VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY KHÔI

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY KHÔI

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Hà Nội - 2020

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

CTTP Cấu thành tội phạm

TAND Tòa án nhân dân

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

Nxb Nhà xuất bản

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền sở hữu tài sản luôn được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Mọi hành

vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là các hành vi bị coi là tội phạm đều bị

nghiêm trị trước pháp luật. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói

riêng có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Loại tội

phạm này trong thời gian gần đây không chỉ có xu hướng tăng về số lượng vụ án, người

phạm tội mà phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại

lớn đến an ninh, kinh tế.

Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cho thấy những vướng mắc, bất

cập trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội này trong

công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng cũng như trong việc chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Nguyên

nhân chủ yếu những vướng mắc, bất cập xuất phát từ sự nhận thức khác nhau về việc áp

dụng quy định của Bộ luật hình sự khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có một số trường hợp nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp

dụng không đúng quy định pháp luật, thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội

phạm và các vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được giữa tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác trong Bộ luật hình

sự dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Bắc Giang là một tỉnh nằm phía Đông bắc Hà Nội với hướng phát triển trở thành

tỉnh có nền công nghiệp phát triển vì vậy những năm gần đây chính quyền địa phương đã

có chủ trương thu hút xây dựng nhiều khu công nghiệp nhằm thúc đẩy kinh tế địa

phương. Chính vì muốn tạo sự đột biến trong nền kinh tế của tỉnh như vậy mà các khu

công nghiệp được hình thành, các nhà máy, nhà xưởng được đầu tư ngày một tăng lên,

kéo theo sự tăng trưởng của các nhà máy, nhà xưởng thì nhu cầu về nguồn nhân lực cho

1

các khu công nghiệp, các nhà máy, nhà xưởng cũng gia tăng rất lớn dẫn đến mật độ dân

nhập cư tăng đột biến trong những năm qua. Đi đôi với sự phát triển kinh tế của tình thì

mặt trái của nó là tình hình tội phạm cũng diễn ra ngày càng phức tạp, đặc biệt là các loại

tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu, quyền tài sản.

Chính vì vậy, là một cán bộ trong quá trình làm việc thường xuyên áp dụng các quy

định của pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của

mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và

các biểu hiện cụ thể của nó tại Bắc Giang nói riêng, để từ đó đề ra những biện pháp hoàn

thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần thiết. Vì lý do này tác đã chọn đề tài

“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sỹ của

mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập đến trong các giáo trình của các

trường Đại học, Học viện đào tạo về luật, sách chuyên khảo và được các luận văn thạc sĩ,

luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.

* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và trong một số lĩnh vực cụ

thể dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có luận án Thạc sĩ của một số tác giả

sau đây:

- Đặng Minh Phụng (2014) Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài

sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận

văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

- Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

- Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa

học xã hội.

2

- Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự và

tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau:

- Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

- Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt

Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

- Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

- Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học có luận văn

thạc sĩ của một số tác giả sau:

- Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

- Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng: tình

hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã

hội.

- Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

- Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Đà

Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

3

Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chủ

yếu các luận văn, luận án nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm,

cũng có một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc

độ khoa học luật hình sự nhưng tình hình tội phạm trong giai đoạn này đã có nhiều thay

đổi và diễn biến phức tạp cùng với đó là việc ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 nên các

công trình nghiên cứu trên đã thể hiện những điểm bất cập không còn phù hợp với thực

tiễn hiện nay.

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ

thực tiễn tỉnh Bắc Giang”

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong

pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 dưới

góc độ khoa học luật hình sự.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

- Mục đích: Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này tại tỉnh Bắc Giang

trong giai đoạn 2015 - 2019, qua đó đề xuất các biện pháp bảo đảm thi hành quy định về

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng ngừa tội phạm

này trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang nói riêng.

- Nhiệm vụ:

+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội

phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được quy định

trong Bộ luật hình sự.

+ Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân

của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 - 2019.

4

+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao đảm báo xét xử đúng tội Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản trong thời gian tới.

5. Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện

luận văn

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, thống kê...

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần từng bước hoàn thiện và bổ sung vào hệ

thống lý luận đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật Việt Nam; đồng thời

luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học

luật hình sự đối với tỉnh Bắc Giang nói riêng.

- Về mặt thực tiễn: Những đề xuất bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình sự

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn, góp phần nâng

cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang.

7. Bố cục của luận văn

Bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc

Giang về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Chương 3: Yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử đúng tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản.

5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì “lừa đảo” được hiểu là việc “lừa bằng thủ

đoạn xảo trả để chiếm lấy của cải, tài sản”. Tuy nhiên, đây chỉ là cách hiểu thông thường

về khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xem xét hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản

dưới góc độ là một hiện tượng xã hội tiêu cực.

Trong BLHS Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn được quy định tại

chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải

thể hiện được đồng thời đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm riêng

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015,

khoa học luật hình sự đưa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội

xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một

cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá

nhân”1. Khái niệm đã khái quát được những đặc điểm chung về khách thể, chủ thể và

mặt chủ quan của của các tội xâm phạm sở hữu.

Điều 174 BLHS năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác...” Căn cứ vào

quy định trên, khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

dưới góc độ pháp lý như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài

sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối”2. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải được thực

hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản chiếm đoạt đang có người

1 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.9] 2 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37]

chiếm hữu, quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Khái

6

niệm mới chỉ thể hiện những đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên

đặc điểm của hành vi khách quan.

Từ những phân tích trên, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể được định

nghĩa như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người

khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi

cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.

1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm

xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Do đó,

khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu

được pháp luật bảo vệ.

Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt

tài sản được tôn trọng và bảo vệ3. Quan hệ sở hữu được xác lập giữa một bên là chủ tài

sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình và một bên là những

người khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản đó. Hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản làm mất khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế của chủ tài sản, vi

phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản, qua đó xâm phạm đến quan hệ sở

hữu được pháp luật bảo vệ.

Mọi tội phạm đều có đối tượng tác động nhất định. Đối tượng tác động của tội phạm

là bộ phận của khách thể của tội phạm, nó bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt

hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối

tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản4.

Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là tài sản đang

3 Bộ luật dân sự 2005 (Điều 169) và Bộ luật dân sự 2015 (Điều 163) đều ghi nhận quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo đó , không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình. 4 Tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bởi đặc trưng của hành vi chiếm đoạt là hành vi làm

7

cho chủ tài sản mất hẳn khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế và tạo khả năng

đó cho người chiếm đoạt, vì vậy chỉ khỉ tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu, quản lý

chủ tài sản thì mới nói đến hành vi “làm mất khả năng đó”. Vì vậy, tài sản bị thất lạc (bị

mất, bị bỏ quên, bị đánh rơi) không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt nói chung và

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

1.1.2.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân

thương mại.

Pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm. Đây là một quy định mới của

Bộ luật hình sự khi ghi nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân

thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lượi nhuận và lợi nhuận được

chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức

kinh tế khác. Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của Bộ luật hình sự, pháp nhân

thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều

75 của BLHS. Tuy nhiên tại Điều 76 BLHS lại không quy định pháp nhân phải chịu trách

nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, pháp nhân thương mại

không phải là chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Cá nhân phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và

đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Trong BLHS Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm

hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tình trạng không có năng lực

trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy định đó, khoa học luật hình sự đưa ra định nghĩa

về người có năng lực trách nhiệm hình sự “là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình

sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình

sự”.5

Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất

5 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.123]

định và sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian tiếp theo. Theo BLHS Việt Nam

8

thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những

tội phạm mà BLHS có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi

chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, nghĩa là về các tội như: lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản,

tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và một số tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm

trọng khác (trong đó không bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).

Tuy nhiên, năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ

hoàn toàn nếu người đó bị mắc các bệnh làm rối loạn hoạt động bình thường của bộ não.

Chính vì vậy, luật hình sự ngoài việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự còn quy

định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại Chương IV BLHS thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức

hoặc điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự mà phải áp

dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Trong thực tiễn áp dụng, khi đánh giá về năng lực trách nhiệm hình sự của một cá

nhân thì hầu như chỉ áp dụng việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nếu trong

quá trình giải quyết các cơ quan tố tụng có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều

khiển hành vi của người đó thì mới cần kiểm tra xem có phải là trường hợp ở trong tình

trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không.

Căn cứ vào những quy định trên, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có

thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi trường hợp phạm tội và không thuộc trường

hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là mọi cá nhân đạt

độ tuổi luật định, không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và đã

thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS thì đều có

thể trở thành chủ thể của tội này.

9

BLHS năm 2015 quy định khác về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo

Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì:

- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm,

trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác;

- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình

sự về một số tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (trong đó không

bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).

Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 thì chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản chỉ có thể là cá nhân, phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng

không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015; Pháp

nhân thương mại và người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với mọi trường hợp phạm tội.

1.1.2.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho

xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và các điều kiện bên

ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp,

thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...

+ Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Trong một khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và

được phản ánh trong tất cả các CTTP, không có hành vi khách quan thì không có tội

phạm. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được mô tả trong CTTP cơ

bản (khoản 1 Điều 174 BLHS) là hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của

người khác. Tuy nhiên không phải mọi hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đều bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ cấu thành tội này khi tài

sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị

xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,

chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

10

Có hai quan điểm khác nhau về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành

vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm

đoạt có thể xảy ra, còn hành vị chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối6.

Theo quan điểm này, hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai

hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

nên người phạm tội chỉ có một hành vị khách quan duy nhất là “chiếm đoạt", nhưng

chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Theo quan điểm này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, “thủ đoạn gian dối” được

mô tả trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được coi là một hành vi độc

lập mà chỉ là phương thức để thực hiện hành vi.

Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất, coi hành vi khách

quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi: hành vi lừa dối và hành vi

chiếm đoạt. Bởi vì, mặc dù BLHS quy định trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản là “thủ đoạn gian dối”, tuy nhiên bất kể thủ đoạn nào cũng đều phải được biểu hiện

ra bên ngoài bằng hành vi nhất định. “Gian dối” là việc đưa ra những thông tỉn giả,

không đúng sự thật, xét cho cùng đó chính là hành vi được ý thức kiểm soát và ý chí điều

khiển. Hơn nữa, thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được biểu

hiện bằng những hành vi lừa dối nhất định trước khi người phạm tội thực hiện tiến hành

vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có sự độc

lập tương đối và xảy ra nối tiếp nhau về mặt thời gian. Hành vi lừa dối là điều kiện để

hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối.

Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự

thật, về mặt chủ quan người phạm tội biết thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật

6 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37]

nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vị lừa dối có thể được thực hiện

11

bằng lời nói dối; bằng việc đưa ra các giấy tờ giả mạo; giả danh người có chức vụ, quyền

hạn; giả danh các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội...

Hành vi chiếm đoạt tài sản là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang

thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”7. Hay nói cách khác, hành vi

chiếm đoạt là hành vi làm cho người sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền

chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực

hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.

Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hình thức thể

hiện cụ thể:

Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì

hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản từ người

bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối tin vào những thông tin sai sự thật mà

người phạm tội đưa ra nên đã tự nguyện giao tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu của

mình cho người phạm tội. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ

được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên

thực tế, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A báo mất Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất của mình để làm thêm 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng nữa.

Cùng lúc đó A đã bán mảnh đất của mình cho B với giá 500.000.000 đồng và C giá

600.000.000 đồng. Khi B và C đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện A

đã bán mảnh đất này cho 02 người. Trong tình huống này, tài sản bị chiếm đoạt là số tiền

500.000.000 đồng của B và 600.000.000 đồng của C đang nằm trong sự chiếm hữu của

A. Hành vi chiếm đoạt của A thể hiện ở việc nhận số tiền 500.000.000 đồng và

600.000.000 đồng từ B và C.

Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của người phạm tội

thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại tài sản đáng

lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối vì tin vào

7 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.11]

những thông tin sai sự thật mà người phạm tội đưa ra nên đã nhận nhầm tài sản (nhận

12

thiếu hoặc nhận sai tài sản) hoặc không nhận tài sản. Khi người bị lừa dối nhận nhầm

hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản và người bị

lừa dối đã mất tài sản đó, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A và B

là đồng thừa kế theo pháp luật đối với khối di sản X có giá trị 300.000.000 đồng, A và B

thỏa thuận cử C (không thuộc diện thừa kế theo pháp luật) làm người quản lý di sản.

Trong quá trình quản lý di sản, C có hành vi làm giả các giấy tờ về việc thanh toán các

khoản nợ do người chết để lại hết số tiền 100.000.000 đồng. Đến thời điểm chia thừa kế,

khối di sản chia thừa kế chỉ còn lại 200.000.000 đồng. Trong tình huống này, tài sản bị

chiếm đoạt là số tiện 100.000.000 đồng trong khi di sản X đang nằm trong sự chiếm hữu

của C (vì C được cử làm người quản lý di sản). Hành vi chiếm đoạt của C thể hiện ở việc

C đã giữ lại số tiền 100.000.000 đồng trong khối di sản X mà đáng lẽ phải giao cho

những người thừa kế là A và B.

Thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì nó được coi là hoàn thành tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay

sau hành vi lừa dối nhưng cũng có những trường hợp giữa hành vi lừa dối và hành vi

chiếm đoạt tài sản có khoảng cách nhất định về mặt thời gian. Vì vậy, cần chú ý đến

trường hợp này để xác định chính xác thời điểm tội phạm hoàn thành. Ví dụ như: Biết gia

đình chị L có nhu cầu xin vào biên chế Nhà nước cho con gái mới ra trường nên ngày

21/4/2017 bà V đã đến nhà chị L và giới thiệu mình là cán bộ của cơ quan X, có mỗi

quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con chị L vào biên chế

với giá 300.000.000 đồng. Bà V hẹn 01 tuần sau mang tiền đến thì xin cho con chị L và

biên chế. Vì tin bà V và muốn xin việc cho con nên chị L đã đồng ý. Ngày 28/4/2017 chị

L mang tiền đến đưa cho bà V, bà V nhận tiền nhưng không xin được cho con chị L và

cũng không trả lại chị L. Sau đó bà V bỏ trốn khỏi địa phương, con chị L không được vào

biên chế. Trong tình huống này, hành vi lừa dối của bà V (giới thiệu mình là cán bộ của

cơ quan X, có mỗi quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con

chị L vào biên chế) diễn ra vào ngày 21/4/2017 nhưng đến ngày 28/4/2017 hành vi chiếm

đoạt tài sản mới được thực hiện (V nhận tiền và đã kiểm soát số tiền đó). Giữa hành vi

13

lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của bà V có khoảng cách về mặt thời gian. Thời

điểm tội phạm hoàn thành trong trường hợp này là thời điểm bà V nhận được tiền từ chị

L.

Trường hợp người phạm tội cũng có hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản

nhưng những hành vi này đã được BLHS quy định thành các tội phạm độc lập thì người

phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác tương ứng. Ví dụ: Hành vi lừa đảo nhằm

chiếm đoạt chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 249-251)...

Hành vi lừa dối phải có trước khi thực hiện việc giao nhận tài sản giữa người bị lừa

dối và người phạm tội thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tải sản, nếu hành vi lừa

dối xảy ra sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản từ chủ tài sản thì không phải là tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).

Việc giao nhận tài sản giữa người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người bị

lừa dối là tự nguyện; nếu người bị lừa dối không tự nguyện giao nhận tài sản như trường

hợp giả danh người có chức vụ, quyền hạn nhằm tuy hiếp tinh thần của người khác làm

cho họ lo sợ mà miễn cưỡng giao tài sản thì không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà

có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170).

+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là

khách thể bảo vệ của luật hình sự. Bất cứ tội phạm nào cũng có thể gây ra hậu quả nguy

hiểm cho xã hội nhưng không phải mọi CTTP đều phản ảnh nội dung này mà chỉ có một

số CTTP nhất định – đó là những CTTP vật chất.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có CTTP vật chất, tức là dấu hiệu hậu quả được

quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174).

Dấu hiệu này trước hết được phản ánh thông qua đặc điểm về lượng của đối tượng tác

động, cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

14

Mặc dù BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên

hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng phải thỏa mãn một trong số những điều kiện theo quy

định tại khoản 1 Điều 174 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản (người phạm

tội đã chiếm đoạt được tải sản) thì mới cấu thành tội phạm. Thời điểm người phạm tội

chiếm đoạt được tài sản là thời điểm tội phạm hoàn thành, trường hợp người phạm tội có

ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc chiếm

đoạt hoặc đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vì những nguyên nhân khách

quan mà chưa chiếm đoạt được tài sản, thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (Điều 14) hoặc phạm tội chưa

đạt (Điều 15) tùy vào từng trường hợp cụ thể.

Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”, đồng thời

bổ sung dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và “tài sản bị

chiếm đoạt là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ” với trường

hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng là dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. Đây là những dấu hiệu có tính chất định tính mới được quy định ở một số tội

xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

Việc định tội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn đòi hỏi xác định cả mối

quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội

phạm. Bởi lẽ, con người chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu

hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu

giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm để có mối quan hệ

nhân quả với nhau.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:

15

- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản phải xảy ra trước khi có thiệt hại về tài sản.

Đây là căn cứ đầu tiên để kiểm tra xem giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm

cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ nhân quả hay không.

- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản khi xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ

tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát

sinh thiệt hại về tài sản. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán xe cho T, T

kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và giao cho G

20.000.000đồng để mua chiếc xe của G. Trong tình huống này, việc G làm giả giấy tờ xe

là hành vi lừa dối chứa đựng khả năng thực tế, nó khiến T tin tưởng nên đã giao tiền mua

xe cho G, ở đây đã làm phát sinh thiệt hại về tài sản của T.

- Thiệt hại về tài sản đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm

phát sinh hậu quả của hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế có trường hợp

mặc dù hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh

thiệt hại về tài sản nhưng khả năng không được hiện thực hóa, thiệt hại về tài sản đó lại là

kết quả của hành vi phạm tội khác. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán

xe cho T, T kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và hẹn ngày

hôm sau mang tiền đến lấy xe, hai bên chốt giá xe là 20.000.000 đồng. Tuy nhiên ngày

hôm sau em trai của G lấy xe mô ô đi chơi và cầm cố tại cửa hàng cầm đồ nên G không

có xe giao cho T. Trong tình huống này, G có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của T,

hành vi này cũng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T thể

hiện ở việc T đã hẹn hôm sau đem tiền đến lấy xe và nếu không có hành vi của em trai G

lấy xe đi chơi và cầm cố chen ngang vào thì T đã giao tiền cho G và G đã chiếm đoạt

được tài sản của T, trực tiếp gây thiệt hại về tài sản cho T. Tuy nhiên, trên thực tế hành vi

của G đã không làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T mà thiệt hại đó lại là kết quả của

hành vi đem xe đi chơi rồi cầm cố của em trai G.

Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm

cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội,

16

đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, tránh bỏ lọt tội

phạm và không làm oan người vô tội.

1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách

quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt

động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội,

trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP

+ Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình

và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý và vô ý.

Lỗi được chia thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý, trong mỗi CTTP cơ bản, dấu

hiệu lỗi nói chung chỉ có thể là một loại lỗi, lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi cố ý bao gồm hai

hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì

quá tự tin và vô ý do cẩu thả.

Mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được nhà làm luật mô tả trực tiếp dấu

hiệu lỗi trong CTTP, tuy nhiên tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản đã phản ánh dấu

hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường

hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước

hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (khoản 1 Điều 10 BLHS).

Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:

- Về lý trí: Người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn

gian dối đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi

của mình sẽ gây thiệt hại về tài sản cho người khác. Người phạm tội biết tài sản thuộc

quyền sở hữu của người khác, việc họ thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ

xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản, là hành vi nguy hiểm cho

xã hội. Người phạm tôi cũng đồng thời thấy trước hậu quả là những thiệt hại về tài sản

mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra cho chủ sở hữu.

17

- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thiệt

hại về vật chất cho chủ tài sản, chỉ khi gây thiệt hại cho chủ tài sản thì người phạm tội

mới có thể chiếm đoạt được tài sản, thiệt hại đó làm mất hẳn khả năng chiếm hữu tài sản

trên thực tế của chủ tài sản và chuyển khả năng đó sang cho mình.

+ Động cơ, mục đích của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải

đạt được khi thực hiện hinh vi phạm tội. Bất cứ trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp

nào cũng đều có mục đích phạm tội, bởi chỉ trong trường hợp này người phạm tội mới có

sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt được những mục đích nhất định.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội

thực hiện hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội khi thực hiện

hành vi đã đặt ra kết quả trong ý thức chủ quan của mình là phải đạt được việc chuyển

dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.

Trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phản ánh mục đích phạm tội một

cách trực tiếp, tuy nhiên việc mô tả hành vi chiếm đoạt và hậu quả mà hành vi chiếm đoạt

gây ra đã thể hiện được mục đích chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sån.

Nếu một người thực hiện hành vi lừa dối để nhận được tài sản của người khác

nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu về một tội khác nếu hành vi họ đã

thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong CTTP của tội đó, ví dụ hành vi

lừa dối để nhận tài sản của người khác mà không được sự đồng ý của chủ tài sản thì có

thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) nếu người

phạm tội chỉ có ý định sử dụng tài sản để phục vụ cho các nhu cầu cá nhân và sẽ trả lại tài

sản đó cho chủ sở hữu, không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và cũng không sử dụng

tài sản đó làm công cụ, phương tiện để thực hiện một tội phạm khác.

Người phạm tội có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc

chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiêm đoạt tài sản. Ví dụ: A giới thiệu hiện A

18

đang làm bác sĩ tại Bệnh viện của C nhưng thực tế A đã nghỉ việc từ lâu. Lợi dụng tình

hình dịch bệnh người dân hoang mang A quảng cáo mình có thuốc kháng sinh chống vi

rút Covid-19 nên có rất nhiều người đến nhờ A tiêm thuốc với chi phí cao. Tuy nhiên

thực tế thuốc kháng sinh chống vi rút Covid-19 và một số thuốc bán kèm theo mà A tiêm

và bán chỉ là nước cất và thuốc bổ được A hay mua tại Bệnh viện của C. Vì hám lợi

nhuận từ việc bán dụng cụ y tế và các loại thuốc kèm theo cho A nên C không cảnh báo

người dân, không những thế C còn cho A mượn một phòng của bệnh viện để tiêm thuốc

và tư vấn cho người dân. Trong trường hợp này, A và C là đồng phạm, trong đó A là

người tổ chức, cần đầu và đồng thời là người thực hiện hành vi, còn C là người giúp sức.

C có mục kiêm lời từ việc bán đồ cho C nên đã chấp che giấu mục đích chiếm đoạt tài

sản của người đồng phạm là A, vì vậy cả A và B phải cùng bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi

phạm tội cố ý. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể có một hoặc nhiều động

cơ khác nhau nhưng chủ yếu là do động cơ vụ lợi, tức là người phạm tội vì muốn thu về

những lợi ích vật chất cho mình nên đã thôi thúc họ thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ

phạm tội không được phản ánh trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì

vậy, động cơ của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có ý nghĩa trong việc

định tội mà chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội khi quyết định hình phạt.

1.2 Phận biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội bằng thủ đoạn gian dối

chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong BLHS Việt Nam cũng quy định một số tội

được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối như: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội

lừa dối khách hàng... Do đó, cần thiết phải có sự phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

với các tội phạm này nhằm đảm bảo áp dụng các quy định của BLHS một cách chính xác

và hiệu quả.

1.2.1. Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

19

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS là

trường hợp người phạm tội thực hiện một trong hai hành vi phạm tội dưới đây nhằm

chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc đuới 4.000.000

đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản:

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác

bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài

sản đó;

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác

bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến

không có khả năng trả lại tài sản.

Căn cứ vào quy định trên, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trường hợp

người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người

khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn giai dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt

tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có

khả năng trả lại tài sản.

Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản (Điều 175) thực chất là việc phân biệt giữa hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản

với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối, cụ thể như

sau:

Thứ nhất, thủ đoạn gian dối của cả hai tội đều được biểu hiện bằng những hành vi

lừa dối cụ thể, tuy nhiên hành vi lừa dối xảy ở mỗi tội lại có vai trò khác nhau đối với

việc chiếm đoạt tài sản.

Hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài

sản có thể xảy ra, không có hành vi lừa dối thì cũng không có việc giao nhận tài sản giữa

người phạm tội và người bị lừa dối. Do đó, hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản phải xảy ra trước khi có sự giao nhận tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví

dụ: A nói dối B là cho A mượn xe để đi đón người yêu ở bến xe, B tin tưởng A nên đã

20

cho A mượn xe để đi đón người yêu nhưng sau khi mượn được xe, A đã mang xe cầm cố

lấy 4.000.000 đồng để ăn tiêu. Ở đây, hành vi lừa dối của A là để B tin tưởng mà giao xe

máy cho A mượn, không có hành vi lừa dối đó thì B cũng không cho A mượn xe máy.

Do đó, hành vi lừa dối của A phải xảy ra trước khi có sự giao nhận về tài sản, là điều kiện

để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra.

Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc giao nhận tài sản là

ngay thẳng thông qua các giao dịch dân sự hợp pháp (vay, mượn, thuê...), do đó thời

điểm giao nhận người phạm tội chưa có hành vi lừa dối và cũng không cần thiết phải có

hành vi lừa dối để việc giao nhận tài sản có thể xảy ra. Sau khi nhận tài sản người phạm

tội mới có hành vi lừa dối để giữ lại tài sản đáng lẽ phải trả cho chủ tài sản, hay nói cách

khác hành vi lừa dối là để che giấu cho hành vi chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, hành vi lừa

dối của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện sau khi có sự giao nhận

tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví dụ: A mượn xe máy của B để đi chơi với

người yêu và hẹn hôm sau sẽ trả. Đến thời hạn trả xe, do thiếu tiền tiêu xài nên A đã nảy

sinh ý định chiếm đoạt và nói dối B là xe bị mất trộm, sau đó mang xe đi bán. Ở đây,

chiếc xe đã nằm trong sự chiếm hữu của A, hành vi lừa dối của A (nói dối xe bị trộm cắp)

không phải để nhận xe mà nhằm giữ lại chiếc xe đã đến hạn phải trả cho B và che giấu

cho hành vi chiếm đoạt (bán xe).

Thứ hai, cả hai tội đều có mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng ở các thời điểm khác

nhau, cụ thể:

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội vì muốn chiếm đoạt tài sản

nên mới thực hiện hành vi lừa đối để giao nhận tài sản với chủ tài sản, qua đó chiếm đoạt

tài sản của họ. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt tài sản đã có trước thời điểm giao nhận tài

sản.

Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngay từ đầu người phạm tội

đã không có ý định chiếm đoạt tài sản nên mới ký kết các hợp đồng ngay thẳng để giao

nhận tài sản. Tuy nhiên, sau khi nhận được tải sản vì nhiều lý do nên người phạm tội mới

21

nảy sinh ý định chiếm đoạt và dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó. Vì vậy,

mục đích chiếm đoạt phải có sau thời điểm giao nhận tài sản.

Như vậy, để xác định người phạm tội có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay

hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải xem xét tại thời điểm giao nhận tài

sản, người phạm tội có hay không có mục đích chiếm đoạt tài sản và việc giao nhận tài

sản là ngay thẳng trên cơ sở các hợp đồng dân sự hợp pháp hay do bị lừa dối bởi các thủ

đoạn gian dối của người phạm tội.

1.2.2. Phân biệt với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 355

BLHS. Hành vi khách quan của tội này là hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của

mình chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn cụ thể dưới đây:

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác để chiếm đoạt tài sản

của họ là trường hợp người phạm tội đã sử dụng chức vụ, quyền hạn làm phương tiện để

cưỡng bức người khác, chiếm đoạt tài sản của họ. Người bị hại do lo sợ rằng người phạm

tội sẽ gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín cho mình nếu không để cho người có chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác chiếm đoạt tài sản của họ là

trường hợp người phạm tội thể hiện những nội dung không đúng sự thật với người khác

nhưng vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn mà họ không nhận thức được đó là gian

dối và để cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản.

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trường

hợp người phạm tội không gian dối nhưng người bị hại vẫn tin vào người có chức vụ,

quyền hạn và giao tài sản và người có chức vụ, quyển hạn lạm dụng sự tín nhiệm này mà

chiếm đoạt tài sản của họ.

Việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn

chiếm đoạt tài sản thực chất là việc phân biệt trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa

đảo chiếm đoạt tài sản (điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS) và trường hợp lạm dụng chức

vụ, quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác.

22

Về mặt khách quan, hai trường hợp phạm tội trên đều được thực hiện bằng hành vi

gian dối chiếm đoạt tài sản, chỉ khác nhau ở cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể

như sau:

Ở trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của người

khác (Điều 355 BLHS), hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc sử

dụng chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có trong khi thi hành công vụ để lừa dối

chiếm đoạt tài sản của người khác. Là một trong các tội phạm về chức vụ nên hành vi

khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện

trong khi thi hành công vụ. Ví dụ: A là phó giám đốc trung tâm quỹ đất, không có thẩm

quyền thu tiền đặt cọc trong đấu giá đất nhưng A lấy lý do thời gian gần đây nhiều công

ty đấu giá thường chậm trả tiền đặt cọc cho người dân nên A đã yêu cầu ai muốn tham

gia đấu giá đất thì phải đặt cọc và do A thu tiền.

Ở trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm đ khoản

2 Điều 174 BLHS), hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên

chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản

của họ. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn không đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng

chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi hành công vụ để lừa dối người khác chiếm

đoạt tài sản mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và dựa trên chức vụ, quyền

hạn đó để thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: A là Điều tra viên trong cơ quan X nhưng

không trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án của B. A đã chủ động liên hệ với B và nói dối rằng

mình là người trực tiếp giải quyết vụ án, có khả xin hưởng án treo cho B với điều kiện B

phải giao cho A số tiền 200.000.000 đồng. Vì A là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ

quan X nên B đã tin tưởng và giao số tiền trên cho A.

Ngoài ra, hai trường hợp phạm tội trên còn được phân biệt bởi một số đặc điểm sau:

Về khách thể, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quan hệ sở hữu; còn tội

lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và

uy tín của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân.

23

Về chủ thể, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, trong khi

đó chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là chủ thể đặc biệt -

người có chức vụ, quyền hạn theo Điều 352 BLHS thì người có chức vụ là người được

giao thực hiện công vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

1.2.3. Phân biệt với tội lừa dối khách hàng

Tội lừa đối khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS, theo đó “1. Người nào

trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian

hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau

đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt

cải tạo không giam giữ đến 03 năm; a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này

hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Thu lợi bất chính

từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…”

Về mặt khách quan, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lừa dối khách hàng đều

được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối. Tuy nhiên, theo mô tả trong CTTP của hai tội này

thì người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối nhằm các mục đích khác nhau, cụ thể như sau:

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối nhằm

“chiếm đoạt tài sản”. Mục đích chiếm đoạt tài sản được phản ánh trong CTTP của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản.

Đối với tội lừa dối khách hàng, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối “gây thiệt

hại nghiêm trọng cho khách hàng”. Mục đích phạm tội không được mô tả rõ trong CTTP

của tội lừa dối khách hàng nhưng được phản ánh thông qua hậu quả “gây thiệt hại

nghiêm trọng” cho khách hàng. Người phạm tội “gây thiệt hại nghiêm trọng” cho khách

hàng là để nhằm mục đích thu lợi bất chính.

Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối chiếm

đoạt tài sản diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong đó bao gồm cả lĩnh vực mua bán hàng hóa.

Còn ở tội lừa dối khách hàng, hành vi gian dối chỉ có thể diễn ra trong phạm vi hoạt động

mua bán hàng hóa, thể hiện ở việc cân, đong, đo, đếm thiếu, tính gian, đánh tráo loại

hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng.

24

Ngoài ra, xuất phát từ sự khác nhau về lĩnh vực phạm tội mà tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản và tội lừa dối khách hàng còn có thể được phân biệt bằng dấu hiệu về khách thể và

chủ thể của tội phạm, cụ thể như sau:

Về khách thể, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại trực tiếp đến quan hệ sở hữu

được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, còn tội lừa dối khách hàng xâm phạm đến hoạt động

đúng đắn trong thương mại và lưu thông hàng hóa, qua đó xâm phạm đến trật tự quản lý

kinh tế nói chung.

Về chủ thể, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, còn chủ thể

của tội lừa dối khách hàng là chủ thể đặc biệt với dấu hiệu đặc biệt về nghề nghiệp của

người phạm tội – người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu và khái niệm

về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự, tác giả đã đưa ra khái niệm

cụ thể về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phân tích dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, đồng thời phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm

khác, cho thấy quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng được bổ sung và dần

hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này

trong từng giai đoạn cụ thể. Việc nghiên cứu những nội dung trên nhằm khái quát chung

về dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phân biệt rõ tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản với các tội phạm khác trong pháp luật hình sự, góp phần xây dựng cơ sở lý

luận và cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong các

chương tiếp theo của luận văn.

25

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT

XỬ TẠI TỈNH BẮC GIANG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

2.1.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999

(sửa đổi, bổ sung năm 2009)

Dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng BLHS năm 1985 vẫn bộc lộ nhiều bất

cập và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu

đấu tranh chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, BLHS năm

1999 ra đời đã nhập hai chương của BLHS năm 1985 là chương IV và chương VI thành

một chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu", trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

được quy định tại Điều 139.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)

vẫn được mô tả là hành vi “bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản..." và có một số

nội dung mới so với quy định của BLHS năm 1985, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản bị coi là tội phạm với hành vi lừa đảo chỉ bị xử phạt vi phạm hành

chính. Theo quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999 thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng đã bị

xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,

chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới coi là tội phạm. Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của BLHS số 37/2009/QH12 đã nâng giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ mức

500.000đồng lên mức 2.000.000đồng để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.

Thứ hai, Quy định các tình tiết định khung hình phạt đã cụ thể hơn so với BLHS

năm 1985, bỏ những tình tiết không phù hợp với lý luận và thực tiễn xét xử như “phạm

tội có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 thì thuộc trường hợp ở khoản 3, có nhiều tình

tiết quy định ở khoản 3 thì thuộc trường hợp quy định ở khoản 4”.

26

Thứ ba, Bổ sung thêm hình phạt chính là hình phạt cải tạo không giam giữ đối với

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hình phạt bổ sung của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được

quy định ngay trong điều luật (khoản 3 Điều 139).

BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với việc quy định một tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản (Điều 139) đã khắc phục được hạn chế của BLHS năm 1985, vì vậy,

mọi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới bất cứ hình thức nào cũng đều bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh và trong cùng một phạm vi chế tài của điều luật

(Điều 139). BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thể hiện sự đối xử bình đẳng

của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với mọi thành phần kinh tế

thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Cùng với đó, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung

năm 2009) cũng đã quy định tương đối chặt chẽ và hoàn thiện về các dấu hiệu của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản cũng như hình phạt đối với người phạm tội, nhằm tạo cơ sở pháp

lý vững chắc cho việc áp dụng trên thực tế.

2.1.2. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015

Việc Hiến pháp năm 2013 ra đời đã ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con

người, quyền công dân nên đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ

thống pháp luật, trong đó có BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). BLHS năm

2015 được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLHS năm 1999; kế thừa và

phát triển các quy định còn phù hợp và bổ sung những quy định mới để giải quyết những

vướng mắc và bất cập đang đặt ra trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 thuộc Chương XVI -

Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 2015, nhìn chung, các dấu hiệu của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục được quy định cơ bản gần

giống các quy định của BLHS năm 1999. Theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015,

người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ

2.000.000 đồng trở lên thì bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nếu tài sản bị

chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi thuộc

trường hợp sau:

27

Thứ nhất, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm. Trường hợp này tương tự như quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ

sung năm 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, người phạm tội đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại

các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa

án tích mà còn vi phạm. Trường hợp này Bộ luật 2015 đã quy định ngay trong Bộ luật

dưới dạng liệt kê các tội cụ thể để xem xét trường hợp người phạm tội “đã bị kết án”

thay vì quy định một cách khái quát “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” như BLHS

năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và sau đó hướng dẫn “tội chiếm đoạt tài sản” là

những tội nào trong Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-

BCABTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV

“Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999.

Thứ ba, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật

tự, an toàn xã hội; hoặc tài sản là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia

đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với

người bị hại. Đây là hai trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015 để đáp

ứng yêu cầu phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tăng cường

bảo vệ quyền tài sản, đặc biệt là đối với các tài sản có giá trị về tinh thần của người dân.

Tuy nhiên, việc xác định một tài sản được coi là có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần rất

trừu tượng, không có chuẩn mực thống nhất và chủ yếu phụ thuộc vào thái độ chủ quan

của người bị hại.

BLHS năm 2015 bỏ các tình tiết định khung có tính chất định tính như “gây hậu

quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng” của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thay thế bằng các tình tiết

định khung tăng nặng mang tính định lượng như “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000

đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các

điểm a, b, c và đ khoản 1 điều này...”. Việc thay thế các tình tiết định tính bằng các tình

28

tiết định lượng dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt tuy đảm bảo tính khách quan và

thống nhất cho BLHS nhưng cũng thể hiện những bất cập nhất định.

2.2. Quy định định khung hình phạt và hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015

2.2.1. Quy định định khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

BLHS năm 2015 đã bổ sung các dấu hiệu định khung hình phạt cho tội lừa đảo

chiếm đoạt mà trước đó nhiều năm trong tất cả các BLHS chưa bao giờ thể hiện. Các dấu

hiệu định khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1,

2, 3, 4 Điều 174 BLHS. Những dấu hiệu định khung hình phạt này phản ánh mức độ

nguy hiểm cho xã hội đã tăng lên một cách đáng kể của tội phạm so với xã hội trước đây

và các trường hợp phạm tội bình thường. Sau đây tác giả sẽ chỉ ra những điểm mới đó:

2.2.1.1. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Hiện nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào mới về tình tiết này mà chỉ có hướng

dẫn tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng

thẩm phán TANDTC, điều này dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực

tiễn. Tác giả căn cứ vào hướng dẫn trước đây, cũng như quy định của luật và thực tiễn áp

dụng, thi hành để trao đổi về vấn đề này.

Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội có thể là các hành

vi như: làm ảnh hưởng, đe dọa, gây hoang mang, lo sợ trong một số gia đình trong một

khu dân cư; làm ảnh hưởng đến tình hình quản lý trật tự, trị an hay làm xáo trộn trật tự tại

nơi công cộng… thì có thể đã được xem là ảnh hưởng xấu. Như vậy, “Gây ảnh hưởng

xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là nói đến hành vi của một cá nhân, pháp nhân

làm ảnh hưởng, đe dọa, hoặc phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội, khiến cho một bộ phận

không nhỏ người dân, một khu dân cư hoặc một cộng đồng dân cư hoang mang, lo sợ,

phẫn nộ hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; làm

ảnh hưởng, đe dọa hoặc làm phá vỡ quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc

xâm phạm đến những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức được mọi người tôn trọng, thừa

nhận và tuân thủ.

29

Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng tình tiết này sẽ gặp những khó khăn nhất định vì

chưa có hướng dẫn cụ thể, dễ có cách hiểu và nhận thức, áp dụng thiếu thống nhất vì đây

là tình tiết mà hậu quả mang tính phi vật chất. Theo tác giả thì khi đánh giá tính chất,

mức độ của hành vi để xác định “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội” phải xem xét nguyên nhân, tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội đó có xâm phạm

nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương xã hội, sự mất ổn định trong đời sống của người dân,

có gây tâm lý hoang mang, lo sợ, phẫn nộ trong một phạm vi khu dân cư, vụ việc diễn ra

có thường xuyên, liên tục, ảnh hưởng như thế nào, có gây khó khăn cho công tác quản lý

hành chính nhà nước của chính quyền địa phương hay không… để có căn cứ xử lý đúng

đắn, cụ thể.

Tác giả cũng đồng tình với quan điểm để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong

thực tiễn thì cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng

tình tiết định khung cơ bản “Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn

xã hội” đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm c khoản 1 Điều 174); … theo hướng

căn cứ vào nguyên nhân, tính chất và hậu quả của hành vi xác định mức độ, phạm vi ảnh

hưởng đối với tình hình an ninh, trật tự, an toàn, xã hội; đồng thời, quy định cở sở đánh

giá (xảy ra bao nhiêu hành vi, trong khoảng thời gian bao nhiêu, ảnh hưởng như thế nào,

tới đối tượng nào…?) và cơ quan đánh giá (Công an xã, phường, thị trấn hay UNBD các

cấp) để làm căn cứ xử lý.

2.2.1.2. Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ

BLHS quy định trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000đồng

mà thuộc trường hợp là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ” thì vẫn bị xử lý hình sự. Việc bổ sung tình tiết định khung cơ bản này là phù hợp với

thực tế vì từ công tác tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm cho thấy, có những vụ việc tài

sản bị lừa đảo chiếm đoạt có giá trị nhỏ như một chiếc xe đẩy bán bánh mì, xe đạp hoặc

một chiếc xe môtô cũ nhưng lại là phương tiện kiếm sống chính của bản thân người bị hại

cũng như chính gia đình họ. Ngoài những tài sản bị mất đó thì họ không còn tài sản nào

khác có giá trị cao hơn và có tác dụng giúp họ kiếm sống. Đối với những trường hợp này,

30

tài sản định giá thường dưới 2.000.000đồng nên phải xử lý hành chính, và như vậy không

có tác dụng giáo dục, răn đe người vi phạm. Chính vì vậy, việc bổ sung quy định này là

cần thiết giúp xử lý các trường hợp như trên thấu tình, đạt lý trong điều kiện kinh tế của

một bộ phận nhân dân ta ở các vùng nông thôn, miền núi đang còn gặp nhiều khó khăn,

thiếu thốn, thu nhập bình quân đầu người còn thấp.

Tuy nhiên, vấn đề khó là cơ sở nào để xác định tài sản bị trộm cắp là công cụ

phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Không thể chỉ dựa trên lời

khai của bị hại hay nhận định chủ quan của Điều tra viên để kết luận mà cần phải có cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền xác định và cần có các thủ tục pháp lý cần thiết để xác định

tính chất tài sản sản. Đây là điều mà quy phạm pháp luật cần tính đến để xử lý đúng đối

tượng vi phạm, tránh xảy ra tình trạng oan sai.

Để việc áp dụng các quy định này được chính xác, cần phải quy định chi tiết cụ thể

hơn các nội dung như “phương tiện kiếm sống chính” là các cơ sở để xác định tính chất

của tài sản lừa đảo chiếm đoạt để khi áp dụng có thể kết luận, định tội một cách khách

quan, chính xác và toàn diện.

2.2.1.3. Phạm tội có tổ chức

“Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những

người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS). Giữa những người đồng phạm

vừa có sự liên kết chặt chẽ vừa có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ

rệt, cụ thể. Trường hợp phạm tội có tổ chức thường là nhóm phạm tội được hình thành

với phương hướng hoạt động có tính lâu dài, bền vững với quan hệ chỉ huy – phục tùng

và có sự chuẩn bị chu đáo đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện cũng như cho việc che

giấu tội phạm bằng các phương pháp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Với những đặc điểm

như vậy, đồng phạm có tổ chức có khả năng phạm tội liên tục, nhiều lần và gây ra những

hậu quả rất nguy hiểm cho xã hội.

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có tổ chức là trường hợp đồng phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sự cấu kết

chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người

31

thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp lừa đảo

chiếm đoạt tài sản có tổ chức đều có đủ những người giữ vai trò như trên mà tùy từng

trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục

và người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là

phạm tội có tổ chức.

Người thực hành trong trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức phải là

người trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi

khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi là hành vi lừa dối và

hành vi chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người thực hành phải tự mình thực hiện hành

vi được mô tả trong CTTP, tức là thực hiện đồng thời cả hành vi lừa dối và hành vi chiếm

đoạt tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp có nhiều người cũng tự mình thực hiện hành vi

được mô tả trong CTTP (tức là có nhiều người đồng thực hành) thì không đòi hỏi mỗi

người phải thực hiện trọn vẹn hành vị được mô tả trong CTTP mà có thể mỗi người chỉ

thực hiện một phần hành vi đó nhưng đòi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có

đủ dấu hiệu của CTTP, tức là có người thực hành thực hiện hành vi lừa dối và người thực

hành khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và hành vi tổng hợp của những người

đồng thực hành có đủ dấu hiệu hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A, B, C và D bàn bạc làm giả giấy chứng nhận kết quả khám, xét nghiệm của

bệnh viện để lừa những người là cựu chiến binh đang có nhu cầu làm nhanh bệnh án về

bệnh đái tháo đường tuyp 2 để được hưởng chế độ của Nhà nước về chất độc mầu da

cam. A là chủ mưu, rủ rê, lập ra các kế hoạch và phân công B, C và D thực hiện nhiệm

vụ. A sẽ là người quảng cáo mình có thể làm nhanh bệnh án và cùng B là người tìm kiếm,

tiếp cận những người có nhu cầu làm nhanh bệnh án. A sẽ thu tiền phí làm nhanh còn B

sẽ là người đưa những người có nhu cầu đi bệnh viện khám tại bệnh viện. C là người sẽ

đón các bệnh nhân đi khám tại cổng bệnh viện để đưa đi khám và làm các xét nghiệm rồi

thu lại các giấy hẹn để nộp cho D. D sẽ là người tổng hợp và viết kết quả giả vào bệnh án

giả mà A đưa cho sau đó chuyển lại cho A để a trả kết quả cho những người đi khám và

thu tiền của những người mà A chưa thu hết. Với hành vi như trên A, B, C và D đã lừa

32

của 223 người với số tiền 2.350.000.000đồng trong một thời gian dài mới bị phát hiện.

Trong tình huống này là trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức vì có sự câu kết

chặt chẽ và phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các đồng phạm, theo đó A là người đứng

đầu, tổ chức, phân công nhiệm vụ còn B, C và D là đồng phạm giúp sức tích cực. Trong

tình huống này A là người thực hiện hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt, B là người

chỉ thực hiện hành vi lừa dối, D là người thực hiện một phần hành vi chiếm đoạt. Mặc dù

hành vi của C không thể hiện rõ hành vi lừa dối nhưng hành vi của C đã thể hiện thực

hành một phần hành vi lừa dối (đưa người đi khám như được phân công trong kế hoạch).

Các hành vi tổng hợp của A, B, C và D có đủ dấu hiệu hành vi khách quan của tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản – hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoại gian dối. Nếu mất đi

một trong cách hành vi của A, B, C và D thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ không

hoàn thành.

2.2.1.4. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

“Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp liên tiếp phạm tội và hành vi

phạm tội trở thành nguồn thu nhập chính cho người phạm tội”8. Theo mục 5 Nghị quyết

số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp

dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự và tình tiết định khung tăng nặng ở một số tội phạm thì chỉ áp dụng tình tiết này

khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

- Người phạm tội cố ý phạm tội từ năm lần trở lên cùng một tội phạm không phân

biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu

chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích. Các lần

phạm tội của trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp phải đều cùng về một tội

phạm; nếu phạm tội nhiều lần nhưng về các tội phạm khác nhau thì cũng không coi là

phạm tội có tính chất chuyên nghiệp mà thuộc trường hợp phạm nhiều tội.

Ví dụ: A đã bốn lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị bắt, trong

8 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.282]

quá trình điều tra phát hiện trước đó A còn một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản

33

chưa bị xử lý về hình sự. Trong tình huống này, hành vi lừa đảo chiếm đoạt của A không

bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” do số lần phạm tội này chưa

đủ năm lần trở lên theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP mà chỉ được coi là

trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình

sự “phạm tội nhiều lần”9. Hành vi trộm cắp tài sản của A không được coi là lần thứ năm

phạm tội khi xem xét áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” vì hành vi

này là hành vi phạm một tội khác, đó là tội trộm cắp tài sản. Đây là trường hợp phạm

nhiều tội theo Điều 55, theo đó A phải chịu trách nhiệm hình sự về cả hai tội là tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội trộm cắp tài sản (Điều 173).

- Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của

việc phạm tội làm nguồn sống chính, Thông thường trong trường hợp phạm tội có tính

chất chuyên nghiệp, người phạm tội không có nghề nghiệp để có thu nhập hợp pháp đủ

để nuôi sống bản thân mà lấy việc phạm tội làm nghề sinh sống để thu về những lợi ích

vật chất bất chính làm nguồn thu nhập chính.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm

tội đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm lần trở lên và lấy tài sản chiếm

đoạt được làm nguồn thu nhập chính. Ví dụ: A là một thanh niên có lối sống buông thả,

không nghề nghiệp, các chi phí phục vụ sinh hoạt cá nhân A thường dùng tiền do các

hành vi phạm tội của mình mà có chi trả. Trong khoảng một năm, A liên tiếp thực hiện

tám vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người quen, bạn bè (tài sản chiếm đoạt được trong

mỗi vụ đều có giá trị trên 2.000.000 đồng). Thấy mình có thể lừa được nhiều người và

kiếm được nhiều tiền từ hành vi đó nên A xác định đó là nguồn thu nhập chính để phục

vụ chi tiêu cho bản thân. Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt "có tính chất

chuyên nghiệp" tại điểm b khoản 2 Điều 174 BLHS.

Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị

9 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.283]

kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị

34

áp dụng cả ba tỉnh tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” hoặc (“tái phạm nguy hiểm”)

và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, Ví dụ: H đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 BLHS nhưng thời gian tại ngoại chờ thi hành án H lại

liên tiếp thực hiện bốn vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lấy tài sản chiếm đoạt được làm

nguồn thu nhập chính. Trong tình huống này, H phải bị áp dụng cả ba tình tiết: phạm tội

“có tính chất chuyên nghiệp” (điểm b khoản 2 Điều 174 BLHS), “phạm tội 02 lần trở

lên” và “tái phạm” (điểm g, h Khoản 1 Điều 52 BLHS).

Nếu người phạm tội thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhiều lần nhưng

không lấy việc phạm tội làm phương tiện sinh sống chính thì không coi là lừa đảo tài sản

có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần nếu những lần phạm

tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc tái phạm, tái phạm nguy hiểm nếu có

lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới và bị áp dụng tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm”

quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS khi quyết định hình phạt.

2.2.1.5 Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới 200.000.000đồng

Giá trị tài sản bị chiếm đoạt thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt càng lớn thì hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản càng nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, nhà làm luật quy định những mức giá trị

tài sản bị chiếm đoạt khác nhau làm tình tiết định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản tại khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS, tương ứng như sau: từ 50.000.000 đồng

đến dưới 200.000.000 đồng; từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng và từ

500.000.000 đồng trở lên.

Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội

và định khung hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Căn cứ vào hướng dẫn tại

Chương II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì:

Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của

35

họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

đó.

Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản

bị chiếm đoạt (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị chiếm

đoạt tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt để xem xét việc truy cứu trách

nhiệm hình sự. Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt không còn nữa, Cơ quan điều tra

cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì, nhãn,

mác của tài sản đó như thế nào, giá trị tài sản đó theo thời giá thực tế tại địa phương vào

thời điểm tài sản bị chiếm đoạt là bao nhiêu; tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm...

để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Trong trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản

nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt đều dưới 2.000.000 đồng và không thuộc một

trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng,

đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích), đồng thời trong các

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết

thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt của các lần bằng hoặc

trên 2.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

nếu các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau

về mặt thời gian, có tính chất chuyên nghiệp và do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần.

2.2.1.6. Tái phạm nguy hiểm

Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì những trường hợp sau đây được coi là

tái phạm nguy hiểm

- Người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

36

- Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội do cố ý.

Đối với trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, các lần phạm tội không đòi hỏi phải

cùng về một tội phạm, tuy nhiên nếu cả hai lần phạm tội trở lên cùng về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản và chưa bị xét xử thì người phạm tội còn bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng

trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần”. Ví dụ: B đã tái phạm (năm 2013 B bị kết án

20 tháng tù về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà năm 2016 B lại tiếp tục

phạm tội cố ý gây thương tích và bị kết án 36 tháng tù) chưa được xóa án tích mà lại liên

tiếp thực hiện ba vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tình huống này, B đã tái phạm

chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) là trường

hợp “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 BLHS. Hơn nữa,

B lại thực hiện liên tiếp ba vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên ngoài tình tiết định

khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”, B còn bị áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhiều

lần” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52

BLHS.

2.2.1.7. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là trường

hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức làm

phương tiện để thực hiện tội phạm.

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình

thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ

nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công

vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có

chức vụ nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được tham

gia thực hiện công vụ nhất định.

Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là trường hợp người phạm tội núp dưới danh

nghĩa của cơ quan, tổ chức mình là thành viên để thực hiện tội phạm. Thông thường

37

người phạm tội trong trường hợp này bằng việc sử dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức của

mình để ký kết các hợp đồng kinh tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Ví dụ: A là cán bộ văn phòng tại cơ quan X, A được giao mua bán hàng hóa đối với

các mặt hàng như xăng dầu, bàn ghế,…, việc mua bán văn phòng phẩm sẽ do B cùng bộ

phận văn phòng thực hiện. Tuy nhiên A đã nói dối rằng mình được lãnh đạo giao cho

mua bán văn phòng phẩm của cơ quan A đã yêu cầu D phải giao hàng cho mình. Vì tin

tưởng và nghĩ A cũng làm bộ phận văn phòng nên D đã giao hàng cho A. Sau khi nhận

hàng A đã đem bán lô hàng đó được 30.000.000 đồng và bỏ trốn. D không nhận được tiền

thanh toán nên đã tố cáo hành vi của A.

2.2.1.8. Dùng thủ đoạn xảo quyệt

Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội sử dụng những mánh khóe,

cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó biết trước để đề

phòng. Bất kể một hành vi lừa dối nào cũng đều sử dụng những cách thức khiến người bị

hại tin tưởng mà giao nhầm hoặc nhận nhầm tài sản, qua đó người phạm tội chiếm đoạt

được tài sản một cách thuận lợi. Tuy nhiên mức độ xảo quyệt của thủ đoạn gian dối ở mỗi

trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt là khác nhau tùy thuộc vào khả năng, trình độ

của người phạm tội cũng như sức thuyết phục của thủ đoạn gian dối đó đối với người bị

hại. Những trường hợp phạm tội với thủ đoạn gian dối tinh vi, xảo quyệt hơn hẳn các

trường hợp phạm tội thông thường cần phải được nghiêm trị, vì vậy, nhà làm luật quy

định tình tiết định khung tăng nặng “dùng thủ đoạn xảo quyệt” để có đường lối xử lý

nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp phạm tội này.

Ví dụ: A mua được một chiếc ô tô mang biển số nước Lào được cấp giấy phép lưu

thông tại Việt Nam. Do giá xe ở Việt Nam đắt hơn ở Lào nhiều lần nên A đã làm giả hồ

sơ và tất cả các loại giấy tờ nhằm hợp pháp hóa chiếc xe với mục đích bán kiếm lời. Sau

khi có làm đủ các giấy tờ A đã đem bán chiếc xe cho B với giá 500.000.000 đồng.

2.2.1.9 Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản,

mội trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm, bão, áp thấp nhiệt

38

đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún do

mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá,

sương muối, động đất, sóng thần và các loại thiên tai khác.

Dịch bệnh là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số lượng lớn

những người bị nhiễm trong một cồng đồng hoặc một khu vực trong vòng một thời gian

ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.

Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để phạm tội là trường hợp người phạm tội

đã lợi dụng trở ngại do thiên tai hoặc lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh gây ra để

thực hiện tội phạm.

Khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh là lúc mọi nguồn lực của xã hội cũng như cá nhân

đều cùng chung sức để phòng, chống lại dịch bệnh và thiên tai đó nhằm bảo vệ con người

và tài sản tránh được những tổn thất không đáng có, lúc này là lúc các xã hội và cá nhân

đều đề phòng tội phạm ở mức thấp nhất. Tội phạm của tội này đã lợi dụng tình hình đó

thực hiện hành vi phạm tội một cách dễ dàng. Chính vì vậy để phòng ngừa cũng như răn

đe BLHS đã quy định tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” không chỉ coi là tình tiết

tặng nặng trách nhiệm hình sự mà còn quy định là tình tiết định khung tăng nặng trong

khung hình phạt tại khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015.

Ví dụ: Bà V đã mua các loại dụng cụ gồm bình đá, kim tiêm để bơm nước cất,

kháng sinh vào bên trong. Bà V tự nhận là nhân viên y tế dự phòng và có vắc xin ngừa

bệnh Covid-19. Do tình hình dịch Covid-19 bùng phát mạnh, người dân rất hoang mang,

bà V giới thiệu có vắc xin phòng bệnh Covid-19, mỗi mũi tiêm vắc xin Covid-19 bà V

thu 2.000.000 đồng/mũi. Bà V còn lấy phôi của một phiếu chỉ định tiêm ngừa thật đem

photocopy ra thành các phiếu giả để phát cho bị hại sau mỗi lần tiêm để tạo lòng tin.

Nhiều người dân địa phương do thiếu hiểu biết và lo sợ mình và gia đình bị nhiễm bệnh

nên đã đến nhà hoặc thuê bà V đến nhà riêng của mình để tiêm phòng. Với hành vi này,

bà V đã chiếm đoạt được số tiền là 48.000.000đồng.

2.2.1.10 Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp

39

Chiến tranh là hiện tượng chính trị – xã hội có tính chất lịch sử, sự tiếp tục

của chính trị bằng bạo lực giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa các nước

hay liên minh các nước với nhau. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có tổ

chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình thức đấu tranh khác

(chính trị, kinh tế, ngoại giao,...)

Tình trạng khẩn cấp là một tuyên bố của chính phủ mà theo đó có thể tạm ngưng

một số chức năng bình thường của chính phủ và có thể cảnh báo công dân của mình thay

đổi các hành vi bình thường hoặc có thể ra lệnh cho các cơ quan của chính phủ thi hành

các kế hoạch sẵn sàng cho tình trạng khẩn cấp. Nó cũng được sử dụng làm một cơ sở hợp

lý để tạm ngừng các quyền tự do dân sự. Các tuyên bố tình trạng khẩn cấp thường được

ban bố trong thời kỳ có thiên tai, trong các giai đoạn bạo loạn dân sự, hoặc sau một

vụ tuyên chiến, chuẩn bị có dấu hiệu xảy ra một cuộc chiến tranh.

Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội, xét về mặt đạo

đức cần phải lên án, vì trong hoàn cảnh đó mọi người tập trung vào việc khắc phục hậu

quả của chiến tranh, cứu chữa người bị nạn nhưng trong tình trạng khẩn cấp thì người

phạm tội lại lợi dụng để thực hiện tội phạm chứng tỏ động cơ, mục đích xấu, cần phải

nghiêm trị. Chính vì vậy, tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”

không chỉ coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà còn được quy định là tình tiết

định khung tăng nặng trong khung hình phạt nặng nhất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

theo khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015.

Ví dụ: Nước ta và một nước giáp biên giới có xung đột vũ trang và xung đột này

kéo dài nhiều tháng và diễn biến rất phức tạp. Do diễn biến phức tạp, mọi ngả đường di

chuyển đến các địa phương giáp biên giới đều bị địch tấn công rất dữ dội nên việc vận

chuyển, tiếp tế lương thực đến những tỉnh này gặp rất nhiều khó khăn. Khiến cho tình

trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm tăng mạnh, các điểm bán hàng lương thực, thực

phẩm của Nhà nước trở nên quá tải, nhiều người dân không thể mua được lương thực,

thực phẩm phục vụ cuộc sống. A là công dân của tỉnh có biên giới giáp với nước có xung

đột vũ trang. Nhận thấy nhu cầu mua tích trữ gạo tại địa phương tăng cao, A tự giới thiệu

40

mình có thể mua gạo với số lượng lớn hơn so với số lượng Nhà nước bán cho dân. Có

nhiều người tin tưởng A nên đã tìm đến A nhờ mua gạo. Tuy nhiên sau khi nhận tiền của

người dân A đã bỏ trốn khỏi địa phương. Theo thống kê A đã chiếm đoạt của 18 người

dân địa phương với tổng số tiền là 180.000.000 đồng. Trong tình huống này hành vi lừa

dối là “nói dối là có thể mua gạo cho người dân nhiều hơn số lượng Nhà nước bán cho”

và hành vi chiếm đoạt là chiếm đoạt số tiền 180.000.000 đồng. Với hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản này thì A chỉ bị truy tố theo khoản 2 Điều 174. Tuy nhiên trong trường

hợp này chúng ta phải xem xét đến bối cảnh thực hiện hành vi của A là trong bối cảnh

nào. Ở đây bối cảnh thực hiện hành vi của A là bối cảnh nước ta có xung đột vũ trang với

nước láng giềng và các tỉnh giáp biên giới đang gồng mình chiến đấu bảo vệ lãnh thổ.

Tuy nhiên A là công dân địa phương không góp sức bảo vệ đất nước và khắc phục tình

trạng thiếu lương thực tại địa phương mà lại lợi dụng tình hình chiến tranh để chiếm đoạt

tài sản của người dân. Tuy số tiền chiếm đoạt không lớn, chỉ nằm trong khung truy tố tại

khoản 2 Điều 174 nhưng hành vi này lại là tình tiết định khung tại điểm c khoản 4 Điều

174 là “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” với khung hình phạt rất

nặng. Với quy định này các nhà làm luật thể hiện sự răn đe rất cứng rắn của mình đối với

người phạm tội hoặc có ý định phạm tội trong trường hợp này giúp phần ngăn ngừa loại

tội phạm này diễn ra trong hoàn cảnh đó.

2.2.1.11. Hậu quả của tội phạm

Ngoài những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản nêu trên còn có những hậu

quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách

của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trong các trường hợp

này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây

ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng BLHS năm 2015 đã bỏ

các tình tiết định khung hình phạt “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm

trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đồng

thời bổ sung thêm các tình tiết định khung tăng nặng như “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”,

41

“lợi dụng hoản cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” và một số tình tiết định khung

tăng nặng dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Việc thay thế các tình tiết định tính "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất

nghiêm trọng" gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" bằng các tình tiết định lượng như

“chiếm đoại tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc

một trong các tường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”. Tuy đảm

bảo tính khách quan và thông nhất cho việc áp dụng BLHS nhưng cũng thể hiện những

bất cập nhất định khi mà tình tiết định lượng đó có thể phù hợp tại thời điểm ban hành

BLLIS nhưng sau một thời gian áp dụng có thể sẽ không còn phù hợp nữa và cần thiết

phải sửa đổi, bổ sung khiến cho BLHS không giữ được tính ổn định và hiệu lực lâu dài.

Do đó, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: “Việc định lượng để chỉ dẫn áp dụng các

khung hình phạt tăng nặng chỉ nên tồn tại trong các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS

và có khả năng dễ dàng thay đổi để đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm”.

2.2.2. Hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại Điều 30 BLHS thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc

nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do Toà án quyết định áp dụng đối với

người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người đó.

Hình phạt được chia thành hai nhóm là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong

đó hình phạt chính được tuyên độc lập và mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt

chính; hình phạt bổ sung không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm với hình phạt

chính và có thể tuyên một, nhiều hoặc không tuyên hình phạt bổ sung đối với mỗi tội

phạm.

Hình phạt chính của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1, 2, 3

và 4 còn hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS.

2.2.2.1. Hình phạt chính

Hình phạt chính của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hình phạt cải tạo không

giam giữ, tù có thời hạn và tù chung thân.

42

Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm được

áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, có nơi làm việc

ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng khi xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm

tội khỏi xã hội (Điều 36 BLHS).

Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 BLHS, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi

thường trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội với thời hạn

cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm. Tòa án giao người bị phạt cải tạo

không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc giao cho ủy

ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục và gia đình người bị kết án

cũng có trách nhiệm phối hợp với những cơ quan, tổ chức trên để giám sát, giáo dục

người đó trong thời gian cải tạo không gian giữ. Bên cạnh việc phải thực hiện một số

nghĩa vụ nhất định theo các quy định về cải tạo không giam giữ, hàng tháng người bị kết

án còn bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% đề sung quỹ nhà nước, trừ trường

hợp đang thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc được Tòa án miễn việc khấu trừ thu nhập

trong bản án của Tòa án khi có lý do chính đáng. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có

thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Không khấu

trừ thu nhập đối với người chưa thanh niên phạm tội (tức là người phạm tội chưa đủ 18

tuổi). BLHS 2015 còn có điểm mới quy định về xử phạt cải tạo không giam giữ đối với

người không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này

thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo

không giam giữ. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ

có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm

nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Điểm mới trong hình thức xử

phạt cải tạo không giam giữ này cho thấy sự tiếp thu, cập nhật theo xu hướng xã hội và

những nước phát triển trên thế giới.

Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội tại cơ sở giam giữ

trong một thời hạn nhất định để học tập, lao động, cải tạo. Tù có thời hạn là hình phạt

43

nghiêm khắc hơn so với cải tạo không giam giữ, nhằm hạn chế sự tự do của người bị kết

án và buộc họ phải cải tạo trong các cơ sở giam giữ nhất định. Điều 174 BLHS quy định

hình phạt tù có thời hạn với các khung hình phạt khác nhau tương ứng với thực độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi lừa đảo chiều đoạt tài sản, bao gồm: Từ 06 tháng đển 03 năm

tù (khoản 1); từ 02 năm đến 07 năm tù (khoản 2); từ 07 đến 15 năm tù (khoản 3) và từ 12

năm đến 20 năm tù (khoản 4).

Tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn được áp dụng đối với người phạm

tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Tù

chung thân là hình phạt nghiêm khắc hơn so với hình phạt tù có thời hạn, thể hiện ở chỗ

tù chung thân có khả năng tước tự do của người bị kết án đến hết đời. Đối với tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, hình phạt tù chung thân được quy định tại khoản 4 Điều 174 BLHS, là

trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 39 và khoản 5 Điều 91

BLHS quy định không xử phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi. Theo đó, người

chưa đủ 18 tuổi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 174 chỉ có thể bị

áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất được áp dụng cũng không

quá 18 năm tù nếu là người từ đủ 16 tuổi đến duới 18 tuổi.

BLHS năm 2015 không quy định hình phạt chính với người phạm tội từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Có nghĩa là người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Qua đó thể hiện tính nhân văn của BLHS năm 2015 và thể hiện việc đánh giá khách quan

đối với năng lực trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2.2.2.2. Hình phạt bổ sung

Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của nhà nước nhằm mục đích giáo dục,

cải tạo, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới, được áp dụng cùng với hình phạt chính

nhằm tăng cao hiệu quả của hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS thì ngoài hình phạt chính, người phạm

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000

44

đồng; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất định để sung

quỹ nhà nước, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm

trọng của tôi đã phạm, tình hình tài sản, hoàn cảnh kinh tế của người phạm tội và sự biến

động về giá cả để xem xét có hay không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và mức

phạt tiền cụ thể đối với người phạm tội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hình phạt bổ

sung là phạt tiền với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, theo đó, mức

phạt tiền tối đa có thể áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là

100.000.000 đồng, mức phạt tiền tối thiếu có thể dưới 10.000.000 đồng nếu người phạm

tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng không được

dưới 1.000.000 đồng (khoản 3 Điều 35 BLHS).

Hình phạt bổ sung thứ hai có thể áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một số công việc nhất

định từ 01 năm đến 05 năm. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm chức

vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc

sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì họ có thể lại có điều kiện phạm tội mới. Thông

thường, hình phạt bổ sung này được áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng

danh nghĩa cơ quan, tổ chức theo điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS vì căn cứ vào tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhân thân người phạm

tội xét thấy nếu để họ tiếp tục giữ chức vụ, quyền hạn khác tiếp tục làm việc trong công

ty, tổ chức đó thì họ vẫn có điều kiện để có thể phạm tội mới.

Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản là hình phạt bổ sung thứ ba có thể áp dụng

đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

nhằm tước một phần hoặc toàn bộ tài sản của người bị kết án để sung quỹ nhà nước. Tuy

nhiên, hình phạt bổ sung tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản chỉ áp dụng đối với

45

trường hợp phạm tội nghiệm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng của tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2, 3, 4 Điều 174 BLHS, Trường hợp tịch thu tàn bộ

tài sản của người bị kết án vẫn phải đảm bảo cho người bị kết án và gia đình họ có những

phương tiện sinh hoạt tối thiểu để duy trì điều kiện sinh sống cho gia đình và bản thân

người bị kết án sau khi chấp hành án (Điều 45 BLHS).

2.3. Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

2.3.1. Tình hình xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2015 – 2019

Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ với diện tích

3.895,5,4 km², dân số 1.803.950 người trong đó có 06 dân tộc nhưng người Kinh chiếm

đa số (88,1%). Hiện nay Bắc Giang là trung tâm kinh tế lớn thứ hai của vùng Trung du và

miền núi phía Bắc với GDP bình quân đầu người đạt hơn 60 triệu đồng (tương ứng với

2.620 USD). Với vị trí địa lý nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) -

Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất

thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực. Do đó

Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ

tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,

đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách

thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch. Dưới sự lãnh đạo của

Chính quyền địa phương nền kinh tế tỉnh Bắc Giang đã có những bước chuyển biến mạnh

mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Song song

với sự phát triển của kinh tế thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường như sự phân

hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội... cũng khiến cho tình hình tội phạm nói chung và các tội

phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng phổ biến và đa dạng, gây thiệt hại nghiêm

trọng về tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã

hội trên địa bàn tỉnh.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) là một trong các tội xâm phạm sở

hữu có diễn biến ngày càng phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực

ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, vay mượn... với thủ đoạn phạm tội ngày cảng tinh

46

vi, xảo quyệt. Trong các năm 2017, 2018 tỉnh Bắc Giang đã đưa ra xét xử nhiều vụ án về

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất rất nghiêm trọng đối với các bị cáo Nguyễn Thị

Thúy, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Thị Kha, Hoàng Vũ Tăng, Đặng Thị Việt Hà, …

Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo đã chiếm đoạt lượng tài sản có giá trị

rất lớn so với kinh tế tại địa phương, nó gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho người

dân, các tổ chức và cho toàn xã hội. Điều này cho thấy tình hình tội phạm lừa đảo chiếm

đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Giang diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải nghiên cứu và đề xuất

những biện pháp hiệu quả nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài

sản trong tình hình mới.

Trong những năm gần đây, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, mỗi năm xét xử

sơ thẩm hàng chục vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và ngày càng có xu hướng tăng

về cả số vụ án, số bị cáo, lẫn mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Bảng 1: Số vụ, số bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị đưa ra xét xử sơ thẩm tại

tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 – 2019

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Giai đoạn

2015 - 2019 Số vụ Số bị cáo

Tổng 220 297

TB/ năm 44 59,4

(Nguồn: TAND tỉnh Bắc Giang)

Bảng 2: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2015 đến năm 2019

Tội lừa đảo Tỉ lệ % tăng, giảm Năm chiếm đoạt tài sản

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo 2015 58=100% 69=100% 0,0 0,0

54 94 93,1% (-6,9%) 136,2% (+36,2%) 2016

34 44 58,6% (-41,4%) 63,8% (- 36,2%) 2017

47

2018 21 25 36,2% (-63,8%) 36,2% (- 63,8%)

2019 53 65 91,3% (-8,7%) 94,2% (-5,8%)

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Giang)

Từ bảng 2 ta có biểu đồ sau:

Biểu đồ 1: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2015 đến năm 2019

160

140

136,2

120

94,2

100

100 100

93,1

91,3

80

Số vụ

Số bị cáo

60

63,8 58,6

40

36,2 36,2

20

0

2015

2016

2017

2018

2019

Trong giai đoạn 2015 – 2019, tòa án đã xét xử sơ thẩm 220 vụ đối với 297 bị cáo

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trung bình mỗi năm xét

xử sơ thẩm 44 vụ với 59 bị cáo.

Về số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Lấy số liệu năm 2015 làm gốc với 58 vụ tương

đương 100% thì năm 2016 có 54 vụ, giảm 6,9%; năm 2017 có 34 vụ, giảm 41,4%; năm

2018 có 21 vụ, giảm 63,8%, năm 2019 có 53 vụ, giảm 8,7%.

Về số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Lấy số liệu năm 2015 làm gốc với

69 bị cáo phạm tội tương đương 100% thì năm 2016 có 94 bị cáo phạm tội, tăng 36,2%;

năm 2017 có 44 bị cáo phạm tội, giảm 36,2%; năm 2018 có 25 bị cáo phạm tội, giảm

63,8%; năm 2019 có 65 bị cáo phạm tội, giảm 5,8%.

48

Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có xu hướng giảm cả về số vụ và số bị cáo, tuy nhiên

mức độ giảm có sự khác nhau nên diễn biến năm sau so với năm trước có lúc tăng, lúc

giảm nhưng đều giảm so với năm gốc. Đặc biệt trong năm 2016 số vụ lừa đảo chiếm đoạt

tài sản giảm trong khi số bị cáo phạm tội so với năm 2015 lại tăng mạnh. Năm cuối giai

đoạn (2019), tuy số vụ và số bị cáo phạm tội giảm so với năm gốc nhưng lại có chiều

hướng tăng so với năm 2018.

Bảng số 3: Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng

Loại và mức hình phạt đã được áp dụng

Cải HP tù HP tù HP tù tạo HP tù HP HP TS NPT từ 03 từ trên 07 từ trên 15 không từ trên 03 năm tù chung Tử năm trở năm đến năm đến giam đến 07 năm thân hình xuống 15 năm 20 năm giữ

297 1 100 129 52 12 3 0

100% 0,3 33,7 43,5 17,5 4 1 0

(Nguồn: Văn phòng – TAND tỉnh Bắc Giang)

49

Từ bảng số liệu, ta có biểu đồ sau:

Biểu đồ: Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng

0,3

1

Cải tạo không giam giữ

4

17,5

HP tù từ 03 năm trở xuống

33,7

HP tù từ trên 03 năm đến 07 năm

HP tù từ trên 07 năm đến 15 năm

43,5

HP tù từ trên 15 năm đến 20 năm

HP chung thân

Bảng và biểu đồ trên cho thấy: Loại hình phạt được áp dụng chủ yếu cho bị cáo

phạm tội là hình phạt tù có thời hạn với tổng số 293 bị cáo phạm tội bị áp dụng, chiếm tỷ

lệ 98,7% . Trong đó, tù từ 03 năm trở xuống chiếm 33,7%, tù từ trên 03 năm đến 07 năm

chiếm tỉ lệ cao nhất là 43,5%, tù từ trên 07 năm đến 15 năm là 17,5%. Số bị cáo bị áp

dụng hình phạt tù chung thân chiếm 1%. Số bị cáo phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo

không giam giữ chiếm 0,3%.

Tỷ lệ giải quyết án hình sự hàng năm nói chung của toàn tỉnh Bắc Giang luôn đạt

chỉ tiêu trên 90%/năm, vượt chỉ tiêu thi đua của nganh Tòa án đề ra. Tuy nhiên đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn 2015-2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang

thụ lý 266 vụ nhưng chỉ giải quyết được 220 vụ, đạt tỷ lệ 82.7% thấp hơn nhiều so với chỉ

tiêu chung của ngành đề ra. Bên cạnh đó cũng là tội phạm xâm phạm sở hữu nhưng tội

trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2015-2019 thụ lý

454 vụ, giải quyết được 425 vụ đạt tỷ lệ 93,6%. Hay như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

50

đoạt tài sản thụ lý 356 vụ, giải quyết được 338 vụ đạt tỷ lệ 94,9%. Đều vượt chỉ tiêu

ngành đề ra hàng năm.

Có thể thấy rằng, trong những năm vừa qua với số lượng lớn các tội phạm lừa đảo

chiếm đoạt tài sản bị đưa ra xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hàng năm đã phần nào phản ánh

được hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu nói chung

và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Tuy nhiên với những số liệu nêu trên có thể

thấy trong quá trình giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế, các cơ

quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp không ít những vướng mắc, bất cập

trong việc áp dụng quy định của BLHS, gây ảnh hưởng nhất định đến chất lượng xét xử

tội phạm này.

2.3.2. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản

2.3.2.1. Việc xác định mục đích chiếm đoạt

Mục đích chiếm đoạt tài sản mặc dù không được mô tả trong CTTP của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản tại Điều 174 BLHS nhưng được phản ánh thông qua hành vị khách

quan của tội này, do đó, mục đích chiếm đoạt được coi là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế, có nhiều trường hợp xác định không

đúng về mục đích chiếm đoạt khi định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã

dẫn đến tình trạng oan sai, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội

phạm này.

Thứ nhất, một số trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chỉ bị coi là

tranh chấp về dân sự và ngược lại, có những vụ tranh chấp về dân sự nhưng lại bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội lứa đảo chiếm đoạt tài sản, do cơ quan tiến hành tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án đã không xem xét đến mục đích chiếm đoạt tài sản của

người phạm tội, vụ án sau đây là một minh chứng:

Khoảng tháng 8/2015, A có trúng đấu giá 01 lô đất tại thị trấn J, huyện X, tỉnh Bắc

Giang. Sau khi trúng đấu giá A bán lô đất trên với giá 200.000.000 đồng cho B. B đặt

cọc 60.000.000 đồng và hẹn 01 tuần sau trả nốt tiền (lúc này lô đất chưa được cấp Giấy

51

chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng A nói dối B là đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất rồi để dễ mua bán). Sau khi bán cho B do biến động đất tại địa phương tăng

cao. C đã đến gặp A và trả A lô đất trên giá 300.000.000 đồng nên A đã đồng ý bán cho

C nhưng hẹn sau 01 tháng nữa mới làm thủ tục sang tên được. Một tuần sau B đem số

tiền còn lại để làm hợp đồng mua bán thì A lại không đồng ý bán cho B với giá

200.000.000 đồng nữa với lý do đã bán cho C giá 300.000.000 đồng. A đề nghị trả lại B

60.000.000 đồng tiền đặt cọc nhưng B không đồng ý và yêu cầu ông A phải tiếp tục thực

hiện hợp đồng. A không đồng ý nên B đã tố cáo A lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình

đến cơ quan điều tra huyện X.

Cơ quan điều tra cho rằng lô đất A chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sự dụng

đất nên A chưa được thực hiện quyền bán tài sản theo quy định của pháp luật, A đã dùng

thủ đoạn gian dối (nói dối đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để tham gia giao

dịch và nhận tiền của B là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã khởi tố A về tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS. Căn cứ vào kết luận điều tra, Viện kiểm sát

truy tố A về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 BLHS. Sau khi thụ lý

vụ án, Tòa án cho rằng sau khi nhận tiền từ B, A không có ý thức dùng hợp đồng dân sự

để chiếm đoạt tài sản của người khác nên hành vi của A không thỏa mãn CTTP quy định

tại Điều 174 BLHS nên đã ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.”

(Tại cáo trạng số 46/2015/CT-VKS ngày 25/12/2015)

Trong vụ án này, mặc dù A đã có hành vi lừa dối trong quá trình xác lập giao dịch

và ký kết hợp đồng với B và cũng đã nhận tài sản từ B, nhưng hành vi lừa dối đó không

nhằm chiếm đoạt tài sản của B mà chỉ nhằm tạo niềm tin khi thự hiện hợp đồng. Trường

hợp này chỉ là tranh chấp về dân sự, hành vi lừa dối của A chỉ vi phạm pháp luật dân sự

làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu với lỗi cố ý của A.

Vì vậy, cơ quan điều tra và viện kiểm sát kết luận A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản khi chưa xác định A có mục đích chiếm đoạt hay không là thiếu sót, dẫn đến việc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật khác mà không phải tội phạm.

52

Thứ hai, trường hợp xác định không đúng thời điểm người phạm tội nảy sinh mục

đích chiếm đoạt cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng định tội sai giữa tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)

như trong vụ án dưới đây.

Vào khoảng 08 giờ 5 phút ngày 21/02/2016, Nguyễn Thi V mượm chiếc xe máy

nhãn hiệu Honda Lead mang biển kiểm soát 98Y5-164.01 của chị Nguyễn Thị L (là hàng

xóm) để đi học. Trước đó, V đã mược xe máy của L nhiều lần và đều trả lại đúng hẹn.

Sau khi mượn được xe, V không đi học mà đến nhà Nguyễn Thị T (bạn học) chơi. Khoảng

15 giờ 30 phút cùng ngày, T hỏi vay tiền của V nhưng V không có tiền, V đã nhờ T đem

bán chiếc xe máy của L lấy tiền tiêu xài, rồi trở về nói với L là cho K mượn xe. Sau khi

hỏi K thì L biết rằng V không phải cho K mượn xe của mình. L đến trình báo cơ quan

điều tra.

Qua quá trình điều tra đã phát hiện hành vi phạm tội của V và T; cơ quan điều tra

khởi tố V và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do đã có hành vi dùng thủ đoạn gian đối

chiếm đoạt tài sản là chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, biển kiểm soát 95Y5 164. 01

của L, Căn cứ vào bản kết luận điều tra và các chứng cứ trong vụ án, Viện kiểm sát nhân

viên cũng truy tố V và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS. Sau khi

thụ lý vụ án, Tòa án cho rằng hành vi của V và T cấu thành tội lạm dụng tín hiện chiếm

đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS nền đã trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

(Tại Cáo trạng số 25/2016/CT-VKS ngày 15/5/2016)

Trong quá trình giải quyết vụ án tồn tại hai quan điểm khác nhau về hướng giải

quyết vụ án, cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, V và T phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì mục

đích chiếm đoạt của V có trước khi V mượn chiếc xe của L vào ngày 21/2/2016. V nói

dối L là mượn xe để đi học, trong khi đó V đến nhà T và nhờ T bán xe, sau đó lại tiếp tục

có hành vi lừa dối (nói với L là cho K mượn xe) để che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản

của mình. Theo quan điểm này, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát đã truy cứu V

và T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS.

53

Quan điểm thứ hai nhận định, V và T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản, vì mục đích chiếm đoạt tài sản của cả V và T có sau khi V mượn chiếc xe của L.

Mặc dù V nói dối L là mượn xe để đi học nhưng hành vi lừa dối này không nhằm mục

đích chiếm đoạt mà chỉ nhằm thuận lợi mượn được xe của L để đến nhà T chơi. Sau khi

V mượn được xe của L, đến lục T hỏi vay tiền V mới nảy sinh ý định chiếm đoạt và nhờ

T bán xe lấy tiền tiêu xài sau đó nói dối anh L là cho K mượn xe nhằm che giấu hành vi

phạm tội của mình. Căn cứ vào nhận định trên, Tòa án đã ra quyết định trả hồ sơ để điều

tra bổ sung với lý do hành vi phạm tội của V và T cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS.

Trong vụ án này, để kết luận V và T phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174)

hay tội lạm đụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175) cần phải xác định thời điểm nảy sinh ý

định chiếm đoạt tài sản của V. Việc V mượn xe ban đầu chỉ nhằm mục đích sử dụng để di

chuyển. Sau khi đến nhà T, V cũng không đề nghị T bán xe ngay và cũng không bàn bạc

trước ý định chiếm đoạt tài sản mà phải đến 15 giờ 30 phút cùng ngày khi T hỏi vay tiền

của V nhưng V không có, lúc này V mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và nhờ T bán

chiếc xe máy của anh L để lấy tiền tiêu xài. Căn cứ những lập luận trên, tác giả đồng ý

với quan điểm thứ hai, V và T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều

175 BLHS.

Tuy nhiên, việc xác định chính xác thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích

chiếm đoạt tài sản trên thực tế không hề dễ dàng, bởi mục đích chiếm đoạt thuộc về mặt

chủ quan của tội phạm, “là kết quả trong ý thức chủ quan và người phạm tội đặt ra phải

đạt được trước khi thực hiện hành vi phạm tội". Vì vậy, việc xác định thời điểm nảy sinh

mục đích chiếm đoạt càng gặp nhiều khó khăn khi người phạm tội một mực khai báo gian

dối, gây trở ngại cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc

chứng minh tội phạm. Trên thực tế có nhiều trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có giá trị trên 2 triệu đồng nhưng dưới 4 triệu đồng và không thuộc các trường hợp

gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã

bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, người phạm

54

tội thường khai rằng sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý định chiếm đoạt để trốn

tránh trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 174 BLHS, mức tối thiểu về giá

trị tài sản bị chiếm đoạt để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản là từ 2.000.000 đồng trở lên, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại quy

định từ 4.000.000 đồng trở lên. Do định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở cấu thành cơ

bản giữa hai tội không bằng nhau, trong khi đó chế tài áp dụng đối với hai tội này là như

nhau, nên có nhiều trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị dưới 4 triệu

đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự

như: gây hậu quả nghiêm trọng: đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án chưa được xóa án

tích), nhưng người phạm tội khai báo gian dối về thời điểm này sinh mục đích chiếm đoạt

và trong trường hợp không chứng minh được mục đích chiếm đoạt có trước khi nhận tài

sản thì không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

(Điều 174), cũng như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) dẫn đến việc

bỏ lọt tội phạm.

Vì vậy, khi xác định thời điểm người phạm tội có mục đích chiếm đoạt để truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) hay tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) thì không chỉ căn cứ vào lời khai của người phạm

tội mà còn phải xem xét đầy đủ, khách quan và toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong

hồ sơ.

2.3.2.2. Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Thứ nhất, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi bằng thủ đoạn gian dối

chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, thủ đoạn gian dối cũng được coi là đặc trưng

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải mọi trường hợp phạm tội có thủ

đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt là đủ yêu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

(Điều 174 BLHS). Trên thực tế, có một số trường hợp phạm các tội xâm phạm sở hữu

khác mặc dù người phạm tội có dùng thủ đoạn gian dối nhưng chỉ nhằm mục đích tiếp

cận tài sản, không có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn bị coi

là trường hợp phạm tội lừa đảo chiêm đoạt tài sản. Vụ án dưới đây là một minh chứng:

55

Vào khoảng 19 giờ, ngày 13 tháng 01 năm 2016, Vi Văn T bàn bạc và rủ Vi Văn Đ;

T là em ruột của Đ đi đến cửa hàng mua bán và trao đổi xe, mục đích tìm tài sản chiếm

đoạt bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, Đ đồng ý. Sau đó T mua một chiếc xe cũ và cùng Đ

đến cửa hàng mua bán và trao đổi xe anh S bằng chiếc xe đó. Đến nơi, Đ đứng ở bên

ngoài còn T đi vào gặp anh S giả vờ đem xe đi bán và nói với anh S có nhu cầu mua xe

mới và T yêu cầu anh S lấy chiếc xe mới của cửa hàng và cho T xem, anh S tưởng T có

nhu cầu mua thật nên đã vào bên trong lấy 01 chiếc xe cho T xem. Sau một hồi xem T, Đ

thống nhất mua chiếc xe mới này sau đó yêu cầu anh S viết giấy tờ, trong lúc anh S đang

viết giấy tờ thì T yêu cầu anh S cho mượn chìa khóa xe để kiểm tra, Anh S vừa đưa chìa

khóa cho T và quay vào viết tiếp giấy tờ thì T, D nổ xe chạy mất bỏ lại chiếc xe cũ. Anh S

phát hiện sự việc tri hô nên mọi người đuổi theo bắt được Đ, T cùng tang vật. Theo kết

luận định giá thì chiếc xe mà T, Đ chiếm đoạt có giá trị là 18.900.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có hai

quan điểm nổi bật, quan điểm thứ nhất cho rằng T và Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”

theo Điều 171 BLHS và quan điểm thứ hai cho rằng T và Đ phạm tội "Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS.

(Tại Cáo trạng số 29/2017/CT-VKS ngày 12/7/2017)

Trong vụ án trên, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất cho rằng T và Đ phạm tội

“Cướp giật tài sản” theo Điều 171 BLHS. Mặc dù T và B có thủ đoạn gian dối khi giả vở

đem bán chiếc xe máy cũ của T đề mua xe mới ở cửa hàng của anh S và yêu cầu anh S

mang xe mới ra cho T xem, tuy nhiên hành vi lừa dối này chỉ nhằm mục đích tiếp cận tải

sản, không mang tính quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài

sản sau đó không phải kết quả của hành vi lừa dối, anh S cũng không tự nguyện giao xe

cho T thực hiện quyền chiếm hữu mà do T lợi dụng sơ hở của anh S khi viết giấy tờ và

cho mượn chìa khóa kiểm tra xe để nhanh chóng chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của T và Đ

cấu thành tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 BLTIS.

Sở dĩ có quan điểm T và Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174

BLHS là do khi xem xét các tình tiết của vụ án đã tuyệt đối hóa thủ đoạn gian dối của

56

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không đánh giá đúng vai trò của thủ đoạn gian dối đối

với hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là

mục đích và kết quả của hành vi lừa dội. Vì vậy, trong trường hợp người phạm tội có thủ

đoạn gian dối nhưng chỉ nhằm mục đích tiếp cận tài sản và hành vi chiếm đoạt có dấu

hiệu đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu khác như dấu hiệu lén lút (tội trộm cắp tài

sản), dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt một cách công khai tội cướp giật tài sản)... thì thủ

đoạn gian dối không có ý nghĩa về mặt định tội mà phải căn cứ vào các dấu hiệu đặc

trưng của hành vi chiếm đoạt để định tội danh cho chính xác.

Thứ hai, một số trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị nhầm lẫn với

trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản, do xác định không đúng về người bị chiếm đoạt

dẫn đến đánh giá sai tính chất của hình vi phạm tội là hành vi lén lút (của tội trộm cắp tài

sản) hay bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản. Vụ án dưới đây là một minh chứng:

Khoảng tháng 5/2017 Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xảy ra 01 vụ mất xe máy

nhãn hiệu Honda SH biển số 98A-024.54 của chị Hoàng Khánh L gửi tại bãi gửi xe của

bệnh viện. Qua điều tra, xác minh cơ quan điều tra đã bắt được đối tượng tên Vũ Văn P.

P khai nhận hành vi như sau: Trong một lần đi thăm người quen bị ốm nằm điều trị tại

bệnh viện P nhận thấy tại bãi giữ xe của bệnh viện thực hiện trông giữ xe bằng hình thức

ghi biển số của xe cần gửi vào phiếu giữ xe của bệnh viện. P đã nảy sinh ý định chiếm

đoạt một số xe máy có giá trị cao trong bãi gửi nên đã đi mua 01 chiếc xe máy cũ hiệu

Honda Wave biển số 98A-124.35 đem vào gửi tại bãi gửi xe của bệnh viện. Chờ lúc bãi

xe vắng người P tháo biển số chiếc xe Honda Wave đổi sang chiếc Honda SH. Sau đó lấy

chiếc Honda SH ra ngoài bằng phiếu gửi xe của chiếc Honda Wave. Do phiếu gửi xe và

biển số xe trùng biển số nên nhân viên nhà xe đã cho P lấy xe ra ngoài. P đem cắm chiếc

xe tại một hiệu cầm đồ. Chị L mất xe đã trình báo công an. Kết quả định giá xác định xe

mô tô hiệu Honda SH của chị L trị giá 40.980.000 đồng.

Qua truy tố xét xử vụ án có hai quan điểm được đưa ra. Quan điểm thứ nhất cho

rằng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Quan điểm thứ hai thì lại cho rằng P phạm tội

“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

57

(Tại Cáo trạng số 55/2016/CT-VKS ngày 16/6/2016)

Sở dĩ có quan điểm cho rằng P phạm tội trộm cắp tài sản là do xác định không đúng

người bị chiếm đoạt trong vụ án này. Theo quan điểm này, người bị chiếm đoạt phải là

chủ sở hữu chiếc xe máy Honda SH chị Hoàng Khánh L, do đó hành vi chiếm đoạt tài

sản của P đã có dấu hiệu lén lút đối với chị L nên đã cấu thành tội trộm cắp tài sản theo

Điều 173 BLHS.

Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng P phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

theo quy định tại Điều 174 BLHS vì: Đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói

riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung là tài sản đang nằm trong sự quản lý, chiếm

hữu hợp pháp, do đó không chỉ chủ sở hữu tài sản mà những người có quyền quản lý,

chiếm hữu hợp pháp tài sản đó đều có thể là người bị chiếm đoạt. Trong vụ án trên, khi

chủ sở hữu vào gửi xe và lấy vé thì kể từ thời điểm đó bên nhận giữ xe được coi là người

trực tiếp quản lý, chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng gửi giữ, nếu có thiệt hại về tài

sản thì bên nhận giữ xe phải bồi thường thiệt hại. Từ đó có thể xác định người bị chiếm

đoạt trong vụ án này chính là bên nhận giữ xe,

P đã có hành vi lừa dối người bị chiếm đoạt là tháo biển số xe Honda Wave để lắp

sang chiếc Honda SH và dùng phiếu gửi xe Honda Wave để lấy chiếc Honda SH ra. P đã

có hành vi lừa dối để chiếm đoạt tài sản có giá trị trên 2.00.000 đồng đủ yếu tố để cấu

thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt của P không lén lút đối với

người bị chiếm đoạt là bên nhận giữ xe mà P dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chiếc

xe đó. Vì vậy hành vi của P không thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.

2.3.2.3. Về tình tiết định khung tăng nặng “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”

Trên thực tế vẫn còn sự nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (điểm đ khoản 2

Điều 174 BLHS) với trường hợp phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài

sản (Điều 355 BLHS).

Trong BLHS năm 1985 tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để lừa đảo chiếm

đoạt tài sản đã được nhà làm luật xây dựng cấu thành một tội phạm độc lập, đó là tội lạm

58

dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 156 BLHS) tại Chương các

tội xâm phạm sở hữu của công dân. Trong khi đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân

trong BLHS năm 1985 trước đây không có quy định về tình tiết định khung là “lợi dụng

chức vụ, quyền hạn”. Do vậy, trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian

dối (lừa đảo) để chiếm đoạt tài sản công dân và trong khi thực hiện tội phạm có tình tiết

lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì họ bị xử lý về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản công dân theo Điều 156 của BLHS 1985.

Hiện nay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đã được tách ra khỏi

chương các tội xâm phạm sở hữu và được quy định tại Điều 355 thuộc chương các tội

phạm về chức vụ của BLHS năm 2015, đồng thời tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều

174 BLHS) cũng được bổ sung thêm tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” làm tình

tiết định khung tăng nặng hình phạt. Hơn nữa, trong khoa học luật hình sự hướng dẫn

trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và “lạm

dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều 355) đều là trường hợp “sử

dụng chức vụ, quyền hạn của mình như phương tiện” để lừa dối chiếm đoạt tài sản của

người khác. Chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng nhầm lẫn giữa hai trường hợp phạm tội

này.

Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng mức độ “sử dụng chức vụ, quyền hạn” ở

hai trường hợp phạm tội trên là khác nhau, dẫn đến vai trò của hành vi lừa dối đối với

việc chiếm đoạt tài sản cũng có sự khác biệt, cụ thể như sau:

Ở trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174),

người phạm tội chỉ cần dựa trên chức vụ, quyền hạn mà mình có để lừa dối chiếm đoạt tài

sản của người khác, chỉ nói đến “sử dụng chức vụ, quyền hạn” khi họ thi hành công vụ

trên cơ sở chức vụ, quyền hạn được giao. Người phạm tội chỉ dựa trên chức vụ, quyền

hạn để làm tăng thêm tính thuyết phục cho hành vi lừa dối, hành vi lừa dối mới có vai trò

quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Điều này mới thực sự thể hiện được bản chất

của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

59

Ở trường hợp “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều

355), người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi hành công vụ để

lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Người phạm tội vì đang thi hành công vụ trên

cơ sở chức vụ, quyền hạn của mình mới có thể lừa dối được người khác chiếm đoạt tài

sản của họ. Hành vi lừa dối của người phạm tội trong trường hợp này chỉ có vai trò che

giấu cho việc “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”, không có vai trò quyết định đối với việc

chiếm đoạt tài sản. Vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn nên người bị lừa dối mới

không nhận thức được đó là gian dối và để cho người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt

tài sản.

Để khắc phục tình trạng nhằm lẫn giữa trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”

lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm

đoạt tài sản (Điều 355) cần có sự hướng dẫn thống nhất nhằm phân biệt hai trương hợp

này, tránh tình trạng chồng chéo trong quy định của pháp luật và đảm bảo xét xử đúng

người, đúng tội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong Chương này, tác giả luận văn so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,

bổ sung năm 2009) nhằm tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc nhận thức đúng đắn về tội

phạm này. Phân tích quy định khung hình phạt và hình phạt về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản. Cũng trong chương này tác giả đưa ra các số liệu thực tế xét xử tại tỉnh Bắc Giang

đồng thời so sánh với kết quả xét xử các tội xâm phạm sơ hữu khác và phân tích một số

vụ án để cho thấy thực tế việc xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Giang để

cho thấy còn những vướng mắc, bất cập gì để kịp thời phản ánh, đề xuất những nghiên

cứu này không chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học mà còn phục vụ cho

các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến

hành tố tụng, góp phần bảo đảm quy định của Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản được áp dụng một cách thống nhất và đúng đắn trong quá trình giải quyết các vụ

việc cụ thể.

60

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

3.1 Hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự

Thứ nhất, về tình trạng nhầm lẫn giữa tranh chấp dân sự với trường hợp phạm tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với

trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do trong quá trình giải quyết

vụ án, cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng đã không xác định hoặc xác định không

đúng về mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội.

Để khắc phục tình trạng trên cần hướng dẫn cụ thể về mục đích chiếm đoạt của tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng:

Xác định mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa

đảo chiểm đoạt tài sản, theo đó, khi định tội cần xem xét người phạm tội có mục đích

chiếm đoạt tài sản hay không và thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích chiếm đoạt

tài sản trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, tài liệu có trong

hồ sơ vụ án.

Trường hợp một người có hành vi lừa dối trong việc xác lập các giao dịch dân sự

nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản mà coi là vụ tranh chấp về dân sự nếu người phạm tội có thiện chí thực hiện các

nghĩa vụ dân sự của mình.

Trong trường hợp người phạm tội có mục đích chiếm đoạt trước hoặc trong khi thực

hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản; trường hợp người phạm tội sau khi nhận tài sản bằng các hình thức

hợp đồng hợp pháp, ngay thẳng mới nảy sinh mục đích chiếm đoạt nên đã dùng thủ đoạn

gian dối chiếm đoạt tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm,

chiếm đoạt tài sản.

61

Thứ hai, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản với một số trường hợp phạm các tội xâm phạm sở hữu khác do đánh giá không đúng

về mối liên hệ giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

Để khắc phục tình trạng này cần hướng dẫn về hành vi khách quan của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản theo hướng:

Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi lừa dối và

hành vi chiếm đoạt tài sản. Giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy

ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối.

Hành vi lừa dối nếu chỉ nhằm mục đích tiếp cận tài sản, không có ý nghĩa quyết

định đối với việc thực hiện hành vi chiếm đoạt (hành vi chiếm đoạt không phải kết quả

do hành vi lừa dối trực tiếp mang lại) thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mà

tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội xâm

phạm sở hữu khác nếu hành vi chiếm đoạt tài sản thỏa mãn CTTP của tội đó.

Thứ ba, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

và trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản do xác định không đúng người bị chiếm đoạt nên

đã đánh giá sai tính chất của hành vi chiếm đoạt là lén lút hay bằng thủ đoạn gian dối

chiếm đoạt tài sản.

Để khắc phục tình trạng này cần hướng dẫn áp dụng thống nhất về người bị chiếm

đoạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu có tính

chiếm đoạt nói chung như sau: Người bị chiếm đoạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt là người trực tiếp bị hành vi chiếm đoạt xâm phạm đến tài sản đang trong

sự quản lý, chiếm hữu của mình. Người bị chiếm đoạt có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc

người quản lý, chiếm hữu, sử dụng tài sản hợp pháp thông qua các giao dịch dân sự với

chủ sở hữu tài sản, ví dụ: người nhận gửi giữ tài sản, người được ủy quyền quản lý tài

sản...

62

Thứ tư, về tình trạng nhầm lẫn giữa trường hợp “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” lừa

đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) và trường hợp “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”

lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS). Cần hướng dẫn áp dụng tình tiết định khung

tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS

theo hướng:

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người

phạm tội dựa trên chức vụ, quyền hạn của mình để tăng thêm sức thuyết phục cho hành vi

lừa dối, làm người khác tin tưởng mà giao nhầm tài sản, nhận nhầm hoặc không nhận tài

sản từ người phạm tội. Trong trường hợp này, hành vi lừa dối bản thân nó đã chứa đựng

khả năng làm người khác tin tưởng và có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài

sản. Vì vậy, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”.

Trường hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong khi thi

hành công vụ để lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác là có dấu hiệu của tội phạm về

chức vụ. Hành vi lừa dối chỉ nhằm che giấu cho việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của

người phạm tội, không có vai trò quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Do đó

trường hợp này người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS).

3.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Bắc

Giang

Nguyên nhân của những vướng mắc tiêu trên một phần cũng xuất phát từ hạn chế

trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hình tố tụng. Để nâng cao

hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần thực

hiện tốt những nhiệm vụ sau:

Trước hết, cần:

- Tăng cường tập huấn chuyên môn nhằm nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ

ngành. Đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nhận thức thống nhất pháp luật hình sự

63

nhằm khắc phục tình trạng điều tra, truy tố, xét xử làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội

phạm

- Tăng cường giáo dục, để cao tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp cho

đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán

- Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên tổ chức đối thoại trực tuyến giữa Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với Thẩm phán Tòa án các cấp, qua đó kịp thời tháo

gỡ những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng xét xử

- Phát triển, lựa chọn công bố án lệ để điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán có thể

viện dẫn áp dụng vào điều tra, truy tố và xét xử thực tế.

Hai là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng

có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời xây dựng chế độ chính sách hợp lý

với cán bộ, công chức; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa

hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Chính phủ nhằm đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư

pháp, đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành một cách kịp thời, nhanh

chóng và chính xác.

Ba là, phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát hoạt động điều tra, truy

tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó tăng cường hoạt động kiểm sát các

hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát là nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, viện kiểm

sát cần tăng cường công tác nghiên cứu, kiểm sát hồ sơ vụ án, kiểm sát bản án, kiểm sát

xét xử, kiểm sát giải quyết thủ tục phúc thẩm..., qua đó phát hiện vi phạm của các cơ

quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và kiến nghị yêu cầu khắc phục vi

phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng theo

đúng quy định của pháp luật.

3.3 Tăng cường hiệu lực, hiệu quả và mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan tố

tụng hai cấp tỉnh Bắc Giang

- Lãnh đạo Công an tỉnh Bắc Giang, Viện kiểm sát và Tòa án hai cấp tỉnh Bắc

Giang cần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc

64

hội về công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật nói chung và tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng theo hướng:

+ Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang: Có giải pháp nâng cao chất lượng xét

xử các loại án. Tỷ lệ giải quyết án hình sự nói chung và án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói

riêng đạt trên 90%. Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử. Hạn chế đến mức

thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan; bảo đảm

tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không vượt quá 1,5%

tổng số các loại án. Kịp thời sửa chữa, bổ sung bản án; xem xét kháng nghị giám đốc

thẩm theo quy định của pháp luật đối với các bản án, quyết định có sai sót khi có kiến

nghị của cơ quan có thẩm quyền. Bảo đảm xét xử các vụ án hình sự nghiêm minh, đúng

pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm; đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án

điểm được dư luận xã hội quan tâm.

- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản có nhiều tình tiết phức tạp; nghiên cứu đề xuất một số vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản có tính chuẩn mực đề nghị Hội đồng thẩm phán xem xét phát triển án lệ và

bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết

định có hiệu lực của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử, Đề án Tòa án điện tử từ năm

2020.

- TAND các cấp cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra, VKSND cùng cấp

ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố để kịp thời nắm bắt diễn biến vụ án để lên kế hoạch xét

xử, đảm bảo kịp thời giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được nhanh chóng,

đúng thời hạn luật định và xử lý nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Tổ chức cuộc

họp liên ngành nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình định tội danh đối với

những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng,

nhiều tội phạm; xử lý nghiêm minh, kịp thời các đối tượng phạm tội có hành vi chuyên

nghiệp, xảo quyệt, lợi dụng tình hình dịch bệnh. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả

phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong

thời gian tới.

65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong nước nói chung và tỉnh Bắc

Giang nói riêng đang có nhiều diễn biến phức tạp, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội

phạm này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhằm góp phần giải

quyết tình trạng này, luận văn đã đề xuất một số yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử

đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội

trong quá trình giải quyết vụ việc tại địa bàn tỉnh Bắc Giang.

66

KẾT LUẬN

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu được quy định

trong Bộ luật hình sự. Việc nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh

Bắc Giang có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn, góp phần nâng cao

hiệu quả của công tác phòng ngửa và đấu tranh chống tội phạm này trong thời gian tới

của tỉnh Bắc Giang.

Qua quá trình nghiên cứu tác giả có thể rút ra một số kết luận sau đây:

1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng

thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm

hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Từ năm 1945 đến Bộ

luật hình sự Việt Nam năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ chỗ chỉ nêu tên tội

danh mà không mô tả cụ thể cấu thành tội phạm đã được quy định ngày càng hoàn thiện

qua từng giai đoạn.

2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được làm rõ, nhằm tạo

cơ sở lý luận cho việc nhận thức thống nhất, đúng đắn quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam; đồng thời phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

với một số tội có dấu hiệu pháp lý tương tự như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản, tội lừa đảo khách hàng và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản để

tránh sự nhầm lẫn trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này

trên thực tế của tỉnh Bắc Giang.

3. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2019 có nhiều diễn biến phức tạp và có xu hướng giảm về số vụ, số người phạm tội. Hơn

nữa, thực tiễn xét xử cho thấy quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật

hình sự Việt Nam hiện hành – Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa

được hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng nhầm lẫn trong việc định tội danh, gây ra án

oan sai làm mất uy tín của các cơ quan tư pháp nói riêng và của bộ máy nhà nước nói

chung. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại, tác giả

67

mạnh dạn đưa ra những đề xuất, kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm, góp phần giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị trong

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và của tỉnh Bắc Giang nói

riêng.

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ban hành

ngày 24/5/2005, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1999), Đại

từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

5. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội

6. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các

tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần

chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần

chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần

chung), Chương IX, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

11. TGS.TS Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội

phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

69

14. Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

15. Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

16. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự

Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

17. Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

18. Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

19. Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

20. Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

21. Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

22. Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố

Đà Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội.

23. Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng:

tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học

xã hội.

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

70

26. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội .

27. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nôi.

28. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội .

29. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2015 và

phương hướng năm 2016.

30. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2016 và

phương hướng năm 2017.

31. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2017 và

phương hướng năm 2018.

32. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2018 và

phương hướng năm 2019.

33. TAND tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2019 và

phương hướng năm 2020.

34. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ

tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”

của Bộ luật hình sự 1999.

35. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFc_Giang

36. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-theo-

phap-luat-hinh-su-viet-nam-ly-luan-va-thuc-tien

37. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-nhung-

vuong-mac-can-khac-phuc

38. Cáo trạng số 46/2015/CT-VKS ngày 25/12/2015 của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

39. Cáo trạng số 25/2016/CT-VKS ngày 15/5/2016 của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

40. Cáo trạng số 55/2016/CT-VKS ngày 16/6/2016 của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

71

41. Cáo trạng số 29/2017/CT-VKS ngày 12/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

72