như: phản ánh sự kiên định của Đảng ta về mục tiêu xây
dựng CNXH và quá trình nhận thức của Đảng về con đường đi lên CNCH ở nước ta;
phản ánh quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện trình Đại hội, phản ánh sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng trên một số lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối
ngoại, phản ánh quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Khảo sát tình hình hồ sơ, tài liệu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
giai đoạn từ 1986 đến năm 2011.
- Tìm hiểu giá trị tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ 1986 đến
năm 2011 dưới góc độ là nguồn sử liệu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng tổ chức khoa học và khai thác sử dụng tài liệu vào các
mục đích nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức khoa học và sử dụng hiệu
quả tài liệu lưu trữ thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng giai đoạn từ 1986 đến
năm 2011.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến nội dung này, tác giả đã tìm hiểu một số nghiên cứu sau:
+ Các luận án, luận văn, khóa luận nghiên cứu, tiếp cận giá trị của tài liệu
lưu trữ từ phương diện sử liệu học đã bảo vệ thành công của sinh viên, học viên
Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng như:
- Luận án tiến sĩ: Xác định giá trị sử liệu của tài liệu phông Lưu trữ Đảng Cộng
sản Việt Nam của tác giả Nguyễn Lệ Nhung năm 1999. Luận án giới thiệu tầm quan
trọng, mục tiêu xác định giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam; cơ
sở, phương pháp luận, tiêu chuẩn của việc lựa chọn tài liệu và đưa ra nhiệm vụ nghiên
cứu lịch sử Đảng dưới góc độ sử liệu học; vấn đề xây dựng các nguồn sử liệu hiện nay.
7
- Luận văn thạc sĩ: Tài liệu phông lưu trữ Quốc hội (giai đoạn 1976 - 1992) -
nguồn sử liệu giá trị cần được công bố, giới thiệu phục vụ nghiên cứu lịch sử của tác
giả Đào Đức Thuận năm 2008. Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá giá trị sử liệu
của tài liệu phông lưu trữ Quốc hội (giai đoạn 1976 - 1992) và đề xuất một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh việc công bố, giới thiệu các tài liệu đó.
- Luận văn thạc sĩ: Phông lưu trữ Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ -
một nguồn sử liệu về Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) của tác giả
Lê Tuyết Mai. Nội dung luận văn nghiên cứu giá trị sử liệu của tài liệu thuộc phông
lưu trữ Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ về Nam Bộ thời kháng chiến chống
Pháp và công tác tổ chức khoa học, khai thác, sử dụng tài liệu phông lưu trữ Ủy ban
kháng chiến hành chính Nam Bộ.
- Luận văn thạc sĩ: Phông Lưu trữ Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Nguồn
sử liệu nghiên cứu về công cuộc đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến năm 2006 của tác
giả Nguyễn Thị Huyền năm 2015. Luận văn này tập trung nghiên cứu giá trị sử liệu
của tài liệu thuộc phân phông Ban Chấp hành Trung ương có phản ánh về công cuộc
đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến năm 2006. Tuy trong Luận văn không trực tiếp đề
cập đến các tài liệu thuộc các phông Đại hội, nhưng để BCHTW đưa ra được những
Nghị quyết, chỉ thị, thông tư, thông tri để lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đổi mới của
Đảng trên các lĩnh vực thì phải có sự chỉ đạo xuyên suốt, sự định hướng chính về chủ
trương từ các ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc. Chính vì vậy, luận văn này có mối liên
hệ chặt chẽ với đề tài mà chúng tôi nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo một Luận văn khác mặc dù không tiếp cận
giá trị của tài liệu dưới góc độ sử liệu nhưng có liên quan trực tiếp đến các phông tài
liệu mà chúng tôi đang nghiên cứu. Đó là Luận văn: "Nghiên cứu đề xuất một số giải
pháp phát huy giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Hạnh năm 2015. Luận văn này tập trung nghiên cứu về một số giải pháp
nhằm phát huy giá trị tài liệu của tất cả các phông lưu trữ thuộc Phông Lưu trữ Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, trong
đó có tài liệu các phông Lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng mà tác giả đang nghiên cứu. Do
đó, trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi có tham khảo Luận văn và có sự kế
thừa một số giải pháp phát huy giá trị phù hợp với nội dung của đề tài.
8
+ Một số sách viết về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước
- Cuốn: Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn
do GS.TS Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), xuất bản năm 2006: Cuốn sách này là phần
cốt lõi trong Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học:
“Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Mã số:
ĐTĐL-2003/18) là đề tài độc lập cấp nhà nước do GS.TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ
nhiệm đề tài. Cuốn sách viết và phân tích khá rõ về đường lối, chủ trương của Đảng ta
về vấn đề đổi mới của nước ta cũng như một số thành tựu mà chúng ta đạt được từ
năm 1986 đến năm 2006.
- Cuốn: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
đất nước do Tạp chí Lịch sử Đảng phối hợp với Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất
bản năm 2008: Cuốn sách bao gồm những chuyên luận, bài viết của nhiều tác giả là
những nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học…Với nội dung nhằm giới thiệu về quá
trình Đảng hoạch định đường lối đổi mới toàn diện và quá trình Đảng lãnh đạo việc tổ
chức thực hiện thành công đường lối đó trong thực tiễn qua 20 năm đổi mới.
- Cuốn: Việt Nam 25 năm trên đường đổi mới 1986 – 2011 qua tài liệu lưu trữ
do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III – Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước biên soạn và
được xuất bản năm 2012: Cuốn sách giới thiệu những hình ảnh và tài liệu về thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011 được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
- Cuốn: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 – 2016) của Ban Chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn 30 năm đổi
mới của Đảng, xuất bản năm 2015. Cuốn sách tổng kết lý luận và thực tiễn 10 vấn đề
lớn về kinh tế, văn hoá – xã hội, quốc phòng – an ninh – đối ngoại, hệ thống chính trị,
xây dựng đảng và tám mối quan hệ lớn sau 30 năm đổi mới.
Từ những kết quả nghiên cứu trên có thể thấy, đối với tài liệu thuộc các phông
lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng cho đến nay rất ít tác giả nghiên cứu dưới góc độ sử liệu
để phục vụ cho nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, đề tài: “Tài liệu
các phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng – Nguồn sử liệu nghiên cứu
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (giai đoạn từ 1986 đến nay)” không trùng lặp với
các công trình nghiên cứu của các tác giả trước đây. Nhưng trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi có sự kế thừa và tham khảo kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đó.
9
5. Nguồn tư liệu tham khảo
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số nguồn tư liệu tham khảo sau:
- Các cuốn sách, giáo trình mang tính lý luận chung về công tác văn thư, lưu trữ
và các xuất bản phẩm như: Giáo trình: Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ của các
tác giả Đào Xuân Chúc - Nguyễn Văn Hàm - Vương Đình Quyền - Nguyễn Văn
Thâm; một số cuốn sách như cuốn: Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn đề
lý luận và thực tiễn do GS.TS Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), xuất bản năm 2006,
cuốn: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
do Tạp chí Lịch sử Đảng phối hợp với Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản năm
2008; Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 –
2016) của Ban Chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn 30 năm đổi mới của
Đảng, xuất bản năm 2015…
- Các văn bản của Đảng, Nhà nước về tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ như:
Luật Lưu trữ năm 2011; các Quyết định số 20-QĐ/TW ngày 23-9-1987, Quy định số
210-QĐ/TW ngày 06/3/2009, Quy định số 270-QĐ/TW ngày 06/12/2014 của Ban Bí
thư TW về phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam...
- Nguồn tài liệu quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong luận văn là tài
liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng (từ Đại hội VI đến Đại hội XI).
- Các công trình nghiên cứu như các luận án, luận văn thạc sĩ liên quan đến đề
tài nghiên cứu (như đã nêu ở phần lịch sử nghiên cứu vấn đề).
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin: Chúng tôi sử dụng phương pháp
này để có cái nhìn biện chứng về tài liệu lưu trữ và tài liệu lưu trữ các phông
ĐHĐBTQ của Đảng tại Kho Lưu trữ Trung ương.
- Phương pháp hệ thống: được chúng tôi vận dụng khi hệ thống các vấn đề
nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp phân tích: được chúng tôi vận dụng khi sử dụng để phân tích các
vấn đề, sự kiện mà hồ sơ, tài liệu phản ánh và phân tích giá trị của tài liệu, chất lượng
của các hồ sơ, tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp: được chúng tôi vận dụng khi tổng hợp thông tin có
trong hồ sơ, tài liệu thành các vấn đề theo hệ thống.
10
- Phương pháp sử liệu học: được chúng tôi vận dụng khi chúng tôi xem xét, xác
định giá trị, độ tin cậy của tài liệu trong phông.
- Phương pháp suy luận logic: được chúng tôi sử dụng để suy luận các vấn đề
có cùng logic.
- Phương pháp khảo sát thực tế: được chúng tôi sử dụng khi khảo sát thực tế
tình hình hồ sơ, tài liệu thuộc các phông trên.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: được chúng tôi sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa nội dung của văn kiện Đại hội từ năm 1986 đến năm 2011 khi xuất bản thành sách với các tài liệu văn kiện gốc hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương.
7. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và một số phụ lục kèm theo, luận văn bao
gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1. Tổng quan về các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
Trong chương này, chúng tôi trình bày đôi nét về các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng. Tiếp đó, chúng tôi đưa ra những kết quả khảo sát, đánh giá ban đầu về thành phần, nội dung và đặc điểm của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng. Trên cơ sở đó thấy được tài liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng được đánh giá về giá trị sử liệu phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi có cơ sở để đề xuất những giải pháp chủ yếu ở chương III.
Chương 2. Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến
năm 2011 - Nguồn sử liệu phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đây là chương chính của luận văn, ở chương này chúng tôi tập trung phân tích những giá trị về mặt sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng trên các khía cạnh như: sự kiên định của Đảng ta về mục tiêu xây dựng CNXH và quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng CNXH, nghiên cứu quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện trình ĐHĐBTQ của Đảng; nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên một số lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng, đối ngoại; nghiên cứu quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả từng kỳ Đại hội. Đóng góp chính của chương này là giới thiệu được cho những nhà nghiên cứu lịch sử những thông tin giá trị về một bộ phận tài liệu của các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng, một trong những nguồn sử liệu rất có giá trị để phục vụ nghiên cứu lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.
11
Chương 3. Tình hình tổ chức khoa học, khai thác sử dụng tài liệu các
phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng phục vụ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam và một số kiến nghị, giải pháp
Ở chương này, chúng tôi đưa ra tình hình tổ chức khoa học và tổ chức khai
thác, sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội
XI trong thời gian qua. Từ đó chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn
nữa hoạt động công bố, giới thiệu tài liệu trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu về
thông tin tài liệu lưu trữ cho các nhà nghiên cứu lịch sử và cho chính hoạt động Đảng
ta. Kết quả của hoạt động công bố, giới thiệu tài liệu sẽ có nhiều tác động tích cực tới
hoạt động nghiên cứu lịch sử của những người quan tâm đến khối tài liệu này.
***
*
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các
thầy, cô giáo và các đồng nghiệp để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện luận văn.
Nhân đây, cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Lệ
Nhung – người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này và trân
trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình truyền đạt cho tôi những kiến thức
quan trọng trong suốt khóa học cao học Lưu trữ 2013 – 2015. Đồng thời, tôi cũng chân
thành cảm ơn các cô, các chú, các anh chị đồng nghiệp tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn này.
Hà Nội, ngày 08 tháng 6 năm 2016
Học viên
Nguyễn Thị Hồng
12
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC PHÔNG LƯU TRỮ ĐHĐBTQ CỦA ĐẢNG
1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phông lưu trữ và phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về phông lưu trữ
* Lý thuyết về phông lưu trữ và phông lưu trữ cơ quan
Theo Luật Lưu trữ năm 2011, Phông lưu trữ “là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình
thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc của cá nhân” [43a, tr.2].
Trong cuốn “Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ” của nhóm tác giả Đào Xuân
Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm đưa ra khái niệm về
phông lưu trữ, phông lưu trữ cơ quan và điều kiện thành lập phông như sau:
- Phông lưu trữ “là toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của
một cơ quan hoặc cá nhân có ý nghĩa chính trị, khoa học, lịch sử và các ý nghĩa khác
được đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ nhất định” [43a, tr.53].
- Phông lưu trữ cơ quan “là toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình hoạt
động của một cơ quan có ý nghĩa chính trị, khoa học, lịch sử và các ý nghĩa khác được
đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ nhất định” [43a, tr.55]
- Điều kiện thành lập phông lưu trữ cơ quan: gồm 3 điều kiện:
+ Đơn vị hình thành phông phải là một cơ quan hoạt động độc lập, tức phải đảm
bảo 4 yếu tố: Có văn bản pháp quy về thành lập cơ quan, quy định cụ thể về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đó; có tổ chức biên chế riêng; có ngân sách
độc lập; có văn thư và sử dụng con dấu riêng.
+ Tài liệu của cơ quan đó phải có giá trị, cần bổ sung vào thành phần Phông lưu
trữ Quốc gia Việt Nam.
+ Tài liệu phải hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh [43a, tr.55, 56]
* Phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là khối tài liệu rất quan trọng
của Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, Phông Lưu trữ Quốc gia Việt
Nam nói chung. Khối tài liệu này phản ánh toàn diện, chính xác các hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng trong từng kỳ Đại hội.
Về lý thuyết, tài liệu Đại hội Đại biểu toàn quốc có đủ điều kiện thành lập một
phông lưu trữ độc lập, tuy nhiên trên thực tế để tiện lợi cho công tác quản lý, hiện nay
13
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương thành lập mỗi kỳ Đại hội Đảng là một phông lưu
trữ vì những lý do sau:
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định Đại hội đại biểu toàn quốc là “Cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đảng” [8, tr.15], chức năng, nhiệm vụ của Đại hội là
“Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua; quyết định đường lối,
chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bầu BCHTW; bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính
trị và Điều lệ Đảng khi cần” [8, tr.24]. Mỗi kỳ Đại hội đều có quyết định triệu tập Đại
hội; về tổ chức, để chuẩn bị và tổ chức tốt Đại hội, BCHTW có quyết định thành lập
các tiểu ban chuẩn bị Đại hội, Đại hội bầu Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký.
- Mỗi kỳ Đại hội Đảng đều có văn thư độc lập. Văn phòng Trung ương là đơn
vị được phân công phụ trách công tác văn thư phục vụ Đại hội. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ này, Văn phòng TW đã đã ban hành quy định về công tác văn thư phục vụ Đại hội.
Theo đó, cán bộ văn thư phục vụ Đại hội có nhiệm vụ tiếp nhận, chuyển giao văn bản;
soạn thảo, đánh máy và đọc soát văn bản; quản lý sử dụng con dấu của Đại hội (bao
gồm dấu của Đại hội, Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký); trực điện thoại và ghi chép thông
tin qua điện thoại; thu thập tài liệu, văn kiện và lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ sau khi Đại
hội kết thúc [67a, tr.16 – 22]. Bộ phận văn thư phục vụ Đại hội là cán bộ, nhân viên
của Văn phòng Trung ương, có tăng cường thêm cán bộ, nhân viên của các cơ quan
khác trực tiếp tham gia. Bộ phận này sẽ tự giải thể sau khi Đại hội kết thúc.
Mỗi kỳ Đại hội đều có con dấu riêng.
Mẫu dấu
- Về kinh phí: Đại hội được cấp một khoản kinh phí riêng.
- Tài liệu của Đại hội Đảng toàn quốc là thành phần tài liệu quan trọng của phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam
nói chung [37, tr. 8].
Do ĐHĐBTQ của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt và để tạo thuận lợi trong công tác quản lý tập trung thống nhất, đảm bảo tài liệu được thu thập đầy đủ, tránh thất lạc tài liệu, bắt đầu từ ĐHĐBTQ của Đảng lần thứ VII trở đi, trước khi diễn ra Đại hội,
14
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều ban hành Quyết định về việc thành lập phông Lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng cho kỳ Đại hội đó. Cụ thể: Đại hội VII: Quyết định số 124- QĐ/TW ngày 23/03/1991 của Ban Bí thư; Đại hội VIII: Quyết định số 104-QĐ/TW ngày 22/01/1996; Đại hội IX: Quyết định số 82-QĐ/TW ngày 26/10/2000 của Bộ Chính trị; Đại hội X: Quyết định số 143-QĐ/TW ngày 25/05/2005 của Ban Bí thư; Đại hội XI: Quyết định số 271-QĐ/TW ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Ban Bí thư).
Ngoài ra, trong Luận văn chúng tôi sử dụng thuật ngữ “các cơ quan của các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng” để chỉ các tiểu ban phục vụ Đại hội và Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Ban Thẩm tra tư cách đại biểu, đây đều là những cơ quan tham mưu, giúp việc cho Đại hội. Thuật ngữ “cơ quan” ở đây là do trong văn bản sử dụng, cụ thể: trong Quy chế làm việc của Đại hội có ghi: Đoàn Chủ tịch Đại hội là cơ quan điều hành công việc của Đại hội; Đoàn Thư ký là cơ quan giúp việc của Đại hội; Ban Thẩm tra tư cách đại biểu là cơ quan giúp việc của Đại hội; Ban Kiểm phiếu là cơ quan giúp việc bầu cử của Đại hội [34a, tr. 10, 11].
Các cơ quan trên được thành lập nhằm giúp việc chuẩn bị mọi cơ sở vật chất, nhân sự cho Đại hội, giúp điều hành các công việc khi Đại hội diễn ra và giúp hoàn thiện các công việc sau khi Đại hội kết thúc. Các cơ quan này đều có bộ phận giúp việc, kinh phí hoạt động được trích từ nguồn kinh phí Đại hội, văn thư là cán bộ kiêm nhiệm và từ Đại hội VII trở đi, Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký có con dấu riêng. Tuy nhiên do không có bộ phận văn thư độc lập, không có con dấu riêng (trừ Đoàn Chủ tịch và Đoàn Thư ký Đại hội), số lượng tài liệu không nhiều nên các các cơ quan này không đủ điều kiện thành lập một phông lưu trữ riêng mà tài liệu sẽ thuộc phông lưu trữ Đại hội.
1.1.2. Lịch sử các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
1.1.2.1. Giới hạn thời gian và tài liệu trong từng phông
Từ năm 1986 đến năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức 6 kỳ Đại hội và
mỗi kỳ Đại hội được lập thành một phông riêng. Tên gọi cụ thể của từng phông như sau:
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (07/12/1986 -
18/12/1986).
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (17/06/1991 -
27/06 /1991).
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (22/06/1996 -
01/07/1996).
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (12/04/2001 -
22/4/2001).
15
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (17/04/2006 -
25/04/2006).
- Phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (11/01/2011 -
19/01/2011).
+ Thời gian diễn ra Đại hội
Thời gian diễn ra từng kỳ Đại hội được xác định từ ngày bắt đầu đến ngày kết thúc Đại hội, chẳng hạn Đại hội VI, Đại hội nội bộ diễn ra từ ngày 07 – 13/12/1986 và Đại hội chính thức diễn ra từ ngày 15 – 18/12/1986. Như vậy, thời gian diễn ra Đại hội VI được tính từ ngày 07/12/1986 đến ngày 18/12/1986. Hay như Đại hội XI bắt đầu họp phiên trù bị vào ngày 11/01/2011, khai mạc chính thức vào ngày 12/01/2011 và ngày bế mạc Đại hội là ngày 19/01/2011. Như vậy, thời gian diễn ra Đại hội XI được tính từ ngày 11/01/2011 đến ngày 19/01/2011.
+ Về thời gian của tài liệu trong phông:
Trước khi tổ chức Đại hội, các cơ quan có sự chuẩn bị về văn kiện, chuẩn bị
nhân sự, cơ sở vật chất phục vụ Đại hội. Vì vậy, BCHTW đã quyết định thành lập các
Tiểu ban giúp việc cho Đại hội như: Tiểu ban văn kiện, Tiểu ban nhân sự, Tiểu ban tổ
chức phục vụ Đại hội, Tiểu ban sửa đổi Điều lệ Đảng… Do vậy, toàn bộ tài liệu hình
thành trong quá trình hoạt động của các Tiểu ban, Ban chỉ đạo từ khi thành lập đến khi
Đại hội bế mạc được xác định thuộc Phông Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Riêng Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội, do chức năng nhiệm vụ được phân công và
tính chất công việc nên thời gian hoạt động kết thúc muộn hơn, tức là sau khi Đại hội
đã bế mạc thì Tiểu ban này vẫn còn hoạt động để hoàn tất một số công việc liên quan
đến Đại hội. Vì vậy, thời gian bắt đầu của một Phông lưu trữ Đại hội thường có sớm
hơn và thời gian kết thúc của một phông Đại hội thường muộn hơn so với thời gian
diễn ra Đại hội.
Ví dụ: Qua khảo sát thực tế tài liệu thuộc Phông Đại hội VI, ngày 17/12/1985,
BCHTW khoá V họp Hội nghị Trung ương lần thứ 9 quyết định triệu tập Đại hội VI
và ngày 15/5/1987 là ngày Ban Tài chính – Quản trị Trung ương báo cáo tổng quyết
toán chi Đại hội. Như vậy, Phông lưu trữ Đại hội VI, thời gian tài liệu có sớm nhất là
ngày 17/12/1985 và thời gian tài liệu có muộn nhất là ngày 15/5/1987.
Hay như phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, đơn vị được thành lập
sớm nhất là Tiểu ban Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, bổ sung và
phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới (Quyết định số 133-
16
QĐ/TW ngày 04/02/2008) và đơn vị kết thúc hoạt động muộn nhất là tài liệu thuộc
Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội (kết thúc ngày 27/05/2011) [38, tr.23]. Như vậy
Phông Lưu trữ Đại hội XI (11/01/2011 – 19/01/2011), thời gian tài liệu sớm nhất là
ngày 04/02/2008 (ngày thành lập Tiểu ban Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm
1991, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, thời gian
tài liệu muộn nhất là ngày 27-5-2011 (ngày kết thúc hoạt động của Tiểu ban Tổ chức
phục vụ Đại hội).
Từ Đại hội IX trở về trước, thời gian của Đại hội bao gồm thời gian diễn ra Đại
hội nội bộ và thời gian của Đại hội công khai. Trong Đại hội nội bộ, gần như tất cả các
vấn đề chính của Đại hội đã được quyết định từ việc góp ý các văn kiện Đại hội, việc
dự kiến cơ cấu, số lượng ủy viên TW, các chức danh chủ chốt của đất nước và quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn sắp tới…Còn Đại hội công khai gần như chỉ công bố chính thức kết quả của Đại
hội nội bộ. Có sự khác nhau như vậy bởi Đại hội công khai có các khách quốc tế đến
dự và có các phóng viên báo chí ở trong và ngoài nước đến đưa tin, ghi hình. Vì tại
Đại hội thảo luận rất nhiều vấn đề quan trọng của đất nước nên cần phải được giữ bí
mật. Đây chính là nguyên nhân của việc Đảng ta tổ chức Đại hội nội bộ và Đại hội
công khai. Còn từ Đại hội X đến nay, thời gian diễn ra Đại hội liên tục từ ngày khai
mạc đến ngày kết thúc Đại hội. Ví dụ, ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc lần thứ X bắt
đầu họp phiên trù bị vào ngày 17-4-2006, khai mạc chính thức vào ngày 18-4-2006 và
ngày bế mạc Đại hội là ngày 25-4-2006.
1.1.2.2. Mức độ hoàn chỉnh của phông
Qua khảo sát chúng tôi thấy về cơ bản tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của
Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XI là tương đối đầy đủ. Gần như tất cả các tài liệu
hình thành từ giai đoạn chuẩn bị, diễn biến và cả sau khi Đại hội kết thúc đều được thu
thập đầy đủ.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số tình trạng sau:
- Một số ít tài liệu do xác định ranh giới tài liệu giữa các phông chưa rõ ràng
nên tài liệu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng còn ở một số phông khác
trong Kho Lưu trữ Trung ương.
Ví dụ: Khối tài liệu Đại hội VI hiện còn thiếu khối tài liệu dự thảo sửa đổi Điều
lệ Đảng (vì tiểu ban dự thảo sửa đổi Điều lệ Đảng không thành lập, công việc này giao
17
cho Vụ Điều lệ của Ban Tổ chức TW soạn thảo nên khối tài liệu này đang nằm ở Ban
Tổ chức TW; thiếu khối tài liệu của Tiểu ban tổ chức và nhân sự về phần tài liệu chuẩn
bị nhân sự Đại hội hiện đang nằm ở Phông đồng chí Lê Đức Thọ do đồng chí Thọ hồi
đó là Trưởng Ban tổ chức TW, đồng thời là Trưởng Tiểu ban Tổ chức và nhân sự Đại
hội VI; thiếu khối tài liệu tuyên truyền Đại hội hiện đang nằm ở Báo Nhân dân.
Hay như tài liệu của phông Đại hội VII còn thiếu một số tài liệu thuộc giai đoạn
đầu chuẩn bị nội dung văn kiện Đại hội như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH được xây dựng qua 16 lần dự thảo để xin ý kiến và chỉnh sửa
nhưng tài liệu chỉ thu được của 8 lần dự thảo còn tài liệu của 8 lần dự thảo khác không
thu được.
- Một số ít tài liệu khác do trong quá trình hoạt động của tiểu ban có một số
hoạt động không được văn bản hóa nên không hình thành tài liệu.
Ví dụ, trong quá trình hoạt động, các tiểu ban họp để bàn từ việc phân công
công việc, giao viết từng phần dự thảo các văn kiện… từ những hoạt động này chắc
chắn sẽ hình thành tài liệu như biên bản họp, kết luận các cuộc họp, chương trình hoạt
động… Tuy nhiên, theo như khảo sát của chúng tôi thì trong Phông Đại hội VII và
Phông Đại hội X còn thiếu nhóm tài liệu này.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu tài liệu trên theo chúng tôi là do cán bộ đi thu
tài liệu xác định ranh giới nội dung, thành phần tài liệu giữa các phông chưa chính xác
(như ở phông Đại hội VI), mặt khác trong quá trình hoạt động của các Tiểu ban, một
số nội dung không được văn bản hóa do các Tiểu ban, Tổ biên tập chưa thực sự chú ý
trong việc ghi biên bản cũng như hoàn chỉnh các Biên bản sau khi cuộc họp kết thúc
nên không có tài liệu (như ở phông Đại hội VII, Đại hội X).
Tóm lại: Do nhận được sự quan tâm đặc biệt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngay
từ đầu, tiếp đó là có sự chuẩn bị chu đáo về công tác thu thập tài liệu, từ khâu xây
dựng kế hoạch đến kiểm tra hướng dẫn nên công tác thu thập tài liệu đạt kết quả tốt.
Hầu hết các tiểu ban, cơ quan đã chú ý trong việc tập trung tài liệu và phối hợp tốt với
Văn phòng Trung ương trong việc giao nộp tài liệu về Kho Lưu trữ Trung ương. So
với tài liệu các phông Đại hội trước đó (từ Đại hội I đến Đại hội V) thì tài liệu các
Phông Đại hội từ Đại hội VI đến Đại hội XI nhiều hơn về số lượng, đầy đủ về thành
phần tài liệu, một số nhóm tài liệu thu triệt để hơn (như khối hồ sơ nhân sự tham gia
ứng cử BCHTW các khóa (gồm cả chính thức và dự khuyết), hồ sơ về việc bầu đại
biểu đi dự đại hội của các đảng bộ trực thuộc Trung ương).
18
1.1.2.3. Về khối lượng tài liệu:
Sau khi các kỳ Đại hội Đảng kết thúc, toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình
chuẩn bị, diễn biến và kết thúc Đại hội đều được cán bộ của Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương tiến hành thu thập và chỉnh lý hoàn chỉnh.
Tính đến nay, tổng số các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ Đại hội VI
đến Đại hội XI có gần 80 mét giá tài liệu - với 2.322 hồ sơ/ĐVBQ.
1.1.2.4. Về thành phần và nội dung tài liệu
Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng bao gồm toàn bộ tài liệu phản
ánh trong quá trình chuẩn bị Đại hội, tiến hành Đại hội và tài liệu về tuyên truyền,
phục vụ Đại hội.
+ Tài liệu phản ánh trong quá trình chuẩn bị Đại hội
- Tài liệu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCHTW và các cơ quan về chỉ đạo
công việc chuẩn bị tiến hành Đại hội như Nghị quyết, chỉ thị, quyết định, tờ trình, báo
cáo, công văn…
- Tài liệu của các tiểu ban như Tiểu ban văn kiện, Tiểu ban nhân sự, Tiểu ban
phục vụ Đại hội… chuẩn bị văn kiện trình Đại hội, chuẩn bị nhân sự BCHTW khoá
sau, chuẩn bị về cơ sở vật chất, bố trí chỗ ăn, ở, đi lại cho đại biểu… bao gồm các tài
liệu như các bản dự thảo văn kiện, tờ trình, báo cáo tổng hợp ý kiến, tiếp thu, giải trình
của Tiểu ban về các ý kiến góp ý vào dự thảo các văn kiện tại Đại hội, phương hướng,
tiêu chuẩn nhân sự, Hướng dẫn sinh hoạt của đại biểu …
- Các ý kiến đóng góp vào văn kiện trình Đại hội bao gồm: Ý kiến đóng góp
của các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên TW với Tiểu ban dự thảo Báo cáo
chính trị về đề cương, nội dung của báo cáo;
- Tài liệu của các ban ngành TW, đảng đoàn, đảng ủy, các hội quần chúng…
chủ yếu là báo cáo, kế hoạch, biên bản, tờ trình đóng góp vào dự thảo văn kiện, kế
hoạch nhiệm vụ của ngành mình để tiểu ban dự thảo báo cáo chính trị tham khảo;
- Tài liệu của các Hội nghị cán bộ, đại hội các Đảng bộ tỉnh, thành gửi đến báo
cáo tổng kết, phản ánh quá trình tiến hành đại hội các cấp góp ý kiến vào dự thảo văn
kiện của Đại hội,
- Tài liệu của các đảng phái trong nước, Việt kiều ở nước ngoài đóng góp ý kiến
vào dự thảo văn kiện Đại hội;
19
- Tài liệu của các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước đóng góp ý kiến vào
dự thảo Văn kiện Đại hội.
- Tài liệu phản ánh hoạt động nội bộ của Tiểu ban, Tổ biên tập: Quyết định, kế
hoạch, công văn của các Tiểu ban về phân công và phương pháp làm việc, về cử cán
bộ dự đại hội một số tỉnh, thành…
- Tài liệu về chuẩn bị nhân sự BCHTW các khoá: Phương hướng, quy trình, kế
hoạch triển khai, giới thiệu nhân sự BCHTW các khoá; báo cáo tổng hợp ý kiến về kết
quả giới thiệu nhân sự ứng cử, đề cử; hồ sơ các đồng chí đại biểu của Đại hội để bầu
Uỷ viên TW các khoá…
- Tài liệu về đại biểu, khách mời dự Đại hội và hoạt động của các đoàn đại biểu:
Tờ trình, quyết định, công văn của Bộ Chính trị, Ban Tổ chức TW về phân bổ số
lượng, định hướng cơ cấu đại biểu; hồ sơ các đoàn đại biểu dự Đại hội.
+ Tài liệu phản ánh quá trình tiến hành Đại hội:
- Kế hoạch điều hành từng phiên họp của Đại hội, Danh sách đại biểu, Chương
trình, Quy chế làm việc của Đại hội, hướng dẫn sinh hoạt của đại biểu; tài liệu của Ban
Thẩm tra tư cách đại biểu,
- Lời chào mừng, điện mừng của các nước,
- Dự thảo các văn kiện trình Đại hội, biên bản thảo luận của các đoàn đại biểu
về các văn kiện trình Đại hội.
- Tham luận của các đại biểu.
- Tài liệu phản ánh hoạt động của Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký.
- Tài liệu xung quanh vấn đề bầu cử nhân sự BCHTW các khoá: danh sách đề
cử, ứng cử, phiếu biểu quyết, biên bản kiểm phiếu, báo cáo, công văn của Đoàn Chủ
tịch, Đoàn Thư ký tổng hợp ý kiến thảo luận tại các đoàn về công tác nhân sự, tổng
hợp về việc ứng cử, đề cử và xin rút ứng cử, đề cử nhân sự tham gia BCHTW các khoá…
+ Tài liệu về công tác tuyên truyền, phục vụ Đại hội:
- Tài liệu của Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội như công văn, quyết định, tài
liệu trao đổi giữa tiểu ban với các ngành về chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất, y tế,
ăn ở, đi lại cho đại biểu; danh sách cán bộ và công nhân viên phục vụ và khen thưởng;
- Tài liệu về công tác văn thư, tuyên truyền Đại hội.
20
1.1.2.5. Về đặc điểm của tài liệu
Với mỗi tài liệu bất kỳ thường có đặc điểm về nội dung bên trong và hình thức
bên ngoài. Đặc điểm của tài liệu thể hiện tài liệu đó được sản sinh vào thời kỳ nào
thông qua văn phong, kỹ thuật chế tác, phương tiện mà nó truyền tải… tài liệu đó có
thể được viết trên giấy dó, giấy pơluya hay giấy trắng như hiện nay, tài liệu đó cũng có
thể được viết trên vỏ cây, lá cây hay được khắc trên đá, viết trên tường như thời xa
xưa… Thông qua đặc điểm của tài liệu, người nghiên cứu lịch sử sẽ biết được giá trị
nội dung thông tin và giá trị về hình thức bên ngoài của tài liệu đó đến đâu. Chẳng hạn
như, sau khi các văn kiện đã được thông qua tại các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng thì toàn
bộ các văn kiện này sẽ được xuất bản trên các ấn phẩm như: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc các kỳ Đại hội, Văn kiện Đảng toàn tập, các cuốn Tạp chí, các bài công bố,
trên internet… khi đó mọi người chỉ nhìn thấy thành phẩm là những dòng chữ đã được
đánh máy và được in sắc nét trên những trang giấy trắng hay những bản điện tử với
các kích cỡ đều nhau và với số lượng khác nhau, còn nguyên bản của nó thì rất ít
người được tiếp cận. Nếu như nghiên cứu những tài liệu này dưới góc độ giá trị thông
tin thì đây chính là những thông tin chính thống đã được cơ quan lãnh đạo cao nhất
của Đảng thông qua. Tuy nhiên nếu nghiên cứu những tài liệu này dưới góc độ tính
chân thực, độ chính xác của thông tin mà nó phản ánh, hay nghiên cứu về lịch sử quá
trình xây dựng và hoàn thiện những tài liệu này thì nó không thể hiện được vì những
điều này chỉ có ở trong những bản gốc, bản chính. Nhiều văn bản của Đại hội là dạng
bản thảo, không phải bản chính, bản gốc do đây là những bản dự thảo để trình Đại hội
cho ý kiến thảo luận và quyết định (ví dụ các văn kiện trình Đại hội, quy chế làm việc,
phương hướng nhân sự … những bản này chỉ có bút tích sửa trực tiếp, thường không
có dấu, chữ ký của người có thẩm quyền). Và chính những đặc điểm như khổ giấy,
chất liệu giấy, cỡ chữ, loại chữ (viết tay, đánh máy), bút tích sửa trực tiếp của người có
thẩm quyền, con dấu,… để đảm bảo những tài liệu này là bản gốc, bản chính, bản có
độ tin cậy cao nhất để nghiên cứu, chứng minh sự kiện lịch sử thì không phải ai cũng
được tiếp cận. Khối tài liệu này chính là các tài liệu lưu trữ hiện đang được bảo quản
tại Kho Lưu trữ Trung ương.
Về đặc điểm cụ thể của khối tài liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng từ năm
1986 đến năm 2011 như sau:
Trước hết tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng mang đầy đủ đặc
điểm của tài liệu lưu trữ nói chung đó là:
21
- Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng chứa đựng những thông tin về
quá khứ. Tài liệu được hình thành trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trong
hoàn cảnh lịch sử nhất định và là tấm gương phản chiếu các giai đoạn khác nhau, là
những chứng cứ lịch sử hùng hồn, chuẩn xác, phản ánh toàn diện và chân thực toàn bộ
công cuộc đổi mới của Đảng; là cơ sở, phương tiện và công cụ không gì thay thế được
để nhận thức lịch sử. Vì vậy, tài liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng có giá trị to lớn
và quan trọng về sử liệu khi nghiên cứu lịch sử của Đảng ta.
- Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là bản gốc, bản chính của các
văn bản, là những tài liệu chứa đựng thông tin cấp một, mang chứng cứ lịch sử có độ
chân thực và có giá trị pháp lý cao vì chúng chứa đựng nhiều bằng chứng thể hiện độ
chân thực như bút tích sửa trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chữ ký và
con dấu…
- Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là sản phẩm phản ánh trực tiếp
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với toàn xã hội Việt Nam, là những bằng
chứng lịch sử sinh động và đáng tin cậy nhất phản ánh hoạt động của Đảng ta. Nhờ có
những tài liệu này mà trong công tác nghiên cứu lịch sử Đảng, các nhà sử học có thể
nghiên cứu quá khứ một cách đúng đắn và khách quan hơn, loại trừ được những sai
lầm không đáng có trong việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng hoặc những nhân vật
lịch sử.
Thứ hai, tài liệu lưu trữ các phông ĐHĐBTQ của Đảng mang một số đặc điểm
riêng như sau:
- Về vật mang tin và kỹ thuật chế tác: Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của
Đảng được đánh máy trên giấy pơluya, in roneo, bản in tipô, viết tay, có một số ít tài
liệu (chủ yếu là khối tài liệu Phông Đại hội VI) được đánh máy trên giấy dó hoặc một
số loại giấy khác có màu nâu, màu xanh, màu hồng, màu vàng bởi đây là những tài
liệu được hình thành từ những năm 80 của thế kỷ XX. Bắt đầu từ Đại hội VII có thêm
tài liệu được chế bản điện tử và được in trên chất liệu giấy tốt, có thêm các bản
photocoppy, chữ rõ, dễ đọc, không có tài liệu rách nát, ố vàng. Riêng khối đơn thư,
hầu hết là tài liệu viết tay.
Đối với tài liệu là bản gốc thường có bút tích của các đồng chí lãnh đạo Đảng.
Có tài liệu cùng lúc có bút tích của nhiều đồng chí lãnh đạo, ví dụ như các bản góp ý
22
vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội, bút tích ấy có thể được viết bằng bút chì hoặc
bút mực và bằng nhiều màu chì, mực khác nhau.
- Về tình trạng vật lý: Tài liệu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng về
cơ bản chất lượng tương đối tốt. Sau khi kết thúc Đại hội, dưới sự chỉ đạo của các
đồng chí lãnh đạo, Cục Lưu trữ đã cử cán bộ đi thu thập toàn bộ tài liệu hình thành từ
quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết thúc Đại hội. Sau khi đã thu thập đầy đủ tài liệu,
Cục Lưu trữ tiếp tục chỉ đạo cho phòng chức năng tiến hành khảo sát và lên kế hoạch
chỉnh lý. Khi đã hoàn thiện về mặt nghiệp vụ, trước khi đưa tài liệu vào bảo quản cố
định trong Kho, tài liệu đã được khử trùng và vệ sinh sạch sẽ, được làm phẳng, tháo bỏ
ghim, kẹp để tránh làm hư hỏng tài liệu, sau đó cho vào cặp, hộp, đưa lên giá đựng tài
liệu và được bảo quản trong kho lưu trữ chuyên dụng, luôn đảm bảo môi trường ổn
định như nhiệt độ, độ ẩm, chế độ vệ sinh tài liệu.
- Về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản: Do thời gian diễn ra các kỳ Đại hội là
khác nhau, khoảng cách từ Đại hội VI đến Đại hội XI là 25 năm, 25 năm qua có sự
thay đổi về chất liệu in, thay đổi về ngôn ngữ, văn phong và cả thay đổi về thể thức và
kỹ thuật trình bày. Qua khảo sát có thể thấy các tài liệu cũng dần được hoàn thiện hơn
về thể thức và kỹ thuật trình bày.
Các tài liệu thuộc phông lưu trữ Đại hội VI: nhìn chung không có dấu và chữ
ký. Khối tài liệu trước Đại hội chủ yếu không có dấu, chữ ký, ngày tháng, số kí hiệu vì
khối tài liệu này nhiều bản dự thảo, thư gửi đến góp ý cho văn kiện Đại hội. Khối tài
liệu trong Đại hội có số văn bản, ngày tháng nhưng lại không có dấu và chữ ký vì khối
tài liệu này chủ yếu là các văn kiện trình Đại hội (bản in tipô và in roneo). Chỉ có một
số ít tài liệu của Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội, báo cáo của các cơ quan TW là có
đầy đủ thể thức văn bản.
Đến khối tài liệu phông Đại hội VII: Một số văn bản của Trung ương, tỉnh,
thành, huyện, quận ủy, cơ quan Đảng, nhà nước gửi đến có đầy đủ thể thức văn bản. Một số tài liệu Đại hội có dấu của Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Tiểu ban Tổ chức
phục vụ Đại hội. Đoàn Chủ tịch có dấu (hai loại dấu nổi và dấu ướt) và Đoàn thư ký có dấu riêng là một tiến bộ và tăng thêm giá trị pháp lý tin cậy của tài liệu. Tuy nhiên, vẫn
còn một số tài liệu không có dấu, chữ ký, hoặc chỉ có chữ ký.
Từ Đại hội VIII trở đi: Đối với nhóm tài liệu chính thức trình tại Đại hội nhìn
chung có thể thức tương đối hoàn chỉnh, thống nhất. Trước khi diễn ra Đại hội, Văn phòng Trung ương đã nghiên cứu và ban hành Hướng dẫn về thể thức tài liệu, văn kiện
Đại hội.
23
Qua khảo sát thực tế, hầu hết các tài liệu sản sinh trong quá trình diễn biến của
Đại hội đều có thể thức và đóng dấu Đại hội, dấu Đoàn Chủ tịch hoặc dấu Đoàn thư ký
theo đúng quy định. Các biên bản thảo luận tổ, thảo luận tại hội trường, nhật ký Đại
hội đều được đóng dấu giáp lai. Khối tài liệu dự thảo các văn kiện, do tính chất và quy
trình hình thành văn bản phải xin ý kiến nhiều lần, nhiều đối tượng nên việc xác định
rõ số lần dự thảo ngay trên văn bản vẫn chưa thực hiện được.
- Đối với nhóm tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các tiểu ban
Đại hội (trừ tiểu ban tổ chức và phục vụ đại hội) thể thức chưa được thống nhất như:
tên cơ quan ban hành sai với quy định; hầu hết văn bản không có số, ký hiệu; có
trường hợp sử dụng con dấu không đúng...
Ví dụ: tài liệu của Tiểu ban nhân sự, người ký là Trưởng Tiểu ban Nông Đức
Mạnh và đóng dấu treo Ban chấp hành Trung ương, hay như tài liệu của Tổ giúp việc
của Tiểu ban nhân sự thể thức đề ký không đúng với quy định…
1.2. Tổng quan về các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng
1.2.1. Khái quát về Đảng Cộng sản Việt Nam và các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng
Như chúng ta đã biết, vào tháng 02 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện lịch sử trọng đại, mở ra bước ngoặt căn
bản trong sự phát triển của dân tộc ta. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam
đã có một chính đảng mang bản chất cách mạng và khoa học, có đủ sức lãnh đạo nhân
dân giành quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền dân tộc
cơ bản khác để xây dựng và phát triển đất nước. Hội nghị hợp nhất này mang tầm vóc
lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã đề ra Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra đường lối giải
phóng dân tộc và đi theo con đường CNXH của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam);
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước; tiếp tục xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Sau khi bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH (bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam), cách mạng Việt Nam có những thuận
lợi, song cũng có không ít những khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất
24
nhỏ, năng suất lao động thấp và nhiều hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong
quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài tìm mọi cách
phá hoại, bao vây, cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trên thế giới,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp: CNXH
gặp những khó khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào. Trước tình hình đó, Đảng ta
tiếp tục lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành
tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về
mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn
trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn
sản xuất và đời sống nhân dân.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, ngoại giao… gần tiến kịp các nước phát triển trong Khu vực và trên thế giới. Điều này chứng tỏ công cuộc đổi mới của nước ta do Đảng lãnh đạo là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn nước ta.
Từ khi thành lập đến năm 2011, Đảng ta đã tổ chức 11 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đều để lại dấu ấn riêng và thể hiện được sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự định hướng đúng đắn của Đảng đối với đất nước.
Ở kỳ ĐHĐBTQ lần thứ I (03/1935). Đại hội đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân.
Ở kỳ ĐHĐBTQ lần thứ II (02/1951), Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong chiến tranh, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường cả nước trong chiến dịch Đông-Xuân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, đưa đến thắng lợi Hội nghị Geneve, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Ở kỳ ĐHĐBTQ lần thứ III (09/1960), Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã phân tích kỹ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam và quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
25
ĐHĐBTQ lần thứ IV của Đảng (11, 12/1976) diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã giành thắng lợi. Đất nước được hoàn toàn thống nhất. Đại hội đã thảo luận, đánh giá quyết định chuyển cách mạng Việt Nam từ cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam sang thực hiện cách mạng xã hội trên toàn đất nước. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra đường lối xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước. Đại hội thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất là Tổng Bí thư, bỏ chức danh Chủ tịch Đảng.
ĐHĐBTQ lần thứ V của Đảng (03/1982) là kết quả của một quá trình làm việc
nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm
giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại
hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu
tranh "Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân".
ĐHĐBTQ lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm
điểm, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc
biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy đặc biệt là tư duy kinh tế, đổi
mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội
đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở
nước ta, tạo ra bước đột phá lớn, toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội,
làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
ĐHĐBTQ lần thứ VII của Đảng (tháng 06/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995. Đại hội đưa
ra quan niệm tổng quát về xã hội XHCN ở Việt Nam và phương hướng cơ bản để xây
dựng xã hội đó; Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng
định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Là Đại hội của Trí tuệ - Đổi mới - Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết, Đại hội VII
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm vụ chính trị nặng nề
trước mắt, mà cả con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong những thập niên
26
tiếp theo. Đó là quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay
go. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 06/1996) đã nhận định:
“Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn
thành về cơ bản” [9, tr.10]. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển
sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội VIII khẳng định: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững
bước đi lên CNXH'' [7, tr.7] và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm
2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết
những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của
nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát
triển cao hơn vào thế kỷ XXI. Đại hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột
mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 04/2001) đã kiểm điểm
việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996 - 2000, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những
thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: “Thực tiễn
phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng
đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII, đồng thời giúp chúng ta nhận
thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta… Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [8, tr.20]. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh
liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục
giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc,
đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ
hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
27
Tại Đại hội X của Đảng (tháng 04/2006), trên cơ sở thực tiễn qua 20 năm đổi
mới, Đại hội khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử, rút ra 5 bài học lớn của công cuộc đổi mới [9, tr.70, 71, 72]. Nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn, về xã hội XHCN và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đại hội đã nêu
lên tám đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng; tám phương
hướng cơ bản để xây dựng CNXH [9, tr.68, 69]. Kế thừa và phát triển tư duy của Đại
hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ hơn một bước những nội dung cơ bản về định hướng
XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đại hội đã có một số quyết định quan
trọng, như cho phép “đảng viên làm kinh tế tư nhân” [9, tr.302].
Những thành tựu và bài học đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Qua 20 năm, hệ thống quan điểm lý
luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản, ngày càng sáng tỏ hơn.
Đại hội XI của Đảng (tháng 01/2011) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát
triển về nhận thức lý luận và thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. Trên cơ sở tổng
kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, sự kế thừa và phát triển tư duy từ Báo cáo
chính trị tại Đại hội X, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định tám đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN
mà nhân dân ta xây dựng [10, tr.70], tám phương hướng cơ bản [10, tr.72] và bổ sung
thêm tám mối quan hệ lớn cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt [10,
tr.72, 73]. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, trong nhận thức lý luận về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước[10, tr.64], phấn đấu
tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
XHCN. Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, xác định
ba đột phá chiến lược: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu
28
hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và
hạ tầng đô thị lớn” [10, tr.106].
Đại hội XI đánh dấu bước tiến trong đổi mới tư duy phát triển, phương thức
phát triển, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ
cấu lại nền kinh tế. Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân
ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Đại hội XI không những có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn có tính
nguyên tắc, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
đồng thời khẳng định và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phấn đấu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối đổi mới
đó là bài học và kinh nghiệm quý báu góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ
nghĩa xã hội của những người cộng sản trên thế giới.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, là
cả một pho lịch sử bằng vàng. Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm những sự
kiện lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng và dân tộc mà điều có ý nghĩa lớn lao là
những kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề lý luận cách mạng Việt Nam
được tổng kết từ hiện thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt hào hùng. Và pho lịch
sử bằng vàng đó sẽ được tái hiện lại một cách chân thực nhất, sinh động và chính xác
nhất qua chính những tài liệu mà trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Đảng ta đã hình
thành. Trong số những tài liệu thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng có tài liệu các
phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung
ương và có thể khẳng định đây là nguồn sử liệu vô cùng có giá trị về lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam trực tiếp là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các ĐHĐBTQ của Đảng
1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV thông qua đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI bổ sung có
ghi: “Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, do Ban
29
Chấp hành Trung ương triệu tập, thường lệ năm năm một lần. Khi có tình hình đặc
biệt, Ban Chấp hành Trung ương có thể triệu tập Đại hội sớm hơn hoặc chậm lại một
thời gian, không quá 1 năm. Trong trường hợp phải chậm lại, Ban Chấp hành Trung
ương thảo luận tập thể, thông tri rõ lý do cho các cấp bộ đảng biết” [12, tr. 46].
Đến bản Điều lệ do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua ngày
27/6/1991, tại Điều 16 có ghi “Đại hội đại biểu toàn quốc do BCHTW triệu tập
thường lệ năm năm một lần, khi có tình hình đặc biệt, có thể triệu tập sớm hoặc muộn
hơn, và thông báo rõ lý do cho toàn Đảng biết; thời gian triệu tập chậm không quá
một năm” [13, tr.24].
Đến bản Điều lệ được thông qua tại Đại hội VIII đến Đại hội XI được sửa đổi
như sau: “Đại hội đại biểu toàn quốc do BCHTW triệu tập thường lệ năm năm một
lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm” [15, tr.24].
Đại hội có nhiệm vụ chung là: “đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của
nhiệm kỳ vừa qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bổ sung,
sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần; bầu BCHTW” [16, tr.26, 27].
Và trong từng thời điểm diễn ra các kỳ Đại hội, để phù hợp với sự phát triển chung của
toàn xã hội, mỗi kỳ Đại hội lại có thêm một số nhiệm vụ riêng nhằm giải quyết những
khó khăn trước mắt và định hướng phát triển lâu dài trong tương lai. Cụ thể:
Đại hội VI của Đảng là Đại hội đặt nền móng cho công cuộc đổi mới của nước
ta hiện nay. Đại hội diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá – lương –
tiền cuối năm 1985 làm cho nền kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn. Nước ta đã
không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn
định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam
lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng Cộng sản Việt
Nam và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận xoay quanh 3 vấn đề lớn: cơ cấu kinh
tế; cải tạo XHCN; cơ chế quản lý kinh tế. Trước tình hình đó, Đại hội VI đã diễn ra
nhằm giải quyết về cơ bản các vấn đề trên. Để làm chuyển biến tình hình, Đại hội VI
phải đánh dấu sự đổi mới của Đảng ta về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác, đó là đòi hỏi bức thiết của đất nước.
Đại hội có nhiệm vụ: Thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của BCHTW,
về kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V (chủ yếu là thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội) và bản phương hướng nhiệm vụ các mặt công tác
trong thời gian tới (chủ yếu là phương hướng chiến lược kinh tế - xã hội) và nhiệm vụ
30
của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1986 – 1990; Quyết định một số điểm sửa đổi trong
Điều lệ Đảng.
Sau khi công cuộc đổi mới của nước ta được thực hiện, tình hình kinh tế nước
ta bước đầu có kết quả. Tuy nhiên Đảng ta đặt ra mục tiêu “trong thập kỷ 90, phải
khắc phục những khó khăn, thử thách gay gắt, ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, phát triển giáo dục và
đào tạo, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu của những năm
90 và chuẩn bị cho tương lai; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội; bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định hợp tác cho sự phát triển kinh
tế” [4, tr.115]. Trước tình hình đó Đại hội VII đã diễn ra để thực hiện các mục tiêu
trên. Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Điều
lệ Đảng sửa đổi). Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội VIII có nhiệm vụ: tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra mục tiêu, phương
hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020 và
trước mắt đến năm 2000; bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới lên
tầm cao mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Là Đại hội của Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết – Đổi mới, Đại hội IX của Đảng có
nhiệm vụ lịch sử: nhìn lại chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đi sâu
tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện
chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển
và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu
của thế kỷ XXI.
Đại hội X: Đây là Đại hội của Trí tuệ - Đổi mới - Đoàn kết - Phát triển bền
vững. Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá
khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra
những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực
31
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001 - 2005), chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và
hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng… Đại hội
X không chỉ nhìn lại 5 năm sau Đại hội IX mà còn tổng kết cả 20 năm thực hiện đường
lối đổi mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội đã khẳng định đường
lối đó "đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam", vì vậy đã kế tục đường lối,
chính sách đối ngoại được khởi xướng và kiên trì thực hiện trong suốt thời kỳ đổi mới
đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Đại hội XI của Đảng diễn ra vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết
Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 - 2010. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
X của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (2011 – 2015); tổng kết thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010), xác định Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 – 2020); tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh
năm 1991.
Từ những quy định trên tại các Điều lệ Đảng, chúng ta thấy, Đại hội đại biểu
toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, cơ quan này do BCHTW các khoá
triệu tập. Khác với các kỳ Đại hội trước (từ Đại hội lần thứ nhất đến Đại hội lần thứ
tư) từ Đại hội lần thứ V, VI đến Đại hội lần thứ XI, thường lệ 5 năm Đảng ta tổ chức
Đại hội một lần và duy trì cho đến ngày nay. Về cơ bản, các kỳ Đại hội không thay đổi
về chức năng, còn về nhiệm vụ có thay đổi đôi chút để phù hợp với tình hình cụ thể
của đất nước trong từng giai đoạn.
1.2.2.2. Các cơ quan của các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng
- Các cơ quan chuẩn bị cho Đại hội:
Để chuẩn bị cho Đại hội về mọi mặt từ việc chuẩn bị văn kiện đến nhân sự, đến
việc tổ chức phục vụ Đại hội, BCHTW các khoá đã thành lập các tiểu ban phục vụ Đại
hội. Mỗi kỳ Đại hội thường được thành lập các tiểu ban như: Tiểu ban nhân sự, Tiểu
ban phục vụ Đại hội, Tiểu ban văn kiện (mỗi một văn kiện cụ thể có thể lập một Tiểu
ban riêng) và một số tiểu ban khác (do BCHTW quyết định).
32
+) Về nhiệm vụ của các tiểu ban: tùy theo nhiệm vụ cụ thể của từng kỳ Đại hội
mà BCHTW các khoá sẽ quyết định số lượng, tên gọi cũng như nhiệm vụ của từng tiểu
ban. Theo nghiên cứu của chúng tôi, cùng một tiểu ban nhưng ở kỳ Đại hội này nhiệm
vụ khác và đến kỳ Đại hội sau nhiệm vụ có sự thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn
và do BCHTW quyết định.
Chẳng hạn, các kỳ Đại hội đều lập Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội nhưng ở
Đại hội VI nhiệm vụ của Tiểu ban này khác và đến các kỳ Đại hội sau nhiệm vụ lại có
sự thay đổi cho phù hợp hơn. Ở Đại hội VI, Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội có các
nhiệm vụ sau:
“- Đón tiếp các đại biểu Đại hội và bảo đảm sinh hoạt, phương tiện đi lại và
làm việc của đại biểu.
- Tổ chức việc đón tiếp, phục vụ sinh hoạt và hoạt động của khách mời trong
nước và ngoài nước.
- Chuẩn bị hội trường Đại hội.
- Tổ chức việc in, phân phối, thu hồi các văn kiện, tài liệu của ĐHĐBTQ của Đảng.
- Tổ chức việc quay phim, chụp ảnh. Phối hợp với Ban Tuyên huấn Trung ương
để chỉ đạo công tác tuyên truyền về Đại hội.
- Quản lý việc chi tiêu” [58, tr.1].
Đến Đại hội VII, Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội này có thêm nhiệm vụ:
“Lập kế hoạch tổ chức phục vụ Đại hội lần thứ VII theo tinh thần đổi mới, thiết thực,
chu đáo, tiết kiệm, để trình Ban Bí thư” [60, tr. 13].
Ngoài ra nhiệm vụ “Quản lý việc chi tiêu” của Tiểu ban ở Đại hội VI được quy
định rõ hơn tại Đại hội VII, cụ thể: “Quản lý việc chi tiêu cho ĐHĐBTQ của Đảng
theo đúng chế độ do Ban Bí thư quyết định” [60, trang 13, 14].
Cũng là Tiểu ban trên nhưng đến Đại hội VIII được quy định ngắn gọn hơn và
được phát huy tính chủ động trong công việc hơn chứ không cụ thể và bị động như ở Đại hội VI và Đại hội VII. Trong Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 25/10/1995 của
Ban Bí thư về thành lập Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng CSVN có quy định rõ:“Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội có nhiệm vụ xây
dựng, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư kế hoạch phục vụ đại hội; tổ chức thực hiện kế hoạch phục vụ Đại hội; Báo cáo tổng kết công tác phục vụ Đại hội” [62, tr. 18, 19].
Đặc biệt, đến Đại hội XI, Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội được Ban Bí thư nâng vị trí, vai trò lên khi được giao toàn quyền quyết định việc phục vụ Đại hội. Điều
33
này được thể hiện thông qua việc giao quyền chỉ đạo việc tổ chức phục vụ Đại hội cho
Tiểu ban chứ không phải làm các công việc cụ thể như các Đại hội trước đó. Và giúp
việc cho Tiểu ban là bộ phận thường trực và tổ giúp việc giúp quán xuyến công việc
[64, tr. 29, 30].
Có sự thay đổi trên theo chúng tôi là do trong quá trình diễn ra Đại hội tuy đã
có quy định nhiệm vụ cụ thể cho từng Tiểu ban, nhưng trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ được giao phát sinh thêm một số việc mà khi đó Ban Bí thư chưa dự tính hết
được. Do đó, rút kinh nghiệm từ một số kỳ Đại hội trước, đến các Đại hội gần đây,
Đảng ta quyết định giao quyền tự chủ cho các Tiểu ban để có thể hoàn thành công việc
kịp thời, hiệu quả.
+) Về số lượng và tên gọi của các Tiểu ban: Như chúng tôi đã nói ở trên, số
lượng và tên gọi các Tiểu ban có sự khác nhau tuỳ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của từng
kỳ Đại hội. Qua khảo sát, chúng tôi thấy các kỳ Đại hội có số lượng và tên gọi các
Tiểu ban như sau:
Đại hội VI: bao gồm 5 tiểu ban [37, tr. 3, 4, 5], đó là:
- Tiểu ban dự thảo Báo cáo chính trị. Tiểu ban này thành lập theo Quyết định số
64/QĐ-TW của Bộ Chính trị ngày 04/12/1985, do đồng chí Hoàng Tùng làm Trưởng
tiểu ban.
- Tiểu ban tổ chức và nhân sự. (thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 10, khoá V, Bộ Chính trị đã ra Thông báo số 81/TB-TW ngày 20/06/1985 về việc
thành lập Tiểu ban và do đồng chí Lê Đức Thọ làm Trưởng tiểu ban).
- Tiểu ban thẩm tra dự án kế hoạch 5 năm (1986 – 1990). Được thành lập theo
Quyết định số 81/QĐ-TW của Bộ Chính trị, do đồng chí Đỗ Mười làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban tổ chức, phục vụ Đại hội. Tiểu ban được thành lập theo Quyết định
số 61/QĐ-TW ngày 20/11/1985 của Bộ Chính trị, do đồng chí Võ Chí Công làm
Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban sửa đổi và bổ sung Điều lệ Đảng1
Đại hội VII: bao gồm 6 tiểu ban [38, tr.34]:
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCHTW khoá VI, ngày 04/04/1990 Bộ
1 Hiện nay, chúng tôi chưa tìm thấy Quyết định chính thức của Tỉểu ban này [37, tr.05]
Chính trị đã ra thông báo số 175-TB/TW về việc thành lập 5 tiểu ban:
34
- Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh chính trị, do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm
Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban dự thảo Chiến lược kinh tế - xã hội, do đồng chí Đỗ Mười làm
Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban dự thảo Báo cáo chính trị, do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm
Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban dự thảo Báo cáo Xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, do đồng
chí Nguyễn Đức Tâm làm Trưởng tiểu ban
- Tiểu ban Chuẩn bị nhân sự, do đồng chí Võ Chí Công làm Trưởng tiểu ban
- Riêng Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội thành lập theo Quyết định số 66-
QĐ/TW ngày 10/09/1988 của Bộ Chính trị, do đồng chí Nguyễn Khánh làm Trưởng
tiểu ban.
Đại hội VIII: bao gồm 5 tiểu ban [39, tr.9] :
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá VII ngày 30-7-1994, Bộ Chính
trị đã ra thông báo số 82-TB/TW ngày 13/08/1994 về việc thành lập 4 tiểu ban sau:
- Tiểu ban văn kiện, do đồng chí Đỗ Mười làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban Kinh tế - xã hội, do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban nhân sự, do đồng chí Đỗ Mười làm Trưởng tiểu ban
- Tiểu ban Điều lệ Đảng, do đồng chí Lê Phước Thọ làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban tổ chức, phục vụ Đại hội được thành lập theo Quyết định số 102-
QĐ/TW ngày 25/10/1995 của Ban Bí thư, do đồng chí Nguyễn Hà Phan làm Trưởng
tiểu ban.
Đại hội IX: bao gồm 5 tiểu ban [40, tr.04, 05]
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá VIII ngày 16-8-1999, Bộ Chính
trị đã ra thông báo số 245-TB/TW ngày 20/08/1999 về việc thành lập 04 tiểu ban sau:
- Tiểu ban Báo cáo chính trị, do Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu làm Trưởng Tiểu ban.
- Tiểu ban Kinh tế - xã hội, do đồng chí Phan Văn Khải, Uỷ viên Thường vụ Bộ
Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Tiểu ban.
35
- Tiểu ban Điều lệ, do đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng
ban Tổ chức Trung ương làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban Nhân sự, do Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu làm Trưởng Tiểu ban.
- Còn Tiểu ban Tổ chức, phục vụ Đại hội được thành lập theo Quyết định số 64-
QĐ/TW ngày 01/09/1999, do đồng chí Phạm Thế Duyệt làm Trưởng tiểu ban.
Đại hội X: bao gồm 5 tiểu ban [41, tr.02, 03]
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 BCHTW khoá IX, ngày 15-7-2004 Bộ
Chính trị đã ra thông báo số 146-TB/TW về thành lập 04 tiểu ban của Trung ương
chuẩn bị Đại hội X của Đảng gồm:
- Tiểu ban Văn kiện, do đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh làm Trưởng
tiểu ban
- Tiểu ban Kinh tế - xã hội, do đồng chí Phan Văn Khải, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban Xây dựng Đảng và Sửa đổi Điều lệ Đảng, do đồng chí Trần Đình
Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung
ương làm Trưởng tiểu ban
- Tiểu ban Nhân sự, do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh làm Trưởng tiểu ban
- Đối với Tiểu ban Tổ chức và Phục vụ Đại hội được thành lập theo Quyết định
số 119-QĐ/TW ngày 01/09/2004 của Bộ Chính trị, do đồng chí Phan Diễn, Thường
trực Ban Bí thư làm Trưởng tiểu ban.
Đại hội XI: bao gồm các tiểu ban sau [42, tr.02]
- Tiểu ban Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung và phát triển
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Tiểu ban được thành lập theo Quyết
định số 133-QĐ/TW ngày 04/02/2008 của BCHTW, do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001 – 2010) và xây dựng Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2011 – 2020. Tiểu
ban được thành lập theo Quyết định số 134-QĐ/TW ngày04/02/2008 của BCHTW, do
đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng
tiểu ban.
36
- Tiểu ban nhân sự được thành lập theo Quyết định số 247-QĐ/TW ngày
21/07/2009 của BCHTW, do đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư BCHTW Đảng
làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ
Đảng. Tiểu ban được thành lập theo Quyết định số 248-QĐ/TW ngày 21/07/2009 của
BCHTW, do đồng chí Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội được thành lập theo Quyết định số 249-
QĐ/TW ngày 21/07/2009 của BCHTW do đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng tiểu ban.
Ngoài các tiểu ban, Đại hội XI còn thành lập thêm Ban Chỉ đạo xây dựng Báo
cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) trình Đại hội XI
và Báo cáo tình hình thực hiện Quy chế làm việc của BCHTW, BCT, BBT (khoá X).
Các Tiểu ban này đều có bộ phận thường trực và được thành lập các tổ giúp việc, tổ
nghiên cứu.
Các tiểu ban này được thành lập trước khi Đại hội diễn ra nhằm chuẩn bị trước
các công việc phục vụ cho Đại hội và sẽ tiếp tục hoạt động trong quá trình Đại họi
diễn ra và cả sau khi Đại hội kết thúc.
- Các cơ quan khi Đại hội diễn ra:
Nếu như các tiểu ban được thành lập trước khi Đại hội diễn ra để đảm bảo mọi điều kiện cần thiết cho Đại hội thì tại phiên họp trù bị2 của Đại hội đã thảo luận, biểu
quyết về số lượng và thông qua từng danh sách: Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Ban
Thẩm tra tư cách đại biểu, Ban Kiểm phiếu. Đây là những cơ quan điều hành và giúp
việc cho Đại hội, đảm bảo cho hoạt động của Đại hội diễn ra thông suốt.
Đoàn Chủ tịch Đại hội là cơ quan điều hành công việc của Đại hội. Đoàn Chủ
tịch có nhiệm vụ điều hành công việc của Đại hội theo Chương trình, Quy chế làm
việc đã được Đại hội thông qua; phân công các thành viên điều hành các phiên họp của
Đại hội; chuẩn bị các vấn đề để Đại hội thảo luận và biểu quyết; điều hành việc bầu cử
theo Quy chế bầu cử tại Đại hội; tổ chức lấy phiếu giới thiệu chức danh Tổng Bí thư,
2 Từ Đại hội X trở đi tổ chức phiên họp trù bị thay cho hình thức tổ chức Đại hội nội bộ của các Đại hội trước đó
điều hành các bộ phận giúp việc của Đại hội; tiếp nhận và xử lý kiến nghị của các đại
37
biểu và đoàn đại biểu về những việc liên quan đến Đại hội; ký các văn bản của Đại hội
[42, tr.3]
Đoàn Thư ký, Ban Thẩm tra tư cách đại biểu và Ban Kiểm phiếu hoạt động
dưới sự điều hành trực tiếp của Đoàn Chủ tịch.
Đoàn Thư ký Đại hội là cơ quan giúp việc của Đại hội. Đoàn Thư ký có nhiệm
vụ ghi biên bản các buổi thảo luận, tổng hợp đầy đủ và trung thực ý kiến thảo luận của
các đại biểu và các đoàn đại biểu; soạn thảo các văn bản kết luận, nghị quyết của Đại
hội và thông báo của Đoàn Chủ tịch gửi tới các đoàn đại biểu; phát hành tài liệu, ấn
phẩm của Đại hội theo sự phân công của Đoàn Chủ tịch; thu nhận và nộp về Cục Lưu
trữ - Văn phòng Trung ương Đảng hồ sơ, tài liệu của Đại hội sau khi Đại hội kết thúc
[42, tr.3].
Ban Thẩm tra tư cách đại biểu là cơ quan giúp việc của Đại hội. Ban có
nhiệm vụ xem xét báo cáo của các cấp uỷ trực thuộc Trung ương về tình hình và kết
quả bầu cử đại biểu dự Đại hội; những vấn đề liên quan đến tư cách đại biểu; xem xét
việc giải quyết, kết luận các đơn, thư tố cáo và khiếu nại về tư cách đại biểu; báo cáo
Đoàn Chủ tịch để trình Đại hội xem xét quyết định những trường hợp không được
công nhận tư cách đại biểu (nếu có); báo cáo kết quả thẩm tra tư cách đại biểu để Đại
hội xem xét, biểu quyết công nhận [42, tr.3].
Ban Kiểm phiếu là cơ quan giúp việc bầu cử của Đại hội. Ban Kiểm phiếu có
nhiệm vụ hướng dẫn cách thức bỏ phiếu; kiểm tra thùng phiếu; phát phiếu trực tiếp
cho đại biểu (hoặc đoàn đại biểu); kiểm phiếu bầu; lập biên bản kiểm phiếu; báo cáo
Đoàn Chủ tịch, công bố kết quả bầu cử; ký biên bản bầu cử [42, tr. 3].
Như vậy, tổ chức của Đại hội bao gồm: Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Ban
Thẩm tra tư cách đại biểu, Ban Kiểm phiếu và các tiểu ban giúp việc.
1.3. Giới thiệu một số nét về cơ quan quản lý tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng
Theo Quy định số 270-QĐ/TW ngày 06 tháng 12 năm 2014 của Ban Bí thư Trung ương về Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam3, cơ quan được giao nhiệm vụ
quản lý tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng. Quyết định nhấn mạnh “Cục
3 Thay thế cho Quyết định số 20-QĐ/TW ngày 23/9/1987 và Quy định số 210-QĐ/TW ngày 06/03/2009 của Ban Bí thư về Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam
Lưu trữ có chức năng giúp Chánh Văn phòng Trung ương Đảng tham mưu cho Trung
38
ương Đảng quản lý tập trung thống nhất tài liệu thuộc Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản
Việt Nam; trực tiếp quản lý Lưu trữ lịch sử của Trung ương Đảng” [68, tr.2] trong đó
có tài liệu các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng.
Từ khi được thành lập đến nay4 Cục Lưu trữ luôn hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao, bảo vệ, bảo quản an toàn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ tại
Kho Lưu trữ Trung ương. Hiện nay, Cục Lưu trữ có chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức được quy định tại Quyết định số 176-QĐ/VPTW ngày 24/03/2016 của Văn
phòng Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc
của Cục Lưu trữ.
Theo Quyết định trên, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng có chức năng,
nhiệm vụ giúp Chánh Văn phòng Trung ương Đảng tham mưu cho Trung ương Đảng
quản lý Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam; nghiên cứu, soạn thảo các văn bản
chỉ đạo của Trung ương Đảng về công tác văn thư, lưu trữ và kiểm tra việc thực hiện
các văn bản chỉ đạo của Trung ương; trực tiếp quản lý Kho Lưu trữ Trung ương; chỉ
đạo, hướng dẫn thống nhất khoa học nghiệp vụ văn thư và lưu trữ đối với các cơ quan,
tổ chức đảng và tổ chức chính trị - xã hội; thực hiện nhiệm vụ Lưu trữ cơ quan của
Trung ương Đảng và Văn phòng Trung ương Đảng.
Để đảm bảo thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ trên, Cục Lưu trữ đã
thành lập các phòng chức năng giúp thực hiện từng mảng việc. Đến nay tổ chức bộ
máy Cục Lưu trữ như sau:
+) Lãnh đạo Cục Lưu trữ gồm Cục trưởng, một số Phó Cục trưởng.
+) Cục Lưu trữ có 7 đơn vị trực thuộc sau đây :
- Phòng Hành chính - Quản trị
- Phòng Khoa học - Nghiệp vụ
- Phòng Bảo quản
- Phòng Thu thập - Chỉnh lý
- Phòng Lưu trữ hiện hành
4 Thành lập theo Quyết định số 21-QĐ/TW ngày 23/9/1987 của Ban Bí thư TW trên cơ sở sáp nhập Vụ Lưu trữ Văn phòng TW và Cục Lưu trữ thuộc Viện Mác-lênin.
- Phòng Khai thác
39
- Phòng Quản lý tài liệu điện tử (được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày
25/09/2015) [69, tr.01, 02, 03].
Tiểu kết Chương 1
Trong quá trình hoạt động của từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng đã hình thành nên
một khối lượng lớn tài liệu. Những tài liệu này phản ánh chân thực, khách quan và đầy
đủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tài liệu các
phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 có nhiều đặc điểm
riêng thể hiện tính xác thực của tài liệu. Trước hết, nó là một sản phẩm của lịch sử thể
hiện ở hai phương diện hình thức và nội dung mà nó hàm chứa. Về hình thức, tài liệu
được thể hiện bằng vật liệu giấy, ngôn ngữ, văn phong của thời kỳ 1986 - 2011. Về nội
dung, tài liệu phản ánh về quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả ĐHĐBTQ của
Đảng, phản ánh lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, lịch sử về tổ
chức, lịch sử lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với đất nước và đặc biệt là phản ánh
công cuộc đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng… Chúng được làm ra đồng thời
với các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng mà thông tin quá khứ chứa đựng trong
tài liệu này đều không thể sửa chữa, thay đổi. Vấn đề này được thể hiện đầy đủ trong
Cương lĩnh, các văn kiện Đảng của tất cả các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng, trong mỗi kỳ
Đại hội đều đánh dấu sự đổi mới về tư duy của Đảng trong từng vấn đề. Khi nghiên
cứu từng vấn đề cụ thể sẽ cho chúng ta thấy sự thay đổi đó của Đảng ta là đúng đắn,
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Giá trị của những tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mà
trực tiếp là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc – cơ quan lãnh đạo cao nhất
của Đảng, cơ quan quyết định toàn bộ chủ trương, đường lối chính sách của đất nước
trong vòng 5 năm hoặc dài hơn.. Và toàn bộ các giá trị này sẽ được chúng tôi lần lượt
trình bày ở chương 2 của luận văn.
40
Chương 2
GIÁ TRỊ SỬ LIỆU TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ ĐHĐBTQ CỦA ĐẢNG
TRONG NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Sử liệu và các nguồn sử liệu
2.1.1. Khái niệm sử liệu và phương pháp sử liệu học
Sử liệu: Theo nhà sử học Ba Lan Tôpôn ski định nghĩa: “Sử liệu là mọi nguồn gốc
của nhận thức lịch sử (trực tiếp và gián tiếp), tức là mọi thông tin về quá khứ xã hội bất kỳ
chúng nằm ở đâu, cùng với những gì mà chúng truyền đạt bằng kênh thông tin”.
Phương pháp sử liệu học: là cách thức để chứng minh tính xác thực, độ tin cậy
của tài liệu thông qua đặc điểm bên ngoài và nội dung bên trong của tài liệu. Đặc điểm
của tài liệu thể hiện tài liệu đó được sản sinh vào thời kỳ nào thông qua văn phong, kỹ
thuật chế tác, phương tiện mà nó truyền tải… tài liệu đó được viết trên giấy gì, chất
liệu ra sao, tài liệu đó cũng có thể được viết trên vỏ cây, lá cây hay được khắc trên đá,
viết trên tường như thời xa xưa… Thông qua đặc điểm của tài liệu, người nghiên cứu
lịch sử sẽ biết được giá trị nội dung thông tin và giá trị về hình thức bên ngoài của tài
liệu đó đến đâu.
Chúng tôi sử dụng phương pháp này trong luận văn để chứng minh tài liệu các
phông lưu trữ Đại hội Đảng đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương là một
trong những nguồn sử liệu gốc có độ tin cậy và độ chính xác cao thông qua chữ ký của
người có thẩm quyền, con dấu, bút tích sửa trực tiếp của lãnh đạo Đảng và Nhà
nước… Cũng qua phương pháp sử liệu học, chúng tôi nhận thấy một số văn bản của
phông Đại hội VI và Đại hội VII còn chưa đầy đủ yếu tố thể thức như: chưa có số, ký
hiệu, thời gian hình thành tài liệu, tác giả văn bản, đặc biệt là một số văn bản thiếu dấu
và chữ ký…
2.1.2. Nguồn sử liệu
Theo nghĩa rộng, nguồn sử liệu là tất cả những gì chứa đựng các thông tin về
quá khứ hoạt động của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Theo ý
kiến của nhà sử học Ba Lan Topolski thì "Nguồn sử liệu là mọi thông tin về đời sống
con người trong quá khứ cùng với các kênh thông tin" [52, tr.2]
Với tư cách là một nguồn sử liệu quan trọng trong các công trình nghiên cứu
lịch sử, tài liệu lưu trữ các phông ĐHĐBTQ của Đảng giúp chúng ta dựng lại một cách
41
chính xác lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ
của Đảng.
Khi nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có rất nhiều nguồn sử liệu
khác nhau như:
- Các Văn kiện Đảng (phần lớn đã được công bố trong một bộ sách 54 tập),
trong đó nhiều văn kiên trực tiếp phản ánh hoạt động của Đảng, nhưng cũng có những
văn kiện phản ánh nhận thức của Đảng về những sự kiện đã xảy ra.
- Các tác phẩm của Hồ Chí Minh (phần lớn đã công bố trong bộ sách 12 tập).
- Những bài nói, bài viết của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội…
- Các sách nghiên cứu về Lịch sử Đảng, lịch sử Việt Nam, lịch sử đảng bộ địa
phương, hoặc nghiên cứu về những lĩnh vực khác nhau của đất nước hoặc mỗi địa
phương (chính trị, kinh tế quân sự, văn hoá…) có liên quan đến lịch sử Đảng.
- Tài liệu được khai thác qua các nhân chứng lịch sử, những người tham gia
hoặc chứng kiến diễn biến lịch sử. Nguồn tài liệu này có thể đã thành văn hoặc chưa
thành văn. Một số tài liệu được ghi chép lại dưới dạng hồi ký, đã hoặc chưa được xuất
bản, đã được hoặc chưa được thẩm định. - Tài liệu lưu trữ hiện đang được bản quản tại
Kho Lưu trữ Trung ương [21, tr. 2].
Trong các nguồn sử liệu trên, có thể khẳng định tài liệu lưu trữ là một trong
những nguồn sử liệu có giá trị cao nhất, có độ tin cậy cao và chính xác nhất. Bởi lẽ tài
liệu lưu trữ là sản phẩm trực tiếp ghi lại hoạt động lãnh đạo và quản lý, nó chứa đựng
thông tin phong phú và là nguồn thông tin gốc có độ xác thực cao nhất. Điều này được
thể hiện ở chỗ không những nó được làm ra đồng thời với các sự kiện, nó được in trên
chất liệu của thời đại mà nó hình thành mà nó còn có yếu tố thể hiện sự xác thực của
tài liệu, thể hiện độ tin cậy cao của tài liệu đó chính là con dấu và chữ ký của người có
thẩm quyền. Chính yếu tố này càng tạo nên độ tin cậy cao của tài liệu lưu trữ và phát
huy được gía trị thông tin có độ chính xác nhất so với các nguồn sử liệu khác.
Tài liệu lưu trữ các phông Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ Đại hội VI
đến nay có thể khẳng định là một nguồn sử liệu có độ tin cậy cao và có giá trị sử liệu
đặc biệt vì chúng là những văn bản mang tính chất định hướng của Đảng, đề ra chủ
trương, đường lối lãnh đạo đất nước, là căn cứ để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
42
hội, Chính phủ và các bộ, ngành ban hành hàng loạt các văn bản luật, pháp lệnh, nghị
định, thông tư triển khai thực hiện tốt chủ trương của Đảng trên các lĩnh vực từ năm
1986 - 2011.
Ngoài các giá trị nói trên, tài liệu các phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng từ Đại hội VI đến nay còn có giá trị phục vụ nghiên cứu, tham khảo cho các
nhà quản lý, các nhà chính trị, kinh tế học, luật học, xã hội học, ngôn ngữ học, sử liệu
học… Đó chính là giá trị lịch sử của những thông tin quá khứ chứa đựng trong các tài
liệu lưu trữ các phông Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là nguồn tư liệu quan trọng
để nghiên cứu khoa học xã hội một cách chính xác, khách quan các sự kiện, hiện
tượng.
Nhìn chung, tài liệu các phông lưu trữ Đại hội đại biểu tòan quốc của Đảng từ
năm 1986 đến nay có giá trị nhiều mặt. Trước hết, nó là một sản phẩm của lịch sử thể
hiện ở hai phương diện hình thức và nội dung mà nó hàm chứa. Về hình thức, tài liệu
được thể hiện bằng vật liệu giấy, ngôn ngữ, văn phong của thời kỳ 1986 - 2011. Về nội
dung, tài liệu phản ánh lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử về tổ chức, lịch sử
lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với đất nước và đặc biệt là phản ánh công cuộc đổi
mới của Đảng trên các lĩnh vực: kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại, hệ thống chính trị, công tác xây dựng Đảng… Chúng được làm ra
đồng thời với các sự kiện, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng mà thông tin quá khứ
chứa đựng trong tài liệu này đều không thể sửa chữa, thay đổi.
2.2. Giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ
năm 1986 đến năm 2011 trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.1. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết thúc
từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng
Khi chúng ta nghiên cứu toàn bộ tài liệu được hình thành trong quá trình tổ
chức từng kỳ Đại hội, khi đó sẽ cho chúng ta thấy bức tranh toàn cảnh về qúa trình
chuẩn bị, diễn biến và kết thúc kỳ Đại hội đó. Nhưng khi chúng ta tiếp cận những tài
liệu này dưới từng góc độ cụ thể thì mỗi nhóm tài liệu lại phản ánh những khía cạnh
khác nhau.
Ví dụ khi chúng ta muốn nghiên cứu đường lối, chủ trương lãnh đạo đất nước
của Đảng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… thì nhóm tài liệu văn
kiện Đại hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm
43
1991), Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011)… thể hiện rất đầy đủ, chi tiết điều
này. Người nghiên cứu có thể tiếp cận nhóm tài liệu này ở tất cả các phông ĐHĐBTQ
của Đảng. Ví dụ như ở Phông Đại hội VI, đó là các hồ sơ: Hồ sơ số 73: Diễn văn khai
mạc, tóm tắt báo cáo chính trị, phương hướng phát triển kinh tế, tuyên dương công
trạng, nghị quyết Đại hội và diễn văn bế mạc Đại hội (bản chính). Hồ sơ số 80: Văn
kiện và Điều lệ Đảng (bản in tipô) phát hành sau Đại hội. Phông Đại hội VII: Hồ sơ số
144: Văn kiện chính thức của Đại hội VII (phát hành chính thức sau Đại hội)…
Về vấn đề tổ chức bộ máy của từng Đại hội: Vấn đề này được thể hiện qua một
số tài liệu như: Quyết định thành lập các tiểu ban, tổ biên tập, nhóm biên tập văn kiện,
tài liệu trong quá trình hoạt động của các tiểu ban. Khi đó độc giả có thể tìm đọc ở các
hồ sơ như: Hồ sơ số 01 ở phông Đại hội VI: Nghị quyết, quyết định của BCHTW
(khoá V) về việc triệu tập Đại hội và chuẩn bị cho Đại hội, Hồ sơ số 96: Quy định về
chức năng, nhiệm vụ và bộ máy làm việc của tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội. Phông
Đại hội VII: hồ sơ số 02: các quyết định của Trung ương khoá VI về tổ chức và hoạt
động của các tiểu ban chuẩn bị nội dung, nhân sự và phục vụ Đại hội. Phông Đại hội
VIII: Hồ sơ số 01: Nghị quyết, quyết định, công văn của Trung ương và Văn phòng
Trung ương về chủ trương triệu tập Đại hội VIII, về thành lập các tiểu ban nhân sự,
văn kiện phục vụ Đại hội… (như chúng tôi đã trình bày ở phần tổ chức bộ máy của các
kỳ Đại hội trong Chương 1 của Luận văn).
Tại các kỳ Đại hội, cùng với quá trình chuẩn bị văn kiện, vấn đề chuẩn bị nhân
sự cho hệ thống chính trị của Đảng được tiến hành song song. Ban Chấp hành Trung
ương và Bộ Chính trị các khoá đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và xác định đây là
một trong những nhiệm vụ và nội dung quan trọng của Đại hội để làm sao lựa chọn
được các Uỷ viên Trung ương thực sự có năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có
phẩm chất đạo đức trong sáng đáp ứng được các tiêu chuẩn mà Trung ương đề ra.
Chính vì vậy, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương các khoá đã dành nhiều thời
gian cho việc chuẩn bị nhân sự như: nghe các cơ quan chức năng báo cáo về công tác
chuẩn bị nhân sự BCHTW; tổ chức nhận xét, đánh giá các Uỷ viên Trung ương từng
khoá; tiến hành nhận xét, đánh giá các đồng chí mới có triển vọng, dự kiến cơ cấu vào
BCHTW khoá tới...
Tiểu ban Nhân sự sau khi được thành lập đã khẩn trương triển khai các phần
việc do Trung ương phân công như: dự thảo về yêu cầu, tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng,
độ tuổi... của nhân sự BCHTW các khoá. Xây dựng và trình Hội nghị BCHTW thảo
44
luận và thông qua định hướng nhân sự BCHTW các khoá. Căn cứ vào phương hướng
nhân sự BCHTW các khoá đã được Hội nghị BCHTW thông qua, Tiểu ban nhân sự sẽ
giúp BCT xây dựng quy trình giới thiệu nhân sự BCHTW Đảng cho từng khoá.
Trong quá trình chuẩn bị nhân sự BCHTW các khoá, Ban chấp hành TW, Bộ
Chính trị tổ chức họp để xem xét, phân tích, đánh giá, bỏ phiếu kín. Để tạo điều kiện
cơ cấu một số đồng chí trẻ, có triển vọng, chủ yếu là cán bộ đang giữ các vị trí lãnh
đạo ở các quận, huyện, thị, các Tổng công ty lớn, các viện nghiên cứu... để đào tạo, rèn
luyện và chuẩn bị nguồn thay thế, chuẩn bị nhân sự cho các khoá tiếp theo, Ban Chấp
hành TW các khoá sẽ quyết định việc bầu Uỷ viên Trung ương dự khuyết và bổ sung.
Trên cơ sở nguồn nhân sự được giới thiệu và kết quả thực hiện quy trình giới thiệu và
lựa chọn, BCHTW các khoá sẽ giới thiệu các đồng chí để Đại hội xem xét bầu vào
BCHTW khoá tới bao gồm cả uỷ viên chính thức và dự khuyết. Tại Đại hội chính thức
sẽ quyết định danh sách bầu Uỷ viên Trung ương chính thức và dự khuyết cho
BCHTW khoá sau.
Khi chúng ta muốn nghiên cứu về vấn đề chuẩn bị nhân sự cho hệ thống chính
trị của Đảng thì chúng ta chọn nhóm tài liệu về chuẩn bị nhân sự, về bầu cử Uỷ viên
BCHTW các khoá, ví dụ hồ sơ ở phông Đại hội VII: Hồ sơ số 83:Tờ trình về việc
phân bổ đại biểu dự Đại hội; kế hoạch, báo cáo việc tổ chức lấy ý kiến giới thiệu nhân
sự BCHTW khoá VII; Hồ sơ số 86.1: Tài liệu của Tiểu ban nhân sự Trung ương về
chuẩn bị nhân sự BCHTW khoá VII; Hồ sơ số 145: Báo cáo chính thức kết quả bầu cử
BCHTW, Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban kiểm tra Trung ương (do
đồng chí Hồng Hà thay mặt Đoàn Thư ký báo cáo trước Đại hội… tuy nhiên, nhóm tài
liệu về nhân sự đa số là tài liệu mật trong đó nhiều tài liệu mật hoàn toàn, do đó độc
giả rất khó tiếp cận nếu như chúng không được giải mật. Hơn nữa, vấn đề chuẩn bị
nhân sự cho hệ thống chính trị của Đảng được bàn ở cả các Hội nghị BCHTW, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, vì vậy những nội dung này muốn nghiên cứu được đầy đủ thì độc
giả có thể nghiên cứu cả tài liệu thuộc phân phông BCHTW các khoá.
Khi chúng ta muốn nghiên cứu công tác phục vụ Đại hội ở cả trước, trong và
sau khi Đại hội diễn ra, độc giả có thể tìm đọc các hồ sơ ở Phông Đại hội VI như: Hồ
sơ số 98: Báo cáo, kế hoạch chuẩn bị của Ban Tài chính – Quản trị Trung ương, Tiểu
ban tổ chức phục vụ Đại hội VI. Hồ sơ số 99: Danh sách cán bộ, nhân viên phục vụ và
danh sách khen thưởng. Hồ sơ số 102: Báo cáo kết quả phục vụ Đại hội của Tiểu ban
45
tổ chức phục vụ và các ban, ngành Trung ương từ cuối năm 1985 đến năm 1986.
Phông Đại hội VII: Hồ sơ số 160: Kế hoạch, chương trình, báo cáo, công văn, dự trù
của Trung ương, Ban Tài chính – Quản trị TW, Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội, Ban
Tư tưởng Văn hoá TW, Văn phòng TW về chuẩn bị cơ sở vật chất, kinh phí và tổ chức
phục vụ Đại hội.
Tóm lại, có thể khẳng định tài liệu lưu trữ các phông Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng là nguồn sử liệu phản ánh toàn diện các mặt hoạt động của Đảng trong một
kỳ Đại hội. Giá trị của nó được thể hiện trên nhiều khía cạnh và nhiều phương diện
khác nhau. Khi càng có nhiều tài liệu cùng phản ánh về một vấn đề sẽ giúp người
nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu và có cái nhìn tổng thể, toàn diện hơn về vấn đề đó.
2.2.2. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện
Đại hội
Để có được các bản dự thảo văn kiện trình ra Đại hội tiếp tục thảo luận và thông
qua thì quá trình xây dựng các bản dự thảo văn kiện này đã được BCHTW các khoá
chuẩn bị khá công phu, kỹ lưỡng, khoa học và nghiêm túc.
Văn kiện là văn bản có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội [43, tr.431]. Văn
kiện Đại hội Đảng là các văn bản có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội được Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua. Các văn kiện chính là công cụ, phương
tiện để Đảng lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh,
Chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương. Thông qua định hướng của
Đảng tại Đại hội mà các cơ quan Nhà nước cụ thể hoá bằng các văn bản quy phạm
pháp luật để thực hiện đường lối của Đảng và quản lý đất nước. Chính vì vậy, các văn
kiện Đảng có vài trò và ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng ta đối với đất nước.
Ở mỗi kỳ Đại hội, sau khi được thành lập, các tiểu ban văn kiện bắt tay ngay
vào việc xây dựng văn kiện. Căn cứ vào chủ trương, định hướng của Trung ương Đảng
về sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, các tiểu ban đã thành lập các tổ biên
tập, các nhóm nghiên cứu và phân công chức trách nhiệm vụ cho từng cơ quan, nhóm
nghiên cứu xây dựng đề cương từng phần trong dự thảo văn kiện. Để việc xây dựng
văn kiện phù hợp và có thể đi vào thực tiễn, các tiểu ban, tổ biên tập, nhóm nghiên cứu
đã tổ chức các đoàn đi khảo sát thực tế; đã nghiên cứu, kế thừa các kết quả tổng kết,
các kết quả nghiên cứu của các nhiệm kỳ trước; kết quả tổng kết thực tiễn của các cơ
46
quan, các tỉnh thành uỷ và tổ chức các đoàn về làm việc với các cơ quan, các tỉnh,
thành uỷ về các chuyên đề do Ban Bí thư định trước [41, tr.5,6]
Trong quá trình dự thảo các văn kiện đại hội, các nhóm nghiên cứu, tổ biên tập và
các tiểu ban đã họp rất nhiều lần để thảo luận, trao đổi, góp ý kiến vào dự thảo các văn
kiện. Sau khi dự thảo xong, các văn kiện được xin ý kiến góp ý tại ĐHĐBTQ của Đảng
bộ các cấp, được công bố rộng rãi để lấy ý kiến các đại biểu Quốc hội, các thành viên, hội
viên của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các đồng chí lão thành cách mạng, các
nhân sĩ, trí thức, đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bảo ta ở nước ngoài.
Những ý kiến đó đều được Trung ương xem xét, các tổ thư ký của các tiểu ban chuẩn bị
văn kiện tổng hợp và phản ánh vào văn kiện trình Đại hội [42, tr.4].
Việc tổng hợp ý kiến xây dựng các văn kiện Đại hội được Trung ương chỉ đạo
một cách chặt chẽ, giao cho các cơ quan có trách nhiệm tổng hợp. Sau đó Bộ Chính trị
xem xét và giao cho các tiểu ban chắt lọc những ý kiến có chất lượng, xây dựng để đưa
vào các văn kiện dự thảo. Vì vậy, hầu hết các văn kiện dự thảo đều được tu chỉnh, bổ
sung, hoàn thiện, sửa chữa nhiều lần. Ví dụ Cương lĩnh năm 1991 phải tu chỉnh 16 lần,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội năm 1991 phải tu chỉnh 6 lần, Báo
cáo chính trị năm 1991 phải tu chỉnh 8 lần…Theo như nghiên cứu của chúng tôi thì
các văn kiện trình ra các kỳ Đại hội có sự khác nhau về số lượng, tên gọi của từng văn
kiện. Cụ thể:
BCHTW khoá V chuẩn bị 3 văn kiện lớn trình Đại hội VI, đó là: Báo cáo chính
trị; Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm (1986 –
1990); Báo cáo bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng.
Trung ương khóa VI đã quyết định chuẩn bị 5 văn kiện lớn để trình Đại hội VII,
đó là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH; Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo chính trị; Báo cáo xây dựng
Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; Điều lệ Đảng (sửa đổi).
Sau Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (01/1994), Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đã tập trung mọi mặt cho việc tiến hành Đại hội VIII theo đúng thời
gian mà chương trình toàn khóa đã đề ra. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết của Đại hội VII, tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra mục tiêu, phương
47
hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2000 và
2020; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Trung ương khoá VII đã quyết định chuẩn bị 4 văn
kiện trình Đại hội VIII, đó là: Báo cáo chính trị; Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000; Báo cáo bổ sung, sửa đổi Điều lệ
Đảng và dự thảo Điều lệ Đảng sửa đổi.
Tại Đại hội IX họp vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại. Toàn Đảng, toàn dân ta
đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000 và 15 năm đổi mới. Đại hội có nhiệm
vụ kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra những
quyết sách cho thời kỳ tới. Chủ đề của Đại hội là: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN” [8, tr.10]. Chính vì vậy, BCHTW khoá VIII đã quyết định trình Đại
hội IX 4 văn kiện sau: Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 –
2010; Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2005; Báo
cáo về việc bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới. Đại hội có nhiệm vụ kiểm
điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và quyết định phương hướng, nhiệm vụ
phát triển đất nước 5 năm tới. Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" [9, tr.12].
Tại Đại hội này, BCH TW đã trình ra 6 văn kiện sau: Báo cáo chính trị; Báo
cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010; Báo
cáo công tác xây dựng Đảng; Báo cáo về một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ
Đảng và dự thỏa Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Báo cáo về kết quả thực hiện Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo,
chỉ đạo của BCHTW Đảng khóa IX.
Đại hội lần thứ XI của Đảng được tổ chức vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết
thúc thắng lợi 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 – 2011) và 25 năm đổi mới. Đại hội có
48
nhiệm vụ bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (Cương lĩnh năm 1991), quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm (2001 – 2010), kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X và quyết định
phương hướng, nhiệm vụ của Đảng, của đất nước trong 5 năm tới. Trước những nhiệm
vụ đặt ra, BCHTW khoá X đã trình Đại hội 5 văn kiện sau: Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020; Báo cáo chính trị; Báo cáo một số vấn đề về bổ
sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của BCHTW
Đảng khoá X.
Từ các văn kiện trình ra các kỳ Đại hội trên có thể thấy, tại các Đại hội đã thông
qua các văn kiện quan trọng của đất nước, định hướng đất nước phát triển trong một
khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn văn kiện mang tính dài hạn như Cương lĩnh
chính trị (thường trong vòng 20 năm), văn kiện trung hạn như Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội (thường trong vòng 10 năm) và văn kiện ngắn hạn như Báo cáo chính
trị (trong vòng 5 năm). Cũng chính vì vậy mà ở kỳ Đại hội nào cũng thông qua Báo
cáo chính trị, còn cứ khoảng 10 năm thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
và cứ khoảng 20 năm thông qua Cương lĩnh chính trị.
Căn cứ vào Mục lục hồ sơ phân phông BCHTW từ khoá V đến khoá X, chúng
tôi thống kê được nhiềuc cuộc họp do Trung ương tổ chức để cho ý kiến vào từng văn
kiện. Điều này được chúng tôi thống kê thông qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng tổng hợp số lần họp các Hội nghị ở Trung ương để góp ý vào dự thảo
các văn kiện trình Đại hội [44]
Số lần họp Hội nghị
Stt BCHTW BCT BBT HN cán bộ Các văn trình kiện tại các Đại hội HN giữa nhiệm kỳ
Đại hội VI Đại hội VII Đại hội VIII Đại hội IX Đại hội X Đại hội XI 1 2 3 4 5 6 4 7 5 7 5 5 17 23 22 23 26 27 4 21 3 6 2 1 1 1 1 3 1 1 HN thường trực BCT 0 0 3 0 0 0 0 1 0 0 0 0
49
Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy: Trung ương rất quan tâm đến việc chuẩn
bị văn kiện trình Đại hội. Thường một nhiệm kỳ của BCHTW có khoảng 12 – 14 lần
họp Hội nghị thì theo như thống kê ở trên, có đến gần 1/2 số lần họp nội dung có bàn
đến vấn đề chuẩn bị văn kiện trình Đại hội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã giành
khá nhiều lần họp bàn về vấn đề này. Điều này chứng tỏ các văn kiện trình Đại hội
luôn được Trung ương quan tâm, chú trọng.
Chúng ta biết đến Cương lĩnh năm 1991 với tên đầy đủ là Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH khi đã được Đại hội VII thông qua cả về tên
gọi, bố cục và nội dung nhưng ít ai biết được rằng quá trình xây dựng bản Cương lĩnh
này như thế nào. Có phải ngay từ đầu tên gọi của Cương lĩnh đã là như vậy hay
không? Và nếu đã qua nhiều lần đổi tên thì tên gọi Cương lĩnh qua các lần đó như thế
nào? Để trả lời cho những câu hỏi trên, chúng tôi đã nghiên cứu các bản dự thảo
Cương lĩnh và biết được rằng: Cương lĩnh đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi khác
nhau, cụ thể như:
Khi phác thảo Đề cương lần 1 (vào tháng 12 năm 1987), Ban biên tập thuộc
Tiểu ban soạn thảo Cương lĩnh năm 1991 đã dự kiến lấy tên Cương lĩnh là: “Cương
lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH” [24, tr.16].
Đến bản Đề cương tháng 03 năm 1988 (không rõ lần thứ mấy) để trình Bộ
Chính trị cho ý kiến trong kỳ họp ngày 20, 21/04/1988, Tiểu ban Cương lĩnh đã lấy tên
Cương lĩnh là “Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời lỳ quá độ” [24, tr.31].
Đến bản dự thảo lần thứ 6 Đề cương Cương lĩnh (tháng 02 năm 1990), Cương
lĩnh năm 1991 có tên là: “Cương lĩnh Cách mạng XHCN” [25, tr.80]
Dự thảo các lần 8, 9 ,10, 13 tên Cương lĩnh là: “Cương lĩnh xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ” [26, tr.19]
Đến bản dự thảo lần thứ 14 (04/1991) tên Cương lĩnh là: “Cương lĩnh xây dnựg
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” [27, tr.34] theo đa số ý kiến góp ý. Và đây
cũng là tên gọi của Cương lĩnh khi trình ra Đại hội VII để Đại hội tiếp tục thảo luận,
cho ý kiến.
Cũng theo như nghiên cứu của chúng tôi, trong quá trình dự thảo Cương lĩnh,
Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh đã có rất nhiều ý kiến đề xuất về hướng xử lý các tên gọi
của Cương lĩnh.
50
Ví dụ: Trong Tờ trình của Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh ngày 10/04/1991 về
việc tiếp thu và xử lý những ý kiến đóng góp vào dự thảo Cương lĩnh có đoạn viết:
“Về tên gọi Cương lĩnh: Mới tập hợp sơ bộ đã có tới 138 tên gọi Cương lĩnh
khác nhau được đề xuất, có thể quy vào bốn loại cơ bản:
1- Loại thứ nhất: về thực chất không khác với quan điểm dự thảo, song diễn đạt
cách khác nhau hoặc muốn làm chính xác thêm như: “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, hoặc “Cương lĩnh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam”, v.v…
2- Loại thứ hai: đề nghị đặt tên là “Cương lĩnh xây dựng đất nước giàu mạnh”
hoặc “Cương lĩnh dân giàu nước mạnh” v.v…Loại ý kiến này có nhược điểm lớn:
không rõ dân giàu nước mạnh theo con đường nào, mục tiêu xây dựng chế độ xã hội
gì?
3- Loại ý kiến thứ ba: đề nghị đặt tên là “Cương lĩnh xây dựng đất nước giàu
mạnh, quá độ lên CNXH” (chứ không dùng khái niệm thời kỳ qúa độ). Tiểu ban cho
rằng: khái niệm thời kỳ qúa độ có nội dung khoa học về lý luận và thực tiễn; nếu chỉ
nói “quá độ” thì chưa rõ quá độ từ đâu đến đâu? Không rõ nội dung và thời gian bao
quát của Cương lĩnh; do đó khó xác định rõ được chỗ đứng, các nhiệm vụ và mục tiêu.
4- Loại thứ tư: đề nghị lấy tên “Cương lĩnh xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân”. Ý kiến này cũng không chấp nhận được vì nước ta đang ở giai đoạn cách mạng
XHCN chứ không còn ở giai đoạn dân chủ nhân dân.
Khi thảo luận các đề xuất trên, Tiểu ban đưa ra 3 tên gọi để phân tích, lựa chọn:
- Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Cương lĩnh xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh từng bước đi lên CNXH.
Đa số thành viên Tiểu ban nhất trí đề nghị lấy tên gọi “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH”. Tên gọi này phản ánh tương đối đầy đủ
hơn bản chất của Cương lĩnh; nó giữ được khái niệm thời kỳ quá độ, xác định được xã
hội mà ta xây dựng là CNXH; đồng thời tên gọi này cũng mềm dẻo hơn, đỡ tranh cãi
hơn. Đây cũng là tên gọi được nhiều nơi đề xuất nhất”[27, tr. 52, 53].
Và cuối cùng, khi trình ra Đại hội, tên gọi của Cương lĩnh đã được Đại hội
quyết định. Trong bản Báo cáo kết quả thảo luận và biểu quyết của Đại hội VII về các
văn kiện trình Đại hội do Đoàn Chủ tịch trình bày có đoạn viết: “Về tên gọi Cương
lĩnh: Đã có khá nhiều tên gọi khác nhau được đề xuất. Tại Đại hội này cũng có một số
51
đồng chí đưa ra những tên gọi khác nhau. Sau khi thảo luận và biểu quyết, với 97,8%
số đại biểu trong Đại hội đã nhất trí lấy tên gọi của Cương lĩnh là “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH”. Tên gọi này phản ánh được bản chất
của Cương lĩnh; xác định rõ xã hội mà nhân dân ta xây dựng là xã hội XHCN; phạm vi thời
gian của Cương lĩnh là thời kỳ quá độ lên CNXH” [29, tr. 44].
Hay như khi chúng ta nghiên cứu về quá trình sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng là văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng,
các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy của Đảng, quy định
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và các tổ chức Đảng [63, tr.2].
Vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng gần như đều được các ĐHĐBTQ của
Đảng xem xét để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Từ
Đại hội VI đến Đại hội XI đều có sửa đổi Điều lệ Đảng.
Khi nghiên cứu vấn đề này thông qua khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ
của Đảng, chúng tôi tìm đến Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng do Tiểu ban sửa đổi
Điều lệ Đảng phụ trách, các bản dự thảo Điều lệ Đảng, tờ trình của các tiểu ban phụ
trách và các ý kiến góp ý của đông đảo quần chúng nhân dân. Thông qua các tài liệu
trên sẽ cho chúng ta thấy từng vấn đề cụ thể của quá trình sửa đổi Điều lệ Đảng ở từng
kỳ Đại hội. Cụ thể:
Ở kỳ Đại hội VI: so với bản Điều lệ được thông qua tại Đại hội V thì ở Đại hội
VI đã sửa đổi một số điểm về phương châm xây dựng đảng, về điều kiện và tiêu chuẩn
đảng viên, về nhiệm vụ đảng viên…đặc biệt là bổ sung vào Điều lệ một chương nói về
tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong các lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm 4 điều
(từ Điều 37 đến Điều 40) [3, tr.234].
Đại hội VII, vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng ở một số nội dung như: nhấn
mạnh việc thực hiện dân chủ trong Đảng; bổ sung quyền được thông tin, làm rõ hơn
quyền được bảo lưu ý kiến của đảng viên; nhấn mạnh hơn việc bảo đảm kỷ luật, tính
tập trung, thống nhất trong Đảng [4, tr.130].
Đại hội XI, những điểm chủ yếu được đề nghị bổ sung, sửa đổi trong Điều lệ
Đảng là một số vấn đề về tiêu chuẩn đảng viên; giới thiệu người vào Đảng; quy định
những điều đảng viên không được làm và quy định việc thí điểm một số chủ trương
mới ghi trong Điều lệ; về tính tuổi Đảng; về thành lập tổ chức cơ sở Đảng; về chức
năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng; về nhiệm kỳ của ĐHĐBTQ của Đảng
ở những nơi thành lập mới, chia tách, hợp nhất; về thẩm quyền kỷ luật đảng viên và
các hình thức kỷ luật trong Đảng…[10, tr.61].
52
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: Giá trị sử liệu của các bản dự thảo văn kiện là rất lớn. Bởi vì khi nghiên cứu các bản dự thảo này không những giúp các nhà nghiên cứu lịch sử thấy được quá trình xây dựng các văn kiện, thấy được nội dung văn kiện được góp ý và dần dần trở thành sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân mà thông qua việc nghiên cứu các dự thảo văn kiện này còn giúp nhà nghiên cứu biết được tính xác thực của tài liệu thông qua các bút tích sửa trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương và nhiều đồng chí cán bộ lão thành cách mạng khác… Những bản dự thảo gốc này chính là căn cứ để chống lại các thế thực thù địch khi mà chúng luôn tìm cách chống phá Đảng ta thông qua việc xuyên tạc, bóp méo về đường lối, chính sách mà Đảng ta đề ra trong quá trình lãnh đạo đất nước.
Đây là một trong những đặc điểm mà chỉ tài liệu lưu trữ mới có, do đó giá trị sử liệu của nguồn tài liệu này luôn luôn có độ tin cậy cao hơn hẳn các nguồn sử liệu khác và là điểm khác biệt mà các nguồn sử liệu khác không thể có được khi nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2.3. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng
CNXH ở Việt Nam
Để xây dựng thành công CNXH không những cần có quan niệm đúng đắn về
CNXH mà còn cần phải tìm ra con đường đi lên CNXH cụ thể theo đúng quy luật phát
triển, phù hợp với điều kiện lịch sử của mỗi dân tộc [71, tr.424]. Đối với nước ta, trước
khi đổi mới, chúng ta đã xác định được các nguyên tắc chung như phải thực hiện Đảng
lãnh đạo, không đa nguyên đa đảng, phải ra sức phát triển dân chủ XHCN, phải xem
công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH là nhiệm vụ
trung tâm suốt thời kỳ quá độ… [71, tr.425]. Quá trình đổi mới, mở đầu từ Đại hội VI,
Đảng ta đã phân tích sâu sắc các sai lầm, khuyết điểm của mô hình cũ và xác định
ngày càng rõ hơn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là con đường của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng, phát triển sáng tạo trong tình hình cụ thể ở nước ta.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định cần xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn
chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng trong thời kỳ quá độ. Đại hội chỉ rõ việc “Thảo ra
một cương lĩnh cách mạng hoàn chỉnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là sự
kiện chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự chỉ đạo cách mạng trong một
thời kỳ tương đối dài, đặt nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng,
Nhà nước và xã hội” [3, tr.41]. Từ sự định hướng trên, Trung ương Đảng đã chỉ đạo
biên soạn Cương lĩnh và 5 năm sau kể từ khi Đại hội VI kết thúc, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã được thông qua tại Đại hội VII.
53
Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng chiến lược
về con đường phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; là ngọn cờ chiến
đấu của Đảng và dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước từng bước quá
độ lên CNXH; là nền tảng lý luận nền tảng tư tưởng và chính trị, định hướng cho mọi
hoạt động của chúng ta hiện nay cũng như trong những thập kỷ tới [1a, tr.9, 10].
Tại Cương lĩnh năm 1991 đã đưa ra bảy phương hướng xây dựng CNXH để
thực hiện sáu đặc trưng mà Cương lĩnh năm 1991 đã đưa ra, bảy phương hướng đó là:
(1) Xây dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá
đất nước theo hướng hiện đại là nhiệm vụ trung tâm; (3) Thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước; (4) Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hoá; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại
hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; (6) Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; (7) Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh [5, tr.9, 10].
Từ bảy phương hướng xây dựng CNXH trên, con đường đi lên CNXH ở nước
ta tiếp tục được các Đại hội sau định hướng. Đại hội X tiếp tục khẳng định “Để đi lên
CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” [9, tr.69].
Đặc biệt, tại Đại hội này một tư tưởng mới, một cơ hội mới đã được mở ra cho các
đảng viên khi muốn làm chủ doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, đó là Đảng chủ trương
cho “Đảng viên làm kinh tế tư nhân” với điều kiện “phải gương mẫu chấp hành pháp
luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của
BCHTW” [9, tr.302]. Để có chủ trương trên, Đảng ta nhận thấy rằng “trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH, đất nước còn nghèo, phải tập trung phát triển lực lượng sản
xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội. Muốn thế, phải huy động mọi nguồn lực, khai
thác mọi tiềm năng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của mọi thành
phần kinh tế. Đảng viên phải lãnh đạo và gương mẫu thực hiện chủ trương này, một
54
mặt làm giàu cho bản thân và gia đình bằng lao động chính đáng của mình, mặt khác
phải góp phần làm giàu cho xã hội, cho đất nước” [9, tr.358].
Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân là một vấn đề chính trị - tư tưởng rất nhạy
cảm và hệ trọng vì nó liên quan đến quan điểm, đường lối cơ bản của Đảng. Văn kiện
Đại hội lần thứ X của Đảng ghi “đa số ý kiến nhất trí cao đối với vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân” [9, tr.356] và “đó là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của
chúng ta sau 20 năm đổi mới. Tuy nhiên… đây là vấn đề rất hệ trọng, nhạy cảm, cho
nên có những ý kiến khác nhau, thậm chí gay gắt là điều dễ hiểu” [9, tr.358]. Vì vậy,
Đảng chủ trương cho đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng với những quy định bảo
đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên vừa giữ được tư cách đảng viên,
không làm biến chất Đảng. Đảng viên làm kinh tế tư nhân không chỉ làm theo pháp
luật của Nhà nước như một công dân bình thường, mà còn phải làm theo nghĩa vụ,
trách nhiệm của đảng viên, phải chấp hành Điều lệ và những quy định cụ thể của
Đảng.
Thực hiện theo tinh thần Đại hội X, tại Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khoá X đã
ban hành Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28/08/2006 về đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Trong Cương lĩnh sửa đổi bổ sung năm 2011 được thông qua tại Đaị hội XI, từ
bảy phương hướng ở Cương lĩnh năm 1991 đã phát triển thành tám phương hướng.
Tám phương hướng đó là: (1) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; (2) Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN; (3) Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội; (5) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) Xây dựng nền dân
chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh [10, tr.72].
Quá trình trình nhận thức của Đảng ta về xây dựng CNXH ở Việt Nam qua tài
liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XI được thể hiện
rõ nhất qua các văn kiện Đại hội, đặc biệt là trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương
lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Ngoài ra chúng ta có thể nghiên cứu vấn đề này
trong bản Báo cáo chính trị của BCHTW các khoá trình tại Đại hội. Đây đều là những
văn kiện Đảng cực kỳ quan trọng, thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của Đảng
55
đối với đất nước ta. Nguồn tài liệu này đều đã được xuất bản thành các tập văn kiện
Đảng và trên các phương tiện thông tin đại chúng để đông đảo quần chúng nhân dân
cũng như tất cả ai có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu đều có thể được đáp ứng.
2.2.4. Nguồn sử liệu phản ánh sự kiên định của Đảng về mục tiêu xây dựng
CNXH ở Việt Nam
Từ tháng 7 năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ
chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng và quá độ lên
CNXH. Miền Nam bị đế quốc xâm lược và thống trị. Đảng ta đã xác định đường lối
chung của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam, nhằm mục tiêu chung là thống nhất đất nước, tiến lên CNXH [72, tr.19].
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam đã được giải phóng, đất nước
thống nhất. Trong 10 năm đầu khi cả nước bước vào thời kỳ qúa độ lên CNXH (1976
– 1986), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn thử
thách, hoàn thành thống nhất đất nước, khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề
của chiến tranh, từng bước xây dựng đất nước vững bước đi lên, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Từ năm 1986 đến nay, Đảng chủ trương tiến hành đổi mới đất nước và kiên định
với mục tiêu xây dựng CNXH theo điều kiện cụ thể nước ta. Điều này được thể hiên
rất rõ qua từng văn kiện Đại hội.
Đảng ta xác định: “Quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở nước ta, chắc chắn sẽ rất lâu dài và khó khăn” [72, tr.21]. Vì vậy,
tại Đại hội VI, Đảng ta đã vạch ra đường lối đổi mới đất nước trong đó xem đổi mới tư
duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là nhiệm vụ hàng đầu
nhằm hình thành quan niệm ngày càng khoa học hơn, đúng đắn hơn về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta.
– Mục tiêu của đổi mới, của CNXH ở Việt Nam
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Đến Đại hội VII, khi thông qua Cương lĩnh năm 1991, một mục tiêu rất
quan trọng được bổ sung là “công bằng”, đến Đại hội IX đã nhấn mạnh và bổ sung một mục tiêu quan trọng khác đó là dân chủ. Về cơ bản, hệ mục tiêu của đổi mới đã
định hình đầy đủ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [8,
tr.85]. Đến Đại hội XI, Đảng ta đã phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa các mục
tiêu, vị trí, vai trò của các mục tiêu với tư cách là những thuộc tính giá trị của phát triển, của đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta. Đại hội xác định mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [10, tr.70].
56
- Về đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam
Trải qua thực tiễn đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng ta về các đặc trưng của
xã hội XHCN được phát triển qua các nhiệm kỳ đại hội, nhất là trong Cương lĩnh năm
1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.
Sáu đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được khẳng định
trong Cương lĩnh năm 1991 là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới” [5, tr.8, 9].
Những nhận thức mới của Đảng về đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta
xây dựng, được thể hiện từng bước trong các văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại
hội X. Ở Đại hội VIII, mục tiêu xây dựng CNXH tiếp tục được Đảng ta khẳng định
“giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh” [7, tr.70].
Đại hội IX, Đảng ta xác định “Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho
mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [8, tr.83]. Trên cơ sở tổng kết 15 năm đổi
mới, Đại hội đã rút ra 4 bài học trong đó có bài học về “trong quá trình đổi mới, phải
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [8, tr.19].
Đại hội X, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định mục
tiêu xây dựng CNXH “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [9, tr.70].
Đặc biệt rõ nhất là trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, từ sáu
đặc trưng được nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã bổ sung, phát triển thành
tám đặc trưng ở Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
57
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới” [10, tr.70].
Những đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN do Cương lĩnh năm 1991 đưa ra đã
làm rõ mục tiêu mà dân tộc ta sẽ đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ
năm 1991 đến nay, các chương trình, kế hoạch phát triển đất nước 5 năm hay hàng
năm thực chất là sự cụ thể hoá việc thực hiện những đặc trưng đó để phù hợp với trình
độ và điều kiện cụ thể của từng giai đoạn ở Việt Nam. Hai mươi năm sau khi thực hiện
Cương lĩnh năm 1991, nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong việc thực hiện hoá
cương lĩnh và các văn kiện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, cùng với sự biến đổi của thế giới, những thành tựu và hạn chế trong qúa trình
đổi mới đất nước, những vấn đề nảy sinh trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải có
sự khái quát, sự phát triển hơn nữa một số vấn đề trong quan niệm về CNXH được đề
cập trong Cương lĩnh năm 1991. Chính vì vậy, từ sáu đặc trưng của Cương lĩnh năm
1991 đã được bổ sung, phát triển thành tám đặc trưng trong Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011. Tám đặc trưng này vừa phản ánh quan niệm tổng quát về CNXH vừa
làm rõ nội dung các lĩnh vực của đời sống xã hội phải thực hiện. Tám đặc trưng trên
chính là định hướng mà Đảng ta hướng tới để chúng ta thực hiện, đó cũng là mục tiêu
xây dựng CNXH ở nước ta trong thời gian tới.
2.2.5. Nguồn sử liệu phản ánh quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại
Có thể khẳng định, đây là một nguồn sử liệu có độ tin cậy cao nhất vì loại tài liệu này có những đặc trưng nổi bật. Khối tài liệu này có giá trị sử liệu đặc biệt vì chúng là những văn bản mang tính định hướng của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo đất nước, là căn cứ để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành ban hành hàng loạt các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư triển khai thực hiện tốt chủ trương của Đảng trên các lĩnh vực từ năm 1986 đến năm 2011. Khi chúng ta nghiên cứu các văn kiện của từng kỳ Đại hội sẽ cho chúng ta thấy sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng được thể hiện thông qua đường lối, chính sách mà Đảng đề ra để lãnh đạo đất nước trong từng thời kỳ nhất định.
Dưới đây là những giá trị cụ thể của tài liệu lưu trữ các phông ĐHĐBTQ của
Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 trên một số lĩnh vực sau:
58
2.2.5.1. Về lĩnh vực chính trị
- Về hệ thống chính trị
Từ Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta chính thức sử dụng khái niệm hệ thống chính trị thay cho hệ thống chuyên chính vô sản mà Đảng ta hay dùng trước đó. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [5, tr.19]. Báo cáo chính trị tại Đại hội VII chỉ rõ: thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới [4, tr.90].
Đại hội VIII của Đảng bắt đầu tổng kết những kinh nghiệm và bài học đầu tiên
của việc đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội chỉ ra rằng trong việc đổi mới hoạt động
của hệ thống chính trị ở Việt Nam, chúng ta đã đi những bước thận trọng và vững
chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề cấp bách và chín muồi, nhưng phức tạp.
Đó là những vấn đề đối nội và đối ngoại, đổi mới nhưng không được đổi mầu, xác
định nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội, xác định rõ mỗi bước trưởng thành của hệ
thống chính trị đòi hỏi phải có sự cải tiến mạnh bạo, nhưng không sa đà, không được
phép phạm sai lầm trong việc hoạch định đường lối, chính sách [7, tr. 71].
Đảng xác định hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và 5 đoàn thể nhân dân (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam).
Đảng ta xác định: đổi mới hệ thống chính trị chính là thực hiện dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ chính là
xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN [4, tr.90].
Muốn đạt được điều đó thì bộ máy nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với đổi
mới chính trị. Vấn đề đổi mới bộ máy nhà nước đã được Đại hội VI khởi xướng. Đại
hội xác định “phương hướng” chung về xây dựng Nhà nước là “Xây dựng và thực hiện
một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở
tất cả các cấp” [3, tr.118]. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục khẳng định cải cách bộ
máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân [4, tr.91].
Tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994) đã nâng lên thành “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đây là điểm
mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển trong tư duy và nhận thức lý luận của Đảng ta
về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
59
Đến Đại hội VIII tiếp tục đặt vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức” [7, tr. 129]. Bên cạnh đó, vấn đề cải cách nền hành chính nhà
nước được coi là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm
trước mắt. Báo cáo chính trị xác định: “công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên
cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ
chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính” [7,
tr.131]. Đại hội lần thứ IX của Đảng vẫn tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và phát
triển thêm cải cách hoạt động của Nhà nước nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng [8, tr.131]. Và vấn đề này tiếp tục được Đại hội lần
thứ X và lần thứ XI thực hiện và phát triển.
- Về công tác xây dựng Đảng
Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng
chính bản thân mình, bởi lẽ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự trong sạch của đội ngũ
cán bộ, đảng viên là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Từ
lãnh đạo cách mạng trong điều kiện chưa có chính quyền đến khi trở thành Đảng cầm
quyền và trở thành một chính đảng duy nhất; từ lãnh đạo chiến tranh là chủ yếu đến
lãnh đạo xây dựng đất nước trong hoà bình, sự lãnh đạo của Đảng luôn phải thay đổi
cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam chúng ta. Trong quá trình đổi mới
đất nước, việc xây dựng Đảng diễn ra trong những điều kiện khác hẳn trước ở cả trong
và ngoài nước. Chính vì vậy, ngay từ khi mở đầu thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của
Đảng đã nêu ra bốn nội dung cần đổi mới: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới
tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đội mới đội ngũ cán bộ; đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác” [3, tr. 124]. Những nội dung đổi mới ấy đã được
thể hiện trong thực tiễn xây dựng Đảng trong những năm qua.
Với ý thức trách nhiệm vì dân, vì nước, tại Đại hội VI, Đảng đã dũng cảm thừa
nhận sai lầm, khuyết điểm của mình, nêu các nội dung đổi mới công tác xây dựng
Đảng: “Sau ĐHĐBTQ của Đảng, cần có kế hoạch tiến hành cuộc vận động làm trong
sạch Đảng, khắc phục những hiện tượng hư hỏng trong bộ máy nhà nước, đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [3, tr140].
Tại Đại hội VII, Đảng ta đã xác định ngày càng rõ hơn và đầy đủ hơn về nền
tửng tư tưởng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [4, tr. 127]. Đến Đại hội IX, Đảng ta xác
60
định khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trị, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta
khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi [8, tr.84].
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái
hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên [10, tr. 66].
2.2.5.2. Về lĩnh vực kinh tế
Trước khi diễn ra ĐHĐBTQ của Đảng lần thứ VI, nền kinh tế của nước ta lúc
đó đang lâm vào tình trạng trì trệ và bất ổn nghiêm trọng. Đó là sự trì trệ về sản xuất,
sự rối ren về phân phối, lưu thông, những khó khăn trong đời sống nhân dân, những
hiện tượng tiêu cực trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống… Để chuyển biến tình hình,
Đảng ta xác định tại Đại hội VI phải “đánh dấu sự đổi mới của Đảng ta về tư duy,
phong cách, tổ chức và cán bộ” [3, tr.7].
Đại hội VI đã nghiêm túc chỉ ra các nguyên nhân của thực trạng nói trên, đặc
biệt là nguyên nhân chủ quan, phê phán nghiêm khắc những sai lầm, thiếu sót cả ở cấp
độ quan điểm chiến lược lẫn giải pháp và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội. Trong Báo cáo chính trị đã chỉ rõ “Cho tới nay, cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp về căn bản bị xóa bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách,
thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi… Những sai lầm nói trên là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt
là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan” [3, tr. 23-26].
61
Từ sự phê phán trên, Đảng ta đã nhận ra cốt lõi vấn đề phát triển của Việt Nam
là ở cơ chế, phương thức vận hành nền kinh tế. Đây là điểm khởi đầu đúng đắn của
quá trình đổi mới toàn diện nhận thức về CNXH.
Đảng ta thẳng thắn nhận định “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm
nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, làm hạn chế việc
sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng…”,“Cơ chế đó chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hoá – tiền tệ”,
“cơ chế đó đẻ ra bộ máy quản lý cồng kềnh….. Đảng đã xác định phương hướng đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế là “xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế
mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”. Thực
chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế mà Đảng ta xác định là “cơ chế kế hoạch hoá
theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”
[3, tr.62, 63, 65].
Từ Đại hội VI, tư tưởng “mở cửa” lần đầu tiên được khẳng định. Đại hội đã
thông qua chương trình “hàng xuất khẩu” (trong số ba chương trình lớn: lương thực-
thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu); đề xuất chủ trương xây dựng Luật đầu tư
nước ngoài “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới
nhiều hình thức… Đi đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có chính sách và biện pháp
tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh
doanh” [3, tr.85]. Theo tinh thần đó, năm 1987, Chính phủ đã đệ trình và được Quốc
hội xem xét thông qua Luật đầu tư nước ngoài. Đây cũng là một đột phá quan trọng
trong tư duy kinh tế đổi mới của Đảng ta.
Sau khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Sau
đây gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội VII, Cương lĩnh đã đưa ra
định hướng lớn về nền kinh tế, đó là: “Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp” [5, tr.12].
Khác với Đại hội VI, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần tại Đại hội VII đã được phát triển lên thành chủ trương, chiến lược lâu dài trong thời
kỳ quá độ lên CNXH, cụ thể như: “bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” [4, tr.21].
Một bước tiến nổi bật trong tư duy kinh tế trong giai đoạn này là việc nêu tư
tưởng hiện đại hoá, gắn khái niệm “hiện đại” với khái niệm “công nghiệp hoá”. Cương
lĩnh (năm 1991) nêu luận điểm“công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại” và coi
62
đây là một trong những phương hướng cơ bản của “quá trình xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc” [5, tr.9].
Tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Khoá VII (tháng 1 – 1994), tư tưởng đột
phá này được định hình thành một khái niệm – quan niệm chính thức về công nghiệp
hoá của Việt Nam, đó là khái niệm “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Nhận định về quá
trình đổi mới những năm trước đó, Hội nghị chỉ rõ “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém
phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề
đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [6, tr.22].
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới, tư tưởng đổi mới tư duy về kinh
tế của Đảng ta tiếp tục được thể hiện qua các văn kiện tại Đại hội VIII. Cụ thể:
- Đảng khẳng định tính đồng bộ và toàn diện của quá trình đổi mới. Điều này được thể hiện ở chỗ, Đại hội đưa ra các luận điểm mang tầm chiến lược như “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”,“Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.” [7, tr.14]. Qua tư tưởng đổi mới trên cho chúng ta thấy Đảng ta đã có nhận thức đầy đủ hơn về công cuộc đổi mới, đó là đổi mới toàn diện và đồng bộ và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường để sự đổi mới về kinh tế đạt kết quả cao nhất.
- Đảng ta thừa nhận nhiều hình thức phân phối, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động, cho phép cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và tổ chức các tổng công ty. Điều này được thể hiện ở trong bản Báo cáo chính trị của BCHTW trình ra Đại hội: “nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất- kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động …Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”, “tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh phân tán lực lượng, vừa chống độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính trung gian”[7, tr.92, 94-95].
- Phát triển quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là“xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chât – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,.. dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [7, tr.80].
63
Trong văn kiện Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục định hướng nền kinh tế quá độ lên CNXH. Quan điểm “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN” ở Đại hội VIII đã được thay bằng quan điểm “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [8, tr.86].
Đối với quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược phát triển,
Đại hội IX cũng đạt được những bước tiến quan trọng như:
- Xác định mục tiêu năm 2010 “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển… tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [8, tr.88].
- Nêu tư tưởng “rút ngắn thời gian” thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
[8, tr.88].
- Coi “phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa” [8, tr.91].
Nếu như ở Đại hội IX, Đảng ta mới chỉ bước đầu định hướng về xây dựng thể
chế để kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN thì đến Đại hội X và Đại
hội XI, Đảng ta đã dần hoàn thiện các thể chế này để nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN của nước ta phát triển theo đúng phương châm đã đề ra, tránh lệch lạc
hoặc gây khó khăn trong quản lý vì Đảng nhận thức rất rõ khi kinh tế phát triển, chúng
ta muốn quản lý tốt thì phải có thể chế. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản” [10, tr.]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã định hướng phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối [10, tr. 73].
Các văn kiện tại các ĐHĐBTQ của Đảng trên đã thể hiện rất đầy đủ chủ trương,
đường lối đổi mới của Đảng ta về vấn đề kinh tế, đặc biệt là đổi mới từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ đây nước
ta từng bước đi lên CNXH theo định hướng mà Đảng ta đã lựa chọn. Các văn kiện Đại hội không chỉ đưa ra định hướng phát triển đất nước trong một giai đoạn nhất định mà
còn đánh giá lại các kết quả đã đạt trước đó của nhiệm kỳ trước, từ đó có cơ sở để tìm
ra nguyên nhân của hạn chế và đề ra mục tiêu, định hướng cho giai đoạn tới. Chính vì
vậy, trong các văn kiện Đại hội có cả nội dung về thành tựu đạt được. Từ khi công cuộc đổi mới đi vào cuộc sống, cho đến nay đã thu được những kết quả rất tích cực và
64
to lớn, trong đó thành tựu đầu tiên phải kể đến là trên lĩnh vực kinh tế. Điều này được
thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, đó là đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Trong Báo cáo chính trị của BCHTW khoá VI tại Đại hội VII đã đánh giá thành
tựu đầu tiên trong lĩnh vực kinh tế là “đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực
hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế (lương thực – thực thẩm, hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu). Tình hình lương thực – thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn
triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã vươn lên đáp
ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống
của nhân dân và cải thiện cán cân xuất - nhập khẩu” [4, tr.17, 18].
Về mức tăng trưởng kinh tế: Theo như chúng tôi tổng hợp từ các văn kiện Đại
hội từ năm 1986 đến năm 2011 thì mức tăng trưởng kinh tế các giai đoạn có sự khác
nhau đáng kể. Trong những năm đầu đổi mới (1986 – 1991) tương đối khó khăn, GDP
tăng trưởng còn tương đối chậm. Tuy nhiên, khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp
và đi vào thực tiễn với một xung lực mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng GDP được đẩy lên
một mức cao, thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2% [7, tr.58]. Cũng giai đoạn này thì “lạm
phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,7% năm 1991, 12,7% năm 1995.
Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là
15,8%, năm 1995 là 27,4%. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được
mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo” [7, tr.10]. Từ kết quả trên cho chúng ta thấy nền kinh
tế đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện. Về cơ bản “Nước ta đã ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn
một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một
thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[7, tr.12].
Trong giai đoạn 1996 – 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm đáng kể
(Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hằng năm xuống còn 7% [8, tr.69]). Nhưng
cũng chỉ vài năm sau, nhờ quá trình đổi mới và cải cách thể chế kinh tế tiếp tục được
đẩy mạnh, tố độ tăng trưởng đã khôi phục trở lại. Từ năm 2001 – 2005, GDP tăng bình
quân 7,51%/năm [9, tr.142]. Năm 2005, GDP theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỉ đồng,
bình quân đầu người trên 10 triệu đồng tương đương khoảng 640 USD [9, tr.142].
Đến giai đoạn 2006 – 2011 theo như bản Báo cáo chính trị của BCHTW trình Đại
hội XI thì “Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước
ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt
65
7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 – 2005, đạt 42,9%
GDP…; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD” [10, tr.150, 151].
Từ kết quả trên cho thấy, đổi mới đã tạo ra cơ hội để các thành phần kinh tế,
các lực lượng kinh tế phát triển, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Kết quả thu được khẳng định rằng các thành phần, lực lượng đó có tiềm năng to lớn;
chỉ cần có một cơ chế đúng và một không gian phát triển rộng mở, tiềm năng đó sẽ
được phát huy và nhanh chóng trở thành hiện thực.
Thứ hai, Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1990 là 38,74% [1, tr. 84], năm 2005 còn 20,9% [9, tr.145], năm 2010 còn 20,6% [10, tr. 152]; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1990 là 22,6% [7, tr. 59], năm 2005 41% [9, tr.145] và năm 2010 lên 41,1% [10, tr. 152]. Tỷ trọng khu vực dịch vụ sự tăng trưởng không ổn định như các khu vực khác. Năm 1990 là 38,6% [7, tr.59], năm 2005 xuống 38,1% [9, tr.145] và đến năm 2010 lại tăng lên 38,3% [10, tr.152].
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thứ ba, thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Năm 2005, khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP [9, tr. 146]. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các
66
nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp “khoảng 45,7% GDP của cả nước, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân” [9, tr. 146]. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP [9, tr. 146] và trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN dần dần được hình thành,
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ.
Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ
máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích
cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước,
các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có “quan hệ kinh tế - thương
mại với trên 200 nền kinh tế và tiếp nhận vốn đầu tư từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh
thổ”, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát
triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại [71, tr. 134].
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước đạt một số kết quả. “Giai đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3
lần, về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ
phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến” [10, tr. 153].
Thông qua các văn kiện tại từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng đã cung cấp nhiều
thông tin quan trọng về sự thay đổi tư duy kinh tế của Đảng ta trong từng giai đoạn cụ
thể. Nguồn sử liệu này không chỉ cung cấp thông tin có giá trị mà còn là cơ sở để các
ngành, các cấp căn cứ thực hiện và làm theo. Khi nghiên cứu về sự thay đổi tư duy
trên lĩnh vực kinh tế, ngoài văn kiện Đại hội còn có nhiều tài liệu khác phản ánh về
thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được, ví dụ như trong các báo cáo thống kê của Tổng
cục Thống kê, báo cáo của các ngành, các cấp trên từng lĩnh vực... nhưng những thông
tin từ tài liệu văn kiện này có thể khẳng định là những thông tin rất có giá trị, tổng kết
67
lại một giai đoạn phát triển của đất nước để có căn cứ định hướng cho giai đoạn tiếp
theo. Chính vì vậy, qua nguồn tài liệu này, người nghiên cứu sẽ có cái nhìn tổng thể và
toàn diện hơn về vấn đề phát triển tư duy kinh tế của Đảng ta từ lý luận đến thực tiễn
từ khi đổi mới đến nay.
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phát hiện
một số trường hợp cùng phản ánh về một số liệu cụ thể nhưng hai tài liệu lại phản ánh
khác nhau. Chẳng hạn như, cùng phản ánh về tỷ trọng của khu vực nông – lâm –
ngư nghiệp, khu vực công nghiệp, khu vực dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội của
năm 2005, 2010 nhưng trong bản Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn
qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016) do Ban Chỉ đạo tổng kết của Bộ Chính trị biên
soạn và trong các Văn kiện Đảng của từng kỳ Đại hội lại cho các kết quả khác nhau.
Điều này được thể hiện thông qua bẳng dưới đây:
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế ngành (%) trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
– thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016) [1, tr.84].
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Năm
20,47 41,02 38,01 2005
18,89 38,23 42,88 2010
Bảng 2: Cơ cấu kinh tế ngành (%) trong các Văn kiện Đảng [tác giả đã dẫn]
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Năm
21 41 38 2005
20,6 41,1 38,3 2010
Qua 2 bảng số liêu trên cho ta thấy, có sự chênh lệch về số liệu của từng khu
vực. Chúng ta có thể lý giải điều này là trong các văn kiện Đảng, do đây là văn bản
định hướng mang tính tổng hợp cao nên các số liệu có thể đã được làm tròn và không
chi tiết như những tài liệu phản ánh trực tiếp. Tuy nhiên sự khác nhau này cũng chỉ ra
rằng khi nghiên cứu về cùng một vấn đề sẽ có nhiều nguồn tài liệu khác nhau và người
nghiên cứu cần phải kết hợp với các nguồn tài liệu khác và có sự phân tích, đánh giá
để sử dụng một số liệu phù hợp.
68
2.2.5.3. Về lĩnh vực về văn hóa, xã hội
Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là nguồn sử liệu nghiên cứu quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về văn hóa – xã hội. Điều này được thể hiện thông
qua một số vấn đề như sau:
Tại Đại hội VI, Đảng ta tập trung bàn luận và đề ra các chủ trương, định hướng
về vấn đề đổi mới nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đổi mới tư duy
kinh tế là trọng tâm còn nội dung đổi mới về văn hóa mới chỉ nêu được ý tưởng ban
đầu mang tính gợi mở. Đại hội đặt ra yêu cầu đối với hoạt động văn hoá, văn nghệ đó
là “Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt
động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động đến tư tưởng, tâm
lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và trình độ thẩm mỹ của nhân dân” [3,
tr. 91]. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Văn học, nghệ thuật là một bộ
phận quan trọng trong nền văn hoá, gắn bó với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo” [4, tr. 83]. Cũng trong Đại hội VII, vai trò của việc xây dựng
gia đình văn hoá được thể hiện khá rõ. Đại hội khẳng định “Xây dựng gia đình văn
hoá mới có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực
lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống…” [4, tr. 83]. Cụ thể hoá tư tưởng tại
Đại hội VII, Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã thể chế hoá sự đổi mới tư duy của
Đảng về vai trò, vị trí của văn hoá, nêu rõ quan điểm chủ đạo của Nhà nước ta về văn
hoá. Đại hội VIII khẳng định “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội [7, tr. 110]
Báo cáo Chính trị của BCHTW khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII khẳng định đường lối: “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Báo cáo khẳng định“Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá
lành mạnh cho sự phát triển xã hội” [7, tr. 110, 111]. Cụ thể hoá đường lối của Đại
hội VIII, Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII đã ban hành Nghị quyết về Xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định
đây là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng về văn hoá trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, là mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn
hoá của Đảng ta.
Tiếp tục thực hiện đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta chủ trương hướng mọi hoạt
69
động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, động viên
và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội IX nhấn mạnh: “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội” [8,
tr. 114]. Tiếp đó, Đảng ta đã cụ thể hóa với những tiêu chí rõ ràng hơn: “Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo... phát huy tinh thần yêu nước, ý
chí tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [8, tr. 114]. Văn kiện định hướng
việc đẩy mạnh phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” [8, tr. 116]
và tư tưởng này được Đại hội X và Đại hội XI kế thừa và tiếp tục phát triển “Tiếp tục
củng cố và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đưa phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả” [10, tr. 41].
Đặc biệt lần đầu tiên trong văn kiện Đảng đề cập đến vấn đề “Bảo vệ và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ” [9, tr. 107]. Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội X, ngày 02/03/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg về tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ và đến ngày 11/11/2011, Quốc hội đã thông qua Luật Lưu trữ. Qua đó, công tác lưu trữ của các cơ quan, đơn vị được tăng cường, phát triển và ngày càng chuyên sâu. Tổ chức bộ máy lưu trữ được kiện toàn; trình độ công chức, viên chức làm công tác lưu trữ ở các cấp các ngành có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Qua 25 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hoá – xã hội đã đạt được những kết quả quan trọng. Những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, truyền thông đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá; sự tăng cường các thiết chế văn hoá cơ sở… làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội từng bước được nâng lên. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xoá đói, giảm nghèo đền ơn đáp nghĩa… đạt những kết quả tích cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhăn văn của dân tộc. Nguồn lực Nhà nước, của xã hội đầu tư cho văn hoá được nâng lên; hệ thống thiết chế văn hoá từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác dụng. Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hoá được mở rộng, bước đầu góp phần làm phong phú hơn đời sống văn hoá trong nước và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài.
Nếu như ở Đại hội VI, Đảng ta đặt nội dung giáo dục với tư cách là một bộ phận của chính sách xã hội thì tại Đại hội VII, Đảng ta đặt nội dung giáo dục gắn liền với khoa học, văn hóa, chính sách xã hội. Bên cạnh đó, đổi mới giáo dục - đào tạo còn
70
được thể hiện rõ trong các quan điểm hiện đại hóa một bước nội dung, phương pháp giáo dục; đa dạng hóa loại hình đào tạo và loại hình trường lớp; từng bước hình thành loại hình đào tạo và loại hình trường lớp; từng bước hình thành những trường bán công, dân lập, tư thục [4, tr.79, 82].
Quán triệt mục tiêu giáo dục - đào tạo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã nêu rõ các quan điểm chỉ đạo: Thứ nhất, cùng với khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo phải là quốc sách hàng đầu. Thứ hai, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thứ ba, giáo dục - đào tạo phải gắn với yêu cầu của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại. Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức đào tạo và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2006) đã chủ trương: “Đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Định hướng bao
trùm là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản
lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Tuy những nội dung thay đổi tư duy về văn hoá – xã hội chưa được thể hiện
nhiều trong các văn kiện, nhưng đây là những quan điểm, những định hướng mang
tính chỉ đạo, là căn cứ để Nhà nước ban hành văn bản cụ thể để phát triển, bảo tồn và
quản lý về các hoạt động văn hoá. Nếu như nghiên cứu dưới góc độ chủ trương, định
hướng thì trong văn kiện đã thể hiện rất rõ còn nếu nghiên cứu dưới góc độ chính sách
cụ thể, nhiệm vụ cụ thể và những kết quả đạt được như lĩnh vực kinh tế thì phải nghiên
cứu ở tài liệu các phông khác như phân phông BCHTW, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung
ương, Ban Khoa giáo Trung ương… Văn hoá – xã hội là một vấn đề khá nhảy cảm,
không có một chuẩn mực hay thước đo nào có thể đo, đếm được giá trị văn hoá cũng
như chuẩn mực đạo đức của con người. Chính vì vậy, khi nghiên cứu nguồn sử liệu
này dưới góc độ văn hoá – xã hội, người nghiên cứu cần nghiên cứu thêm nhiều nguồn
sử liệu khác để có cái nhìn tổng quát hơn về sự thay đổi tư duy của Đảng ta trên lĩnh
vực văn hoá, xã hội.
2.2.5.4. Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là nguồn sử liệu nghiên cứu quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới (1986-2011), cụ thể là:
Từ sau Đại hội VI của Đảng, trong quá trình đổi mới tư duy về quốc phòng đã
xuất hiện một thuật ngữ mới là “lực lượng quốc phòng”
71
Đại hội VII của Đảng xác định “Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận
chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn
của Tổ quốc, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược
của kẻ thù là nhiệm vụ quan trọng của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị”
[4, tr.85].
Đại hội VIII, tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về quốc phòng và an ninh thể hiện
ngày càng rõ hơn vai trò của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết kết hợp chặt chẽ giữa
quốc phòng với an ninh và đối ngoại, giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây
dựng kinh tế.
Đảng ta đã đổi mới nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Bảo vệ Tổ quốc
XHCN không chỉ là đối phó với hành động vũ trang xâm lược của kẻ địch từ bên
ngoài mà còn phải đặc biệt chăm lo xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó với
những thủ đoạn phi vũ trang của địch. Sức mạnh bảo vệ tổ quốc không chỉ là sức mạnh
của lực lượng vũ trang mà là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh
kinh tế, chính trị làm cơ sở.
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Bảo vệ tổ quốc XHCN là bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” [8, tr.117]. Nhận thức mới này của Đảng
mở ra nội dung bảo vệ Tổ quốc XHCN trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế, đã khắc phục sự phiến diện trong tư duy chỉ nhấn mạnh đến bảo
vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ thống
nhất, chặt chẽ, biện chứng giữa các nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong
giai đoạn mới.
2.2.5.5. Về lĩnh vực đối ngoại
So với các giai đoạn trước, giai đoạn này Đảng ta đã đổi mới nhận thức về thế
giới và khu vực. Từ nhận thức đúng những biến động của tình hình thế giới và xu thế
quốc tế, Đại hội VI đã có sự đổi mới sâu sắc về đường lối, chính sách đối ngoại đưa tới
sự điều chỉnh chiến lược rất cơ bản về đối ngoại.
Về mục tiêu đối ngoại, Đảng đặt cao nhiệm vụ giữ vững môi trường hoà bình
để phát triển đất nước. Đại hội VI chỉ rõ “Nhân dân ta đã có những khả năng mới để
giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh
tế, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr. 37], Đại hội đề ra nhiệm vụ của Đảng
72
và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại trong những năm tới là “ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng
cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và
hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng XHCN, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và CNXH” [3, tr. 99]. Đại hội đặt cơ sở nền móng cho việc mở rộng quan
hệ kinh tế ra ngoài các nước XHCN bằng chủ trương “Chúng ta cần tranh thủ những
điều kiện thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh
thủ mở rộng quan hệ với các nước khác” [3, tr. 99]. Triển khai chính sách này, tháng
12-1987, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, là bước đột phá cho kinh tế đối ngoại.
Đại hội VI cũng bước đầu có những điều chỉnh lớn về chính sách đối ngoại: chủ
trương bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc “Việt Nam sẵn sàng đàm phán với
Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá
quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á
và trên thế giới” [3, tr. 107]; khẳng định chính sách mới để giải quyết vấn đề
Campuchia: "rút quân tình nguyện Việt Nam về nước và tìm kiếm giải pháp chính trị
cho vấn đề Campuchia [3, tr. 108].
Đại hội VII đã tiếp nối và phát triển tư duy của Đại hội VI về quan hệ quốc tế,
thể hiện sự nhạy bén chính trị của Đảng trước những chuyển biến nhanh chóng và khó
lường của tình hình thế giới.
Đại hội VIII của Đảng đã hoàn chỉnh và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương mở
rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII, nhấn mạnh tiếp tục thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa; mở rộng quan hệ quốc
tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các trung tâm kinh tế,
chính trị khu vực và quốc tế; giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương
lượng. Cũng tại Đại hội này, Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân,
quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của
nhân dân các nước.
Điểm mới về chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong Đại hội IX là nhấn mạnh nhiệm
vụ hội nhập khu vực và quốc tế với tinh thần chủ động để tránh rơi vào thế bị động;
73
nhấn mạnh vấn đề chủ yếu, trước hết của hội nhập khu vực và quốc tế là hội nhập về
kinh tế. Đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới. Đại hội IX
đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [4, tr. 147] của Đại hội VII
thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [8, tr.119].
Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã dự báo tình hình thế giới và trong nước, với
những thời cơ, thuận lợi cho sự phát triển đan xen với những tình huống khó lường của
diễn biến tình hình thế giới. So với các văn kiện Đảng trước đó, tinh thần hội nhập
kinh tế quốc tế được xem là một quá trình của con đường đi lên CNXH. Trong bản
Báo cáo chính trị trình Đại hội IX đã khẳng định “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là
giữ vững môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững” [9, tr.
112]. So với đường lối đối ngoại của Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần “chủ động”, mà còn phải “tích cực”.
Đến Đại hội XI, đảng ta tiếp tục định hướng đường lối đối ngoại phát triển theo
chủ trương “mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Thực hiện nhất quán “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ” [9, tr.46].
Từ những đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đã
đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng. Ta đã phá được thế đất nước bị bao
vây, cấm vận, cô lập; đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế. Chúng ta đã
đổi mới tư duy nhận thức về thế giới, xem thế giới là một tổng thể, một thị trường, các
nước trên thế giới đều phụ thuộc lẫn nhau, trước hết về mặt kinh tế, an ninh và phát
triển. Trong quá trình phá thế bị bao vây, cô lập, ta đã chọn đúng khâu đột phá, chọn
bước đi đúng nên đã thành công: đã rút quân tình nguyện khỏi Campuchia. Tiếp theo
đó bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (tháng 11 -1991), với Mỹ (tháng 7-1995),
với Liên minh Châu Âu (tháng 10-1990) và gia nhập ASEAN (tháng 7-1995).
Tiếp tục lộ trình hội nhập khu vực và thế giới, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào
tháng 11-1998, ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng là một nỗ lực và thành công
lớn của Việt Nam trên đường hội nhập, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM)
với tư cách là một trong 25 thành viên sáng lập.
74
Đại hội VIII đã đánh giá: “Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố
quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận cải thiện và
nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [7, tr.63]
Tính đến Đại hội IX, nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan
hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ [8, tr. 72]. Đến tháng 11-2006, sau hơn 10
năm đàm phán, Việt Nam được chính thức kết nạp, trở thành thành viên thứ 150 của
WTO. Đây là một dấu mốc quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra
nhiều thuận lợi cho đất nước, phát triển thương mại, tranh thủ đầu tư nước ngoài phát triển
kinh tế. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam tiếp tục được các nước Châu Á nhất trí đề cử làm
uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc khoá 2008 – 2009.
Thực tế đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại chứng tỏ đường lối đối ngoại của Đảng
ta là đúng đắn, thể hiện sự trưởng thành vượt bậc về nhận thức, quan điểm, chiến lược,
chính sách đối ngoại. Và tất cả các vấn đề về đối ngoại từ đường lối, chủ trương đổi
mới qua từng giai đoạn, từng thời kỳ, về thành tựu mà chúng ta đạt được cho đến ngày
hôm nay đều được thể hiện rõ nét trong nội dung của văn kiện các kỳ ĐHĐBTQ của
Đảng. Tuy về phần thành tựu văn kiện chưa thể hiện nhiều, chỉ mang tính chất tổng kết
lại thành tựu và chủ yếu là định hướng đường lối phát triển đối ngoại trong tương lai
nhưng qua đó cũng giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát về sự thay đổi về tư
duy của Đảng ta về đường lối đối ngoại qua tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng.
2.3. Một số đặc điểm của nguồn sử liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của
Đảng trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Trên đây chúng tôi đã phân tích những giá trị của nguồn sử liệu các phông lưu
trữ ĐHĐBTQ của Đảng, tuy nhiên để khai thác, sử dụng nguồn sử liệu này thì cần chú
ý một số đặc điểm cơ bản sau đây:
2.3.1. Về nội dung, thành phần tài liệu của từng phông
Trong Kho Lưu trữ Trung ương hiện đang lưu giữ tương đối đầy đủ nội dung,
thành phần tài liệu hình thành trong quá trình tổ chức từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng
như: tài liệu về chuẩn bị, diễn biến và kết thúc Đại hội. Được sự quan tâm của các
đồng chí lãnh đạo cũng như lãnh đạo các cơ quan có trách nhiệm giúp Đại hội từ khâu
chuẩn bị đến tiến hành Đại hội nên tài liệu đã được thu thập ngay sau khi Đại hội kết
thúc, với đầy đủ từ bản dự thảo các văn kiện (qua các lần dự thảo) đến khi ban hành
75
chính thức, từ đơn thư góp ý đến thư, điện chúc mừng Đại hội, từ tài liệu phản ánh về
quá trình chuẩn bị nhân sự Đại hội đến tài liệu phản ánh về việc bầu cử và kết quả bầu
cử bộ máy lãnh đạo Đảng giữa hai kỳ Đại hội… được thu thập khá đầy đủ (trừ một số
ít tài liệu vì lý do khách quan nên chưa thu được hết như chúng tôi đã trình bày ở phần
Mức độ hoàn chỉnh của phông ở Chương I của Luận văn). Và hiện tại các tài liệu này
đều đã được tổ chức khoa học và tổ chức khai thác sử dụng cho các nhu cầu khác nhau
của độc giả.
2.3.2. Về độ chính xác của các tài liệu gốc với các xuất bản phẩm được công bố
Trong quá trình thực hiện viết luận văn này, chúng tôi đã đối chiếu nội dung
các văn kiện ĐHĐBTQ của Đảng được xuất bản với các bản dự thảo cuối cùng (sau
khi đã tiếp thu, chỉnh sửa theo ý kiến góp ý tại từng kỳ Đại hội) và chúng tôi thấy rằng:
Về cơ bản các cuốn văn kiện xuất bản là trùng khớp nội dung với các bản dự thảo gốc.
Ví dụ: Trong bản Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 (văn kiện
trình tại Đại hội XI): Phần chú thích ở trang 104 của Văn kiện Đảng lần thứ XI do Nhà
Xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011 là đã được sửa theo đúng nguyên bản
gốc, cụ thể: trong bản dự thảo cuối cùng, câu đó như sau: “Không kể số giường bệnh
của các trạm xá cấp xã” [35, tr. 94], từ trạm xá đã được Tổng bí thư sửa thành trạm y
tế và điều này đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sửa chữa theo đúng như bản
dự thảo gốc: “Không kể số giường bệnh của các trạm y tế cấp xã” [10, tr.104]. Hay
như ở trang 141, 142 của Văn kiện trên, trong bản dự thảo là: “Tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [35, tr. 114]. Sau đó đã
được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sửa: bỏ từ “rành mạch”, từ “chặt chẽ, có hiệu
quả” được thay bằng từ “và kiểm soát”. Sau khi sửa câu trên được viết lại như sau:
“Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc
quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” đúng như trong
cuốn Văn kiện xuất bản.
Để có được kết quả trên theo chúng tôi là do sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước nên các tài liệu được thu thập rất đầy đủ. Nếu không có sự quan tâm
và sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo, Cục Lưu trữ sẽ rất khó có thể tiến hành thu thập
được đầy đủ và nhanh chóng như vậy. Sự đầy đủ của tài liệu sẽ giúp nhà nghiên cứu
thấy được sự vật hoàn chỉnh hơn, phản ánh vấn đề đầy đủ và chính xác hơn. Sự quan
tâm của lãnh đạo được thể hiện bằng việc văn bản hoá thành quy định về thu thập tài
76
liệu và thành lập các phông lưu trữ tài liệu Đại hội. Từ Đại hội VII trở đi, ngay sau khi
Đại hội kết thúc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều ban hành các Quyết định về việc tập
trung tài liệu để lập Phông lưu trữ cho từng Đại hội. Trong các quyết định này quy
định rất rõ về việc giao trách nhiệm cho Văn phòng TW thu thập tài liệu, văn kiện để
thành lập phông Lưu trữ Đại hội; quy định các tiểu ban chuẩn bị văn kiện, chuẩn bị
nhân sự, tổ chức phục vụ, các cơ quan tham gia phục vụ Đại hội phải lập hồ sơ về
phần việc được Trung ương phân công và giao nộp những hồ sơ đó cho Văn phòng
Trung ương; đồng thời trong Quyết định còn quy định cụ thể các phông lưu trữ này
được bảo quản tại Văn phòng Trung ương.
2.3.3. Về văn phong của tài liệu
Tài liệu lưu trữ thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là những tài liệu
thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với đất nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội bằng Cương lĩnh, Chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;
bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên. Qua chủ trương, đường lối của Đảng sẽ được cụ
thể hoá bằng các văn bản như Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết, Báo cáo… đây đều
là những văn bản mang tính chính thống, nó quyết định vận mệnh đất nước, định
hướng đất nước. Đất nước phát triển ra sao, phát triển như thế nào là do sự định hướng
của Đảng. Do đó văn bản của Đảng sử dụng văn phong chính luận. Cũng chính vì tầm
quan trọng của nó mà trước khi trình Đại hội thông qua các văn kiện thì các bản dự
thảo văn kiện này đã được thảo luận, góp ý qua rất nhiều cấp khác nhau, từ Trung
ương đến địa phương, từ đông đảo quần chúng nhân dân đến các đội ngũ trí thức, Việt
kiều ta ở nước ngoài… và BCHTW, Bộ Chính trị, Ban Ban Bí thư cũng đã tổ chức rất
nhiều cuộc góp ý kiến vào các bản dự thảo văn kiện này để bổ sung, hoàn chỉnh làm
cho các văn kiện trình Đại hội thật sự là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, đồng
thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn cho phù hợp.
Thông qua định hướng của Đảng tại Đại hội mà các cơ quan Nhà nước cụ thể hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện đường lối của Đảng và quản lý đất nước. Do đó, văn phong trong các văn kiện phải cô đọng, xúc tích, mang tính định hướng cao và đặc biệt phải rất chính xác.
Chẳng hạn như: Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (gọi tắt là Cương lĩnh 1991). Trong bản Cương lĩnh năm 1991 đã xác định rõ nội dung và tính chất của thời đại và làm nổi bật hai nội dung cơ bản. Một là: Quan niệm tổng quát về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Hai là: Những phương hướng cơ bản để xây dựng CNXH ở nước ta. Cương lĩnh đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước
77
ta, đặt cơ sở cho sự phát triển nhận thức lý luận về CNXH ở Việt Nam trong các nhiệm kỳ đại hội sau đó, nhất là Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Thể chế hoá Cương lĩnh năm 1991, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng của nước ta trong một giai đoạn nhất định. Do đó văn phong được sử dụng trong Cương lĩnh phải cực kỳ chính xác.
Thông qua văn phong được sử dụng trong các văn kiện Đại hội còn thể hiện quá trình phát triển nhận thức của lãnh đạo Đảng ta. Chẳng hạn như thuật ngữ “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” xuất hiện trong văn kiện Đại hội VII [4, tr. 96] là do có sự kế thừa và phát triển từ thuật ngữ “Đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” lần đầu tiên xuất hiện ở Đại hội VI [3, tr.124]. Đến Đại hội VII đã điều chỉnh thành “Đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác”. Chúng ta có thể hiểu, Phương thức lãnh đạo là thuộc về tổ chức đảng, còn phong cách công tác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng tức là đòi hỏi phải xác định cách lãnh đạo thích hợp đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng” do các tác giả Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) đã chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng là những cách thức, hình thức, biện pháp gắn với những quan điểm và nguyên tắc xác định, được các tổ chức đảng, các cấp uỷ đảng lựa chọn và sử dụng để tác động vào những đối tượng lãnh đạo của Đảng, với tính chất là chỉ đường, hướng dẫn cho những đối tượng đó thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Còn phong cách công tác (hay tác phong) là lề lối làm việc, cung cách, cách thức, phong thái của một cán bộ, đảng viên, thể hiện trong những hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao”. [70, tr.124].
Như vậy có thể thấy nếu dùng thuật ngữ “Phong cách lãnh đạo” sẽ không chính xác bằng thuật ngữ “phương thức lãnh đạo”. Sự thay đổi câu chữ trên cho chúng chúng ta thấy rằng: từng câu, từng chữ trong văn kiện đều được lựa chọn và cân nhắc rất kỹ để sao cho thật đúng và chính xác.
2.3.4. Về mức độ hoàn chỉnh của phông
Mặc dù, công tác thu thập tài liệu sau khi Đại hội kết thúc đã được thực hiện tương đối tốt nhưng vẫn còn tình trạng thiếu một số nhóm tài liệu trong phông do xác định ranh giới tài liệu giữa các phông chưa rõ ràng. Ngoài nhóm tài liệu phông Đại hội VI, Đại hội VII còn thiếu do đang nằm ở một số phông khác trong Kho (như đã trình bày ở phần mức độ hoàn chỉnh của phông ở Chương 1) thì còn thiếu một số bản dự thảo Cương lĩnh năm 1991 hay như Quyết định thành lập Tiểu ban sửa đổi, bổ sung Điểu lệ Đảng ở Đại hội VI.
Ngoài ra, khi nghiên cứu nguồn sử liệu này độc giả cũng cần so sánh, đối chiếu giữa
văn kiện xuất bản với bản dự thảo gốc.
78
Như đã nói ở trên, chúng tôi dùng từ “về cơ bản…” chứ không khẳng định là tất cả đều đúng với bản dự thảo gốc là do trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy đôi chỗ trong các văn kiện khác vẫn còn sự khác nhau giữa văn kiện xuất bản với bản dự thảo gốc. Điều này được thể hiện ở một số ví dụ cụ thể như:
Ví dụ 1: tại trang 267 của văn kiện Đại hội XI xuất bản công khai, bản Báo cáo tiếp thu giải trình của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các Đại biểu đối với các văn kiện Đại hội XI của Đảng bên dưới có dòng chữ “Do đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá X trình bày ngày 18 tháng 1 năm 2011” [10, tr.267]. Và khi chúng tôi đối chiếu với bản gốc cuối cùng mang đi in thì câu này nguyên bản như sau: “do đồng chí Trương Tấn Sang trình bày ngày 18 tháng 01 năm 2011”,
Cũng ở chính văn bản trên, câu: “Một số ý kiến cho rằng, nhiều chỉ tiêu cụ thể đề ra là do cao quá, khó thực hiện trong điều kiện phải phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, nâng cao chất lượng tăng trường” ở bản dự thảo gốc [35, tr. 202], nhưng trong văn kiện xuất bản câu đó như sau: “Một số ý kiến cho rằng, nhiều chỉ tiêu cụ thể đề ra là do cao quá, khó thực hiện trong điều kiện vừa phải phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, vừa phải nâng cao chất lượng tăng trường;” [10, tr. 285]. Trong bản gốc dự thảo văn kiện thì từ “vừa” và “vừa phải” đã được gạch bỏ, nhưng trong văn kiện Đảng Đại hội XI khi xuất bản công khai vẫn có.
Ví dụ 2: Trong bản dự thảo gốc Báo cáo của BCHTW tại Đại hội VI về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986 – 1990 có đoạn viết: “Bước vào 5 năm này, bên cạnh những thành tựu quan trọng về phát triển sản xuất,… Sản xuất tuy có tăng, nhưng tăng quá chậm so với yêu cầu và khả năng thực tế” [21, tr.147], từ “quá chậm” sau đó đã được người có trách nhiệm sửa thành “tăng thấp” [21, tr.147] nhưng trong bản Văn kiện xuất bản công khai từ đó là “tăng chậm” [3, tr.148].
Chính vì vậy, khi nghiên cứu độc giả phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác
nhau và rất cần các bản tài liệu gốc để so sánh đối chiếu.
79
Tiểu kết chương 2
Từ việc phân tích giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ Đại hội, chúng tôi
thấy rằng, đây là khối tài liệu thực sự cần thiết và rất có giá trị trong việc nghiên cứu
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, lịch sử từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng nói
riêng. Thông qua khối tài liệu này các nhà nghiên cứu có thể dựng lại bức tranh toàn
cảnh về quá trình tổ chức một kỳ ĐHĐBTQ của Đảng bất kỳ một cách dẽ dàng và đầy
đủ. Trong thực tiễn các nhà nghiên cứu lịch sử hay các độc giả thường hay khai thác
khối tài liệu này để phục vụ chính công việc hàng ngày của mình, cũng như phục vụ
chính cho các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng sau và trong đó có một số yêu cầu khai thác
phục vụ chính việc viết lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy có thể nói, giá trị
sử liệu của các tài liệu lưu trữ này bước đầu đã được mọi người nhìn nhận và quan
tâm. Vậy với những giá trị mà những tài liệu này phản ánh thì công tác phát huy giá trị
của chúng trong thời gian qua như thế nào, chúng đã phát huy tối đa giá trị của mình
hay chưa?. Vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày tại Chương 3 của luận văn.
80
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP , KIẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ SỬ LIỆU
TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ ĐHĐBTQ CỦA ĐẢNG
Với những giá trị như chúng tôi đã trình bày ở Chương 2, tài liệu các phông lưu
trữ ĐHĐBTQ của Đảng giúp phục vụ nhiều nhu cầu nghiên cứu khác nhau của độc
giả, đặc biệt là trong vấn đề nghiên cứu lịch sử Đảng. Bản thân tài liệu lưu trữ đã có
giá trị tự thân nhưng nếu những giá trị đó không được phát huy thì tài liệu này cũng
chỉ như những tài liệu bình thường khác. Giá trị đó càng ngày càng được phát huy và
cần phải được nâng cao việc sử dụng hàm lượng thông tin tài liệu trong việc nghiên
cứu lịch sử Đảng. Mục tiêu cuối cùng của công tác lưu trữ chính là phục vụ các nhu
cầu nghiên cứu khác nhau của độc giả nhằm giúp các nhà nghiên cứu tiếp cận với
thông tin quá khứ bằng chính tài liệu gốc, tài liệu có độ tin cậy và độ chính xác cao.
Như vậy, để tất cả mọi người biết đến khối tài liệu này, để tất cả mọi người đều có thể
sử dụng chúng như một nguồn sử liệu khi nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam thì tài liệu đó phải được đưa ra phục vụ các nhu cầu nghiên cứu khác nhau của
độc giả nhằm thực hiện việc bảo vệ và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ theo đúng
như định hướng của Đảng ta tại Đại hội X.
3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác sử dụng tài liệu các phông lưu
trữ ĐHĐBTQ của Đảng trong thời gian qua
3.1.1. Công tác tổ chức khoa học tài liệu
Để phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ nói chung tài liệu các phông Lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng đạt kết quả cao, bên cạnh việc sử dụng các hình thức và
phương pháp phát huy giá trị cụ thể thì còn một số khâu nghiệp vụ cũng đóng vai trò
rất quan trọng, đó chính là công tác tổ chức khoa học tài liệu. Bởi lẽ muốn tài liệu
được phục vụ nhanh, kịp thời và chính xác thì tài liệu đó phải được sắp xếp, tổ chức
khoa học. Tổ chức khoa học ở đây nghĩa là tài liệu đó phải được phân loại theo
phương án nhất định, được xác định giá trị để định thời hạn bảo quản, được thống kê
và được xây dựng công cụ tra cứu cụ thể. Đối với từng phông lưu trữ, công tác tổ chức
khoa học được làm tốt hay không tuỳ thuộc vào khối tài liệu đó có đầy đủ hay không,
tài liệu đó có giá trị để giữ lại hay không... Đối với tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng, đây đều là những tài liệu rất có giá trị và chúng đều đã được
chỉnh lý, được hệ thống hoá khoa học, do đó giúp phục vụ tốt các yêu cầu khai thác
của độc giả. Cụ thể tình hình tổ chức khoa học khối tài liệu này như sau:
81
Một là, Khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đều đã được phân loại, lập hồ sơ hoàn chỉnh. Đây là một trong những khối phông được tiến hành thu thập và chỉnh lý nhanh nhất. Ngay sau khi ĐHĐBTQ của Đảng kết thúc, Cục Lưu trữ đã cử cán bộ đi thu thập tài liệu tại Hội trường, của Vụ Văn thư, của các Tiểu ban giúp việc... Quá trình này được tiến hành khá nhanh chóng do được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Văn phòng Trung ương. Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, Cục Lưu trữ đã giao cho phòng chức năng chỉnh lý hoàn chỉnh các phông và được hệ thống hoá một cách khoa học. Việc thu thập và chỉnh lý tài liệu ngay sau đó giúp chúng ta nắm được sự thiếu đủ của tài liệu trong phông, khi đó nhanh chóng có phương án để tiếp tục đi thu thập bổ sung cho hoàn chỉnh.
Tài liệu các Phông ĐHĐBTQ của Đảng được phân loại theo nhóm tài liệu chuẩn bị, nhóm tài liệu diễn biến và nhóm tài liệu về công tác tuyên truyền, phục vụ Đại hội. Việc lựa chọn phương án này nhằm không xáo trộn sự hình thành tự nhiên của tài liệu, thuận lợi cho việc bổ sung và bảo quản tài liệu, phục vụ các yêu cầu khai thác nhanh chóng và chính xác nhất. Khi được phân loại ra nhóm lớn, nhóm nhỏ và được chỉnh lý hoàn chỉnh, được hệ thống hoá khoa học, các tài liệu này đã phát huy giá trị của mình. Đây là tiền đề quan trọng giúp quản lý và phục vụ khai thác được nhanh chóng và chính xác hơn.
Hai là, Cục Lưu trữ đã xây dựng được công cụ tra cứu đối với tất cả các phông và sưu tập lưu trữ để phục vụ các nhu cầu khác nhau của độc giả. Toàn bộ tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đều có công cụ tra cứu là các quyển mục lục hồ sơ và CSDL mục lục hồ sơ.
- Mục lục hồ sơ: là bản thống kê hồ sơ, tài liệu có giá trị lịch sử của một phông lưu trữ [43, tr. 253], đây vừa là công cụ thống kê vừa là công cụ tra cứu hồ sơ/ĐVBQ có trong từng phông lưu trữ. Với vai trò là công cụ thống kê thì bản mục lục này cho chúng ta biết trong phông ĐHĐBTQ của Đảng này có tổng số bao nhiêu hồ sơ/ĐVBQ. Với vai trò là công cụ tra cứu thì đây là phương tiện tra cứu tiêu đề hồ sơ (ĐVBQ). Trong quyển mục lục này thống kê tiêu đề hồ sơ của toàn bộ các ĐVBQ. Do đó, khi muốn tìm tài liệu nào chỉ cần đọc quyển mục lục là biết có hay không. Hiện nay, loại công cụ tra cứu truyền thống này vẫn được sử dụng thường xuyên để phục vụ các yêu cầu khai thác, sử dụng tài liệu tại Kho Lưu trữ Trung ương nói chung và các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng.
- CSDL mục lục hồ sơ (công cụ tra cứu điện tử): hình thức tra cứu này được Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương ứng dụng đối với toàn bộ tài liệu trong Kho Lưu trữ Trung ương trong đó có các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng. Đây là công cụ tra cứu được xây dựng trên hệ thống phầm mềm Lotus Notes (hiện nay phần mềm đã được nâng cấp lên phiên bản Lotus Notes 8.5). Từ khi áp dụng hình thức tra cứu này
82
đã giúp công tác quản lý và tra tìm tài liệu được nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn nhằm phục vụ các yêu cầu khai thác nhanh hơn. Đối với các phông Lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng hiện nay, Kho Lưu trữ Trung ương mới áp dụng với hai hình thức công cụ tra cứu điện tử, đó là: cơ sở sữ liệu (CSDL) mục lục hồ sơ và CSDL tài liệu Đại hội XI.
Đối với CSDL tài liệu Đại hội XI: Đây là CSDL thông tin cấp 2. CSDL này được xây dựng đến từng tài liệu giúp tra tìm tài liệu rất nhanh chóng và thuận lợi. Bởi lẽ, nếu như trước đây, muốn biết trong hồ sơ (ĐVBQ) này có tài liệu cần tìm hay không thì phải đọc trực tiếp mục lục tài liệu và như vậy mất rất nhiều thời gian. Nhưng từ khi áp dụng CSDL này, cán bộ quản lý cũng như cán bộ phục vụ khai thác chỉ cần ngồi trước máy tính và vào CSDL tài liệu này là có thể biết được có tài liệu cần tìm hay không. Do đó rất thuận tiện trong việc quản lý và phục vụ khai thác.
Ba là, toàn bộ tài liệu đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương luôn được đảm bảo an toàn, khoa học và hợp lý. Khi tài liệu được thu thập về đã được phòng chức năng chỉnh lý hoàn chỉnh ngay sau đấy; trước khi đưa vào bảo quản trong Kho thì toàn bộ tài liệu đã được khử trùng và vệ sinh sạch sẽ, được làm phẳng, tháo bỏ ghim, kẹp để tránh làm hư hỏng tài liệu, sau đó cho vào cặp, hộp, đưa lên giá đựng tài liệu và được bảo quản trong môi trường nhiệt độ, độ ẩm theo tiêu chuẩn của kho lưu trữ chuyên dụng với đầy đủ trang thiết bị cần thiết như: hệ thống phòng cháy, chữa cháy, hệ thống bảo ôn, hệ thống điều hòa nhiệt độ, độ ẩm luôn ổn định… và có một Tổ trực Trung tâm luôn túc trực 24/24h để theo dõi và đảm bảo an toàn cho tài liệu.
- Hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm trên, chúng tôi nhận thấy công tác tổ chức khoa học
tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng còn một số hạn chế sau:
Một là, Công tác xác định giá trị tài liệu chưa thống nhất
Tuy toàn bộ hồ sơ thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đều đã được xác định giá trị và định thời hạn bảo quản cụ thể, nhưng trong công tác xác định giá trị tài liệu còn nhiều điểm chưa thống nhất.
+ Qua nghiên cứu Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, chúng tôi thấy có 25 hồ sơ được định thời hạn bảo quản là 15 năm, trong đó có 08 hồ sơ cần phải xem xét lại về thời hạn bảo quản bởi những hồ sơ này có nhiều tài liệu rất có giá trị và cùng dạng tài liệu này nhưng ở các phông Đại hội sau đều được xác định thời hạn bảo quản vĩnh viễn.
+ Một số hồ sơ đã quá thời hạn xét lại giá trị hoặc cần trả về phông cá nhân
nhưng chưa được tiến hành.
83
Cũng trong phông Đại hội VI, chúng tôi khảo sát thấy: trong số 25 hồ sơ có thời
hạn bảo quản là 15 năm, ngoài 08 hồ sơ chúng tôi đề nghị nâng thời hạn bảo quản lên
vĩnh viễn thì có 17 hồ sơ khác cần được đưa ra đánh giá lại giá trị [45, tr. 01, 02, 05];
ngoài ra có 5 đơn vị bảo quản sau 5 năm sẽ trả về phông cá nhân các đồng chí lãnh
đạo; 4 đơn vị bảo quản sau 5 năm sẽ loại.
Hai là, Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống công cụ tra cứu tài liệu các phông
Lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng thời gian qua tuy đã được thực hiện nhưng chưa đồng bộ.
Ngoài việc xây dựng CSDL mục lục hồ sơ thì mới chỉ xây dựng CSDL tài liệu Đại hội
XI còn tài liệu của các Đại hội trước đó chưa được xây dựng.
3.1.2. Công tác khai thác sử dụng tài liệu
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy công tác tổ chức sử dụng tài liệu các
phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng (1986 – 2011) đã đạt được những kết quả như sau:
Một là, tài liệu trong các phông này ngày càng được đưa ra khai thác, sử dụng
phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo số liệu
thống kê tại sổ theo dõi khai thác, sử dụng tài liệu tại Kho Lưu trữ Trung ương, tình
hình độc giả khai thác, sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm
2005 đến năm 2015 ở cả 3 hình thức: đọc, sao chụp và mượn như sau:
Năm Số lượng yêu cầu khai thác tài liệu Số lượng hồ sơ đưa ra khai thác Số lượng tài liệu được khai thác
2005 21 56 31
2006 36 195 46
2007 4 7 5
2008 7 25 8
2009 24 329 80
2010 43 165 66
2011 24 81 40
2012 2 16 0
2013 12 60 32
2014 29 134 24
2015 46 91 189
521 Tổng số: 248 1.159
84
Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy, những năm có số lượng yêu cầu khai thác
cao đó là cuối năm 2005, đầu năm 2006, 2010, 2015, là những năm chuẩn bị cho
ĐHĐBTQ của Đảng lần thứ X, XI, XII và những năm có số lượng yêu cầu thấp đó là
những năm sau khi ĐHĐBTQ của Đảng diễn ra. Đối tượng nghiên cứu với tần xuất
cao là các cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ trong các tiểu ban chuẩn bị cho Đại
hội kế tiếp. Qua đó chúng ta cũng thấy được rất nhiều yêu cầu khai thác phục vụ chính
cho việc chuẩn bị ĐHĐBTQ của Đảng.
Đối tượng khai thác chủ yếu là lãnh đạo Đảng, Nhà nước; cán bộ, chuyên viên
công tác tại Văn phòng Trung ương và các ban tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung
ương; cán bộ, đảng viên các bộ, ban, ngành ở Trung ương; cấp uỷ địa phương và các
nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khoa học, học viên cao học… Do tính chất đặc thù của tài
liệu lưu trữ Đảng là thể hiện tính định hướng, chủ trương, chính sách phát triển đất
nước, do đó, đối tượng nghiên cứu với tần xuất cao là các cơ quan, cá nhân được giao
nhiệm vụ trong các Tiểu ban chuẩn bị cho lần Đại hội kế tiếp, tiếp theo là các nhà
nghiên cứu đến khai thác sử dụng tài liệu để viết báo cáo tổng kết kinh nghiệm, viết
lịch sử, xác minh sự kiện lịch sử…
Mục đích nghiên cứu của các đối tượng khai thác trên là để phục vụ lãnh đạo,
phục vụ các cuộc họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCHTW có bàn về việc chuẩn bị văn
kiện, nhân sự Đại hội, bàn việc tổ chức Đại hội (120 yêu cầu); phục vụ viết dự thảo
văn kiện cho các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng (40 yêu cầu), phục vụ biên soạn sách lịch sử
biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam (tập 1, 2, 3), viết lịch sử của các cơ quan, tổ chức (10
yêu cầu); làm chương trình thời sự, xây dựng phim, tư liệu tuyên truyền (5 yêu cầu); viết
luận văn thạc sỹ, tiến sĩ, đề tài khoa học (7 yêu cầu); phục vụ triển lãm (5 cuộc).
Các hình thức khai thác chủ yếu là: đọc (120 yêu cầu), sao chụp (114 yêu cầu)
và mượn (14 yêu cầu).
- Phục vụ trưng bày, triển lãm: Cục Lưu trữ đã phối hợp với một số cơ quan tổ
chức trưng bày, triển lãm các tài liệu Đại hội như: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Cương
lĩnh và thành quả”. Kết hợp với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III tổ chức triển lãm:
“Việt Nam – 25 năm trên đường đổi mới”. Phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức triển lãm “100 năm Bác Hồ ra đi
tìm đường cứu nước”. Gần đây nhất, ngày 12/01/2016, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương phối hợp với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức triển lãm: “Đảng Cộng
sản Việt Nam và công cuộc đổi mới đất nước (1986 – 2016)”… Các cuộc triển lãm đã
thu hút đông đảo độc giả đến xem, qua đó rất nhiều tài liệu lưu trữ thuộc các phông
lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đã được trưng bày, giới thiệu như: văn kiện các kỳ
85
ĐHĐBTQ của Đảng, Nghị quyết Đại hội, dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (Bản dự thảo tháng 03/1988)… Nhiều tài liệu
quý, hiện vật lần đầu tiên được trưng bày tại các cuộc triển lãm đã có tác dụng tuyên
truyền mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên vào xem triển lãm. Đây
là một trong những hình thức công bố giới thiệu tài liệu lưu trữ có hiệu quả thiết thực.
- Phục vụ công bố tài liệu trên các xuất bản phẩm
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về việc xuất bản bộ Văn kiện Đảng toàn
tập, Cục Lưu trữ đã giúp Ban chỉ đạo xây dựng bản thảo và Hội đồng xuất bản Văn
kiện Đảng toàn tập lựa chọn những tài liệu có giá trị đưa vào các tập văn kiện Đảng, đến nay bộ Văn kiện Đảng toàn tập với 54 tập5 đã hoàn thành, qua đó đã giúp các nhà
nghiên cứu, cán bộ, đảng viên tra cứu, giảng dạy, học tập, nghiên cứu về lịch sử Đảng.
Hiện nay đang tiến hành biên soạn 15 tập tiếp theo, tài liệu giai đoạn 1996 đến 2010.
- Phục vụ viết sách và công trình nghiên cứu
Bằng các nguồn tài liệu được công bố và khai thác trực tiếp từ nguồn tài liệu
lưu trữ tại các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng, nhiều công trình, tác phẩm lớn về
lịch sử Đảng, về công cuộc đổi mới của Đảng ta đã lần lượt ra đời. Có thể kể đến như:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tập 1, 2, 3); “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)” của Ban Chỉ đạo Tổng kết lý luận;
“Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” hay “Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước” của GS. TS Nguyễn Phú Trọng;
“Đổi mới sâu rộng, phát triển đất nước nhanh và bền vững, tiến cùng thời đại” (tập 1,
tập 2) của tác giả Phan Văn Khải; “20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã hội
và phát triển văn hóa” do tác giả Nguyễn Khoa Điềm là chủ biên. “Đảng Cộng sản
Việt Nam, những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội” do TS Doãn
Hùng, TS Nguyễn Ngọc Hà, TS Đoàn Minh Huấn đồng chủ biên. Mới đây nhất, tài
liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng tiếp tục được Ban Chỉ đạo Tổng kết lý luận
sử dụng để làm căn cứ viết “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 30
năm đổi mới (1986-2016)”…
Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, nguồn sử liệu này cũng góp phần giúp các
5Bộ Văn kiện Đảng toàn tập gồm 54 tập, tập 1 (năm 1925) đến tập 54 (năm 1995).
nhà nghiên cứu cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu mới, các tập giáo trình giảng
86
dạy có giá trị, làm phong phú thêm lịch sử Đảng và đóng góp vào công tác tư tưởng,
công tác lý luận của Đảng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: “Quá
trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam trong quá trình đổi mới (1986-2006)” của TS Lê Phương
Thảo; “Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của Ths
Nguyễn Thị Thanh Huyền; “Quá trình hình thành và phát triển đường lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới” của TS Đặng Văn Lợi; “Những bài
học chủ yếu của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới” của TS Doãn
Hùng; “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986-2006)” của TS Phạm
Xuân Mỹ; “Quá trình nhận thức và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong đường lối đổi mới của Đảng (1986-2006” của TS Đoàn Minh Huấn.
Bên cạnh đó tài liệu phông lưu trữ BCHTW là nguồn sử liệu nghiên cứu các đề tài
khoa học của Văn phòng Trung ương như “Nghiên cứu tình hình kinh tế tập thể, hợp
tác xã trong quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại kinh tế” của tác giả
Nguyễn Văn Cường.
- Về tổ chức hội thảo chuyên đề phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Từ năm 2000
đến năm 2012, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng đã tổ chức được 02 cuộc hội
thảo chuyên đề về phát huy giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong đó có công tác phát huy giá trị tài liệu Kho Lưu trữ Trung ương. Tại hội thảo, đã
có rất nhiều bài viết của lãnh đạo Đảng ở Trung ương và địa phương, các bài tham
luận của các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ công tác trong ngành lưu trữ tham gia. Qua
2 cuộc hội thảo trên nhiều vấn đề còn vướng mắc trong công tác phát huy giá trị tài
liệu lưu trữ đã được giải quyết như về thủ tục khai thác, đối tượng khai thác và việc
tăng cường hơn nữa công tác phát huy giá trị của các tài liệu lưu trữ trong tương lai.
Hai là, Kho Lưu trữ Trung ương có phòng đọc riêng với đầy đủ trang thiết bị
như: cammera giám sát, bàn ghế, hệ thống máy tính, đèn điện, quạt điện, điều hòa,
phục vụ khai thác tài liệu một cách hiệu quả. Cán bộ phụ trách công tác khai thác, sử
dụng tài liệu có trình độ, nắm vững kiến thức chuyên môn, tin học; am hiểu về thành
phần và nội dung tài liệu của các phông; có thái độ cởi mở, nhiệt tình, chu đáo, có
nhiều kinh nghiệm trong việc phục vụ các yêu cầu khai thác và công tác công bố.
Ba là, thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu nói chung và khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng ngày càng đơn giản, nhanh gọn. Qua quá trình
87
khai thác tài liệu để thực hiện đề tài, cũng như nghiên cứu hồ sơ khai thác của các độc giả, chúng tôi nhận thấy, hầu hết các tài liệu được kê trong phiếu yêu cầu khai thác, sử dụng đều được đáp ứng nếu tài liệu vẫn ở trong Kho và không thuộc danh mục tài liệu hạn chế sử dụng (liên quan đến tình trạng vật lý tài liệu hoặc đang được xử lý nghiệp vụ). Cục Lưu trữ cũng hết sức tạo điều kiện cho độc giả khi có nhu cầu sao, chụp tài liệu. Đặc biệt là đối với những tài liệu sao chụp độc giả đều không phải trả phí.
Bốn là, hệ thống công cụ quản lý, tra cứu nguồn tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng hiện nay tương đối khoa học và hợp lý. Bên cạnh các công cụ tra cứu truyền thống là các quyển mục lục hồ sơ thì toàn bộ thông tin về tiêu đề hồ sơ, tài liệu đã được lập cơ sở dữ liệu quản lý và tra tìm tự động trên máy vi tính.
Năm là, Nhận thức của các đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Văn phòng Trung ương đối với công tác tổ chức khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ ngày càng được nâng cao. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước rất quan tâm và có sự chỉ đạo sát sao, đầu tư về cơ sở vật chất cho Cục Lưu trữ (hiện nay Ban Bí thư đã đồng ý chủ trương cho Cục Lưu trữ xây dựng Kho Lưu trữ Bảo hiểm của Trung ương Đảng (cơ sở lưu trữ 2) ở xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội để phục vụ khai thác mở rộng đối tượng). Khi đó người khai thác có nhiều cơ hội để khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ hơn.
Hạn chế:
Một là, thông tin trong tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng rất phong phú và đa dạng nhưng số lượng khai thác, sử dụng các phông này thấp, chưa tương xứng với những giá trị mà chúng đang có.
Hai là, Cục Lưu trữ vẫn chưa mở rộng thêm các hình thức khai thác, sử dụng mới nhằm phát huy hơn nữa giá trị tài liệu như: tổ chức triển lãm các tài liệu đã được giải mật, tổ chức các chuyên đề nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua tài liệu lưu trữ trong đó có tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng, tăng cường viết bài công bố trên các tạp chí chuyên nghành giới thiệu các tài liệu này... Điều này hạn chế số lượng độc giả có thể tiếp cận đến tài liệu lưu trữ. Hơn nữa, các hình thức như công bố tài liệu, viết bài trên các tạp chí, trang Web… còn hạn chế, chưa tương xứng với những thông tin mà tài liệu lưu trữ các phông ĐHĐBTQ của Đảng phản ánh.
Hình thức khai thác, sử dụng tài liệu được sử dụng chủ yếu cho độc giả vẫn là sử dụng tài liệu trực tiếp, đọc tài liệu tại phòng đọc thậm chí ít được sao chụp tài liệu, thủ tục xét duyệt tài liệu còn phức tạp.
Ba là, Ít tổ chức hội thảo khoa học chuyên đề phát huy giá trị tài liệu lưu trữ.
Như đã nói ở trên, mặc dù từ năm 2000 đến năm 2012, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương đã tổ chức 02 cuộc hội thảo chuyên đề trên. Tuy nhiên, với thời gian hơn 10
năm, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương mới tổ chức được 02 cuộc hội thảo là hơi ít
88
so với yêu cầu đặt ra. Đặc biệt từ năm 2013 cho đến nay, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương chưa tổ chức hội thảo chuyên đề nào về vấn đề này. Vì vậy, trong thời
gian tới, Cục Lưu trữ cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo chuyên đề phát huy
giá trị sử liệu tài liệu lưu trữ taị Kho Lưu trữ Trung ương để tài liệu các Phông
ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng, tài liệu Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản nói chung có thể
phát huy được tối đa giá trị của mình, để độc giả ngày càng biết đến và được tiếp cận
với tài liệu lưu trữ hơn nữa.
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và
khai thác, sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
Thứ nhất, tuy tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đã được lập hồ sơ
hoàn chỉnh ngay sau khi kết thúc Đại hội nhưng do chưa có Hướng dẫn xác định giá trị
thống nhất cho tất cả các phông cũng như phụ thuộc vào ý thức chủ quan của cán bộ lập
hồ sơ nên vẫn còn tình trạng xác định thời gian bảo quản tài liệu chưa tương xứng với
những giá trị mà chúng có.
Thứ hai, công tác sưu tầm, thu thập và xác minh, thẩm định tài liệu tuy đã được
Cục Lưu trữ Văn phòng TW tiến hành nhưng với quy mô nhỏ và chưa có kế hoạch dài
hạn. Cục lưu trữ chưa chủ động đưa ra kế hoạch sưu tầm, thu thập tài liệu còn thiếu cũng
như chưa tiến hành xác minh, thẩm định những tài liệu không có số ký hiệu, ngày tháng,
địa danh, thiếu chữ ký, con dấu… (đối với nhóm tài liệu phông Đại hội VII trở về
trước).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác công bố, giới thiệu tài liệu còn chưa đáp
ứng được trình độ của các chuyên gia công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ. Hiện nay, đội
ngũ làm công tác này vẫn chưa ai có trình độ tiến sĩ về lịch sử hoặc tương đương. Mặt
khác, đội ngũ này chưa thực sự chủ động trong việc công bố, giới thiệu về giá trị của
nguồn tài liệu các phông lưu trữ Đại hội Đảng – một trong những nguồn sử liệu phục vụ
nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, các hình thức công bố, giới thiệu tài liệu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng
còn chưa thực sự phong phú, đa dạng, sáng tạo, mới chỉ dừng lại chủ yếu ở việc xuất bản
văn kiện, trưng bày, triển lãm. Những hình thức này vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, chú ý và chưa thu hút được nhiều độc giả đến khai thác, sử dụng vì họ vẫn chưa
thấy được hết tiềm năng và giá trị thực sự của khối tài liệu này phục vụ nghiên cứu lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
89
3.2. Một số giải pháp về phát huy giá trị sử liệu tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011
Từ tình hình khai thác, sử dụng tài liệu trên cho chúng ta thấy, đã có nhiều yêu cầu khai thác, sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng vào các mục đích khác nhau như phục vụ chính công việc hàng ngày của lãnh đạo, của chuyên viên, cán bộ các cơ quan, đơn vị; phục vụ viết dự thảo các văn kiện trình Đại hội; phục vụ việc chuẩn bị về cơ sở vật chất, về đón tiếp, đưa đón đại biểu dự Đại hội; phục vụ việc chuẩn bị nhân sự Đại hội; phục vụ viết sách về sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, viết lịch sử đảng bộ các cơ quan, viết luận văn… Tuy nhiên, trong số những yêu cầu khai thác trên, số lượng các yêu cầu sử dụng tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng với tư cách là nguồn sử liệu khi nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn rất khiêm tốn. Theo như khảo sát của chúng tôi, trong tổng số 248 yêu cầu khai thác từ năm 2005 đến năm 2015 thì mới có 10 yêu cầu khai thác tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng (từ Đại hội VI đến Đại hội XI) phục vụ viết lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử các cơ quan. Ngoài một số yêu cầu của Viện Lịch sử Đảng để viết Biên niên lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thì rất ít các yêu cầu sử dụng tài liệu như một nguồn sử liệu để viết sử. Ngay cả chính các yêu cầu viết biên niên Lịch sử ĐCS VN thì cũng mới chỉ có một số ít tài liệu được sử dụng để viết và mới khai khác phông Đại hội VIII trở về trước.
Chính vì vậy, để công tác phát huy giá trị tài liệu phông lưu trữ Đảng nói riêng, các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng nói chung đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới, Cục Lưu trữ nên chủ động tăng cường các hình thức giới thiệu hơn nữa và có thêm các biện pháp cụ thể nhằm phát huy tối đa giá trị của các tài liệu lưu trữ này. Dưới đây là một số biện pháp cụ thể.
3.2.1. Sưu tầm, bổ sung tài liệu còn thiếu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ
của Đảng để đảm bảo sự hoàn chỉnh của hồ sơ, tài liệu trong phông
Khi nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, lịch sử các kỳ
ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng, tài liệu càng đầy đủ, càng phản ánh rõ về một vấn đề thì
vấn đề nghiên cứu càng sáng tỏ và toàn diện. Để vấn đề nghiên cứu được đầy đủ, toàn
diện, theo chúng tôi việc làm cần thiết và trước hết chính là sưu tầm và bổ sung các tài
liệu về vấn đề nghiên cứu còn thiếu thuộc các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đang
bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương hiện nay. Căn cứ vào các bản lịch sử đơn vị hình
thành phông và lịch sử phông cũng như thực tế tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của
Đảng đang bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương, chúng tôi nhận định, Cục Lưu trữ đã
thu được tương đối đầy đủ tài liệu phản ánh về quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết thúc
90
từng kỳ Đại hội. Tuy vậy, về phía Cục Lưu trữ vẫn cần rà soát và có kế hoạch, biện pháp
sưu tầm tài liệu của các đồng chí trong các tiểu ban giúp việc Đại hội, đặc biệt là các
đồng chí được giao nhiệm vụ xây dựng văn kiện trình Đại hội để có đầy đủ các bản dự
thảo văn kiện. Ví dụ như Cương lĩnh năm 1991 được xây dựng qua 16 lần dự thảo
nhưng trong thực tế tài liệu mới thu được của 8 lần, vậy 8 bản dự thảo còn lại hiện ở
đâu? do các đồng chí trong Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh chính trị giữ hay Tiểu ban nộp
cho cơ quan nào?
Khi sưu tầm được đầy đủ các tài liệu trên thì khi nghiên cứu về quá trình xây
dựng Cưỡng lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH sẽ đầy đủ và hoàn
chỉnh hơn. Việc tiến hành sưu tầm khối tài liệu này theo chúng tôi là tương đối khó bởi
Đại hội VI và Đại hội VII đã diễn ra khá lâu (đến nay đã được 25 - 30 năm) nhưng nếu Cục
Lưu trữ đưa ra được biện pháp sưu tầm tối ưu thì vẫn có thể tiến hành được.
3.2.2. Xác minh, thẩm định tài liệu
Việc xác minh, thẩm định tài liệu là một công việc mà bất cứ nhà nghiên cứu lịch
sử nào cũng cần tiến hành khi có nhiều tài liệu cùng phản ánh về một vấn đề. Công việc
này đối với tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng lại càng cần phải được tiến
hành bởi khi phản ánh về Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, về các kỳ ĐHĐBTQ của
Đảng nói chung, có rất nhiều tài liệu khác nhau với nhiều hình thức thể hiện khác nhau
cùng phản ánh đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Đó chính là các
bài viết, bài bình luận trên các trang báo giấy, báo mạng, báo hình… của các chuyên gia,
các nhà nghiên cứu, các nhà báo… trong đó có cả các bài viết xuyên tạc, bóp méo sự
thật và phủ nhận sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta do các thế lực phản động ở trong và
ngoài nước cầm đầu. Những chủ trương, định hướng đó của Đảng được thể hiện rất rõ
tại các văn kiện Đại hội. Do đó, nếu chúng ta dùng chính các tài liệu lưu trữ là các bản
dự thảo văn kiện – nguồn sử liệu phản ánh sự hình thành đường lối, chính sách của
Đảng trong các lĩnh vực quan trọng của đất nước để xác minh, thẩm định các bài viết
xuyên tạc, bóp méo sự thật về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, khi đó chúng ta sẽ chứng
minh cho tất cả mọi người biết rằng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong thời gian qua
là đúng đắn và vì lợi ích quốc gia.
Ngoài ra, trong khối tài liệu ĐHĐBTQ của Đảng trên, nhiều tài liệu không có số,
ký hiệu và tác giả ban hành văn bản, không có dấu, chữ ký, nhiều bút tích sửa không rõ
của ai… (phần lớn nằm ở khối tài liệu phông Đại hội VI, Đại hội VII và một số ít ở
phông Đại hội VIII). Để tài liệu thực sự phát huy hết giá trị của mình cũng như xứng
91
đáng là một nguồn sử liệu khi nghiên cứu lịch sử Đảng nói chung, lịch sử các kỳ
ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng, theo chúng tôi trong thời gian tới Cục Lưu trữ nên tiến
hành xác minh tính xác thực của các tài liệu hiện đang được bảo quản tại Kho Lưu trữ
Trung ương trong đó có tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng. Cục Lưu trữ có
thể tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về xác minh, thẩm định tài liệu như xác minh về
mật danh tên người, tên địa danh, về thời gian tài liệu, về thông tin trong tài liệu…
Ngoài ra, Cục Lưu trữ có thể mời các nhà nghiên cứu lịch sử, những nhà ngôn ngữ học,
sử liệu học… cùng tham gia.
3.2.3. Xây dựng các chuyên đề nghiên cứu lịch sử Đảng bằng nguồn tài liệu
các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng
Bên cạnh các biện pháp giúp phát huy tối đa giá trị của tài liệu lưu trữ thì Cục
Lưu trữ có thể xây dựng các chuyên đề liên quan đến lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
bằng chính nguồn tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng. Khi xây dựng các
chuyên đề này càng chi tiết và có càng nhiều tài liệu được tập hợp thì nội dung phản
ánh lịch sử của nguồn sử liệu này càng rõ nét và càng có hệ thống. Việc tập hợp, sưu
tầm tài liệu lưu trữ theo chuyên đề chắc chẵn sẽ là một biện pháp tốt thu hút được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm. Chúng tôi nhận thấy các
lãnh đạo Đảng hiện nay rất quan tâm đến các tài liệu lưu trữ, thấy được tầm quan
trọng, vị trí, vai trò và ý nghĩa của tài liệu lưu trữ Đảng trong việc xây dựng các nguồn
sử liệu cho nghiên cứu lịch sử Đảng. Do đó theo chúng tôi nếu Cục Lưu trữ đề xuất
vấn đề này chắc chắn sẽ nhận được ủng hộ từ lãnh đạo.
Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng: trên thực tế, một số nhà nghiên cứu lịch sử còn chưa thấy hết tính ưu việt của nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng nói chung, tài liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng và chưa tạo cho mình một thói quen sử dụng tài liệu lưu trữ. Họ thường đánh đồng các tài liệu lưu trữ này với các nguồn sử liệu có độ chính xác thấp hơn như sử liệu ấn phẩm (sách, báo, tạp chí), thậm chí với cả sử liệu truyền miệng. Chỉ khi nào họ thấy cần phải xác minh thì mới tìm đến với tài liệu lưu trữ. Hơn nữa, trong việc đánh giá các công trình nghiên cứu sử học, các nhà sử học thường chưa thật nghiêm khắc xem xét tính xác thực và độ tin cậy của các nguồn sử liệu được sử dụng. Điều này dễ tạo cho các nhà viết sử thói quen coi nhẹ, thậm chí tùy tiện trong việc thu thập, xử lý và sử dụng các nguồn sử liệu [53, tr.11, 12]. Vì vậy, trong thời gian tới Cục Lưu trữ phải làm tốt hơn công tác tuyên truyền cho việc sử dụng tài liệu lưu trữ Đảng vào các mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng. Để làm được điều này thì Cục Lưu trữ cần chủ động hơn nữa trong việc tổ chức những hình thức công bố, khai thác, sử dụng tài
92
liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng như giới thiệu tài liệu, công bố tài liệu, tổ chức triển lãm, trưng bày tài liệu, xây dựng các chuyên đề nghiên cứu, giải mật tài liệu… để các nhà nghiên cứu, các độc giả quan tâm có thể nắm được những nguồn thông tin tài liệu quí báu, có độ tin cậy cao về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2.4. Hoàn thiện một số khâu nghiệp vụ trong công tác tổ chức khoa học tài liệu
- Thận trọng trong công tác xác định giá trị tài liệu
Để có những tài liệu thực sự có giá trị phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác nhau của độc giả trong đó có mục đích sử dụng tài liệu lưu trữ với tư cách là một nguồn sử liệu để viết sử nói chung để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng thì bản thân những tài liệu được sử dụng đó phải thực sự có giá trị và phải có độ chính xác, tính chân thực cao. Điều này phụ thuộc rất lớn vào ý thức chủ quan của chủ thể khi xác định giá trị của những tài liệu này.
Nếu như việc phân loại tài liệu theo phương án phù hợp với từng phông giúp chúng ta hệ thống được tài liệu một cách khoa học, giúp việc tra tìm tài liệu được nhanh chóng, kịp thời và chính xác thì đối với việc xác định giá trị tài liệu của từng phông sẽ giúp chúng ta lưu giữ được những tài liệu có giá trị nhất phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của độc giả. Tài liệu các Phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng phản ánh toàn bộ quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết thúc từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng. Đây là khối tài liệu rất quan trọng có giá trị về mặt lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và nhiều giá trị khác. Chính vì vậy việc xác định giá trị khối tài liệu này cần hết sức thận trọng để tránh việc loại huỷ những tài liệu có giá trị.
Ngoài việc vận dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn xác định giá trị của tài liệu lưu
trữ như nguyên tắc chính trị (hay còn gọi là nguyên tắc tính đảng), nguyên tắc lịch sử,
nguyên tắc toàn diện và tổng hợp thì việc đánh giá giá trị tài liệu của các phông này
còn phải dựa vào những cơ sở thực tế như sau:
- Bảng thời hạn bảo quản mẫu các tài liệu chủ yếu của Đảng ở Trung ương.
- Tính chất, nhiệm vụ của Đại hội; chức năng, nhiệm vụ của các Tiểu ban chuẩn bị
văn kiện, nhân sự, tổ chức phục vụ Đại hội và các cơ quan tham gia phục vụ Đại hội.
- Tình hình thực tế tài liệu trong từng phông và đặc điểm cụ thể của từng tài liệu.
- Các phông Đại hội sau căn cứ vào Bảng thời hạn bảo quản của các phông Đại
hội trước để thống nhất việc định giá trị tài liệu giữa các phông Đại hội.
Ngoài ra, trong quá trình xác định giá trị tài liệu cũng cần thận trọng đối với
một số nhóm là tài liệu dự thảo, tài liệu có bút tích của các đồng chí lãnh đạo Đảng.
Đây đều là những tài liệu rất quan trọng thể hiện sự chân thực, là một trong những
93
minh chứng nó là những tài liệu gốc. Nếu như các phông tài liệu khác, việc lưu giữ các
bản dự thảo phải xem xét xem bản đó có phải là bản cuối cùng hay không và tài liệu
đó có giá trị nghiên cứu lịch sử không, có giá trị để giữ lại hay không, thì đối với tài
liệu các phông ĐHĐBTQ của Đảng, các bản dự thảo đều rất có giá trị vì nó thể hiện
hoạt động của các Tiểu ban, thể hiện sự tham mưu của các tiểu ban đối với từng kỳ
Đại hội. Hơn nữa mỗi bản dự thảo đều thể hiện sự phát triển về tư duy, về nhận thức
của Đảng ta trên từng lĩnh vực cụ thể, trong đó nhiều bản có bút tích sửa trực tiếp của
Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Khối tài liệu dự thảo này chính là
nguồn sử liệu để nghiên cứu quá trình xây dựng các văn kiện Đại hội. Do đó khi xác
định giá trị những tài liệu này phải hết sức thận trọng.
Quay trở lại với công tác xác định giá trị tài liệu của phông lưu trữ Đại hội VI
(như chúng tôi đã trình bày ở phần hạn chế của công tác tổ chức khoa học tài liệu), đối
với những hồ sơ được xác định thời hạn bảo quản là 15 năm và 5 năm. Nếu tính từ năm
1988 (năm chỉnh lý hoàn chỉnh khối tài liệu này) thì đến năm 1993 và 2003 sẽ phải xem
xét lại giá trị đối với những hồ sơ có thời hạn bảo quản là 5 năm và 15 năm. Tuy nhiên
công việc này cho đến nay Cục Lưu trữ vẫn chưa tiến hành rà soát. Trong số 25 hồ sơ có
thời hạn bảo quản là 15 năm trên thì có 07 hồ sơ tài liệu là bản gốc có bút tích của các
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí là Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đó là các
hồ sơ sau:
Hồ sơ số 55: Chương trình, diễn văn khai mạc, ý kiến phát biểu của đồng chí
Trường Chinh, danh sách Đoàn Chủ tịch, Thư ký và nhiệm vụ của 2 đoàn (bản gốc).
Hồ sơ số 62: Phương hướng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1986 – 1990), báo cáo tổng hợp ý kiến của đại biểu và kết luận của Đoàn Chủ tịch về cuộc thảo luận của Đoàn Chủ tịch về thảo luận phương hướng…(bản gốc).
Hồ sơ số 64: Báo cáo, nghị quyết bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, nghị quyết Đại hội, ý kiến của các đại biểu và kết luận của Đoàn Chủ tịch về thảo luận vào dự thảo nghị quyết (bản gốc).
Hồ sơ số 69: Kế hoạch, đề nghị và ý kiến thảo luận của các đoàn đại biểu về nhân sự
BCHTW khoá VI, danh sách Ban Kiểm phiếu, thể lệ bầu cử và phiếu bầu (bản gốc).
Hồ sơ số 71: Chương trình, danh sách Đoàn Chủ tịch, danh sách khách mời Đại
hội (bản gốc).
Hồ sơ số 74: Diễn văn khai mạc, tóm tắt báo cáo chính trị, phương hướng phát triển kinh tế, truyên dương công trạng, nghị quyết Đại hội và diễn văn bế mạc Đại hội (bản gốc).
94
Hồ sơ số 85: Tham luận tại Đại hội (bản gốc)
Hồ sơ số 60: Biên bản thảo luận tổ [45].
Những tài liệu này đều là nguồn sử liệu khi nghiên cứu lịch sử kỳ Đại hội VI, có 01 hồ sơ là biên bản thảo luận tổ tại Hội trường (hồ sơ số 60). Đây đều là những tài liệu rất quan trọng thể hiện ý kiến của các đại biểu đối với các vấn đề được bàn tại Đại hội. Thiết nghĩ đây là những tài liệu chỉ có một bản duy nhất, là bằng chứng thể hiện qúa trình tham mưu, giúp việc của các Tiểu ban, đặc biệt nó là tài liệu gốc, là căn cứ để đối chiếu với các xuất bản phẩm khác. Do đó theo chúng tôi những tài liệu này phải được đưa ra xem xét đánh giá lại giá trị và phải nâng thời hạn bảo quản là “vĩnh viễn”. Qua đó chúng cho chúng ta thấy rằng, trong công tác xác định giá trị tài liệu cần phải thận trọng hơn nữa, đánh giá đúng giá trị của tài liệu hơn nữa để tránh loại huỷ những tài liệu có giá trị cao trong việc nghiên cứu lịch sử Đảng.
- Rà soát, kiểm tra lại chất lượng các hồ sơ đã lập và định lại giá trị tài liệu
đối với những hồ sơ lưu tạm thời.
Như chúng tôi đã trình bày, ưu điểm lớn nhất của khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là cơ bản đã được lập hồ sơ và chất lượng hồ sơ khá tốt. Tuy vậy, về phía Cục Lưu trữ vẫn cần phải rà soát, kiểm tra chất lượng các hồ sơ, tìm ra những hồ sơ chưa đạt yêu cầu chất lượng, từ đó chỉnh sửa, lập lại những hồ sơ chưa đạt yêu cầu và thành lập Hội đồng để xem xét, đánh giá lại giá trị của các hồ sơ. Tài liệu nào hết giá trị thì tiến hành loại huỷ để giải phóng diện tích kho, tài liệu nào cần chuyển về phông cá nhân thì tiến hành chuyển về phông cá nhân để đảm bảo tài liệu của phông nào được bảo quản ở phông đó.
- Bổ sung vào Mục lục hồ sơ phông địa chỉ tra tìm đối với nhóm tài liệu còn
thiếu
Như chúng tôi đã trình bày ở phần Mức độ hoàn chỉnh của Phông (Chương 1
của Luận văn), tài liệu phông lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI hiện còn
thiếu khối tài liệu dự thảo sửa đổi Điều lệ Đảng, khối tài liệu này đang nằm ở phông
Ban Tổ chức TW; thiếu khối tài liệu chuẩn bị nhân sự Đại hội hiện đang nằm ở phông
Lê Đức Thọ; thiếu khối tài liệu tuyên truyền Đại hội hiện đang nằm ở Báo Nhân dân.
Theo như lý thuyết, phông nào còn thiếu tài liệu thì phải được sưu tầm, thu thập, bổ
sung cho đầy đủ thành phần tài liệu trong phông đó, tuy nhiên khi tiến hành sưu tầm
tài liệu cho phông này thì phải đảm bảo không làm thiếu thành phần tài liệu của phông
khác. Trong trường hợp này, tất cả các tài liệu mà phông lưu trữ Đại hội VI đang thiếu
đều đã được lập hồ sơ và hệ thống hoá ở phông Ban Tổ chức Trung ương, Báo Nhân
95
dân và Phông Lê Đức Thọ, cả 3 phông trên đều thuộc nguồn nộp lưu và đang được bảo
quản tại Kho Lưu trữ Trung ương. Do đó, theo chúng tôi, không tiến hành dịch chuyển
các hồ sơ từ 3 phông này để bổ sung cho phông Đại hội VI vì như vậy 3 phông trên sẽ
bị thiếu tài liệu, cũng không tiến hành sưu tầm vì tất cả các phông trên đều đang được
bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương, Cục Lưu trữ nên bổ sung ở Chứng từ kết thúc
của Mục lục hồ sơ phông Đại hội VI địa chỉ tra tìm cụ thể khối tài liệu còn thiếu để
giúp quản lý và phục vụ khai thác tốt hơn.
Đối với khối tài liệu phông Đại hội VII và Đại hội IX còn thiếu một số tài liệu
về hoạt động của tiểu ban không được văn bản hóa nên không hình thành tài liệu, Cục
Lưu trữ nên đưa vấn đề này trong cuộc họp tổng kết công tác phục vụ Đại hội để các
cơ quan rút kinh nghiệm và khắc phục cho các lần phục vụ tiếp theo.
3.2.5. Tăng cường các hình thức công bố, khai thác sử dụng tài liệu
Công tác phát huy giá trị tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng trong
thời gian qua đã được phục vụ các mục đích nghiên cứu khác nhau của độc giả nhưng
vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng thông tin mà tài liệu phản ánh.
Nguyên nhân số lượng khai thác, sử dụng các phông này thấp vì nhiều tài liệu
quan trọng của phông đã được xuất bản thành tập văn kiện ngay sau Đại hội. Mặt khác,
các nhà nghiên cứu cũng ít sử dụng tài liệu của phông này vì đã có rất nhiều bài viết trên
các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin khá chi tiết sau mỗi lần tổ chức Đại hội.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng chưa tương xứng với giá trị mà tài liệu đang có. Cục Lưu trữ chưa thực sự chủ động trong việc tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá tài liệu hiện đang được bảo quản trong Kho để phục vụ cho công tác tham mưu, giúp việc của của Trung ương, BCT, BBT và yêu cầu của người sử dụng tài liệu. Chưa quan tâm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá tài liệu, văn kiện nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của tài liệu phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng đặc biệt là các văn kiện Đảng.
Vì vậy, để tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng phát huy hết giá trị
của mình hơn nữa thì theo chúng tôi Cục Lưu trữ nên có một số biện pháp như:
Cục Lưu trữ nên mở rộng và tăng cường hợp tác hơn nữa với các cơ quan lưu trữ lịch sử, bảo tàng, thư viện… để đa dạng hóa các hình thức sử dụng tài liệu như công bố, xuất bản văn kiện, trưng bày, triển lãm tài liệu theo chủ đề, theo phông… Hiện tại, các hình thức công bố, giới thiệu tài liệu tại Kho Lưu trữ Trung ương còn chưa
96
thực sự phong phú, đa dạng, sáng tạo, mới chỉ dừng lại chủ yếu ở việc xuất bản sách giới thiệu tài liệu, triển lãm. Những hình thức này vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý và chưa thu hút được nhiều độc giả đến khai thác, sử dụng vì họ vẫn chưa thấy được hết tiềm năng và giá trị thực sự của khối tài liệu này nhằm phục vụ các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù việc khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ là phụ thuộc vào nhu cầu và mục đích của độc giả nhưng các cơ quan, tổ chức lưu trữ có vai trò lớn trong việc định hướng giá trị của tài liệu lưu trữ tới độc giả. Bởi vậy các hình thức khai thác sử dụng tài liệu mang tính tích cực, chủ động của cơ quan cần được khuyến khích áp dụng.
- Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, quảng bá các văn kiện Đại hội tới toàn thể nhân dân hơn nữa. Các văn kiện Đại hội đã được xuất bản thành các tập và được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên do văn kiện chủ yếu thể hiện chủ trương, đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng trong một khoảng thời gian nhất định, do đó không phải người dân nào cũng có thể hiểu hết và có nhu cầu tìm đọc, nghiên cứu. Chủ yếu là các cơ quan, tổ chức có chức năng tham mưu, tổng hợp cần nghiên cứu những chủ trương, chính sách của Đảng để tham mưu cho lãnh đạo ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về từng lĩnh vực cụ thể, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng tại các kỳ Đại hội thành chính sách, pháp luật của các cơ quan Nhà nước để những chủ trương, định hướng đó được thực hiện trong thực tiễn. Quá trình xây dựng, hoàn thiện văn kiện Đại hội đã được lấy ý kiến góp ý của đông đảo quần chúng nhân dân và dần trở thành sản phẩm trí tuệ của toàn thể nhân dân, do đó phải tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, quảng bá các văn kiện Đại hội tới toàn thể nhân dân hơn nữa.
- Cục Lưu trữ nên tổ chức nhiều Hội nghị chuyên đề phát huy giá trị tài liệu hơn
nữa nhằm tổng kết tình hình khai thác, sử dụng tài liệu để đánh giá, tổng kết công tác
tổ chức sử dụng tài liệu, từ đó có hướng nghiên cứu và điều chỉnh những vấn đề theo ý
kiến độc giả nêu ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi khai thác tài liệu cũng như thu hút
thêm nhiều đối tương có nhu cầu đến khai thác tài liệu ở Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng. Bên cạnh đó, có thể tổ chức đánh giá, tổng kết công tác khai thác, sử dụng tài liệu ở nhiều hội nghị khác nhau. Ý nghĩa của hội nghị tổng kết là ở chỗ
thông qua đó tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức và cá nhân về vai trò, ý nghĩa của tài liệu lưu trữ đối với đời sống, đồng thời kiểm điểm những việc đã
làm được, chưa làm được, tìm ra nguyên nhân để đề ra các giải pháp thực hiện tốt.
Hơn nữa, thông qua các buổi lễ tổng kết, cơ quan có tài liệu có điều kiện tiếp xúc với
độc giả, được nghe tâm tư nguyện vọng và đóng góp ý kiến của mọi người như vậy sẽ
có đầy đủ thông tin để xử lý công việc trong thực tiễn.
97
- Người làm công tác khai thác tài liệu cần chủ động hơn nữa việc công bố tài
liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một hình thức công bố tài liệu
lưu trữ hiệu quả, tài liệu được đưa ra công bố vừa có giá trị nghiên cứu vừa có giá trị
tuyên truyền. Độc giả có cơ hội tiếp cận những tài liệu lưu trữ rất có giá trị hiện đang
được bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng có tính chân thực cao, những tài liệu
là bản chính, bản gốc có bút tích của các nhà lãnh đạo.
- Cán bộ làm công tác công bố chủ động nghiên cứu tài liệu lưu trữ để viết bài
có tính chất nghiên cứu, qua đó tổng kết, giới thiệu về những chủ trương, đường lối,
hoạt động của Đảng đặc biệt là về công cuộc đổi mới của Đảng.
- Thay đổi cách thức lập danh mục tài liệu khi phục vụ tại phòng đọc. Hiện nay,
hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu tại Kho Lưu trữ Trung ương chủ yếu là
độc giả đọc trực tiếp tại Phòng Đọc. Theo như quy định về việc phục vụ độc giả tại
phòng đọc thì tất cả các yêu cầu khai thác liên quan đến tài liệu của các phông đều do
cán bộ phòng Khai thác chủ động lập danh mục tài liệu chứ không phải là do độc giả
tự tra tìm và lên danh mục. Theo chúng tôi quy định này làm hạn chế quyền chủ động
của độc giả vì độc giả mới là người đi khai thác tài liệu, hơn ai hết họ hiểu và họ biết
mình cần những tài liệu nào, cán bộ phòng Khai thác chỉ nên giới thiệu, gợi ý cho độc
giả địa chỉ cần tìm và cung cấp mục lục hồ sơ để họ tự tra tìm. Sau khi có danh mục do
khách cung cấp, cán bộ phòng Khai thác mới căn cứ vào đó kiểm tra lại rồi trình cấp
có thẩm quyền duyệt khai thác. Hơn nữa, thời gian tới khi Cục Lưu trữ hoàn thành
Sách chỉ dẫn các phông và sưu tập tài liệu bảo quản tại Lưu trữ lịch sử của Trung
ương Đảng thì độc giả có thể biết những phông nào có tài liệu mình cần tìm, khi đó
quyền chủ động của độc giả sẽ càng được phát huy hơn nữa.
Để hạn chế tình trạng tài liệu mà cán bộ đưa ra thì độc giả không cần còn tài liệu cần thì lại không được phục vụ, theo chúng tôi nên thay đổi hình thức phục vụ tại phòng đọc như sau: để độc giả tự tra tìm tài liệu mình cần khai thác, cán bộ phòng Khai thác sẽ định hướng các phông có tài liệu mà độc giả cần, sau khi đã lập danh mục cán bộ phòng Khai thác tiếp nhận, kiểm tra mức độ hạn chế sử dụng rồi trình lãnh đạo duyệt khai thác. Như vậy sẽ tăng được tính chủ động của độc giả hơn.
3.3. Một số kiến nghị
Bên cạnh một số giải pháp nhằm phát huy giá trị sử liệu tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng khi nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Cục Lưu trữ cùng các cơ quan nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa công tác phát huy giá trị tài liệu trong thời gian tới.
98
Một là, Có sự phối hợp giữa Cục Lưu trữ với các cơ quan, tiểu ban phục vụ Đại
hội trong vấn đề quản lý, sưu tầm, thu thập và phát huy giá trị tài liệu.
Trong vấn đề quản lý, sưu tầm, thu thập tài liệu: để công tác quản lý và sưu tầm, thu thập tài liệu sau khi từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng kết thúc được thực hiện tốt theo chúng tôi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cục Lưu trữ với các Tiểu ban phục vụ Đại hội như Tiểu ban văn kiện, Tiểu ban Cương lĩnh, Tiểu ban nhân sự, Tiểu ban Phục vụ Đại hội… và với các cơ quan được giao nhiệm vụ phục vụ Đại hội như Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan báo, đài, tạp chí… trong việc thu thập, sưu tầm tài liệu để trong thời gian sớm nhất có thể thu được đầy đủ tài liệu nhất và sưu tầm thêm được những tài liệu mà trong Kho chưa có nhằm hoàn chỉnh thành phần tài liệu phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng.
Sau khi kết thúc Đại hội, toàn bộ các văn kiện Đảng đều đã được xuất bản và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, những văn kiện được xuất bản là các văn kiện chính thức được Đại hội thông qua, còn rất nhiều tài liệu khác thể hiện hoạt động của từng kỳ ĐHĐBTQ của Đảng lại chưa được công bố, giới thiệu đến đông đảo độc giả. Sự phối hợp giữa Cục Lưu trữ với các cơ quan, tiểu ban phục vụ Đại hội trong việc phát huy giá trị tài liệu ở chỗ: các cơ quan nên cùng xem xét, cân nhắc và đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Đảng về việc có thể xuất bản công khai thêm một số văn bản trong văn kiện xuất bản hoặc phụ lục văn kiện để người đọc biết thêm về những tài liệu này. Ví dụ như các Quyết định thành lập Tiểu ban văn kiện như Quyết định thành lập Tiểu ban Báo cáo chính trị đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Tiểu ban sửa đổi và bổ sung Điều lệ Đảng, Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh năm 1991, Tiểu ban dự thảo Chiến lược kinh tế - xã hội, Tiểu ban Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, Tiểu ban Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) và xây dựng Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2011 – 2020… Theo chúng tôi, việc đưa thêm một số văn bản về việc thành lập các Tiểu ban giúp việc trên sẽ giúp độc giả biết thêm về quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện Đại hội, biết thêm về các thành viên trong Tiểu ban, biết thêm về chức năng, nhiệm vụ của từng Tiểu ban… Đây cũng là một trong những hình thức phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ.
Hay như có thể đưa thêm một số ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước góp ý vào văn kiện trình Đại hội giúp người đọc có thể nghiên cứu sâu hơn nữa về từng vấn đề cụ thể trong văn kiện. Qua việc công bố thêm những tài liệu này sẽ giúp độc giả thấy được Đại hội tiếp thu các ý kiến góp ý như thế nào. Bên cạnh đó, Cục Lưu trữ nên phối hợp với các cơ quan như Báo Nhân dân, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương… là những cơ quan được giao tổng hợp các ý kiến góp ý vào các vấn đề trong văn kiên Đại hội cùng xem
99
xét, chọn lọc các ý kiến hay, mới, đột phá có thể giúp cho đất nước ngày càng phát triển để công bố, giới thiệu, trưng bầy, triển lãm nhằm giúp các nhà nghiên cứu biết thêm về khối tài liệu này.
Hai là, Cùng với việc công bố thêm một số tài liệu trong văn kiện Đảng xuất bản, Cục Lưu trữ nên đề xuất với lãnh đạo Văn phòng Trung ương cho phép triển lãm thêm một số bản gốc các văn kiện để in phát hành sau Đại hội. Đây là bản có bút tích sửa trực tiếp của các Uỷ viên Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là những bản có bút tích của đồng chí Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư như bản gốc Cương lĩnh năm 1991, Báo cáo chính trị, Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội… để đông đảo nhân dân có thể biết đến nguồn sử liệu gốc này. Quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn kiện trình Đại hội được Đảng và nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Do đó, thông qua tài liệu được triển lãm, trưng bày sẽ kích thích nhãn quan và thúc đẩy các nhà nghiên cứu về lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng hơn.
Ba là, Rà soát nghiên cứu ranh giới nội dung, thành phần tài liệu giữa các
phông lưu trữ tại Kho Lưu trữ Trung ương.
Như chúng tôi đã trình bày trên, một số nhóm tài liệu của phông ĐHĐBTQ lần thứ VI và lần thứ VII hiện vẫn đang nằm ở một số phông trong Kho Lưu trữ Trung ương như phông đồng chí Lê Đức Thọ, Báo Nhân dân… hay như ranh giới nội dung, thành phần tài liệu giữa các phông ĐHĐBTQ với phân phông BCHTW và phông Văn phòng Trung ương vẫn còn nhiều chỗ chưa rõ ràng. Tình trạng phông này lẫn tài liệu của phông khác vẫn còn. Do đó, để khắc phục tình hình trên, theo chúng tôi Cục Lưu trữ nên cho rà soát ranh giới về nội dung, thành phần tài liệu của các phông trên, nếu có tài liệu của phông khác thì có thể thống kê và bổ sung thông tin vào Mục lục hồ sơ của phông kia. Sau khi tiến hành rà soát xong cũng sẽ là cơ hội để cán bộ được giao vụ rút kinh nghiệm cho những lần sau.
100
Tiểu kết chương 3
Những nội dung chúng tôi đã trình bày trong chương 3 cho thấy rõ tình hình công
tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng nguồn tài liệu các phông lưu trữ
ĐHĐBTQ của Đảng được phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Theo chúng tôi, ưu điểm
chính của khối tài liệu này là đã được lập hồ sơ tương đối tốt, cơ bản đáp ứng yêu cầu
khai thác, sử dụng tài liệu tại Kho Lưu trữ Trung ương. Tuy nhiên, với những hạn chế
trong công tác khai thác và sử dụng tài liệu chúng tôi đã nêu, đang ảnh hưởng không nhỏ
đến vấn đề phát huy giá trị của khối tài liệu này trong nghiên cứu lịch sử Đảng. Với một
số kiến nghị, giải pháp của mình, trọng tâm là các giải pháp về xây dựng nguồn sử liệu để
nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, về thúc đẩy các biện pháp khai thác sử dụng
trong thời gian tới nếu được lưu ý và thực hiện, chúng tôi hi vọng công tác tổ chức khoa
học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng sẽ
được hoàn thiện và đạt hiệu quả tối ưu, nhằm mục đích phát huy tối đa giá trị nghiên cứu
của khối tài liệu này trong đời sống xã hội.
101
KẾT LUẬN
Tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 thuộc thành phần Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam nói chung. Trong quá trình hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng để cùng nhìn lại kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời đưa ra mục tiêu và định hướng đường lối lãnh đạo đất nước trong thời gian tiếp theo (tất cả những điều này được thể hiện trong bản Báo cáo chính trị). Cũng trong từng kỳ Đại hội sẽ quyết định cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ Đại hội, đó chính là BCHTW. Vì vậy, tại các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng đã hình thành một khối lượng lớn tài liệu có giá trị. Giá trị của những tài liệu này giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, cơ quan quyết định toàn bộ chủ trương, đường lối chính sách của đất nước trong vòng 5 năm hoặc dài hơn (ví dụ như: Cương lĩnh năm 1991 quyết định chủ trương, đường lối trong vòng 20 năm (từ năm 1991 đến 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quyết định chủ trương, đường lối trong vòng 10 năm, Báo cáo chính trị quyết định các vấn đề trong vòng 5 năm hay như các văn bản của các ĐHĐBTQ của Đảng lần thứ nhất đến lần thứ tư, do điều kiện chiến tranh nên nhiệm kỳ Đại hội không phải là 5 năm mà là nhiều hơn thế, khi đó các văn kiện Đại hội sẽ có giá trị hiện hành lâu hơn). Giá trị sử liệu của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011 thể hiện ở chỗ: là căn cứ để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể là lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc. Tiếp đó là căn cứ để nghiên cứu đường lối, chính sách do cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội quyết định trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước ta từ năm 1986 đến năm 2011. Đồng thời đây là nguồn sử liệu nghiên cứu đường lối đối nội, đối ngoại; nghiên cứu công tác xây dựng Đảng; nghiên cứu quá trình đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến năm 2011 dưới sự lãnh đạo của Đảng mà ĐHĐBTQ của Đảng là cơ quan vạch ra và thông qua chủ trương, đường lối đó. Chính vì vậy, tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng là công cụ, phương tiện thực hiện sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng; là nguồn thông tin chính thức, là chứng cứ đáng tin cậy phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng kết công tác, nghiên cứu của các cơ quan và tổ chức Đảng. Các văn kiện Đảng còn là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện đường lối, chính sách lãnh đạo đất nước của Đảng. Do đó, tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng xứng đáng được giữ vị trí hàng đầu trong các nguồn sử liệu phục vụ nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng từ năm 1986 đến năm 2011.
102
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Đảng từ chính
nguồn tài liệu lưu trữ này. Song việc nghiên cứu lịch sử Đảng từ nguồn tài liệu lưu trữ
còn nhiều mặt hạn chế, ở cả khía cạnh khai thác sử dụng và phương pháp nghiên cứu.
Chính vì thế, nó đã góp phần làm hạn chế chất lượng các công trình, sản phẩm nghiên
cứu lịch sử Đảng. Để có thể tái hiện lại bức tranh chân thực của lịch sử các kỳ
ĐHĐBTQ của Đảng rất cần có nguồn sử liệu đầy đủ và tin cậy, phản ánh vấn đề một
cách toàn diện và chính xác. Nguồn sử liệu là tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của
Đảng hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Việc nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam nói chung, lịch sử các kỳ ĐHĐBTQ của Đảng nói riêng đạt được kết
quả hay không là tùy thuộc một phần ở việc khai thác và sử dụng nguồn tài liệu lưu trữ
này. Để làm được điều đó, cần phải nâng cao việc sử dụng hàm lượng thông tin tài liệu
trong việc nghiên cứu lịch sử Đảng, đồng thời nâng cao phương pháp nghiên cứu và sử
dụng một cách khoa học hơn. Trước hết, cần đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc quản
lý tập trung thống nhất nguồn tài liệu lưu trữ này, bảo đảm tài liệu ngày càng đẩy đủ
hơn, hoàn chỉnh hơn. Tổ chức xác minh, thẩm định tài liệu lưu trữ một cách chặt chẽ,
làm cho mọi tài liệu đều có độ tin cậy cao. Tổ chức khoa học các tài liệu lưu trữ, triển
khai công tác giải mật tài liệu kịp thời và phục vụ khai thác thuận lợi, nhanh chóng,
chính xác các yêu cầu nghiên cứu khác nhau của độc giả.
Trên cơ sở đánh giá giá trị của khối tài liệu này cũng như phân tích, nhận xét
tình hình thực tế của công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài
liệu này tại Kho Lưu trữ Trung ương hiện nay, chúng tôi đưa ra một vài giải pháp
nhằm thúc đẩy hơn nữa công tác phát huy giá trị tài liệu của khối tài liệu này vào các
mục đích nghiên cứu khác nhau đặc biệt là về vấn đề xây dựng nguồn sử liệu khi
nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, với tất cả những nội dung đã
được trình bày trong các chương, về cơ bản, chúng tôi đã đạt được mục tiêu nghiên
cứu đã đề ra và hy vọng những đóng góp của luận văn sẽ giúp phát huy tối đa giá trị
của tài liệu các phông lưu trữ ĐHĐBTQ của Đảng hơn nữa khi nghiên cứu lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới./.
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 – 2016) (2015): Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm
đổi mới (1986 – 2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Báo cáo ngày thống kê tổng hợp các phông, sưu tập tài liệu trong Kho Lưu
trữ năm 2013 do Phòng Bảo quản – Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương tổng hợp.
2a. Đào Xuân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn
Thâm (1990), Lý luanạ và thực tiễn công tác lưu trữ, Nxb. Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 80.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 144.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ML số
01, ĐVBQ: 144.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ (khóa VII), Phông Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng (1994), ML số 01, ĐVBQ số 35.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 329.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 273.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc lần
thứ X, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 469.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện ĐHĐBTQ của Đảng toàn quốc lần
thứ XI, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 530.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội,
Website:www.bacgiang.gov.vn
104
12. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
thông qua, đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI bổ sung)
(1987), Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
thông qua ngày 27/06/1991) (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
thông qua ngày 01/07/1996) (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
thông qua ngày 22/04/2001) (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
thông qua ngày 25/04/2006) (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
thông qua ngày 25/04/2006) (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Vũ Minh Giang (2004), Tài liệu lưu trữ với công việc nghiên cứu lịch sử,
Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 01 - 02.
19. Phạm Xuân Hằng (1982), Vận dụng phương pháp sử liệu học trong đánh
giá giá trị tài liệu chữ viết, Tạp chí Lưu trữ, số 4, 1982, tr. 18 – 22.
20. Nguyễn Thị Hạnh (2015), Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp phát huy
giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học
chuyên ngành Lưu trữ, Tư liệu Khoa Lưu trữ học và Quản trị Văn phòng.
21. Vũ Quang Hiển, So sánh nguồn sử liêụ trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Website: www.vanthuluutru.com
22. Hồ sơ số 17 “Dự thảo Báo cáo chính trị ngày 28/11/1986 (bản gốc chuyển
in tipô để phát hành ở Đại hội nội bộ”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
23. Hồ sơ số 74 “Diễn văn khai mạc, tóm tắt Báo cáo chính trị, phương hướng
phát triển kinh tế - xã hội, tuyên dương công trạng, nghị quyết Đại hội và diễn văn bế
mạc (bản gốc)”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
Kho Lưu trữ Trung ương
105
24. Hồ sơ số 06 “Tờ trình của Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh về việc dự thảo “Đề
cương Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ (kèm bản đề cương”,ML số 01,
Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
25. Hồ sơ số 07 “Dự thảo lần thứ 4, 6 “Đề cương Cương lĩnh xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ (của Tiểu ban dự thảo Cương lĩnh)”, ML số 01, Phông đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương
26. Hồ sơ số 08 “Dự thảo các lần 8, 9, 10, 11 Cương lĩnh xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ (kèm bản tổng hợp ý kiến góp ý vào dự thảo lần 10 và ý kiến của
Tổ biên tập, tiểu ban về dự thảo văn kiện này”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương
27. Hồ sơ số 12 “Dự thảo Cương lĩnh các lần 13, 14; tờ trình của Tiểu ban về
việc tiếp thu ý kiến góp vào các dự thảo lần này”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
28. Hồ sơ số 102 “Các văn kiện dự thảo chính thức trình Đại hội nội bộ”, ML số
01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
29. Hồ sơ số 107 “Báo cáo của Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký, Đoàn Chuyên
viên tổng hợp về kết quả thảo luận và biểu quyết một số điểm trong các văn kiện dự
thảo của Đại hội”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng,
Kho Lưu trữ Trung ương
30. Hồ sơ số 141 “Tài liệu, văn kiện Đại hội VII (In Ronêo lưu hành trong Đại
hội”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ
Trung ương.
31. Hồ sơ số 144 “Văn kiện chính thức của Đại hội VII (Nhà xuất bản Sự thật,
phát hành chính thức sau Đại hội”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
32. Hồ sơ số 328 “Bản gốc các văn kiện đã được Tổng Bí thư Đỗ Mười duyệt để
in công khai phát hành sau Đại hội VIII. Tháng 6, 7/1996”, ML số 01, Phông đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
33. Hồ sơ số 270 “Bản gốc văn kiện Đại hội IX của Đảng (có ý kiến phê duyệt
của các đồng chí Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú
106
Trọng trước khi in công khai). Tháng 05/2001”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
34. Hồ sơ số 467 “Bản gốc các văn kiện Đại hội X: Báo cáo chung về các văn
kiện, Báo cáo chính trị, Báo cáo về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo kinh tế - xã hội,
Bản trình bày của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn
kiện Đảng, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi”), ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
34a. Hồ sơ số 482 “Bản gốc Quy chế bầu cử, quy chế làm việc tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Kho Lưu trữ Trung ương.
35. Hồ sơ số 532 “Bản gốc các văn kiện Đại hội XI của Đảng (đã chỉnh sửa,
tiếp thu ý kiến của Đại hội và các đồng chí lãnh đạo gửi nhà in để in phát hành chính
thức). Năm 2011”, ML số 01, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
Kho Lưu trữ Trung ương.
36. Hướng dẫn số 10-HD/VPTW ngày 13/12/2011 của Văn phòng Trung ương
Đảng về thực hiện Quy định số 212-QĐ/TW, ngày 16/03/2009 của Ban Bí thư TW
Đảng về giải mật tài liệu.
37. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, Kho Lưu trữ TW
38. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII, Kho Lưu trữ TW
39. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII, Kho Lưu trữ TW
40. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, Kho Lưu trữ TW
41. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Kho Lưu trữ TW
42. Hồ sơ phông Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Kho Lưu trữ TW
43. Dương Văn Khảm: Từ điển giải thích nghiệp vụ văn thư lưu trữ Việt Nam,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2011.
43a. Luật Lưu trữ (2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Mục lục hồ sơ phân phông Ban Chấp hành Trung ương khóa V, VI, VII,
VIII, IX, X, Kho Lưu trữ Trung ương.
45. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng
12 năm 1986), Kho Lưu trữ Trung ương.
107
46. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(tháng 06 năm 1991, Kho Lưu trữ Trung ương.
47. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(22/06/ - 01/07/1996), Kho Lưu trữ Trung ương.
48. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (19/04
– 22/04/2001), Kho Lưu trữ Trung ương.
49. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng 17/04
– 25/04/2006), Kho Lưu trữ Trung ương.
50. Mục lục hồ sơ phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (11/01
– 19/01/2011), Kho Lưu trữ Trung ương.
51. Nguyễn Lệ Nhung (1999), Xác định giá trị sử liệu của tài liệu phông Lưu
trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ chuyên ngành Biên soạn lịch sử và sử
liệu học, Tư liệu Khoa Lưu trữ học và Quản trị Văn phòng
52. Nguyễn Lệ Nhung, Khái niệm về sử liệu và sử liệu học,
Website:www.vanthuluutru.com
53. Nguyễn Lệ Nhung (2001), Tài liệu lưu trữ Đảng và công tác nghiên cứu,
biên soạn lịch sử, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Lưu trữ học và Quản trị Văn phòng lần
thứ 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
54. Nguyễn Lệ Nhung (1996), Vài nét về việc thống kê tài liệu trong Kho Lưu
trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Văn thư – Lưu trữ, số 3, tr. 13- 15.
55. Hoàng Phê (Chủ biên) (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung
tâm Từ điển.
56. Vũ Thị Phụng (1990), Một số suy nghĩ về vấn đề tổ chức sử dụng tài liệu
lưu trữ ở nước ta, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 12, tr. 12 – 17.
57. Vũ Thị Phụng (2009), Giá trị của tài liệu lưu trữ và trách nhiệm của các cơ
quan lưu trữ Việt Nam, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 15 – 18.
58. Quyết định số 61-QĐ/TW ngày 20-11-1985 của Ban Bí thư TW về nhiệm
vụ và hoạt động của Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội lần thứ VI của Đảng, Phông lưu
trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Ml số 01, ĐVBQ: 96, Kho Lưu trữ
Trung ương.
108
59. Quyết định số 20-QĐ/TW ngày 23-9-1987 của Ban Bí thư Về Phông Lưu
trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Phân Phông Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, ML
số 06, ĐVBQ số 819, Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
60. Quyết định số 105-QĐ/TW ngày 18/04/1990 của Ban Bí thư TW về nhiệm
vụ và hoạt động của Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội lần thứ VII của Đảng, Phông
lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ML số 01, ĐVBQ: 02, Kho
Lưu trữ Trung ương
61. Quyết định số 124-QĐ/TW ngày 23/03/1991 của Ban Bí thư về việc thu
thập tài liệu, văn kiện Phông ĐHĐBTQ của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII,
Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ML số 01, ĐVBQ số 333,
Kho Lưu trữ Trung ương.
62. Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 25/10/1995 của Ban Bí thư về thành lập
Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng CSVN, Phông
lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, ML số 01, ĐVBQ: 01, Kho
Lưu trữ Trung ương.
63. Quyết định số 31-QĐ/TW ngày 01/10/1997 của Bộ Chính trị về việc ban
hành Quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản của Đảng, phân
phông BCHTW khoá VIII, ML số 08, ĐVBQ số 1215, Kho Lưu trữ Trung ương.
64. Quyết định số 249-QĐ/TW ngày 21/07/2009 của Ban Chấp hành Trung
ương về thành lập Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ML số 01, ĐVBQ 01.
65. Quy định số 210-QĐ/TW ngày 06/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương về
phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Phân phông BCHTW khoá X, Kho Lưu trữ
Trung ương.
66. Quy định số 212-QĐ/TW ngày 16/03/2009 của Ban Bí thư Trung ương về
giải mật tài liệu của các cơ quan, tổ chức trước khi nộp lưu vào Kho Lưu trữ Trung
ương Đảng và tài liệu của Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
67. Quyết định số 317-QĐ/TW ngày 23/7/2010 của Ban Bí thư TW về quản lý,
khai thác, sử dụng CSDL văn kiện Đảng trên mạng thông tin diện rộng của Đảng;
phân phông BCHTW khoá X, Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
109
67a. Quy định số 4575-QĐ/VPTW ngày 20/10/2010 của Văn phòng Trung
ương Đảng về công tác văn thư phục vụ Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, Phông đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ML số 01, ĐVBQ 582.
68. Quy định số 270-QĐ/TW ngày 06/12/2014 của Ban Bí thư Trung ương về
Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, Phân phông BCHTW khoá XI, Kho Lưu trữ
cơ quan.
69. Quyết định số 176-QĐ/VPTW ngày 24/03/2016 của Văn phòng Trung ương
Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Cục Lưu trữ,
Văn thư Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương.
70. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông (2011): Tìm hiểu một số thuật ngữ
trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Tư liệu Cục
Lưu trữ.
71. Nguyễn Phú Trọng (2006): Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72. Tiểu ban tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 (2010): Báo
cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (1991 – 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
110
PHỤ LỤC
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (bản chính), Hồ
sơ số 73, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Kho Lưu trữ Trung
ương Đảng (bản scan).
2. Dự thảo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (bản sửa
cuối cùng), Hồ sơ số 74, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Kho
Lưu trữ Trung ương Đảng (bản scan).
3. Dự thảo Báo cáo của BCHTW tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986
– 1990 (bản sửa cuối cùng), Hồ sơ số 74, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Kho Lưu trữ Trung ương Đảng (bản scan).
4. Dự thảo Nghị quyết Đại đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (bản sửa
cuối cùng), Hồ sơ số 328, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Kho Lưu trữ Trung ương Đảng (bản scan).
5. Dự thảo Nghị quyết Đại đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (bản dự thảo
cuối cùng), Hồ sơ số 270, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Kho
Lưu trữ Trung ương Đảng (bản scan).
6. Nghị quyết Đại đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (bản chính), Hồ sơ số
268, ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Kho Lưu trữ Trung ương
Đảng (bản scan).
7. Báo cáo của BCHTW khoá VIII về các văn kiện tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, Hồ sơ số 270,
ML số 01, Phông Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Kho Lưu trữ Trung ương
Đảng (bản scan).
8. Bản trình bày của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các
văn kiện Đại hội X của Đảng (bản dự thảo cuối cùng), Hồ sơ số 467, ML số 01, Phông
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Kho Lưu trữ Trung ương Đảng (bản scan).
9. Quyết định số 61-QĐ/TW ngày 20-11-1985 của Ban Bí thư TW về nhiệm vụ
và hoạt động của Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội lần thứ VI của Đảng.
111
10. Quyết định số 101 QĐ/TC QT ngày 26/07/1986 của Ban Tài chính – Quản
trị Trung ương về việc thành lập tổ tài vụ tài sản phục vụ ĐHĐBTQ của Đảng toàn
quốc lần thứ VI.
11. Quyết định số 124-QĐ/TW ngày 23/03/1991 của Ban Bí thư về việc thu
thập tài liệu, văn kiện Phông ĐHĐBTQ của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII.
12. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khoá (VIII) số 12-NQ/TW ngày
16/08/1999 về triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
13. Quy định số 714-QĐ/VPTW ngày 10/03/2001 của Văn phòng TW về một
số điểm về thể thức tài liệu, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
14. Quyết định số 133-QĐ/TW ngày 04/02/2008 của BCHTW về việc thành lập
Tiểu ban tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, bổ sung và phát triển
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
15. Quyết định số 134-QĐ/TW ngày 04/02/2008 của BCHTW về việc thành lập
Tiểu ban tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 –
2010) và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 – 2020).
16. Quyết định số 248-QĐ/TW ngày 21/07/2009 của BCHTW về việc thành lập
Tiểu ban Tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng Đại
hội XI của Đảng.
17. Quyết định số 249-QĐ/TW ngày 21/07/2009 của BCHTW về việc thành lập
Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
18. Quyết định số 271-QĐ/TW ngày 27/10/2009 của Ban Bí thư TW về việc
tập trung tài liệu, văn kiện, lập Phông Lưu trữ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
19. Quyết định số 297-QĐ/TW ngày 05/04/2010 của Bộ Chính trị về việc thành
lập Ban Chỉ đạo xây dựng Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của BCHTW (khoá X) trình
Đại hội XI và Báo cáo tình hình thực hiện Quy chế làm việc của BCHTW, Bộ Chính
trị và Ban Bí thư (khoá X).