ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGÔ THỊ HUYỀN TRANG
THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
Ở NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH HỒ CHÍ MINH HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ THỊ HUYỀN TRANG
THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
Ở NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THẾ THẮNG
Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ........................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. .......................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn ......................................... 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn ......................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ...................................................... 6
7. Bố cục của Luận văn ................................................................................. 6
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG
GIÁO DỤC ................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ trong giáo dục .............................. 7
1.1.1. Dân chủ ..................................................................................................... 7
1.1.2. Dân chủ trong giáo dục ......................................................................... 9
1.1.3. Nhà trường đại học ............................................................................... 11
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục dân chủ ........................ 12
1.2.1. Dân chủ là quyền ai cũng được học hành ................................. 12
1.2.2. Lực lượng tham gia vào giáo dục chính là nhân dân để phục vụ
cho nhu cầu học tập của nhân dân. ..................................................... 15
1.2.3. Mục đích của nền giáo dục dân chủ mới ........................................ 16
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong quản lý nhà
trường ................................................................................................................ 19
1.3.1. Vai trò của dân chủ trong quản lý nhà trường ......................... 19
1.3.2. Vai trò và yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trong thực hành dân chủ ở nhà trường ............................................... 23
1.3.3. Vai trò và yêu cầu của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong việc thực
hành dân chủ ở nhà trường đại học .................................................... 27
1.3.4. Yêu cầu đối với người học trong trường đại học ...................... 32
1.4. Dân chủ trong giảng dạy và học tập ................................................. 36
1.4.1. Dân chủ trong nội dung giáo dục và đào tạo ............................ 36
1.4.2. Dân chủ trong phương pháp giảng dạy .................................... 37
1.4.3. Dân chủ trong phương pháp học tập ........................................ 42
Tiểu kết chương 1:..................................................................................... 46
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC
HÀNH DÂN CHỦ TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................. 47
2.1. Thực trạng thực hành dân chủ trong nhà trường đại học ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................ 47
2.1.1. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt dân
chủ tại các nhà trường đại học ở Việt Nam hiện nay ................................ 47
2.1.2. Thành tựu, hạn chế trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại
học Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 51
2.2. Phương hướng và giải pháp thực hành dân chủ trong nhà
trường đại học ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................. 76
2.2.1. Một số phương hướng thực hành dân chủ ở nhà trường đại học
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................................. 76
2.2.2. Một số giải pháp thực hành dân chủ trong nhà trường đại học
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................................. 80
Tiểu kết chương 2:................................................................................... 101
KẾT LUẬN .............................................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề giáo dục, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời của cách mạng
Việt Nam. Với triết lý đã trở thành niềm tin sâu sắc “một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã lên án “chính sách ngu
dân” và “nền giáo dục nô lệ” của chính quyền thực dân áp dụng ở Việt Nam. Năm
1930, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Người đã nêu
khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”, tức là phải tiến hành phổ cập giáo dục, tạo
điều kiện để ai cũng được học hành, được hưởng dân chủ trong giáo dục.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước đó đã thực thi một nền dân
chủ rộng rãi khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có dân chủ trong giáo
dục, bởi “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn
hóa”, giáo dục là một mặt trận quan trọng. Thực hiện dân chủ trong giáo dục nhằm
thúc đẩy giáo dục phát triển. Giáo dục là hoạt động liên quan đến vấn đề nguồn nhân
lực cho sự phát triển của một quốc gia, cho nên thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ kìm
hãm sự phát triển của nguồn nhân lực- động lực quan trọng nhất, quyết định nhất của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ làm giảm chất
lượng của nguồn nhân lực, nó sẽ đi ngược lại với xu thế phát triển của thời đại - xu
thế đầu tư vào con người.
Trong giai đoạn đổi mới và phát triển hiện nay của đất nước, tư tưởng đó của
Người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam, nó không chỉ là cơ sở lý luận
cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát
triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là
những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và
hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung
hiện nay. Bài học này nhắc chúng ta luôn quán triệt rằng một nền giáo dục mới nhất
thiết phải thực hiện tốt dân chủ mới; một nhà trường phát triễn vững mạnh nhất thiết
1
phải có dân chủ và thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động giáo dục. Dân chủ đó nhất
thiết phải gắn liền kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm
khắc đối với những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động giáo dục
bằng những chế tài nhất định. Đó là tiền đề, là cơ sở cho mọi năng lực của ta, sáng
kiến của ta, tiến bộ của ta luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng xứng đáng là
một nền giáo dục mới Việt Nam mà “con mắt đại bàng của tư duy” của Hồ Chí Minh
đã phát hiện và dày công vun đắp.
Trong những năm gần đây, việc thực hành dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường đại học của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên những hạn
chế, bất cập vẫn còn tồn tại. Trong các trường đại học vẫn còn tình trạng mất dân chủ,
dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn hoặc lợi dụng dân chủ để trục lợi cá nhân, xúi
giục những hành động vi phạm pháp luật, vi phạm dân chủ.
Để phát triển giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục đại học nói riêng đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu, tuy nhiên chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn
nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề thực hành dân chủ trong giáo dục ở các
trường đại học. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Thực hành dân chủ trong
giáo dục ở nhà trường đại học Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm
luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, giáo dục và dân chủ trong
giáo dục ở Việt Nam trong những năm gần đây các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu
vào những vấn đề sau:
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vai trò của
tư tưởng đó đối với sự nghiệp đổi mới đất nước có: PGS, TS. Phạm Hồng Chương
trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2004. Trong công trình này tác giả đã đưa lại một cách nhìn khái quát về tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, phân tích nội dung dân chủ trong các lĩnh vực cụ
thể và làm rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục ý thức dân chủ
cho người dân trong xã hội; TS. Phạm Văn Bính, với công trình: Phương pháp dân
chủ Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, phản ánh nét đặc
2
sắc trong phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp dân chủ, nêu rõ nguồn gốc của
phương pháp dân chủ, từ đó tác giả đã đề ra giải pháp để hoàn thiện phương pháp
lãnh đạo dân chủ của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh; công trình này là kết quả nghiên cứu của tác giả từ
luận án tiến sỹ triết học với đề tài “Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của
Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”; những
công trình như: Dân chủ- di sản văn hóa của Hồ Chí Minh, Nguyễn Khắc Mai, nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội, 1997; 100 câu nói về dân chủ của Hồ Chí Minh, Nguyễn
Khắc Mai, nhà xuất bản trẻ, 2001; Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh của hai tác giả
Phạm Thành, Nguyễn Khắc Mai, nhà xuất bản trẻ, 1991, các tác giả đã chỉ ra nguồn
gốc của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về địa vị của người chủ, các hình thức
biểu hiện dân chủ.
Những công trình khoa học và luận văn nghiên cứu về vấn đề dân chủ có thể
kể đến: Nguyễn Thế Phúc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị- Giá trị
lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh
học, Hà Nội, 2008
Hầu hết các công trình trên đã tập trung phân tích định nghĩa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về dân chủ, chỉ ra được giá trị của việc thực hiện dân chủ trong quá trình
xây dựng Nhà nước dân chủ ở Việt Nam và thực hiện dân chủ trong bộ máy chính
quyền và hệ thống chính trị.
Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và việc vận dụng tư
tưởng đó trong giai đoạn hiện nay có TS. Nguyễn Văn Chung với cuốn sách “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới”, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2010 đã đưa ra
cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, hệ thống quan điểm của Hồ Chí
Minh về giáo dục và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của Đảng cộng
sản Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách “Phát triển nền giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI theo tư tưởng Hồ Chí Minh” do Nguyễn Thị Nga (chủ biên) đã phân tích khái
quát tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh như mục
3
tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục để trên cơ sở đó khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho chiến lược phát
triển con người, phát triển giáo dục ở Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua, mà
còn định hướng cơ bản đối với việc đổi mới, chấn hưng phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong thời gian tới.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại
học Việt Nam hiện nay” do TS. Hoàng Anh (chủ biên) xuất bản năm 2013 đã phân
tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, khẳng định tầm quan trọng của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại
học hiện nay và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục có cuốn sách của
TS. Võ Văn Lộc, Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, công trình đã có sự tìm tòi công phu để chứng
minh Hồ Chí Minh là người khai sáng nền dân chủ và giáo dục dân chủ mới ở Việt
Nam, tác giả tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục theo phương
pháp lịch sử, bằng sự trích dẫn các lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo chủ đề rồi
mô hình hóa, tác giả đã nêu lên một số quan điểm dân chủ của Người với đời sống
chung và đời sống giáo dục.
Về thực hành dân chủ ở các trường đại học, TS. Đồng Văn Quân với cuốn
sách “Thực hiện dân chủ trong các trường đại học nước ta hiện nay” do nhà xuất bản
Chính trị quốc gia phát hành năm 2014, đã nêu lên tầm quan trọng của việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, khảo sát thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở các trường
đại học tại Việt Nam hiện nay và đề ra một số giải pháp để thực hiện tốt quy chế dân
chủ trong nhà trường tại các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Các công trình công bố trên các tạp chí khoa học có: Nguyễn Văn Nam, Quán
triệt tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới, tạp chí
Công tác tư tưởng và văn hóa, sô 6, 1992; Lê Huy Thực, Hồ Chí Minh về cơ chế thực
hiện dân chủ, tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4, 1992; Hoàng Trang, Về dân chủ trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, 1998; Nguyễn Tiến Phồn, Tư
4
tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ, tạp chí Triết học, số 6, 1997; Hoàng Chí
Bảo, Hồ Chí Minh - Nhà lý luận và thực hành dân chủ, Thông tin chính trị học, Hà
Nội, 2000. - Nguyễn Trọng Chuẩn, “Vai trò động lực của dân chủ”, Tạp chí triết học,
số 5- 1996; Vũ Ngọc Hải, “Hệ thống giáo dục quốc dân hướng tới xây dựng xã hôi
học tập suốt đời ở nước ta”, Tạp chí Giáo dục, số 63- 2003; Võ Văn Lộc , “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập”, Tạp chí Giáo dục, số 57- 2003.
Nhìn chung, những công trình trên, tác giả đã nêu lên một cách tổng quát về tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và bước đầu tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, về thực hành dân chủ trong
giáo dục nhà trường đã cho tác giả luận văn có cách nhìn toàn diện hơn về tư tưởng
dân chủ, giáo dục của Hồ Chí Minh. Thông qua các công trình nghiên cứu, khảo sát
đã cung cấp cho tác giả một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu một cách có hệ thống về một lĩnh vực cụ thể của dân chủ là dân chủ trong
giáo dục và đặc biệt là vận dụng tư tưởng đó vào quá trình thực hiện dân chủ trong
giáo dục ở nhà trường đại học nước ta hiện nay thì tác giả chưa thấy một công trình
nào thực hiện ở mức độ luận văn theo phương pháp tiếp cận chính trị học.
Kế thừa những thành quả mà các nhà khoa học đã đạt được, chúng tôi đi vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, làm rõ những luận cứ
khoa học để từ đó rút ra ý nghĩa đối với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay thông
qua việc vận dụng tư tưởng dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh vào quá trình
thực hiện dân chủ trong nhà trường đại học Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Mục đích:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục từ đó tìm ra những giải pháp để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hành dân chủ trong nhà trường đại học ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những
vấn đề sau:
+ Làm rõ khái niệm dân chủ, dân chủ trong giáo dục
5
+ Làm rõ một số nội dung tư tưởng dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh
+ Tìm hiểu thực trạng dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đại học nước ta
hiện nay.
+ Luận văn đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đại học Việt Nam đạt hiệu quả cao.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng:
+ Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục.
+ Sự vận dụng tư tưởng của Người trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại
học nước ta hiện nay.
- Phạm vi:
+ Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng dân chủ và dân chủ trong giáo dục
của Hồ Chí Minh.
+ Đề tài tiến hành khảo sát việc thực hiện dân chủ trong giáo dục tại một số
trường đại học công lập ở khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thời gian khảo sát: từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam về dân chủ trong giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu của Luận văn: Luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: logic- lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp so
sánh, nghiên cứu văn bản học và nghiên cứu trường hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục
- Là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy và học tập các
chuyên ngành Chính trị học, Hồ Chí Minh học.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
6
chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ trong giáo dục
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người và loài người. Dân chủ theo nghĩa gốc của nó bắt nguồn từ
chữ Hy Lạp cổ là Demokratos, từ có cấu tạo gồm: demos là nhân dân, kratos là sức
mạnh. Hai bộ phận này kết hợp thành một khái niệm “dân chủ” với nội dung: dân là
sức mạnh, dân có quyền lực.
Quá trình hình thành và phát triển dân chủ là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và có xung đột giai cấp, tức là từ
chế độ chiếm hữu nô lệ trở đi, cách đây hàng vạn năm, các cuộc đấu tranh giai cấp
liên tục diễn ra, giữa giai cấp thống trị và đông đảo quần chúng bị thống trị, bị áp bức
và bóc lột. Các chế độ xã hội có giai cấp đã tổ chức nên nhà nước. Đó là thể chế
chính trị của giai cấp thống trị. Do đó, dân chủ biểu hiện thông qua chế độ nhà nước
thành chế độ dân chủ hay nền dân chủ.
Xuất hiện trong điều kiện có giai cấp nên cả Nhà nước và chế độ dân chủ đều
mang bản chất giai cấp. Nhà nước là công cụ để thực hiện lợi ích và duy trì quyền lực
của giai cấp thống trị, nên chế độ dân chủ bao giờ cũng chỉ phục vụ cho giai cấp
thống trị. V. Lênin gọi các chế độ dân chủ đó, kể cả dân chủ tư sản là dân chủ của
một thiểu số. Quần chúng nhân dân trong xã hội nếu có được hưởng một số quyền
dân chủ nào đó, thì điều đó chỉ do họ đấu tranh mà giành được, giai cấp thống trị
muốn tồn tại được buộc phải đáp ứng một số đòi hỏi dân chủ nhất định cho dân chúng
dù rất hạn chế và thường bị cắt xén.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện trong lịch sử khi giai cấp
công nhân tiến hành cách mạng, chống chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quyền thống trị của
giai cấp tư sản và trở thành chủ thể của quyền lực, thiết lập nên nhà nước và chế độ
dân chủ của mình. V. Lênin gọi đó là nền dân chủ vô sản, dân chủ mang bản chất giai
cấp công nhân, dân chủ cho quảng đại quần chúng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân chủ được Người giải thích một
7
cách ngắn gọn khi trả lời cho câu hỏi “dân chủ là như thế nào?”: “là dân làm chủ”. Có
lúc Người diễn đạt: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Cũng có thể thấy rõ hơn quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ với một sự lý giải cô
đọng khi Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền đoàn thể từ xã đến chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [55, tr.232]
Như vậy, quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh bao trùm trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ chính trị trong việc tổ chức và vận hành chính quyền, cho đến
các công việc kiến thiết đất nước như xây dựng kinh tế, văn hóa, giáo dục. Với quan
niệm “đổi mới, xây dựng, kháng chiến, kiến quốc” là “của dân” và “là công việc của
dân”. “Có thể nói, nội dung “của dân, “do dân”, “vì dân” trong khái niệm dân chủ của
Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng phản ánh súc tích và đầy đủ nhất nội dung của dân
chủ xét theo bất cứ cách tiếp cận nào” [18, tr. 46- 47]. Tóm lại, quan niệm tổng quát
nhất mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, trong đó
mọi “quyền hành” và “lực lượng” đều thuộc về dân, ở nơi dân.
Thông thường, khi nhắc đến dân chủ, nhiều người vẫn nghĩ nó chỉ thuộc về
lĩnh vực chính trị, hoặc xem xét nó như một phương thức tổ chức xã hội hiện đại. Tuy
nhiên, quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh còn giúp cho việc nhận thức được đúng
yêu cầu của dân chủ trong các quan hệ xã hội không thuộc về chính trị mà ở đó dân
chủ biểu hiện các giá trị thuộc về đạo lý con người như quan hệ trong gia đình, trong
trường học. Nói cách khác, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong một xã hội dân
chủ thì các quan hệ dân chủ không chỉ có trong nhà nước mà dân chủ còn phải có
trong mọi thiết chế xã hội, trong xã hội công dân, gia đình, đoàn thể... đều cần có dân
chủ. Theo cách hiểu này, dân chủ được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau
8
của đời sống xã hội, trong chính trị, kinh tế, giáo dục... Do đó, dân chủ không chỉ là
một giá trị chung, một sản phẩm của văn minh nhân loại mà nó trở thành một tiêu chí,
một mục tiêu phấn đấu chung của mọi quốc gia, dân tộc, của toàn nhân loại.
1.1.2. Dân chủ trong giáo dục
Trên thế giới và ngay cả ở nước ta đều có các quan niệm khác nhau về giáo
dục, nhưng phần đông đều thống nhất: “Giáo dục là hoạt động hướng tới con người
thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và
kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết
cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp
với mục đích, mục tiêu, chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời
sống xã hội” [35, tr. 106].
Đây là một hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội loài người, là điều kiện
không thể thiếu được để duy trì và phát triển con người và xã hội. Giáo dục là một bộ
phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, mà con người được giáo
dục là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động cơ, vừa là mục đích của phát triển xã hội.
Để phát huy được nhân tố con người trong giáo dục, ngày nay, xu hướng dân chủ hóa
giáo dục đang được đề cao và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa giáo dục có 2 cách
hiểu: 1) Trào lưu tư tưởng đổi mới, cải tổ nền giáo dục nhằm đáp ứng những nhu cầu
thực tiễn và thiết thực của đại đa số học sinh là con em nhân dân lao động. Dân chủ
hóa giáo dục đòi hỏi phải thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục
cho phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của đại bộ phận người học để họ có cơ
hội bình đẳng tiếp thu những giá trị văn hóa do giáo dục mang lại. 2) Biện pháp giáo
dục nhằm thay đổi phương pháp dạy- học sao cho phù hợp với sở trường và năng lực
tiếp thu của người học, khiến cho mỗi người học tự mình tích cực chủ động đến với
tri thức và sáng tạo ra con đường riêng để vươn tới và chiếm lĩnh một phần tri thức
một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Dân chủ hóa giáo dục đối lập với biện pháp
giáo dục quyền uy, áp đặt một cách đồng loạt mọi yêu cầu, nội dung lên toàn thể
người học, do đó dân chủ hóa giáo dục có tác dụng khơi dậy và giải phóng tiềm năng
của từng người học để họ tự trở thành chủ thể giáo dục của chính bản thân mình”[35,
9
tr.64].
Bàn về khái niệm dân chủ trong giáo dục, nhà giáo dục John Dewey, trong
cuốn sách Dân chủ và giáo dục - một dẫn nhập vào triết lý giáo dục đã giải thích:
“bởi vì giáo dục là một tiến trình xã hội, và có rất nhiều loại xã hội, cho nên tiêu chí
dùng để phê phán và giải thích giáo dục hàm ý một lý tưởng xã hội cụ thể. Hai điểm
được lựa chọn ra đánh giá giá trị của một hình thái tồn tại xã hội là: mức độ chia sẻ
các mối hứng thú của tất cả các thành viên của một nhóm; và mức độ trọn vẹn và tự
do của các mối quan hệ tương giao giữa một nhóm này với các nhóm khác. Nói cách
khác, một xã hội không đáng hoan nghênh là một xã hội đặt bên trong và bên ngoài
nó những rào cản ngăn chặn sự giao tiếp và truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do.
Một xã hội cho phép mọi thành viên chia sẻ bình đẳng lợi ích của nó và điều chỉnh
linh hoạt các thiết chế dựa vào mối quan hệ tương giao của các hình thái tồn tại liên
kết khác nhau, xã hội ấy cho tới nay có thể được coi là dân chủ. Với tính chất như
thế, một xã hội phải có một kiểu giáo dục giúp cho các cá nhân có được một mối
hứng thú riêng tới các mối quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội, và tạo ra những thói
quen tinh thần có thể duy trì những thay đổi xã hội mà không gây nên sự hỗn loạn”
[21, tr. 126]. Như vậy, dân chủ trong giáo dục chính là việc tạo mọi điều kiện để mỗi
cá nhân đều có thể truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm và kiến thức mà không
có một rào cản nào cả.
Nền giáo dục dân chủ là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Vấn đề dân chủ
trong giáo dục chủ yếu thể hiện vấn đề quyền cơ bản của con người trong giáo dục đó
là:
- Ai cũng có quyền và nghĩa vụ được học hành, quyền được học suốt đời
- Quyền và nghĩa vụ được tham gia vào quản lý, hưởng thụ giáo dục cả vật
chất lẫn tinh thần.
Giáo dục và đào tạo có nội dung, mục tiêu trang bị giá trị, kinh nghiệm dân
chủ, tri thức dân chủ, thái độ, kỹ năng, năng lực làm chủ (làm chủ tự nhiên, làm chủ
tri thức, kỹ thuật, làm chủ kinh tế, làm chủ chính trị, văn hóa, xã hội v.v.) cho người
học để hướng đến xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội.
Tóm lại, dân chủ trong giáo dục được thể hiện qua quyền được học hành,
10
quyền và mức độ tham gia quản lý, hưởng thụ giáo dục, được giáo dục. Giáo dục có
hình thức, phương pháp tổ chức, hoạt động, vận hành hiệu quả theo quy định của
pháp luật, trong đó mỗi chủ thể (cá nhân, tổ chức) tham gia quá trình giáo dục, được
tự chủ, tự do phát huy năng lực sáng tạo đa dạng của mình với mục đích: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân
để họ có thể tham gia vào đời sống xã hội.
1.1.3. Nhà trường đại học
Nền giáo dục của mỗi nước được chia làm nhiều bậc học khác nhau, trong đó
giáo dục đại học là bậc học đào tạo trình độ học vấn chuyên môn cao với mục tiêu
đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có
kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương ứng với trình độ đào tạo, có sức
khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo trình độ đại học được
thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có có
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp; từ một đến hai
năm đối người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. Mục tiêu đào tạo
trình độ đại học nhằm giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng
thực hành về một ngành nghề, có kỹ năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông
thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. Nội dung đào tạo trình độ đại học phải
đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành tương
đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết
vào công tác chuyên môn. Quá trình giáo dục đại học được thực hiện chủ yếu trong
các nhà trường đại học.
Nhà trường đại học là cơ sở giáo dục thuộc bậc đại học, kể cả học viện đào tạo
trình độ cao đẳng, đại học, có thể đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ khi được thủ tướng
Chính phủ giao, nhà trường đại học đặt dưới quyền của một hiệu trưởng (người đứng
đầu các đại học quốc gia, học viện, phân viện được gọi là giám đốc), nhằm đảm bảo
việc giáo dục sinh viên, học viên (nói chung là người học) và những hoạt động của
11
sinh viên, học viên, giảng viên và những thành viên khác” [35, tr. 447- 448].
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục dân chủ
1.2.1. Dân chủ là quyền ai cũng được học hành
Tư tưởng dân chủ trong giáo dục - đào tạo trước hết là quyền ai cũng được học
hành, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, vùng miền, cả
đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài đều có quyền lợi và nghĩa vụ học tập.
Mọi người đều có cơ hội học tập, học suốt đời.
Mục đích cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh - mục đích mà Người suốt đời
phấn đấu - là nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người:
“nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” [53, tr.64]. Suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã
hội mới - xã hội mà ở đó nhân dân thực sự là những người là chủ và làm chủ. Muốn
như vậy, trước hết phải bắt đầu từ công tác giáo dục trong nhân dân.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng xã hội mới, mà ở đó thực hiện nền giáo dục
“ai cũng được học hành”. Luận điểm “ai cũng được học hành” thể hiện tầm nhìn
chiến lược của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giáo dục và cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện giáo dục cho mọi người, chỉ sáu ngày sau khi đọc Tuyên ngôn
độc lập, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời (3- 9- 1945), với cương vị
Chủ tịch nước, Người đã ký ba sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha
bình dân học vụ, lo việc học cho dân; Sắc lệnh số 19/SL quy định hạn trong 8 tháng
làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học, ít nhất 30 người theo học; Sắc lệnh số
20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ (không mất tiền) và kêu gọi toàn dân tham gia
chiến dịch xóa mù chữ.
Để giải thích những điều quy định bắt buộc đó, tháng 10- 1945, Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm
cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ ” [53, tr. 40].
Suy rộng ra, ai cũng được học hành là một mục tiêu phấn đấu cho sự bình
đẳng xã hội. Như chúng ta đã biết, giáo dục vốn là bình đẳng, giáo dục là của mọi
12
người, giáo dục chỉ bị phân hóa, người lao động chỉ bị mất quyền học hành từ khi xã
hội có giai cấp và giai cấp thống trị nắm lấy giáo dục như một công cụ để thống trị xã
hội, bảo vệ lợi ích của mình. Do đó, “ai cũng được học hành” là nhu cầu của phát
triển của cá nhân và cũng là nhu cầu phát triển của xã hội. Một dân tộc mà người dân
không được học hành là một dân tộc dốt và cũng là dân tộc không có sức mạnh. Được
học hành là quyền của mỗi con người và là động lực của sự phát triển xã hội. “Ai
cũng được học hành” là cơ sở lý luận cho việc hình thành các quan điểm về xã hội
học tập.
“Ai cũng được học hành” là mọi lứa tuổi đều được học tập, học suốt đời ở
nhiều điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Quyền được học tập trong độ tuổi, quyền vừa
học vừa làm việc và quyền được học tập trong độ tuổi nghỉ ngơi nghĩa là quyền được
học suốt đời. Đối tượng giáo dục là tất cả mọi người, không phân biệt già, trẻ, trai,
gái, thành phần giai cấp trong xã hội, kể cả những người tàn tật, thiểu năng đều có
quyền học tập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương tiêu biểu: cháu Nguyễn
Ngọc Ký tàn tật cả hai tay, dùng chân để viết mà đã cố gắng phấn đấu trở thành một
học sinh giỏi. Đó là tư tưởng mang tính nhân văn sâu sắc của Người.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh mới thực sự
thực hiện quyền phụ nữ bình đẳng với nam giới, đặc biệt quan tâm quyền học tập của
phụ nữ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc ít người. Theo Người: “Phụ nữ lại càng cần
phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới,
để xứng đáng mình là một phần tử trong nước” [53, tr. 41]. Người rất quan tâm đến
các phong trào của phụ nữ, coi trọng vai trò của phụ nữ khi khẳng định: An Nam cách
mệnh phải có nữ giới tham gia mới thành công. Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội.
Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Người rất
quan tâm đến các phong trào của phụ nữ: dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ
nữ đã trở thành cán bộ chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và
phó giám đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành
chính, bí thư chi bộ đảng.v.v.. Đồng thời, Người cũng động viên chị em không ngừng
học tập: “Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa,
học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì
13
nhất định học được” [63, tr. 263].
Hồ Chí Minh cũng hết sức quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số, tạo mọi
điều kiện để con em dân tộc thiểu số, không phân biệt tuổi tác được đến lớp. Người
yêu cầu phải dạy văn hóa cho đồng bào dân tộc và thông qua dạy văn hóa mà tuyên
truyền đường lối cách mạng cho họ. Điều này phù hợp với đồng bào các dân tộc
không biết chữ quốc ngữ, nghe và nói tiếng Việt chưa rành, trình độ nhận thức nói
chung còn rất thấp.
Điều đặc biệt, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến những con người đã từng mắc
phải lỗi lầm. Ngày 07- 11- 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 150/SL về
tổ chức trại giam trong đó có nội dung tổ chức các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng
(V26). Hệ thống trường này đã góp phần tạo cho họ được học tập trong các trường
giáo dưỡng: xóa mù chữ, dạy nghề. Làm cho họ thức tỉnh lương tâm, hoàn lương sớm
trở về hòa nhập cộng đồng. Phần lớn, họ tin vào chế độ khoan hồng của chế độ dân
làm chủ, nhiều người trong số họ đã vươn lên làm giàu chính đáng trở thành chủ
những doanh nghiệp lớn, có nhiều người tham gia vào công tác giữ gìn an ninh trật tự
ở nơi cư trú được nhân dân tín nhiệm.
Khi chưa có chính quyền, Hồ Chí Minh tích cực đấu tranh với thực dân Pháp
đòi quyền được tự do học hành của nhân dân Đông Dương, trong Yêu sách Tám điểm
gửi Hội nghị Vécxây, Người đã đòi quyền “Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”. Khi đã giác ngộ chủ
nghĩa Mác- Lênin, phác thảo con đường cách mạng Việt Nam, Người cũng không
quên vấn đề giáo dục và đề xuất:
“1. Lập trường học cho công nhân;
2. Lập trường cho con cháu công nhân
3. Lập nơi xem sách báo” [51, tr. 335- 336].
Khi có chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “phổ thông giáo
dục”, phải “nâng cao dân trí”, thậm chí phải “cưỡng bách học chữ quốc ngữ”. Hồ Chí
Minh đã phát động chiến dịch “Diệt giặc dốt”, xóa nạn mù chữ và phát động phong
trào “bình dân học vụ”, tạo thành một xã hội học tập làm cho dân ta ai cũng có điều
14
kiện được học hành.
Người đã chỉ đạo xây dựng, đa dạng hóa các loại hình nhà trường, thu hút mọi
tầng lớp con em nhân dân lao động vào học. Đồng thời mở rộng các hình thức tổ
chức dạy, học để mọi người dân đều được học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo các
ngành, các cấp chính quyền phải tạo ra cơ hội, thời cơ tốt để mọi người được đi học
và có thể được học. Khát vọng học tập của nhân dân ta bị đè nén trong suốt 80 năm
trời dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã được thực hiện. Dưới sự dẫn dắt của
Người, chỉ sau một thời gian ngắn nền giáo dục Việt Nam mới đã nhanh chóng đưa
dân tộc ta từ chỗ 95% người mù chữ từng bước trở thành một dân tộc có học vấn, ai
cũng có quyền được học hành.
Có thể nói, “tư tưởng “Ai cũng được học hành” là một biểu hiện cao cả của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà xuất phát điểm đầu tiên của nó là từ lòng yêu
thương con người rất rộng lớn, đặc biệt là những con người nghèo khổ, bị áp bức bóc
lột. Ở tư tưởng này, dường như người ta còn thấy tư tưởng “hữu giáo vô loài” của
Khổng Tử, lại có cả bóng dáng của triết học phương Tây thế kỷ XVIII “giáo dục bình
đẳng cho mọi trẻ em”, đặc biệt là tư tưởng nhân văn cao cả của Mác- Lênin về giáo
dục phổ cập cho con người” [46, tr. 318- 319].
1.2.2. Lực lượng tham gia vào giáo dục chính là nhân dân để phục vụ cho
nhu cầu học tập của nhân dân.
Đỉnh cao của nền giáo dục dân chủ là tổ chức cho nhân dân tham gia vào giáo
dục và được hưởng thụ giáo dục. Ý tưởng xây dựng nền giáo dục dân chủ, nhân dân
đã được nhiều người đề cập đến trong những thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng chỉ
đến Hồ Chí Minh thì ý tưởng đó mới trở thành hiện thực, Hồ Chí Minh đã xây dựng
một nền giáo dục mà mọi người dân đều có quyền được tham gia và được hưởng thụ.
Từ khi chính quyền cách mạng được thành lập, tư tưởng xây dựng một nền
giáo dục đại chúng, dân chủ nhân dân đã được Hồ Chí Minh phát triển lên một cấp độ
mới và tổ chức thực hiện rất sáng tạo trong thực tiễn. Ngay từ những ngày đầu tiên
của chính quyền cách mạng, trường lớp và các phương tiện dạy học vô cùng khó
khăn, giáo viên chưa có, kinh phí và các điều kiện đảm bảo của chính phủ chưa có
nhưng Hồ Chí Minh đã dựa vào dân để phát động và tổ chức thành công phong trào
15
toàn dân tham gia diệt giặc dốt. Những nơi chưa có trường học thì dùng nhà dân làm
lớp học, mỗi nhà, mỗi làng, mỗi xã đều tận dụng mọi điều kiện cho việc học tập.
Không có thầy giáo thì mọi người đứng ra tự dạy cho nhau, người biết chữ dạy cho
người không biết chữ. Người dạy là quần chúng nhân dân, người học cũng là quần
chúng nhân dân, phương tiện dạy học được huy động trong nhân dân, kinh phí được
huy động từ sự đóng góp của cải, sức lực của nhân dân. Khi phát triển lên thành bình
dân học vụ và các nhà trường chính quy, Người nói: “Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng”; do đó, các cấp, các ngành phải tổ chức cho nhân dân tham tham gia vào quá
trình giáo dục bằng cách kết hợp giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội.
Trong bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 trường Đại học nhân dân,
Hồ Chí Minh giải thích: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [59, tr. 453]. Từ sự tin
tưởng vào sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp giáo dục, đào tạo
nói chung phải dựa vào dân, gắn bó với quần chúng nhân dân để được quần chúng
nhân dân tin yêu và giúp đỡ.
Như vậy, nền giáo dục dân chủ mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải là
nền giáo dục xuất phát từ nhân dân và quay lại phục vụ nhân dân, đảm bảo cho tất cả
người dân có quyền được học hành để hiểu và thực hiện quyền là chủ và làm chủ của
mình trong chế độ mới.
1.2.3. Mục đích của nền giáo dục dân chủ mới
Nâng cao dân trí để xây dựng một xã hội dân chủ vì con người, cho con người
là mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh là. Nâng cao
dân trí là một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước dân chủ. Bởi lẽ: “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu” [53, tr. 7]. Trong bài Chống nạn thất học đăng trên Báo Cứu quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong
những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”[53, tr. 40].
Trong một chế độ dân chủ, mục đích của giáo dục chính là đào tạo nên những
con người có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới. Trong bài
báo Học tập không mỏi, cải tiến không ngừng, Hồ Chí Minh đã nhắc: “Chúng ta là
những người lao động làm chủ nước nhà” [61, tr. 527]. Chính vì là người lao động
16
làm chủ nước nhà, nên “muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ”, và Người
đã chỉ ra điều kiện: “Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng
lực tổ chức cuộc sống mới- trước hết là tổ chức nền sản xuất mới...” [61, tr. 527]. Với
mục tiêu của việc học tập như vậy, Người yêu cầu người dạy và người học phải có
thái độ đúng đắn, nghiêm túc và chí tiến thủ trong học tập, với tinh thần “học không
biết chán, dạy không biết mỏi” để có thể làm chủ bản thân, “làm chủ cuộc sống mới
do chúng ta xây dựng lên. Chúng ta làm chủ tương lai của mình và con cháu mình”
[61, tr. 538]. Mục tiêu của nền giáo dục dân chủ mới Việt Nam được Hồ Chí Minh
nêu rõ là: Đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,
những lớp người có đủ đức, tài, vừa hồng, vừa chuyên, để có thể đảm nhận tốt vai trò
của người công dân trong quá trình tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định mỗi công dân Việt Nam,
đặc biệt là thế hệ trẻ phải được giáo dục một cách toàn diện: “Trong việc giáo dục và
học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [61, tr. 467]. Do vậy, học để có đủ năng lực
làm chủ không những là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi người công dân trong
chế độ dân chủ mới.
Nền giáo dục dân chủ mới là nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những
năng lực sẵn có của con người. Trong Thư gửi học sinh tháng 9 - 1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được
hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các
em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [53, tr. 34]. Những con
người được phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của bản thân đó sẽ trở thành
những con người toàn diện, con người mới, khác hoàn toàn với nền giáo dục mà chủ
nghĩa thực dân đã thực thi ở Việt Nam trước đây.
Nền giáo dục dân chủ mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền giáo
dục nhằm đào tạo nên những con người “hoàn toàn” để “làm người”, để “phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân”, phục vụ “Tổ quốc và nhân loại”. Theo quan điểm
của các nhà kinh điển Mác- Lênin, mục đích của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là
17
giáo dục- đào tạo con người phát triển toàn diện. Lênin đã chỉ rõ: “Người ta sẽ
chuyển sang việc huấn luyện, giáo dục và đào tạo những con người phát triển về mọi
mặt, được chuẩn bị về mọi mặt và biết làm việc. Đó là cái đích của chủ nghĩa cộng
sản đi tới, nhưng phải trải qua một giai đoạn lâu dài” [48, tr. 163]. Mác - Ăngghen
cũng đã chỉ ra mô hình về con người phát triển toàn diện của xã hội tương lai: là con
người phát triển về cả trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, lao động và thẩm mỹ; hài hòa về thể
chất và tâm hồn, hài hòa giữa cuộc sống cá nhân và xã hội, giữa cái chung và cái
riêng. Phát triển toàn diện nhân cách là phát triển hết khả năng, đặc tính vốn có của
từng cá nhân; chứ không phải là làm cho tất cả mọi người đều hoàn toàn giống nhau,
đều làm giỏi tất cả mọi việc như nhau. Kế thừa truyền thống giáo dục của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa tư tưởng giáo dục của nhân loại, đặc biệt là quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định vị trí, vai trò của giáo dục
đối với sự phát triển của đất nước nói chung và đối với mỗi người nói riêng.
Nền giáo dục dân chủ mới là nền giáo dục tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí
khí, phát triển tài năng của mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào cuộc
tiến hóa chung của nhân loại. Từ thực trạng nền văn hóa, giáo dục dưới sự đô hộ của
thực dân Pháp, Người vạch trần chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị của chúng.
Dùng ngòi bút với lời lẽ sắc bén để vạch trần bản chất của cái gọi là “khai hóa văn
minh” của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong chế độ cũ, những người đến
trường học, được “đào tạo nên những tay sai làm tôi tớ cho bọn thực dân”; những
người không đến trường lớp thì bị bọn thực dân đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như
rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện và các tệ nạn xã hội. Chính vì thế, phải “ra sức tẩy sạch
ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy
theo lối nhồi sọ” [59, tr. 185]. Không chỉ lên án, phê phán, vạch trần bản chất nền
giáo dục của chủ nghĩa thực dân, mà còn thông qua đó, Hồ Chí Minh muốn xây dựng
một nền giáo dục mới và xây dựng một xã hội mới. Với Hồ Chí Minh, con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội thì trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng chế độ dân chủ mới
ở Việt Nam, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến chiến lược trồng người mà biện pháp
18
quan trọng nhất là giáo dục.
Nền giáo dục mới nhằm đào tạo nên những con người toàn diện, đủ đức và tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cũng như quan niệm của Người về vai trò của
giáo dục không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có
tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những
con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức
khoẻ, thẩm mỹ. Khi nhìn nhận vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách
của con người, Người khẳng định:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.” [52, tr. 413]
Hồ Chí Minh khẳng định mục đích phát triển đạo đức của giáo dục: “Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi” [64, tr. 672].
Nền giáo dục Người chủ trương xây dựng là nền giáo dục nhằm xóa bỏ những
quan niệm coi khinh lao động chân tay, chuộng bằng cấp, ham vinh hoa phú quý, coi
“muôn nghề đều là thấp kém, chỉ nghề đọc sách là cao”. Nền giáo dục mới là nền
giáo dục “phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”
[59, tr. 344].
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong quản lý nhà trường
1.3.1. Vai trò của dân chủ trong quản lý nhà trường
Trong giáo dục, công tác tổ chức và quản lý là một nhân tố quan trọng để xây
dựng một nhà trường vững mạnh. Có thể xem công tác này như cái “vỏ vật chất” cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nhà trường phát triển. Việc phát huy cao độ dân
chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn là tiền đề cần thiết bảo đảm cho sự phát triển
toàn diện những năng lực sẵn có của con người. Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo,
thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo
Nhân dân, ngày 16- 10- 1968, Hồ Chí Minh viết: “Giáo dục là sự nghiệp của quần
19
chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa” [61, tr. 508].
Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Bởi lẽ, sức mạnh là ở quần chúng, ở việc vận động, tổ chức quần chúng. Nhà trường
có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình hay không là nhờ việc tổ chức,
quản lý và phát huy sức mạnh của tất cả các cán bộ và nhân viên trong trường. Điều
đó đòi hỏi trong mọi công việc phải mạnh dạn phát động quần chúng, làm cho mọi
người thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể.
Đối với sự phát triển của xã hội, dân chủ vừa là mục đích, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội, thì đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, dân chủ cũng chính là
động lực, là mục tiêu trong quá trình xây dựng một nền giáo dục mới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi dân chủ là chìa khóa, là động lực của tiến bộ và phát triển. Người đặc
biệt chú trọng tới việc thực hành dân chủ để phát huy sáng kiến, kích thích lòng hăng
hái, qua thực hành dân chủ mà thực hiện và phát triển hành động sáng tạo của mình.
Xuất phát từ quan niệm về quyền hành, lực lượng cũng như lợi ích đều thuộc về quần
chúng nhân dân, Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động và sử dụng đối
đa quyền hạn, lực lượng của toàn thể quần chúng trong nhà trường để thực hiện
những nhiệm vụ giáo dục của mỗi trường.
Theo Hồ Chí Minh, tất cả những hoạt động quản lý nhà trường đều trên cơ sở
bàn bạc dân chủ để tất cả các cán bộ, giảng viên có thể đóng góp ý kiến, cùng nhau
bàn bạc, xây dựng kế hoạch và thực hiện. Nói chuyện với Trường Thanh niên lao
động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình ngày 17- 8- 1962, Người đã căn dặn thầy giáo và
học sinh nhà trường: “Phải bàn bạc dân chủ. Có công việc gì, ban phụ trách trường
bàn bạc với anh em, làm cho tư tưởng mọi người thông suốt, động viên mọi người
cùng làm chứ không nên ban phụ trách định kế hoạch rồi bắt mọi người làm...” [62,
tr. 436]. Giải thích cho vấn đề này, Người đã từng viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày
tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc
đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý” [59, tr. 378]. Khi mọi
người đã được đóng góp ý kiến để cùng nhau đi đến chân lý và thấu hiểu, thông suốt
20
thì việc thực hành chân lý đó sẽ diễn ra một cách tự giác. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh vấn đề thực hành dân chủ, theo Người, “phải thực hành dân chủ, phải làm
cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn
thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”
[56, tr. 362].
Thực hành dân chủ đưa lại tác dụng thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của quần
chúng và trở thành động lực của sự tiến bộ không chỉ đối với tập thể mà đến với mỗi
con người, sự phát triển của tập thể nhà trường phụ thuộc vào sự tham gia của quần
chúng vào các hoạt động của nhà tường, do vậy phải đề cao việc thực hành dân chủ
trong lãnh đạo, quản lý nhà trường. Trái lại, người cho rằng, nếu trong cán bộ, quần
chúng ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: “Cách lãnh đạo của ta
không được dân chủ” [54, tr. 283]. Không có bàn bạc dân chủ là một dấu hiệu của
bệnh chủ quan. Chủ quan là một con đường ngắn dẫn đến quan liêu, mệnh lệnh, bớt
xén. Hồ Chí Minh cũng kết luận: “Cũng ví như ở đây, nếu ban phụ trách có sáng
kiến, có dân chủ thì trường tốt, nếu ban phụ trách lại quan liêu, mệnh lệnh, bớt xén,
trường sẽ không ra gì hết” [62, tr. 438].
Quản lý giáo dục trong nhà trường không chỉ là trách nhiệm của ban lãnh đạo
nhà trường mà còn là nghĩa vụ của tất cả các thành viên trong trường nhằm làm cho
nhà trường ngày một tiến bộ. Bởi lẽ, “quản lý là hoạt động có ý thức của con người
nhằm phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng động người để đạt
được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [30, tr. 77], nếu chỉ có sự nỗ lực
tham gia của một số cá nhân vào công tác quản lý nhà trường thì mục đích đặt ra sẽ
không thực hiện được. Đây là sự cố gắng, nỗ lực từ hai phía: lãnh đạo nhà trường và
cán bộ, giáo viên, sinh viên của nhà trường. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các cô, các chú,
các cháu phải cùng nhau tổ chức và quản lý đời sống vật chất ở các trường học ngày
một tốt hơn, tăng cường bảo đảm sức khỏe và an toàn” [64, tr. 507].
Từ chỗ yêu thương, trân trọng giá trị con người, Hồ Chí Minh yêu cầu nhà
trường phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự bình đẳng với tất cả
mọi người. Tập trung dân chủ trong nhà trường đòi hỏi các cán bộ, giáo viên và sinh
viên phải tuân thủ nội quy, quy chế của nhà trường, đường lối, chủ trương của Đảng,
21
chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên; đồng thời tập trung phải trên nền tảng dân chủ. Người căn dặn:
“cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn
kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, thầy và trò, học trò với nhau” [64, tr. 508].
Dân chủ trong quản lý giáo dục đào tạo còn là dân chủ trong quan hệ thầy trò,
Người nói: “Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau
thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn
cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải
là “cá đối bằng đầu”” [58, tr. 266]. Đây là quan điểm mang đậm dấu ấn và phong
cách Hồ Chí Minh, là phương pháp hướng dẫn, động viên thuyết phục bằng tình cảm.
Người rất chú trọng đến vấn đề này, nó được thấm nhuần bằng một tình cảm chân
thành dựa trên sự yêu thương, tôn trọng con người và ứng xử với con người một cách
tinh tế.
Nhà giáo và người tổ chức phải có khả năng hiểu biết và nắm vững đặc điểm,
tâm lý của từng đối tượng dạy học. Người quan niệm: muốn làm bạn phải hiểu nhau,
nếu không hiểu nhau không thành bạn. Người tuyên truyền: không điều tra, không
phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì
nói nấy thì nhất định thất bại. Kinh nghiệm của Hồ Chí Minh cho thấy: muốn dạy
học, giáo dục học sinh thành công thì điều trước tiên đối với học sinh là tạo mối quan
hệ nhân ái giàu tình người giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa thầy và
trò. Người khuyên các thầy cô giáo muốn có được mối quan hệ đó phải “yêu thương
học sinh như những người ruột thịt của mình” [58, tr. 499].
Trong quá trình dạy học cần phải dân chủ. Trong học tập, người học cần được
và phải được thực hiện các quyền học tập theo một phương châm đúng đắn: học - hỏi
- hiểu - hành, được trao đổi, tranh luận cùng thầy, cùng bạn. Nếu giáo viên áp đặt mất
dân chủ sẽ làm cho quan hệ thầy trò trở nên nặng nề, sinh viên trở nên thụ động, sợ
sệt, triệt tiêu sự hồn nhiên vốn có cùng với sự chủ động, sáng tạo cần phải có. Đối với
mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau bàn bạc, thầy phải quý trò và trò phải tôn trọng
thầy. Có như vậy, thầy mới lắng nghe được mọi ý kiến và tâm tư nguyện vọng của
trò, còn trò có thể nói hết những suy nghĩ của mình với thầy. Quan hệ thầy và trò
22
ngày càng gắn bó với nhau hơn theo đúng nghĩa “cô giáo như mẹ hiền”.
Hồ Chí Minh cũng hết sức quan tâm đến vai trò của các anh chị phục vụ trong
nhà trường: “Thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà trường. Các
anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt để cho học sinh ăn
no mặc tốt” [58, tr. 266].
Như vậy, dân chủ trong quản lý giáo dục ở nhà trường luôn được Hồ Chí Minh
quan tâm trên mọi mặt, đối với mọi đối tượng để có thể tạo ra một môi trường dân
chủ, một bầu không khí cởi mở, thân thiện giúp cho các cán bộ, giáo viên có thể đóng
góp được nhiều công sức cho sự phát triển giáo dục và giúp người học có điều kiện
để phát triển năng lực sẵn có của mình. Thực hành dân chủ, một mặt khẳng định hơn
nữa quyền làm chủ của mỗi thành viên trong nhà trường, mặt khác tạo điều kiện khắc
phục những hạn chế của sự vi phạm dân chủ, phát huy sáng tạo cá nhân và tập trung
được trí tuệ của tập thể. Đây chính là quá trình tạo ra những tiền đề để nhà trường
ngày càng phát triển, thực hiện thật tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra, khẳng định vị thế
của mình trong nền giáo dục dân chủ mới.
1.3.2. Vai trò và yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong thực
hành dân chủ ở nhà trường
Đối với mỗi nhà trường, một lực lượng không thể thiếu để vận hành hoạt động
của nhà trường đó là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Nhiệm vụ bao trùm của người
lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong nhà trường là quản lý về nhân sự,
quản lý hành chính và tài chính, quản lý chất lượng giáo dục của nhà trường để đạt
được mục tiêu giáo dục đề ra. Sự nghiệp giáo dục chỉ có thể thực hiện sứ mệnh của
mình nếu hệ thống giáo dục đảm bảo bằng đội ngũ cán bộ quản lý có đủ năng lực,
phẩm chất bao gồm: đạo đức, văn hóa, tầm nhìn lý luận, khả năng tác nghiệp và
phong cách điều hành khoa học và dân chủ, khả năng truyền đạt.
Để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, người lãnh đạo phải xây dựng
được bầu không khí tâm lý lành mạnh, dân chủ. Ban giám hiệu nhà trường và các cá
nhân giữ trọng trách lãnh đạo trong trường phải không ngừng đúc kết kinh nghiệm,
tìm tòi những biện pháp tối ưu, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ công
chức, đoàn kết gắn bó với ý thức phấn đấu vươn lên vì trách nhiệm cá nhân và vì
23
thanh danh của tập thể nhà trường. Muốn vậy, trong mọi hoạt động, người cán bộ
phải có đủ đức, đủ tài, phải vừa hồng, vừa chuyên, gắn bó mật thiết với quần chúng
nhân dân, được quần chúng tin yêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là
cái gốc của người cán bộ. Tuy nhiên, theo Người, cán bộ quản lý nhà trường chỉ có
“đức” thì chưa đủ, muốn hoàn thành nhiệm vụ, có uy tín cao với quần chúng ngoài
phẩm chất đạo đức người cán bộ cần phải có cả “tài” nữa. Tài của người cán bộ được
biểu hiện ở trình độ lí luận, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn với chuyên môn nghề
nghiệp mà người cán bộ đang đảm nhiệm.
Một trong những biện pháp tốt nhất để tác động vào sự phát triển nhà trường
chính là thực hành dân chủ. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta nhiều
bài học quý giá. Bầu không khí dân chủ trong nhà trường chỉ có thể có được khi đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường có phong cách lãnh đạo thực sự dân chủ,
khoa học. Là những người có trọng trách trong một tập thể, cán bộ lãnh đạo, quản lý
cần rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, tập thể.
Thực hành nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là một yếu tố cơ
bản để thực hiện tốt dân chủ trong nhà trường. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một người dù tài
giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp, không
thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Cho nên, cần phải
có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần
chúng nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị mà riêng một mình
cán bộ lãnh đạo, quản lý không làm nổi. Người lãnh đạo thật sự dân chủ, ý kiến của
cán bộ được thật sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội bộ được củng cố, những sáng
kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có
dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó
được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học
theo” [54, tr. 284]. Càng dân chủ thì càng có nhiều sáng kiến. Sáng kiến chỉ ra đời khi
người đó tâm huyết, hăng hái làm việc trong một môi trường dân chủ. Tập thể lãnh
đạo là dân chủ. Lãnh đạo, quản lý không phát huy trí tuệ tập thể, thì sẽ dẫn đến tệ bao
biện, độc đoán, chủ quan, chuyên quyền. Tuy nhiên, có ý thức tập thể cao, biết tôn
24
trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại không có tính
quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có
những quyết định kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng
không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý
rằng: “Không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được,
cũng cứ đưa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu máy móc. Kết
quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ. Những việc bình thường, một người có thể giải
quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới
cần tập thể quyết định” [54, tr. 620]. Và “việc hội họp còn quá nhiều hại đến sức khỏe
và lãng phí thời gian của thầy giáo và học trò” [63, tr. 746]. Đặc biệt trong những thời
điểm then chốt, khi có thời cơ người lãnh đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám
quyết đoán.
Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục đúng đắn là
phải kết hợp chặt chẽ giữa cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết đoán, dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, trước các thành viên nhà trường, kịp thời đưa
ra những quyết sách đúng. Những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc dựa dẫm, ỷ lại
tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân đều làm trì trệ,
suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong mọi công tác, phong cách làm việc tốt nhất là phải: “Từ trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần
chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống.
Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm nó thành ý kiến của quần
chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc
quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay không. Rồi lại tập
trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm,
tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi
thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh
đạo cực kỳ tốt” [54, tr. 330].
Trong mọi công việc ngay từ khi lập kế hoạch và suốt thời gian thực hiện, phải
25
mạnh dạn phát động quần chúng, làm cho mọi người thấm nhuần tinh thần làm chủ
tập thể. “Quần chúng thật sự có quyền dân chủ và cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải
xung phong gương mẫu, thì chắc chắn ngăn ngừa được những tệ quan liêu, mệnh
lệnh, lãng phí, tham ô và cuộc vận động quần chúng quyết tâm thực hiện kế hoạch...
cũng nhất định sẽ thắng lợi” [64, tr. 326]. Các cán bộ lãnh đạo, quản lý do không biết
gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ
thành ra lý thuyết suông, không hợp với thực tế. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ
lãnh đạo, quản lý: “Công việc càng gay go thì sự lãnh đạo càng phải liên hệ với quần
chúng, càng phải liên hợp chặt chẽ chính sách chung với chỉ đạo riêng” [54, tr. 333],
có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, với chính sách của cấp trên và với yêu cầu cụ thể
của cơ sở thì mới khắc phục được tệ quan liêu trong lề lối làm việc. Có như vậy mới
“phá tan được cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy” [54, tr. 333],. Tóm
lại, phải dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại với quần chúng”. Biết làm như
vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.
Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý
phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở thành những người
lãnh đạo, quản lý thành công do được quần chúng tin yêu, dân phục, ủng hộ. Người
viết: “... Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu” [54, tr.325], trong
nhà trường cán bộ lãnh đạo, quản lý không được quan liêu, hách dịch, coi thường
quần chúng mà cần phải gần gũi với mọi đối tượng là cán bộ, giáo viên và sinh
viên của nhà trường. Họ phải biết đời sống thực, khả năng thực của mỗi đối
tượng ra sao? Cần biết được tâm tư, băn khoăn, thắc mắc của quần chúng, để
cùng họ kịp thời tháo gỡ.
Bên cạnh việc phát huy phong cách dân chủ, những người lãnh đạo quản lý
trong quá trình làm việc cũng việc phải có thái độ thận trọng, biết phân tích, tổng hợp
để tìm ra ý kiến đúng, giải pháp đúng, đi dần đến tác phong làm việc khoa học. Hơn
nữa, công tác kiểm tra có vai trò quan trọng, là một bộ phận, là một quá trình trong
khoa học quản lý: “Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của
chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc
của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm” [54, tr. 637- 638]. Qua kiểm tra,
26
Người chỉ ra khuyển điểm chung là tham làm nhiều mà không làm chu đáo. “Lớp quá
đông. Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch,
nên thu nhận không đều. Mở lớp lung tung. Vì mở lớp nhiều nên thiếu người giảng.
Thiếu người giảng thì học viên đâm chán... Phải hợp lý hóa, nghĩa là mở lớp nào ra
lớp ấy. Lựa chọn người dạy và người học cho cẩn thận. Đừng mở lớp lung tung.
Tránh bệnh thành tích” [55, tr. 362- 363]. Do vậy, người cán bộ quản lý nhà trường
cần phải có phong cách làm việc khoa học, bám sát vào tình hình thực tế của nhà
trường và của đất nước để đưa ra những quyết định đúng đắn cho phù hợp với hoàn
cảnh của nhà trường, khả năng của người dạy và người học, đáp ứng được nhu cầu
của cách mạng.
Tóm lại, trong nhà trường nói chung và nhà trường đại học nói riêng: “nếu ban
phụ trách có sáng kiến, có dân chủ thì trường tốt, nếu ban phụ trách lại quan liêu,
mệnh lệnh, bớt xén thì trường sẽ không ra gì hết” [62, tr. 438]. Người làm công tác
quản lý trường học, hơn ai hết, phải quán triệt điều đó.
1.3.3. Vai trò và yêu cầu của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong việc thực hành
dân chủ ở nhà trường đại học
Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho người thầy nhiệm vụ to lớn là chăm lo sự
nghiệp “trồng người”, dạy dỗ con em nhân dân lao động trở thành những công dân có
ích cho Tổ quốc. Người viết: “Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ
tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng và Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ
tương lai cho các cô, các chú” [60, tr. 528]. Đây là nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ
vang, gắn liền với sự nghiệp cuả những người làm thầy, cô giáo. Người giáo viên của
chế độ dân chủ mới đảm nhận sứ mệnh cao cả là làm cho người dân được hưởng
quyền chính đáng của họ là được cắp sách đến trường, được bồi dưỡng ý thức làm
chủ, lý tưởng cao đẹp, từ đó nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người công
dân đối với Tổ quốc. Đây chính là cơ sở để khẳng định vị thế của dân tộc ta trên
trường quốc tế: “Đồng bào bây giờ phải biết chữ hết để trả lời cho thế giới biết nước
ta là một nước văn minh, ai cũng biết chữ” [54, tr. 379].
Phát biểu tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội (tháng 10 - 1964), Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo là người vẻ vang
27
nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song
những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang.
Nếu không có thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa
xã hội được. Vì vậy, nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến
không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa” [63, tr. 402- 403]. Khi nói thầy giáo
là anh hùng vô danh tức là khẳng định công lao to lớn và đức tính hy sinh thầm lặng
của người thầy giáo, người làm công tác giảng dạy, đồng thời nói lên đặc điểm của
hoạt động sư phạm. Những đóng góp của giáo viên cho xã hội không phải để đắp
“tượng đồng, bia đá” hay để tính toán thành tích cá nhân mà đó là trách nhiệm lương
tâm nghề nghiệp, là niềm vinh dự, tự hào của người giáo viên. Bởi lẽ, như Người
khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục... không có giáo dục, không
có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [59, tr. 345]. Hồ Chí Minh luôn
đánh giá cao vai trò của các thầy, cô giáo đối với sự phát triển của xã hội. Muốn có
chủ nghĩa xã hội thì phải có tri thức. Không có giáo dục thì không có tri thức. Không
có tri thức thì không nói gì đến phát triển kinh tế và văn hóa. Một dân tộc không có tri
thức là một dân tộc dốt và một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, một đất nước hưng
thịnh là nhờ một nền giáo dục hưng thịnh. Đó là một chân lý cho các dân tộc muốn
phát triển, đồng thời là vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức nước nhà, trong đó
đội ngũ các thầy, cô giáo là trung tâm. Mà điều hết sức vẻ vang của những người
thầy, người cô đó là việc chăm lo, dạy dỗ con em nhân dân thành những người công
dân tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt cho nước nhà. Người nói: “Nếu không có
thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội
được” [63, tr. 403]. Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ giáo viên là người quyết định
thành công của sự nghiệp xây dựng và đổi mới nền giáo dục nước nhà. Vì lẽ đó,
Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo viên và những người làm giáo dục.
Người khẳng định công lao của các thầy giáo, cô giáo: “Anh chị em chịu cực khổ khó
nhọc, hy sinh phấn đấu, để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào... Một phần
tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em... Cái vinh dự
đó thì tượng đồng bia đá nào cũng không bằng” [53, tr. 556].
Vai trò của người giảng viên còn được thể hiện ở việc xây dựng nội dung
28
chương trình đào tạo phù hợp để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của giáo dục. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người giáo viên xây dựng nội dung chương trình phải theo
các nguyên tắc sau đây để có được một chương trình giáo dục dân chủ: xây dựng nội
dung chương trình phải toàn diện, bao gồm các mặt, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ
thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động; người thầy giáo phải căn cứ vào điều kiện
thực tiễn, nhiệm vụ chính trị, đường lối phát triển kinh tế- xã hội, mục tiêu giáo dục
để biên soạn giáo trình cho phù hợp; xây dựng nội dung chương trình phải thiết thực,
tiếp cần trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới và gắn với thực tiễn Việt
Nam; xây dựng nội dung chương trình phải phù hợp với đối tượng người học.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng tháng
10/1955, Người nêu rõ nội dung chương trình đào tạo bậc đại học: “Đại học thì cần
kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến
của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta để thiết thực giúp ích cho công
cuộc xây dựng nước nhà” [59, tr. 186].
Tính dân chủ trong giáo dục còn được thể hiện ở quyền được bình đẳng, công
bằng trong đánh giá, xếp loại học tập. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ của
người giáo viên ở bất kỳ bậc học nào, do vậy, Người yêu cầu giáo viên phải công
bằng, khách quan trong đánh giá thành tích học tập của người học, tránh tình trạng
“thầy, cô cho điểm học trò”, mà phải đánh giá, xếp loại dựa trên năng lực của
người học.
Như vậy, vai trò và nhiệm vụ của giảng viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn
gắn liền với nhiệm vụ chính trị, đường lối phát triển giáo dục là để đào tạo ra những
con người đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong từng giai đoạn.
Người thầy của chế độ mới khác người thầy dưới chế độ thực dân phong kiến.
Người so sánh: “Thầy giáo ngày nay không phải như trước, chỉ biết gõ đầu trẻ, miễn
là có bài cho học trò học, cuối tháng lĩnh lương vào túi. Bây giờ thầy giáo có trách
nhiệm với nhân dân, đào tạo cán bộ ra phục vụ nhân dân” [59, tr. 389]. Đề cao vai trò
của người giáo viên cũng là đặt ra yêu cầu cao đối với các thầy, cô giáo. “Các thầy
giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc” [56, tr. 400].
Nhiệm vụ của thầy, cô giáo không chỉ dạy chữ mà còn phải dạy người. Để xứng đáng
29
là người giáo viên xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội, thầy, cô
giáo phải thật sự là tấm gương mẫu mực để người học noi theo. Sự gương mẫu của
thầy, cô không phải chỉ giới hạn về đạo đức nhân cách mà còn ở tài năng trong lĩnh
vực chuyên môn, nghề nghiệp, trên các mặt hoạt động thực tiễn chính trị, xã hội.
Người giảng viên của nền giáo dục dân chủ mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
phải đáp ứng yêu cầu rất cao của xã hội về phẩm chất đạo đức, nhân cách và năng
lực, phải là kiểu mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối làm việc. Thầy cô giáo trong chế độ xã
hội chủ nghĩa phải “luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã
hội,... tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”
[64, tr. 507]. Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa phải có đạo đức cách mạng: Trung với
nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thương yêu con người và
tinh thần quốc tế thủy chung trong sáng. Nói chuyện với thầy giáo, cô giáo lớp nghiên
cứu chính trị khóa 1 Trường Đại học nhân dân, Hồ Chí Minh căn dặn: “chân lý là cái
gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân tức là phục
tùng chân lý” [54, tr. 378]. Người thầy giáo phải đặt Tổ quốc, đặt nhân dân lên trên
hết, trước hết và bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện tốt đường lối giáo dục của
Đảng và Nhà nước, phải kính trọng nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân.
Người giáo viên phải có lương tâm nghề nghiệp, yêu người, yêu nghề. Người
thầy, người cô cần nhất là có cái tâm trong sáng. Cái tâm của thầy, cô giáo là sự thể
hiện của tình yêu thương con người. Cái tâm trong sáng được thể hiện ở đạo đức và
hành vi hết lòng vì học sinh thân yêu, gần gũi, tôn trọng nhân phẩm người học, tận
tâm dạy bảo học trò. Cái tâm trong sáng được thể hiện ở hành động tha thiết với nghề
nghiệp, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo để tìm ra cách dạy hay nhất, tốt nhất. Cái tâm
trong sáng được thể hiện ở chính lương tâm nghề nghiệp đó là sự công bằng, công
tâm đối với học sinh. Không bị sa ngã bởi những cám dỗ vật chất tầm thường. Cái
tâm ấy còn được biểu hiện ở sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai
trong xã hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự. Theo Hồ Chí Minh, người
30
thầy giáo phải có phẩm chất đạo đức thương yêu học trò, phải quan tâm săn sóc học
trò với một tình cảm sâu nặng như ruột thịt, nhưng tình thương đó phải được xây
dựng trên cơ sở dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm.
Gắn liền với phẩm chất đạo đức yêu thương học trò là phẩm chất đạo đức thật
thà yêu nghề của người giảng viên. Phẩm chất yêu nghề của người thầy, người cô
được biểu hiện trước hết là sự gắn bó thiết tha với nghề nghiệp trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Nghề giáo viên là một nghề lao động khó nhọc, đòi hỏi phải đầu tư nhiều
thời gian, công sức, nhưng không phải là nghề có thu nhập cao. Nếu không tha thiết
với nghề nghiệp sẽ bị dao động trước hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, Hồ Chí Minh
thường căn dặn những người làm giáo viên nên “yên tâm công tác. Phải hiểu rằng
không có công tác gì vẻ vang bằng việc chăm nom bồi dưỡng cho các cháu là những
người chủ tương lai của nước nhà. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, các cô, các chú
phải thật thà đoàn kết, nâng cao tinh thần trách nhiệm, không nên “đứng núi này
trông núi nọ”, muốn thay đổi công tác, kèn cựa vì địa vị” [58, tr. 499].
Thầy, cô giáo phải có trí tuệ và tài năng để làm cho học trò thông suốt và thêm
hăng hái. Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức, song không tuyệt đối hóa
mặt đạo đức, coi nhẹ lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ. Hăng hái là một dấu hiệu tích
cực của đời sống tâm lý con người, và do đó, cũng là dấu hiệu tích cực của đời sống
dân chủ trong giáo dục, một dấu hiệu được nhìn ngắm từ phía người học, nhân vật
trung tâm của nhà trường. Và điều đó chỉ có được với tài năng, chuyên môn và sự
tâm huyết của người thầy. Hiểu được điều đó, Người yêu cầu: “Trong mỗi trường
học, các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết
thực” [54, tr.120].
Người giáo viên phải luôn cố gắng học thêm mãi. Thầy giáo, cô giáo phải đại
diện cho tinh thần và ý chí tự học, tự rèn. Hồ Chí Minh yêu cầu: “các cô, các chú là
những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn cố gắng học thêm, học chính
trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến bộ chung,
sẽ trở thành lạc hậu”. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, người đi huấn luyện phải
học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Hơn ai hết, những
người làm công tác huấn luyện phải thực hiện khẩu hiệu của V.I. Lênin: “Học, học
31
nữa, học mãi”. “Cán bộ và giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm
được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi
bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước” [61, tr. 266].
Thầy giáo phải học mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên không chỉ học trong nhà
trường mà phải học trong nhân dân, trong xã hội, học trong công việc. Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng việc học trong nhân dân. Đối với người thầy giáo không chỉ học
đạo đức trong nhân dân mà còn phải học cả tri thức trong nhân dân, học cách nói của
nhân dân, học cách xử lý công việc của nhân dân. Học ở những người xung quanh và
học ở chính công việc của bản thân mình. Người giáo viên phải được đào tạo trong
nhà trường và tự đào tạo trong thực tiễn, trong cuộc sống. Hồ Chí Minh yêu cầu các
thầy giáo phải có kế hoạch và có phương pháp học mọi lúc, mọi nơi.
Đồng thời với việc đặt ra yêu cầu cao cho đội ngũ các nhà giáo, Hồ Chí Minh
yêu cầu, Đảng và Nhà nước phải thường xuyên quan tâm đến thầy giáo, cô giáo cả
tinh thần lẫn vật chất, và có như vậy mới có cơ sở để thầy, cô giáo sống thật tốt, dạy
thật tốt. Để người thầy giáo thật sự xứng đáng với sự tôn vinh của nhân dân và xã hội.
Một mặt phải do chính bản thân người thầy tu dưỡng, rèn luyện và phấn đấu, mặt
khác, rất cần và phải có sự quan tâm, chăm sóc của Đảng, chính quyền, các đoàn thể
và nhân dân, cũng như sự nghiệp trồng người phải được tạo thành từ sức mạnh xã hội
chứ không chỉ riêng nhà trường và các thầy cô.
Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người giáo viên của nền giáo dục dân
chủ mới là người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa. Người giáo viên luôn
được xã hội tôn vinh, vì vậy mỗi thầy cô giáo phải luôn phấn đấu vươn lên để xứng
đáng với vinh dự đó. Giáo viên phải có những phẩm chất đạo đức cách mạng, đồng
thời phải có các phẩm chất của nhà sư phạm, có năng lực chuyên môn, giỏi nghiệp
vụ. Thầy cô giáo phải làm kiểu mẫu trong mọi việc cho các em bắt chước. Người
thầy giáo phải dành cho trẻ một tình thương lớn như ruột thịt, thì hiệu quả giáo
dục càng cao.
1.3.4. Yêu cầu đối với người học trong trường đại học
Với bất kì quốc gia nào trên thế giới, học sinh, sinh viên chính là tương lai của
đất nước, là lực lượng nòng cốt để xây dựng đất nước giàu mạnh, phát triển. Chính vì
32
thế mà lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới lực lượng “rường
cột” này của nước nhà. Trong tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta vì độc
lập, vì tự do và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm giáo dục,
hướng dẫn sinh viên làm tốt vai trò của mình, Người chăm chú theo dõi, biểu dương
những cố gắng, tiến bộ của sinh viên và luôn đánh giá cao tiềm năng, vai trò và
những cống hiến to lớn của sinh viên. Người khẳng định: sinh viên là bộ phận năng
động, tốt đẹp và hy vọng nhất của dân tộc. Người cũng nhìn nhận họ như một chủ thể
đang phát triển, đang nhập cuộc và đang được tiếp tục hoàn thiện. Người nói về ưu
điểm của họ là “hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng
hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh “anh hùng”.
Trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Người luôn quan tâm
sâu sắc tới công tác giáo dục thế hệ trẻ, tư tưởng, lý luận và tình cảm của Người đã để
lại những bài học thực tiễn còn nguyên giá trị cho tới tận ngày nay và mãi về sau.
Người không chỉ nêu lên vai trò hết sức quan trọng của học sinh, sinh viên mà còn
nhấn mạnh trọng trách khó khăn nhưng vinh quang của các em, đó là bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước.
Theo Người, thanh niên muốn xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà
thì yếu tố tự giác rèn luyện của bản thân thanh niên hết sức quan trọng. Sự rèn luyện,
tu dưỡng của thanh niên phải được thể hiện trên mọi phương diện: Rèn luyện đạo đức
cách mạng, trau dồi và nâng cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ, chuyên môn, rèn luyện
ý chí và lòng dũng cảm, rèn luyện thân thể. Sinh viên với tư cách là một bộ phận của
thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, là lực lượng xây dựng chủ nghĩa xã
hội, “Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, thanh niên ta cần phải thấm nhuần tinh
thần làm chủ nước nhà và phải trau dồi đạo đức của người cách mạng” [62, tr. 89].
“Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng
của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh
lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy
mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang” [58, tr. 265].
Nếu trong ngày đầu giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới khuyên người
học “cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn” thì trong cuộc
33
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người lại căn dặn “Thầy và trò phải luôn luôn nâng
cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối
với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao
cho, luôn luôn cố gắng cho xứng đáng với đồng bào miền Nam anh hùng” [64, tr.
507].
Có thể xem đây là lời răn dạy về rèn luyện phẩm chất chính trị cần thiết cho
mọi sinh viên trong nền giáo dục mới để xây dựng lòng tin vững chắc, xác định lý
tưởng cách mạng, đạo đức và năng lực hành động trong cuộc sống. Nhiệm vụ cách
mạng còn nặng nề, điều kiện càng khó khăn, càng cần xây dựng lòng tin vững chắc,
hoạt động có ý thức và đảm bảo kỷ luật một cách tự giác. Nguyên lý này có ý nghĩa
không chỉ trong thời kỳ kháng chiến mà cả trong hòa bình xây dựng.
Hồ Chí Minh nhắc nhở khi giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi
thì bao giờ cũng phải chú ý đến nghĩa vụ trước; Người viết: “Nhiệm vụ của thanh
niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm
gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?” [58, tr. 265]. Hồ Chí Minh căn
dặn thanh niên sinh viên: “muốn xứng đáng vai trò người làm chủ thì phải học tập”,
Người nói: “nhiệm vụ chính của thanh niên, học sinh là học” [58, tr. 178].
Mục đích của việc học để làm gì? theo Hồ Chí Minh: “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại” [58, tr. 684]. Trước hết, muốn làm việc, học tập công tác tốt thì phải học, có học
mới có năng lực giải quyết những yêu cầu của chương trình đào tạo và những tình
huống trong thực tiễn đặt ra. Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc tệ giấu dốt, lười
biếng học tập, tự cao, tự đại, cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tốt nghiệp rồi có cần học không? Hồ Chí Minh nói: Còn học mãi khi ra làm
việc. Khi thành công thì phải nghiên cứu vì sao thành công để lấy kinh nghiệm, khi
thất bại cũng sẽ xét xem tại sao thất bại để mà tránh đi.
Thông qua học tập ở trường, ở sách vở và ở ngoài đời để có cách đối nhân xử
thế hợp lí phù hợp với luật pháp, phong tục tập quán; ứng xử đúng với các quy tắc,
34
chuẩn mực về đạo đức. Đặc biệt, muốn làm cán bộ tốt, muốn phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân được tốt hơn bao giờ hết càng phải học để có tư duy, phương pháp làm
việc khoa học, sáng tạo; nắm chắc yêu cầu, nội dung quy trình giải quyết công việc
cũng như hiểu được tâm tư, nguyện vọng của người mà mình được giao phục vụ.
Hồ Chí Minh nói: học những điều cơ bản, thiết thực đối với mỗi người. Trong
hành trang tri thức của mỗi con người còn rất nhiều điều chưa biết, nhưng nếu thấy
cái gì học cái nấy thì chúng ta chỉ thu được một mớ kiến thức hỗn tạp, không có tác
dụng với chính người học và cũng không đủ thời gian để học và hiểu biết tất cả. Do
đó, ngoài việc học ở nhà trường theo chương trình quy định, cần phải căn cứ vào trình
độ nhận thức, công việc đang đảm nhiệm và vị trí của mình để lựa chọn những điều
thiết thực, những vấn đề cần cho lĩnh vực công tác đang và sẽ đảm nhiệm hoặc nhu
cầu của mình để học.
Như vậy, từ nhận thức đúng đắn về vai trò và đặc điểm của sinh viên- chủ yếu
ở lứa tuổi thanh niên đối với xã hội, cũng như đối với nhà trường. Hồ Chí Minh đã
đưa ra yêu cầu đối với sinh viên về cả phẩm chất và năng lực để họ trở thành những
con người toàn diện, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, xứng đáng là những chủ nhân tương
lai của đất nước, cống hiến cho quá trình xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Từ trước đến nay, nhắc đến giáo dục người ta thường nhắc đến giáo dục trong
nhà trường, mà chủ yếu là sự tương tác giữa người dạy và người học trong quá trình
tiếp thu kiến thức và rèn luyện nhân cách. Tuy nhiên, nhà trường là một tổ chức mà
lực lượng đông đảo nhất là người học, do vậy, người học cũng có vai trò to lớn trong
quản lý nhà trường. Nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học
nhân dân, ngày 21- 7- 1956, Người nhắc lại: “Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do
bày tỏ ý kiến của mình. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”
[59, tr. 378]. Với tư cách là lực lượng chiếm số đông trong nhà trường, người học có
quyền nói lên tiếng nói của mình (trong phạm vi, khuôn khổ cho phép của pháp luật)
đối với các kế hoạch, chủ trương và cơ chế của nhà trường, đối với giáo viên và cán
bộ trong trường, cũng như đối với chương trình học tập..., có như vậy, tất cả mọi vấn
đề mới được “thông suốt”, người học cảm thấy mình được tôn trọng và đáp ứng được
những nhu cầu, nguyện vọng học tập của mình, khi tư tưởng đã “thông suốt”, tinh
35
thần “thoải mái” thì chất lượng học tập sẽ được nâng cao. Như vậy, vai trò làm chủ và
ý thức làm chủ của người học đã được Hồ Chí Minh quan tâm nhắc nhở và đặt ở vị trí
thích đáng.
1.4. Dân chủ trong giảng dạy và học tập ở nhà trường
1.4.1. Dân chủ trong nội dung giáo dục và đào tạo
Một trong những yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nền giáo dục mới
là phải tẩy rửa ảnh hưởng của nền giáo dục nô dịch thực dân, từng bước hình thành
nên những lớp người Việt Nam có đủ đức, đủ tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Để làm
được như vậy, theo Hồ Chí Minh, giáo dục phải đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng và đó phải là một nền giáo dục nhằm đào tạo nên những con người Việt Nam
toàn diện, trên các mặt chủ yếu cấu thành nên phẩm chất, năng lực của con người
mới, đó là: thể lực, trí tuệ, thẩm mỹ và đạo đức. Trong bài Gửi các em học sinh trên
báo Nhân dân ngày 24- 10- 1955, Hồ Chí Minh đã đứng trên quan điểm Đức, Trí,
Thể, Mỹ để nhìn nhận con người toàn diện và đặt ra yêu cầu phải rèn luyện, giáo dục,
đào tạo, phát triển con người theo những tiêu chí đó. Người viết: “Đối với các em,
việc giáo dục gồm có:
- Thể dục: để làm cho thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng
và vệ sinh chung.
- Trí dục: ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.
- Mỹ dục: để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.
- Đức dục: là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu
trọng của công”
Người đã viết về nội dung giáo dục: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú
trọng đủ các mặt: đạo đức, cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật,
lao động và sản xuất” [61, tr. 647].
Tư tưởng này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định trong Báo cáo về dự thảo
Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa (1959). Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về
đức dục, trí dục và thể dục” [61, tr.377].
Như vậy, có thể nói còn người toàn diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh
36
hiện ra như một thực thể vẹn toàn mà trong nó sự mạnh khỏe về mặt thể chất, sự
phong phú về mặt trí tuệ (tri thức cũ và mới), sự hiểu biết sâu sắc về cái hay, cái đẹp,
cái tốt, cái cao cả, cũng như những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp là những
điểm cơ bản chủ yếu nhất.
Như vậy, nội dung giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức cơ bản, toàn
diện, bất cứ cấp học, ngành học nào cũng phải chú trọng đầy đủ tất cả các mặt trên.
Đây cũng là những nội dung hoạt động chủ yếu của nhà trường xã hội chủ nghĩa
trong quá trình đào tạo, huấn luyện con người vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao
quý, tinh hoa của dân tộc và của nhân loại. Nội dung giáo dục toàn diện ấy bảo đảm
cho thế hệ trẻ dần làm chủ kho tàng kiến thức văn hóa của loài người, trau dồi cho
mình vốn hiểu biết về khoa học kỹ thuật vững chắc để có thể vận dụng một cách linh
hoạt trong cuộc sống, trong lao động. Đồng thời góp phần giáo dục cái tâm trong
sáng, cái đức cao đẹp giúp con người vững vàng trong mọi thử thách, để “Giàu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không thể chuyển lay. Uy lực không thể khuất phục”
[56, tr. 50], hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân...
1.4.2. Dân chủ trong phương pháp giảng dạy
Phương pháp sư phạm của người giáo viên đóng vai trò quan trọng. Phương
pháp không tốt làm hiệu quả giảng dạy kém đi nhiều. Phương pháp sư phạm bao gồm
nhiều vấn đề mà trước hết và quan trọng nhất là cách khơi dậy ở học sinh sự say mê
học tập, sự khát khao hướng về cái thiện, là làm cho học sinh hứng thú trong việc tìm
tòi, khám phá cái mới, cái đẹp.
Mục đích của phương pháp giảng dạy trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phải làm
cho người học hiểu thấu được vấn đề, sau khi hiểu được vấn đề thì mục đích cao hơn
là phát triển mọi tài năng. Tài năng sẽ phát triển khi có đủ sức mạnh của nội tâm. Sự
vẻ vang của thầy cô giáo không dừng lại chỗ mang lại sự hiểu biết cho học sinh mà
vươn tới chỗ phát triển và bồi dưỡng tài năng, động viên được sức mạnh nội tâm của
con người.
Là người từng đứng trên bục giảng đào tạo nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, Hồ
Chí Minh đã có những chỉ dẫn cụ thể về phương pháp giảng dạy như sau:
Giảng dạy phải phù hợp với nhu cầu của đối tượng giáo dục. Phải căn cứ vào
37
nhu cầu của người học trong quá trình giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ví dụ rất
sinh động, giáo dục giống như “người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu
cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì
hàng ế” [55, tr. 359].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Huấn luyện thì phải hiểu rõ người học để nâng
cao khả năng và tẩy rửa khuyết điểm cho họ. Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ,
luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc” [55, tr. 359]
Trong lớp học, khả năng nhận thức của từng người khác nhau, người thầy giáo
phải nắm rõ khả năng nhận thức và hoàn cảnh của từng người để tìm ra cách thức
giảng dạy phù hợp cho từng đối tượng. Có đối tượng phải tốn nhiều thời giờ, dạy tỉ
mỉ thì mới hiểu vấn đề. Có đối tượng “dạy bao quát mà vẫn làm cho người học thấu
hiểu được” [55, tr. 358]. Như vậy, Người đã đưa ra quan điểm dạy theo người học,
chứ không phải bắt người học phải học theo cách dạy của mình. Muốn thực hiện
được điều đó thì “bài dạy phải chuẩn bị cho tốt” [35, tr. 211], kỹ càng, không được
qua loa đại khái. Vì vậy, Người coi công tác giáo dục là công việc hết sức khó khăn,
gian khổ. Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp
giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: “Công nhân,
nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp
có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tùy hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy
trì được lâu dài, mới có kết quả tốt” [59, tr. 368].
Cần phát huy tính dân chủ trong sinh hoạt học thuật, tăng cường thảo luận,
trao đổi để kích thích tư duy sáng tạo của người học, do đó người giáo viên phải nâng
cao và hướng dẫn việc tự học cho người học.
Sự phát triển những năng lực sẵn có ở mỗi con người có nghĩa là sự phát triển
mà khai thác được tối đa những khả năng tiềm tàng trong con người, để họ bộc lộ đầy
đủ những gì họ có, không bị ức chế sự phát triển và như thế là hoàn toàn bình đẳng về
giáo dục. Nền giáo dục dân chủ sẽ tạo điều kiện cho họ phát huy những năng lực, sở
trường riêng của mình. Đối với bậc học đại học, điều này lại càng có ý nghĩa to lớn
khi đây là bậc học đào tạo nên những người có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào
đó, nếu có điều kiện phát huy những năng lực, sở trường của mình thì họ có thể phát
38
huy hết khả năng trong lĩnh vực mà mình đã chọn để học.
Bài giảng phải sinh động, lý luận phải gắn với thực tiễn. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế” [59, tr. 337], lấy thực tiễn
để minh họa cho người học “mau hiểu, mau nhớ” Học phải đi đôi với hành, lý luận
phải gắn liền với thực tế. Hồ Chí Minh cho rằng: “Huấn luyện lý luận có hai cách:
Một cách là chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết
những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với thực tế, tuyên truyền,
vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông vô ích.
Một cách là trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh
nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể
làm những công việc thực tế, có thể trở thành người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý
luận thiết thực, có ích” [54, tr. 311]. Kết hợp lý luận với thực tế là một phương pháp
rất quan trọng, bởi lẽ “Chỉ biết lý luận (lý thuyết) mà không biết thực hành thì cũng là
trí thức có một nửa. Vì vậy cho nên các cháu trong lúc học về lý luận thì cũng phải
kết hợp với thực hành”. Đồng thời Bác nhắc nhở các nhà trường “không nên đào tạo
ra những con người thuộc sách làu làu” v.v.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc dạy học phải chú ý đến tâm lý người
học, học mà chơi, chơi mà học. Dạy học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Người
giáo viên vừa trang bị cho người học những kiến thức chính xác, hiện đại, khoa học;
vừa gây cho họ hứng thú, ham thích tìm hiểu, khám phá và nhu cầu sáng tạo. Tất cả
những điều đó là trí tuệ, tâm hồn, tư duy và cảm xúc. Trong quá trình dạy, người giáo
viên phải có cách dạy “nhẹ nhàng và vui vẻ”, phải tạo ra sự hứng thú, niềm vui thì
khả năng tiếp thu của người học sẽ nhanh hơn, hiệu quả hơn. Coi đó là một cách thức
để người học tiếp thu kiến thức dễ dàng, tự nhiên mà không thấy bị gò ép. Hiểu đặc
điểm tâm lý con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở các lực lượng giáo dục cần
phải quan tâm đến nhu cầu vui chơi, giải trí của tuổi trẻ. Người đã đưa ra ý kiến của
mình về “cách dạy trẻ”. Đó là: đối với trẻ nhỏ thì phải vừa học vừa chơi, “trong lúc
học, cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học” [55, tr.
427]. Người còn nói thêm, đối với trẻ nhỏ “nhẹ nhàng vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào
khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu” [59, tr.
39
186]. Trẻ con không phải là người lớn thu nhỏ nên không thể tùy tiện áp đặt vào
chúng cách suy nghĩ, cách làm việc và ứng xử của người lớn, cần phải tôn trọng bản
chất tự nhiên, những nhu cầu tự nhiên của các em. Phải làm sao cho trẻ biết tự lập, tự
giác, có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ hoạt bát, chứ không phải là khúm núm, đặt đâu ngồi
đấy.
Đối với thanh niên, “phải chuyên tâm học hành và công tác nhưng cũng cần có
vui chơi”. Những hoạt động vui chơi lành mạnh, định hướng tốt sẽ có tác dụng giáo
dục rất lớn. Nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam,
ngày 19- 1- 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Vui chơi lành mạnh là một bộ
phận trong sự sinh hoạt của thanh niên... Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có
những thú vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng” [58, tr. 266].
Hồ Chí Minh khuyên nhà giáo và các đoàn thể cần phải biết quan tâm đến mối quan
hệ giữa vui chơi và học tập. Trong lúc học cần làm cho các em vui, trong lúc vui chơi
cũng cần làm cho các em chăm học.
Người đưa ra quan điểm “tránh lối dạy nhồi sọ, chú ý tránh nói tiếng nước
ngoài quá nhiều trong giảng dạy. Những tiếng ta có thì không nên dùng tiếng nước
ngoài” [63, tr. 746]. Như vậy, phương pháp của nền giáo dục dân chủ mới là xóa bỏ
lối dạy và học theo kiểu nhồi sọ, hình thức, chú trọng phần thực học, phần học về
chuyên môn, nghiệp vụ chiếm một địa vị quan trọng, hết sức đề cao tinh thần khoa
học, nhằm giúp sinh viên có lối nhận thức khoa học, phát triển óc phê bình, óc phân
tích và tổng hợp, tinh thần sáng tạo và tư duy thực tế.
Phải phát động phong trào thi đua trong giảng dạy và học tập. Dạy tốt trở
thành một phong trào quần chúng, thì cán bộ giảng dạy có điều kiện hợp tác học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm trong học thuật và giảng dạy. Nhưng thi đua là để cùng nhau
tiến bộ chứ không phải dùng mọi cách để đạt được thứ hạng cao, hay khi không đạt
được thứ hạng cao thì sinh ra ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau. Dưới sự chỉ dẫn của Người,
ngành giáo dục đã phát động phong trào thi đua “hai tốt” (dạy tốt, học tốt). Phong
trào “hai tốt đã phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu và đã xuất hiện nhiều điển hình
tiên tiến trong giảng dạy và học tập, đóng góp cho sự phát triển của ngành giáo dục.
Theo Hồ Chí Minh, cần phải đề cao phương pháp nêu gương trong giảng dạy
40
để đạt hiệu quả cao trong giáo dục. Những tấm gương để sinh viên học tập chính là
những người thầy, người cô. Theo Người, thầy giáo thời nào cũng được xã hội tôn
trọng, vinh danh bởi người thầy luôn tượng trưng cho những gì chuẩn mực nhất về lối
sống, đạo đức, là “khuôn vàng, thước ngọc” cho người học noi theo. Hồ Chí Minh
thường nhắc nhở: Các thầy cô giáo phải trở thành tấm gương sáng, thành kiểu mẫu
cho các em noi theo, “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm
việc”. Người thầy, người cô như tấm gương trong cho học sinh soi vào và noi theo,
trước hết là ở đạo đức và phẩm chất người thầy. Học sinh càng nhỏ, càng hay bắt
chước ở thầy, cô giáo những hành vi, cử chỉ trong những sinh hoạt hằng ngày, cho
nên thầy, cô phải có cử chỉ và hành vi mẫu mực thật sự. Đạo đức, lối sống của thầy,
cô giáo và các mối quan hệ sự phạm trong nhà trường sẽ là môi trường giáo dục mà ở
đó tâm hồn, tình cảm đạo đức của học sinh từng ngày, từng giờ được trưởng thành.
Hồ Chí Minh đã nói: “Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng.
Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường
có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, tức là tương lai của nước nhà” [54,
tr. 120]. Tấm gương của người thầy với học sinh là vô cùng quan trọng, “thầy tốt thì
ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu”. Uxinxki cũng đã từng khẳng định:
“Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức
mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện
châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác” [83].
“Thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ (thật thà tự phê bình và
phê bình) để giúp nhau tiến bộ” [56, tr. 400] là biện pháp thực hiện tốt mối quan hệ
dân chủ trong giảng dạy và học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ việc khẳng định
“Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của mình” [56, tr. 114], Hồ Chí
Minh nhiều lần nhắc nhở thầy giáo và học sinh sử dụng tự phê bình và phê bình để
cùng nhau tiến bộ không ngừng, đoàn kết chặt chẽ, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Qua tự phê bình và phê bình mà đạt đến sự đoàn kết mới: “Phải đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình và thật thà tự phê bình và khi phê bình,
tự phê bình thì phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết, để đạt đến đoàn kết mới trên cơ sở
41
mới” [60, tr. 99].
Như vậy, dân chủ trong phương pháp giảng dạy là tổng hợp những phương
pháp mà các thầy cô giáo thực hiện để nhằm giúp sinh viên tiếp thu kiến thức một
cách chủ động, toàn diện nhất và có thể phát huy cao độ những khả năng của mỗi
sinh viên.
1.4.3. Dân chủ trong phương pháp học tập
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập giúp người học liên hệ
bản thân, đối chiếu với động cơ học tập của mình, lựa chọn và sử dụng phương pháp
học tập cụ thể có lợi nhất cho bản thân. Và trên hết là thường xuyên trau dồi ý chí cố
gắng, không ngừng vươn lên trong học tập để hướng đến mục tiêu vì sự tiến bộ của
bản thân, vì dân, vì nước, làm được điều đó thì nhất định sẽ đạt được mục đích của
việc học.
Có động cơ học tập đúng đắn thì người học sẽ tự nguyện, tự giác trong học
tập, không bị khiên cưỡng, gò ép, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh
thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.
Có được tinh thần tự nguyện học tập người học mới chủ động tìm tòi, khám phá tri
thức bằng tinh thần say mê, hứng thú. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc học chỉ
có được kết quả tốt khi người học xác định rõ mục đích học tập cho mình và xây
dựng động cơ học tập đúng đắn. Việc xác định mục đích học tập được Hồ Chí Minh
nhắc đến đầu tiên: “phải biết tự động học tập. Muốn vậy, phải hiểu rõ mấy điều: Học
để làm gì?... Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học
để tin tưởng... Học để hành” [55, tr. 360]. Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II,
ngày 7- 5- 1958, Bác nhấn mạnh: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì
cần đặt hai câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả
lời dứt khoát thì mới có phương hướng” [60, tr. 400]. Người chỉ rõ: “Dưới chế độ
thực dân, phong kiến, mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông
phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp. Thế thôi. Số phận dân tộc thế nào, tình
hình thế giới biến đổi thế nào, không hay, không biết gì hết. Mục đích giáo dục nô lệ
hầu hạ chúng. Ngày nay ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ
tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò là người chủ thì phải học tập. Học
42
bây giờ với học dưới chế độ thực dân, phong kiến khác nhau” [58, tr. 178], “Học tập
nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân sự”. Theo Người, học
không phải để lấy danh, để trang sức, mà “học để làm việc, làm người”, học để phụng
sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [55, tr. 208]. Bởi vậy, còn
sống còn phải học, học để tiến bộ mãi, để bắt kịp với xu thế của thời đại. Hồ Chí
Minh chỉ rõ sự cần thiết phải học, sự học là vô cùng vì “dừng lại là lùi bước, là lạc
hậu, tự mình đào thải trước” [61, tr. 266].
Trong việc học, dân chủ hóa giáo dục đòi hỏi phải thực hiện mục tiêu: “... học
tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi
vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng
nâng cao năng lực làm chủ của mình” [61, tr. 527]. Như vậy, việc thực hiện dân chủ
hóa trong giáo dục là nhằm làm cho người học ý thức được quyền làm chủ của mình,
đồng thời qua đó thể hiện quyền làm chủ của mình trên thực tế vì họ chính là những
người chủ của đất nước, và để làm được điều đó đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực không
ngừng đồng thời nâng cao năng lực làm chủ của sự học. Ngày nay, các nhà khoa học
đã chỉ rõ bốn trụ cột trong giáo dục của thế kỷ 21 là: “Học để biết, học để làm, học để
làm người, học để chung sống”
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người đi học phải có thái độ học tập đúng. Có
như thế việc học mới có kết quả. Trong “Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa 1
trường Nguyễn Ái Quốc” ngày 7/9/1957, Người chỉ rõ: “...cần phải có thái độ học tập
cho đúng:
- Phải khiêm tốn, thật thà... Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của
học tập.
- Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng.
Đọc tài liệu thì phải đào sâu suy nghĩ, không tin một cách mù quáng từng câu,
từng chữ một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận
cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó hợp với thực tế
không, có thật là đúng không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một
cách xuôi chiều, phải suy nghĩ chín chắn.
Phải bảo vệ chân lý..., không suy nghĩ ba phải.
43
Phải đoàn kết giúp đỡ nhau học tập...” [60, tr. 98].
Cùng với việc chỉ rõ mục đích học tập để làm gì? Người học cần học cái gì với
thái độ học tập như thế nào cho đáng? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cách học tập
có kết quả là: “Muốn học tập có kết quả thì phải có thái độ đúng và phương pháp
đúng... Phương châm phương pháp học tập là lý luận liên hệ với thực tế, học phải đi
đôi với hành chứ không phải học để nói suông...” [64, tr. 116].
Khi đã xác định đúng mục đích thì phải tự mình làm chủ học tập. Một trong
những yếu tố làm nên giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục
chính là vấn đề tự học của người học. Để phát huy hết năng lực và sức sáng tạo vốn
có của mỗi người thì một trong những vấn đề mấu chốt là phải tự học, tự nghiên cứu.
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh không có nhiều thời gian ngồi trên ghế nhà
trường để học như bao nhiêu học trò khác, nhưng nhờ có khả năng tự học tuyệt vời
mà Người đã tiếp thu được những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, những
tri thức tiên tiến nhất của thời đại để làm giàu cho vốn kiến thức của mình, trở thành
danh nhân văn hóa kiệt xuất. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), khi đề cập
đến công tác huấn luyện cán bộ, Người viết: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ
đạo giúp vào” [54, tr. 312]. Sau này, Người lại nhấn mạnh: “phải nâng cao và hướng
dẫn việc tự học” [55, tr. 360].
Học bao giờ cũng là tự học. Không ai học thay được cho mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn phê phán việc học tập thụ động, lười học, ỷ lại vào thầy cô giáo, vào
nhà trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “không phải có thầy thì học, thầy không
đến thì đùa” [54, tr. 312], phải tìm lấy sách mà đọc, lấy sách làm thầy, “phải biết tự
động học tập”. Nếu học là quá trình biến những tri thức khoa học được tích lũy từ
nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, thì tự học chính là yếu tố cơ bản
nhất làm cho quá trình tích lũy ấy diễn ra nhanh nhất và hiệu quả nhất. Tự học chính
là nỗ lực của bản thân người học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự nguyện, tự
giác cao cần phải có môi trường và sự quản lý, chỉ đạo giúp vào. Muốn tự học thành
công cần phải sắp xếp thời gian học tập khoa học, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế
hoạch, không lùi bước trước những khó khăn trở ngại. Kho tàng tri thức của nhân loại
là vô tận, người học phải biết chọn lựa nội dung phù hợp, chớ nên tham nhiều và phải
44
có thời gian biểu hợp lý, tránh chồng chéo với nhau.
Mục đích trước hết và tối thiểu mà người học phải đạt được là hiểu. Bản chất
của dân chủ trong học tập chính là hăng hái và thông suốt. Muốn vậy, người học phải
hiểu được nội dung học tập. Chính việc tự hỏi, tự trả lời, tự đánh giá là một quá trình
phát hiện ra những điều không hiểu, không thông suốt và cần phải tìm cách giải quyết
những thắc mắc đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở người học phải đặt câu hỏi
“vì sao”, phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không. Quá trình ấy giúp
người học tự rèn luyện tư duy, nâng cao năng lực tìm tòi, giải đáp các câu hỏi đặt ra,
nắm vững hơn những nội dung cần thiết, cần áp dụng. Ở đây, học phải đi đôi với hỏi
thì mới hiểu, những điều chưa hiểu, chưa trả lời được thì tiếp tục học. Khi học thì
không nên tiếp thu một chiều, học trên lớp không phải thầy nói gì cũng coi là chân lý,
hay những kiến thức đọc được đầu tiên chưa chắc là đúng, mà phải lật đi lật lại vấn
đề, tức là phải đề ra được câu hỏi và tìm ra được câu trả lời hợp lý thì mới hiểu sâu và
từ đó có khả năng hành động và giải quyết vấn đề.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi người phải tự biết trau dồi kiến thức
cho mình qua nhiều hình thức học tập đa dạng, học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời.
Trả lời câu hỏi: “Học ở đâu?” Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: học ở trường, học ở
sách vở và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn.
Người học cần có thái độ khiêm tốn học hỏi quần chúng, học hỏi những người
xung quanh, học những mặt tốt, những kinh nghiệm hay của người khác. Kinh
nghiệm của Hồ Chí Minh là không những biết triệt để tận dụng những tổ chức, những
hoạt động sẵn có trong xã hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói
chuyện, các hội thảo, các viện bảo tang mà còn tự mình tạo ra những hình thức học
tập mới, sinh động và bổ ích như: tranh thủ sự hướng dẫn, giúp đỡ của người khác,
học trong khi giao tiếp, trong công tác vận động quần chúng v.v., chú trọng việc học
đi đôi với hành, thực hành trong quá trình tự học.
Người học phải có chí tiến thủ, có ý chí cách mạng kiên cường để không
ngừng vươn lên trong học tập và rèn luyện. Hồ Chí Minh không chỉ xác định sự cần
thiết của học tập, động cơ, thái độ và phương pháp học tập mà còn luôn đòi hỏi sinh
viên phải có chí tiến thủ, có ý chí cách mạng kiên cường để không ngừng vươn lên
45
trong học tập và rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, “... cần phải có chí tự
động, tự cường, tự lập... Phải có quyết tâm đã làm việc gì thì làm cho đến nơi đến
chốn, làm cho kỳ được, phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học luôn, học mãi.
Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp”.
Tiểu kết chương 1:
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, một nền giáo dục của dân, do dân, vì dân là nền
giáo dục phải phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và từng bước vươn lên theo kịp với
nền giáo dục của thế giới. Phương pháp giáo dục phải cụ thể, linh hoạt, sát hợp với
từng đối tượng. Trong giáo dục và học tập phải chú trọng đủ cả các mặt: đạo đức cách
mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất... Học để
vận dụng những tri thức vào thực tiễn phong phú, đầy biến động của dân tộc và thời
đại. Học để trở thành những con người toàn diện, phát huy những năng lực sẵn có của
bản thân để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nền dân chủ mới.
Căn cứ vào điều Hồ Chí Minh đã viết, nói và làm, có thể khẳng định rằng,
Người đã khai sinh một nền giáo dục mới, tiến bộ, một nền giáo dục dân tộc, nhân
dân, dân chủ và đại chúng - một nền giáo dục mà ở đó ai cũng có quyền được học tập,
học suốt đời, học không chỉ vì sự tiến bộ của bản than mà còn đáp ứng những đòi hỏi
của sự tiến bộ xã hội, vì sự lớn mạnh của đất nước.
Hồ Chí Minh quan tâm đến tất cả các cấp học, bậc học, trong đó có giáo dục
đại học, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Người đã đưa ra những quan điểm
định hướng phát triển một cách toàn diện từ nội dung chương trình đến phương pháp
giảng dạy và học tập, tư cách người giáo viên và yêu cầu đối với mỗi người học,
người quản lý giáo dục nhằm tạo ra một môi trường giáo dục dân chủ, lành mạnh để
người dạy, người cán bộ phục vụ giáo dục, người học đều có thể phát huy hết khả
năng của mình, người dạy, người cán bộ sẽ cống hiến được nhiều nhất cho giáo dục
và người học sẽ xứng đáng trở thành chủ nhân tương lai của đất nước, có khả năng
đáp ứng những đòi hỏi cao của công việc sau khi hoàn thành việc học tại nhà trường,
46
đồng thời có đủ năng lực để thực hiện quá trình tự học, tự giáo dục suốt đời.
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC HÀNH DÂN
CHỦ TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thực hành dân chủ trong nhà trường đại học ở Việt Nam
hiện nay
2.1.1. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt dân chủ
tại các nhà trường đại học ở Việt Nam hiện nay
2.1.1.1. Tình hình quốc tế và trong nước
* Bối cảnh quốc tế:
Cách mạng khoa học và công nghệ đã đạt được những thành tựu nhảy vọt, đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, tạo điều kiện cho tất cả các
quốc gia và các cá nhân được tiếp cận lượng thông tin đồ sộ; nền kinh tế tri thức được
hình thành và ngày càng phát triển rộng rãi; xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang
lôi cuốn tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam tham gia hội nhập. Trong bối cảnh
đó đã xuất hiện nhiều triết lý giáo dục mới. Các xu hướng mới trong giáo dục đại học
thế giới ngày càng biểu hiện rõ nét: dân chủ hóa, đại chúng hóa, đa dạng hóa và quốc
tế hóa. Xu hướng dân chủ hóa giáo dục đại học đem lại quyền tự chủ lớn cho các
trường đại học ở nhiều nước lớn trên thế giới như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh,
v.v. Ở nhiều nước khác, xu hướng này cũng đang từng bước được thực hiện như
Trung Quốc, Nga, v.v.
* Về bối cảnh trong nước:
Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, cho nên đổi mới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học
là yêu cầu bức thiết mà một trong những xu hướng cần được thực hiện tốt là dân chủ
hóa quá trình giáo dục đại học. Sau gần 30 năm đổi mới, nước ta đã có những chuyển
biến to lớn, tạo ra được thế và lực mới cho công cuộc xây dựng đất nước nhưng còn
nhiều bất cập trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có
những thay đổi tích cực về cả chương trình, nội dung, quy trình và cơ cấu đào tạo
47
nguồn nhân lực phục vụ nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đã đặt ra cho giáo dục đại học nước ta những
cơ hội chưa từng có: Công nghệ thông tin và truyền thông tạo cơ hội cho mọi người
được tiếp cận các nguồn tri thức và lượng thông tin khoa học khổng lồ phục vụ cho
việc học tập và nghiên cứu khoa học, tiếp thu những phương pháp giảng dạy và học
tập hiệu quả; hệ thống giáo dục không biên giới tạo cơ hội cho mọi công dân trên tất
cả các nước được tiếp cận nền giáo dục tiên tiến nhất; sự thay đổi nhanh chóng và
mạnh mẽ của giáo dục đại học thế giới tạo cơ hội cho giáo dục đại học nước ta có thể
tiếp cận, học tập và vận dụng vào thực tiễn đất nước. Chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới; những thành tựu to lớn
của công cuộc đổi mới với việc tạo ra nhiều thế và lực mới cho giáo dục đại học; nhu
cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, cũng như đang tạo ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển giáo dục đại
học nước ta hiện nay.
Để khai thác thế mạnh của thời đại và dân tộc, tận dụng hiệu quả các cơ hội đã
có, đồng thời khắc phục những nguy cơ, thách thức nhằm thúc đẩy giáo dục nước nhà
cần thiết phải khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của mỗi cá nhân và từng tập thể nhà
trường. Muốn vậy, tất yếu phải xây dựng và mở rộng dân chủ ở các trường đại học
nước ta.
2.1.1.2. Mục đích, tác dụng của việc thực hành dân chủ và việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm thực hiện tốt dân chủ ở nhà trường đại học.
Thực tiễn phát triển nền giáo dục hiện đại Việt Nam đã khẳng định giá trị to
lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục và vai trò của việc thực
hành dân chủ trong giáo dục đối việc xây dựng và phát triển con người mới, con
người phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ bản thân và tập thể. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong giáo dục cần phải được nhận thức đầy đủ, đúng đắn và được
vận dụng, phát huy trong bối cảnh mới của giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục
đại học Việt Nam nói riêng.
Có thể xem phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, đáp ứng yêu
cầu phát triển xã hội là phương châm trong quá trình đổi mới, phát triển giáo dục và
48
đào tạo mà Đảng ta đang đề ra và thực hiện. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI năm
2013 của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo có nhiều điểm mới. Trong đó, đáng
chú ý là: Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách
quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Chuyển mạnh quá trình
giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và
đào tạo. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Đây là sự trở lại và
tiếp tục tư tưởng về thực hành dân chủ trong giáo dục và đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong điều kiện mới. Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, giáo dục và đào
tạo phải hướng đến phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của con người; “Dạy
và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước” [59, tr. 291]. Như vậy, Đổi
mới giáo dục và đào tạo phải hướng đến mục tiêu phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất người học, nhất là năng lực làm chủ, phẩm chất làm chủ để đáp ứng yêu
cầu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chúng ta
đã từng nhấn mạnh mục tiêu giáo dục toàn diện nhưng thực tế mục tiêu này đã không
được nhận thức và thực hiện đúng. Điều đó đã đưa đến cách làm giáo dục chủ yếu
trang bị kiến thức, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, đào tạo thiếu gắn kết với nghiên
cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú
trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Đổi mới giáo
dục đại học nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học đáp ứng yêu
cầu phát triển xã hội phải được xem là mục tiêu cao nhất, là quan điểm chi phối toàn
bộ quá trình đổi mới và phát triển giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói
riêng.
Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục phải bảo đảm mục tiêu: Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm
việc hiệu quả. Bằng giáo dục, qua giáo dục, nhờ giáo dục mà những năng lực sẵn có
của người học được khơi dậy và phát huy. Người học phải không ngừng tiến bộ về
49
mọi mặt, trong đó nhấn mạnh sự tiến bộ về kỹ năng thực hành, năng lực làm chủ và
phẩm chất làm chủ. Theo lứa tuổi và trình độ, người học từng bước vươn lên làm chủ
các loại tri thức, làm chủ các loại kỹ năng; biết rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình
trong quan hệ với tự nhiên và các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực đời sống. Những
tri thức dân chủ, giá trị dân chủ, thái độ, kỹ năng làm chủ phải được dạy, được học,
được thực hành trong nhà trường, trong các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhờ giáo dục,
bằng giáo dục, qua giáo dục, người học tự tin và tự chủ, làm việc sáng tạo và hiệu quả
hơn, có thêm tri thức và kỹ năng sống để sống tốt hơn. Đó là những năng lực và phẩm
chất công dân cần có của một xã hội hiện đại, văn minh, dân chủ. Đó là tri thức, năng
lực, kỹ năng để mỗi người, mỗi công dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Phát triển năng lực người học, năng lực làm chủ cho mọi người, mọi công dân để họ
là chủ, làm chủ thực sự đã trở thành mục tiêu và sứ mệnh vẻ vang của nền giáo dục
Việt Nam trong điều kiện mới.
Tuân thủ phương châm, hướng theo mục tiêu nói trên đòi hỏi toàn bộ quá trình
đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo phải thực sự dân chủ hóa. Nội dung, chương
trình, hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục, kiểm tra, đánh giá; quan hệ dạy - học,
quan hệ tổ chức quản lý cũng phải hiện đại hóa, dân chủ hóa. Người dạy, người quản
lý, nhà trường, Nhà nước, cá nhân, tổ chức, đơn vị sử dụng nhân lực, gia đình, cộng
đồng, xã hội được tự do, tự chủ phát huy năng lực sáng tạo theo chức năng, nhiệm vụ
của mình nhằm đóng góp hiệu quả nhất cho việc phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất người học, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Theo đó, các tầng lớp
nhân dân, nhất là đông đảo nhân dân lao động, tùy theo điều kiện, nhu cầu, năng lực
có thể học tập và học tập suốt đời. Học để làm người, để làm việc, để làm chủ, để
chung sống. Đó là những biểu hiện cơ bản nhất, khái quát nhất của dân chủ trong nhà
trường và dân chủ trong giáo dục, đào tạo. Đó là tính nhân dân, định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền giáo dục dân chủ hiện đại. Với ý nghĩa đó,dân chủ được xem là
mục tiêu đổi mới giáo dục lần này. Xa rời mục tiêu ấy, không thực hiện được mục
tiêu ấy có nghĩa là việc đổi mới giáo dục còn nửa vời, chưa đến nơi, chưa triệt để,
chưa căn bản, chưa toàn diện.
Để có một nền giáo dục hiện đại, dân chủ, tiên tiến, làm tốt sứ mệnh phục vụ
50
công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của đất nước thì con
đường và phương thức cơ bản là phát huy dân chủ, thực hành dân chủ trong từng
bước, từng khâu và trong toàn bộ quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo. Với ý nghĩa
đó, dân chủ chính là phương thức, động lực to lớn để đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam.
Thực hiện dân chủ trong nhà trường đại học ở nước ta hiện nay có ý nghĩa đặc
thù là nhằm phát huy sức mạnh tập thể của toàn trường trong việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của mình, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học,
tạo môi trường dân chủ để cho mỗi cá nhân phát huy năng lực sáng tạo của mình
trong giảng dạy, học tập, rèn luyện và phấn đấu. Vì vậy, đối với các trường đại học
nước ta, thực hành dân chủ là việc làm vô cùng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh
đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
2.1.2. Thành tựu, hạn chế trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại học
Việt Nam hiện nay
2.1.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong thực hành dân chủ ở nhà trường
đại học Việt Nam hiện nay
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ trong nhà trường là một yêu
cầu tất yếu, khách quan. Thực hiện dân chủ là để cho tất cả mọi thành viên của nhà
trường, từ hiệu trưởng đến cán bộ, giảng viên, từ thầy đến trò đều hiểu quyền và
nghĩa vụ của mình, qua đó mà nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Hiểu rõ vai trò của việc thực hiện dân chủ trong giáo dục, ngay từ năm 1989,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành cuộc vận động dân chủ trong tàn ngành. Để cụ
thể hóa cuộc vận động dân chủ của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện dân chủ
trong nhà trường với hai nội dung lớn là dân chủ trong quản lý nhà trường và dân chủ
trong quá trình đào tạo; thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng chính phủ về xây dựng, ban hành và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở, ngày 1- 3- 2000, Bộ trường Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết
định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường. Sau khi quy chế được ban hành, các trường đại học đã
tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể cán bộ giảng viên và sinh viên những nội dung cở
51
bản của Quy chế; có văn bản hướng dẫn và có chương trình hành động cụ thể để thực
hiện Quy chế, trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi đối tượng cụ thể; đã
thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong nhà trường. Nhờ
những hoạt động tích cực trên mà việc nhận thức về Quy chế thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường được đông đảo cán bộ, giảng viên nắm bắt đầy đủ. Theo kết
quả điều tra xã hội học của tiến sĩ Đồng Văn Quân tại hơn 30 trường đại học trên cả
nước trong cuốn sách Thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta hiện
nay, khi được hỏi: Ông (bà) có biết về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của nhà trường hay không? Có 81% trả lời là biết, chỉ có 19% trả lời là không biết
hoặc không trả lời [73, tr. 95].
Để triển khai và thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường, các trường đại học thành lập ban chỉ đạo với thành phần là đại diện của đảng
ủy, ban giám hiệu, thường vụ công đoàn, đoàn thanh niên. Ban chỉ đạo thực hiện Quy
chế dân chủ có nhiệm vụ xây dựng chương trình hành động, chỉ đạo và giám sát hoạt
động dân chủ trong toàn đơn vị. Ban chỉ đạo hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
thường vụ đảng ủy trường. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động
của nhà trường các trường đại học hoạt động thường xuyên và tương đối hiệu quả
nên được cán bộ, giảng viên trong các trường ghi nhận.
Hằng năm, thông qua các hội nghị tổng kết năm học, hội nghị công chức, viên
chức nhà trường; hội nghị tổng kết công tác của đảng bộ và các tổ chức đoàn thể quần
chúng đều có đánh giá về việc thực hiện Quy chế dân chủ hoặc vấn đề phát huy dân
chủ trong nhà trường. Hầu hết các trường đại học đều đã tổ chức tổng kết công tác
thực hiện Quy chế dân chủ và vấn đề phát huy dân chủ trong hoạt động của nhà
trường. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cho hoạt động tổng kết này chưa được làm
tốt, nhiều nội dung được lồng ghép qua các hoạt động tổng kết khác nên chỉ có 54,2%
người được hỏi cho rằng có biết về hội nghị tổng kết công tác thực hiện Quy chế dân
chủ trong hoạt động của nhà trường [73, tr. 96].
Cuộc vận động dân chủ và Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của
nhà trường đã đem lại những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động của
toàn thể cán bộ, giảng viên trong các trường đại học, góp phần tích cực vào việc thực
52
hiện các nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Đại đa số những người được hỏi ý thức
được rằng, dân chủ không phải là việc riêng của lãnh đạo mà là nhiệm vụ của mỗi
người. Tất cả mọi người đều phải trở thành chủ thể của quá trình này, phải có trách
nhiệm tham gia, đẩy mạnh quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường, phải được
biết, được bàn, được làm và được kiểm tra các hoạt động của nhà trường. Nhờ đó mà
bầu không khí trong dân chủ trong các nhà trường đại học ngày càng được mở rộng.
- Về thực hành dân chủ trong nội dung, chương trình giảng dạy
Với phương châm đào tạo “lấy người học làm trung tâm”, ngành giáo dục- đào
tạo đang tiến hành đổi mới nội dung chương trình và quy trình đào tạo nhằm tăng khả
năng chủ động, sáng tạo, kích thích năng lực tự học, độc lập nghiên cứu của sinh
viên. Những đổi mới này có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch giảng dạy của các
trường đại học, đến kế hoạch dạy học của giảng viên và sinh viên.
Các chương trình đào tạo đại học thường xuyên được cải tiến, được xây dựng
lại theo hướng tăng cường tính liên thông giữa các chương trình đào tạo gần ngành
với nhau, tăng cường các môn tự chọn giúp sinh viên có thể chọn học những môn hợp
sở trường, nguyện vọng của mình. Các trường đại học ở nước ta vẫn đang trong quá
trình chuyển đổi triệt để quy trình đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ. Quy trình
này cho phép sinh viên tự chọn kế hoạch học tập riêng cho mình, phát huy tối đa
quyền làm chủ của cả người học và người dạy. Tuy nhiên, cần có thời gian và những
điều kiện tối thiểu để từng bước làm quen với mô hình đào tạo mới này.
Thực tiễn giảng dạy cho thấy, đội ngũ giảng viên đã hoàn thành tương đối tốt
nhiệm vụ của mình. Họ tôn trọng chương trình, tôn trọng người học, chuyển tải đủ
nội dung theo những chương trình thích hợp với chức năng, nhiệm vụ đào tạo của của
trường mình. Đây là yếu tố quan trọng để tạo nên sự đồng thuận trong mục tiêu đào
tạo chung giữa các trường, vừa phát huy được những thế mạnh của từng trường trong
việc giảng dạy.
- Thành tựu thực hành dân chủ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác
quốc tế ở các nhà trường đại học nước ta
Thực hiện dân chủ trong nhà trường, trước hết là tạo cơ chế để mỗi cán bộ,
giảng viên được tham gia vào quá trình hoạt động chuyên môn của nhà trường, làm
53
cho họ thực sự trở thành những người làm chủ trong nhà trường. Trường đại học là cơ
sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đồng thời là cơ sở nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ cho các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội
của cả nước. Trường đại học phải chịu trách nhiệm trước toàn xã hội về các sản phẩm
khoa học, công nghệ của mình, trong đó sản phẩm đặc biệt là các chuyên gia thuộc
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Trong bối cảnh của cuộc vận động
“hai không” với bốn nội dung của ngành giáo dục và đào tạo hiện nay: không bệnh
thành tích; không tiêu cực trong thi và kiểm tra; không đào tạo không đạt chuẩn và
không theo nhu cầu xã hội; không vi phạm đạo đức nhà giáo thì việc toàn thể cán bộ,
giảng viên tham gia vào quá trình hoạt động chuyên môn của nhà trường càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Hơn nữa, việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học
trong việc xác định quy mô đào tạo, tuyển sinh, chất lượng đào tạo đòi hỏi các nhà
trường phải có năng lực tự quản tốt, nếu không sẽ bị đào thải.
Vấn đề dân chủ trong quá trình đào tạo ở các trường đại học nước ta thời gian
qua đã từng bước được cải thiện và đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng.
Quy trình tuyển sinh dần dần được cải tiến theo hướng công khai, công bằng, dân chủ
hơn. Quy mô đào tạo mở rộng tương đối hợp lý, tạo điều kiện cho phần lớn thanh
niên có đủ điều kiện tham gia học tập tại các trường đại học.
Vấn đề tuyển dụng sinh viên sau khi ra trường vào làm việc tại các các cơ sở
cũng được công khai hóa. Nhiều trường đại học đã phối kết hợp với các cơ sở tuyển
dụng để thực hiện “đào tạo theo nhu cầu xã hội”, thực hiện “ba công khai”, nhờ đó
người học và gia đình họ có điều kiện thuận lợi trong việc chọn trường, chọn nghề,
chọn nơi làm việc sau khi ra trường.
Trong quá trình đào tạo tại trường, vấn đề công khai dân chủ cũng được đặt ra
và thực hiện từng bước có hiệu quả. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng
tăng cường tính chủ động, tích cực của người học và tính sáng tạo của người dạy
được triển khai rộng rãi trong các trường đại học. Nhiều trường đầu tư, trang bị
phương tiện dạy học hiện đại, phát triển các kho giữ liệu, tài liệu cập nhật phục vụ
đắc lực quá trình đổi mới phương pháp.
Hơn nữa, mục đích của giáo dục ở bậc đại học là đào tạo nên những người có
54
trình độ chuyên môn cao, do đó các trường phải cung cấp đầy đủ hệ thống giáo trình,
các công trình khoa học tham khảo của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên cho sinh
viên, giảng viên. Trong những năm qua các trường đại học đặc biệt chú trọng hoạt
động xây dựng hệ thống giáo trình, tài liệu học tập, tham khảo cho sinh viên, giảng
viên. Nhờ đó, chất lượng nội dung, chương trình đào tạo được nâng cao.
Cán bộ, giảng viên được tham gia bàn bạc về công tác đào tạo, kiểm tra, giám
sát và có những phản hồi đối với công tác đào tạo của nhà trường. Công tác quản lý
đào tạo trong những năm qua đã từng bước được đổi mới nhằm phát huy quyền làm
chủ của đội ngũ cán bộ giảng dạy và sinh viên.
Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hiện nay là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của các trường đại học vì nó thể hiện tiềm năng khoa học của các
nhà trường. Đây là lĩnh vực thể hiện năng lực sáng tạo của đội ngũ giảng viên, các
nhà khoa học trong nhà trường và khuyến khích sức sáng tạo của sinh viên. Để nâng
cao hiệu quả của công tác này cần phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của người
nghiên cứu nên đây là lĩnh vực cần được dân chủ hóa một cách triệt để. Việc thực
hiện dân chủ trong nghiên cứu khoa học ở các trường đại học nước ta thời gian qua đã
đem lại những thành tích nghiên cứu đáng kể. Nhiều đề tài, dự án khoa học được triển
khai và hoàn thành với chất lượng tốt, có tính ứng dụng cao do các nhà trường đại
học thực hiện. Nhiều công trình, bài báo khoa học của các giảng viên đại học được
công bố trên các tạp chí uy tín trong và ngoài nước. Vấn đề dân chủ trong nghiên cứu
khoa học đã được thể hiện rõ nét trong việc lựa chọn, xét duyệt đề tài công khai, minh
bạch và bình đẳng; trong quá trình thực hiện đề tài, nhà nghiên cứu được tự do lựa
chọn cộng tác viên, đơn vị hợp tác và thu hút các nguồn lực khác nhau để phục vụ
nghiên cứu; các buổi bảo vệ, nghiệm thu đề tài diễn ra với không khí dân chủ, có sự
tranh luận giữa các nhà khoa học với tinh thần tôn trọng lẫn nhau; những kết quả
nghiên cứu sau khi được nghiệm thu và được công bố thuộc quyền sở hữu trí tuệ của
tác giả hoặc cơ quan chủ trì đề tài đã thể hiện tính dân chủ trong quyền sở hữu trí tuệ
đối với kết quả nghiên cứu.
Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hợp tác quốc tế của các trường đại
học đang từng bước được xác lập. Nhà nước, các bộ, ngành liên quan đã ban hành
55
nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đối với các trường và cơ sở đào tạo
đại học. Trong những năm gần đây, nhiều trường đại học đã mở rộng hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực đào tạo đại học và sau đại học. Các trường được chủ động hợp tác với
các trường đại học trên thế giới trong việc trao đổi người học, trao đổi giảng viên
thỉnh giảng, hỗ trợ phương pháp và phương tiện dạy học, đào tạo giảng viên và
nghiên cứu viên chất lượng cao. Điều đó giúp các trường đại học nước ta từng bước
tiếp cận nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Các nhà khoa học, các nhà trường và cơ sở đào tạo đại học được chủ động
trong hợp tác nghiên cứu khoa học với các cơ sở khoa học nước ngoài, bao gồm các
nội dung hợp tác như trao đổi thông tin khoa học; công bố các công trình, bài báo
khoa học; tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học trong và ngoài nước; tổ chức và
tham gia các hội thảo khoa học quốc tế; các buổi tập huấn về nghiên cứu khoa học và
phương pháp giảng dạy với chuyên gia nước ngoài. Thông qua những hoạt động trên,
năng lực và hiệu quả nghiên cứu của các trường đại học nước ta từng bước được nâng
cao, dần dần tiếp cận trình độ khoa học của các trường đại học trong khu vực và trên
thế giới.
- Thực hiện tốt vấn đề dân chủ trong quản lý tài chính và cơ sở vật chất của
nhà trường
Quá trình thực hiện dân chủ trong lĩnh vực quản lý những năm qua ở các
trường đại học nước ta đã đạt được một số bước phát triển quan trọng, góp phần làm
cho nhà trường ngày càng lớn mạnh. Các lĩnh vực quản lý của nhà trường đã dần dần
được công khai hóa, minh bạch hóa và có hiệu quả ngày càng cao, được cán bộ, giảng
viên trong trường ghi nhận. Hầu hết các trường đại học đều thực hiện tốt “ba công
khai”, “bốn kiểm tra”.
Trước hết là về quản lý tài chính, chi tiêu trong nhà trường. Tài chính của một
trường đại học bao gồm các nguồn thu chính là: nguồn thu do ngân sách nhà nước
cấp; nguồn thu học phí; nguồn thu từ đào tạo ngoài ngân sách (đào tạo hợp đồng, đào
tạo tại chức, v.v.); nguồn thu từ các hoạt động khoa học, công nghệ; các nguồn tài trợ
khác. Do các nguồn thu khá đa dạng nên đây là lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực. Hiệu
56
trưởng là người chịu trách nhiệm toàn bộ về các nội dung thu, chi tài chính trong
trường cho nên cũng dễ xảy ra tình trạng độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ trong
lĩnh vực này. Đây còn là nội dung nhạy cảm do nó liên quan trực tiếp đến thu nhập và
cuộc sống của mỗi người nên thường được mọi người quan tâm. Mỗi khoản thu, chi
không hợp lý hay những thủ tục thanh toán rườm rà đều gây bất bình cho cán bộ,
giảng viên. Hiện nay, các nhà trường đã có nhiều cố gắng trong việc công khai các
khoản thu chi trong các báo cáo tại đại hội công nhân viên chức trường hàng năm, các
khoản thu chi đều có giải trình rõ ràng. Trong việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng
cơ bản trong trường đều được công khai hóa, khách quan hóa trong việc đấu thầu, đấu
giá. Những công việc liên quan đến tài chính và cơ sở vật chất (phòng kế hoạch tài
chính, phòng quản trị của các trường) đều được giao cho những người có chuyên môn
để giúp đỡ ban giám hiệu, hiệu trưởng trong quản lý tài chính và cơ sở vật chất của
nhà trường.
- Thực hành dân chủ trong công tác quản lý cán bộ
Việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, giảng viên và việc tuyển dụng, sử
dụng, bổ nhiệm, quản lý đào tạo cán bộ đã được các trường từng bước thực hiện có
hiệu quả. Các hoạt động này đã được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo công khai,
dân chủ nên được cán bộ, giảng viên ghi nhận.
Việc công khai hóa và thực hiện đúng các chính sách đối với cán bộ, giảng
viên luôn là ưu tiên hàng đầu trong các trường đại học vì nó tác động trực tiếp đến
thái độ làm việc và bầu không khí dân chủ trong trường. Rất nhiều chế độ, chính sách
đối với cán bộ, giảng viên được thực hiện kịp thời và hiệu quả như tăng lương đúng
chế độ, các chính sách ưu đãi nghề nghiệp, thanh toán vượt giờ, tiền hỗ trợ tăng thêm,
hỗ trợ học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chi cho nghiên cứu khoa học của
cán bộ, giảng viên, v.v. Những việc làm cụ thể mà các trường đại học đã thực hiện
được góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ,
giảng viên trong trường, kích thích tính tích cực của cán bộ, giảng viên thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Vấn đề tuyển chọn, bố trí, sử dụng và điều động cán bộ cũng từng bước được
công khai hóa về chỉ tiêu, tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng và bố trí cán bộ. Quy trình
57
bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp trong trường dần dần được xác lập hợp lý, vừa đảm
bảo quyền dân chủ, vừa có định hướng, lãnh đạo thống nhất từ trên xuống, từ khâu
quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn kế cận đến tiến trình bầu cử đều
có kế hoạch rõ ràng và có sự thăm dò ý kiến, lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ,
giảng viên trong trường (tùy vào từng chức danh và căn cứ vào điều kiện cụ thể
mà các trường lựa chọn mức độ phổ cập của việc lấy phiếu tín nhiệm - trực tiếp
hoặc đại diện).
Thực hiện dân chủ không chỉ là nhiệm vụ của lãnh đạo, của tổ chức, đoàn thể
mà còn là trọng trách của mỗi thành viên trong trường. Nhiều cán bộ, giảng viên
trong trường hiểu về trách nhiệm này của mình nên họ đã tích cực tham gia làm chủ
tập thể, làm chủ nhà trường trong khuôn khổ chức trách, nhiệm vụ được giao.
Việc làm chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường đại học
được thực hiện theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Mức
độ dân chủ trong nhà trường, khả năng làm chủ phụ thuộc vào các văn bản pháp quy,
sự tạo điều kiện của lãnh đạo, trình độ dân trí của đối tượng được hưởng quyền dân
chủ. Do đó luôn có sự khác nhau về phạm vi, mức độ làm chủ ở những đối tượng
khác nhau trong nhà trường và ở những nhà trường khác nhau. Quyền làm chủ của
cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường được thể hiện ở những nội dung chính là:
được cung cấp thông tin kịp thời; được tham gia bàn bạc những vấn đề liên quan;
được giải quyết những công việc thuộc phạm vi, thẩm quyền; được kiểm tra, giám sát
các hoạt động của nhà trường, đơn vị theo quy định. Hiện nay, các văn bản pháp quy
về quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên trong các trường đại học đã được ban hành
tương đối đầy đủ, chặt chẽ; cán bộ lãnh đạo trong các trường có ý thức dân chủ, tạo
nhiều điều kiện thuận lợi để nhân dân được làm chủ; trình độ dân trí của quần chúng
trong các trường đại học khá cao; các tổ chức và đoàn thể quần chúng hoạt động
tương đối hiệu quả, từng bước phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân. Cho nên
các đối tượng trong trường, từ cán bộ lãnh đạo đến giảng viên, công chức, sinh viên
dần dần thể hiện quyền làm chủ của mình, biết nói lên ý kiến của mình, tham gia góp
ý vào các công việc của trường, tích cực, thẳng thắn, đúng mực trong tự phê bình và
phê bình. Dân chủ trong các trường đại học nước ta đã đạt được những thành quả
58
bước đầu đáng khích lệ.
- Trong công tác quản lý sinh viên
Sinh viên là lực lượng đông đảo nhất trong các trường đại học nước ta hiện
nay. Với phương châm đào tạo là lấy người học làm trung tâm thì dân chủ trong sinh
viên là một trong những nội dung rất quan trọng của việc thực hiện dân chủ trong nhà
trường.
Để sinh viên hiểu hơn về quyền và trách nhiệm thực hiện dân chủ của mình
trong nhà trường, các trường đại học đã tổ chức tuần sinh hoạt công dân, tuần sinh
hoạt chính trị đầu khóa, các buổi nói chuyện chuyên đề, hội thảo, v.v. Thông qua
những hội nghị, hội thảo này, sinh viên được học tập, phổ biến các quy chế, quy định
của ngành và nhà trường, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước, qua đó nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, các
trường còn cung cấp cho sinh viên các tài liệu về quy chế đào tạo, cung cấp nguồn tư
liệu để sinh viên tìm hiểu thêm về các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của sinh viên trong nhà trường đại học.
Dân chủ trong sinh viên phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực hiện dân chủ
của khoa chủ quản, của nhà trường đại học. Trong đó, sát với sinh viên nhất là tập thể
lớp, chi đoàn, đây là nơi sinh viên thể hiện quyền làm chủ của mình. Với quy trình
đào tạo theo niên chế thì tập thể lớp là nơi sinh viên gắn bó trong suốt quá trình học
đại học của mình. Hiện nay, nhiều trường thực hiện sinh hoạt lớp hành chính định kỳ
4 lần trong một năm học để giảng viên cố vấn học tập tư vấn các hoạt động cho lớp,
hướng dẫn lớp trong việc thực hiện tự quản các hoạt động của sinh viên, qua đó phát
huy tối đa quyền dân chủ, tính năng động, sáng tạo của sinh viên thông qua sự điều
hành của ban cán sự lớp và chi đoàn sinh viên.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho sinh viên được tham gia làm chủ tập thể, làm
chủ nhà trường, các trường đại học đồng thời cũng nghiêm túc và thực hiện kịp thời
các quy định về khen thưởng, kỷ luật trong sinh viên nhằm giáo dục những sinh viên
chậm tiến, động viên những sinh viên tích cực trong học tập và sinh hoạt.
Việc thực hiện nghiêm túc quy chế thi, kiểm tra cũng được các nhà trường đại
học quan tâm thực hiện. Đây là một trong những điều kiện nâng cao chất lượng đào
59
tạo, đem lại sự công bằng trong đào tạo cho mỗi sinh viên. Các trường đang cố gắng
đổi mới phương pháp đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo theo hướng khách quan,
công bằng, chính xác nhằm kích thích năng lực sáng tạo, tự giác của sinh viên.
Ngoài ra, các trường đại học còn tìm nhiều nguồn đầu tư để xây dựng cơ sở
vật chất phục vụ học tập, nghiên cứu khoa học và sinh hoạt cho sinh viên như giảng
đường, phòng thí nghiệm, thư viện, ký túc xá, v.v. Trong bối cảnh nguồn kinh phí nhà
nước đầu tư còn hạn chế thì các nguồn kinh phí ngoài ngân sách như các dự án, tài
trợ, đào tạo ngoài ngân sách là rất quan trọng. Hiện nay các trường đại học đã rất chủ
động trong việc thu hút các nguồn vốn trên vào việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ
nhiệm vụ đào tạo, cải thiện đáng kể điều kiện học tập, sinh hoạt của sinh viên.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, mỗi năm học, các trường đều tổ chức lấy phiếu thăm dò phản hồi ý kiến của
người học đối với người dạy. Thông qua hoạt động này, sinh viên có quyền đánh giá
giảng viên về nội dung, phương pháp dạy học, thái độ của người dạy đối với người
học, từ đó đề ra những mong muốn, yêu cầu của người học đối với người dạy, giúp
giảng viên có thể điều chỉnh phương pháp, thái độ giảng dạy của mình cho phù hợp
với nhu cầu của người học.
Với những điều kiện tương đối thuận lợi mà các trường đại học đã tạo ra được
thì vấn đề thực hiện dân chủ trong sinh viên phụ thuộc chủ yếu vào thái độ và tính
năng động, sáng tạo, tự giác của sinh viên. Hiện nay, hầu hết sinh viên đã nhận thức
được vai trò của mình trong nhà trường, do đó bước đầu sinh viên có được những
hiểu biết cơ bản về dân chủ trong quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện. Sinh viên
luôn nêu cao tinh thần làm chủ trong các nhiệm vụ, có thái độ tuân thủ nghiêm
pháp luật Nhà nước, kỷ luật, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và quy chế của
các nhà trường.
2.1.2.2. Hạn chế trong thực hiện dân chủ ở các trường đại học nước ta hiện nay
Tuy đã đạt được những thành tích bước đầu quan trọng, nhưng quá trình thực
hiện dân chủ trong nhà trường đại học nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Hạn
chế này thường được biểu hiện trên hai phương diện chính là: dân chủ tùy tiện, thiếu
định hướng dẫn đến vi phạm các nguyên tắc, quy định về dân chủ của cấp trên; hoặc
60
ngược lại, vận dụng một cách cứng nhắc các văn bản, quy định, quy chế dân chủ
được áp đặt từ trên xuống vào quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường nên
không thấy được tính đặc thù của quá trình này trong khuôn khổ nhà trường đại học,
dẫn đến hiện tượng rập khuôn giáo điều; vẫn còn những biểu hiện dân chủ hình thức
trong một số hoạt động của nhà trường. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát có thể rút
ra những hạn chế chủ yếu như sau:
- Hạn chế của hệ thống chính trị trong thực hiện dân chủ ở các trường đại học
ở nước ta.
Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền còn né tránh vấn đề dân chủ, dẫn đến tình
trạng buông xuôi, làm mất trật tự, kỷ cương hoặc dân chủ bị bóp nghẹt; hoạt động của
các đoàn thể quần chúng trong trường còn mang tính thụ động, thiếu độc lập và sáng
tạo nên việc phát huy dân chủ còn nhiều hạn chế.
Việc tạo dựng bầu không khí dân chủ trong trường, đảm bảo dân chủ phải có
lãnh đạo, có trật tự, kỷ cương trước hết là nhiệm vụ của tập thể lãnh đạo đảng ủy, ban
giám hiệu nhà trường. Tuy dân chủ không phải do một người tạo dựng, ban phát
nhưng vai trò của thủ lĩnh chính trị và người đứng đầu các cơ quan dân cử này là rất
quan trọng. Nếu bí thư đảng ủy, hiệu trưởng nhà trường biết mở rộng dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên thì sẽ được quần chúng ủng
hộ, tín nhiệm. Ngược lại, nếu dân chủ bị bóp nghẹt, tất yếu sẽ nảy sinh mâu thuẫn,
xuất hiện những phản ứng từ phía quần chúng, làm cho nhà trường bất ổn. Phần lớn
những vụ tiêu cực, lộn xộn nảy sinh tại các trường đại học ở nước ta trong thời gian
qua đều bắt nguồn từ việc cán bộ lãnh đạo không gương mẫu, tham ô, bóp nghẹt dân
chủ, trù úm người không cùng chính kiến. Tuy phần lớn những cuộc thanh tra theo
đơn khiếu kiện của quần chúng ở các trường đại học nước ta thời gian qua mới chỉ
dừng lại ở mức xử lý nội bộ, nhưng đây cũng là một cảnh báo về tình trạng vi phạm
dân chủ, bóp nghẹt dân chủ từ phía người lãnh đạo cao nhất ở một số trường.
Việc đoàn kết nội bộ trong tập thể đảng ủy, ban giám hiệu nhà trường là một
vấn đề tiên quyết đảm bảo tiến trình thực hiện dân chủ trong nhà trường. Đoàn kết
không phải là bao che, a dua theo người đứng đầu mà là sự thống nhất về tư tưởng và
hành động để xây dựng một nhà trường vững mạnh. Có không ít trường hợp hiệu
61
trưởng và bí thư đảng ủy mâu thuẫn với nhau, hiệu trưởng và phó hiệu trưởng không
đồng quan điểm với nhau, dẫn đến tranh giành, khiếu kiện lẫn nhau, làm cho nội bộ
lục đục, quần chúng bất bình, nhà trường khủng hoảng, nguyên tắc tập trung dân chủ bị
phá vỡ, quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên bị vi phạm. Khi nội bộ lãnh đạo không thể
giải quyết được mâu thuẫn của mình thì buộc cấp trên phải đứng ra giải quyết.
Biết lắng nghe ý kiến của quần chúng, sâu sát với quần chúng, xuất phát từ nhu
cầu, nguyện vọng và khả năng của quần chúng để đưa ra những quyết sách phù hợp là
điều kiện thành công trong hoạt động lãnh đạo của đảng ủy, ban giám hiệu nhà
trường. Ngược lại, những quyết định thiếu công bằng, thiếu công khai, minh bạch,
không phù hợp với nguyện vọng của quần chúng sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực
từ phía quần chúng.
Vấn đề thực hiện “Ba công khai” vẫn chưa đi vào thực chất. Chủ yếu mới chỉ
công khai về chỉ tiêu tuyển sinh, kế hoạch đào tạo. Còn vấn đề liên quan đến đời sống
của cán bộ, giảng viên là tài chính thì việc công khai còn hạn chế. Hội nghị công
chức hàng năm của các đơn vị thường có mục công khai tài chính nhưng các số liệu
chủ yếu là “tổng thu, tổng chi” chứ chưa công khai cụ thể, rõ ràng. Có trường hợp, do
đảng ủy, ban giám hiệu không cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin cần thiết,
không có sự giải thích thỏa đáng cho nên, mặc dù các quyết định được đưa ra là đúng
đắn nhưng vẫn không được quần chúng ủng hộ. Có trường hợp, lãnh đạo tìm cách che
giấu thông tin hoặc cung cấp thông tin không chính xác để hướng quần chúng theo
những quyết định chủ quan của mình, khi bị quần chúng phát hiện lại tìm cách bao
biện, nhiều khi bất chấp dư luận. Điều đó làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối
với lãnh đạo, dân chủ bị vi phạm. Những hiện tượng mất dân chủ, hạn chế dân chủ
hay dân chủ hình thức như trên vẫn tồn tại trong hoạt động của đảng ủy, ban giám
hiệu một số trường đại học, cho nên tín nhiệm từ phía quần chúng đối với các cơ
quan lãnh đạo và quản lý cao nhất này chưa phải là tuyệt đối.
Mặc dù, hiệu trưởng một số trường đại học đã thông báo tổ chức các buổi tiếp
dân vào thời gian cố định trong tuần, nhưng quần chúng cũng hạn chế tiếp xúc với
“lãnh đạo” do nhiều người còn quan cách, hoặc khi quần chúng đưa ra ý kiến thì
không tiếp thu, thậm chí bao biện, quát tháo những người đưa ra ý kiến. Cũng có
62
trường hợp đưa chủ trương tiếp dân nhưng khi quần chúng đến thì hiệu trưởng
thường xuyên đi vắng hoặc bận công việc vào khung giờ dành cho tiếp xúc quần
chúng.
Trong các trường đại học nước ta hiện nay, tồn tại các đoàn thể quần chúng là
công đoàn, hội phụ nữ, đoàn thanh niên và hội sinh viên. Ngoài ra, ở nhiều trường
còn có hội cựu chiến binh, hội nữ trí thức. Nhìn chung các đoàn thể quần chúng đã
hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đúng điều lệ, góp phần quan trọng
vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Tuy nhiên, hoạt động của các
đoàn thể này có lúc, có nơi còn mang tính thụ động, chưa thường xuyên và trong một
số trường hợp, vai trò của đoàn thể quần chúng còn chưa rõ ràng, còn “núp bóng”
chính quyền. Vai trò thủ lĩnh của những người đứng đầu các đoàn thể quần chúng có
nơi còn chưa rõ nét, ảnh hưởng chưa lớn.
Vai trò tổ chức trong công đoàn trong các trường đại học mới chỉ dừng lại ở
việc tổ chức một số hoạt động phong trào, đời sống và công tác xã hội. Việc tham gia
của tổ chức này vào quá trình quản lý và đào tạo của nhà trường còn khá hạn chế. Đại
diện công đoàn trường có mặt trong thành phần của nhiều hội đồng, hội nghị, diễn
đàn để đại diện cho ý chí, nguyện vọng của người lao động nhưng vai trò này thể hiện
chưa rõ ràng, có trường hợp không thể hiện được chính kiến, chỉ là thành phần “ăn
theo, nói leo”. Đôi khi có hiện tượng tổ chức công đoàn trở thành người triển khai
thực hiện những nhiệm vụ mà chính quyền phân công, do đó mất đi tính độc lập của
một tổ chức quần chúng, thực hiện không đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Những yếu kém trong hoạt động của tổ chức công đoàn đã làm hạn chế việc xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên trong nhà trường, không thực hiện
được chức năng giám sát của mình.
Đoàn thanh niên và hội sinh viên là hai tổ chức rộng rãi của tuổi trẻ trong các
trường đại học, mà đông đảo nhất là sinh viên. Đoàn và hội đã tổ chức được rất nhiều
hoạt động bổ ích, góp phần tập hợp giới trẻ, giáo dục và hướng các hoạt động của họ
vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của nhà trường. Tuổi trẻ thường năng
động, sáng tạo nhưng bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, lập trường tư tưởng chưa ổn
định. Nếu thiếu sự lãnh đạo sâu sát của đảng ủy, không gắn với việc thực hiện nhiệm
63
vụ chính trị của nhà trường thì hoạt động đoàn, hội dễ bị chệch hướng, bị các thế lực
xấu lợi dụng. Ngược lại, nếu quá lệ thuộc vào đảng ủy và nhà trường thì hoạt động
này dễ mất đi tính chủ động, sáng tạo. Cả hai hiện tượng này đều biểu hiện ở những
mức độ khác nhau ở một số trường, hoạt động đoàn, hội đôi khi còn mang tính “thời
vụ”, không thường xuyên và khá thực dụng. Có lúc phong trào mất quá nhiều thời
gian và kém hiệu quả; có lúc, hoạt động đi vào thoái trào, bị lãng quên. Hoạt động
của đoàn, hội còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài chính do nhà trường cấp, dẫn
đến tình trạng có kinh phí cấp thì phong trào sôi nổi, không cấp kinh phí thì mọi hoạt
động của đoàn, hội đều bị đình trệ. Điều này làm mất đi tính độc lập chính trị của tổ
chức đoàn, hội. Đôi khi còn có sự tranh chấp, chồng chéo nhau giữa hoạt động của
đoàn và của hội, không có sự phân định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của hai tổ
chức này. Khi đó, việc chỉ đạo và tổ chức các hoạt động trong sinh viên sẽ bị hỗn
loạn, nảy sinh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Cùng với những yếu kém
trong hoạt động đoàn, hội ở một số trường đại học, tình trạng mất dân chủ hoặc dân
chủ quá trớn tất yếu sẽ này sinh và xét đến cùng thì tất cả những yếu kém này đều bắt
nguồn từ sự yếu kém của đội ngũ cán bộ đoàn, hội. Cán bộ chủ chốt của đoàn trường
và hội phần lớn được lựa chọn từ đội ngũ cán bộ, công chức trẻ của trường. Một số
trường hợp, có sự lẫn lộn giữa công tác đoàn, hội và quan hệ thầy- trò, cho nên
cán bộ thì áp đặt, thiếu dân chủ, còn đoàn viên, hội viên thì thụ động, không thể
hiện được vai trò làm chủ của mình. Ngược lại, có trường hợp cán bộ điều hành
yếu kém, để xảy ra tình trạng dân chủ quá trớn, dân chủ tùy tiện, vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ.
- Hạn chế trong nhận thức về dân chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên
Nhận thức về dân chủ của các đối tượng quần chúng trong nhà trường còn
chưa đầy đủ, mơ hồ, chung chung, cho nên thực hiện chưa đúng quyền và nghĩa vụ
của mình; dân chủ đôi khi còn mang tính áp đặt từ trên xuống thông qua hệ thống văn
bản, chưa thật sự phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng.
Qua gần 30 năm thực hiện cuộc vận động dân chủ và 15 năm thực hiện Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường, nhận thức về dân chủ của cán
bộ, giảng viên và sinh viên trong các nhà trường đại học ở nước ta có những chuyển
64
biến tích cực. Hầu hết quần chúng trong trường đều hiểu biết về quyền dân chủ của
mình, biết và hiểu về quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường ở những mức độ
khác nhau. Tuy nhiên, nếu coi đại học là môi trường có trình độ dân trí cao so với các
loại hình cơ sở khác thì nhận thức dân chủ của một bộ phận cán bộ, giảng viên, sinh
viên chưa đáp ứng được yêu cầu mà thực tế đòi hỏi.
Sự hiểu biết của cán bộ, giảng viên, sinh viên về Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của nhà trường, về quyền và trách nhiệm dân chủ của mình còn khá
mơ hồ, họ mới chỉ biết về sự tồn tại của Quy chế hoặc là có được nghe nói đến, chứ
chưa thật sự hiểu và nắm vững những nội dung cơ bản của nó. Những người được
tiếp cận trực tiếp với Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường có
khi lại cố tình hiểu sai, hiểu lệch lạc theo hướng có lợi cho mình, dẫn đến việc tuyên
truyền, phổ biến và thực hiện quyền và trách nhiệm của các đối tượng trong trường có
không ít hạn chế, sai sót. Có trường hợp, cán bộ lãnh đạo lợi dụng dân chủ để củng cố
phe cánh, che mắt quần chúng gây nên tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu.
Có trường hợp, quần chúng lợi dụng dân chủ để áp lực đối với lãnh đạo, nói xấu, bôi
nhọ cán bộ, lôi kéo quần chúng, bóp méo dư luận gây nên tình trạng dân chủ quá
trớn, vi phạm nội quy, quy chế nhà trường, cá biệt còn vi phạm pháp luật. Xét đến
cùng, tất cả những vi phạm trên đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về dân chủ trong
một bộ phận cán bộ, giảng viên và sinh viên, do đó môi trường văn hóa sư phạm còn
chưa cao.
Do có biểu hiện không đúng trong nhận thức về dân chủ cho nên nhiều người
chỉ quan tâm đến quyền mà chưa chú trọng đến nghĩa vụ, dẫn đến dân chủ bị lợi dụng
để phục vụ cho những mục đích riêng. Tình trạng này thường bắt nguồn từ sự yếu
kém của bộ máy quản lý của nhà trường và các đơn vị trong trường, nội bộ mất đoàn
kết, kỷ cương không nghiêm. Một bộ phận quần chúng lợi dụng sự yếu kém và những
sơ hở trong quản lý để đưa ra những đòi hỏi thái quá, không đúng quy định và khi
không được đáp ứng thì tìm cách gây áp lực, gây rối, phát biểu bừa bãi làm tăng thêm
sự mất đoàn kết trong trường. Có trường hợp chỉ thiên về đòi hỏi những quyền lợi mà
mình được hưởng, còn khi đụng chạm đến trách nhiệm, nghĩa vụ thì tìm cách thoái
thác, lảng tránh. Nhiều cán bộ lãnh đạo tỏ ra lúng túng trước tình trạng lợi dụng dân
65
chủ để gây rối của một số người. Họ thường tìm cách lảng tránh hoặc xoa dịu, giữ
thái độ “dĩ hòa vi quý” vì sợ vi phạm “quyền dân chủ”. Điều này, vô hình chung lại
trở thành nhân tố kích thích các hành vi vi phạm kỷ cương của một bộ phận quần
chúng, gây bất ổn cho nhà trường.
Việc lợi dụng dân chủ trong hoạt động của nhà trường để vi phạm dân chủ
không chỉ có ở một bộ phận quần chúng chậm tiến trong nhà trường đại học mà đôi
khi còn có ở một bộ phận lãnh đạo các cấp trong trường. Họ sử dụng Quy chế dân
chủ và các quy chế khác để trói buộc quần chúng, đòi hỏi quần chúng phải thực hiện
nghĩa vụ. Còn các chế độ, quyền lợi mà quần chúng lẽ ra phải được hưởng, thì tìm
mọi cách để cắt giảm, hạn chế.
Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết về
việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đẩy mạnh cuộc vận động dân
chủ trong giáo dục để phù hợp với thực tiễn và nhu cầu xã hội. Những chỉ thị, nghị
quyết này đã góp phần tích cực vào quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ trong
đời sống xã hội trong cả nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hưởng ứng tích cực phong
trào này bằng hệ thống các văn bản quy định về quyền và trách nhiệm dân chủ các
cấp, các loại hình nhà trường và các cá nhân như: Quy chế thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường, Quy chế trường đại học, Quy chế đào tạo, Quy chế quản
lý sinh viên, các quy định về quản lý tài chính, v.v. Trên cơ sở các văn bản của Trung
ương, các trường đại học xây dựng quy chế và các văn bản hướng dẫn thực hiện phù
hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể của trường mình. Về nguyên tắc, những văn bản
của cơ sở phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của quần chúng cơ sở và
không trái với quy định của Trung ương. Trong quá trình xây dựng và thực hiện văn
bản, quy định, quy chế cần được quần chúng tham gia góp ý, kiểm tra, giám sát. Nếu
có nội dung không phù hợp cần được sửa chữa, bổ sung kịp thời và thường xuyên.
Trong thực tế, nhiều trường đã không có văn bản hướng dẫn hoặc xây dựng quy chế
cho riêng trường mình, cho nên việc thực hiện các quy định, chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương thiếu thống nhất, lúc thế này, lúc thế khác tùy thuộc vào cách hiểu của
mỗi người. Có trường còn ban hành những văn bản riêng trái với quy định của cấp
trên, không phù hợp với nguyện vọng, lợi ích quần chúng và gây bất bình trong nhân
66
dân. Ngay cả quy trình dân chủ trong việc soạn thảo và thông qua văn bản có liên
quan đến lợi ích của cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường nhiều khi cũng bị vi
phạm. Quần chúng không được cung cấp thông tin đầy đủ cho nên việc lấy ý kiến
quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Có những vấn đề, lẽ ra phải được bàn
luận rộng rãi, thì lại bị thu hẹp trong nội bộ lãnh đạo “chủ chốt” và đến khi phổ biến,
thực hiện thì quần chúng mới được biết nên tỏ ra bất bình. Đôi khi, quần chúng bị trói
buộc bởi chính những văn bản do trên soạn thảo ép xuống, buộc quần chúng phải
thông qua. Có những văn bản đưa xuống để quần chúng góp ý, nhưng khi đã góp ý
xong thì đều nhận được câu trả lời là không hợp lý và lại quay lại với văn bản được
soạn thảo ban đầu, v.v.
- Về nội dung, chương trình giảng dạy tại các trường đại học nước ta hiện nay
Thực hiện dân chủ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên
là một vấn đề được ngành giáo dục- đào tạo và các trường hết sức quan tâm. Trên
thực tế, ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, thời gian qua đã có
những nỗ lực để đổi mới, kết cấu lại khung chương trình từ nội dung cho đến phương
pháp giảng dạy.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nội dung, chương trình đào tạo đại học
hiện nay vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như: nội dung kiến thức truyền đạt
nhiều khi còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ở một số nội dung thuộc các ngành lý
luận chính trị còn mang nặng tính kinh viện, chưa cập nhật kiến thức thực tiễn, thiếu
sức thuyết phục đối với người học. Đây là một hạn chế lớn cần khắc phục vì nội
dung, chương trình môn học là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến việc tạo ra hứng thú
học tập cho sinh viên. Bài giảng không có sức hấp dân chính là nguyễn nhân đầu tiên
dây mất hứng thú học tập, giảm hiệu quả tiếp thu tri thức. Việc không quan tâm đến
việc bổ sung chương trình giảng dạy chứng tỏ nhà trường và cán bộ giảng dạy ít quan
tâm đến nhu cầu tiếp thu tri thức của sinh viên, không tôn trọng thực tiễn, kiến thức
học ở nhà trường và thực tiễn sau khi đi làm có quá nhiều chênh lệch dẫn đến tình
trạng sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và phải trải qua một
thời gian đào tạo lại, điều này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của nhà trường đối với cơ
sở tuyển dụng.
67
- Trong nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và quản lý giáo dục
Trong nghiên cứu khoa học, dân chủ nhiều khi chỉ mang tính hình thức, tính
phản biện của hoạt động này chưa cao vì phần lớn phụ thuộc vào uy tín cá nhân. Các
đề tài khoa học, dự án khoa học trong nhiều trường hợp vẫn còn mang tính ban
phát, phải khuôn theo những “định hướng nghiên cứu” nhất định hoặc nằm trong
“chế độ ưu tiên” nên còn thiếu công bằng trong xét duyệt, tính sáng tạo chưa cao,
hiệu quả thấp.
Sự tham gia của cán bộ, giảng viên vào công tác đào tạo còn khiêm tốn. Phần
đông trong số họ mới chỉ được biết và thực hiện các nhiệm vụ được giao chứ chưa
được quyền quyết định các vấn đề này, chỉ một số ít người được tham gia bàn bạc.
Vấn đề xây dựng chương trình đào tạo, giáo trình, đề cương bài giảng thường bị hạn
chế bởi những văn bản pháp quy là đặc quyền của một số ít người, số đông còn lại chỉ
là người thực hiện cho nên chưa phát huy triệt để tính sáng tạo của đội ngũ giảng viên
có học vị thấp nhưng giàu kinh nghiệm.
Hợp tác quốc tế trong giáo dục tại các trường đại học còn chịu sự ràng buộc
bởi nhiều thủ tục rườm rà nên tính tự chủ của các trường chưa cao. Hơn nữa khả năng
ngoại ngữ của đội ngũ giảng viên đại học nước ta còn chưa ngang tầm với yêu cầu
của hội nhập quốc tế nên hiệu quả chưa cao.
Thực hiện dân chủ trong quản lý cơ sở vật chất, phục vụ đào tạo và nghiên cứu
trong các trường đại học nước ta cũng có nhiều bất cập, còn gây nhiều thắc mắc, nghi
ngờ trong cán bộ, giảng viên. Sự tham gia của cán bộ, giảng viên vào hoạt động này
còn mờ nhạt, chưa rõ nét. Hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên
cứu khoa học và phục vụ đời sống cán bộ, giảng viên chưa thật cao.
Thực hiện dân chủ trong công tác tổ chức cán bộ còn nhiều hạn chế. Công việc
này vẫn được coi là “đặc quyền” của nhà trường, của những người làm chính sách
chứ chưa phải là công việc của quần chúng. Sự tham gia của cán bộ, giảng viên vào
công tác quản lý tổ chức cán bộ là chưa thường xuyên và chưa rõ nét. Trong tuyển
dụng cán bộ, ở nhiều trường hợp vẫn là trên ép xuống khoa hoặc bộ môn nhận nhân
sự mới cho dù giảng viên trong khoa không đồng ý về mặt chuyên môn.
Vai trò của người giáo viên trong thực hành dân chủ trong nhà trường chưa
68
được đề cao. Ngày nay, vị thế xã hội của người giáo viên nói chung và giảng viên đại
học nói riêng không được đề cao như trước đây. Nguyên nhân là do lực lượng cán bộ
giảng dạy trong nhà trường chưa tác động tích cực đến mỗi cá nhân sinh viên, chất
lượng giảng viên chưa cao, và thu nhập của một bộ phận cán bộ giảng dạy còn thấp.
Việc thực hiện dân chủ của sinh viên các trường đại học nước ta hiện nay vẫn
còn nhiều hạn chế về cả hai phía: nhà trường, cán bộ, giảng viên chưa thật sự tin vào
khả năng làm chủ của sinh viên; bản thân sinh viên còn chưa thể hiện được vai trò
làm chủ của mình. Mối quan hệ giữa sinh viên với nhà trường là mối quan hệ vừa
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ theo quy định, vừa tuân thủ lễ nghi truyền thống.
Nếu xử lý không tốt mối quan hệ này sẽ dẫn đến những vi phạm đáng tiếc, làm mất
quyền dân chủ của sinh viên hoặc làm tổn thương quan hệ lễ giáo thầy trò.
Quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường đã dần tạo dựng được mối quan
hệ bình đẳng giữa sinh viên, giảng viên với nhà trường. Sinh viên được trao nhiều
quyền tự quản, tự quyết như: quyền bầu cử các cơ quan đại diện cho mình; quyền tự
chủ trong học tập và nghiên cứu; quyền được tham gia ý kiến đóng góp để xây dựng
khoa trường; quyền được trao đổi, thảo luận, tranh luận với thầy về quan điểm của
mình, hằng năm các trường đều tổ chức lấy phiếu trưng cầu ý kiến của người dạy đối
với người học về phương pháp giảng, nội dung kiến thức, thái độ đối với sinh viên và
đưa ra ý kiến đối với giảng viên. Nhiều sinh viên đã thể hiện tốt các quyền của mình,
giữ mối quan hệ tốt với nhà trường và thầy, cô giáo. Nhưng bên cạnh đó còn không ít
sinh viên, khi thực hiện quyền của mình lại quên mất nghĩa vụ đạo lý với thầy, cô,
gây nên tình trạng “cá đối bằng đầu”. Một bộ phận sinh viên lợi dụng quyền dân chủ
và tự chủ để phát ngôn bừa bãi, nghỉ học tùy tiện, bất kính với thầy, cô. Một số khác
chỉ thiên về đòi hỏi quyền lợi và lảng tránh nghĩa vụ.
Vấn đề môi trường giáo dục, môi trường xã hội vẫn còn tồn tại một số hiện
tượng bất bình đẳng và tệ nạn xã hội dẫn đến giảm lòng tin của sinh viên vào những
điều đã được học trong nhà trường, ảnh hưởng không tốt đến việc xây dựng môi
trường văn hóa trong nhà trường. Tình trạng quay cóp, gian lận trong thi cử là hiện
tượng nhiều sinh viên được chứng kiến. Tình trạng xin - cho, chạy điểm vẫn còn tồn
tại trong nhiều nhà trường đại học, điều này hoàn toàn không đúng với nhiệm vụ của
69
giảng viên là đánh giá điểm dựa trên năng lực của sinh viên, gây bất bình trong sinh
viên. Những hiện tượng này góp phần dẫn đến hủy hoại nhân cách của sinh viên từng
ngày, từng giờ bởi nó nảy sinh sự nghi ngờ vào tính chân thực đối với mọi thứ xung
quanh. Tất cả những yếu tố trên có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý sinh viên, đến quá
trình tự học, tự rèn luyện của họ.
Về phía giảng viên, vẫn còn không ít người có cách nhìn nhận và đánh giá
khắt khe, không công bằng đối với sinh viên nên không thấy được những đóng góp
tích cực và sự tiến bộ đáng kể của sinh viên trong những năm qua. Nhiều giáo viên,
do điều kiện kinh tế khó khăn mà sẵn sàng bán rẻ lương tâm của mình, đưa ra những
yêu sách về vật chất đối với sinh viên, nhận tiền chạy điểm của sinh viên. Nhiều giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên cố vấn học tập, cán bộ phòng, khoa còn can thiệp quá sâu
vào công tác sinh viên, vi phạm quyền làm chủ của sinh viên. Vai trò “cố vấn sinh
hoạt”, “cố vấn học tập” đôi khi lại biến thành vai trò “bảo mẫu”, thiếu tôn trọng
quyền tự quản của sinh viên.
Ngoài những thiếu sót chủ yếu trên, quá trình thực hiện dân chủ trong các
trường đại học nước ta, có nơi, có lúc vẫn còn một số hạn chế khác như: quy chế còn
rườm rà, khó nhớ, khó thực hiện; hoạt động của ban thanh tra nhân dân còn lúng
túng, chưa phát huy hết vai trò của mình; nội dung của các quy chế, quy định về dân
chủ còn chung chung; hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ còn chưa
thường xuyên và chưa rõ nét...
2.1.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém trong việc thực hiện
dân chủ ở các trường đại học ở nước ta hiện nay
* Nguyên nhân của những thành tựu
Quá trình thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Môi trường dân chủ đã được hình thành và ngày càng đi
vào thực chất ở các trường đại học để kích thích khả năng sáng tạo và cống hiến của
cán bộ, giảng viên. Nhận thức và ý thức dân chủ cũng như năng lực và hành vi làm
chủ của các chủ thể ngày càng được nâng cao. Để đạt được những thành tựu đó là do
có nhiều nguyên nhân:
70
- Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, dân chủ là một giá trị của văn minh nhân loại, là một xu thế tất yếu
của thời đại. Nó đang tác động lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên toàn
thế giới. Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, vì vậy, các xu thế
chung của thời đại không thể không tác động lên đất nước ta.
Thứ hai, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước thương nòi, đoàn
kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cho nên dân chủ đã trở thành truyền thống lâu đời
của các thế hệ người Việt, tuy chưa thật sự rõ nét
Thứ ba, quan điểm, đường lối, chính sách dân chủ của Đảng và Nhà nước ta
được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
ngày càng hoàn thiện hơn, có hệ thống và đúng đắn hơn. Trong suốt quá trình cách
mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của nhân dân, coi cách mạng là sự nghiệp của dân,
do dân và vì dân. Thắng lợi của cách mạng chính là thằng lợi của phong trào quần
chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý
báu “lấy dân làm gốc, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng về dân chủ,
lãnh đạo Nhà nước xây dựng quy chế dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở. Các chỉ
thị, nghị quyết đúng đắn và khâu chỉ đạo thực hiện khá sát sao đã góp phần quan
trọng vào quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đó có các loại hình cơ sở
ngành giáo dục.
- Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì từ phía các chủ thể thực hiện dân
chủ trong nhà trường cũng đã có những cố gắng nỗ lực để mở rộng bầu không khí dân
chủ trong nhà trường
Một là, trường đại học là loại hình cơ sở có trình độ dân trí cao nên rất thuận
lợi trong việc xây dựng và phát huy dân chủ. Dân chủ luôn gắn liền với dân sinh, dân
trí. Trình độ dân trí càng cao thì đòi hỏi dân chủ càng phải được mở rộng. So với các
loại hình cơ sở khác thì trường đại học là loại hình có trình độ dân trí cao. Đội ngũ
cán bộ giảng dạy có trình độ từ đại học trở lên; đội ngũ cán bộ công chức phục vụ
giảng dạy cũng có trình độ học vấn và chuyên môn cao; đội ngũ cán bộ quản lý trong
71
trường đại học đều có trình độ sau đại học, nhiều vị trí đặc biệt phải có trình độ tiến
sĩ. Đội ngũ này có đầy đủ năng lực và điều kiện làm chủ và họ đang góp phần đắc lực
vào quá trình thực hiện dân chủ trong các trường đại học. Đội ngũ người học là
những thanh niên ưu tú, có trình độ và năng động, luôn nhạy cảm với cái mới. Đội
ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên của nhà trường là nhân tố quan trọng góp phần vào
việc xây dựng và mở rộng dân chủ trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Đội
ngũ thanh niên ưu tú này sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước và họ đang góp phần
đắc lực vào quá trình làm chủ nhà trường và làm chủ bản thân.
Hai là, trường đại học là loại hình cơ sở có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và thống
nhất nên rất thuận lợi cho việc triển khai và tổ chức thực hiện dân chủ. Hệ thống
chính trị trong các trường đại học (công lập) nước ta hiện nay bao gồm các tổ chức
đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng (công đoàn, đoàn thanh niên, hội sinh
viên, hội cựu chiến binh). Ngoài ra còn các hoạt động giám sát của quần chúng thông
qua ban thanh tra nhân dân và ủy ban kiểm tra. Hoạt động của các tổ chức và cơ quan
trong nhà trường tuân thủ nguyên tắc chung là: “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý
và nhân dân làm chủ”. Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thành tựu
của việc thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta.
Ba là, việc tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường đại
học góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực hiện dân chủ trong các nhà trường.
Quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học hiện nay chủ yếu nhằm vào việc xây dựng
chính sách, chiến lược phát triển, môi trường pháp lý cho giáo dục đại học; triển khai
và chỉ đạo thực hiện các chính sách và chiến lược; giám sát và thanh tra quá trình
thực hiện; điều tiết vĩ mô về quy mô phát triển các trường... Bản thân các trường đại
học, học viện được trao nhiều quyền tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức
nhân sự, tài chính, hợp tác quốc tế; tập trung phần lớn thẩm quyền ban hành quyết
định cho cấp trường, nâng cao trách nhiệm xã hội của các trường đại học nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh của nhà trường. Trách nhiệm xã hội là trách nhiệm công
khai hóa các hoạt động của nhà trường với các nhóm người liên quan như: Nhà nước,
nhà tài trợ, giáo chức và viên chức, sinh viên và gia đình của họ... Quá trình này đòi
hỏi các trường đại học nước ta phải tăng cường hơn nữa quyền làm chủ của các chủ
72
thể thực hiện dân chủ trong trường.
Ngoài ra còn phải nói đến vai trò cá nhân của các đồng chí lãnh đạo Đảng,
chính quyền, đoàn thể quần chúng trong trường, vai trò của các quần chúng tích cực,
các cá nhân điển hình từ các phong trào quần chúng khác trong trường. Những cá
nhân tiêu biểu này đã và đang góp phần kích thích tính tích cực và năng lực làm chủ
của các chủ thể khác trong trường.
* Nguyên nhân của những yếu kém
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dân đến những bất cập trong quá trình thực
hiện dân chủ trong nhà trường đại học ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng đắn
những nguyên nhân này là cơ sở để đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường. Trong số những nguyên nhân gây
nên tình trạng yếu kém, bất cập trên, có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu.
- Nguyên nhân khách quan:
Một là, những tàn dư phong kiến vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc trong
xã hội nước ta nói chung và môi trường giáo dục nói riêng. Kiểu gia đình truyền
thống với chế độ gia trưởng đã tồn tại ở nước ta hàng ngàn năm, không dễ dàng xóa
bỏ trong ngày một ngày hai và nó trở thành một lực cản rất lớn đến quá trình thực thi
và mở rộng dân chủ trong đời sống xã hội. Trong nhà trường đại học, các mối quan
hệ giữa thủ trưởng và nhân viên, cán bộ và giảng viên, giảng viên và sinh viên cũng
bị ảnh hưởng bởi quan niệm truyền thống này.
Hai là, thực hiện dân chủ trong nhà trường là một quá trình lâu dài, thường
xuyên và liên tục. Dư luận vẫn thường nói về chế độ lãnh đạo ở Việt Nam còn mang
nặng tính chất nhiệm kỳ tức là những chính sách của thủ trưởng nhiệm kỳ cũ sẽ ít
được áp dụng vào những nhiệm kỳ sau, trước đây, nhiệm kỳ của một số tổ chức
thường rất ngắn (chi ủy 2,5 năm, nhiệm kỳ đoàn thanh niên và công đoàn thường là 2
- 3 năm, có khi chỉ kéo dài trong vòng 1 năm)... nên nhiều người kế nhiệm còn chưa
nắm bắt kịp thời đã hết nhiệm kỳ công tác, khâu bàn giao còn nhiều lơi lỏng.
Ba là, việc thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhiều bất cập. Nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn của của dân chủ còn chưa được làm rõ như chế độ dân chủ và
chế độ thủ trưởng, công khai dân chủ và cạnh tranh, quyền và nghĩa vụ, v.v. Các yêu
73
cầu về nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng văn hóa dân
chủ, cung cấp thông tin đòi hỏi một nguồn kinh phí khá lớn, vượt qua khả năng tài
năng tài chính của các nhà trường.
- Về nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, một số cấp ủy, lãnh đạo nhà trường và các đoàn thể quần chúng
trong trường còn nhiều hạn chế về nhận thức dân chủ hoặc có nhận thức đúng nhưng
hành động không đúng. Do chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa của
quá trình thực hiện dân chủ và tác động của Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của nhà trường, cho nên dẫn đến tình trạng một số trường đại học đã giao khoán
cho một vài người theo dõi việc thực hiện Quy chế. Những người được giao nhiệm vụ
triển khai, theo dõi việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường lại làm việc thiếu kế hoạch, không thường xuyên, thiếu sự kiểm tra, giám sát
và không có tổng kết, đánh giá.
Trong các trường đại học, do có quá nhiều nhiệm vụ phải triển khai, cho nên
việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường bị coi là
thứ yếu vì nó không đem lại hiệu quả trực tiếp. Nhiều cấp lãnh đạo coi đó là việc
buộc phải làm chứ không muốn làm, cho nên việc ra văn bản hướng dẫn, việc cụ thể
hóa Quy chế được làm một cách qua loa, đại khái. Có trường hợp chủ quan cho rằng,
nhà trường đã có đầy đủ những văn bản thực hiện công khai, dân chủ mà không cần
đến những văn bản riêng về dân chủ, cho nên việc cụ thể hóa và triển khai Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo một
cách hời hợt, chiếu lệ. Một số trường đã có Quy chế thực hiện dân chủ trong giáo dục
riêng của trường nhưng nhiều trường sử dụng Quy chế mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề
ra chung cho toàn ngành giáo dục, vì vậy, khi có những vấn đề phát sinh theo đặc thù
của trường thì cả lãnh đạo và quần chúng còn lung túng trong giải quyết.
Thứ hai, sự phối hợp chỉ đạo thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của nhà trường và cuộc vận động dân chủ ở một số trường đại học chưa tốt.
Sự phối hợp giữa đảng ủy, ban giám hiệu và các đoàn thể quần chúng ở một số
trường trong việc chỉ đạo việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của nhà trường còn chưa đồng bộ, chưa thống nhất, thiếu cụ thể, rành mạch nên dẫn
đến hiện tượng đợi chờ hoặc chồng chéo. Do việc phối hợp giữa đảng ủy và ban giám
74
hiệu trong việc chỉ đạo và thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường
chưa tốt, thiếu quy chế cụ thể và rõ ràng, khi gặp vướng mắc thì lúng túng, đổ lỗi cho
nhau. Điều này cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các đoàn thể quần chúng khi
thường trông chờ vào các quy định của đảng ủy và ban giám hiệu, trong khi đó các
quy định lại không rõ ràng dẫn đến tình trạng ỷ lại. Chính điều này đã làm cản trở
việc phát huy dân chủ trong nhà trường, đặc biệt là việc phát huy vai trò của cán bộ,
giảng viên và sinh viên.
Sự thiếu đồng bộ trong chỉ đạo đôi khi còn dẫn đến những chồng chéo, mâu
thuẫn về văn bản hướng dẫn từ các cấp, các ngành. Chỉ đạo của cơ sở không thống
nhất với chỉ đạo của Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo; chỉ đạo của đảng ủy
khác với chỉ đạo của chính quyền và đoàn thể; chỉ đạo chung của ngành khác với chỉ
đạo theo ngành dọc. Điều này làm cho quần chúng lúng túng, không biết làm chủ
bằng cách nào và như thế nào?
Thứ ba, hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động
của nhà trường ở một số trường đại học còn mờ nhạt, chưa thường xuyên, thiếu hiệu
quả. Cũng có những trường hợp ban chỉ đạo chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có quyết định
thành lập rồi bị lãng quên, hoàn toàn không phát huy được vai trò của mình. Việc sơ
kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ thường được lồng ghép một cách qua
loa trong các bản tổng kết của đảng ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị- xã hội
trong trường.
Thứ tư, năng lực tổ chức thực hiện dân chủ của đội ngũ cán bộ cơ sở trong các
trường đại học còn nhiều hạn chế. Cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền và đoàn thể
quần chúng trong các trường đại học nước ta phần lớn còn thiếu trình độ quản lý nhà
nước, thiếu đào tạo bài bản về công tác này nên khả năng lãnh đạo, khả năng tổ chức
còn nhiều bất cập. Chính vì vậy mà hiệu quả công tác quản lý và tổ chức thực hiện
chưa cao. Trong công tác thực hiện dân chủ hóa hoạt động quản lý và tổ chức giảng
dạy do đó chất lượng cũng chưa cao.
Năng lực hoạt động của cán bộ thuộc cơ quan dân chủ đại diện như ban thanh
tra nhân dân, các tổ chức chính trị- xã hội cũng thiếu chuyên nghiệp, không thiết
75
thực, kém hiệu quả, không làm tốt chức năng đại diện của mình.
Thứ năm, trường đại học tuy là một môi trường dân trí cao so với các loại hình
cơ sở khác, nhưng trình độ không đồng đều ở những đối tượng khác nhau với trình độ
và nhận thức khác nhau.
Năng lực thực hiện dân chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên ở một số trường
đại học còn chưa cao. Do chưa nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của
mình trong quá trình thực hiện dân chủ nên một bộ phận nhỏ cán bộ, giảng viên còn
đòi hỏi quá mức, không đúng quy định. Một bộ phận quần chúng chỉ quan tâm đến
quyền mà ít quan tâm đến nghĩa vụ, dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, vi phạm kỷ
cương, nền nếp, nội quy, quy chế của nhà trường. Một số phần tử lợi dụng vấn đề dân
chủ để kích động, gấy rối, mất đoàn kết nội bộ.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, giảng viên, sinh viên lại có thái độ nể nang,
ngại va chạm, không dám đấu tranh với các hiện tượng mất dân chủ trong trường.
Phần đông sinh viên vẫn còn có thái độ “sợ” thầy cô, sợ ảnh hưởng đến kết
quả học tập của mình nên cũng không giám đấu tranh bảo vệ quyền làm chủ của
mình, thụ động trong quá trình học tập cũng như các hoạt động khác của nhà trường,
thậm chí nhìn thấy những hiện tượng tiêu cực trong học tập và thi cử nhưng không
giám tố cáo.
Như vậy, những khuyết điểm trong quá trình thực hiện dân chủ giáo dục trong
nhà trường đại học ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân gây nên, khắc phục những
khuyết điểm đó mới có thể xây dựng được một môi trường giáo dục dân chủ cho các
cán bộ, giảng viên và sinh viên để khuyến khích khả năng sáng tạo của họ đòi hỏi
phải có những biện pháp thích hợp.
2.2. Phương hướng và giải pháp thực hành dân chủ trong nhà trường đại
học ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1. Một số phương hướng thực hành dân chủ ở nhà trường đại học theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1.1. Thực hành dân chủ theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng
lực người học
Trong Thư gửi các em học sinh nhân dịp đầu năm học tháng 9 năm 1945, Hồ
76
Chí Minh đã khẳng định: nền giáo dục dân chủ mới là “nền giáo dục làm phát triển
hoàn toàn các năng lực sẵn có của các em”. Lý thuyết giáo dục thế giới đã chú ý đến
con người như là một tồn tại tự nhiên- đó chính là đối tượng của quá trình giáo dục,
giáo dục phải xuất phát từ đó và phải nhằm vào đó mà phát triển đối tượng, chính vì
vậy, giáo dục đại học hiện nay cần phải coi trọng người học, đề cao phẩm giá của
người học. Trong mỗi con người, từ khi sinh ra đã tiềm ẩn những khả năng để tồn tại
và phát triển. Chính vì vậy, giáo dục đại học nói chung, mỗi nhà trường đại học nói
riêng phải lưu tâm đến điểm xuất phát đó và cấu tạo nội dung, chương trình, tài liệu
dạy và học như thế nào đó để biến các tiềm năng thành khả năng, rồi các năng lực tùy
từng cá thể người học có thể phát triển tốt nhất, tạo lập được “giá trị bản thân”, đáp
ứng yêu cầu của cuộc sống của chính mình và cũng là yêu cầu của cộng đồng, xã hội,
đất nước.
Quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới giáo dục là “lấy người học làm
trung tâm”, “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Vì vậy, đổi mới nội
dung phương pháp giáo dục đại học cần hướng vào việc tăng cường khả năng chủ
động của sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động phong
trào và trong sinh hoạt. Để đạt được yêu cầu này cần phải thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp cụ thể.
Chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chủ là một giải
pháp mà Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học trong cả nước đang tích cực
thực hiện. Phương thức đào tạo này tạo điều kiện cho sinh viên chủ động hơn trong
việc lập kế hoạch học tập của mình, lựa chọn giảng viên, thời gian thích hợp và môn
học phù hợp, tăng cường yêu cầu tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Tuy nhiên, đây
là một quy trình đào tạo mới mẻ đối với nước ta, đòi hỏi có những điều kiện nhất
định: cơ sở vật chất.
2.2.1.2. Thực hành dân chủ theo hướng phát triển hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời… Không
ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân
dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp
77
nhân dân” [59, tr. 377]. Khái niệm học “suốt đời”, “xã hội học tập” đã được đưa vào
chính sách giáo dục Việt Nam từ năm 1993 trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VII. Tuy nhiên, chủ trương xây dựng hệ thống học
suốt đời mới chỉ được chính thức nếu lên từ năm 2006, khi Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X yêu cầu: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục
mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông
giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người
và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người hoc, bảo đảm sự công bằng
xã hội trong giáo dục” [23, tr. 95]. Ðây là cách đặt vấn đề giáo dục với yêu cầu mới:
Chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người đều phải
thực hiện việc học tập suốt đời. Cách đặt vấn đề trên căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự học, đồng thời căn cứ vào yêu cầu đổi mới giáo dục của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại.
Người học có những mong muốn, nhu cầu khác nhau, điều kiện sống và học
tập khác biệt, giáo dục chỉ thực sự có hiệu quả nếu không đồng nhất với mọi đối
tượng. Giáo dục phải chú trọng nhiều hơn đến cơ hội lựa chọn trong học tập cho mỗi
người học. Các chương trình, giáo trình và các phương án tổ chức dạy học phải đa
dạng hơn, tạo cơ hội cho mỗi người học những gì phù hợp với chuẩn mực chung
nhưng gắn với nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện học tập của mình. Mỗi trường học
phải trở thành một môi trường sư phạm thân thiện, ở đó, người học phải được cảm
thông, chia sẻ, được bày tỏ ý kiến riêng của mình và việc tới trường trở thành một
nhu cầu của mỗi người học. Nội dung, phương pháp giáo dục, trách nhiệm và tình
thương của đội ngũ nhà giáo, khung cảnh sư phạm của nhà trường là những yếu tố tạo
nên sự lôi cuốn của mỗi nhà trường.
2.2.1.3. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục - đào tạo, bảo đảm dân
chủ , tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường đại học
Từ năm 2010, ngành giáo dục bắt đầu thực hiện đổi mới về chất trong quản lý
giáo dục đại học. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải rà soát, hoàn thiện hệ
thống hành lang pháp lý, xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học, tăng quyền
78
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các bộ, ngành và chính quyền địa phương phối hợp với
Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi, đánh giá
các hoạt động của nhà trường.
Những công việc cần làm ngay trong thời gian tới nhằm đổi mới cơ chế quản
lý là phân cấp mạnh mẽ cho các trường đại học. Tăng tính tự chủ và trách nhiệm xã
hội của các trường trên lĩnh vực: nhân sự, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc
tế, xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục có trình độ cao và phong
cách làm việc dân chủ.
Giáo dục đại học phải bám sát nhu cầu và đòi hỏi của xã hội, thông qua việc
thiết kế các chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực phục vụ cho sự
phát triển đất nước. Trong Thư gửi Hội nghị giáo dục Toàn quốc (tháng 7- 1948), Hồ
Chí Minh căn dặn: “Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của nước nhà.
Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các
ngành kinh tế và văn hóa” [59, tr. 291].
Mỗi trường đại học là một trung tâm trí tuệ, có đặc thù riêng nếu khơi dậy
được tiềm năng này thì trường đại học sẽ phát triển mạnh. Các trường đại học phải
năng động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, đặc biệt là
trong điều kiện hạn hẹp của các nguồn lực được đầu tư, các trường đại học phải đua
tranh phát triển, nâng cao uy tín của trường mình trong xã hội bằng chất lượng đào
tạo. Sản phẩm đào tạo của mỗi trường phải mang dấu ấn riêng và từng trường phải
chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo của mình. Do vậy, việc phát huy cao độ quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học (trong phạm vi hành lang pháp
luật và dưới sự lãnh đạo của Đảng) là biện pháp hàng đầu để phát triển nhà trường,
nâng cao chất lượng đào tạo.
Chất lượng giáo dục là mục tiêu hàng đầu của mọi nền giáo dục, nhưng chất
lượng cũng đòi hỏi những sự đầu tư thỏa đáng, trong đó, nguồn đầu tư cần thiết nhất
là phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Việc tận dụng kinh nghiệm và
mô hình giáo dục của các nước tiên tiến, tích cực đổi mới phương pháp dạy học,
chống tiêu cực trong giáo dục, thu hút các nhà khoa học, nhà giáo giỏi trong và ngoài
nước tham gia giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu khoa học; đào tạo được đội ngũ cán
79
bộ quản lý có năng lực làm việc khoa học, đem lại hiệu quả công việc cao là những
biện pháp cần được chú trọng nhằm sử dụng tối ưu các nguồn đầu tư và hỗ trợ để đáp
ứng nhu cầu của người học được học với đội ngũ giáo viên giỏi, có trình độ chuyên
môn. Đồng thời, đội ngũ cán bộ, giảng viên phải thực sự có phong cách làm việc dân
chủ, đảm bảo một môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ.
2.2.2. Một số giải pháp thực hành dân chủ trong nhà trường đại học Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.2.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức dân
chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên trong nhà trường đại học
Để nâng cao hiệu quả của quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường đại học
ở nước ta, cần phải có sự cố gắng, chủ động từ tất cả các các đối tượng trong nhà
trường. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao
nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm và nâng cao năng lực thực hành dân chủ đối
với cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường.
Trước hết, tăng cường giáo dục, tuyên truyền những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó cần quan tâm đến những quan
về dân chủ cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường đại học.
Nền tảng lý luận của Đảng ta chính là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong đó có quan điểm về dân chủ, về vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, giáo dục chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu khách quan, thường xuyên và tất yếu
đối với các trường đại học nước ta nhằm bồi dưỡng thế giới quan khoa học, phương
pháp luận cách mạng đúng đắn; đồng thời nâng cao ý thức và trách nhiệm làm chủ
đối với mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các nhà trường đại học và trong xã hội
nói chung.
Đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các nhà trường đại học là những người trực
tiếp tham gia vào quá trình đào tạo của nhà trường, trình độ chuyên môn và trình độ
chính trị của đội ngũ này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và uy tín của nhà trường.
Phẩm chất chính trị, tư tưởng của họ có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của
sinh viên, là tấm gương để sinh viên học tập, noi theo. Vì vậy, cần phải bồi dưỡng
80
thường xuyên và có hệ thống trình độ lý luận và phẩm chất chính trị cho đội ngũ này.
Đối với sinh viên trong các trường đại học, việc giáo dục chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có phần thuận lợi hơn so với những đối tượng khác,
bởi các môn Lý luận chính trị là các môn học bắt buộc trong chương trình. Tuy nhiên,
đối với nhiều bạn sinh viên, đây là những môn học khó, không liên quan nhiều đến
chuyên ngành nên các sinh viên thường không để tâm nhiều. Do đó, cần tích cực đổi
mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và môn tư tưởng Hồ Chí
Minh để nâng cao hiệu quả tiếp thu của sinh viên, giúp họ có nhận thức, tư duy,
phương pháp và hành động đúng đắn, có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng.
Ngoài ra, để chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thẩm thấu
vào cán bộ, giảng viên và sinh viên, cần phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền,
giáo dục như tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường; tổ chức các buổi hội thảo,
nói chuyện, chiếu phim tư liệu về sự nghiệp, cuộc đời, tư tưởng của C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và các anh hùng cách mạng của Việt Nam.
Thứ hai, cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến toàn thể cán bộ, giảng
viên và sinh viên.
Kế thừa quan điểm của cha ông ta, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Muốn vậy,
quần chúng nhân dân phải hiểu được những chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước để thực hiện sứ thực hiện được sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó.
Vì vậy, nhà trường cần có các biện pháp thích hợp để tuyên truyền, phổ biến những
chủ trương, chính sách lớn của nhà nước, phải làm cho mỗi đối tượng trong trường
đều hiểu được những chủ trương, đường lối, phương hướng phát triển đất nước của
Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng.
Đối với những chủ trương chính sách cụ thể có liên quan để vấn đề dân chủ
cần phải được tuyên truyền, giáo dục thường xuyên để các đối tượng trong trường
hiểu được quyền cũng như vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc thực hành dân
81
chủ bởi lẽ từ trước đến nay, một bộ phận quần chúng nói chung đều cho rằng mở
rộng dân chủ là việc làm của cấp trên, của lãnh đạo đối với cấp dưới, cấp dưới chỉ là
người nhận dân chủ mà quên đi rằng mình cũng phải có trách nhiệm, có năng lực
thực hành dân chủ.
Đối với những chủ trương, chính sách cụ thể, có liên quan trực tiếp đến quyền
và nghĩa vụ của cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường, cần phải tổ chức học tập,
phổ biến riêng cho từng đối tượng và có chương trình, lộ trình để thực hiện.
Sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng như các
buổi sinh hoạt chính trị, hội thi, hội diễn, tập huấn, nói chuyện thời sự, mời chuyên
gia nói chuyện hay các buổi gặp gỡ giữa lãnh đạo nhà trường với quần chúng trong
trường, thông qua website của trường, các diễn đàn, bản tin nội bộ hay các bản tin
phát thanh định kỳ của sinh viên.
Thứ ba, phổ biến, quán triệt một cách có hệ thống các quy định, quy chế, văn
bản dân chủ của Trung ương, của ngành và của nhà trường đến từng cán bộ, giảng
viên và sinh viên, góp phần nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ.
Đây là nội dung giáo dục có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện dân chủ
trong nhà trường, vì nó làm thay đổi cả nhận thức của cán bộ lãnh đạo và quần chúng
về quyền và nghĩa vụ của mình qua đó nâng cao năng lực thực hành dân chủ của mỗi
người.
Trước hết, đảng ủy, ban giám hiệu phải thấy được sự cần thiết của dân chủ đối
với sự phát triển của nhà trường, đánh giá đúng mức vai trò của các đoàn thể quần
chúng và tập thể cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường, qua đó tạo điều kiện
thuận lợi để cho quần chúng được tham gia làm chủ nhà trường; làm cho mọi cán bộ,
giảng viên, sinh viên trong trường hiểu được đường lối dân chủ của Đảng, khẳng định
quan điểm: “Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cao nhất của Đảng là tập trung dân
chủ”; làm cho họ hiểu bản chất nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”;
khẳng định bài học lớn của Đảng là trong thời kỳ đổi mới là “lấy dân làm gốc, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”.
Phổ biến, giáo dục cho cán bộ, giảng viên, sinh viên nắm được quan điểm chỉ
đạo và nội dung cơ bản của các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về việc xây dựng
82
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó có cơ quan nhà nước, trường học, v.v.
Theo tinh thần chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII); chỉ thị số 10-
CT/TW của Ban Bí thư (khóa IX); Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Thủ tướng
Chính phủ; Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
chỉ thị, văn bản hướng dẫn khác của các bộ, ngành, Trung ương. Các trường đại học
cần rà soát lại hệ thống các văn bản dân chủ của mình, đảm bảo tính pháp lý và tính
phù hợp của những văn bản này. Những quy định, quy chế hoạt động nội bộ trái với
quy định, không đủ cơ sở pháp lý cần phải bãi bỏ; những điểm chưa phù hợp với thực
tế nhà trường cần được sửa chữa bổ sung.
Việc xây dựng và thông qua các quy định, quy chế nội bộ cần được quần
chúng tham gia góp ý kiến rộng rãi và ra quyết định tập thể. Sau khi thông qua phải
phổ biến cho mọi đối tượng trong trường nắm bắt được nội dung, hiểu được quyền và
nghĩa vụ dân chủ của mình để thực hiện. Cần có chế tài kèm theo để xử phạt các hành
vi vi phạm dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để vi phạm quy chế, pháp luật, qua đó nâng
cao ý thức trách nhiệm cũng như năng lực thực hành dân chủ của mỗi thành viên
trong trường.
Sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức dân chủ
của quần chúng trong trường. Có thể tổ chức các hoạt động chuyên đề dân chủ hoặc
lồng ghép với nội dung tuyên truyền giáo dục khác với yêu cầu là thường xuyên, kịp
thời, mang tính đại chúng, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, thiết thực, không
gượng ép, không phô trương hình thức gây đến những cách hiểu sai về dân chủ.
2.2.2.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và đội ngũ cán bộ
quản lý trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại học
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và
quản lý giáo dục đủ đức và tài, bởi lẽ, họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây
dựng môi trường dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng một môi trường dân chủ
trong nhà trường đại học, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là:
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, say mê gắn bó với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Có ý thức tổ chức, tinh
83
thần trách nhiệm cao, có năng lực, tư duy, nhiệt tình trong nghiên cứu khoa học, sẵn
sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Có tinh thần dân chủ, đoàn kết,
thống nhất. Có lối sống lành mạnh, khiêm tốn, giản dị, gắn bó thương yêu, hết lòng vì
nhà trường, vì sinh viên, được đồng nghiệp và sinh viên tín nhiệm.
Đối với đảng bộ, ban giám hiệu chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; mọi cấp ủy, đảng viên phải thực sự phát
huy tinh thần dân chủ, góp ý xây dựng nghị quyết, nghiêm túc chấp hành nghị quyết,
kỷ luật của Đảng, nói và làm theo nghị quyết; tích cực tự phê bình và phê bình, đấu
tranh với những biểu hiện mất dân chủ, lợi dụng dân chủ vi phạm kỷ luật, bè phái,
cục bộ địa phương, gây mất đoàn kết nội bộ. Các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, phai nhạt niềm tin, lý tưởng. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc kiểm tra,
giám sát mọi đảng viên, cán bộ thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Gắn việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ với việc phát huy vai trò tiền phong của cán bộ, đảng viên trong
giáo dục, quản lý và tổ chức để tập thể nhà trường thực hiện tốt dân chủ gắn với kỷ
luật trên mọi mặt công tác. Thường xuyên bám sát mọi hoạt động của nhà trường,
trong đó, tập trung vào nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, rèn luyện
của cán bộ, giảng viên và sinh viên. Phát hiện, giải quyết, xử lý kịp thời những kiến
nghị, tâm tư, nguyện vọng cũng như những vi phạm quyền làm chủ của cán bộ, đảng
viên, giảng viên và sinh viên trong nhà trường. Thường xuyên tổ chức rút kinh
nghiệm các nhiệm vụ, công tác về thực hiện dân chủ, sửa đổi hoàn thiện các quy
định, quy chế dân chủ. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc nổi cộm như: đơn
thư khiếu nại, tố cáo, các vụ việc nghiêm trong ảnh hưởng đến nhiệm vụ giáo dục và
đào tạo trong các nhà trường.
Bên cạnh đó, cần phát huy và nâng cao vai trò của lãnh đạo các phòng, ban,
các khoa và bộ môn trực thuộc trường; cần có kế hoạch bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ,
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ trẻ
Đối với tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, cần nâng cao năng lực hoạt
động, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ. Đẩy mạnh việc phát huy vai trò là tổ chức xung
kích, tập hợp lực lượng đi đầu trên mọi nhiệm vụ, cần phát huy tốt hơn nữa vai trò,
chức năng là tổ chức đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của đoàn viên, thanh niên mà
84
phần lớn là sinh viên. Tổ chức có hiệu quả, thiết thực việc đoàn viên, thanh niên đóng
góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên, cấp ủy, quản lý và đội ngũ cán bộ, giảng viên trong
nhà trường. Đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục,
quán triệt về dân chủ và kỷ luật, quyền, nghĩa vụ của công dân, sinh viên, chế độ quy
định của các nhà trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, pháp luật của Nhà nước. Động
viên đoàn viên, thanh niên trong nhà trường phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật
trong các nhà trường. Cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý
tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên. Tăng cường rèn luyện lối sống văn hóa, ý
thức chấp hành pháp luật, giúp thanh niên có những nhận thức đúng đắn và làm tốt
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân.
2.2.2.3. Phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ giảng viên trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học và tham gia quản lý nhà trường
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vài trò của người giáo viên trong
công tác giảng dạy cũng như quản lý nhà trường. Họ có năng lực làm chủ và tự ý thức
được khả năng cũng như quyền làm chủ của mình. Do đó, phát huy quyền làm chủ
thật sự của toàn thể cán bộ, giảng viên là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện dân chủ trong nhà trường.
Về quyền làm chủ của giảng viên, cán bộ, công chức, Điều 7 Quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường đã chỉ rõ:
Những việc nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến, giám sát
kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, đoàn thể
trong nhà trường:
1. Những chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với nhà
giáo, cán bộ, công chức.
2. Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.
3. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại,
tố cáo.
4. Công khai các khoản đóng góp của người học, việc sử dụng kinh phí và
chấp hành chế độ thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành.
5. Giải quyết các chế độ, quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo,
85
cán bộ, công chức, cho người học.
6. Việc thực hiện thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương,
thuyên chuyển, điều động, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.
7. Những vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi từng năm học.
8. Báo cáo sơ kết, tổng kết, nhận xét, đánh giá công chức hàng năm [12].
Căn cứ vào những quy định chung này, các trường đại học cần có những quy
định cụ thể về nội dung, mức độ và cách thức để thực hiện quyền “được biết, được
bàn, được làm và được kiểm tra” của giảng viên, cán bộ, công chức trong trường. Để
phát huy năng lực sáng tạo và quyền tự chủ của đội ngũ này trong giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đào tạo đội ngũ sinh viên cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
Thứ nhất, cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin cần thiết về
tình hình của nhà trường, về kế hoạch, chủ trương xây dựng, phát triển nhà trường, về
chế độ, chính sách đối với giảng viên, cán bộ, công chức để họ được biết, được cân
nhắc trước khi bày tỏ ý kiến và đề xuất các giải pháp thực hiện. Vấn đề thông tin
chính là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện dân chủ trong nhà trường. Sử dụng
nhiều kênh thông tin, nhiều phương tiện truyền tin khác nhau để phổ biến đến quần
chúng như: báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo định kỳ, bản tin truyền thanh, bảng tin,
mạng nội bộ, mạng internet, v.v.
Thứ hai, xây dựng một môi trường dân chủ lành mạnh trong trường, đảm bảo
cho mỗi giảng viên, cán bộ, công chức đều được tự do bày tỏ chính kiến của mình,
được quyết định theo sự lựa chọn của mình mà không bị ép buộc, mua chuộc, lôi kéo.
Kiên quyết xử lý các hiện tượng tuyên truyền sai sự thật, các hành vi mua chuộc, lôi
kéo quần chúng trái phép gây lộn xộn, mất đoàn kết trong trường.
Thứ ba, tăng cường giáo dục nhận thức dân chủ cho giảng viên, cán bộ, công
chức trong trường, giúp họ nắm vững quyền và nghĩa vụ công dân của mình. Bồi
dưỡng và nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho quần chúng, đảm bảo cho mọi
người đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân của mình nhằm mục tiêu xây
dựng và phát triển nhà trường, đồng thời thỏa mãn được nhu cầu, lợi ích chính đáng
của cá nhân. Đa dạng hóa các loại hình hoạt động giáo dục, bồi dưỡng dân chủ đối
86
với quần chúng theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện.
Thứ tư, đội ngũ giảng viên chất lượng cao, có tâm huyết với ngành nghề là
điều kiện tiên quyết đảm bảo chất lượng đào tạo trong các nhà trường đại học. Người
thầy luôn là tấm gương để sinh viên học tập và noi theo. Trong bối cảnh hiện nay, do
tác động của cơ chế thị trường không ít thầy cô đã đánh mất phẩm chất và danh dự
nhà giáo, làm ảnh hưởng rất xấu đến nhân cách người học và gây bất bình trong xã
hội. Vì vậy, ngoài năng lạc chuyên môn, vấn đề đạo đức nhà giáo cũng được đặt ra
như một yêu cầu bức thiết.
Thực hiện dân chủ trong nhà trường phải gắn liền với việc nâng cao phẩm chất
đạo đức và năng lực sáng tạo của đội ngũ nhà giáo. Cuộc vận động “mỗi thầy cô là
một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo” do ngành giáo dục và đào tạo
phát động là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Bên cạnh đó, các nhà trường cần giảm quy định có tính hành chính nặng nề
trong quản lý chuyên môn, có chế độ khuyến khích giảng viên thể hiện khả năng chủ
động, sáng tạo trong giảng dạy và rèn luyện sinh viên; tích cực biên soạn tài liệu, giáo
trình, đề cương bài giảng theo hướng “mở”; được tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm
khoa học của mình để trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp và sinh viên.
Thứ năm, để đội ngũ nhà giáo thực sự tâm huyết với sự nghiệp trồng
người, toàn tâm, toàn ý cho hoạt động chuyên môn, Nhà nước và các nhà trường cần
có các chính sách khuyến khích về tài chính và tìm các nguồn tài trợ nhằm giúp giảng
viên có điều kiện khó khăn có thể học tập nâng cao trình độ và tham gia vào các dự
án nghiên cứu khoa học, đặc biệt là giảng viên trẻ.
Thứ sáu, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường đại học và của mỗi giảng viên, nhà khoa học
trong trường. Hoạt động này góp phần nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ
nhà giáo, nâng cao vị thế của nhà trường trong xã hội và góp phần tích cực vào việc
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động này cần tạo môi trường thật sự dân chủ và
lành mạnh để cho mỗi nhà giáo, mỗi nhà khoa học đều được thể hiện năng lực nghiên
cứu của mình qua các dự án, đề tài khoa học, qua việc hướng dẫn sinh viên nghiên
87
cứu khoa học.
Sinh hoạt dân chủ phải thực sự dân chủ, đảm bảo cho mỗi người đều được thể
hiện ý kiến, quan điểm khoa học của mình. Tránh dùng uy tín cá nhân hay thủ tục
hành chính để áp đặt, trói buộc sáng tạo khoa học. Đồng thời phải xử lý nghiêm
những trường hợp lợi dụng tự do tư tưởng để tuyên truyền những quan điểm phản
khoa học, trái với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ bảy, phải làm cho tất cả cán bộ, giảng viên, viên chức được tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình quản lý nhà trường dưới những hình thức khác nhau, không
phân biệt lứa tuổi, giới tính hay công việc mà họ đảm nhận. Ý kiến của mọi người
đều có giá trị ngang nhau và khi cần biểu quyết, quyết định một vấn đề nào đó thì
thiểu số phải phục tùng đa số. Đảm bảo cho mỗi giảng viên, cán bộ, viên chức đều
được bày tỏ quan điểm và quyết định trực tiếp, không thông qua người đại diện hay tổ
chức đại diện. Mở rộng dân chủ theo hướng làm cho ý kiến của đa số quần chúng có
giá trị quyết định chứ không chỉ có giá trị tham khảo.
2.2.2.4. Tăng cường tính tự chủ, tự quản của sinh viên trong học tập, sinh hoạt
và rèn luyện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên
Trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm sâu sắc tới công tác giáo dục thế hệ trẻ, Người tin tưởng và gửi gắm
niềm tin vào các thế hệ sinh viên: “… mong các cháu cũng làm người thanh niên anh
hùng trong thời đại anh hùng” [60, tr. 401]. Sinh viên là lực lượng đông đảo trong xã
hội luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chăm lo giáo dục, đào tạo để trở thành
những người lao động giỏi, cán bộ tốt, chủ nhân tương lai của xã hội. Nhưng sinh
viên có phát huy được năng lực tiềm ẩn của mình hay không, điều đó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, như khả năng, sự rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân họ, ngoài ra còn phụ
thuộc vào sự giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội phù hợp với sự phát triển
của họ. Như vậy, vị trí của sinh viên trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực
phấn đấu và vươn lên của bản thân họ trong suốt quá trình học tập, rèn luyện trong
nhà trường và ngoài xã hội.
Sinh viên hiện nay đang sống, học tập và rèn luyện trong bối cảnh đặc thù và
hết sức sôi động của thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều
88
thuận lợi căn bản, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức mang tính thời đại.
Họ là lớp người gánh vác những trọng trách nặng nề và vẻ vang mà dân tộc giao phó.
Họ là những trí thức trẻ tương lai và phải trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng
cao thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là lớp
người có tri thức, năng động, nhạy cảm, sinh viên có khả năng tiếp cận nhanh với cái
mới, cái hiện đại, có thái độ phê phán cái sai, cái lạc hậu, bảo thủ, đồng thời có quan
niệm về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân đạo, về văn hóa và hiện đại.
Với triết lý giáo dục “lấy người học làm trung tâm”, “sinh viên là nhân cách đã
trưởng thành”, việc thực hiện dân chủ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo
dựng và phát huy tính tự chủ, tự giác của sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa
học, tính tự giác, trách nhiệm trong rèn luyện, sinh hoạt.
Việc tăng cường dân chủ trong các mối quan hệ giữa sinh viên với nhà trường,
giữa sinh viên với giảng viên và trong nội bộ các hoạt động của sinh viên với nhau sẽ
góp phần nâng cao năng lực sáng tạo và sự tự tin của sinh viên trong học tập và rèn
luyện, đảm bảo cho mỗi sinh viên đều được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình theo luật định. Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề này cần phải tính đến đặc thù của
lứa tuổi và vị trí của sinh viên trong nhà trường đại học. Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của nhà trường đã quy định những việc mà người học phải được biết
và tham gia ý kiến:
Điều 8. Những việc người học được biết.
Người học phải được biết những nội dung sau đây:
1. Chủ trương, chế độ, chính sách của Nhà nước, của Ngành và những quy
định của nhà trường đối với người học.
2. Kế hoạch tuyển sinh, kế hoạch đào tạo của nhà trường hàng năm.
3. Những thông tin có liên quan đến học tập, rèn luyện, sinh hoạt và các khoản
đóng góp theo quy định.
4. Chủ trương, kế hoạch tổ chức cho người học phấn đấu trở thành đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, gia nhập các tổ chức, các đoàn thể trong nhà
trường.
Điều 9. Những việc người học được tham gia ý kiến:
89
1. Nội quy, quy định của nhà trường có liên quan đến người học.
2. Tổ chức phong trào thi đua và các hoạt động khác trong nhà trường có liên
quan đến người học [12].
Để thực hiện đầy đủ các quyền của người học, đảm bảo cho mỗi sinh viên đều
được làm chủ quá trình học tập, rèn luyện, sinh hoạt của mình và tham gia làm chủ
lớp học, khoa và nhà trường cần phải mở rộng các loại hình dân chủ, nhất là dân chủ
trực tiếp trong sinh viên. Muốn cho sinh viên ngày càng có những đóng góp sáng tạo
trong lĩnh vực giáo dục, trước hết phải chú trọng đổi mới môi trường giáo dục trong
trường đại học. Muốn vậy, cần làm tốt những việc sau đây:
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, phổ biến
nội quy, quy chế giúp sinh viên nắm bắt đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, ý thức
được trách nhiệm làm chủ của mình trong nhà trường. Kết hợp nhiều phương thức
giáo dục đối với sinh viên như giáo dục theo chương trình chính khóa và giáo dục
ngoại khóa, giáo dục bắt buộc và giáo dục tự nguyện. Sử dụng nhiều loại hình giáo
dục đa dạng như tổ chức học tập trên lớp, tổ chức thi, hội thảo, tổ chức phong trào
văn nghệ, thể thao, du lịch theo chủ đề, v.v.
Tạo môi trường dân chủ lành mạnh để sinh viên được tham gia góp ý trực tiếp
vào các vấn đề có liên quan đến họ, tham gia trực tiếp vào việc tổ chức và thực hiện
các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, phong trào.
Tổ chức nhiều diễn đàn dân chủ để sinh viên thể hiện ý chí, nguyện vọng của
mình một cách công khai như các buổi tiếp xúc của lãnh đạo trường, khoa chủ quản
với sinh viên. Tạo nhiều sân chơi bổ ích để sinh viên thể hiện năng lực độc lập, sáng
tạo của mình. Cần tránh những hoạt động tự phát, thiếu tính định hướng, có nguy cơ
gây bất ổn trong nhà trường và ngoài xã hội.
Làm thay đổi căn bản nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn
thể quần chúng cũng như nhận thức của từng giảng viên, cán bộ, viên chức trong các
trường đại học về vị trí, vai trò của sinh viên. Phải coi sinh viên là “một nhân cách đã
trưởng thành”, “là nhân vật trung tâm của nhà trường”. Cho nên nhà trường, các cán
bộ, giảng viên trong trường cần có thái độ tôn trọng sinh viên, ủng hộ tính năng động,
90
chủ động, sáng tạo của sinh viên trong các lĩnh vực hoạt động. Nghiêm cấm mọi lời
nói và hành vi lăng mạ, coi thường hay xúc phạm nhân cách sinh viên. Tránh can
thiệp quá sâu vào các hoạt động có tính tự chủ, tự quản và tự quyết của sinh viên.
Về phần mình, sinh viên phải tự ý thức được vị trí, vai trò của mình trong nhà
trường, hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình để thực hiện đúng đắn vai trò làm chủ
trong học tập, rèn luyện và các hoạt động phong trào khác. Sinh viên thay đổi cách
học, chủ động sáng tạo tiếp nhận kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giảng viên,
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, gắn lý thuyết với thực hành, biến
quá trình học thành một hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Bằng những công trình sáng
tạo của mình, sinh viên đã có những đóng góp vào công cuộc đổi mới giáo dục - đào
tạo.
Sinh viên cần khắc phục thái độ tự ti, thụ động; phải chủ động đề xuất với các
cấp có thẩm quyền ý chí, nguyện vọng của mình để được xem xét, giải quyết; dám
thẳng thắn đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống lại các biểu hiện tiêu cực trong trường,
mạnh dạn đề xuất sáng kiến, giải pháp để giải quyết các vấn đề có liên quan đến mình
và tập thể. Tuy nhiên, khi tham gia vào các hoạt động dân chủ này, sinh viên phải có
thái độ “tôn sư, trọng đạo”, giữ gìn mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa trò với
thầy, giữa người ít tuổi với người lớn tuổi.
Đoàn thanh niên và hội sinh viên cần phối hợp chặt chẽ với các khoa và nhà
trường trong việc định hướng và tổ chức cho sinh viên thực hiện quyền dân chủ của
mình: thông qua đại hội đoàn, đại hội hội sinh viên các cấp để trực tiếp bầu ra người
đại diện cho mình, đánh giá về công tác đoàn, hội và đóng góp ý kiến vào phương
hướng, nhiệm vụ hoạt động tiếp theo; tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu, gặp mặt
giữa sinh viên với lãnh đạo các cấp trong trường để sinh viên đề đạt ý chí, nguyện
vọng của mình; lắng nghe ý kiến của sinh viên, nắm bắt tâm tư, tình cảm của sinh
viên để đề xuất với các cấp có thẩm quyền của mình để sinh viên thể hiện khả năng
chủ động, sáng tạo của họ và khuyến khích các sáng kiến của cá nhân và tập thể trong
sinh viên.
Công khai các chỉ tiêu thi đua, khen thưởng, tiêu chuẩn trở thành đảng viên để
sinh viên được biết và có hướng phấn đấu vươn lên. Việc xét thi đua, khen thưởng
91
phải làm kịp thời, công khai, minh bạch nhằm khuyến khích, động viên phong trào
học tập, rèn luyện của sinh viên. Có kế hoạch theo dõi, xây dựng điển hình tiên tiến,
giúp đỡ những sinh viên tích cực sớm được đứng trong hàng ngũ Đảng cộng sản Việt
Nam. Việc làm này có ý nghĩa tích cực trong việc nâng cao và phát huy vai trò làm
chủ của sinh viên.
2.2.2.5. Đổi mới trong chương trình, nội dung đào tạo, đáp ứng nhu cầu người học
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn, giáo dục là một công việc
có vai trò rất lớn đối với việc phát triển con người mới, chủ nhân tương lai của đất
nước. Vì thế, Người luôn quan tâm đến tất cả các cấp đào tạo, các hình thức đào tạo.
Và ở bất cứ nơi đâu, Người đều nhấn mạnh vai trò của giáo dục trong việc xây dựng
con người phát triển toàn diện, có đủ phẩm chất và năng lực làm chủ.
Kế thừa quan điểm giáo dục toàn diện của Hồ Chí Minh, việc đổi mới nội
dung, chương trình đào tạo cần phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện
đại và có hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đổi mới nội
dung chương trình giảng dạy bao gồm cả bốn nội dung: đức dục, trí dục, mỹ dục và
thể dục. Nội dung giáo dục phải toàn diện, đồng thời bám sát yêu cầu của xã hội, đào
tạo chuyên sâu các ngành, nghề, lĩnh vực, cung cấp đầy đủ kiến thức và kỹ năng làm
việc trong các ngành công nghiệp hiện đại, các lĩnh vực sản xuất công nghệ cao, các
loại hình dịch vụ tiên tiến; nhưng cũng không quên giáo dục chính trị tư tưởng, đạo
đức của mỗi người, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao tinh thần tự
giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo, xây dựng con người mới. Để nâng cao
nhận thức về chính trị tư tưởng cho sinh viên, phải dạy lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm
củng cố đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Nền học vấn mà nước ta chủ trương xây dựng là một nền giáo dục có nội dung
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hiện đại và dân tộc là những yếu tố nền móng cho
nội dung của một nền giáo dục đổi mới. Hiện đại là nói đến tri thức khoa học tiên tiến
của nhân loại, đã và đang có những bước tiến vượt bậc và có tác động to lớn đến sự
92
chuyển biến nhận thức về con người, về kinh tế và xã hội của nhân loại hiện nay; còn
truyền thống là những cái hay, cái đẹp của dân tộc ta từ hàng nghìn năm nay, đã góp
phần tạo nên cốt cách tinh thần của dân tộc ta trong quá khứ và cần thiết cho cuộc
sống hôm nay. Điều này được nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ cái gì bổ ích
và cần thiết, cái gì tốt và hay thì dù của phương Đông hay phương Tây ta phải học
lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Nói như vậy không phải mọi thứ
mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, còn cái gì mà lai căng, xấu xa thì
cương quyết loại bỏ. Vấn đề là phải có sự định hướng tốt cho sinh viên để họ biết
được cái gì là hay, là tốt, là bổ ích và ngược lại. “Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp,
cái gì là không đẹp” [59, tr. 175]. Giáo dục thẩm mỹ hình thành ở con người một
quan hệ thẩm mỹ nhất định đối với hiện thực, đáp ứng nhu cầu hướng thiện, nhu cầu
khám phá và thưởng thưởng cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống. Cùng với các nội
dung giáo dục khác, làm tốt công tác định hướng giá trị sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc
hình thành nhân cách- hướng con người vào cái thiện, cái đẹp để phấn đấu, rèn luyện,
hoạt động và cống hiến.
2.2.2.6. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
Chức năng giảng dạy thể hiện trách nhiệm của người thầy đối với học sinh.
Lúc này đòi hỏi thầy cô có lòng yêu thương, nhiệt tình đối với mọi sinh viên, giảng
dạy đến nơi, đến chốn mở ra cho sinh viên các hướng phát triển và ngăn ngừa mọi sai
lầm, khuyến khích sinh viên giỏi, giúp đỡ tận tâm sinh viên yếu kém, động viên
người cố gắng, răn đe người kiêu ngạo, lấy lòng nhân ái độ lượng mà cảm hóa người
học, lấy kiến thức uyên thâm và phương pháp tốt mà hướng dẫn sinh viên.
Đã là người thầy nói chung hay người giảng viên đại học nói riêng phải có kỹ
năng sư phạm, có phương pháp giảng dạy làm cho sinh viên dễ hiểu, dễ nắm bắt vấn
đề. Nếu không có kỹ năng sư phạm thì dù kiến thức chuyên môn có mấy tiết học cũng
buồn tẻ, người học khó nắm bắt vấn đề, không lĩnh hội được kiến thức, hiệu quả
giảng dạy thấp. Trên nền tảng chuyên môn vững, người giảng viên phải có phương
pháp sư phạm giỏi. Đó là cách đặt vấn đề ngắn gọn khúc triết, triển khai vấn đề logic,
minh họa sinh động, diễn đạt trôi chảy, biết tổ chức thảo luận nhóm. Kỹ năng sư
phạm một phần do bẩm sinh, nhưng chủ yếu là sự khổ công rèn luyện ngày một hoàn
93
thiện hơn.
Phải biết định hướng, tổ chức cho sinh viên tự khám phá ra kiến thức mới,
giúp cho sinh viên không chỉ nắm bắt được nội dung kiến thức mà còn nắm bắt được
phương pháp để áp dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Có làm được như vậy chúng ta
mới có thể giảm thời gian lên lớp, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên.
Xác định nhiệm vụ dạy và học ở đại học là vừa dạy và học kiến thức mới, vừa
dạy và học phương pháp học tập, nghiên cứu tối ưu để sinh viên sau khi ra trường có
thể tự học, tự nghiên cứu suốt đời. Ở môi trường đại học, dạy cách học, cách làm thí
nghiệm, cách nghiên cứu, cách đọc sách, cách tìm kiếm và xử lý tư liệu phải được ưu
tiên bên cạnh việc truyền thụ kiến thức, việc sinh viên có thể học trong sách theo sự
hướng dẫn của thầy cô.
Một phương pháp giảng dạy tích cực mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đó là
học tập kết hợp với vui chơi, giải trí. Người cho rằng vui chơi lành mạnh là một bộ
phận quan trọng trong sự sinh hoạt của thanh niên. Những hoạt động vui chơi lành
mạnh có định hướng tốt sẽ có tác dụng giáo dục rất lớn. Ban giám hiệu nhà trường,
đoàn thanh niên, hội sinh viên trường cần có sự phối, kết hợp để tổ chức các chương
trình vui chơi, giải trí, văn hóa văn nghệ, luyện tập thể dục thể thao để rèn luyện thể
lực, nâng cao đời sống tinh thần cho sinh viên. Các hoạt động như “mùa hè tình
nguyện”, “tuổi trẻ sáng tạo”, giao lưu giữa doanh nghiệp với sinh viên, “sinh viên
thanh lịch”, “giao lưu tiếng hát sinh viên”, các cuộc thi hùng biện, sinh viên học làm
giàu, hay phong trào sinh viên xung kích cần được khuyến khích duy trì nhằm tập
hợp, giáo dục, thuyết phục sinh viên, qua đó giúp họ có cơ hội rèn luyện bản lĩnh cá
nhân, phát huy những khả năng của bản thân và nâng cao ý thức làm chủ tập thể.
Về chức năng của thầy giáo cần phân biệt hai chức năng khác nhau: giảng dạy
và đánh giá. Mỗi chức năng có mục đích và yêu cầu riêng, đòi hỏi những phẩm chất
khác nhau của người thầy. Trong đó, chức năng đánh giá (chấm thi, hướng dẫn đề án,
khóa luận, v.v.) thể hiện trách nhiệm của người giảng viên đối với người học và đối
với xã hội. Lúc này đòi hỏi người thầy phải có các phẩm chất nghiêm túc, sáng suốt,
công bằng.
Nghiêm túc là điều cần thiết để đảm bảo công bằng, thể hiện ở chỗ thực hiện
94
đúng đắn các quy phạm. Kết quả công việc đánh giá kiến thức qua thi, kiểm tra, bảo
vệ đồ án, luận văn, v.v. thường được thể hiện bằng số điểm, cần bỏ một thói quen
thường nói: “Thầy cho điểm sinh viên”. Thói quen này nhiều khi gây nên sự ngộ
nhận nguy hiểm như là thầy có quyền cho điểm. Thực ra trách nhiệm của giảng viên
là đánh giá đúng đắn kết quả học tập của sinh viên. Trong lúc người giảng viên lấy
nội dung khoa học làm thước đo để đánh giá kiến thức của sinh viên thì ngược lại
người giảng viên cũng đang được tập thể sinh viên đánh giá bằng các tiêu chuẩn sáng
suốt và công bằng.
Việc đánh giá, khen chê sinh viên cũng cần có sự công tâm và có phương
pháp, làm sao để có thể kích thích được sự sáng tạo và đam mê khám phá của sinh
viên, đồng thời khi chỉ ra những hạn chế cũng không làm cho sinh viên cảm thấy
mình yếu kém. Trên thực tế có lúc sinh viên chưa nắm bắt được phương pháp giảng
của thầy cô thì nhiều giảng viên cho rằng sinh viên năng lực kém, có những lời lẽ xúc
phạm đến sinh viên, gây bất bình trong sinh viên; cũng có trường hợp giảng viên
“nhìn mặt mà bắt hình dong”, dựa vào cảm quan cá nhân để đánh giá sinh viên nhiều
hơn là đánh giá kiến thức của sinh viên. Khi đặt vấn đề, sinh viên có thể nhận thức
đúng, nhận thức chưa đúng, nhiệm vụ của người thầy là phải chỉ ra cái được và chưa
được của sinh viên, khuyến khích những vấn đề mà sinh viên phát hiện ra, không nên
chỉ soi xét phần hạn chế của họ.
Kiến thức, phương pháp và nhiệt tình trong giảng dạy, nghiêm túc, sáng suốt
và công bằng trong đánh giá là những nhân tố cơ bản tạo nên uy tín của thầy cô giáo
thực hiện vai trò vẻ vang của mình và cũng là điều cơ bản để tạo nên không khí dân
chủ trong học tập và giảng dạy ở nhà trường đại học.
Về phía sinh viên, trong phương pháp học tập, cần nhận thức được rằng, để trở
thành một con người có đủ đức và tài thì họ phải học tập và rèn luyện. Muốn đạt được
điều đó thì “học phải đi đôi với hành”, luôn luôn biết kết hợp giữa thực tế và lý luận,
nhà trường và xã hội. Bởi chúng ta đều biết quá trình dạy học và tự học là một quá
trình biện chứng. Trong đó, thầy đóng vai trò ngoại lực, trò đóng vai trò nội lực, là
yếu tố quyết định chất lượng học tập. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “việc học
phải lấy tự học làm cốt”. Tự học là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Năng lực tự
95
học, sáng tạo đặc biệt của dân tộc đã làm nên một Bạch Đằng, một Điện Biên, một
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tự học, sáng tạo đã làm nên biết bao nhà quân sự,
chính trị, khoa học, văn hóa lỗi lạc của đất nước từ xưa đến nay” [2, tr. 206].
Chất lượng đào tạo đại học được hình thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
tác động bên trong của cá nhân mỗi sinh viên với sự giáo dục bên ngoài của nhà giáo,
môi trường sư phạm và môi trường xã hội. Nói cách khác, khi họ chịu sự giáo dục từ
bên ngoài thì chính trong bản thân họ đã có sự vận động nội tại theo những chuẩn
mực xác định của xã hội. Nếu không có sự tự giáo dục, tự đào tạo trong mỗi cá nhân
thì quá trình giáo dục chỉ giống như tiếng nói giữa sa mạc mênh mông.
Thông qua tự học, tự rèn luyện, mỗi sinh viên dần hình thành những khả năng
tự đánh giá, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện theo những yêu cầu, chuẩn mực đạo đức, đạo
đức, nhân cách mà xã hội đang hướng đến xây dựng. Khi mỗi sinh viên có ý thức tự
giác trong học tập thì việc tiếp thu tri thức và lựa chọn những chân lý sẽ nhanh chóng
chuyển thành tình cảm, niềm tin, lý tưởng và cao hơn hết là xây dựng trong mình một
thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Đó chính là quá trình
chuyển hóa từ mục đích và nhiệm vụ của giáo dục đại học thành mục đích và nhiệm
vụ tự hoàn thiện nhân cách của mỗi sinh viên. Và khi đó, họ đã thực sự trở thành
những người có đầy đủ hiểu biết và năng lực làm chủ bản thân, nhà trường và xã hội.
Để kích thích năng lực tự học của sinh viên, nhà trường cần tạo điều kiện về
cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ cho hoạt động tự nghiên cứu của sinh viên
như bố trí hội trường tự học cho sinh viên, trang bị internet trong phạm vi nhà trường,
trang bị cho sinh viên phương pháp tự nghiên cứu, làm việc nhóm, v.v.
2.2.2.7. Đổi mới phương pháp, cơ chế quản lý nhà trường đại học
* Tăng cường dân chủ trong công tác quản lý của các cấp chính quyền trong
các nhà trường đại học.
Ban giám hiệu, các phòng, ban chức năng, các khoa chuyên môn, các bộ môn
và các đơn vị trực thuộc là những cơ quan và cá nhân chịu trách nhiệm chính trong
công tác quản lý mọi mặt hoạt động của nhà trường như quản lý tài sản, quản lý
chuyên môn, quản lý cán bộ, quản lý sinh viên, quản lý quá trình đào tạo. Cho nên
việc phát huy dân chủ trong quản lý các lĩnh vực trên là trách nhiệm của bộ máy
96
chính quyền nhà trường.
Để phát huy tối đa vai trò của bộ máy hành chính trong trường, nhà trường cần
phải có sự sắp xếp lại các đơn vị theo hướng tinh giản đầu mối, tránh trùng lặp, chồng
chéo, thành lập tổ chức chuyên trách về công tác thi cử, đồng thời chịu trách nhiệm
chủ trì trong việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo.
Trong công tác chuyên môn: Đặc thù trong công tác quản lý của bộ máy chính
quyền nhà trường đại học so với các loại hình cơ sở khác, là ở chỗ nhiệm vụ chủ yếu
của nó là quản lý về chuyên môn, về chất lượng đào tạo chứ nhiệm vụ chính của nó
không phải là quản lý hành chính hay kinh tế. Để nâng cao chất lượng quản lý lĩnh
vực này, nhà trường cần tăng cường vai trò làm chủ của phòng chức năng, khoa
chuyên môn, tổ bộ môn và toàn thể giảng viên, sinh viên vào quá trình đào tạo của
nhà trường.
Thực hiện mạnh mẽ phân công, phân cấp quản lý giáo dục; phát huy tính chủ
động, tự chịu trách nhiệm của các khoa đào tạo; tăng cường trật tự, kỷ cương trong
trường. Xây dựng và triển khai hệ thống kiểm định chất lượng đối với từng khoa,
từng chuyên ngành, đặc biệt trong công tác đánh giá ở tổ bộ môn.
Trong các hoạt động chuyên môn như giảng dạy và nghiên cứu khoa học,
hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, biên soạn đề cương, giáo trình, nhà trường và các
khoa, phòng cần coi trọng việc quản lý theo chất lượng và hiệu quả công việc;
khuyến khích khả năng chủ động sáng tạo của cán bộ, giảng viên trong các hoạt động
này, nhưng phải coi trong khuôn khổ của quy chế chuyên môn và đảm bảo các yêu
cầu về tính đảng và tính khoa học. Sự quản lý của chính quyền còn phải nhằm tăng
cường tính chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa
học và sinh hoạt tại nhà trường.
Có chế độ khuyến khích, khen thưởng, động viên kịp thời đối với những cán
bộ, giảng viên có sáng kiến và thành tích cao trong các hoạt động chuyên môn; đồng
thời phải kiên quyết phê bình, kỷ luật thích đáng đối với các trường hợp vi phạm quy
chế chuyên môn, làm trái với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xuyên
tạc tính khách quan, khoa học. Phát động phong trào thi đua, khen thưởng, tăng
cường phương pháp nêu gương với cả giảng viên và sinh viên trong giảng dạy, học
97
tập và nghiên cứu khoa học.
Thực hiện đúng “ba công khai” của đơn vị. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài
chính đã có quy định rõ ràng về thực hiện công khai trong giáo dục (Thông tư 09/TT-
BGD- ĐT và Thông tư 21/TTBTC). Theo đó đã có nhiều trường đại học lập bảng
niêm yết, lập hồ sơ công khai. Tuy nhiên tác dụng của các bảng biểu, các hồ sơ chưa
đảm bảo tính thực chất và thường xuyên. Thực hiện đúng “ba công khai” sẽ tạo nên
không khí cởi mở, dân chủ trong nhà trường, làm cho quần chúng không còn phải suy
nghĩ đến những vướng mắc trong quản lý nhà trường như trước đây.
* Tiếp tục nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ, rà soát, bổ sung, hoàn thiện
các quy định, quy chế thực hiện dân chủ trong ngành giáo dục và ở các nhà trường.
Thực hiện tốt nội dung, biện pháp này sẽ trực tiếp tạo cơ sở, môi trường pháp
lý cho mọi cấp cán bộ, sinh viên ở các nhà trường phát huy dân chủ, xây dựng tác
phong sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, nâng cao ý thức dân chủ của
cán bộ, giảng viên và sinh viên. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này đòi hỏi lãnh
đạo, cán bộ quản lý các cấp phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu của Bộ Giáo dục và
Đào tạo trong việc tiếp tục đẩy mạnh nâng cao chất lượng dân chủ ở cơ sở.
Tập trung rà soát, bổ sung các quy chế, quy định để đảm bảo phát huy được
quyền làm chủ của cán bộ, sinh viên trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà
trường. Rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các tổ chức trong trường. Bên cạnh đó, cần quy định rõ những vấn đề cán bộ,
sinh viên “được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra”, đồng thời phải xác định
rõ cơ chế thực hiện cụ thể bảo đảm tăng cường kỷ luật, quyền lợi gắn với trách
nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống tình trạng lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp
luật, kỷ luật trong môi trường giáo dục và đào tạo.
* Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện dân chủ
trong nhà trường đại học ở nước ta.
Đây là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
làm việc mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không làm. Trong tác phẩm Một
việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay, Người đã khẳng định: “Chính
sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự,
98
còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc
thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và
do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [54, tr.
636]. Cần tiến hành giám sát, kiểm tra và đánh giá toàn diện các khâu của quá trình
thực hiện dân chủ trong nhà trường, qua đó thấy được mặt mạnh để phát huy, những
hạn chế, thiếu sót để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Hầu hết các trường
đại học đều đã có ban kiểm tra nhân dân trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn
thể đều có các ủy ban kiểm tra, cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức này
trong việc đảm bảo dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
Trước hết cần kiểm tra, đánh giá việc lưu giữ, nắm bắt, nhận thức và triển khai
các văn bản pháp quy về thực hiện dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ trong nhà
trường nói riêng. Việc giám sát phải được tiến hành thường xuyên, hoạt động kiểm
tra, đánh giá cũng được tiến hành một cách liên tục và thực hiện nghiêm túc, tránh
trường hợp làm chiếu lệ, thiếu nghiêm túc, hời hợt. Tránh việc kiểm tra xong chỉ nêu
trên văn bản lưu trữ mà cần phải phản ánh kịp thời đến các cấp có thẩm quyền để rút
kinh nghiệm, phát huy những ưu điểm và sửa chữa những khuyết điểm.
Để thực hiện dân chủ trong nhà trường một cách có hiệu quả cần phải thực
hiện đầy đủ Quy chế dân chủ ở cơ sở; do đó cần phải kiểm tra và đánh gia việc thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở và các quy định khác của nhà trường và các đơn vị thực
thuộc trường đảm bảo cho mỗi quần chúng trong trường đều được tự do thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền giám sát và đánh giá, không được
hạn chế hay đàn áp dân chủ.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của cấp trên, các
nghị quyết, kết luận đã được thông qua tại các hội nghị quần chúng. Không được để
ra tình trạng “nói một đàng, làm một nẻo”, “đánh trống bỏ dùi”, nói mà không làm,
hay như Hồ Chí Minh đã nói “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” [54, tr. 637]
mà công việc vẫn không chạy
Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tiếp dân của các tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể trong trường; việc giải quyết các kiến nghị của quần chúng; thái độ làm việc
99
của các cá nhân, bộ phận có quan hệ trực tiếp với quần chúng. Khi phát hiện có vấn
đề cần xử lý hay có ý kiến của quần chúng thì xem xét nghiêm túc, kiến nghị các cấp
có thẩm quyền giải quyết, đề xuất giải pháp khắc phục.
Giám sát chặt chẽ quy trình thực hiện dân chủ của các đối tượng quần chúng
trong trường. Làm chủ phải trong khuôn khổ pháp luật và những quy định của nhà
trường, tránh để xảy ra trường hợp dân chủ quá trớn. Qua kiểm tra, giám sát để phát
hiện kịp thời những cá nhân, đơn vị có hành động lợi dụng dân chủ để phát biểu bừa
bãi, phản ảnh hay khiếu kiện không đúng sự thật, đòi hỏi những quyền lợi không
chính đáng, vượt quá khuôn khổ quyền và nghĩa vụ cho phép. Phát hiện những cá
nhân, đơn vị, do sức ép của quần chúng mà đưa ra những quyết định sai lầm, không
đúng quy định để kiến nghị, sửa chữa, chấn chỉnh.
Để hoạt động kiểm tra, giám sát có hiệu quả, cần phải xây dựng cơ chế kiểm
tra, giám sát đối với quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường; có sự phân công,
phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan thanh tra các cấp trong trường.
Kiểm tra, giám sát phải được thực hiện đa phương, đa chiều: trên kiểm tra
dưới, dưới giám sát trên; thầy kiểm tra trò, trò giám sát thầy. Không nên quan niệm
một chiều là chỉ có trên mới được kiểm tra dưới, thầy mới được kiểm tra trò. Có như
vậy mới đảm bảo được dân chủ trong chính quá trình kiểm tra, giám sát dân chủ.
Muốn vậy cần phải có sự thay đổi căn bản trong tư tưởng của mỗi người, khắc phục
tình trạng bất bình đẳng trong các mối quan hệ của nhà trường, xóa bỏ những mặc
cảm, tự ti của các đối tượng quần chúng, nhất là sinh viên trong trường.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của cán bộ, giảng viên, sinh viên đối với quá
trình thực hiện dân chủ của nhà trường. Đây là một việc làm thiết thực và hiệu quả vì
phần lớn những vụ tiêu cực ngoài xã hội cũng như trong các nhà trường đều do quần
chúng phát hiện, khiếu kiện trước, sau đó các cơ quan chức năng mới tham gia giải
quyết. Các trường đại học cần phải xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát phù hợp
để phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của quần chúng trong trường.
Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa ban thanh tra nhân dân, ủy bản kiểm
tra của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên nhà trường để đảm bảo thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này, đồng thời chịu trách nhiệm kiểm
100
tra, giám sát các hoạt động chung của nhà trường. Để làm được điều đó, cần phải có
sự phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trên, không để xảy ra tình trạng
chồng chéo hay đùn đẩy công việc. Đảng ủy trường phải thống nhất hoạt động kiểm
tra, giám sát trong trường.
Tiểu kết chương 2:
Thực hiện dân chủ trong giáo dục tại các nhà trường đại học ở nước ta hiện
nay đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc xây dựng một bầu không khí
dân chủ trong nhà trường, phát huy vai trò làm chủ của cán bộ, giảng viên trong
trường, coi trọng phẩm giá, năng lực người học, đề cao người học, lấy người học làm
trung tâm. Nhờ vậy, năng lực của cán bộ, giảng viên, sinh viên đã được khơi dậy
mạnh mẽ.
Tuy nhiên, trong các trường đại học ở nước ta hiện nay tình trạng dân chủ hình
thức, mất dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để trục lợi cho cá nhân vẫn còn tồn tại. Điều
này đặt ra yêu cầu bức thiết là phải đưa vấn đề thực hành dân chủ trong giáo dục vào
thực chất, do đó việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục càng
trở nên quan trọng.
Những thành tựu đã đạt được và những yếu kém còn tồn tại là do nhiều
nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nhằm phát huy
những thành tựu đã đạt được và hạn chế những yếu kém, trong thời gian tới, vấn đề
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nhằm thực hiện tốt dân chủ trong nhà
trường đại học nước ta lại càng quan trọng.
Để đảm bảo việc thực hành dân chủ trong nhà trường đại học theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, cần phải quán triệt những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục; Đảng và Nhà nước cần hoàn chỉnh hệ thống các văn bản về dân chủ,
có kế hoạch triển khai và đôn đốc việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở ở tất cả
các ngành các cấp, ngành ở Trung ương và địa phương.
Đảng ủy, Ban giám hiệu các trường thực hiện tốt Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của nhà trường, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm quyền làm
101
chủ của nhân dân cũng như việc lợi dụng dân chủ để vi phạm kỷ cương, pháp luật.
Cần phát huy vai trò của các tổ chức và các đối tượng quần chúng tại nhà
trường để đảm bảo việc thực hiện dân chủ được đi vào thực chất, từ cán bộ, giảng
102
viên đến sinh viên trong trường đều có trách nhiệm thực thi dân chủ.
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu, một
trong những di sản đó ngày nay chúng ta cần phải học tập, tiếp thu và vận dụng một
cách triệt để là tư tưởng dân chủ, đặc biệt là dân chủ trong giáo dục.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ, có giá
trị như một định nghĩa cô đọng, súc tích, vừa khoa học, vừa hiện đại vừa kế thừa phát
triển những hiểu biết của nhân loại về dân chủ, phản ánh đúng thực chất của dân chủ
đương đại. Nó toát lên sự bình dị mà vô cùng sâu sắc trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh, đó là đưa lại quyền là chủ và làm chủ cho con người, vì con người. Người đặc
biệt quan tâm đến dân chủ trong giáo dục, bởi Người hiểu sâu sắc “giáo dục là quốc
sách hàng đầu” đối với sự phát triển của một quốc gia.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, vì vậy, Người chủ
trương xây dựng một nền giáo dục dân chủ mới mà ở đó ai cũng được học hành, ai
cũng có quyền tham gia và hưởng thụ giáo dục. “Nước ta là nước dân chủ” thì nền
giáo dục của ta cũng là nền giáo dục dân chủ. Nền giáo dục dân chủ của nước ta, theo
Hồ Chí Minh là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, một nền giáo dục làm phát
triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của người học. Đó là nền giáo dục dành cho
mọi người, đảm bảo “ai cũng được học hành”, ai cũng có quyền tham gia và hưởng
thụ giáo dục.
Trên cơ sở ý thức được tầm quan trọng của việc đào tạo thế hệ trẻ, đào tạo cán
bộ, để xây dựng nên một nền giáo dục đại học phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu
cầu của xã hội, của thực tiễn cuộc sống, Người đã đưa ra những quan điểm về dân
chủ trong quản lý giáo dục, trong mọi hoạt động dạy, học, cũng như trong lề lối làm
việc đều cần có dân chủ, ở đó yêu cầu tất cả các đối tượng từ cán bộ quản lý, giáo
viên và sinh viên đều có quyền lợi và trách nhiệm thực hiện dân chủ nhằm xây dựng
một bầu không khí dân chủ lành mạnh, kích thích sự sáng tạo, năng lực cống hiến của
các cá nhân vào sự phát triển chung của nhà trường và ngành giáo dục.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục, trong những năm
qua, các trường đại học ở nước ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng từng bước thực hiện
103
quyền làm chủ rộng rãi của toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên. Trình độ hiểu biết
dân chủ trong cán bộ công chức, sinh viên ngày càng được nâng lên. Cơ chế, điều
kiện thực hiện dân chủ được cải thiện. Nền nếp, kỷ cương trong các lĩnh vực hoạt
động của nhà trường được duy trì. Với những kết quả đó, hầu hết các trường đại học
nước ta đã hoàn thành các nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ trong các trường đại học nước ta hiện
nay còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhận thức về dân chủ còn chưa đầy đủ ở nhiều cấp bộ
đảng, chính quyền, đoàn thể và cán bộ, giảng viên, sinh viên. Hệ thống văn bản dân
chủ còn có những bất cập, chưa thật phù hợp, vấn đề vi phạm quyền dân chủ, dân chủ
hình thức hay dân chủ quá trớn vẫn còn tồn tại ở các mức độ khác nhau. Cơ chế kiểm
tra, giám sát dân chủ chưa rõ ràng. Việc mở rộng dân chủ chưa thật sự tương xứng
với trình độ của các đối tượng trong trường.
Những hạn chế, thiếu sót trên có những nguyên nhân, cụ thể: do hạn chế về
năng lực nhận thức và thực hành dân chủ, cũng như các đối tượng quần chúng trong
trường; do thiếu đồng bộ về cơ chế và chính sách dân chủ từ nhiều cấp Trung ương
cũng như nhà trường; do chưa có sự thống nhất hoàn toàn về quan điểm và lợi ích cá
nhân và tập thể, giữa lãnh đạo và quần chúng, giữa người thực hiện dân chủ và người
được hưởng quyền dân chủ.
Từ thực trạng đó và trước những yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để dân chủ thực sự trở thành mục tiêu và động lực
phát triển của các trường đại học nước ta, cần phải xác định một hệ thống những
phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện dân
chủ ở các lĩnh vực hoạt động của nhà trường, tác giả đã đề xuất những phương hướng
chung có tính chất định hướng và tương ứng với chúng là các nhóm giải pháp cụ thể
nhằm khai thác tiềm năng vốn có của các trường đại học là đội ngũ cán bộ giảng viên,
sinh viên có trình độ cao, phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục hạn chế,
thiếu sót của quá trình thực thi dân chủ trước đó để xây dựng và phát triển nhà
trường.
Để dân chủ thực sự trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển ở mỗi
trường đại học, cần phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ, đồng bộ và triệt để hơn nữa từ
104
cấp lãnh đạo cho đến từng giảng viên trong các trường đại học, cụ thể:
Đảng bộ các trường đại học lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể, đơn vị
trong trường, phát huy quyền làm chủ và vai trò sáng tạo của từng thành viên trong
đơn vị mình, đảm bảo cho mỗi tổ chức đoàn thể thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ
của mình.
Ban Giám hiệu, thủ trưởng các phòng, ban, khoa tôn trọng quyền làm chủ của
các thành viên do mình quản lý; đảm bảo công khai các vấn đề có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ; có kế hoạch thường xuyên tiếp xúc với quần chúng dưới
nhiều hình thức như thư góp ý, đối thoại trực tiếp, hội nghị, hội thảo.
Mỗi giảng viên, cán bộ, công chức, sinh viên trong trường cần nắm vững, kết
hợp hài hòa quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, dân chủ và kỷ cương, thể hiện
năng lực tích cực, chủ động sáng tạo trong mọi lĩnh vực công tác, học tập, sinh hoạt,
đời sống.
Mỗi sinh viên trong nhà trường phải ý thức được vị trí và trách nhiệm của
mình, thực hiện đúng vai trò, bổn phận của người học, luôn có ý thức phấn đấu vì sự
tiến bộ của bản thân và sự phát triển của trường, tuân thủ mọi quy chế mà trường lớp
105
đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2008) (chủ biên): Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Anh (2013) (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng
vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Dân vận Trung ương (2002), Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đặng Quốc Bảo- Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai- vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đặng Quốc Bảo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội
7. Đặng Quốc Bảo (2002), “Tư tưởng giáo dục thân dân của Hồ Chí Minh qua ý
nghĩa một thông điệp”, Tạp chí Giáo dục, (số 2), tr. 7- 8.
8. Hoàng Chí Bảo (2011), “Dân chủ xã hội chủ nghĩa- Mục tiêu và động lực của
công cuộc đổi mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 8), tr. 14- 18.
9. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội.
10. Phạm Văn Bính (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005): Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006- 2020, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Quyết định về việc ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường,số 04/2000/QĐ- BGD&ĐT.
13. Bộ Chính trị TƯ Đảng (1998), Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, số 30/CT- TW, 18/2.
14. Bộ Chính trị TƯ Đảng (2002), Chỉ thị về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, số 10- CT/TW.
15. Bộ Giáo dục và đào tạo (2013), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong
các trường Đại học và cao đẳng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Thông tư 09/TT-BGD ĐT Quy định về thực
hiện công khai trong giáo dục.
17. Trịnh Văn Chính (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
18. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội.
19. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
21. John Dewey (2010) (bản dịch của Phạm Minh Tuấn), Dân chủ trong giáo dục
Một dẫn nhập vào triết lý giáo dục, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Ban chấp hành TW Đảng lần thứ
8 khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Ban chấp hành TW Đảng lần thứ
9 khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh một con người một dân tộc một thời đại
một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
29. Phạm Văn Đồng (2010), Học Hồ Chí Minh chúng ta học gì?, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
30. Trần Khánh Đức (2010): Giáo trình Giáo dục đại học Việt Nam và thế giới,
Hà Nội.
31. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
33. Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng
đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đoàn Thanh Hải- Minh Tiến (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
35. Bùi Hiền (2013) (chủ biên): Từ điển Giáo dục học, Nxb. Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
36. Học viện Chính trị (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Hệ cao cấp Lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Tập bài giảng Chính trị học
(Hệ cao cấp Lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
39. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học
Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2008), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Hộ (2002): “Về tính dân chủ trong nhà trường qua tìm hiểu tư
tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục, (số 30), tr.5-6
41. Ikeda Daisaku (2013), Thế kỷ XXI ánh sáng giáo dục, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
42. Lại Quốc Khánh (2010), Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh từ góc nhìn triết học, Tạp chí Cộng sản, (số 817), tr. 50- 55.
43. V.I.Lênin (2003), Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
44. Trần Ngọc Linh (2000), Hồ Chí Minh với vấn đề dân chủ, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học kỷ niệm 110 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Phan Ngọc Liên (2007) (Biên soạn), Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Từ điển
Bách khoa.
46. Phan Ngọc Liên- Nguyên An: Hồ Chí Minh với giáo dục- đào tạo, Nxb. Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
47. Võ Văn Lộc (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Mác, Ăngghen, Lênin, Xtalin: Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
49. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ- di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. Lao
động, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1990): Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
66. Nguyễn Đình Minh (2015), “Về vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa” ,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 7), tr. 12- 14.
67. Nguyễn Thị Nga (2012) (chủ biên), Phát triển nền giáo dục Việt Nam trong
những thập niên đầu thế kỷ XX theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
68. Trần Quang Nhiếp (2006), Dân chủ với phát triển cộng đồng, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội.
69. Thái Ninh- Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
70. Nguyễn Tiến Phồn (1997), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ”,
Tạp chí triết học, (6).
71. Phùng Hữu Phú (1995), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
72. Phạm Ngọc Quang (1991), “Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp dân chủ hóa hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3).
73. Đồng Văn Quân (2014), Thực hiện dân chủ trong nhà trường đại học nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn Thế Thắng (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo
quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Phạm Thành- Nguyễn Khắc Mai (1991), Tư tưởng Dân chủ của Hồ Chí Minh,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
76. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị,
Hà Nội.
77. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg- Ban hành Điều lệ
trường đại học,
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id
=1&mode=detail&document_id=177916
78. Trường Đại học Kinh tế quốc dân: Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
http://tccb.neu.edu.vn/index.php/vi/news/Thong-bao/Quy-che-thuc-hien-dan-
chu-trong-hoat-dong-cua-Truong-Dai-hoc-Kinh-te-quoc-dan-41/
79. Trường Đại học khoa học tự nhiên- Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh:
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Trường Đại học khoa học tự
nhiên- Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
http://www.hcmus.edu.vn/images/stories/phong_tochuc_hanh_chinh/qd_ban_
hanh_quy_che_thuc_hien_dan_chu_dh_khtn.pdf
80. Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (2007),
Quy chế dân chủ trong hoạt động của trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn thành phố Hồ Chí Minh.
81. Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh: Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=
article&id=516:q-quy-ch-thc-hin-dan-ch-trong-hot-ng-ca-trng-
hc&catid=11:vbqdquiche
82. Trường đại học Thủy lợi (1999): Quy chế thực hiện dân chủ trong Trường Đại
học Thuỷ lợi .
83. vi.wikiquote.org: https://vi.wikiquote.org/wiki/Người_thầy
84. Phạm Xanh (2002), Hồ Chí Minh dân tộc và thời đại, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.