BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Cẩm Ly
THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
NAM KÌ LỤC TỈNH
CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,
HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Cẩm Ly
THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
NAM KÌ LỤC TỈNH
CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX
(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,
HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)
Chuyên ngành
: Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở
bất kỳ một công trình nào khác. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn được sử
dụng trung thực, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình
nghiên cứu liên quan đã được công bố trên các website.
Tác giả luận văn
Trần Thị Cẩm Ly
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các quý Thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn,
phòng Sau đại học, các Thầy cô của thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh cũng như thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến PGS. TS Đoàn
Thị Thu Vân - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn và cảm thông, chia sẻ với
chúng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn
bè – những người luôn động viên, khích lệ, hỗ trợ chúng tôi trên nhiều phương diện.
Tác giả luận văn
Trần Thị Cẩm Ly
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................................... 9
1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng
văn hóa Đông – Tây .............................................................................................. 9
1.1.1. Quá trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh ....................................................... 9
1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh ...................................................................... 12
1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX ............................................................................................................ 20
1.2.1. Thời kì sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam ....................................... 20
1.2.2. Nền bảo hộ của Pháp ở Nam Kì và kháng chiến của nhân dân .................. 23
1.3. Văn học Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX .............................. 28
1.3.1. Văn học Hán Nôm ...................................................................................... 30
1.3.2. Văn học Quốc ngữ ...................................................................................... 34
1.4. Thơ trào phúng – tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại ........................ 40
1.4.1. Khái niệm “trào phúng” ............................................................................. 40
1.4.2. Thơ trào phúng ........................................................................................... 41
1.4.3. Bức tranh văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế
kỉ XX .......................................................................................................... 43
1.5. Những nhà thơ hiện thực trào phúng đặc sắc đất Nam Kì ................................... 48
1.5.1. Phan Văn Trị (1830-1910) ......................................................................... 49
1.5.2. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883) ................................................................... 51
1.5.3. Học Lạc (1842-1915) .................................................................................. 53
1.5.4. Nhiêu Tâm (1840 – 1911) ........................................................................... 55
Chương 2. NỘI DUNG HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG TRONG THƠ
CA NAM KÌ LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU
THẾ KỈ XX ............................................................................................ 58
2.1. Tiếng cười châm biếm, đả kích ............................................................................ 58
2.1.1. Đả kích bọn thực dân Pháp ......................................................................... 59
2.1.2. Đả kích giai cấp thống trị và bọn quan lại làm tay sai cho giặc ................. 64
2.1.3. Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội .................................................. 82
2.2. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh ............................................................................ 93
2.2.1. Tiếng cười tự trào với cái nhìn lạc quan, đa chiều về cuộc sống .............. 94
2.2.2. Tiếng cười quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng
ngày ............................................................................................................ 99
Chương 3. NGHỆ THUẬT THƠ HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG NAM KÌ
LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX ............................ 104
3.1. Thể loại, thủ pháp nghệ thuật và các biện pháp tu từ ......................................... 104
3.1.1. Sự kết hợp giữa “yếu tố Nôm” và “Đường luật” trong thơ bát cú .......... 104
3.1.2. Hình thức ngụ ý, hình ảnh ẩn dụ, thủ pháp đối lập ................................... 107
3.2. Ngôn ngữ quần chúng Nam Kì - nguồn của mọi nguồn .................................... 112
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị nhưng điêu luyện, tài tình ............................................ 112
3.2.2. Ngôn ngữ thô ráp, góc cạnh, không trau chuốt......................................... 122
3.3. Giọng điệu trào phúng ........................................................................................ 127
3.3.1. Giọng châm biếm, đả kích ........................................................................ 127
3.3.2. Giọng bông đùa, hài hước ......................................................................... 131
3.3.3. Sự kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hài .................................................. 134
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 139
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến
chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là vùng Nam Kì Lục Tỉnh. Đời sống văn hoá tinh thần của
nhân dân ta còn được tiếp nhận luồng gió mới từ phương Tây thổi vào do những ảnh
hưởng sâu sắc của chế độ thực dân trên vùng đất này. Chính vào thời điểm đất nước có
nhiều biến động đó đã sản sinh ra những nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc hàng
đầu của nền văn học. Thơ ca hiện thực trào phúng trở thành một sản phẩm tinh thần
đặc sắc của giai đoạn mạt kì trung đại. Thơ trào phúng thông qua sự quan sát cảm nhận
của các tác giả Nam Kì Lục Tỉnh đã phần nào phản ánh chân thật hiện thực cuộc sống
đương thời, đặc biệt là hiện thực tâm trạng của tầng lớp trí thức. Các nhà nho trào
phúng đã tìm được đề tài đắc địa đề bộc lộ cách nhìn, cách nghĩ mới về những vấn đề
mang tính thời đại quốc gia. Thơ trào phúng đến đây đã vượt qua giai đoạn tìm tiếng
cười khôi hài trong những chuyện vặt vãnh để đi vào những vấn đề có nội dung chính
trị xã hội, có ý nghĩa phê phán, đấu tranh rộng hơn. Tiếng cười đã trở nên sắc bén,
hiểm hóc và đa dạng, có hiệu quả phê phán cao hơn. Tiếng cười trào phúng thế kỉ XIX
- đầu thế kỉ XX đã bổ sung sức mạnh cho văn thơ yêu nước cách mạng cũng như góp
phần chuẩn bị nền móng vững chắc cho sự ra đời và phát triển của trào lưu văn xuôi
hiện thực phê phán những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Việc tìm hiểu thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những nét đặc
sắc của thơ ca Việt Nam giai đoạn chuyển tiếp từ trung đại sang hiện đại nói chung và
đặc điểm của thơ ca hiện thực trào phúng nói riêng.
Văn học hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
là một bộ phận đặc biệt cả về ý nghĩa và lịch sử trong nền văn học Việt Nam. Cá tính
văn học hiện thực trào phúng của miền Nam Kì Lục Tỉnh là điều không thể phủ nhận
bởi sức hấp dẫn của nó. Vùng văn học này đã có một đời sống rất sôi nổi với hàng
trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả, và đã để lại
những vết son không phai mờ trong ký ức của nhiều người. Thế nhưng nó vẫn chưa
được tìm hiểu một cách hợp lý và xứng đáng. Các công trình nghiên cứu về văn học
giai đoạn này cũng như vùng văn hóa này còn rất hạn chế. Nảy sinh từ thất bại của
2
phong trào yêu nước chống Pháp, văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX mang trong sự phát triển của nó một màu sắc riêng, có nội dung và nhịp điệu tương
ứng với quá trình xâm lược quân sự, bảo hộ và khai thác thuộc địa của thực dân. Có thể nói
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX là một giai đoạn đặc thù, với những đặc
trưng và phẩm chất khác với lịch sử trước nó và sau nó. Chính vì thế, nó làm nảy sinh
và phát triển một đội ngữ các nhà thơ mang phong cách, suy nghĩ rất riêng. Do những
đặc thù và phẩm chất đó nên việc nhận diện và khảo sát nó luôn là cần thiết. Từ đó
thấy được vai trò cùng những đóng góp to lớn của các nhà thơ trào phúng miền Nam
cho nền văn học cả nước, nhìn thấy rõ nét một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam
những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Tìm hiểu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh là tìm hiểu con đường
hình thành và phát triển tạo nên phong cách riêng, độc đáo trong thơ ca của các nhà
thơ đất Nam Kì. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có
tính hệ thống về nội dung và nghệ thuật tiếng cười trào phúng trong vùng văn học này.
Vì vậy, công trình này mong muốn đưa đến một cách nhìn nhận mới, góp phần làm
sáng tỏ những đặc điểm thơ ca và tài năng của các nhà thơ trào phúng nổi bật đất Nam
Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn
Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm, giúp người đọc đến gần hơn với thơ ca hiện thực trào
phúng của họ.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ
Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể nói, số lượng bài viết về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh có
số lượng khá khiêm tốn. Có ý kiến cho rằng văn học miền Nam không có những đóng
góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Các nhà thơ của Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn
cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX để lại một sự nghiệp cũng tương đối nhỏ, khó lòng để
tìm hiểu một cách đầy đủ và rõ nét về con người và tư tưởng của họ. Tuy nhiên, văn
học Nam Kì Lục Tỉnh bao gồm các tác giả vô danh và hữu danh cùng với các tác phẩm
lớn nhỏ đã tạo thành một bộ phận văn học sôi nổi, có nhiều đóng góp to lớn. Theo sự
3
tìm tòi chưa đầy đủ của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này đã có nhiều bài viết về
văn học miền Nam nói chung và thơ ca hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX – đầu thế
kỉ XX nói riêng ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo
luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình...
Thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ vùng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX như Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm đã
tạo ra một không khí mới cho nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trở thành đối
tượng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình nhưng còn tương đối ít, những tài liệu về
các tác giả này để lại không nhiều. Theo tài liệu chúng tôi tìm được trên các trang báo
điện tử, đã có những bài viết về cuộc đời và thơ ca của các nhà thơ hiện thực trào
phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, bàn luận ở nhiều khía cạnh
khác nhau về những bài thơ đặc sắc của các nhà thơ trên. Các bài viết tuy chưa khái
quát hết tất cả các phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào
phúng của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh kể trên nhưng lại là những gợi dẫn quý báu
cho hoạt động tiếp nhận của người đọc và cả hoạt động nghiên cứu, phê bình…về các
tác giả này.
Chúng tôi xin điểm qua những bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị đã
đánh giá, nhìn nhận về nhiều vấn đề trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ
vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Các tác giả, nhà phê bình
đã dành rất nhiều tâm huyết nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh cũng như các
nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc. Qua các bài viết, các công trình đó, có nhiều
điều được phát hiện, được đánh giá nhận xét công phu. Cụ thể là:
Bộ “Văn học miền Nam” của tác giả Võ Phiến, gồm 7 tập của Võ
Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và dù mắc một số hạn chế nhất định,
vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó không những giúp người đọc
nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho
người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị
quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa như thế, bộ
“Văn học miền Nam” của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu, “Tổng quan”, đã được đón
nhận nồng nhiệt. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần.
4
Công trình nghiên cứu “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của
tác giả Nguyễn Văn Hầu. Được thực hiện đầy nỗ lực trong thời gian ông lâm
bệnh nặng, bộ khảo cứu văn học này gồm ba quyển: Miền Nam và văn học dân
gian địa phương; Văn học Hán Nôm thời khai mở và xây dựng đất mới; Văn học
Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp. Đây là công trình không thể thiếu đối
với giới nghiên cứu và người đọc muốn hiểu sâu về những nền tảng làm nên văn
hoá, văn học Nam Kì Lục Tỉnh.
“Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm”, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn
Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu gồm hai phần
chính: I. Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước; và II. Thơ Phan Văn Trị. Phải nói rằng
hai tác giả có cố gắng và nhiệt tình đi sâu vào đề tài nghiên cứu Phan Văn Trị dù
vẫn còn nhiều sai sót cần đính chính, bổ sung.
“Những danh sĩ miền Nam”, Hồ Sĩ Hiệp – Hoài Anh, Nxb Tổng Hợp
Tiền Giang 1990, viết về cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hoá miền
Nam từ lúc hình thành vùng đất Đàng Trong, thế kỷ 17 cho đến khi thực dân
Pháp đặt ách thống trị. Những danh sĩ này, người thì mang lại ánh sáng văn hoá
và giáo dục, người thì xây dựng những sáng tác văn học, công trình nghiên cứu
lịch sử, địa dư, kinh tế, xã hội, người thì dùng ngọn bút để chiến đấu trực diện
với bọn thực dân Pháp khi chúng đặt chân xâm lược đất Nam Kì.
“Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945”, Văn Tân,
Nxb Khoa Học Xã Hội. Công trình gồm 9 chương, có giá trị rất lớn đối với
những người nghiên cứu văn học, học tập và đông đảo bạn đọc ngày nay.
Các tác phẩm viết về miền Nam của tác giả Sơn Nam: “Lịch sử khẩn
hoang miền Nam”; “Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mĩ
tục Việt Nam”; “Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam”,.... Ông đã viết nên
nhiều tác phẩm dấu ấn nên được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông
già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ
các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản
quyền và xuất bản.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều điều chưa được làm rõ, thậm chí mới chỉ
5
ở dưới dạng giới thiệu, tản mạn,… Đặc biệt là việc nghiên cứu về mặt nội dung và
nghệ thuật của tiếng cười trào phúng trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX vẫn chưa được quan tâm thích
đáng. Tuy vậy các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết đi trước lại là những gợi ý quý
giá để chúng tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hy vọng góp một cách nhìn
đầy đủ hơn, tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu thơ ca hiện thực trào phúng của
các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, góp phần khẳng định
những đóng góp của dòng văn học hiện thực trào phúng và các nhà thơ trào phúng của
Nam Kì Lục Tỉnh cho nền văn học miền Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ ca
trào phúng mang giá trị hiện thực của các nhà thơ miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX, chú trọng đến thơ ca của bốn tác giả tiêu biểu là Phan Văn Trị,
Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,
Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, luận văn khảo sát các công trình sưu tập, những bài viết về
thơ ca hiện thực trào phúng của các tác giả có uy tín trong nước như:
Thơ văn trào phúng Việt Nam (Phần văn viết từ thế kỉ XIII – 1945), Vũ
Ngọc Khanh, Nxb Văn Học (Hà Nội – 1974)
Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn
Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh
Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945, Văn Tân, Nxb Khoa
học Xã hội
Thơ ca trào phúng Việt Nam, Bùi Quang Huy, Nxb Đồng Nai (1996)
6
Đồng thời xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng các công trình “Văn học miền Nam” của
tác giả Võ Phiến, “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của tác giả Nguyễn Văn
Hầu – nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt Nam, đặc biệt là
những nghiên cứu gắn với vùng đất Nam Kì, để thấy được hết bề dày lịch sử cùng sự
phát triển mạnh mẽ của văn học Việt Nam nói chung và văn học miền Nam nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn tham khảo thêm một số bài đánh giá và một số bài tiểu luận về
thơ ca hiện thực trào phúng cùng những bài nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh
được đăng trên các báo, tạp chí của các tác giả trong và ngoài nước.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:
Đưa đến cái nhìn khái quát về nền văn học hiện thực trào phúng của
vùng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào phúng thơ ca
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những đặc điểm của thơ ca hiện
thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX có chứng cứ cụ
thể. Đồng thời nó còn giúp cho việc so sánh, đối chiếu các vấn đề dễ dàng và có sức
thuyết phục cao hơn.
5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Nhằm phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của thơ ca hiện thực trào phúng
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX so với các giai đoạn khác cũng như
sự độc đáo, riêng biệt của từng nhà thơ được khảo sát. Đặc biệt là nhìn ra được những
đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực trào phúng so với các dòng
văn học khác.
7
5.3. Phương pháp hệ thống – cấu trúc
Nghiên cứu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX –
đầu thế kỉ XX nhất thiết phải đặt nó vào một hệ thống nhất định để có được một cái
nhìn đầy đủ, rành mạch, cho thấy được quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam
nói chung và của văn học miền Nam nói riêng.
5.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Để làm rõ những nét độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực
trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX và có cái nhìn khái quát
về quá trình phát triển của thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh. Phân tích cụ
thể đặc trưng của từng nhà thơ được khảo sát cũng như tổng hợp để tìm ra những nét
chung của các nhà thơ hiện thực trào phúng được nhắc đến. Từ đó có cơ sở nêu những
nét khái quát về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX.
5.5. Phương pháp tiếp cận nguồn gốc lịch sử
Mỗi giai đoạn lịch sử của xã hội đều ảnh hưởng sâu sắc đến văn học. Văn
học là sự phản ánh chân thực đời sống xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về thơ ca
hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX cần chú ý đến
bối cảnh lịch sử để có cái nhìn đa chiều, sâu sắc và chính xác hơn về giá trị của văn
học trong giai đoạn này.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua việc tìm hiểu đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục
Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh
Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, chúng tôi mong muốn thể hiện một cách nhìn
toàn diện và có hệ thống về nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào phúng
Nam Kì Lục Tỉnh để thấy được vai trò và giá trị của nó trong nền văn học Việt Nam.
Qua đó thấy được sức mạnh của tiếng cười trào phúng trong việc phản ánh hiện thực
xã hội buổi giao thời ở miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Đồng thời, thông qua đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn cung cấp những
thông tin có giá trị về thân thế, sự nghiệp cũng như những nét độc đáo trong nội dung
và nghệ thuật của các tác phẩm thơ ca hiện thực trào phúng của những nhà thơ trào
8
phúng xuất sắc ở Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,
Học Lạc và Nhiêu Tâm. Từ đó có được những gợi ý thích đáng, những kiến thức bổ
ích giúp người đọc dễ dàng khám phá và đến gần, yêu mến hơn với thơ ca hiện thực
trào phúng của những tác giả này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương này đưa đến cái nhìn khái quát về lịch sử và nền văn học Nam Kì Lục
Tỉnh cũng như một số nét tiêu biểu về các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì giai đoạn
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Chương 2: Nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Chương này phân tích để làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam
Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Chương 3: Nghệ thuật thơ hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế
kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Chương này đi vào phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào
phúng thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
9
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa
Đông – Tây
1.1.1. Quá trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh
Vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh (trước đây gọi là Đồng Nai - Gia Định) đã được khai
phá từ rất lâu đời. Con người có mặt và bắt đầu khai phá vùng đất này đã xuất hiện
cách nay khoảng 2500 đến 4000 năm. Theo kết quả khảo cổ học, hồi ấy phần lớn đồng
bằng sông Cửu Long vẫn còn chìm dưới nước. Đến thế kỉ thứ V trước Công nguyên,
vùng đồng bằng này mới bắt đầu nổi lên, các vịnh biển được lấp đầy dần cùng với sự
rút lui của nước biển, để lộ ra một vùng đất hoang vu nhưng đầy tiềm năng để phát
triển về sau này. Nơi đây chỉ toàn là rừng rậm hoang vu, sình lầy, nước đọng còn nhiều
thú dữ: cọp, beo, voi, heo rừng, cá sấu, rắn,… đất Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn còn là một
vùng đất hoang vu với những bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật
kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây
nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ
họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài
hàng trăm dặm…. Cuộc sống hoàn toàn hoang dã. Suốt hơn 600 năm sống chung với
lũ, những cư dân đầu tiên của vùng châu thổ này đã dũng mãnh và tài năng tạo dựng
nên nền văn hóa Óc Eo mà lịch sử sau này không thôi ca ngợi là nền văn minh phát
triển sớm nhất và rực rỡ nhất Đông Nam Á. Sau trận biển tiến xảy ra vào thế kỉ VI,
toàn bộ vùng châu thổ chìm trong nước biển và bị lãng quên. Phải đến thế kỉ XIII, tộc
người Khmer của nước Chân Lạp mới bắt đầu có mặt nơi đây và vực dậy tiềm năng
của vùng đất này tạo nên sự thịnh đạt của đế chế Ăng – Co cổ và trải qua mấy trăm
năm tồn tại của vương quốc Chân Lạp. Do điều kiện tự nhiên khó khăn, quá trình
chinh phục vùng đất phía nam này của những lớp cư dân đến trước tiến triển rất chậm
chạp.
Đến thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
sâu sắc. Cuộc nội chiến bất phân thắng bại giữa hai dòng họ Trịnh – Nguyễn kéo dài
gần hai thế kỉ với những trận đánh ác liệt đã khiến cho dân chúng vào cảnh lầm than.
Để phục vụ cho những nhu cầu của cuộc chiến tranh giành quyền lực ấy cũng như để
10
thỏa mãn lối sống xa hoa, trụy lạc của mình, các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn
đã thi nhau vơ vét của cải, nhân lực của dân chúng, tạo nên cảnh đói rét khắp nơi trong
nhân dân. Trước sự bóc lột, vơ vét của bọn phong kiến ở xứ Đàng Trong, nhân dân chỉ
có hai con đường để lựa chọn: một là đứng lên chống lại, hai là rời bỏ quê hương xứ
sở để đi tìm đất sống. Những người đó đã băng đèo lội suối, vượt mọi nguy nan để tìm
đến vùng đất xa xôi và hoang vu ở lưu vực sông Đồng Nai – Cửu Long.
Chiến tranh dai dẳng gieo tai họa cho nhân dân không kể xiết cả ở Đàng Trong
và Đàng Ngoài. Nhân dân Đàng Trong sống ở vùng đất đai chật hẹp giữa dãy Trường
Sơn và biển Đông, đồng ruộng ít lại kém màu mỡ, quanh năm nắng gió, thiên tai lũ lụt
bủa vây, cộng thêm thiên tai, mất mùa, bệnh dịch,....cuộc sống không đủ no lại còn
phải phục dịch chiến tranh kéo dài về tiền của cũng như con người vô cùng khốn khổ.
Vì sinh kế, muốn lánh xa nơi chiến tuyến, lánh nạn đi phu, đi lính, nhân dân Đàng
Trong tìm cách trèo đèo, vượt biển, lội suối, băng rừng đi vào đất Chân Lạp vùng Mô
Xoài (Bà Rịa ngày nay) và vùng Đồng Nai làm ăn, tìm nơi đất rộng, người thưa, đất
hoang còn nhiều, khai phá những vùng đất màu mỡ. Tiếng lành đồn xa, những người
làm ăn khá truyền tai nhau làm tăng thêm dân số cho vùng đất này. Lúc này, chúa
Nguyễn đã chiếm đất Chiêm Thành. Như vậy, lớp người đầu tiên tiến vào vùng Đồng
Nai – Cửu Long để kiếm sống và an thân trước hết là những người nông dân Trung,
Bắc vì bị bóc lột và áp bức mà bần cùng lưu tán, đồng thời cũng để tránh cuộc phân
tranh đẫm máu.
Từ thế kỉ XVI, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc do sự can thiệp của Xiêm
và dần bước vào thời kì suy vong, không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập
nước ở phía Nam, vốn là địa phận của vương quốc Phù Nam và trên thực tế đã không
đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng
đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng
sinh sống.
Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả công nữ Ngọc Vạn cho quốc
vương của Chân Lạp là Chey Chatta II làm hoàng hậu của vương triều Chân Lạp.
Chính vì vậy, lưu dân Việt đã theo chân Ngọc Vạn công nữ vào Nam lập nghiệp càng
ngày đông. Về phương diện ngoại giao, cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua
11
Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dân tộc Việt -
Khmer. Về phương diện xã hội nó cũng được xem như là một sự mở đầu cho công
cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam của dân tộc Việt. Đối với Chân Lạp, việc kết
thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất
mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm.
Năm 1623, chúa Nguyễn bấy giờ là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần mượn đất vua
Chân Lạp để làm nơi thu thuế quan (ở Prei Nokor (tức Sài Gòn) và khu dinh điền Mô
Xoài (tức Bà Rịa)), đánh dấu sự can thiệp đầu tiên của chúa Nguyễn vào nội trị của
nước Chân Lạp. Khi Chân Lạp xảy ra sự kiện tranh giành ngôi báu, dòng chính thống
xin chúa Nguyễn viện trợ. Chúa Nguyễn sai 3000 quân vào giúp đỡ bắt được vua là
Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình sau thả về nước, bắt phải cống triều thường
niên và ra điều kiện phải bênh vực người Việt sang làm ăn sinh sống. Từ đó, uy thế
của chúa Nguyễn tăng lên. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, chúa Nguyễn đã chú ý
để mắt đến vùng đất này với mong muốn tăng cường khả năng của mình trong hoàn
cảnh chiến tranh với Đàng Ngoài đang diễn ra. Vì thế, chúa Nguyễn sai người từ
Quảng Bình đến Bình Thuận vào khai thác vùng đất mới này.
Trong lịch sử khai thác đất Đồng Nai, phần đóng góp của người Hoa ở đây rất
quan trọng. Năm 1697, một nhóm quan binh ở Quảng Tây sau thời gian chiến đấu
chống lại chế độ của nhà Mãn Thanh không có kết quả đã cùng gia đình gồm 9000
người nhất quyết không thần phục nhà Thanh chạy sang Quảng Nam xin phục tùng
chúa Nguyễn. Hiền Vương thấy lực lượng to lớn ấy ở trong nội bộ đất của mình không
lợi, cũng vừa lúc đang có ý định khai thác vùng đất Chân Lạp nên đã nói với vua Chân
Lạp cho lực lượng Hoa kiều ấy theo thuyền vào sống nhờ trên vùng đất phía nam.
Chúa Nguyễn khôn khéo ngoại giao đã làm một việc mà nhằm vào hai điều lợi: vừa
tránh nạn nuôi ong tay áo, vừa triển khai công việc khai thác đất mới một cách dễ
dàng.
Đất lành chim đậu, những con người di dân từ miền Bắc và Trung cùng với các
thành phần khác đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, gặp được vùng đất mới, phì
nhiêu cộng với khí hậu thuận hòa, địa hình thuận lợi, bằng phẳng, hệ thống sông rạch
chằng chịt, nên định cư ngày càng đông. Chính sự cần cù, nhẫn nại và óc sáng tạo
12
không ngừng của những bậc tiền nhân đã biến vùng đất hoang vu, đầy sình lầy thành
vùng màu mỡ, trù phú. Cộng đồng nơi đây đã tổ chức cuộc sống trong tinh thần tương
thân tương ái, tạo nên những vùng cư trú ổn định, phát triển vững bền. Cuộc sống cộng
đồng xã hội bắt đầu thành hình và ngày càng phát triển rực rỡ, là nơi quy tụ của rất
nhiều dân tộc.
Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển Nam Kì Lục Tỉnh là lịch sử của gần
400 năm gian khổ khẩn hoang lập làng của những nhóm lưu dân từ Đàng Trong cũng
như miền Bắc vượt đèo lội suối xuôi vào Nam, của những nhóm lưu dân Trung Hoa
bài Mãn, phục Minh và sự cộng cư của các thổ dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời. Sự
hình thành và phát triển ấy tóm lại được tác động bởi ba yếu tố chính trị: sự tan rã của
chính quyền Cao Miên, nhu cầu của một cuộc nội chiến của hai dòng họ ở nước ta, và
sự đô hộ của Pháp. Nam Kì Lục Tỉnh là vùng đất mới trải dài từ miền nam Phan Thiết
đến mũi Cà Mau, mang nhiều sắc thái đặc thù mà từ văn hóa đến tâm tình lẫn tâm tính
có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở Đàng Ngoài.
1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh
Gần 300 năm nay, Nam Kì luôn là vùng đất có sức hút mạnh mẽ đối với dân cư
của cả nước. Con người đến với vùng đất này đã tôn tạo cho mình những giá trị đặc
sắc về văn hóa, lịch sử...Trong quá trình khai phá vùng đất mới, họ đã thích nghi với
điều kiện của cuộc sống, đồng thời với nó, họ cải biên, sửa đổi, làm cho thiên nhiên
quy phục mình. Từ đó, hình thành nên những đặc điểm riêng, những nét tính cách rất
riêng của con người vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh. Con người nơi đây mang những đặc
trưng không thể hòa lẫn với những vùng khác của tổ quốc.
a. Các thành phần dân cư
Từ thế kỉ XVII, trên vùng đất Nam Kì cũng như vùng châu thổ sông Cửu Long
bắt đầu xuất hiện những lớp cư dân mới. Lớp người tiên phong tiến vào vùng Nam Kì
Lục Tỉnh để kiếm sống và an phận thủ thường đó là những người nông dân và thợ thủ
công nghèo khó lâm vào bước đường cùng của miền Trung vì bị bóc lột và áp bức
nặng nề mà phải rời bỏ quê hương làng mạc, đồng thời cũng là để tránh cuộc phân
tranh đẫm máu giữa hai dòng họ Trịnh, Nguyễn. Số người này chiếm số lượng đông
đảo nhất và cũng là lực lượng di cư chủ yếu trong thời kì đầu hình thành xứ sở. Tiến
13
trình nhập cư của người Việt từ ngoài Bắc và Trung vào đất Đồng Nai – Gia Định diễn
ra liên tục với mức độ ngày càng gay gắt của cuộc nội chiến phân tranh giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn cũng như của mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp địa chủ
phong kiến và nông dân. Tiến trình nhập cư này có lúc ồ ạt, có lúc lẻ tẻ.
Từ cuối thế kỉ XVII trở về sau, họ Nguyễn xây dựng và cũng cố chính quyền, lần
luợt xác lập quyền cai trị của mình lên vùng đất mới. Lúc này, các chúa Nguyễn chủ
trương chiêu mộ lưu dân vào Nam khai hoang. Lực lượng di cư được bổ sung thêm
bằng những thành phần khác. Đó là những người có tiền của, có quyền thế nên đã
chiêu mộ dân nghèo ở miền Trung đi vào Nam khẩn hoang vỡ đất theo lời kêu gọi của
chính quyền. Thứ nữa là những lính tráng cùng với những tội đồ bị triều đình bắt buộc
phải vào vùng đất lúc bấy giờ vẫn còn hoang dã với rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, rắn
rết, chứa đầy hiểm nguy để vừa bảo vệ biên cương, giữ gìn an ninh, vửa mở ruộng, lập
vườn chung quanh điểm quân sự, phát triển kinh tế.
Trong lớp người di cư đến vùng đất Nam Kì cuối thế kỉ XVII còn có một lực
lượng đông đảo người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung
Quốc) mà phần đông là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều đình Mãn
Thanh nên đã kéo đến Việt Nam xin chúa Nguyễn cho tị nạn và làm ăn sinh sống.
Nhóm người Hoa này chia làm hai nhóm nhỏ: nhóm do Dương Ngạn Địch và Trần
Thượng Xuyên cầm đầu có khoảng 3000 người đến Mỹ Tho và Biên Hòa; nhóm do
Mạc Cửu thống lĩnh có khoảng 200 người đến Hà Tiên. Từ thế kỉ XVII trở về sau lần
lượt nhiều người dân nghèo thuộc các tỉnh ven bờ biển đông nam Trung Quốc cũng đã
dắt díu nhau nhập cư vào đồng bằng sông Cửu Long làm ăn sinh sống ngày càng đông
hơn. Giữa thế kỉ XVIII có thêm một số lượng lớn người Chăm vốn là những người tản
cư lên Chân Lạp cuối thế kỉ XVII để tránh chiến tranh thì nay lại chuyển về định cư ở
vùng núi Bà Đen.
Ngoài ba thành phần người Việt, người Hoa và người Chăm là thành phần dân cư
chính vừa kể trên, trong lớp dân cư mới xuất hiện ở đất Nam Kì trong các thế kỉ XVII,
XVIII còn có một số người đến từ các quốc gia khác nhau như Anh, Pháp, Ma Cao,
Giava, Ấn Độ,...Họ sống lẫn lộn vào nhau, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào
theo tục nước ấy.
14
Mỗi dân tộc đều có một sắc thái văn hóa riêng của mình, cống hiến phong phú
cho văn hóa chung của khu vực. Có thể nói, Nam Kì là vùng đất có văn hóa phong phú
nhất cả nước. Chẳng hạn, người Khơ Me cư trú đông đảo trong các phum, sóc trên
những giồng đất cao ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu,...làm ruộng rẫy, theo Phật giao
tiểu thừa với những hình thức ca múa độc đáo. Người Chăm ở Châu Đốc phần đông
sống bằng buôn bán nhỏ, theo đạo Hồi với các phong tục rất riêng. Người Hoa làm
nghề buôn bán, thủ công nghiệp, làm vườn gắn với việc gìn giữ trong cộng đồng của
mình những điệu hát Tiều, Quảng, múa lân,... và những tập tục thờ quan Đế, ông
Bổn,... Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều dân tộc, từ nhiều địa phương đến, với nhiều
tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển kinh tế xã hội như vậy nhưng
lại không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó của cộng đồng cùng sinh sống trên
vùng Nam Kì.
Như vậy cho đến cuối thế kỉ XVIII, lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt tại
miền Bắc và miền Trung đã di cư và đặt chân đến nhiều nơi trên vùng đất Nam Kì. Địa
điểm định cư và khai khẩn phân bố chưa đồng đều do điều kiện thiên nhiên khác nhau
ở các vùng. Sang thế kỉ XIX, dân số đã tăng lên rất nhiều do sinh đẻ tự nhiên và lưu
dân các miền khác tiếp tục nhập cư khai khẩn theo sự vận động của triều Nguyễn. Vì
vậy, những vùng đất trước đây hoang vắng thì nay lần lượt có người khai phá. Các
trung tâm định cư được hình thành ven sông Đồng Nai, vùng sông Tiền, sông Hậu nối
liền thành một dải rộng lớn, liên tiếp hình thành nên một vùng đất với nhiều thành
phần dân cư. Đây là điều đáng chú ý của Nam Kì so với các vùng đất còn lại của đất
nước.
b. Tính cách đặc trưng của con người
Can trường, gan góc, ngang tàng
Vùng đất mới còn hoang sơ, là nơi rừng thiêng nước độc, hùm beo, rắn rết đầy
rẫy, nó vừa khơi dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối
với những con người phải dấn thân. Như đã trình bày ở phần trên, những lưu dân Việt
khi vào đất Nam Kì vốn là những người nông dân, thợ thủ công, những kẻ trốn lính, tù
tội do cuộc sống nghèo khổ, bức bách phải rời bỏ quê hương làng mạc dù muốn hay
không muốn. Tuy nhiên, họ cũng là những con người có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm,
15
dám chấp nhận nguy hiểm, coi nhẹ tính mạng, thích sống ngang tàng, dám đương đầu
với thử thách, khó khăn, muốn phá bỏ mọi lề thói ràng buộc nên đã chọn vùng đất mới
để an cư lạc nghiệp. Cũng có thể do hoàn cảnh xô đẩy khiến họ không có sự lựa chọn
nào nên đành phải “liều”, nhưng dù thế nào cũng có thể dễ dàng nhận thấy, chính việc
mở mang vùng đất mới đã tôi luyện cho họ trở thành những con người can trường, gan
góc, không chịu lùi bước trước những trở ngại của thiên tai địch họa.
Để có được những mảnh đất màu mỡ những lưu dân đã phải đổ mồ hôi, sôi nước
mắt khắc phục muôn vàn khó khăn trong nhiều năm tháng. Đất Nam Kì vào thế kỉ
XVII, XVIII là rừng hoang cỏ rậm, trũng thấp, sình lầy nên những lưu dân ở đây ngoài
việc đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên, còn phài đối măt với các loài
thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác khác. Những con
người đến đây phải chấp nhận mạo hiểm, đó là những con người bị buộc phải liều
mạng, vì thế, họ coi tính mạng nhẹ tựa lông hồng, tỏ ra dũng cảm, gan góc, không nề
hà nguy hiểm, khó khăn. Đây cũng là đức tính mà việc khai phá vùng đất mới đào
luyện nên.
Cảnh tượng ban đầu ấy trực tiếp tác động vào tâm tư, tình cảm của những con
người mới, thể hiện rất sinh động trong những câu ca dao, dân ca Nam Kì khi xưa:
Chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây
Hay:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Khi người còn thưa thớt, xung quanh là những bầy thú rừng, cảnh u tịch hoang
dã, con người không thể tránh khỏi những cảm giác kinh hãi, ghê sợ trước cảnh vật
còn hết sức xa lạ với mình:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh
Hoặc:
Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh
16
Hay:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
Đó chính là những điều dễ dàng tìm thấy ở thiên nhiên đầy bí ẩn của Nam Kì
buổi đầu khai hoang mở cõi. Dù chứa đựng rất nhiều yếu tố thuận lợi nhưng nó cũng
bày ra trước mắt con người vô vàn những khó khăn không dễ vượt qua. Vì thế, những
con người nơi đây đã được tôi luyện thành những con người gan góc, mạnh mẽ, không
chịu lùi bước trước những trở ngại thiên nhiên ấy cũng như không chịu luồn cúi trước
sức mạnh phi nghĩa sau này:
Trời sanh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều
Đoàn kết, tương trợ
Không phải thiên nhiên hào phóng dành cho những cư dân mới mọi thứ cần thiết
cho cuộc sống. Những người khai phá vùng Nam Kì không được may mắn kế thừa di
sản vật chất của cha ông để lại. Từ môi trường hoang dã họ đã bắt đầu cái mới, tự bản
thân họ phải phấn đấu rất cam go để cải tạo thiên nhiên. Nó là một cuộc chiến đấu cực
kì gian khổ từ việc chống lại thú dữ cho đến khắc phục bệnh tật, đối phó với các hiện
tượng thiên nhiên mà con người chưa thể lí giải, chưa thể nắm bắt được quy luật. Cuộc
chiến này đòi hỏi một tinh thần kiên trì và một ý thức đoàn kết rộng rãi trong cộng
đồng dân cư mới để tạo ra sức mạnh cộng đồng, chiến thắng thiên nhiên, làm chủ vùng
đất đầy tiềm năng. Chính khí hậu khắc nghiệt, đầy rẫy thú dữ, rắn rết, muỗi mòng,... và
vô số những hiểm nguy chờ chực nên những người lưu dân không thể sống đơn độc.
Là những người đi tiên phong trong công cuộc khai hoang mở đất vùng Nam Kì,
người dân ở đây là những con người dũng cảm, dám chấp nhận và đương đầu với khó
khăn thử thách. Tuy nhiên, sức mạnh của cộng đồng là một điều vô cùng quan trọng.
Trước đây, họ đã từng sống với nhau trong thôn bản, làng xóm thì nay, họ vẫn giữ ý
thức cộng đồng, tương thân tương ái. Họ nhanh chóng kết thành chòm xóm để dựa vào
nhau mà làm ăn sinh sống, đoàn kết chung tay chống lại những khó khăn, trắc trở nơi
đất mới. Trừ một ít người có tiền của, quyền thế chiêu mộ dân nghèo đi khẩn hoang để
làm giàu thêm cho mình, những người dân nghèo đi vào đây là những người liều mình
17
đi tìm đất sống nên cùng với truyền thống ngàn đời “nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng” của dân tộc, nơi đây họ lại càng yêu
thương, đùm bọc nhau, giúp nhau tạo dựng cuộc sống, kết nghĩa với nhau thề nguyền
sống chết, thương yêu nhau một cách lạ lùng.
Trọng nghĩa, khinh tài
Người Nam Kì là những người từ nơi bất công, vốn đã xa lánh sự bất công, đàn áp
nên họ rất nhạy với điều trái đạo lí, trái lương tâm, ủng hộ những người hào hiệp. Là
những con người lâm vào bế tắc, đi tìm con đường sống nơi miền xa đất lạ, tìm cái
sống trong muôn vàn cái chết đang chờ sẵn cho nên con người vùng đất mới này rất
chuộng nghĩa khí, quý trọng tình cảm hơn vật chất, coi khinh tiền tài như cỏ rác ven
đường mà trọng tình cảm, trọng nghĩa khí. Họ có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền
tài, danh lợi, giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có: nhân,
nghĩa và đạo đức làm trọng. Ta thấy nổi bật lên ở những con người ấy là tính cách rất
Nam Kì: trọng nghĩa, khinh tài, hào hiệp nghĩa khí, sống rất điệu nghệ, sẵn sàng bất
chấp hiểm nguy để làm tròn đạo nghĩa:
Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.
Lao xao song bủa dưới lùm,
Thò tay với bạn chết chìm cũng ưng.
Những tính cách này do đặc tính của vùng đất tạo nên. Vùng đất Lục Tỉnh thời
khẩn hoang với thiên nhiên hoang vu, khắc nghiệt khiến con người phải biết đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau. Điều đó lí giải cho sự xuất hiện tinh thần đầy nghĩa khí của người
dân nơi đây.
Thấy việc nghĩa, việc chướng tai gai mắt mà không ra tay cứu giúp là kẻ xấu xa,
không anh hùng. Vì thế, những kẻ bất nhân, bất nghĩa khó có thể tồn tại trên vùng đất
này. Bênh vực kẻ yếu, giúp đỡ kẻ sa cơ lỡ vận, chống lại cường hào, ác bá, đấu tranh
với việc bất nhân bất nghĩa, các thế lực phi nghĩa...là những việc nghĩa mà người Nam
Kì Lục Tỉnh sẵn sàng lăn xả. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen
tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình
18
nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là bị loại
trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi.
Bộc trực, thẳng thắn
Trong nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng của người Nam Kì Lục Tỉnh, chúng
ta còn thấy một đặc trưng rất nổi bật nữa đó là sự bộc trực, thẳng thắn, ít rào trước đón
sau, ít văn chương hoa mỹ mà chân chất, thật thà, nghĩ sao nói vậy, “nói thẳng ruột
ngựa”, không thích che đậy giấu giếm, “ruột để ngoài da”.
Điều này có nguyên nhân của nó. Những con người đầu tiên đặt chân đến Nam
Kì phần lớn là những người nông dân chân lấm tay bùn, những người lính, thợ thủ
công. Quanh năm vất vả, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn cứ nghèo khổ, lại thêm
chiến tranh liên miên nên cái chữ cái nghĩa của họ không có, hoặc có cũng rất ít ỏi.
Khi vào vùng đất mới, công việc đầu tiên là dồn mọi công sức để giành giật miếng
cơm manh áo, chống lại thiên tai, địch họa, hiểm nguy từ môi trường sinh sống. Đồng
thời, giai cấp phong kiến lãnh đạo trước đó cũng như chính quyền thực dân sau này
cũng không hề chú trọng việc mở trường, truyền bá văn hóa cho nhân dân. Điều này
góp phần hình thành nên tính cách của nhiều thế hệ người dân Nam Kì, trước sau, họ
vẫn chỉ là những người nông dân chất phác, ít học, nói năng bộc trực, mộc mạc mà
không hề rào trước đón sau, có sao nói vậy, khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém
thủ đoạn, giận thì nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông
nước, đồng ruộng bao la.
Nét tính cách này trải qua bao thế hệ, là điểm nhấn trong quan hệ giữa người với
người trên vùng đất Nam Kì. Khi nói chuyện với nhau, họ luôn vui vẻ, tạo cảm giác
thân thiện, gần gũi không câu nệ ngôi thứ, giai cấp...Chuyện tốt, đúng đắn thì tiếp thu
tích cực còn những đều chướng tai gai mắt, bất bình, không vừa ý thì sắn sàng đốp
chát, nói ngay mà không hề vòng vo, sợ mất lòng người nói.
Phóng khoáng, cởi mở, hiếu khách
Một đặc trưng tính cách nữa rất dễ nhìn ra ở những con người trên vùng đất Lục
Tỉnh là tính phóng khoáng, cởi mở và vô cùng hiếu khách. Người dân nơi đây không
hề có sự câu nệ, chấp nhặt, cố chấp. Họ không thích sự ràng buộc trong bất cứ lĩnh
vực nào của đời sống, cả vật chất lẫn tinh thần. Lí tưởng của họ không bị bó hẹp trong
19
những gian nhà, sân gạch, hàng tre. Họ là những con người dám vượt mọi hiểm nguy
để ra đi tìm đến vùng đất mới với hi vọng cuộc sống tươi sáng hơn. Vì thế, họ sẳn sàng
bỏ lại mồ mả tổ tiên, quê cha đất tổ, quê hương bản quán để tìm cho mình một nơi có
thể sống một cuộc đời tự do, thoải mái, khoáng đạt.
Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt
học được bản chất hiếu khách của hai sắc tộc nầy. Bản chất hiếu khách còn là một nhu
cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Ở đây, mỗi khi có khách đến nhà thì
luôn được chào đón bằng tấm lòng chân thành của mình, chủ nhà là những người thật
vui tính, những người xuề xòa, cởi mở, đàm đạo phóng khoáng tự do, lắm lúc có phần
lộn xộn, không xếp đặt, không câu nệ lễ nghi.
Sở dĩ người Nam Kì có tính cách này là do chịu ảnh hưởng của quá trình khai
phá đất đai. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống
có nhau, tương trợ nhau. Nơi hẻo lánh, xa xôi, những con người tha phương lập nghiệp
luôn cảm thấy cô độc, lẽ loi trước sự bao la, hùng vĩ của thiên nhiên, vì thế, họ luôn
tìm kiếm hơi ấp từ những con người cùng cảnh ngộ, kể cho nhau nghe những niềm
vui, nỗi buồn. Thêm nữa, cuộc sống nơi vùng đất mới được thiên nhiên ưu đãi, Nam
Kì có đất rộng, người thưa, mưa thuận gió hòa, ruộng lúa đầy đồng, cá tôm đầy sông
rạch, con người không phải bon chen như những nơi đất chật người đông, quanh năm
khắc nghiệt nên tạo cho họ có đời sống bình dị, tánh tình hiền hòa, không so đo vật
chất, sống rộng rãi, cởi mở, hào hiệp và hiếu khách hơn những vùng khác.
Qua việc tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Nam Kì cùng
với tính cách của con người nơi đây, chúng ta có thể tổng kết mấy nét lớn về vùng đất
đặc biệt này. Thứ nhất, Nam Kì Lục Tỉnh là một vùng đất mới, nó có một vị trí mở,
thoáng và động. Vì thế, nơi đây chính là giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa Đông
- Tây, là nơi đầu tiên diễn ra những thay đổi cũng như ảnh hường từ bên ngoài vào đất
nước ta. Đồng thời nó cũng là vùng đất giao lưu, hội nhập của rất nhiều dân tộc, tín
ngưỡng khác nhau, tạo nên sự đa dạng về đời sống xã hội, tinh thần trong khu vực, với
những dấu ấn sâu đậm trong con người.
Thứ hai, sống trong một môi trường có bề dày lịch sử, cộng với sự đa văn hóa
như vậy, con người Nam Kì có những nét cá tính rất riêng không lẫn với con người
20
vùng khác. Cá tính đó chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên, của vùng đất mà họ
sinh sống, đã được hun đúc từ bao đời làm nên nét đẹp của cư dân vùng Nam Kì Lục
tỉnh. Cá tính Nam Kì là tính bình đẳng, dân chủ, cởi mở, thoáng đạt, nhạy bén với cái
mới, cái du nhập trên tinh thần chắt lọc tinh hoa....Nhân nghĩa, bao dung nhưng cũng
rạch ròi, quyết liệt. Họ thiết thực, giản dị, không gò bó mình trong khuôn khổ cứng
nhắc. Do vậy, con người Nam Kì luôn trong trạng thái linh động, không ngừng phát
triển và sẵn sàng tiếp thu, nhiệt tình ủng hộ những cái mới, đáp ứng được những nhu
cầu của họ. Nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành hình và phát triển lâu đời
thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường tĩnh, thì đất Nam Kì vì là
một vùng đất mới, một môi trường động nên còn dễ dàng biến chuyển đổi thay.
1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
1.2.1. Thời kì sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trước khi
khép lại thời kì của mình, nó cũng đã có những lần “giãy chết”, bộc lộ rõ những hạn
chế và yếu kém không thể cứu vãn của mình. Triều Nguyễn là một triều đại mới,
nhưng lại không đại diện cho cái mới. Trong những buổi đầu, để củng cố địa vị thống
trị của mình nhà Nguyễn còn thực hiện được một số chính sách tiến bộ nhưng càng về
sau nhà Nguyễn càng đi vào con đường suy thoái để rồi trở thành một triều đại phản
động nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì thế dưới triều Nguyễn các cuộc
khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra.
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, thành lập triều Nguyễn đã đứng trước những lợi thế,
tiềm năng to lớn để xây dựng và phát triển đất nước: sau hơn 200 năm đất nước bị chia
cắt theo cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài, Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XIX
thực sự thống nhất, trở thành một quốc gia độc lập với sự hoàn chỉnh cương vực quốc
gia, thống nhất thị trường, tiền tệ. Đây là điều hết sức thuận lợi để có thể xây dựng một
nền kinh tế xã hội mạnh mẽ, mở rộng những quan hệ giao thương quốc tế, canh tân,
phát triển đất nước cũng như vượt qua sự can thiệp, xâm lấn của các thế lực thực dân ở
phương Tây...
Nhưng, những gì triều Nguyễn làm được lại đi ngược với mong muốn của quần
chúng nhân dân lúc bấy giờ. Ngay từ đầu, nhà Nguyễn đã bộc lộ những điểm yếu của
21
mình. Khác với những triều đại trước thường được thiết lập trên cơ sở thắng lợi của
những cuộc chiến tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc hoặc sau khi đã hoàn thành
nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, củng cố toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia, triều Nguyễn - vương triều phong kiến cuối cùng ở Việt Nam - lại được dựng lên
bằng một cuộc nội chiến kéo dài mà kẻ chiến thắng đã cầu cứu, dựa vào thế lực ngoại
bang để lập nên chính quyền. Như vậy, chỉ riêng việc hình thành triều đại cũng đã bộc
lộ những điều khác biệt, không phù hợp với mong muốn và quyền lợi của dân tộc.
Với độ lùi của lịch sử, có thể thấy rằng, bức tranh toàn cục về kinh tế, chính trị,
xã hội dưới triều Nguyễn rất đa dạng, phức tạp, chứa đựng đầy những mâu thuẫn giữa
cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và lạc hậu, giữa duy tân và thủ cựu, giữa cái mạnh
và cái yếu,… Thế kỉ XIX được xem là thế kỉ bản lề đối với xã hội châu Á nói chung và
của Việt Nam nói riêng. Trước áp lực của thực dân phương Tây, việc mở cửa khai
phóng những tiềm lực kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa là con
đường duy nhất và đúng đắn nhất để tăng cường sức mạnh bảo vệ nền độc lập. Tuy
nhiên, nhà Nguyễn đã không đi theo hướng đó mà đi ngược lại, hình thành nên xu
hướng độc tài của nhà nước, chế ngự, độc quyền, thi hành chính sáng đóng cửa với các
nước phương Tây.
Chính trị nhiều bất ổn biểu hiện ngay từ lúc thiết lập nên vương triều. Khi lên
ngôi, Gia Long đã bộc lộ quyết tâm xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền,
chuyên chế theo mô hình chính trị của nhà Thanh. Thực hiện nguyên lí quyền hành,
xây dựng hệ thống chính quyền quân chủ tuyệt đối là đặc trưng của chế độ chính trị
của nhà Nguyễn. Trong sự thắng thế của nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn đã ngầm chứa
những mầm mống suy vi của vương triều này: trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn khốc,
giết hại những công thần như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, mất đoàn kết
trong nội bộ hoàng tộc... Tất cả các sự kiện này đều góp phần làm cho tình hình đất
nước thêm rối ren. Những xung đột xã hội đan cài nhau và ngày càng trở nên căng
thẳng đã dẫn tới sự bùng nổ liên tục những phong trào nông dân khởi nghĩa mà tiêu
biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, hay những cuộc khởi nghĩa do các trí thức
phong kiến danh tiếng như Cao Bá Quát lãnh đạo.
22
Có thể thấy, triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam đã có
những thành tựu, những mặt phát triển, mở mang kinh tế, xã hội theo sự lớn mạnh
mang tầm vóc lịch sử dân tộc, bắt kịp hướng phát triển của dân tộc dầu thế kỉ XIX
nhưng nó không thể giải quyết được mầm mống và xu thế khủng hoảng của chế độ
phong kiến Việt Nam. Đặc biệt từ khi làn sóng thực dân phương Tây càng ngày càng
đến gần thì sự khủng hoảng này càng bộc lộ một cách sâu sắc để dần đi đến sự diệt
vong của cả một chế độ và khép lại sự tồn tại của một triều đại.
Rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, tiếng súng của thực dân Pháp bắn vào cửa
biển Đà Nẵng báo hiệu sự mở màn của cuộc chiến tranh xâm lược cũng như báo hiệu
cho một sự chuyển biến lớn trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Để thực hiện cuộc
chiến này, thực dân Pháp đã có một thời gian dài chuẩn bị với mục đích là bành
trướng, xâm chiếm thị trường chứ không phải là mục đích tôn giáo hoặc sứ mệnh
“khai hóa văn minh” như Pháp từng nói. Cuộc kháng chiến trường kì đầy gian khổ
của dân tộc bắt đầu. Pháp chinh phục Việt Nam theo chiến lược tằm ăn lá dâu, đánh
chiếm dần từng mảnh, từng vùng, từ Nam Kì rồi tới Bắc Kì, sau đó là cả nước. Về phía
nhân dân ta, đây là thời kì đứng lên với tư cách người dân của một đất nước độc lập
đấu tranh để bảo vệ, giữ gìn nền độc lập dân tộc, chống bọn xâm lược.
Việc Đà Nẵng bị tấn công không hề bất ngờ với triều đình nhà Nguyễn ở Huế,
bởi từ năm 1857 đã có nhiều bản điều trần dâng lên Tự Đức đề nghị triều đình tăng
cường phòng thủ cho hải cảng này. Vì thế, trên sông Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà
được đắp thêm hai đồn lũy kiên cố. Đèo Hải Vân cũng được xây thêm các đồn phòng
thủ có những hộc đá để ngăn chặn giặc. Quân số của các đồn chính tại Đà Nẵng có lúc
lên tới gần 5000 quân và trang bị thêm nhiều đại bác mới. Khi thực dân Pháp khai
súng, không chờ sự trả lời của triều đình, quân nhà Nguyễn tại đây đã bắn trả nhưng
do vũ khí lạc hậu cùng với việc không được luyện tập thường xuyên nên không mang
lại hiệu quả. Vì vậy, việc quân Pháp tràn vào bán Đảo Sơn Trà rồi dần dần chiếm các
tỉnh của ta là điều không thể tránh khỏi, như một việc tất yếu.
Như vậy, trước kẻ thù xâm lược, triều đình nhà Nguyễn với tư cách là những
người cầm cờ bảo vệ nhân dân đã sớm nhụt chí chiến đấu, chịu đầu hàng, nhượng đất
cho giặc, nhưng nhân dân vẫn kiên quyết đứng lên không phút nào ngơi nghỉ. Sự kiên
23
quyết này đã mở đầu cho một truyền thống đánh giặc kiên cường chống thực dân Pháp
suốt gần một thế kỉ về sau, tạo nền tảng cơ sở cho những thắng lợi của dân tộc. Nhân
dân Nam Kì nói riêng và cả nước nói chung luôn gắn bó với từng tấc đất của dân tộc,
kiên quyết bảo vệ đến cùng trong khi bộ phận lãnh đạo thời kì này là triều Nguyễn lại
trở thành những kẻ vô trách nhiệm. Mặc dù có lúc vua tôi nhà Nguyễn biết đến sức
mạnh của nhân dân và có ý định phát huy vai trò to lớn của dân nhưng rút cục vì
quyền lợi ngai vàng mà sợ hãi nhân dân dẫn đến những kết cục thảm hại. Đó là sự cáo
chung của một nhà nước phong kiến.
1.2.2. Nền bảo hộ của Pháp ở Nam Kì và kháng chiến của nhân dân
a. Nền bảo hộ của thực dân Pháp ở Nam Kì
Nước ta rơi vào vòng nô lệ. Nam Kì là vùng đất bị chiếm trước tiên nên thực dân
Pháp thi hành những chính sách áp bức bóc lột cũng như chính sách về văn hóa nô
dịch sớm nhất. Dã tâm xâm lược của thực dân Pháp thể hiện rõ ràng ngay trong sự hối
hả xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho lợi ích của chúng: xây dựng thành phố Sài Gòn
– Gia Định, các dinh thự, bưu điện, cảng, đường bộ, đường sắt...Bên cạnh đó là việc
mở trường đào tạo quan cai trị, xuất bản báo chí, sách vở bằng chữ quốc ngữ và chữ
Pháp. Cùng với việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân vẫn diễn ra quyết liệt
cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng, bộ máy hành chính cho chế độ thuộc địa, thực dân
Pháp còn xây dựng nên một đội ngũ đánh thuê, các đội lính tập, mã tà để bảo vệ những
thành quả của công cuộc xâm lược. Những chuyển biến về kinh tế, xã hội của Nam Kì
bắt đầu xuất hiện. Bộ máy cai trị của triều đình nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn, thay
vào đó là tổ chức trực tiếp của thực dân Pháp.
Về kinh tế, Pháp đã mở cảng Sài Gòn cho thông thương với nước ngoài, cho
phép tự do xuất cảng lúa gạo, xóa bỏ hoàn toàn chính sách “ bế quan tỏa cảng”, bảo
thủ của triều đình Tự Đức. Những công ty xuất nhập khẩu của pháp dần xuất hiện. Nền
giáo dục khoa cử bị xóa bỏ, chữ Hán được thay thế bằng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp
một cách nhanh chóng và chúng trở nên thông dụng. Nam Kì thay đổi rất nhanh chóng
dưới nền bảo hộ của thực dân Pháp. Chúng đã thu được những mối lợi đầu tiên từ
thuộc địa của mình: từ năm 1867 đến 1877, mỗi năm thực dân Pháp vơ vét, xuất khẩu
24
từ 20 đến 50 vạn tấn gạo, chưa kể nhiều thứ lâm sản, hải sản khác. Quang cảnh của
Nam Kì, nhất là vùng Sài Gòn, Gia Định thay đổi nhanh chóng.
Bắt đầu từ năm 1897 trở đi, thực dân Pháp chính thức bước vào thời kì tổ chức
và khai thác với quy mô lớn, xây dựng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên thuộc
địa, biến nước ta thành một nước nửa thực dân nửa phong kiến. Cùng với công cuộc
khai thác thuộc địa, nhiều đô thị kiểu mới mọc lên và phát triển nhanh chóng. Tầng lớp
thị dân đông đảo hình thành, trong xã hội mới xuất hiện một số tầng lớp mới, những
người tiểu tư sản, những người vô sản. Cùng song hành với những biện pháp chính trị,
chính sách văn hóa nô dịch được đẩy mạnh nhằm mục đích cũng cố nền thống trị của
thực dân. Từ thân phận của người dân đến chính sách luật pháp, kinh tế, văn hóa áp
dụng cho người dân vùng Nam Kì đều khác xa so với Bắc Kì và Trung Kì. Là xứ
thuộc địa của thực dân Pháp, người dân vùng Nam Kì muốn đi đến Trung Kì hay Bắc
Kì đều phải có giấy thông hành giống như thủ tục đi sang một nước khác.
Chính sách thống trị phản động và chương trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp để lại hậu quả vô cùng nặng nề đối với nước ta, làm cho nền kinh tế Việt Nam sa
sút nghiêm trọng các tệ nạn xã hội phát triển, xã hội phân hóa hết sức sâu sắc. Ngoài
mâu thuẫn cơ bản đã tồn tại là mâu thuẫn giai cấp xã hội còn nảy sinh thêm mẫu thuẫn
mới là mẫu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp xâm lược. Đây là mâu thuẫn dân
tộc cần phải được giải quyết trước để đem lại độc lập tự do cho đất nước.
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực
dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công
rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương nói
chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục,
chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai hoá
và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính là
sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Trong lòng chế
độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen
nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc việt nam với thực
25
dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn
đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển
mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức.
Khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp không chỉ nhằm khai thác
những tiềm lực về kinh tế mà còn ôm ấp ý đồ thống trị về mặt tinh thần của nhân dân
ta. Chúng muốn biến dân tộc Việt Nam trở thành nô lệ cho chúng. Sống trong chế độ
chính trị và giáo dục của thực dân, người Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành những kẻ ích
kỷ, yếu hèn, tự ti, mất gốc, không còn biết gì đến Tổ quốc, dân tộc. Nhiều người quên
dần cái nhục mất nước, cứ ngỡ rằng việc khai hóa của thực dân là sự thật, là hảo ý của
Pháp đối với Việt Nam. Nỗi đau mất nước đã lắng dần theo năm tháng, người ta lại
còn cảm thấy dường như sự hiện diện của Pháp lại có lợi cho người Việt Nam, Pháp
mang đến cho nhân dân Việt Nam bao nhiêu là tiện nghi vật chất mà họ chưa từng có
được. Người Việt Nam đã thích nghi dần và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Công
cuộc khai thác thuộc địa của Pháp dưới triều Nguyễn đã làm thay đổi mọi mặt của đời
sống.
b. Những cuộc kháng chiến của nhân dân
Sau khi chiếm được Nam Kì, thực dân Pháp đã nhanh chóng xây dựng thiết chế
quản lí của nước bảo hộ, xây dựng bộ máy thống trị trên toàn cõi Đông Dương. Tuy
nhiên, đó cũng không phải là một việc dễ dàng như chúng mong muốn bởi liên tục vấp
phải phong trào kháng chiến chống xâm lược liên tiếp bùng nổ, các cuộc khởi nghĩa vũ
trang, hình thức đấu tranh tị địa tạo ra sự hoang vắng ở những vùng đất thực dân chiếm
được khiến cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp gặp nhiều khó khăn.
Với mục tiêu đấu tranh chống thực dân, chống phong kiến giành độc lập dân tộc,
các tầng lớp nhân dân ở Nam Kì đã đứng lên tổ chức các hoạt động yêu nước mang
đậm tính chất, tinh thần của vùng đất Nam Kì. Chính sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng
của phong trào yêu nước đã khiến Nam Kì trở thành vùng đất có vị trí quan trọng trong
quá trình chuyển biến tư tưởng của dân tộc. Đặc biệt, với chính sách đô hộ, khai thác
thuộc địa của Pháp, cộng với vị trí là một vùng đất mới nên viêc sớm tiếp thu các
luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới khiến Nam Kì trở thành một trong những khu vực
có phong trào yêu nước phát triển mạnh và hết sức đa dạng.
26
Đứng trước sự xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, trước cảnh non sông đất
nước bị chia cắt và những thất bại đau đớn ở chiến trường miền Nam, triều đình nhà
Nguyễn bộc lộ sự nhu nhược, yếu hèn của mình với những phản ứng tiêu cực. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta đặt dưới ngọn cờ của triều đình nhưng vua tôi nhà
Nguyễn đã sớm bộc lộ sự lúng túng trong việc đối phó với tình hình rối ren trong
nước, cho thấy sự yếu kém của hệ thống chính quyền trung ương. Sau khi mất ba tỉnh
miền Đông, triều đình nhà Nguyễn không những không kiên quyết lãnh đạo toàn dân
kháng chiến, đánh đuổi giặc mà ngược lại, tỏ ra hèn yếu trước các hành động xâm lược
của kẻ thù đang lăm le cướp nước. Với chính sách phản động cũng như sự mục ruỗng
từ bên trong, triều đình không dám dựa vào nhân dân để chống lại giặc mà kháng cự
một cách yếu ớt rồi dần dần đi đến việc chấp nhận đầu hàng, mất đất.Thái độ hoang
mang, nhu nhược của vua quan triều Nguyễn trước giặc Pháp chính là một trong
những nguyên nhân khiến chúng ngày càng liều lĩnh tiến hành xâm chiếm các vùng
còn lại của nước ta. Pháp lần lượt chiếm hết sáu tỉnh Nam Kì, triều Nguyễn đã đứng ra
ký các hiệp định nhượng cho pháp ba tỉnh miền Đông (năm 1862) rồi ba tỉnh miền Tây
Nam Kì (năm 1874).
Nhà Nguyễn trở thành vật cản của tiến bộ xã hội. Sống nghẹt thở trong ngôi nhà
mục nát ấy, nhân dân ta chỉ có một lối thoát là vùng lên. Chiến tranh nông dân tiếp tục
bùng nổ khắp nơi, dữ dội và quyết liệt một cách không khoan nhượng. Họ không
những chọc trời khuấy nước, làm lung lay tận gốc nền độc tài của nhà Nguyễn mà còn
làm cho thực dân Pháp hồn kinh phách lạc. Ngược lại với thái độ nhu nhược của vua
tôi triều Nguyễn, nhân dân ta với truyền thống bất khuất từ ngàn đời đã kiên quyết
chống lại thực dân cũng như chống lại sự đầu hàng, phản bội của triều đình. Họ đứng
dậy kháng chiến anh dũng và bền bỉ. Cùng với Đà Nẵng, Quảng Nam, nhân dân Nam
Kì đã đi đầu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những cuộc
chiến đấu ấy khi lên khi xuống vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng không khi nào
chấm dứt, chỉ chờ cơ hội thuận lợi là lại bùng lên mạnh mẽ.
Trong khi giai cấp phong kiến thống trị nhanh chóng đi vào con đường đầu hàng
thỏa hiệp thì vai trò của nhân dân lại sáng ngời trên vũ đài chính trị. Chưa phải nhân
dân nắm quyền lãnh đạo tất cả các cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng những cuộc
27
chiến của họ là tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, đấu tranh bền bỉ, gan dạ, tinh thần
anh dũng bất khuất của dân tộc. Đứng trước nguy cơ mất nước, nhân dân đã đứng lên
buộc thực dân pháp trả một cái giá rất đắt cho từng mảnh đất chúng cướp được. Trong
cuộc chiến chống Pháp, lực lượng gây khó khăn lớn nhất cho quân thù không phải là
triều đình mà chính là những người dân áo vải khăn điều.
Từ năm 1860 đến 1862, Nam Kì đã nổi lên các trung tâm kháng chiến chống
Pháp với những tên tuổi: Đỗ Trình Thoại, Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa ở
Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng
Tháp Mười,... Trong các trung tâm này, cuộc khởi nghĩa của Trương Định là tiêu biểu
nhất. Trương Định là người anh hùng trí dũng song toàn. Từ đất Gò Công, ông đã thu
hút được nhiều anh tài như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn
Thông, Thủ Khoa Huân với số lượng hơn một vạn nghĩa binh trải rộng khắp vùng căn
cứ chống giặc từ Tân An, Mỹ Tho, Gò Công xuống Đồng Tháp Mười. Năm 1859,
quân Pháp đánh Cần Giờ rồi lấy thành Gia Định, năm 1860 đánh lấy đồn Kì Hòa, năm
1861 lấy Định Tường, Biên Hòa . Triều đình Huế cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Tiếp vào Nam giảng hòa để rồi phải ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường cho Pháp 3
tỉnh miền Đông. Đến năm 1867, ngày 19 tháng 5 quân Pháp chiếm Vĩnh Long, đêm 21
rạng 22 Châu Đốc thất thủ và sáng ngày 24 Hà Tiên bị mất, thế là từ đó miền Nam
thuộc Pháp cai trị. Trương Định đã làm cho quân Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng
ở Nam Kì, nổi tiếng với khẩu hiệu: “Phan - Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (họ
Phan, Lâm bán nước, triều đình bỏ rơi dân chúng) trên lá cờ “Bình Tây đại nguyên
soái”. Bất chấp những điều kiện cực kì khó khăn của hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ,
nghĩa quân của Trương Định đã bền bỉ chiến đấu trong nhiều năm, gây cho pháp
những khó khăn và thiệt hại không nhỏ. Sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn đã
được nhân dân nhìn nhận và đã có những phản kháng nhất định. Dấu hiệu điêu tàn đã
bộc lộ rõ nét, nhà Nguyễn như ngọn đèn trước gió đang cố gắng bừng tỏ để rồi vụt tắt
trước trận bão táp xâm lược của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Việc chống ngoại xâm gắn liền với việc chống lại sự đầu hàng, thỏa hiệp của vua
tôi nhà Nguyễn. Vai trò của nhân dân thực sự to lớn. Trước việc thực dân Pháp từ từ
quàng vào cổ ách thống trị của chúng trên toàn đất nước, nhân dân đã nhìn ra được kẻ
28
thù của mình không chỉ có thực dân mà còn cả triều đình, chống Pháp phải đi đôi với
việc chống triều đình đầu hàng, chống lại sự nhu nhược của họ. Tuy vậy, thắng lợi nhỏ
phải đổi bằng xương máu của nhân dân không thể bù đắp lại những tổn thất lớn do sự
ươn hèn của triều đình gây nên.
Trải qua nhiều biến động, từ khi thực dân Pháp đặt nền bảo hộ nhưng cuối cùng
xã hội Nam Kì vẫn lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tuy vậy phong trào đấu
tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra trong suốt hai thế kỷ cũng đã làm bùng dậy
nhiều khát vọng, khí thế hào hùng của nhân dân Nam Kì chống thực dân đã kích động
mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân dân cả nước, lôi cuốn cả dân tộc, làm tiền đề
cho những thắng lới to lớn, khẳng định sự quật cường của tinh thần dân tộc, tinh thần
đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chuẩn bị cho sự thắng lợi của những con đường đấu
tranh đúng đắn sau này.
1.3. Văn học Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Văn học hai vùng Bắc Kì và Nam Kì đều có những đặc trưng riêng, bản sắc riêng
của từng vùng miền. Mặc dù chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, ngay từ buổi đầu
Nam Kì đã là vùng đất văn chương, có những nổ lực hết mình để phát triển nền văn
học riêng của mình.
Văn học vùng Nam Kì Lục Tỉnh gồm có đóng góp của những tác giả vô danh và
hữu danh với những tác phẩm lớn nhỏ khác nhau tạo nên một nền văn học phong phú
như bất cứ vùng nào trên đất nước. Tuy nhiên, có một thời người ta không ghi nhận
những đóng góp này, họ xem phần văn học của Nam Kì như “hòn máu bỏ rơi”. Bùi
Đức Tịnh trong bài ‘‘Phần đóng góp của văn học Miền Nam’’ (Saigon: Lửa Thiêng,
1974) đã viết: “Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang văn
chương hiện kim và giai đọan hình thành của nền quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến
1932, hầu hết các tác phẩm xuất hiện ở Miền Nam đều bị coi như không có trong lịch
sử văn học Việt Nam.” Nhận định này nói lên một thiên kiến tiêu biểu về việc đánh giá
thấp nền văn học Nam Kì, cho rằng Nam Kì không có văn học hay văn học kém, thiếu
Nho học, và lai căng Pháp. Người Nam không biết viết văn, viết nôm na, sai chánh tả.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, văn học Nam Kì bị mai một, không được sưu tầm
và biên soạn tạo thành một thể thống nhất và đầy đủ như văn học các vùng khác. Sở dĩ
29
như vậy là vì nhiều lí do. Trước hết có thể do bản chất giản dị, hời hợt của những
người lưu dân ít học, luôn chỉ quan tâm đến cuộc sống thực tế, lo cái ăn cái mặc không
còn thời gian để lo cho đời sống tinh thần của mình. Nếp sống của người lưu dân trong
vùng đất mới, thuở mới đến khai hoang lập làng, phải chiến đấu thường xuyên với sơn
lam chướng khí, cọp beo rắn rít, phải đương đầu với gian khổ, hiểm nguy. Trong hoàn
cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng xuôi Nam đâu còn có thời giờ và ý chí mà nghĩ
đến hành trang chữ nghĩa.
Theo gót chân của những người xuôi Nam lập nghiệp, những con người chỉ mang
theo lưỡi cày, cái cuốc để mưu sinh trong những đêm dài xa xứ nhớ về quê hương hay
trong những lúc bán mặt cho đất bán lưng cho trời tùy hứng mà cất lên những câu hò
điệu hát, ý thơ, từ đó làm xuất hiện thời kì văn học dân gian trên vùng đất Nam Kì. Có
thể nói, trong bước đầu khai phá của thế kỉ XVI, văn học Nam Kì là thứ văn học dân
gian.
Khi đời sống đã dần ổn định, nội chiến đã chấm dứt, khi đất hoang đã biến thành
làng xóm, đời sống lưu dân được tương đối ổn định thì một mảng văn học đặc thù
Nam Kì đã bắt đầu được hình thành và phát triển. Đất đai rộng dần, nhà cửa đông đúc,
phố thị mọc lên với sự đóng góp của những thần dân nhà Minh từ Trung Hoa đến định
cư tại Hà Tiên, Biên Hòa, Mỹ Tho. Nhu cầu khai trí, mở mang đầu óc, làm phong phú
đời sống tinh thần cũng từ đó tăng lên, ảnh hưởng của văn học chữ Hán, chữ Nôm lan
rộng trong đời sống nhân dân. Thời kì văn học này đã nhen nhúm từ đầu cho đến hết
thế kỉ XVIII.
Khi vua Gia Long lên ngôi rồi sau đó là sự tiếp nối của các vua nhà Nguyễn, việc
tiếp xúc văn hóa, tri thức giữa các vùng miền đã khiến văn học Nam Kì phát triển cho
đến khi Pháp đặt chân đến đây, gây cảnh khói lửa, loạn li. Sau cùng, với thời kì Pháp
thuộc, văn học Nam Kì chuyển biến mạnh mẽ với ảnh hưởng từ văn học phương Tây.
Chữ Quốc ngữ được dùng thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Có thể nói văn học Nam
Kì đã có những bước chuyển mình sâu sắc từ giữa thế kỷ thứ XIX.
Đó là ba thời kì, ba bộ phận của văn học Nam Kì Lục Tỉnh. Tìm hiểu văn học
Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, chúng tôi chỉ xin đề cập đến hai bộ
phận văn học Hán Nôm và văn học viết bằng chữ Quốc ngữ.
30
1.3.1. Văn học Hán Nôm
a. Tiến trình văn học Hán Nôm
Văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh là một bộ phận của di sản văn học Hán
Nôm của nước ta. Việc tìm hiểu mảng văn học này đóng vai trò lớn trong việc xây
dựng bức tranh toàn cảnh về nền văn học Nam Kì. Nó không thể tách rời khỏi lịch sử
phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngay từ khi Nam Kì được khai phá và hình
thành thì đã có văn học Hán Nôm đã có mặt và đua nhau phát triển theo bước chân của
những người mở cõi. Diện mạo văn học Hán Nôm của vùng Lục Tỉnh có lẽ được phác
họa bởi sự đóng góp của những người Hoa Nam di cư đến Nam Kì và trở thành những
cư dân chính thức của vùng đất này. Sự đóng góp của họ về kinh tế, chính trị là điều
không thể phủ nhận, bên cạnh đó những đóng góp của họ về văn học nghệ thuật cũng
là một điều đáng trân quý, không phải bàn cãi. Sự xuất hiện đầu tiên của nhóm thơ
Chiêu Anh Các ở Hà Tiên đã làm nên tiếng vang trong lịch sử văn học Hán Nôm của
nước ta. Về sau, sự xuất hiện của các nhóm thơ khác khiến cho đời sống văn học Nam
Kì Lục Tỉnh trở nên sôi động.
Trong thời gian khai mở và hoàn thành cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn, họ
cũng lấy Hán tự làm văn tự để giáo dục dân chúng và trị quốc. Tuy nhiên, học thuật
chữ Hán ở đây không thể nào tiến bộ đến độ thịnh trị như vùng đất Bắc. Việc truyền bá
Hán học cũng khó khăn, kém chất lượng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Vùng
Nam Kì là vùng đất mới, những phần tử đi tiên phong trong cuộc chinh phục thiên
nhiên này là những người nông dân, binh lính, những kẻ bần hàn, tù nhân, trộm cướp,
đào vong đến để tìm kế sinh nhai. Trong thời gian đầu đầy gian khổ họ không còn thời
gian cũng như tâm trí để tìm đến văn chương là điều dễ hiểu. Hơn nữa, trong một thế
kỉ rưỡi dốc sức vào việc chinh chiến và phòng thủ các thế lực khác, chăm lo binh sĩ để
gây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn không thể dành nhiều chú ý cho học thuật và
văn chương. Việc ít tiếp xúc với Hán học khiến cho văn chương và học thuật không
đạt đến độ tinh tế với một phạm vi phổ biến như đất Bắc. Do đó, thời ấy ở vùng Nam
Kì không hề có những tác phẩm kiệt xuất như Chinh Phụ Ngâm, Truyện Kiều... ở
Đàng Ngoài được.
31
Nhìn chung, trên con đường phát triển, văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh có
những đặc điểm riêng. Về nội dung nó thường mang tính đạo lí rõ rệt với quan niệm
“văn dĩ tải đạo” là phổ biến. Về hình thức thì văn học Hám Nôm Nam Kì cũng có đủ
các thể thi phú quen thuộc của văn chương Hán tự song chúng thường quảng dụng câu
thơ lục bát và dần làm quen với thể song thất lục bát. Văn chương mang khuynh
hướng bình dân, giản dị. Giọng điệu cũng mang đậm sắc thái của những con người nơi
vùng đất phóng khoáng này. Việc tìm hiểu và sưu tầm các tác phẩm Hán Nôm trên
vùng Nam Kì còn rất hạn chế. Các tác phẩm còn lưu lại rất ít.
Cho đến khi người Pháp chiếm Nam Kì làm thuộc địa thì có thêm văn học Quốc
ngữ, từ đó văn học Hán Nôm bắt đầu lụi tàn. Mặc dù cho đến nay vẫn còn nhưng càng
ngày càng hiếm hoi, bởi vì chữ Hán không còn giữ một vai trò quan trọng về văn tự
cũng như khoa cử ở Nam Kì. Như vậy, có thể nói, Nam Kì có một nền văn học đa
dạng, phong phú từ hơn 150 năm nay. Sau gần 400 năm lập quốc ở phương Nam, hòa
với văn hóa Minh Hương và văn hóa bản vùng Lục Tỉnh đã xây dựng được một nền
văn học Hán Nôm mang sắc thái đặc biệt của Nam Kì.
b. Một số tác giả tiêu biểu
Nói đến văn học Hán Nôm của vùng Nam Kì Lục Tỉnh trước tiên phải kể đến
Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh Các.
Mạc Thiên Tích (1708-1780) còn gọi là Mạc Thiên Tứ tự là Sĩ Lân, hiệu Sĩ Lân
Thị. Vốn là người Minh Hương, thân phụ ông là Mạc Cữu - người đã dựng nên đất
Hà Tiên. Mặc dù Mạc Cữu thần phục Chúa Nguyễn, trấn Hà Tiên là đất Việt Nam từ
năm 1714, nhưng Chúa Nguyễn vẫn để cho họ Mạc rất nhiều quyền hành, không khác
gì một chư hầu. Chúa Nguyễn Phúc Chu cho thành lập trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu
tước Cửu Ngọc Hầu, chức tổng binh. Với tư cách là người đứng đầu một trấn ngoài
biên thùy với nhiều quyền hành, Mạc Cửu và sau đó là Mạc Thiên Tích đã làm cho Hà
Tiên phát triển hùng mạnh như một quốc gia độc lập không chỉ về chính trị mà còn về
quân sự văn hóa. Họ mở mang kinh tế, khuyến khích nông nghiệp, phát triển thương
nghiệp, đưa Hà Tiên trở thành trung tâm của khu vực. Trấn Hà Tiên như một tiểu quốc
gia phong kiến hoàn chỉnh. Tuy nhiên, là vùng đất mới khai phá, ở vị trí gặp nhiều
32
thuận lợi nên Hà Tiên khó tránh khỏi sự nhòm ngó của ngoại bang. Sau cuộc xâm lăng
của Xiêm La, Hà Tiên bị tàn phá nặng nề và không còn đủ sức gượng dậy.
Trong những ngày xây dựng sự nghiệp, Mạc Cửu đã ưu ái dành nhiều thời gian
và công sức cho phát triển văn hóa và giáo dục. Ông cho mở trường học thu hút con
dân trên mảnh đất của mình cai quản để phát triển xứ sở. Năm 1735, Mạc Cữu mất,
Chúa Nguyễn phong cho Mạc Thiên Tích chức Tổng Trấn Hà Tiên. Sau khi thay cha
kế tập cai quản vùng Hà Tiên, Mạc Thiên Tích lo chấn hưng văn hóa, tổ chức hội thơ,
lập thi phái Chiêu Anh Các khi vừa 30 tuổi đánh dấu bước phát triển vượt bậc của đời
sống văn hóa và văn học xứ Nam Kì nói chung và trấn Hà Tiên nói riêng.
Mạc Thiên Tích đã dùng thi văn để ca tụng những cảnh đẹp ở Hà Tiên, trước
nhất là ca tụng công đức lớn lao của Mạc Cữu đã khai phá mảnh đất mới này, chí lớn
của ông được ký thác qua hai câu kết trong bài Hà Tiên Thập Cảnh Tổng Vịnh:
Bình San, Thạch Động là rường cột
Sừng sựng muôn năm cũng để dành.
Chiêu Anh Các có những hoạt động rất rộng, họ đề cao, quảng bá Nho giáo, mở
trường học và sáng tác văn chương. Hoạt động của Chiêu Anh Các vừa có ý nghĩa
khơi dậy không khí học tập, vừa cung cấp đội ngũ trí thức giúp việc cho họ Mạc. Tuy
vậy, Chiêu Anh Các vẫn được nhớ đến với tư cách là một tao đàn. Hoạt động nổi bật
nhất được nhiều người biết đến và yêu thích nhất là xướng họa, ngâm vịnh của các nhà
thơ được tập hợp nơi đây. Nó là nơi tập trung nhũng kẻ sĩ, những bậc anh tài trong
thiên hạ (chiêu: gọi, mời; anh: anh tài; cac: gác). Thi đàn thường xuyên tổ chức làm
thơ, xướng họa ngâm vịnh, giảng đàm thao lược và cho in khắc, lưu hành trong nhân
dân. Chiêu Anh Các quy tụ đông đảo lực lượng sáng tác gồm nhiều thành phần khác
nhau, nhiều địa phương khác nhau. Đó là sức hút mạnh mẽ của thi đàn này. Trong
Chiêu Anh Các, đa số là những người Minh Hương, một số người Hoa Trung Quốc và
số lượng người Việt tương đối ít.
Chiêu Anh Các để lại khối lượng tác phẩm tương đối lớn ở cả hai bộ phận: sáng
tác bằng chữ Hán và sáng tác bằng chữ Nôm. Đáng tiếc là cho đến nay, những sách
của họ đã bị thất truyền bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Hiện chỉ còn một số tác
phẩm ở các tập: Hà Tiên Thập Vịnh, Thụ Đức Hiên Tức Cảnh, Minh Bột Di Ngư, Hà
33
Tiên Quốc Âm Thập Vịnh và bài phú Lư Khê Vãn. Ngoài ra còn có bốn tập sách
chúng ta chỉ biết tên đó là: Hà Tiên Vịnh Vật Thi Truyền, Châu Thị Trinh Liệt Tặng
Ngôn, Thi Truyện Tặng Lưu Tiết Phụ và Thi Thảo Cách Ngôn Di Tập.
Mạc Thiên Tích luôn là người khởi xướng cho các hoạt động của Chiêu Anh
Các. Ông làm thơ rồi mời các nhà thơ trong và ngoài tao đàn họa lại. Những bài thơ
hay của Mạc Thiên Tích đã tạo thành những tập thơ hay để lại cho hậu thế. Xuất thân
từ một gia đình có truyền thống văn hóa, nho học, là một người học rộng, tài cao, lại
có ý thức mở mang văn hóa trên mảnh đất mình gây dựng, Mạc Thiên Tích đã dẫn dắt
Chiêu Anh Các trở thành một nơi hoạt động văn hóa mang tính chất quốc tế. Những
trăn trở, tình cảm, suy tư của Mạc Thiên Tích ảnh hưởng đến tồng thể thơ văn của tao
đàn. Đóng góp của ông với Chiêu Anh Các được thể hiện ở sự đóng góp một khối
lượng tác phẩm lớn trong kho tàng văn học. Đó là 10 bài xướng họa Đường luật trong
Hà Tiên Thập Vịnh, tập Minh Bột Di Ngư gồm 1 bài phú và 7 bài thơ; Hà Tiên Quốc
Âm Thập Vịnh với 10 bài vịnh cảnh Hà Tiên bằng song thất lục bát. Đây là những tác
phẩm quan trong góp phần xây dựng nên diện mạo văn học Hán Nôm trên vùng Nam
Kì. Nhờ những tác phẩm này, chúng ta có thể hình dung tìm hiểu và khám phá những
cái hay, cái đẹp cái lạ của vùng đất nơi đây. Mạc Thiên Tích chính là linh hồn, là chủ
soái xứng đáng của tao đàn độc đáo này trên trấn Hà Tiên.
Đến Võ Trường Toản qua bài “Hoài Cổ Phú”, viết bằng chữ Nôm, dài 24 câu còn
để lại, người ta có thể thấy ông có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền tài, danh lợi,
giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có nhân, nghĩa và đạo
đức làm trọng. Võ Trường Toản (chưa rõ năm sinh năm mất) hiệu Sùng Đức, là một
nhà giáo nổi tiếng “học rộng, có đức hạnh hơn người”. Lời của ông nằm trong khuôn
khổ đạo Nho, nhưng nhờ có sở học uyên thâm, ông mới làm sáng tỏ được đạo thánh
hiền, chẳng những đã đào tạo cho chúa Nguyễn một số công thần hữu danh mà còn để
lại ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, Phan Thanh Giản đã hết lòng ca tụng ông.
Đến cuối thời Kì này, có Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức nổi
danh một thời, được người đời xưng tụng là Gia Định tam gia. Lê Quang Định hiệu
Tấn Trai, tự Tri Chỉ, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên, là một người thông minh hiếu học,
thời loạn lạc vẫn không từ ngòi bút. Ông là học trò của Võ Trường Toản. Cùng với
34
Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức, ông lập nên nhóm văn thơ nổi tiếng Bình Dương
Thi Xã. Đến năm 1788, ông thi đậu, được Nguyễn Phúc Ánh cho làm quan, về sau trải
đến chức thượng thư và từng được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ông còn là tác giả của
bộ sách sử địa nhất thống Dư Địa Chí. Năm 1813, ông cáo bệnh về quê và mất sau đó
ít lâu.
Ngô Nhân Tịnh vốn người Minh Hương, quê gốc ở Quảng Đông, Trung Quốc.
Khi nhà Thanh tiến vào Trung Quốc, tổ tiên ông dời sang Gia Định lập nghiệp. Ông
nổi danh với tài năng học vấn. Ông cùng với Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức theo
Nguyễn Phúc Ánh một lượt, rồi làm quan tới chức Hữu Tham Tri bộ binh, hiệp trấn
Nghệ An, thượng thư bộ công và từng được cử đi sứ sang Trung Quốc năm 1789, 1802
và Xiêm La năm 1813. Cũng trong năm 1813, ông lâm bệnh nặng và qua đời.
Trịnh Hoài Đức tự Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, là người minh Hương ở Gia Định.
Năm 1788, ông thi đỗ và theo Nguyễn Phúc Ánh làm tới chức Thượng thư, sung chức
Chánh sứ và Hiệp trấn Gia Định. Ông là tác giả của nhiều bộ sách như “Lịch đại kỷ
nguyên”, “Khanh tế lục” và “Gia định thành thông chí”… Với quyển “Gia Định thành
thông chí” ông đã ghi chép trong năm trấn từ phong thổ, tập quán, di tích cho đến
những nguồn lợi thiên nhiên của Nam Kì. Không những nhằm mục đích cho mọi
người thấu rõ, mà còn có ý để ca tụng miền đất mới do chúa Nguyễn đã dày công thu
phục được. Đó chẳng những là một quyển sách viết có phương pháp mà còn ghi chép
rất tỉ mỉ, chứng tỏ ông có óc quan sát và thực tế. Nó là một tài liệu quý giá cho ngành
nhân văn. Năm 1825, ông mất ở tuổi 61.
Có thể nói, đây là những con người đã góp phần hình thành nên diện mạo của
văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh. Ngoài những bài thơ ngâm vịnh để tả cảnh đẹp ở
vùng đất phương Nam, họ còn đề cao công nghiệp của tiền nhân, tỏ lòng trung hiếu
với gia đình, đất nước. Những tác phẩm của họ để lại rất có giá trị cho sau này.
1.3.2. Văn học Quốc ngữ
a. Tiến trình văn học Quốc ngữ
Từ thế kỷ XVI, quá trình buôn bán giao thương giữa các nước tư bản phương
Tây với phương Đông đã được đẩy mạnh. Trong đó, các quốc gia Đông Nam Á là nơi
mà các thuyền buồm phương Tây (Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) thường
35
xuyên dừng chân. Đồng thời, đây là giai đoạn các giáo sĩ bắt đầu truyền bá đạo Thiên
chúa giáo vào các quốc gia phương Đông. Chữ Quốc ngữ ra đời từ thế kỉ XVII, là
thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Ðào Nha, Ý, Pháp ... trong đó công lao lớn nhất
thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes. Hình thành và phát triển theo bước chân của
các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn
truyền giáo của họ để truyền bá đạo Thiên chúa một cách dễ dàng hơn. Khi Nam Kì
trở thành thuộc địa của Pháp, người Pháp dùng chữ quốc ngữ làm phương tiện để cai
trị xứ Nam Kì, dùng văn hóa của họ để gieo ảnh hưởng lên vùng Lục tỉnh. Cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, để dần dần xoá bỏ ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa nói chung,
chữ Nho nói riêng, thực dân Pháp đã thúc đẩy mạnh mẽ việc phổ cập chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ hình thành khởi đi từ các nhà truyền giáo Ðàng Trong cũng như Ðàng
Ngoài, rồi lần lượt chữ quốc ngữ được phổ biến trong giới Thiên chúa giáo như là
phương tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt chân lên miền Nam thì chữ quốc ngữ
được dùng làm phương tiện đô hộ dân Việt Nam ta. Từ đó chữ quốc ngữ có cơ hội tiến
triển mạnh mẽ, được phổ biến, truyền bá đến quảng đại quần chúng.
Văn chương quốc ngữ, sở dĩ được phát triển dễ dàng hơn trong Nam là nhờ sự
đóng góp tích cực của giới truyền giáo Thiên Chúa. Ban đầu nó bị người Nam Kì bài
bác vì người miền Nam sống trên dãi đất Nam Kì tuy mới thành lập, nhưng cũng đã
chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng nên những
người yêu nước, người bình dân chống đối thực dân Pháp, cũng ngấm ngầm chống lại
việc học chữ quốc ngữ. Tinh thần ấy được ghi lại trong những câu ca dao:
Khuyên anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Hán học mất địa vị chính thống và trong xã
hội đã hình thành những yêu cầu mới, những thành phần công chúng mới thì chữ quốc
ngữ mới được xem là thứ chữ của dân tộc. Việc đổi mới chữ viết đã mang nhiều ý
nghĩa lớn, nó không chỉ tạo điều kiện dễ dàng trong việc học, viết, đọc mà còn cung
cấp phương tiện hiện đại cho nền văn học mới. Khi thực dân Pháp đặt nền bảo hộ ở
Nam Kì cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để dần dần xoá bỏ ảnh hưởng của văn hoá
Trung Hoa nói chung, chữ Nho nói riêng, thực dân Pháp đã thúc đẩy mạnh mẽ việc
36
phổ cập chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp tại Nam kì đã thấy phương tiện truyền
thông bằng chữ quốc ngữ cho người Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ Pháp,
chữ Hán hay chữ Nôm, vì nó dễ học. Người Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu trực
tiếp ngôn ngữ của mình.
Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết định dùng chữ quốc ngữ để làm
văn tự chính thức cho Nam Kì. Sự việc này không phải do chính phủ Pháp muốn khai
hóa cho dân Việt, mà nằm trong những mưu đồ thôn tính Việt Nam. Trong ý đồ ấy,
người Pháp đã mở thêm nhiều trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp đỡ
người dân đi học, cốt để đào tạo một đội ngũ công chức thừa hành, hỗ trợ cho công
cuộc cai trị của chánh quyền thuộc địa Pháp. Kể từ năm 1920 trở đi trên toàn cõi Việt
Nam chỉ còn các trường tân học, một số hoàn toàn dùng Pháp ngữ, đa số dùng quốc
ngữ và Pháp ngữ, chữ Hán trở thành tử ngữ. Ban đầu ít có sách viết bằng chữ Quốc
ngữ để đọc, nên thực dân Pháp đề ra chủ trương dịch các loại sách kinh điển Trung
Quốc và những sách Hán Nôm của Việt Nam ra chữ quốc ngữ.
Dưới sự ủng hộ của nhà cầm quyền Pháp, hàng loạt sách kinh điển và tiểu thuyết
Minh Thanh của Trung Quốc đã được dịch ra chữ Quốc ngữ. Người dân Việt Nam vốn
đã không xa lạ với những tiểu thuyết Minh Thanh như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc,
Tây Du Ký…nên những sách dịch tiểu thuyết Minh Thanh bằng quốc ngữ được đón
nhận nồng nhiệt. Về sau, ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết,
thơ ca viết bằng chữ quốc ngữ theo cấu trúc của Tây Phương trong các xóm đạo từ
giữa thế kỷ XIX. Tác giả tiêu biểu của thời Kì này đều là tín đồ thiên chúa giáo
như Huỳnh Tịnh Của,Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu...
Những tiểu thuyết tình cảm bằng quốc ngữ của Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh
Sắt,Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Biến Ngũ Nhi, Nam Đình Nguyễn Thế
Phương ... tiếp tục góp thêm vào tiến trình văn học quốc ngữ Nam Kì.
Thiên nhiên ưu đãi, đất đai phì nhiêu, trù phú, đời sống dân chúng lại được tiếp
thu nhiều ảnh hưởng của phương Tây, những yếu tố ấy giúp cho Nam Kì Lục Tỉnh dễ
dàng phát triển kinh tế,nó cũng là đòn bẩy giúp cho văn học nghệ thuật có điều kiện
phát triển. Chủ trương phổ biến chữ quốc ngữ của nhà cầm quyền Pháp để dễ dàng cai
trị thuộc địa, là một cơ hội tốt cho các nhà văn, nhờ đó Nam Kì đã sáng tạo nên một
37
nền văn học phù hợp với hình thái đơn giản của chữ quốc ngữ tại vùng đất này.Nam
Kì Lục Tỉnh là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết,ngay từ cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh.Người Nam Kì đã
dùng chữ quốc ngữ để diễn đạt cảm xúc, tư tưởng thành những áng văn chương, tạo
thành nền văn học Miền Nam mang nét đặc sắc riêng không thể hòa lẫn. Miền đất Lục
Tỉnh là nơi khai phá cũng là nơi dẫn đầu cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam.
b. Một số tác giả tiêu biểu
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) được xem là những
nhà văn quốc ngữ tiên phong, là những người đầu tiên đã dùng chữ quốc ngữ để phổ
biến văn chương, cũng là những người hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến quảng đại
quần chúng vào thời Kì sơ khai. Bằng những sáng tác văn chương của mình, họ đã đẩy
mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ để sau này trở hành thứ ngôn ngữ chính thống của
Việt Nam. Họ là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau này.
Trương Vĩnh Ký (1837-1898) tên thật là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương
Vĩnh Ký, là một giáo dân của đạo Thiên chúa, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là
Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương
Vĩnh Ký. Sinh tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân
Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long (sau thuộc tỉnh Bến Tre). Ông là con thứ ba của
Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Tiếp xúc với nền Nho học từ
rất sớm, khi lên 5 tuổi, ông học chữ Hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua
đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom-Penh). Sau đó, mẹ ông
giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ này, ông học chữ Quốc ngữ.
Sau khi giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên tiếng Việt là linh mục
Long, đem về nhà dòng chính ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.
Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835, vua hạ Chiếu cấm đạo nên năm 1848,
Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchia.
Đây là trường đạo dành riêng để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến
Ðiện và Trung Hoa. Nhờ ở chung với học sinh các nước này mà ông học nói và viết
thông thạo ngôn ngữ của các nước Đông Nam Á kể trên. Năm 1851, Trương Vĩnh Ký
theo Linh mục Long qua học tại Tổng Chủng Viện Viễn Ðông Quốc Ngoại Truyền
38
Giáo ở Poulopénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn
chương, khoa học, triết lý thông qua chữ La tinh. Cũng ở tại đây, ông có dịp học thêm
các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Ðộ và Nhật.
Trương Vĩnh Ký là người có tâm huyết và đóng góp vô cùng to lớn với nền văn
học quốc ngữ Việt Nam. Không chỉ là một nhà văn tiên phong của nền văn học chữ
quốc ngữ, ông còn là một học giả rất nổi tiếng, là nhà ngôn ngữ học quảng bác, uyên
thâm. Ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Ðông phương.
Ông sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa
học. Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Ðại Học,
Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ,
cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Ðông phương. Chính ở phương diện nầy chúng
ta công nhận ông là một nhà văn hóa lỗi lạc. Trên phương diện chính trị ông mong tạo
sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chính
trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng ông vẫn giữ được
phong hóa Ðông phương, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo Khổng Mạnh
Trương Vĩnh Ký mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi, để lại hơn 100
tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật,... Thời Pháp, tưởng nhớ
công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu
bịt khăn đống, tay cầm quyển sách. Từ thời Pháp thuộc năm 1927, một trường Trung
Học lớn mang tên ông - Trường Trung học Pétrus Ký (nay là Trường Trung học phổ
thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh). Kể ra những sách và bài của
ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng. Trương Vĩnh Ký
là nhà thông thái, quảng bác ngữ học với lối ông hành văn rất giản dị, bình dân, viết
cũng y như câu nói mang lại nền tảng vững chắc cho văn học quốc ngữ. Có thể nói, về
văn học chữ quốc ngữ, Pétrus Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà văn tiền
phong.
Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của,
hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất
Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ông tinh thông cả Hán văn và Pháp Văn. Năm 1881,
được bổ ngạch Ðốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm
39
quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong, là một nhà văn
hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát triển và
truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu ở Nam kì. Năm 1865, ông thay Trương
Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngữ Gia Ðịnh báo trong một thời gian ngắn.
Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, nhưng tuyệt đại đa số các tác phẩm của
ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa được coi trọng và bị đánh
giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp. Huỳnh Tịnh Của từng đề nghị dùng chữ
quốc ngữ thay cho chữ Hán và gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu cho
xuất bản báo chí quốc ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng không được chấp nhận.
Cùng tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của đồng quan
điểm với Trương Vĩnh Ký, nhìn thấy xã hội Việt Nam lúc bấy giờ có khả năng và cần
vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương Tây về các vấn đề khoa
học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển
văn hóa phương Đông cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập. Trong những
buổi đầu của nền văn chương quốc ngữ ở Nam Kì, đóng góp của Huỳnh Tịnh Của là
rất lớn. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là cuốn Đại Nam quốc âm tự vị, là quyển tự
vị tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam, do người Việt Nam biên soạn, được coi là pho
sách kinh điển, trở thành "sách gối đầu giường" với nhiều thế hệ các nhà ngôn ngữ
Việt Nam. Ngữ vựng trong sách rất phong phú. Nó còn bao gồm chẳng những các từ
ngữ văn chương và ngôn ngữ bình dân mà cả những tiếng có màu sắc địa phương được
dùng trên nước ta lúc bấy giờ.
Một tác giả cũng rất đáng nhắc đến trong những tác giả tiêu biểu, đặt nền móng
cho văn học quốc ngữ bấy giờ là Trương Minh Ký. Trương Minh Ký (1855-1900),
nguyên tên là Trương Minh Ngôn hiệu Thế Tải, Mai Nham, quê tại làng Hanh Thông,
thuộc Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc quận Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh). Là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn hóa Việt Nam. Song thân ông
là ông Trương Minh Cẩn và bà Phạm Thị Nguyệt. Ông là một học trò xuất sắc
của Trương Vĩnh Ký, có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học
Quốc ngữ Việt Nam.
40
Bên cạnh việc dạy học, ông cộng tác với thầy Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định
báo, Thông Loại Khóa Trình và viết sách dạy Pháp văn. Giống như Huỳnh Tịnh Của,
cách hành văn của ông rất bình dân, mộc mạc. Ông chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ
và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi. Năm 1889, ông được cử làm thông ngôn cho
phái đoàn triều đình Huế đi sứ sang Pháp tham dự Hội Đấu xảo tại Paris. Tuy Trương
Minh Ký không được chú ý nhiều nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân
cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ
đứng trong số các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ.
Các nhà văn kể trên cùng với sáng tác văn chương của mình đã có công rất lớn
trong việc truyền bá chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Họ là những nhà văn lớn, tạo nên
phong trào tiên phong bắt đầu từ miền đất Nam Kì sau lan dần trên cả nước. Nhờ sự
tâm huyết cũng như những tác phẩm của họ mà chữ quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đặt nền móng cho việc sử dụng rộng rãi sau này
khiến nền văn học Việt Nam sau này phát triển nhanh chóng.
1.4. Thơ trào phúng – tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại
1.4.1. Khái niệm “trào phúng”
“Trào phúng” (tiếng Pháp: satire) là một thuật ngữ mà giới nghiên cứu thường
sử dụng. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi), “trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một
nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm
biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,... được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo,
phản kháng...những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội” [363, 39]. Theo
Từ điển Từ và ngữ Việt Nam: “trào”: chế nhạo, “phúng”: răn đe. “Trào phúng” theo
nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song
trong lĩnh vực văn học, “trào phúng” gắn liền với phạm trù mĩ học về cái hài với các
cung bậc hài hước, châm biếm.
“Trào phúng” là một khái niệm rất phức tạp về mặt lí thuyết. Những cung bậc
khác nhau của tiếng cười được vận dụng một cách phổ biến trong các tác phẩm trào
phúng. Có thể hiểu một cách đơn giản, trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười.
Tiếng cười ấy mang tính hai chiều, vừa vui nhộn, hài hước nhưng lại vừa chất chứa nỗi
41
niềm, vừa khai tử cái xấu, cái đáng phê phán nhưng lại vừa tái sinh, gieo vào lòng
người đọc niềm tin vào sự thay đổi.
Có thể phân biệt “trào phúng” và “trào lộng” để thấy rõ sự khác nhau giữa hai
khái niệm này. “Trào lộng” có tính chất chế giễu để đùa cợt, gây cười. Giữa trào
phúng và trào lộng tuy đều mang ý nghĩa chế giễu nhưng lại có ý nghĩa khác nhau.
“Trào phúng” chế giễu để châm biếm, răn đe. Cùng là tiếng cười nhưng tiếng cười ấy
xót xa, cay đắng, để lại nhiều suy ngẫm. Trong tiếng cười hay những lời chế giễu đều
mang một ý nghĩa sâu xa. Mượn tiếng cười nhưng thực ra tác giả đang muốn bày tỏ
thái độ cũng như quan điểm của mình trước vấn đề đang nói đến.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án,
vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng. Trào phúng còn là nghệ thuật gây ra tiếng
cười mang ý nghĩa phê phán xã hội. Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những
mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Để gây được tiếng cười trào
phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm
nổi bật mâu thuẫn ấy. Trong sự phát triển của văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật
nói riêng, thơ ca trào phúng góp phần quan trọng làm phong phú thêm cho đời sống
văn hóa tinh thần, gây sự cuốn hút và ấn tượng mạnh mẽ. Một đặc điểm nổi bật là thơ
ca trào phúng vừa là tiếng cười sảng khoái, vừa như một mũi tên đâm thẳng vào những
thói hư tật xấu ở đời, lên án những bất công, những suy thoái của xã hội để từ đó thức
tỉnh những nhân tố tích cực, đẩy lùi cái xấu, ươm mầm cho cái tốt. Trong một xã hội
mà sự xuống cấp đang là một nguy cơ thì trào phúng đả kích là một thủ pháp đắc dụng
để các nhà văn, nhà thơ thể hiện quan điểm của mình càng có tác dụng. Trào phúng
mang lại những tiếng cười, những bức tranh muôn màu, muôn vẻ. Xã hội phong kiến
thối nát với những nhân vật khả ố, những sự việc nhơ nhuốc, những đồi phong bại tục
với những cái lố lăng, chướng tai gai mắt chính là nguồn cung cấp cho nhà thơ những
đề tài phong phú để dùng tiếng cười mà sáng tác, chửi đời một cách khoái hoạt, ghi lại
những nét đặc biệt của một thời đại đen tối.
1.4.2. Thơ trào phúng
Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
biên soạn): “Thơ trào phúng là thể thơ thuộc loại trào phúng, dùng tiếng cười để xây
42
dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm
đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản
chất thù địch với con người. Vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên
ngoài và cái thực chất bên trong – để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào
lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của thơ trào phúng; cho nên thơ trào phúng thường
sử dụng cách nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay lời nói mát mẻ sâu cay. Có
thể chia thơ trào phúng thành hai loại: thơ châm biếm và thơ đả kích. Thơ châm biếm
nhằm mục đích giáo dục xã hội, giáo dục con người bằng nụ cười nhẹ nhàng mà kín
đáo, dí dỏm mà sâu sắc. Nụ cười đó bao hàm cả việc phê phán lẫn tinh thần xây dựng.
Thơ đả kích nhằm lột mặt nạ kẻ thù bằng nụ cười có sức công phá mãnh liệt.” [316,
317, 39]
Có thể nói, thơ trào phúng là một trong những tiếng nói cuối cùng của loại hình
văn học trung đại, là một hiện tượng tiêu biểu báo hiệu sự chuyển đổi của văn học từ
trung đại sang hiện đại. Trong lời tựa cho cuốn Thơ văn trào phúng Việt Nam của Vũ
Ngọc Khanh, nhà văn Xích Điểu đã có những nhận định rất thú vị về thơ trào phúng.
“Mỗi khi nói đến thơ văn trào phúng, luận điểm mang dáng dấp hóm hỉnh sau đây của
Các Mac thường trở lại soi rọi dòng suy nghĩ của tôi: “lịch sử hành động đến nơi đến
chốn, và khi đưa xuống mồ một hình thái xã hội đã già cỗi thì lịch sử trải qua nhiều
giai đoạn. Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử toàn thế giới là tấn hài kịch
của nó. Vì sao lịch sử lại diễn ra theo tiến trình như thế? Mác hỏi và trả lời: điều đó là
cần, để cho loài người rời bỏ quá khứ một cách vui vẻ.”
Nói đến thơ trào phúng tất nhiên phải nói đến cái cười như một yếu tố không thể
thiếu. Tiếng cười trong thơ trào phúng như một thứ vũ khí nhắm thẳng vào mục tiêu
phủ định, đả phá, tiêu diệt kẻ thù. Tiếng cười xuất hiện theo từng cung bậc khác nhau,
có khi thâm trầm, kín đáo, có khi ồ ạt, giòn tan. Tiếng cười trong thơ trào phúng là
tiếng cười đa chiều kích: vừa vui nhộn lại vừa hoan hỉ, vừa chua xót lại vừa nhạo
báng, khai tử cái xấu, cái ác, cái lỗi thời để mở đường cho cái tốt, cái đẹp xuất hiện.
Từ lâu đời, trong văn học dân gian, tiếng cười đã có mặt từ trong lời ăn tiếng nói
đến những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện tiếu lâm sau những giờ làm việc vất
vả. Tiếng cười dân gian luôn mang một sắc thái và sức mạnh riêng nhưng trong văn
43
học bác học thì lại khác. Trong thơ ca truyền thống mà lực lượng sáng tác là các Nho
gia từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII hiếm khi có tiếng cười xuất hiện. Thơ của Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...là đại diện cho các nhà nho dùng thơ để nói chí, bộc lộ con
người đạo đức, thể hiện lập trường, quan sát và suy ngẫm trước thời thế dựa trên đạo
đức Nho gia. Xã hội phong kiến với nền móng vững chắc của Nho giáo đã khiến tiếng
cười trào phúng không có cơ hội len lõi vào đời sống xã hội.
Đến khoảng thế kỉ XVII, tiếng cười bắt đầu xuất hiện trong văn thơ của các nhà
nho, cả thơ hữu danh lẫn khuyết danh, tuy nhiên, thơ trào phúng khuyết danh nhiều
hơn cả: đó là những bài thơ kèm theo những câu truyện Trạng hay những bài thơ của
bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Có thể thấy, lúc này mô hình thánh nhân quân tử
của đạo thánh hiền không còn hấp dẫn nữa, và bản thân hình tượng này đã có những
điều đáng cười, đáng vạch mặt, lên án. Nho giáo đã suy tàn, mô hình nhân cách nhà
nho dần biến mất, con người lúc này trở vế với con người tự nhiên, phàm tục như từng
có. Chính tiếng cười trào phúng đã góp phần lột trần mặt nạ ấy của xã hội và làm
phong phú, đổi mới đời sống văn học.
Phải đợi đến cuối thế kỉ XIX, khi Nho giáo vốn được xem như một hệ thống giá
trị văn hóa từ lâu đời, ăn sâu bám rễ trong từng con người Việt Nam bộc lộ rõ nét
những mặt hạn chế không tài nào khắc phục trước sự xâm nhập của xã hội thực dân thì
chúng ta thấy một cuộc thay đổi to lớn trong quan niệm về nhân cách của nhà Nho.
Đồng thời với nó, xuất hiện những hiện tượng đáng cười và tiếng cười trào phúng xuất
hiện dày đặc trong xã hội. Từ giã điểm nhìn trang nghiêm đạo mạo của giáo huấn, các
nhà nho dùng tiếng cười để quay trở về với hiện thực của xã hội thực dân nửa phong
kiến với đầy dẫy những cảnh tượng nhố nhăng, chướng tai gai mắt bày ra trước mắt.
1.4.3. Bức tranh văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
a. Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX – cơ sở hiện thực của
cái hài
Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX như một bầu
trời xám xịt. Chính quyền phong kiến đương thời làm ngơ, ngồi yên trên ngai vàng để
hưởng thụ, còn nhân dân Việt Nam những người yêu nước Việt Nam thì không thể nào
nhắm mắt, khoanh tay. Ðầu thế kỉ XX Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình
44
định trên đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới. Ðây là
thời điểm Pháp cảm thấy có thể yên tâm và phấn khởi trước cảnh thái bình mà chúng
hằng mong đợi. Nhưng đối với ta, đây là những ngày tháng đau thương, bi đát nhất của
lịch sử.
Kể từ sau cái chết của Phan Ðình Phùng (1896), xem như phong trào chống Pháp
theo ngọn cờ Cần Vương đã thất bại hoàn toàn . Thôn xóm, làng mạc Việt Nam tiêu
điều xơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân phải xiêu tán lưu lạc khắp nơi. Những người
tham gia khởi nghĩa trước kia bị giết, bị tù đày hoặc phải trốn tránh không dám trở về.
Trong khi đó, cột sống của chế độ phong kiến cũng bị sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống
trị tan rã. Cả bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến từ triều đình đến tỉnh, huyện,
làng, xã đều trở thành tay sai cho bọn xâm lược. Mọi quyền hành đều nằm trong tay
Pháp . Tầng lớp trí thức thời phong kiến lúc bấy giờ cũng lâm vào tình trạng sống dở,
chết dở. Những người đã từng tham gia vào phong trào chống Pháp kẻ thì bị giết chết,
người bị tù đày hoặc trốn tránh, có khi phải chạy ra nước ngoài. Có người không chịu
được thử thách cuối cùng phải ra đầu thú, sống nơm nớp trong cảnh tù treo của thực
dân. Có người không tham gia chống Pháp nhưng còn chút liêm sĩ thì lui về sống ẩn
dật, bất đắc chí. Họ thường phải cam chịu, bất lực và đành phải an phận. Cá biệt có
một số người ham cuộc sống giàu sang phú quý nên đã cởi bỏ lớp nho phong, sĩ khí để
ra phục vụ cho ông chủ mới... Bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức lại theo lối hiện
đại hơn, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá dần cái thế tự trị làng xã ngày trước.
Ðể che dấu bộ mặt thật cướp nước, để tuyên truyền văn minh nước Pháp, bọn thực dân
đã đưa ra Hội đồng tư vấn, bày trò dân chủ giả hiệu. Chúng còn lập Viện Hàn lâm Bắc
Kì để dựng lên cái gọi là bảo vệ và phát triển văn hoá tại nước bảo hộ.
Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế, tầng lớp trí thức của ta cảm
thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ cũng hết sức chán nản lối học cũ, bởi vì ai cũng
nhận ra một điều rất rõ ràng:
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông phán
Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò
( Chữ Nho - Trần Tế Xương )
45
Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến phương Ðông.
Chính quyền thuộc về một dòng họ, đứng đầu có vua, trong xã hội có tứ dân. Nông
dân giữ vai trò quan trọng về kinh tế nhưng bị khinh rẻ, bị áp bức bóc lột. Kẻ sĩ được
xem như một đẳng cấp đặc biệt, tự nhận và được xã hội thừa nhận như người cầm
chính đạo truyền bá giáo hoá triều đình cho nông dân. Khi có mặt thực dân Pháp trên
đất nước ta thì mọi cái đã thay đổi. Kinh tế hàng hoá kích thích sự phát triển của công
thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển
nhiều nghề mới, tầng lớp thị dân lớn mạnh. Tầng lớp thị dân trong các thành phố
nhượng địa được xem là lớp người ngoài tứ dân . Họ có ít nhiều tự do trong đời sống
thành thị tư sản. Ðối với họ thì họ hàng, làng xã, đẳng cấp không còn nhiều ý nghĩa
nữa. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp thị dân phát triển dần lên.
Ði đôi với những đổi thay về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục ở giai đoạn này
cũng xuất hiện nhiều yếu tố mới. Thực hiện chính sách cai trị thuộc địa, Pháp đã tỏ ra
rất khôn khéo trong vấn đề này. Khi đã bình định xong toàn cõi Việt Nam, chúng chưa
bỏ ngay việc học và thi cử bằng chữ Hán mà tiến hành theo từng bước. Ðầu tiên là bổ
sung những bài thi mới vào những kì thi vốn có từ trước. Cho nên Tú Xương đã mỉa
mai:
Bốn kì trọn vẹn thêm kì nữa
Á, ớ, u, Âu ngọn bút chì
( Ði thi )
Lối sống tư sản đã tấn công quyết liệt vào xã hội phong kiến Việt Nam, cùng với
nó là sự du nhập ồ ạt của nền văn hoá phương Tây. Tất cả đã làm thay đổi hẳn bộ mặt
trang nghiêm của xã hội phong kiến vốn tồn tại vững chắc hơn 10 thế kỉ qua. Kẻ thù
mang vào đất nước chúng ta nhiều cái mới. Sự phát triển của đô thị tư sản đã phá dần
thế tự trị làng xã ngày trước. Lối sống sôi động, gấp rút theo cường độ của xã hội hiện
đại làm mất đi những sinh hoạt gia đình, họ tộc, làng xã, vốn là một phương diện tạo
nên các mối quan hệ tốt đẹp của con người được hình thành từ rất lâu. Ðứng trước
những đổi thay của con người và xã hội, đối diện với những cái xấu xa, hợm hĩnh do
thực dân Pháp đưa đến, con người Việt Nam đã phản ứng quyết liệt trong buổi đầu. Họ
46
tỏ ra bực tức, căm giận, không thể chấp nhận nổi, lắm lúc phải hét to lên trong sự bất
lực:
Muốn mù, trời chẳng cho mù nhỉ,
Giương mắt trông chi buổi bạc tình
( Đau mắt - Trần Tế Xương )
b. Lực lượng sáng tác thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Thơ trào phúng là tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại, là một trong
những hiện tượng tiêu biểu báo hiệu cho sự chuyển đổi từ văn học trung đại sang hiện
đại. Văn thơ hiện thực trào phúng đã có sự phát triển mạnh mẽ, gặt hái được nhiều
thành công rực rỡ trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự phát triển của
nó gắn liền với ý thức của lực lượng cầm bút. Các tác giả của thơ văn hiện thực trào
phúng phần lớn là các nho sĩ. Có người đỗ đạt cao như Nguyễn Khuyến, có người vừa
đỗ đạt vừa làm quan như Nguyễn Thiện Kế, có người không đỗ đạt như Trần Tế
Xương, Kép Trà...có người học giỏi nhưng vẫn không đỗ đạt như Học Lạc, Nhiêu
Tâm. Họ đều là những người ít nhiều giữ được khí tiết nho gia, tiếp thu truyền thống
yêu nước của dân tộc, có tinh thần chiến đấu căm thù giặc. Không phải ngẫu nhiên mà
hầu hết các tác giả viết thơ trào phúng là những nhà nho. Họ chính là những nhà thơ
Nôm cuối cùng của dân tộc. Tuy không xông pha trực tiếp vào cuộc đấu tranh cứu
nước bằng sức mạnh vũ lực nhưng họ đều có cảm tình với những người trực tiếp tham
gia vào cuộc chiến đó. Lòng yêu nước của họ biểu hiện chủ yếu bằng thái độ bất mãn
với chế độ thực dân phong kiến thống trị và họ dùng tiếng cười trào phúng trong thơ ca
để bộc lộ sự bất mãn đó.
Ngay từ những buổi đầu của cuộc chiến chống xâm lăng ở vùng Nam Kì Lục
Tỉnh, văn thơ hiện thực trào phúng đã có mặt trong những bài thơ của Phan Văn Trị,
Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc, Nhiêu Tâm...đả kích bọn tay sai bán nước, phục vụ cho
giặc. Tuy vậy, có thể thấy rằng, thời kì phát triển nhất của thơ ca hiện thực trào phúng
này là từ sau khi thực dân Pháp đã hoàn thành căn bản cuộc xâm lăng và xã hội thực
dân nửa phong kiến hình thành, phơi bày ra hết những cảnh lố lăng, hỗn loạn của nó.
Cuối thế kỉ XIX, khi Nho giáo như một hệ thống giá trị văn hóa đã bộc lộ những
mặt hạn chế không thể nào khắc phục trước sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa đến từ
47
phương tây theo chân những kẻ cướp nước tràn vào nước ta, khi mà cái sở học của nhà
nho cũng như những phẩm chất cao quý mà các nhà nho vẫn luôn cố gắng gìn giữ và
tu dưỡng đã không thể chặn được sự tấn công của thực dân pháp thì lịch sử đã chứng
kiến một cuộc đỗi thay rất to lớn trong quan niệm về nhân cách nhà nho buộc họ phải
nhìn nhận lại tầng lớp mình.việc thông hiểu thánh hiền không thể giúp ích cho bối
cảnh lịch sử lúc này, điều đó khiến họ chới với, xuất hiện cảm hứng tự trào, tự chế
giễu bản thân, cười cợt, hạ bệ những mặt trái, những hạn chế của mình và tầng lớp
mình, xem bản thân như là một kiểu người thừa trong gia đình và xã hội. hiện tượng tự
trào, tự cười mình ở các nhà nho diễn ra phổ biến đến đầu thế kỉ XX ở nhiều mức độ
khác nhau.
Ðầu thế kỷ XX, giai đoạn lịch sử đầy biến động, có sự chi phối mạnh mẽ của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, của văn học phương Tây, lực lượng nhà nho không tránh
khỏi sự phân hóa: Các nhà nho vì yêu nước thương dân, không cam tâm làm nô lệ đã
tiếp tục đứng lên chống Pháp (Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn
Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...). Họ được tiếp nhận và phát triển luồng tư tưởng
cách mạng từ châu Âu đưa đến. Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn chương.
Buổi đầu khi phong trào cách mạng lên cao, các nhà nho có nhu cầu đưa những vấn đề
mới của xã hội vào văn học nên họ sáng tác say sưa. Bằng những cách tân nghệ thuật
họ nhiệt tình thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con người. Tác phẩm
của họ thường phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài và có những tác động mạnh
mẽ đối với xã hội, làm "dậy sóng" phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Ý thức hệ phong
kiến không còn chi phối tư tưởng của họ một cách nặng nề như trước nữa. Họ không
còn muốn nói đến đạo lý thánh hiền và cũng chẳng hề gò câu đẽo chữ để tạo sự bóng
bẩy cho bài thơ, bài văn. Họ chỉ hướng đến một mục đích duy nhất: giải phóng đất
nước, xây dựng quốc gia hùng cường.
Lúc này, nhà nho không còn là lực lượng sáng tác chính. Bên cạnh họ đã có xuất
hiện một lực lượng sáng tác mới. Ðó là lực lượng trí thức tân học. Ðây là những người
vừa mới được đào tạo từ các trường Pháp - Việt. Phần lớn trong số họ bắt đầu từ công
việc làm báo, có những nhà cựu học viết bằng chữ Hán. Dần dần, theo con đường dịch
thuật, phỏng tác... họ chuyển từ viết báo sang viết truyện ngắn, kịch, nhanh chóng đáp
48
ứng được đòi hỏi của công chúng thành thị. Họ khác với các nhà nho cấp tiến, chú
trọng đến văn hóa hơn là chính trị. Nhìn chung, họ là những người mạnh dạn đến với
cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi những dằn vặt, trăn trở khi chọn cho mình
một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Họ đến với cái mới vì ước
nguyện dung hòa hai nền văn hóa Âu - Á.
Sự phát triển của văn học trào phúng, đến lượt nó, đã có những tác động tích cực
đến quá trình phát triển của văn học nói chung. Trước hết, nhờ tiếng cười, tính chất
nghiêm trang biến mất, óc cuồng tín và mê tín cũng biến theo, con người dễ trở thành
bao dung trước cái mới lạ hơn. Sau nữa, văn học trào phúng phải dựa trên, hơn nữa,
càng ngày càng củng cố, mối quan hệ gần gũi giữa người viết và người đọc. Văn học
trào phúng là để đọc ngay, tạo ra hồi âm ngay, chứ không phải là thứ để dành trong
ngăn kéo, cho mai hậu. Điều này dẫn đến một số hệ quả quan trọng: một, đề tài văn
học trào phúng phải có tính thời sự, gắn liền với cuộc sống xã hội chung quanh; hai,
chất liệu phải là những gì cụ thể và nhiều kịch tính; ba, ngôn ngữ phải giản dị để người
đọc có thể lĩnh hội ngay tức khắc; và bốn, kết cấu tác phẩm phải khéo léo để có thể
làm bật lên tiếng cười vào chính cái lúc tác phẩm kết thúc. Có thể nói chính văn học
trào phúng đã góp phần đắc lực trong việc làm sụp đổ lối văn chương bát cổ mà một số
nhà nho cấp tiến muốn đoạn tuyệt, và cũng chính nó là tiền thân của xu hướng hiện
thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam sau này.
1.5. Những nhà thơ hiện thực trào phúng đặc sắc đất Nam Kì
Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm có thể xem là những
gương mặt đại diện cho mảng văn thơ hiện thực trào phúng ở Nam Kì giai đoạn cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Tìm hiểu về văn học trào phúng Nam Kì, chúng ta thường
nghe nhắc đến tên tuổi của họ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu một cách kĩ càng, chính xác và
đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của họ là một việc vô cùng khó khăn. Lí do thì như đã
trình bày ở phần trên, văn học miền Nam không được coi trọng trong một thời gian
dài. Đồng thời, chiến tranh loạn lạc kéo dài nên việc sưu tầm và khảo cứu không thể
không bị gián đoạn. Những thông tin chúng ta biết được về các nhà thơ trào phúng này
còn khá sơ sài và chưa có cơ sở để xác thực. Qua thời gian những thông tin đó lại ngày
49
càng khó kiểm chứng. Đây là một điều vô cùng đáng tiếc. Thế nhưng những đóng góp
của họ là điều không thể chối cãi.
1.5.1. Phan Văn Trị (1830-1910)
a. Con người và cuộc đời
Về cuộc đời của Phan Văn Trị còn có nhiều vấn đề chưa được sáng rõ. Trong
phần này, chúng tôi trình bày chủ yếu dựa vào tài liệu “Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác
phẩm” do Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân chủ biên (Nxb TPHCM -
1986).
Hơn một thế kỉ qua, những câu hỏi về Phan Văn Trị vẫn còn bị bỏ ngỏ chưa tìm
được câu trả lời chính xác cho từng thắc mắc. Những tác phẩm tìm hiểu về cuộc đời và
sự nghiệp của ông cũng không nhắc đến quê hương, gia đình, tuổi tác của ông khiến
cho việc tìm hiểu chính xác về Phan Văn Trị gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, ý kiến được đông đảo các nhà nghiên cứu đồng thuận nhất về
cuộc đời của Phan Văn Trị có thể khái quát như sau:
Phan Văn Trị tục gọi là Cử Trị, sinh năm Canh Dần 1830 và mất năm 1910. Về
sinh quán của ông có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo Quốc Triều Hương Khoa
Lục của Cao Xuân Dục - cuốn sách bằng chữ Hán ghi chép tình hình học tập và thi cử
của Nam Kì vào thế kỉ XIX, đã góp phần làm sáng tỏ quê quán của Phan Văn Trị bằng
mấy dòng ngắn ngủi “Phan Văn Trị, Vĩnh Long, Bảo An, Hưng Thạnh”. Nghĩa là
Phan Văn Trị sinh tại làng Hưng Thạnh huyện Bảo An tỉnh Vĩnh Long (nay là xã
Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre). Ngay từ thưở nhỏ ông đã nổi
tiếng học giỏi và làm thơ hay. Phan Văn Trị đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu năm Tự Đức thứ
2 (1849). Vừa thi đỗ xong, Phan Văn Trị liền tìm nơi ẩn thân với nghề dạy học, ông
dạy học ở làng Bình Cách (tỉnh Tân An) sau dời về làng Phong Điền (tỉnh Cần Thơ).
Về gia đình và dòng họ của Phan Văn Trị cũng là những vấn đề cần tìm hiểu.
Các sách viết về ông cũng hầu như bỏ trống hoàn toàn những điều này. Có ý kiến cho
rằng, Phan Văn Trị là con của khâm sai chưởng tiền đô Phan Văn Tấn, vốn là bạn thân
với Phan Thanh Giản, thuộc dòng dõi Phan Văn Triệu, một vị tướng đã từng giúp
Nguyễn Ánh chống lại quân Tây Sơn, về sau được liệt vào miếu trung hưng công thần
tại cố đô Huế. Tuy nhiên điều này chưa được xác thực. Bảo Định Giang trong “Thơ
50
văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỉ XIX” viết rằng: Phan Văn Trị bất bình vì triều
Nguyễn đã đối xử thậm tệ với dòng họ ông. Ông thù oán nhà Nguyễn, không ra làm
quan vì triều đình nhà Nguyễn xử phạt dòng họ ông chín đời không được làm quan.
Sau khi đậu cử nhân, ông về làng Bình Cách (nay thuộc thị xã Tân An) dạy học trò,
sau dời về làng Phong Điền, Cần Thơ tiếp tục dạy học, làm thơ, bốc thuốc chữa bệnh
cho đến cuối đời. Tuy nhiên những ý kiến này vẫn chỉ là chuyện kể không đáng tin
cậy.
Phan Văn Trị lấy bà Đinh Thị Thanh, anh em con cô cậu với Lê Quang Chiểu,
tác giả cuốn Quốc Âm Thi Hiệp Tuyển, sinh ra 4 người con gồm 2 trai (Phan Văn
Tùng (Tòng), Phan Văn Đường), 2 gái (Phan Thị Đào, Phan Thị Mai). Sau khi ông
mất, gia cảnh bà sa sút nhanh chóng, phải làm nghề giả gạo mướn kiếm sống qua
ngày. Sau bà lấy người khác cùng làm nghề giả gạo được vài năm thì mất.
Sinh ra vào thời kì sụp đổ thảm hại của chế độ phong kiến Việt Nam, trong buổi
vận nước ngặt nghèo với sự thống trị của triều Nguyễn, một triều đại mà ngay từ khi
thành lập đã bộc lộ sự đối nghịch với lợi ích của nhân dân, Phan Văn Trị đã dũng cảm
vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn bán nước và cướp nước tàn bạo bằng ngòi bút sắc sảo
của mình. Tên tuổi của ông gắn liền với những cuộc chiến tranh tư tưởng trong giới sĩ
phu nửa cuối thế kỉ XIX bằng thái độ không khoan nhượng trước bọn tay sai. Được
nhân dân yêu mến và kính trọng, Phan Văn Trị xứng đáng đứng vào hàng ngũ những
nhà thơ yêu nước can trường của Nam Kì. Cuộc đời của ông là một cuộc đời đẹp, sáng
ngời lí tưởng với một dáng vẻ riêng, đặc biệt.
b. Sự nghiệp văn chương
Có thể nói rằng, Phan Văn Trị là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận văn học
yêu nước cuối thể kỉ XIX ở Nam Kì. Nhìn vào tình hình thơ văn yêu nước chống Pháp
ở nước ta lúc bấy giờ, Phan Văn Trị nổi lên là một gương mặt đặc sắc.
Sáng tác của ông có thể chia làm hai giai đoạn: trước khi Pháp xâm lược và sau
khi Nam Kì rơi vào tay giặc. Giai đoạn đầu, phần lớn sáng tác của ông là những bài
thơ vịnh cảnh, vịnh vật, tức cảnh và cảm hoài nhằm gởi gắm tâm sự, tỏ hoài bão, chí
hướng của mình, phê phán bọn thống trị bất tài, dốt nát, hám danh hám lợi. Khi đất
nước rơi vào vòng nô lệ, ông chuyển hẳn ngòi bút sang chống bọn cướp nước và đám
51
tay sai, nổi bật lên trên hết là những bài tự họa trong cuộc bút chiến không khoan
nhượng với Tôn Thọ Tường. Tuy nhiên, các tác phẩm của Phan Văn Trị cho đến hiện
tại chỉ chắc chắn có 54 bài thơ thất ngôn bát cú, kể cả những tác phẩm vẫn còn tồn
nghi. Trong 54 bài thơ này có 24 bài thất ngôn bát cú và ba chùm thập thủ liên hoàn,
mỗi chùm gồm 10 bài cũng viết theo thể thất ngôn bát cú.
Trong việc sưu tầm và khảo cứu về Phan Văn Trị, chỉ thấy ông sáng tác thơ mà
không tìm thấy các thể loại sáng tác khác. Ông có sở trường về thể thơ thất ngôn bát
cú. Các tác phẩm đều được viết bằng chữ Nôm, hiện chưa tìm thấy một tác phẩm nào
của ông viết bằng chữ Hán.
Thơ của Phan Văn Trị là lời phát ngôn của phong trào chống Pháp rộng lớn của
sĩ phu và nhân dân Nam Kì ở cuối thế kỷ XIX. Đến nay, nhiều sáng tác của ông chưa
sưu tầm hết, nhưng với những bài thơ mà chúng ta sưu tập được đã cho thấy rằng ông
là một nhà thơ có sự nhận thức sáng suốt với một lập trường kiên định, một tinh thần
tự hào lạc quan, một khí phách hiếm thấy và một ý thức trách nhiệm công dân đầy đủ
đối với dân tộc và đất nước. Phan Văn Trị xứng đáng đứng trong hàng ngũ những nhà
thơ tiêu biểu cho khuynh hướng văn học yêu nước chống xâm lược thời cận đại, là
ngọn cờ tiêu biểu của văn chương yêu nước.
1.5.2. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883)
a. Con người và cuộc đời
Huỳnh Mẫn Đạt còn gọi là Hoàng Mẫn Đạt, Tuần Phủ Đạt, biệt hiệu Dưỡng
Độn. Chính họ của ông là Hoàng nhưng vì ở Nam Kì bấy giờ kiêng tên húy nên Hoàng
đọc trại là Huỳnh (vì kiêng gọi tên của Nguyễn Hoàng – thủy tổ nhà Nguyễn). Ông
sinh năm Đinh Mão (1807) tại làng Tân Hội, tổng Tân Phong, phủ Tâm Bình, trấn Gia
Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). “Hình dạng khôi ngô, ốm yếu, tánh nết hiền
lành, hay làm thi quốc âm, tao nhã lịch thiệp lắm.” ( Nguyễn Liên Phong, Điếu Cổ Hạ
Kim Thi Tập, trang 40).
Thuở nhỏ ông học rất giỏi. Năm 24 tuổi, nhằm khoa Tân Mão (1831) tại Gia
Định, ông thi hương đỗ cử nhân và ra làm quan cho nhà Nguyễn vào thời vua Tự Đức.
Cuộc đời làm quan của ông lận đận, có hồi thăng lúc giáng. Dưới triều Minh Mệnh
(1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Huỳnh Mẫn Đạt giữ các chức vụ: Ngự sử đạo
52
Ninh Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên). Khi ông giữ chức Án sát Định Tường, đã đánh
dẹp thổ phỉ quấy nhiễu trong tỉnh. Khi làm Án sát Hà Tiên, hai lần ông chỉ huy dẹp
phỉ, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Sau đó ông được thăng Bố chính rồi
Tuần phủ Hà Tiên. Sau đó vì nhiều viên quan tỉnh liên lụy đến vụ án chứa thuốc phiện,
nên ông bị cách chức Tuần phủ Hà Tiên. Năm 1860 ông được khôi phục, giữ chức Án
sát Định Tường.
Ngày 17/3/1861, quân Pháp cho 4 tàu chiến, 18 khẩu đại bác chiếm vùng vịnh Cù
Úc và hải phận các cửa biển Đại Hải, Tiền Hải thuộc tỉnh Định Tường. Huỳnh Mẫn
Đạt chỉ huy quân sĩ ra sức chống trả, nhưng vũ khí lạc hậu không chống nổi vũ khí
hiện đại của phương Tây, nên thất bại. Ngày 29/3/1861, quân Pháp tấn công các đồn
Tân Hưng, Tĩnh Giang, Cai Lộc. Mặc dù quân ta chiến đấu dũng cảm cuối cùng cũng
phải rút lui trước hỏa lực mạnh áp đảo của giặc. Ngày 12/4/1861, quân Pháp lại đem 4
tầu chiến, 18 đại bác tấn công tỉnh thành Định Tường. Cũng như những lần chiến đấu
trước, vũ khí lạc hậu của quân triều đình không chống được tầu chiến và súng Tây, nên
các ông phải bỏ thành rút chạy. Tỉnh thành Định Tường lọt vào tay quân Pháp. Tự Đức
bắt ông về kinh chịu tội. Đến tháng 11 năm Tân Dậu (1861), ông được tha, điều động
theo Nguyễn Tri Phương đang giữ chức Thượng thư bộ Binh làm Đổng suất quân vụ ở
Biên Hòa, trực tiếp vào Nam Kì tổ chức đánh Pháp.
Ông là một vị quan thanh liêm hết lòng vì dân vì nước, được nhân dân vô cùng
yêu mến. Năm 1861, khi thực dân Pháp kéo vào đánh chiếm toàn cõi Nam Kì, ông
quyết tâm không hợp tác với chính quyền mới nên đã cáo quan về ngụ tại Rạch
Giá cho đến khi mất. Ông một mực liêm khiết, trung thành với tổ quốc từ bỏ nơi chốn
rau cắt rốn mà đi chứ không chịu sống tại vùng cai trị của quân xâm lược. Thực ra sau
khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Huỳnh Mẫn Đạt lánh về Kiên Giang ở ẩn.
Cùng với Phan Văn Trị, ông còn góp thêm tiếng nói lên án nghiêm khắc lũ phản
nước hại dân. Khi cáo quan về hưu trước lúc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, “ông an
phận dưỡng nhàn, không mang tiếng chi cả.”. Ông cũng là một trong những cây bút
chiến đấu hàng đầu trong đội ngũ những nhà thơ yêu nước ở Nam Kì cuối thế kỉ XIX,
góp phần vào cuộc bút chiến của Phan Văn Trị với Tôn Thọ Tường.
53
Theo bia mộ, Huỳnh Mẫn Đạt qua đời vào tháng 2 năm Nhâm Ngọ (tức tháng
3 năm 1882), hưởng thọ 75 tuổi. Mộ và đền thờ Huỳnh Mẫn Đạt nay nằm tại khu đất
19 khu phố Cô Bắc, trên đường Lâm Quang Ky, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch
Giá. Hiện nay ở Văn Xương các, tức miếu Văn Thanh, Vĩnh Long có bài vị thờ ông.
[41]
b. Sự nghiệp văn chương
Huỳnh Mẫn Đạt thích ngâm vịnh, nổi tiếng giỏi thơ Nôm ở đất Đồng Nai. Là bạn
tâm giao của Bùi Hữu Nghĩa, ông đã góp phần giúp bạn hoàn thành vở tuồng "Kim
Thạch Kì Duyên". Trước khi Pháp tấn công nước Việt, Huỳnh Mẫn Đạt đã tỏ ra là một
vị quan yêu dân, yêu nước. Ông có nhiều bài thơ nói lên lòng thủy chung đối với đất
nước, sự ngưỡng mộ với những anh hùng chống Pháp và sự căm ghét, khinh bỉ kẻ làm
tay sai của bọn thực dân xâm lược. Khi Pháp lấn chiếm Nam Kì, ông đã nhanh chóng
đứng trong hàng ngũ các nhà thơ đối kháng, mà việc góp phần vào cuộc bút chiến giữa
Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường là một minh chứng.
Đến thời điểm hiện tại không ai biết rõ Huỳnh Mẫn Đạt lúc sinh thời đã sáng tác
được bao nhiêu thơ văn. Chúng ta chỉ sưu tầm được hơn 10 bài thơ Đường luật được
lưu truyền của tác giả. Có thể liệt kê những bài thơ của Huỳnh Mẫn Đạt như sau: Điếu
Nguyễn Lịch, Cây dừa, Cảnh trời chiều, Chó già, Chiêu Quân, Con trâu, Dạ nguyệt
phiếm châu, Gành Móm, Giễu Tôn Thọ Tường (bài 1), giễu Tôn Thọ Tường (bài 2),
Lão kỹ quy y, Lên đèo Hải Vân, Mưa đêm.
1.5.3. Học Lạc (1842-1915)
a. Con người và cuộc đời
Học Lạc tên thật là Nguyễn Văn Lạc, biệt hiệu Sầm Giang. Đến nay vẫn chưa
biết chính xác ông sinh năm nào nhưng các nhà nghiên cứu căn cứ vào một bài ca trù
được các nhà nho ở Gò Công truyền tụng thì đoán rằng ông sinh năm Nhâm Dần
(1842), niên hiệu Thiệu Trị thứ hai, tại làng Mỹ Chánh, tỉnh Mỹ Tho, sau là tỉnh Định
Tường (nay thuộc xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Xuất thân
là con nhà nghèo, nhưng nhờ thông minh, học giỏi nên ông được tuyển thẳng vào học
trường quan đốc học, ngạch học sinh (ngạch do triều đình nhà Nguyễn đặt ra, được cấp
54
lương và được học tại trường của nhà nước địa phương). Do đó, người ta gọi ông là
"học sinh Lạc", về sau gọi ngắn hai chữ "Học Lạc".
Theo Nguyễn Liên Phong trong Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập (Nxb Văn Hóa - Văn
Nghệ), người sống cùng thời với Học Lạc, có những mối liên hệ thân tình đã nhận xét
về Học Lạc:“Ngài học hành uyên súc lắm, chuyên trị nghề y dược, cứu bịnh người ta
lành mạnh đặng nhiều. Ngài hình trạng nhỏ thó, nước da trắng, thấp người, không
râu, tiếng nói rổn rảng như chuông. Nghề bói diệc cũng là sở trường... Thú cầm Kì thi
họa, ngài đều biết đủ; luận theo sức văn học tài bộ thì sâm si với ông Đồ Chiểu và ông
Cử Trị. Ngài sau tị nạn binh lửa dời lên chợ Thuộc Nhiêu, cất ba căn nhà lá dạy trẻ
học trò chữ Nho và chuyên y đạo cứu nhơn độ thế rất nhiều, tánh lại ruột gan khí khái,
trượng nghĩa sơ tài”.
Là người có tài, lại được hưởng chế độ giáo dục của triều đình nhà Nguyễn luôn
khuyến khích người tài tham gia thi cử nhưng con đường khoa bảng của Học Lạc lại
gặp thất bại. Học Lạc thi mãi không đỗ nên đành gác chuyện thi cử, chọn sống một
cuộc đời khí phách trước cảnh đất nước bị thực dân xâm lược. Theo Dương Quảng
Hàm: “Nguyễn Văn Lạc là một học sinh giỏi nhưng không hiển đạt, lại có tính cứng
cỏi, ngạo đời, không chịu phục tòng những kẻ quyền thế, bởi thế ông thường làm thơ
để châm chích bọn ấy.” Mọi người tìm thấy ở Học Lạc một người thầy giáo và thầy
thuốc gương mẫu, rất mực khiêm tốn, chân thành.
Khi Pháp chiếm Định Tường, ông rời bỏ quê hương về chợ Thuộc Nhiêu (Tiền
Giang ngày nay) dạy học và làm thuốc chữa bệnh cứu người. Tuy vậy, ông lại chứng
kiến nhiều cảnh tượng thương tâm và bất mãn hơn khiến ông vô cùng bất bình.
Về cuộc đời riêng của Học Lạc phải nhắc đến người vợ tài sắc vẹn toàn với sự
tần tảo, hết lòng vì chồng con, đó là bà Bảy Khanh. theo nhiều tài liệu ghi chép, bà là
một người phụ nữ đảm đang, tính tình hòa nhã, ít nói và làm thơ hay, là tác giả của
nhiều bài thơ nôm phổ biến lúc bấy giờ. Không những đảm đương, lo cho cuộc sống
của chồng con bà còn là niềm an ủi và động viên, nguồn hạnh phúc to lớn nhất của
Học Lạc. Bà là người luôn chia sẽ, là bạn tri âm tri kỉ của nhà thơ. mặc dù không có
con nhưng hai vợ chồng ăn ở hòa thuận, thương yêu nhau hết mực. Năm Ất
Mão (1915) Học Lạc mất, thọ 63 tuổi.
55
b. Sự nghiệp văn chương
Học Lạc có tài làm thơ rất giỏi, xuất khẩu thành thi. Tuy nhiên, tác phẩm mà ông
để lại không nhiều vì thất lạc. Tiếng tăm của Học Lạc vang bóng một thời, được
truyền miệng trong dân gian. Những vần thơ của ông không mang tính chiến đấu như
Phan Văn Trị mà tập trung vào việc vạch ra những cái rởm đời, những thói hư tật xấu
của bọn cường hào, góp phần đấu tranh cho cuộc sống vốn cơ cực của người dân. Tên
tuổi của Học Lạc gắn liền với đời sống nông thôn với những hình ảnh thơ quen thuộc.
Trong khuynh hướng thi văn, nhiều nhà nghiên cứu văn học xếp Học Lạc vào các
nhà thơ có khuynh hướng trào phúng và châm biếm. Đến nay, chúng ta sưu tầm được
15 bài thơ. ngoài ra còn có những tác phẩm chưa mang tên tác giả do có sự tự ý chỉnh
sửa của những người khác. Bên cạnh những bài thơ trào phúng, ông còn sáng tác nhiều
thể loại thơ mang chủ đề khác chẳng hạn như đề cập đến cây cỏ hoa là trong những bài
thuốc gia truyền của mình. Bái Ngụ đời là một bài thơ như vậy. Vì khó nhớ nên nó
không được phổ biến bằng những bài thơ trào phúng.
1.5.4. Nhiêu Tâm (1840 – 1911)
a. Con người và cuộc đời
Nhiêu Tâm (1840-1911) tên thật là Đỗ Thanh Tâm, hiệu Như Tâm hay Minh
Tâm, biệt hiệu là Minh Giám. Ông là một nhà thơ khá có tiếng trong làng thơ trào
phúng đầu thế kỉ XX. Do có chân trong nhiêu học (một chân do nhà Nguyễn đặt ra,
cấp cho học trò giỏi, được hưởng học bổng của nhà nước phong kiến), nên mọi người
thường gọi ông là Nhiêu Tâm. Ông là một trong 15 người ở Vĩnh Long được xem là
lão Nhiêu. Tuy vậy, cũng như Học Lạc, con đường khoa bảng của ông cũng lận đận,
ông thi mãi vẫn không đỗ đạt.
Về nguyên quán, hiện không có tài liệu nào nói đến, có người bảo ông là dân
miền Nam, lưu lạc tới Vĩnh Long ngay từ lúc nhỏ, có người lại cho rằng ông là người
miền Trung. Chỉ biết khi đến làng Sơn đông (nay thuộc xã Thanh Đức, huyện Long
Hồ, tỉnh Vĩnh Long), Nhiêu Tâm dạy chữ Hán và làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ban
đầu, ông cư ngụ tại nhà học trò tên Trần Văn Kỷ. Mấy năm sau ông Kỷ mất, Nhiêu
Tâm dời sang nhà một học trò khác là Trần Minh Chuẩn và ở đấy cho đến hết đời.
56
Người dân làng Sơn Đông còn nhớ nhà thơ Nhiêu Tâm có vóc dáng hơi cao gầy,
đôi mắt bị lòa nên đi đâu cũng phải chống gậy. Ông được đồng bào Nam Kì kính trọng
không chỉ vì có tài làm thơ hay mà con ở nhân cách cao quý cùng lối sống thanh bần
trong sạch, là người quý trọng tình nghĩa, yêu thương đồng bào.
Khi Nhiêu Tâm mất vào năm 1911, không có vợ con hay họ hàng thân thích đến
mà chỉ có rất nhiều học trò chịu tang và bạn thơ văn đến viếng. Những người dân nơi
đây đã làm tang lễ, lập bàn thơ xây dựng mộ phần. Mộ ông nằm giữa cánh đồng, thuộc
làng Sơn Đông, xã Thanh Đức (Vĩnh Long). Hằng năm, người dân làng Sơn Đông vẫn
tổ chức cúng giỗ ông như một cách để thể hiện tình cảm với một nhân cách lớn.
b. Sự nghiệp văn chương
Nhiêu Tâm là nhà thơ xuất sắc trong làng thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu
thế kỉ XX ở Nam Kì. Thơ ông mang hai khuynh hướng khac nhau: trữ tình và trào
phúng. ở cả hai hướng ông đều thể hiện tài năng của mình, trong đó, mảng thơ thuộc
khuynh hướng trào phúng có phẩn nổi trội. Bộ phận thơ trữ tình cũng không kém phần
đặc sắc, có điều là so với bộ phận trào phúng nó ít hơn và cũng không đa dạng, phong
phú bằng. Phần nhiều các bài thơ được làm theo thể thất ngôn với một nỗi ray rứt về
những vấn đề thế sự, những cảnh sống của những con người bình thường, hằng ngày
gắn bó với ông với giọng thơ hóm hỉnh, tự nhiên nhưng cũng giàu lòng trắc ẩn trước
những ngang trái của cuộc đời.
Tài làm thơ của Nhiêu Tâm là điều không phải bàn cãi, tuy nhiên, việc lưu truyền
thường bằng hình thức truyền khẩu trong nhân dân nên đến nay, các tác phẩm của ông
đã bị tản mát rất nhiều, hiện chỉ mới sưu tập được khoảng hơn 20 bài thơ ở cả hai
khuynh hướng sáng tác.
Thơ trào phúng của Nhiêu Tâm mang tính phê phán và tính chiến đấu rất cao.
Ông là người nhạy cảm với thời cuộc, có bãn lĩnh và dám nói lên tiếng nói trước
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống. Ngòi bút của ông mạnh tay với những vấn
đề như thế. “Bần phú luận” là một bài thơ rất tiêu biểu cho mảng thơ này.
Với mảng thơ trữ tình, nó thể hiện một con người khác của Nhiêu Tâm. Những
bài thơ ra đời theo dòng cảm xúc của tác giả, được chia thành từng chùm thơ tình cùng
non nước và tình nhân thế. Đây cũng là cách để ông bày tỏ tình yêu của mình với non
57
sông đất nước. Trong chùm thơ tình cùng non nước có các bài như “Thuyền qua
sông”, “Đề văn thánh miếu”, “Vịnh miếu Tống Quốc công” và bài “Tặng bà Trương
Thị Loan”, trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến bài “Thuyền qua sông”. Sống giữa buổi
giao thời, tình thế hỗn loạn nhiễu nhương, là người nhạy cảm với thời cuộc, hẳn có lúc
Nhiêu Tâm đã cảm thấy nỗi bất ổn của kẻ sĩ trước cơn phong ba của lịch sử, vì vậy mà
ông đã viết bài “Thuyền qua sông” như là một cách để tự răn dạy, nhắc nhở mình,
đồng thời cũng là cái cách mà ông bày tỏ tình yêu của mình với non sông.
Chính vì sống gần gũi với nhân dân lao động, cảm nhận họ bằng trái tim, thương
yêu họ bằng tấm lòng, nên những tác phẩm mà Nhiêu Tâm viết về nhân dân lao động
bao giờ cũng thấm đượm một tình người sâu sắc. Mặc dù vẫn mang hơi hướng trào
lộng cố hữu, nhưng giọng văn của ông ở đây đã khác hẳn với giọng văn như khi ông
viết về tầng lớp quyền quý – danh gia vọng tộc. Một bên là sự giễu cợt, mỉa mai những
thói hư tật xấu của người đời, còn một bên là nỗi xót xa cho những thân phận nghèo
khổ, bần hàn hoặc những cảnh huống éo le, trớ trêu trong đời người.
58
Chương 2. NỘI DUNG HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
TRONG THƠ CA NAM KÌ LỤC TỈNH
CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX
2.1. Tiếng cười châm biếm, đả kích
Thơ trào phúng có thể xem như một hiện tượng của lịch sử văn học Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX bởi nó là tiếng nói cáo chung của một xã hội
đã đến hồi suy thoái già cỗi với nhiều tấn hài kịch diễn ra trên khắp cả ba kì. Tiếng
cười cất lên ở giai đoạn này là điều cần thiết, đó yêu cầu của một cuộc sống cần vươn
lên một cách lạc quan. Tiếng cười trào phúng chiếm một vị trí đặc biệt. Nó như một
làn gió trong lành thổi vào một giai đoạn văn học chịu nhiều biến động của lịch sử,
mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau, làm tươi mới hơn không khí văn học
lúc bấy giờ, đem lại sức sống cho một thời kì mất nước đầy tiếng khóc than hờn oán.
Nếu như ở miền Bắc có Nguyễn Khuyến và Tú Xương là đỉnh cao của thơ trào
phúng thì ở Nam Kì, diện mạo thơ trào phúng lại được xây dựng nên bởi nhiều tên tuổi
với những đặc trưng rất riêng. Nói đến xã hội Nam Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
chúng ta thấy nổi bật lên trên hết là những hiện tượng đáng cười, đáng phê phán, đáng
vạch mặt, lên án. Nam Kì rơi vào tay giặc đã khiến những nhà nho, trí thức vùng lục
tỉnh có tâm huyết, có tinh thần nhưng không đủ điều kiện để cầm gươm đều thấy mình
có nhiệm vụ cầm bút đã kích vào chế độ thực dân bằng những vầng thơ hiện thực và
tiếng cười. Tiếng cười trong thơ họ lúc nhẹ nhàng, thấm thía, lúc hả hê sảng khoái, lúc
chua xót sâu cay "cười ra nước mắt". Cười tự răn mình, cười phê phán thói hư tật xấu
trong đời sống, cười châm biếm bọn tham quan ô lại, cười đả kích áp bức bạo
quyền…Trong hàng loạt cung bậc của tiếng cười ấy, nổi bật lên trên hết vẫn là tiếng
cười đả kích, châm biếm. Nó trở thành vũ khí sắc bén để chống lại kẻ thù cướp nước
và bán nước.
Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc,
thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay
khác trong xã hội. Mặc dù châm biếm thường có nghĩa là phải hài hước, mục đích lớn
hơn của nó thường là mang tính xây dựng phản biện xã hội, sử dụng trí thông minh
59
như một vũ khí, và là một công cụ để gây sự chú ý cho cả hai vấn đề cụ thể và rộng
hơn trong xã hội là chống bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai đắc lực của chúng.
Tiếng cười ấy chính là thứ vũ khí để các nhà thơ đả kích, châm biếm, phủ định, đả phá
và tiêu diệt kẻ thù. Nếu như giọng bông đùa, hài hước phần lớn thể hiện chức năng tự
trào, để giải trí, thì châm biếm, đả kích hướng tới việc phê phán đối tượng với những
thói hư tật xấu của con người trong cuộc sống. Đả kích, châm biếm xét về mặt chức
năng nó sẽ ở một cấp độ cao hơn, nặng hơn. Nổi bật lên trong thơ trào phúng Nam Kì
là tiếng cười châm biếm, đả kích này.
Với các nhà thơ hiện thực trào phúng ở Nam Kì Lục Tỉnh, những kẻ cướp nước,
những kẻ bán nước, những lũ gian tham, những thói hư tật xấu ở đời là đối cho những
vần thơ đả kích không chút xót thương. Ngòi bút của họ là ngòi bút vì nghĩa. Phan Văn
Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm đã chiến đấu đến cùng với lũ quan lại,
lính tráng gian tham, nhũng nhiễu dân chúng bằng những ngòi bút mang tiếng cười
thâm thúy nhưng cũng vô cùng chua chát.
2.1.1. Đả kích bọn thực dân Pháp
Cuộc tấn công xâm lược của thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kì Lục Tỉnh diễn
ra trong vòng 8 năm là một thử thách, một biến cố cực kì to lớn và cam go đối với
nhân dân Nam Kì nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Dưới ảnh hưởng của
biến cố lớn lao ấy, nhiều xáo trộn đã xảy ra trong xã hội. Khi gót chân của quân xâm
lược giẫm lên vùng đất mới này, sự sống của nhân dân bị giày xéo, đau thương tang
tóc không làm sao nói hết, bao nhiêu rên xiết căm hờn hằn lên trên những trang viết,
câu văn, lời thơ của những con người yêu nước thương nòi nơi đây.
Những tội ác của giặc trên đất Nam Kì không thể nào đong đếm hết. Rất nhiều
bản hịch đánh giặc Pháp được sáng tác và lưu truyền đã góp phần quan trọng vào việc
động viên khi thế, tinh thần tham gia giết giặc:
Ở đâu mà chẳng thấy
Đào mồ mả phá miếu chùa, làm những việc bất nhân
Ở đâu mà chẳng hay
Đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo
Trời nào để cho dân ta đeo gông tròng?
60
Trời nào để cho lũ nó rảnh, ăn chơi
Xưa nay ai mạnh bằng trời
Đâu đó vật còn có chủ
Không chỉ cổ vũ lòng yêu nước căm thù giặc, các bài hịch khuyết danh này còn
cho mọi người dân nhìn thấy những tội ác của giặc để tin tưởng hơn vào cuộc chiến
đấu của ta, không sợ vũ khí của giặc.
Cùng với nhân dân, tầng lớp trí thức và sĩ phu yêu nước cũng là một lực lượng
quan trọng trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ này. Họ vừa cầm súng vừa cầm bút
chiến đấu chống quân xâm lược một cách hăng say không biết mệt mỏi. Phan Văn Trị,
Huỳnh Mẫn Đạt Học Lạc và Nhiêu Tâm có thể xem là những cây bút sắc sảo nhất
trong cuộc chiến này. Chính họ là những vị soái tướng tạo nên một chiến trường thơ
văn với nụ cười thâm thúy cổ vũ nhân dân, tấn công không khoan nhượng bọn cướp
nước và bè lũ tay sai bán nước.
Người đứng đầu trên mặt trận không kém phần ác liệt này phải kể đến Phan Văn
Trị. Có thể thấy, với tài thơ văn hơn người, Phan Văn Trị đã thổi bùng lên ngọn lửa
yêu nước rực cháy trong nhân dân Nam Kì, góp công lao to lớn vào sự nghiệp đấu
tranh anh hùng bất khuất chông ngoại xâm của toàn dân tộc. Đại diện cho tầng lớp sĩ
phu trí thức yêu nước đánh giặc, Cử Trị đã tạo nên một cuộc chiến đấu thực sự oai
hùng trên văn đàn, đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân và tay sai của
chúng. Việc ông đỗ cử nhân nhưng không nhận quan trường đã cho thấy thái độ khinh
ghét cuộc đời luồn cúi, nhưng ông cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những
biến động của đất nước, nỗi đau của đồng bào. Làm dân của một nước nô lệ hàng ngày
phải chứng kiến bao nhiêu cảnh chướng tai gai mắt, tuy ông không có khí phách hiên
ngang như Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định, không đánh nhận chìm tàu giặc
trên sông Nhật Tảo như Nguyễn Trung Trực nhưng ông vẫn là một ngôi sao trên vòm
trời các nhà thơ yêu nước ở Nam Kì giữa và cuối thế kỷ thứ XIX. Khi Pháp đánh
chiếm Gia Định, ông liên kết cùng với các sĩ phu yêu nước và các lãnh tụ kháng chiến
như Đồ Chiểu, Nguyễn Thông, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... Cả cuộc đời
ông dùng bút để chiến đấu vì chính nghĩa, vì lẽ phải ở đời.
Tấm lòng của Phan Văn Trị luôn luôn đau đáu nỗi niềm:
61
Chưa trả thù nhà, đền nợ nước
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ.
(Tự thuật – bài 2)
Gần như toàn bộ tác phẩm của Phan Văn Trị đều toát lên tinh thần ấy. Những gì
ông thấy, những gì ông nghe, chứng kiến đều được bày tỏ trong thơ với một tâm sự “
dõi theo người trước giữ năm hằng”. (Họa “Giang sơn ba tỉnh” bài 9). Ông dùng ngòi
bút của mình chiến đấu cho lẽ phải, cho nhân nghĩa, cho cái chân, cái thiện của cuộc
đời, cho vận mệnh của nước và hạnh phúc của dân. Ông thẳng tay đả phá cái ác, cái
giả, đả phá những gì chướng tai gai mắt của những kẻ xâm lấn đất nước. Ngòi bút của
ông vì lẽ đó là một ngòi bút chiến đấu, góp cho dòng văn chương thời thế cuối thế kỷ
XIX một tiếng nói riêng trong bản hùng ca của một thời đại oanh liệt và đau thương.
Chính vì những nỗi niềm với đất nước ấy, Phan Văn Trị đã tấn công không
khoan nhượng vào kẻ thù của dân tộc. Tiếng thơ của ông trở thành tiếng nói chung cho
nhân dân toàn cõi Nam Kì, tiếng nói chung của phong trào yêu nước lúc bấy giờ.
Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay thực dân Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ
đau đớn và cười khẩy trước sự bất lực của triều đình:
Tò te kèn thổi, tiếng năm ba
Nghe lọt vào tai dạ xót xa
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa
Tan nhà căm nỗi câu li hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười, hết nói nỗi quân ta.
(Thất tỉnh Vĩnh Long)
Trong những hoàn cảnh khác nhau, trước những biến động lớn lao của thời cuộc,
mỗi người có cách ứng xử khác nhau. Yêu nước không có nghĩa là nhất thiết phải cầm
súng chiến đấu mới thể hiện tình cảm ấy. Ẩn hiện đâu đó vẫn có những tình cảm ngậm
ngùi trước cuộc tang thương của quê hương, đất nước, sự đau đáu, trăn trở trước thời
cuộc và mong cho đất nước sạch bóng quân thù. Tùy vào hoàn cảnh mà có những cách
62
biểu lộ tình cảm yêu quê hương, đất nước khác nhau. Ông mượn thi văn để tỏ lòng
phẫn uất về cảnh nước mất nhà tan, chỉ trích bọn xâm lược với lời lẽ đanh thép, ngạo
nghễ. Yêu nước, tiến bộ lại thực sự có tài, Phan Văn Trị đã dùng chính cái tài của
mình để làm nên những vần thơ đả kích mạnh mẽ bọn cướp nước, làm cho nền văn
học Nam Kì Lục Tỉnh phong phú và tràn đầy sức sống. Là một trong những người đầu
tiên ý thức được một cách sâu sắc về vai trò của ngòi bút “đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà” (Nguyễn Đình Chiểu), ngay từ khi thực dân đặt chân lên vùng Lục Tỉnh,
ngòi bút của Phan Văn Trị đã là một mũi tấn công lợi hại, trở thành một trong những
người phát ngôn chủ yếu của phong trào yêu nước ở Nam Kì Lục Tỉnh nửa sau thế kỉ
XIX. Ông lên án chúng với hành động ngang nhiên “vun quén” non nước của người
khác:
Cõi Nam chung hưởng hội thanh bình
Trời đất gây nên cuộc chiến tranh
Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách
Nước non vun quén nước non mình.
(Cảm hoài - bài 1)
Ông cảnh báo kẻ thù: xâm lăng là tội ác không thể nào dung thứ và đạo nghĩa lớn
nhất chính là đánh giặc để cứu nước, cứu nhà. Trong khi thực dân Pháp ra sức biện hộ
cho hành động phi nghĩa của mình và triệt để lợi dụng những tiếng nói hèn mạt cất lên
từ phái chủ hòa để củng cố cho luận điệu cướp nước thì cùng với nhiều sĩ phu yêu
nước khác như Nguyễn Đình Chiểu, Thủ Khoa Huân...,Phan Văn Trị đã khẳng khái
tuyên bố:
Lấn đất tội kia đà khó thứ
Trái trời án nọ chẳng còn oan
(Bài họa – 4b)
Trong cuộc chiến một mất một còn này, đổ máu và hi sinh là chuyện chắc chắn
xảy ra, song với kẻ thù phi nghĩa tàn bạo, ý chí và cái chết không làm người dân Nam
Kì Lục Tỉnh nao núng mà ngược lại, tiếng nói khí phách của Phan Văn Trị đã làm
bừng lên tinh thần chiến đấu của họ:
63
Người Nhan há sợ dao kề lưỡi
Họ Khuất nào lo nước đến trôn
(Bài họa 5a)
Trước nạn cào cào tàn phá lúa dữ dội, người dân chết đói rất nhiều, Phan Văn Trị
đã làm bài thơ “Nạn cào cào” để mô tả cảnh tàn phá ấy, cũng thông qua đó, ông mượn
cái nạn này để nói về nạn ngoại xâm của đất nước:
Chẳng biết cơ trời khéo khiến sao?
Trải qua mấy xứ cũng cào cào
Nơi nào cũng có cào cào tàn phá hết thóc gạo, làm khổ dân chúng chẳng khác gì
bọn thực dân làm hại nhân dân ta:
Hạt lúa bởi ngươi nên cắc cớ
Nhọc lòng cho kẻ đuổi lao xao.
Trước tình hình đó, ông thay mặt nhân dân hỏi vị quan lương thú với thái độ mỉa
mai:
Lời ngay dám hỏi quan lương thú
Đuổi đó phòng toan đến chốn nào?
Một câu hỏi mà ông chắc chắn sẽ không có câu trả lời, quan lương thú ấy là chỉ
cả bộ máy quan lại ở địa phương của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ - những kẻ vô
trách nhiệm trước nỗi đau của dân chúng. Giặc xâm lược đất nước một cách ngang
nhiên và ồ ạt, hại nước hại dân không sao kể xiết. Chúng như một lũ cào cào hung tợn.
Đến chùa, gặp cảnh “Chùa hư”, Phan Văn Trị lại chạnh lòng vì nỗi đau mất
nước, dân không biết đi về đâu khi mà triều đình ươn hèn, vua không phải là Lương
Võ Đế của ngày xưa, lấy ai mà tu sửa, hãy tự lo liệu không nên ngồi chờ.
Nam mô hai chữ biết về đâu?
Cám cảnh chùa hư Phật phải rầu
Nắng rọi mõ chuông khô nứt mặt
Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu.
Thoảng nghe đâu đó một tiếng cười chua chát của nhà thơ trước cảnh vật.
Xét đến cùng cội nguồn của tính chiến đấu mãnh liệt trong thơ Phan Văn Trị
chính là bắt nguồn từ nỗi niềm sâu nặng này của ông với đất nước. Nhà thơ Bảo Định
64
Giang đã nhận xét: “Cử Trị kháng chiến chủ yếu bằng ngòi bút”. Quả vậy, những vần
thơ lai láng tình non nước của ông, cũng như những vần thơ đả rất thẳng vào quân xâm
lược đã khích lệ lòng người không ít và đã góp phần không nhỏ vào phong trào kháng
Pháp ở Nam Kì cuối thế kỷ trước.
Ông đã muốn “đem tai rửa” khi nghe những lời giả dối của thực dân. Với luận
điệu gian trá, chúng bảo sẽ khai hóa văn minh, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho dân ta
nhưng nhà thơ đã sớm nhận ra sự dối trá xảo quyệt bên trong:
Nỡ nghe tiếng loạn đem tai rửa
Đành thấy thằng gian để mắt trừng.
(Cảm hoài - bài 4)
Phan Văn Trị lấy điển tích Hứa Do rửa tai bên sông Dịch, không muốn nghe
chuyện danh vọng cũng giống như ông, không muốn nghe những lời dối trá văn minh
của bọn cướp nước. Ông gọi chúng là những “thằng gian” và “trừng” mắt, không hề
bằng lòng với những việc làm của chúng.
Chúng chỉ là “hùm” để những kẻ bán nước dựa hơi mà đàn áp, đè đầu cưỡi cổ
dân ta. Tinh thần đấu tranh trong những nụ cười của Phan Văn Trị là rất mạnh mẽ.
2.1.2. Đả kích giai cấp thống trị và bọn quan lại làm tay sai cho giặc
Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam dần biến đổi. “Lê suy
tàn, Trịnh bạo ngược, Nguyễn vong bản”, buổi hoàng hôn của xã hội phong kiến suốt
nghìn năm dần kéo xuống. Từ một nước phong kiến nước ta trở thành nước thuộc địa
nửa phong kiến. Sự thất bại hèn yếu của triều Nguyễn đã dẫn đến sự hình thành của
một xã hội mới – xã hội mà người nông dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Một
đất nước do vua đứng đầu, nhưng không hề có quyền hành gì trong việc cai trị đất
nước mà chỉ là bù nhìn, tay sai cho thực dân.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược, quyền lực nhà nước chuyển sang tay bọn tư bản
nước ngoài, chúng trực tiếp nắm bộ máy quân sự, hành chính và tư pháp. Mọi quyền
hành đều ở trong tay quan lại thống trị từ toàn quyền đến thống sứ, khâm sứ, thống
đốc, công sứ …Quan quân nhà Nguyễn hoảng hốt quỳ mọp dưới chân bọn đế quốc
thực dân, quên đi nhiệm vụ cũng như nghĩa vụ của mình. Viên chức thuộc địa là loại
người ăn bám, là gánh nặng trên lưng nhân dân ta. Lúc này cũng là lúc có thể thấy
65
tiếng cười trào phúng lên đến đỉnh điểm, những tiếng cười vô cùng phong phú và đa
dạng của những con người thẳng thắn, bộc trực nói lên tình cảm của một dân tộc đang
muốn vượt thoát, không chấp nhận chế độ đương thời.
Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Đông Dương
về mặt quân sự và bắt đầu triển khai kế hoạch bình định trên các lĩnh vực khác như
chính trị, kinh tế, văn hoá… Trường học được mở ở khắp nơi để dạy tiếng Pháp và đào
tạo ra thế hệ quan lại bản xứ tay sai thân pháp. Sự bành trướng nhanh chóng của nền
giáo dục thực dân đã đẩy lùi nền giáo dục truyền thống dựa trên nền tảng đạo Nho có
từ lâu đời ở nước ta. Nho học tàn dần, phần lớn tầng lớp trí thức vội vã “quẳng bút
lông đi giắt bút chì” (Đổi thi - Trần Tế Xương) để mong nhận được chức thầy thông,
thầy phán trong các công sở của chính quyền bảo hộ, đặng hưởng cuộc sống “sáng
rượu sâm banh, tối sữa bò” (Cái học nhà nho – Trần Tế Xương), khác xa với cuộc
sống lầm than của cả dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp. Các nhà
thơ của đất Nam Kì Lục Tỉnh đã gửi vào trong thơ những tiếng cười đầy mỉa mai,
khinh bỉ.
Dưới mắt Phan Văn Trị xã hội đầy rẫy những bọn đục khoét, phi nhân. Với giọng
văn châm biếm sâu cay, ông đả kích bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ
lương tâm chạy theo tiền bạc trong buổi giao thời.
Từ vua tới quan chỉ là những con rối trong tay chính quyền thực dân, hoàn toàn
chịu sự chi phối và điều khiển của chúng. Xót xa và thấm thía nỗi nhục quốc thể, Phan
Văn Trị viết nên tâm sự mất nước của mình qua bài cảm tác một cách ngậm ngùi, xót
xa:
Tò te kèn thổi tiếng năm ba
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
(Thất tỉnh Vĩnh Long)
Nghe tiếng kèn của giặc, ông nhếch môi cười mà trong lòng đầy nỗi oán hận
những kẻ đáng ra phải bảo vệ con dân và xót xa đau khổ trước cảnh nhân dân phải
chịu bởi sự giày xéo của thực dân:
Tan nhà căm nỗi câu li hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
66
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm ngùi hết nói nỗi quan ta.
(Thất tỉnh Vĩnh Long)
Nghĩ đến sự ngặt nghèo, khốn khó của những người dân mộ nghĩa vùng lên đánh
đuổi giặc, giữ làng, giữ nước, những người đang bị triều đình mục ruỗng kia cho là
làm trái lệnh vua, ông mượn hình ảnh cái “cối xay” để tỏ lòng:
Mòn răng chủ nợ còn mong trả
Trặc họng khen ai khéo đặt bày
Bao quản thớt trên mòn thớt dưới
Hiềm vì còn giặc phải ra tay.
Trước khi quân Pháp xâm lược đánh chiếm Gia Định, ông đã sáng tác thơ văn
chống bọn quan lại nhà Nguyễn đàn áp, bóc lột nhân dân. Ngòi bút của Phan Văn Trị
cũng cho thấy được “cái nhà dột từ nóc” của triều đình nhà Nguyễn, nó chỉ là một cái
“chùa hư” mà thôi. Ông cho rằng vua bây giờ không phải như Lương Võ Đế ngày xưa
nên không lấy ai mà tu sửa được. Vì thế những anh hùng hào kiệt hãy sớm lo liệu mà
cứu nước, đừng có mà chờ mong chi được ở triều đình:
Đức cả từ bi xin sớm liệu
Ngồi chờ Lương Võ thế còn lâu. (Chùa hư)
Thái độ phê phán triều đình ấy của Phan Văn Trị còn thấy biểu hiện nhiều trong
thơ ca cũng như trong những việc làm mà suốt cuộc đời ông trăn trở.
Trong thơ Phan Văn Trị bọn quan lại chỉ là bọn muỗi, rận hút máu hại dân.
Trong mắt ông lũ quan lại làm tay sai cho giặc ấy thật đáng khinh bỉ, chỉ là những loài
vật bẩn thỉu, làm hại con người.
Mặt mũi như vầy cũng có râu
Trong đời chẳng biết dụng vào đâu
Hêu đòi trên mão chưa nên mặt
Lúc thúc trong chăn cứ rụt đầu
Khuấy ngứa gầy dân chi khác mọt
Rán công béo nước chẳng bằng trâu
67
Uổng sanh cho nhộn trong trời đất
Có có không không cũng chẳng cầu.
(Con rận)
Bọn quan lại, tay sai của thực dân dưới con mắt tinh tế của Phan Văn Trị hiện ra
thật sắc sảo. Chúng chẳng có lấy một chút tài cán nhưng lại lên mặt với đời, cũng có
râu oai phong lắm, sinh ra chẳng biết phải dụng vào việc gì, chỉ “lúc thúc trong chăn”,
trốn tránh chui rúc vào những nơi dơ bẩn để “khuấy ngứa, gầy dân”. Trời sinh ra
chúng thật uổng công bởi chúng là những con vật không cần thiết, một lũ vô dụng.
Tiếng cười mỉa mai của Phan Văn Trị khiến bao kẻ chuyên hút máu dân lành như
những con rận phải xấu hổ.
Con muỗi cũng là một hình ảnh rất đắt mà Phan Văn Trị sử dụng để đả kích bọn
quan lại nhà Nguyễn bán nước, là một loài chuyên đi hút máu của mọi người không
chừa một ai, người ngay kẻ gian, nơi cao sang hay thấp hèn đều có mặt chúng. Bất kể
mọi người ai ai cũng căm ghét loài muỗi gây bệnh đó.
Muỗi hỡi thân ngươi sướng mọi điều
Thiếu chi chi nữa hãy còn kêu
Giường ngà chiếu ngọc từng nương dựa
Má phấn môi son cũng ấp yêu
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo
Ngày kia gặp phải cây xơ quất
Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo.
(Con muỗi)
Tác giả mượn hình ảnh con muỗi vạch tội hút máu dân của lũ quan tham nhũng.
Hình ảnh này cũng được dùng để ám chỉ bọn bán nước, bọn quan lại triều đình nệm
ấm chăn êm mà chẳng đoái hoài sự nghèo khổ, cùng cực của đồng bào. Chúng dựa hơi
bọn thực dân, sung sướng mọi điều vậy mà còn đè đầu cưỡi cổ dân chúng lầm than,
không chừa người già con trẻ. Cuối bài, nhà thơ cũng nhắn nhủ cảnh cáo chúng sẽ có
ngày bị nhân dân, “lật ngược thế cờ”, trừng phạt không chút xót thương cũng như lũ
muỗi đáng ghét kia bị “cây xơ” quật đập chết:
68
Ngày kia gặp phải cây xơ quất
Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo.
(Con muỗi)
Với bài thơ “Hát bội”, Phan Văn Trị đã thẳng tay lột sạch lớp mặt nạ của những
kẻ bỏ tổ quốc chạy theo làm tay sai cho giặc:
Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi,
Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi.
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc,
Đứa nịnh râu hoe mấy sợi còi.
Trên trính có nhà còn lợp lọng,
Dưới sân không ngựa lại giơ roi.
Hèn chi chúng nói bội là bạc,
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
Hát bội còn gọi là hát bộ hay hát tuồng một loại hình văn nghệ cổ truyền từ lâu
đời của nước ta. Gọi là "hát bội" bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải
giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người. Hát bội là nghệ thuật mang
nặng tính ước lệ. Các diễn viên hát bội phân biệt từ mặt mũi, râu tóc, áo quần để rõ kẻ
trung nịnh, người sang hèn, ai thô lậu, thanh tú, ai minh chánh, gian tà. Sắc đỏ được
dùng dặm mặt để biểu hiện vai trung thần; màu xám là nịnh thần; màu đen là kẻ chân
thật; màu lục là hồn ma,... Phan Văn Trị đã liên tưởng ngay đến những kẻ tay sai bán
nước, chúng chỉ đang đeo những chiếc mặt nạ như phường hát bội. Cách chơi chữ rất
độc đáo thể hiện đúng bản chất của những kẻ nịnh thần triều Nguyễn “bội là bạc”.
Chúng bạc với nhân dân, bạc trước những cảnh tan thương mà chúng mang đến. Ông
đả kích tính chất bịp bợm, giả dối của bọn quan lại nhà Nguyễn cùng bọn tay sai cho
thực dân trên sân khấu chính trị bấy giờ.
Con mắt tinh đời, yêu nước thương dân của Phan Văn Trị nhìn đâu cũng thấy bọn
tay sai cho giặc. Từ con rận, con muỗi cho đến những sự vật tưởng như bình thường
đến vô tri vô giác, đối với ông cũng trở thành những kẻ dị hợm đáng bị vạch mặt kể
tội. Ở bài thơ “Ông Táo”, Phan Văn Trị mượn ông táo “lỏng khỏng cõng nồi da mốc
thếch” và “lum khum đội chảo mặt đen sì” để châm biếm bọn xu nịnh, đã bợ đỡ bọn
69
thống trị một cách vô liêm sĩ. Đối với ông, quan lại, tay sai nhà Nguyễn chỉ là những
ông táo vốn từ cục đất mà ra. Cục đất ấy “lỏng khỏng” cao mà không hề chắc chắn,
phải luồn cúi cõng trên vai bọn thực dân cướp nước với bộ mặt “mốc thếch”. Tất cả
những hành động và xuất thân của chúng thật không ra gì.
Vốn là đất cục phải là chi?
Ông táo danh xưng tự thuở ni.
Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích,
Lum khum đội chảo mặt đen sì
Cháy da với chủ đà ghe thuở.
Phỏng trán cùng dân đã mấy khi.
Sau trước họ hàng chưa rõ đặng
Ba đầu giụm lại giống đi gì?
Với hình thức ngụ ý, Phan Văn Trị đả rất trúng, đả rất đau bọn sâu mọt hại nước
hại dân. Con mắt tinh ý của ông đã nhìn ra chúng là bọn “không lòng” cả. Vì “không
lòng” nên con muỗi chỉ lo chuyện “béo miệng”, “cành hông” mà chẳng thương xót
đoái hoài chi đến dân chúng; từ già đến trẻ, từ lớn đến bé chúng đều không tha. Ông
táo bệ vệ xưng danh nhưng “vóc là đất cục phải là chi”, suốt đời rúc mặt vào chăn
“không lòng” như con rận đã đành, mà đến kẻ “ỷ lớn chân tay” như cua cũng “không
ruột, không gan”:
Ở đời có mấy mặt đi ngang,
Ỷ lớn chân tay có một chàng.
Lỏ mắt không phân người phải quấy,
Quơ càng chẳng lựa đứa ngay gian
Đưa mình theo nước hiềm không ruột,
Lột vỏ già đời chẳng thấy gan .
Gặp lúc tối trời thì kể chắc,
Nghe hơi động đất rút vào hang .
(Con cua)
Hình ảnh loài cua mà Phan Văn Trị nói đến đích thị là bọn tay sai, quan lại triều
Nguyễn. Loài cua ỷ mình có vỏ cứng lại không có ruột gan, lỏ mắt, quơ càng không kể
70
gì phải quấy. Con cá sống vì nước . Cua theo nước mà không vì nước, chúng “đưa
mình theo nước” nhưng lại “hiềm không ruột”, không có một chút tình gì đối với
nước. Nước là nơi chúng nó kiếm mồi. Chỗ nào có nước là chúng tính chuyện chia
chác mà không hề nghe nói đến chuyện đắp bồi. Cua hoành hành (đi ngang ), bá đạo.
Bọn tay sai hại nước cũng vậy, chúng ở trong đất nước nhưng không làm gì cho đất
nước, chỉ lo vơ vét cho bản thân. Đồng bọn với lũ cua còn có lũ còng, lũ rạm, lũ cáy.
Một lũ không có đầu cũng không có đuôi. Cua thích quơ càng, lỏ mắt mà không theo
trật tự nào. Nguyễn Khuyến nói:
Nhỏ mà không học, lớn làm ngang,
Trống đánh ba hồi, đã thấy quan.
Chính là nói lũ cua này chứ không ai.
Nhưng thế lực của loài cua không bền. Hoành hành chẳng được bao lâu lại đến
Kì lột vỏ. Cua lột mềm, làm mồi cho đồng loại. Nghe tiếng động chúng vội vã rút vào
hang một cách hèn nhát. Chúng nó có mắt mà không có tai. Kêu la đối với chúng nó
chẳng có tác dụng gì. Cua đặc biệt thích tối trời nhưng rất sợ sáng trăng. Những giống
sợ ánh sáng, núp vào bóng tối là những giống thường không lương thiện. Phan Văn Trị
nhìn thật thấu đáo tâm can và tính cách của bọn quan lại tay sai của triều Nguyễn với
hình ảnh con cua.
Đá cá thia thia là một thú chơi dân dã, quen thuộc của người dân Nam Kì được
Cử Trị đưa vào thơ với một dụng ý riêng. Nhìn cảnh đồng loại cắn xé lẫn nhau, ông
đau lòng mà thốt lên:
Đồng loại sao ngươi chẳng ngỡ ngàng,
Hay là một lứa phải nung gan!
Trương vi so đọ vài gang nước,
Đấu miệng hơn thua nửa tấc nhang...
(Đá cá thia thia )
Và rồi ông chỉ ra động cơ mà chúng đánh đá nhau:
Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu,
Vài tài, vì sắc mới kình nhau.
Chúng chống nhau một cách kịch liệt, không con nào chịu thua con nào:
71
Đua chen hai nước toan giành trước
Lừng lẫy đôi hơi chẳng chịu sau.
Chính sự ganh đua, chống chọi ấy làm cho mặt nước bị gợn lên từng đợt sóng.
Tác giả tinh tế mượn chuyện của cá để nói chuyện về nhân tình thế thái hiện tại. Ông
chỉ trích bọn quan lại của triều đình cũng như những con cá nhiều màu sắc kia chỉ
thích khoe mẽ, vì tranh giành quyền lợi lẫn nhau mà làm hại lây đến đồng bào, khiến
“ai ai cũng cúi đầu” ngao ngán trước những việc làm xấu xa mà bọn chúng đang làm.
Chuyện của cá cũng là chuyện của người cùng nòi giống, cùng dân tộc nhưng lại tàn
hại, chém giết, gây thù hằn lẫn nhau. Nhà thơ đã mượn hình ảnh cá thia thia để chỉ
trích bọn bán nước, bám gót thực dân, quay lại tàn sát, mưu hại đồng bào, tàn phá quê
hương xứ sở của mình để trục lợi cá nhân.
“Kiến hôi cắn kiến vàng” là một bài thơ khác đả kích bọn theo giặc bán nước.
Bầy kiến hôi chỉ quen “nhờ hơi nước đái” để chuyên làm hại những loài có lợi như
kiến vàng chẳng khác gì bọn bán nước dựa hơi thực dân làm hại dân lành. Kiến hôi là
một loài kiến có màu đen, rất hôi và chẳng có lợi ích gì. Kiến vàng thì có thân hình lớn
hơn kiến hôi, có lợi cho nhà vườn vì giúp cho cây sai trái hơn và cho trái rất ngọt. Nhà
thơ đả kích bọn theo giặc, dựa hơi thực dân hống hách, làm hại đồng bào. Bài thơ toát
lên thái độ khinh bỉ của tác giả với nụ cười mỉa mai không cần che đậy:
Kiến hôi bay hỡi dám to gan
Dụm miệng cùng nhau cắn kiến vàng
Cậy thế quen nhành nên lấn lướt
Nhờ hơi nước đái chớ khoe khoang
Đây còn thất thế rằng đây dại,
Đó ỷ đắc thời gọi đó ngoan
Sau đặng đeo hoa cùng giỡn trái
Đầu bay đái trả chớ than van.
Bọn kiến hôi chẳng qua chỉ nhờ cậy thế quen nhành nên mới dám chụm miệng
chùng nhau cắn kiến vàng một cách đắc ý. Nhưng hãy đợi đấy, chẳng qua là đang lúc
thất thế nên kiến vàng mới chịu đựng, đợi đến mai này khi thời thế thay đổi, khi đeo
72
hoa giỡn trái thì nhất định bọn kiến hôi ấy sẽ phải than van. Sự thất thế của “kiến
vàng” chỉ là tạm thời. Đến một lúc nào đó, kiến vàng sẽ “đeo hoa giỡn trái”:
Đây còn thất thế rằng đây dại
Đó ỷ đắc thời gọi đó ngoan
Sau đặng đeo hoa cùng giỡn trái
Đầu bay đái trả chớ than van!
Cử Trị có niềm tin dân tộc ta sẽ đánh đuổi hết quân xâm lược. Lời ngụ ý của nhà
thơ qua bài thơ hết sức rõ ràng, ông nhắn nhủ bọn quan bán nước chớ có vênh váo, đến
khi thất thế cũng sẽ chung cảnh ngộ như lũ kiến hôi ấy mà thôi. Với giọng thơ châm
biếm mỉa mai sâu sắc, ông thẳng tay vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của bọn chúng.
Những vần thơ hừng hực tính chiến đấu của Phan Văn Trị đã là những “cành xơ
quất”, quật rất trúng, quật rất đau bọn quan lại thời bấy giờ. Đó là giá trị đương thời và
cũng là giá trị vĩnh cữu của thơ ca Cử Trị.
Phan Văn Trị tránh chốn quan trường lần thứ nhất khi vừa đổ cử nhân và lần thứ
hai là lúc ông là một trong những người khởi xướng phong trào “tị địa” tránh sống
chung với “lũ quỹ trắng” thực dân Pháp. Cả hai lần ấy càng chứng tỏ cái phương châm
xử thế mà ông tuân theo suốt cuộc đời mình:
Kẻ vạy người ngay há một phồn.
( Bài họa 5)
Ông tránh chốn xấu xa nhơ nhớp, nhưng không trốn đời. Trái lại những sự biến
của cuộc đời, thăng trầm của đất nước ông đều theo sát.
Có lẽ, cả cuộc đời Phan Văn Trị, người mà ông căm giận và “ghét cay, ghét
đắng” chính là đốc phủ sứ Tôn Thọ Tường. Pháp dùng Tôn Thọ Tường để chiêu dụ
những sĩ phu yêu nước. Ngoài cuộc bút chiến nổi tiếng trên văn đàn giữa Phan Văn Trị
và Tôn Thọ Tường với 10 bài thơ Tự thuật, ông “chửi xối xả” tên “mãi quốc cầu vinh”
này. Cuộc xướng họa thi ca giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị đã tạo nên trận bút
chiến nẩy lửa độc nhất vô nhị, làm dậy sóng văn đàn Nam Kì trong nửa sau thế kỷ
XIX. Mảng thơ trào phúng với tính chất châm biếm, mỉa mai, đả kích ông chửi khéo
bọn việt gian theo Pháp - trước hết nhắm vào Tôn Thọ Tường cũng như bọn tham quan
ô lại ở trong vùng.
73
Có một phương châm xử thế mà Phan Văn Trị đã tuân thủ suốt cuộc đời mình
một cách chặt chẽ. Ấy là phương châm “ngay vạy nẻ ra cho biết mực”. Với ông phải
trái, ngay gian, người yêu nước, kẻ bán nước không thể lẫn lộn được. Cái phương
châm xử thế này đã khiến ông tránh chốn quan trường. Cái phương châm xử thế này
cũng đã dẫn ông đến cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, kẻ đã đang tâm theo giặc, lại
“khua môi múa mỏ” về lòng yêu nước, nghĩa đồng bào. Bút chiến với Tôn là để vạch
ra “kẻ vạy”, “người ngay”. Ở đây ngòi bút Phan Văn Trị đã làm trọn sứ mệnh vẻ vang
“đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.(Nguyễn Đình Chiểu)
Tôn Thọ Tường là một tên bồi bút tay sai đắc lực cho bọn xâm lược. Tôn Thọ
Tường đã múa mép, khua môi, khoe khoang công nghệ chiến tranh hiện đại của giặc
Pháp như súng trường bắn nhanh, đại bác, tàu chạy bằng hơi nước, khinh khí cầu; và
giải thích rằng lực lượng quân sự của ta lạc hậu, tinh thần dân ta kém cỏi không tài nào
địch nổi quân Pháp. Khác với nhiều kẻ bán nước đương thời, Tôn là người nhiều chữ.
Và y đã dùng vốn chữ nghĩa đó nhằm ngụy biện cho hành động bán nước của mình.
Tường chọn con đường ra đầu hàng, hợp tác với giặc Pháp, sau làm đến đốc phủ sứ
nhưng đã phải trả một cái giá đắt, từ được người ta hâm mộ về thơ văn y trở thành mục
tiêu lên án và bị khinh rẻ của đồng học và đồng bào. Tường bắt buộc làm thơ để tự
thanh minh. Tường làm hai bài thơ Từ thứ quy Tào và Tôn phu nhân quy Thục.ngụ ý
việc mình theo pháp là chuyện cực chẳng đã (bất đắc dĩ), là quyền biến v.v… Sau đó,
Tường lại “cho ra” một lúc 10 bài Tự thuật cũng để tự chống đỡ trước búa rìu dư luận.
Theo Tôn Thọ Tường việc y theo giặc cũng như Tôn phu nhân quy Thục mà thôi,
đó chẳng qua là chuyện tự nhiên và tất nhiên như thế:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
(Tôn phu nhân quy Thục)
Phan Văn Trị đã thẳng thắn phản bác điều này:
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
(Họa Tôn phu nhân quy Thục)
Phan Văn Trị khẳng định tiêu chuẩn trước tiên và cũng là căn bản nhất để phân
biệt chính tà, ngay gian là ở chỗ dám hay không dám đứng về phía những người yeu
nước. chống Pháp là hành vi đồng nghĩa với cương thường, với đạo nghĩa, với lí tưởng
74
của kẻ sĩ khi vận nước lâm nguy. Sử sách hiện vẫn còn đầy đủ 10 bài Tự thuật của Tôn
Thọ Tường song song có 10 bài “họa” của Phan Văn Trị. Thật là một cuộc giao tranh
lý thú, về mặt văn chương, công bằng mà nói thì tài sức ngang nhau. Nhưng Tường ở
phía phi nghĩa, còn Phan Văn Trị hơn hẳn đối phương do sức mạnh lòng dân gom lại.
Tôn Thọ Tường giở trò gì thì Phan Văn Trị bẻ ngay trò đó, Tường ngụy biện bao nhiêu
thì Phan vạch rõ bấy nhiêu. Bao nhiêu lí lẽ ngụy biện của tên Việt gian Tôn Thọ
Tường đều bị Phan Văn Trị sạch sành sanh phá hủy.
Tôn Thọ Tường hù dọa:
Xăng văng thầm tính thương đòi chỗ
Khấp khởi riêng lo sợ những ngày.
(Bài 1)
Phan Văn Trị đập lại:
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Tường lên mặt dạy đời:
Thày lay lại muốn chuốc danh nhơ
Ai mượn mình lo việc bá vơ
Trẻ dại giếng sâu lòng chẳng nỡ
Đàng xa ngày tối buổi không chờ.
(Bài 2)
Phan Văn Trị bác bỏ và mắng thẳng:
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mảng lo danh chẳng chói
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Đồng thời đanh thép khẳng định:
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây. (Bài họa 10)
Tôn Thọ Tường ra vẻ người khôn ngoan, hiểu biết, thương hại kẻ ngây thơ, khờ
dại:
75
Miệng cọp, hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay
Thì bị Phan Văn Trị vạch trần bộ mặt cơ hội, xảo quyệt của y:
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay.
Tôn Thọ Tường lẩn tránh trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho thời thế:
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng
Liền bị Phan Văn Trị quật lại:
Gió xẫng mới hay cây cỏ cứng
Dõi theo người trước giữ năm hằng
Gần như không có luận điệu nào của Tường nêu ra mà không bị đánh cho tơi bời.
Dưới ngòi bút của Phan Văn Trị, chân tướng của Tôn Thọ Tường dần dần lộ nguyên
hình là kẻ “vạy”, chớ không phải người “ngay”. Đó là kẻ:
Đáy giếng trông trời trương mắt ếch
Làm người như vậy cũng rằng là
Hoặc:
Đứa dại trót già đời cũng dại
Lựa là tuổi mới một đôi mươi.
Nhưng có lẽ cái “vạy” nhất ở Tường là bán nước, là kẻ lỗi đạo hằng, không kể gì
đến liêm sĩ của một nhà nho, mà rộng hơn là nhân cách một con người. Phận nữ nhi
chỉ biết “cài trâm, sửa tráp” như Tôn phu nhân mà còn biết “vẹn câu tòng”. Ấy thế mà
một người nhiều chữ như Tôn lại quên mất đạo lí:
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
Cái lòng phản trắc với nước non ấy mãi mãi Tôn Thọ Tường và những kẻ như y
không bao giờ thanh minh được, không bao giờ biện hộ được. Phan Văn Trị còn nhắn
cho y biết rằng non sông thu lại thì cái mạng bán nước của những kẻ như y cũng
không còn:
Ba cõi mai đầu in lại cũ
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
76
Bút lực của Phan Văn Trị là bút lực của một tấm lòng ngay, của một tâm hồn
luôn luôn đau đáu nỗi nước nhà. Dưới ngòi bút ấy bao nhiêu “xiêm áo” đẹp đẽ của lũ
bán nước như Tôn Thọ Tường đã “trơ mòi” trước công luận và lịch sử.
Cuộc bút chiến bằng thơ này đã thu hút được các nhà thơ yêu nước ở Nam Kì
như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt,... tham gia, dấy lên một phong trào chống
những kẻ theo Pháp trong thơ văn quyết liệt, sôi nổi ở Nam Kì. Cuộc bút chiến do
Phan Văn Trị khởi xướng còn kéo dài tới mấy chục năm sau, khi Tôn Thọ Tường đã
chết, vì còn có nhiều tên "Tôn Thọ Tường" khác theo giặc. Phan Văn Trị, với tinh thần
yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhà thơ đã không chiến đấu cô đơn
trên mặt trận văn chương, mà luôn được sự hỗ trợ tán dương bởi nhân dân, sĩ phu,
nghĩa sĩ và văn nghệ sĩ khác trong đó phải kể đến sự hổ trợ đắc lực của Huỳnh Mẫn
Đạt (1807-1882).
Có thể khẳng định rằng Huỳnh Mẫn Đạt là một trong những cây bút chiến đấu
trong hàng ngũ những nhà thơ yêu nước Nam Kì thời kì đầu kháng chiến chống Pháp
của dân tộc góp phần vào cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường một
cách tích cực. Qua đó chúng ta thấy được thái độ khinh bỉ, căm ghét bọn tay sai của
thực dân của ông. Huỳnh Mẫn Đạt hòa mình và đứng về phía nhân dân chống lại kẻ
thù, thà chết chứ không chịu hàng. Nhân cách đáng quý của một vị quan thanh liêm,
chính trực của ông được người đời truyền tụng. Lúc giặc pháp thâu tóm hết Nam Kì,
ông cáo quan an phận dưỡng nhàn, xa lánh chốn quan trường, kiên quyết không chịu
làm tay sai cho giặc. Tôn Thọ Tường rất kính trọng nhân cách ấy của ông.
Tương truyền lúc về ở ẩn, có lần Huỳnh Mẫn Đạt từ Rạch Giá lên Sài Gòn chơi,
đang lúc trời chiều thơ thẩn trước toà Đô chính nghe lính Pháp trỗi nhạc binh thì chợt
thấy Tôn Thọ Tường lúc này đã làm đốc phủ sứ, dừng xe song mã bên đường đi đến
phía ông. Nhìn thấy xe của Tường, ông có ý muốn tránh, đứng núp bên gốc cây, kéo
nón úp vào mặt, nhưng Tôn Thọ Tường đã nhìn thấy và liền dừng xe, nhảy xuống bắt
tay chào Huỳnh Mẫn Đạt tỏ vẻ mừng rỡ. Ngược lại với thái độ đó, Huỳnh Mẫn Đạt lại
thản nhiên, không chút mặn nồng gì với tên tay sai đã hợp tác với giặc. Trong hoàn
cảnh khó nói khó vui đó, ông đã đọc một bài thơ hàm ý mỉa mai họ Tôn:
77
Cừu mã năm ba dạo cặp kè
Duyên sao giải cấu khéo đè ne.
Đã cam bít mặt cùng trời đất,
Đâu dám nghiêng mình với ngựa xe!
Hớn hở, trẻ dong đường dặm liễu,
Thẫn thờ, già náu cội cây hoè.
Núp nom cũng hổ, chào thêm hổ,
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe...
Tôn Thọ Tường nghe xong, nét mặt ngượng ngùng, nhất là mấy câu cuối, tỏ ra
khó chịu và trách Huỳnh Mẫn Đạt chơi xỏ mình. Mặc dù bực tức trước thái độ xỏ xiên
của Huỳnh Mẫn Đạt nhưng Tôn Thọ Tường vẫn cố làm ra bộ vui vẻ, thân thiết. Hắn
cũng làm một bài thơ họa lại, hàm ý phân trần, biện minh cho hành động làm tay sai
của mình, ý nói thế cục đổi thay, đi xe ngựa nghênh ngang thế này mà có sung sướng
gì đâu; cũng vì nhạc Tây thổi mạnh, thế Tây đương lớn, đành phải theo chiều, nhưng
lòng riêng vẫn nhớ điệu nhạc cũ.
Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu
Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều
Thế cuộc đổi dời đà lắm lắm
Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều
Non nước dường ấy tình dường ấy
Xe ngựa bao nhiêu bụi bấy nhiêu.
Giọng thơ của Tường như tỏ vẻ đau khổ, chua chát. Tuy nhiên, biết Tường có ý
bào chữa cho mình, Huỳnh Mẫn Đạt đọc tiếp một bài thơ nữa, vẫn ý thơ cũ nhưng đã
diễn tả thâm thúy hơn, sâu sắc hơn bằng những câu thơ trùng điệp ý và lời, chê bai và
chửi mắng thẳng thừng tên tay sai bán nước:
Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe.
Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve!
Hớn hở trẻ giong qua dặm liễu
Thẩn thơ già núp cội cây hòe.
Đã cam giấu mặt cùng non nước
78
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe
Chớ nói đổi dời sao cốt cách
Xưa nay nát giỏ hãy còn tre
Huỳnh Mẫn Đạt cốt cho Tôn Thọ Tường biết một truyền thống xưa nay của nhân
dân ta: giấy rách sao không giữ lề, giỏ kia dẫu nát cũng phải còn lại được cái khung
tre. Biết không thể đấu lại với Huỳnh Mẫn Đạt, Tôn Thọ Tường đành ra về với thái độ
bất bình oán trách.
Trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, dù chưa mạnh mẽ và quyết liệt như
Phan Văn Trị nhưng những bài thơ của Huỳnh Mẫn Đạt có nhiều ý sâu sắc khẳng định
tấm lòng và thái độ khinh miệt rõ nét:
Mới vừa bụng núi dấu thêm voi,
Kìa phải mưa đêm đã lố mòi.
Mượn sấm đánh tan vầng nguyệt rạng,
Xua sương tưới sống cụm hoa còi.
(Mưa đêm)
Khinh ghét lũ tay sai cho giặc bao nhiêu, Huỳnh Mẫn Đạt càng thêm yêu quý,
kính nể những người anh hùng dám xả thân vì nước, vì dân bấy nhiêu. Đau xót trước
cái chết của người anh hùng Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Mẫn Đạt làm bài thơ điếu
bằng chữ Hán với lời thơ thống thiết, chạm đến lòng người, cỗ vũ mạnh mẽ tinh thần
yêu nước chống Pháp của nhân dân khiến cho những bọn tay sai, sống cúi đầu phải hổ
thẹn.
Thắng bại chi bàn việc tướng quân
Người chài trụ đá khúc gian truân
Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
Đôi đường trọn chữ báo quân thân
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.
(Điếu Nguyễn Trung Trực)
79
Tuy người anh hùng mà ông yêu kính không còn nhưng khí phách hiên ngang,
bất khuất khí tiết trung nghĩa, kiên cường của Nguyễn Trung Trực vẫn còn vang mãi.
Hai câu thơ của Huỳnh Mẫn Đạt dành cho người anh hùng này cũng mãi mãi lưu
truyền, khẳng định truyền thống yêu nước của nhân dân Nam Kì trong cuộc chiến đấu
chống cả thù trong và giặc ngoài.
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỷ thần.
Nếu Phan Văn Trị và Huỳnh Mẫn Đạt nổi tiếng là hai trong các nhà thơ tiết tháo,
mạnh mẽ, giàu chất luận chiến thì Học Lạc lại được biết đến là một nhà thơ trào phúng
bình dân nhưng thâm thúy vô cùng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân: “Bấy
giờ thực dân Pháp đã chiếm đóng Nam Kì, một số người ra làm tay sai cho Pháp, lập
những "hội tề" áp bức bốc lột nhân dân. Học Lạc ghét bọn chúng nên đã làm nhiều
bài thơ châm biếm rất sâu hiểm như "Con trâu", "Con tôm", "Chó chết trôi", "Ông
làng hát bội"......
Thơ trào phúng, châm biếm bọn xâm lược và bọn chức dịch, tay sai bán nước
hãnh tiến của Học Lạc được viết ra và đọc lên một cách tự nhiên “như chơi” nhưng
khiến kẻ có tật biết, ngấm đòn đau rất tức giận mà không làm gì được. Ông viết bài thơ
“Con tôm”, khi đọc lên đúng là con tôm thật,vậy mà ngẫm thêm ai cũng biết là ông
đang chỉ trích sâu cay bọn người nào. Đó là bọn tay sai của giặc, dù không phải vương
công cao quý nhưng cũng học đòi ra vẻ giỏi giang oai vệ, khoe khoang rằng ta đây
cũng dòng trâm anh thế phiệt mà không hề hay biết rằng trên đầu chúng chẳng có gì
ngoài “cứt”.
Chẳng phải vương công chẳng phải hầu
Cũng đòi đái kiếm lại mang râu
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.
Trong văn học thành văn, con chó cũng đã góp mặt rất sớm qua bài thơ “Vô đề”,
mở đầu Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, tác phẩm bình minh trong nền thi ca Việt
Nam:
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
80
Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn
Thời thế đổi thay, thân phận con chó cũng đổi thay. Con chó trong thơ Học Lạc
biểu tượng cho những kẻ biến mình thành tên phản phúc, tay sai cho giặc. Cho dù sống
có “vinh quang” mấy, nhưng một khi đã biến mình thành tội ác, khi thác đi vẫn còn là
tội ác. Tiếng nhơ lúc sống làm sao, lúc chết cũng mãi mãi mang theo như vậy:
Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện xác còn phơi lửng dửng
Thúi tha danh hãy nổi lều bều.
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,
Đưa đón lao xao lũ quạ diều.
Một trận gió dồn cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.
(Chó chết trôi )
Thảm cảnh một xác chó, dưới một góc độ nào đó, cũng chính là thân phận những
kẻ đã làm điều phản phúc. Trong tiếng Việt, chó là lời nguyền rủa nặng nề.
Con trâu xuất hiện trong thơ Học Lạc mang một ý nghĩa khác, đó chính là bọn
cường hào, bọn hội tề. Bài thơ “Con trâu” góp phần rất mạnh mẽ trong việc chống đối
và đả kích bọn cường quyền áp bức, tham lam.
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Gẫm lại mà xem thật lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém đém một chòm râu
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông nhớt nhác sầu,
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đờn khảy biết nghe đâu.
(Con trâu)
Học Lạc dùng điển tích “mắc mưu đốt đít” của Trung Quốc: Điền Đan là tướng
nhà Tề đã dùng “hỏa ngưu trận” để đánh nước Yên, đeo gươm vào sừng, buộc cỏ khô
81
vào đuôi trâu rồi đốt. Trâu bị nóng, lồng lộn xông vào trận chém, húc điên cuồng. Ông
cho rằng bọn tay sai của triều Nguyễn cũng bị Pháp dùng mưu như vậy mà không hề
hay biết. Chúng chỉ được cái vẻ bề ngoài cao to nhưng “trong bụng lam nham ba lá
sách”, chẳng có cái nghĩa khí của người quân tử.
Học Lạc ghét bọn người ra làm tay sai cho Pháp, lập những "hội tề" áp bức bóc
lột nhân dân nên ông đã làm nhiều bài thơ châm biếm rất sâu hiểm. “Ông làng hát
bội” là một bài thơ rất xuất sắc của ông dùng châm biếm bọn hội tề ấy:
Chi chi trong khám sắp ngang hàng
Nghĩ lại thì ra các bợm làng
Trong bụng trống trơn mang cổ giữa,
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang
Vào buồng gọi tổ châu đầu lạy,
Ra rạp rằng con nịt nách mang
Dám hỏi hàm ân người lớp trước,
Hay là một lũ những quân hoang?
Ông làng là những tượng nhỏ được thờ với các vị tổ trong những gánh hát bội
ngày xưa. Ngày xưa, các gánh hát bội đều có bàn thờ tổ đặt ở sau sân khấu. Trên bàn
thờ tổ có một tráp gỗ son son đỏ, có cửa mở đóng, bên trong có mười tượng gỗ nhỏ,
đầu bịt khăn đỏ, mình mặc áo lục là tượng các vị tổ của nghề hát bội. Trước mười
tượng này lại có hai tượng khác cũng khăn áo như vậy nhưng đứng hai bên chiếc ngai,
đó là hai ông làng hát bội. Trong bài thơ của Học Lạc, ông làng ngụ ý chỉ đám quan
chức kiêu ngạo, hống hách ở trong làng. Ông tỏ rõ sự khinh bỉ khi gọi chúng là “các
bợm làng”, những kẻ chỉ sành sỏi về những trò ăn chơi hoặc kẻ chuyên lừa bịp, “là
một lũ những quân hoang”. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ đã lộ rõ sự bất tài, vô dụng
của những kẻ có chức có quyền trong làng. Mang tiếng là quan phò trợ, giúp đỡ nhân
dân nhưng chúng chỉ chuyên làm hại dân, tham lam, vơ vét của dân. Học Lạc đả kích
mạnh mẽ mà không hề né tránh.
Thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì đánh không khoan nhượng vào thực dân
và bè lũ tay sai của chúng. Trong cảnh “nước mất nhà tan”, thơ của họ không đơn
thuần là thơ miêu tả, thể hiện cảm xúc mà nó mang tính chiến đấu một cách kiên
82
cường. Điểm nổi bật trong thơ của các nhà thơ là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước
thương dân, không chịu khuất phục trước kẻ thù bán nước, làm tay sai cho giặc. Tiếng
cười chê trong thơ họ "nhẹ như bấc mà nặng như chì", như búa tạ giáng xuống uy
quyền của bọn vua quan tay sai của thực dân. Tiếng cười trong chính nghĩa không phải
chỉ là khí giới của kẻ yếu để đương đầu với đối phương lớn mạnh hơn mình, mà còn là
một trợ lực, một vũ khí văn hóa có khi mạnh hơn mọi sức mạnh vật chất.
2.1.3. Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội
Theo bước chân của đạo quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa
cũng tràn vào nước ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định hình cả
ngàn năm. Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung lay dữ dội. Nhiều
giá trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí thống soái, chi phối toàn bộ cuộc
sống của con người. Chính vì thế mới có những cảnh cười ra nước mắt trước nỗi nhục
nô lệ.
Từ xưa đến nay, văn chương trào phúng luôn là tiếng nói, là loại vũ khí lợị hại
của nhân dân lao động, những người được coi là “thấp cổ, bé họng” nhằm đả kích vào
những thói hư tật xấu, loại người đạo đức giả, kệch cỡm, khoe mẽ theo kiểu “trưởng
giả học làm sang” hay những phán quyết tréo ngoe của những tên quan lại, những
người có chức có quyền,… khiến dư luận bất bình, lòng dân oán hận. Văn chương trào
phúng bao giờ cũng mang tính chất phê phán rõ rệt, là vũ khí của kẻ yếu chống kẻ
mạnh, người ngay chống kẻ gian, biểu lộ khí phách của những con người “phục thiện
tiễu gian”. Không đâu như ở thể loại văn chương này tính chiến đấu vừa cao, vừa vô
cùng sắc bén, tấn công vào mọi tệ nạn xã hội, sự bất công, áp bức bóc lột người dân…
Như một mạch nước ngầm thường xuyên tuôn chảy trong đời sống của người dân
lao động không bao giờ ngưng nghỉ, văn chương trào phúng khi có điều kiện, nhất là
trong những lúc giao thời của lịch sử, tranh tối, tranh sáng, đời sống xã hội luật không
ra luật, mà lệ cũng chẳng thành lệ, ấy là khi thể loại văn chương này có đất để phát
triển. Xã hội Nam Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chính là mảnh đất màu mỡ cho
văn thơ trào phúng cất cao tiếng cười phê phán. Tiếng cười đả kích những thòi hư tật
xấu mà các nhà thơ trào phúng Nam Kì mang đến thật mới mẻ nhưng cũng vô cùng
sâu sắc, cái xấu, cái rởm đời, cần phải loại bỏ ra khỏi xã hội.
83
Nhân dân Nam Kì thường truyền miệng nhau để nhắc nhở:
Chớ tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò lang sa!
để trách mắng những kẻ vì đồng tiền bẩn thỉu của giặc mà trở thành kẻ phản
nước, hại dân, bất hiếu, bất trung. Nhân dân còn chế giễu và lên án những tên quan sâu
mọt sợ giặc:
Khi bình làm hại dân ta
Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì
Đến khi hoạn nạn lâm nguy
Mặt trông ngơ ngác chân đi gập ghềnh.
Những thói hư tật xấu của con người tồn tại thường trực trong đời sống. Và các
nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh đã dùng tiếng cười trào phúng của mình để lên án, phê phán
những người mang những thói xấu ấy. Học Lạc và Nhiêu Tâm là những nhà thơ tiêu
biểu cho bộ phận thơ ca này. Tuy số lượng thơ để lại không nhiều nhưng thơ ca trào
phúng về lĩnh vực này của hai nhà thơ rất quen thuộc và lưu truyền rộng rãi trong đời
sống nhân dân vùng Lục Tỉnh.
Học Lạc và Nhiêu Tâm đã sống và cất lên tiếng cười có giá trị phản ánh hiện
thực đời sống xã hội buổi giao thời lúc bấy giờ, đồng thời qua đó cũng bộc lộ tư tưởng,
tình cảm của nhân dân Nam Kì trước và sau khi bị thực dân xâm lược. Cùng với Phan
Văn Trị và Huỳnh Mẫn Đạt, thơ trào phúng của các nhà thơ này góp phần đáng kể vào
văn thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh ở mảng thơ phê phán, chế giễu những thói hư tật
xấu của xã hội. Thơ trào phúng của họ đã trở thành thứ vũ khí lợi hại nhắm thẳng vào
cái xấu, làm cho cái tốt có mảnh đất màu mỡ để phát triển.
Trong lòng nhân dân, Học Lạc là một người thầy giáo và thầy thuốc gương mẫu,
khiêm tốn và chân thành. Đối với ai ông cũng vui vẻ, hòa nhã, thân mật. Chỉ đối với
những kẻ dốt nát, bất tài mà tỏ ra ngạo mạn, tự phụ, kiêu căng thì ông mới khinh
thường và căm ghét ra mặt. Nhiều kẻ quyền quý giàu có vì tính cách này mà không
thích ông, tìm cách nói xấu và làm hại ông. Cuộc sống và cá tính của Học Lạc ảnh
hưởng rõ rệt đến thơ ca của ông. Thơ trào phúng luôn luôn được bắt nguồn từ đời sống
thực tế. Bất cứ sự việc gì, ở đâu, Học Lạc cũng cho thấy một cảm quan nhạy bén và
84
tinh tế. Vốn là người nghèo khổ trong xã hội, căm ghét áp bức bóc lột và bất công, nay
đất nước lại đang bị cơn lửa khói đến từ phương Tây, nên gặp phải những cảnh
chướng tai gai mắt và lố lăng trong xã hội, Học Lạc phản ứng rất quyết liệt. Sự chân
chất trong ứng xử rất Nam Kì ấy cũng chính là thứ vũ khí đắc lực của nhà thơ trong
cuộc chiến chống lại những thói hư tật xấu trong xã hội, đang được tiếp tay bởi một
lực lượng vô cùng hùng hậu là thực dân Pháp. Thơ ca của Học Lạc mang tiếng cười
mỉa mai, châm biếm và thông qua đó thể hiện cái nhìn đối kháng gay gắt.
Cũng như những nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh khác, Học Lạc vốn căm ghét những
kẻ gọi là vương công, vương hầu, ỷ thế ỷ quyền mà hiếp đáp dân lành. Ông căm phẫn
trước thái độ hống hách đến lố bịch, huênh hoang tự đắc không kể xiết của chúng.
Trong mắt ông, đó là những kẻ xu thời, phụ thế trong buổi thực dân xâm chiếm nước
ta. Bài thơ “Con tôm” của Học Lạc đã mỉa mai những kẻ tự xưng mình là vương tôn,
công hầu nhưng hữu danh vô thực, nhân cách thấp hèn. Giọng thơ trào phúng của ông
nhẹ nhàng mà thật sâu cay vô cùng:
Chẳng phải vương công chẳng phải hầu
Học đòi đái kiếm lại mang râu
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.
Miêu tả con tôm mắt đỏ bơi lội giữa dòng sông mênh mông xanh biếc, đôi càng
và bộ râu oai phong nhưng không biết trên đầu mình chứa tồn chất bã. Có thể nói, câu
thơ cuối là sự thể hiện đặc sắc nhất. Vì tác giả đã phơi bày "trí tuệ" của những kẻ hám
danh hám tài, dựa quyền ỷ thế hà hiếp dân lành. Những người bất tài nhưng lại giữ
quyền cao chức trọng. Tuy Học Lạc làm bài thơ này ở thế kỷ trước nhưng có thể nói,
đến nay khi đọc lại vẫn thấy giá trị của nó, dè bỉu và chê bai bọn hội tề thời phong
kiến nhưng thế hệ người đọc ngày nay vẫn hình dung và nhìn thấy đâu đó những kẻ
khóac lác, kém tài năng thường hay hợm mình trong xã hội. Trong thời đại nào cũng
có những kẻ mang thói xấu như vậy, chúng chỉ là những con tôm mà thôi.
Vì biết Học Lạc là người hay văn tốt chữ nên trong làng xã mọi người cử ông giữ
chức hương văn. Chuyện kể rằng, ngày xưa trong dân gian Nam Kì thường có tục cúng
xôi. Hàng năm, đến ngày Kì yên, các chức sắc trong làng mỗi người phải mang đến
85
đình làng một mâm xôi để tế thần. Tập tục này ngày nay một số vùng nông thôn ở
miền Nam vẫn còn giữ. Học Lạc từng nằm trong ngạch học sinh của triều đình nhà
Nguyễn trước đó nên đối với làng, ông cũng là một chức sắc. Vì vậy, ông phải tuân
theo lệ làng. Năm đó, Học Lạc cũng đội mâm xôi đến đình làng cúng như mọi năm.
Nhưng vì hay ngạo đời, mâm xôi của Học Lạc đem ra đình cúng thần linh chỉ ghi hai
chữ “Thằng Lạc” có ý phân biệt với mâm xôi của người khác thay vì phải ghi chức
sắc và họ tên. Thấy vậy, mọi người phật ý, cho rằng ông có vẻ ngỗ ngược, không tôn
trọng người khác. Trong làng lại có nhiều người vai trên chức tước, họ đã lấy cớ đó
quở trách Học Lạc. Họ ghép tội Học Lạc xấc xược, dám giễu cợt thánh thần, khinh khi
hương chức. Xong lễ Kì yên, họ bắt ông phải xin lỗi các hương chức. Lúc ra về, ông
đọc bài thơ ấy cho một vài người trong làng nghe, ai nấy đều tức cười và cảm thông
cho ông.
Vành mâm xôi, đề "thằng Lạc"
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương chẳng phải bợm mèo quàu
Danh lợi không ra cái cóc rác,
Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc ngạo cô bác,
Việc này dẫu có thấu lòng chăng,
Trong thời ông thần, ngoài cặp hạc.
(Tạ hương đảng)
Nhắc đến Học Lạc, người đời thường nhắc cả bài thơ này và ý nghĩa của nó.
Nhưng trước sự quở phạt của các hương chức, Học Lạc nghĩ mình chẳng có lỗi gì cả.
Bởi, ông luôn xếp mình vào hàng dân dã nên trên mâm xôi cúng thần không xưng
danh tánh long trọng. Hai câu cuối có ý khinh bỉ bọn hội tề dốt nát không hiểu ý của
mình, nếu có cũng chỉ là ông thần và đôi hạc đề thờ. Thần linh nào lại quở trách người
ngay thẳng, trung thực. Có chăng chỉ là những kẻ nịnh thần thích dựa vào thế giới linh
thiêng để sinh sự và ức hiếp người dân.
Tương truyền một hôm đi bắt mạch cho một người bệnh ở xa, lúc trở về trời đã
tối mịt. Học Lạc lỡ đường nên vào một quán cơm bên đường. Biết ông là người thông
86
minh, hay chữ nên chủ quán nhờ ông viết một câu liễn để dán trước cửa. Học Lạc vui
vẻ nhận lời và viết:
Mạc vị quán trung vô Phiến mẫu
Chỉ hiềm lộ thượng thiểu vương tôn
Nghĩa là:
Chớ cho rằng trong quán không có Phiến mẫu
Chỉ sợ là trên đường ít vương tôn.
Học Lạc muốn mượn tích Hàn Tín lúc trẻ chịu ơn Phiến mẫu để nói lên lòng biết
ơn của mình đối với những người đã giúp đỡ mình trong lúc khó khăn, hoạn nạn.
Đối với nhân dân bao giờ Học Lạc cũng vui vẻ chân thành và cởi mở như thế.
Nhưng đối với đám quan chức kiêu ngạo và hống hách trong làng ông luôn tỏ rõ sự bất
bình, căm ghét và luôn tìm cơ hội để đả kích chúng. Nhân có chuyện các gánh hát bội
thường thờ một ông tổ gọi là ông làng, Học Lạc đã làm bài thơ “Ông làng hát bội”
ngụ ý ám chỉ những ông hương chức của làng bất tài, vô học nhưng lại hống hách ức
hiếp dân chúng:
Chi chi trong khám sắp ngang hàng
Nghĩ lại thì ra các bợm làng
Trong bụng trống trơn mang cổ giữa
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.
Những kẻ đứng đầu làng xã, Học Lạc chỉ xem chúng là “bợm làng” vì những
việc làm xấu xa của chúng với nhân dân.
Hình ảnh con trâu rất quen thuộc bên luống cày, trên đồng ruộng đi vào trong thơ
trào phúng của Học Lạc mang một ý nghĩa khác thật thâm thúy, đó chính là bọn cường
hào, hương chức, những kẻ “lớn đầu”, trong bụng chỉ lem nhem vài ba chữ nghĩa và
già đời chỉ biết nghé ngọ. Hình ảnh con trâu vốn dùng để chỉ những người cần cù, chất
phác, chịu thương chịu khó nhưng đến với thơ của Học Lạc, chúng như bọn tay sai,
quan lại của giặc chỉ có sức mạnh mà không có trí óc, dễ bị người khác sai khiến làm
điều khuynh hại:
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
87
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.
(Con trâu)
Trong bài thơ “Tức cảnh ban chiều” ở những câu thơ đầu chỉ là cảnh trời chiều,
nhưng đến đoạn cuối thì ý đồ của tác giả đã khác. Ông đã mượn hình ảnh của trẻ con
để ám chỉ và mỉa mai những kẻ lợi dụng thời cuộc ra tay áp bức dân lành, đứa làm
tướng, kẻ làm yêu. Ông nhìn đâu cũng thấy bóng quân thù, giặc ngoại xâm. Giặc giã ở
đây còn là nạn áp bức bóc lột, hình ảnh của bọn cường hào.
Ngó ra ngoài ngõ gió hiu hiu,
Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều
Hăm hở trẻ con đua múa hát
Đứa thì làm tướng đứa làm yêu.
Ngoài những bài thơ châm biếm chung chung cho tất cả các hạng người trong xã
hội, chúng ta còn có những vần thơ trào phúng khác của Học Lạc đả kích những thói
hư tật xấu của những tên quan lại được ông nêu đích danh . Ông đã nêu thẳng tên tuổi,
danh phận của bọn chúng ra để mà cười. Đó là tên quan thượng thư Nguyễn Kim Trì
“khôn khéo không ai dám sánh bì”. Ông ta chính là một kẻ hà tiện và tham ô khét
tiếng. Dù ông đã giữ đến chức đại thần như thế, nhưng hàng ngày vẫn bắt vợ con làm
bánh mang ra chợ bán. Không những vậy, ông Nguyễn Kim Trì còn bắt lính trồng trầu
ở trong dinh tổng đốc của mình để kiếm huê lợi.
Gói bánh bon chen bưng dưới chợ
Trồng trầu táy mót bán trong ty.
Ông ta chẳng nghĩ gì đến việc dân việc nước, chỉ thấy mưu lợi cho riêng mình.
Ngay cả người thân, vợ con cũng đối xử không ra gì. Qua bài thơ này, Học Lạc còn
phản ánh cuộc sống gia đình trong xã hội đương thời, vợ chồng có chức có quyền
nhưng xem nhau không ra gì.
Bề nhà vừa đủ cho vừa vợ
Việc nước hư nên chẳng kể gì
Cái án hạp binh nên xé thịt
Đành ăn hối lộ lại tha đi.
88
Bài “Vịnh quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn” cũng là một cái tát vào mặt kẻ
hộ đốc nhưng lại hèn hạ vô cùng.
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan
Giặc tới Bến Tranh run lập cập
Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng.
Mưu thần trước biết ngang sông chắn
Kế giữ sau toan đóng củi hàng
Thất thủ muốn liều cho giữ tiết.
Ngặt vì con, vợ bận chưa an.
Sự mỉa mai sâu sắc nằm ở hai câu thơ cuối: quan Đô đốc cũng muốn làm người
anh hùng tuẫn tiết theo thành nhung vì còn bận phải cưu mang vợ con nên đành “tẩu vi
thượng sách”. Những vần thơ ấy của Học Lạc đã khiến vị quan “hùng dũng” Nguyễn
Công Nhàn trở thành kẻ hèn nhát đáng cho người đời khinh miệt.
Ngòai các bài thơ đả kích sự áp bức bóc lột, bộc lộ nỗi đau của người mất nước,
Học Lạc còn sáng tác nhiều thể loại thơ mang chủ đề khác. Ngay cả những ngày hành
nghề thầy thuốc, cây, hoa, lá, gốc, rễ… từ những bài thuốc gia truyền cũng đem đến
cho Học Lạc nguồn cảm hứng. “Bái ngụ đời” là một bài thơ mà mỗi câu là một vị
thuốc đồng thời mang tính hai nghĩa tỏ rõ sự yêu ghét của nhà thơ:
Căm thay loài mộc tặc
Giận mấy đảng vô vi
Bạc tiền lũ nó đương quy
...
Đạo quân vương tục đoạn vong tình
Niềm phụ tử nỡ sao bội nghĩa.
Với Phan Văn Trị, những thói hư tật xấu cũng không khác gì những kẻ cướp
nước và bán nước, tiếng cười trào phúng của ông cũng đả kích chúng, không cho
chúng cơ hội tồn tại trong xã hội. Là một người chính trực, không bao giờ chịu luồn
cúi để có địa vị, chức danh, ông khinh thường những kẻ đi nhờ cậy uy danh của người
khác để ngóc đầu lên.
89
Cha của Phan Văn Trị vốn quen biết Phan Thanh Giản, sau khi ông thi đỗ cử
nhân, cha ông có dẫn đến gặp Phan Thanh Giản để nhờ tiến cử. Phan Văn Trị tỏ ra
không đồng ý với việc làm đó của cha, ông không thích thú với bước đường công danh
bằng cách nhờ cậy vào kẻ khác. Trong khi bản thân có năng lực nhưng không chịu
luồn cúi để có chức có quyền, Phan Văn Trị đọc cho Phan Thanh Giản nghe bài thơ
“Con mèo” do ông làm với ngụ ý ám chỉ bước đường công danh sự nghiệp của nhiều
quan chức đương triều cũng như thế:
Mấy từng đài các sải chơn leo,
Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo.
Chợt ngảnh mặt hùm nhìn trực thị,
Chi cho lũ chuột dám vang reo.
Vuốt nanh sẵn có vàng khoe sắc,
Vằn vện đành không bụi đóng meo
Trăm tuổi hồn dầu về chín suối,
Nhắm lông để lại giúp trò nghèo.
Mèo là một giống vật lanh lẹ, uyển chuyển trong từng hành động. Với Phan Văn
Trị, bọn quan lại cũng giống như nó, khéo léo, giỏi tài nịnh hót để mưu cầu danh lợi,
địa vị cho bản thân. Khi đã bước đến mấy tầng đài các, chúng ngoảnh mặt nhìn trực thị
để ra vẻ oai nghiêm bệ vệ. Chúng chỉ là loài mèo nhưng cũng ra vẻ là hổ khoe nanh
vuốt như bọn quan lại kia khoe khoang địa vị do nịnh hót mà có. Ông lên tiếng đả kích
những kẻ phong lưu đài các nhờ thời mà gặp may nhưng thực chất thì vô tài bất trí. Đó
là một thói xấu rất phổ biến trong xã hội mà cho đến tận ngày nay vẫn chưa hề giảm
bớt.
Tương truyền, lúc còn trẻ, khi ra cố đô Huế, một hôm nhân đứng chơi bên bờ
sông Hương nhìn thấy có người lặn xuống sông để mò ốc, bắt cua khi nổi lên bị rong
quấn vào cổ, ông đã ứng khẩu đọc luôn hai câu thơ giễu cợt đầy thâm thúy:
Phú quý Trường An rong vấn cổ
Phong lưu kinh địa chấy đầy đầu .
Hai câu thơ vừa tả cảnh thực vừa nói lên thái độ của Phan Văn Trị. Ông coi kiểu
sống giàu sang, đài các của bọn phong kiến chỉ là dơ bẩn, bám vào đầu vào cổ dân
90
nghèo. Dưới con mắt ông, bọn vua quan nhà Nguyễn sống ở mảnh đất từng được xưng
tụng là "thần kinh" chỉ là một phường sâu mọt, một lũ chấy rận. Thơ là ứng khẩu,
nhưng là ứng khẩu trên cơ sở đã chiêm nghiệm, nghiền ngẫm. “Phú quý Trường An”,
“phong lưu kinh địa” rút cục cũng chỉ là những nơi nhơ bẩn. Qua đó, ngụ ý rằng, với
ông, công danh phú quý chỉ ràng buộc, gây cảnh mất tự do của con người. Vị lẽ này
mà con người suốt đời “nong nả dốc vun nền đạo nghĩa” như Phan Văn Trị đã tìm
cách lẩn tránh.
Trong bài “Ông táo”, Phan Văn Trị mượn chuyện ông táo để châm biếm thói xu
nịnh cúi luồn trong xã hội đương thời:
Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích
Lum khum đội chảo mặt đen sì.
Nhà thơ còn thẳng tay trừng trị những kẻ hống hách, cậy quyền, ỷ thế. Chuyện kể
rằng, tổng đốc Trần Bá Lộc nghe danh Phan Văn Trị nên khi đi qua Vĩnh Long đã cho
lính đòi ông đến, ý muốn trừng phạt thái độ ương ngạnh của ông. Hắn bắt ông ứng
khẩu làm một bài thơ nhưng khi Phan Văn Trị xin cho đầu bài thì hắn vốn thô lỗ,
buông ngay lời tục tĩu:
- Cục cứt!
Phan Văn Trị đứng đọc ngay bốn câu:
Đương cơn lộn xộn ló đầu ra
Người thấy ai mà chẳng sợ va!
Cậy thế khom lưng ngồi dưới đít
Biết đâu sắp bị chó liền tha!
Thơ đáp ứng đúng chủ đề, lời thơ mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền đi mượn
của viên tổng đốc. Nghe xong, Trần Bá Lộc xấu hổ quá nên liền lấy cớ đuổi ông về.
Vậy mới thấy tiếng cười của Phan Văn Trị thật lợi hại.
Trong mảng thơ trào phúng phê phán những thói hư tật xấu của xã hội phải kể
đến Nhiêu Tâm. Nhiêu Tâm là nhà thơ trào phúng có bản lĩnh, rất nhạy cảm với thế sự,
trước các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Vì thế, ngòi bút của Nhiêu Tâm đã
không ngại ngần lên tiếng giễu cợt, đả kích những thói hư tật xấu của người đời. Tiêu
91
biểu cho loại thơ này có các bài như “Chuyện đùa ông bá hộ Nọn”, “Trẻ cha già
con”...
Nhêu Tâm có người bạn làm tri huyện tên là Lê Chí Thành, ít học nhưng lại được
làm cai tổng rồi thăng lên tri huyện. Tuy đã già nhưng hắn lại có nhiều người hầu trẻ,
có người chỉ mới 15, 16 tuổi. Cha của họ chỉ dưới 40 kém xa ông huyện đến vài chục
tuổi. Để chế giễu sự lố lăng, mê gái của tên quan huyện. Nhiêu Tâm làm bài thơ
“Trẻ cha già con”, hàm ý lên án thói trăng hoa, thói đa thê của những người con nhà
giàu có, hoặc của các vị quan chức đương thời.
Của đời thấy vậy dửng dừng dưng
Cha trẻ con già ngộ quá chừng
Nọ nọ ông gia khờ khịt mặt
Này này chàng rể rụng trơn răng.
Ngoài tên Lê Chí Thành, Nhiêu Tâm còn quen biết ông bá hộ Nọn, ở làng Long
Châu, huyện Châu Thành, Vĩnh Long nhà giàu, thích giao du. Nhà bá hộ Nọn có nuôi
một thầy đồ dạy chữ nho. Ông thầy đồ từ miền Trung vào nghĩ rằng trong vùng không
ai giỏi văn thơ nên thường tỏ vẻ kiêu ngạo, khinh khi. Nhiêu Tâm rất tức, ông tìm cách
cho hắn ta một bài học. Nhiêu Tâm giả bộ đến thăm ông bá hộ Nọn dặn đừng cho hắn
biết ông là học sinh hay nhiêu học. Ông thầy đồ cho rằng Nhiêu Tâm “văn dốt võ dát”
nên coi thường. Nhân chuyện thơ phú, Nhiêu Tâm xin thầy cho đề tài để làm thử. Vốn
khinh khi tự phụ, ông đồ kiêu căng nói:
- Cục cứt! Đó, thơ thẩn gì thì thơ thẩn đi!
Nhiêu Tâm bình tĩnh ứng khẩu ngay:
Bao tử là cha, mẹ – ruột dồi
Đẻ không nên chỗ, để mày trôi
Chặt chân chẳng nỡ, thây nhằm đạp
Bịt mũi mà qua đã gớm rồi.
Chẳng chó, bắt mèo ngồi ứa mắt
Có tong cùng chốt rước tràm môi
Lẫn thay cho lão ngồi câu quẹt
Chấp chứa làm chi những giống hôi.
92
Nhiêu Tâm đả kích thói kiêu căng rởm đời của những kẻ tài hèn trí thấp nhưng
lại tự cho mình cái quyền được coi trời bằng vung. Bài thơ “Lỡm ông thầy đồ”
này của ông ra đời một cách ngẫu hứng, chỉ nhân ứng khẩu mà thành thi nhưng lại trở
thành một trong số những bài thơ được truyền tụng nhiều nhất cho đến nay.
Nếu Phan Văn Trị dùng hình ảnh cá thia thia để nói về những kẻ luôn tranh
gianh, đấu đá nhau thì Nhiêu Tâm cũng đã nhìn ra căn bệnh vốn tồn tại từ rất lâu và
ngày càng nặng hơn trong xã hội bấy giờ qua hình ảnh của cặp gà nòi. Với tâm lý
không muốn ai hơn mình, sự ghen tỵ đẩy con người thành kẻ hiếu thắng, bất chấp tất
cả để tính toán hơn thua với những người xung quanh. Tưởng chừng như “con gà tức
nhau tiếng gáy” không con nào chịu con nào, con nào cũng muốn cho tiếng mình to
hơn, vang hơn... là những chuyện cười ra nước mắt.
Bôi mặt đá nhau trời hỡi trời
Một vùng cát bụi giãy tơi bời
Cựa suôn máu đỏ tuôn đầy đất
Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi
Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy
Hai là giành xé hạt cơm rơi
Hơn thua tranh cạnh mà chi vậy?
Đồng loại như bay thật tréo đời.
(Đá gà nòi)
Cùng là đồng loại với nhau nhưng chỉ vì ganh đua, “giành xé” chút lợi ích mà
chúng đá nhau không thương tiếc. Nhiêu Tâm mượn chuyện của gà để nói về chuyện
của người. Đó không phải là thói xấu của một nhóm người đơn lẻ, mà nó phổ biến
trong cộng đồng.
Tính chiến đấu trong thơ trào phúng Nhiêu Tâm còn được thể hiện rất rõ qua
bài “bần phú luận”, một bài thơ dài tương truyền có đến 204 câu. Trên tổng thể, “Bần
phú luận” là bài thơ mang tính triết lý cao do tác giả đã lấy chuyện giàu nghèo ở đời,
một đề tài muôn thuở làm chủ đề chính mà luận bàn. Tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau mỗi
câu chữ chính là sự vạch trần những nỗi bất công và ngang trái trong xã hội:
Đã khắp trong luân thường đạo lý
93
Kẻ giàu sang vẻ mặt phương phi
Bằng đói khổ bần hàn cơ bẩn…
Nó còn là sự lên án gay gắt lối sống thực dụng tham phú phụ bần:
Anh em nghèo lại gọi người dưng
Kẻ khác họ tới lui thăm viếng
Khi thất thời miệng đuổi tay xô
Cơn đắc thế muốn bồng muốn ẵm...
Bài thơ không chỉ hay về mặt nội dung do ý nghĩa của nó luôn luôn là vấn đề
thời sự trong mọi thời đại. Chỉ tiếc rằng, bài thơ này mới chỉ tìm được 114 câu. Giữa
114 câu này cũng còn nhiều chỗ bị đứt đoạn. Gần đây, các nhà nghiên cứu còn tìm
thấy năm bài thơ, trong đó có bài “con ếch” của Nhiêu Tâm được in trên báo “Nông
cổ mín đàm” số 245 và 254, xuất bản năm 1906 châm biếm, giễu cợt loại người hời
hợt, nông cạn ở đời.
Dân tộc nào, con người vùng nào cũng có những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu và
đương nhiên cả những tính xấu. Người Nam Kì cũng vậy. Qua những bài thơ trào
phúng, châm biếm của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh, những thói hư tật xấu được họ
vạch ra hẳn làm nhiều người không mấy dễ chịu. Tuy nhiên, cách hiệu quả nhất để loại
bỏ những tính xấu là công khai những thói xấu ra để người đời soi vào đó mà sửa. Đây
là một sự dũng cảm, một bản lĩnh mà không phải ai cũng có được. Nó cho thấy cái tâm
của các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì với đất nước, với vận mệnh của dân tộc.
2.2. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh
Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm, thơ ca trào phúng của các nhà thơ Nam
Kì còn mang sắc thái hài hước, hóm hỉnh. Có thể nói, không dân tộc nào có nhiều từ
ngữ chỉ những tiếng cười độc đáo có sắc thái khác nhau như dân tộc Việt: "cười
trừ","cười đểu", cười nhạt ","cười gằn", "cười nịnh", "cười nửa miệng", “cười cầu tài”,
“cười khúc khích”, “cười ha hả”... Đối với các nhà thơ Nam Kì, tiếng cười hài hước,
hóm hỉnh ấy là tiếng cười của niềm lạc quan yêu đời, là sản phẩm của óc hài hước và
trào lộng. Tiếng cười đó cũng là một cách để quên đi những bộn bề lo âu vất vả của
cuộc sống hàng ngày, làm cho cuộc sống của con người phong phú hơn, xua tan được
phần nào vất vả, lo âu, là liều thuốc giải trí hữu hiệu. Và quan trọng hơn đó chính là
94
thế giới tâm hồn của họ: bình dị, tình cảm, sâu sắc, thông minh, hóm hỉnh mặc cho
cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan, đất nước đang trong cơn chiến chinh lửa đạn
nhiều mất mát, đau thương.
2.2.1. Tiếng cười tự trào với cái nhìn lạc quan, đa chiều về cuộc sống
Tự trào là biết tự cười về các nhược điểm của cơ thể, thói hư tật xấu, quá trình
của bản thân, hoàn cảnh của mình, biết tự giễu cợt các thiếu sót, biết đùa bỡn về các
tin đồn, biết giải thích dí dỏm, hóm hỉnh về sự thành công hay vai trò của mình… Tất
cả được thể hiện bằng các câu nói, câu chuyện tự trào đúng lúc, đúng chỗ làm người
nghe bật cười sảng khoái, tạo ra bầu khí vui vẻ hoặc làm không khí bớt nặng nề,
nghiêm trọng, giúp ta hoặc người khác thoát khỏi tình thế khó xử. Tiếng cười tự trào
cũng là tiếng cười lạc quan yêu đời của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh. Họ đã lấy chính
cái xấu của mình để giễu cợt một cách hồn nhiên, hóm hỉnh. Dù cuộc sống còn rất
nhiều điều đáng bận lòng nhưng họ đã vượt lên để sống một cách lạc quan bằng cách
"thi vị hóa" cuộc sống của mình.
Mảng thơ tự trào trong các sáng tác của các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì cũng
chiếm một vị trí không nhỏ. Đôi khi nó cũng là tiếng nói đầy chua xót, tự chế giễu
chính bản thân mình khi bất lực trước hoàn cảnh thực tại.
Huỳnh Mẫn Đạt suốt một đời làm quan của mình chỉ biết lo cho dân, cho nước,
đến khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, ông một mực liêm khiết, trung
thành với tổ quốc nên thà bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, không chịu sống trên vùng đất của
giặc cai trị. Ông khổ tâm rất nhiều vì không giúp ích gì được cho dân cho nước, ông
cười mình giờ đây chỉ như một con “chó già”, “trâu già” không hơn không kém, bất
lực trước thời cuộc. Ông không phải tự hạ thấp mình,mà ông cười mình để giải
thoát khỏi tâm trạng bí bách dồn nén trong lòng: là một vị quan nhưng lại không
giúp gì được cho dân cho nước trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại bang
xâm chiếm.
Tuy rằng muông cẩu có ơn ba,
Răng rụng lâu năm nó phải già.
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,
Vì lo khỉ Sở mới dun da.
95
Không ai trấn bắc ngăn bầy cáo,
Ít kẻ ngừa tây giữ đứa tà.
Mạnh mẽ như xưa còn hớn hở,
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
Than thở cho tuổi già không phải là chuyện hiếm có trong thơ văn của các nhà
nho. Huỳnh Mẫn Đạt cố tình khoe khoang cái sự già nua lẩm cẩm, vô dụng của bản
thân. Ông tiếc nuối vì quỹ thời gian còn lại quá ít mà đại sự thì chưa làm được bao
nhiêu. Đây có lẽ là tiếng kêu than, nuối tiếc vô vọng sau suốt một đời trung tín. Ông
cho rằng, tuy chó có ba ơn trung, tín và trí nhưng sống lâu năm rồi nên nó phải già đi.
Suốt đời vất vả “đuổi hươu Tần”, bây giờ đã mỏi gối, “lo khỉ Sở” nên đã “dun da”.
Bây giờ già rồi nên không còn được hăm hở, mạnh mẽ như xưa nữa. Đó còn là những
suy tư, trăn trở, những nỗi đau trong trái tim của nhà thơ.
Trải chốn quan trường, đến giờ chỉ còn lại “một nhắm xương, một nhắm da”,
ông ngẫm lại đời mình thấy rằng “bao nhiêu cái ách đã từng qua”. Giờ đây, tuổi già
đã đến, cho nên:
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đơn hỏa,
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.
Sớm dạo nội sằn đi khấp khởi,
Tối về tử lý thở hi ha.
(Trâu già)
Huỳnh Mẫn Đạt giễu mình, bôi xấu mình là để giải thoát bản thân. Thơ tự trào
của ông giống như một liều thuốc giảm những nỗi niềm đè nặng trong lòng ông. Nó
vẫn mang phong vị kiểu tự trào của các danh nho xưa. Ông chủ động liệt kê và cường
điệu những biểu hiện khuyết tật, già yếu của mình:
Kể từ hội sửu đã sanh ra,
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.
Mấy chốn Kì thần ra sức cả,
Đòi nơi bái xã rán thân già.
Rửa tai vĩnh thủy nhường ngôi báu,
Cởi ách đào lâm biếng gác xa.
96
Tề chúa bôi chuông còn chẳng nỡ,
Có đâu khó nhọc với nông-gia
(Trâu già)
Tự cho rằng mình là con người xấu xí, già nua, vô tích sự, sự phủ định ấy chỉ là
con đường giải thoát cho tâm trạng con người thật của ông và con người thật của ông
chính là con người khẳng định với biết bao chí lớn, với biết bao nỗi niềm tha thiết với
nước non. Ông đã giễu mình với giọng điệu chua chát. Nhưng càng chua chát bao
nhiêu thì càng chứng tỏ phẩm chất cao đẹp của nhà thơ bấy nhiêu.
Hầu như nhà thơ nào cũng có một vài bài tự trào, tự thuật. Trong nụ cười mang
tính chất tự tiếu và tiếu ngã ấy các nhà nho đã đem bản thân ra làm đối tượng để cười:
cười bản thân mình để tự răn mình tránh vấy bẩn những điều ô trọc. Học Lạc qua bài
thơ “Ăn tiên lầu ở Mỹ Tho” cho rằng bây giờ ai ai cũng đều mê mệt trong chốn ăn
chơi ở đời, lo ăn đồ Tàu, uống rượu Tây không còn nghĩ đến việc quốc gia nữa. mọi
người đều bị bả vật chất làm cho mê mệt. ông cũng đã tự đắc rằng chỉ có mình ông
“tỉnh đặng mà”.
Dễ muốn ăn chơi thế vậy à ?
Người đời thấm thoắt ngựa câu qua
Tháng ngày thoi trở năm càng thúc
Tơ tóc sương bay tuổi đã già
Khiển hứng no nê mùi Quảng Tống
Tiêu sầu chuếnh choáng rượu Lang Sa
Trải xem ai nấy đều mê mệt
Há dễ mình ta tỉnh đặng mà!
Ngoài những lúc nâng mình lên như thế, Học Lạc có lúc lại đưa mình ra để cười
cợt, chế giễu, hạ bệ bản thân bằng cách phóng đại những mặt trái, những mặt hạn chế,
những thói hư tật xấu của mình, trưng bản thân ra cho mọi người thấy mình như một
kẻ vô tích sự, một kiểu người thừa trong cả gia đình và xã hội. Ngoài thơ trào phúng,
Học Lạc còn sáng tác cả ca trù, trong đó có một bài ông tự nói về bản thân mìnhvới lối
trào lộng hí hoạ, bằng cách tự chế giễu, bôi xấu mình. Mọi khía cạnh con người ông
đều trở nên xấu xí. Ông không hề ngần ngại khi nói về bản thân một cách trực diện:
97
Năm kỷ sửu tuổi vừa bốn tám,
Lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm.
Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm,
Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ.
Thân hạt lúa nổi chìm trên mặt bể,
Cánh chim hồng cao thấp dưới chân trời.
Thôi từ đây đến năm mươi, sáu, bảy, tám, chín, mười mươi.
Già một kiếp, cũng ngày tàn cho mãn kiếp.
Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp,
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.
Nhưng mà lúc thiếu niên đã lỡ bước thanh vân,
Giờ lão cảnh phải an bề bạch bố.
Say dựa gối ngâm thơ cho vợ ngủ,
Buồn chong đèn đánh kiệu với con chơi.
Gia đình này đã sẵn có thú vui,
Lọ là phải Nam, Bắc thương hoàng cho nhọc xác.
Nhìn thế sự nay đà đổi khác,
Ngẫm bất tái nên há dễ bôn chôn.
Co tay một giấc hành môn.
Không phải ông bôi xấu mình là để đề cao mình như trong thơ tự trào của Huỳnh
Mẫn Đạt. Ông bôi xấu mình như là để giải thoát bản thân với nụ cười hóm hỉnh nhưng
không kém phần ý nhị. Bằng cách xem xét lại bản thân để tự cười mình, Học Lạc tự
thấy sự bất tài vô dụng “lão cảnh phải an bề bạch bố” . Nhưng việc tự cười mình an
phận thủ thường, “ngâm thơ cho vợ ngủ”, “ chong đèn đánh kiệu với con chơi” cũng
là một dụng ý của nhà thơ. Ông tỏ sự khinh bỉ của mình với xã hội đương thời. Thời
đại của ông là thời đại thoái trào, nhân dân ta đang chịu ách một cổ hai tròng. Vì thế,
tự trào là cách mà ông bày tỏ thái độ của mình trước thời cuộc.
Tự trào thường kéo theo sự mỉa mai, châm biếm, giễu cợt kẻ khác. Học Lạc trong
bài thơ “Tạ hương đảng” đã tự hạ bệ mình, hạ thấp danh phận, thân thế của mình
không thường tiếc:
98
Vành mâm xôi đề “thằng Lạc”
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương chẳng phải bọn mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác.
Khi tự hạ bệ bản thân là ti tiện, không đài các như bọn quan lại hương chức trong
làng, mình chỉ là “cái cóc rác” cũng có nghĩa là Học Lạc xác nhận mình không còn
nhân danh quân tử để nhìn xã hội. Trong mắt ông, đó chỉ toàn là bọn giả dối, nịnh bợ.
Ông ngay thẳng, sống thật với bản thân, tự xem bản thân không ra gì để chửi khéo bọn
hương chức: chúng mới chính là những kẻ ti tiện, đồ cóc rác vào bậc nhất. Tự trào
bằng cách tự chế giễu bản thân, không phải là Học Lạc muốn ngầm đề cao bản thân
mình. Tiếng cười của ông có mục đích, đối tượng rõ ràng. Ông chế giễu cái dốt nát,
nhếch nhác, thảm hại của bọn hương chức phong kiến, chế giễu tính giáo điều, lễ
nghĩa trịch thượng của chúng. Bằng kiểu tự trào phủ định, Học Lạc đã chế giễu, đã phê
phán tính chất hủ lậu của kẻ sĩ phong kiến và phủ nhận cả những khuôn phép lỗi thời
của xã hội phong kiến.
Ở Huỳnh Mẫn Đạt, dù là tự trào trực tiếp hay kín đáo thì thơ ông lúc nào cũng
thể hiện rõ hình ảnh của một nhà nho đang tự cười mình. Đó là nụ cười nhỏ nhẹ mà
chan chứa suy tư lo lắng. Khác với Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc trong kiểu tự trào không
thấy có giọng thâm trầm, kín đáo mà luôn thẳng thắn. Ông trực tiếp cười mình một
cách hả hê, khi thì phủ định, lúc lại ngông ngạo. Là một nhà thơ tài hoa có học vấn
nhưng không hợp thời nên con đường công danh hoạn lộ không thành. Ông cũng
không nằm trong mẫu người an phận, thủ thường, không chấp nhận sự nhiễu nhương
lố bịch của xã hội. Học Lạc tiếp nối truyền thống cười trong truyện dân gian, trong ca
dao nhằm đả kích cái thế sự đương thời.
Tự trào xuất hiện như một thể tài đặc biệt trong thơ Nôm Đường luật cuối thế kỉ
XIX - đầu thế kỉ XX. Trong những giai đoạn trước nụ cười chúng ta bắt gặp chỉ là
những nụ cười chế giễu nhẹ nhàng mà thâm thúy. Nụ cười tự trào, tự phủ nhận dường
như là đặc sản của thơ giai đoạn này. Cảm hứng này bắt nguồn từ sự cảm nhận về cái
bất lực ở một con người luôn ý thức. Giận mình sao quá ư kém cỏi, tầm thường, chằng
99
làm được gì trước cảnh nước mất nhà tan, huống hồ mình cũng từng sinh ra nơi cửa
Khổng sân Trình, một con người khoa giáp.
2.2.2. Tiếng cười quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng ngày
Từ bao đời, cuộc sống của dân gian ta vốn lao lực khó nhọc suốt tháng quanh
năm, cho nên, gặp được những lúc ngừng tay, nghỉ việc, hoặc những ngày vì thời tiết
mà không ra đồng được, họ thường tập họp nhau lại để kể cho nhau những chuyện vui
cười, để xả hơi, cho quên bớt mỏi mệt, hay để giải trí cho vui cửa, vui nhà giữa thân
thuộc, bạn bè. Đó là một nhu cầu như bất cứ nhu cầu nào khác, một giải trí không tốn
kém gì, đồng thời còn là một niềm an ủi cho cuộc sống lam lũ mệt nhọc của dân quê.
Nụ cười sẽ xóa bớt lo âu, phiền não của gánh nặng cuộc sống. Bên cạnh việc thể hiện
tình cảm của quần chúng nhân dân, những bài thơ trào phúng còn là tiếng cười sảng
khoái của người lao động. Tiếng cười ấy nhằm xoa dịu bớt những đắng cay, vất vả
trong cuộc sống hàng ngày.
Với con người Nam Kì Lục Tỉnh vốn đã phóng khoáng cởi mở thì tiếng cười
càng trở nên quan trọng với họ. Quá trình trải bao khó khăn, vất vả để khai hoang lập
làng trên vùng đất mới đã hình thành nên tính cách vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Kế thừa
truyền thống cũng như kết hợp nhuần nhuyễn đặc trưng của người Nam Kì Lục Tỉnh,
Học Lạc và Nhiêu Tâm đã sáng tác những vần thơ trào phúng có giá trị, bộc lộ rõ nét
tính cách con người của mình.
Học Lạc vốn thông minh, học giỏi, tính tình vui vẻ, khí khái, hòa nhã và thân mật
với mọi người. Trong hoàn cảnh nào ông cũng lạc quan, yêu đời. Những vần thơ của
ông cũng khiến những con người đang gặp phiền não cũng phải cười tươi.
Dù không đỗ đạt, nhưng với danh vị "học sinh " do triều đình nhà Nguyễn phong
tặng, xem ra Học Lạc cũng khá “oai”, một chức sắc ngang hàng với xã trưởng ở Nam
Kì và lý trưởng Bắc Kì thời ấy. Nếu là người khác, Học Lạc có thể dựa địa vị này để
tìm một vị thế trong làng cũng chẳng thua ai. Nhưng ông lại luôn thể hiện tính cách
của một nhà Nho khí khái, trực tính. Vì vậy, các hương chức trong làng rất ghét ông
mà không biết làm thế nào để hãm hại. Thời ấy, cùng làng với Học Lạc có ông Nhiêu
Dự cũng là một nhà nho. So với Học Lạc, ông này kém hơn rất nhiều về tài và đức.
Ông ta cố giành giật được chiếc ghế hương chức. Học Lạc và hương chức Nhiêu Dự
100
rất ghét nhau, luôn chống đối nhau. Một hôm, người nhà của một bệnh nhân đến rước
Học Lạc về bắt mạch Trên đường đi, Học Lạc phải dừng lại can ngăn đám trẻ đang
xúm lại đánh một người Trung Hoa có tuổi để giật tiền. Bất thình lình, các hương chức
trong làng xuất hiện, họ bắt tất cả mọi người vào nhà việc đóng trăng. Học Lạc bị bắt
đóng trăng giữa đình làng. Được dịp, bọn hương chức có một trận cười hả hê nhưng
Học Lạc lại dửng dưng, ung dung đến độ bọn quan lại ấy phải bất ngờ. Đang lúc chịu
phạt, Học Lạc nhìn sang bên cạnh thấy người Trung Hoa bị trói có khuôn mặt buồn bã
và lo âu. Ông liền xuất khẩu ngay bài thơ “ngồi trăng” và ngâm tặng cho người xa lạ
kia như để xoa dịu mọi ưu phiền:
Hóa ở An Nam, lứ khách trú
Trăng trói lằng nhằng nhau một lũ
Ngoài mặt ngỡ ngàng lẽ Bắc, Nam
Trong tay, cắc cớ xui đoàn tụ.
Bợm làng chẳng vị sĩ năm kinh
Ông bổn không thương người bảy phủ.
Phạt tạ xong rồi trở lại nhà,
Hóa thời hốt thuốc, lứ bông vụ.
Học Lạc nhìn mọi việc với con mắt lạc quan, yêu đời. Ông khuyên người Hoa
cùng bị đóng trăng với mình không cần phải lo lắng, bởi: “phạt tạ xong rồi trở lại
nhà” ai làm việc nấy. Có lẽ, khi nghe xong bài thơ, người bị đóng trăng kia sẽ có cái
nhìn lạc quan và vui vẻ chấp nhận như ông.
Năm kỷ sửu tuổi vừa bốn tám,
Lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm.
Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm,
Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ.
Với giọng thơ hóm hỉnh, hài hước, Nhiêu Tâm cũng đã viết nên những vần thơ
trào phúng rất tự nhiên. Những bài thơ như “Ghẹo gái bán cau”, “Lỡm ông thầy
đồ”,... đều gắn với những con người thật, việc thật xuất hiện hằng ngày trong cuộc
sống của ông. Tiếng cười được ông buông ra làm vơi đi những mệt mỏi trong công
việc, làm cho người gần người hơn nên chúng được truyền tụng trong dân gian.
101
Nhiêu Tâm có người bạn là bá hộ Nọn. Ông Nọn thì giàu có, còn ông thì nghèo
nên thường lánh mặt, không muốn năng đi lại. Một hôm Nhiêu Tâm tình cờ gặp bá hộ
Nọn. Hai người tay bắt mặt mừng vui vẻ. Nhân ông Nọn hỏi về đời sống, nhà thơ ứng
khẩu đọc luôn:
Thấy anh tôi nghĩ lại tôi buồn
Tôi khó anh giàu đã hóa muôn
Anh vậy tôi vầy trời khiến vậy
Chúc cho con cháu vậy luôn luôn.
Bài thơ chơi chữ thật độc đáo. Chữ “muôn” chỉ số nhiều và người miền nam phát
âm cũng giống như chữ “muông” là thú vật (con chó). Bên cạnh đó, lối nói ỡm ờ
“vầy”, “vậy” hàm ý xỏ xiên thật thâm thúy mà đối phương không thể nào bắt bẻ, đành
phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Với bài thơ “Làm trời khó”, Nhiêu Tâm đã “hiểu” cho trời, bất kể ai khi gặp việc
gì cũng kêu trời, làm trời cũng thật khó chứ chẳng phải sung sướng:
Giữ chức Thiên hoàng khó phải chơi
Thế gian muôn sự cứ trời ơi
Mưa dầm bão lụt kêu khan tiếng
Nắng hạn khô khan réo hết lời
Bất hiếu, giận con, kêu mắng vốn
Vô tình đạp phẩn lại thỉnh coi
Làm trời còn khổ vì thiên hạ
Hà huống gì ta sống ở đời.
Đối với Nhiêu Tâm, làm trời - đấng tối cao mà còn phải chịu bao nhiêu cớ sự, ta
sống ở đời như vậy là tốt rồi, không có gì phải kêu rên. Tiếng cười của ông thật khiến
người ta trở nên vui vẻ, quên bớt sầu muộn để sống lạc quan hơn.
Vốn tính khôi hài, hay giễu cợt nên cuộc sống của Nhiêu Tâm luôn tràn ngập
tiếng cười. Gặp việc gì, ở đâu, Ông cũng có thể làm thơ ngâm vịnh và châm biếm,
mang lại những tràng cười không dứt. Người ta kể lại, một hôm Nhiêu Tâm ngồi trong
nhà nói chuyện với bạn thì nghe tiếng một người con trai chọc ghẹo cô gái bán cau
102
ngoài ngõ. Thấy thế người bạn liền bảo ông làm một bài thơ tức cảnh. Nhiêu Tâm xuất
khẩu thành thơ, hay cả lời lẫn ý:
Hỡi cau ai bán, tiếng nghe rao?
Tốt vóc, mà trong biết thế nào?
Giấu ở trong buồng e đóng đục,
Bày ra trước mặt thấy ngon dao!
Quyết mua nên phải coi từ vú,
Có bán thì cho thử cái nào!
Chuốt ngót của mình ai dám chắc,
Biết lòng biết ruột xỉa tiền trao!
Ông chọc ghẹo cô gái bán cau thật ý nhị, hài hước. Tuy bên ngoài đẹp như vậy
nhưng bên trong thì không biết có được như cái vẻ ngoài, phải cho thử để biết cau có
ngon không. Có lẽ, cô gái bán cau kia sẽ ngại ngùng đỏ mặt trước sự chòng ghẹo của
nhà thơ.
Nhiêu Tâm còn có một số bài thơ vừa trữ tình lại vừa trào lộng rất thú vị, ai đọc
cũng phải mỉm cười bởi hoàn cảnh của những người đa tình được nói đến trong thơ.
“Đêm nằm tơ tưởng tưởng mơ, chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không” là một bài thơ
như thế:
Mối tình ai để rối như tơ
Tỉnh giấc chiêm bao tỉnh dậy rờ
Hiệp mặt còn mơ đào thớ thớ
Xẳng tay hồi tỉnh lát trơ trơ
Ngỡ là hương lửa đang nhen nhúm
Hay mỗi trăng hoa khéo phỉnh phờ
Chớp nhoáng bóng loan vừa nháy mắt
Trêu ngươi cắc cớ hỡi ông tơ.
Hay bài “Đôi ta chẳng mốt thì mai, chẳng trong tháng chạp cũng ngoài tháng
giêng” cũng là một bài thơ vô cùng hóm hỉnh, duyên dáng, thể hiện phong cách rất
“Nhiêu Tâm” với bộ vần độc đáo “xô cô vô ô rô”:
Đây đó trăng già khéo giục xô
103
Chẳng chày thì kíp vội chi cô?
Ngày kia bữa nọ duyên đầu lãng
Đông cuối xuân đầu lễ bước vô
Có thuở chim cưu nằm tổ thước
Lo gì sông Hán bắt cầu ô
Góc thành lẩn thẩn chờ ta vậy
Chớ giống chim thuần giống nhảy rô.
Học Lạc và Nhiêu Tâm đều là những nhà thơ có tính cách vui vẻ lạc quan, yêu
đời. Tính cách ấy đi vào trong thơ trào phúng của họ thật tự nhiên. Đó cũng chính là
liều thuốc quý để giúp họ quên đi những bộn bề của cuộc sống. Trong hoàn cảnh nước
mất nhà tan, những nụ cười ấy càng thêm giá trị. Nó giúp họ có thêm niềm tin để vượt
lên hoàn cảnh, vui sống để giúp người, giúp đời. Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm
vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống. Trong cuộc sống đầy áp lực, thêm một
người biết tự trào, bớt nghiêm nghị, dường như khiến cuộc đời trở nên dễ sống hơn mà
vẫn không mất đi ý nghĩa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể phá lên cười thật
lớn như hai nhà thơ đất Nam Kì này thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Nó
chính là hơi thở không thể thiếu trong sinh hoạt của người bình dân.
Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm thì tiếng cười hài hước, hóm hỉnh cũng
là tiếng cười chủ đạo. Tiếng cười trong thơ trào phúng của các nhà thơ đất Nam Kì quả
thật đã chứa đựng nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa trong xã hội phong
kiến. Tiếng cười ấy phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết vượt lên
hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó khăn thực tại để lạc quan yêu đời.
Tiếng cười ấy là sức sống tâm hồn khỏe khoắn của những con người luôn ý thức giá trị
bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.
104
Chương 3. NGHỆ THUẬT THƠ HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG
NAM KÌ LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX
3.1. Thể loại, thủ pháp nghệ thuật và các biện pháp tu từ
3.1.1. Sự kết hợp giữa “yếu tố Nôm” và “Đường luật” trong thơ bát cú
Có thể dễ dàng nhận thấy, hầu hết thơ trào phúng của các nhà thơ đất Nam Kì
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú
Đường luật.
Thời kì trung đại, cùng với chế độ phong kiến phát triển rực rỡ thì ảnh hưởng của
Nho học cũng trở nên sâu sắc, thể hiện trong mọi mặt của đời sống. Có trước trong nền
văn học thành văn ở nước ta là văn học viết bằng chữ Hán, thành dòng từ thế kỷ X, với
lực lượng sáng tác là tầng lớp tri thức phong kiến, và hầu hết được viết theo các thể
loại văn học Trung Quốc. Văn học chữ Hán, trong đó có thơ Đường luật có phạm vi
đề tài rất rộng, từ những vấn đề chung của dân tộc đến vấn đề riêng của con người;
vừa giàu tinh thần nhân đạo, vừa rất phong phú về chủ nghĩa yêu nước. Song, vì viết
bằng chữ Hán nên những tác phẩm này bị hạn chế khi cần phản ánh hiện thực sinh
động và cụ thể của đất nước Việt, tâm tư sâu xa, thầm kín của con người Việt. Bước
sang thời Kì tự chủ bắt đầu vào thế kỷ X, chữ Nôm được hoàn chỉnh dần và mãi
đến thế kỷ XIII, chữ Nôm mới có đầy đủ khả năng để trở thành thứ văn tự dùng trong
sáng tác văn chương. Từ đó, với lòng tự hào dân tộc, chữ Nôm được sử dụng và phát
triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Ngay trong lúc có thể vận dụng thể
văn và văn tự Trung Quốc để hiểu hiện tình cảm và tư tưởng,, nhiều nhà thơ chúng ta
vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc và cá tính của con người sáng tác.
Sự xuất hiện “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi vào đầu thế kỉ XV chính là tập đại
thành, khẳng định vị trí của chữ Nôm trong sáng tác của các nhà Nho. Như đã nói ở
phần trên, lực lượng sáng tác của thơ trào phúng bấy giờ là các nhà Nho, họ đã dùng
công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc.
Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, cùng với những biến động về lịch sử, ý thức
dân tộc lại một lần nữa được đề cao. Các nhà thơ đã dùng thứ ngôn ngữ dân tộc để nói
lên tâm sự mất nước của mình, đồng thời bày tỏ những cái nhìn đa diện về hoàn cảnh
105
đất nước. Với thể loại thơ trào phúng, các nhà thơ đất Nam Kì sử dụng và mang đến sự
nhuần nhuyễn trong cách thể hiện, nói lên tiếng nói cá nhân trước vận mệnh đất nước.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, ảnh hưởng của Đường thi cùng với những đặc điểm ngôn
ngữ của nó vẫn còn khá sâu sắc, văn thơ của họ vẫn chưa thoát khỏi hệ thống thi pháp
trung đại.
Trong nhiều thê kỉ qua, Đường thi vẫn được coi là tiêu biểu cho đỉnh cao của thơ
ca cổ điển Trung Quốc. Ảnh hưởng của nó rộng khắp các nền văn hóa Châu Á, nhất là
Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam... Có thể nói, tinh hoa Đường Thi đã thấm sâu vào
mạch nguồn thơ ca dân tộc Việt Nam, trở thành vốn văn hóa không thể nào phủ nhận.
Thi cử thời xưa, mọi nhà Nho đều phải biết làm thơ Đường luật. Thật ra, khi tiếp nhận,
nhà thơ Việt Nam đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa là tiếp nhận với tinh
thần độc lập, sáng tạo, làm cho thơ Đường luật thấm đượm tinh thần Việt, phù hợp với
nền văn hóa dân tộc. Thơ Đường luật trong quá trình thâm nhập và phát triển của lịch
sử văn học Việt Nam đã xây dựng cho mình một chỗ đứng vô cùng vững chắc.
Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các nhà thơ đã làm
giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay
bổng trong từng câu thơ. Có thể nói, Nguyễn Trãi là người đã mở đầu con đường Việt
hóa thơ Đường còn Hồ Xuân Hương chính là người tạo nên bước ngoặt lớn đưa thơ
Nôm Đường luật ở nước ta đi vào con đường Việt hóa hoàn toàn ở thế kỉ XV. Cho đến
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thơ Nôm Đường luật vẫn giữ một vị trí quan trọng.
Trong thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh, nó trở thành thứ công cụ, vũ khí tác chiến lợi
hại được các nhà thơ sử dụng một cách nhuần nguyễn.
Sở dĩ thơ Đường luật được các nhà Nho sử dụng phổ biến như vậy là do thể thơ
này phù hợp hơn cả với việc diễn tả con người đạo lí, con người nhân cách theo quan
niệm Nho giáo. nhưng những trí thức thời này đã mạnh dạn từ bỏ phong cách quý
phái, đài các, cung đình với những điển tích ước lệ sáo mòn để trở về với tình tự cội
nguồn dân tộc Việt Nam một cách sinh động và đầy sáng tạo.
Trong thơ hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ
XX có hai hệ thống ngôn ngữ một gần với Đường thi và một lại xa lạ với Đường thi
nhưng lại gần với văn học dân gian, với đời thường rất Việt Nam. Trong thơ ca trào
106
phúng cũng xuất hiện hai xu hướng vận động: Vừa kế thừa, tiếp biến thơ Đường, vừa
có những tìm tòi, sáng tạo trên cả bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật để khẳng
định bản sắc dân tộc. Tinh thần dân chủ hóa, dân tộc hóa thể loại phù hợp với tâm thức
cảm nhận của người Việt. Thơ trào phúng Nam Kì là thơ Đường luật nhưng được vận
dụng một cách linh hoạt, phóng khoáng, không nhất định theo quy ước khắt khe,
khuôn sáo của thể thơ này. Nó mang tính cách đặc trưng của những con người nơi
vùng đất mới, phóng khoáng, tự do hơn. ở những bài thơ là sự cách tân mới mẻ về
phong cách ngôn ngữ cũng như cách thể hiện.
Đề tài, chủ đề trong thơ Đường luật Nam Kì Lục Tỉnh rất phong phú, đa dạng,
vừa kế thừa thơ Đường luật truyền thống ở các phương diện đề cập đến lòng yêu nước,
chuyện đời, chuyện người, chuyện thế thái nhân tình hay những câu chuyện về đạo
nghĩa nhà Nho. Ngoài ra nó còn đề cập đến những phương diện khác mà trước đây
chưa từng đề cập. Nói chung, thơ Đường luật của vùng đất Nam Kì giai đoạn này phản
ánh mọi mặt của đời sống từ những tâm trạng riêng tư của con người cho đến nhưng
vấn đề lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc. Những đề tài, chủ đề trong thơ trào
phúng Nam Kì Lục Tỉnh đã xuất hiện những biểu tượng nghệ thuật mới bắt nguồn từ
cuộc sống đời thường dân dã, in đậm phong cách thời đại và phong cách người cầm
bút như: con mèo, con rận, con muỗi, cối xay, hạt lúa... trong thơ trào phúng của Phan
Văn Trị; Con trâu, con tôm, con chó,...trong thơ Học Lạc với cách thể hiện vô cùng
thú vị. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ trào phúng của họ đã trút bỏ hoàn toàn những
khuôn mẫu có sẵn của thơ Đường luật để tìm đến những biểu tượng của đời sống, thể
hiện vẻ đẹp của thể thất ngôn bát cú trong việc phản ánh hiện thực. Có thể nói, đề tài,
chủ đề của thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh từ hướng nhiều vào mục đích chở đạo,
giáo huấn đã chuyển dần sang mục đích phản ánh cuộc sống, xã hội, thời đại và số
phận con người.
Điều làm nên sự thú vị và hấp dẫn của những bài thơ trào phúng theo thể thất
ngôn bát cú Nam Kì chính là việc sử dụng những từ ngữ mang tính quần chúng, nôm
na, bình dị. Từ đó, nó dễ dàng đi vào lòng người, được quần chúng nhân dân đón nhận
một cách nồng nhiệt. Nó đã phá vỡ truyền thống khuôn sáo, cầu Kì, ước lệ vốn là đặc
trưng của thể loại. Chưa bao giờ trong thơ Đường luật xuất hiện hàng loạt các từ ngữ
107
mang tính địa phương như trong thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì: xăng văng,
hêu đòi, lúc thúc, tóm rốc, vun quén....
Một điểm nổi bật của việc sáng tác thơ trào phúng theo thể Đường luật chính là
họa thơ. Cuộc bút chiến với tên bán nước Tôn Thọ Tường thu hút sự tham gia của
đông đảo các sĩ phu yêu nước mà nổi bật là Phan Văn Trị. Các bài thơ cả xướng và
họa đều làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Việc họa thơ và sáng tạo ra một
kiểu vần mới (vần Từ Thứ) trong thơ họ là điều đáng được đánh giá cao.
Xướng hoạ thơ, ngoài là sự tiêu khiển, trong hoàn cảnh đất nước cuối thế kỉ XIX
- đầu thế kỉ XX giữa Tôn Thọ Tường và các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh còn là cuộc
chiến trí tuệ, một trận đánh ác liệt về tư tưởng, hành động và nhân cách. Là một kẻ hay
chữ Tôn Thọ Tường cố tình làm khó Phan Văn Trị cũng như các nhà thơ yêu nước có
lòng tự tôn dân tộc khác bằng những vần rất khó. Thế nhưng cái chính nghĩa luôn
thắng cái phi nghĩa, Phan Văn Trị đã đánh tơi bời vào Tôn Thọ Tường bằng những bài
họa chuẩn mực cả về hình thức lẫn nội dung. Những bài họa của Phan Văn Trị mang
những nét tinh hoa, làm chuẩn mực cho lối họa thơ.
Thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh chưa thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học
trung đại. Các nhà thơ vẫn sử dụng thế thơ thất ngôn bát cú như một công cụ đắc lực
thể hiện tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của mình với những giọng điệu khác nhau, khi đả
kích châm biếm, lúc bông đùa hài hước. Làm được như vậy là vì thơ Đường luật, đặc
biệt là thể thất ngôn bát cú phù hợp hơn cả với việc cảm hoài nhân tình thế thái. Vì thế,
yếu tố trào phúng khi được lồng vào khuôn hình của thể thơ này cũng chính là cách
hữu hiệu để biểu lộ thái độ của mình trước thời cuộc. Cái mới dễ nhìn thấy là việc sử
dụng hệ thống ngôn ngữ quần chúng Nam Kì, sử dụng các thủ pháp gây cười thường
thấy trong văn học dân gian.
3.1.2. Hình thức ngụ ý, hình ảnh ẩn dụ, thủ pháp đối lập
Thơ trào phúng cuối thể kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là bộ phận văn học thuộc văn học
trung đại nên về mặt nghệ thuật của nó vẫn mang nét chung của thi pháp trung đại, quy
định theo nó là những thủ pháp nghệ thuật tương hợp: ngụ ý, ẩn dụ, tương phản.... Các
nhà thơ trào phúng Nam Kì cũng không thoát khỏi thi pháp truyền thống này.
108
Ngụ ý là ngầm gửi ý vào lời nói, câu văn, câu thơ. Nó được sử dụng rộng rãi
trong nhiều thể loại văn học. Với thơ trào phúng Nam Kì, các nhà thơ đã vận dụng một
cách hiệu quả, đem lại những tiếng cười thâm thúy, làm cho đối tượng trào phúng phải
xấu hổ khi hiểu được ý nghĩa ẩn dưới lớp ngôn từ có vẻ không hề liên quan đến mình.
Ẩn dụ cũng là một thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ đắc lực cho việc thể hiện tư tưởng,
tình cảm, thái độ của các nhà thơ nam kì. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “ẩn dụ là
phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này
qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo.” [39,11] Thơ
trào phúng của các nhà thơ Nam Kì xuất hiện hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ độc đáo,
mới lạ.
Thơ Phan Văn Trị phần nhiều qua hình thức ngụ ý, qua hình ảnh ẩn dụ để nói lên
chí hướng và tâm sự của mình. Từ những con vật, những hình ảnh gần gũi, những vật
dụng thường ngày ông đã nâng lên thành hình tượng, thành vấn đề để nói về Tổ quốc,
về nhân dân, đồng thời cũng là để vạch mặt bọn bán nước hại dân, quân cướp nước.
Mấy tầng đài các sải chơn leo
Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo
(Con mèo)
Hình ảnh con mèo được Phan Văn Trị ngụ ý chỉ trích bọn quan lại cơ hội, chỉ có
tài duy nhất là nịnh hót để nhảy lẹ lên địa vị cao sang.
Hay con rận – một loài kí sinh đáng ghét với “mặt mũi” “cũng có râu”. Sống
bám vào quyền hành của thực dân, núp dưới bóng quân cướp nước, bọn quan lại, tay
sai chuyên hút máu dân lành chẳng có tài cán gì nhưng cũng lên mặt với đời chẳng
khác gì loài kí sinh ấy. Trong mắt Phan Văn Trị chúng thật là một lũ vô dụng.
Mặt mũi như vầy cũng có râu
Trong đời chẳng biết dụng vào đâu
.....
Uổng sanh cho nhộn trong trời đất
Có có không không cũng chẳng cầu.
(Con rận)
109
Trong thơ Cử Trị là hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ mang tính ngụ ý. Với những
kẻ ông khinh ghét thì chúng còn là những con muỗi, cào cào, những bọn cá thia thia
chỉ biết đấu đá, tranh giành quyền lợi nhau mà làm hại đến nhân dân, là phường hát
bội với “đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi”, là những con cua đi ngang về tắt, không ruột,
không lòng, là những ông táo “lỏng khỏng cõng nồi”, “lum khum đội chảo”. Còn đối
với những người trung nghĩa, ông cũng mượn những hình ảnh gần gũi để ngợi ca. Đó
là con cóc để nói về những người yêu nước: tuy sống ẩn dật trong cảnh thanh bần
nhưng lại luôn có thái độ ngang tàng, có ý chí lớn. Mỗi lời cảnh báo của họ cũng có
thể khiến cho những kẻ xu thời theo giặc phải giật mình kinh sợ.
Nghiến răng có thuở động oai trời
Mở miệng ghe phen chúng kiến lui.
Đó là những hột lúa giúp “nuôi dân biết mấy đời”.:
Ông cha giúp nước đà ghe thuở
Dòng giống nuôi dân biết mấy đời.
(Hột lúa)
Hay nghĩ về sự ngặt nghèo khốn khó của những người dân mộ nghĩa nổi lên
đánh Pháp giữ nước, giữ nhà mà bị triều đình ươn hèn cho là làm giặc trái mệnh vua,
Phan Văn Trị mượn chuyện cái cối xay mà tỏ lòng:
Mòn răng hết sức lo đền đáp
Trặc họng khen ai khéo đặt bày
Bao quản thớt trên mòn thớt dưới
Hiềm vì còn giặc phải ra tay.
(Cối xay)
Vạch trần bộ mặt phản bội, làm tay sai cho giặc của Tôn Thọ Tường, Phan Văn
Trị mượn hình ảnh của phường hát bội:
Trên trính có nhà còn hợp lọng
Dưới chân không ngựa lại giơ roi
Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
(Hát bội)
110
Huỳnh Mẫn Đạt cũng mượn những hình ảnh quen thuộc khi cười cái già của bản
thân để kí thác tâm sự. Thi pháp trung đại thể hiện rất rõ trong thơ của Huỳnh Mẫn
Đạt, khi nói lên chí hướng, nguyện vọng của mình, ông không nói thẳng mà thường
mượn những đề tài, điển tích quen thuộc của thơ Đường. Những người lớn tuổi, khi
trong nước xảy ra biến cố thì tự thấy mình đã già nua yếu đuối chẳng khác nào những
con “ trâu già”, “chó già” đã qua rồi cái thời xông xáo. Những hình ảnh ấy chứa đựng
tâm sự sâu xa trong lòng ông. Ông gửi gắm nỗi niềm, cất tiếng kêu than, tiếc nuối vô
vọng vì không thể làm gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan.
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai điếc chỉ nghe Nịnh Thích ca
Hoặc:
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối
Vì lo khỉ Sở mới dun da
Nên:
Mạnh mẽ như xưa còn xốc vác
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
Khỉ Sở, hươu Tần, lửa Điền Đan, ca Nịnh Thích là những đề tài quen thuộc mà
các nhà thơ trung đại thường sử dụng, nó thể hiện những thực tế xã hội một cách cô
đọng, hàm súc.
Thơ Học Lạc cũng thường dùng những hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. bọn hương
chức đại phương ẩn hiện qua hình ảnh con chó chết trôi, đã làm việc xấu việc ác thì
cho đến lúc chết tiếng nhơ vẫn không thể gột rửa:
Sống thì bắt thỏ thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc còn phơi lẩn dẩn
Thối tha danh hãy nổi lều bều.
Chúng như những con trâu, con tôm, ông làng hát bội bị nhà thơ lột lớp mặt nạ
giả dối để lộ ra bản chất là những kẻ ngu dốt, hèn nhát, bất tài, không có nhân cách rất
đáng khinh ghét.
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
111
Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.
(Con trâu)
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu
(Con tôm)
Trong bụng trống trơn mang cổ giữa
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.
(Ông làng hát bội)
Nhiêu Tâm cũng mượn hình ảnh của cặp gà đá, ông táo, chuột cống để châm
biếm những thói hư tật xấu trong xã hội:
Cựa suôn máu đỏ tuông đầy đất
Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi
Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy
Hay là giành xé hạt cơm rơi.
(Đá gà nòi)
Hay:
Bắt hơi chó xịt cong lưng chạy
Nghe tiếng mèo kêu rút cổ đi.
(Chuột cống)
Ngoài ra, phép tương phản, đối lập cũng là một thủ pháp nghệ thuật mang lại
hiệu quả cao trong việc tạo ra tiếng cười trong thơ trào phúng Nam Kì. Nhờ đó, tư
tưởng, tình cảm thái độ của các nhà thơ trước hiện thực được thể hiện ra một cách nổi
bật. Tương phản là biện pháp tu từ dùng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập
nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối
tượng được miêu tả. Học Lạc miêu tả con tôm với dáng vẻ oai vệ: “đái kiếm”, ‘mang
râu” nhưng đầu thì chứa toàn là thứ cặn bã. Phan Văn Trị nói đến con rận cũng như
vậy, “mặt mũi” “cũng có râu” nhưng lại “chẳng biết dụng vào đâu”. Huỳnh Mẫn Đạt
tự ví mình như chó già, trâu già, tuy muốn “xông pha” cứu nước nhưng đành bất lực
vì “bây giờ yếu đuối”. Bên cạnh đó, họ còn dùng lối đánh bất ngờ, trong những câu
đầu tác giả nói năng một cách tôn trọng nhưng đến hai câu cuối bài thì quay ra vạch
112
trần bản chất xấu xa một cách bất ngờ khiến bài thơ trở nên thú vị, người đọc cười hả
hê khi hiểu được dụng ý tác giả.
3.2. Ngôn ngữ quần chúng Nam Kì - nguồn của mọi nguồn
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị nhưng điêu luyện, tài tình
Ngôn ngữ vừa là một thành tố của văn hóa, vừa là một phương tiện, chất liệu của
văn học. Ngôn ngữ và văn chương luôn luôn vận động và biến đổi. Văn chương dùng
ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Ở từng
giai đoạn, các nhà thơ đã có ý thức sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt tình cảm, cảm xúc
của mình. Nếu như thơ Đường luật yêu cầu thứ ngôn ngữ của thơ phải là ngôn ngữ
giàu sức gợi, dồn nén, chắt lọc và nhiều dư ba thì đến với các nhà thơ trào phúng Nam
Kì, họ đã thay đổi cách nghĩ, cách cảm về ngôn ngữ vốn đã mặc định từ lâu đó. Ngôn
ngữ thơ của họ rất phong phú bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân
dân nơi vùng Lục Tỉnh. Nó gần gũi, thân thuộc như hơi thở. Trong các bài thơ chúng
ta dường như ít thấy những điển tích điển cố nặng nề, những hình ảnh khuôn sáo,
những từ Hán Việt mà trước đây các nhà Nho xưa rất ưa chuộng. Nhờ đó, ngôn ngữ
mang sắc thái tươi tắn, đầy hình ảnh của tiếng nói quần chúng lao động và phong vị
đậm đà của tiếng nói con người nơi vùng đất mới, khó có thể trộn lẫn với các vùng
khác.
Việc đưa những từ ngữ, lời ăn tiếng nói hằng ngày vào trong thơ trào phúng đã
khiến cho những tác phẩm trở nên dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ đi vào lòng người một
cách tự nhiên.. Sử dụng chất liệu ngôn từ xuất phát từ chính cuộc sống thường nhật
của nhân dân lao động, ngôn ngữ thơ trào phúng Nam Kì vì thế không nghiêng về trau
chuốt cầu kì mà giản dị, gọn sắc và sâu nặng tình ý. Ở đây ít có cái mỹ lệ thường thấy
trong thi ca cổ điển mà là một kiểu ngôn ngữ thơ đọc lên là thấy ngay được hình ảnh
những con người vùng Lục Tỉnh với những đặc trưng tính cách rất riêng. Mặc khác,
ngôn ngữ được các nhà thơ sử dụng cũng mang những đặc trưng đầy đủ về phương
ngữ Nam Kì ở cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ văn chương được các nhà thơ trào phúng Nam Kì sử
dụng có thể xem như một thành công lớn, một đóng góp lớn cho việc phát triển ngôn
ngữ dân tộc. Đó là thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường nhưng rất văn chương.
113
Có điêu luyện lắm mới biến sự phổ biến của ngôn ngữ đời thường thành của riêng
mình nhưng được mọi người chấp nhận và tán dương. Họ đã làm được điều đó. Không
một ai không thích thứ ngôn ngữ mộc mạc mà “văn chương” ấy. Ngôn ngữ trong sáng
tác của các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã kéo gần hơn khoảng cách người đọc với tác
phẩm của họ, khiến chúng đi vào trong dân gian để lưu truyền một cách thật dễ dàng.
Ngôn ngữ thơ trào phúng Nam Kì là ngôn ngữ lấy từ cuộc sống bình thường, trần
trụi, khẩu ngữ dân gian. Đó là thứ ngôn ngữ không cầu kì, bóng bẩy tạo nên sự chân
thành, gần gũi với quảng đại quần chúng. Trong thơ Phan Văn Trị là sự xuất hiện của
rất nhiều từ ngữ mang tính địa phương không thể lẫn vào đâu: sải chơn, hêu đòi, lúc
thúc, khuấy ngứa, gầy dân, đà ghe thuở, lụy, tóm rốc, tay phăng, chim nhíp cánh, dân
xanh mặt, vun quén, rầy, tợ, tráo chác, sai rầy, khua khéo, búa voi, khoe mòi, xăn văn,
kình nhau, nói vơ, lung lăng, thảm ghe,nong nả, gió xẳng, bôn chôn, .....Thơ Huỳnh
Mẫn Đạt: bưa bưa, xơi tối, đứa tà, doi bạc, lém bém, do de, chêu chao, tích toác, giải
cấu, đè ne, bít mặt, núp, dòm, lèn, ló mòi,...Học Lạc cũng sử dụng rất nhiều từ ngữ
Nam Kì rất đặc trưng: mèo quào, bơ thờ, láo ngạo, lăng xăng, một lũ, đồn tụ, bông
vụ,lem nhem, lém đém, nghé ngọ đai kiếm, hiu hiu, ngán, ngộp, sánh bì, mót, bò càng,
thoi trở, tỉnh đặng, trọc lóc, phạt vạ, ẵm bồng, nổi phều, le the, sài hồ, binh lang, trổ
mặt, lánh thân, làm mọi, sui hư ... Thơ Nhiêu Tâm có mật độ càng dày đặc: rờ, xảng
tay, phỉnh phờ, giãy, tréo đời, úc núc, đái, réo, mắng vốn, xịt, cong lưng chạy, tha
thởn, xí hụt, sính sái, lô xô, mã mồ, câu quẹt, xỉa tiền, khờ khịt, ngộ, quá chừng, phẩn,
mầy, chấp chứa, rước, chuốt ngót, vô, nổi phình, ngán, thớ thớ, giục xô, chẳng chày
thì kíp ... Từ đó có thể thấy sự ý thức đặc biệt trong việc giữ gìn phương ngữ Nam Kì
trước những biến cố của lịch sử cũng như ảnh hưởng từ những địa phương khác.
Ngôn ngữ họ sử dụng tuy rất giản dị, kết hợp với chất liệu dân gian, ngôn ngữ
đời thường làm cho lời văn trở nên gần gũi hẳn nhưng đôi khi nếu không phải là người
Nam Kì thì khó có thể hiểu hết được. Song, việc kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương
với ngôn ngữ dân gian trong sáng tác của họ đã làm nên đặc sắc nghệ thuật nổi bật. Họ
đã mang lại tiếng nói riêng từ tài sản chung của dân tộc. Các nhà thơ trào phúng Nam
Kì đã chắt lọc và sử dụng một cách tài tình vốn ngôn ngữ quý báu này để làm nên
những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác văn chương. Họ đã thổi vào những câu
114
thơ một sức sống mới, một hơi thở mới, để tạo nên những tiếng cười mang đậm màu
sắc của văn hóa Nam Kì, phản ánh tâm tư của họ trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân
xâm phạm.
Cũng như đa số các nhà văn, nhà thơ khác, có lẽ các nhà thơ trào phúng Nam Kì
Lục Tỉnh tìm về với ngôn ngữ quần chúng trước tiên là bởi tính chất đơn giản, dễ hiểu,
dễ đi vào lòng người của nó. Nhưng khác nhau ở chỗ họ không chỉ sử dụng vốn ngôn
ngữ ấy để sáng tác thơ văn đơn thuần mà họ còn nhằm biểu hiện tính cách của người
dân Nam Kì. Do đó, sẽ không khó để chúng ta lí giải vì sao họ lại sử dụng nhiều từ
ngữ dưới hình thức biến thể ngữ âm Nam Kì. Sự biến đổi về mặt ngữ âm của các từ
ngữ trong thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì được thể hiện rất tự nhiên:
Mặt mũi như vầy cũng có râu
Cả đời chẳng biết dụng vào đâu
.....
Uổng sanh cho nhộn trong trời đất
Có có không không cũng chẳng cầu.
(Con Rận -Phan Văn Trị)
Hay:
Nắng rọi mõ chuông khô nứt mặt
Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu.
(Chùa hư - Phan Văn Trị)
Mấy từng đài các sải chơn leo
Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo.
(Con mèo - Phan Văn Trị)
Vằn vện xác còn phơi lững đững
Thúi tha danh hãy nổi lều bều.
(Chó chết trôi – Học Lạc)
Phạt tạ xong rồi trở lộn về
Hoá thời hốt thuốc, lứ bông vụ
(Ngồi trăng – Học Lạc )
Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngợp trông
115
Đường thẳng ngựa biêu chơn ngán bước.
(Thuộc Nhiêu tức cảnh – Học Lạc)
Sắc tài có một đỉnh đình đinh
Khắp cả dân gian tiếng nổi phình
(Hóm hỉnh vịnh Kiều – Nhiêu Tâm)
Hoặc:
Giấu để trong buồng e đóng đục
Phành ra trước mắt thấy ngon dao
.....
Chuốt ngót của mình ai dám chắc
Biết lòng biết ruột xỉa tiền trao.
(Ghẹo gái bán cau – Nhiêu Tâm)
Sự biến đổi ấy chỉ thể hiện ở phương diện hình thức chứ ngữ nghĩa của từ vẫn
không thay đổi. Sự biến đổi này được hình thành chủ yếu do ảnh hưởng từ cách phát
âm của người dân Lục Tỉnh. Như chúng ta biết, phương ngữ mỗi miền đều có cách
phát âm riêng. Những biến thể phát âm này sẽ bộc lộ rõ trong giao tiếp khẩu ngữ.
Trong ngôn ngữ viết, các biến thể phát âm trên ta không thấy lộ ra do yêu cầu của
chính tả. Tuy nhiên, trong tác phẩm văn chương, để miêu tả đúng cách nói năng riêng
của từng nhân vật, ở những địa phương khác nhau, nhà văn có thể khai thác các biến
thể phát âm nói trên bằng cách ghi lại đúng cách phát âm của nhân vật qua con chữ.
Và các nhà thơ trào phúng đã nói trên là nhà văn của miệt vườn Nam Kì Lục Tỉnh, nên
hơn ai hết văn phong của họ thể hiện rất đậm nét những biến thể ngữ âm. Qua đó cũng
góp phần thể hiện phong cách của những cây bút suốt đời tận tụy, gắn bó cuộc đời
mình với vùng đất và con người phương Nam. Dường như họ muốn giữ lại những gì
quen thuộc, mộc mạc và bình dị trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người nơi
đây ngay cả khi đưa thứ ngôn ngữ ấy vào trong nghệ thuật văn chương. Nó làm cho
ngôn ngữ văn chương trở nên gần gũi với ngôn ngữ đời sống, mang đậm chất khẩu
ngữ của người dân Lục Tỉnh hơn. Đồng thời cho thấy họ không chỉ yêu mến vùng đất,
con người nơi đây mà còn quý trọng lời ăn tiếng nói hằng ngày của họ, họ không
116
muốn làm khác đi thứ ngôn ngữ vốn đã quen thuộc và bám sâu vào đời sống của người
dân phương Nam.
Người dân Lục Tỉnh nói chung đều chân chất, giản dị nên lời nói của họ cũng
thật thà, thẳng thắn, không né tránh. Học Lạc khi nói về những kẻ tự xưng mình là
vương tôn, vương hầu thật “thẳng như ruột ngựa”:
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu
(Con tôm – Học Lạc)
Hay tự nhận xét về mình:
Văn chương chẳng phải bợm mèo quào
Danh lợi không ra cái cóc rác.
(Tạ hương đảng)
Nhiêu Tâm cũng luôn nói thẳng, nói thật khiến những kẻ mang những thói hư tật
xấu phải thẹn mặt:
Chấp chứa làm chi những giống hôi
(Bỡn ông thầy đồ)
Phan Văn Trị khi vạch mặt, lên án tên việt gian Tôn Thọ Tường đã dùng những
lời lẽ thật nặng nề, không kiêng nể, e dè. Dường như nhà thơ đã cất lên tiếng chửi rủa
thẳng thắn thay cho người dân nơi đây, tỏ rõ thái độ phê phán, khinh miệt đối với
những tên bán nước hại dân, những kẻ lừa bịp, dối trá, đã phản bội tổ quốc mà còn ra
sức thanh minh:
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mảng lo danh chẳng chói
Đứa ngu luống đợi tuổi không chờ.
(Bài họa 2a)
Dễ lay đâu đặng loại tanh nhơ
Bàn tính phòng toan việc bá vơ
(Bài họa 2b)
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa
117
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
(Bài họa 3a)
Huỳnh Mẫn Đạt với thái độ yêu ghét rõ ràng đã mắng thẳng vào tên tay sai của
giặc:
Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe.
Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve!
Chớ nói "đổi dời", sao cốt cách?
Xưa nay giỏ nát vẫn còn tre!
(Giễu Tôn Thọ Tường, bài 2)
Qua một vài câu thơ mang giá trị biểu cảm sâu sắc ta càng hiểu rõ hơn về nhân
cách của các nhà thơ Nam Kì. Họ là người chuộng lối sống bình dị, quý trọng những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động, luôn đứng về phía người dân lao động để
lên tiếng phê phán, phản đối, tố cáo gay gắt đối với những hạng người dẫm lên mồ hôi
nước mắt của dân mà tồn tại.
Một đặc điểm của ngôn ngữ Nam Kì là giản dị nhưng giàu sức gợi đặc biệt nhờ
vào hệ thống từ láy tượng hình, tượng thanh, từ láy miêu tả cảm giác, tâm trạng giàu
tính biểu cảm. Trong các bài thơ trào phúng của mình các nhà thơ đã sử dụng từ láy
một cách rất đắc địa, mô tả chính xác về những sự vật, sự việc.
Lúc thúc trong chăn cứ rụt đầu
(Con rận – Phan Văn Trị)
Chỉ một từ “lúc thúc” chúng ta đã thấy ngay bản chất vừa thật của con rận, vừa
biểu tượng của bọn quan lại, tay sai của thực dân. Qua khảo sát thơ Phan Văn Trị,
chúng tôi nhận thấy rằng, đa số các bài thơ của ông thường sử dụng những từ láy nhằm
tăng sức gợi hình, mang lại giá trị biểu đạt cao.
Còn Huỳnh Mẫn Đạt, chỉ với hai câu thơ dùng hai từ láy đã khắc họa được tính
cách, thái độ của hai con người không cùng chí hướng lâu ngày gặp mặt:
Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu
Lơ thơ già núp cội cây hòe.
(Giễu Tôn Thọ Tường – Bài 1)
118
Học Lạc cũng là bậc thầy trong việc sử dụng từ láy. Ông miêu tả rất hay, rất
chính xác đối tượng phê phán: những tên hương chức bất tài vô học qua hình ảnh các
ông làng hát bội:
Trong bụng trống trơn mang giữa cổ
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.
(Ông làng hát bội)
Trong thơ Nhiêu Tâm, các từ láy xuất hiện với những âm thanh, hình ảnh thật
tươi vui, hóm hỉnh:
Xưa là đất sét ở bờ khe
Nhồi nắn nên hình lão táo be
Vỗ vóc nên hình thân úc núc
Đặt tên dùi bụng chẳng kiêng dè.
(Ông táo)
Mật độ từ láy xuất hiện rất dày đan xen với những hình ảnh thật gần gũi với đời
sống hằng ngày của nhân dân Nam Kì càng làm tăng sức biểu đạt, tăng sức gợi và tính
biểu cảm cho thơ trào phúng của họ. Các từ láy cũng là những từ mang đậm tính địa
phương, chỉ cần đọc lên chúng ta đã nghe phong vị của vùng Lục Tỉnh thật đậm đà:
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
(Con trâu – Học Lạc)
Lỏng khỏng cỏng nồi da mốc thếch
Lum khum đội chảo mặt đen sì
(Ông Táo – Phan Văn Trị)
Một đôi mươi uổng tính xăng văng
Đất lở ai mà dễ dám ngăn
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
(Bài họa 9a – Phan Văn Trị)
Màn ráng xuê xoang trải gấm điều.
Ngả ngớn lưng trâu ngơ vót mục,
119
Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều.
(Cảnh trời chiều – Huỳnh Mẫn Đạt)
Những thành ngữ được các nhà thơ Nam Kì sử dụng rất sáng tạo ở những dạng
cải biến, vận dụng theo lối mượn ý của thành ngữ gốc và triển khai theo phong cách
khẩu ngữ của người Nam Kì khiến cho câu thơ trở nên sinh động, tự nhiên và có màu
sắc triết lý hơn.
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,
Năm dây đởn khảy biết nghe đâu.
(Con trâu – Học Lạc)
Nhà văn đã mượn ý của thành ngữ ‘‘đàn gảy tai trâu’’ để diễn đạt theo lối nói
thông thường của người dân Nam Kì, vẫn thể hiện thái độ khinh ghét, chế giễu những
kẻ hương chức dốt nát mà lại hay lên mặt với đời.
Phan Văn Trị cũng thường hay sử dụng nhũng thành ngữ ở dạng mượn ý này.
Khi nhắc nhở Tôn Thọ Tường đừng vì dựa hơi thực dân mà lên mặt dạy đời, Phan Văn
Trị mượn ý của câu thành ngữ ‘‘rung cây nhát khỉ’’ một cách thật sáng tạo:
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay.
(Bài họa 1a)
Thành ngữ vốn có tính chất ngắn gọn, cô đọng mà hàm súc, chỉ một vài từ gói
gọn trong một cụm từ hoặc một câu là có thể diễn đạt trọn vẹn nội dung. Tuy nhiên,
nói như vậy không có nghĩa là khi được cải biến bằng cách thêm từ sẽ làm giảm đi giá
trị của thành ngữ, mà ngược lại nó còn làm tăng giá trị biểu cảm hơn. Chẳng hạn:
Trối kẻ rung cây mà nhát khỉ
Trước sau giữ một tấm lòng hằng.
(Bài họa 9b - Phan Văn Trị)
Thêm vào từ chỉ quan hệ “mà” trong thành ngữ rung cây nhát khỉ, Phan Văn Trị
không chỉ không làm mất đi tính chất hàm súc của thành ngữ mà còn làm gia tăng giá
trị biểu đạt của thành ngữ gốc. Thành ngữ được cải biến với tính chất nhấn mạnh việc
làm của kẻ phản nước hại dân.
120
Cách dùng từ thoải mái, thêm chút tự do và có lúc có thể nói ngang tàng cũng
chính là một trong những đặc điểm ngôn ngữ của các nhà thơ trào phúng Nam Kì. Khi
lên tiếng chế giễu sự lố lăng mê gái của một tri huyện già, Nhiêu Tâm ngẫu hứng:
Của đời thấy vậy dửng dừng dưng
Cha trẻ con già ngộ quá chừng
Nọ nọ ông gia khờ khịt mặt
Này này chàng rể rụng trơn răng.
(Cha trẻ, con già)
Tài làm thơ của Nhiêu Tâm thật đáng ngưỡng mộ. Dường như ông cứ xuất khẩu
là thành thơ. “Bỡn ông thầy đồ” cũng được sáng tác như vậy. Những từ ngữ ông sử
dụng hết sức gần gũi:
Chặt chân chẳng nở thây nhằm đạp
Bịt mũi mà qua đã gớm rồi.
Bên cạnh việc vận dụng các từ ngữ mang tính địa phương, các nhà thơ trào
phúng Nam Kì còn có cách chơi chữ rất độc đáo mà nếu không phải người miền Nam
thì cũng khó mà nhận ra hết sự thâm thúy của nó. Nhiêu Tâm là người có lối chơi chữ
rất hóm hỉnh đó. Trong một lần tình cờ gặp bá hộ Nọn, một người mà nhà thơ không
thích, mặc cho bá hộ tỏ thái độ vui mừng, vồn vã, Nhiêu Tâm vẫn thản nhiên khi trả
lời những câu hỏi của tên bá hộ:
Thấy anh tôi nghĩ lại tôi buồn
Tôi khó, anh giàu đã hóa muôn
Anh vậy, tôi vầy trời khiến vậy
Chúc cho con cháu vậy luôn luôn.
Bài thơ có bốn câu được tác giả khéo léo sử dụng từ đồng âm làm tăng thêm giá
trị châm biếm. Từ “muôn” trong câu thứ hai ở Nam Kì thường đọc là “muông” do
cách phát âm vùng miền. Mà “muông” có nghĩa là con chó. Ở đây, Nhiêu Tâm châm
biếm bá hộ Nọn giàu quá hóa ra ngu dại như con chó.
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo trong thơ
trào phúng của Nhiêu Tâm đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng cho thơ ông:
vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa lãng mạn, bay bổng. Hơn nữa, có thể nói chất
121
liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của Nhiêu Tâm, tạo nên những
tiếng cười nhẹ nhàng. Chỉ nói đến cách sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ta cũng
thấy sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng, rất độc đáo. Tên một số bài thơ
của Nhiêu Tâm được ông lấy ngay những câu ca dao rất hóm hỉnh mà ai ai cũng biết.
Đêm nằm tơ tưởng tưởng mơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
hay:
Đôi ta chẳng mốt thì mai
Chẳng trong tháng chạp cũng ngoài tháng giêng.
Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc. Ca dao cũng mang những nét trào phúng,
hài hước, bông đùa, hóm hỉnh, dí dỏm vì thế những bài thơ lấy ý thơ từ những câu ca
dao quen thuộc cho ta thấy Nhiêu Tâm rất yêu chuộng cái chất liệu dân gian, đề từ
dân gian mà biến nó thành tài sản của riêng mình một cách thú vị. Ông cũng biến đổi
cách đọc của chúng cho phù hợp với phương ngữ của người dân Lục Tỉnh: “bạn” đọc
là “bậu”. Bậu trong tiếng Nam Kì là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ hai, ở đây nói về cô
gái. Có thể thấy ở những bài thơ trên của Nhiêu Tâm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển
ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình,
không ngoài mục đích ca ngợi bản sắc văn hoá của người Nam Kì. Vì thế khi tiếp xúc
tạo cho người đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác quen vì từ thuở ấu thơ mỗi
người trong chúng ta, ai cũng đã sống trong không khí văn hoá dân gian, nên mỗi
người Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca dao, chỉ đọc lên là đã thấy cái hay, cái đẹp,
cái gần gũi. Còn cảm giác lạ là vì khi đọc những bài thơ từ những chất liệu văn hoá,
văn học dân gian rất gần gũi ấy, ta cảm nhận nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng
mới mẻ bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho tác phẩm, tạo ra tiếng cười quên đi muộn
phiền của cuộc sống. Ở thơ Nhiêu Tâm, tính triêt lí gần với cách nói của dân gian
khiến lời thơ trở nên gần gũi với cuộc sống thực tế, dễ thấm sâu vào trong lòng người
đọc.
Ngôn từ văn học vốn không như ngôn từ ta hay dùng trong sinh hoạt hằng ngày.
Ngôn ngữ đời sống dùng trong lao động và sinh hoạt hằng ngày là chủ yếu, có tác
dụng nhận và phát thông tin nên người ta thường đơn giản ngôn từ đến mức tối đa sao
122
cho người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu là được. Ngôn từ trong các bài thơ trào phúng
Nam Kì vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ của quần chúng nhân dân nhưng nó lại không
dùng một cách đơn giản như lời nói thông thường. Từ lời nói thô mộc thông thường ấy
các nhà thơ đã nhào nặn và tái tạo lại nó, khoác cho nó tấm áo mới. Lời nói bình
thường trở thành ngôn ngữ nghệ thuật, nó gợi dậy những cảm xúc, cho ta cảm giác
mới mẻ và trong ngần. Các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã rất thành công khi sử dụng
vốn từ của vùng đất mới này để cất lên những tiếng cười nhiều âm sắc. Thơ Nôm
Đường luật của các nhà thơ Nam Kì có cách diễn đạt hết sức bình dân với cả một hệ
thống ngôn ngữ thơ rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân. Tiếp tục cái
quá trình sử dụng và không chế chất liệu ngôn ngữ thuần Việt. Đặc biệt là họ đã đưa
vào thơ những chất liệu thường ngày, những câu chữ xuất từ ca dao, tục ngữ, từ tiếng
nói bình dân. Cuộc sống gắn bó sâu sắc với quần chúng nhân dân, lo cho dân, những
tình cảm sâu nặng, gắn bó với nhân dân trong những ngày đất nước bị xâm lăng đã
khiến các nhà thơ đồng cảm với cuộc sống của những con người thấp bé nhất trong xã
hội. Ở các nhà thơ trào phúng, ngôn ngữ Nam Kì được nâng lên một trình độ nghệ
thuật mới, rất giản dị nhưng vô cùng tinh tế, điêu luyện, linh hoạt, gần gũi với lời ăn
tiếng nói của nhân dân. Càng bàn về thơ ca trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh nói riêng,
thơ văn Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy sự giàu đẹp và phong phú của tiếng
nước ta, càng hãnh diện về ngôn ngữ của dân tộc ta. Ngôn ngữ quần chúng đem đến
cho thơ Đường luật Nam Kì một phong vị đậm đà, một tính chất bình dị, dân dã.
3.2.2. Ngôn ngữ thô ráp, góc cạnh, không trau chuốt
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Tuy nhiên, ngôn từ không phải chỉ bao gồm từ
mỹ từ. Nó còn có cả những từ ngữ bình dân, thô ráp. Vốn chất liệu từ trong nhân dân
đã được các nhà thơ trào phúng Nam Kì đưa vào trong thơ ca của mình không chút gọt
giũa.
Mất đi cái học tầm chương trích cú, sính vận cổ với những lời lẽ thâm thúy của
thể loại thơ Đường luật, thay vào đó là sự nôm na gần gũi nhưng vẫn rất thơ, thơ trào
phúng không còn là những lời vàng ý ngọc trau chuốt, mà có khi gắn với giọng điệu
chanh chua, với những vần thơ bốp chát:
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
123
Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
.....
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn gảy biết chi đâu.
(Con trâu – Học Lạc)
Mặt mũi như vầy cũng có râu
Trong đời chẳng biết dụng vào đâu.
(Con rận – Phan Văn Trị)
Từ ngữ được các nhà thơ trào phúng Nam Kì dùng rất sát với giới bình dân, có lẽ
vì họ xuất thân từ giới bình dân. Hai câu thực trong bài Vịnh ông Táo của Phan Văn
Trị xuất hiện các từ rất nôm na:
Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích
Lum khum đội chảo mặt đen sì.
Những bài thơ Nôm lời thơ trong sáng như bài “Cảnh trời chiều” của Huỳnh
Mẫn Đạt cũng chung thứ ngôn ngữ ấy:
Trưa sớm đài danh gió bụi nhiều,
Vườn quê vui thú cảnh trời chiều.
Nhành chim rải rác đơm bông bạc,
Màn ráng xuê xoang trải gấm điều.
Ngả ngớn lưng trâu ngơ vọt mục,
Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều.
Xót người mạng bạc trong chằm nhạn,
Ngó mống trông mây biết mấy nhiêu.
Các nhà thơ đã kết hợp sử dụng ngôn ngữ chân chất mộc mạc thậm chí trần trụi
của khẩu ngữ, tạo vẻ đẹp tươi tắn cho bài thơ của mình. Họ lựa chọn từ ngữ trong kho
tàng ngôn ngữ phong phú dân dã của đời sống, chắt lọc để nâng lên tầm cao của ngôn
ngữ nghệ thuật. Câu thơ có khi như câu nói đời thường. Tuy thông tục nhưng vẫn
phảng phất vẻ đẹp thanh tao, trang nhã, tạo cảm giác nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người.
124
Vẻ đẹp của khẩu ngữ ở mỗi nhà thơ là khác nhau. Phan Văn Trị với những từ: mòn
răng, trặc họng, tháy máy, bôn chôn, chịu lòn, gai mắt, lõ mắt, cành hông ...Huỳnh
Mẫn Đạt: bưa bưa, đĩ già, hủng hỉnh, hi ha, ứa lá gan,... Hệ thống từ ngữ được các
nhà thơ Nam Kì sử dụng chính là ngôn ngữ trong đời sống giao tiếp hằng ngày, tạo
dấu ấn khẩu ngữ đậm nét trong thơ.
Ngôn ngữ đời thường tràn vào thơ mang cho thơ nội dung dân chủ. Ngôn ngữ đời
thường mang tính nghệ thuật, chứa đầy thi hứng trong thơ Phan Văn Trị. Những từ
ngữ dân gian, những câu nói cửa miệng, những lời nói vô cùng bộc trực:
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
....
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng
Chờ khi tháy máy phải ra tay
(Họa Giang san ba tỉnh )
Những câu thơ này không khác gì lời nói hằng ngày nhưng lại chứa đựng nhiều ý
nghĩa. Trong thơ văn của mình, các nhà thơ Nam Kì đã ưu tiên dành cho lớp từ thuần
Việt với tất cả những khả năng biểu hiện vốn có của nó. Là những từ được dùng rất
chính xác, cụ thể lại cô đúc, lột tả được cái hồn sự vật.
Ngôn ngữ đời thường có liên quan mật thiết đến văn chương trào phúng nên bộ
phận khẩu ngữ, sự có mặt của lớp từ mỉa mai khá phổ biến là điều dễ hiểu. Các nhà
thơ sử dụng ngôn ngữ quần chúng nhân dân để diễn tả những nỗi niềm, khai thác mặt
châm biếm, mỉa mai, đùa cợt thậm chí nguyền rủa, lột trần sự thật, nhìn thẳng vào mặt
những con người xấu xa, để mà đả kích. Các từ ngữ mang sắc thái này xuất hiện rất
nhiều trong thơ trào phúng của họ.
Trong bộ phận khẩu ngữ, lớp từ tục, từ chửi trong cuộc sống đời thường tràn
ngập vào ngôn ngữ thơ không chút e dè. Các nhà thơ biết dùng đúng chỗ, đúng lúc, nói
đúng bản chất của sự vật sự việc khiến nhũng từ tục trở nên có giá trị, trở thành ngôn
ngữ nghệ thuật. Các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh đã chứng tỏ rằng, ngôn ngữ thơ không
nhất thiết phải mang tính quý tộc, đài các. Họ không bao giờ tìm cách né tránh các
tiếng chửi rủa. Ngôn ngữ thông tục, đời thường, chưa có sự gia công, trau dồi, ít gắn
125
với những chuẩn mực nguyên tắc. Các từ ngữ thuộc lớp này khi đi vào hoạt động giao
tiếp, ít nhiều có thể tự do, phóng túng nếu điều kiện cho phép. Nói cách khác, chúng
có nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình.
Tương truyền, có lần cùng bạn thân là Đốc học Trưng đi bộ từ Cần Thơ đến Bình
Thủy, dọc đường Phan Văn Trị vừa đi, vừa đái, vừa ngâm:
Đứng lại làm chi cho mất công
Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng.
Ông Táo trong thơ Nhiêu Tâm cũng không được kiêng nể:
Trẻ đái không kiêng, quở kiếm chè.
(Ông Táo – Nhiêu Tâm)
Học Lạc cũng sử dụng các từ dung tục trong thơ mình nhiều lần:
Vành mâm xôi đề tên “thằng Lạc”
(Tạ hương đảng)
Con tôm được tả thực với đầy ý ám dụ:
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.
Con người vùng nào cũng vậy, khi gặp một chuyện không vừa ý thường vẫn thốt
lên những tiếng gay gắt, thô bạo. Yếu tố tục trong thơ của các nhà thơ Nam Kì cất lên
nhằm mục đích phản ứng lại xã hội đương thời đầy rẫy những áp bức, bất công, trái tai
gai mắt.
Với yếu tố tục, các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã ném vào bộ mặt đạo đức giả
của những hạng người đáng phê phán trong xã hội bấy giờ những thứ chúng cho là bùn
nhơ, là bẩn thỉu. Yếu tố tục trong các câu thơ làm cho tính chất trào phúng được nâng
lên đến đỉnh của nó. Nó làm cho tiếng cười trở nên giòn giã hơn, sự chế giễu sâu cay
hơn. Yếu tố tục ấy không chỉ dùng để châm biếm, đả kích phê phán những hành động,
tính cách xấu xa hay phản ứng lại chế độ phong kiến với những kẻ cậy quyền ỷ thế mà
nó còn được sử dụng vào mục đích mua vui, chỉ để thỏa mãn sự nghịch ngợm của các
nhà thơ.
Nằm trong hệ thống ngôn ngữ dân tộc, thể hiện tính dân tộc tính nhân dân và tính
dân chủ trong cả nội dung lẫn hình thức, thơ của các nhà thơ trào phúng thể hiện sậu
sắc nếp nghĩ, nếp cảm của người dân vùng Nam Kì Lục Tỉnh. Sử dụng ngôn ngữ dân
126
tộc các nhà thơ có thể phản ánh cuộc sống bình thường của nhân dân một cách linh
hoạt và cụ thể hơn, dễ dàng thấm sâu hơn vào cảm quan của người đọc. Khi đi vào đời
sống dân dã, các tác giả ít có những hình tượng nghệ thuật có sẵn, họ sáng tạo ra
những hình tượng mới bắt nguồn từ chính bản thân đời sống hằng ngày họ quan sát
thấy. Do vậy, những hình tượng nghệ thuật được xây dựng trực tiếp từ đời sống đã tác
động lớn đến cách nhìn, cách cảm nhận của nhân dân. Hệ thống ngôn ngữ chịu tác
động đồng thơi góp phần quan trọng thúc đầy quá trình dân tộc hóa, dân chủ hóa.
Ngôn ngữ đời sống có vị trí đáng kể trong nhiều sáng tác giữ vai trò quan trọng
trong việc thể hiện những nội dung có tính chất đời thường thông tục, những nội dung
có tính trào phúng góp phần thay đổi chức năng phản ánh và chức năng thẩm mĩ của
thể loại.
Khi sáng tác, các nhà thơ trào phúng rất ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa
đẩy, rào đón, hoặc diễn đạt cho sinh động:
Hơn thua tranh cạnh mà chi vậy?
Đồng loại như bay thật tréo đời.
( Đá gà nòi – Nhiêu Tâm)
Làm trời còn khổ vì thiên hạ
Hà huống chi ta sống ở đời.
(Làm trời khó – Nhiêu Tâm)
Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
(Hát Bội – Phan Văn Trị)
Vì thế liều mình cơn nước lửa
Người đá có thấy hỡi người si.
(Hột lúa – Phan Văn Trị)
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
(Bài họa Giang san ba tỉnh, bài 3)
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
127
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay !
(Bài họa Giang san ba tỉnh, bài 1)
Thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên
những nụ cười lúc nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị, lúc giòn giã, đả phá đi ngược lại với văn
chương hàn lâm, bác học, trả lại cho văn hóa dân gian cái chân chất vốn có của ngàn
năm thôn quê, mộc mạc mà dễ nhớ. Ngôn ngữ nói thông thường, dùng trong cuộc sống
hằng ngày không cần trau chuốt, gọt dũa nhưng vẫn thể hiện được những vấn đề mà họ
quan tâm một cách hết sức dân dã, trần tục, đời thường.
3.3. Giọng điệu trào phúng
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “giọng điệu (tone) chính là thái độ tình cảm,
lập trường tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện
trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ
xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...Giọng điệu phản
ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất
lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người
đọc.”..[39, tr.134].
Trong văn chương hiện thực trào phúng của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh, hai
giọng điệu cơ bản chủ đạo là giọng châm biếm, đả kích và giọng hài hước, bông đùa.
Hai giọng điệu này cũng là yếu tố cơ bản góp phần làm nên thành công của mảng thơ
ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ Nam Kì, nhờ đó những bài thơ trào phúng của
họ đã để lại ấn tượng sâu sắc.
3.3.1. Giọng châm biếm, đả kích
Giọng châm biếm mỉa mai là giọng điệu chủ đạo trong thơ trào phúng. Xã hội
phong kiến vốn đã nhiều cái đáng cười, đáng lên án, chửi rủa thì nay lại càng tăng lên
gấp bội bởi sự xuất hiện của thực dân. Họ nhận thấy xã hội thực dân nửa phong kiên là
một xã hội vô nghĩa lí và dùng giọng điệu đả kích để lột tả xã hội ấy. Người đọc dễ
dàng nhận ra giọng chế nhạo, mỉa mai trong hệ thống từ ngữ nhà thơ dùng để giới
thiệu và miêu tả đối tượng.
128
Các hành động của đối tượng đả kích được các nhà thơ dụng công mô tả khiến
cho đối tượng bị phô bày bản chất:
Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
(Hát Bội – Phan Văn Trị )
Dọa hăm đàn bà nên quá giỏi
Nghe hơi ăn cướp chạy dường thoi.
(Đồn lính trong làng – Phan Văn Trị )
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.
(Con tôm – Học Lạc)
Cựa suôn máu đỏ tuôn đầy đất
Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi
Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy
Hay là giành xé hạt cơm rơi.
(Đá gà nòi – Nhiêu Tâm)
Bên cạnh chế giễu nhạo báng, họ còn sử dụng hình thức giả vờ. Giả vờ ngợi ca,
xót thương, tán thưởng. Học Lạc dành lời khen cho quan thượng Nguyễn Kim Trì:
Khôn khéo không ai dám sánh bì
Làm quan, tưởng phải khôn khéo trong giúp dân giúp nước, Học Lạc khiến ta bất
ngờ bởi sự khôn khéo đó:
Gói bánh bon chen bưng dưới chợ
Trồng trầu táy mót bán trong ty.
Trong khi đó những việc đáng phải khéo thì lại:
Việc nước hư nên chẳng kể gì
Cái án hạp binh nên xé thịt
Đành ăn hối lộ lại tha đi.
Hay trong “Bài vịnh quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn”, Học Lạc cũng
dành cho hắn những từ ngữ ngợi khen:
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn
129
Lập tức sau đó là hàng loạt các từ ngữ, các hành động minh chứng điều ngược
lại:
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan
Giặc đến Bến Tranh run lập cập
Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng
Khi thất thủ cũng muốn theo gương người xưa liều mình thủ tiết nhưng oái oăm
thay:
Ngặt vì con, vợ bận chưa an.
Tiếng cười châm biếm nhằm vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng trào phúng,
mức độ phê phán gay gắt, hình tượng nghệ thuật đạt đến độ sâu sắc. Học Lạc tô đậm
đặc điểm xấu xa làm người ta căm ghét, thậm chí phẫn nộ khiến người ta thấy cần phải
tiêu diệt những cái xấu đó cũng nhưng những điều kiện sản sinh ra nó.
Sắc thái đậm nét nhất trong tiếng cười của Phan Văn Trị là cười ra nước mắt,
cười chua cay. Tiếng cười ở đây không phải cười vui nữa mà là để phê phán, đả kích,
để tố cáo hiện thực xã hội. Đối tượng trước hết cần lên án vạch trần chính là bè lũ
thống trị, bọn quan tham làm tay sai cho Pháp. Có khi giọng chế giễu, mỉa mai lại
được biểu hiện bằng một hình thức trái ngược với điều vừa nói. Tác giả trình bày cái
tầm thường, vặt vãnh của đối tượng bằng một giọng thơ hệ trọng như đang nói về thứ
lớn lao. Trong thơ Phan Văn Trị, những con vật dùng ám chỉ bọn quan lại, tay sai, lũ
thực dân cướp được miêu tả, lộ ra cái vẻ oai nghiêm trong giọng điệu mỉa mai của tác
giả:
Mặt mũi như vầy cũng có râu
Trong đời chẳng biết dụng vào đâu.
(Con rận)
Nhảy lẹ chi cho bằng giống mèo
Chợt ngoảnh mặt hùm nhìn trực thị
Chi cho lũ chuột dám vang reo.
(Con mèo)
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo.
130
(Con muỗi)
Lõ mắt không phân người phải quấy
Giơ càng chẳng lựa đứa ngay gian
Đưa mình theo nước hiềm không ruột
Lột vỏ già đời chẳng thấy gan.
(Con cua)
Hình như châu chấu vàng pha xám
Miệng tợ chuồn chuồn lại thấp cao.
(Cào cào)
Có thể nói đây là chỗ sâu sắc trong nghệ thuật châm biếm của Phan Văn Trị.
Nghệ thuật ấy làm cho ngòi bút chiến đấu của ông càng trở nên sắc bén. Lũ quan lại
tay sai cho giặc dưới ngòi bút châm biếm của Phan Văn Trị dần hiện ra thật lố bịch.
Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa mai ta không thể không nói đến giọng lên án,
chỉ trích. Đây cũng là một giọng điệu làm nên sự đa dạng trong giọng châm biếm.
Phan Văn Trị lên án tên Tôn Thọ Tường, Học Lạc lên án bọn hương chức dốt nát trong
làng... Dùng tiếng cười để châm biếm, đả kích, chê trách những hiện tượng chướng tai
gai mắt, những hành động vô đạo đức của các bề trên, cả những thói hợm hĩnh kệch
kỡm thì tiếng cười đả kích càng trở nên giòn giã, cười là cười phá lên, chửi là chửi
độc, chua chát đến ứa mật, ứa máu khiến chúng vô cùng hổ thẹn.
Đối với những đối tượng đả kích, sự miêu tả, tộ đậm một số khía cạnh khiến nó
trở nên khôi hài lố bịch quái dị. Ông táo của Phan Văn Trị thì “lõng khỏng cõng nồi”,
“lum khum đội chảo”, ông táo trong thơ Nhiêu Tâm cũng hợm hỉnh không kém với
thân hình “úc núc”, bị đem “bỏ ngoài khe”, bị trẻ “đái không kiêng”. Bọn quan lại
trong thơ Học Lạc được ông gọi với giọng mỉa mai là “các bợm làng” đang “đứng sắp
hàng” để chờ phục vụ quân xâm lược hay con trâu ngờ nghệch bị “mắc mưu đốt đít
chạy tơi bời”. Bọn này bị chúng nắm dây dẫn đi mà không biết bởi đầu chúng như
những con tôm đầu chứa toàn những “cứt”.
Ngôn ngữ trong thơ trào phúng Nam Kì mang những đặc trưng vùng miền rất
riêng, rất sinh động, đầy ấn tượng và thật chua cay, sắc nhọn. Tuy vậy, đằng sau tiếng
cười bao giờ cũng là nỗi lòng của các nhà thơ dành cho dân cho nước. Tiếng cười vạch
131
trần sự lố lăng trong xã hội, đả kích châm biếm ấy có tác dụng cảnh tỉnh, răn de, giáo
dục. Giọng châm biếm đả kích là một yếu tố góp phần bộc lộ tư tưởng, quan điểm của
các nhà thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh.
3.3.2. Giọng bông đùa, hài hước
Trong cuộc sống tiếng cười như một liều thuốc tinh thần, một cách giải trí không
tốn kém mà lại hiệu quả. Tiếng cười thoát ra giải tỏa mọi ưu phiền, bực bối trong lòng.
Bên cạnh giọng châm biếm đả kích, giọng hài hước, bông đùa mang lại tiếng cười mua
vui, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, có sự gặp gỡ với tiếng cười trong văn học dân
gian.
Cho nên hình tượng cái tôi trào phúng trong thơ Nhiêu Tâm là một cái tôi vui vẻ,
lạc quan, tinh nghịch. Vì thế nhà thơ có thể đưa vào thơ mình một giọng đùa cợt rất tự
nhiên, cách nói suồng sã thoải mái, phóng túng. Chính giọng điệu trào lộng, bỡn cợt,
đùa vui đó đã tạo ra nét hấp dẫn của thơ trào phúng Nhiêu Tâm. Ngay từ cách đặt nhan
đề cũng đã thấy được sự hài hước, hóm hỉnh bông đùa của các nhà thơ: Ghẹo gái bán
cau, Bỡn ông thầy đồ, Làm trời khó, Trẻ cha già con...
Nhiêu Tâm là người có cảm quan hài hước đặc biệt. Trong bất cứ hoàn cảnh nào
ông cũng có thể cất lên tiếng cười. Giọng bông lơn, đùa cợt được thể hiện nhiều khi có
vẻ quá lời như khi ghẹo cô gái bán cau, nhưng tuy lời độc mà ý lành cốt để mua vui
một cách khoan khoái:
Tốt vóc mà trong biết thế nào?
Giấu ở trong buồng e đóng đục
Bày ra trước mặt thấy ngon dao
Quyết mua nên phải coi từ vú
Có bán thì cho thử cái nào.
Nhà thơ vẽ nên chân dung Ông Táo với những nét thật thú vị:
Xưa là cục đất ở bờ khe
Nhồi nắn nên hình lão táo be
Vỗ vóc nên hình thân úc núc
Đặt tên dùi bụng chúng kiêng dè.
132
Những tình huống trớ trêu bắt gặp trong cuộc sống khiến người ta cười ra nước
mắt cũng là đề tài mà Nhiêu Tâm hay chắp bút. Lời lẽ tinh nghịch, hóm hỉnh nhưng sự
đùa cợt không hề độc địa khi nói về chuyện cưới hụt qua bài thơ “nói con chị, cưới
con em”:
Xí hụt bao giờ ngẫm mới hay
Vàng đôi dì nó đặng đeo tay
Cười ra nước mắt là dường ấy
Khóc lại hổ ngươi vốn sự này
Ráy nấu bao lâu chưa hết sượng
Gừng đâm mấy nước vẫn còn cay
Sấm sanh gương lược phòng nâng đỡ
Tưởng đặng kêu anh té dượng mày.
Chuyện cưới xin trong thơ Nhiêu Tâm còn được nhắc đến trong bài thơ Trẻ cha
già con Ở đó tác giả kể một sự việc trái khoáy, ngược đời khiến ta có những tràng cười
thoải mái:
Của đời thấy vậy dửng dừng dưng
Cha trẻ con già ngộ quá chừng
Nọ nó ông gia khờ khịt mặt
Này này chàng rể rụng trơn răng.
Khi gặp khó khăn trong cuộc sống, ai ai cũng than khổ nhưng Nhiêu Tâm đã
chứng minh rằng, mình như vậy vẫn không khổ bằng trời. Ông kể ra những việc làm
chứng tỏ rằng “làm trời khó” hơn làm người một cách tếu táo:
Giữ chức thiên hoàng khó phải chơi
Thế gian muôn sự cứ trời ơi
Mưa dầm bão lụt kêu khan tiếng
Nắng hạn khô khan réo hết lời
Bất hiếu giận con kêu mắng vốn
Vô tình đạp phẫn lại thỉnh coi
Cuối cùng ông kết luận:
Làm trời còn khổ vì thiên hạ
133
Hà huống chi ta sống ở đời.
Có lẽ điều mà Nhiêu Tâm vừa nói ra ai ai cũng phải bật cười và thừa nhận, làm
trời còn khó thì mình như vậy cũng đã là may mắn. Họ lại lạc quan, vui sống và tìm
cách để giải quyết khó khăn của mình. Tiếng cười bật ra giòn tan vui vẻ.
Tiếng cười hài hước trong thơ Học Lạc lại khéo léo, nhẹ nhàng khi vạch ra các
mâu thuẫn, tạo tiếng cười bất ngờ giúp ta nhận ra cái trớ trêu của tình huống nhưng rồi
lại quên ngay để nhìn về sự lạc quan. Đây là nụ cười hiền lành, thân mật khi an ủi một
người bị đóng trăng cùng:
Phạt tạ xong rồi trở lộn về
Quá thời hốt thuốc, lứ bông vụ
(Ngồi trăng)
Hay hóm hỉnh khi “lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm”:
Say dựa gối ngâm thơ cho vợ ngủ
Buồn chong đen đánh kiệu với con chơi.
(Không đề)
Bêu rếu những kẻ có chức có quyền nhưng không có trí bằng cách nói về mình:
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương chẳng phải bọn mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác.
(Tạ hương đảng)
Giọng điệu trào phúng của Học Lạc và Nhiêu Tâm hóm hỉnh, ý nhị với nhiều
cung bậc. Cái cười của họ không độc địa bốp chát, mà mang tính xây dựng. Thơ được
viết bằng ngôn ngữ bình dân, giản dị rất gần với tính cách của người lao động, có cái
duyên, châm biếm từ bên trong mà người đọc bật cười và đồng ý với vấn đề tác giả đặt
ra chứ không đơn thuần ở chữ nghĩa hay vần điệu. Với ngôn ngữ mộc mạc, dí dỏm và
thông hoạt, những bài thơ châm biếm thói hư tật xấu của xã hội với giọng bông đùa hài
hước khiến cho cuộc sống trở nên vui vẻ, nhẹ nhàng. Khôi hài, vui đùa nhưng vẫn
chứa đựng những bài học nhớ đời.
134
3.3.3. Sự kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hài
Cái hài có mặt từ rất sớm trong xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên trong những
hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của xã hội tiền giai cấp. Tiếng cười là yếu tố
không thể vắng mặt trong cái hài. Cái hài thuộc về khách thể thẩm mĩ còn cái cười lại
thuộc về chủ thể thẩm mĩ. Trong cuộc sống, cái hài nảy sinh trong cuộc đối đầu giữa
cái đẹp với cái xấu.
Khi xã hội đang còn cái xấu thì cái hài đang còn lí do dể xuất hiện. Xã hội Nam
Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chính là một mảnh đất vô cùng màu mỡ để cái hài
sinh sôi nảy nở.
Nghệ thuật đặc biệt là văn học có khả năng thâm nhập sâu vào bản chất của cái
hài, tập trung tô đậm, khắc sâu những mâu thuẫn mang tính hài, khiến cho nó nổi bật
hơn, tiếng cười vì vậy nổ ra giòn giã, khoái trá hơn, ý nghĩa phê phán cũng vì vậy mà
thâm thía sâu sắc hơn. Cái hài trong nghệ thuật là sự phản ánh cái hài trong cuộc sống
nhưng ở dạng tiêu biểu, tinh túy và ổn định hơn. So với cái hài trong cuộc sống, cái
hài trong nghệ thuật còn có ưu thế hơn hẳn về sức tác động mạnh mẽ đối với dư luận
xã hội, bởi vì việc cảm thụ cái hài trong nghệ thuật thường mang tính tập thể, phản ánh
tinh thần công khai và dân chủ .
Để làm tốt nghĩa vụ xã hội của mình, các nhà thơ Nam Kì luôn cho ra đời những
tác phẩm trào phúng kịp thời vạch trần những cái xấu, cái ác đúng lúc nó đang hoành
hành nghiêng ngửa, góp phần thúc đẩy, kích thích mạnh mẽ hơn không khí phê bình
của xã hội. Họ trở nên nhanh nhạy khi nắm bắt các vấn đề, các hiện tượng đáng phê
phán trong xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Cái hài pha
vào bi, làm nổi bật cái bi đang chế ngự cả xã hội.
Khi nghe tiếng kèn của giặc thổi vang, Phan Văn Trị đã chua chát, xót xa trọng
dạ. Đó là cái bi, là cảm giác đau lòng khi biết rằng mảnh đất thân yêu của dân tộc đã
nằm trong tay kẻ cướp nước. Tuy vậy, Phan Văn Trị lại cười, một cái cười mang nhiều
niềm đau. Ông “ngậm cười” khi nói về vai trò của triều đình, chúng thật “hết nói
nổi”. Triều đình giờ đây cũng chính là giặc, thậm chí chúng còn gian ác hơn cả ngoại
xâm bởi chúng có quyền một cách danh chính ngôn thuận. Lập nên những “đồn lính
135
trong làng” không phải là để giữ gìn sự êm ấm của nhân dân mà để làm những việc
làm rất đáng khinh bỉ:
Sớm đón ghe lên xin quýt núm
Chiều ngăn thuyền xuống kiếm dưa còi.
Những việc làm đáng cười của cái đồn lính ấy cũng làm nổi lên sự vất vả cũng
như đáng thương của nhân dân ta. Cái hài làm nổi bật cái bi khến cái bi càng thêm
thảm hại.
Thực dân Pháp đặt ách thống trị lên Nam Kì, chủ trương ru ngủ dân đen bằng
những chiếc bánh vẽ với những hứa hẹn về một ngày không xa nhất định sẽ tốt đẹp
hơn thực tại, chúng đến với sứ mệnh khai hóa, mở mang nhưng thực chất lại là đan áp,
cướp bóc. Vì thế, những bài thơ vạch mặt sự giả dối của các nhà thơ trào phúng nam kì
bao giờ cũng nẩy lên những tiếng cười, tràng cười đủ cỡ, đủ mức vào cung cách đối xử
của lũ thống trị và kẻ bề trên miệng ra rả giảng đạo đức cho mọi người, còn bản thân
chúng thì đê tiện, bỉ ổi hết sức. Niềm lạc quan yêu cuộc sống của lớp người dưới đáy
xã hội thời phong kiến đã là nguyên nhân làm nảy sinh những tiếng cười.
Khi những chuẩn mực bị lệch pha, cái hài xuất hiện. Phan Văn Trị thẳng tay đả
phá, cười vào cái đạo đức giả của Tôn Thọ Tường, cười vào cái luận điệu giả dối của
hắn để nhắc nhở phải sống sao cho đúng đạo lí. Nhiêu Tâm thấy xuất hiện rất nhiều
cái lệch chuẩn này trong xã hội đương thời, nào là cha trẻ con già, nào là những kẻ
mang tư tưởng con gà tức nhau tiếng gáy, tranh giành hạt cơm rơi mà quên đi mình là
đồng loại, những cái xấu về mặt xã hội, xấu về đạo đức, về nhân cách, xấu về lối sống
vì lí tưởng như: thói xu nịnh, háo danh, giả dối, độc ác, … là đối tượng của cái hài
trong thơ ông.
Các nhà thơ đã sử dụng tiếng cười như một sự phản kháng lại xã hội, môt thái độ
bất bình của nhân dân với tầng lớp trên và kẻ thù của họ. Châm biếm mỉa mai là một
dạng thức của cái hài. Cái cười trong cái hài là cái cười đặc biệt nhằm vào đối tượng
cụ thể, là cái cười có mục đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tiếng cười trong cái hài, là
một loại vũ khí, phương tiện, để phê phán mặt trái của cuộc sống, để phủ định tất cả
những gì xấu xa, giả dối, lỗi thời, đó là hình thức phê phán đặc biệt và khẳng định cái
136
mới, cái tốt đẹp. Trong bản chất, cái hài hoàn toàn đối lập với cái bi. Tuy nhiên, ở thơ
trào phúng của các nhà thơ Nam Kì, cái hài lại làm nổi bật lên cái bi.
Lời thơ của các nhà thơ Nam Kì lúc châm biếm, đả phá, lúc trào lộng, hóm hỉnh.
Quy luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua
xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước mắt. Chính yếu tố trữ tình đã khiến
cho yếu tố trào phúng thêm thâm thúy, chua xót. Cái hài trong cái bi mang lại ý nghĩa
xã hội sâu sắc, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, cách nhìn đời của
các nhà thơ.
137
KẾT LUẬN
Văn học trào phúng cuối thế kỉ XIX ở Nam Kì Lục Tỉnh đã phát triển thành
dòng, thành hướng riêng trong nền văn học. Sự phát triển của nó được tiếp tục mạnh
mẽ sang đầu thế kỉ XX. Các tác giả của văn học hiện thực trào phúng giai đoạn này
hầu hết là những nho sĩ, giữ gìn khí tiết của nho gia, tiếp thu tinh thần yêu nước của
dân tộc và có tinh thần căm thù giặc. Lòng yêu nước của họ biểu hiện chủ yếu ở thái
độ bất mãn với chế độ thực dân phong kiến. Sáng tác văn thơ của họ trước hết là để tỏ
rõ thái độ đó đồng thời cũng là tìm kiếm niềm vui, sự lạc quan trong hoàn cảnh nước
nhà đang buổi giao thời.
Thơ ca hiện thực trào phúng đã có mặt ngay trong những ngày đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ở vùng đất Nam Kì với nhiều cây
bút tiêu biểu như Phan Văn Trị, Học Lạc,...đả kích bọn tay sai cho giặc. Trong thời
gian kháng Pháp, nó vẫn tiếp tục ra đời với những cây bút tiêu biểu khác như Huỳnh
Mẫn Đạt, Nhiêu Tâm,...Tuy nhiên thời kì phát triển nhất của thơ văn hiện thực trào
phúng trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX này là từ sau khi thực dân Pháp
đã hoàn thành căn bản cuộc xâm lăng của mình trên vùng đất Nam Kì và hình thành
nên xã hội thực dân nửa phong kiến với tất cả những cảnh tượng lố lăng, hỗn loạn của
nó. Các nhà thơ hiện thực trào phúng vùng Nam Kì Lục Tỉnh đã cho chúng ta thấy rõ
những cảnh tượng thương tâm, kệch cỡm của xã hội bấy giờ một cách rõ nét.
Thơ ca hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đã để lại một nội
dung tố cáo xã hội sâu sắc. Đối tương tố cáo của nó là những kẻ xâm lược tàn ác cũng
như bọn tay sai bán nước hại dân. Có thể nói, văn học hiện thực trào phúng giai đoạn
này đứng rất gần với cuộc đấu tranh của thời đại, của nhân dân và phản ánh đầy đủ
cuộc sống xã hội thời điểm này. Nó đứng đầu chiến tuyến, hỗ trợ cho nhân dân kháng
chiến với tinh thần lạc quan. Đồng thời, nó cũng là một kho tư liệu phong phú, sinh
động cho chúng ta tìm hiểu về xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm cuối thế
kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Bên cạnh những đóng góp về nội dung tư tưởng, văn học hiện thực trào phúng
miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX còn có những cống hiến to
lớn về mặt nghệ thuật. Các nhà thơ trào phúng xuất sắc của miền Nam đều đã để lại
138
những công trình sáng tạo về ngôn ngữ, hình ảnh và phương pháp trào phúng vô cùng
độc đáo. Nghệ thuật của họ bắt nguồn từ chính cuộc sống thường ngày, đi tìm sức
mạnh từ trong hiện thực đời sống. Đặc biệt trong nghệ thuật trào phúng ấy phải kể đến
sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình, giữa cái bi và cái hài tạo nên
chiều sâu cho những vần thơ hiện thực trào phúng.
Phát triển với ảnh hưởng sâu sắc của những biến cố lịch sử quan trọng, lớn lao
của đất nước, văn học hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này có một vị
trí đáng chú ý trong lịch sử văn học nước nhà nói chung. Nó là một bộ phận của văn
học cả nước, góp tiếng nói, hương sắc của mình vào vườn thơ của đất nước. Nó như
truyền sức mạnh cho sự chuyển mình tiến lên mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong giai
đoạn cuối cùng của văn học trung đại, chuyển đổi sang nền văn học hiện đại. Nó là sản
phẩm đặc biệt của văn học cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Với tấm lòng yêu mến và biết ơn những đóng góp to lớn đã làm đẹp cho vườn
thơ đất nước của các nhà thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh mà tiêu biểu là Phan Văn
Trị, Huỳnh Mẫn Đât, Học Lạc và Nhiêu Tâm, chúng tôi đã tìm tòi, tổng hợp trong thơ
ca của các tác giả để làm rõ những đặc điểm nổi bật cả về nội dung và nghệ thuật trong
thơ ca của họ. Chúng tôi mong ước sẽ đóng góp một cách nhìn để thấy được vai trò và
giá trị của thơ ca trào phúng hiện thực Nam Kì Lục Tỉnh trong nền văn học Việt Nam.
Qua đó thấy được sức mạnh của tiếng cười trào phúng trong việc phản ánh hiện thực
xã hội buổi giao thời ở miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Chúng tôi cũng mong muốn những thông tin có giá trị về thân thế, sự nghiệp cũng như
những nét độc đáo trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm thơ ca hiện thực
trào phúng của những nhà thơ trào phúng xuất sắc ở Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này là
Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm mà chúng tôi cung cấp sẽ là
những gợi ý thích đáng, những kiến thức bổ ích giúp người đọc dễ dàng khám phá và
đến gần, yêu mến hơn với thơ ca hiện thực trào phúng của những tác giả này.
139
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Văn hỌc Nam BỘ tỪ đẦu đẾn giỮa thẾ kỈ XX (1900-
1954), Nxb Tp. HCM.
2. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Những danh sĩ miền Nam, Nxb Tổng hợp
Tiền Giang.
3. Nguyễn Bình, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An, Tác giả văn học Việt Nam, tập 1,
Nxb Giáo dục.
4. Trần Đức Cường (Chủ biên), Võ Sĩ Khái, Nguyễn Đức Nhuệ, Lê Trung Dũng,
Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội.
5. Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở
Nam Kì Lục Tỉnh, Nxb Trẻ.
6. Hồng Hạnh, Dấu xưa Nam Bộ (Ghi chép, sưu khảo), Nxb Văn nghệ.
7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục.
8. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 1 - Miền Nam và văn học dân
gian địa phương, Nxb Trẻ.
9. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 2 – Văn học Hán Nôm thời
khai mở và xây dựng đất mới, Nxb Trẻ.
10. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 3 - Văn Học Hán Nôm thời
kháng Pháp và thuộc Pháp, Nxb Trẻ.
11. Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang,
Nxb Trẻ.
12. Vũ Phúc Huy (Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ, Phạm Quang Trung, Lịch sử Việt
Nam (1858 – 1896), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện
Sử học, Nxb Khoa học Xã hội.
13. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Nxb Văn học.
14. Vũ Ngọc Khánh (Hà Nội – 1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam (Phần văn viết từ
thế kỉ XIII – 1945), Nxb Văn học.
15. Thanh Lợi, Sài Gòn - Đất và người, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
140
16. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII,
XIX, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học Xã
hội tại thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội.
17. Sơn Nam, Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mĩ tục Việt Nam
biên khảo, Nxb Trẻ.
18. Sơn Nam, Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam biên khảo, Nxb Trẻ.
19. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam biên khảo, Nxb Trẻ.
20. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Văn nghệ TP. Hồ
Chí Minh.
21. Trần Thị Nhung (Chủ biên), Lịch sử vùng đất Nam Bộ - Một số kết quả nghiên
cứu, Nxb Khoa học Xã hội.
22. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.
23. Lữ Huy Nguyên, Tú Xương - Thơ và đời, Nxb Văn học.
24. Nguyễn Liên Phong – Nguyễn Q. Thắng chủ dịch, giới thiệu, Nam kì phong tục
nhơn vật diễn ca, Nxb Văn học.
25. Nguyễn Liên Phong, Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập, Nxb Văn Hóa - Văn Nghệ.
26. Trương Hữu Quýnh, Phạm Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt
Nam, Tập 1, Nxb Giáo Dục.
27. Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
28. Vũ Thanh Sơn, Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam Cuối Thế Kỷ XIX Đầu Thế Kỷ XX
(Quyển 9), Nxb Quân Đội Nhân Dân.
29. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Tp. HCM.
30. Văn Tân, Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945, Nxb Khoa học
Xã hội
31. Võ Văn Thanh, Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Nxb Trẻ.
32. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Tổng hợp
An Giang.
33. Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh, Đất và người Nam Bộ, Nxb Trẻ.
34. Trần Nho Thìn, Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb
Giáo dục.
141
35. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Thơ ca chữ Quốc ngữ Việt Nam đầu
thế kỉ XX, quyển 4, tập 2, Nxb Văn học.
36. Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm,
Nxb TP. Hồ Chí Minh.
37. Lê Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa pháp ở Việt Nam
1858-1897, Nxb Hồng Đức.
38. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1976), Lịch
sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
39. Kiều Văn, Giai thoại lịch sử Việt Nam, tập 6 – Danh nhân văn hóa và chí sĩ chống
ngoại xâm thời Nguyễn, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
40. Hỏi đáp về lịch sử Việt Nam, Tập 4 – Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất
(1858 – cuối thế kỉ XIX), Nxb Trẻ.
41. Thơ văn yêu nước 1858 - 1990 (1976) , Nxb Văn học, Hà Nội.