VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN DUY KHÔI
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN DUY KHÔI
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP
Hà Nội - 2020
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP Cấu thành tội phạm
TAND Tòa án nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
Nxb Nhà xuất bản
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản luôn được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Mọi hành
vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là các hành vi bị coi là tội phạm đều bị
nghiêm trị trước pháp luật. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói
riêng có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Loại tội
phạm này trong thời gian gần đây không chỉ có xu hướng tăng về số lượng vụ án, người
phạm tội mà phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại
lớn đến an ninh, kinh tế.
Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cho thấy những vướng mắc, bất
cập trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội này trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng cũng như trong việc chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Nguyên
nhân chủ yếu những vướng mắc, bất cập xuất phát từ sự nhận thức khác nhau về việc áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có một số trường hợp nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp
dụng không đúng quy định pháp luật, thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được giữa tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác trong Bộ luật hình
sự dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bắc Giang là một tỉnh nằm phía Đông bắc Hà Nội với hướng phát triển trở thành
tỉnh có nền công nghiệp phát triển vì vậy những năm gần đây chính quyền địa phương đã
có chủ trương thu hút xây dựng nhiều khu công nghiệp nhằm thúc đẩy kinh tế địa
phương. Chính vì muốn tạo sự đột biến trong nền kinh tế của tỉnh như vậy mà các khu
công nghiệp được hình thành, các nhà máy, nhà xưởng được đầu tư ngày một tăng lên,
kéo theo sự tăng trưởng của các nhà máy, nhà xưởng thì nhu cầu về nguồn nhân lực cho
1
các khu công nghiệp, các nhà máy, nhà xưởng cũng gia tăng rất lớn dẫn đến mật độ dân
nhập cư tăng đột biến trong những năm qua. Đi đôi với sự phát triển kinh tế của tình thì
mặt trái của nó là tình hình tội phạm cũng diễn ra ngày càng phức tạp, đặc biệt là các loại
tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu, quyền tài sản.
Chính vì vậy, là một cán bộ trong quá trình làm việc thường xuyên áp dụng các quy
định của pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của
mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và
các biểu hiện cụ thể của nó tại Bắc Giang nói riêng, để từ đó đề ra những biện pháp hoàn
thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần thiết. Vì lý do này tác đã chọn đề tài
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập đến trong các giáo trình của các
trường Đại học, Học viện đào tạo về luật, sách chuyên khảo và được các luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và trong một số lĩnh vực cụ
thể dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có luận án Thạc sĩ của một số tác giả
sau đây:
- Đặng Minh Phụng (2014) Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận
văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
- Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa
học xã hội.
2
- Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự và
tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt
Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học có luận văn
thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
- Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã
hội.
- Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
3
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chủ
yếu các luận văn, luận án nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm,
cũng có một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc
độ khoa học luật hình sự nhưng tình hình tội phạm trong giai đoạn này đã có nhiều thay
đổi và diễn biến phức tạp cùng với đó là việc ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 nên các
công trình nghiên cứu trên đã thể hiện những điểm bất cập không còn phù hợp với thực
tiễn hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang”
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 dưới
góc độ khoa học luật hình sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này tại tỉnh Bắc Giang
trong giai đoạn 2015 - 2019, qua đó đề xuất các biện pháp bảo đảm thi hành quy định về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng ngừa tội phạm
này trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được quy định
trong Bộ luật hình sự.
+ Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân
của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 - 2019.
4
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao đảm báo xét xử đúng tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong thời gian tới.
5. Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện
luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, thống kê...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần từng bước hoàn thiện và bổ sung vào hệ
thống lý luận đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật Việt Nam; đồng thời
luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học
luật hình sự đối với tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Những đề xuất bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang.
7. Bố cục của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc
Giang về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 3: Yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử đúng tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì “lừa đảo” được hiểu là việc “lừa bằng thủ
đoạn xảo trả để chiếm lấy của cải, tài sản”. Tuy nhiên, đây chỉ là cách hiểu thông thường
về khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xem xét hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
dưới góc độ là một hiện tượng xã hội tiêu cực.
Trong BLHS Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn được quy định tại
chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải
thể hiện được đồng thời đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm riêng
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015,
khoa học luật hình sự đưa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội
xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân”1. Khái niệm đã khái quát được những đặc điểm chung về khách thể, chủ thể và
mặt chủ quan của của các tội xâm phạm sở hữu.
Điều 174 BLHS năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác...” Căn cứ vào
quy định trên, khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
dưới góc độ pháp lý như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối”2. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản chiếm đoạt đang có người
1 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.9] 2 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37]
chiếm hữu, quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Khái
6
niệm mới chỉ thể hiện những đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên
đặc điểm của hành vi khách quan.
Từ những phân tích trên, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể được định
nghĩa như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi
cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Do đó,
khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu
được pháp luật bảo vệ.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản được tôn trọng và bảo vệ3. Quan hệ sở hữu được xác lập giữa một bên là chủ tài
sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình và một bên là những
người khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản đó. Hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản làm mất khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế của chủ tài sản, vi
phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản, qua đó xâm phạm đến quan hệ sở
hữu được pháp luật bảo vệ.
Mọi tội phạm đều có đối tượng tác động nhất định. Đối tượng tác động của tội phạm
là bộ phận của khách thể của tội phạm, nó bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối
tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản4.
Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là tài sản đang
3 Bộ luật dân sự 2005 (Điều 169) và Bộ luật dân sự 2015 (Điều 163) đều ghi nhận quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo đó , không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình. 4 Tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bởi đặc trưng của hành vi chiếm đoạt là hành vi làm
7
cho chủ tài sản mất hẳn khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế và tạo khả năng
đó cho người chiếm đoạt, vì vậy chỉ khỉ tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu, quản lý
chủ tài sản thì mới nói đến hành vi “làm mất khả năng đó”. Vì vậy, tài sản bị thất lạc (bị
mất, bị bỏ quên, bị đánh rơi) không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt nói chung và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
1.1.2.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân
thương mại.
Pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm. Đây là một quy định mới của
Bộ luật hình sự khi ghi nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân
thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lượi nhuận và lợi nhuận được
chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế khác. Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của Bộ luật hình sự, pháp nhân
thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều
75 của BLHS. Tuy nhiên tại Điều 76 BLHS lại không quy định pháp nhân phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, pháp nhân thương mại
không phải là chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cá nhân phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và
đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Trong BLHS Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm
hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy định đó, khoa học luật hình sự đưa ra định nghĩa
về người có năng lực trách nhiệm hình sự “là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình
sự”.5
Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất
5 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.123]
định và sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian tiếp theo. Theo BLHS Việt Nam
8
thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà BLHS có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, nghĩa là về các tội như: lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản,
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và một số tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng khác (trong đó không bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).
Tuy nhiên, năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ
hoàn toàn nếu người đó bị mắc các bệnh làm rối loạn hoạt động bình thường của bộ não.
Chính vì vậy, luật hình sự ngoài việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự còn quy
định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Chương IV BLHS thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự mà phải áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Trong thực tiễn áp dụng, khi đánh giá về năng lực trách nhiệm hình sự của một cá
nhân thì hầu như chỉ áp dụng việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nếu trong
quá trình giải quyết các cơ quan tố tụng có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của người đó thì mới cần kiểm tra xem có phải là trường hợp ở trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không.
Căn cứ vào những quy định trên, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có
thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi trường hợp phạm tội và không thuộc trường
hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là mọi cá nhân đạt
độ tuổi luật định, không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và đã
thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS thì đều có
thể trở thành chủ thể của tội này.
9
BLHS năm 2015 quy định khác về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác;
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về một số tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (trong đó không
bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).
Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 thì chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản chỉ có thể là cá nhân, phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015; Pháp
nhân thương mại và người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với mọi trường hợp phạm tội.
1.1.2.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và các điều kiện bên
ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp,
thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...
+ Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong một khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và
được phản ánh trong tất cả các CTTP, không có hành vi khách quan thì không có tội
phạm. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được mô tả trong CTTP cơ
bản (khoản 1 Điều 174 BLHS) là hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác. Tuy nhiên không phải mọi hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đều bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ cấu thành tội này khi tài
sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
10
Có hai quan điểm khác nhau về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành
vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm
đoạt có thể xảy ra, còn hành vị chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối6.
Theo quan điểm này, hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai
hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
nên người phạm tội chỉ có một hành vị khách quan duy nhất là “chiếm đoạt", nhưng
chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Theo quan điểm này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, “thủ đoạn gian dối” được
mô tả trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được coi là một hành vi độc
lập mà chỉ là phương thức để thực hiện hành vi.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất, coi hành vi khách
quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi: hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt. Bởi vì, mặc dù BLHS quy định trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là “thủ đoạn gian dối”, tuy nhiên bất kể thủ đoạn nào cũng đều phải được biểu hiện
ra bên ngoài bằng hành vi nhất định. “Gian dối” là việc đưa ra những thông tỉn giả,
không đúng sự thật, xét cho cùng đó chính là hành vi được ý thức kiểm soát và ý chí điều
khiển. Hơn nữa, thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được biểu
hiện bằng những hành vi lừa dối nhất định trước khi người phạm tội thực hiện tiến hành
vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có sự độc
lập tương đối và xảy ra nối tiếp nhau về mặt thời gian. Hành vi lừa dối là điều kiện để
hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối.
Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự
thật, về mặt chủ quan người phạm tội biết thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật
6 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37]
nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vị lừa dối có thể được thực hiện
11
bằng lời nói dối; bằng việc đưa ra các giấy tờ giả mạo; giả danh người có chức vụ, quyền
hạn; giả danh các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội...
Hành vi chiếm đoạt tài sản là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang
thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”7. Hay nói cách khác, hành vi
chiếm đoạt là hành vi làm cho người sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực
hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hình thức thể
hiện cụ thể:
Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì
hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản từ người
bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối tin vào những thông tin sai sự thật mà
người phạm tội đưa ra nên đã tự nguyện giao tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu của
mình cho người phạm tội. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ
được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên
thực tế, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A báo mất Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của mình để làm thêm 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng nữa.
Cùng lúc đó A đã bán mảnh đất của mình cho B với giá 500.000.000 đồng và C giá
600.000.000 đồng. Khi B và C đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện A
đã bán mảnh đất này cho 02 người. Trong tình huống này, tài sản bị chiếm đoạt là số tiền
500.000.000 đồng của B và 600.000.000 đồng của C đang nằm trong sự chiếm hữu của
A. Hành vi chiếm đoạt của A thể hiện ở việc nhận số tiền 500.000.000 đồng và
600.000.000 đồng từ B và C.
Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của người phạm tội
thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại tài sản đáng
lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối vì tin vào
7 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.11]
những thông tin sai sự thật mà người phạm tội đưa ra nên đã nhận nhầm tài sản (nhận
12
thiếu hoặc nhận sai tài sản) hoặc không nhận tài sản. Khi người bị lừa dối nhận nhầm
hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản và người bị
lừa dối đã mất tài sản đó, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A và B
là đồng thừa kế theo pháp luật đối với khối di sản X có giá trị 300.000.000 đồng, A và B
thỏa thuận cử C (không thuộc diện thừa kế theo pháp luật) làm người quản lý di sản.
Trong quá trình quản lý di sản, C có hành vi làm giả các giấy tờ về việc thanh toán các
khoản nợ do người chết để lại hết số tiền 100.000.000 đồng. Đến thời điểm chia thừa kế,
khối di sản chia thừa kế chỉ còn lại 200.000.000 đồng. Trong tình huống này, tài sản bị
chiếm đoạt là số tiện 100.000.000 đồng trong khi di sản X đang nằm trong sự chiếm hữu
của C (vì C được cử làm người quản lý di sản). Hành vi chiếm đoạt của C thể hiện ở việc
C đã giữ lại số tiền 100.000.000 đồng trong khối di sản X mà đáng lẽ phải giao cho
những người thừa kế là A và B.
Thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì nó được coi là hoàn thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay
sau hành vi lừa dối nhưng cũng có những trường hợp giữa hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt tài sản có khoảng cách nhất định về mặt thời gian. Vì vậy, cần chú ý đến
trường hợp này để xác định chính xác thời điểm tội phạm hoàn thành. Ví dụ như: Biết gia
đình chị L có nhu cầu xin vào biên chế Nhà nước cho con gái mới ra trường nên ngày
21/4/2017 bà V đã đến nhà chị L và giới thiệu mình là cán bộ của cơ quan X, có mỗi
quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con chị L vào biên chế
với giá 300.000.000 đồng. Bà V hẹn 01 tuần sau mang tiền đến thì xin cho con chị L và
biên chế. Vì tin bà V và muốn xin việc cho con nên chị L đã đồng ý. Ngày 28/4/2017 chị
L mang tiền đến đưa cho bà V, bà V nhận tiền nhưng không xin được cho con chị L và
cũng không trả lại chị L. Sau đó bà V bỏ trốn khỏi địa phương, con chị L không được vào
biên chế. Trong tình huống này, hành vi lừa dối của bà V (giới thiệu mình là cán bộ của
cơ quan X, có mỗi quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con
chị L vào biên chế) diễn ra vào ngày 21/4/2017 nhưng đến ngày 28/4/2017 hành vi chiếm
đoạt tài sản mới được thực hiện (V nhận tiền và đã kiểm soát số tiền đó). Giữa hành vi
13
lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của bà V có khoảng cách về mặt thời gian. Thời
điểm tội phạm hoàn thành trong trường hợp này là thời điểm bà V nhận được tiền từ chị
L.
Trường hợp người phạm tội cũng có hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản
nhưng những hành vi này đã được BLHS quy định thành các tội phạm độc lập thì người
phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác tương ứng. Ví dụ: Hành vi lừa đảo nhằm
chiếm đoạt chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 249-251)...
Hành vi lừa dối phải có trước khi thực hiện việc giao nhận tài sản giữa người bị lừa
dối và người phạm tội thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tải sản, nếu hành vi lừa
dối xảy ra sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản từ chủ tài sản thì không phải là tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).
Việc giao nhận tài sản giữa người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người bị
lừa dối là tự nguyện; nếu người bị lừa dối không tự nguyện giao nhận tài sản như trường
hợp giả danh người có chức vụ, quyền hạn nhằm tuy hiếp tinh thần của người khác làm
cho họ lo sợ mà miễn cưỡng giao tài sản thì không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170).
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là
khách thể bảo vệ của luật hình sự. Bất cứ tội phạm nào cũng có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội nhưng không phải mọi CTTP đều phản ảnh nội dung này mà chỉ có một
số CTTP nhất định – đó là những CTTP vật chất.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có CTTP vật chất, tức là dấu hiệu hậu quả được
quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174).
Dấu hiệu này trước hết được phản ánh thông qua đặc điểm về lượng của đối tượng tác
động, cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
14
Mặc dù BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên
hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng phải thỏa mãn một trong số những điều kiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 174 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản (người phạm
tội đã chiếm đoạt được tải sản) thì mới cấu thành tội phạm. Thời điểm người phạm tội
chiếm đoạt được tài sản là thời điểm tội phạm hoàn thành, trường hợp người phạm tội có
ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc chiếm
đoạt hoặc đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vì những nguyên nhân khách
quan mà chưa chiếm đoạt được tài sản, thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (Điều 14) hoặc phạm tội chưa
đạt (Điều 15) tùy vào từng trường hợp cụ thể.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”, đồng thời
bổ sung dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và “tài sản bị
chiếm đoạt là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ” với trường
hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng là dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Đây là những dấu hiệu có tính chất định tính mới được quy định ở một số tội
xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Việc định tội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn đòi hỏi xác định cả mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Bởi lẽ, con người chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu
hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu
giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm để có mối quan hệ
nhân quả với nhau.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:
15
- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản phải xảy ra trước khi có thiệt hại về tài sản.
Đây là căn cứ đầu tiên để kiểm tra xem giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ nhân quả hay không.
- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản khi xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ
tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát
sinh thiệt hại về tài sản. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán xe cho T, T
kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và giao cho G
20.000.000đồng để mua chiếc xe của G. Trong tình huống này, việc G làm giả giấy tờ xe
là hành vi lừa dối chứa đựng khả năng thực tế, nó khiến T tin tưởng nên đã giao tiền mua
xe cho G, ở đây đã làm phát sinh thiệt hại về tài sản của T.
- Thiệt hại về tài sản đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm
phát sinh hậu quả của hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế có trường hợp
mặc dù hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
thiệt hại về tài sản nhưng khả năng không được hiện thực hóa, thiệt hại về tài sản đó lại là
kết quả của hành vi phạm tội khác. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán
xe cho T, T kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và hẹn ngày
hôm sau mang tiền đến lấy xe, hai bên chốt giá xe là 20.000.000 đồng. Tuy nhiên ngày
hôm sau em trai của G lấy xe mô ô đi chơi và cầm cố tại cửa hàng cầm đồ nên G không
có xe giao cho T. Trong tình huống này, G có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của T,
hành vi này cũng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T thể
hiện ở việc T đã hẹn hôm sau đem tiền đến lấy xe và nếu không có hành vi của em trai G
lấy xe đi chơi và cầm cố chen ngang vào thì T đã giao tiền cho G và G đã chiếm đoạt
được tài sản của T, trực tiếp gây thiệt hại về tài sản cho T. Tuy nhiên, trên thực tế hành vi
của G đã không làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T mà thiệt hại đó lại là kết quả của
hành vi đem xe đi chơi rồi cầm cố của em trai G.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội,
16
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, tránh bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách
quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt
động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội,
trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP
+ Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý và vô ý.
Lỗi được chia thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý, trong mỗi CTTP cơ bản, dấu
hiệu lỗi nói chung chỉ có thể là một loại lỗi, lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi cố ý bao gồm hai
hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì
quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được nhà làm luật mô tả trực tiếp dấu
hiệu lỗi trong CTTP, tuy nhiên tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản đã phản ánh dấu
hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường
hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (khoản 1 Điều 10 BLHS).
Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:
- Về lý trí: Người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
gian dối đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại về tài sản cho người khác. Người phạm tội biết tài sản thuộc
quyền sở hữu của người khác, việc họ thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ
xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản, là hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Người phạm tôi cũng đồng thời thấy trước hậu quả là những thiệt hại về tài sản
mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra cho chủ sở hữu.
17
- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thiệt
hại về vật chất cho chủ tài sản, chỉ khi gây thiệt hại cho chủ tài sản thì người phạm tội
mới có thể chiếm đoạt được tài sản, thiệt hại đó làm mất hẳn khả năng chiếm hữu tài sản
trên thực tế của chủ tài sản và chuyển khả năng đó sang cho mình.
+ Động cơ, mục đích của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hinh vi phạm tội. Bất cứ trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp
nào cũng đều có mục đích phạm tội, bởi chỉ trong trường hợp này người phạm tội mới có
sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt được những mục đích nhất định.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội
thực hiện hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội khi thực hiện
hành vi đã đặt ra kết quả trong ý thức chủ quan của mình là phải đạt được việc chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.
Trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phản ánh mục đích phạm tội một
cách trực tiếp, tuy nhiên việc mô tả hành vi chiếm đoạt và hậu quả mà hành vi chiếm đoạt
gây ra đã thể hiện được mục đích chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sån.
Nếu một người thực hiện hành vi lừa dối để nhận được tài sản của người khác
nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu về một tội khác nếu hành vi họ đã
thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong CTTP của tội đó, ví dụ hành vi
lừa dối để nhận tài sản của người khác mà không được sự đồng ý của chủ tài sản thì có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) nếu người
phạm tội chỉ có ý định sử dụng tài sản để phục vụ cho các nhu cầu cá nhân và sẽ trả lại tài
sản đó cho chủ sở hữu, không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và cũng không sử dụng
tài sản đó làm công cụ, phương tiện để thực hiện một tội phạm khác.
Người phạm tội có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc
chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiêm đoạt tài sản. Ví dụ: A giới thiệu hiện A
18
đang làm bác sĩ tại Bệnh viện của C nhưng thực tế A đã nghỉ việc từ lâu. Lợi dụng tình
hình dịch bệnh người dân hoang mang A quảng cáo mình có thuốc kháng sinh chống vi
rút Covid-19 nên có rất nhiều người đến nhờ A tiêm thuốc với chi phí cao. Tuy nhiên
thực tế thuốc kháng sinh chống vi rút Covid-19 và một số thuốc bán kèm theo mà A tiêm
và bán chỉ là nước cất và thuốc bổ được A hay mua tại Bệnh viện của C. Vì hám lợi
nhuận từ việc bán dụng cụ y tế và các loại thuốc kèm theo cho A nên C không cảnh báo
người dân, không những thế C còn cho A mượn một phòng của bệnh viện để tiêm thuốc
và tư vấn cho người dân. Trong trường hợp này, A và C là đồng phạm, trong đó A là
người tổ chức, cần đầu và đồng thời là người thực hiện hành vi, còn C là người giúp sức.
C có mục kiêm lời từ việc bán đồ cho C nên đã chấp che giấu mục đích chiếm đoạt tài
sản của người đồng phạm là A, vì vậy cả A và B phải cùng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội cố ý. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể có một hoặc nhiều động
cơ khác nhau nhưng chủ yếu là do động cơ vụ lợi, tức là người phạm tội vì muốn thu về
những lợi ích vật chất cho mình nên đã thôi thúc họ thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ
phạm tội không được phản ánh trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì
vậy, động cơ của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có ý nghĩa trong việc
định tội mà chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội khi quyết định hình phạt.
1.2 Phận biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong BLHS Việt Nam cũng quy định một số tội
được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối như: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội
lừa dối khách hàng... Do đó, cần thiết phải có sự phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với các tội phạm này nhằm đảm bảo áp dụng các quy định của BLHS một cách chính xác
và hiệu quả.
1.2.1. Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
19
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS là
trường hợp người phạm tội thực hiện một trong hai hành vi phạm tội dưới đây nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc đuới 4.000.000
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài
sản đó;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản.
Căn cứ vào quy định trên, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trường hợp
người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn giai dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản.
Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 175) thực chất là việc phân biệt giữa hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, thủ đoạn gian dối của cả hai tội đều được biểu hiện bằng những hành vi
lừa dối cụ thể, tuy nhiên hành vi lừa dối xảy ở mỗi tội lại có vai trò khác nhau đối với
việc chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài
sản có thể xảy ra, không có hành vi lừa dối thì cũng không có việc giao nhận tài sản giữa
người phạm tội và người bị lừa dối. Do đó, hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản phải xảy ra trước khi có sự giao nhận tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví
dụ: A nói dối B là cho A mượn xe để đi đón người yêu ở bến xe, B tin tưởng A nên đã
20
cho A mượn xe để đi đón người yêu nhưng sau khi mượn được xe, A đã mang xe cầm cố
lấy 4.000.000 đồng để ăn tiêu. Ở đây, hành vi lừa dối của A là để B tin tưởng mà giao xe
máy cho A mượn, không có hành vi lừa dối đó thì B cũng không cho A mượn xe máy.
Do đó, hành vi lừa dối của A phải xảy ra trước khi có sự giao nhận về tài sản, là điều kiện
để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra.
Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc giao nhận tài sản là
ngay thẳng thông qua các giao dịch dân sự hợp pháp (vay, mượn, thuê...), do đó thời
điểm giao nhận người phạm tội chưa có hành vi lừa dối và cũng không cần thiết phải có
hành vi lừa dối để việc giao nhận tài sản có thể xảy ra. Sau khi nhận tài sản người phạm
tội mới có hành vi lừa dối để giữ lại tài sản đáng lẽ phải trả cho chủ tài sản, hay nói cách
khác hành vi lừa dối là để che giấu cho hành vi chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, hành vi lừa
dối của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện sau khi có sự giao nhận
tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví dụ: A mượn xe máy của B để đi chơi với
người yêu và hẹn hôm sau sẽ trả. Đến thời hạn trả xe, do thiếu tiền tiêu xài nên A đã nảy
sinh ý định chiếm đoạt và nói dối B là xe bị mất trộm, sau đó mang xe đi bán. Ở đây,
chiếc xe đã nằm trong sự chiếm hữu của A, hành vi lừa dối của A (nói dối xe bị trộm cắp)
không phải để nhận xe mà nhằm giữ lại chiếc xe đã đến hạn phải trả cho B và che giấu
cho hành vi chiếm đoạt (bán xe).
Thứ hai, cả hai tội đều có mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng ở các thời điểm khác
nhau, cụ thể:
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội vì muốn chiếm đoạt tài sản
nên mới thực hiện hành vi lừa đối để giao nhận tài sản với chủ tài sản, qua đó chiếm đoạt
tài sản của họ. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt tài sản đã có trước thời điểm giao nhận tài
sản.
Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngay từ đầu người phạm tội
đã không có ý định chiếm đoạt tài sản nên mới ký kết các hợp đồng ngay thẳng để giao
nhận tài sản. Tuy nhiên, sau khi nhận được tải sản vì nhiều lý do nên người phạm tội mới
21
nảy sinh ý định chiếm đoạt và dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó. Vì vậy,
mục đích chiếm đoạt phải có sau thời điểm giao nhận tài sản.
Như vậy, để xác định người phạm tội có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay
hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải xem xét tại thời điểm giao nhận tài
sản, người phạm tội có hay không có mục đích chiếm đoạt tài sản và việc giao nhận tài
sản là ngay thẳng trên cơ sở các hợp đồng dân sự hợp pháp hay do bị lừa dối bởi các thủ
đoạn gian dối của người phạm tội.
1.2.2. Phân biệt với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 355
BLHS. Hành vi khách quan của tội này là hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của
mình chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn cụ thể dưới đây:
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác để chiếm đoạt tài sản
của họ là trường hợp người phạm tội đã sử dụng chức vụ, quyền hạn làm phương tiện để
cưỡng bức người khác, chiếm đoạt tài sản của họ. Người bị hại do lo sợ rằng người phạm
tội sẽ gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín cho mình nếu không để cho người có chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác chiếm đoạt tài sản của họ là
trường hợp người phạm tội thể hiện những nội dung không đúng sự thật với người khác
nhưng vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn mà họ không nhận thức được đó là gian
dối và để cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trường
hợp người phạm tội không gian dối nhưng người bị hại vẫn tin vào người có chức vụ,
quyền hạn và giao tài sản và người có chức vụ, quyển hạn lạm dụng sự tín nhiệm này mà
chiếm đoạt tài sản của họ.
Việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản thực chất là việc phân biệt trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS) và trường hợp lạm dụng chức
vụ, quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác.
22
Về mặt khách quan, hai trường hợp phạm tội trên đều được thực hiện bằng hành vi
gian dối chiếm đoạt tài sản, chỉ khác nhau ở cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể
như sau:
Ở trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của người
khác (Điều 355 BLHS), hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc sử
dụng chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có trong khi thi hành công vụ để lừa dối
chiếm đoạt tài sản của người khác. Là một trong các tội phạm về chức vụ nên hành vi
khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện
trong khi thi hành công vụ. Ví dụ: A là phó giám đốc trung tâm quỹ đất, không có thẩm
quyền thu tiền đặt cọc trong đấu giá đất nhưng A lấy lý do thời gian gần đây nhiều công
ty đấu giá thường chậm trả tiền đặt cọc cho người dân nên A đã yêu cầu ai muốn tham
gia đấu giá đất thì phải đặt cọc và do A thu tiền.
Ở trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm đ khoản
2 Điều 174 BLHS), hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên
chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản
của họ. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn không đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng
chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi hành công vụ để lừa dối người khác chiếm
đoạt tài sản mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và dựa trên chức vụ, quyền
hạn đó để thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: A là Điều tra viên trong cơ quan X nhưng
không trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án của B. A đã chủ động liên hệ với B và nói dối rằng
mình là người trực tiếp giải quyết vụ án, có khả xin hưởng án treo cho B với điều kiện B
phải giao cho A số tiền 200.000.000 đồng. Vì A là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ
quan X nên B đã tin tưởng và giao số tiền trên cho A.
Ngoài ra, hai trường hợp phạm tội trên còn được phân biệt bởi một số đặc điểm sau:
Về khách thể, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quan hệ sở hữu; còn tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và
uy tín của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
23
Về chủ thể, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, trong khi
đó chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là chủ thể đặc biệt -
người có chức vụ, quyền hạn theo Điều 352 BLHS thì người có chức vụ là người được
giao thực hiện công vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
1.2.3. Phân biệt với tội lừa dối khách hàng
Tội lừa đối khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS, theo đó “1. Người nào
trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian
hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm; a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Thu lợi bất chính
từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…”
Về mặt khách quan, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lừa dối khách hàng đều
được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối. Tuy nhiên, theo mô tả trong CTTP của hai tội này
thì người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối nhằm các mục đích khác nhau, cụ thể như sau:
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối nhằm
“chiếm đoạt tài sản”. Mục đích chiếm đoạt tài sản được phản ánh trong CTTP của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản.
Đối với tội lừa dối khách hàng, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối “gây thiệt
hại nghiêm trọng cho khách hàng”. Mục đích phạm tội không được mô tả rõ trong CTTP
của tội lừa dối khách hàng nhưng được phản ánh thông qua hậu quả “gây thiệt hại
nghiêm trọng” cho khách hàng. Người phạm tội “gây thiệt hại nghiêm trọng” cho khách
hàng là để nhằm mục đích thu lợi bất chính.
Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối chiếm
đoạt tài sản diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong đó bao gồm cả lĩnh vực mua bán hàng hóa.
Còn ở tội lừa dối khách hàng, hành vi gian dối chỉ có thể diễn ra trong phạm vi hoạt động
mua bán hàng hóa, thể hiện ở việc cân, đong, đo, đếm thiếu, tính gian, đánh tráo loại
hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng.
24
Ngoài ra, xuất phát từ sự khác nhau về lĩnh vực phạm tội mà tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và tội lừa dối khách hàng còn có thể được phân biệt bằng dấu hiệu về khách thể và
chủ thể của tội phạm, cụ thể như sau:
Về khách thể, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại trực tiếp đến quan hệ sở hữu
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, còn tội lừa dối khách hàng xâm phạm đến hoạt động
đúng đắn trong thương mại và lưu thông hàng hóa, qua đó xâm phạm đến trật tự quản lý
kinh tế nói chung.
Về chủ thể, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, còn chủ thể
của tội lừa dối khách hàng là chủ thể đặc biệt với dấu hiệu đặc biệt về nghề nghiệp của
người phạm tội – người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu và khái niệm
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự, tác giả đã đưa ra khái niệm
cụ thể về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phân tích dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, đồng thời phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm
khác, cho thấy quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng được bổ sung và dần
hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này
trong từng giai đoạn cụ thể. Việc nghiên cứu những nội dung trên nhằm khái quát chung
về dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phân biệt rõ tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với các tội phạm khác trong pháp luật hình sự, góp phần xây dựng cơ sở lý
luận và cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong các
chương tiếp theo của luận văn.
25
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT
XỬ TẠI TỈNH BẮC GIANG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.1.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng BLHS năm 1985 vẫn bộc lộ nhiều bất
cập và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu
đấu tranh chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, BLHS năm
1999 ra đời đã nhập hai chương của BLHS năm 1985 là chương IV và chương VI thành
một chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu", trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 139.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
vẫn được mô tả là hành vi “bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản..." và có một số
nội dung mới so với quy định của BLHS năm 1985, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bị coi là tội phạm với hành vi lừa đảo chỉ bị xử phạt vi phạm hành
chính. Theo quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999 thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới coi là tội phạm. Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS số 37/2009/QH12 đã nâng giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ mức
500.000đồng lên mức 2.000.000đồng để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.
Thứ hai, Quy định các tình tiết định khung hình phạt đã cụ thể hơn so với BLHS
năm 1985, bỏ những tình tiết không phù hợp với lý luận và thực tiễn xét xử như “phạm
tội có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 thì thuộc trường hợp ở khoản 3, có nhiều tình
tiết quy định ở khoản 3 thì thuộc trường hợp quy định ở khoản 4”.
26
Thứ ba, Bổ sung thêm hình phạt chính là hình phạt cải tạo không giam giữ đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hình phạt bổ sung của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
quy định ngay trong điều luật (khoản 3 Điều 139).
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với việc quy định một tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (Điều 139) đã khắc phục được hạn chế của BLHS năm 1985, vì vậy,
mọi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới bất cứ hình thức nào cũng đều bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh và trong cùng một phạm vi chế tài của điều luật
(Điều 139). BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thể hiện sự đối xử bình đẳng
của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với mọi thành phần kinh tế
thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Cùng với đó, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) cũng đã quy định tương đối chặt chẽ và hoàn thiện về các dấu hiệu của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản cũng như hình phạt đối với người phạm tội, nhằm tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho việc áp dụng trên thực tế.
2.1.2. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015
Việc Hiến pháp năm 2013 ra đời đã ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con
người, quyền công dân nên đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ
thống pháp luật, trong đó có BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). BLHS năm
2015 được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLHS năm 1999; kế thừa và
phát triển các quy định còn phù hợp và bổ sung những quy định mới để giải quyết những
vướng mắc và bất cập đang đặt ra trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 thuộc Chương XVI -
Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 2015, nhìn chung, các dấu hiệu của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục được quy định cơ bản gần
giống các quy định của BLHS năm 1999. Theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015,
người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ
2.000.000 đồng trở lên thì bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nếu tài sản bị
chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi thuộc
trường hợp sau:
27
Thứ nhất, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm. Trường hợp này tương tự như quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, người phạm tội đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại
các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm. Trường hợp này Bộ luật 2015 đã quy định ngay trong Bộ luật
dưới dạng liệt kê các tội cụ thể để xem xét trường hợp người phạm tội “đã bị kết án”
thay vì quy định một cách khái quát “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” như BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và sau đó hướng dẫn “tội chiếm đoạt tài sản” là
những tội nào trong Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BCABTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV
“Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999.
Thứ ba, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; hoặc tài sản là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia
đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với
người bị hại. Đây là hai trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015 để đáp
ứng yêu cầu phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tăng cường
bảo vệ quyền tài sản, đặc biệt là đối với các tài sản có giá trị về tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, việc xác định một tài sản được coi là có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần rất
trừu tượng, không có chuẩn mực thống nhất và chủ yếu phụ thuộc vào thái độ chủ quan
của người bị hại.
BLHS năm 2015 bỏ các tình tiết định khung có tính chất định tính như “gây hậu
quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng” của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thay thế bằng các tình tiết
định khung tăng nặng mang tính định lượng như “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các
điểm a, b, c và đ khoản 1 điều này...”. Việc thay thế các tình tiết định tính bằng các tình
28
tiết định lượng dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt tuy đảm bảo tính khách quan và
thống nhất cho BLHS nhưng cũng thể hiện những bất cập nhất định.
2.2. Quy định định khung hình phạt và hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015
2.2.1. Quy định định khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
BLHS năm 2015 đã bổ sung các dấu hiệu định khung hình phạt cho tội lừa đảo
chiếm đoạt mà trước đó nhiều năm trong tất cả các BLHS chưa bao giờ thể hiện. Các dấu
hiệu định khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1,
2, 3, 4 Điều 174 BLHS. Những dấu hiệu định khung hình phạt này phản ánh mức độ
nguy hiểm cho xã hội đã tăng lên một cách đáng kể của tội phạm so với xã hội trước đây
và các trường hợp phạm tội bình thường. Sau đây tác giả sẽ chỉ ra những điểm mới đó:
2.2.1.1. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Hiện nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào mới về tình tiết này mà chỉ có hướng
dẫn tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC, điều này dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực
tiễn. Tác giả căn cứ vào hướng dẫn trước đây, cũng như quy định của luật và thực tiễn áp
dụng, thi hành để trao đổi về vấn đề này.
Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội có thể là các hành
vi như: làm ảnh hưởng, đe dọa, gây hoang mang, lo sợ trong một số gia đình trong một
khu dân cư; làm ảnh hưởng đến tình hình quản lý trật tự, trị an hay làm xáo trộn trật tự tại
nơi công cộng… thì có thể đã được xem là ảnh hưởng xấu. Như vậy, “Gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là nói đến hành vi của một cá nhân, pháp nhân
làm ảnh hưởng, đe dọa, hoặc phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội, khiến cho một bộ phận
không nhỏ người dân, một khu dân cư hoặc một cộng đồng dân cư hoang mang, lo sợ,
phẫn nộ hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; làm
ảnh hưởng, đe dọa hoặc làm phá vỡ quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc
xâm phạm đến những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức được mọi người tôn trọng, thừa
nhận và tuân thủ.
29
Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng tình tiết này sẽ gặp những khó khăn nhất định vì
chưa có hướng dẫn cụ thể, dễ có cách hiểu và nhận thức, áp dụng thiếu thống nhất vì đây
là tình tiết mà hậu quả mang tính phi vật chất. Theo tác giả thì khi đánh giá tính chất,
mức độ của hành vi để xác định “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội” phải xem xét nguyên nhân, tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội đó có xâm phạm
nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương xã hội, sự mất ổn định trong đời sống của người dân,
có gây tâm lý hoang mang, lo sợ, phẫn nộ trong một phạm vi khu dân cư, vụ việc diễn ra
có thường xuyên, liên tục, ảnh hưởng như thế nào, có gây khó khăn cho công tác quản lý
hành chính nhà nước của chính quyền địa phương hay không… để có căn cứ xử lý đúng
đắn, cụ thể.
Tác giả cũng đồng tình với quan điểm để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong
thực tiễn thì cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng
tình tiết định khung cơ bản “Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn
xã hội” đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm c khoản 1 Điều 174); … theo hướng
căn cứ vào nguyên nhân, tính chất và hậu quả của hành vi xác định mức độ, phạm vi ảnh
hưởng đối với tình hình an ninh, trật tự, an toàn, xã hội; đồng thời, quy định cở sở đánh
giá (xảy ra bao nhiêu hành vi, trong khoảng thời gian bao nhiêu, ảnh hưởng như thế nào,
tới đối tượng nào…?) và cơ quan đánh giá (Công an xã, phường, thị trấn hay UNBD các
cấp) để làm căn cứ xử lý.
2.2.1.2. Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ
BLHS quy định trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000đồng
mà thuộc trường hợp là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ” thì vẫn bị xử lý hình sự. Việc bổ sung tình tiết định khung cơ bản này là phù hợp với
thực tế vì từ công tác tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm cho thấy, có những vụ việc tài
sản bị lừa đảo chiếm đoạt có giá trị nhỏ như một chiếc xe đẩy bán bánh mì, xe đạp hoặc
một chiếc xe môtô cũ nhưng lại là phương tiện kiếm sống chính của bản thân người bị hại
cũng như chính gia đình họ. Ngoài những tài sản bị mất đó thì họ không còn tài sản nào
khác có giá trị cao hơn và có tác dụng giúp họ kiếm sống. Đối với những trường hợp này,
30
tài sản định giá thường dưới 2.000.000đồng nên phải xử lý hành chính, và như vậy không
có tác dụng giáo dục, răn đe người vi phạm. Chính vì vậy, việc bổ sung quy định này là
cần thiết giúp xử lý các trường hợp như trên thấu tình, đạt lý trong điều kiện kinh tế của
một bộ phận nhân dân ta ở các vùng nông thôn, miền núi đang còn gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn, thu nhập bình quân đầu người còn thấp.
Tuy nhiên, vấn đề khó là cơ sở nào để xác định tài sản bị trộm cắp là công cụ
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Không thể chỉ dựa trên lời
khai của bị hại hay nhận định chủ quan của Điều tra viên để kết luận mà cần phải có cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xác định và cần có các thủ tục pháp lý cần thiết để xác định
tính chất tài sản sản. Đây là điều mà quy phạm pháp luật cần tính đến để xử lý đúng đối
tượng vi phạm, tránh xảy ra tình trạng oan sai.
Để việc áp dụng các quy định này được chính xác, cần phải quy định chi tiết cụ thể
hơn các nội dung như “phương tiện kiếm sống chính” là các cơ sở để xác định tính chất
của tài sản lừa đảo chiếm đoạt để khi áp dụng có thể kết luận, định tội một cách khách
quan, chính xác và toàn diện.
2.2.1.3. Phạm tội có tổ chức
“Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS). Giữa những người đồng phạm
vừa có sự liên kết chặt chẽ vừa có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ
rệt, cụ thể. Trường hợp phạm tội có tổ chức thường là nhóm phạm tội được hình thành
với phương hướng hoạt động có tính lâu dài, bền vững với quan hệ chỉ huy – phục tùng
và có sự chuẩn bị chu đáo đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện cũng như cho việc che
giấu tội phạm bằng các phương pháp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Với những đặc điểm
như vậy, đồng phạm có tổ chức có khả năng phạm tội liên tục, nhiều lần và gây ra những
hậu quả rất nguy hiểm cho xã hội.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có tổ chức là trường hợp đồng phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sự cấu kết
chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người
31
thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có tổ chức đều có đủ những người giữ vai trò như trên mà tùy từng
trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục
và người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là
phạm tội có tổ chức.
Người thực hành trong trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức phải là
người trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi
khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi là hành vi lừa dối và
hành vi chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người thực hành phải tự mình thực hiện hành
vi được mô tả trong CTTP, tức là thực hiện đồng thời cả hành vi lừa dối và hành vi chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp có nhiều người cũng tự mình thực hiện hành vi
được mô tả trong CTTP (tức là có nhiều người đồng thực hành) thì không đòi hỏi mỗi
người phải thực hiện trọn vẹn hành vị được mô tả trong CTTP mà có thể mỗi người chỉ
thực hiện một phần hành vi đó nhưng đòi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có
đủ dấu hiệu của CTTP, tức là có người thực hành thực hiện hành vi lừa dối và người thực
hành khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và hành vi tổng hợp của những người
đồng thực hành có đủ dấu hiệu hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: A, B, C và D bàn bạc làm giả giấy chứng nhận kết quả khám, xét nghiệm của
bệnh viện để lừa những người là cựu chiến binh đang có nhu cầu làm nhanh bệnh án về
bệnh đái tháo đường tuyp 2 để được hưởng chế độ của Nhà nước về chất độc mầu da
cam. A là chủ mưu, rủ rê, lập ra các kế hoạch và phân công B, C và D thực hiện nhiệm
vụ. A sẽ là người quảng cáo mình có thể làm nhanh bệnh án và cùng B là người tìm kiếm,
tiếp cận những người có nhu cầu làm nhanh bệnh án. A sẽ thu tiền phí làm nhanh còn B
sẽ là người đưa những người có nhu cầu đi bệnh viện khám tại bệnh viện. C là người sẽ
đón các bệnh nhân đi khám tại cổng bệnh viện để đưa đi khám và làm các xét nghiệm rồi
thu lại các giấy hẹn để nộp cho D. D sẽ là người tổng hợp và viết kết quả giả vào bệnh án
giả mà A đưa cho sau đó chuyển lại cho A để a trả kết quả cho những người đi khám và
thu tiền của những người mà A chưa thu hết. Với hành vi như trên A, B, C và D đã lừa
32
của 223 người với số tiền 2.350.000.000đồng trong một thời gian dài mới bị phát hiện.
Trong tình huống này là trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức vì có sự câu kết
chặt chẽ và phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các đồng phạm, theo đó A là người đứng
đầu, tổ chức, phân công nhiệm vụ còn B, C và D là đồng phạm giúp sức tích cực. Trong
tình huống này A là người thực hiện hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt, B là người
chỉ thực hiện hành vi lừa dối, D là người thực hiện một phần hành vi chiếm đoạt. Mặc dù
hành vi của C không thể hiện rõ hành vi lừa dối nhưng hành vi của C đã thể hiện thực
hành một phần hành vi lừa dối (đưa người đi khám như được phân công trong kế hoạch).
Các hành vi tổng hợp của A, B, C và D có đủ dấu hiệu hành vi khách quan của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản – hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoại gian dối. Nếu mất đi
một trong cách hành vi của A, B, C và D thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ không
hoàn thành.
2.2.1.4. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
“Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp liên tiếp phạm tội và hành vi
phạm tội trở thành nguồn thu nhập chính cho người phạm tội”8. Theo mục 5 Nghị quyết
số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự và tình tiết định khung tăng nặng ở một số tội phạm thì chỉ áp dụng tình tiết này
khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Người phạm tội cố ý phạm tội từ năm lần trở lên cùng một tội phạm không phân
biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích. Các lần
phạm tội của trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp phải đều cùng về một tội
phạm; nếu phạm tội nhiều lần nhưng về các tội phạm khác nhau thì cũng không coi là
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp mà thuộc trường hợp phạm nhiều tội.
Ví dụ: A đã bốn lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị bắt, trong
8 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.282]
quá trình điều tra phát hiện trước đó A còn một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản
33
chưa bị xử lý về hình sự. Trong tình huống này, hành vi lừa đảo chiếm đoạt của A không
bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” do số lần phạm tội này chưa
đủ năm lần trở lên theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP mà chỉ được coi là
trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự “phạm tội nhiều lần”9. Hành vi trộm cắp tài sản của A không được coi là lần thứ năm
phạm tội khi xem xét áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” vì hành vi
này là hành vi phạm một tội khác, đó là tội trộm cắp tài sản. Đây là trường hợp phạm
nhiều tội theo Điều 55, theo đó A phải chịu trách nhiệm hình sự về cả hai tội là tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội trộm cắp tài sản (Điều 173).
- Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của
việc phạm tội làm nguồn sống chính, Thông thường trong trường hợp phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp, người phạm tội không có nghề nghiệp để có thu nhập hợp pháp đủ
để nuôi sống bản thân mà lấy việc phạm tội làm nghề sinh sống để thu về những lợi ích
vật chất bất chính làm nguồn thu nhập chính.
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm
tội đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm lần trở lên và lấy tài sản chiếm
đoạt được làm nguồn thu nhập chính. Ví dụ: A là một thanh niên có lối sống buông thả,
không nghề nghiệp, các chi phí phục vụ sinh hoạt cá nhân A thường dùng tiền do các
hành vi phạm tội của mình mà có chi trả. Trong khoảng một năm, A liên tiếp thực hiện
tám vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người quen, bạn bè (tài sản chiếm đoạt được trong
mỗi vụ đều có giá trị trên 2.000.000 đồng). Thấy mình có thể lừa được nhiều người và
kiếm được nhiều tiền từ hành vi đó nên A xác định đó là nguồn thu nhập chính để phục
vụ chi tiêu cho bản thân. Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt "có tính chất
chuyên nghiệp" tại điểm b khoản 2 Điều 174 BLHS.
Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị
9 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.283]
kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị
34
áp dụng cả ba tỉnh tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” hoặc (“tái phạm nguy hiểm”)
và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, Ví dụ: H đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 BLHS nhưng thời gian tại ngoại chờ thi hành án H lại
liên tiếp thực hiện bốn vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lấy tài sản chiếm đoạt được làm
nguồn thu nhập chính. Trong tình huống này, H phải bị áp dụng cả ba tình tiết: phạm tội
“có tính chất chuyên nghiệp” (điểm b khoản 2 Điều 174 BLHS), “phạm tội 02 lần trở
lên” và “tái phạm” (điểm g, h Khoản 1 Điều 52 BLHS).
Nếu người phạm tội thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhiều lần nhưng
không lấy việc phạm tội làm phương tiện sinh sống chính thì không coi là lừa đảo tài sản
có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần nếu những lần phạm
tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc tái phạm, tái phạm nguy hiểm nếu có
lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới và bị áp dụng tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm”
quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS khi quyết định hình phạt.
2.2.1.5 Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới 200.000.000đồng
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt càng lớn thì hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản càng nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, nhà làm luật quy định những mức giá trị
tài sản bị chiếm đoạt khác nhau làm tình tiết định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản tại khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS, tương ứng như sau: từ 50.000.000 đồng
đến dưới 200.000.000 đồng; từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng và từ
500.000.000 đồng trở lên.
Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội
và định khung hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Căn cứ vào hướng dẫn tại
Chương II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì:
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của
35
họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
đó.
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản
bị chiếm đoạt (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị chiếm
đoạt tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt để xem xét việc truy cứu trách
nhiệm hình sự. Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt không còn nữa, Cơ quan điều tra
cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì, nhãn,
mác của tài sản đó như thế nào, giá trị tài sản đó theo thời giá thực tế tại địa phương vào
thời điểm tài sản bị chiếm đoạt là bao nhiêu; tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm...
để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Trong trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt đều dưới 2.000.000 đồng và không thuộc một
trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng,
đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích), đồng thời trong các
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết
thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt của các lần bằng hoặc
trên 2.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
nếu các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau
về mặt thời gian, có tính chất chuyên nghiệp và do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần.
2.2.1.6. Tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì những trường hợp sau đây được coi là
tái phạm nguy hiểm
- Người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
36
- Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm
tội do cố ý.
Đối với trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, các lần phạm tội không đòi hỏi phải
cùng về một tội phạm, tuy nhiên nếu cả hai lần phạm tội trở lên cùng về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và chưa bị xét xử thì người phạm tội còn bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần”. Ví dụ: B đã tái phạm (năm 2013 B bị kết án
20 tháng tù về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà năm 2016 B lại tiếp tục
phạm tội cố ý gây thương tích và bị kết án 36 tháng tù) chưa được xóa án tích mà lại liên
tiếp thực hiện ba vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tình huống này, B đã tái phạm
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) là trường
hợp “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 BLHS. Hơn nữa,
B lại thực hiện liên tiếp ba vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên ngoài tình tiết định
khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”, B còn bị áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhiều
lần” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52
BLHS.
2.2.1.7. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là trường
hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức làm
phương tiện để thực hiện tội phạm.
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công
vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có
chức vụ nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được tham
gia thực hiện công vụ nhất định.
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là trường hợp người phạm tội núp dưới danh
nghĩa của cơ quan, tổ chức mình là thành viên để thực hiện tội phạm. Thông thường
37
người phạm tội trong trường hợp này bằng việc sử dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức của
mình để ký kết các hợp đồng kinh tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Ví dụ: A là cán bộ văn phòng tại cơ quan X, A được giao mua bán hàng hóa đối với
các mặt hàng như xăng dầu, bàn ghế,…, việc mua bán văn phòng phẩm sẽ do B cùng bộ
phận văn phòng thực hiện. Tuy nhiên A đã nói dối rằng mình được lãnh đạo giao cho
mua bán văn phòng phẩm của cơ quan A đã yêu cầu D phải giao hàng cho mình. Vì tin
tưởng và nghĩ A cũng làm bộ phận văn phòng nên D đã giao hàng cho A. Sau khi nhận
hàng A đã đem bán lô hàng đó được 30.000.000 đồng và bỏ trốn. D không nhận được tiền
thanh toán nên đã tố cáo hành vi của A.
2.2.1.8. Dùng thủ đoạn xảo quyệt
Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội sử dụng những mánh khóe,
cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó biết trước để đề
phòng. Bất kể một hành vi lừa dối nào cũng đều sử dụng những cách thức khiến người bị
hại tin tưởng mà giao nhầm hoặc nhận nhầm tài sản, qua đó người phạm tội chiếm đoạt
được tài sản một cách thuận lợi. Tuy nhiên mức độ xảo quyệt của thủ đoạn gian dối ở mỗi
trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt là khác nhau tùy thuộc vào khả năng, trình độ
của người phạm tội cũng như sức thuyết phục của thủ đoạn gian dối đó đối với người bị
hại. Những trường hợp phạm tội với thủ đoạn gian dối tinh vi, xảo quyệt hơn hẳn các
trường hợp phạm tội thông thường cần phải được nghiêm trị, vì vậy, nhà làm luật quy
định tình tiết định khung tăng nặng “dùng thủ đoạn xảo quyệt” để có đường lối xử lý
nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp phạm tội này.
Ví dụ: A mua được một chiếc ô tô mang biển số nước Lào được cấp giấy phép lưu
thông tại Việt Nam. Do giá xe ở Việt Nam đắt hơn ở Lào nhiều lần nên A đã làm giả hồ
sơ và tất cả các loại giấy tờ nhằm hợp pháp hóa chiếc xe với mục đích bán kiếm lời. Sau
khi có làm đủ các giấy tờ A đã đem bán chiếc xe cho B với giá 500.000.000 đồng.
2.2.1.9 Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh
Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản,
mội trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm, bão, áp thấp nhiệt
38
đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún do
mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá,
sương muối, động đất, sóng thần và các loại thiên tai khác.
Dịch bệnh là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số lượng lớn
những người bị nhiễm trong một cồng đồng hoặc một khu vực trong vòng một thời gian
ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.
Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để phạm tội là trường hợp người phạm tội
đã lợi dụng trở ngại do thiên tai hoặc lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh gây ra để
thực hiện tội phạm.
Khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh là lúc mọi nguồn lực của xã hội cũng như cá nhân
đều cùng chung sức để phòng, chống lại dịch bệnh và thiên tai đó nhằm bảo vệ con người
và tài sản tránh được những tổn thất không đáng có, lúc này là lúc các xã hội và cá nhân
đều đề phòng tội phạm ở mức thấp nhất. Tội phạm của tội này đã lợi dụng tình hình đó
thực hiện hành vi phạm tội một cách dễ dàng. Chính vì vậy để phòng ngừa cũng như răn
đe BLHS đã quy định tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” không chỉ coi là tình tiết
tặng nặng trách nhiệm hình sự mà còn quy định là tình tiết định khung tăng nặng trong
khung hình phạt tại khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015.
Ví dụ: Bà V đã mua các loại dụng cụ gồm bình đá, kim tiêm để bơm nước cất,
kháng sinh vào bên trong. Bà V tự nhận là nhân viên y tế dự phòng và có vắc xin ngừa
bệnh Covid-19. Do tình hình dịch Covid-19 bùng phát mạnh, người dân rất hoang mang,
bà V giới thiệu có vắc xin phòng bệnh Covid-19, mỗi mũi tiêm vắc xin Covid-19 bà V
thu 2.000.000 đồng/mũi. Bà V còn lấy phôi của một phiếu chỉ định tiêm ngừa thật đem
photocopy ra thành các phiếu giả để phát cho bị hại sau mỗi lần tiêm để tạo lòng tin.
Nhiều người dân địa phương do thiếu hiểu biết và lo sợ mình và gia đình bị nhiễm bệnh
nên đã đến nhà hoặc thuê bà V đến nhà riêng của mình để tiêm phòng. Với hành vi này,
bà V đã chiếm đoạt được số tiền là 48.000.000đồng.
2.2.1.10 Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp
39
Chiến tranh là hiện tượng chính trị – xã hội có tính chất lịch sử, sự tiếp tục
của chính trị bằng bạo lực giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa các nước
hay liên minh các nước với nhau. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có tổ
chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình thức đấu tranh khác
(chính trị, kinh tế, ngoại giao,...)
Tình trạng khẩn cấp là một tuyên bố của chính phủ mà theo đó có thể tạm ngưng
một số chức năng bình thường của chính phủ và có thể cảnh báo công dân của mình thay
đổi các hành vi bình thường hoặc có thể ra lệnh cho các cơ quan của chính phủ thi hành
các kế hoạch sẵn sàng cho tình trạng khẩn cấp. Nó cũng được sử dụng làm một cơ sở hợp
lý để tạm ngừng các quyền tự do dân sự. Các tuyên bố tình trạng khẩn cấp thường được
ban bố trong thời kỳ có thiên tai, trong các giai đoạn bạo loạn dân sự, hoặc sau một
vụ tuyên chiến, chuẩn bị có dấu hiệu xảy ra một cuộc chiến tranh.
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội, xét về mặt đạo
đức cần phải lên án, vì trong hoàn cảnh đó mọi người tập trung vào việc khắc phục hậu
quả của chiến tranh, cứu chữa người bị nạn nhưng trong tình trạng khẩn cấp thì người
phạm tội lại lợi dụng để thực hiện tội phạm chứng tỏ động cơ, mục đích xấu, cần phải
nghiêm trị. Chính vì vậy, tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”
không chỉ coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà còn được quy định là tình tiết
định khung tăng nặng trong khung hình phạt nặng nhất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015.
Ví dụ: Nước ta và một nước giáp biên giới có xung đột vũ trang và xung đột này
kéo dài nhiều tháng và diễn biến rất phức tạp. Do diễn biến phức tạp, mọi ngả đường di
chuyển đến các địa phương giáp biên giới đều bị địch tấn công rất dữ dội nên việc vận
chuyển, tiếp tế lương thực đến những tỉnh này gặp rất nhiều khó khăn. Khiến cho tình
trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm tăng mạnh, các điểm bán hàng lương thực, thực
phẩm của Nhà nước trở nên quá tải, nhiều người dân không thể mua được lương thực,
thực phẩm phục vụ cuộc sống. A là công dân của tỉnh có biên giới giáp với nước có xung
đột vũ trang. Nhận thấy nhu cầu mua tích trữ gạo tại địa phương tăng cao, A tự giới thiệu
40
mình có thể mua gạo với số lượng lớn hơn so với số lượng Nhà nước bán cho dân. Có
nhiều người tin tưởng A nên đã tìm đến A nhờ mua gạo. Tuy nhiên sau khi nhận tiền của
người dân A đã bỏ trốn khỏi địa phương. Theo thống kê A đã chiếm đoạt của 18 người
dân địa phương với tổng số tiền là 180.000.000 đồng. Trong tình huống này hành vi lừa
dối là “nói dối là có thể mua gạo cho người dân nhiều hơn số lượng Nhà nước bán cho”
và hành vi chiếm đoạt là chiếm đoạt số tiền 180.000.000 đồng. Với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản này thì A chỉ bị truy tố theo khoản 2 Điều 174. Tuy nhiên trong trường
hợp này chúng ta phải xem xét đến bối cảnh thực hiện hành vi của A là trong bối cảnh
nào. Ở đây bối cảnh thực hiện hành vi của A là bối cảnh nước ta có xung đột vũ trang với
nước láng giềng và các tỉnh giáp biên giới đang gồng mình chiến đấu bảo vệ lãnh thổ.
Tuy nhiên A là công dân địa phương không góp sức bảo vệ đất nước và khắc phục tình
trạng thiếu lương thực tại địa phương mà lại lợi dụng tình hình chiến tranh để chiếm đoạt
tài sản của người dân. Tuy số tiền chiếm đoạt không lớn, chỉ nằm trong khung truy tố tại
khoản 2 Điều 174 nhưng hành vi này lại là tình tiết định khung tại điểm c khoản 4 Điều
174 là “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” với khung hình phạt rất
nặng. Với quy định này các nhà làm luật thể hiện sự răn đe rất cứng rắn của mình đối với
người phạm tội hoặc có ý định phạm tội trong trường hợp này giúp phần ngăn ngừa loại
tội phạm này diễn ra trong hoàn cảnh đó.
2.2.1.11. Hậu quả của tội phạm
Ngoài những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản nêu trên còn có những hậu
quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trong các trường hợp
này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây
ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng BLHS năm 2015 đã bỏ
các tình tiết định khung hình phạt “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm
trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đồng
thời bổ sung thêm các tình tiết định khung tăng nặng như “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”,
41
“lợi dụng hoản cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” và một số tình tiết định khung
tăng nặng dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Việc thay thế các tình tiết định tính "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất
nghiêm trọng" gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" bằng các tình tiết định lượng như
“chiếm đoại tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong các tường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”. Tuy đảm
bảo tính khách quan và thông nhất cho việc áp dụng BLHS nhưng cũng thể hiện những
bất cập nhất định khi mà tình tiết định lượng đó có thể phù hợp tại thời điểm ban hành
BLLIS nhưng sau một thời gian áp dụng có thể sẽ không còn phù hợp nữa và cần thiết
phải sửa đổi, bổ sung khiến cho BLHS không giữ được tính ổn định và hiệu lực lâu dài.
Do đó, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: “Việc định lượng để chỉ dẫn áp dụng các
khung hình phạt tăng nặng chỉ nên tồn tại trong các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS
và có khả năng dễ dàng thay đổi để đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm”.
2.2.2. Hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại Điều 30 BLHS thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do Toà án quyết định áp dụng đối với
người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người đó.
Hình phạt được chia thành hai nhóm là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong
đó hình phạt chính được tuyên độc lập và mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt
chính; hình phạt bổ sung không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm với hình phạt
chính và có thể tuyên một, nhiều hoặc không tuyên hình phạt bổ sung đối với mỗi tội
phạm.
Hình phạt chính của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1, 2, 3
và 4 còn hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS.
2.2.2.1. Hình phạt chính
Hình phạt chính của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hình phạt cải tạo không
giam giữ, tù có thời hạn và tù chung thân.
42
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm được
áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, có nơi làm việc
ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng khi xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm
tội khỏi xã hội (Điều 36 BLHS).
Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 BLHS, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi
thường trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội với thời hạn
cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm. Tòa án giao người bị phạt cải tạo
không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc giao cho ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục và gia đình người bị kết án
cũng có trách nhiệm phối hợp với những cơ quan, tổ chức trên để giám sát, giáo dục
người đó trong thời gian cải tạo không gian giữ. Bên cạnh việc phải thực hiện một số
nghĩa vụ nhất định theo các quy định về cải tạo không giam giữ, hàng tháng người bị kết
án còn bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% đề sung quỹ nhà nước, trừ trường
hợp đang thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc được Tòa án miễn việc khấu trừ thu nhập
trong bản án của Tòa án khi có lý do chính đáng. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có
thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Không khấu
trừ thu nhập đối với người chưa thanh niên phạm tội (tức là người phạm tội chưa đủ 18
tuổi). BLHS 2015 còn có điểm mới quy định về xử phạt cải tạo không giam giữ đối với
người không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này
thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo
không giam giữ. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm
nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Điểm mới trong hình thức xử
phạt cải tạo không giam giữ này cho thấy sự tiếp thu, cập nhật theo xu hướng xã hội và
những nước phát triển trên thế giới.
Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội tại cơ sở giam giữ
trong một thời hạn nhất định để học tập, lao động, cải tạo. Tù có thời hạn là hình phạt
43
nghiêm khắc hơn so với cải tạo không giam giữ, nhằm hạn chế sự tự do của người bị kết
án và buộc họ phải cải tạo trong các cơ sở giam giữ nhất định. Điều 174 BLHS quy định
hình phạt tù có thời hạn với các khung hình phạt khác nhau tương ứng với thực độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi lừa đảo chiều đoạt tài sản, bao gồm: Từ 06 tháng đển 03 năm
tù (khoản 1); từ 02 năm đến 07 năm tù (khoản 2); từ 07 đến 15 năm tù (khoản 3) và từ 12
năm đến 20 năm tù (khoản 4).
Tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn được áp dụng đối với người phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Tù
chung thân là hình phạt nghiêm khắc hơn so với hình phạt tù có thời hạn, thể hiện ở chỗ
tù chung thân có khả năng tước tự do của người bị kết án đến hết đời. Đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, hình phạt tù chung thân được quy định tại khoản 4 Điều 174 BLHS, là
trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 39 và khoản 5 Điều 91
BLHS quy định không xử phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi. Theo đó, người
chưa đủ 18 tuổi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 174 chỉ có thể bị
áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất được áp dụng cũng không
quá 18 năm tù nếu là người từ đủ 16 tuổi đến duới 18 tuổi.
BLHS năm 2015 không quy định hình phạt chính với người phạm tội từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Có nghĩa là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Qua đó thể hiện tính nhân văn của BLHS năm 2015 và thể hiện việc đánh giá khách quan
đối với năng lực trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2.2.2.2. Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của nhà nước nhằm mục đích giáo dục,
cải tạo, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới, được áp dụng cùng với hình phạt chính
nhằm tăng cao hiệu quả của hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS thì ngoài hình phạt chính, người phạm
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
44
đồng; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất định để sung
quỹ nhà nước, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm
trọng của tôi đã phạm, tình hình tài sản, hoàn cảnh kinh tế của người phạm tội và sự biến
động về giá cả để xem xét có hay không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và mức
phạt tiền cụ thể đối với người phạm tội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hình phạt bổ
sung là phạt tiền với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, theo đó, mức
phạt tiền tối đa có thể áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
100.000.000 đồng, mức phạt tiền tối thiếu có thể dưới 10.000.000 đồng nếu người phạm
tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng không được
dưới 1.000.000 đồng (khoản 3 Điều 35 BLHS).
Hình phạt bổ sung thứ hai có thể áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một số công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm chức
vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì họ có thể lại có điều kiện phạm tội mới. Thông
thường, hình phạt bổ sung này được áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng
danh nghĩa cơ quan, tổ chức theo điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS vì căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhân thân người phạm
tội xét thấy nếu để họ tiếp tục giữ chức vụ, quyền hạn khác tiếp tục làm việc trong công
ty, tổ chức đó thì họ vẫn có điều kiện để có thể phạm tội mới.
Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản là hình phạt bổ sung thứ ba có thể áp dụng
đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
nhằm tước một phần hoặc toàn bộ tài sản của người bị kết án để sung quỹ nhà nước. Tuy
nhiên, hình phạt bổ sung tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản chỉ áp dụng đối với
45
trường hợp phạm tội nghiệm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS, Trường hợp tịch thu tàn bộ
tài sản của người bị kết án vẫn phải đảm bảo cho người bị kết án và gia đình họ có những
phương tiện sinh hoạt tối thiểu để duy trì điều kiện sinh sống cho gia đình và bản thân
người bị kết án sau khi chấp hành án (Điều 45 BLHS).
2.3. Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
2.3.1. Tình hình xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2015 – 2019
Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ với diện tích
3.895,5,4 km², dân số 1.803.950 người trong đó có 06 dân tộc nhưng người Kinh chiếm
đa số (88,1%). Hiện nay Bắc Giang là trung tâm kinh tế lớn thứ hai của vùng Trung du và
miền núi phía Bắc với GDP bình quân đầu người đạt hơn 60 triệu đồng (tương ứng với
2.620 USD). Với vị trí địa lý nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) -
Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất
thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực. Do đó
Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ
tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách
thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch. Dưới sự lãnh đạo của
Chính quyền địa phương nền kinh tế tỉnh Bắc Giang đã có những bước chuyển biến mạnh
mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Song song
với sự phát triển của kinh tế thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường như sự phân
hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội... cũng khiến cho tình hình tội phạm nói chung và các tội
phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng phổ biến và đa dạng, gây thiệt hại nghiêm
trọng về tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) là một trong các tội xâm phạm sở
hữu có diễn biến ngày càng phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực
ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, vay mượn... với thủ đoạn phạm tội ngày cảng tinh
46
vi, xảo quyệt. Trong các năm 2017, 2018 tỉnh Bắc Giang đã đưa ra xét xử nhiều vụ án về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất rất nghiêm trọng đối với các bị cáo Nguyễn Thị
Thúy, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Thị Kha, Hoàng Vũ Tăng, Đặng Thị Việt Hà, …
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo đã chiếm đoạt lượng tài sản có giá trị
rất lớn so với kinh tế tại địa phương, nó gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho người
dân, các tổ chức và cho toàn xã hội. Điều này cho thấy tình hình tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Giang diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải nghiên cứu và đề xuất
những biện pháp hiệu quả nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong tình hình mới.
Trong những năm gần đây, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, mỗi năm xét xử
sơ thẩm hàng chục vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và ngày càng có xu hướng tăng
về cả số vụ án, số bị cáo, lẫn mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Bảng 1: Số vụ, số bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị đưa ra xét xử sơ thẩm tại
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 – 2019
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Giai đoạn
2015 - 2019 Số vụ Số bị cáo
Tổng 220 297
TB/ năm 44 59,4
(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Giang)
Bảng 2: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2015 đến năm 2019
Tội lừa đảo Tỉ lệ % tăng, giảm Năm chiếm đoạt tài sản
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo 2015 58=100% 69=100% 0,0 0,0
54 94 93,1% (-6,9%) 136,2% (+36,2%) 2016
34 44 58,6% (-41,4%) 63,8% (- 36,2%) 2017
47
2018 21 25 36,2% (-63,8%) 36,2% (- 63,8%)
2019 53 65 91,3% (-8,7%) 94,2% (-5,8%)
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Giang)
Từ bảng 2 ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2015 đến năm 2019
160
140
136,2
120
94,2
100
100 100
93,1
91,3
80
Số vụ
Số bị cáo
60
63,8 58,6
40
36,2 36,2
20
0
2015
2016
2017
2018
2019
Trong giai đoạn 2015 – 2019, tòa án đã xét xử sơ thẩm 220 vụ đối với 297 bị cáo
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trung bình mỗi năm xét
xử sơ thẩm 44 vụ với 59 bị cáo.
Về số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Lấy số liệu năm 2015 làm gốc với 58 vụ tương
đương 100% thì năm 2016 có 54 vụ, giảm 6,9%; năm 2017 có 34 vụ, giảm 41,4%; năm
2018 có 21 vụ, giảm 63,8%, năm 2019 có 53 vụ, giảm 8,7%.
Về số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Lấy số liệu năm 2015 làm gốc với
69 bị cáo phạm tội tương đương 100% thì năm 2016 có 94 bị cáo phạm tội, tăng 36,2%;
năm 2017 có 44 bị cáo phạm tội, giảm 36,2%; năm 2018 có 25 bị cáo phạm tội, giảm
63,8%; năm 2019 có 65 bị cáo phạm tội, giảm 5,8%.
48
Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có xu hướng giảm cả về số vụ và số bị cáo, tuy nhiên
mức độ giảm có sự khác nhau nên diễn biến năm sau so với năm trước có lúc tăng, lúc
giảm nhưng đều giảm so với năm gốc. Đặc biệt trong năm 2016 số vụ lừa đảo chiếm đoạt
tài sản giảm trong khi số bị cáo phạm tội so với năm 2015 lại tăng mạnh. Năm cuối giai
đoạn (2019), tuy số vụ và số bị cáo phạm tội giảm so với năm gốc nhưng lại có chiều
hướng tăng so với năm 2018.
Bảng số 3: Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng
Loại và mức hình phạt đã được áp dụng
Cải HP tù HP tù HP tù tạo HP tù HP HP TS NPT từ 03 từ trên 07 từ trên 15 không từ trên 03 năm tù chung Tử năm trở năm đến năm đến giam đến 07 năm thân hình xuống 15 năm 20 năm giữ
297 1 100 129 52 12 3 0
100% 0,3 33,7 43,5 17,5 4 1 0
(Nguồn: Văn phòng – TAND tỉnh Bắc Giang)
49
Từ bảng số liệu, ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ: Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng
0,3
1
Cải tạo không giam giữ
4
17,5
HP tù từ 03 năm trở xuống
33,7
HP tù từ trên 03 năm đến 07 năm
HP tù từ trên 07 năm đến 15 năm
43,5
HP tù từ trên 15 năm đến 20 năm
HP chung thân
Bảng và biểu đồ trên cho thấy: Loại hình phạt được áp dụng chủ yếu cho bị cáo
phạm tội là hình phạt tù có thời hạn với tổng số 293 bị cáo phạm tội bị áp dụng, chiếm tỷ
lệ 98,7% . Trong đó, tù từ 03 năm trở xuống chiếm 33,7%, tù từ trên 03 năm đến 07 năm
chiếm tỉ lệ cao nhất là 43,5%, tù từ trên 07 năm đến 15 năm là 17,5%. Số bị cáo bị áp
dụng hình phạt tù chung thân chiếm 1%. Số bị cáo phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ chiếm 0,3%.
Tỷ lệ giải quyết án hình sự hàng năm nói chung của toàn tỉnh Bắc Giang luôn đạt
chỉ tiêu trên 90%/năm, vượt chỉ tiêu thi đua của nganh Tòa án đề ra. Tuy nhiên đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn 2015-2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
thụ lý 266 vụ nhưng chỉ giải quyết được 220 vụ, đạt tỷ lệ 82.7% thấp hơn nhiều so với chỉ
tiêu chung của ngành đề ra. Bên cạnh đó cũng là tội phạm xâm phạm sở hữu nhưng tội
trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2015-2019 thụ lý
454 vụ, giải quyết được 425 vụ đạt tỷ lệ 93,6%. Hay như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
50
đoạt tài sản thụ lý 356 vụ, giải quyết được 338 vụ đạt tỷ lệ 94,9%. Đều vượt chỉ tiêu
ngành đề ra hàng năm.
Có thể thấy rằng, trong những năm vừa qua với số lượng lớn các tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bị đưa ra xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hàng năm đã phần nào phản ánh
được hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu nói chung
và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Tuy nhiên với những số liệu nêu trên có thể
thấy trong quá trình giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế, các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp không ít những vướng mắc, bất cập
trong việc áp dụng quy định của BLHS, gây ảnh hưởng nhất định đến chất lượng xét xử
tội phạm này.
2.3.2. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.3.2.1. Việc xác định mục đích chiếm đoạt
Mục đích chiếm đoạt tài sản mặc dù không được mô tả trong CTTP của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại Điều 174 BLHS nhưng được phản ánh thông qua hành vị khách
quan của tội này, do đó, mục đích chiếm đoạt được coi là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế, có nhiều trường hợp xác định không
đúng về mục đích chiếm đoạt khi định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã
dẫn đến tình trạng oan sai, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm này.
Thứ nhất, một số trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chỉ bị coi là
tranh chấp về dân sự và ngược lại, có những vụ tranh chấp về dân sự nhưng lại bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lứa đảo chiếm đoạt tài sản, do cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án đã không xem xét đến mục đích chiếm đoạt tài sản của
người phạm tội, vụ án sau đây là một minh chứng:
Khoảng tháng 8/2015, A có trúng đấu giá 01 lô đất tại thị trấn J, huyện X, tỉnh Bắc
Giang. Sau khi trúng đấu giá A bán lô đất trên với giá 200.000.000 đồng cho B. B đặt
cọc 60.000.000 đồng và hẹn 01 tuần sau trả nốt tiền (lúc này lô đất chưa được cấp Giấy
51
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng A nói dối B là đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất rồi để dễ mua bán). Sau khi bán cho B do biến động đất tại địa phương tăng
cao. C đã đến gặp A và trả A lô đất trên giá 300.000.000 đồng nên A đã đồng ý bán cho
C nhưng hẹn sau 01 tháng nữa mới làm thủ tục sang tên được. Một tuần sau B đem số
tiền còn lại để làm hợp đồng mua bán thì A lại không đồng ý bán cho B với giá
200.000.000 đồng nữa với lý do đã bán cho C giá 300.000.000 đồng. A đề nghị trả lại B
60.000.000 đồng tiền đặt cọc nhưng B không đồng ý và yêu cầu ông A phải tiếp tục thực
hiện hợp đồng. A không đồng ý nên B đã tố cáo A lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình
đến cơ quan điều tra huyện X.
Cơ quan điều tra cho rằng lô đất A chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sự dụng
đất nên A chưa được thực hiện quyền bán tài sản theo quy định của pháp luật, A đã dùng
thủ đoạn gian dối (nói dối đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để tham gia giao
dịch và nhận tiền của B là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã khởi tố A về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS. Căn cứ vào kết luận điều tra, Viện kiểm sát
truy tố A về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 BLHS. Sau khi thụ lý
vụ án, Tòa án cho rằng sau khi nhận tiền từ B, A không có ý thức dùng hợp đồng dân sự
để chiếm đoạt tài sản của người khác nên hành vi của A không thỏa mãn CTTP quy định
tại Điều 174 BLHS nên đã ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.”
(Tại cáo trạng số 46/2015/CT-VKS ngày 25/12/2015)
Trong vụ án này, mặc dù A đã có hành vi lừa dối trong quá trình xác lập giao dịch
và ký kết hợp đồng với B và cũng đã nhận tài sản từ B, nhưng hành vi lừa dối đó không
nhằm chiếm đoạt tài sản của B mà chỉ nhằm tạo niềm tin khi thự hiện hợp đồng. Trường
hợp này chỉ là tranh chấp về dân sự, hành vi lừa dối của A chỉ vi phạm pháp luật dân sự
làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu với lỗi cố ý của A.
Vì vậy, cơ quan điều tra và viện kiểm sát kết luận A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản khi chưa xác định A có mục đích chiếm đoạt hay không là thiếu sót, dẫn đến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật khác mà không phải tội phạm.
52
Thứ hai, trường hợp xác định không đúng thời điểm người phạm tội nảy sinh mục
đích chiếm đoạt cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng định tội sai giữa tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)
như trong vụ án dưới đây.
Vào khoảng 08 giờ 5 phút ngày 21/02/2016, Nguyễn Thi V mượm chiếc xe máy
nhãn hiệu Honda Lead mang biển kiểm soát 98Y5-164.01 của chị Nguyễn Thị L (là hàng
xóm) để đi học. Trước đó, V đã mược xe máy của L nhiều lần và đều trả lại đúng hẹn.
Sau khi mượn được xe, V không đi học mà đến nhà Nguyễn Thị T (bạn học) chơi. Khoảng
15 giờ 30 phút cùng ngày, T hỏi vay tiền của V nhưng V không có tiền, V đã nhờ T đem
bán chiếc xe máy của L lấy tiền tiêu xài, rồi trở về nói với L là cho K mượn xe. Sau khi
hỏi K thì L biết rằng V không phải cho K mượn xe của mình. L đến trình báo cơ quan
điều tra.
Qua quá trình điều tra đã phát hiện hành vi phạm tội của V và T; cơ quan điều tra
khởi tố V và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do đã có hành vi dùng thủ đoạn gian đối
chiếm đoạt tài sản là chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, biển kiểm soát 95Y5 164. 01
của L, Căn cứ vào bản kết luận điều tra và các chứng cứ trong vụ án, Viện kiểm sát nhân
viên cũng truy tố V và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS. Sau khi
thụ lý vụ án, Tòa án cho rằng hành vi của V và T cấu thành tội lạm dụng tín hiện chiếm
đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS nền đã trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
(Tại Cáo trạng số 25/2016/CT-VKS ngày 15/5/2016)
Trong quá trình giải quyết vụ án tồn tại hai quan điểm khác nhau về hướng giải
quyết vụ án, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, V và T phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì mục
đích chiếm đoạt của V có trước khi V mượn chiếc xe của L vào ngày 21/2/2016. V nói
dối L là mượn xe để đi học, trong khi đó V đến nhà T và nhờ T bán xe, sau đó lại tiếp tục
có hành vi lừa dối (nói với L là cho K mượn xe) để che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản
của mình. Theo quan điểm này, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát đã truy cứu V
và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS.
53
Quan điểm thứ hai nhận định, V và T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, vì mục đích chiếm đoạt tài sản của cả V và T có sau khi V mượn chiếc xe của L.
Mặc dù V nói dối L là mượn xe để đi học nhưng hành vi lừa dối này không nhằm mục
đích chiếm đoạt mà chỉ nhằm thuận lợi mượn được xe của L để đến nhà T chơi. Sau khi
V mượn được xe của L, đến lục T hỏi vay tiền V mới nảy sinh ý định chiếm đoạt và nhờ
T bán xe lấy tiền tiêu xài sau đó nói dối anh L là cho K mượn xe nhằm che giấu hành vi
phạm tội của mình. Căn cứ vào nhận định trên, Tòa án đã ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung với lý do hành vi phạm tội của V và T cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS.
Trong vụ án này, để kết luận V và T phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174)
hay tội lạm đụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175) cần phải xác định thời điểm nảy sinh ý
định chiếm đoạt tài sản của V. Việc V mượn xe ban đầu chỉ nhằm mục đích sử dụng để di
chuyển. Sau khi đến nhà T, V cũng không đề nghị T bán xe ngay và cũng không bàn bạc
trước ý định chiếm đoạt tài sản mà phải đến 15 giờ 30 phút cùng ngày khi T hỏi vay tiền
của V nhưng V không có, lúc này V mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và nhờ T bán
chiếc xe máy của anh L để lấy tiền tiêu xài. Căn cứ những lập luận trên, tác giả đồng ý
với quan điểm thứ hai, V và T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều
175 BLHS.
Tuy nhiên, việc xác định chính xác thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích
chiếm đoạt tài sản trên thực tế không hề dễ dàng, bởi mục đích chiếm đoạt thuộc về mặt
chủ quan của tội phạm, “là kết quả trong ý thức chủ quan và người phạm tội đặt ra phải
đạt được trước khi thực hiện hành vi phạm tội". Vì vậy, việc xác định thời điểm nảy sinh
mục đích chiếm đoạt càng gặp nhiều khó khăn khi người phạm tội một mực khai báo gian
dối, gây trở ngại cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc
chứng minh tội phạm. Trên thực tế có nhiều trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có giá trị trên 2 triệu đồng nhưng dưới 4 triệu đồng và không thuộc các trường hợp
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, người phạm
54
tội thường khai rằng sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý định chiếm đoạt để trốn
tránh trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 174 BLHS, mức tối thiểu về giá
trị tài sản bị chiếm đoạt để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là từ 2.000.000 đồng trở lên, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại quy
định từ 4.000.000 đồng trở lên. Do định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở cấu thành cơ
bản giữa hai tội không bằng nhau, trong khi đó chế tài áp dụng đối với hai tội này là như
nhau, nên có nhiều trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị dưới 4 triệu
đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự
như: gây hậu quả nghiêm trọng: đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án chưa được xóa án
tích), nhưng người phạm tội khai báo gian dối về thời điểm này sinh mục đích chiếm đoạt
và trong trường hợp không chứng minh được mục đích chiếm đoạt có trước khi nhận tài
sản thì không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174), cũng như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) dẫn đến việc
bỏ lọt tội phạm.
Vì vậy, khi xác định thời điểm người phạm tội có mục đích chiếm đoạt để truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) hay tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) thì không chỉ căn cứ vào lời khai của người phạm
tội mà còn phải xem xét đầy đủ, khách quan và toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ.
2.3.2.2. Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, thủ đoạn gian dối cũng được coi là đặc trưng
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải mọi trường hợp phạm tội có thủ
đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt là đủ yêu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174 BLHS). Trên thực tế, có một số trường hợp phạm các tội xâm phạm sở hữu
khác mặc dù người phạm tội có dùng thủ đoạn gian dối nhưng chỉ nhằm mục đích tiếp
cận tài sản, không có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn bị coi
là trường hợp phạm tội lừa đảo chiêm đoạt tài sản. Vụ án dưới đây là một minh chứng:
55
Vào khoảng 19 giờ, ngày 13 tháng 01 năm 2016, Vi Văn T bàn bạc và rủ Vi Văn Đ;
T là em ruột của Đ đi đến cửa hàng mua bán và trao đổi xe, mục đích tìm tài sản chiếm
đoạt bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, Đ đồng ý. Sau đó T mua một chiếc xe cũ và cùng Đ
đến cửa hàng mua bán và trao đổi xe anh S bằng chiếc xe đó. Đến nơi, Đ đứng ở bên
ngoài còn T đi vào gặp anh S giả vờ đem xe đi bán và nói với anh S có nhu cầu mua xe
mới và T yêu cầu anh S lấy chiếc xe mới của cửa hàng và cho T xem, anh S tưởng T có
nhu cầu mua thật nên đã vào bên trong lấy 01 chiếc xe cho T xem. Sau một hồi xem T, Đ
thống nhất mua chiếc xe mới này sau đó yêu cầu anh S viết giấy tờ, trong lúc anh S đang
viết giấy tờ thì T yêu cầu anh S cho mượn chìa khóa xe để kiểm tra, Anh S vừa đưa chìa
khóa cho T và quay vào viết tiếp giấy tờ thì T, D nổ xe chạy mất bỏ lại chiếc xe cũ. Anh S
phát hiện sự việc tri hô nên mọi người đuổi theo bắt được Đ, T cùng tang vật. Theo kết
luận định giá thì chiếc xe mà T, Đ chiếm đoạt có giá trị là 18.900.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có hai
quan điểm nổi bật, quan điểm thứ nhất cho rằng T và Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”
theo Điều 171 BLHS và quan điểm thứ hai cho rằng T và Đ phạm tội "Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS.
(Tại Cáo trạng số 29/2017/CT-VKS ngày 12/7/2017)
Trong vụ án trên, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất cho rằng T và Đ phạm tội
“Cướp giật tài sản” theo Điều 171 BLHS. Mặc dù T và B có thủ đoạn gian dối khi giả vở
đem bán chiếc xe máy cũ của T đề mua xe mới ở cửa hàng của anh S và yêu cầu anh S
mang xe mới ra cho T xem, tuy nhiên hành vi lừa dối này chỉ nhằm mục đích tiếp cận tải
sản, không mang tính quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài
sản sau đó không phải kết quả của hành vi lừa dối, anh S cũng không tự nguyện giao xe
cho T thực hiện quyền chiếm hữu mà do T lợi dụng sơ hở của anh S khi viết giấy tờ và
cho mượn chìa khóa kiểm tra xe để nhanh chóng chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của T và Đ
cấu thành tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 BLTIS.
Sở dĩ có quan điểm T và Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174
BLHS là do khi xem xét các tình tiết của vụ án đã tuyệt đối hóa thủ đoạn gian dối của
56
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không đánh giá đúng vai trò của thủ đoạn gian dối đối
với hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là
mục đích và kết quả của hành vi lừa dội. Vì vậy, trong trường hợp người phạm tội có thủ
đoạn gian dối nhưng chỉ nhằm mục đích tiếp cận tài sản và hành vi chiếm đoạt có dấu
hiệu đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu khác như dấu hiệu lén lút (tội trộm cắp tài
sản), dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt một cách công khai tội cướp giật tài sản)... thì thủ
đoạn gian dối không có ý nghĩa về mặt định tội mà phải căn cứ vào các dấu hiệu đặc
trưng của hành vi chiếm đoạt để định tội danh cho chính xác.
Thứ hai, một số trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị nhầm lẫn với
trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản, do xác định không đúng về người bị chiếm đoạt
dẫn đến đánh giá sai tính chất của hình vi phạm tội là hành vi lén lút (của tội trộm cắp tài
sản) hay bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản. Vụ án dưới đây là một minh chứng:
Khoảng tháng 5/2017 Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xảy ra 01 vụ mất xe máy
nhãn hiệu Honda SH biển số 98A-024.54 của chị Hoàng Khánh L gửi tại bãi gửi xe của
bệnh viện. Qua điều tra, xác minh cơ quan điều tra đã bắt được đối tượng tên Vũ Văn P.
P khai nhận hành vi như sau: Trong một lần đi thăm người quen bị ốm nằm điều trị tại
bệnh viện P nhận thấy tại bãi giữ xe của bệnh viện thực hiện trông giữ xe bằng hình thức
ghi biển số của xe cần gửi vào phiếu giữ xe của bệnh viện. P đã nảy sinh ý định chiếm
đoạt một số xe máy có giá trị cao trong bãi gửi nên đã đi mua 01 chiếc xe máy cũ hiệu
Honda Wave biển số 98A-124.35 đem vào gửi tại bãi gửi xe của bệnh viện. Chờ lúc bãi
xe vắng người P tháo biển số chiếc xe Honda Wave đổi sang chiếc Honda SH. Sau đó lấy
chiếc Honda SH ra ngoài bằng phiếu gửi xe của chiếc Honda Wave. Do phiếu gửi xe và
biển số xe trùng biển số nên nhân viên nhà xe đã cho P lấy xe ra ngoài. P đem cắm chiếc
xe tại một hiệu cầm đồ. Chị L mất xe đã trình báo công an. Kết quả định giá xác định xe
mô tô hiệu Honda SH của chị L trị giá 40.980.000 đồng.
Qua truy tố xét xử vụ án có hai quan điểm được đưa ra. Quan điểm thứ nhất cho
rằng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Quan điểm thứ hai thì lại cho rằng P phạm tội
“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
57
(Tại Cáo trạng số 55/2016/CT-VKS ngày 16/6/2016)
Sở dĩ có quan điểm cho rằng P phạm tội trộm cắp tài sản là do xác định không đúng
người bị chiếm đoạt trong vụ án này. Theo quan điểm này, người bị chiếm đoạt phải là
chủ sở hữu chiếc xe máy Honda SH chị Hoàng Khánh L, do đó hành vi chiếm đoạt tài
sản của P đã có dấu hiệu lén lút đối với chị L nên đã cấu thành tội trộm cắp tài sản theo
Điều 173 BLHS.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng P phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo quy định tại Điều 174 BLHS vì: Đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói
riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung là tài sản đang nằm trong sự quản lý, chiếm
hữu hợp pháp, do đó không chỉ chủ sở hữu tài sản mà những người có quyền quản lý,
chiếm hữu hợp pháp tài sản đó đều có thể là người bị chiếm đoạt. Trong vụ án trên, khi
chủ sở hữu vào gửi xe và lấy vé thì kể từ thời điểm đó bên nhận giữ xe được coi là người
trực tiếp quản lý, chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng gửi giữ, nếu có thiệt hại về tài
sản thì bên nhận giữ xe phải bồi thường thiệt hại. Từ đó có thể xác định người bị chiếm
đoạt trong vụ án này chính là bên nhận giữ xe,
P đã có hành vi lừa dối người bị chiếm đoạt là tháo biển số xe Honda Wave để lắp
sang chiếc Honda SH và dùng phiếu gửi xe Honda Wave để lấy chiếc Honda SH ra. P đã
có hành vi lừa dối để chiếm đoạt tài sản có giá trị trên 2.00.000 đồng đủ yếu tố để cấu
thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt của P không lén lút đối với
người bị chiếm đoạt là bên nhận giữ xe mà P dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chiếc
xe đó. Vì vậy hành vi của P không thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.
2.3.2.3. Về tình tiết định khung tăng nặng “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”
Trên thực tế vẫn còn sự nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (điểm đ khoản 2
Điều 174 BLHS) với trường hợp phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản (Điều 355 BLHS).
Trong BLHS năm 1985 tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để lừa đảo chiếm
đoạt tài sản đã được nhà làm luật xây dựng cấu thành một tội phạm độc lập, đó là tội lạm
58
dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 156 BLHS) tại Chương các
tội xâm phạm sở hữu của công dân. Trong khi đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân
trong BLHS năm 1985 trước đây không có quy định về tình tiết định khung là “lợi dụng
chức vụ, quyền hạn”. Do vậy, trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian
dối (lừa đảo) để chiếm đoạt tài sản công dân và trong khi thực hiện tội phạm có tình tiết
lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì họ bị xử lý về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản công dân theo Điều 156 của BLHS 1985.
Hiện nay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đã được tách ra khỏi
chương các tội xâm phạm sở hữu và được quy định tại Điều 355 thuộc chương các tội
phạm về chức vụ của BLHS năm 2015, đồng thời tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều
174 BLHS) cũng được bổ sung thêm tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” làm tình
tiết định khung tăng nặng hình phạt. Hơn nữa, trong khoa học luật hình sự hướng dẫn
trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và “lạm
dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều 355) đều là trường hợp “sử
dụng chức vụ, quyền hạn của mình như phương tiện” để lừa dối chiếm đoạt tài sản của
người khác. Chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng nhầm lẫn giữa hai trường hợp phạm tội
này.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng mức độ “sử dụng chức vụ, quyền hạn” ở
hai trường hợp phạm tội trên là khác nhau, dẫn đến vai trò của hành vi lừa dối đối với
việc chiếm đoạt tài sản cũng có sự khác biệt, cụ thể như sau:
Ở trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174),
người phạm tội chỉ cần dựa trên chức vụ, quyền hạn mà mình có để lừa dối chiếm đoạt tài
sản của người khác, chỉ nói đến “sử dụng chức vụ, quyền hạn” khi họ thi hành công vụ
trên cơ sở chức vụ, quyền hạn được giao. Người phạm tội chỉ dựa trên chức vụ, quyền
hạn để làm tăng thêm tính thuyết phục cho hành vi lừa dối, hành vi lừa dối mới có vai trò
quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Điều này mới thực sự thể hiện được bản chất
của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
59
Ở trường hợp “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều
355), người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi hành công vụ để
lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Người phạm tội vì đang thi hành công vụ trên
cơ sở chức vụ, quyền hạn của mình mới có thể lừa dối được người khác chiếm đoạt tài
sản của họ. Hành vi lừa dối của người phạm tội trong trường hợp này chỉ có vai trò che
giấu cho việc “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”, không có vai trò quyết định đối với việc
chiếm đoạt tài sản. Vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn nên người bị lừa dối mới
không nhận thức được đó là gian dối và để cho người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản.
Để khắc phục tình trạng nhằm lẫn giữa trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm
đoạt tài sản (Điều 355) cần có sự hướng dẫn thống nhất nhằm phân biệt hai trương hợp
này, tránh tình trạng chồng chéo trong quy định của pháp luật và đảm bảo xét xử đúng
người, đúng tội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong Chương này, tác giả luận văn so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) nhằm tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc nhận thức đúng đắn về tội
phạm này. Phân tích quy định khung hình phạt và hình phạt về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Cũng trong chương này tác giả đưa ra các số liệu thực tế xét xử tại tỉnh Bắc Giang
đồng thời so sánh với kết quả xét xử các tội xâm phạm sơ hữu khác và phân tích một số
vụ án để cho thấy thực tế việc xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Giang để
cho thấy còn những vướng mắc, bất cập gì để kịp thời phản ánh, đề xuất những nghiên
cứu này không chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học mà còn phục vụ cho
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng, góp phần bảo đảm quy định của Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được áp dụng một cách thống nhất và đúng đắn trong quá trình giải quyết các vụ
việc cụ thể.
60
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
3.1 Hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự
Thứ nhất, về tình trạng nhầm lẫn giữa tranh chấp dân sự với trường hợp phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do trong quá trình giải quyết
vụ án, cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng đã không xác định hoặc xác định không
đúng về mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội.
Để khắc phục tình trạng trên cần hướng dẫn cụ thể về mục đích chiếm đoạt của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng:
Xác định mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa
đảo chiểm đoạt tài sản, theo đó, khi định tội cần xem xét người phạm tội có mục đích
chiếm đoạt tài sản hay không và thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích chiếm đoạt
tài sản trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, tài liệu có trong
hồ sơ vụ án.
Trường hợp một người có hành vi lừa dối trong việc xác lập các giao dịch dân sự
nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản mà coi là vụ tranh chấp về dân sự nếu người phạm tội có thiện chí thực hiện các
nghĩa vụ dân sự của mình.
Trong trường hợp người phạm tội có mục đích chiếm đoạt trước hoặc trong khi thực
hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; trường hợp người phạm tội sau khi nhận tài sản bằng các hình thức
hợp đồng hợp pháp, ngay thẳng mới nảy sinh mục đích chiếm đoạt nên đã dùng thủ đoạn
gian dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm,
chiếm đoạt tài sản.
61
Thứ hai, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với một số trường hợp phạm các tội xâm phạm sở hữu khác do đánh giá không đúng
về mối liên hệ giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Để khắc phục tình trạng này cần hướng dẫn về hành vi khách quan của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo hướng:
Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi lừa dối và
hành vi chiếm đoạt tài sản. Giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy
ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối.
Hành vi lừa dối nếu chỉ nhằm mục đích tiếp cận tài sản, không có ý nghĩa quyết
định đối với việc thực hiện hành vi chiếm đoạt (hành vi chiếm đoạt không phải kết quả
do hành vi lừa dối trực tiếp mang lại) thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mà
tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội xâm
phạm sở hữu khác nếu hành vi chiếm đoạt tài sản thỏa mãn CTTP của tội đó.
Thứ ba, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản do xác định không đúng người bị chiếm đoạt nên
đã đánh giá sai tính chất của hành vi chiếm đoạt là lén lút hay bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản.
Để khắc phục tình trạng này cần hướng dẫn áp dụng thống nhất về người bị chiếm
đoạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt nói chung như sau: Người bị chiếm đoạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt là người trực tiếp bị hành vi chiếm đoạt xâm phạm đến tài sản đang trong
sự quản lý, chiếm hữu của mình. Người bị chiếm đoạt có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc
người quản lý, chiếm hữu, sử dụng tài sản hợp pháp thông qua các giao dịch dân sự với
chủ sở hữu tài sản, ví dụ: người nhận gửi giữ tài sản, người được ủy quyền quản lý tài
sản...
62
Thứ tư, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) và trường hợp “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”
lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS). Cần hướng dẫn áp dụng tình tiết định khung
tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS
theo hướng:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người
phạm tội dựa trên chức vụ, quyền hạn của mình để tăng thêm sức thuyết phục cho hành vi
lừa dối, làm người khác tin tưởng mà giao nhầm tài sản, nhận nhầm hoặc không nhận tài
sản từ người phạm tội. Trong trường hợp này, hành vi lừa dối bản thân nó đã chứa đựng
khả năng làm người khác tin tưởng và có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài
sản. Vì vậy, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”.
Trường hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi
hành công vụ để lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác là có dấu hiệu của tội phạm về
chức vụ. Hành vi lừa dối chỉ nhằm che giấu cho việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của
người phạm tội, không có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Do đó
trường hợp này người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS).
3.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Bắc
Giang
Nguyên nhân của những vướng mắc tiêu trên một phần cũng xuất phát từ hạn chế
trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hình tố tụng. Để nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần thực
hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Trước hết, cần:
- Tăng cường tập huấn chuyên môn nhằm nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ
ngành. Đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nhận thức thống nhất pháp luật hình sự
63
nhằm khắc phục tình trạng điều tra, truy tố, xét xử làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội
phạm
- Tăng cường giáo dục, để cao tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp cho
đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán
- Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên tổ chức đối thoại trực tuyến giữa Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với Thẩm phán Tòa án các cấp, qua đó kịp thời tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng xét xử
- Phát triển, lựa chọn công bố án lệ để điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán có thể
viện dẫn áp dụng vào điều tra, truy tố và xét xử thực tế.
Hai là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng
có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời xây dựng chế độ chính sách hợp lý
với cán bộ, công chức; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Chính phủ nhằm đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư
pháp, đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành một cách kịp thời, nhanh
chóng và chính xác.
Ba là, phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó tăng cường hoạt động kiểm sát các
hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát là nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, viện kiểm
sát cần tăng cường công tác nghiên cứu, kiểm sát hồ sơ vụ án, kiểm sát bản án, kiểm sát
xét xử, kiểm sát giải quyết thủ tục phúc thẩm..., qua đó phát hiện vi phạm của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và kiến nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng theo
đúng quy định của pháp luật.
3.3 Tăng cường hiệu lực, hiệu quả và mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan tố
tụng hai cấp tỉnh Bắc Giang
- Lãnh đạo Công an tỉnh Bắc Giang, Viện kiểm sát và Tòa án hai cấp tỉnh Bắc
Giang cần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc
64
hội về công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật nói chung và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng theo hướng:
+ Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang: Có giải pháp nâng cao chất lượng xét
xử các loại án. Tỷ lệ giải quyết án hình sự nói chung và án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói
riêng đạt trên 90%. Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử. Hạn chế đến mức
thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan; bảo đảm
tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không vượt quá 1,5%
tổng số các loại án. Kịp thời sửa chữa, bổ sung bản án; xem xét kháng nghị giám đốc
thẩm theo quy định của pháp luật đối với các bản án, quyết định có sai sót khi có kiến
nghị của cơ quan có thẩm quyền. Bảo đảm xét xử các vụ án hình sự nghiêm minh, đúng
pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm; đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án
điểm được dư luận xã hội quan tâm.
- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có nhiều tình tiết phức tạp; nghiên cứu đề xuất một số vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có tính chuẩn mực đề nghị Hội đồng thẩm phán xem xét phát triển án lệ và
bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết
định có hiệu lực của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử, Đề án Tòa án điện tử từ năm
2020.
- TAND các cấp cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra, VKSND cùng cấp
ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố để kịp thời nắm bắt diễn biến vụ án để lên kế hoạch xét
xử, đảm bảo kịp thời giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được nhanh chóng,
đúng thời hạn luật định và xử lý nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Tổ chức cuộc
họp liên ngành nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình định tội danh đối với
những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng,
nhiều tội phạm; xử lý nghiêm minh, kịp thời các đối tượng phạm tội có hành vi chuyên
nghiệp, xảo quyệt, lợi dụng tình hình dịch bệnh. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong
thời gian tới.
65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong nước nói chung và tỉnh Bắc
Giang nói riêng đang có nhiều diễn biến phức tạp, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhằm góp phần giải
quyết tình trạng này, luận văn đã đề xuất một số yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử
đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
trong quá trình giải quyết vụ việc tại địa bàn tỉnh Bắc Giang.
66
KẾT LUẬN
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu được quy định
trong Bộ luật hình sự. Việc nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh
Bắc Giang có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn, góp phần nâng cao
hiệu quả của công tác phòng ngửa và đấu tranh chống tội phạm này trong thời gian tới
của tỉnh Bắc Giang.
Qua quá trình nghiên cứu tác giả có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng
thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Từ năm 1945 đến Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ chỗ chỉ nêu tên tội
danh mà không mô tả cụ thể cấu thành tội phạm đã được quy định ngày càng hoàn thiện
qua từng giai đoạn.
2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được làm rõ, nhằm tạo
cơ sở lý luận cho việc nhận thức thống nhất, đúng đắn quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam; đồng thời phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội có dấu hiệu pháp lý tương tự như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, tội lừa đảo khách hàng và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản để
tránh sự nhầm lẫn trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này
trên thực tế của tỉnh Bắc Giang.
3. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019 có nhiều diễn biến phức tạp và có xu hướng giảm về số vụ, số người phạm tội. Hơn
nữa, thực tiễn xét xử cho thấy quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành – Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa
được hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng nhầm lẫn trong việc định tội danh, gây ra án
oan sai làm mất uy tín của các cơ quan tư pháp nói riêng và của bộ máy nhà nước nói
chung. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại, tác giả
67
mạnh dạn đưa ra những đề xuất, kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm, góp phần giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và của tỉnh Bắc Giang nói
riêng.
68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ban hành
ngày 24/5/2005, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1999), Đại
từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội
6. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Chương IX, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
11. TGS.TS Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội
phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
69
14. Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
15. Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
16. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự
Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
18. Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
19. Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
20. Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
21. Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
22. Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố
Đà Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
23. Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng:
tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học
xã hội.
24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
70
26. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội .
27. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nôi.
28. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội .
29. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2015 và
phương hướng năm 2016.
30. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2016 và
phương hướng năm 2017.
31. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2017 và
phương hướng năm 2018.
32. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2018 và
phương hướng năm 2019.
33. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2019 và
phương hướng năm 2020.
34. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày
25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ
tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”
của Bộ luật hình sự 1999.
35. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFc_Giang
36. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-theo-
phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thuc-tien
37. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-nhung-
vuong-mac-can-khac-phuc
38. Cáo trạng số 46/2015/CT-VKS ngày 25/12/2015 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
39. Cáo trạng số 25/2016/CT-VKS ngày 15/5/2016 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
40. Cáo trạng số 55/2016/CT-VKS ngày 16/6/2016 của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
71
41. Cáo trạng số 29/2017/CT-VKS ngày 12/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.