BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Cẩm Ly

THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG

NAM KÌ LỤC TỈNH

CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX

(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,

HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Cẩm Ly

THƠ CA HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG

NAM KÌ LỤC TỈNH

CUỐI THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX

(KHẢO SÁT QUA THƠ PHAN VĂN TRỊ,

HUỲNH MẪN ĐẠT, HỌC LẠC VÀ NHIÊU TÂM)

Chuyên ngành

: Văn học Việt Nam

Mã số

: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên

cứu có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở

bất kỳ một công trình nào khác. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn được sử

dụng trung thực, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình

nghiên cứu liên quan đã được công bố trên các website.

Tác giả luận văn

Trần Thị Cẩm Ly

LỜI CẢM ƠN

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các quý Thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn,

phòng Sau đại học, các Thầy cô của thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ

Chí Minh cũng như thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, giúp

đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành luận văn này.

Đặc biệt, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến PGS. TS Đoàn

Thị Thu Vân - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn và cảm thông, chia sẻ với

chúng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn

bè – những người luôn động viên, khích lệ, hỗ trợ chúng tôi trên nhiều phương diện.

Tác giả luận văn

Trần Thị Cẩm Ly

MỤC LỤC

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................................... 9

1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng

văn hóa Đông – Tây .............................................................................................. 9

1.1.1. Quá trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh ....................................................... 9

1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh ...................................................................... 12

1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu

thế kỉ XX ............................................................................................................ 20

1.2.1. Thời kì sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam ....................................... 20

1.2.2. Nền bảo hộ của Pháp ở Nam Kì và kháng chiến của nhân dân .................. 23

1.3. Văn học Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX .............................. 28

1.3.1. Văn học Hán Nôm ...................................................................................... 30

1.3.2. Văn học Quốc ngữ ...................................................................................... 34

1.4. Thơ trào phúng – tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại ........................ 40

1.4.1. Khái niệm “trào phúng” ............................................................................. 40

1.4.2. Thơ trào phúng ........................................................................................... 41

1.4.3. Bức tranh văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế

kỉ XX .......................................................................................................... 43

1.5. Những nhà thơ hiện thực trào phúng đặc sắc đất Nam Kì ................................... 48

1.5.1. Phan Văn Trị (1830-1910) ......................................................................... 49

1.5.2. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883) ................................................................... 51

1.5.3. Học Lạc (1842-1915) .................................................................................. 53

1.5.4. Nhiêu Tâm (1840 – 1911) ........................................................................... 55

Chương 2. NỘI DUNG HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG TRONG THƠ

CA NAM KÌ LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU

THẾ KỈ XX ............................................................................................ 58

2.1. Tiếng cười châm biếm, đả kích ............................................................................ 58

2.1.1. Đả kích bọn thực dân Pháp ......................................................................... 59

2.1.2. Đả kích giai cấp thống trị và bọn quan lại làm tay sai cho giặc ................. 64

2.1.3. Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội .................................................. 82

2.2. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh ............................................................................ 93

2.2.1. Tiếng cười tự trào với cái nhìn lạc quan, đa chiều về cuộc sống .............. 94

2.2.2. Tiếng cười quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng

ngày ............................................................................................................ 99

Chương 3. NGHỆ THUẬT THƠ HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG NAM KÌ

LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX ............................ 104

3.1. Thể loại, thủ pháp nghệ thuật và các biện pháp tu từ ......................................... 104

3.1.1. Sự kết hợp giữa “yếu tố Nôm” và “Đường luật” trong thơ bát cú .......... 104

3.1.2. Hình thức ngụ ý, hình ảnh ẩn dụ, thủ pháp đối lập ................................... 107

3.2. Ngôn ngữ quần chúng Nam Kì - nguồn của mọi nguồn .................................... 112

3.2.1. Ngôn ngữ giản dị nhưng điêu luyện, tài tình ............................................ 112

3.2.2. Ngôn ngữ thô ráp, góc cạnh, không trau chuốt......................................... 122

3.3. Giọng điệu trào phúng ........................................................................................ 127

3.3.1. Giọng châm biếm, đả kích ........................................................................ 127

3.3.2. Giọng bông đùa, hài hước ......................................................................... 131

3.3.3. Sự kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hài .................................................. 134

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 137

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 139

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến

chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là vùng Nam Kì Lục Tỉnh. Đời sống văn hoá tinh thần của

nhân dân ta còn được tiếp nhận luồng gió mới từ phương Tây thổi vào do những ảnh

hưởng sâu sắc của chế độ thực dân trên vùng đất này. Chính vào thời điểm đất nước có

nhiều biến động đó đã sản sinh ra những nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc hàng

đầu của nền văn học. Thơ ca hiện thực trào phúng trở thành một sản phẩm tinh thần

đặc sắc của giai đoạn mạt kì trung đại. Thơ trào phúng thông qua sự quan sát cảm nhận

của các tác giả Nam Kì Lục Tỉnh đã phần nào phản ánh chân thật hiện thực cuộc sống

đương thời, đặc biệt là hiện thực tâm trạng của tầng lớp trí thức. Các nhà nho trào

phúng đã tìm được đề tài đắc địa đề bộc lộ cách nhìn, cách nghĩ mới về những vấn đề

mang tính thời đại quốc gia. Thơ trào phúng đến đây đã vượt qua giai đoạn tìm tiếng

cười khôi hài trong những chuyện vặt vãnh để đi vào những vấn đề có nội dung chính

trị xã hội, có ý nghĩa phê phán, đấu tranh rộng hơn. Tiếng cười đã trở nên sắc bén,

hiểm hóc và đa dạng, có hiệu quả phê phán cao hơn. Tiếng cười trào phúng thế kỉ XIX

- đầu thế kỉ XX đã bổ sung sức mạnh cho văn thơ yêu nước cách mạng cũng như góp

phần chuẩn bị nền móng vững chắc cho sự ra đời và phát triển của trào lưu văn xuôi

hiện thực phê phán những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Việc tìm hiểu thơ ca hiện thực

trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những nét đặc

sắc của thơ ca Việt Nam giai đoạn chuyển tiếp từ trung đại sang hiện đại nói chung và

đặc điểm của thơ ca hiện thực trào phúng nói riêng.

Văn học hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

là một bộ phận đặc biệt cả về ý nghĩa và lịch sử trong nền văn học Việt Nam. Cá tính

văn học hiện thực trào phúng của miền Nam Kì Lục Tỉnh là điều không thể phủ nhận

bởi sức hấp dẫn của nó. Vùng văn học này đã có một đời sống rất sôi nổi với hàng

trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả, và đã để lại

những vết son không phai mờ trong ký ức của nhiều người. Thế nhưng nó vẫn chưa

được tìm hiểu một cách hợp lý và xứng đáng. Các công trình nghiên cứu về văn học

giai đoạn này cũng như vùng văn hóa này còn rất hạn chế. Nảy sinh từ thất bại của

2

phong trào yêu nước chống Pháp, văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX mang trong sự phát triển của nó một màu sắc riêng, có nội dung và nhịp điệu tương

ứng với quá trình xâm lược quân sự, bảo hộ và khai thác thuộc địa của thực dân. Có thể nói

giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX là một giai đoạn đặc thù, với những đặc

trưng và phẩm chất khác với lịch sử trước nó và sau nó. Chính vì thế, nó làm nảy sinh

và phát triển một đội ngữ các nhà thơ mang phong cách, suy nghĩ rất riêng. Do những

đặc thù và phẩm chất đó nên việc nhận diện và khảo sát nó luôn là cần thiết. Từ đó

thấy được vai trò cùng những đóng góp to lớn của các nhà thơ trào phúng miền Nam

cho nền văn học cả nước, nhìn thấy rõ nét một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam

những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

Tìm hiểu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh là tìm hiểu con đường

hình thành và phát triển tạo nên phong cách riêng, độc đáo trong thơ ca của các nhà

thơ đất Nam Kì. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có

tính hệ thống về nội dung và nghệ thuật tiếng cười trào phúng trong vùng văn học này.

Vì vậy, công trình này mong muốn đưa đến một cách nhìn nhận mới, góp phần làm

sáng tỏ những đặc điểm thơ ca và tài năng của các nhà thơ trào phúng nổi bật đất Nam

Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn

Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm, giúp người đọc đến gần hơn với thơ ca hiện thực trào

phúng của họ.

Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thơ ca hiện thực

trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ

Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Có thể nói, số lượng bài viết về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh có

số lượng khá khiêm tốn. Có ý kiến cho rằng văn học miền Nam không có những đóng

góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Các nhà thơ của Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn

cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX để lại một sự nghiệp cũng tương đối nhỏ, khó lòng để

tìm hiểu một cách đầy đủ và rõ nét về con người và tư tưởng của họ. Tuy nhiên, văn

học Nam Kì Lục Tỉnh bao gồm các tác giả vô danh và hữu danh cùng với các tác phẩm

lớn nhỏ đã tạo thành một bộ phận văn học sôi nổi, có nhiều đóng góp to lớn. Theo sự

3

tìm tòi chưa đầy đủ của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này đã có nhiều bài viết về

văn học miền Nam nói chung và thơ ca hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX – đầu thế

kỉ XX nói riêng ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo

luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình...

Thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ vùng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ

XIX – đầu thế kỉ XX như Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm đã

tạo ra một không khí mới cho nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trở thành đối

tượng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình nhưng còn tương đối ít, những tài liệu về

các tác giả này để lại không nhiều. Theo tài liệu chúng tôi tìm được trên các trang báo

điện tử, đã có những bài viết về cuộc đời và thơ ca của các nhà thơ hiện thực trào

phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, bàn luận ở nhiều khía cạnh

khác nhau về những bài thơ đặc sắc của các nhà thơ trên. Các bài viết tuy chưa khái

quát hết tất cả các phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào

phúng của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh kể trên nhưng lại là những gợi dẫn quý báu

cho hoạt động tiếp nhận của người đọc và cả hoạt động nghiên cứu, phê bình…về các

tác giả này.

Chúng tôi xin điểm qua những bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị đã

đánh giá, nhìn nhận về nhiều vấn đề trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ

vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Các tác giả, nhà phê bình

đã dành rất nhiều tâm huyết nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh cũng như các

nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc. Qua các bài viết, các công trình đó, có nhiều

điều được phát hiện, được đánh giá nhận xét công phu. Cụ thể là:

 Bộ “Văn học miền Nam” của tác giả Võ Phiến, gồm 7 tập của Võ

Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và dù mắc một số hạn chế nhất định,

vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó không những giúp người đọc

nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho

người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị

quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa như thế, bộ

“Văn học miền Nam” của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu, “Tổng quan”, đã được đón

nhận nồng nhiệt. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần.

4

 Công trình nghiên cứu “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của

tác giả Nguyễn Văn Hầu. Được thực hiện đầy nỗ lực trong thời gian ông lâm

bệnh nặng, bộ khảo cứu văn học này gồm ba quyển: Miền Nam và văn học dân

gian địa phương; Văn học Hán Nôm thời khai mở và xây dựng đất mới; Văn học

Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp. Đây là công trình không thể thiếu đối

với giới nghiên cứu và người đọc muốn hiểu sâu về những nền tảng làm nên văn

hoá, văn học Nam Kì Lục Tỉnh.

 “Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm”, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn

Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu gồm hai phần

chính: I. Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước; và II. Thơ Phan Văn Trị. Phải nói rằng

hai tác giả có cố gắng và nhiệt tình đi sâu vào đề tài nghiên cứu Phan Văn Trị dù

vẫn còn nhiều sai sót cần đính chính, bổ sung.

 “Những danh sĩ miền Nam”, Hồ Sĩ Hiệp – Hoài Anh, Nxb Tổng Hợp

Tiền Giang 1990, viết về cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hoá miền

Nam từ lúc hình thành vùng đất Đàng Trong, thế kỷ 17 cho đến khi thực dân

Pháp đặt ách thống trị. Những danh sĩ này, người thì mang lại ánh sáng văn hoá

và giáo dục, người thì xây dựng những sáng tác văn học, công trình nghiên cứu

lịch sử, địa dư, kinh tế, xã hội, người thì dùng ngọn bút để chiến đấu trực diện

với bọn thực dân Pháp khi chúng đặt chân xâm lược đất Nam Kì.

 “Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945”, Văn Tân,

Nxb Khoa Học Xã Hội. Công trình gồm 9 chương, có giá trị rất lớn đối với

những người nghiên cứu văn học, học tập và đông đảo bạn đọc ngày nay.

 Các tác phẩm viết về miền Nam của tác giả Sơn Nam: “Lịch sử khẩn

hoang miền Nam”; “Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mĩ

tục Việt Nam”; “Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam”,.... Ông đã viết nên

nhiều tác phẩm dấu ấn nên được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông

già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ

các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản

quyền và xuất bản.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều điều chưa được làm rõ, thậm chí mới chỉ

5

ở dưới dạng giới thiệu, tản mạn,… Đặc biệt là việc nghiên cứu về mặt nội dung và

nghệ thuật của tiếng cười trào phúng trong thơ ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ

Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX vẫn chưa được quan tâm thích

đáng. Tuy vậy các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết đi trước lại là những gợi ý quý

giá để chúng tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hy vọng góp một cách nhìn

đầy đủ hơn, tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu thơ ca hiện thực trào phúng của

các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, góp phần khẳng định

những đóng góp của dòng văn học hiện thực trào phúng và các nhà thơ trào phúng của

Nam Kì Lục Tỉnh cho nền văn học miền Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói

chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ ca

trào phúng mang giá trị hiện thực của các nhà thơ miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ

XIX – đầu thế kỉ XX, chú trọng đến thơ ca của bốn tác giả tiêu biểu là Phan Văn Trị,

Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối

thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,

Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, luận văn khảo sát các công trình sưu tập, những bài viết về

thơ ca hiện thực trào phúng của các tác giả có uy tín trong nước như:

 Thơ văn trào phúng Việt Nam (Phần văn viết từ thế kỉ XIII – 1945), Vũ

Ngọc Khanh, Nxb Văn Học (Hà Nội – 1974)

 Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm, Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn

Quảng Tuân, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh

 Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945, Văn Tân, Nxb Khoa

học Xã hội

 Thơ ca trào phúng Việt Nam, Bùi Quang Huy, Nxb Đồng Nai (1996)

6

Đồng thời xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng các công trình “Văn học miền Nam” của

tác giả Võ Phiến, “Văn học Miền Nam Lục Tỉnh” gồm 3 tập của tác giả Nguyễn Văn

Hầu – nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt Nam, đặc biệt là

những nghiên cứu gắn với vùng đất Nam Kì, để thấy được hết bề dày lịch sử cùng sự

phát triển mạnh mẽ của văn học Việt Nam nói chung và văn học miền Nam nói riêng.

Ngoài ra, luận văn còn tham khảo thêm một số bài đánh giá và một số bài tiểu luận về

thơ ca hiện thực trào phúng cùng những bài nghiên cứu về văn học Nam Kì Lục Tỉnh

được đăng trên các báo, tạp chí của các tác giả trong và ngoài nước.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với đề tài này, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:

 Đưa đến cái nhìn khái quát về nền văn học hiện thực trào phúng của

vùng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

 Làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

 Phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào phúng thơ ca

Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng một số

phương pháp nghiên cứu sau:

5.1. Phương pháp thống kê - phân loại

Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những đặc điểm của thơ ca hiện

thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX có chứng cứ cụ

thể. Đồng thời nó còn giúp cho việc so sánh, đối chiếu các vấn đề dễ dàng và có sức

thuyết phục cao hơn.

5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu

Nhằm phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của thơ ca hiện thực trào phúng

Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX so với các giai đoạn khác cũng như

sự độc đáo, riêng biệt của từng nhà thơ được khảo sát. Đặc biệt là nhìn ra được những

đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực trào phúng so với các dòng

văn học khác.

7

5.3. Phương pháp hệ thống – cấu trúc

Nghiên cứu về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX –

đầu thế kỉ XX nhất thiết phải đặt nó vào một hệ thống nhất định để có được một cái

nhìn đầy đủ, rành mạch, cho thấy được quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam

nói chung và của văn học miền Nam nói riêng.

5.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp

Để làm rõ những nét độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện thực

trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX và có cái nhìn khái quát

về quá trình phát triển của thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh. Phân tích cụ

thể đặc trưng của từng nhà thơ được khảo sát cũng như tổng hợp để tìm ra những nét

chung của các nhà thơ hiện thực trào phúng được nhắc đến. Từ đó có cơ sở nêu những

nét khái quát về thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu

thế kỉ XX.

5.5. Phương pháp tiếp cận nguồn gốc lịch sử

Mỗi giai đoạn lịch sử của xã hội đều ảnh hưởng sâu sắc đến văn học. Văn

học là sự phản ánh chân thực đời sống xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về thơ ca

hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX cần chú ý đến

bối cảnh lịch sử để có cái nhìn đa chiều, sâu sắc và chính xác hơn về giá trị của văn

học trong giai đoạn này.

6. Đóng góp của luận văn

Thông qua việc tìm hiểu đề tài “Thơ ca hiện thực trào phúng Nam Kì Lục

Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX (khảo sát qua thơ Phan Văn Trị, Huỳnh

Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm)”, chúng tôi mong muốn thể hiện một cách nhìn

toàn diện và có hệ thống về nội dung và nghệ thuật trong thơ ca hiện thực trào phúng

Nam Kì Lục Tỉnh để thấy được vai trò và giá trị của nó trong nền văn học Việt Nam.

Qua đó thấy được sức mạnh của tiếng cười trào phúng trong việc phản ánh hiện thực

xã hội buổi giao thời ở miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.

Đồng thời, thông qua đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn cung cấp những

thông tin có giá trị về thân thế, sự nghiệp cũng như những nét độc đáo trong nội dung

và nghệ thuật của các tác phẩm thơ ca hiện thực trào phúng của những nhà thơ trào

8

phúng xuất sắc ở Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này là Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt,

Học Lạc và Nhiêu Tâm. Từ đó có được những gợi ý thích đáng, những kiến thức bổ

ích giúp người đọc dễ dàng khám phá và đến gần, yêu mến hơn với thơ ca hiện thực

trào phúng của những tác giả này.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn

được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương này đưa đến cái nhìn khái quát về lịch sử và nền văn học Nam Kì Lục

Tỉnh cũng như một số nét tiêu biểu về các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì giai đoạn

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

Chương 2: Nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX

Chương này phân tích để làm rõ nội dung hiện thực trào phúng trong thơ ca Nam

Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

Chương 3: Nghệ thuật thơ hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế

kỉ XIX – đầu thế kỉ XX

Chương này đi vào phân tích những nét đặc sắc của nghệ thuật hiện thực trào

phúng thơ ca Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.

9

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Nam Kì Lục Tỉnh – vùng đất mới – giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa

Đông – Tây

1.1.1. Quá trình hình thành Nam Kì Lục Tỉnh

Vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh (trước đây gọi là Đồng Nai - Gia Định) đã được khai

phá từ rất lâu đời. Con người có mặt và bắt đầu khai phá vùng đất này đã xuất hiện

cách nay khoảng 2500 đến 4000 năm. Theo kết quả khảo cổ học, hồi ấy phần lớn đồng

bằng sông Cửu Long vẫn còn chìm dưới nước. Đến thế kỉ thứ V trước Công nguyên,

vùng đồng bằng này mới bắt đầu nổi lên, các vịnh biển được lấp đầy dần cùng với sự

rút lui của nước biển, để lộ ra một vùng đất hoang vu nhưng đầy tiềm năng để phát

triển về sau này. Nơi đây chỉ toàn là rừng rậm hoang vu, sình lầy, nước đọng còn nhiều

thú dữ: cọp, beo, voi, heo rừng, cá sấu, rắn,… đất Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn còn là một

vùng đất hoang vu với những bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật

kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây

nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ

họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài

hàng trăm dặm…. Cuộc sống hoàn toàn hoang dã. Suốt hơn 600 năm sống chung với

lũ, những cư dân đầu tiên của vùng châu thổ này đã dũng mãnh và tài năng tạo dựng

nên nền văn hóa Óc Eo mà lịch sử sau này không thôi ca ngợi là nền văn minh phát

triển sớm nhất và rực rỡ nhất Đông Nam Á. Sau trận biển tiến xảy ra vào thế kỉ VI,

toàn bộ vùng châu thổ chìm trong nước biển và bị lãng quên. Phải đến thế kỉ XIII, tộc

người Khmer của nước Chân Lạp mới bắt đầu có mặt nơi đây và vực dậy tiềm năng

của vùng đất này tạo nên sự thịnh đạt của đế chế Ăng – Co cổ và trải qua mấy trăm

năm tồn tại của vương quốc Chân Lạp. Do điều kiện tự nhiên khó khăn, quá trình

chinh phục vùng đất phía nam này của những lớp cư dân đến trước tiến triển rất chậm

chạp.

Đến thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng

sâu sắc. Cuộc nội chiến bất phân thắng bại giữa hai dòng họ Trịnh – Nguyễn kéo dài

gần hai thế kỉ với những trận đánh ác liệt đã khiến cho dân chúng vào cảnh lầm than.

Để phục vụ cho những nhu cầu của cuộc chiến tranh giành quyền lực ấy cũng như để

10

thỏa mãn lối sống xa hoa, trụy lạc của mình, các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn

đã thi nhau vơ vét của cải, nhân lực của dân chúng, tạo nên cảnh đói rét khắp nơi trong

nhân dân. Trước sự bóc lột, vơ vét của bọn phong kiến ở xứ Đàng Trong, nhân dân chỉ

có hai con đường để lựa chọn: một là đứng lên chống lại, hai là rời bỏ quê hương xứ

sở để đi tìm đất sống. Những người đó đã băng đèo lội suối, vượt mọi nguy nan để tìm

đến vùng đất xa xôi và hoang vu ở lưu vực sông Đồng Nai – Cửu Long.

Chiến tranh dai dẳng gieo tai họa cho nhân dân không kể xiết cả ở Đàng Trong

và Đàng Ngoài. Nhân dân Đàng Trong sống ở vùng đất đai chật hẹp giữa dãy Trường

Sơn và biển Đông, đồng ruộng ít lại kém màu mỡ, quanh năm nắng gió, thiên tai lũ lụt

bủa vây, cộng thêm thiên tai, mất mùa, bệnh dịch,....cuộc sống không đủ no lại còn

phải phục dịch chiến tranh kéo dài về tiền của cũng như con người vô cùng khốn khổ.

Vì sinh kế, muốn lánh xa nơi chiến tuyến, lánh nạn đi phu, đi lính, nhân dân Đàng

Trong tìm cách trèo đèo, vượt biển, lội suối, băng rừng đi vào đất Chân Lạp vùng Mô

Xoài (Bà Rịa ngày nay) và vùng Đồng Nai làm ăn, tìm nơi đất rộng, người thưa, đất

hoang còn nhiều, khai phá những vùng đất màu mỡ. Tiếng lành đồn xa, những người

làm ăn khá truyền tai nhau làm tăng thêm dân số cho vùng đất này. Lúc này, chúa

Nguyễn đã chiếm đất Chiêm Thành. Như vậy, lớp người đầu tiên tiến vào vùng Đồng

Nai – Cửu Long để kiếm sống và an thân trước hết là những người nông dân Trung,

Bắc vì bị bóc lột và áp bức mà bần cùng lưu tán, đồng thời cũng để tránh cuộc phân

tranh đẫm máu.

Từ thế kỉ XVI, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc do sự can thiệp của Xiêm

và dần bước vào thời kì suy vong, không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập

nước ở phía Nam, vốn là địa phận của vương quốc Phù Nam và trên thực tế đã không

đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng

đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng

sinh sống.

Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả công nữ Ngọc Vạn cho quốc

vương của Chân Lạp là Chey Chatta II làm hoàng hậu của vương triều Chân Lạp.

Chính vì vậy, lưu dân Việt đã theo chân Ngọc Vạn công nữ vào Nam lập nghiệp càng

ngày đông. Về phương diện ngoại giao, cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua

11

Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dân tộc Việt -

Khmer. Về phương diện xã hội nó cũng được xem như là một sự mở đầu cho công

cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam của dân tộc Việt. Đối với Chân Lạp, việc kết

thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất

mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm.

Năm 1623, chúa Nguyễn bấy giờ là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần mượn đất vua

Chân Lạp để làm nơi thu thuế quan (ở Prei Nokor (tức Sài Gòn) và khu dinh điền Mô

Xoài (tức Bà Rịa)), đánh dấu sự can thiệp đầu tiên của chúa Nguyễn vào nội trị của

nước Chân Lạp. Khi Chân Lạp xảy ra sự kiện tranh giành ngôi báu, dòng chính thống

xin chúa Nguyễn viện trợ. Chúa Nguyễn sai 3000 quân vào giúp đỡ bắt được vua là

Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình sau thả về nước, bắt phải cống triều thường

niên và ra điều kiện phải bênh vực người Việt sang làm ăn sinh sống. Từ đó, uy thế

của chúa Nguyễn tăng lên. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, chúa Nguyễn đã chú ý

để mắt đến vùng đất này với mong muốn tăng cường khả năng của mình trong hoàn

cảnh chiến tranh với Đàng Ngoài đang diễn ra. Vì thế, chúa Nguyễn sai người từ

Quảng Bình đến Bình Thuận vào khai thác vùng đất mới này.

Trong lịch sử khai thác đất Đồng Nai, phần đóng góp của người Hoa ở đây rất

quan trọng. Năm 1697, một nhóm quan binh ở Quảng Tây sau thời gian chiến đấu

chống lại chế độ của nhà Mãn Thanh không có kết quả đã cùng gia đình gồm 9000

người nhất quyết không thần phục nhà Thanh chạy sang Quảng Nam xin phục tùng

chúa Nguyễn. Hiền Vương thấy lực lượng to lớn ấy ở trong nội bộ đất của mình không

lợi, cũng vừa lúc đang có ý định khai thác vùng đất Chân Lạp nên đã nói với vua Chân

Lạp cho lực lượng Hoa kiều ấy theo thuyền vào sống nhờ trên vùng đất phía nam.

Chúa Nguyễn khôn khéo ngoại giao đã làm một việc mà nhằm vào hai điều lợi: vừa

tránh nạn nuôi ong tay áo, vừa triển khai công việc khai thác đất mới một cách dễ

dàng.

Đất lành chim đậu, những con người di dân từ miền Bắc và Trung cùng với các

thành phần khác đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, gặp được vùng đất mới, phì

nhiêu cộng với khí hậu thuận hòa, địa hình thuận lợi, bằng phẳng, hệ thống sông rạch

chằng chịt, nên định cư ngày càng đông. Chính sự cần cù, nhẫn nại và óc sáng tạo

12

không ngừng của những bậc tiền nhân đã biến vùng đất hoang vu, đầy sình lầy thành

vùng màu mỡ, trù phú. Cộng đồng nơi đây đã tổ chức cuộc sống trong tinh thần tương

thân tương ái, tạo nên những vùng cư trú ổn định, phát triển vững bền. Cuộc sống cộng

đồng xã hội bắt đầu thành hình và ngày càng phát triển rực rỡ, là nơi quy tụ của rất

nhiều dân tộc.

Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển Nam Kì Lục Tỉnh là lịch sử của gần

400 năm gian khổ khẩn hoang lập làng của những nhóm lưu dân từ Đàng Trong cũng

như miền Bắc vượt đèo lội suối xuôi vào Nam, của những nhóm lưu dân Trung Hoa

bài Mãn, phục Minh và sự cộng cư của các thổ dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời. Sự

hình thành và phát triển ấy tóm lại được tác động bởi ba yếu tố chính trị: sự tan rã của

chính quyền Cao Miên, nhu cầu của một cuộc nội chiến của hai dòng họ ở nước ta, và

sự đô hộ của Pháp. Nam Kì Lục Tỉnh là vùng đất mới trải dài từ miền nam Phan Thiết

đến mũi Cà Mau, mang nhiều sắc thái đặc thù mà từ văn hóa đến tâm tình lẫn tâm tính

có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở Đàng Ngoài.

1.1.2. Con người Nam Kì Lục Tỉnh

Gần 300 năm nay, Nam Kì luôn là vùng đất có sức hút mạnh mẽ đối với dân cư

của cả nước. Con người đến với vùng đất này đã tôn tạo cho mình những giá trị đặc

sắc về văn hóa, lịch sử...Trong quá trình khai phá vùng đất mới, họ đã thích nghi với

điều kiện của cuộc sống, đồng thời với nó, họ cải biên, sửa đổi, làm cho thiên nhiên

quy phục mình. Từ đó, hình thành nên những đặc điểm riêng, những nét tính cách rất

riêng của con người vùng đất Nam Kì Lục Tỉnh. Con người nơi đây mang những đặc

trưng không thể hòa lẫn với những vùng khác của tổ quốc.

a. Các thành phần dân cư

Từ thế kỉ XVII, trên vùng đất Nam Kì cũng như vùng châu thổ sông Cửu Long

bắt đầu xuất hiện những lớp cư dân mới. Lớp người tiên phong tiến vào vùng Nam Kì

Lục Tỉnh để kiếm sống và an phận thủ thường đó là những người nông dân và thợ thủ

công nghèo khó lâm vào bước đường cùng của miền Trung vì bị bóc lột và áp bức

nặng nề mà phải rời bỏ quê hương làng mạc, đồng thời cũng là để tránh cuộc phân

tranh đẫm máu giữa hai dòng họ Trịnh, Nguyễn. Số người này chiếm số lượng đông

đảo nhất và cũng là lực lượng di cư chủ yếu trong thời kì đầu hình thành xứ sở. Tiến

13

trình nhập cư của người Việt từ ngoài Bắc và Trung vào đất Đồng Nai – Gia Định diễn

ra liên tục với mức độ ngày càng gay gắt của cuộc nội chiến phân tranh giữa hai tập

đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn cũng như của mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp địa chủ

phong kiến và nông dân. Tiến trình nhập cư này có lúc ồ ạt, có lúc lẻ tẻ.

Từ cuối thế kỉ XVII trở về sau, họ Nguyễn xây dựng và cũng cố chính quyền, lần

luợt xác lập quyền cai trị của mình lên vùng đất mới. Lúc này, các chúa Nguyễn chủ

trương chiêu mộ lưu dân vào Nam khai hoang. Lực lượng di cư được bổ sung thêm

bằng những thành phần khác. Đó là những người có tiền của, có quyền thế nên đã

chiêu mộ dân nghèo ở miền Trung đi vào Nam khẩn hoang vỡ đất theo lời kêu gọi của

chính quyền. Thứ nữa là những lính tráng cùng với những tội đồ bị triều đình bắt buộc

phải vào vùng đất lúc bấy giờ vẫn còn hoang dã với rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, rắn

rết, chứa đầy hiểm nguy để vừa bảo vệ biên cương, giữ gìn an ninh, vửa mở ruộng, lập

vườn chung quanh điểm quân sự, phát triển kinh tế.

Trong lớp người di cư đến vùng đất Nam Kì cuối thế kỉ XVII còn có một lực

lượng đông đảo người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung

Quốc) mà phần đông là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều đình Mãn

Thanh nên đã kéo đến Việt Nam xin chúa Nguyễn cho tị nạn và làm ăn sinh sống.

Nhóm người Hoa này chia làm hai nhóm nhỏ: nhóm do Dương Ngạn Địch và Trần

Thượng Xuyên cầm đầu có khoảng 3000 người đến Mỹ Tho và Biên Hòa; nhóm do

Mạc Cửu thống lĩnh có khoảng 200 người đến Hà Tiên. Từ thế kỉ XVII trở về sau lần

lượt nhiều người dân nghèo thuộc các tỉnh ven bờ biển đông nam Trung Quốc cũng đã

dắt díu nhau nhập cư vào đồng bằng sông Cửu Long làm ăn sinh sống ngày càng đông

hơn. Giữa thế kỉ XVIII có thêm một số lượng lớn người Chăm vốn là những người tản

cư lên Chân Lạp cuối thế kỉ XVII để tránh chiến tranh thì nay lại chuyển về định cư ở

vùng núi Bà Đen.

Ngoài ba thành phần người Việt, người Hoa và người Chăm là thành phần dân cư

chính vừa kể trên, trong lớp dân cư mới xuất hiện ở đất Nam Kì trong các thế kỉ XVII,

XVIII còn có một số người đến từ các quốc gia khác nhau như Anh, Pháp, Ma Cao,

Giava, Ấn Độ,...Họ sống lẫn lộn vào nhau, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào

theo tục nước ấy.

14

Mỗi dân tộc đều có một sắc thái văn hóa riêng của mình, cống hiến phong phú

cho văn hóa chung của khu vực. Có thể nói, Nam Kì là vùng đất có văn hóa phong phú

nhất cả nước. Chẳng hạn, người Khơ Me cư trú đông đảo trong các phum, sóc trên

những giồng đất cao ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu,...làm ruộng rẫy, theo Phật giao

tiểu thừa với những hình thức ca múa độc đáo. Người Chăm ở Châu Đốc phần đông

sống bằng buôn bán nhỏ, theo đạo Hồi với các phong tục rất riêng. Người Hoa làm

nghề buôn bán, thủ công nghiệp, làm vườn gắn với việc gìn giữ trong cộng đồng của

mình những điệu hát Tiều, Quảng, múa lân,... và những tập tục thờ quan Đế, ông

Bổn,... Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều dân tộc, từ nhiều địa phương đến, với nhiều

tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển kinh tế xã hội như vậy nhưng

lại không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó của cộng đồng cùng sinh sống trên

vùng Nam Kì.

Như vậy cho đến cuối thế kỉ XVIII, lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt tại

miền Bắc và miền Trung đã di cư và đặt chân đến nhiều nơi trên vùng đất Nam Kì. Địa

điểm định cư và khai khẩn phân bố chưa đồng đều do điều kiện thiên nhiên khác nhau

ở các vùng. Sang thế kỉ XIX, dân số đã tăng lên rất nhiều do sinh đẻ tự nhiên và lưu

dân các miền khác tiếp tục nhập cư khai khẩn theo sự vận động của triều Nguyễn. Vì

vậy, những vùng đất trước đây hoang vắng thì nay lần lượt có người khai phá. Các

trung tâm định cư được hình thành ven sông Đồng Nai, vùng sông Tiền, sông Hậu nối

liền thành một dải rộng lớn, liên tiếp hình thành nên một vùng đất với nhiều thành

phần dân cư. Đây là điều đáng chú ý của Nam Kì so với các vùng đất còn lại của đất

nước.

b. Tính cách đặc trưng của con người

 Can trường, gan góc, ngang tàng

Vùng đất mới còn hoang sơ, là nơi rừng thiêng nước độc, hùm beo, rắn rết đầy

rẫy, nó vừa khơi dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối

với những con người phải dấn thân. Như đã trình bày ở phần trên, những lưu dân Việt

khi vào đất Nam Kì vốn là những người nông dân, thợ thủ công, những kẻ trốn lính, tù

tội do cuộc sống nghèo khổ, bức bách phải rời bỏ quê hương làng mạc dù muốn hay

không muốn. Tuy nhiên, họ cũng là những con người có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm,

15

dám chấp nhận nguy hiểm, coi nhẹ tính mạng, thích sống ngang tàng, dám đương đầu

với thử thách, khó khăn, muốn phá bỏ mọi lề thói ràng buộc nên đã chọn vùng đất mới

để an cư lạc nghiệp. Cũng có thể do hoàn cảnh xô đẩy khiến họ không có sự lựa chọn

nào nên đành phải “liều”, nhưng dù thế nào cũng có thể dễ dàng nhận thấy, chính việc

mở mang vùng đất mới đã tôi luyện cho họ trở thành những con người can trường, gan

góc, không chịu lùi bước trước những trở ngại của thiên tai địch họa.

Để có được những mảnh đất màu mỡ những lưu dân đã phải đổ mồ hôi, sôi nước

mắt khắc phục muôn vàn khó khăn trong nhiều năm tháng. Đất Nam Kì vào thế kỉ

XVII, XVIII là rừng hoang cỏ rậm, trũng thấp, sình lầy nên những lưu dân ở đây ngoài

việc đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên, còn phài đối măt với các loài

thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác khác. Những con

người đến đây phải chấp nhận mạo hiểm, đó là những con người bị buộc phải liều

mạng, vì thế, họ coi tính mạng nhẹ tựa lông hồng, tỏ ra dũng cảm, gan góc, không nề

hà nguy hiểm, khó khăn. Đây cũng là đức tính mà việc khai phá vùng đất mới đào

luyện nên.

Cảnh tượng ban đầu ấy trực tiếp tác động vào tâm tư, tình cảm của những con

người mới, thể hiện rất sinh động trong những câu ca dao, dân ca Nam Kì khi xưa:

Chiều chiều én liệng trên trời

Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây

Hay:

Cà Mau khỉ khọt trên bưng

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Khi người còn thưa thớt, xung quanh là những bầy thú rừng, cảnh u tịch hoang

dã, con người không thể tránh khỏi những cảm giác kinh hãi, ghê sợ trước cảnh vật

còn hết sức xa lạ với mình:

Tới đây xứ sở lạ lùng

Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh

Hoặc:

Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền

Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh

16

Hay:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.

Đó chính là những điều dễ dàng tìm thấy ở thiên nhiên đầy bí ẩn của Nam Kì

buổi đầu khai hoang mở cõi. Dù chứa đựng rất nhiều yếu tố thuận lợi nhưng nó cũng

bày ra trước mắt con người vô vàn những khó khăn không dễ vượt qua. Vì thế, những

con người nơi đây đã được tôi luyện thành những con người gan góc, mạnh mẽ, không

chịu lùi bước trước những trở ngại thiên nhiên ấy cũng như không chịu luồn cúi trước

sức mạnh phi nghĩa sau này:

Trời sanh cây cứng lá dai

Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều

 Đoàn kết, tương trợ

Không phải thiên nhiên hào phóng dành cho những cư dân mới mọi thứ cần thiết

cho cuộc sống. Những người khai phá vùng Nam Kì không được may mắn kế thừa di

sản vật chất của cha ông để lại. Từ môi trường hoang dã họ đã bắt đầu cái mới, tự bản

thân họ phải phấn đấu rất cam go để cải tạo thiên nhiên. Nó là một cuộc chiến đấu cực

kì gian khổ từ việc chống lại thú dữ cho đến khắc phục bệnh tật, đối phó với các hiện

tượng thiên nhiên mà con người chưa thể lí giải, chưa thể nắm bắt được quy luật. Cuộc

chiến này đòi hỏi một tinh thần kiên trì và một ý thức đoàn kết rộng rãi trong cộng

đồng dân cư mới để tạo ra sức mạnh cộng đồng, chiến thắng thiên nhiên, làm chủ vùng

đất đầy tiềm năng. Chính khí hậu khắc nghiệt, đầy rẫy thú dữ, rắn rết, muỗi mòng,... và

vô số những hiểm nguy chờ chực nên những người lưu dân không thể sống đơn độc.

Là những người đi tiên phong trong công cuộc khai hoang mở đất vùng Nam Kì,

người dân ở đây là những con người dũng cảm, dám chấp nhận và đương đầu với khó

khăn thử thách. Tuy nhiên, sức mạnh của cộng đồng là một điều vô cùng quan trọng.

Trước đây, họ đã từng sống với nhau trong thôn bản, làng xóm thì nay, họ vẫn giữ ý

thức cộng đồng, tương thân tương ái. Họ nhanh chóng kết thành chòm xóm để dựa vào

nhau mà làm ăn sinh sống, đoàn kết chung tay chống lại những khó khăn, trắc trở nơi

đất mới. Trừ một ít người có tiền của, quyền thế chiêu mộ dân nghèo đi khẩn hoang để

làm giàu thêm cho mình, những người dân nghèo đi vào đây là những người liều mình

17

đi tìm đất sống nên cùng với truyền thống ngàn đời “nhiễu điều phủ lấy giá gương,

người trong một nước phải thương nhau cùng” của dân tộc, nơi đây họ lại càng yêu

thương, đùm bọc nhau, giúp nhau tạo dựng cuộc sống, kết nghĩa với nhau thề nguyền

sống chết, thương yêu nhau một cách lạ lùng.

 Trọng nghĩa, khinh tài

Người Nam Kì là những người từ nơi bất công, vốn đã xa lánh sự bất công, đàn áp

nên họ rất nhạy với điều trái đạo lí, trái lương tâm, ủng hộ những người hào hiệp. Là

những con người lâm vào bế tắc, đi tìm con đường sống nơi miền xa đất lạ, tìm cái

sống trong muôn vàn cái chết đang chờ sẵn cho nên con người vùng đất mới này rất

chuộng nghĩa khí, quý trọng tình cảm hơn vật chất, coi khinh tiền tài như cỏ rác ven

đường mà trọng tình cảm, trọng nghĩa khí. Họ có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền

tài, danh lợi, giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có: nhân,

nghĩa và đạo đức làm trọng. Ta thấy nổi bật lên ở những con người ấy là tính cách rất

Nam Kì: trọng nghĩa, khinh tài, hào hiệp nghĩa khí, sống rất điệu nghệ, sẵn sàng bất

chấp hiểm nguy để làm tròn đạo nghĩa:

Dấn mình vô chốn chông gai

Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.

Lao xao song bủa dưới lùm,

Thò tay với bạn chết chìm cũng ưng.

Những tính cách này do đặc tính của vùng đất tạo nên. Vùng đất Lục Tỉnh thời

khẩn hoang với thiên nhiên hoang vu, khắc nghiệt khiến con người phải biết đoàn kết,

tương trợ lẫn nhau. Điều đó lí giải cho sự xuất hiện tinh thần đầy nghĩa khí của người

dân nơi đây.

Thấy việc nghĩa, việc chướng tai gai mắt mà không ra tay cứu giúp là kẻ xấu xa,

không anh hùng. Vì thế, những kẻ bất nhân, bất nghĩa khó có thể tồn tại trên vùng đất

này. Bênh vực kẻ yếu, giúp đỡ kẻ sa cơ lỡ vận, chống lại cường hào, ác bá, đấu tranh

với việc bất nhân bất nghĩa, các thế lực phi nghĩa...là những việc nghĩa mà người Nam

Kì Lục Tỉnh sẵn sàng lăn xả. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen

tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình

18

nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là bị loại

trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi.

 Bộc trực, thẳng thắn

Trong nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng của người Nam Kì Lục Tỉnh, chúng

ta còn thấy một đặc trưng rất nổi bật nữa đó là sự bộc trực, thẳng thắn, ít rào trước đón

sau, ít văn chương hoa mỹ mà chân chất, thật thà, nghĩ sao nói vậy, “nói thẳng ruột

ngựa”, không thích che đậy giấu giếm, “ruột để ngoài da”.

Điều này có nguyên nhân của nó. Những con người đầu tiên đặt chân đến Nam

Kì phần lớn là những người nông dân chân lấm tay bùn, những người lính, thợ thủ

công. Quanh năm vất vả, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn cứ nghèo khổ, lại thêm

chiến tranh liên miên nên cái chữ cái nghĩa của họ không có, hoặc có cũng rất ít ỏi.

Khi vào vùng đất mới, công việc đầu tiên là dồn mọi công sức để giành giật miếng

cơm manh áo, chống lại thiên tai, địch họa, hiểm nguy từ môi trường sinh sống. Đồng

thời, giai cấp phong kiến lãnh đạo trước đó cũng như chính quyền thực dân sau này

cũng không hề chú trọng việc mở trường, truyền bá văn hóa cho nhân dân. Điều này

góp phần hình thành nên tính cách của nhiều thế hệ người dân Nam Kì, trước sau, họ

vẫn chỉ là những người nông dân chất phác, ít học, nói năng bộc trực, mộc mạc mà

không hề rào trước đón sau, có sao nói vậy, khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém

thủ đoạn, giận thì nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông

nước, đồng ruộng bao la.

Nét tính cách này trải qua bao thế hệ, là điểm nhấn trong quan hệ giữa người với

người trên vùng đất Nam Kì. Khi nói chuyện với nhau, họ luôn vui vẻ, tạo cảm giác

thân thiện, gần gũi không câu nệ ngôi thứ, giai cấp...Chuyện tốt, đúng đắn thì tiếp thu

tích cực còn những đều chướng tai gai mắt, bất bình, không vừa ý thì sắn sàng đốp

chát, nói ngay mà không hề vòng vo, sợ mất lòng người nói.

 Phóng khoáng, cởi mở, hiếu khách

Một đặc trưng tính cách nữa rất dễ nhìn ra ở những con người trên vùng đất Lục

Tỉnh là tính phóng khoáng, cởi mở và vô cùng hiếu khách. Người dân nơi đây không

hề có sự câu nệ, chấp nhặt, cố chấp. Họ không thích sự ràng buộc trong bất cứ lĩnh

vực nào của đời sống, cả vật chất lẫn tinh thần. Lí tưởng của họ không bị bó hẹp trong

19

những gian nhà, sân gạch, hàng tre. Họ là những con người dám vượt mọi hiểm nguy

để ra đi tìm đến vùng đất mới với hi vọng cuộc sống tươi sáng hơn. Vì thế, họ sẳn sàng

bỏ lại mồ mả tổ tiên, quê cha đất tổ, quê hương bản quán để tìm cho mình một nơi có

thể sống một cuộc đời tự do, thoải mái, khoáng đạt.

Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt

học được bản chất hiếu khách của hai sắc tộc nầy. Bản chất hiếu khách còn là một nhu

cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Ở đây, mỗi khi có khách đến nhà thì

luôn được chào đón bằng tấm lòng chân thành của mình, chủ nhà là những người thật

vui tính, những người xuề xòa, cởi mở, đàm đạo phóng khoáng tự do, lắm lúc có phần

lộn xộn, không xếp đặt, không câu nệ lễ nghi.

Sở dĩ người Nam Kì có tính cách này là do chịu ảnh hưởng của quá trình khai

phá đất đai. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống

có nhau, tương trợ nhau. Nơi hẻo lánh, xa xôi, những con người tha phương lập nghiệp

luôn cảm thấy cô độc, lẽ loi trước sự bao la, hùng vĩ của thiên nhiên, vì thế, họ luôn

tìm kiếm hơi ấp từ những con người cùng cảnh ngộ, kể cho nhau nghe những niềm

vui, nỗi buồn. Thêm nữa, cuộc sống nơi vùng đất mới được thiên nhiên ưu đãi, Nam

Kì có đất rộng, người thưa, mưa thuận gió hòa, ruộng lúa đầy đồng, cá tôm đầy sông

rạch, con người không phải bon chen như những nơi đất chật người đông, quanh năm

khắc nghiệt nên tạo cho họ có đời sống bình dị, tánh tình hiền hòa, không so đo vật

chất, sống rộng rãi, cởi mở, hào hiệp và hiếu khách hơn những vùng khác.

Qua việc tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Nam Kì cùng

với tính cách của con người nơi đây, chúng ta có thể tổng kết mấy nét lớn về vùng đất

đặc biệt này. Thứ nhất, Nam Kì Lục Tỉnh là một vùng đất mới, nó có một vị trí mở,

thoáng và động. Vì thế, nơi đây chính là giao điểm hội tụ của các luồng văn hóa Đông

- Tây, là nơi đầu tiên diễn ra những thay đổi cũng như ảnh hường từ bên ngoài vào đất

nước ta. Đồng thời nó cũng là vùng đất giao lưu, hội nhập của rất nhiều dân tộc, tín

ngưỡng khác nhau, tạo nên sự đa dạng về đời sống xã hội, tinh thần trong khu vực, với

những dấu ấn sâu đậm trong con người.

Thứ hai, sống trong một môi trường có bề dày lịch sử, cộng với sự đa văn hóa

như vậy, con người Nam Kì có những nét cá tính rất riêng không lẫn với con người

20

vùng khác. Cá tính đó chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên, của vùng đất mà họ

sinh sống, đã được hun đúc từ bao đời làm nên nét đẹp của cư dân vùng Nam Kì Lục

tỉnh. Cá tính Nam Kì là tính bình đẳng, dân chủ, cởi mở, thoáng đạt, nhạy bén với cái

mới, cái du nhập trên tinh thần chắt lọc tinh hoa....Nhân nghĩa, bao dung nhưng cũng

rạch ròi, quyết liệt. Họ thiết thực, giản dị, không gò bó mình trong khuôn khổ cứng

nhắc. Do vậy, con người Nam Kì luôn trong trạng thái linh động, không ngừng phát

triển và sẵn sàng tiếp thu, nhiệt tình ủng hộ những cái mới, đáp ứng được những nhu

cầu của họ. Nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành hình và phát triển lâu đời

thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường tĩnh, thì đất Nam Kì vì là

một vùng đất mới, một môi trường động nên còn dễ dàng biến chuyển đổi thay.

1.2. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX

1.2.1. Thời kì sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trước khi

khép lại thời kì của mình, nó cũng đã có những lần “giãy chết”, bộc lộ rõ những hạn

chế và yếu kém không thể cứu vãn của mình. Triều Nguyễn là một triều đại mới,

nhưng lại không đại diện cho cái mới. Trong những buổi đầu, để củng cố địa vị thống

trị của mình nhà Nguyễn còn thực hiện được một số chính sách tiến bộ nhưng càng về

sau nhà Nguyễn càng đi vào con đường suy thoái để rồi trở thành một triều đại phản

động nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì thế dưới triều Nguyễn các cuộc

khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra.

Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, thành lập triều Nguyễn đã đứng trước những lợi thế,

tiềm năng to lớn để xây dựng và phát triển đất nước: sau hơn 200 năm đất nước bị chia

cắt theo cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài, Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XIX

thực sự thống nhất, trở thành một quốc gia độc lập với sự hoàn chỉnh cương vực quốc

gia, thống nhất thị trường, tiền tệ. Đây là điều hết sức thuận lợi để có thể xây dựng một

nền kinh tế xã hội mạnh mẽ, mở rộng những quan hệ giao thương quốc tế, canh tân,

phát triển đất nước cũng như vượt qua sự can thiệp, xâm lấn của các thế lực thực dân ở

phương Tây...

Nhưng, những gì triều Nguyễn làm được lại đi ngược với mong muốn của quần

chúng nhân dân lúc bấy giờ. Ngay từ đầu, nhà Nguyễn đã bộc lộ những điểm yếu của

21

mình. Khác với những triều đại trước thường được thiết lập trên cơ sở thắng lợi của

những cuộc chiến tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc hoặc sau khi đã hoàn thành

nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, củng cố toàn vẹn lãnh thổ quốc

gia, triều Nguyễn - vương triều phong kiến cuối cùng ở Việt Nam - lại được dựng lên

bằng một cuộc nội chiến kéo dài mà kẻ chiến thắng đã cầu cứu, dựa vào thế lực ngoại

bang để lập nên chính quyền. Như vậy, chỉ riêng việc hình thành triều đại cũng đã bộc

lộ những điều khác biệt, không phù hợp với mong muốn và quyền lợi của dân tộc.

Với độ lùi của lịch sử, có thể thấy rằng, bức tranh toàn cục về kinh tế, chính trị,

xã hội dưới triều Nguyễn rất đa dạng, phức tạp, chứa đựng đầy những mâu thuẫn giữa

cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và lạc hậu, giữa duy tân và thủ cựu, giữa cái mạnh

và cái yếu,… Thế kỉ XIX được xem là thế kỉ bản lề đối với xã hội châu Á nói chung và

của Việt Nam nói riêng. Trước áp lực của thực dân phương Tây, việc mở cửa khai

phóng những tiềm lực kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa là con

đường duy nhất và đúng đắn nhất để tăng cường sức mạnh bảo vệ nền độc lập. Tuy

nhiên, nhà Nguyễn đã không đi theo hướng đó mà đi ngược lại, hình thành nên xu

hướng độc tài của nhà nước, chế ngự, độc quyền, thi hành chính sáng đóng cửa với các

nước phương Tây.

Chính trị nhiều bất ổn biểu hiện ngay từ lúc thiết lập nên vương triều. Khi lên

ngôi, Gia Long đã bộc lộ quyết tâm xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền,

chuyên chế theo mô hình chính trị của nhà Thanh. Thực hiện nguyên lí quyền hành,

xây dựng hệ thống chính quyền quân chủ tuyệt đối là đặc trưng của chế độ chính trị

của nhà Nguyễn. Trong sự thắng thế của nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn đã ngầm chứa

những mầm mống suy vi của vương triều này: trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn khốc,

giết hại những công thần như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, mất đoàn kết

trong nội bộ hoàng tộc... Tất cả các sự kiện này đều góp phần làm cho tình hình đất

nước thêm rối ren. Những xung đột xã hội đan cài nhau và ngày càng trở nên căng

thẳng đã dẫn tới sự bùng nổ liên tục những phong trào nông dân khởi nghĩa mà tiêu

biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, hay những cuộc khởi nghĩa do các trí thức

phong kiến danh tiếng như Cao Bá Quát lãnh đạo.

22

Có thể thấy, triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam đã có

những thành tựu, những mặt phát triển, mở mang kinh tế, xã hội theo sự lớn mạnh

mang tầm vóc lịch sử dân tộc, bắt kịp hướng phát triển của dân tộc dầu thế kỉ XIX

nhưng nó không thể giải quyết được mầm mống và xu thế khủng hoảng của chế độ

phong kiến Việt Nam. Đặc biệt từ khi làn sóng thực dân phương Tây càng ngày càng

đến gần thì sự khủng hoảng này càng bộc lộ một cách sâu sắc để dần đi đến sự diệt

vong của cả một chế độ và khép lại sự tồn tại của một triều đại.

Rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, tiếng súng của thực dân Pháp bắn vào cửa

biển Đà Nẵng báo hiệu sự mở màn của cuộc chiến tranh xâm lược cũng như báo hiệu

cho một sự chuyển biến lớn trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Để thực hiện cuộc

chiến này, thực dân Pháp đã có một thời gian dài chuẩn bị với mục đích là bành

trướng, xâm chiếm thị trường chứ không phải là mục đích tôn giáo hoặc sứ mệnh

“khai hóa văn minh” như Pháp từng nói. Cuộc kháng chiến trường kì đầy gian khổ

của dân tộc bắt đầu. Pháp chinh phục Việt Nam theo chiến lược tằm ăn lá dâu, đánh

chiếm dần từng mảnh, từng vùng, từ Nam Kì rồi tới Bắc Kì, sau đó là cả nước. Về phía

nhân dân ta, đây là thời kì đứng lên với tư cách người dân của một đất nước độc lập

đấu tranh để bảo vệ, giữ gìn nền độc lập dân tộc, chống bọn xâm lược.

Việc Đà Nẵng bị tấn công không hề bất ngờ với triều đình nhà Nguyễn ở Huế,

bởi từ năm 1857 đã có nhiều bản điều trần dâng lên Tự Đức đề nghị triều đình tăng

cường phòng thủ cho hải cảng này. Vì thế, trên sông Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà

được đắp thêm hai đồn lũy kiên cố. Đèo Hải Vân cũng được xây thêm các đồn phòng

thủ có những hộc đá để ngăn chặn giặc. Quân số của các đồn chính tại Đà Nẵng có lúc

lên tới gần 5000 quân và trang bị thêm nhiều đại bác mới. Khi thực dân Pháp khai

súng, không chờ sự trả lời của triều đình, quân nhà Nguyễn tại đây đã bắn trả nhưng

do vũ khí lạc hậu cùng với việc không được luyện tập thường xuyên nên không mang

lại hiệu quả. Vì vậy, việc quân Pháp tràn vào bán Đảo Sơn Trà rồi dần dần chiếm các

tỉnh của ta là điều không thể tránh khỏi, như một việc tất yếu.

Như vậy, trước kẻ thù xâm lược, triều đình nhà Nguyễn với tư cách là những

người cầm cờ bảo vệ nhân dân đã sớm nhụt chí chiến đấu, chịu đầu hàng, nhượng đất

cho giặc, nhưng nhân dân vẫn kiên quyết đứng lên không phút nào ngơi nghỉ. Sự kiên

23

quyết này đã mở đầu cho một truyền thống đánh giặc kiên cường chống thực dân Pháp

suốt gần một thế kỉ về sau, tạo nền tảng cơ sở cho những thắng lợi của dân tộc. Nhân

dân Nam Kì nói riêng và cả nước nói chung luôn gắn bó với từng tấc đất của dân tộc,

kiên quyết bảo vệ đến cùng trong khi bộ phận lãnh đạo thời kì này là triều Nguyễn lại

trở thành những kẻ vô trách nhiệm. Mặc dù có lúc vua tôi nhà Nguyễn biết đến sức

mạnh của nhân dân và có ý định phát huy vai trò to lớn của dân nhưng rút cục vì

quyền lợi ngai vàng mà sợ hãi nhân dân dẫn đến những kết cục thảm hại. Đó là sự cáo

chung của một nhà nước phong kiến.

1.2.2. Nền bảo hộ của Pháp ở Nam Kì và kháng chiến của nhân dân

a. Nền bảo hộ của thực dân Pháp ở Nam Kì

Nước ta rơi vào vòng nô lệ. Nam Kì là vùng đất bị chiếm trước tiên nên thực dân

Pháp thi hành những chính sách áp bức bóc lột cũng như chính sách về văn hóa nô

dịch sớm nhất. Dã tâm xâm lược của thực dân Pháp thể hiện rõ ràng ngay trong sự hối

hả xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho lợi ích của chúng: xây dựng thành phố Sài Gòn

– Gia Định, các dinh thự, bưu điện, cảng, đường bộ, đường sắt...Bên cạnh đó là việc

mở trường đào tạo quan cai trị, xuất bản báo chí, sách vở bằng chữ quốc ngữ và chữ

Pháp. Cùng với việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân vẫn diễn ra quyết liệt

cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng, bộ máy hành chính cho chế độ thuộc địa, thực dân

Pháp còn xây dựng nên một đội ngũ đánh thuê, các đội lính tập, mã tà để bảo vệ những

thành quả của công cuộc xâm lược. Những chuyển biến về kinh tế, xã hội của Nam Kì

bắt đầu xuất hiện. Bộ máy cai trị của triều đình nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn, thay

vào đó là tổ chức trực tiếp của thực dân Pháp.

Về kinh tế, Pháp đã mở cảng Sài Gòn cho thông thương với nước ngoài, cho

phép tự do xuất cảng lúa gạo, xóa bỏ hoàn toàn chính sách “ bế quan tỏa cảng”, bảo

thủ của triều đình Tự Đức. Những công ty xuất nhập khẩu của pháp dần xuất hiện. Nền

giáo dục khoa cử bị xóa bỏ, chữ Hán được thay thế bằng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp

một cách nhanh chóng và chúng trở nên thông dụng. Nam Kì thay đổi rất nhanh chóng

dưới nền bảo hộ của thực dân Pháp. Chúng đã thu được những mối lợi đầu tiên từ

thuộc địa của mình: từ năm 1867 đến 1877, mỗi năm thực dân Pháp vơ vét, xuất khẩu

24

từ 20 đến 50 vạn tấn gạo, chưa kể nhiều thứ lâm sản, hải sản khác. Quang cảnh của

Nam Kì, nhất là vùng Sài Gòn, Gia Định thay đổi nhanh chóng.

Bắt đầu từ năm 1897 trở đi, thực dân Pháp chính thức bước vào thời kì tổ chức

và khai thác với quy mô lớn, xây dựng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên thuộc

địa, biến nước ta thành một nước nửa thực dân nửa phong kiến. Cùng với công cuộc

khai thác thuộc địa, nhiều đô thị kiểu mới mọc lên và phát triển nhanh chóng. Tầng lớp

thị dân đông đảo hình thành, trong xã hội mới xuất hiện một số tầng lớp mới, những

người tiểu tư sản, những người vô sản. Cùng song hành với những biện pháp chính trị,

chính sách văn hóa nô dịch được đẩy mạnh nhằm mục đích cũng cố nền thống trị của

thực dân. Từ thân phận của người dân đến chính sách luật pháp, kinh tế, văn hóa áp

dụng cho người dân vùng Nam Kì đều khác xa so với Bắc Kì và Trung Kì. Là xứ

thuộc địa của thực dân Pháp, người dân vùng Nam Kì muốn đi đến Trung Kì hay Bắc

Kì đều phải có giấy thông hành giống như thủ tục đi sang một nước khác.

Chính sách thống trị phản động và chương trình khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp để lại hậu quả vô cùng nặng nề đối với nước ta, làm cho nền kinh tế Việt Nam sa

sút nghiêm trọng các tệ nạn xã hội phát triển, xã hội phân hóa hết sức sâu sắc. Ngoài

mâu thuẫn cơ bản đã tồn tại là mâu thuẫn giai cấp xã hội còn nảy sinh thêm mẫu thuẫn

mới là mẫu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp xâm lược. Đây là mâu thuẫn dân

tộc cần phải được giải quyết trước để đem lại độc lập tự do cho đất nước.

Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực

dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công

rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương nói

chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế

nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục,

chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai hoá

và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính là

sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Trong lòng chế

độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen

nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc việt nam với thực

25

dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn

đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển

mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức.

Khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp không chỉ nhằm khai thác

những tiềm lực về kinh tế mà còn ôm ấp ý đồ thống trị về mặt tinh thần của nhân dân

ta. Chúng muốn biến dân tộc Việt Nam trở thành nô lệ cho chúng. Sống trong chế độ

chính trị và giáo dục của thực dân, người Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành những kẻ ích

kỷ, yếu hèn, tự ti, mất gốc, không còn biết gì đến Tổ quốc, dân tộc. Nhiều người quên

dần cái nhục mất nước, cứ ngỡ rằng việc khai hóa của thực dân là sự thật, là hảo ý của

Pháp đối với Việt Nam. Nỗi đau mất nước đã lắng dần theo năm tháng, người ta lại

còn cảm thấy dường như sự hiện diện của Pháp lại có lợi cho người Việt Nam, Pháp

mang đến cho nhân dân Việt Nam bao nhiêu là tiện nghi vật chất mà họ chưa từng có

được. Người Việt Nam đã thích nghi dần và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Công

cuộc khai thác thuộc địa của Pháp dưới triều Nguyễn đã làm thay đổi mọi mặt của đời

sống.

b. Những cuộc kháng chiến của nhân dân

Sau khi chiếm được Nam Kì, thực dân Pháp đã nhanh chóng xây dựng thiết chế

quản lí của nước bảo hộ, xây dựng bộ máy thống trị trên toàn cõi Đông Dương. Tuy

nhiên, đó cũng không phải là một việc dễ dàng như chúng mong muốn bởi liên tục vấp

phải phong trào kháng chiến chống xâm lược liên tiếp bùng nổ, các cuộc khởi nghĩa vũ

trang, hình thức đấu tranh tị địa tạo ra sự hoang vắng ở những vùng đất thực dân chiếm

được khiến cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp gặp nhiều khó khăn.

Với mục tiêu đấu tranh chống thực dân, chống phong kiến giành độc lập dân tộc,

các tầng lớp nhân dân ở Nam Kì đã đứng lên tổ chức các hoạt động yêu nước mang

đậm tính chất, tinh thần của vùng đất Nam Kì. Chính sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng

của phong trào yêu nước đã khiến Nam Kì trở thành vùng đất có vị trí quan trọng trong

quá trình chuyển biến tư tưởng của dân tộc. Đặc biệt, với chính sách đô hộ, khai thác

thuộc địa của Pháp, cộng với vị trí là một vùng đất mới nên viêc sớm tiếp thu các

luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới khiến Nam Kì trở thành một trong những khu vực

có phong trào yêu nước phát triển mạnh và hết sức đa dạng.

26

Đứng trước sự xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, trước cảnh non sông đất

nước bị chia cắt và những thất bại đau đớn ở chiến trường miền Nam, triều đình nhà

Nguyễn bộc lộ sự nhu nhược, yếu hèn của mình với những phản ứng tiêu cực. Cuộc

kháng chiến của nhân dân ta đặt dưới ngọn cờ của triều đình nhưng vua tôi nhà

Nguyễn đã sớm bộc lộ sự lúng túng trong việc đối phó với tình hình rối ren trong

nước, cho thấy sự yếu kém của hệ thống chính quyền trung ương. Sau khi mất ba tỉnh

miền Đông, triều đình nhà Nguyễn không những không kiên quyết lãnh đạo toàn dân

kháng chiến, đánh đuổi giặc mà ngược lại, tỏ ra hèn yếu trước các hành động xâm lược

của kẻ thù đang lăm le cướp nước. Với chính sách phản động cũng như sự mục ruỗng

từ bên trong, triều đình không dám dựa vào nhân dân để chống lại giặc mà kháng cự

một cách yếu ớt rồi dần dần đi đến việc chấp nhận đầu hàng, mất đất.Thái độ hoang

mang, nhu nhược của vua quan triều Nguyễn trước giặc Pháp chính là một trong

những nguyên nhân khiến chúng ngày càng liều lĩnh tiến hành xâm chiếm các vùng

còn lại của nước ta. Pháp lần lượt chiếm hết sáu tỉnh Nam Kì, triều Nguyễn đã đứng ra

ký các hiệp định nhượng cho pháp ba tỉnh miền Đông (năm 1862) rồi ba tỉnh miền Tây

Nam Kì (năm 1874).

Nhà Nguyễn trở thành vật cản của tiến bộ xã hội. Sống nghẹt thở trong ngôi nhà

mục nát ấy, nhân dân ta chỉ có một lối thoát là vùng lên. Chiến tranh nông dân tiếp tục

bùng nổ khắp nơi, dữ dội và quyết liệt một cách không khoan nhượng. Họ không

những chọc trời khuấy nước, làm lung lay tận gốc nền độc tài của nhà Nguyễn mà còn

làm cho thực dân Pháp hồn kinh phách lạc. Ngược lại với thái độ nhu nhược của vua

tôi triều Nguyễn, nhân dân ta với truyền thống bất khuất từ ngàn đời đã kiên quyết

chống lại thực dân cũng như chống lại sự đầu hàng, phản bội của triều đình. Họ đứng

dậy kháng chiến anh dũng và bền bỉ. Cùng với Đà Nẵng, Quảng Nam, nhân dân Nam

Kì đã đi đầu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những cuộc

chiến đấu ấy khi lên khi xuống vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng không khi nào

chấm dứt, chỉ chờ cơ hội thuận lợi là lại bùng lên mạnh mẽ.

Trong khi giai cấp phong kiến thống trị nhanh chóng đi vào con đường đầu hàng

thỏa hiệp thì vai trò của nhân dân lại sáng ngời trên vũ đài chính trị. Chưa phải nhân

dân nắm quyền lãnh đạo tất cả các cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng những cuộc

27

chiến của họ là tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, đấu tranh bền bỉ, gan dạ, tinh thần

anh dũng bất khuất của dân tộc. Đứng trước nguy cơ mất nước, nhân dân đã đứng lên

buộc thực dân pháp trả một cái giá rất đắt cho từng mảnh đất chúng cướp được. Trong

cuộc chiến chống Pháp, lực lượng gây khó khăn lớn nhất cho quân thù không phải là

triều đình mà chính là những người dân áo vải khăn điều.

Từ năm 1860 đến 1862, Nam Kì đã nổi lên các trung tâm kháng chiến chống

Pháp với những tên tuổi: Đỗ Trình Thoại, Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa ở

Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng

Tháp Mười,... Trong các trung tâm này, cuộc khởi nghĩa của Trương Định là tiêu biểu

nhất. Trương Định là người anh hùng trí dũng song toàn. Từ đất Gò Công, ông đã thu

hút được nhiều anh tài như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn

Thông, Thủ Khoa Huân với số lượng hơn một vạn nghĩa binh trải rộng khắp vùng căn

cứ chống giặc từ Tân An, Mỹ Tho, Gò Công xuống Đồng Tháp Mười. Năm 1859,

quân Pháp đánh Cần Giờ rồi lấy thành Gia Định, năm 1860 đánh lấy đồn Kì Hòa, năm

1861 lấy Định Tường, Biên Hòa . Triều đình Huế cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy

Tiếp vào Nam giảng hòa để rồi phải ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường cho Pháp 3

tỉnh miền Đông. Đến năm 1867, ngày 19 tháng 5 quân Pháp chiếm Vĩnh Long, đêm 21

rạng 22 Châu Đốc thất thủ và sáng ngày 24 Hà Tiên bị mất, thế là từ đó miền Nam

thuộc Pháp cai trị. Trương Định đã làm cho quân Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng

ở Nam Kì, nổi tiếng với khẩu hiệu: “Phan - Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (họ

Phan, Lâm bán nước, triều đình bỏ rơi dân chúng) trên lá cờ “Bình Tây đại nguyên

soái”. Bất chấp những điều kiện cực kì khó khăn của hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ,

nghĩa quân của Trương Định đã bền bỉ chiến đấu trong nhiều năm, gây cho pháp

những khó khăn và thiệt hại không nhỏ. Sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn đã

được nhân dân nhìn nhận và đã có những phản kháng nhất định. Dấu hiệu điêu tàn đã

bộc lộ rõ nét, nhà Nguyễn như ngọn đèn trước gió đang cố gắng bừng tỏ để rồi vụt tắt

trước trận bão táp xâm lược của chủ nghĩa tư bản thực dân.

Việc chống ngoại xâm gắn liền với việc chống lại sự đầu hàng, thỏa hiệp của vua

tôi nhà Nguyễn. Vai trò của nhân dân thực sự to lớn. Trước việc thực dân Pháp từ từ

quàng vào cổ ách thống trị của chúng trên toàn đất nước, nhân dân đã nhìn ra được kẻ

28

thù của mình không chỉ có thực dân mà còn cả triều đình, chống Pháp phải đi đôi với

việc chống triều đình đầu hàng, chống lại sự nhu nhược của họ. Tuy vậy, thắng lợi nhỏ

phải đổi bằng xương máu của nhân dân không thể bù đắp lại những tổn thất lớn do sự

ươn hèn của triều đình gây nên.

Trải qua nhiều biến động, từ khi thực dân Pháp đặt nền bảo hộ nhưng cuối cùng

xã hội Nam Kì vẫn lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tuy vậy phong trào đấu

tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra trong suốt hai thế kỷ cũng đã làm bùng dậy

nhiều khát vọng, khí thế hào hùng của nhân dân Nam Kì chống thực dân đã kích động

mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân dân cả nước, lôi cuốn cả dân tộc, làm tiền đề

cho những thắng lới to lớn, khẳng định sự quật cường của tinh thần dân tộc, tinh thần

đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chuẩn bị cho sự thắng lợi của những con đường đấu

tranh đúng đắn sau này.

1.3. Văn học Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX

Văn học hai vùng Bắc Kì và Nam Kì đều có những đặc trưng riêng, bản sắc riêng

của từng vùng miền. Mặc dù chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, ngay từ buổi đầu

Nam Kì đã là vùng đất văn chương, có những nổ lực hết mình để phát triển nền văn

học riêng của mình.

Văn học vùng Nam Kì Lục Tỉnh gồm có đóng góp của những tác giả vô danh và

hữu danh với những tác phẩm lớn nhỏ khác nhau tạo nên một nền văn học phong phú

như bất cứ vùng nào trên đất nước. Tuy nhiên, có một thời người ta không ghi nhận

những đóng góp này, họ xem phần văn học của Nam Kì như “hòn máu bỏ rơi”. Bùi

Đức Tịnh trong bài ‘‘Phần đóng góp của văn học Miền Nam’’ (Saigon: Lửa Thiêng,

1974) đã viết: “Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang văn

chương hiện kim và giai đọan hình thành của nền quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến

1932, hầu hết các tác phẩm xuất hiện ở Miền Nam đều bị coi như không có trong lịch

sử văn học Việt Nam.” Nhận định này nói lên một thiên kiến tiêu biểu về việc đánh giá

thấp nền văn học Nam Kì, cho rằng Nam Kì không có văn học hay văn học kém, thiếu

Nho học, và lai căng Pháp. Người Nam không biết viết văn, viết nôm na, sai chánh tả.

Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, văn học Nam Kì bị mai một, không được sưu tầm

và biên soạn tạo thành một thể thống nhất và đầy đủ như văn học các vùng khác. Sở dĩ

29

như vậy là vì nhiều lí do. Trước hết có thể do bản chất giản dị, hời hợt của những

người lưu dân ít học, luôn chỉ quan tâm đến cuộc sống thực tế, lo cái ăn cái mặc không

còn thời gian để lo cho đời sống tinh thần của mình. Nếp sống của người lưu dân trong

vùng đất mới, thuở mới đến khai hoang lập làng, phải chiến đấu thường xuyên với sơn

lam chướng khí, cọp beo rắn rít, phải đương đầu với gian khổ, hiểm nguy. Trong hoàn

cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng xuôi Nam đâu còn có thời giờ và ý chí mà nghĩ

đến hành trang chữ nghĩa.

Theo gót chân của những người xuôi Nam lập nghiệp, những con người chỉ mang

theo lưỡi cày, cái cuốc để mưu sinh trong những đêm dài xa xứ nhớ về quê hương hay

trong những lúc bán mặt cho đất bán lưng cho trời tùy hứng mà cất lên những câu hò

điệu hát, ý thơ, từ đó làm xuất hiện thời kì văn học dân gian trên vùng đất Nam Kì. Có

thể nói, trong bước đầu khai phá của thế kỉ XVI, văn học Nam Kì là thứ văn học dân

gian.

Khi đời sống đã dần ổn định, nội chiến đã chấm dứt, khi đất hoang đã biến thành

làng xóm, đời sống lưu dân được tương đối ổn định thì một mảng văn học đặc thù

Nam Kì đã bắt đầu được hình thành và phát triển. Đất đai rộng dần, nhà cửa đông đúc,

phố thị mọc lên với sự đóng góp của những thần dân nhà Minh từ Trung Hoa đến định

cư tại Hà Tiên, Biên Hòa, Mỹ Tho. Nhu cầu khai trí, mở mang đầu óc, làm phong phú

đời sống tinh thần cũng từ đó tăng lên, ảnh hưởng của văn học chữ Hán, chữ Nôm lan

rộng trong đời sống nhân dân. Thời kì văn học này đã nhen nhúm từ đầu cho đến hết

thế kỉ XVIII.

Khi vua Gia Long lên ngôi rồi sau đó là sự tiếp nối của các vua nhà Nguyễn, việc

tiếp xúc văn hóa, tri thức giữa các vùng miền đã khiến văn học Nam Kì phát triển cho

đến khi Pháp đặt chân đến đây, gây cảnh khói lửa, loạn li. Sau cùng, với thời kì Pháp

thuộc, văn học Nam Kì chuyển biến mạnh mẽ với ảnh hưởng từ văn học phương Tây.

Chữ Quốc ngữ được dùng thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Có thể nói văn học Nam

Kì đã có những bước chuyển mình sâu sắc từ giữa thế kỷ thứ XIX.

Đó là ba thời kì, ba bộ phận của văn học Nam Kì Lục Tỉnh. Tìm hiểu văn học

Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, chúng tôi chỉ xin đề cập đến hai bộ

phận văn học Hán Nôm và văn học viết bằng chữ Quốc ngữ.

30

1.3.1. Văn học Hán Nôm

a. Tiến trình văn học Hán Nôm

Văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh là một bộ phận của di sản văn học Hán

Nôm của nước ta. Việc tìm hiểu mảng văn học này đóng vai trò lớn trong việc xây

dựng bức tranh toàn cảnh về nền văn học Nam Kì. Nó không thể tách rời khỏi lịch sử

phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngay từ khi Nam Kì được khai phá và hình

thành thì đã có văn học Hán Nôm đã có mặt và đua nhau phát triển theo bước chân của

những người mở cõi. Diện mạo văn học Hán Nôm của vùng Lục Tỉnh có lẽ được phác

họa bởi sự đóng góp của những người Hoa Nam di cư đến Nam Kì và trở thành những

cư dân chính thức của vùng đất này. Sự đóng góp của họ về kinh tế, chính trị là điều

không thể phủ nhận, bên cạnh đó những đóng góp của họ về văn học nghệ thuật cũng

là một điều đáng trân quý, không phải bàn cãi. Sự xuất hiện đầu tiên của nhóm thơ

Chiêu Anh Các ở Hà Tiên đã làm nên tiếng vang trong lịch sử văn học Hán Nôm của

nước ta. Về sau, sự xuất hiện của các nhóm thơ khác khiến cho đời sống văn học Nam

Kì Lục Tỉnh trở nên sôi động.

Trong thời gian khai mở và hoàn thành cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn, họ

cũng lấy Hán tự làm văn tự để giáo dục dân chúng và trị quốc. Tuy nhiên, học thuật

chữ Hán ở đây không thể nào tiến bộ đến độ thịnh trị như vùng đất Bắc. Việc truyền bá

Hán học cũng khó khăn, kém chất lượng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Vùng

Nam Kì là vùng đất mới, những phần tử đi tiên phong trong cuộc chinh phục thiên

nhiên này là những người nông dân, binh lính, những kẻ bần hàn, tù nhân, trộm cướp,

đào vong đến để tìm kế sinh nhai. Trong thời gian đầu đầy gian khổ họ không còn thời

gian cũng như tâm trí để tìm đến văn chương là điều dễ hiểu. Hơn nữa, trong một thế

kỉ rưỡi dốc sức vào việc chinh chiến và phòng thủ các thế lực khác, chăm lo binh sĩ để

gây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn không thể dành nhiều chú ý cho học thuật và

văn chương. Việc ít tiếp xúc với Hán học khiến cho văn chương và học thuật không

đạt đến độ tinh tế với một phạm vi phổ biến như đất Bắc. Do đó, thời ấy ở vùng Nam

Kì không hề có những tác phẩm kiệt xuất như Chinh Phụ Ngâm, Truyện Kiều... ở

Đàng Ngoài được.

31

Nhìn chung, trên con đường phát triển, văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh có

những đặc điểm riêng. Về nội dung nó thường mang tính đạo lí rõ rệt với quan niệm

“văn dĩ tải đạo” là phổ biến. Về hình thức thì văn học Hám Nôm Nam Kì cũng có đủ

các thể thi phú quen thuộc của văn chương Hán tự song chúng thường quảng dụng câu

thơ lục bát và dần làm quen với thể song thất lục bát. Văn chương mang khuynh

hướng bình dân, giản dị. Giọng điệu cũng mang đậm sắc thái của những con người nơi

vùng đất phóng khoáng này. Việc tìm hiểu và sưu tầm các tác phẩm Hán Nôm trên

vùng Nam Kì còn rất hạn chế. Các tác phẩm còn lưu lại rất ít.

Cho đến khi người Pháp chiếm Nam Kì làm thuộc địa thì có thêm văn học Quốc

ngữ, từ đó văn học Hán Nôm bắt đầu lụi tàn. Mặc dù cho đến nay vẫn còn nhưng càng

ngày càng hiếm hoi, bởi vì chữ Hán không còn giữ một vai trò quan trọng về văn tự

cũng như khoa cử ở Nam Kì. Như vậy, có thể nói, Nam Kì có một nền văn học đa

dạng, phong phú từ hơn 150 năm nay. Sau gần 400 năm lập quốc ở phương Nam, hòa

với văn hóa Minh Hương và văn hóa bản vùng Lục Tỉnh đã xây dựng được một nền

văn học Hán Nôm mang sắc thái đặc biệt của Nam Kì.

b. Một số tác giả tiêu biểu

Nói đến văn học Hán Nôm của vùng Nam Kì Lục Tỉnh trước tiên phải kể đến

Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh Các.

Mạc Thiên Tích (1708-1780) còn gọi là Mạc Thiên Tứ tự là Sĩ Lân, hiệu Sĩ Lân

Thị. Vốn là người Minh Hương, thân phụ ông là Mạc Cữu - người đã dựng nên đất

Hà Tiên. Mặc dù Mạc Cữu thần phục Chúa Nguyễn, trấn Hà Tiên là đất Việt Nam từ

năm 1714, nhưng Chúa Nguyễn vẫn để cho họ Mạc rất nhiều quyền hành, không khác

gì một chư hầu. Chúa Nguyễn Phúc Chu cho thành lập trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu

tước Cửu Ngọc Hầu, chức tổng binh. Với tư cách là người đứng đầu một trấn ngoài

biên thùy với nhiều quyền hành, Mạc Cửu và sau đó là Mạc Thiên Tích đã làm cho Hà

Tiên phát triển hùng mạnh như một quốc gia độc lập không chỉ về chính trị mà còn về

quân sự văn hóa. Họ mở mang kinh tế, khuyến khích nông nghiệp, phát triển thương

nghiệp, đưa Hà Tiên trở thành trung tâm của khu vực. Trấn Hà Tiên như một tiểu quốc

gia phong kiến hoàn chỉnh. Tuy nhiên, là vùng đất mới khai phá, ở vị trí gặp nhiều

32

thuận lợi nên Hà Tiên khó tránh khỏi sự nhòm ngó của ngoại bang. Sau cuộc xâm lăng

của Xiêm La, Hà Tiên bị tàn phá nặng nề và không còn đủ sức gượng dậy.

Trong những ngày xây dựng sự nghiệp, Mạc Cửu đã ưu ái dành nhiều thời gian

và công sức cho phát triển văn hóa và giáo dục. Ông cho mở trường học thu hút con

dân trên mảnh đất của mình cai quản để phát triển xứ sở. Năm 1735, Mạc Cữu mất,

Chúa Nguyễn phong cho Mạc Thiên Tích chức Tổng Trấn Hà Tiên. Sau khi thay cha

kế tập cai quản vùng Hà Tiên, Mạc Thiên Tích lo chấn hưng văn hóa, tổ chức hội thơ,

lập thi phái Chiêu Anh Các khi vừa 30 tuổi đánh dấu bước phát triển vượt bậc của đời

sống văn hóa và văn học xứ Nam Kì nói chung và trấn Hà Tiên nói riêng.

Mạc Thiên Tích đã dùng thi văn để ca tụng những cảnh đẹp ở Hà Tiên, trước

nhất là ca tụng công đức lớn lao của Mạc Cữu đã khai phá mảnh đất mới này, chí lớn

của ông được ký thác qua hai câu kết trong bài Hà Tiên Thập Cảnh Tổng Vịnh:

Bình San, Thạch Động là rường cột

Sừng sựng muôn năm cũng để dành.

Chiêu Anh Các có những hoạt động rất rộng, họ đề cao, quảng bá Nho giáo, mở

trường học và sáng tác văn chương. Hoạt động của Chiêu Anh Các vừa có ý nghĩa

khơi dậy không khí học tập, vừa cung cấp đội ngũ trí thức giúp việc cho họ Mạc. Tuy

vậy, Chiêu Anh Các vẫn được nhớ đến với tư cách là một tao đàn. Hoạt động nổi bật

nhất được nhiều người biết đến và yêu thích nhất là xướng họa, ngâm vịnh của các nhà

thơ được tập hợp nơi đây. Nó là nơi tập trung nhũng kẻ sĩ, những bậc anh tài trong

thiên hạ (chiêu: gọi, mời; anh: anh tài; cac: gác). Thi đàn thường xuyên tổ chức làm

thơ, xướng họa ngâm vịnh, giảng đàm thao lược và cho in khắc, lưu hành trong nhân

dân. Chiêu Anh Các quy tụ đông đảo lực lượng sáng tác gồm nhiều thành phần khác

nhau, nhiều địa phương khác nhau. Đó là sức hút mạnh mẽ của thi đàn này. Trong

Chiêu Anh Các, đa số là những người Minh Hương, một số người Hoa Trung Quốc và

số lượng người Việt tương đối ít.

Chiêu Anh Các để lại khối lượng tác phẩm tương đối lớn ở cả hai bộ phận: sáng

tác bằng chữ Hán và sáng tác bằng chữ Nôm. Đáng tiếc là cho đến nay, những sách

của họ đã bị thất truyền bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Hiện chỉ còn một số tác

phẩm ở các tập: Hà Tiên Thập Vịnh, Thụ Đức Hiên Tức Cảnh, Minh Bột Di Ngư, Hà

33

Tiên Quốc Âm Thập Vịnh và bài phú Lư Khê Vãn. Ngoài ra còn có bốn tập sách

chúng ta chỉ biết tên đó là: Hà Tiên Vịnh Vật Thi Truyền, Châu Thị Trinh Liệt Tặng

Ngôn, Thi Truyện Tặng Lưu Tiết Phụ và Thi Thảo Cách Ngôn Di Tập.

Mạc Thiên Tích luôn là người khởi xướng cho các hoạt động của Chiêu Anh

Các. Ông làm thơ rồi mời các nhà thơ trong và ngoài tao đàn họa lại. Những bài thơ

hay của Mạc Thiên Tích đã tạo thành những tập thơ hay để lại cho hậu thế. Xuất thân

từ một gia đình có truyền thống văn hóa, nho học, là một người học rộng, tài cao, lại

có ý thức mở mang văn hóa trên mảnh đất mình gây dựng, Mạc Thiên Tích đã dẫn dắt

Chiêu Anh Các trở thành một nơi hoạt động văn hóa mang tính chất quốc tế. Những

trăn trở, tình cảm, suy tư của Mạc Thiên Tích ảnh hưởng đến tồng thể thơ văn của tao

đàn. Đóng góp của ông với Chiêu Anh Các được thể hiện ở sự đóng góp một khối

lượng tác phẩm lớn trong kho tàng văn học. Đó là 10 bài xướng họa Đường luật trong

Hà Tiên Thập Vịnh, tập Minh Bột Di Ngư gồm 1 bài phú và 7 bài thơ; Hà Tiên Quốc

Âm Thập Vịnh với 10 bài vịnh cảnh Hà Tiên bằng song thất lục bát. Đây là những tác

phẩm quan trong góp phần xây dựng nên diện mạo văn học Hán Nôm trên vùng Nam

Kì. Nhờ những tác phẩm này, chúng ta có thể hình dung tìm hiểu và khám phá những

cái hay, cái đẹp cái lạ của vùng đất nơi đây. Mạc Thiên Tích chính là linh hồn, là chủ

soái xứng đáng của tao đàn độc đáo này trên trấn Hà Tiên.

Đến Võ Trường Toản qua bài “Hoài Cổ Phú”, viết bằng chữ Nôm, dài 24 câu còn

để lại, người ta có thể thấy ông có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền tài, danh lợi,

giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có nhân, nghĩa và đạo

đức làm trọng. Võ Trường Toản (chưa rõ năm sinh năm mất) hiệu Sùng Đức, là một

nhà giáo nổi tiếng “học rộng, có đức hạnh hơn người”. Lời của ông nằm trong khuôn

khổ đạo Nho, nhưng nhờ có sở học uyên thâm, ông mới làm sáng tỏ được đạo thánh

hiền, chẳng những đã đào tạo cho chúa Nguyễn một số công thần hữu danh mà còn để

lại ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, Phan Thanh Giản đã hết lòng ca tụng ông.

Đến cuối thời Kì này, có Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức nổi

danh một thời, được người đời xưng tụng là Gia Định tam gia. Lê Quang Định hiệu

Tấn Trai, tự Tri Chỉ, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên, là một người thông minh hiếu học,

thời loạn lạc vẫn không từ ngòi bút. Ông là học trò của Võ Trường Toản. Cùng với

34

Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức, ông lập nên nhóm văn thơ nổi tiếng Bình Dương

Thi Xã. Đến năm 1788, ông thi đậu, được Nguyễn Phúc Ánh cho làm quan, về sau trải

đến chức thượng thư và từng được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ông còn là tác giả của

bộ sách sử địa nhất thống Dư Địa Chí. Năm 1813, ông cáo bệnh về quê và mất sau đó

ít lâu.

Ngô Nhân Tịnh vốn người Minh Hương, quê gốc ở Quảng Đông, Trung Quốc.

Khi nhà Thanh tiến vào Trung Quốc, tổ tiên ông dời sang Gia Định lập nghiệp. Ông

nổi danh với tài năng học vấn. Ông cùng với Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức theo

Nguyễn Phúc Ánh một lượt, rồi làm quan tới chức Hữu Tham Tri bộ binh, hiệp trấn

Nghệ An, thượng thư bộ công và từng được cử đi sứ sang Trung Quốc năm 1789, 1802

và Xiêm La năm 1813. Cũng trong năm 1813, ông lâm bệnh nặng và qua đời.

Trịnh Hoài Đức tự Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, là người minh Hương ở Gia Định.

Năm 1788, ông thi đỗ và theo Nguyễn Phúc Ánh làm tới chức Thượng thư, sung chức

Chánh sứ và Hiệp trấn Gia Định. Ông là tác giả của nhiều bộ sách như “Lịch đại kỷ

nguyên”, “Khanh tế lục” và “Gia định thành thông chí”… Với quyển “Gia Định thành

thông chí” ông đã ghi chép trong năm trấn từ phong thổ, tập quán, di tích cho đến

những nguồn lợi thiên nhiên của Nam Kì. Không những nhằm mục đích cho mọi

người thấu rõ, mà còn có ý để ca tụng miền đất mới do chúa Nguyễn đã dày công thu

phục được. Đó chẳng những là một quyển sách viết có phương pháp mà còn ghi chép

rất tỉ mỉ, chứng tỏ ông có óc quan sát và thực tế. Nó là một tài liệu quý giá cho ngành

nhân văn. Năm 1825, ông mất ở tuổi 61.

Có thể nói, đây là những con người đã góp phần hình thành nên diện mạo của

văn học Hán Nôm Nam Kì Lục Tỉnh. Ngoài những bài thơ ngâm vịnh để tả cảnh đẹp ở

vùng đất phương Nam, họ còn đề cao công nghiệp của tiền nhân, tỏ lòng trung hiếu

với gia đình, đất nước. Những tác phẩm của họ để lại rất có giá trị cho sau này.

1.3.2. Văn học Quốc ngữ

a. Tiến trình văn học Quốc ngữ

Từ thế kỷ XVI, quá trình buôn bán giao thương giữa các nước tư bản phương

Tây với phương Đông đã được đẩy mạnh. Trong đó, các quốc gia Đông Nam Á là nơi

mà các thuyền buồm phương Tây (Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) thường

35

xuyên dừng chân. Đồng thời, đây là giai đoạn các giáo sĩ bắt đầu truyền bá đạo Thiên

chúa giáo vào các quốc gia phương Đông. Chữ Quốc ngữ ra đời từ thế kỉ XVII, là

thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Ðào Nha, Ý, Pháp ... trong đó công lao lớn nhất

thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes. Hình thành và phát triển theo bước chân của

các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn

truyền giáo của họ để truyền bá đạo Thiên chúa một cách dễ dàng hơn. Khi Nam Kì

trở thành thuộc địa của Pháp, người Pháp dùng chữ quốc ngữ làm phương tiện để cai

trị xứ Nam Kì, dùng văn hóa của họ để gieo ảnh hưởng lên vùng Lục tỉnh. Cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX, để dần dần xoá bỏ ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa nói chung,

chữ Nho nói riêng, thực dân Pháp đã thúc đẩy mạnh mẽ việc phổ cập chữ quốc ngữ.

Chữ quốc ngữ hình thành khởi đi từ các nhà truyền giáo Ðàng Trong cũng như Ðàng

Ngoài, rồi lần lượt chữ quốc ngữ được phổ biến trong giới Thiên chúa giáo như là

phương tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt chân lên miền Nam thì chữ quốc ngữ

được dùng làm phương tiện đô hộ dân Việt Nam ta. Từ đó chữ quốc ngữ có cơ hội tiến

triển mạnh mẽ, được phổ biến, truyền bá đến quảng đại quần chúng.

Văn chương quốc ngữ, sở dĩ được phát triển dễ dàng hơn trong Nam là nhờ sự

đóng góp tích cực của giới truyền giáo Thiên Chúa. Ban đầu nó bị người Nam Kì bài

bác vì người miền Nam sống trên dãi đất Nam Kì tuy mới thành lập, nhưng cũng đã

chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng nên những

người yêu nước, người bình dân chống đối thực dân Pháp, cũng ngấm ngầm chống lại

việc học chữ quốc ngữ. Tinh thần ấy được ghi lại trong những câu ca dao:

Khuyên anh về học lấy chữ Nhu

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Hán học mất địa vị chính thống và trong xã

hội đã hình thành những yêu cầu mới, những thành phần công chúng mới thì chữ quốc

ngữ mới được xem là thứ chữ của dân tộc. Việc đổi mới chữ viết đã mang nhiều ý

nghĩa lớn, nó không chỉ tạo điều kiện dễ dàng trong việc học, viết, đọc mà còn cung

cấp phương tiện hiện đại cho nền văn học mới. Khi thực dân Pháp đặt nền bảo hộ ở

Nam Kì cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để dần dần xoá bỏ ảnh hưởng của văn hoá

Trung Hoa nói chung, chữ Nho nói riêng, thực dân Pháp đã thúc đẩy mạnh mẽ việc

36

phổ cập chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp tại Nam kì đã thấy phương tiện truyền

thông bằng chữ quốc ngữ cho người Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ Pháp,

chữ Hán hay chữ Nôm, vì nó dễ học. Người Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu trực

tiếp ngôn ngữ của mình.

Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết định dùng chữ quốc ngữ để làm

văn tự chính thức cho Nam Kì. Sự việc này không phải do chính phủ Pháp muốn khai

hóa cho dân Việt, mà nằm trong những mưu đồ thôn tính Việt Nam. Trong ý đồ ấy,

người Pháp đã mở thêm nhiều trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp đỡ

người dân đi học, cốt để đào tạo một đội ngũ công chức thừa hành, hỗ trợ cho công

cuộc cai trị của chánh quyền thuộc địa Pháp. Kể từ năm 1920 trở đi trên toàn cõi Việt

Nam chỉ còn các trường tân học, một số hoàn toàn dùng Pháp ngữ, đa số dùng quốc

ngữ và Pháp ngữ, chữ Hán trở thành tử ngữ. Ban đầu ít có sách viết bằng chữ Quốc

ngữ để đọc, nên thực dân Pháp đề ra chủ trương dịch các loại sách kinh điển Trung

Quốc và những sách Hán Nôm của Việt Nam ra chữ quốc ngữ.

Dưới sự ủng hộ của nhà cầm quyền Pháp, hàng loạt sách kinh điển và tiểu thuyết

Minh Thanh của Trung Quốc đã được dịch ra chữ Quốc ngữ. Người dân Việt Nam vốn

đã không xa lạ với những tiểu thuyết Minh Thanh như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc,

Tây Du Ký…nên những sách dịch tiểu thuyết Minh Thanh bằng quốc ngữ được đón

nhận nồng nhiệt. Về sau, ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết,

thơ ca viết bằng chữ quốc ngữ theo cấu trúc của Tây Phương trong các xóm đạo từ

giữa thế kỷ XIX. Tác giả tiêu biểu của thời Kì này đều là tín đồ thiên chúa giáo

như Huỳnh Tịnh Của,Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu...

Những tiểu thuyết tình cảm bằng quốc ngữ của Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh

Sắt,Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Biến Ngũ Nhi, Nam Đình Nguyễn Thế

Phương ... tiếp tục góp thêm vào tiến trình văn học quốc ngữ Nam Kì.

Thiên nhiên ưu đãi, đất đai phì nhiêu, trù phú, đời sống dân chúng lại được tiếp

thu nhiều ảnh hưởng của phương Tây, những yếu tố ấy giúp cho Nam Kì Lục Tỉnh dễ

dàng phát triển kinh tế,nó cũng là đòn bẩy giúp cho văn học nghệ thuật có điều kiện

phát triển. Chủ trương phổ biến chữ quốc ngữ của nhà cầm quyền Pháp để dễ dàng cai

trị thuộc địa, là một cơ hội tốt cho các nhà văn, nhờ đó Nam Kì đã sáng tạo nên một

37

nền văn học phù hợp với hình thái đơn giản của chữ quốc ngữ tại vùng đất này.Nam

Kì Lục Tỉnh là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết,ngay từ cuối thế kỷ XIX,

đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh.Người Nam Kì đã

dùng chữ quốc ngữ để diễn đạt cảm xúc, tư tưởng thành những áng văn chương, tạo

thành nền văn học Miền Nam mang nét đặc sắc riêng không thể hòa lẫn. Miền đất Lục

Tỉnh là nơi khai phá cũng là nơi dẫn đầu cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam.

b. Một số tác giả tiêu biểu

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) được xem là những

nhà văn quốc ngữ tiên phong, là những người đầu tiên đã dùng chữ quốc ngữ để phổ

biến văn chương, cũng là những người hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến quảng đại

quần chúng vào thời Kì sơ khai. Bằng những sáng tác văn chương của mình, họ đã đẩy

mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ để sau này trở hành thứ ngôn ngữ chính thống của

Việt Nam. Họ là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau này.

Trương Vĩnh Ký (1837-1898) tên thật là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương

Vĩnh Ký, là một giáo dân của đạo Thiên chúa, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là

Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương

Vĩnh Ký. Sinh tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân

Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long (sau thuộc tỉnh Bến Tre). Ông là con thứ ba của

Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Tiếp xúc với nền Nho học từ

rất sớm, khi lên 5 tuổi, ông học chữ Hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua

đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom-Penh). Sau đó, mẹ ông

giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ này, ông học chữ Quốc ngữ.

Sau khi giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên tiếng Việt là linh mục

Long, đem về nhà dòng chính ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.

Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835, vua hạ Chiếu cấm đạo nên năm 1848,

Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchia.

Đây là trường đạo dành riêng để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến

Ðiện và Trung Hoa. Nhờ ở chung với học sinh các nước này mà ông học nói và viết

thông thạo ngôn ngữ của các nước Đông Nam Á kể trên. Năm 1851, Trương Vĩnh Ký

theo Linh mục Long qua học tại Tổng Chủng Viện Viễn Ðông Quốc Ngoại Truyền

38

Giáo ở Poulopénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn

chương, khoa học, triết lý thông qua chữ La tinh. Cũng ở tại đây, ông có dịp học thêm

các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Ðộ và Nhật.

Trương Vĩnh Ký là người có tâm huyết và đóng góp vô cùng to lớn với nền văn

học quốc ngữ Việt Nam. Không chỉ là một nhà văn tiên phong của nền văn học chữ

quốc ngữ, ông còn là một học giả rất nổi tiếng, là nhà ngôn ngữ học quảng bác, uyên

thâm. Ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Ðông phương.

Ông sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa

học. Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Ðại Học,

Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ,

cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Ðông phương. Chính ở phương diện nầy chúng

ta công nhận ông là một nhà văn hóa lỗi lạc. Trên phương diện chính trị ông mong tạo

sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chính

trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng ông vẫn giữ được

phong hóa Ðông phương, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo Khổng Mạnh

Trương Vĩnh Ký mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi, để lại hơn 100

tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật,... Thời Pháp, tưởng nhớ

công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu

bịt khăn đống, tay cầm quyển sách. Từ thời Pháp thuộc năm 1927, một trường Trung

Học lớn mang tên ông - Trường Trung học Pétrus Ký (nay là Trường Trung học phổ

thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh). Kể ra những sách và bài của

ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng. Trương Vĩnh Ký

là nhà thông thái, quảng bác ngữ học với lối ông hành văn rất giản dị, bình dân, viết

cũng y như câu nói mang lại nền tảng vững chắc cho văn học quốc ngữ. Có thể nói, về

văn học chữ quốc ngữ, Pétrus Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà văn tiền

phong.

Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của,

hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất

Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ông tinh thông cả Hán văn và Pháp Văn. Năm 1881,

được bổ ngạch Ðốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm

39

quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong, là một nhà văn

hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát triển và

truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu ở Nam kì. Năm 1865, ông thay Trương

Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngữ Gia Ðịnh báo trong một thời gian ngắn.

Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, nhưng tuyệt đại đa số các tác phẩm của

ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa được coi trọng và bị đánh

giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp. Huỳnh Tịnh Của từng đề nghị dùng chữ

quốc ngữ thay cho chữ Hán và gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu cho

xuất bản báo chí quốc ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng không được chấp nhận.

Cùng tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của đồng quan

điểm với Trương Vĩnh Ký, nhìn thấy xã hội Việt Nam lúc bấy giờ có khả năng và cần

vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương Tây về các vấn đề khoa

học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển

văn hóa phương Đông cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập. Trong những

buổi đầu của nền văn chương quốc ngữ ở Nam Kì, đóng góp của Huỳnh Tịnh Của là

rất lớn. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là cuốn Đại Nam quốc âm tự vị, là quyển tự

vị tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam, do người Việt Nam biên soạn, được coi là pho

sách kinh điển, trở thành "sách gối đầu giường" với nhiều thế hệ các nhà ngôn ngữ

Việt Nam. Ngữ vựng trong sách rất phong phú. Nó còn bao gồm chẳng những các từ

ngữ văn chương và ngôn ngữ bình dân mà cả những tiếng có màu sắc địa phương được

dùng trên nước ta lúc bấy giờ.

Một tác giả cũng rất đáng nhắc đến trong những tác giả tiêu biểu, đặt nền móng

cho văn học quốc ngữ bấy giờ là Trương Minh Ký. Trương Minh Ký (1855-1900),

nguyên tên là Trương Minh Ngôn hiệu Thế Tải, Mai Nham, quê tại làng Hanh Thông,

thuộc Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc quận Gò Vấp, Thành

phố Hồ Chí Minh). Là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn hóa Việt Nam. Song thân ông

là ông Trương Minh Cẩn và bà Phạm Thị Nguyệt. Ông là một học trò xuất sắc

của Trương Vĩnh Ký, có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học

Quốc ngữ Việt Nam.

40

Bên cạnh việc dạy học, ông cộng tác với thầy Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định

báo, Thông Loại Khóa Trình và viết sách dạy Pháp văn. Giống như Huỳnh Tịnh Của,

cách hành văn của ông rất bình dân, mộc mạc. Ông chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ

và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi. Năm 1889, ông được cử làm thông ngôn cho

phái đoàn triều đình Huế đi sứ sang Pháp tham dự Hội Đấu xảo tại Paris. Tuy Trương

Minh Ký không được chú ý nhiều nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân

cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ

đứng trong số các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ.

Các nhà văn kể trên cùng với sáng tác văn chương của mình đã có công rất lớn

trong việc truyền bá chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Họ là những nhà văn lớn, tạo nên

phong trào tiên phong bắt đầu từ miền đất Nam Kì sau lan dần trên cả nước. Nhờ sự

tâm huyết cũng như những tác phẩm của họ mà chữ quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến

trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đặt nền móng cho việc sử dụng rộng rãi sau này

khiến nền văn học Việt Nam sau này phát triển nhanh chóng.

1.4. Thơ trào phúng – tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại

1.4.1. Khái niệm “trào phúng”

“Trào phúng” (tiếng Pháp: satire) là một thuật ngữ mà giới nghiên cứu thường

sử dụng. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc

Phi), “trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một

nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm

biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,... được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo,

phản kháng...những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội” [363, 39]. Theo

Từ điển Từ và ngữ Việt Nam: “trào”: chế nhạo, “phúng”: răn đe. “Trào phúng” theo

nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song

trong lĩnh vực văn học, “trào phúng” gắn liền với phạm trù mĩ học về cái hài với các

cung bậc hài hước, châm biếm.

“Trào phúng” là một khái niệm rất phức tạp về mặt lí thuyết. Những cung bậc

khác nhau của tiếng cười được vận dụng một cách phổ biến trong các tác phẩm trào

phúng. Có thể hiểu một cách đơn giản, trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười.

Tiếng cười ấy mang tính hai chiều, vừa vui nhộn, hài hước nhưng lại vừa chất chứa nỗi

41

niềm, vừa khai tử cái xấu, cái đáng phê phán nhưng lại vừa tái sinh, gieo vào lòng

người đọc niềm tin vào sự thay đổi.

Có thể phân biệt “trào phúng” và “trào lộng” để thấy rõ sự khác nhau giữa hai

khái niệm này. “Trào lộng” có tính chất chế giễu để đùa cợt, gây cười. Giữa trào

phúng và trào lộng tuy đều mang ý nghĩa chế giễu nhưng lại có ý nghĩa khác nhau.

“Trào phúng” chế giễu để châm biếm, răn đe. Cùng là tiếng cười nhưng tiếng cười ấy

xót xa, cay đắng, để lại nhiều suy ngẫm. Trong tiếng cười hay những lời chế giễu đều

mang một ý nghĩa sâu xa. Mượn tiếng cười nhưng thực ra tác giả đang muốn bày tỏ

thái độ cũng như quan điểm của mình trước vấn đề đang nói đến.

Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án,

vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng. Trào phúng còn là nghệ thuật gây ra tiếng

cười mang ý nghĩa phê phán xã hội. Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những

mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Để gây được tiếng cười trào

phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm

nổi bật mâu thuẫn ấy. Trong sự phát triển của văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật

nói riêng, thơ ca trào phúng góp phần quan trọng làm phong phú thêm cho đời sống

văn hóa tinh thần, gây sự cuốn hút và ấn tượng mạnh mẽ. Một đặc điểm nổi bật là thơ

ca trào phúng vừa là tiếng cười sảng khoái, vừa như một mũi tên đâm thẳng vào những

thói hư tật xấu ở đời, lên án những bất công, những suy thoái của xã hội để từ đó thức

tỉnh những nhân tố tích cực, đẩy lùi cái xấu, ươm mầm cho cái tốt. Trong một xã hội

mà sự xuống cấp đang là một nguy cơ thì trào phúng đả kích là một thủ pháp đắc dụng

để các nhà văn, nhà thơ thể hiện quan điểm của mình càng có tác dụng. Trào phúng

mang lại những tiếng cười, những bức tranh muôn màu, muôn vẻ. Xã hội phong kiến

thối nát với những nhân vật khả ố, những sự việc nhơ nhuốc, những đồi phong bại tục

với những cái lố lăng, chướng tai gai mắt chính là nguồn cung cấp cho nhà thơ những

đề tài phong phú để dùng tiếng cười mà sáng tác, chửi đời một cách khoái hoạt, ghi lại

những nét đặc biệt của một thời đại đen tối.

1.4.2. Thơ trào phúng

Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi

biên soạn): “Thơ trào phúng là thể thơ thuộc loại trào phúng, dùng tiếng cười để xây

42

dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm

đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản

chất thù địch với con người. Vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên

ngoài và cái thực chất bên trong – để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào

lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của thơ trào phúng; cho nên thơ trào phúng thường

sử dụng cách nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay lời nói mát mẻ sâu cay. Có

thể chia thơ trào phúng thành hai loại: thơ châm biếm và thơ đả kích. Thơ châm biếm

nhằm mục đích giáo dục xã hội, giáo dục con người bằng nụ cười nhẹ nhàng mà kín

đáo, dí dỏm mà sâu sắc. Nụ cười đó bao hàm cả việc phê phán lẫn tinh thần xây dựng.

Thơ đả kích nhằm lột mặt nạ kẻ thù bằng nụ cười có sức công phá mãnh liệt.” [316,

317, 39]

Có thể nói, thơ trào phúng là một trong những tiếng nói cuối cùng của loại hình

văn học trung đại, là một hiện tượng tiêu biểu báo hiệu sự chuyển đổi của văn học từ

trung đại sang hiện đại. Trong lời tựa cho cuốn Thơ văn trào phúng Việt Nam của Vũ

Ngọc Khanh, nhà văn Xích Điểu đã có những nhận định rất thú vị về thơ trào phúng.

“Mỗi khi nói đến thơ văn trào phúng, luận điểm mang dáng dấp hóm hỉnh sau đây của

Các Mac thường trở lại soi rọi dòng suy nghĩ của tôi: “lịch sử hành động đến nơi đến

chốn, và khi đưa xuống mồ một hình thái xã hội đã già cỗi thì lịch sử trải qua nhiều

giai đoạn. Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử toàn thế giới là tấn hài kịch

của nó. Vì sao lịch sử lại diễn ra theo tiến trình như thế? Mác hỏi và trả lời: điều đó là

cần, để cho loài người rời bỏ quá khứ một cách vui vẻ.”

Nói đến thơ trào phúng tất nhiên phải nói đến cái cười như một yếu tố không thể

thiếu. Tiếng cười trong thơ trào phúng như một thứ vũ khí nhắm thẳng vào mục tiêu

phủ định, đả phá, tiêu diệt kẻ thù. Tiếng cười xuất hiện theo từng cung bậc khác nhau,

có khi thâm trầm, kín đáo, có khi ồ ạt, giòn tan. Tiếng cười trong thơ trào phúng là

tiếng cười đa chiều kích: vừa vui nhộn lại vừa hoan hỉ, vừa chua xót lại vừa nhạo

báng, khai tử cái xấu, cái ác, cái lỗi thời để mở đường cho cái tốt, cái đẹp xuất hiện.

Từ lâu đời, trong văn học dân gian, tiếng cười đã có mặt từ trong lời ăn tiếng nói

đến những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện tiếu lâm sau những giờ làm việc vất

vả. Tiếng cười dân gian luôn mang một sắc thái và sức mạnh riêng nhưng trong văn

43

học bác học thì lại khác. Trong thơ ca truyền thống mà lực lượng sáng tác là các Nho

gia từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII hiếm khi có tiếng cười xuất hiện. Thơ của Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...là đại diện cho các nhà nho dùng thơ để nói chí, bộc lộ con

người đạo đức, thể hiện lập trường, quan sát và suy ngẫm trước thời thế dựa trên đạo

đức Nho gia. Xã hội phong kiến với nền móng vững chắc của Nho giáo đã khiến tiếng

cười trào phúng không có cơ hội len lõi vào đời sống xã hội.

Đến khoảng thế kỉ XVII, tiếng cười bắt đầu xuất hiện trong văn thơ của các nhà

nho, cả thơ hữu danh lẫn khuyết danh, tuy nhiên, thơ trào phúng khuyết danh nhiều

hơn cả: đó là những bài thơ kèm theo những câu truyện Trạng hay những bài thơ của

bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Có thể thấy, lúc này mô hình thánh nhân quân tử

của đạo thánh hiền không còn hấp dẫn nữa, và bản thân hình tượng này đã có những

điều đáng cười, đáng vạch mặt, lên án. Nho giáo đã suy tàn, mô hình nhân cách nhà

nho dần biến mất, con người lúc này trở vế với con người tự nhiên, phàm tục như từng

có. Chính tiếng cười trào phúng đã góp phần lột trần mặt nạ ấy của xã hội và làm

phong phú, đổi mới đời sống văn học.

Phải đợi đến cuối thế kỉ XIX, khi Nho giáo vốn được xem như một hệ thống giá

trị văn hóa từ lâu đời, ăn sâu bám rễ trong từng con người Việt Nam bộc lộ rõ nét

những mặt hạn chế không tài nào khắc phục trước sự xâm nhập của xã hội thực dân thì

chúng ta thấy một cuộc thay đổi to lớn trong quan niệm về nhân cách của nhà Nho.

Đồng thời với nó, xuất hiện những hiện tượng đáng cười và tiếng cười trào phúng xuất

hiện dày đặc trong xã hội. Từ giã điểm nhìn trang nghiêm đạo mạo của giáo huấn, các

nhà nho dùng tiếng cười để quay trở về với hiện thực của xã hội thực dân nửa phong

kiến với đầy dẫy những cảnh tượng nhố nhăng, chướng tai gai mắt bày ra trước mắt.

1.4.3. Bức tranh văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX

a. Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX – cơ sở hiện thực của

cái hài

Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX như một bầu

trời xám xịt. Chính quyền phong kiến đương thời làm ngơ, ngồi yên trên ngai vàng để

hưởng thụ, còn nhân dân Việt Nam những người yêu nước Việt Nam thì không thể nào

nhắm mắt, khoanh tay. Ðầu thế kỉ XX Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình

44

định trên đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới. Ðây là

thời điểm Pháp cảm thấy có thể yên tâm và phấn khởi trước cảnh thái bình mà chúng

hằng mong đợi. Nhưng đối với ta, đây là những ngày tháng đau thương, bi đát nhất của

lịch sử.

Kể từ sau cái chết của Phan Ðình Phùng (1896), xem như phong trào chống Pháp

theo ngọn cờ Cần Vương đã thất bại hoàn toàn . Thôn xóm, làng mạc Việt Nam tiêu

điều xơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân phải xiêu tán lưu lạc khắp nơi. Những người

tham gia khởi nghĩa trước kia bị giết, bị tù đày hoặc phải trốn tránh không dám trở về.

Trong khi đó, cột sống của chế độ phong kiến cũng bị sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống

trị tan rã. Cả bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến từ triều đình đến tỉnh, huyện,

làng, xã đều trở thành tay sai cho bọn xâm lược. Mọi quyền hành đều nằm trong tay

Pháp . Tầng lớp trí thức thời phong kiến lúc bấy giờ cũng lâm vào tình trạng sống dở,

chết dở. Những người đã từng tham gia vào phong trào chống Pháp kẻ thì bị giết chết,

người bị tù đày hoặc trốn tránh, có khi phải chạy ra nước ngoài. Có người không chịu

được thử thách cuối cùng phải ra đầu thú, sống nơm nớp trong cảnh tù treo của thực

dân. Có người không tham gia chống Pháp nhưng còn chút liêm sĩ thì lui về sống ẩn

dật, bất đắc chí. Họ thường phải cam chịu, bất lực và đành phải an phận. Cá biệt có

một số người ham cuộc sống giàu sang phú quý nên đã cởi bỏ lớp nho phong, sĩ khí để

ra phục vụ cho ông chủ mới... Bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức lại theo lối hiện

đại hơn, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá dần cái thế tự trị làng xã ngày trước.

Ðể che dấu bộ mặt thật cướp nước, để tuyên truyền văn minh nước Pháp, bọn thực dân

đã đưa ra Hội đồng tư vấn, bày trò dân chủ giả hiệu. Chúng còn lập Viện Hàn lâm Bắc

Kì để dựng lên cái gọi là bảo vệ và phát triển văn hoá tại nước bảo hộ.

Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế, tầng lớp trí thức của ta cảm

thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ cũng hết sức chán nản lối học cũ, bởi vì ai cũng

nhận ra một điều rất rõ ràng:

Ông nghè ông cống cũng nằm co

Sao bằng đi học làm ông phán

Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò

( Chữ Nho - Trần Tế Xương )

45

Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến phương Ðông.

Chính quyền thuộc về một dòng họ, đứng đầu có vua, trong xã hội có tứ dân. Nông

dân giữ vai trò quan trọng về kinh tế nhưng bị khinh rẻ, bị áp bức bóc lột. Kẻ sĩ được

xem như một đẳng cấp đặc biệt, tự nhận và được xã hội thừa nhận như người cầm

chính đạo truyền bá giáo hoá triều đình cho nông dân. Khi có mặt thực dân Pháp trên

đất nước ta thì mọi cái đã thay đổi. Kinh tế hàng hoá kích thích sự phát triển của công

thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển

nhiều nghề mới, tầng lớp thị dân lớn mạnh. Tầng lớp thị dân trong các thành phố

nhượng địa được xem là lớp người ngoài tứ dân . Họ có ít nhiều tự do trong đời sống

thành thị tư sản. Ðối với họ thì họ hàng, làng xã, đẳng cấp không còn nhiều ý nghĩa

nữa. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp thị dân phát triển dần lên.

Ði đôi với những đổi thay về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục ở giai đoạn này

cũng xuất hiện nhiều yếu tố mới. Thực hiện chính sách cai trị thuộc địa, Pháp đã tỏ ra

rất khôn khéo trong vấn đề này. Khi đã bình định xong toàn cõi Việt Nam, chúng chưa

bỏ ngay việc học và thi cử bằng chữ Hán mà tiến hành theo từng bước. Ðầu tiên là bổ

sung những bài thi mới vào những kì thi vốn có từ trước. Cho nên Tú Xương đã mỉa

mai:

Bốn kì trọn vẹn thêm kì nữa

Á, ớ, u, Âu ngọn bút chì

( Ði thi )

Lối sống tư sản đã tấn công quyết liệt vào xã hội phong kiến Việt Nam, cùng với

nó là sự du nhập ồ ạt của nền văn hoá phương Tây. Tất cả đã làm thay đổi hẳn bộ mặt

trang nghiêm của xã hội phong kiến vốn tồn tại vững chắc hơn 10 thế kỉ qua. Kẻ thù

mang vào đất nước chúng ta nhiều cái mới. Sự phát triển của đô thị tư sản đã phá dần

thế tự trị làng xã ngày trước. Lối sống sôi động, gấp rút theo cường độ của xã hội hiện

đại làm mất đi những sinh hoạt gia đình, họ tộc, làng xã, vốn là một phương diện tạo

nên các mối quan hệ tốt đẹp của con người được hình thành từ rất lâu. Ðứng trước

những đổi thay của con người và xã hội, đối diện với những cái xấu xa, hợm hĩnh do

thực dân Pháp đưa đến, con người Việt Nam đã phản ứng quyết liệt trong buổi đầu. Họ

46

tỏ ra bực tức, căm giận, không thể chấp nhận nổi, lắm lúc phải hét to lên trong sự bất

lực:

Muốn mù, trời chẳng cho mù nhỉ,

Giương mắt trông chi buổi bạc tình

( Đau mắt - Trần Tế Xương )

b. Lực lượng sáng tác thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX

Thơ trào phúng là tiếng nói cuối cùng của nền văn học trung đại, là một trong

những hiện tượng tiêu biểu báo hiệu cho sự chuyển đổi từ văn học trung đại sang hiện

đại. Văn thơ hiện thực trào phúng đã có sự phát triển mạnh mẽ, gặt hái được nhiều

thành công rực rỡ trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự phát triển của

nó gắn liền với ý thức của lực lượng cầm bút. Các tác giả của thơ văn hiện thực trào

phúng phần lớn là các nho sĩ. Có người đỗ đạt cao như Nguyễn Khuyến, có người vừa

đỗ đạt vừa làm quan như Nguyễn Thiện Kế, có người không đỗ đạt như Trần Tế

Xương, Kép Trà...có người học giỏi nhưng vẫn không đỗ đạt như Học Lạc, Nhiêu

Tâm. Họ đều là những người ít nhiều giữ được khí tiết nho gia, tiếp thu truyền thống

yêu nước của dân tộc, có tinh thần chiến đấu căm thù giặc. Không phải ngẫu nhiên mà

hầu hết các tác giả viết thơ trào phúng là những nhà nho. Họ chính là những nhà thơ

Nôm cuối cùng của dân tộc. Tuy không xông pha trực tiếp vào cuộc đấu tranh cứu

nước bằng sức mạnh vũ lực nhưng họ đều có cảm tình với những người trực tiếp tham

gia vào cuộc chiến đó. Lòng yêu nước của họ biểu hiện chủ yếu bằng thái độ bất mãn

với chế độ thực dân phong kiến thống trị và họ dùng tiếng cười trào phúng trong thơ ca

để bộc lộ sự bất mãn đó.

Ngay từ những buổi đầu của cuộc chiến chống xâm lăng ở vùng Nam Kì Lục

Tỉnh, văn thơ hiện thực trào phúng đã có mặt trong những bài thơ của Phan Văn Trị,

Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc, Nhiêu Tâm...đả kích bọn tay sai bán nước, phục vụ cho

giặc. Tuy vậy, có thể thấy rằng, thời kì phát triển nhất của thơ ca hiện thực trào phúng

này là từ sau khi thực dân Pháp đã hoàn thành căn bản cuộc xâm lăng và xã hội thực

dân nửa phong kiến hình thành, phơi bày ra hết những cảnh lố lăng, hỗn loạn của nó.

Cuối thế kỉ XIX, khi Nho giáo như một hệ thống giá trị văn hóa đã bộc lộ những

mặt hạn chế không thể nào khắc phục trước sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa đến từ

47

phương tây theo chân những kẻ cướp nước tràn vào nước ta, khi mà cái sở học của nhà

nho cũng như những phẩm chất cao quý mà các nhà nho vẫn luôn cố gắng gìn giữ và

tu dưỡng đã không thể chặn được sự tấn công của thực dân pháp thì lịch sử đã chứng

kiến một cuộc đỗi thay rất to lớn trong quan niệm về nhân cách nhà nho buộc họ phải

nhìn nhận lại tầng lớp mình.việc thông hiểu thánh hiền không thể giúp ích cho bối

cảnh lịch sử lúc này, điều đó khiến họ chới với, xuất hiện cảm hứng tự trào, tự chế

giễu bản thân, cười cợt, hạ bệ những mặt trái, những hạn chế của mình và tầng lớp

mình, xem bản thân như là một kiểu người thừa trong gia đình và xã hội. hiện tượng tự

trào, tự cười mình ở các nhà nho diễn ra phổ biến đến đầu thế kỉ XX ở nhiều mức độ

khác nhau.

Ðầu thế kỷ XX, giai đoạn lịch sử đầy biến động, có sự chi phối mạnh mẽ của nền

kinh tế tư bản chủ nghĩa, của văn học phương Tây, lực lượng nhà nho không tránh

khỏi sự phân hóa: Các nhà nho vì yêu nước thương dân, không cam tâm làm nô lệ đã

tiếp tục đứng lên chống Pháp (Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn

Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...). Họ được tiếp nhận và phát triển luồng tư tưởng

cách mạng từ châu Âu đưa đến. Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn chương.

Buổi đầu khi phong trào cách mạng lên cao, các nhà nho có nhu cầu đưa những vấn đề

mới của xã hội vào văn học nên họ sáng tác say sưa. Bằng những cách tân nghệ thuật

họ nhiệt tình thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con người. Tác phẩm

của họ thường phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài và có những tác động mạnh

mẽ đối với xã hội, làm "dậy sóng" phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Ý thức hệ phong

kiến không còn chi phối tư tưởng của họ một cách nặng nề như trước nữa. Họ không

còn muốn nói đến đạo lý thánh hiền và cũng chẳng hề gò câu đẽo chữ để tạo sự bóng

bẩy cho bài thơ, bài văn. Họ chỉ hướng đến một mục đích duy nhất: giải phóng đất

nước, xây dựng quốc gia hùng cường.

Lúc này, nhà nho không còn là lực lượng sáng tác chính. Bên cạnh họ đã có xuất

hiện một lực lượng sáng tác mới. Ðó là lực lượng trí thức tân học. Ðây là những người

vừa mới được đào tạo từ các trường Pháp - Việt. Phần lớn trong số họ bắt đầu từ công

việc làm báo, có những nhà cựu học viết bằng chữ Hán. Dần dần, theo con đường dịch

thuật, phỏng tác... họ chuyển từ viết báo sang viết truyện ngắn, kịch, nhanh chóng đáp

48

ứng được đòi hỏi của công chúng thành thị. Họ khác với các nhà nho cấp tiến, chú

trọng đến văn hóa hơn là chính trị. Nhìn chung, họ là những người mạnh dạn đến với

cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi những dằn vặt, trăn trở khi chọn cho mình

một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Họ đến với cái mới vì ước

nguyện dung hòa hai nền văn hóa Âu - Á.

Sự phát triển của văn học trào phúng, đến lượt nó, đã có những tác động tích cực

đến quá trình phát triển của văn học nói chung. Trước hết, nhờ tiếng cười, tính chất

nghiêm trang biến mất, óc cuồng tín và mê tín cũng biến theo, con người dễ trở thành

bao dung trước cái mới lạ hơn. Sau nữa, văn học trào phúng phải dựa trên, hơn nữa,

càng ngày càng củng cố, mối quan hệ gần gũi giữa người viết và người đọc. Văn học

trào phúng là để đọc ngay, tạo ra hồi âm ngay, chứ không phải là thứ để dành trong

ngăn kéo, cho mai hậu. Điều này dẫn đến một số hệ quả quan trọng: một, đề tài văn

học trào phúng phải có tính thời sự, gắn liền với cuộc sống xã hội chung quanh; hai,

chất liệu phải là những gì cụ thể và nhiều kịch tính; ba, ngôn ngữ phải giản dị để người

đọc có thể lĩnh hội ngay tức khắc; và bốn, kết cấu tác phẩm phải khéo léo để có thể

làm bật lên tiếng cười vào chính cái lúc tác phẩm kết thúc. Có thể nói chính văn học

trào phúng đã góp phần đắc lực trong việc làm sụp đổ lối văn chương bát cổ mà một số

nhà nho cấp tiến muốn đoạn tuyệt, và cũng chính nó là tiền thân của xu hướng hiện

thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam sau này.

1.5. Những nhà thơ hiện thực trào phúng đặc sắc đất Nam Kì

Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm có thể xem là những

gương mặt đại diện cho mảng văn thơ hiện thực trào phúng ở Nam Kì giai đoạn cuối

thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Tìm hiểu về văn học trào phúng Nam Kì, chúng ta thường

nghe nhắc đến tên tuổi của họ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu một cách kĩ càng, chính xác và

đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của họ là một việc vô cùng khó khăn. Lí do thì như đã

trình bày ở phần trên, văn học miền Nam không được coi trọng trong một thời gian

dài. Đồng thời, chiến tranh loạn lạc kéo dài nên việc sưu tầm và khảo cứu không thể

không bị gián đoạn. Những thông tin chúng ta biết được về các nhà thơ trào phúng này

còn khá sơ sài và chưa có cơ sở để xác thực. Qua thời gian những thông tin đó lại ngày

49

càng khó kiểm chứng. Đây là một điều vô cùng đáng tiếc. Thế nhưng những đóng góp

của họ là điều không thể chối cãi.

1.5.1. Phan Văn Trị (1830-1910)

a. Con người và cuộc đời

Về cuộc đời của Phan Văn Trị còn có nhiều vấn đề chưa được sáng rõ. Trong

phần này, chúng tôi trình bày chủ yếu dựa vào tài liệu “Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác

phẩm” do Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân chủ biên (Nxb TPHCM -

1986).

Hơn một thế kỉ qua, những câu hỏi về Phan Văn Trị vẫn còn bị bỏ ngỏ chưa tìm

được câu trả lời chính xác cho từng thắc mắc. Những tác phẩm tìm hiểu về cuộc đời và

sự nghiệp của ông cũng không nhắc đến quê hương, gia đình, tuổi tác của ông khiến

cho việc tìm hiểu chính xác về Phan Văn Trị gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong

những năm gần đây, ý kiến được đông đảo các nhà nghiên cứu đồng thuận nhất về

cuộc đời của Phan Văn Trị có thể khái quát như sau:

Phan Văn Trị tục gọi là Cử Trị, sinh năm Canh Dần 1830 và mất năm 1910. Về

sinh quán của ông có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo Quốc Triều Hương Khoa

Lục của Cao Xuân Dục - cuốn sách bằng chữ Hán ghi chép tình hình học tập và thi cử

của Nam Kì vào thế kỉ XIX, đã góp phần làm sáng tỏ quê quán của Phan Văn Trị bằng

mấy dòng ngắn ngủi “Phan Văn Trị, Vĩnh Long, Bảo An, Hưng Thạnh”. Nghĩa là

Phan Văn Trị sinh tại làng Hưng Thạnh huyện Bảo An tỉnh Vĩnh Long (nay là xã

Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre). Ngay từ thưở nhỏ ông đã nổi

tiếng học giỏi và làm thơ hay. Phan Văn Trị đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu năm Tự Đức thứ

2 (1849). Vừa thi đỗ xong, Phan Văn Trị liền tìm nơi ẩn thân với nghề dạy học, ông

dạy học ở làng Bình Cách (tỉnh Tân An) sau dời về làng Phong Điền (tỉnh Cần Thơ).

Về gia đình và dòng họ của Phan Văn Trị cũng là những vấn đề cần tìm hiểu.

Các sách viết về ông cũng hầu như bỏ trống hoàn toàn những điều này. Có ý kiến cho

rằng, Phan Văn Trị là con của khâm sai chưởng tiền đô Phan Văn Tấn, vốn là bạn thân

với Phan Thanh Giản, thuộc dòng dõi Phan Văn Triệu, một vị tướng đã từng giúp

Nguyễn Ánh chống lại quân Tây Sơn, về sau được liệt vào miếu trung hưng công thần

tại cố đô Huế. Tuy nhiên điều này chưa được xác thực. Bảo Định Giang trong “Thơ

50

văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỉ XIX” viết rằng: Phan Văn Trị bất bình vì triều

Nguyễn đã đối xử thậm tệ với dòng họ ông. Ông thù oán nhà Nguyễn, không ra làm

quan vì triều đình nhà Nguyễn xử phạt dòng họ ông chín đời không được làm quan.

Sau khi đậu cử nhân, ông về làng Bình Cách (nay thuộc thị xã Tân An) dạy học trò,

sau dời về làng Phong Điền, Cần Thơ tiếp tục dạy học, làm thơ, bốc thuốc chữa bệnh

cho đến cuối đời. Tuy nhiên những ý kiến này vẫn chỉ là chuyện kể không đáng tin

cậy.

Phan Văn Trị lấy bà Đinh Thị Thanh, anh em con cô cậu với Lê Quang Chiểu,

tác giả cuốn Quốc Âm Thi Hiệp Tuyển, sinh ra 4 người con gồm 2 trai (Phan Văn

Tùng (Tòng), Phan Văn Đường), 2 gái (Phan Thị Đào, Phan Thị Mai). Sau khi ông

mất, gia cảnh bà sa sút nhanh chóng, phải làm nghề giả gạo mướn kiếm sống qua

ngày. Sau bà lấy người khác cùng làm nghề giả gạo được vài năm thì mất.

Sinh ra vào thời kì sụp đổ thảm hại của chế độ phong kiến Việt Nam, trong buổi

vận nước ngặt nghèo với sự thống trị của triều Nguyễn, một triều đại mà ngay từ khi

thành lập đã bộc lộ sự đối nghịch với lợi ích của nhân dân, Phan Văn Trị đã dũng cảm

vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn bán nước và cướp nước tàn bạo bằng ngòi bút sắc sảo

của mình. Tên tuổi của ông gắn liền với những cuộc chiến tranh tư tưởng trong giới sĩ

phu nửa cuối thế kỉ XIX bằng thái độ không khoan nhượng trước bọn tay sai. Được

nhân dân yêu mến và kính trọng, Phan Văn Trị xứng đáng đứng vào hàng ngũ những

nhà thơ yêu nước can trường của Nam Kì. Cuộc đời của ông là một cuộc đời đẹp, sáng

ngời lí tưởng với một dáng vẻ riêng, đặc biệt.

b. Sự nghiệp văn chương

Có thể nói rằng, Phan Văn Trị là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận văn học

yêu nước cuối thể kỉ XIX ở Nam Kì. Nhìn vào tình hình thơ văn yêu nước chống Pháp

ở nước ta lúc bấy giờ, Phan Văn Trị nổi lên là một gương mặt đặc sắc.

Sáng tác của ông có thể chia làm hai giai đoạn: trước khi Pháp xâm lược và sau

khi Nam Kì rơi vào tay giặc. Giai đoạn đầu, phần lớn sáng tác của ông là những bài

thơ vịnh cảnh, vịnh vật, tức cảnh và cảm hoài nhằm gởi gắm tâm sự, tỏ hoài bão, chí

hướng của mình, phê phán bọn thống trị bất tài, dốt nát, hám danh hám lợi. Khi đất

nước rơi vào vòng nô lệ, ông chuyển hẳn ngòi bút sang chống bọn cướp nước và đám

51

tay sai, nổi bật lên trên hết là những bài tự họa trong cuộc bút chiến không khoan

nhượng với Tôn Thọ Tường. Tuy nhiên, các tác phẩm của Phan Văn Trị cho đến hiện

tại chỉ chắc chắn có 54 bài thơ thất ngôn bát cú, kể cả những tác phẩm vẫn còn tồn

nghi. Trong 54 bài thơ này có 24 bài thất ngôn bát cú và ba chùm thập thủ liên hoàn,

mỗi chùm gồm 10 bài cũng viết theo thể thất ngôn bát cú.

Trong việc sưu tầm và khảo cứu về Phan Văn Trị, chỉ thấy ông sáng tác thơ mà

không tìm thấy các thể loại sáng tác khác. Ông có sở trường về thể thơ thất ngôn bát

cú. Các tác phẩm đều được viết bằng chữ Nôm, hiện chưa tìm thấy một tác phẩm nào

của ông viết bằng chữ Hán.

Thơ của Phan Văn Trị là lời phát ngôn của phong trào chống Pháp rộng lớn của

sĩ phu và nhân dân Nam Kì ở cuối thế kỷ XIX. Đến nay, nhiều sáng tác của ông chưa

sưu tầm hết, nhưng với những bài thơ mà chúng ta sưu tập được đã cho thấy rằng ông

là một nhà thơ có sự nhận thức sáng suốt với một lập trường kiên định, một tinh thần

tự hào lạc quan, một khí phách hiếm thấy và một ý thức trách nhiệm công dân đầy đủ

đối với dân tộc và đất nước. Phan Văn Trị xứng đáng đứng trong hàng ngũ những nhà

thơ tiêu biểu cho khuynh hướng văn học yêu nước chống xâm lược thời cận đại, là

ngọn cờ tiêu biểu của văn chương yêu nước.

1.5.2. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883)

a. Con người và cuộc đời

Huỳnh Mẫn Đạt còn gọi là Hoàng Mẫn Đạt, Tuần Phủ Đạt, biệt hiệu Dưỡng

Độn. Chính họ của ông là Hoàng nhưng vì ở Nam Kì bấy giờ kiêng tên húy nên Hoàng

đọc trại là Huỳnh (vì kiêng gọi tên của Nguyễn Hoàng – thủy tổ nhà Nguyễn). Ông

sinh năm Đinh Mão (1807) tại làng Tân Hội, tổng Tân Phong, phủ Tâm Bình, trấn Gia

Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). “Hình dạng khôi ngô, ốm yếu, tánh nết hiền

lành, hay làm thi quốc âm, tao nhã lịch thiệp lắm.” ( Nguyễn Liên Phong, Điếu Cổ Hạ

Kim Thi Tập, trang 40).

Thuở nhỏ ông học rất giỏi. Năm 24 tuổi, nhằm khoa Tân Mão (1831) tại Gia

Định, ông thi hương đỗ cử nhân và ra làm quan cho nhà Nguyễn vào thời vua Tự Đức.

Cuộc đời làm quan của ông lận đận, có hồi thăng lúc giáng. Dưới triều Minh Mệnh

(1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Huỳnh Mẫn Đạt giữ các chức vụ: Ngự sử đạo

52

Ninh Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên). Khi ông giữ chức Án sát Định Tường, đã đánh

dẹp thổ phỉ quấy nhiễu trong tỉnh. Khi làm Án sát Hà Tiên, hai lần ông chỉ huy dẹp

phỉ, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Sau đó ông được thăng Bố chính rồi

Tuần phủ Hà Tiên. Sau đó vì nhiều viên quan tỉnh liên lụy đến vụ án chứa thuốc phiện,

nên ông bị cách chức Tuần phủ Hà Tiên. Năm 1860 ông được khôi phục, giữ chức Án

sát Định Tường.

Ngày 17/3/1861, quân Pháp cho 4 tàu chiến, 18 khẩu đại bác chiếm vùng vịnh Cù

Úc và hải phận các cửa biển Đại Hải, Tiền Hải thuộc tỉnh Định Tường. Huỳnh Mẫn

Đạt chỉ huy quân sĩ ra sức chống trả, nhưng vũ khí lạc hậu không chống nổi vũ khí

hiện đại của phương Tây, nên thất bại. Ngày 29/3/1861, quân Pháp tấn công các đồn

Tân Hưng, Tĩnh Giang, Cai Lộc. Mặc dù quân ta chiến đấu dũng cảm cuối cùng cũng

phải rút lui trước hỏa lực mạnh áp đảo của giặc. Ngày 12/4/1861, quân Pháp lại đem 4

tầu chiến, 18 đại bác tấn công tỉnh thành Định Tường. Cũng như những lần chiến đấu

trước, vũ khí lạc hậu của quân triều đình không chống được tầu chiến và súng Tây, nên

các ông phải bỏ thành rút chạy. Tỉnh thành Định Tường lọt vào tay quân Pháp. Tự Đức

bắt ông về kinh chịu tội. Đến tháng 11 năm Tân Dậu (1861), ông được tha, điều động

theo Nguyễn Tri Phương đang giữ chức Thượng thư bộ Binh làm Đổng suất quân vụ ở

Biên Hòa, trực tiếp vào Nam Kì tổ chức đánh Pháp.

Ông là một vị quan thanh liêm hết lòng vì dân vì nước, được nhân dân vô cùng

yêu mến. Năm 1861, khi thực dân Pháp kéo vào đánh chiếm toàn cõi Nam Kì, ông

quyết tâm không hợp tác với chính quyền mới nên đã cáo quan về ngụ tại Rạch

Giá cho đến khi mất. Ông một mực liêm khiết, trung thành với tổ quốc từ bỏ nơi chốn

rau cắt rốn mà đi chứ không chịu sống tại vùng cai trị của quân xâm lược. Thực ra sau

khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Huỳnh Mẫn Đạt lánh về Kiên Giang ở ẩn.

Cùng với Phan Văn Trị, ông còn góp thêm tiếng nói lên án nghiêm khắc lũ phản

nước hại dân. Khi cáo quan về hưu trước lúc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, “ông an

phận dưỡng nhàn, không mang tiếng chi cả.”. Ông cũng là một trong những cây bút

chiến đấu hàng đầu trong đội ngũ những nhà thơ yêu nước ở Nam Kì cuối thế kỉ XIX,

góp phần vào cuộc bút chiến của Phan Văn Trị với Tôn Thọ Tường.

53

Theo bia mộ, Huỳnh Mẫn Đạt qua đời vào tháng 2 năm Nhâm Ngọ (tức tháng

3 năm 1882), hưởng thọ 75 tuổi. Mộ và đền thờ Huỳnh Mẫn Đạt nay nằm tại khu đất

19 khu phố Cô Bắc, trên đường Lâm Quang Ky, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch

Giá. Hiện nay ở Văn Xương các, tức miếu Văn Thanh, Vĩnh Long có bài vị thờ ông.

[41]

b. Sự nghiệp văn chương

Huỳnh Mẫn Đạt thích ngâm vịnh, nổi tiếng giỏi thơ Nôm ở đất Đồng Nai. Là bạn

tâm giao của Bùi Hữu Nghĩa, ông đã góp phần giúp bạn hoàn thành vở tuồng "Kim

Thạch Kì Duyên". Trước khi Pháp tấn công nước Việt, Huỳnh Mẫn Đạt đã tỏ ra là một

vị quan yêu dân, yêu nước. Ông có nhiều bài thơ nói lên lòng thủy chung đối với đất

nước, sự ngưỡng mộ với những anh hùng chống Pháp và sự căm ghét, khinh bỉ kẻ làm

tay sai của bọn thực dân xâm lược. Khi Pháp lấn chiếm Nam Kì, ông đã nhanh chóng

đứng trong hàng ngũ các nhà thơ đối kháng, mà việc góp phần vào cuộc bút chiến giữa

Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường là một minh chứng.

Đến thời điểm hiện tại không ai biết rõ Huỳnh Mẫn Đạt lúc sinh thời đã sáng tác

được bao nhiêu thơ văn. Chúng ta chỉ sưu tầm được hơn 10 bài thơ Đường luật được

lưu truyền của tác giả. Có thể liệt kê những bài thơ của Huỳnh Mẫn Đạt như sau: Điếu

Nguyễn Lịch, Cây dừa, Cảnh trời chiều, Chó già, Chiêu Quân, Con trâu, Dạ nguyệt

phiếm châu, Gành Móm, Giễu Tôn Thọ Tường (bài 1), giễu Tôn Thọ Tường (bài 2),

Lão kỹ quy y, Lên đèo Hải Vân, Mưa đêm.

1.5.3. Học Lạc (1842-1915)

a. Con người và cuộc đời

Học Lạc tên thật là Nguyễn Văn Lạc, biệt hiệu Sầm Giang. Đến nay vẫn chưa

biết chính xác ông sinh năm nào nhưng các nhà nghiên cứu căn cứ vào một bài ca trù

được các nhà nho ở Gò Công truyền tụng thì đoán rằng ông sinh năm Nhâm Dần

(1842), niên hiệu Thiệu Trị thứ hai, tại làng Mỹ Chánh, tỉnh Mỹ Tho, sau là tỉnh Định

Tường (nay thuộc xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Xuất thân

là con nhà nghèo, nhưng nhờ thông minh, học giỏi nên ông được tuyển thẳng vào học

trường quan đốc học, ngạch học sinh (ngạch do triều đình nhà Nguyễn đặt ra, được cấp

54

lương và được học tại trường của nhà nước địa phương). Do đó, người ta gọi ông là

"học sinh Lạc", về sau gọi ngắn hai chữ "Học Lạc".

Theo Nguyễn Liên Phong trong Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập (Nxb Văn Hóa - Văn

Nghệ), người sống cùng thời với Học Lạc, có những mối liên hệ thân tình đã nhận xét

về Học Lạc:“Ngài học hành uyên súc lắm, chuyên trị nghề y dược, cứu bịnh người ta

lành mạnh đặng nhiều. Ngài hình trạng nhỏ thó, nước da trắng, thấp người, không

râu, tiếng nói rổn rảng như chuông. Nghề bói diệc cũng là sở trường... Thú cầm Kì thi

họa, ngài đều biết đủ; luận theo sức văn học tài bộ thì sâm si với ông Đồ Chiểu và ông

Cử Trị. Ngài sau tị nạn binh lửa dời lên chợ Thuộc Nhiêu, cất ba căn nhà lá dạy trẻ

học trò chữ Nho và chuyên y đạo cứu nhơn độ thế rất nhiều, tánh lại ruột gan khí khái,

trượng nghĩa sơ tài”.

Là người có tài, lại được hưởng chế độ giáo dục của triều đình nhà Nguyễn luôn

khuyến khích người tài tham gia thi cử nhưng con đường khoa bảng của Học Lạc lại

gặp thất bại. Học Lạc thi mãi không đỗ nên đành gác chuyện thi cử, chọn sống một

cuộc đời khí phách trước cảnh đất nước bị thực dân xâm lược. Theo Dương Quảng

Hàm: “Nguyễn Văn Lạc là một học sinh giỏi nhưng không hiển đạt, lại có tính cứng

cỏi, ngạo đời, không chịu phục tòng những kẻ quyền thế, bởi thế ông thường làm thơ

để châm chích bọn ấy.” Mọi người tìm thấy ở Học Lạc một người thầy giáo và thầy

thuốc gương mẫu, rất mực khiêm tốn, chân thành.

Khi Pháp chiếm Định Tường, ông rời bỏ quê hương về chợ Thuộc Nhiêu (Tiền

Giang ngày nay) dạy học và làm thuốc chữa bệnh cứu người. Tuy vậy, ông lại chứng

kiến nhiều cảnh tượng thương tâm và bất mãn hơn khiến ông vô cùng bất bình.

Về cuộc đời riêng của Học Lạc phải nhắc đến người vợ tài sắc vẹn toàn với sự

tần tảo, hết lòng vì chồng con, đó là bà Bảy Khanh. theo nhiều tài liệu ghi chép, bà là

một người phụ nữ đảm đang, tính tình hòa nhã, ít nói và làm thơ hay, là tác giả của

nhiều bài thơ nôm phổ biến lúc bấy giờ. Không những đảm đương, lo cho cuộc sống

của chồng con bà còn là niềm an ủi và động viên, nguồn hạnh phúc to lớn nhất của

Học Lạc. Bà là người luôn chia sẽ, là bạn tri âm tri kỉ của nhà thơ. mặc dù không có

con nhưng hai vợ chồng ăn ở hòa thuận, thương yêu nhau hết mực. Năm Ất

Mão (1915) Học Lạc mất, thọ 63 tuổi.

55

b. Sự nghiệp văn chương

Học Lạc có tài làm thơ rất giỏi, xuất khẩu thành thi. Tuy nhiên, tác phẩm mà ông

để lại không nhiều vì thất lạc. Tiếng tăm của Học Lạc vang bóng một thời, được

truyền miệng trong dân gian. Những vần thơ của ông không mang tính chiến đấu như

Phan Văn Trị mà tập trung vào việc vạch ra những cái rởm đời, những thói hư tật xấu

của bọn cường hào, góp phần đấu tranh cho cuộc sống vốn cơ cực của người dân. Tên

tuổi của Học Lạc gắn liền với đời sống nông thôn với những hình ảnh thơ quen thuộc.

Trong khuynh hướng thi văn, nhiều nhà nghiên cứu văn học xếp Học Lạc vào các

nhà thơ có khuynh hướng trào phúng và châm biếm. Đến nay, chúng ta sưu tầm được

15 bài thơ. ngoài ra còn có những tác phẩm chưa mang tên tác giả do có sự tự ý chỉnh

sửa của những người khác. Bên cạnh những bài thơ trào phúng, ông còn sáng tác nhiều

thể loại thơ mang chủ đề khác chẳng hạn như đề cập đến cây cỏ hoa là trong những bài

thuốc gia truyền của mình. Bái Ngụ đời là một bài thơ như vậy. Vì khó nhớ nên nó

không được phổ biến bằng những bài thơ trào phúng.

1.5.4. Nhiêu Tâm (1840 – 1911)

a. Con người và cuộc đời

Nhiêu Tâm (1840-1911) tên thật là Đỗ Thanh Tâm, hiệu Như Tâm hay Minh

Tâm, biệt hiệu là Minh Giám. Ông là một nhà thơ khá có tiếng trong làng thơ trào

phúng đầu thế kỉ XX. Do có chân trong nhiêu học (một chân do nhà Nguyễn đặt ra,

cấp cho học trò giỏi, được hưởng học bổng của nhà nước phong kiến), nên mọi người

thường gọi ông là Nhiêu Tâm. Ông là một trong 15 người ở Vĩnh Long được xem là

lão Nhiêu. Tuy vậy, cũng như Học Lạc, con đường khoa bảng của ông cũng lận đận,

ông thi mãi vẫn không đỗ đạt.

Về nguyên quán, hiện không có tài liệu nào nói đến, có người bảo ông là dân

miền Nam, lưu lạc tới Vĩnh Long ngay từ lúc nhỏ, có người lại cho rằng ông là người

miền Trung. Chỉ biết khi đến làng Sơn đông (nay thuộc xã Thanh Đức, huyện Long

Hồ, tỉnh Vĩnh Long), Nhiêu Tâm dạy chữ Hán và làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ban

đầu, ông cư ngụ tại nhà học trò tên Trần Văn Kỷ. Mấy năm sau ông Kỷ mất, Nhiêu

Tâm dời sang nhà một học trò khác là Trần Minh Chuẩn và ở đấy cho đến hết đời.

56

Người dân làng Sơn Đông còn nhớ nhà thơ Nhiêu Tâm có vóc dáng hơi cao gầy,

đôi mắt bị lòa nên đi đâu cũng phải chống gậy. Ông được đồng bào Nam Kì kính trọng

không chỉ vì có tài làm thơ hay mà con ở nhân cách cao quý cùng lối sống thanh bần

trong sạch, là người quý trọng tình nghĩa, yêu thương đồng bào.

Khi Nhiêu Tâm mất vào năm 1911, không có vợ con hay họ hàng thân thích đến

mà chỉ có rất nhiều học trò chịu tang và bạn thơ văn đến viếng. Những người dân nơi

đây đã làm tang lễ, lập bàn thơ xây dựng mộ phần. Mộ ông nằm giữa cánh đồng, thuộc

làng Sơn Đông, xã Thanh Đức (Vĩnh Long). Hằng năm, người dân làng Sơn Đông vẫn

tổ chức cúng giỗ ông như một cách để thể hiện tình cảm với một nhân cách lớn.

b. Sự nghiệp văn chương

Nhiêu Tâm là nhà thơ xuất sắc trong làng thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX - đầu

thế kỉ XX ở Nam Kì. Thơ ông mang hai khuynh hướng khac nhau: trữ tình và trào

phúng. ở cả hai hướng ông đều thể hiện tài năng của mình, trong đó, mảng thơ thuộc

khuynh hướng trào phúng có phẩn nổi trội. Bộ phận thơ trữ tình cũng không kém phần

đặc sắc, có điều là so với bộ phận trào phúng nó ít hơn và cũng không đa dạng, phong

phú bằng. Phần nhiều các bài thơ được làm theo thể thất ngôn với một nỗi ray rứt về

những vấn đề thế sự, những cảnh sống của những con người bình thường, hằng ngày

gắn bó với ông với giọng thơ hóm hỉnh, tự nhiên nhưng cũng giàu lòng trắc ẩn trước

những ngang trái của cuộc đời.

Tài làm thơ của Nhiêu Tâm là điều không phải bàn cãi, tuy nhiên, việc lưu truyền

thường bằng hình thức truyền khẩu trong nhân dân nên đến nay, các tác phẩm của ông

đã bị tản mát rất nhiều, hiện chỉ mới sưu tập được khoảng hơn 20 bài thơ ở cả hai

khuynh hướng sáng tác.

Thơ trào phúng của Nhiêu Tâm mang tính phê phán và tính chiến đấu rất cao.

Ông là người nhạy cảm với thời cuộc, có bãn lĩnh và dám nói lên tiếng nói trước

những hiện tượng tiêu cực trong đời sống. Ngòi bút của ông mạnh tay với những vấn

đề như thế. “Bần phú luận” là một bài thơ rất tiêu biểu cho mảng thơ này.

Với mảng thơ trữ tình, nó thể hiện một con người khác của Nhiêu Tâm. Những

bài thơ ra đời theo dòng cảm xúc của tác giả, được chia thành từng chùm thơ tình cùng

non nước và tình nhân thế. Đây cũng là cách để ông bày tỏ tình yêu của mình với non

57

sông đất nước. Trong chùm thơ tình cùng non nước có các bài như “Thuyền qua

sông”, “Đề văn thánh miếu”, “Vịnh miếu Tống Quốc công” và bài “Tặng bà Trương

Thị Loan”, trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến bài “Thuyền qua sông”. Sống giữa buổi

giao thời, tình thế hỗn loạn nhiễu nhương, là người nhạy cảm với thời cuộc, hẳn có lúc

Nhiêu Tâm đã cảm thấy nỗi bất ổn của kẻ sĩ trước cơn phong ba của lịch sử, vì vậy mà

ông đã viết bài “Thuyền qua sông” như là một cách để tự răn dạy, nhắc nhở mình,

đồng thời cũng là cái cách mà ông bày tỏ tình yêu của mình với non sông.

Chính vì sống gần gũi với nhân dân lao động, cảm nhận họ bằng trái tim, thương

yêu họ bằng tấm lòng, nên những tác phẩm mà Nhiêu Tâm viết về nhân dân lao động

bao giờ cũng thấm đượm một tình người sâu sắc. Mặc dù vẫn mang hơi hướng trào

lộng cố hữu, nhưng giọng văn của ông ở đây đã khác hẳn với giọng văn như khi ông

viết về tầng lớp quyền quý – danh gia vọng tộc. Một bên là sự giễu cợt, mỉa mai những

thói hư tật xấu của người đời, còn một bên là nỗi xót xa cho những thân phận nghèo

khổ, bần hàn hoặc những cảnh huống éo le, trớ trêu trong đời người.

58

Chương 2. NỘI DUNG HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG

TRONG THƠ CA NAM KÌ LỤC TỈNH

CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX

2.1. Tiếng cười châm biếm, đả kích

Thơ trào phúng có thể xem như một hiện tượng của lịch sử văn học Việt Nam

giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX bởi nó là tiếng nói cáo chung của một xã hội

đã đến hồi suy thoái già cỗi với nhiều tấn hài kịch diễn ra trên khắp cả ba kì. Tiếng

cười cất lên ở giai đoạn này là điều cần thiết, đó yêu cầu của một cuộc sống cần vươn

lên một cách lạc quan. Tiếng cười trào phúng chiếm một vị trí đặc biệt. Nó như một

làn gió trong lành thổi vào một giai đoạn văn học chịu nhiều biến động của lịch sử,

mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau, làm tươi mới hơn không khí văn học

lúc bấy giờ, đem lại sức sống cho một thời kì mất nước đầy tiếng khóc than hờn oán.

Nếu như ở miền Bắc có Nguyễn Khuyến và Tú Xương là đỉnh cao của thơ trào

phúng thì ở Nam Kì, diện mạo thơ trào phúng lại được xây dựng nên bởi nhiều tên tuổi

với những đặc trưng rất riêng. Nói đến xã hội Nam Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX

chúng ta thấy nổi bật lên trên hết là những hiện tượng đáng cười, đáng phê phán, đáng

vạch mặt, lên án. Nam Kì rơi vào tay giặc đã khiến những nhà nho, trí thức vùng lục

tỉnh có tâm huyết, có tinh thần nhưng không đủ điều kiện để cầm gươm đều thấy mình

có nhiệm vụ cầm bút đã kích vào chế độ thực dân bằng những vầng thơ hiện thực và

tiếng cười. Tiếng cười trong thơ họ lúc nhẹ nhàng, thấm thía, lúc hả hê sảng khoái, lúc

chua xót sâu cay "cười ra nước mắt". Cười tự răn mình, cười phê phán thói hư tật xấu

trong đời sống, cười châm biếm bọn tham quan ô lại, cười đả kích áp bức bạo

quyền…Trong hàng loạt cung bậc của tiếng cười ấy, nổi bật lên trên hết vẫn là tiếng

cười đả kích, châm biếm. Nó trở thành vũ khí sắc bén để chống lại kẻ thù cướp nước

và bán nước.

Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc,

thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay

khác trong xã hội. Mặc dù châm biếm thường có nghĩa là phải hài hước, mục đích lớn

hơn của nó thường là mang tính xây dựng phản biện xã hội, sử dụng trí thông minh

59

như một vũ khí, và là một công cụ để gây sự chú ý cho cả hai vấn đề cụ thể và rộng

hơn trong xã hội là chống bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai đắc lực của chúng.

Tiếng cười ấy chính là thứ vũ khí để các nhà thơ đả kích, châm biếm, phủ định, đả phá

và tiêu diệt kẻ thù. Nếu như giọng bông đùa, hài hước phần lớn thể hiện chức năng tự

trào, để giải trí, thì châm biếm, đả kích hướng tới việc phê phán đối tượng với những

thói hư tật xấu của con người trong cuộc sống. Đả kích, châm biếm xét về mặt chức

năng nó sẽ ở một cấp độ cao hơn, nặng hơn. Nổi bật lên trong thơ trào phúng Nam Kì

là tiếng cười châm biếm, đả kích này.

Với các nhà thơ hiện thực trào phúng ở Nam Kì Lục Tỉnh, những kẻ cướp nước,

những kẻ bán nước, những lũ gian tham, những thói hư tật xấu ở đời là đối cho những

vần thơ đả kích không chút xót thương. Ngòi bút của họ là ngòi bút vì nghĩa. Phan Văn

Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm đã chiến đấu đến cùng với lũ quan lại,

lính tráng gian tham, nhũng nhiễu dân chúng bằng những ngòi bút mang tiếng cười

thâm thúy nhưng cũng vô cùng chua chát.

2.1.1. Đả kích bọn thực dân Pháp

Cuộc tấn công xâm lược của thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kì Lục Tỉnh diễn

ra trong vòng 8 năm là một thử thách, một biến cố cực kì to lớn và cam go đối với

nhân dân Nam Kì nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Dưới ảnh hưởng của

biến cố lớn lao ấy, nhiều xáo trộn đã xảy ra trong xã hội. Khi gót chân của quân xâm

lược giẫm lên vùng đất mới này, sự sống của nhân dân bị giày xéo, đau thương tang

tóc không làm sao nói hết, bao nhiêu rên xiết căm hờn hằn lên trên những trang viết,

câu văn, lời thơ của những con người yêu nước thương nòi nơi đây.

Những tội ác của giặc trên đất Nam Kì không thể nào đong đếm hết. Rất nhiều

bản hịch đánh giặc Pháp được sáng tác và lưu truyền đã góp phần quan trọng vào việc

động viên khi thế, tinh thần tham gia giết giặc:

Ở đâu mà chẳng thấy

Đào mồ mả phá miếu chùa, làm những việc bất nhân

Ở đâu mà chẳng hay

Đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo

Trời nào để cho dân ta đeo gông tròng?

60

Trời nào để cho lũ nó rảnh, ăn chơi

Xưa nay ai mạnh bằng trời

Đâu đó vật còn có chủ

Không chỉ cổ vũ lòng yêu nước căm thù giặc, các bài hịch khuyết danh này còn

cho mọi người dân nhìn thấy những tội ác của giặc để tin tưởng hơn vào cuộc chiến

đấu của ta, không sợ vũ khí của giặc.

Cùng với nhân dân, tầng lớp trí thức và sĩ phu yêu nước cũng là một lực lượng

quan trọng trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ này. Họ vừa cầm súng vừa cầm bút

chiến đấu chống quân xâm lược một cách hăng say không biết mệt mỏi. Phan Văn Trị,

Huỳnh Mẫn Đạt Học Lạc và Nhiêu Tâm có thể xem là những cây bút sắc sảo nhất

trong cuộc chiến này. Chính họ là những vị soái tướng tạo nên một chiến trường thơ

văn với nụ cười thâm thúy cổ vũ nhân dân, tấn công không khoan nhượng bọn cướp

nước và bè lũ tay sai bán nước.

Người đứng đầu trên mặt trận không kém phần ác liệt này phải kể đến Phan Văn

Trị. Có thể thấy, với tài thơ văn hơn người, Phan Văn Trị đã thổi bùng lên ngọn lửa

yêu nước rực cháy trong nhân dân Nam Kì, góp công lao to lớn vào sự nghiệp đấu

tranh anh hùng bất khuất chông ngoại xâm của toàn dân tộc. Đại diện cho tầng lớp sĩ

phu trí thức yêu nước đánh giặc, Cử Trị đã tạo nên một cuộc chiến đấu thực sự oai

hùng trên văn đàn, đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân và tay sai của

chúng. Việc ông đỗ cử nhân nhưng không nhận quan trường đã cho thấy thái độ khinh

ghét cuộc đời luồn cúi, nhưng ông cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những

biến động của đất nước, nỗi đau của đồng bào. Làm dân của một nước nô lệ hàng ngày

phải chứng kiến bao nhiêu cảnh chướng tai gai mắt, tuy ông không có khí phách hiên

ngang như Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định, không đánh nhận chìm tàu giặc

trên sông Nhật Tảo như Nguyễn Trung Trực nhưng ông vẫn là một ngôi sao trên vòm

trời các nhà thơ yêu nước ở Nam Kì giữa và cuối thế kỷ thứ XIX. Khi Pháp đánh

chiếm Gia Định, ông liên kết cùng với các sĩ phu yêu nước và các lãnh tụ kháng chiến

như Đồ Chiểu, Nguyễn Thông, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... Cả cuộc đời

ông dùng bút để chiến đấu vì chính nghĩa, vì lẽ phải ở đời.

Tấm lòng của Phan Văn Trị luôn luôn đau đáu nỗi niềm:

61

Chưa trả thù nhà, đền nợ nước

Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ.

(Tự thuật – bài 2)

Gần như toàn bộ tác phẩm của Phan Văn Trị đều toát lên tinh thần ấy. Những gì

ông thấy, những gì ông nghe, chứng kiến đều được bày tỏ trong thơ với một tâm sự “

dõi theo người trước giữ năm hằng”. (Họa “Giang sơn ba tỉnh” bài 9). Ông dùng ngòi

bút của mình chiến đấu cho lẽ phải, cho nhân nghĩa, cho cái chân, cái thiện của cuộc

đời, cho vận mệnh của nước và hạnh phúc của dân. Ông thẳng tay đả phá cái ác, cái

giả, đả phá những gì chướng tai gai mắt của những kẻ xâm lấn đất nước. Ngòi bút của

ông vì lẽ đó là một ngòi bút chiến đấu, góp cho dòng văn chương thời thế cuối thế kỷ

XIX một tiếng nói riêng trong bản hùng ca của một thời đại oanh liệt và đau thương.

Chính vì những nỗi niềm với đất nước ấy, Phan Văn Trị đã tấn công không

khoan nhượng vào kẻ thù của dân tộc. Tiếng thơ của ông trở thành tiếng nói chung cho

nhân dân toàn cõi Nam Kì, tiếng nói chung của phong trào yêu nước lúc bấy giờ.

Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay thực dân Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ

đau đớn và cười khẩy trước sự bất lực của triều đình:

Tò te kèn thổi, tiếng năm ba

Nghe lọt vào tai dạ xót xa

Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói

Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa

Tan nhà căm nỗi câu li hận

Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa

Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ

Ngậm cười, hết nói nỗi quân ta.

(Thất tỉnh Vĩnh Long)

Trong những hoàn cảnh khác nhau, trước những biến động lớn lao của thời cuộc,

mỗi người có cách ứng xử khác nhau. Yêu nước không có nghĩa là nhất thiết phải cầm

súng chiến đấu mới thể hiện tình cảm ấy. Ẩn hiện đâu đó vẫn có những tình cảm ngậm

ngùi trước cuộc tang thương của quê hương, đất nước, sự đau đáu, trăn trở trước thời

cuộc và mong cho đất nước sạch bóng quân thù. Tùy vào hoàn cảnh mà có những cách

62

biểu lộ tình cảm yêu quê hương, đất nước khác nhau. Ông mượn thi văn để tỏ lòng

phẫn uất về cảnh nước mất nhà tan, chỉ trích bọn xâm lược với lời lẽ đanh thép, ngạo

nghễ. Yêu nước, tiến bộ lại thực sự có tài, Phan Văn Trị đã dùng chính cái tài của

mình để làm nên những vần thơ đả kích mạnh mẽ bọn cướp nước, làm cho nền văn

học Nam Kì Lục Tỉnh phong phú và tràn đầy sức sống. Là một trong những người đầu

tiên ý thức được một cách sâu sắc về vai trò của ngòi bút “đâm mấy thằng gian bút

chẳng tà” (Nguyễn Đình Chiểu), ngay từ khi thực dân đặt chân lên vùng Lục Tỉnh,

ngòi bút của Phan Văn Trị đã là một mũi tấn công lợi hại, trở thành một trong những

người phát ngôn chủ yếu của phong trào yêu nước ở Nam Kì Lục Tỉnh nửa sau thế kỉ

XIX. Ông lên án chúng với hành động ngang nhiên “vun quén” non nước của người

khác:

Cõi Nam chung hưởng hội thanh bình

Trời đất gây nên cuộc chiến tranh

Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách

Nước non vun quén nước non mình.

(Cảm hoài - bài 1)

Ông cảnh báo kẻ thù: xâm lăng là tội ác không thể nào dung thứ và đạo nghĩa lớn

nhất chính là đánh giặc để cứu nước, cứu nhà. Trong khi thực dân Pháp ra sức biện hộ

cho hành động phi nghĩa của mình và triệt để lợi dụng những tiếng nói hèn mạt cất lên

từ phái chủ hòa để củng cố cho luận điệu cướp nước thì cùng với nhiều sĩ phu yêu

nước khác như Nguyễn Đình Chiểu, Thủ Khoa Huân...,Phan Văn Trị đã khẳng khái

tuyên bố:

Lấn đất tội kia đà khó thứ

Trái trời án nọ chẳng còn oan

(Bài họa – 4b)

Trong cuộc chiến một mất một còn này, đổ máu và hi sinh là chuyện chắc chắn

xảy ra, song với kẻ thù phi nghĩa tàn bạo, ý chí và cái chết không làm người dân Nam

Kì Lục Tỉnh nao núng mà ngược lại, tiếng nói khí phách của Phan Văn Trị đã làm

bừng lên tinh thần chiến đấu của họ:

63

Người Nhan há sợ dao kề lưỡi

Họ Khuất nào lo nước đến trôn

(Bài họa 5a)

Trước nạn cào cào tàn phá lúa dữ dội, người dân chết đói rất nhiều, Phan Văn Trị

đã làm bài thơ “Nạn cào cào” để mô tả cảnh tàn phá ấy, cũng thông qua đó, ông mượn

cái nạn này để nói về nạn ngoại xâm của đất nước:

Chẳng biết cơ trời khéo khiến sao?

Trải qua mấy xứ cũng cào cào

Nơi nào cũng có cào cào tàn phá hết thóc gạo, làm khổ dân chúng chẳng khác gì

bọn thực dân làm hại nhân dân ta:

Hạt lúa bởi ngươi nên cắc cớ

Nhọc lòng cho kẻ đuổi lao xao.

Trước tình hình đó, ông thay mặt nhân dân hỏi vị quan lương thú với thái độ mỉa

mai:

Lời ngay dám hỏi quan lương thú

Đuổi đó phòng toan đến chốn nào?

Một câu hỏi mà ông chắc chắn sẽ không có câu trả lời, quan lương thú ấy là chỉ

cả bộ máy quan lại ở địa phương của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ - những kẻ vô

trách nhiệm trước nỗi đau của dân chúng. Giặc xâm lược đất nước một cách ngang

nhiên và ồ ạt, hại nước hại dân không sao kể xiết. Chúng như một lũ cào cào hung tợn.

Đến chùa, gặp cảnh “Chùa hư”, Phan Văn Trị lại chạnh lòng vì nỗi đau mất

nước, dân không biết đi về đâu khi mà triều đình ươn hèn, vua không phải là Lương

Võ Đế của ngày xưa, lấy ai mà tu sửa, hãy tự lo liệu không nên ngồi chờ.

Nam mô hai chữ biết về đâu?

Cám cảnh chùa hư Phật phải rầu

Nắng rọi mõ chuông khô nứt mặt

Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu.

Thoảng nghe đâu đó một tiếng cười chua chát của nhà thơ trước cảnh vật.

Xét đến cùng cội nguồn của tính chiến đấu mãnh liệt trong thơ Phan Văn Trị

chính là bắt nguồn từ nỗi niềm sâu nặng này của ông với đất nước. Nhà thơ Bảo Định

64

Giang đã nhận xét: “Cử Trị kháng chiến chủ yếu bằng ngòi bút”. Quả vậy, những vần

thơ lai láng tình non nước của ông, cũng như những vần thơ đả rất thẳng vào quân xâm

lược đã khích lệ lòng người không ít và đã góp phần không nhỏ vào phong trào kháng

Pháp ở Nam Kì cuối thế kỷ trước.

Ông đã muốn “đem tai rửa” khi nghe những lời giả dối của thực dân. Với luận

điệu gian trá, chúng bảo sẽ khai hóa văn minh, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho dân ta

nhưng nhà thơ đã sớm nhận ra sự dối trá xảo quyệt bên trong:

Nỡ nghe tiếng loạn đem tai rửa

Đành thấy thằng gian để mắt trừng.

(Cảm hoài - bài 4)

Phan Văn Trị lấy điển tích Hứa Do rửa tai bên sông Dịch, không muốn nghe

chuyện danh vọng cũng giống như ông, không muốn nghe những lời dối trá văn minh

của bọn cướp nước. Ông gọi chúng là những “thằng gian” và “trừng” mắt, không hề

bằng lòng với những việc làm của chúng.

Chúng chỉ là “hùm” để những kẻ bán nước dựa hơi mà đàn áp, đè đầu cưỡi cổ

dân ta. Tinh thần đấu tranh trong những nụ cười của Phan Văn Trị là rất mạnh mẽ.

2.1.2. Đả kích giai cấp thống trị và bọn quan lại làm tay sai cho giặc

Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam dần biến đổi. “Lê suy

tàn, Trịnh bạo ngược, Nguyễn vong bản”, buổi hoàng hôn của xã hội phong kiến suốt

nghìn năm dần kéo xuống. Từ một nước phong kiến nước ta trở thành nước thuộc địa

nửa phong kiến. Sự thất bại hèn yếu của triều Nguyễn đã dẫn đến sự hình thành của

một xã hội mới – xã hội mà người nông dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Một

đất nước do vua đứng đầu, nhưng không hề có quyền hành gì trong việc cai trị đất

nước mà chỉ là bù nhìn, tay sai cho thực dân.

Sau khi thực dân Pháp xâm lược, quyền lực nhà nước chuyển sang tay bọn tư bản

nước ngoài, chúng trực tiếp nắm bộ máy quân sự, hành chính và tư pháp. Mọi quyền

hành đều ở trong tay quan lại thống trị từ toàn quyền đến thống sứ, khâm sứ, thống

đốc, công sứ …Quan quân nhà Nguyễn hoảng hốt quỳ mọp dưới chân bọn đế quốc

thực dân, quên đi nhiệm vụ cũng như nghĩa vụ của mình. Viên chức thuộc địa là loại

người ăn bám, là gánh nặng trên lưng nhân dân ta. Lúc này cũng là lúc có thể thấy

65

tiếng cười trào phúng lên đến đỉnh điểm, những tiếng cười vô cùng phong phú và đa

dạng của những con người thẳng thắn, bộc trực nói lên tình cảm của một dân tộc đang

muốn vượt thoát, không chấp nhận chế độ đương thời.

Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Đông Dương

về mặt quân sự và bắt đầu triển khai kế hoạch bình định trên các lĩnh vực khác như

chính trị, kinh tế, văn hoá… Trường học được mở ở khắp nơi để dạy tiếng Pháp và đào

tạo ra thế hệ quan lại bản xứ tay sai thân pháp. Sự bành trướng nhanh chóng của nền

giáo dục thực dân đã đẩy lùi nền giáo dục truyền thống dựa trên nền tảng đạo Nho có

từ lâu đời ở nước ta. Nho học tàn dần, phần lớn tầng lớp trí thức vội vã “quẳng bút

lông đi giắt bút chì” (Đổi thi - Trần Tế Xương) để mong nhận được chức thầy thông,

thầy phán trong các công sở của chính quyền bảo hộ, đặng hưởng cuộc sống “sáng

rượu sâm banh, tối sữa bò” (Cái học nhà nho – Trần Tế Xương), khác xa với cuộc

sống lầm than của cả dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp. Các nhà

thơ của đất Nam Kì Lục Tỉnh đã gửi vào trong thơ những tiếng cười đầy mỉa mai,

khinh bỉ.

Dưới mắt Phan Văn Trị xã hội đầy rẫy những bọn đục khoét, phi nhân. Với giọng

văn châm biếm sâu cay, ông đả kích bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ

lương tâm chạy theo tiền bạc trong buổi giao thời.

Từ vua tới quan chỉ là những con rối trong tay chính quyền thực dân, hoàn toàn

chịu sự chi phối và điều khiển của chúng. Xót xa và thấm thía nỗi nhục quốc thể, Phan

Văn Trị viết nên tâm sự mất nước của mình qua bài cảm tác một cách ngậm ngùi, xót

xa:

Tò te kèn thổi tiếng năm ba

Nghe lọt vào tai dạ xót xa.

(Thất tỉnh Vĩnh Long)

Nghe tiếng kèn của giặc, ông nhếch môi cười mà trong lòng đầy nỗi oán hận

những kẻ đáng ra phải bảo vệ con dân và xót xa đau khổ trước cảnh nhân dân phải

chịu bởi sự giày xéo của thực dân:

Tan nhà căm nỗi câu li hận

Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa

66

Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ

Ngậm ngùi hết nói nỗi quan ta.

(Thất tỉnh Vĩnh Long)

Nghĩ đến sự ngặt nghèo, khốn khó của những người dân mộ nghĩa vùng lên đánh

đuổi giặc, giữ làng, giữ nước, những người đang bị triều đình mục ruỗng kia cho là

làm trái lệnh vua, ông mượn hình ảnh cái “cối xay” để tỏ lòng:

Mòn răng chủ nợ còn mong trả

Trặc họng khen ai khéo đặt bày

Bao quản thớt trên mòn thớt dưới

Hiềm vì còn giặc phải ra tay.

Trước khi quân Pháp xâm lược đánh chiếm Gia Định, ông đã sáng tác thơ văn

chống bọn quan lại nhà Nguyễn đàn áp, bóc lột nhân dân. Ngòi bút của Phan Văn Trị

cũng cho thấy được “cái nhà dột từ nóc” của triều đình nhà Nguyễn, nó chỉ là một cái

“chùa hư” mà thôi. Ông cho rằng vua bây giờ không phải như Lương Võ Đế ngày xưa

nên không lấy ai mà tu sửa được. Vì thế những anh hùng hào kiệt hãy sớm lo liệu mà

cứu nước, đừng có mà chờ mong chi được ở triều đình:

Đức cả từ bi xin sớm liệu

Ngồi chờ Lương Võ thế còn lâu. (Chùa hư)

Thái độ phê phán triều đình ấy của Phan Văn Trị còn thấy biểu hiện nhiều trong

thơ ca cũng như trong những việc làm mà suốt cuộc đời ông trăn trở.

Trong thơ Phan Văn Trị bọn quan lại chỉ là bọn muỗi, rận hút máu hại dân.

Trong mắt ông lũ quan lại làm tay sai cho giặc ấy thật đáng khinh bỉ, chỉ là những loài

vật bẩn thỉu, làm hại con người.

Mặt mũi như vầy cũng có râu

Trong đời chẳng biết dụng vào đâu

Hêu đòi trên mão chưa nên mặt

Lúc thúc trong chăn cứ rụt đầu

Khuấy ngứa gầy dân chi khác mọt

Rán công béo nước chẳng bằng trâu

67

Uổng sanh cho nhộn trong trời đất

Có có không không cũng chẳng cầu.

(Con rận)

Bọn quan lại, tay sai của thực dân dưới con mắt tinh tế của Phan Văn Trị hiện ra

thật sắc sảo. Chúng chẳng có lấy một chút tài cán nhưng lại lên mặt với đời, cũng có

râu oai phong lắm, sinh ra chẳng biết phải dụng vào việc gì, chỉ “lúc thúc trong chăn”,

trốn tránh chui rúc vào những nơi dơ bẩn để “khuấy ngứa, gầy dân”. Trời sinh ra

chúng thật uổng công bởi chúng là những con vật không cần thiết, một lũ vô dụng.

Tiếng cười mỉa mai của Phan Văn Trị khiến bao kẻ chuyên hút máu dân lành như

những con rận phải xấu hổ.

Con muỗi cũng là một hình ảnh rất đắt mà Phan Văn Trị sử dụng để đả kích bọn

quan lại nhà Nguyễn bán nước, là một loài chuyên đi hút máu của mọi người không

chừa một ai, người ngay kẻ gian, nơi cao sang hay thấp hèn đều có mặt chúng. Bất kể

mọi người ai ai cũng căm ghét loài muỗi gây bệnh đó.

Muỗi hỡi thân ngươi sướng mọi điều

Thiếu chi chi nữa hãy còn kêu

Giường ngà chiếu ngọc từng nương dựa

Má phấn môi son cũng ấp yêu

Béo miệng chẳng thương con trẻ dại

Cành hông nào đoái chúng dân nghèo

Ngày kia gặp phải cây xơ quất

Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo.

(Con muỗi)

Tác giả mượn hình ảnh con muỗi vạch tội hút máu dân của lũ quan tham nhũng.

Hình ảnh này cũng được dùng để ám chỉ bọn bán nước, bọn quan lại triều đình nệm

ấm chăn êm mà chẳng đoái hoài sự nghèo khổ, cùng cực của đồng bào. Chúng dựa hơi

bọn thực dân, sung sướng mọi điều vậy mà còn đè đầu cưỡi cổ dân chúng lầm than,

không chừa người già con trẻ. Cuối bài, nhà thơ cũng nhắn nhủ cảnh cáo chúng sẽ có

ngày bị nhân dân, “lật ngược thế cờ”, trừng phạt không chút xót thương cũng như lũ

muỗi đáng ghét kia bị “cây xơ” quật đập chết:

68

Ngày kia gặp phải cây xơ quất

Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo.

(Con muỗi)

Với bài thơ “Hát bội”, Phan Văn Trị đã thẳng tay lột sạch lớp mặt nạ của những

kẻ bỏ tổ quốc chạy theo làm tay sai cho giặc:

Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi,

Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi.

Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc,

Đứa nịnh râu hoe mấy sợi còi.

Trên trính có nhà còn lợp lọng,

Dưới sân không ngựa lại giơ roi.

Hèn chi chúng nói bội là bạc,

Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.

Hát bội còn gọi là hát bộ hay hát tuồng một loại hình văn nghệ cổ truyền từ lâu

đời của nước ta. Gọi là "hát bội" bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải

giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người. Hát bội là nghệ thuật mang

nặng tính ước lệ. Các diễn viên hát bội phân biệt từ mặt mũi, râu tóc, áo quần để rõ kẻ

trung nịnh, người sang hèn, ai thô lậu, thanh tú, ai minh chánh, gian tà. Sắc đỏ được

dùng dặm mặt để biểu hiện vai trung thần; màu xám là nịnh thần; màu đen là kẻ chân

thật; màu lục là hồn ma,... Phan Văn Trị đã liên tưởng ngay đến những kẻ tay sai bán

nước, chúng chỉ đang đeo những chiếc mặt nạ như phường hát bội. Cách chơi chữ rất

độc đáo thể hiện đúng bản chất của những kẻ nịnh thần triều Nguyễn “bội là bạc”.

Chúng bạc với nhân dân, bạc trước những cảnh tan thương mà chúng mang đến. Ông

đả kích tính chất bịp bợm, giả dối của bọn quan lại nhà Nguyễn cùng bọn tay sai cho

thực dân trên sân khấu chính trị bấy giờ.

Con mắt tinh đời, yêu nước thương dân của Phan Văn Trị nhìn đâu cũng thấy bọn

tay sai cho giặc. Từ con rận, con muỗi cho đến những sự vật tưởng như bình thường

đến vô tri vô giác, đối với ông cũng trở thành những kẻ dị hợm đáng bị vạch mặt kể

tội. Ở bài thơ “Ông Táo”, Phan Văn Trị mượn ông táo “lỏng khỏng cõng nồi da mốc

thếch” và “lum khum đội chảo mặt đen sì” để châm biếm bọn xu nịnh, đã bợ đỡ bọn

69

thống trị một cách vô liêm sĩ. Đối với ông, quan lại, tay sai nhà Nguyễn chỉ là những

ông táo vốn từ cục đất mà ra. Cục đất ấy “lỏng khỏng” cao mà không hề chắc chắn,

phải luồn cúi cõng trên vai bọn thực dân cướp nước với bộ mặt “mốc thếch”. Tất cả

những hành động và xuất thân của chúng thật không ra gì.

Vốn là đất cục phải là chi?

Ông táo danh xưng tự thuở ni.

Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích,

Lum khum đội chảo mặt đen sì

Cháy da với chủ đà ghe thuở.

Phỏng trán cùng dân đã mấy khi.

Sau trước họ hàng chưa rõ đặng

Ba đầu giụm lại giống đi gì?

Với hình thức ngụ ý, Phan Văn Trị đả rất trúng, đả rất đau bọn sâu mọt hại nước

hại dân. Con mắt tinh ý của ông đã nhìn ra chúng là bọn “không lòng” cả. Vì “không

lòng” nên con muỗi chỉ lo chuyện “béo miệng”, “cành hông” mà chẳng thương xót

đoái hoài chi đến dân chúng; từ già đến trẻ, từ lớn đến bé chúng đều không tha. Ông

táo bệ vệ xưng danh nhưng “vóc là đất cục phải là chi”, suốt đời rúc mặt vào chăn

“không lòng” như con rận đã đành, mà đến kẻ “ỷ lớn chân tay” như cua cũng “không

ruột, không gan”:

Ở đời có mấy mặt đi ngang,

Ỷ lớn chân tay có một chàng.

Lỏ mắt không phân người phải quấy,

Quơ càng chẳng lựa đứa ngay gian

Đưa mình theo nước hiềm không ruột,

Lột vỏ già đời chẳng thấy gan .

Gặp lúc tối trời thì kể chắc,

Nghe hơi động đất rút vào hang .

(Con cua)

Hình ảnh loài cua mà Phan Văn Trị nói đến đích thị là bọn tay sai, quan lại triều

Nguyễn. Loài cua ỷ mình có vỏ cứng lại không có ruột gan, lỏ mắt, quơ càng không kể

70

gì phải quấy. Con cá sống vì nước . Cua theo nước mà không vì nước, chúng “đưa

mình theo nước” nhưng lại “hiềm không ruột”, không có một chút tình gì đối với

nước. Nước là nơi chúng nó kiếm mồi. Chỗ nào có nước là chúng tính chuyện chia

chác mà không hề nghe nói đến chuyện đắp bồi. Cua hoành hành (đi ngang ), bá đạo.

Bọn tay sai hại nước cũng vậy, chúng ở trong đất nước nhưng không làm gì cho đất

nước, chỉ lo vơ vét cho bản thân. Đồng bọn với lũ cua còn có lũ còng, lũ rạm, lũ cáy.

Một lũ không có đầu cũng không có đuôi. Cua thích quơ càng, lỏ mắt mà không theo

trật tự nào. Nguyễn Khuyến nói:

Nhỏ mà không học, lớn làm ngang,

Trống đánh ba hồi, đã thấy quan.

Chính là nói lũ cua này chứ không ai.

Nhưng thế lực của loài cua không bền. Hoành hành chẳng được bao lâu lại đến

Kì lột vỏ. Cua lột mềm, làm mồi cho đồng loại. Nghe tiếng động chúng vội vã rút vào

hang một cách hèn nhát. Chúng nó có mắt mà không có tai. Kêu la đối với chúng nó

chẳng có tác dụng gì. Cua đặc biệt thích tối trời nhưng rất sợ sáng trăng. Những giống

sợ ánh sáng, núp vào bóng tối là những giống thường không lương thiện. Phan Văn Trị

nhìn thật thấu đáo tâm can và tính cách của bọn quan lại tay sai của triều Nguyễn với

hình ảnh con cua.

Đá cá thia thia là một thú chơi dân dã, quen thuộc của người dân Nam Kì được

Cử Trị đưa vào thơ với một dụng ý riêng. Nhìn cảnh đồng loại cắn xé lẫn nhau, ông

đau lòng mà thốt lên:

Đồng loại sao ngươi chẳng ngỡ ngàng,

Hay là một lứa phải nung gan!

Trương vi so đọ vài gang nước,

Đấu miệng hơn thua nửa tấc nhang...

(Đá cá thia thia )

Và rồi ông chỉ ra động cơ mà chúng đánh đá nhau:

Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu,

Vài tài, vì sắc mới kình nhau.

Chúng chống nhau một cách kịch liệt, không con nào chịu thua con nào:

71

Đua chen hai nước toan giành trước

Lừng lẫy đôi hơi chẳng chịu sau.

Chính sự ganh đua, chống chọi ấy làm cho mặt nước bị gợn lên từng đợt sóng.

Tác giả tinh tế mượn chuyện của cá để nói chuyện về nhân tình thế thái hiện tại. Ông

chỉ trích bọn quan lại của triều đình cũng như những con cá nhiều màu sắc kia chỉ

thích khoe mẽ, vì tranh giành quyền lợi lẫn nhau mà làm hại lây đến đồng bào, khiến

“ai ai cũng cúi đầu” ngao ngán trước những việc làm xấu xa mà bọn chúng đang làm.

Chuyện của cá cũng là chuyện của người cùng nòi giống, cùng dân tộc nhưng lại tàn

hại, chém giết, gây thù hằn lẫn nhau. Nhà thơ đã mượn hình ảnh cá thia thia để chỉ

trích bọn bán nước, bám gót thực dân, quay lại tàn sát, mưu hại đồng bào, tàn phá quê

hương xứ sở của mình để trục lợi cá nhân.

“Kiến hôi cắn kiến vàng” là một bài thơ khác đả kích bọn theo giặc bán nước.

Bầy kiến hôi chỉ quen “nhờ hơi nước đái” để chuyên làm hại những loài có lợi như

kiến vàng chẳng khác gì bọn bán nước dựa hơi thực dân làm hại dân lành. Kiến hôi là

một loài kiến có màu đen, rất hôi và chẳng có lợi ích gì. Kiến vàng thì có thân hình lớn

hơn kiến hôi, có lợi cho nhà vườn vì giúp cho cây sai trái hơn và cho trái rất ngọt. Nhà

thơ đả kích bọn theo giặc, dựa hơi thực dân hống hách, làm hại đồng bào. Bài thơ toát

lên thái độ khinh bỉ của tác giả với nụ cười mỉa mai không cần che đậy:

Kiến hôi bay hỡi dám to gan

Dụm miệng cùng nhau cắn kiến vàng

Cậy thế quen nhành nên lấn lướt

Nhờ hơi nước đái chớ khoe khoang

Đây còn thất thế rằng đây dại,

Đó ỷ đắc thời gọi đó ngoan

Sau đặng đeo hoa cùng giỡn trái

Đầu bay đái trả chớ than van.

Bọn kiến hôi chẳng qua chỉ nhờ cậy thế quen nhành nên mới dám chụm miệng

chùng nhau cắn kiến vàng một cách đắc ý. Nhưng hãy đợi đấy, chẳng qua là đang lúc

thất thế nên kiến vàng mới chịu đựng, đợi đến mai này khi thời thế thay đổi, khi đeo

72

hoa giỡn trái thì nhất định bọn kiến hôi ấy sẽ phải than van. Sự thất thế của “kiến

vàng” chỉ là tạm thời. Đến một lúc nào đó, kiến vàng sẽ “đeo hoa giỡn trái”:

Đây còn thất thế rằng đây dại

Đó ỷ đắc thời gọi đó ngoan

Sau đặng đeo hoa cùng giỡn trái

Đầu bay đái trả chớ than van!

Cử Trị có niềm tin dân tộc ta sẽ đánh đuổi hết quân xâm lược. Lời ngụ ý của nhà

thơ qua bài thơ hết sức rõ ràng, ông nhắn nhủ bọn quan bán nước chớ có vênh váo, đến

khi thất thế cũng sẽ chung cảnh ngộ như lũ kiến hôi ấy mà thôi. Với giọng thơ châm

biếm mỉa mai sâu sắc, ông thẳng tay vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của bọn chúng.

Những vần thơ hừng hực tính chiến đấu của Phan Văn Trị đã là những “cành xơ

quất”, quật rất trúng, quật rất đau bọn quan lại thời bấy giờ. Đó là giá trị đương thời và

cũng là giá trị vĩnh cữu của thơ ca Cử Trị.

Phan Văn Trị tránh chốn quan trường lần thứ nhất khi vừa đổ cử nhân và lần thứ

hai là lúc ông là một trong những người khởi xướng phong trào “tị địa” tránh sống

chung với “lũ quỹ trắng” thực dân Pháp. Cả hai lần ấy càng chứng tỏ cái phương châm

xử thế mà ông tuân theo suốt cuộc đời mình:

Kẻ vạy người ngay há một phồn.

( Bài họa 5)

Ông tránh chốn xấu xa nhơ nhớp, nhưng không trốn đời. Trái lại những sự biến

của cuộc đời, thăng trầm của đất nước ông đều theo sát.

Có lẽ, cả cuộc đời Phan Văn Trị, người mà ông căm giận và “ghét cay, ghét

đắng” chính là đốc phủ sứ Tôn Thọ Tường. Pháp dùng Tôn Thọ Tường để chiêu dụ

những sĩ phu yêu nước. Ngoài cuộc bút chiến nổi tiếng trên văn đàn giữa Phan Văn Trị

và Tôn Thọ Tường với 10 bài thơ Tự thuật, ông “chửi xối xả” tên “mãi quốc cầu vinh”

này. Cuộc xướng họa thi ca giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị đã tạo nên trận bút

chiến nẩy lửa độc nhất vô nhị, làm dậy sóng văn đàn Nam Kì trong nửa sau thế kỷ

XIX. Mảng thơ trào phúng với tính chất châm biếm, mỉa mai, đả kích ông chửi khéo

bọn việt gian theo Pháp - trước hết nhắm vào Tôn Thọ Tường cũng như bọn tham quan

ô lại ở trong vùng.

73

Có một phương châm xử thế mà Phan Văn Trị đã tuân thủ suốt cuộc đời mình

một cách chặt chẽ. Ấy là phương châm “ngay vạy nẻ ra cho biết mực”. Với ông phải

trái, ngay gian, người yêu nước, kẻ bán nước không thể lẫn lộn được. Cái phương

châm xử thế này đã khiến ông tránh chốn quan trường. Cái phương châm xử thế này

cũng đã dẫn ông đến cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, kẻ đã đang tâm theo giặc, lại

“khua môi múa mỏ” về lòng yêu nước, nghĩa đồng bào. Bút chiến với Tôn là để vạch

ra “kẻ vạy”, “người ngay”. Ở đây ngòi bút Phan Văn Trị đã làm trọn sứ mệnh vẻ vang

“đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.(Nguyễn Đình Chiểu)

Tôn Thọ Tường là một tên bồi bút tay sai đắc lực cho bọn xâm lược. Tôn Thọ

Tường đã múa mép, khua môi, khoe khoang công nghệ chiến tranh hiện đại của giặc

Pháp như súng trường bắn nhanh, đại bác, tàu chạy bằng hơi nước, khinh khí cầu; và

giải thích rằng lực lượng quân sự của ta lạc hậu, tinh thần dân ta kém cỏi không tài nào

địch nổi quân Pháp. Khác với nhiều kẻ bán nước đương thời, Tôn là người nhiều chữ.

Và y đã dùng vốn chữ nghĩa đó nhằm ngụy biện cho hành động bán nước của mình.

Tường chọn con đường ra đầu hàng, hợp tác với giặc Pháp, sau làm đến đốc phủ sứ

nhưng đã phải trả một cái giá đắt, từ được người ta hâm mộ về thơ văn y trở thành mục

tiêu lên án và bị khinh rẻ của đồng học và đồng bào. Tường bắt buộc làm thơ để tự

thanh minh. Tường làm hai bài thơ Từ thứ quy Tào và Tôn phu nhân quy Thục.ngụ ý

việc mình theo pháp là chuyện cực chẳng đã (bất đắc dĩ), là quyền biến v.v… Sau đó,

Tường lại “cho ra” một lúc 10 bài Tự thuật cũng để tự chống đỡ trước búa rìu dư luận.

Theo Tôn Thọ Tường việc y theo giặc cũng như Tôn phu nhân quy Thục mà thôi,

đó chẳng qua là chuyện tự nhiên và tất nhiên như thế:

Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.

(Tôn phu nhân quy Thục)

Phan Văn Trị đã thẳng thắn phản bác điều này:

Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!

(Họa Tôn phu nhân quy Thục)

Phan Văn Trị khẳng định tiêu chuẩn trước tiên và cũng là căn bản nhất để phân

biệt chính tà, ngay gian là ở chỗ dám hay không dám đứng về phía những người yeu

nước. chống Pháp là hành vi đồng nghĩa với cương thường, với đạo nghĩa, với lí tưởng

74

của kẻ sĩ khi vận nước lâm nguy. Sử sách hiện vẫn còn đầy đủ 10 bài Tự thuật của Tôn

Thọ Tường song song có 10 bài “họa” của Phan Văn Trị. Thật là một cuộc giao tranh

lý thú, về mặt văn chương, công bằng mà nói thì tài sức ngang nhau. Nhưng Tường ở

phía phi nghĩa, còn Phan Văn Trị hơn hẳn đối phương do sức mạnh lòng dân gom lại.

Tôn Thọ Tường giở trò gì thì Phan Văn Trị bẻ ngay trò đó, Tường ngụy biện bao nhiêu

thì Phan vạch rõ bấy nhiêu. Bao nhiêu lí lẽ ngụy biện của tên Việt gian Tôn Thọ

Tường đều bị Phan Văn Trị sạch sành sanh phá hủy.

Tôn Thọ Tường hù dọa:

Xăng văng thầm tính thương đòi chỗ

Khấp khởi riêng lo sợ những ngày.

(Bài 1)

Phan Văn Trị đập lại:

Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở

Bủa lưới săn nai cũng có ngày.

Tường lên mặt dạy đời:

Thày lay lại muốn chuốc danh nhơ

Ai mượn mình lo việc bá vơ

Trẻ dại giếng sâu lòng chẳng nỡ

Đàng xa ngày tối buổi không chờ.

(Bài 2)

Phan Văn Trị bác bỏ và mắng thẳng:

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ

Chẳng xét phận mình khéo nói vơ

Người trí mảng lo danh chẳng chói

Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.

Đồng thời đanh thép khẳng định:

Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây. (Bài họa 10)

Tôn Thọ Tường ra vẻ người khôn ngoan, hiểu biết, thương hại kẻ ngây thơ, khờ

dại:

75

Miệng cọp, hàm rồng chưa dễ chọc

Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay

Thì bị Phan Văn Trị vạch trần bộ mặt cơ hội, xảo quyệt của y:

Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ

Lòng ta sắt đá há lung lay.

Tôn Thọ Tường lẩn tránh trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho thời thế:

Phải sao chịu vậy thôi thì chớ

Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng

Liền bị Phan Văn Trị quật lại:

Gió xẫng mới hay cây cỏ cứng

Dõi theo người trước giữ năm hằng

Gần như không có luận điệu nào của Tường nêu ra mà không bị đánh cho tơi bời.

Dưới ngòi bút của Phan Văn Trị, chân tướng của Tôn Thọ Tường dần dần lộ nguyên

hình là kẻ “vạy”, chớ không phải người “ngay”. Đó là kẻ:

Đáy giếng trông trời trương mắt ếch

Làm người như vậy cũng rằng là

Hoặc:

Đứa dại trót già đời cũng dại

Lựa là tuổi mới một đôi mươi.

Nhưng có lẽ cái “vạy” nhất ở Tường là bán nước, là kẻ lỗi đạo hằng, không kể gì

đến liêm sĩ của một nhà nho, mà rộng hơn là nhân cách một con người. Phận nữ nhi

chỉ biết “cài trâm, sửa tráp” như Tôn phu nhân mà còn biết “vẹn câu tòng”. Ấy thế mà

một người nhiều chữ như Tôn lại quên mất đạo lí:

Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.

Cái lòng phản trắc với nước non ấy mãi mãi Tôn Thọ Tường và những kẻ như y

không bao giờ thanh minh được, không bao giờ biện hộ được. Phan Văn Trị còn nhắn

cho y biết rằng non sông thu lại thì cái mạng bán nước của những kẻ như y cũng

không còn:

Ba cõi mai đầu in lại cũ

Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.

76

Bút lực của Phan Văn Trị là bút lực của một tấm lòng ngay, của một tâm hồn

luôn luôn đau đáu nỗi nước nhà. Dưới ngòi bút ấy bao nhiêu “xiêm áo” đẹp đẽ của lũ

bán nước như Tôn Thọ Tường đã “trơ mòi” trước công luận và lịch sử.

Cuộc bút chiến bằng thơ này đã thu hút được các nhà thơ yêu nước ở Nam Kì

như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt,... tham gia, dấy lên một phong trào chống

những kẻ theo Pháp trong thơ văn quyết liệt, sôi nổi ở Nam Kì. Cuộc bút chiến do

Phan Văn Trị khởi xướng còn kéo dài tới mấy chục năm sau, khi Tôn Thọ Tường đã

chết, vì còn có nhiều tên "Tôn Thọ Tường" khác theo giặc. Phan Văn Trị, với tinh thần

yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhà thơ đã không chiến đấu cô đơn

trên mặt trận văn chương, mà luôn được sự hỗ trợ tán dương bởi nhân dân, sĩ phu,

nghĩa sĩ và văn nghệ sĩ khác trong đó phải kể đến sự hổ trợ đắc lực của Huỳnh Mẫn

Đạt (1807-1882).

Có thể khẳng định rằng Huỳnh Mẫn Đạt là một trong những cây bút chiến đấu

trong hàng ngũ những nhà thơ yêu nước Nam Kì thời kì đầu kháng chiến chống Pháp

của dân tộc góp phần vào cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường một

cách tích cực. Qua đó chúng ta thấy được thái độ khinh bỉ, căm ghét bọn tay sai của

thực dân của ông. Huỳnh Mẫn Đạt hòa mình và đứng về phía nhân dân chống lại kẻ

thù, thà chết chứ không chịu hàng. Nhân cách đáng quý của một vị quan thanh liêm,

chính trực của ông được người đời truyền tụng. Lúc giặc pháp thâu tóm hết Nam Kì,

ông cáo quan an phận dưỡng nhàn, xa lánh chốn quan trường, kiên quyết không chịu

làm tay sai cho giặc. Tôn Thọ Tường rất kính trọng nhân cách ấy của ông.

Tương truyền lúc về ở ẩn, có lần Huỳnh Mẫn Đạt từ Rạch Giá lên Sài Gòn chơi,

đang lúc trời chiều thơ thẩn trước toà Đô chính nghe lính Pháp trỗi nhạc binh thì chợt

thấy Tôn Thọ Tường lúc này đã làm đốc phủ sứ, dừng xe song mã bên đường đi đến

phía ông. Nhìn thấy xe của Tường, ông có ý muốn tránh, đứng núp bên gốc cây, kéo

nón úp vào mặt, nhưng Tôn Thọ Tường đã nhìn thấy và liền dừng xe, nhảy xuống bắt

tay chào Huỳnh Mẫn Đạt tỏ vẻ mừng rỡ. Ngược lại với thái độ đó, Huỳnh Mẫn Đạt lại

thản nhiên, không chút mặn nồng gì với tên tay sai đã hợp tác với giặc. Trong hoàn

cảnh khó nói khó vui đó, ông đã đọc một bài thơ hàm ý mỉa mai họ Tôn:

77

Cừu mã năm ba dạo cặp kè

Duyên sao giải cấu khéo đè ne.

Đã cam bít mặt cùng trời đất,

Đâu dám nghiêng mình với ngựa xe!

Hớn hở, trẻ dong đường dặm liễu,

Thẫn thờ, già náu cội cây hoè.

Núp nom cũng hổ, chào thêm hổ,

Thà ẩn non cao chẳng biết nghe...

Tôn Thọ Tường nghe xong, nét mặt ngượng ngùng, nhất là mấy câu cuối, tỏ ra

khó chịu và trách Huỳnh Mẫn Đạt chơi xỏ mình. Mặc dù bực tức trước thái độ xỏ xiên

của Huỳnh Mẫn Đạt nhưng Tôn Thọ Tường vẫn cố làm ra bộ vui vẻ, thân thiết. Hắn

cũng làm một bài thơ họa lại, hàm ý phân trần, biện minh cho hành động làm tay sai

của mình, ý nói thế cục đổi thay, đi xe ngựa nghênh ngang thế này mà có sung sướng

gì đâu; cũng vì nhạc Tây thổi mạnh, thế Tây đương lớn, đành phải theo chiều, nhưng

lòng riêng vẫn nhớ điệu nhạc cũ.

Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu

Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều

Thế cuộc đổi dời đà lắm lắm

Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều

Non nước dường ấy tình dường ấy

Xe ngựa bao nhiêu bụi bấy nhiêu.

Giọng thơ của Tường như tỏ vẻ đau khổ, chua chát. Tuy nhiên, biết Tường có ý

bào chữa cho mình, Huỳnh Mẫn Đạt đọc tiếp một bài thơ nữa, vẫn ý thơ cũ nhưng đã

diễn tả thâm thúy hơn, sâu sắc hơn bằng những câu thơ trùng điệp ý và lời, chê bai và

chửi mắng thẳng thừng tên tay sai bán nước:

Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe.

Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve!

Hớn hở trẻ giong qua dặm liễu

Thẩn thơ già núp cội cây hòe.

Đã cam giấu mặt cùng non nước

78

Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe

Chớ nói đổi dời sao cốt cách

Xưa nay nát giỏ hãy còn tre

Huỳnh Mẫn Đạt cốt cho Tôn Thọ Tường biết một truyền thống xưa nay của nhân

dân ta: giấy rách sao không giữ lề, giỏ kia dẫu nát cũng phải còn lại được cái khung

tre. Biết không thể đấu lại với Huỳnh Mẫn Đạt, Tôn Thọ Tường đành ra về với thái độ

bất bình oán trách.

Trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, dù chưa mạnh mẽ và quyết liệt như

Phan Văn Trị nhưng những bài thơ của Huỳnh Mẫn Đạt có nhiều ý sâu sắc khẳng định

tấm lòng và thái độ khinh miệt rõ nét:

Mới vừa bụng núi dấu thêm voi,

Kìa phải mưa đêm đã lố mòi.

Mượn sấm đánh tan vầng nguyệt rạng,

Xua sương tưới sống cụm hoa còi.

(Mưa đêm)

Khinh ghét lũ tay sai cho giặc bao nhiêu, Huỳnh Mẫn Đạt càng thêm yêu quý,

kính nể những người anh hùng dám xả thân vì nước, vì dân bấy nhiêu. Đau xót trước

cái chết của người anh hùng Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Mẫn Đạt làm bài thơ điếu

bằng chữ Hán với lời thơ thống thiết, chạm đến lòng người, cỗ vũ mạnh mẽ tinh thần

yêu nước chống Pháp của nhân dân khiến cho những bọn tay sai, sống cúi đầu phải hổ

thẹn.

Thắng bại chi bàn việc tướng quân

Người chài trụ đá khúc gian truân

Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất

Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần

Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa

Đôi đường trọn chữ báo quân thân

Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi

Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.

(Điếu Nguyễn Trung Trực)

79

Tuy người anh hùng mà ông yêu kính không còn nhưng khí phách hiên ngang,

bất khuất khí tiết trung nghĩa, kiên cường của Nguyễn Trung Trực vẫn còn vang mãi.

Hai câu thơ của Huỳnh Mẫn Đạt dành cho người anh hùng này cũng mãi mãi lưu

truyền, khẳng định truyền thống yêu nước của nhân dân Nam Kì trong cuộc chiến đấu

chống cả thù trong và giặc ngoài.

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỷ thần.

Nếu Phan Văn Trị và Huỳnh Mẫn Đạt nổi tiếng là hai trong các nhà thơ tiết tháo,

mạnh mẽ, giàu chất luận chiến thì Học Lạc lại được biết đến là một nhà thơ trào phúng

bình dân nhưng thâm thúy vô cùng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân: “Bấy

giờ thực dân Pháp đã chiếm đóng Nam Kì, một số người ra làm tay sai cho Pháp, lập

những "hội tề" áp bức bốc lột nhân dân. Học Lạc ghét bọn chúng nên đã làm nhiều

bài thơ châm biếm rất sâu hiểm như "Con trâu", "Con tôm", "Chó chết trôi", "Ông

làng hát bội"......

Thơ trào phúng, châm biếm bọn xâm lược và bọn chức dịch, tay sai bán nước

hãnh tiến của Học Lạc được viết ra và đọc lên một cách tự nhiên “như chơi” nhưng

khiến kẻ có tật biết, ngấm đòn đau rất tức giận mà không làm gì được. Ông viết bài thơ

“Con tôm”, khi đọc lên đúng là con tôm thật,vậy mà ngẫm thêm ai cũng biết là ông

đang chỉ trích sâu cay bọn người nào. Đó là bọn tay sai của giặc, dù không phải vương

công cao quý nhưng cũng học đòi ra vẻ giỏi giang oai vệ, khoe khoang rằng ta đây

cũng dòng trâm anh thế phiệt mà không hề hay biết rằng trên đầu chúng chẳng có gì

ngoài “cứt”.

Chẳng phải vương công chẳng phải hầu

Cũng đòi đái kiếm lại mang râu

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

Trong văn học thành văn, con chó cũng đã góp mặt rất sớm qua bài thơ “Vô đề”,

mở đầu Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, tác phẩm bình minh trong nền thi ca Việt

Nam:

Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá

80

Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn

Thời thế đổi thay, thân phận con chó cũng đổi thay. Con chó trong thơ Học Lạc

biểu tượng cho những kẻ biến mình thành tên phản phúc, tay sai cho giặc. Cho dù sống

có “vinh quang” mấy, nhưng một khi đã biến mình thành tội ác, khi thác đi vẫn còn là

tội ác. Tiếng nhơ lúc sống làm sao, lúc chết cũng mãi mãi mang theo như vậy:

Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu

Thác thả dòng sông xác nổi phều

Vằn vện xác còn phơi lửng dửng

Thúi tha danh hãy nổi lều bều.

Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,

Đưa đón lao xao lũ quạ diều.

Một trận gió dồn cùng sóng dập

Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.

(Chó chết trôi )

Thảm cảnh một xác chó, dưới một góc độ nào đó, cũng chính là thân phận những

kẻ đã làm điều phản phúc. Trong tiếng Việt, chó là lời nguyền rủa nặng nề.

Con trâu xuất hiện trong thơ Học Lạc mang một ý nghĩa khác, đó chính là bọn

cường hào, bọn hội tề. Bài thơ “Con trâu” góp phần rất mạnh mẽ trong việc chống đối

và đả kích bọn cường quyền áp bức, tham lam.

Mài sừng cho lắm cũng là trâu

Gẫm lại mà xem thật lớn đầu

Trong bụng lam nham ba lá sách

Ngoài cằm lém đém một chòm râu

Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,

Làm lễ bôi chuông nhớt nhác sầu,

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ

Năm dây đờn khảy biết nghe đâu.

(Con trâu)

Học Lạc dùng điển tích “mắc mưu đốt đít” của Trung Quốc: Điền Đan là tướng

nhà Tề đã dùng “hỏa ngưu trận” để đánh nước Yên, đeo gươm vào sừng, buộc cỏ khô

81

vào đuôi trâu rồi đốt. Trâu bị nóng, lồng lộn xông vào trận chém, húc điên cuồng. Ông

cho rằng bọn tay sai của triều Nguyễn cũng bị Pháp dùng mưu như vậy mà không hề

hay biết. Chúng chỉ được cái vẻ bề ngoài cao to nhưng “trong bụng lam nham ba lá

sách”, chẳng có cái nghĩa khí của người quân tử.

Học Lạc ghét bọn người ra làm tay sai cho Pháp, lập những "hội tề" áp bức bóc

lột nhân dân nên ông đã làm nhiều bài thơ châm biếm rất sâu hiểm. “Ông làng hát

bội” là một bài thơ rất xuất sắc của ông dùng châm biếm bọn hội tề ấy:

Chi chi trong khám sắp ngang hàng

Nghĩ lại thì ra các bợm làng

Trong bụng trống trơn mang cổ giữa,

Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang

Vào buồng gọi tổ châu đầu lạy,

Ra rạp rằng con nịt nách mang

Dám hỏi hàm ân người lớp trước,

Hay là một lũ những quân hoang?

Ông làng là những tượng nhỏ được thờ với các vị tổ trong những gánh hát bội

ngày xưa. Ngày xưa, các gánh hát bội đều có bàn thờ tổ đặt ở sau sân khấu. Trên bàn

thờ tổ có một tráp gỗ son son đỏ, có cửa mở đóng, bên trong có mười tượng gỗ nhỏ,

đầu bịt khăn đỏ, mình mặc áo lục là tượng các vị tổ của nghề hát bội. Trước mười

tượng này lại có hai tượng khác cũng khăn áo như vậy nhưng đứng hai bên chiếc ngai,

đó là hai ông làng hát bội. Trong bài thơ của Học Lạc, ông làng ngụ ý chỉ đám quan

chức kiêu ngạo, hống hách ở trong làng. Ông tỏ rõ sự khinh bỉ khi gọi chúng là “các

bợm làng”, những kẻ chỉ sành sỏi về những trò ăn chơi hoặc kẻ chuyên lừa bịp, “là

một lũ những quân hoang”. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ đã lộ rõ sự bất tài, vô dụng

của những kẻ có chức có quyền trong làng. Mang tiếng là quan phò trợ, giúp đỡ nhân

dân nhưng chúng chỉ chuyên làm hại dân, tham lam, vơ vét của dân. Học Lạc đả kích

mạnh mẽ mà không hề né tránh.

Thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì đánh không khoan nhượng vào thực dân

và bè lũ tay sai của chúng. Trong cảnh “nước mất nhà tan”, thơ của họ không đơn

thuần là thơ miêu tả, thể hiện cảm xúc mà nó mang tính chiến đấu một cách kiên

82

cường. Điểm nổi bật trong thơ của các nhà thơ là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước

thương dân, không chịu khuất phục trước kẻ thù bán nước, làm tay sai cho giặc. Tiếng

cười chê trong thơ họ "nhẹ như bấc mà nặng như chì", như búa tạ giáng xuống uy

quyền của bọn vua quan tay sai của thực dân. Tiếng cười trong chính nghĩa không phải

chỉ là khí giới của kẻ yếu để đương đầu với đối phương lớn mạnh hơn mình, mà còn là

một trợ lực, một vũ khí văn hóa có khi mạnh hơn mọi sức mạnh vật chất.

2.1.3. Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội

Theo bước chân của đạo quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa

cũng tràn vào nước ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định hình cả

ngàn năm. Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung lay dữ dội. Nhiều

giá trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí thống soái, chi phối toàn bộ cuộc

sống của con người. Chính vì thế mới có những cảnh cười ra nước mắt trước nỗi nhục

nô lệ.

Từ xưa đến nay, văn chương trào phúng luôn là tiếng nói, là loại vũ khí lợị hại

của nhân dân lao động, những người được coi là “thấp cổ, bé họng” nhằm đả kích vào

những thói hư tật xấu, loại người đạo đức giả, kệch cỡm, khoe mẽ theo kiểu “trưởng

giả học làm sang” hay những phán quyết tréo ngoe của những tên quan lại, những

người có chức có quyền,… khiến dư luận bất bình, lòng dân oán hận. Văn chương trào

phúng bao giờ cũng mang tính chất phê phán rõ rệt, là vũ khí của kẻ yếu chống kẻ

mạnh, người ngay chống kẻ gian, biểu lộ khí phách của những con người “phục thiện

tiễu gian”. Không đâu như ở thể loại văn chương này tính chiến đấu vừa cao, vừa vô

cùng sắc bén, tấn công vào mọi tệ nạn xã hội, sự bất công, áp bức bóc lột người dân…

Như một mạch nước ngầm thường xuyên tuôn chảy trong đời sống của người dân

lao động không bao giờ ngưng nghỉ, văn chương trào phúng khi có điều kiện, nhất là

trong những lúc giao thời của lịch sử, tranh tối, tranh sáng, đời sống xã hội luật không

ra luật, mà lệ cũng chẳng thành lệ, ấy là khi thể loại văn chương này có đất để phát

triển. Xã hội Nam Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chính là mảnh đất màu mỡ cho

văn thơ trào phúng cất cao tiếng cười phê phán. Tiếng cười đả kích những thòi hư tật

xấu mà các nhà thơ trào phúng Nam Kì mang đến thật mới mẻ nhưng cũng vô cùng

sâu sắc, cái xấu, cái rởm đời, cần phải loại bỏ ra khỏi xã hội.

83

Nhân dân Nam Kì thường truyền miệng nhau để nhắc nhở:

Chớ tham đồng bạc con cò

Bỏ cha bỏ mẹ đi phò lang sa!

để trách mắng những kẻ vì đồng tiền bẩn thỉu của giặc mà trở thành kẻ phản

nước, hại dân, bất hiếu, bất trung. Nhân dân còn chế giễu và lên án những tên quan sâu

mọt sợ giặc:

Khi bình làm hại dân ta

Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì

Đến khi hoạn nạn lâm nguy

Mặt trông ngơ ngác chân đi gập ghềnh.

Những thói hư tật xấu của con người tồn tại thường trực trong đời sống. Và các

nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh đã dùng tiếng cười trào phúng của mình để lên án, phê phán

những người mang những thói xấu ấy. Học Lạc và Nhiêu Tâm là những nhà thơ tiêu

biểu cho bộ phận thơ ca này. Tuy số lượng thơ để lại không nhiều nhưng thơ ca trào

phúng về lĩnh vực này của hai nhà thơ rất quen thuộc và lưu truyền rộng rãi trong đời

sống nhân dân vùng Lục Tỉnh.

Học Lạc và Nhiêu Tâm đã sống và cất lên tiếng cười có giá trị phản ánh hiện

thực đời sống xã hội buổi giao thời lúc bấy giờ, đồng thời qua đó cũng bộc lộ tư tưởng,

tình cảm của nhân dân Nam Kì trước và sau khi bị thực dân xâm lược. Cùng với Phan

Văn Trị và Huỳnh Mẫn Đạt, thơ trào phúng của các nhà thơ này góp phần đáng kể vào

văn thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh ở mảng thơ phê phán, chế giễu những thói hư tật

xấu của xã hội. Thơ trào phúng của họ đã trở thành thứ vũ khí lợi hại nhắm thẳng vào

cái xấu, làm cho cái tốt có mảnh đất màu mỡ để phát triển.

Trong lòng nhân dân, Học Lạc là một người thầy giáo và thầy thuốc gương mẫu,

khiêm tốn và chân thành. Đối với ai ông cũng vui vẻ, hòa nhã, thân mật. Chỉ đối với

những kẻ dốt nát, bất tài mà tỏ ra ngạo mạn, tự phụ, kiêu căng thì ông mới khinh

thường và căm ghét ra mặt. Nhiều kẻ quyền quý giàu có vì tính cách này mà không

thích ông, tìm cách nói xấu và làm hại ông. Cuộc sống và cá tính của Học Lạc ảnh

hưởng rõ rệt đến thơ ca của ông. Thơ trào phúng luôn luôn được bắt nguồn từ đời sống

thực tế. Bất cứ sự việc gì, ở đâu, Học Lạc cũng cho thấy một cảm quan nhạy bén và

84

tinh tế. Vốn là người nghèo khổ trong xã hội, căm ghét áp bức bóc lột và bất công, nay

đất nước lại đang bị cơn lửa khói đến từ phương Tây, nên gặp phải những cảnh

chướng tai gai mắt và lố lăng trong xã hội, Học Lạc phản ứng rất quyết liệt. Sự chân

chất trong ứng xử rất Nam Kì ấy cũng chính là thứ vũ khí đắc lực của nhà thơ trong

cuộc chiến chống lại những thói hư tật xấu trong xã hội, đang được tiếp tay bởi một

lực lượng vô cùng hùng hậu là thực dân Pháp. Thơ ca của Học Lạc mang tiếng cười

mỉa mai, châm biếm và thông qua đó thể hiện cái nhìn đối kháng gay gắt.

Cũng như những nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh khác, Học Lạc vốn căm ghét những

kẻ gọi là vương công, vương hầu, ỷ thế ỷ quyền mà hiếp đáp dân lành. Ông căm phẫn

trước thái độ hống hách đến lố bịch, huênh hoang tự đắc không kể xiết của chúng.

Trong mắt ông, đó là những kẻ xu thời, phụ thế trong buổi thực dân xâm chiếm nước

ta. Bài thơ “Con tôm” của Học Lạc đã mỉa mai những kẻ tự xưng mình là vương tôn,

công hầu nhưng hữu danh vô thực, nhân cách thấp hèn. Giọng thơ trào phúng của ông

nhẹ nhàng mà thật sâu cay vô cùng:

Chẳng phải vương công chẳng phải hầu

Học đòi đái kiếm lại mang râu

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

Miêu tả con tôm mắt đỏ bơi lội giữa dòng sông mênh mông xanh biếc, đôi càng

và bộ râu oai phong nhưng không biết trên đầu mình chứa tồn chất bã. Có thể nói, câu

thơ cuối là sự thể hiện đặc sắc nhất. Vì tác giả đã phơi bày "trí tuệ" của những kẻ hám

danh hám tài, dựa quyền ỷ thế hà hiếp dân lành. Những người bất tài nhưng lại giữ

quyền cao chức trọng. Tuy Học Lạc làm bài thơ này ở thế kỷ trước nhưng có thể nói,

đến nay khi đọc lại vẫn thấy giá trị của nó, dè bỉu và chê bai bọn hội tề thời phong

kiến nhưng thế hệ người đọc ngày nay vẫn hình dung và nhìn thấy đâu đó những kẻ

khóac lác, kém tài năng thường hay hợm mình trong xã hội. Trong thời đại nào cũng

có những kẻ mang thói xấu như vậy, chúng chỉ là những con tôm mà thôi.

Vì biết Học Lạc là người hay văn tốt chữ nên trong làng xã mọi người cử ông giữ

chức hương văn. Chuyện kể rằng, ngày xưa trong dân gian Nam Kì thường có tục cúng

xôi. Hàng năm, đến ngày Kì yên, các chức sắc trong làng mỗi người phải mang đến

85

đình làng một mâm xôi để tế thần. Tập tục này ngày nay một số vùng nông thôn ở

miền Nam vẫn còn giữ. Học Lạc từng nằm trong ngạch học sinh của triều đình nhà

Nguyễn trước đó nên đối với làng, ông cũng là một chức sắc. Vì vậy, ông phải tuân

theo lệ làng. Năm đó, Học Lạc cũng đội mâm xôi đến đình làng cúng như mọi năm.

Nhưng vì hay ngạo đời, mâm xôi của Học Lạc đem ra đình cúng thần linh chỉ ghi hai

chữ “Thằng Lạc” có ý phân biệt với mâm xôi của người khác thay vì phải ghi chức

sắc và họ tên. Thấy vậy, mọi người phật ý, cho rằng ông có vẻ ngỗ ngược, không tôn

trọng người khác. Trong làng lại có nhiều người vai trên chức tước, họ đã lấy cớ đó

quở trách Học Lạc. Họ ghép tội Học Lạc xấc xược, dám giễu cợt thánh thần, khinh khi

hương chức. Xong lễ Kì yên, họ bắt ông phải xin lỗi các hương chức. Lúc ra về, ông

đọc bài thơ ấy cho một vài người trong làng nghe, ai nấy đều tức cười và cảm thông

cho ông.

Vành mâm xôi, đề "thằng Lạc"

Nghĩ mình ti tiện không đài các

Văn chương chẳng phải bợm mèo quàu

Danh lợi không ra cái cóc rác,

Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông

Dám đâu vúc vắc ngạo cô bác,

Việc này dẫu có thấu lòng chăng,

Trong thời ông thần, ngoài cặp hạc.

(Tạ hương đảng)

Nhắc đến Học Lạc, người đời thường nhắc cả bài thơ này và ý nghĩa của nó.

Nhưng trước sự quở phạt của các hương chức, Học Lạc nghĩ mình chẳng có lỗi gì cả.

Bởi, ông luôn xếp mình vào hàng dân dã nên trên mâm xôi cúng thần không xưng

danh tánh long trọng. Hai câu cuối có ý khinh bỉ bọn hội tề dốt nát không hiểu ý của

mình, nếu có cũng chỉ là ông thần và đôi hạc đề thờ. Thần linh nào lại quở trách người

ngay thẳng, trung thực. Có chăng chỉ là những kẻ nịnh thần thích dựa vào thế giới linh

thiêng để sinh sự và ức hiếp người dân.

Tương truyền một hôm đi bắt mạch cho một người bệnh ở xa, lúc trở về trời đã

tối mịt. Học Lạc lỡ đường nên vào một quán cơm bên đường. Biết ông là người thông

86

minh, hay chữ nên chủ quán nhờ ông viết một câu liễn để dán trước cửa. Học Lạc vui

vẻ nhận lời và viết:

Mạc vị quán trung vô Phiến mẫu

Chỉ hiềm lộ thượng thiểu vương tôn

Nghĩa là:

Chớ cho rằng trong quán không có Phiến mẫu

Chỉ sợ là trên đường ít vương tôn.

Học Lạc muốn mượn tích Hàn Tín lúc trẻ chịu ơn Phiến mẫu để nói lên lòng biết

ơn của mình đối với những người đã giúp đỡ mình trong lúc khó khăn, hoạn nạn.

Đối với nhân dân bao giờ Học Lạc cũng vui vẻ chân thành và cởi mở như thế.

Nhưng đối với đám quan chức kiêu ngạo và hống hách trong làng ông luôn tỏ rõ sự bất

bình, căm ghét và luôn tìm cơ hội để đả kích chúng. Nhân có chuyện các gánh hát bội

thường thờ một ông tổ gọi là ông làng, Học Lạc đã làm bài thơ “Ông làng hát bội”

ngụ ý ám chỉ những ông hương chức của làng bất tài, vô học nhưng lại hống hách ức

hiếp dân chúng:

Chi chi trong khám sắp ngang hàng

Nghĩ lại thì ra các bợm làng

Trong bụng trống trơn mang cổ giữa

Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.

Những kẻ đứng đầu làng xã, Học Lạc chỉ xem chúng là “bợm làng” vì những

việc làm xấu xa của chúng với nhân dân.

Hình ảnh con trâu rất quen thuộc bên luống cày, trên đồng ruộng đi vào trong thơ

trào phúng của Học Lạc mang một ý nghĩa khác thật thâm thúy, đó chính là bọn cường

hào, hương chức, những kẻ “lớn đầu”, trong bụng chỉ lem nhem vài ba chữ nghĩa và

già đời chỉ biết nghé ngọ. Hình ảnh con trâu vốn dùng để chỉ những người cần cù, chất

phác, chịu thương chịu khó nhưng đến với thơ của Học Lạc, chúng như bọn tay sai,

quan lại của giặc chỉ có sức mạnh mà không có trí óc, dễ bị người khác sai khiến làm

điều khuynh hại:

Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,

Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.

87

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ

Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.

(Con trâu)

Trong bài thơ “Tức cảnh ban chiều” ở những câu thơ đầu chỉ là cảnh trời chiều,

nhưng đến đoạn cuối thì ý đồ của tác giả đã khác. Ông đã mượn hình ảnh của trẻ con

để ám chỉ và mỉa mai những kẻ lợi dụng thời cuộc ra tay áp bức dân lành, đứa làm

tướng, kẻ làm yêu. Ông nhìn đâu cũng thấy bóng quân thù, giặc ngoại xâm. Giặc giã ở

đây còn là nạn áp bức bóc lột, hình ảnh của bọn cường hào.

Ngó ra ngoài ngõ gió hiu hiu,

Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều

Hăm hở trẻ con đua múa hát

Đứa thì làm tướng đứa làm yêu.

Ngoài những bài thơ châm biếm chung chung cho tất cả các hạng người trong xã

hội, chúng ta còn có những vần thơ trào phúng khác của Học Lạc đả kích những thói

hư tật xấu của những tên quan lại được ông nêu đích danh . Ông đã nêu thẳng tên tuổi,

danh phận của bọn chúng ra để mà cười. Đó là tên quan thượng thư Nguyễn Kim Trì

“khôn khéo không ai dám sánh bì”. Ông ta chính là một kẻ hà tiện và tham ô khét

tiếng. Dù ông đã giữ đến chức đại thần như thế, nhưng hàng ngày vẫn bắt vợ con làm

bánh mang ra chợ bán. Không những vậy, ông Nguyễn Kim Trì còn bắt lính trồng trầu

ở trong dinh tổng đốc của mình để kiếm huê lợi.

Gói bánh bon chen bưng dưới chợ

Trồng trầu táy mót bán trong ty.

Ông ta chẳng nghĩ gì đến việc dân việc nước, chỉ thấy mưu lợi cho riêng mình.

Ngay cả người thân, vợ con cũng đối xử không ra gì. Qua bài thơ này, Học Lạc còn

phản ánh cuộc sống gia đình trong xã hội đương thời, vợ chồng có chức có quyền

nhưng xem nhau không ra gì.

Bề nhà vừa đủ cho vừa vợ

Việc nước hư nên chẳng kể gì

Cái án hạp binh nên xé thịt

Đành ăn hối lộ lại tha đi.

88

Bài “Vịnh quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn” cũng là một cái tát vào mặt kẻ

hộ đốc nhưng lại hèn hạ vô cùng.

Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn

Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan

Giặc tới Bến Tranh run lập cập

Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng.

Mưu thần trước biết ngang sông chắn

Kế giữ sau toan đóng củi hàng

Thất thủ muốn liều cho giữ tiết.

Ngặt vì con, vợ bận chưa an.

Sự mỉa mai sâu sắc nằm ở hai câu thơ cuối: quan Đô đốc cũng muốn làm người

anh hùng tuẫn tiết theo thành nhung vì còn bận phải cưu mang vợ con nên đành “tẩu vi

thượng sách”. Những vần thơ ấy của Học Lạc đã khiến vị quan “hùng dũng” Nguyễn

Công Nhàn trở thành kẻ hèn nhát đáng cho người đời khinh miệt.

Ngòai các bài thơ đả kích sự áp bức bóc lột, bộc lộ nỗi đau của người mất nước,

Học Lạc còn sáng tác nhiều thể loại thơ mang chủ đề khác. Ngay cả những ngày hành

nghề thầy thuốc, cây, hoa, lá, gốc, rễ… từ những bài thuốc gia truyền cũng đem đến

cho Học Lạc nguồn cảm hứng. “Bái ngụ đời” là một bài thơ mà mỗi câu là một vị

thuốc đồng thời mang tính hai nghĩa tỏ rõ sự yêu ghét của nhà thơ:

Căm thay loài mộc tặc

Giận mấy đảng vô vi

Bạc tiền lũ nó đương quy

...

Đạo quân vương tục đoạn vong tình

Niềm phụ tử nỡ sao bội nghĩa.

Với Phan Văn Trị, những thói hư tật xấu cũng không khác gì những kẻ cướp

nước và bán nước, tiếng cười trào phúng của ông cũng đả kích chúng, không cho

chúng cơ hội tồn tại trong xã hội. Là một người chính trực, không bao giờ chịu luồn

cúi để có địa vị, chức danh, ông khinh thường những kẻ đi nhờ cậy uy danh của người

khác để ngóc đầu lên.

89

Cha của Phan Văn Trị vốn quen biết Phan Thanh Giản, sau khi ông thi đỗ cử

nhân, cha ông có dẫn đến gặp Phan Thanh Giản để nhờ tiến cử. Phan Văn Trị tỏ ra

không đồng ý với việc làm đó của cha, ông không thích thú với bước đường công danh

bằng cách nhờ cậy vào kẻ khác. Trong khi bản thân có năng lực nhưng không chịu

luồn cúi để có chức có quyền, Phan Văn Trị đọc cho Phan Thanh Giản nghe bài thơ

“Con mèo” do ông làm với ngụ ý ám chỉ bước đường công danh sự nghiệp của nhiều

quan chức đương triều cũng như thế:

Mấy từng đài các sải chơn leo,

Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo.

Chợt ngảnh mặt hùm nhìn trực thị,

Chi cho lũ chuột dám vang reo.

Vuốt nanh sẵn có vàng khoe sắc,

Vằn vện đành không bụi đóng meo

Trăm tuổi hồn dầu về chín suối,

Nhắm lông để lại giúp trò nghèo.

Mèo là một giống vật lanh lẹ, uyển chuyển trong từng hành động. Với Phan Văn

Trị, bọn quan lại cũng giống như nó, khéo léo, giỏi tài nịnh hót để mưu cầu danh lợi,

địa vị cho bản thân. Khi đã bước đến mấy tầng đài các, chúng ngoảnh mặt nhìn trực thị

để ra vẻ oai nghiêm bệ vệ. Chúng chỉ là loài mèo nhưng cũng ra vẻ là hổ khoe nanh

vuốt như bọn quan lại kia khoe khoang địa vị do nịnh hót mà có. Ông lên tiếng đả kích

những kẻ phong lưu đài các nhờ thời mà gặp may nhưng thực chất thì vô tài bất trí. Đó

là một thói xấu rất phổ biến trong xã hội mà cho đến tận ngày nay vẫn chưa hề giảm

bớt.

Tương truyền, lúc còn trẻ, khi ra cố đô Huế, một hôm nhân đứng chơi bên bờ

sông Hương nhìn thấy có người lặn xuống sông để mò ốc, bắt cua khi nổi lên bị rong

quấn vào cổ, ông đã ứng khẩu đọc luôn hai câu thơ giễu cợt đầy thâm thúy:

Phú quý Trường An rong vấn cổ

Phong lưu kinh địa chấy đầy đầu .

Hai câu thơ vừa tả cảnh thực vừa nói lên thái độ của Phan Văn Trị. Ông coi kiểu

sống giàu sang, đài các của bọn phong kiến chỉ là dơ bẩn, bám vào đầu vào cổ dân

90

nghèo. Dưới con mắt ông, bọn vua quan nhà Nguyễn sống ở mảnh đất từng được xưng

tụng là "thần kinh" chỉ là một phường sâu mọt, một lũ chấy rận. Thơ là ứng khẩu,

nhưng là ứng khẩu trên cơ sở đã chiêm nghiệm, nghiền ngẫm. “Phú quý Trường An”,

“phong lưu kinh địa” rút cục cũng chỉ là những nơi nhơ bẩn. Qua đó, ngụ ý rằng, với

ông, công danh phú quý chỉ ràng buộc, gây cảnh mất tự do của con người. Vị lẽ này

mà con người suốt đời “nong nả dốc vun nền đạo nghĩa” như Phan Văn Trị đã tìm

cách lẩn tránh.

Trong bài “Ông táo”, Phan Văn Trị mượn chuyện ông táo để châm biếm thói xu

nịnh cúi luồn trong xã hội đương thời:

Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích

Lum khum đội chảo mặt đen sì.

Nhà thơ còn thẳng tay trừng trị những kẻ hống hách, cậy quyền, ỷ thế. Chuyện kể

rằng, tổng đốc Trần Bá Lộc nghe danh Phan Văn Trị nên khi đi qua Vĩnh Long đã cho

lính đòi ông đến, ý muốn trừng phạt thái độ ương ngạnh của ông. Hắn bắt ông ứng

khẩu làm một bài thơ nhưng khi Phan Văn Trị xin cho đầu bài thì hắn vốn thô lỗ,

buông ngay lời tục tĩu:

- Cục cứt!

Phan Văn Trị đứng đọc ngay bốn câu:

Đương cơn lộn xộn ló đầu ra

Người thấy ai mà chẳng sợ va!

Cậy thế khom lưng ngồi dưới đít

Biết đâu sắp bị chó liền tha!

Thơ đáp ứng đúng chủ đề, lời thơ mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền đi mượn

của viên tổng đốc. Nghe xong, Trần Bá Lộc xấu hổ quá nên liền lấy cớ đuổi ông về.

Vậy mới thấy tiếng cười của Phan Văn Trị thật lợi hại.

Trong mảng thơ trào phúng phê phán những thói hư tật xấu của xã hội phải kể

đến Nhiêu Tâm. Nhiêu Tâm là nhà thơ trào phúng có bản lĩnh, rất nhạy cảm với thế sự,

trước các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Vì thế, ngòi bút của Nhiêu Tâm đã

không ngại ngần lên tiếng giễu cợt, đả kích những thói hư tật xấu của người đời. Tiêu

91

biểu cho loại thơ này có các bài như “Chuyện đùa ông bá hộ Nọn”, “Trẻ cha già

con”...

Nhêu Tâm có người bạn làm tri huyện tên là Lê Chí Thành, ít học nhưng lại được

làm cai tổng rồi thăng lên tri huyện. Tuy đã già nhưng hắn lại có nhiều người hầu trẻ,

có người chỉ mới 15, 16 tuổi. Cha của họ chỉ dưới 40 kém xa ông huyện đến vài chục

tuổi. Để chế giễu sự lố lăng, mê gái của tên quan huyện. Nhiêu Tâm làm bài thơ

“Trẻ cha già con”, hàm ý lên án thói trăng hoa, thói đa thê của những người con nhà

giàu có, hoặc của các vị quan chức đương thời.

Của đời thấy vậy dửng dừng dưng

Cha trẻ con già ngộ quá chừng

Nọ nọ ông gia khờ khịt mặt

Này này chàng rể rụng trơn răng.

Ngoài tên Lê Chí Thành, Nhiêu Tâm còn quen biết ông bá hộ Nọn, ở làng Long

Châu, huyện Châu Thành, Vĩnh Long nhà giàu, thích giao du. Nhà bá hộ Nọn có nuôi

một thầy đồ dạy chữ nho. Ông thầy đồ từ miền Trung vào nghĩ rằng trong vùng không

ai giỏi văn thơ nên thường tỏ vẻ kiêu ngạo, khinh khi. Nhiêu Tâm rất tức, ông tìm cách

cho hắn ta một bài học. Nhiêu Tâm giả bộ đến thăm ông bá hộ Nọn dặn đừng cho hắn

biết ông là học sinh hay nhiêu học. Ông thầy đồ cho rằng Nhiêu Tâm “văn dốt võ dát”

nên coi thường. Nhân chuyện thơ phú, Nhiêu Tâm xin thầy cho đề tài để làm thử. Vốn

khinh khi tự phụ, ông đồ kiêu căng nói:

- Cục cứt! Đó, thơ thẩn gì thì thơ thẩn đi!

Nhiêu Tâm bình tĩnh ứng khẩu ngay:

Bao tử là cha, mẹ – ruột dồi

Đẻ không nên chỗ, để mày trôi

Chặt chân chẳng nỡ, thây nhằm đạp

Bịt mũi mà qua đã gớm rồi.

Chẳng chó, bắt mèo ngồi ứa mắt

Có tong cùng chốt rước tràm môi

Lẫn thay cho lão ngồi câu quẹt

Chấp chứa làm chi những giống hôi.

92

Nhiêu Tâm đả kích thói kiêu căng rởm đời của những kẻ tài hèn trí thấp nhưng

lại tự cho mình cái quyền được coi trời bằng vung. Bài thơ “Lỡm ông thầy đồ”

này của ông ra đời một cách ngẫu hứng, chỉ nhân ứng khẩu mà thành thi nhưng lại trở

thành một trong số những bài thơ được truyền tụng nhiều nhất cho đến nay.

Nếu Phan Văn Trị dùng hình ảnh cá thia thia để nói về những kẻ luôn tranh

gianh, đấu đá nhau thì Nhiêu Tâm cũng đã nhìn ra căn bệnh vốn tồn tại từ rất lâu và

ngày càng nặng hơn trong xã hội bấy giờ qua hình ảnh của cặp gà nòi. Với tâm lý

không muốn ai hơn mình, sự ghen tỵ đẩy con người thành kẻ hiếu thắng, bất chấp tất

cả để tính toán hơn thua với những người xung quanh. Tưởng chừng như “con gà tức

nhau tiếng gáy” không con nào chịu con nào, con nào cũng muốn cho tiếng mình to

hơn, vang hơn... là những chuyện cười ra nước mắt.

Bôi mặt đá nhau trời hỡi trời

Một vùng cát bụi giãy tơi bời

Cựa suôn máu đỏ tuôn đầy đất

Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi

Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy

Hai là giành xé hạt cơm rơi

Hơn thua tranh cạnh mà chi vậy?

Đồng loại như bay thật tréo đời.

(Đá gà nòi)

Cùng là đồng loại với nhau nhưng chỉ vì ganh đua, “giành xé” chút lợi ích mà

chúng đá nhau không thương tiếc. Nhiêu Tâm mượn chuyện của gà để nói về chuyện

của người. Đó không phải là thói xấu của một nhóm người đơn lẻ, mà nó phổ biến

trong cộng đồng.

Tính chiến đấu trong thơ trào phúng Nhiêu Tâm còn được thể hiện rất rõ qua

bài “bần phú luận”, một bài thơ dài tương truyền có đến 204 câu. Trên tổng thể, “Bần

phú luận” là bài thơ mang tính triết lý cao do tác giả đã lấy chuyện giàu nghèo ở đời,

một đề tài muôn thuở làm chủ đề chính mà luận bàn. Tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau mỗi

câu chữ chính là sự vạch trần những nỗi bất công và ngang trái trong xã hội:

Đã khắp trong luân thường đạo lý

93

Kẻ giàu sang vẻ mặt phương phi

Bằng đói khổ bần hàn cơ bẩn…

Nó còn là sự lên án gay gắt lối sống thực dụng tham phú phụ bần:

Anh em nghèo lại gọi người dưng

Kẻ khác họ tới lui thăm viếng

Khi thất thời miệng đuổi tay xô

Cơn đắc thế muốn bồng muốn ẵm...

Bài thơ không chỉ hay về mặt nội dung do ý nghĩa của nó luôn luôn là vấn đề

thời sự trong mọi thời đại. Chỉ tiếc rằng, bài thơ này mới chỉ tìm được 114 câu. Giữa

114 câu này cũng còn nhiều chỗ bị đứt đoạn. Gần đây, các nhà nghiên cứu còn tìm

thấy năm bài thơ, trong đó có bài “con ếch” của Nhiêu Tâm được in trên báo “Nông

cổ mín đàm” số 245 và 254, xuất bản năm 1906 châm biếm, giễu cợt loại người hời

hợt, nông cạn ở đời.

Dân tộc nào, con người vùng nào cũng có những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu và

đương nhiên cả những tính xấu. Người Nam Kì cũng vậy. Qua những bài thơ trào

phúng, châm biếm của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh, những thói hư tật xấu được họ

vạch ra hẳn làm nhiều người không mấy dễ chịu. Tuy nhiên, cách hiệu quả nhất để loại

bỏ những tính xấu là công khai những thói xấu ra để người đời soi vào đó mà sửa. Đây

là một sự dũng cảm, một bản lĩnh mà không phải ai cũng có được. Nó cho thấy cái tâm

của các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì với đất nước, với vận mệnh của dân tộc.

2.2. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh

Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm, thơ ca trào phúng của các nhà thơ Nam

Kì còn mang sắc thái hài hước, hóm hỉnh. Có thể nói, không dân tộc nào có nhiều từ

ngữ chỉ những tiếng cười độc đáo có sắc thái khác nhau như dân tộc Việt: "cười

trừ","cười đểu", cười nhạt ","cười gằn", "cười nịnh", "cười nửa miệng", “cười cầu tài”,

“cười khúc khích”, “cười ha hả”... Đối với các nhà thơ Nam Kì, tiếng cười hài hước,

hóm hỉnh ấy là tiếng cười của niềm lạc quan yêu đời, là sản phẩm của óc hài hước và

trào lộng. Tiếng cười đó cũng là một cách để quên đi những bộn bề lo âu vất vả của

cuộc sống hàng ngày, làm cho cuộc sống của con người phong phú hơn, xua tan được

phần nào vất vả, lo âu, là liều thuốc giải trí hữu hiệu. Và quan trọng hơn đó chính là

94

thế giới tâm hồn của họ: bình dị, tình cảm, sâu sắc, thông minh, hóm hỉnh mặc cho

cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan, đất nước đang trong cơn chiến chinh lửa đạn

nhiều mất mát, đau thương.

2.2.1. Tiếng cười tự trào với cái nhìn lạc quan, đa chiều về cuộc sống

Tự trào là biết tự cười về các nhược điểm của cơ thể, thói hư tật xấu, quá trình

của bản thân, hoàn cảnh của mình, biết tự giễu cợt các thiếu sót, biết đùa bỡn về các

tin đồn, biết giải thích dí dỏm, hóm hỉnh về sự thành công hay vai trò của mình… Tất

cả được thể hiện bằng các câu nói, câu chuyện tự trào đúng lúc, đúng chỗ làm người

nghe bật cười sảng khoái, tạo ra bầu khí vui vẻ hoặc làm không khí bớt nặng nề,

nghiêm trọng, giúp ta hoặc người khác thoát khỏi tình thế khó xử. Tiếng cười tự trào

cũng là tiếng cười lạc quan yêu đời của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh. Họ đã lấy chính

cái xấu của mình để giễu cợt một cách hồn nhiên, hóm hỉnh. Dù cuộc sống còn rất

nhiều điều đáng bận lòng nhưng họ đã vượt lên để sống một cách lạc quan bằng cách

"thi vị hóa" cuộc sống của mình.

Mảng thơ tự trào trong các sáng tác của các nhà thơ trào phúng đất Nam Kì cũng

chiếm một vị trí không nhỏ. Đôi khi nó cũng là tiếng nói đầy chua xót, tự chế giễu

chính bản thân mình khi bất lực trước hoàn cảnh thực tại.

Huỳnh Mẫn Đạt suốt một đời làm quan của mình chỉ biết lo cho dân, cho nước,

đến khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, ông một mực liêm khiết, trung

thành với tổ quốc nên thà bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, không chịu sống trên vùng đất của

giặc cai trị. Ông khổ tâm rất nhiều vì không giúp ích gì được cho dân cho nước, ông

cười mình giờ đây chỉ như một con “chó già”, “trâu già” không hơn không kém, bất

lực trước thời cuộc. Ông không phải tự hạ thấp mình,mà ông cười mình để giải

thoát khỏi tâm trạng bí bách dồn nén trong lòng: là một vị quan nhưng lại không

giúp gì được cho dân cho nước trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại bang

xâm chiếm.

Tuy rằng muông cẩu có ơn ba,

Răng rụng lâu năm nó phải già.

Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,

Vì lo khỉ Sở mới dun da.

95

Không ai trấn bắc ngăn bầy cáo,

Ít kẻ ngừa tây giữ đứa tà.

Mạnh mẽ như xưa còn hớn hở,

Bây giờ yếu đuối hết xông pha.

Than thở cho tuổi già không phải là chuyện hiếm có trong thơ văn của các nhà

nho. Huỳnh Mẫn Đạt cố tình khoe khoang cái sự già nua lẩm cẩm, vô dụng của bản

thân. Ông tiếc nuối vì quỹ thời gian còn lại quá ít mà đại sự thì chưa làm được bao

nhiêu. Đây có lẽ là tiếng kêu than, nuối tiếc vô vọng sau suốt một đời trung tín. Ông

cho rằng, tuy chó có ba ơn trung, tín và trí nhưng sống lâu năm rồi nên nó phải già đi.

Suốt đời vất vả “đuổi hươu Tần”, bây giờ đã mỏi gối, “lo khỉ Sở” nên đã “dun da”.

Bây giờ già rồi nên không còn được hăm hở, mạnh mẽ như xưa nữa. Đó còn là những

suy tư, trăn trở, những nỗi đau trong trái tim của nhà thơ.

Trải chốn quan trường, đến giờ chỉ còn lại “một nhắm xương, một nhắm da”,

ông ngẫm lại đời mình thấy rằng “bao nhiêu cái ách đã từng qua”. Giờ đây, tuổi già

đã đến, cho nên:

Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đơn hỏa,

Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.

Sớm dạo nội sằn đi khấp khởi,

Tối về tử lý thở hi ha.

(Trâu già)

Huỳnh Mẫn Đạt giễu mình, bôi xấu mình là để giải thoát bản thân. Thơ tự trào

của ông giống như một liều thuốc giảm những nỗi niềm đè nặng trong lòng ông. Nó

vẫn mang phong vị kiểu tự trào của các danh nho xưa. Ông chủ động liệt kê và cường

điệu những biểu hiện khuyết tật, già yếu của mình:

Kể từ hội sửu đã sanh ra,

Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.

Mấy chốn Kì thần ra sức cả,

Đòi nơi bái xã rán thân già.

Rửa tai vĩnh thủy nhường ngôi báu,

Cởi ách đào lâm biếng gác xa.

96

Tề chúa bôi chuông còn chẳng nỡ,

Có đâu khó nhọc với nông-gia

(Trâu già)

Tự cho rằng mình là con người xấu xí, già nua, vô tích sự, sự phủ định ấy chỉ là

con đường giải thoát cho tâm trạng con người thật của ông và con người thật của ông

chính là con người khẳng định với biết bao chí lớn, với biết bao nỗi niềm tha thiết với

nước non. Ông đã giễu mình với giọng điệu chua chát. Nhưng càng chua chát bao

nhiêu thì càng chứng tỏ phẩm chất cao đẹp của nhà thơ bấy nhiêu.

Hầu như nhà thơ nào cũng có một vài bài tự trào, tự thuật. Trong nụ cười mang

tính chất tự tiếu và tiếu ngã ấy các nhà nho đã đem bản thân ra làm đối tượng để cười:

cười bản thân mình để tự răn mình tránh vấy bẩn những điều ô trọc. Học Lạc qua bài

thơ “Ăn tiên lầu ở Mỹ Tho” cho rằng bây giờ ai ai cũng đều mê mệt trong chốn ăn

chơi ở đời, lo ăn đồ Tàu, uống rượu Tây không còn nghĩ đến việc quốc gia nữa. mọi

người đều bị bả vật chất làm cho mê mệt. ông cũng đã tự đắc rằng chỉ có mình ông

“tỉnh đặng mà”.

Dễ muốn ăn chơi thế vậy à ?

Người đời thấm thoắt ngựa câu qua

Tháng ngày thoi trở năm càng thúc

Tơ tóc sương bay tuổi đã già

Khiển hứng no nê mùi Quảng Tống

Tiêu sầu chuếnh choáng rượu Lang Sa

Trải xem ai nấy đều mê mệt

Há dễ mình ta tỉnh đặng mà!

Ngoài những lúc nâng mình lên như thế, Học Lạc có lúc lại đưa mình ra để cười

cợt, chế giễu, hạ bệ bản thân bằng cách phóng đại những mặt trái, những mặt hạn chế,

những thói hư tật xấu của mình, trưng bản thân ra cho mọi người thấy mình như một

kẻ vô tích sự, một kiểu người thừa trong cả gia đình và xã hội. Ngoài thơ trào phúng,

Học Lạc còn sáng tác cả ca trù, trong đó có một bài ông tự nói về bản thân mìnhvới lối

trào lộng hí hoạ, bằng cách tự chế giễu, bôi xấu mình. Mọi khía cạnh con người ông

đều trở nên xấu xí. Ông không hề ngần ngại khi nói về bản thân một cách trực diện:

97

Năm kỷ sửu tuổi vừa bốn tám,

Lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm.

Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm,

Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ.

Thân hạt lúa nổi chìm trên mặt bể,

Cánh chim hồng cao thấp dưới chân trời.

Thôi từ đây đến năm mươi, sáu, bảy, tám, chín, mười mươi.

Già một kiếp, cũng ngày tàn cho mãn kiếp.

Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp,

Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.

Nhưng mà lúc thiếu niên đã lỡ bước thanh vân,

Giờ lão cảnh phải an bề bạch bố.

Say dựa gối ngâm thơ cho vợ ngủ,

Buồn chong đèn đánh kiệu với con chơi.

Gia đình này đã sẵn có thú vui,

Lọ là phải Nam, Bắc thương hoàng cho nhọc xác.

Nhìn thế sự nay đà đổi khác,

Ngẫm bất tái nên há dễ bôn chôn.

Co tay một giấc hành môn.

Không phải ông bôi xấu mình là để đề cao mình như trong thơ tự trào của Huỳnh

Mẫn Đạt. Ông bôi xấu mình như là để giải thoát bản thân với nụ cười hóm hỉnh nhưng

không kém phần ý nhị. Bằng cách xem xét lại bản thân để tự cười mình, Học Lạc tự

thấy sự bất tài vô dụng “lão cảnh phải an bề bạch bố” . Nhưng việc tự cười mình an

phận thủ thường, “ngâm thơ cho vợ ngủ”, “ chong đèn đánh kiệu với con chơi” cũng

là một dụng ý của nhà thơ. Ông tỏ sự khinh bỉ của mình với xã hội đương thời. Thời

đại của ông là thời đại thoái trào, nhân dân ta đang chịu ách một cổ hai tròng. Vì thế,

tự trào là cách mà ông bày tỏ thái độ của mình trước thời cuộc.

Tự trào thường kéo theo sự mỉa mai, châm biếm, giễu cợt kẻ khác. Học Lạc trong

bài thơ “Tạ hương đảng” đã tự hạ bệ mình, hạ thấp danh phận, thân thế của mình

không thường tiếc:

98

Vành mâm xôi đề “thằng Lạc”

Nghĩ mình ti tiện không đài các

Văn chương chẳng phải bọn mèo quào

Danh phận không ra cái cóc rác.

Khi tự hạ bệ bản thân là ti tiện, không đài các như bọn quan lại hương chức trong

làng, mình chỉ là “cái cóc rác” cũng có nghĩa là Học Lạc xác nhận mình không còn

nhân danh quân tử để nhìn xã hội. Trong mắt ông, đó chỉ toàn là bọn giả dối, nịnh bợ.

Ông ngay thẳng, sống thật với bản thân, tự xem bản thân không ra gì để chửi khéo bọn

hương chức: chúng mới chính là những kẻ ti tiện, đồ cóc rác vào bậc nhất. Tự trào

bằng cách tự chế giễu bản thân, không phải là Học Lạc muốn ngầm đề cao bản thân

mình. Tiếng cười của ông có mục đích, đối tượng rõ ràng. Ông chế giễu cái dốt nát,

nhếch nhác, thảm hại của bọn hương chức phong kiến, chế giễu tính giáo điều, lễ

nghĩa trịch thượng của chúng. Bằng kiểu tự trào phủ định, Học Lạc đã chế giễu, đã phê

phán tính chất hủ lậu của kẻ sĩ phong kiến và phủ nhận cả những khuôn phép lỗi thời

của xã hội phong kiến.

Ở Huỳnh Mẫn Đạt, dù là tự trào trực tiếp hay kín đáo thì thơ ông lúc nào cũng

thể hiện rõ hình ảnh của một nhà nho đang tự cười mình. Đó là nụ cười nhỏ nhẹ mà

chan chứa suy tư lo lắng. Khác với Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc trong kiểu tự trào không

thấy có giọng thâm trầm, kín đáo mà luôn thẳng thắn. Ông trực tiếp cười mình một

cách hả hê, khi thì phủ định, lúc lại ngông ngạo. Là một nhà thơ tài hoa có học vấn

nhưng không hợp thời nên con đường công danh hoạn lộ không thành. Ông cũng

không nằm trong mẫu người an phận, thủ thường, không chấp nhận sự nhiễu nhương

lố bịch của xã hội. Học Lạc tiếp nối truyền thống cười trong truyện dân gian, trong ca

dao nhằm đả kích cái thế sự đương thời.

Tự trào xuất hiện như một thể tài đặc biệt trong thơ Nôm Đường luật cuối thế kỉ

XIX - đầu thế kỉ XX. Trong những giai đoạn trước nụ cười chúng ta bắt gặp chỉ là

những nụ cười chế giễu nhẹ nhàng mà thâm thúy. Nụ cười tự trào, tự phủ nhận dường

như là đặc sản của thơ giai đoạn này. Cảm hứng này bắt nguồn từ sự cảm nhận về cái

bất lực ở một con người luôn ý thức. Giận mình sao quá ư kém cỏi, tầm thường, chằng

99

làm được gì trước cảnh nước mất nhà tan, huống hồ mình cũng từng sinh ra nơi cửa

Khổng sân Trình, một con người khoa giáp.

2.2.2. Tiếng cười quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng ngày

Từ bao đời, cuộc sống của dân gian ta vốn lao lực khó nhọc suốt tháng quanh

năm, cho nên, gặp được những lúc ngừng tay, nghỉ việc, hoặc những ngày vì thời tiết

mà không ra đồng được, họ thường tập họp nhau lại để kể cho nhau những chuyện vui

cười, để xả hơi, cho quên bớt mỏi mệt, hay để giải trí cho vui cửa, vui nhà giữa thân

thuộc, bạn bè. Đó là một nhu cầu như bất cứ nhu cầu nào khác, một giải trí không tốn

kém gì, đồng thời còn là một niềm an ủi cho cuộc sống lam lũ mệt nhọc của dân quê.

Nụ cười sẽ xóa bớt lo âu, phiền não của gánh nặng cuộc sống. Bên cạnh việc thể hiện

tình cảm của quần chúng nhân dân, những bài thơ trào phúng còn là tiếng cười sảng

khoái của người lao động. Tiếng cười ấy nhằm xoa dịu bớt những đắng cay, vất vả

trong cuộc sống hàng ngày.

Với con người Nam Kì Lục Tỉnh vốn đã phóng khoáng cởi mở thì tiếng cười

càng trở nên quan trọng với họ. Quá trình trải bao khó khăn, vất vả để khai hoang lập

làng trên vùng đất mới đã hình thành nên tính cách vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Kế thừa

truyền thống cũng như kết hợp nhuần nhuyễn đặc trưng của người Nam Kì Lục Tỉnh,

Học Lạc và Nhiêu Tâm đã sáng tác những vần thơ trào phúng có giá trị, bộc lộ rõ nét

tính cách con người của mình.

Học Lạc vốn thông minh, học giỏi, tính tình vui vẻ, khí khái, hòa nhã và thân mật

với mọi người. Trong hoàn cảnh nào ông cũng lạc quan, yêu đời. Những vần thơ của

ông cũng khiến những con người đang gặp phiền não cũng phải cười tươi.

Dù không đỗ đạt, nhưng với danh vị "học sinh " do triều đình nhà Nguyễn phong

tặng, xem ra Học Lạc cũng khá “oai”, một chức sắc ngang hàng với xã trưởng ở Nam

Kì và lý trưởng Bắc Kì thời ấy. Nếu là người khác, Học Lạc có thể dựa địa vị này để

tìm một vị thế trong làng cũng chẳng thua ai. Nhưng ông lại luôn thể hiện tính cách

của một nhà Nho khí khái, trực tính. Vì vậy, các hương chức trong làng rất ghét ông

mà không biết làm thế nào để hãm hại. Thời ấy, cùng làng với Học Lạc có ông Nhiêu

Dự cũng là một nhà nho. So với Học Lạc, ông này kém hơn rất nhiều về tài và đức.

Ông ta cố giành giật được chiếc ghế hương chức. Học Lạc và hương chức Nhiêu Dự

100

rất ghét nhau, luôn chống đối nhau. Một hôm, người nhà của một bệnh nhân đến rước

Học Lạc về bắt mạch Trên đường đi, Học Lạc phải dừng lại can ngăn đám trẻ đang

xúm lại đánh một người Trung Hoa có tuổi để giật tiền. Bất thình lình, các hương chức

trong làng xuất hiện, họ bắt tất cả mọi người vào nhà việc đóng trăng. Học Lạc bị bắt

đóng trăng giữa đình làng. Được dịp, bọn hương chức có một trận cười hả hê nhưng

Học Lạc lại dửng dưng, ung dung đến độ bọn quan lại ấy phải bất ngờ. Đang lúc chịu

phạt, Học Lạc nhìn sang bên cạnh thấy người Trung Hoa bị trói có khuôn mặt buồn bã

và lo âu. Ông liền xuất khẩu ngay bài thơ “ngồi trăng” và ngâm tặng cho người xa lạ

kia như để xoa dịu mọi ưu phiền:

Hóa ở An Nam, lứ khách trú

Trăng trói lằng nhằng nhau một lũ

Ngoài mặt ngỡ ngàng lẽ Bắc, Nam

Trong tay, cắc cớ xui đoàn tụ.

Bợm làng chẳng vị sĩ năm kinh

Ông bổn không thương người bảy phủ.

Phạt tạ xong rồi trở lại nhà,

Hóa thời hốt thuốc, lứ bông vụ.

Học Lạc nhìn mọi việc với con mắt lạc quan, yêu đời. Ông khuyên người Hoa

cùng bị đóng trăng với mình không cần phải lo lắng, bởi: “phạt tạ xong rồi trở lại

nhà” ai làm việc nấy. Có lẽ, khi nghe xong bài thơ, người bị đóng trăng kia sẽ có cái

nhìn lạc quan và vui vẻ chấp nhận như ông.

Năm kỷ sửu tuổi vừa bốn tám,

Lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm.

Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm,

Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ.

Với giọng thơ hóm hỉnh, hài hước, Nhiêu Tâm cũng đã viết nên những vần thơ

trào phúng rất tự nhiên. Những bài thơ như “Ghẹo gái bán cau”, “Lỡm ông thầy

đồ”,... đều gắn với những con người thật, việc thật xuất hiện hằng ngày trong cuộc

sống của ông. Tiếng cười được ông buông ra làm vơi đi những mệt mỏi trong công

việc, làm cho người gần người hơn nên chúng được truyền tụng trong dân gian.

101

Nhiêu Tâm có người bạn là bá hộ Nọn. Ông Nọn thì giàu có, còn ông thì nghèo

nên thường lánh mặt, không muốn năng đi lại. Một hôm Nhiêu Tâm tình cờ gặp bá hộ

Nọn. Hai người tay bắt mặt mừng vui vẻ. Nhân ông Nọn hỏi về đời sống, nhà thơ ứng

khẩu đọc luôn:

Thấy anh tôi nghĩ lại tôi buồn

Tôi khó anh giàu đã hóa muôn

Anh vậy tôi vầy trời khiến vậy

Chúc cho con cháu vậy luôn luôn.

Bài thơ chơi chữ thật độc đáo. Chữ “muôn” chỉ số nhiều và người miền nam phát

âm cũng giống như chữ “muông” là thú vật (con chó). Bên cạnh đó, lối nói ỡm ờ

“vầy”, “vậy” hàm ý xỏ xiên thật thâm thúy mà đối phương không thể nào bắt bẻ, đành

phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”.

Với bài thơ “Làm trời khó”, Nhiêu Tâm đã “hiểu” cho trời, bất kể ai khi gặp việc

gì cũng kêu trời, làm trời cũng thật khó chứ chẳng phải sung sướng:

Giữ chức Thiên hoàng khó phải chơi

Thế gian muôn sự cứ trời ơi

Mưa dầm bão lụt kêu khan tiếng

Nắng hạn khô khan réo hết lời

Bất hiếu, giận con, kêu mắng vốn

Vô tình đạp phẩn lại thỉnh coi

Làm trời còn khổ vì thiên hạ

Hà huống gì ta sống ở đời.

Đối với Nhiêu Tâm, làm trời - đấng tối cao mà còn phải chịu bao nhiêu cớ sự, ta

sống ở đời như vậy là tốt rồi, không có gì phải kêu rên. Tiếng cười của ông thật khiến

người ta trở nên vui vẻ, quên bớt sầu muộn để sống lạc quan hơn.

Vốn tính khôi hài, hay giễu cợt nên cuộc sống của Nhiêu Tâm luôn tràn ngập

tiếng cười. Gặp việc gì, ở đâu, Ông cũng có thể làm thơ ngâm vịnh và châm biếm,

mang lại những tràng cười không dứt. Người ta kể lại, một hôm Nhiêu Tâm ngồi trong

nhà nói chuyện với bạn thì nghe tiếng một người con trai chọc ghẹo cô gái bán cau

102

ngoài ngõ. Thấy thế người bạn liền bảo ông làm một bài thơ tức cảnh. Nhiêu Tâm xuất

khẩu thành thơ, hay cả lời lẫn ý:

Hỡi cau ai bán, tiếng nghe rao?

Tốt vóc, mà trong biết thế nào?

Giấu ở trong buồng e đóng đục,

Bày ra trước mặt thấy ngon dao!

Quyết mua nên phải coi từ vú,

Có bán thì cho thử cái nào!

Chuốt ngót của mình ai dám chắc,

Biết lòng biết ruột xỉa tiền trao!

Ông chọc ghẹo cô gái bán cau thật ý nhị, hài hước. Tuy bên ngoài đẹp như vậy

nhưng bên trong thì không biết có được như cái vẻ ngoài, phải cho thử để biết cau có

ngon không. Có lẽ, cô gái bán cau kia sẽ ngại ngùng đỏ mặt trước sự chòng ghẹo của

nhà thơ.

Nhiêu Tâm còn có một số bài thơ vừa trữ tình lại vừa trào lộng rất thú vị, ai đọc

cũng phải mỉm cười bởi hoàn cảnh của những người đa tình được nói đến trong thơ.

“Đêm nằm tơ tưởng tưởng mơ, chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không” là một bài thơ

như thế:

Mối tình ai để rối như tơ

Tỉnh giấc chiêm bao tỉnh dậy rờ

Hiệp mặt còn mơ đào thớ thớ

Xẳng tay hồi tỉnh lát trơ trơ

Ngỡ là hương lửa đang nhen nhúm

Hay mỗi trăng hoa khéo phỉnh phờ

Chớp nhoáng bóng loan vừa nháy mắt

Trêu ngươi cắc cớ hỡi ông tơ.

Hay bài “Đôi ta chẳng mốt thì mai, chẳng trong tháng chạp cũng ngoài tháng

giêng” cũng là một bài thơ vô cùng hóm hỉnh, duyên dáng, thể hiện phong cách rất

“Nhiêu Tâm” với bộ vần độc đáo “xô cô vô ô rô”:

Đây đó trăng già khéo giục xô

103

Chẳng chày thì kíp vội chi cô?

Ngày kia bữa nọ duyên đầu lãng

Đông cuối xuân đầu lễ bước vô

Có thuở chim cưu nằm tổ thước

Lo gì sông Hán bắt cầu ô

Góc thành lẩn thẩn chờ ta vậy

Chớ giống chim thuần giống nhảy rô.

Học Lạc và Nhiêu Tâm đều là những nhà thơ có tính cách vui vẻ lạc quan, yêu

đời. Tính cách ấy đi vào trong thơ trào phúng của họ thật tự nhiên. Đó cũng chính là

liều thuốc quý để giúp họ quên đi những bộn bề của cuộc sống. Trong hoàn cảnh nước

mất nhà tan, những nụ cười ấy càng thêm giá trị. Nó giúp họ có thêm niềm tin để vượt

lên hoàn cảnh, vui sống để giúp người, giúp đời. Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm

vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống. Trong cuộc sống đầy áp lực, thêm một

người biết tự trào, bớt nghiêm nghị, dường như khiến cuộc đời trở nên dễ sống hơn mà

vẫn không mất đi ý nghĩa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể phá lên cười thật

lớn như hai nhà thơ đất Nam Kì này thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Nó

chính là hơi thở không thể thiếu trong sinh hoạt của người bình dân.

Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm thì tiếng cười hài hước, hóm hỉnh cũng

là tiếng cười chủ đạo. Tiếng cười trong thơ trào phúng của các nhà thơ đất Nam Kì quả

thật đã chứa đựng nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa trong xã hội phong

kiến. Tiếng cười ấy phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết vượt lên

hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó khăn thực tại để lạc quan yêu đời.

Tiếng cười ấy là sức sống tâm hồn khỏe khoắn của những con người luôn ý thức giá trị

bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.

104

Chương 3. NGHỆ THUẬT THƠ HIỆN THỰC TRÀO PHÚNG

NAM KÌ LỤC TỈNH CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX

3.1. Thể loại, thủ pháp nghệ thuật và các biện pháp tu từ

3.1.1. Sự kết hợp giữa “yếu tố Nôm” và “Đường luật” trong thơ bát cú

Có thể dễ dàng nhận thấy, hầu hết thơ trào phúng của các nhà thơ đất Nam Kì

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú

Đường luật.

Thời kì trung đại, cùng với chế độ phong kiến phát triển rực rỡ thì ảnh hưởng của

Nho học cũng trở nên sâu sắc, thể hiện trong mọi mặt của đời sống. Có trước trong nền

văn học thành văn ở nước ta là văn học viết bằng chữ Hán, thành dòng từ thế kỷ X, với

lực lượng sáng tác là tầng lớp tri thức phong kiến, và hầu hết được viết theo các thể

loại văn học Trung Quốc. Văn học chữ Hán, trong đó có thơ Đường luật có phạm vi

đề tài rất rộng, từ những vấn đề chung của dân tộc đến vấn đề riêng của con người;

vừa giàu tinh thần nhân đạo, vừa rất phong phú về chủ nghĩa yêu nước. Song, vì viết

bằng chữ Hán nên những tác phẩm này bị hạn chế khi cần phản ánh hiện thực sinh

động và cụ thể của đất nước Việt, tâm tư sâu xa, thầm kín của con người Việt. Bước

sang thời Kì tự chủ bắt đầu vào thế kỷ X, chữ Nôm được hoàn chỉnh dần và mãi

đến thế kỷ XIII, chữ Nôm mới có đầy đủ khả năng để trở thành thứ văn tự dùng trong

sáng tác văn chương. Từ đó, với lòng tự hào dân tộc, chữ Nôm được sử dụng và phát

triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Ngay trong lúc có thể vận dụng thể

văn và văn tự Trung Quốc để hiểu hiện tình cảm và tư tưởng,, nhiều nhà thơ chúng ta

vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc và cá tính của con người sáng tác.

Sự xuất hiện “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi vào đầu thế kỉ XV chính là tập đại

thành, khẳng định vị trí của chữ Nôm trong sáng tác của các nhà Nho. Như đã nói ở

phần trên, lực lượng sáng tác của thơ trào phúng bấy giờ là các nhà Nho, họ đã dùng

công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc.

Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, cùng với những biến động về lịch sử, ý thức

dân tộc lại một lần nữa được đề cao. Các nhà thơ đã dùng thứ ngôn ngữ dân tộc để nói

lên tâm sự mất nước của mình, đồng thời bày tỏ những cái nhìn đa diện về hoàn cảnh

105

đất nước. Với thể loại thơ trào phúng, các nhà thơ đất Nam Kì sử dụng và mang đến sự

nhuần nhuyễn trong cách thể hiện, nói lên tiếng nói cá nhân trước vận mệnh đất nước.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, ảnh hưởng của Đường thi cùng với những đặc điểm ngôn

ngữ của nó vẫn còn khá sâu sắc, văn thơ của họ vẫn chưa thoát khỏi hệ thống thi pháp

trung đại.

Trong nhiều thê kỉ qua, Đường thi vẫn được coi là tiêu biểu cho đỉnh cao của thơ

ca cổ điển Trung Quốc. Ảnh hưởng của nó rộng khắp các nền văn hóa Châu Á, nhất là

Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam... Có thể nói, tinh hoa Đường Thi đã thấm sâu vào

mạch nguồn thơ ca dân tộc Việt Nam, trở thành vốn văn hóa không thể nào phủ nhận.

Thi cử thời xưa, mọi nhà Nho đều phải biết làm thơ Đường luật. Thật ra, khi tiếp nhận,

nhà thơ Việt Nam đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa là tiếp nhận với tinh

thần độc lập, sáng tạo, làm cho thơ Đường luật thấm đượm tinh thần Việt, phù hợp với

nền văn hóa dân tộc. Thơ Đường luật trong quá trình thâm nhập và phát triển của lịch

sử văn học Việt Nam đã xây dựng cho mình một chỗ đứng vô cùng vững chắc.

Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các nhà thơ đã làm

giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay

bổng trong từng câu thơ. Có thể nói, Nguyễn Trãi là người đã mở đầu con đường Việt

hóa thơ Đường còn Hồ Xuân Hương chính là người tạo nên bước ngoặt lớn đưa thơ

Nôm Đường luật ở nước ta đi vào con đường Việt hóa hoàn toàn ở thế kỉ XV. Cho đến

cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thơ Nôm Đường luật vẫn giữ một vị trí quan trọng.

Trong thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh, nó trở thành thứ công cụ, vũ khí tác chiến lợi

hại được các nhà thơ sử dụng một cách nhuần nguyễn.

Sở dĩ thơ Đường luật được các nhà Nho sử dụng phổ biến như vậy là do thể thơ

này phù hợp hơn cả với việc diễn tả con người đạo lí, con người nhân cách theo quan

niệm Nho giáo. nhưng những trí thức thời này đã mạnh dạn từ bỏ phong cách quý

phái, đài các, cung đình với những điển tích ước lệ sáo mòn để trở về với tình tự cội

nguồn dân tộc Việt Nam một cách sinh động và đầy sáng tạo.

Trong thơ hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ

XX có hai hệ thống ngôn ngữ một gần với Đường thi và một lại xa lạ với Đường thi

nhưng lại gần với văn học dân gian, với đời thường rất Việt Nam. Trong thơ ca trào

106

phúng cũng xuất hiện hai xu hướng vận động: Vừa kế thừa, tiếp biến thơ Đường, vừa

có những tìm tòi, sáng tạo trên cả bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật để khẳng

định bản sắc dân tộc. Tinh thần dân chủ hóa, dân tộc hóa thể loại phù hợp với tâm thức

cảm nhận của người Việt. Thơ trào phúng Nam Kì là thơ Đường luật nhưng được vận

dụng một cách linh hoạt, phóng khoáng, không nhất định theo quy ước khắt khe,

khuôn sáo của thể thơ này. Nó mang tính cách đặc trưng của những con người nơi

vùng đất mới, phóng khoáng, tự do hơn. ở những bài thơ là sự cách tân mới mẻ về

phong cách ngôn ngữ cũng như cách thể hiện.

Đề tài, chủ đề trong thơ Đường luật Nam Kì Lục Tỉnh rất phong phú, đa dạng,

vừa kế thừa thơ Đường luật truyền thống ở các phương diện đề cập đến lòng yêu nước,

chuyện đời, chuyện người, chuyện thế thái nhân tình hay những câu chuyện về đạo

nghĩa nhà Nho. Ngoài ra nó còn đề cập đến những phương diện khác mà trước đây

chưa từng đề cập. Nói chung, thơ Đường luật của vùng đất Nam Kì giai đoạn này phản

ánh mọi mặt của đời sống từ những tâm trạng riêng tư của con người cho đến nhưng

vấn đề lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc. Những đề tài, chủ đề trong thơ trào

phúng Nam Kì Lục Tỉnh đã xuất hiện những biểu tượng nghệ thuật mới bắt nguồn từ

cuộc sống đời thường dân dã, in đậm phong cách thời đại và phong cách người cầm

bút như: con mèo, con rận, con muỗi, cối xay, hạt lúa... trong thơ trào phúng của Phan

Văn Trị; Con trâu, con tôm, con chó,...trong thơ Học Lạc với cách thể hiện vô cùng

thú vị. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ trào phúng của họ đã trút bỏ hoàn toàn những

khuôn mẫu có sẵn của thơ Đường luật để tìm đến những biểu tượng của đời sống, thể

hiện vẻ đẹp của thể thất ngôn bát cú trong việc phản ánh hiện thực. Có thể nói, đề tài,

chủ đề của thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh từ hướng nhiều vào mục đích chở đạo,

giáo huấn đã chuyển dần sang mục đích phản ánh cuộc sống, xã hội, thời đại và số

phận con người.

Điều làm nên sự thú vị và hấp dẫn của những bài thơ trào phúng theo thể thất

ngôn bát cú Nam Kì chính là việc sử dụng những từ ngữ mang tính quần chúng, nôm

na, bình dị. Từ đó, nó dễ dàng đi vào lòng người, được quần chúng nhân dân đón nhận

một cách nồng nhiệt. Nó đã phá vỡ truyền thống khuôn sáo, cầu Kì, ước lệ vốn là đặc

trưng của thể loại. Chưa bao giờ trong thơ Đường luật xuất hiện hàng loạt các từ ngữ

107

mang tính địa phương như trong thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì: xăng văng,

hêu đòi, lúc thúc, tóm rốc, vun quén....

Một điểm nổi bật của việc sáng tác thơ trào phúng theo thể Đường luật chính là

họa thơ. Cuộc bút chiến với tên bán nước Tôn Thọ Tường thu hút sự tham gia của

đông đảo các sĩ phu yêu nước mà nổi bật là Phan Văn Trị. Các bài thơ cả xướng và

họa đều làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Việc họa thơ và sáng tạo ra một

kiểu vần mới (vần Từ Thứ) trong thơ họ là điều đáng được đánh giá cao.

Xướng hoạ thơ, ngoài là sự tiêu khiển, trong hoàn cảnh đất nước cuối thế kỉ XIX

- đầu thế kỉ XX giữa Tôn Thọ Tường và các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh còn là cuộc

chiến trí tuệ, một trận đánh ác liệt về tư tưởng, hành động và nhân cách. Là một kẻ hay

chữ Tôn Thọ Tường cố tình làm khó Phan Văn Trị cũng như các nhà thơ yêu nước có

lòng tự tôn dân tộc khác bằng những vần rất khó. Thế nhưng cái chính nghĩa luôn

thắng cái phi nghĩa, Phan Văn Trị đã đánh tơi bời vào Tôn Thọ Tường bằng những bài

họa chuẩn mực cả về hình thức lẫn nội dung. Những bài họa của Phan Văn Trị mang

những nét tinh hoa, làm chuẩn mực cho lối họa thơ.

Thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh chưa thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học

trung đại. Các nhà thơ vẫn sử dụng thế thơ thất ngôn bát cú như một công cụ đắc lực

thể hiện tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của mình với những giọng điệu khác nhau, khi đả

kích châm biếm, lúc bông đùa hài hước. Làm được như vậy là vì thơ Đường luật, đặc

biệt là thể thất ngôn bát cú phù hợp hơn cả với việc cảm hoài nhân tình thế thái. Vì thế,

yếu tố trào phúng khi được lồng vào khuôn hình của thể thơ này cũng chính là cách

hữu hiệu để biểu lộ thái độ của mình trước thời cuộc. Cái mới dễ nhìn thấy là việc sử

dụng hệ thống ngôn ngữ quần chúng Nam Kì, sử dụng các thủ pháp gây cười thường

thấy trong văn học dân gian.

3.1.2. Hình thức ngụ ý, hình ảnh ẩn dụ, thủ pháp đối lập

Thơ trào phúng cuối thể kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là bộ phận văn học thuộc văn học

trung đại nên về mặt nghệ thuật của nó vẫn mang nét chung của thi pháp trung đại, quy

định theo nó là những thủ pháp nghệ thuật tương hợp: ngụ ý, ẩn dụ, tương phản.... Các

nhà thơ trào phúng Nam Kì cũng không thoát khỏi thi pháp truyền thống này.

108

Ngụ ý là ngầm gửi ý vào lời nói, câu văn, câu thơ. Nó được sử dụng rộng rãi

trong nhiều thể loại văn học. Với thơ trào phúng Nam Kì, các nhà thơ đã vận dụng một

cách hiệu quả, đem lại những tiếng cười thâm thúy, làm cho đối tượng trào phúng phải

xấu hổ khi hiểu được ý nghĩa ẩn dưới lớp ngôn từ có vẻ không hề liên quan đến mình.

Ẩn dụ cũng là một thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ đắc lực cho việc thể hiện tư tưởng,

tình cảm, thái độ của các nhà thơ nam kì. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “ẩn dụ là

phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này

qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo.” [39,11] Thơ

trào phúng của các nhà thơ Nam Kì xuất hiện hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ độc đáo,

mới lạ.

Thơ Phan Văn Trị phần nhiều qua hình thức ngụ ý, qua hình ảnh ẩn dụ để nói lên

chí hướng và tâm sự của mình. Từ những con vật, những hình ảnh gần gũi, những vật

dụng thường ngày ông đã nâng lên thành hình tượng, thành vấn đề để nói về Tổ quốc,

về nhân dân, đồng thời cũng là để vạch mặt bọn bán nước hại dân, quân cướp nước.

Mấy tầng đài các sải chơn leo

Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo

(Con mèo)

Hình ảnh con mèo được Phan Văn Trị ngụ ý chỉ trích bọn quan lại cơ hội, chỉ có

tài duy nhất là nịnh hót để nhảy lẹ lên địa vị cao sang.

Hay con rận – một loài kí sinh đáng ghét với “mặt mũi” “cũng có râu”. Sống

bám vào quyền hành của thực dân, núp dưới bóng quân cướp nước, bọn quan lại, tay

sai chuyên hút máu dân lành chẳng có tài cán gì nhưng cũng lên mặt với đời chẳng

khác gì loài kí sinh ấy. Trong mắt Phan Văn Trị chúng thật là một lũ vô dụng.

Mặt mũi như vầy cũng có râu

Trong đời chẳng biết dụng vào đâu

.....

Uổng sanh cho nhộn trong trời đất

Có có không không cũng chẳng cầu.

(Con rận)

109

Trong thơ Cử Trị là hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ mang tính ngụ ý. Với những

kẻ ông khinh ghét thì chúng còn là những con muỗi, cào cào, những bọn cá thia thia

chỉ biết đấu đá, tranh giành quyền lợi nhau mà làm hại đến nhân dân, là phường hát

bội với “đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi”, là những con cua đi ngang về tắt, không ruột,

không lòng, là những ông táo “lỏng khỏng cõng nồi”, “lum khum đội chảo”. Còn đối

với những người trung nghĩa, ông cũng mượn những hình ảnh gần gũi để ngợi ca. Đó

là con cóc để nói về những người yêu nước: tuy sống ẩn dật trong cảnh thanh bần

nhưng lại luôn có thái độ ngang tàng, có ý chí lớn. Mỗi lời cảnh báo của họ cũng có

thể khiến cho những kẻ xu thời theo giặc phải giật mình kinh sợ.

Nghiến răng có thuở động oai trời

Mở miệng ghe phen chúng kiến lui.

Đó là những hột lúa giúp “nuôi dân biết mấy đời”.:

Ông cha giúp nước đà ghe thuở

Dòng giống nuôi dân biết mấy đời.

(Hột lúa)

Hay nghĩ về sự ngặt nghèo khốn khó của những người dân mộ nghĩa nổi lên

đánh Pháp giữ nước, giữ nhà mà bị triều đình ươn hèn cho là làm giặc trái mệnh vua,

Phan Văn Trị mượn chuyện cái cối xay mà tỏ lòng:

Mòn răng hết sức lo đền đáp

Trặc họng khen ai khéo đặt bày

Bao quản thớt trên mòn thớt dưới

Hiềm vì còn giặc phải ra tay.

(Cối xay)

Vạch trần bộ mặt phản bội, làm tay sai cho giặc của Tôn Thọ Tường, Phan Văn

Trị mượn hình ảnh của phường hát bội:

Trên trính có nhà còn hợp lọng

Dưới chân không ngựa lại giơ roi

Hèn chi chúng nói bội là bạc

Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.

(Hát bội)

110

Huỳnh Mẫn Đạt cũng mượn những hình ảnh quen thuộc khi cười cái già của bản

thân để kí thác tâm sự. Thi pháp trung đại thể hiện rất rõ trong thơ của Huỳnh Mẫn

Đạt, khi nói lên chí hướng, nguyện vọng của mình, ông không nói thẳng mà thường

mượn những đề tài, điển tích quen thuộc của thơ Đường. Những người lớn tuổi, khi

trong nước xảy ra biến cố thì tự thấy mình đã già nua yếu đuối chẳng khác nào những

con “ trâu già”, “chó già” đã qua rồi cái thời xông xáo. Những hình ảnh ấy chứa đựng

tâm sự sâu xa trong lòng ông. Ông gửi gắm nỗi niềm, cất tiếng kêu than, tiếc nuối vô

vọng vì không thể làm gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan.

Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa

Tai điếc chỉ nghe Nịnh Thích ca

Hoặc:

Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối

Vì lo khỉ Sở mới dun da

Nên:

Mạnh mẽ như xưa còn xốc vác

Bây giờ yếu đuối hết xông pha.

Khỉ Sở, hươu Tần, lửa Điền Đan, ca Nịnh Thích là những đề tài quen thuộc mà

các nhà thơ trung đại thường sử dụng, nó thể hiện những thực tế xã hội một cách cô

đọng, hàm súc.

Thơ Học Lạc cũng thường dùng những hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. bọn hương

chức đại phương ẩn hiện qua hình ảnh con chó chết trôi, đã làm việc xấu việc ác thì

cho đến lúc chết tiếng nhơ vẫn không thể gột rửa:

Sống thì bắt thỏ thỏ kêu rêu

Thác thả dòng sông xác nổi phều

Vằn vện sắc còn phơi lẩn dẩn

Thối tha danh hãy nổi lều bều.

Chúng như những con trâu, con tôm, ông làng hát bội bị nhà thơ lột lớp mặt nạ

giả dối để lộ ra bản chất là những kẻ ngu dốt, hèn nhát, bất tài, không có nhân cách rất

đáng khinh ghét.

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ

111

Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.

(Con trâu)

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu

(Con tôm)

Trong bụng trống trơn mang cổ giữa

Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.

(Ông làng hát bội)

Nhiêu Tâm cũng mượn hình ảnh của cặp gà đá, ông táo, chuột cống để châm

biếm những thói hư tật xấu trong xã hội:

Cựa suôn máu đỏ tuông đầy đất

Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi

Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy

Hay là giành xé hạt cơm rơi.

(Đá gà nòi)

Hay:

Bắt hơi chó xịt cong lưng chạy

Nghe tiếng mèo kêu rút cổ đi.

(Chuột cống)

Ngoài ra, phép tương phản, đối lập cũng là một thủ pháp nghệ thuật mang lại

hiệu quả cao trong việc tạo ra tiếng cười trong thơ trào phúng Nam Kì. Nhờ đó, tư

tưởng, tình cảm thái độ của các nhà thơ trước hiện thực được thể hiện ra một cách nổi

bật. Tương phản là biện pháp tu từ dùng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập

nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối

tượng được miêu tả. Học Lạc miêu tả con tôm với dáng vẻ oai vệ: “đái kiếm”, ‘mang

râu” nhưng đầu thì chứa toàn là thứ cặn bã. Phan Văn Trị nói đến con rận cũng như

vậy, “mặt mũi” “cũng có râu” nhưng lại “chẳng biết dụng vào đâu”. Huỳnh Mẫn Đạt

tự ví mình như chó già, trâu già, tuy muốn “xông pha” cứu nước nhưng đành bất lực

vì “bây giờ yếu đuối”. Bên cạnh đó, họ còn dùng lối đánh bất ngờ, trong những câu

đầu tác giả nói năng một cách tôn trọng nhưng đến hai câu cuối bài thì quay ra vạch

112

trần bản chất xấu xa một cách bất ngờ khiến bài thơ trở nên thú vị, người đọc cười hả

hê khi hiểu được dụng ý tác giả.

3.2. Ngôn ngữ quần chúng Nam Kì - nguồn của mọi nguồn

3.2.1. Ngôn ngữ giản dị nhưng điêu luyện, tài tình

Ngôn ngữ vừa là một thành tố của văn hóa, vừa là một phương tiện, chất liệu của

văn học. Ngôn ngữ và văn chương luôn luôn vận động và biến đổi. Văn chương dùng

ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Ở từng

giai đoạn, các nhà thơ đã có ý thức sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt tình cảm, cảm xúc

của mình. Nếu như thơ Đường luật yêu cầu thứ ngôn ngữ của thơ phải là ngôn ngữ

giàu sức gợi, dồn nén, chắt lọc và nhiều dư ba thì đến với các nhà thơ trào phúng Nam

Kì, họ đã thay đổi cách nghĩ, cách cảm về ngôn ngữ vốn đã mặc định từ lâu đó. Ngôn

ngữ thơ của họ rất phong phú bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân

dân nơi vùng Lục Tỉnh. Nó gần gũi, thân thuộc như hơi thở. Trong các bài thơ chúng

ta dường như ít thấy những điển tích điển cố nặng nề, những hình ảnh khuôn sáo,

những từ Hán Việt mà trước đây các nhà Nho xưa rất ưa chuộng. Nhờ đó, ngôn ngữ

mang sắc thái tươi tắn, đầy hình ảnh của tiếng nói quần chúng lao động và phong vị

đậm đà của tiếng nói con người nơi vùng đất mới, khó có thể trộn lẫn với các vùng

khác.

Việc đưa những từ ngữ, lời ăn tiếng nói hằng ngày vào trong thơ trào phúng đã

khiến cho những tác phẩm trở nên dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ đi vào lòng người một

cách tự nhiên.. Sử dụng chất liệu ngôn từ xuất phát từ chính cuộc sống thường nhật

của nhân dân lao động, ngôn ngữ thơ trào phúng Nam Kì vì thế không nghiêng về trau

chuốt cầu kì mà giản dị, gọn sắc và sâu nặng tình ý. Ở đây ít có cái mỹ lệ thường thấy

trong thi ca cổ điển mà là một kiểu ngôn ngữ thơ đọc lên là thấy ngay được hình ảnh

những con người vùng Lục Tỉnh với những đặc trưng tính cách rất riêng. Mặc khác,

ngôn ngữ được các nhà thơ sử dụng cũng mang những đặc trưng đầy đủ về phương

ngữ Nam Kì ở cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ văn chương được các nhà thơ trào phúng Nam Kì sử

dụng có thể xem như một thành công lớn, một đóng góp lớn cho việc phát triển ngôn

ngữ dân tộc. Đó là thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường nhưng rất văn chương.

113

Có điêu luyện lắm mới biến sự phổ biến của ngôn ngữ đời thường thành của riêng

mình nhưng được mọi người chấp nhận và tán dương. Họ đã làm được điều đó. Không

một ai không thích thứ ngôn ngữ mộc mạc mà “văn chương” ấy. Ngôn ngữ trong sáng

tác của các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã kéo gần hơn khoảng cách người đọc với tác

phẩm của họ, khiến chúng đi vào trong dân gian để lưu truyền một cách thật dễ dàng.

Ngôn ngữ thơ trào phúng Nam Kì là ngôn ngữ lấy từ cuộc sống bình thường, trần

trụi, khẩu ngữ dân gian. Đó là thứ ngôn ngữ không cầu kì, bóng bẩy tạo nên sự chân

thành, gần gũi với quảng đại quần chúng. Trong thơ Phan Văn Trị là sự xuất hiện của

rất nhiều từ ngữ mang tính địa phương không thể lẫn vào đâu: sải chơn, hêu đòi, lúc

thúc, khuấy ngứa, gầy dân, đà ghe thuở, lụy, tóm rốc, tay phăng, chim nhíp cánh, dân

xanh mặt, vun quén, rầy, tợ, tráo chác, sai rầy, khua khéo, búa voi, khoe mòi, xăn văn,

kình nhau, nói vơ, lung lăng, thảm ghe,nong nả, gió xẳng, bôn chôn, .....Thơ Huỳnh

Mẫn Đạt: bưa bưa, xơi tối, đứa tà, doi bạc, lém bém, do de, chêu chao, tích toác, giải

cấu, đè ne, bít mặt, núp, dòm, lèn, ló mòi,...Học Lạc cũng sử dụng rất nhiều từ ngữ

Nam Kì rất đặc trưng: mèo quào, bơ thờ, láo ngạo, lăng xăng, một lũ, đồn tụ, bông

vụ,lem nhem, lém đém, nghé ngọ đai kiếm, hiu hiu, ngán, ngộp, sánh bì, mót, bò càng,

thoi trở, tỉnh đặng, trọc lóc, phạt vạ, ẵm bồng, nổi phều, le the, sài hồ, binh lang, trổ

mặt, lánh thân, làm mọi, sui hư ... Thơ Nhiêu Tâm có mật độ càng dày đặc: rờ, xảng

tay, phỉnh phờ, giãy, tréo đời, úc núc, đái, réo, mắng vốn, xịt, cong lưng chạy, tha

thởn, xí hụt, sính sái, lô xô, mã mồ, câu quẹt, xỉa tiền, khờ khịt, ngộ, quá chừng, phẩn,

mầy, chấp chứa, rước, chuốt ngót, vô, nổi phình, ngán, thớ thớ, giục xô, chẳng chày

thì kíp ... Từ đó có thể thấy sự ý thức đặc biệt trong việc giữ gìn phương ngữ Nam Kì

trước những biến cố của lịch sử cũng như ảnh hưởng từ những địa phương khác.

Ngôn ngữ họ sử dụng tuy rất giản dị, kết hợp với chất liệu dân gian, ngôn ngữ

đời thường làm cho lời văn trở nên gần gũi hẳn nhưng đôi khi nếu không phải là người

Nam Kì thì khó có thể hiểu hết được. Song, việc kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương

với ngôn ngữ dân gian trong sáng tác của họ đã làm nên đặc sắc nghệ thuật nổi bật. Họ

đã mang lại tiếng nói riêng từ tài sản chung của dân tộc. Các nhà thơ trào phúng Nam

Kì đã chắt lọc và sử dụng một cách tài tình vốn ngôn ngữ quý báu này để làm nên

những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác văn chương. Họ đã thổi vào những câu

114

thơ một sức sống mới, một hơi thở mới, để tạo nên những tiếng cười mang đậm màu

sắc của văn hóa Nam Kì, phản ánh tâm tư của họ trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân

xâm phạm.

Cũng như đa số các nhà văn, nhà thơ khác, có lẽ các nhà thơ trào phúng Nam Kì

Lục Tỉnh tìm về với ngôn ngữ quần chúng trước tiên là bởi tính chất đơn giản, dễ hiểu,

dễ đi vào lòng người của nó. Nhưng khác nhau ở chỗ họ không chỉ sử dụng vốn ngôn

ngữ ấy để sáng tác thơ văn đơn thuần mà họ còn nhằm biểu hiện tính cách của người

dân Nam Kì. Do đó, sẽ không khó để chúng ta lí giải vì sao họ lại sử dụng nhiều từ

ngữ dưới hình thức biến thể ngữ âm Nam Kì. Sự biến đổi về mặt ngữ âm của các từ

ngữ trong thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì được thể hiện rất tự nhiên:

Mặt mũi như vầy cũng có râu

Cả đời chẳng biết dụng vào đâu

.....

Uổng sanh cho nhộn trong trời đất

Có có không không cũng chẳng cầu.

(Con Rận -Phan Văn Trị)

Hay:

Nắng rọi mõ chuông khô nứt mặt

Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu.

(Chùa hư - Phan Văn Trị)

Mấy từng đài các sải chơn leo

Nhảy lẹ chi cho bẵng giống mèo.

(Con mèo - Phan Văn Trị)

Vằn vện xác còn phơi lững đững

Thúi tha danh hãy nổi lều bều.

(Chó chết trôi – Học Lạc)

Phạt tạ xong rồi trở lộn về

Hoá thời hốt thuốc, lứ bông vụ

(Ngồi trăng – Học Lạc )

Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngợp trông

115

Đường thẳng ngựa biêu chơn ngán bước.

(Thuộc Nhiêu tức cảnh – Học Lạc)

Sắc tài có một đỉnh đình đinh

Khắp cả dân gian tiếng nổi phình

(Hóm hỉnh vịnh Kiều – Nhiêu Tâm)

Hoặc:

Giấu để trong buồng e đóng đục

Phành ra trước mắt thấy ngon dao

.....

Chuốt ngót của mình ai dám chắc

Biết lòng biết ruột xỉa tiền trao.

(Ghẹo gái bán cau – Nhiêu Tâm)

Sự biến đổi ấy chỉ thể hiện ở phương diện hình thức chứ ngữ nghĩa của từ vẫn

không thay đổi. Sự biến đổi này được hình thành chủ yếu do ảnh hưởng từ cách phát

âm của người dân Lục Tỉnh. Như chúng ta biết, phương ngữ mỗi miền đều có cách

phát âm riêng. Những biến thể phát âm này sẽ bộc lộ rõ trong giao tiếp khẩu ngữ.

Trong ngôn ngữ viết, các biến thể phát âm trên ta không thấy lộ ra do yêu cầu của

chính tả. Tuy nhiên, trong tác phẩm văn chương, để miêu tả đúng cách nói năng riêng

của từng nhân vật, ở những địa phương khác nhau, nhà văn có thể khai thác các biến

thể phát âm nói trên bằng cách ghi lại đúng cách phát âm của nhân vật qua con chữ.

Và các nhà thơ trào phúng đã nói trên là nhà văn của miệt vườn Nam Kì Lục Tỉnh, nên

hơn ai hết văn phong của họ thể hiện rất đậm nét những biến thể ngữ âm. Qua đó cũng

góp phần thể hiện phong cách của những cây bút suốt đời tận tụy, gắn bó cuộc đời

mình với vùng đất và con người phương Nam. Dường như họ muốn giữ lại những gì

quen thuộc, mộc mạc và bình dị trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người nơi

đây ngay cả khi đưa thứ ngôn ngữ ấy vào trong nghệ thuật văn chương. Nó làm cho

ngôn ngữ văn chương trở nên gần gũi với ngôn ngữ đời sống, mang đậm chất khẩu

ngữ của người dân Lục Tỉnh hơn. Đồng thời cho thấy họ không chỉ yêu mến vùng đất,

con người nơi đây mà còn quý trọng lời ăn tiếng nói hằng ngày của họ, họ không

116

muốn làm khác đi thứ ngôn ngữ vốn đã quen thuộc và bám sâu vào đời sống của người

dân phương Nam.

Người dân Lục Tỉnh nói chung đều chân chất, giản dị nên lời nói của họ cũng

thật thà, thẳng thắn, không né tránh. Học Lạc khi nói về những kẻ tự xưng mình là

vương tôn, vương hầu thật “thẳng như ruột ngựa”:

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu

(Con tôm – Học Lạc)

Hay tự nhận xét về mình:

Văn chương chẳng phải bợm mèo quào

Danh lợi không ra cái cóc rác.

(Tạ hương đảng)

Nhiêu Tâm cũng luôn nói thẳng, nói thật khiến những kẻ mang những thói hư tật

xấu phải thẹn mặt:

Chấp chứa làm chi những giống hôi

(Bỡn ông thầy đồ)

Phan Văn Trị khi vạch mặt, lên án tên việt gian Tôn Thọ Tường đã dùng những

lời lẽ thật nặng nề, không kiêng nể, e dè. Dường như nhà thơ đã cất lên tiếng chửi rủa

thẳng thắn thay cho người dân nơi đây, tỏ rõ thái độ phê phán, khinh miệt đối với

những tên bán nước hại dân, những kẻ lừa bịp, dối trá, đã phản bội tổ quốc mà còn ra

sức thanh minh:

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ

Chẳng xét phận mình khéo nói vơ

Người trí mảng lo danh chẳng chói

Đứa ngu luống đợi tuổi không chờ.

(Bài họa 2a)

Dễ lay đâu đặng loại tanh nhơ

Bàn tính phòng toan việc bá vơ

(Bài họa 2b)

Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa

117

Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.

(Bài họa 3a)

Huỳnh Mẫn Đạt với thái độ yêu ghét rõ ràng đã mắng thẳng vào tên tay sai của

giặc:

Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe.

Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve!

Chớ nói "đổi dời", sao cốt cách?

Xưa nay giỏ nát vẫn còn tre!

(Giễu Tôn Thọ Tường, bài 2)

Qua một vài câu thơ mang giá trị biểu cảm sâu sắc ta càng hiểu rõ hơn về nhân

cách của các nhà thơ Nam Kì. Họ là người chuộng lối sống bình dị, quý trọng những

phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động, luôn đứng về phía người dân lao động để

lên tiếng phê phán, phản đối, tố cáo gay gắt đối với những hạng người dẫm lên mồ hôi

nước mắt của dân mà tồn tại.

Một đặc điểm của ngôn ngữ Nam Kì là giản dị nhưng giàu sức gợi đặc biệt nhờ

vào hệ thống từ láy tượng hình, tượng thanh, từ láy miêu tả cảm giác, tâm trạng giàu

tính biểu cảm. Trong các bài thơ trào phúng của mình các nhà thơ đã sử dụng từ láy

một cách rất đắc địa, mô tả chính xác về những sự vật, sự việc.

Lúc thúc trong chăn cứ rụt đầu

(Con rận – Phan Văn Trị)

Chỉ một từ “lúc thúc” chúng ta đã thấy ngay bản chất vừa thật của con rận, vừa

biểu tượng của bọn quan lại, tay sai của thực dân. Qua khảo sát thơ Phan Văn Trị,

chúng tôi nhận thấy rằng, đa số các bài thơ của ông thường sử dụng những từ láy nhằm

tăng sức gợi hình, mang lại giá trị biểu đạt cao.

Còn Huỳnh Mẫn Đạt, chỉ với hai câu thơ dùng hai từ láy đã khắc họa được tính

cách, thái độ của hai con người không cùng chí hướng lâu ngày gặp mặt:

Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu

Lơ thơ già núp cội cây hòe.

(Giễu Tôn Thọ Tường – Bài 1)

118

Học Lạc cũng là bậc thầy trong việc sử dụng từ láy. Ông miêu tả rất hay, rất

chính xác đối tượng phê phán: những tên hương chức bất tài vô học qua hình ảnh các

ông làng hát bội:

Trong bụng trống trơn mang giữa cổ

Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.

(Ông làng hát bội)

Trong thơ Nhiêu Tâm, các từ láy xuất hiện với những âm thanh, hình ảnh thật

tươi vui, hóm hỉnh:

Xưa là đất sét ở bờ khe

Nhồi nắn nên hình lão táo be

Vỗ vóc nên hình thân úc núc

Đặt tên dùi bụng chẳng kiêng dè.

(Ông táo)

Mật độ từ láy xuất hiện rất dày đan xen với những hình ảnh thật gần gũi với đời

sống hằng ngày của nhân dân Nam Kì càng làm tăng sức biểu đạt, tăng sức gợi và tính

biểu cảm cho thơ trào phúng của họ. Các từ láy cũng là những từ mang đậm tính địa

phương, chỉ cần đọc lên chúng ta đã nghe phong vị của vùng Lục Tỉnh thật đậm đà:

Trong bụng lam nham ba lá sách

Ngoài cằm lém đém một chòm râu.

(Con trâu – Học Lạc)

Lỏng khỏng cỏng nồi da mốc thếch

Lum khum đội chảo mặt đen sì

(Ông Táo – Phan Văn Trị)

Một đôi mươi uổng tính xăng văng

Đất lở ai mà dễ dám ngăn

Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa

Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.

(Bài họa 9a – Phan Văn Trị)

Màn ráng xuê xoang trải gấm điều.

Ngả ngớn lưng trâu ngơ vót mục,

119

Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều.

(Cảnh trời chiều – Huỳnh Mẫn Đạt)

Những thành ngữ được các nhà thơ Nam Kì sử dụng rất sáng tạo ở những dạng

cải biến, vận dụng theo lối mượn ý của thành ngữ gốc và triển khai theo phong cách

khẩu ngữ của người Nam Kì khiến cho câu thơ trở nên sinh động, tự nhiên và có màu

sắc triết lý hơn.

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,

Năm dây đởn khảy biết nghe đâu.

(Con trâu – Học Lạc)

Nhà văn đã mượn ý của thành ngữ ‘‘đàn gảy tai trâu’’ để diễn đạt theo lối nói

thông thường của người dân Nam Kì, vẫn thể hiện thái độ khinh ghét, chế giễu những

kẻ hương chức dốt nát mà lại hay lên mặt với đời.

Phan Văn Trị cũng thường hay sử dụng nhũng thành ngữ ở dạng mượn ý này.

Khi nhắc nhở Tôn Thọ Tường đừng vì dựa hơi thực dân mà lên mặt dạy đời, Phan Văn

Trị mượn ý của câu thành ngữ ‘‘rung cây nhát khỉ’’ một cách thật sáng tạo:

Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ

Lòng ta sắt đá há lung lay.

(Bài họa 1a)

Thành ngữ vốn có tính chất ngắn gọn, cô đọng mà hàm súc, chỉ một vài từ gói

gọn trong một cụm từ hoặc một câu là có thể diễn đạt trọn vẹn nội dung. Tuy nhiên,

nói như vậy không có nghĩa là khi được cải biến bằng cách thêm từ sẽ làm giảm đi giá

trị của thành ngữ, mà ngược lại nó còn làm tăng giá trị biểu cảm hơn. Chẳng hạn:

Trối kẻ rung cây mà nhát khỉ

Trước sau giữ một tấm lòng hằng.

(Bài họa 9b - Phan Văn Trị)

Thêm vào từ chỉ quan hệ “mà” trong thành ngữ rung cây nhát khỉ, Phan Văn Trị

không chỉ không làm mất đi tính chất hàm súc của thành ngữ mà còn làm gia tăng giá

trị biểu đạt của thành ngữ gốc. Thành ngữ được cải biến với tính chất nhấn mạnh việc

làm của kẻ phản nước hại dân.

120

Cách dùng từ thoải mái, thêm chút tự do và có lúc có thể nói ngang tàng cũng

chính là một trong những đặc điểm ngôn ngữ của các nhà thơ trào phúng Nam Kì. Khi

lên tiếng chế giễu sự lố lăng mê gái của một tri huyện già, Nhiêu Tâm ngẫu hứng:

Của đời thấy vậy dửng dừng dưng

Cha trẻ con già ngộ quá chừng

Nọ nọ ông gia khờ khịt mặt

Này này chàng rể rụng trơn răng.

(Cha trẻ, con già)

Tài làm thơ của Nhiêu Tâm thật đáng ngưỡng mộ. Dường như ông cứ xuất khẩu

là thành thơ. “Bỡn ông thầy đồ” cũng được sáng tác như vậy. Những từ ngữ ông sử

dụng hết sức gần gũi:

Chặt chân chẳng nở thây nhằm đạp

Bịt mũi mà qua đã gớm rồi.

Bên cạnh việc vận dụng các từ ngữ mang tính địa phương, các nhà thơ trào

phúng Nam Kì còn có cách chơi chữ rất độc đáo mà nếu không phải người miền Nam

thì cũng khó mà nhận ra hết sự thâm thúy của nó. Nhiêu Tâm là người có lối chơi chữ

rất hóm hỉnh đó. Trong một lần tình cờ gặp bá hộ Nọn, một người mà nhà thơ không

thích, mặc cho bá hộ tỏ thái độ vui mừng, vồn vã, Nhiêu Tâm vẫn thản nhiên khi trả

lời những câu hỏi của tên bá hộ:

Thấy anh tôi nghĩ lại tôi buồn

Tôi khó, anh giàu đã hóa muôn

Anh vậy, tôi vầy trời khiến vậy

Chúc cho con cháu vậy luôn luôn.

Bài thơ có bốn câu được tác giả khéo léo sử dụng từ đồng âm làm tăng thêm giá

trị châm biếm. Từ “muôn” trong câu thứ hai ở Nam Kì thường đọc là “muông” do

cách phát âm vùng miền. Mà “muông” có nghĩa là con chó. Ở đây, Nhiêu Tâm châm

biếm bá hộ Nọn giàu quá hóa ra ngu dại như con chó.

Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo trong thơ

trào phúng của Nhiêu Tâm đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng cho thơ ông:

vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa lãng mạn, bay bổng. Hơn nữa, có thể nói chất

121

liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của Nhiêu Tâm, tạo nên những

tiếng cười nhẹ nhàng. Chỉ nói đến cách sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ta cũng

thấy sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng, rất độc đáo. Tên một số bài thơ

của Nhiêu Tâm được ông lấy ngay những câu ca dao rất hóm hỉnh mà ai ai cũng biết.

Đêm nằm tơ tưởng tưởng mơ

Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.

hay:

Đôi ta chẳng mốt thì mai

Chẳng trong tháng chạp cũng ngoài tháng giêng.

Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc. Ca dao cũng mang những nét trào phúng,

hài hước, bông đùa, hóm hỉnh, dí dỏm vì thế những bài thơ lấy ý thơ từ những câu ca

dao quen thuộc cho ta thấy Nhiêu Tâm rất yêu chuộng cái chất liệu dân gian, đề từ

dân gian mà biến nó thành tài sản của riêng mình một cách thú vị. Ông cũng biến đổi

cách đọc của chúng cho phù hợp với phương ngữ của người dân Lục Tỉnh: “bạn” đọc

là “bậu”. Bậu trong tiếng Nam Kì là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ hai, ở đây nói về cô

gái. Có thể thấy ở những bài thơ trên của Nhiêu Tâm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển

ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình,

không ngoài mục đích ca ngợi bản sắc văn hoá của người Nam Kì. Vì thế khi tiếp xúc

tạo cho người đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác quen vì từ thuở ấu thơ mỗi

người trong chúng ta, ai cũng đã sống trong không khí văn hoá dân gian, nên mỗi

người Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca dao, chỉ đọc lên là đã thấy cái hay, cái đẹp,

cái gần gũi. Còn cảm giác lạ là vì khi đọc những bài thơ từ những chất liệu văn hoá,

văn học dân gian rất gần gũi ấy, ta cảm nhận nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng

mới mẻ bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho tác phẩm, tạo ra tiếng cười quên đi muộn

phiền của cuộc sống. Ở thơ Nhiêu Tâm, tính triêt lí gần với cách nói của dân gian

khiến lời thơ trở nên gần gũi với cuộc sống thực tế, dễ thấm sâu vào trong lòng người

đọc.

Ngôn từ văn học vốn không như ngôn từ ta hay dùng trong sinh hoạt hằng ngày.

Ngôn ngữ đời sống dùng trong lao động và sinh hoạt hằng ngày là chủ yếu, có tác

dụng nhận và phát thông tin nên người ta thường đơn giản ngôn từ đến mức tối đa sao

122

cho người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu là được. Ngôn từ trong các bài thơ trào phúng

Nam Kì vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ của quần chúng nhân dân nhưng nó lại không

dùng một cách đơn giản như lời nói thông thường. Từ lời nói thô mộc thông thường ấy

các nhà thơ đã nhào nặn và tái tạo lại nó, khoác cho nó tấm áo mới. Lời nói bình

thường trở thành ngôn ngữ nghệ thuật, nó gợi dậy những cảm xúc, cho ta cảm giác

mới mẻ và trong ngần. Các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã rất thành công khi sử dụng

vốn từ của vùng đất mới này để cất lên những tiếng cười nhiều âm sắc. Thơ Nôm

Đường luật của các nhà thơ Nam Kì có cách diễn đạt hết sức bình dân với cả một hệ

thống ngôn ngữ thơ rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân. Tiếp tục cái

quá trình sử dụng và không chế chất liệu ngôn ngữ thuần Việt. Đặc biệt là họ đã đưa

vào thơ những chất liệu thường ngày, những câu chữ xuất từ ca dao, tục ngữ, từ tiếng

nói bình dân. Cuộc sống gắn bó sâu sắc với quần chúng nhân dân, lo cho dân, những

tình cảm sâu nặng, gắn bó với nhân dân trong những ngày đất nước bị xâm lăng đã

khiến các nhà thơ đồng cảm với cuộc sống của những con người thấp bé nhất trong xã

hội. Ở các nhà thơ trào phúng, ngôn ngữ Nam Kì được nâng lên một trình độ nghệ

thuật mới, rất giản dị nhưng vô cùng tinh tế, điêu luyện, linh hoạt, gần gũi với lời ăn

tiếng nói của nhân dân. Càng bàn về thơ ca trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh nói riêng,

thơ văn Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy sự giàu đẹp và phong phú của tiếng

nước ta, càng hãnh diện về ngôn ngữ của dân tộc ta. Ngôn ngữ quần chúng đem đến

cho thơ Đường luật Nam Kì một phong vị đậm đà, một tính chất bình dị, dân dã.

3.2.2. Ngôn ngữ thô ráp, góc cạnh, không trau chuốt

Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Tuy nhiên, ngôn từ không phải chỉ bao gồm từ

mỹ từ. Nó còn có cả những từ ngữ bình dân, thô ráp. Vốn chất liệu từ trong nhân dân

đã được các nhà thơ trào phúng Nam Kì đưa vào trong thơ ca của mình không chút gọt

giũa.

Mất đi cái học tầm chương trích cú, sính vận cổ với những lời lẽ thâm thúy của

thể loại thơ Đường luật, thay vào đó là sự nôm na gần gũi nhưng vẫn rất thơ, thơ trào

phúng không còn là những lời vàng ý ngọc trau chuốt, mà có khi gắn với giọng điệu

chanh chua, với những vần thơ bốp chát:

Mài sừng cho lắm cũng là trâu

123

Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu

Trong bụng lam nham ba lá sách

Ngoài cằm lém đém một chòm râu.

.....

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ

Năm dây đàn gảy biết chi đâu.

(Con trâu – Học Lạc)

Mặt mũi như vầy cũng có râu

Trong đời chẳng biết dụng vào đâu.

(Con rận – Phan Văn Trị)

Từ ngữ được các nhà thơ trào phúng Nam Kì dùng rất sát với giới bình dân, có lẽ

vì họ xuất thân từ giới bình dân. Hai câu thực trong bài Vịnh ông Táo của Phan Văn

Trị xuất hiện các từ rất nôm na:

Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thích

Lum khum đội chảo mặt đen sì.

Những bài thơ Nôm lời thơ trong sáng như bài “Cảnh trời chiều” của Huỳnh

Mẫn Đạt cũng chung thứ ngôn ngữ ấy:

Trưa sớm đài danh gió bụi nhiều,

Vườn quê vui thú cảnh trời chiều.

Nhành chim rải rác đơm bông bạc,

Màn ráng xuê xoang trải gấm điều.

Ngả ngớn lưng trâu ngơ vọt mục,

Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều.

Xót người mạng bạc trong chằm nhạn,

Ngó mống trông mây biết mấy nhiêu.

Các nhà thơ đã kết hợp sử dụng ngôn ngữ chân chất mộc mạc thậm chí trần trụi

của khẩu ngữ, tạo vẻ đẹp tươi tắn cho bài thơ của mình. Họ lựa chọn từ ngữ trong kho

tàng ngôn ngữ phong phú dân dã của đời sống, chắt lọc để nâng lên tầm cao của ngôn

ngữ nghệ thuật. Câu thơ có khi như câu nói đời thường. Tuy thông tục nhưng vẫn

phảng phất vẻ đẹp thanh tao, trang nhã, tạo cảm giác nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người.

124

Vẻ đẹp của khẩu ngữ ở mỗi nhà thơ là khác nhau. Phan Văn Trị với những từ: mòn

răng, trặc họng, tháy máy, bôn chôn, chịu lòn, gai mắt, lõ mắt, cành hông ...Huỳnh

Mẫn Đạt: bưa bưa, đĩ già, hủng hỉnh, hi ha, ứa lá gan,... Hệ thống từ ngữ được các

nhà thơ Nam Kì sử dụng chính là ngôn ngữ trong đời sống giao tiếp hằng ngày, tạo

dấu ấn khẩu ngữ đậm nét trong thơ.

Ngôn ngữ đời thường tràn vào thơ mang cho thơ nội dung dân chủ. Ngôn ngữ đời

thường mang tính nghệ thuật, chứa đầy thi hứng trong thơ Phan Văn Trị. Những từ

ngữ dân gian, những câu nói cửa miệng, những lời nói vô cùng bộc trực:

Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa

Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.

....

Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng

Chờ khi tháy máy phải ra tay

(Họa Giang san ba tỉnh )

Những câu thơ này không khác gì lời nói hằng ngày nhưng lại chứa đựng nhiều ý

nghĩa. Trong thơ văn của mình, các nhà thơ Nam Kì đã ưu tiên dành cho lớp từ thuần

Việt với tất cả những khả năng biểu hiện vốn có của nó. Là những từ được dùng rất

chính xác, cụ thể lại cô đúc, lột tả được cái hồn sự vật.

Ngôn ngữ đời thường có liên quan mật thiết đến văn chương trào phúng nên bộ

phận khẩu ngữ, sự có mặt của lớp từ mỉa mai khá phổ biến là điều dễ hiểu. Các nhà

thơ sử dụng ngôn ngữ quần chúng nhân dân để diễn tả những nỗi niềm, khai thác mặt

châm biếm, mỉa mai, đùa cợt thậm chí nguyền rủa, lột trần sự thật, nhìn thẳng vào mặt

những con người xấu xa, để mà đả kích. Các từ ngữ mang sắc thái này xuất hiện rất

nhiều trong thơ trào phúng của họ.

Trong bộ phận khẩu ngữ, lớp từ tục, từ chửi trong cuộc sống đời thường tràn

ngập vào ngôn ngữ thơ không chút e dè. Các nhà thơ biết dùng đúng chỗ, đúng lúc, nói

đúng bản chất của sự vật sự việc khiến nhũng từ tục trở nên có giá trị, trở thành ngôn

ngữ nghệ thuật. Các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh đã chứng tỏ rằng, ngôn ngữ thơ không

nhất thiết phải mang tính quý tộc, đài các. Họ không bao giờ tìm cách né tránh các

tiếng chửi rủa. Ngôn ngữ thông tục, đời thường, chưa có sự gia công, trau dồi, ít gắn

125

với những chuẩn mực nguyên tắc. Các từ ngữ thuộc lớp này khi đi vào hoạt động giao

tiếp, ít nhiều có thể tự do, phóng túng nếu điều kiện cho phép. Nói cách khác, chúng

có nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình.

Tương truyền, có lần cùng bạn thân là Đốc học Trưng đi bộ từ Cần Thơ đến Bình

Thủy, dọc đường Phan Văn Trị vừa đi, vừa đái, vừa ngâm:

Đứng lại làm chi cho mất công

Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng.

Ông Táo trong thơ Nhiêu Tâm cũng không được kiêng nể:

Trẻ đái không kiêng, quở kiếm chè.

(Ông Táo – Nhiêu Tâm)

Học Lạc cũng sử dụng các từ dung tục trong thơ mình nhiều lần:

Vành mâm xôi đề tên “thằng Lạc”

(Tạ hương đảng)

Con tôm được tả thực với đầy ý ám dụ:

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

Con người vùng nào cũng vậy, khi gặp một chuyện không vừa ý thường vẫn thốt

lên những tiếng gay gắt, thô bạo. Yếu tố tục trong thơ của các nhà thơ Nam Kì cất lên

nhằm mục đích phản ứng lại xã hội đương thời đầy rẫy những áp bức, bất công, trái tai

gai mắt.

Với yếu tố tục, các nhà thơ trào phúng Nam Kì đã ném vào bộ mặt đạo đức giả

của những hạng người đáng phê phán trong xã hội bấy giờ những thứ chúng cho là bùn

nhơ, là bẩn thỉu. Yếu tố tục trong các câu thơ làm cho tính chất trào phúng được nâng

lên đến đỉnh của nó. Nó làm cho tiếng cười trở nên giòn giã hơn, sự chế giễu sâu cay

hơn. Yếu tố tục ấy không chỉ dùng để châm biếm, đả kích phê phán những hành động,

tính cách xấu xa hay phản ứng lại chế độ phong kiến với những kẻ cậy quyền ỷ thế mà

nó còn được sử dụng vào mục đích mua vui, chỉ để thỏa mãn sự nghịch ngợm của các

nhà thơ.

Nằm trong hệ thống ngôn ngữ dân tộc, thể hiện tính dân tộc tính nhân dân và tính

dân chủ trong cả nội dung lẫn hình thức, thơ của các nhà thơ trào phúng thể hiện sậu

sắc nếp nghĩ, nếp cảm của người dân vùng Nam Kì Lục Tỉnh. Sử dụng ngôn ngữ dân

126

tộc các nhà thơ có thể phản ánh cuộc sống bình thường của nhân dân một cách linh

hoạt và cụ thể hơn, dễ dàng thấm sâu hơn vào cảm quan của người đọc. Khi đi vào đời

sống dân dã, các tác giả ít có những hình tượng nghệ thuật có sẵn, họ sáng tạo ra

những hình tượng mới bắt nguồn từ chính bản thân đời sống hằng ngày họ quan sát

thấy. Do vậy, những hình tượng nghệ thuật được xây dựng trực tiếp từ đời sống đã tác

động lớn đến cách nhìn, cách cảm nhận của nhân dân. Hệ thống ngôn ngữ chịu tác

động đồng thơi góp phần quan trọng thúc đầy quá trình dân tộc hóa, dân chủ hóa.

Ngôn ngữ đời sống có vị trí đáng kể trong nhiều sáng tác giữ vai trò quan trọng

trong việc thể hiện những nội dung có tính chất đời thường thông tục, những nội dung

có tính trào phúng góp phần thay đổi chức năng phản ánh và chức năng thẩm mĩ của

thể loại.

Khi sáng tác, các nhà thơ trào phúng rất ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa

đẩy, rào đón, hoặc diễn đạt cho sinh động:

Hơn thua tranh cạnh mà chi vậy?

Đồng loại như bay thật tréo đời.

( Đá gà nòi – Nhiêu Tâm)

Làm trời còn khổ vì thiên hạ

Hà huống chi ta sống ở đời.

(Làm trời khó – Nhiêu Tâm)

Hèn chi chúng nói bội là bạc

Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.

(Hát Bội – Phan Văn Trị)

Vì thế liều mình cơn nước lửa

Người đá có thấy hỡi người si.

(Hột lúa – Phan Văn Trị)

Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,

Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.

(Bài họa Giang san ba tỉnh, bài 3)

Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,

Bủa lưới săn nai cũng có ngày.

127

Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,

Lòng ta sắt đá há lung lay !

(Bài họa Giang san ba tỉnh, bài 1)

Thơ trào phúng của các nhà thơ Nam Kì bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên

những nụ cười lúc nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị, lúc giòn giã, đả phá đi ngược lại với văn

chương hàn lâm, bác học, trả lại cho văn hóa dân gian cái chân chất vốn có của ngàn

năm thôn quê, mộc mạc mà dễ nhớ. Ngôn ngữ nói thông thường, dùng trong cuộc sống

hằng ngày không cần trau chuốt, gọt dũa nhưng vẫn thể hiện được những vấn đề mà họ

quan tâm một cách hết sức dân dã, trần tục, đời thường.

3.3. Giọng điệu trào phúng

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “giọng điệu (tone) chính là thái độ tình cảm,

lập trường tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ

xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...Giọng điệu phản

ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất

lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người

đọc.”..[39, tr.134].

Trong văn chương hiện thực trào phúng của các nhà thơ Nam Kì Lục Tỉnh, hai

giọng điệu cơ bản chủ đạo là giọng châm biếm, đả kích và giọng hài hước, bông đùa.

Hai giọng điệu này cũng là yếu tố cơ bản góp phần làm nên thành công của mảng thơ

ca hiện thực trào phúng của các nhà thơ Nam Kì, nhờ đó những bài thơ trào phúng của

họ đã để lại ấn tượng sâu sắc.

3.3.1. Giọng châm biếm, đả kích

Giọng châm biếm mỉa mai là giọng điệu chủ đạo trong thơ trào phúng. Xã hội

phong kiến vốn đã nhiều cái đáng cười, đáng lên án, chửi rủa thì nay lại càng tăng lên

gấp bội bởi sự xuất hiện của thực dân. Họ nhận thấy xã hội thực dân nửa phong kiên là

một xã hội vô nghĩa lí và dùng giọng điệu đả kích để lột tả xã hội ấy. Người đọc dễ

dàng nhận ra giọng chế nhạo, mỉa mai trong hệ thống từ ngữ nhà thơ dùng để giới

thiệu và miêu tả đối tượng.

128

Các hành động của đối tượng đả kích được các nhà thơ dụng công mô tả khiến

cho đối tượng bị phô bày bản chất:

Hèn chi chúng nói bội là bạc

Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.

(Hát Bội – Phan Văn Trị )

Dọa hăm đàn bà nên quá giỏi

Nghe hơi ăn cướp chạy dường thoi.

(Đồn lính trong làng – Phan Văn Trị )

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

(Con tôm – Học Lạc)

Cựa suôn máu đỏ tuôn đầy đất

Mỏ cắn lông vàng rụng khắp nơi

Cũng bởi ghét ganh ba tiếng gáy

Hay là giành xé hạt cơm rơi.

(Đá gà nòi – Nhiêu Tâm)

Bên cạnh chế giễu nhạo báng, họ còn sử dụng hình thức giả vờ. Giả vờ ngợi ca,

xót thương, tán thưởng. Học Lạc dành lời khen cho quan thượng Nguyễn Kim Trì:

Khôn khéo không ai dám sánh bì

Làm quan, tưởng phải khôn khéo trong giúp dân giúp nước, Học Lạc khiến ta bất

ngờ bởi sự khôn khéo đó:

Gói bánh bon chen bưng dưới chợ

Trồng trầu táy mót bán trong ty.

Trong khi đó những việc đáng phải khéo thì lại:

Việc nước hư nên chẳng kể gì

Cái án hạp binh nên xé thịt

Đành ăn hối lộ lại tha đi.

Hay trong “Bài vịnh quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn”, Học Lạc cũng

dành cho hắn những từ ngữ ngợi khen:

Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn

129

Lập tức sau đó là hàng loạt các từ ngữ, các hành động minh chứng điều ngược

lại:

Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan

Giặc đến Bến Tranh run lập cập

Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng

Khi thất thủ cũng muốn theo gương người xưa liều mình thủ tiết nhưng oái oăm

thay:

Ngặt vì con, vợ bận chưa an.

Tiếng cười châm biếm nhằm vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng trào phúng,

mức độ phê phán gay gắt, hình tượng nghệ thuật đạt đến độ sâu sắc. Học Lạc tô đậm

đặc điểm xấu xa làm người ta căm ghét, thậm chí phẫn nộ khiến người ta thấy cần phải

tiêu diệt những cái xấu đó cũng nhưng những điều kiện sản sinh ra nó.

Sắc thái đậm nét nhất trong tiếng cười của Phan Văn Trị là cười ra nước mắt,

cười chua cay. Tiếng cười ở đây không phải cười vui nữa mà là để phê phán, đả kích,

để tố cáo hiện thực xã hội. Đối tượng trước hết cần lên án vạch trần chính là bè lũ

thống trị, bọn quan tham làm tay sai cho Pháp. Có khi giọng chế giễu, mỉa mai lại

được biểu hiện bằng một hình thức trái ngược với điều vừa nói. Tác giả trình bày cái

tầm thường, vặt vãnh của đối tượng bằng một giọng thơ hệ trọng như đang nói về thứ

lớn lao. Trong thơ Phan Văn Trị, những con vật dùng ám chỉ bọn quan lại, tay sai, lũ

thực dân cướp được miêu tả, lộ ra cái vẻ oai nghiêm trong giọng điệu mỉa mai của tác

giả:

Mặt mũi như vầy cũng có râu

Trong đời chẳng biết dụng vào đâu.

(Con rận)

Nhảy lẹ chi cho bằng giống mèo

Chợt ngoảnh mặt hùm nhìn trực thị

Chi cho lũ chuột dám vang reo.

(Con mèo)

Béo miệng chẳng thương con trẻ dại

Cành hông nào đoái chúng dân nghèo.

130

(Con muỗi)

Lõ mắt không phân người phải quấy

Giơ càng chẳng lựa đứa ngay gian

Đưa mình theo nước hiềm không ruột

Lột vỏ già đời chẳng thấy gan.

(Con cua)

Hình như châu chấu vàng pha xám

Miệng tợ chuồn chuồn lại thấp cao.

(Cào cào)

Có thể nói đây là chỗ sâu sắc trong nghệ thuật châm biếm của Phan Văn Trị.

Nghệ thuật ấy làm cho ngòi bút chiến đấu của ông càng trở nên sắc bén. Lũ quan lại

tay sai cho giặc dưới ngòi bút châm biếm của Phan Văn Trị dần hiện ra thật lố bịch.

Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa mai ta không thể không nói đến giọng lên án,

chỉ trích. Đây cũng là một giọng điệu làm nên sự đa dạng trong giọng châm biếm.

Phan Văn Trị lên án tên Tôn Thọ Tường, Học Lạc lên án bọn hương chức dốt nát trong

làng... Dùng tiếng cười để châm biếm, đả kích, chê trách những hiện tượng chướng tai

gai mắt, những hành động vô đạo đức của các bề trên, cả những thói hợm hĩnh kệch

kỡm thì tiếng cười đả kích càng trở nên giòn giã, cười là cười phá lên, chửi là chửi

độc, chua chát đến ứa mật, ứa máu khiến chúng vô cùng hổ thẹn.

Đối với những đối tượng đả kích, sự miêu tả, tộ đậm một số khía cạnh khiến nó

trở nên khôi hài lố bịch quái dị. Ông táo của Phan Văn Trị thì “lõng khỏng cõng nồi”,

“lum khum đội chảo”, ông táo trong thơ Nhiêu Tâm cũng hợm hỉnh không kém với

thân hình “úc núc”, bị đem “bỏ ngoài khe”, bị trẻ “đái không kiêng”. Bọn quan lại

trong thơ Học Lạc được ông gọi với giọng mỉa mai là “các bợm làng” đang “đứng sắp

hàng” để chờ phục vụ quân xâm lược hay con trâu ngờ nghệch bị “mắc mưu đốt đít

chạy tơi bời”. Bọn này bị chúng nắm dây dẫn đi mà không biết bởi đầu chúng như

những con tôm đầu chứa toàn những “cứt”.

Ngôn ngữ trong thơ trào phúng Nam Kì mang những đặc trưng vùng miền rất

riêng, rất sinh động, đầy ấn tượng và thật chua cay, sắc nhọn. Tuy vậy, đằng sau tiếng

cười bao giờ cũng là nỗi lòng của các nhà thơ dành cho dân cho nước. Tiếng cười vạch

131

trần sự lố lăng trong xã hội, đả kích châm biếm ấy có tác dụng cảnh tỉnh, răn de, giáo

dục. Giọng châm biếm đả kích là một yếu tố góp phần bộc lộ tư tưởng, quan điểm của

các nhà thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh.

3.3.2. Giọng bông đùa, hài hước

Trong cuộc sống tiếng cười như một liều thuốc tinh thần, một cách giải trí không

tốn kém mà lại hiệu quả. Tiếng cười thoát ra giải tỏa mọi ưu phiền, bực bối trong lòng.

Bên cạnh giọng châm biếm đả kích, giọng hài hước, bông đùa mang lại tiếng cười mua

vui, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, có sự gặp gỡ với tiếng cười trong văn học dân

gian.

Cho nên hình tượng cái tôi trào phúng trong thơ Nhiêu Tâm là một cái tôi vui vẻ,

lạc quan, tinh nghịch. Vì thế nhà thơ có thể đưa vào thơ mình một giọng đùa cợt rất tự

nhiên, cách nói suồng sã thoải mái, phóng túng. Chính giọng điệu trào lộng, bỡn cợt,

đùa vui đó đã tạo ra nét hấp dẫn của thơ trào phúng Nhiêu Tâm. Ngay từ cách đặt nhan

đề cũng đã thấy được sự hài hước, hóm hỉnh bông đùa của các nhà thơ: Ghẹo gái bán

cau, Bỡn ông thầy đồ, Làm trời khó, Trẻ cha già con...

Nhiêu Tâm là người có cảm quan hài hước đặc biệt. Trong bất cứ hoàn cảnh nào

ông cũng có thể cất lên tiếng cười. Giọng bông lơn, đùa cợt được thể hiện nhiều khi có

vẻ quá lời như khi ghẹo cô gái bán cau, nhưng tuy lời độc mà ý lành cốt để mua vui

một cách khoan khoái:

Tốt vóc mà trong biết thế nào?

Giấu ở trong buồng e đóng đục

Bày ra trước mặt thấy ngon dao

Quyết mua nên phải coi từ vú

Có bán thì cho thử cái nào.

Nhà thơ vẽ nên chân dung Ông Táo với những nét thật thú vị:

Xưa là cục đất ở bờ khe

Nhồi nắn nên hình lão táo be

Vỗ vóc nên hình thân úc núc

Đặt tên dùi bụng chúng kiêng dè.

132

Những tình huống trớ trêu bắt gặp trong cuộc sống khiến người ta cười ra nước

mắt cũng là đề tài mà Nhiêu Tâm hay chắp bút. Lời lẽ tinh nghịch, hóm hỉnh nhưng sự

đùa cợt không hề độc địa khi nói về chuyện cưới hụt qua bài thơ “nói con chị, cưới

con em”:

Xí hụt bao giờ ngẫm mới hay

Vàng đôi dì nó đặng đeo tay

Cười ra nước mắt là dường ấy

Khóc lại hổ ngươi vốn sự này

Ráy nấu bao lâu chưa hết sượng

Gừng đâm mấy nước vẫn còn cay

Sấm sanh gương lược phòng nâng đỡ

Tưởng đặng kêu anh té dượng mày.

Chuyện cưới xin trong thơ Nhiêu Tâm còn được nhắc đến trong bài thơ Trẻ cha

già con Ở đó tác giả kể một sự việc trái khoáy, ngược đời khiến ta có những tràng cười

thoải mái:

Của đời thấy vậy dửng dừng dưng

Cha trẻ con già ngộ quá chừng

Nọ nó ông gia khờ khịt mặt

Này này chàng rể rụng trơn răng.

Khi gặp khó khăn trong cuộc sống, ai ai cũng than khổ nhưng Nhiêu Tâm đã

chứng minh rằng, mình như vậy vẫn không khổ bằng trời. Ông kể ra những việc làm

chứng tỏ rằng “làm trời khó” hơn làm người một cách tếu táo:

Giữ chức thiên hoàng khó phải chơi

Thế gian muôn sự cứ trời ơi

Mưa dầm bão lụt kêu khan tiếng

Nắng hạn khô khan réo hết lời

Bất hiếu giận con kêu mắng vốn

Vô tình đạp phẫn lại thỉnh coi

Cuối cùng ông kết luận:

Làm trời còn khổ vì thiên hạ

133

Hà huống chi ta sống ở đời.

Có lẽ điều mà Nhiêu Tâm vừa nói ra ai ai cũng phải bật cười và thừa nhận, làm

trời còn khó thì mình như vậy cũng đã là may mắn. Họ lại lạc quan, vui sống và tìm

cách để giải quyết khó khăn của mình. Tiếng cười bật ra giòn tan vui vẻ.

Tiếng cười hài hước trong thơ Học Lạc lại khéo léo, nhẹ nhàng khi vạch ra các

mâu thuẫn, tạo tiếng cười bất ngờ giúp ta nhận ra cái trớ trêu của tình huống nhưng rồi

lại quên ngay để nhìn về sự lạc quan. Đây là nụ cười hiền lành, thân mật khi an ủi một

người bị đóng trăng cùng:

Phạt tạ xong rồi trở lộn về

Quá thời hốt thuốc, lứ bông vụ

(Ngồi trăng)

Hay hóm hỉnh khi “lấy gương soi ngẫm lại luống cười thầm”:

Say dựa gối ngâm thơ cho vợ ngủ

Buồn chong đen đánh kiệu với con chơi.

(Không đề)

Bêu rếu những kẻ có chức có quyền nhưng không có trí bằng cách nói về mình:

Nghĩ mình ti tiện không đài các

Văn chương chẳng phải bọn mèo quào

Danh phận không ra cái cóc rác.

(Tạ hương đảng)

Giọng điệu trào phúng của Học Lạc và Nhiêu Tâm hóm hỉnh, ý nhị với nhiều

cung bậc. Cái cười của họ không độc địa bốp chát, mà mang tính xây dựng. Thơ được

viết bằng ngôn ngữ bình dân, giản dị rất gần với tính cách của người lao động, có cái

duyên, châm biếm từ bên trong mà người đọc bật cười và đồng ý với vấn đề tác giả đặt

ra chứ không đơn thuần ở chữ nghĩa hay vần điệu. Với ngôn ngữ mộc mạc, dí dỏm và

thông hoạt, những bài thơ châm biếm thói hư tật xấu của xã hội với giọng bông đùa hài

hước khiến cho cuộc sống trở nên vui vẻ, nhẹ nhàng. Khôi hài, vui đùa nhưng vẫn

chứa đựng những bài học nhớ đời.

134

3.3.3. Sự kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hài

Cái hài có mặt từ rất sớm trong xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên trong những

hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của xã hội tiền giai cấp. Tiếng cười là yếu tố

không thể vắng mặt trong cái hài. Cái hài thuộc về khách thể thẩm mĩ còn cái cười lại

thuộc về chủ thể thẩm mĩ. Trong cuộc sống, cái hài nảy sinh trong cuộc đối đầu giữa

cái đẹp với cái xấu.

Khi xã hội đang còn cái xấu thì cái hài đang còn lí do dể xuất hiện. Xã hội Nam

Kì cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chính là một mảnh đất vô cùng màu mỡ để cái hài

sinh sôi nảy nở.

Nghệ thuật đặc biệt là văn học có khả năng thâm nhập sâu vào bản chất của cái

hài, tập trung tô đậm, khắc sâu những mâu thuẫn mang tính hài, khiến cho nó nổi bật

hơn, tiếng cười vì vậy nổ ra giòn giã, khoái trá hơn, ý nghĩa phê phán cũng vì vậy mà

thâm thía sâu sắc hơn. Cái hài trong nghệ thuật là sự phản ánh cái hài trong cuộc sống

nhưng ở dạng tiêu biểu, tinh túy và ổn định hơn. So với cái hài trong cuộc sống, cái

hài trong nghệ thuật còn có ưu thế hơn hẳn về sức tác động mạnh mẽ đối với dư luận

xã hội, bởi vì việc cảm thụ cái hài trong nghệ thuật thường mang tính tập thể, phản ánh

tinh thần công khai và dân chủ .

Để làm tốt nghĩa vụ xã hội của mình, các nhà thơ Nam Kì luôn cho ra đời những

tác phẩm trào phúng kịp thời vạch trần những cái xấu, cái ác đúng lúc nó đang hoành

hành nghiêng ngửa, góp phần thúc đẩy, kích thích mạnh mẽ hơn không khí phê bình

của xã hội. Họ trở nên nhanh nhạy khi nắm bắt các vấn đề, các hiện tượng đáng phê

phán trong xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Cái hài pha

vào bi, làm nổi bật cái bi đang chế ngự cả xã hội.

Khi nghe tiếng kèn của giặc thổi vang, Phan Văn Trị đã chua chát, xót xa trọng

dạ. Đó là cái bi, là cảm giác đau lòng khi biết rằng mảnh đất thân yêu của dân tộc đã

nằm trong tay kẻ cướp nước. Tuy vậy, Phan Văn Trị lại cười, một cái cười mang nhiều

niềm đau. Ông “ngậm cười” khi nói về vai trò của triều đình, chúng thật “hết nói

nổi”. Triều đình giờ đây cũng chính là giặc, thậm chí chúng còn gian ác hơn cả ngoại

xâm bởi chúng có quyền một cách danh chính ngôn thuận. Lập nên những “đồn lính

135

trong làng” không phải là để giữ gìn sự êm ấm của nhân dân mà để làm những việc

làm rất đáng khinh bỉ:

Sớm đón ghe lên xin quýt núm

Chiều ngăn thuyền xuống kiếm dưa còi.

Những việc làm đáng cười của cái đồn lính ấy cũng làm nổi lên sự vất vả cũng

như đáng thương của nhân dân ta. Cái hài làm nổi bật cái bi khến cái bi càng thêm

thảm hại.

Thực dân Pháp đặt ách thống trị lên Nam Kì, chủ trương ru ngủ dân đen bằng

những chiếc bánh vẽ với những hứa hẹn về một ngày không xa nhất định sẽ tốt đẹp

hơn thực tại, chúng đến với sứ mệnh khai hóa, mở mang nhưng thực chất lại là đan áp,

cướp bóc. Vì thế, những bài thơ vạch mặt sự giả dối của các nhà thơ trào phúng nam kì

bao giờ cũng nẩy lên những tiếng cười, tràng cười đủ cỡ, đủ mức vào cung cách đối xử

của lũ thống trị và kẻ bề trên miệng ra rả giảng đạo đức cho mọi người, còn bản thân

chúng thì đê tiện, bỉ ổi hết sức. Niềm lạc quan yêu cuộc sống của lớp người dưới đáy

xã hội thời phong kiến đã là nguyên nhân làm nảy sinh những tiếng cười.

Khi những chuẩn mực bị lệch pha, cái hài xuất hiện. Phan Văn Trị thẳng tay đả

phá, cười vào cái đạo đức giả của Tôn Thọ Tường, cười vào cái luận điệu giả dối của

hắn để nhắc nhở phải sống sao cho đúng đạo lí. Nhiêu Tâm thấy xuất hiện rất nhiều

cái lệch chuẩn này trong xã hội đương thời, nào là cha trẻ con già, nào là những kẻ

mang tư tưởng con gà tức nhau tiếng gáy, tranh giành hạt cơm rơi mà quên đi mình là

đồng loại, những cái xấu về mặt xã hội, xấu về đạo đức, về nhân cách, xấu về lối sống

vì lí tưởng như: thói xu nịnh, háo danh, giả dối, độc ác, … là đối tượng của cái hài

trong thơ ông.

Các nhà thơ đã sử dụng tiếng cười như một sự phản kháng lại xã hội, môt thái độ

bất bình của nhân dân với tầng lớp trên và kẻ thù của họ. Châm biếm mỉa mai là một

dạng thức của cái hài. Cái cười trong cái hài là cái cười đặc biệt nhằm vào đối tượng

cụ thể, là cái cười có mục đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tiếng cười trong cái hài, là

một loại vũ khí, phương tiện, để phê phán mặt trái của cuộc sống, để phủ định tất cả

những gì xấu xa, giả dối, lỗi thời, đó là hình thức phê phán đặc biệt và khẳng định cái

136

mới, cái tốt đẹp. Trong bản chất, cái hài hoàn toàn đối lập với cái bi. Tuy nhiên, ở thơ

trào phúng của các nhà thơ Nam Kì, cái hài lại làm nổi bật lên cái bi.

Lời thơ của các nhà thơ Nam Kì lúc châm biếm, đả phá, lúc trào lộng, hóm hỉnh.

Quy luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua

xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước mắt. Chính yếu tố trữ tình đã khiến

cho yếu tố trào phúng thêm thâm thúy, chua xót. Cái hài trong cái bi mang lại ý nghĩa

xã hội sâu sắc, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, cách nhìn đời của

các nhà thơ.

137

KẾT LUẬN

Văn học trào phúng cuối thế kỉ XIX ở Nam Kì Lục Tỉnh đã phát triển thành

dòng, thành hướng riêng trong nền văn học. Sự phát triển của nó được tiếp tục mạnh

mẽ sang đầu thế kỉ XX. Các tác giả của văn học hiện thực trào phúng giai đoạn này

hầu hết là những nho sĩ, giữ gìn khí tiết của nho gia, tiếp thu tinh thần yêu nước của

dân tộc và có tinh thần căm thù giặc. Lòng yêu nước của họ biểu hiện chủ yếu ở thái

độ bất mãn với chế độ thực dân phong kiến. Sáng tác văn thơ của họ trước hết là để tỏ

rõ thái độ đó đồng thời cũng là tìm kiếm niềm vui, sự lạc quan trong hoàn cảnh nước

nhà đang buổi giao thời.

Thơ ca hiện thực trào phúng đã có mặt ngay trong những ngày đầu của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ở vùng đất Nam Kì với nhiều cây

bút tiêu biểu như Phan Văn Trị, Học Lạc,...đả kích bọn tay sai cho giặc. Trong thời

gian kháng Pháp, nó vẫn tiếp tục ra đời với những cây bút tiêu biểu khác như Huỳnh

Mẫn Đạt, Nhiêu Tâm,...Tuy nhiên thời kì phát triển nhất của thơ văn hiện thực trào

phúng trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX này là từ sau khi thực dân Pháp

đã hoàn thành căn bản cuộc xâm lăng của mình trên vùng đất Nam Kì và hình thành

nên xã hội thực dân nửa phong kiến với tất cả những cảnh tượng lố lăng, hỗn loạn của

nó. Các nhà thơ hiện thực trào phúng vùng Nam Kì Lục Tỉnh đã cho chúng ta thấy rõ

những cảnh tượng thương tâm, kệch cỡm của xã hội bấy giờ một cách rõ nét.

Thơ ca hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đã để lại một nội

dung tố cáo xã hội sâu sắc. Đối tương tố cáo của nó là những kẻ xâm lược tàn ác cũng

như bọn tay sai bán nước hại dân. Có thể nói, văn học hiện thực trào phúng giai đoạn

này đứng rất gần với cuộc đấu tranh của thời đại, của nhân dân và phản ánh đầy đủ

cuộc sống xã hội thời điểm này. Nó đứng đầu chiến tuyến, hỗ trợ cho nhân dân kháng

chiến với tinh thần lạc quan. Đồng thời, nó cũng là một kho tư liệu phong phú, sinh

động cho chúng ta tìm hiểu về xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm cuối thế

kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.

Bên cạnh những đóng góp về nội dung tư tưởng, văn học hiện thực trào phúng

miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX còn có những cống hiến to

lớn về mặt nghệ thuật. Các nhà thơ trào phúng xuất sắc của miền Nam đều đã để lại

138

những công trình sáng tạo về ngôn ngữ, hình ảnh và phương pháp trào phúng vô cùng

độc đáo. Nghệ thuật của họ bắt nguồn từ chính cuộc sống thường ngày, đi tìm sức

mạnh từ trong hiện thực đời sống. Đặc biệt trong nghệ thuật trào phúng ấy phải kể đến

sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình, giữa cái bi và cái hài tạo nên

chiều sâu cho những vần thơ hiện thực trào phúng.

Phát triển với ảnh hưởng sâu sắc của những biến cố lịch sử quan trọng, lớn lao

của đất nước, văn học hiện thực trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này có một vị

trí đáng chú ý trong lịch sử văn học nước nhà nói chung. Nó là một bộ phận của văn

học cả nước, góp tiếng nói, hương sắc của mình vào vườn thơ của đất nước. Nó như

truyền sức mạnh cho sự chuyển mình tiến lên mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong giai

đoạn cuối cùng của văn học trung đại, chuyển đổi sang nền văn học hiện đại. Nó là sản

phẩm đặc biệt của văn học cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.

Với tấm lòng yêu mến và biết ơn những đóng góp to lớn đã làm đẹp cho vườn

thơ đất nước của các nhà thơ trào phúng Nam Kì Lục Tỉnh mà tiêu biểu là Phan Văn

Trị, Huỳnh Mẫn Đât, Học Lạc và Nhiêu Tâm, chúng tôi đã tìm tòi, tổng hợp trong thơ

ca của các tác giả để làm rõ những đặc điểm nổi bật cả về nội dung và nghệ thuật trong

thơ ca của họ. Chúng tôi mong ước sẽ đóng góp một cách nhìn để thấy được vai trò và

giá trị của thơ ca trào phúng hiện thực Nam Kì Lục Tỉnh trong nền văn học Việt Nam.

Qua đó thấy được sức mạnh của tiếng cười trào phúng trong việc phản ánh hiện thực

xã hội buổi giao thời ở miền Nam Kì Lục Tỉnh cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.

Chúng tôi cũng mong muốn những thông tin có giá trị về thân thế, sự nghiệp cũng như

những nét độc đáo trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm thơ ca hiện thực

trào phúng của những nhà thơ trào phúng xuất sắc ở Nam Kì Lục Tỉnh giai đoạn này là

Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc và Nhiêu Tâm mà chúng tôi cung cấp sẽ là

những gợi ý thích đáng, những kiến thức bổ ích giúp người đọc dễ dàng khám phá và

đến gần, yêu mến hơn với thơ ca hiện thực trào phúng của những tác giả này.

139

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Văn hỌc Nam BỘ tỪ đẦu đẾn giỮa thẾ kỈ XX (1900-

1954), Nxb Tp. HCM.

2. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Những danh sĩ miền Nam, Nxb Tổng hợp

Tiền Giang.

3. Nguyễn Bình, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An, Tác giả văn học Việt Nam, tập 1,

Nxb Giáo dục.

4. Trần Đức Cường (Chủ biên), Võ Sĩ Khái, Nguyễn Đức Nhuệ, Lê Trung Dũng,

Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội.

5. Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở

Nam Kì Lục Tỉnh, Nxb Trẻ.

6. Hồng Hạnh, Dấu xưa Nam Bộ (Ghi chép, sưu khảo), Nxb Văn nghệ.

7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb

Giáo dục.

8. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 1 - Miền Nam và văn học dân

gian địa phương, Nxb Trẻ.

9. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 2 – Văn học Hán Nôm thời

khai mở và xây dựng đất mới, Nxb Trẻ.

10. Nguyễn Văn Hầu, Văn học Miền Nam Lục Tỉnh, tập 3 - Văn Học Hán Nôm thời

kháng Pháp và thuộc Pháp, Nxb Trẻ.

11. Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang,

Nxb Trẻ.

12. Vũ Phúc Huy (Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ, Phạm Quang Trung, Lịch sử Việt

Nam (1858 – 1896), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện

Sử học, Nxb Khoa học Xã hội.

13. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Nxb Văn học.

14. Vũ Ngọc Khánh (Hà Nội – 1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam (Phần văn viết từ

thế kỉ XIII – 1945), Nxb Văn học.

15. Thanh Lợi, Sài Gòn - Đất và người, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.

140

16. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII,

XIX, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học Xã

hội tại thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội.

17. Sơn Nam, Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mĩ tục Việt Nam

biên khảo, Nxb Trẻ.

18. Sơn Nam, Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam biên khảo, Nxb Trẻ.

19. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam biên khảo, Nxb Trẻ.

20. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Văn nghệ TP. Hồ

Chí Minh.

21. Trần Thị Nhung (Chủ biên), Lịch sử vùng đất Nam Bộ - Một số kết quả nghiên

cứu, Nxb Khoa học Xã hội.

22. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.

23. Lữ Huy Nguyên, Tú Xương - Thơ và đời, Nxb Văn học.

24. Nguyễn Liên Phong – Nguyễn Q. Thắng chủ dịch, giới thiệu, Nam kì phong tục

nhơn vật diễn ca, Nxb Văn học.

25. Nguyễn Liên Phong, Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập, Nxb Văn Hóa - Văn Nghệ.

26. Trương Hữu Quýnh, Phạm Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt

Nam, Tập 1, Nxb Giáo Dục.

27. Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

28. Vũ Thanh Sơn, Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam Cuối Thế Kỷ XIX Đầu Thế Kỷ XX

(Quyển 9), Nxb Quân Đội Nhân Dân.

29. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Tp. HCM.

30. Văn Tân, Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến 1945, Nxb Khoa học

Xã hội

31. Võ Văn Thanh, Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Nxb Trẻ.

32. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Tổng hợp

An Giang.

33. Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh, Đất và người Nam Bộ, Nxb Trẻ.

34. Trần Nho Thìn, Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb

Giáo dục.

141

35. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Thơ ca chữ Quốc ngữ Việt Nam đầu

thế kỉ XX, quyển 4, tập 2, Nxb Văn học.

36. Nguyễn Văn Thuần – Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị - Cuộc đời và tác phẩm,

Nxb TP. Hồ Chí Minh.

37. Lê Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa pháp ở Việt Nam

1858-1897, Nxb Hồng Đức.

38. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1976), Lịch

sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

39. Kiều Văn, Giai thoại lịch sử Việt Nam, tập 6 – Danh nhân văn hóa và chí sĩ chống

ngoại xâm thời Nguyễn, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.

40. Hỏi đáp về lịch sử Việt Nam, Tập 4 – Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất

(1858 – cuối thế kỉ XIX), Nxb Trẻ.

41. Thơ văn yêu nước 1858 - 1990 (1976) , Nxb Văn học, Hà Nội.