VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Lan Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀTỘI
TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM ................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm ................. 7
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm ............................................................................................................... 15
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm ...................................................................................................... 20
Chương 2: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN
HÀNG CẤM TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ...................... 50
2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ...... 50
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên
địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ........................................................ 52
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ......................................... 55
2.4. Đánh giá việc thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ............ 58
2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm ............................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS
BLTTHSVN Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
Kiểm sát viên KSV
Tòa án nhân dân TAND
Thực hành quyền công tố THQCT
Tố tụng hình sự TTHS
Vụ án hình sự VAHS
Viện kiểm sát VKS
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ2014-2018 .................................53
Bảng 2.2. Thống kê số vụ án đã xét xử hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ năm 2014 -2018 ............................. 54
Bảng 2.3. Thống kê mức án TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử trong giai
đoạn từ 2014 - 2018 ........................................................................................... 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới.
Đường lối của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, đi
cùng với sự phát triển là những mặt trái của nó, đặc biệt là tình hình tội phạm trong
vài năm gần đây có xu hướng phát triển mạnh, diễn biến ngày càng phức tạp và
mang tính thời sự cấp bách. Hoạt động kinh tế với nhiệm vụ chính là sản xuất hàng
hóa, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, kinh tế mang ý nghĩa quan trọng đối với đất
nước nhưng hiện nay các loại tội phạm về kinh tế lại xuất hiện càng nhiều và ngày
càng tinh vi, nguy hiểm. Do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm
kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm nguy
hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động tiêu cực tới con người,
môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Công tác
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm được
điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội phạm này.
Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc chống lại các
hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế thành nguyên tắc
hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật nhằm
phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói
riêng.
Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 17/6/1985 đã
được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989, 1990, 1992, 1997 có quy định về tội
1
buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã
đưa ra quy định điều chỉnh hành vi liên quan đến hàng cấm rải rác ở các chương
khác nhau quy định về các hành vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ
thể khác như chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ,
chất phóng xạ, chất cháy, chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều BLHS 2015 (ban hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm
trong BLHS 1999, bộ luật còn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành tội
phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu thống nhất
để áp dụng pháp luật đối với tội phạm này.
Bên cạnh các quy định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm, còn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh vực
khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm. Trong thời
gian vừa qua, đang tồn tại những cách hiểu không thống nhất giữa Luật thương mại
và luật đầu tư giữa các ngành, các cơ quan và các địa phương khác nhau. Vì thế,
hoạt động xử lý đối với tội phạm này còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
trước tình hình thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự và
sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế xã hội.
Đức Hòa, Long An là khu vực xuất hiện tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
từ lâu, chiếm tỷ lệ cao về tội phạm này trong tỉnh và có chiều hướng tăng về số
lượng, chủng loại hàng cấm, diễn biến phức tạp với sự mở rộng quy mô và tính chất
nguy hiểm. Công tác đấu tranh tại địa bàn trở nên khó khăn khi đối tượng phạm tội
có nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi đồng thời luôn tìm cách trốn tội và chống trả
quyết liệt.
Chính vì vậy, vấn đề bức thiết là phải có hành lang pháp lý thống nhất, và có
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm có hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An” là một vấn đề cần thiết, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với loại tội phạm này.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có công trình nào nghiên
cứu về pháp luật xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Theo đường lối
đổi mới, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật, về cơ chế thực hiện
pháp luật nói chung, pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói
riêng đã có sự phát triển mạnh. Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình,
bài viết nghiên cứu về tình hình tội phạm này. Có thể nói tới một số công trình sau:
- Luận án tiến sĩ luật học: “Phòng ngừa tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm của lực lượng cảnh sát kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ” của Lê Trung
Kiên, 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật
hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" của Nguyễn Thị
Huyền Trang, 2016 [45].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật
hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)” của Lục Thị Út,
2014 [52].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh An Giang của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm
về TTQLKT&CV” của Nguyễn Nhật Trường, 2007 [47].
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp chí
TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp, TAND tối
cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên khảo có đề cập
nội dung rất nhỏ liên quan đến đề tài luận văn như: Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện,
LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS.
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu mặc dù đã nghiên cứu sâu và đề cập
ở một số góc độ khác nhau nhưng mới dừng lại ở một phạm vi hẹp, chủ yếu tập cận
dưới góc độ tội phạm học, chưa đề cập một cách trực tiếp, toàn diện, có hệ thống và
3
trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình
sự về tội loại tội phạm này. Chính vì vậy, đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An”
mang tính cấp thiết cả từ lý luận lẫn thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An"thể hiện các quy
định của pháp luật về loại tội phạm này và qua đó đề xuất những giải pháp bảo đảm
áp dụng đúng quy định của BLHS và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ những vấn đề sau
đây:
+ Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận như bản chất kinh tế, pháp lý về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm;
+ Phân tích, làm sáng tỏ quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm;
+ Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
+ Đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định này, qua đó
đưa ra một số kiến nghị, biện pháp góp phần tháo gỡ những hạn chế của pháp luật
hình sự về tội phạm này; đồng thời kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
Bộ luật hình sự 2015, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả
của công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ở Việt Nam
4
hiện nay, trong đó trực tiếp là những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử liên quan
đến tội phạm này từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng thời nghiên cứu
các quy định của pháp luật hình sự nước ta qua các giai đoạn để làm rõ những ưu
điểm, hạn chế, tồn tại trong BLHS và các Luật dẫn chiếu, các văn bản hướng dẫn,
áp dụng BLHS. Trên cơ sở khoa học đó đề xuất quan điểm của mình nhằm sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng liên quan đến tội phạm
này.
- Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài tương đối rộng, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
một cách thấu đáo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết nghiên cứu
trong phạm vi tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo Điều 155 BLHS 1999 (Sửa
đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 191 BLHS năm 2015; tìm hiểu những hành vi
thường xảy ra và những khó khăn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan chức năng có thẩm quyền tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh
phòng chống tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được luận văn này người viết đã sử dụng linh hoạt và hợp lý
các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp luật học so sánh, phương
pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu,
phương pháp phân tích luận viết, phương pháp xã hội học, phương pháp logic.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm một cách toàn diện, có hệ thống, đưa ra bức tranh
toàn cảnh về loại tội phạm này dưới góc độ pháp luật hình sự; chỉ ra các yếu tố cấu
thành của loại tội phạm này. Qua đó, đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội sản
xuất, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển hàng cấm.
Luận văn đã chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp
luật, đưa ra phương hướng giải quyết khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
cũng như trong việc sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự về loại tội phạm này, những
kiến nghị hoàn thiện và các biện pháp đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm, góp phần vào việc phát triển khoa học luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm
Chương 2: Thực trạng và giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
- Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên,
hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp luật hình sự thì
chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái niệm hàng cấm chúng
ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể: - “hàng” là sản phẩm để bán, -
“cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc không cho phép tồn tại [54]. Từ đó
hàng cấm được hiểu là những sản phẩm không cho phép tồn tại. Theo từ điển Luật
học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước cấm kinh doanh [54, tr.319].
Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập đến hàng cấm là hàng hóa
mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh [55, tr.16]. Hàng cấm còn được nhắc đến
trong giải thích tội buôn lậu: buôn lậu là buôn bán trốn thuế hoặc hàng cấm [56].
Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hoá Nhà
nước cấm kinh doanh [15, tr.110].
Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình
thức. Bản chất của hàng cấm có thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng
đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh. Theo
triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông qua hoạt động trao
đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình mà nhờ vào tính chất của
nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá ngày
càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại hàng hoá và các hoạt
động kinh doanh liên quan đến hàng hoá ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự
xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người,
7
môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống
nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải
hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt
hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu
thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội, truyền thống văn hóa, môi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần
phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là
“hàng cấm” hay “hàng quốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà nước
thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng hóa gắn liền với
hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục
đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là
bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát
triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng
hoá được tự do sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của
nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên,
do những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ
văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình giải quyết
về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức
năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được
những quyết định phù hợp, đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm về trật tự kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm nói riêng.
8
Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản lý
và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư đều
có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các chế tài xử
phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác
định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể
danh mục hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh
doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hoá đó”. Đối với pháp
luật về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà
được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục
này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm
kinh doanh cũng thay đổi. Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15
tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương
mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
giải thích: “Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử
dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam. Dưới góc độ pháp
lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội phạm về kinh tế, bị xem là
đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh doanh đối với đối tượng này ở
mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ
về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết
phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết
hàng cấm. Tuy nhiên, cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
được ban hành, các quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng
cấm và chưa quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều
chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những
khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng
cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm
về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra
9
khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý một số
nội dung cơ bản sau: một là hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống
nhất quản lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này. Hai là danh mục
hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Có nhiều
loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những hàng hoá chỉ cấm tạm thời.
Ba là hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng, sức khoẻ
con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của mỗi quốc
gia. Bốn là tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các mặt
hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau.
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định
hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác
động của nhiều tội phạm khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng,
vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn
lại chưa quy định cụ thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm. Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng tác
động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận diện
hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả các lĩnh
vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội phạm cụ
thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực tiễn áp dụng
pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa
cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
- Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá mà
Nhà nước cấm kinh doanh.
Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách
trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong
hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, không
nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này
10
đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người
này buôn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ
mà là hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận
chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác
hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong việc
định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ),
nếu cùng một loại hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác
phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm.
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một
cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ
địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức nào (trừ
hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng trữ. Tuy
nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy định tại
Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận chuyển hàng
cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm của người mà mình
nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức.
Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng
cấm mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức hám
lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà
còn bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự. Tuy nhiên, pháp
11
luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ
thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị kết án
về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được quy định trong Bộ luật
hình sự như trong phần nghiên cứu dưới đây.
Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là hiện
tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc gia, để
bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều
đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng ngừa và giảm bớt tác hại của loại
tội phạm này.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự. Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành
vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các
yếu tố theo quy định của pháp luật.
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191 thuộc chương
XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015. Để tìm ra
khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các cụm từ, thuật ngữ
tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ điển tiếng Việt có đề
cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng
cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển
12
hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào,
di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [53].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu cũng
cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước
hết là do sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của
những hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả
về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với
tính chất đặc biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con
người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức bất
chấp sự quản lý của Nhà nước để lưu thông hàng hoá loại này. Đây chính là nguyên
nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển như
một tất yếu khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông
hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền kinh
tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư, kinh doanh
trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thông nội địa quy định nghiêm
ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thông hàng hoá kém chất lượng,
hàng hoá không được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh
viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự theo hướng quy định đối với
hành vi lưu thông loại hàng hoá cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các
quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp
và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là hình
phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm do Chính
phủ quy định.
13
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305,
306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau:
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi cất giữ trái phép, vận
chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng với số lượng, trọng lượng
hoặc giá trị cụ thể mà pháp luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà
nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
- Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học
pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định: Khách thể của tội phạm là
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [50, tr.86]. Một
hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình phạt trên thực tế.
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế,
chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại
hàng cẩm mà pháp luật quy định.
- Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành
vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm.
Tàng trữ hàng cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những
mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép
14
lưu hành, chưa được phép sử dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào
không phụ thuộc và thời gian cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301].
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử
dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác mà không
nhằm mục đích bán [6, tr.301].
- Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là người từ đủ 16 tuổi trở
lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được thực
hiện với lỗi cố ý.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm
1.2.1.Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1985
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với tính chất là hiện tượng tiêu cực của
xã hội đã gây những thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, khiến cho Nhà nước không kiểm soát được hàng hoá cấm kinh doanh, làm
cho thị trường hàng hoá rối loạn, cạnh tranh trên thị trường thiếu lành mạnh. Nhà
nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi hiện tượng
tiêu cực này.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành nhiều
văn bản liên quan đến đấu tranh chống lại tội buôn lậu và vận chuyển, tàng trữ, buôn
bán hàng cấm. Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên phải kể đến là Sắc lệnh số 50 ngày
9/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định cấm xuất khẩu kho thóc, gạo, ngô,
đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc, nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói năm 1945.
Tiếp đến ngày 21/8/1946 Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 160 về cấm nhập cảng xe
hơi, phụ tùng xe hơi, các máy móc và đồ vật bằng kim khí. Ngày 22/12/1952 Chính
phủ ban hành Nghị định số 225 quy định tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận
chuyển buôn bán trái phép, phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá hàng hóa.
15
Sau giải phóng miền Bắc, Chính phủ đặc biệt quan tâm đến vấn đề ngăn chặn
chống buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm. Ngày 03/7/1966, Thủ tướng Chính phủ
ra Chỉ thị số 118/TTg về tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ,
buôn lậu trong tình hình mới. Khi đất nước được giải phóng thống nhất năm 1975,
ngày 30/6/1982, Nhà nước lần đầu tiên ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ,
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (sau đây viết tắt là pháp lệnh
30/6/1982). Khác với các văn bản trước đó, pháp lệnh ngày 30/6/1982 quy định tội
danh với dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó, lần đầu tiên chính thức ghi nhận tội
buôn lậu, tàng trữ hàng cấm trong pháp luật hình sự của Nhà nước tại Điều 3 Pháp
lệnh: “Người nào buôn lậu, tàng trữ vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư
kỹ thuật hoặc các loại hàng hoá khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ thì bị
phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền gấp ba lần giá hàng phạm pháp
[16]. Bên cạnh đó, Điều 4 Pháp lệnh quy định về tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới trong đó hàng hoá được hiểu là mọi loại hàng hoá
trong đó có cả hàng cấm. Ở thời kỳ này, chưa tách riêng hành vi buôn lậu với hành
vi liên quan đến hàng cấm và được quan niệm là những tội phạm về kinh tế.
Như vậy, chế định xử lý đối với hàng cấm của Việt Nam giai đoạn từ sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985 còn mang tính sơ
khai, các quy định chủ yếu tập trung xử lý hành vi lưu thông với một số ít hàng hóa
đặc biệt có vai trò quan trọng trong việc Nhà nước quản lý kinh tế và dần dần phục
hồi nền kinh tế sau chiến tranh để lại, bắt đầu xây dựng kinh tế.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999
Trong bối cảnh kinh tế đất nước ngày càng phát triển, đời sống nhân dân dần
được nâng cao nhưng kéo theo đó là tình hình tội phạm có xu hướng tăng nhanh và
diễn biến ngày càng phức tạp. Để đáp ứng tình hình mới và xây dựng hành lang
pháp lý để xử lý kịp thời tội phạm thời kỳ này, Nhà nước ta đã ban hành BLHS năm
1985 quy định cụ thể thống nhất về tội phạm và hình phạt, đáp ứng công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
16
nói riêng, trong đó có tội buôn bán, tàng trữ hàng cấm. Sự ra đời của BLHS năm
1985 đã đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động lập pháp hình sự nước ta.
BLHS 1985 đã quy định riêng biệt về tội buôn bán hàng cấm theo Điều 166 với tên
gọi: “Tội buôn bán hàng cấm” và được quy định như sau:
“1. Người nào buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, ngoại tệ
hoặc buôn bán kim khí quý, đá quý thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội;
c) Hàng phạm pháp có số lượng lớn; thu lợi bất chính lớn;
d) Lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm”.
Trong thời gian này, Nhà nước cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức kinh
doanh các mặt hàng như: thuốc phiện, hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và một số quân
trang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các sản phẩm văn hóa
đồi trụy, phản động; thuốc lá điếu của nước ngoài, ngoại tệ (theo Quyết định số
193-HĐBT 23 ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về kinh doanh thương mại
và du lịch ở thị trường trong nước; Chỉ thị số 278/CT ngày 03/8/1990 của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá điếu của nước
ngoài trên thị trường trong nước; Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày 13/9/1990 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường quản lý ngoại hối; Quyết định số
337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số biện pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian
trước mắt). Tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của TAND tối
cao (TANDTC) - VKSND tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ quy định: Lần đầu
nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu nước ngoài với số lượng dưới 500 bao
17
thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị xử lý hành chính. Trong trường hợp buôn
bán thuốc lá ngoại với số lượng từ 500 bao trở lên hoặc dưới 500 bao nhưng đã bị
xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ
chức, có tính chất chuyên nghiệp hoặc chống lại người thi hành công vụ thì bị xử lý
hình sự. Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì coi
là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng lớn. Nếu số lượng hàng
hóa phạm pháp từ 4.500 bao trở lên thì coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng. Buôn bán ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 3 triệu đồng Việt Nam
trở lên hoặc dưới 3 triệu đồng Việt Nam nhưng đã bị xử lý hành chính mà còn vi
phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp thì bị
xử lý về tội buôn bán hàng cấm. BLHS năm 1985 với bốn lần sửa đổi, bổ sung các
năm 1989, 1991, 1992 và 1997 vẫn tiếp tục quy định tội buôn bán hàng cấm là tội
phạm kinh tế và được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị
đất nước.
Như vậy, kể từ khi BLHS 1985 được công bố và áp dụng đến trước khi ban
hành BLHS 1999 tội phạm về hàng cấm đã được quy định thành Điều luật riêng
biệt để đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm về kinh tế. Mặc dù, lần đầu tiên quy
định tội: “buôn bán hàng cấm”, chưa quy định về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
nhưng nhận thức trong hoạt động lập pháp với tội phạm về hàng cấm đã có nhiều
chuyển biến so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, kỹ thuật lập pháp khi mô tả cấu thành
tội phạm cơ bản của tội này còn chung chung, chưa xác định yếu tố định lượng dẫn
đến cách hiểu mọi hành vi buôn bán hàng cấm đều bị xử lý hình sự khiến cho việc
áp dụng pháp luật đối với tội phạm này còn dàn trải, tràn lan.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự 2015.
Sau thời gian dài áp dụng trong thực tế, BLHS 1985 đã bộc lộ nhiều vấn đề
cần phải sửa đổi, bổ sung mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới liên tục về kinh tế,
văn hóa, xã hội. Cho tới kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS năm
1999, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2000, thay thế BLHS 1985. BLHS 1999 (sửa đổi,
18
bổ sung ngày 19/6/2009) quy định cụ thể về nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế nói chung tại Chương XVI và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm nói riêng tại Điều 155 BLHS 1999 đã bổ sung 03 loại hành vi
phạm tội mới so với BLHS 1985 đó là hành vi sản xuất hàng cấm, hành vi tàng trữ
hàng cấm, hành vi vận chuyển hàng cấm bởi thực tế không chỉ có hành vi buôn bán
hàng cấm mà việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cũng được coi là tội
phạm và cần quy định trong BLHS.
Ngoài ra, các hành vi liên quan đến chất ma túy được quy định thành chương
riêng, Chương XVIII "các tội phạm về ma túy" từ Điều 192 đến Điều 201, góp phần
tăng cường công tác đấu tranh phòng chống ma túy. Bên cạnh đó, Điều 155 của
BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) còn có một số điểm bổ sung sau:
- Quy định tình tiết: Có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157,
158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm [29, Đ.155] vừa là yếu tố định tội, vừa là dấu hiệu
làm ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính.
- Quy định tình tiết: "Nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193,
194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này" giới hạn việc áp dụng
điều 155 và là dấu hiệu để phân biệt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm với một số tội phạm khác trong BLHS mà đối tượng phạm tội cũng là các
loại hàng hóa, vật dụng mà Nhà nước cấm tàng trữ, vận chuyển. Từ quy định này,
khái niệm hàng cấm là đối tượng tác động của Điều 155 BLHS 1999 đã thu hẹp
phạm vi so với khái niệm hàng cấm trong Điều 166 BLHS 1985.
- Quy định thêm một số tình tiết mới là yếu tố định khung hình phạt như:
hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; hàng phạm pháp
có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn. So với điều 166 của
BLHS 1985, Điều 155 BLHS 1999 bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; các
mức phạt tù quy định trong từng khung hình phạt tại Điều 155 BLHS 1999 đều nhẹ
hơn mức phạt quy định tại Điều 166 BLHS 1985. Hình phạt bổ sung cũng được quy
19
định ngay trong cùng điều luật.
Sau hơn mười năm thi hành, theo sự phát triển của kinh tế, xã hội, tình hình
tội phạm đã có nhiều thay đổi phức tạp với những phương thức và thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt hơn. BLHS 1999 dần bộc lộ bất cập, hạn chế ảnh hưởng đến công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thành lập ban
soạn thảo Bộ luật hình sự 2015, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành,Cơ quan, tổ chức soạn thảo, lấy ý kiến về Bộ luật hình sự 2015 và những
thay đổi, điều chỉnh trong quy định của pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm tại BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã tách nhóm hành vi
sản xuất, mua bán và nhóm hành vi tàng trữ, vận chuyển thành 02 tội phạm được
quy định tại 02 điều luật khác nhau với sự phân chia mức hình phạt khác nhau đã
cho thấy sự quan tâm sát sao của cơ quan lập pháp về loại tội phạm này.
Như vậy, giai đoạn từ khi ban hành BLHS 1999 đến nay, tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đã dần được hoàn thiện với những nhận thức và kỹ thuật lập pháp
tiến bộ rõ rệt so với pháp luật hình sự các thời kỳ trước.
Tóm lại, nghiên cứu khái quát lịch sử các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam qua các giai đoạn trên về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cho thấy sự
quan tâm của Nhà nước về chính sách hình sự đối với tội phạm này. Từ quy định
trong văn bản riêng lẻ đã được pháp điển hoá trong văn văn bản có hiệu lực pháp lý
cao là BLHS; từ việc chỉ quy định các hành vi bị trừng trị đến việc có tên tội danh,
khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng trong khung hình phạt. Các loại hàng
cấm, các hành vi phạm tội được thay đổi, bổ sung theo từng thời kỳ để phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế của đất nước.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm
Ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi)
với đa số phiếu tán thành. Đây là bộ luật có nhiều điểm mới được dư luận quan tâm,
ví dụ như việc bỏ hình phạt tử hình đối với bảy tội danh, quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân. Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm 3 Phần, 26 Chương, 426 Điều
20
(thay vì Bộ Luật Hình sự 1999 gồm 2 Phần, 24 Chương, 344 Điều), trong đó
Chương XVIII quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Chương này chia
làm 3 mục: Một là Mục các tội phạm sản xuất, kinh doanh, thương mại. Hai là Mục
các tội phạm thuế, tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Ba là Mục các tội
phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Theo đó tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS 1999 được tách thành 02
tội danh độc lập tại BLHS 2015, đó là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190)
và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191) nhằm đảm bảo phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được được phân biệt với tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS 1999.
BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã xếp tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm vào chương XVIII “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” và quy định tội
này tại Điều 191, tách bạch với nhóm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm được quy
định tại Điều 190. Trên cở sở các vấn đề lý luận được nêu trên, luận văn tập trung
đề cập các vấn đề về dấu hiệu pháp lý cũng như hình phạt đối với người phạm tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm. Cụ thể là:
1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp
sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246,
249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm
sử dụng từ 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;
b) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;
c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;
d) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng
trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
21
đ) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt
Nam trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính
từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
e) Hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này
hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ
luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm
sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít;
e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao;
g) Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam;
h) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng
trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
i) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam
trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ
300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng;
k) Vận chuyển qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu;
l) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
22
a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm
sử dụng 300 kilôgam trở lên hoặc 300 lít trở lên;
b) Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên;
c) Pháo nổ 120 kilôgam trở lên;
d) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng
trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt
Nam trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 700.000.000 đồng trở
lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, d, đ, e,
g, h, i, k và l khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
từ 06 tháng đến 03 năm;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định
hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Như vậy, có thể Điều 190 và 191 của BLHS năm 2015 đã thay đổi toàn bộ
quy định về sản xuất, tàng trữ,vận chuyển, buôn bán hàng cấm so với Điều 155
BLHS năm 1999. Những thay đổi, bổ sung một cách căn bản, toàn diện, triệt để thể
23
hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
kinh tế thế giới. Những điểm mới nổi bật là:
Thứ nhất, về việc quy định cả 4 hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm trong cùng một điều luật giờ đã tách thành 02 tội danh độc lập tại
BLHS 2015, một là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và hai là tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191). Điều này nhằm phân biệt rõ ràng mức độ,
tính chất khác nhau của hành vi phạm tội cũng như sự nguy hiểm cho xã hội riêng
biệt của chúng để tránh việc xét xử không công bằng đối với những hành vi đó.
Thứ hai, nhà làm luật cũng đã đi vào cụ thể chi tiết hơn và mô tả hàng cấm
dù chưa được định nghĩa rõ ràng nhưng nếu như trước đây tại Điều 155 chỉ nêu
chung chung “Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hoá mà
Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi quy định...”thì hiện nay đã có những chi tiết hơn về hàng
cấm là “hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa
được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam ”. Điều này là hoàn
toàn đúng đắn và hợp lý so với quy định trước đây về hàng cấm, khắc phục được
hạn chế về việc mô tả thế nào được coi là hàng cấm, đi vào chi tiết, cụ thể hơn loại
hàng hóa được coi là hàng cấm.
Thứ ba, về làm rõ giá trị hàng phạm pháp và số lợi thu bất chính, việc nêu cụ
thể về mức giá hàng phạm pháp có giá trị và mức thu lợi bất chính tại các khoản,
các điều thay cho việc chỉ quy định trước đây về “Hàng phạm pháp có số lượng rất
lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn”. Việc này đảm bảo cho việc xét xử một cách
chính xác và công bằng nhất đối với tội phạm này.
Thứ tư, về chế tài của tội phạm cũng quy định có sự thay đổi đáng kể so với
luật cũ, nếu như trước đây mức tối thiểu phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng
thì hiện nay mức tối thiểu phạt tiền nâng lên là 100.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng đối tội sẩn xuất, buôn bán hàng cấm; và tối thiểu phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Cuối cùng, lần đầu quy định xử lý hình sự tội này đối với pháp nhân thương
24
mại tại khoản 5 của hai Điều 190 và Điều 191.
1.3.1. Về khách thể và đối tượng tác động
BLHS Việt Nam hiện hành đặt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm vào “Chương XVIII -Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” cho thấy
quan điểm rất rõ ràng của Nhà nước ta về khách thể của tội phạm này. Đó là quan
hệ xã hội đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của nền kinh tế quốc dân được
pháp luật bảo vệ. Khoản 1 Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
ViệtNam năm 2013 xác định nền kinh tế nước ta là: “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Hành vi xâm hại tới quan hệ xã hội này được biểu
hiện cụ thể qua sự vi phạm ở một mức độ nhất định các quy định của Nhà nước.
Những quy định này rất đa dạng, phong phú, có nhiều quy định có tính chất đặc
trưng cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Hành vi phạm tội của tội tàng trữ, sản
xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là hành vi xâm phạm chế độ quản lý độc
quyền của Nhà nước đối với các loại hàng hoá Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh.
Các hàng hóa này Nhà nước không cho phép lưu thông trên thị trường, không cho
phép các doanh nghiệp tổ chức, cá nhân tàng trữ, sản xuất, kinh doanh. Nhưng
không phải tất cả những hàng hóa đó đều thuộc phạm vi đối tượng của tội phạm này.
Có những hàng hóa tuy cũng là loại Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh nhưng đã
là đối tượng của tội phạm khác nên không còn là đối tượng của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như: ma túy, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, văn hóa phẩm đồi trụy
thuộc quy định tại các điều luật khác. Hàng cấm thuộc phạm vi quy định của Điều
191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là những loại hàng cấm còn lại
mà không thuộc phạm vi quy định của những điều luật riêng biệt khác. Danh mục
hàng cấm theo điều luật này đã được cụ thể hóa một số loại trước đây pháp luật
không quy định như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ và một
số loại hàng hóa không cố định mà có sự thay đổi ở mỗi giai đoạn nhất định, phù
hợp với tình hình thực tế và sự chuyển đổi chính sách phát triển kinh tế như hàng
hóa Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng hoặc hàng hóa chưa
25
được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam. Hiện nay, theo quy
định tại văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT ban hành ngày 09/5/2014 quy định chi
tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện, danh mục hàng cấm bao gồm 19 loại sau:
1. Vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên
dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của
quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng,
vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng;
2. Các chất ma túy;
3. Hóa chất bảng 1 (theo Công ước quốc tế);
4. Các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới
giáo dục thẩm mỹ, nhân cách;
5. Các loại pháo;
6. Đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của
trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội (bao gồm cả cả chương trình trò chơi
điện tử);
7. Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm hoặc chưa được phép sử dụng tại
Việt Nam theo quy định tại Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật;
8. Thực vật, động vật hoang dã (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của
chúng đó được chế biến) thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai
thác và sử dụng;
9. Thủy sản cấm khai thác, thủy sản có dư lượng chất độc hại vượt quá giới
hạn cho phép, thủy sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng con người;
10. Phân bón không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh và
sử dụng tại Việt Nam;
11. Giống cây trồng không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh
doanh; giống cây trồng gây hại đến sản xuất và sức khỏe con người, môi trường, hệ
sinh thái;
26
12. Giống vật nuôi không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh
doanh; giống vật nuôi gây hại cho sức khỏe con người, nguồn gen vật nuôi, môi
trường, hệ sinh thái;
13. Khoáng sản đặc biệt, độc hại;
14. Phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường;
15. Các loại thuốc chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ
phẩm, hóa chất và chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn trong lĩnh vực gia dụng và y
tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam;
16. Các loại trang thiết bị y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam;
17. Phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh dưỡng,
thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản bằng
phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã bị biến đổi chưa được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép;
18. Sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole;
19. Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu.
Luật đầu tư 2014 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015) có quy định cụ
thể danh mục các chất ma tuý cấm đầu tư kinh doanh, danh mục các hoá chất,
khoáng sản; danh mục các loài hoang dã nguy cấp, quý, hiếm nghiêm cấm khai thác,
sử dụng vì mục đích đầu tư kinh doanh. Bên cạnh đó, Luật đầu tư 2014 còn quy
định về danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Theo quy định này
của Luật đầu tư thì trong 19 danh mục hàng cấm kể trên một số mặt hàng đã thay
đổi không còn là hàng cấm các mặt hàng như: “pháo các loại" và “sản phẩm thuốc
lá” lại thuộc Danh mục “ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện" (Phụ lục 04 -
Luật Đầu tư năm 2014). Ngày 22/11/2016 Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ
sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật đầu tư số 67/2014/QH13, trong đó Danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh
doanh có điều kiện trong phụ lục đã thay đổi, bỏ hành vi kinh doanh pháo nổ ra
khỏi danh mục và bổ sung hành vi này vào các hành vi cấm trong đầu tư. Tuy nhiên
đối với thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu vẫn “bỏ
27
ngỏ” và việc xử lý hình sự đối với loại hàng hoá là thuốc láđã gây nhiều tranh cãi
trong giai đoạn này. Tuy nhiên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã
khắc phục tình trạng này khi quy định cụ thể thuốc lá điếu nhập lậu là một trong
những hàng hóa cấm tàng trữ, vận chuyển.
Theo quy định của BLHS một số hàng cấm đã là đối tượng của tội phạm
khác thì sẽ không là đối tượng của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm như: các chất
ma tuý quy định từ Điều 247 đến Điều 259; vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự tại Điều 304; vật liệu nổ tại Điều 305; vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ tại
Điều 233; chất phóng xạ tại Điều 309 và chất cháy, chất độc tại Điều 238 BLHS.
Như vậy, loại trừ những hàng cấm là đối tượng tác động của các tội phạm
khác, đối tượng tác động của Điều 191 BLHS và những quy định của pháp luật về
một số loại hàng hóa Nhà nước có quy định cấm lưu hành, cấm sử dụng là những
hàng cấm được quy định cụ thể và những hàng cấm còn lại sau:
Một là, thuốc bảo vệ thực vật cấm hoặc chưa được phép sử dụng tại Việt
Nam theo quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật. Hiện nay Pháp lệnh
bảo vệ và kiểm dịch thực vật đều đã hết hiệu lực. Thay vào đó Luật Bảo vệ và kiểm
dịch thực vật 2013 (có hiệu lực thi hành thi hành kể từ 01/01/2015) đã quy định về
quản lý đối với thuốc thú y và thuốc bảo vệ thực vật. Nhà nước quy định cụ thể
danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép lưu hành và cấm lưu hành tại Việt Nam.
Từ những quy định trên cho thấy những loại thuốc không nằm trong danh mục được
phép lưu hành tại Việt Nam sẽ là đối tượng tác động của tội phạm này.
Hai là, thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu.
Đây là những mặt hàng gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng của con người.
Tình hình nhập lậu thuốc lá khiến ngân sách bị thất thu lớn. Công tác quản lý đối
với mặt hàng này ngày càng diễn biến phức tạp. BLHS hiện hành, Nghị định hướng
dẫn Luật thương mại của chính phủ liệt kê loại hàng hoá này vào danh mục hàng
hoá cấm sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, việc đưa thuốc lá nhập lậu vào danh mục
hàng cấm để có thể xử lý hình sự sẽ là một giải pháp hữu hiệu, nhằm ngăn chặn tình
trạng buôn lậu thuốc lá ngoại tại Việt Nam.
28
Ba là, các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại
tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách. Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể về loại mặt
hàng cấm này. Tuy nhiên, các sản phẩm loại này ngày càng phát triển mạnh mẽ làm
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển nhân cách, tư duy và lối sống của người dân
đặc biệt là thế hệ trẻ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật xuất bản 2012 của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định cấm xuất bản, in, xuất bản
phẩm có nội dung:
“a) Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
b) Tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân
tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối
sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần
phong mỹ tục;
c) Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do
pháp luật quy định;
đ) Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân
tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc; không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ
quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân
phẩm của cá nhân”
Mặc dù, Luật xuất bản không giải thích thế nào là văn hóa phản động, đồi
trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách nhưng dựa vào
quy định trên, có thể liệt ra các sản phẩm thuộc nhóm này là các sản phẩm mang
những nội dung quy định tại một trong các điểm a, b, c, đ Khoản 1 Điều 10 Luật
xuất bản 2012.
Bốn là, thực vật, động vật hoang dã (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của
chúng đã được chế biến) thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai
thác và sử dụng. Theo Công ước quốc tế về buôn bán các loại Động, thực vật hoang
dã nguy cấp (CITES) ký tại Washington D.C ngày 01/03/1973 mà Việt Nam là
29
thành viên việc bảo vệ động, thực vật hoang dã là yêu cầu cấp thiết trên toàn thế
giới. Vì vậy, nhận thức được ý nghĩa này, Nhà nước đã quy định động, thực vật
hoang dã thuộc danh mục điều ước quốc tế và các loại Nhà nước cấp khai thác, sử
dụng vào Danh mục hàng hoá Nhà nước cấm lưu hành, trở thành đối tượng tác động
của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Năm là, thủy sản cấm khai thác, thủy sản có dư lượng chất độc hại vượt quá
giới hạn cho phép, thủy sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng con
người. Khoản 2 Điều 6 Luật thuỷ sản 2003 đã quy định cấm hành vi: “Khai thác
các loài thuỷ sản thuộc danh mục cấm kể cả cấm có thời hạn, trừ trường hợp vì mục
đích nghiên cứu khoa học được Chính phủ cho phép; khai thác thuỷ sản nhỏ hơn
kích cỡ quy định, trừ trường hợp được phép khai thác để nuôi trồng". Luật thuỷ sản
không giải thích cụ thể thế nào loại thuỷ sản thuộc danh mục cấm, loại thuỷ sản có
lượng chất độc hại vượt quá giới hạn cho phép hay thuỷ sản có độc tố tự nhiên gây
nguy hiểm tính mạng con người. Tuy nhiên, Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn là cơ quan ban hành các danh mục thuỷ sản cấm khai thác, vùng khai thác có
thời hạn cũng như danh mục các chất kháng sinh, chất độc hại trong thuỷ sản bị
cấm.
Sáu là, phân bón không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh
và sử dụng tại Việt Nam. Thông tư 19/2014/TT-BNNPTNT ngày 23/6/2014 sửa đổi
Thông tư 38/2013/TT-BNNPTNT về Danh mục bổ sung phân bón được phép sản
xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ban hành đã quy định danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh
doanh và sử dụng tại Việt Nam. Các loại phân bón không có trong danh sách này bị
coi là hàng cấm.
Bảy là, khoáng sản đặc biệt, độc hại. Khoáng sản là nguồn tài nguyên cần
được Nhà nước bảo vệ chặt chẽ. Vì vậy, Luật khoáng sản 2010 đã quy định quản lý
nhà nước về khoáng sản. Đối với khoáng sản đặc biệt, khoáng sản độc hại, Nhà
nước quy định cấm lưu thông, kinh doanh. Trước đây, khi Luật khoáng sản 2010
chưa có hiệu lực, Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ
30
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản năm 1996 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật khoáng sản (thông qua ngày 14/6/2005) có giải thích
rất rõ: “Khoáng sản quý, hiếm là khoáng sản kim loại thường gặp ở dạng tự sinh
hoặc hỗn hợp tự nhiên với các kim loại khác, khoáng sản thuộc nhóm kim cương,
đá quý có giá trị kinh tế đặc biệt, được sử dụng trong các ngành kỹ thuật, công nghệ
cao hoặc để làm đồ trang sức, bao gồm: vàng, bạc, platin, kim cương, ruby, saphia
(corindon) và emơrot.”; “Khoáng sản đặc biệt và độc hại là khoáng sản kim loại
phóng xạ, đất hiếm và loại khoáng sản có chứa các nguyên tố phóng xạ hoặc độc
hại, tuy có giá trị sử dụng cao trong các ngành công nghiệp, nhưng có tác động xấu
đến môi trường, bao gồm: uran (U), thori (Th), lantan (La), selen (Se), prazeodim
(Pr), neodim (Nd), samari (Sm), europi (Eu), gadolini (Gd), tebi (Tb), diprozi (Dy),
honmi (Ho), eribi (Er), tuli (Tm), ytecbi (Yb), lutexi (Lu), ytri (Y) và các loại
khoáng sản thuỷ ngân, arsen, chì - kẽm và asbest”. Tuy nhiên, hiện tại Nghị định
này đã hết hiệu lực pháp luật” (Điều 13, Khoản 1 Điều 14). Hiện nay, Khoản 1 Điều
2 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật khoáng sản có giải thích: “Khoáng sản độc hại là loại khoáng sản có
chứa một trong các nguyên tố Thủy ngân, Arsen, Uran, Thori, nhóm khoáng vật
Asbet mà khi khai thác, sử dụng phát tán ra môi trường những chất phóng xạ hoặc
độc hại vượt mức quy định của quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam.”
Tám là, đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức
khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội (bao gồm cả chương trình
trò chơi điện tử);Ngoài ra, còn một số loại hàng cấm thuộc danh mục Nhà nước cấm
sản xuất, kinh doanh và lưu thông là đối tượng tác động tại Điều 191 BLHS như:
Các loại thuốc chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, hóa
chất và chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn trong lĩnh vực gia dụng và y tế chưa
được phép sử dụng tại Việt Nam; các loại trang thiết bị y tế chưa được phép sử
dụng tại Việt Nam; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh
dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản
bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã bị biến đổi chưa được cơ quan
31
nhà nước có thẩm quyền cho phép; sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm
amphibole.
Danh mục hàng cấm theo điểm d, điểm đ điều luật này không cố định mà có
những thay đổi nhất định ở từng giai đoạn, phù hợp với tình hình thực tế và sự
chuyển đổi chính sách phát triển kinh tế. Tính chất và đặc điểm của các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng
luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, có hành vi
hôm trước là tội phạm nhưng hôm sau không còn là tội phạm nữa. Vì vậy, để xác
định đối tượng tác động của tội này phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước
thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được.
Số lượng hàng cấm hoặc lợi nhuận thu được từ việc lưu thông hàng cấm là
một căn cứ quan trọng trong việc xác định có CTTP hay không và cân nhắc quyết
định hình phạt đối với người phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Giới hạn các
khoảng giá trị tương ứng trong các khung hình phạt hạn chế quyền tuỳ nghi của Toà
án, tránh xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm. CTTP cơ bản ở Khoản 1 Điều 191 BLHS
xác định Nhà nước chỉ đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm. Việc quy định yếu tố định lượng cụ thể như trên là cơ sở để
thống nhất áp dụng trên toàn quốc, đồng thời để người dân hiểu rõ quy định của
pháp luật và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
1.3.2. Về mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [51, tr.99].
Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều có những biểu hiện bên ngoài. Từ các biểu
hiện bên ngoài mới xem xét các yếu tố khác của tội phạm.
Cũng như các tội phạm khác, mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm là tập hợp tất cả các biểu hiện bên ngoài của tội này, diễn ra hoặc tồn tại ở
thế giới khách quan mà con người có thể nhận biết được, cho phép đánh giá tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng thời cũng là căn cứ
quan trọng để phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với các tội phạm khác.
32
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện ở những yếu tố sau:
Thứ nhất: Hành vi khách quan của tội phạm
Trong mặt khách quan của tội phạm hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản.
Những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.
Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như những biểu hiện khách quan
khác như công cụ, phương tiện, địa điểm, thời gian khi không có hành vi khách
quan [50, tr.93]. Chính vì thế, mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm cũng được đặc trưng bằng dấu hiệu hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được mô tả tại
Khoản 1 Điều 191 BLHS bao gồm nhiều loại hành vi khách quan khác nhau, tuỳ
từng trường hợp cụ thể có thể xác định trường hợp phạm một tội hay phạm nhiều tội
[26, tr.125]. BLHS 2015 mô tả các hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này
thể hiện ở hai dạng hành vi:
Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách
trái phép, có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc
giấu ở bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích
mua bán, sản xuất hoặc vận chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác. Thời gian
tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu tàng trữ hàng cấm cho người khác mà biết rõ người này buôn bán hàng cấm thì
hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là hành vi giúp sức
người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng
cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi vận chuyển đã được quy định trong
cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển
chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định
tội theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại hàng cấm. Khi xác định hành vi tàng trữ
hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó
chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ
hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán
33
hàng cấm. Biểu hiện của loại hành vi tàng trữ hàng cấm rất đa dạng, có thể là do
người khác gửi nhờ, do người khác tặng cho hay chủ thể tự mình mua được với mục
đích để sử dụng thì đều bị xử lý về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Có thể lấy ví dụ về vụ
án sau: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 04/01/2016, tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa,
Công an huyện Đức Hòa phát hiện thu giữ tại nhà Thái Hoàng Lâm 03 bao nylong
bên trong đựng 190 cây thuốc lá ngoạigồm 150 cây thuốc lá ngoại hiệu Hero và 40
cây thuốc lá ngoại hiệu Jet. Thái Hoàng Lâm khai số thuốc trên là của người bà con
ở Campuchia mang về. Hành vi của Thái Hoàng Lâm đã cấu thành tội “Tàng trữ
hàng cấm” nên đã bị xét xử về tội này.
Vận chuyển hàng cấm là hành vi dịch chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi
khác một cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi
hàng cấm từ địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ,
đường thủy, đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phương
thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán,
tàng trữ. Tuy nhiên, nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp
quy định tại Điều 189 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nếu vận
chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm của
người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức. Vụ án sau là dẫn
chứng cụ thể về hành vi vận chuyển hàng cấm: Vào đầu tháng 1 năm 2018, Nguyễn
Tiến Dũng thuê xe ô tô nhãn hiệu Huyndai biển số 51N-8327 chở khách đi vùng
biên giới cửa khẩu Tho Mo để chơi đánh bạc. Tối ngày 3/1/2018 Dũng điều khiển
xe về khu chợ giáp cửa khẩu để chờ khách. Tại đây Dũng đã nhận chở thuê 4 bao
nylong thuốc lá cho 2 đối tượng không rõ lai lịch. Dũng đã cất giấu 33 cây thuốc lá
Hero ở dưới đệm trong cabin xe, 150 cây thuốc lá 555 và 17 cây thuốc lá Hero ở
băng ghế sau. Sau đó, Dũng tiếp tục điều khiển xe ô tô đi về, đến khoảng 23 giờ 15
phút ngày 3/1/2018, tại xã Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An lực lượng công
an đã thu giữ được 150 cây thuốc lá nhãn hiệu 555 và 50 cây thuốc lá nhãn hiệu
Hero kể trên. Hành vi của Dũng đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm’ theo quy định
34
tại Điều 191 BLHS năm 2015.
Tùy theo trường hợp cụ thể, nếu người phạm tội thực hiện hành vi nào thì
định tội theo hành vi đó. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi thì định tội
theo hai hành vi mà họ thực hiện. Ví dụ: Một người chỉ thực hiện hành vi tàng trữ
hàng cấm thì chỉ định tội là “tàng trữ hàng cấm”, mà không định tội là “tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm”. Một người thực hiện hành vi tàng trữ và hành vi vận chuyển
thì định tội là “tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”. Trường hợp này, Toà án chỉ áp
dụng một mức hình phạt.
Người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau đối với nhiều đối tượng
phạm tội khác nhau thì việc định tội có phức tạp hơn. Ví dụ: Một người tàng trữ 20
kilôgam pháo và mua bán 2000 bao thuốc lá 555 ngoại, thì người này phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội “tàng trữ hàng cấm” và tội “buôn bán hàng
cấm” Toà án quyết định hình phạt riêng đối với từng tội và áp dụng Điều 55 Bộ luật
hình sự để tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Các hành vi này bị coi là tội phạm khi hàng cấm được quy định tại điểm a, b,
c, d, đ hoặc dưới mức quy định tại các khoản trên nhưng đã bị xử phạt hành chính
về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 88, 189, 190, 192, 193, 194, 195,
196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm. Các nhà lập pháp định lượng hàng cấm có số lượng,
giá trị hoặc thu lợi bất chính cụ thể để xây dựng CTTP được quy định tại Điều 191
BLHS. Nhà làm luật quy định hàng cấm có số lượng, giá trị, thu lợi bất chính cụ thể
đã khắc phục những thiếu sót trước đây của Điều 155 BLHS 1999. Trước đây, để áp
dụng thống nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng
dẫn cho Toà án các cấp khi áp dụng các tình tiết: “hàng phạm pháp có giá trị, hàng
phạm pháp có số lượng lớn” trong một số trường hợp được quy ra bằng một số thóc,
gạo; đối với một số hàng hoá khác lại được xác định trọng lượng như: kilôgam, tạ,
tấn...[19]. Tuy nhiên, việc các hướng dẫn này chỉ một thời gian ngắn đã bị lạc hậu
do thị trường giá cả luôn luôn bị thay đổi, mặt khác xét về lý luận, đã đồng nhất hai
khái niệm giá trị với số lượng. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã khắc
35
phục được hạn chế này của BLHS 1999, quy định cụ thể một số loại hàng cấm phổ
biến, giá trị vật phạm pháp, số lượng, thu lợi bất chính tạo điều kiện cho việc áp
dụng pháp luật được minh bạch, rõ ràng, thống nhất bằng cách cụ thể hóa từ các
hướng dẫn, thông tư, nghị định vào Điều luật như các quy định, có sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Ví dụ: quy định hàng cấm có số lượng
lớnđược hướng dẫn tại Khoản 2.3 Điều 2 Thông tư liên tịch 06/2008/TTLT/BCA-
VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành
visản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc
pháocủa Bộ Công an - VKSND tối cao - TAND tối cao: “Người nào mua bán, vận
chuyển, tàng trữ trái phép hàng cấm có số lượng từ 10 kg đến dưới 50 kg (được coi
là số lượng lớn) hoặc dưới số lượng đó, nhưng đã bị xử phạt hành chính, hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 tương ứng
của Điều 153, Điều 154 hoặc Điều 155 BLHS” thì BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 quy định người nào tàng trữ, vận chuyển pháo nổ từ 06 kg đến dưới 40
kg thì đã đủ yếu tố CTTP quy định tại khoản 1 Điều 191. Bên cạnh đó, với hàng
hóa cấm kinh doanh là thuốc lá ngoại nhập lậu thì tại điểm a khoản 2 Điều 7 của
Thông tư liên tịch số 36/2012/TTLT-BCT-BCA-BTP-BYT-TANDTC-VKSNDTC
ngày 07/6/2012 hướng dẫn xử lý vi phạm về kinh doanh rượu nhập lậu, sản phẩm
thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá nhập lậu có quy định: “Số lượng từ 1.500 bao đến
dưới 4.500 bao được coi là số lượng lớn”thì quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 191
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cụ thể hóa với số lượng từ 1500 bao đến
dưới 3.000 bao, số lượng thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và số lượng từ 4.500 bao trở lên thì phạm tội
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017
Đối với tình tiết: “thu lợi bất chính lớn”quy định tại Điều 155 BLHS năm
1999thì pháp luật hình sự không có một quy định cụ thể nào về yếu tố “thu lợi bất
chính lớn” của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Tuy nhiên,
pháp luật hình sự cũng quy định một số trường hợp coi là thu lợi bất chính lớn cho
36
các tội danh cụ thể khác. Đó là:
Khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 hướng dẫn
áp dụng quy định tại Điều 248 và 249 của Bộ luật hình sự của Hội Đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn về yếu tố “thu lợi bất chính” khi xác định tội
“tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” như sau:
“3. “Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” được xác định như sau:
a) Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi
bất chính lớn.
b) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi
bất chính rất lớn.
c) Thu lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt
lớn.”
Bên cạnh đó khoản 7, 8, 9 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-
BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 hướng dẫn áp
dụngquy định của Bộ luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khácphạm tội mà có và tội rửa tiền do Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư pháp -
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - VKSND tối cao - TAND tối cao ban hành có
hướng dẫn việc xác định các tội phạm về chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm
tội mà có và tội rửa tiền như sau:
“7. “Thu lợi bất chính lớn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 250 Bộ luật
hình sự là thu lợi bất chính từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng.
8. “Thu lợi bất chính rất lớn” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật
hình sự là thu lợi bất chính từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng.
9. “Thu lợi bất chính đặc biệt lớn” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ
luật hình sự là thu lợi bất chính từ một trăm triệu đồng trở lên.”
Như vậy, để xác định yếu tố “thu lợi bất chính lớn” có thể thực hiện theo
những hướng dẫn tại quy định trên. Theo đó, thu lợi bất chính từ 10 triệu trở lên
được coi là thu lợi bất chính lớn.
Đối với các loại hàng cấm khác BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) vẫn
37
chưa quy định và hướng dẫn cụ thể về yếu tố này khi xây dựng là yếu tố định lượng
trong CTTP của Điều 155.
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã khắc phục những thiếu sót
đối với quy định “thu lợi bất chính lớn” của Điều 155 BLHS 1999 bằng việc cụ thể
số tiền thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng từ hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh,
cấm lưu hành, cấm sử dụng và thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng từ hàng hóa
chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, dấu hiệu "nhân thân xấu" cũng là yếu tố CTTP được quy định
tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhân thân là dấu hiệu
liên quan chặt chẽ đến yếu tố chủ thể, nhưng trong điều luật này, dấu hiệu nhân thân
đóng vai trò dấu hiệu định tội. Cụ thể, nếu người có hành vi tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm đã bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi trên hoặc các điều đã
được liệt kê trong CTTP hoặc đã bị kết án về một trong các tội đó, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm thì sẽ CTTP mà không cần xác định định lượng của hàng
cấm hay định lượng lợi nhuận từ việc thực hiện hành vi này. Việc quy định như vậy
xuất phát từ bản chất, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nằm ở chính con
người thực hiện hành vi. Họ thuộc đối tượng tái vi phạm hành chính hoặc tái phạm
hình sự, là những người có tiền án, tiền sự về các hành vi này nên thái độ của Nhà
nước đối với họ là nghiêm khắc hơn. Ví dụ như bị cáo Nguyễn Thị Thu Hà trong vụ
án sau, do Hà đã bị xử phạt vi phạm hành chính 15.000.000 đồng về hành vi: “Tàng
trữ thuốc lá điếu nhập lậu” tại quyết định xử phạt hành chính số 32/QĐ-XPHC ngày
18/12/2017. Ngày 26/9/2018 phát hiện Nguyễn Thị Thu Hà tiếp tục tàng trữ trong
nhà Hà ở khu phố 2, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa 610 gói thuốc lá điếu gồm:
190 bao thuốc lá điếu hiệu Hero; 40 bao thuốc lá điếu hiệu 555; 100 bao thuốc lá
điếu hiệu Esse; 260 bao thuốc lá điếu hiệu Jet; 20 bao thuốc lá điếu hiệu Capri.
Nguyễn Thu Hà khai nhận tàng trữ các loại thuốc lá trên của một thanh niên tên
Hùng (không rõ lai lịch) để chờ người của Hùng đến lấy. Bản án số 52/2018/HSST
ngày 18/12/2018 của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa đã xét xử bị cáo Hà về tội
“Tàng trữ hàng cấm” và tuyên xử bị cáo 06 tháng tù. Sau khi bị cáo kháng cáo, Bản
38
án phúc thẩm số 430/2019/HSPT ngày 14/2/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Long
An đã xét xử phúc thẩm và áp dụng Điều 65 BLHS tuyên xử bị cáo Nguyễn Thị
Thu Hà 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Trong vụ án này, số lượng thuốc lá
điếu nhập lậu thu giữ của Hà chưa đủ số lượng 1.500 bao nên không thoả mãn yếu
tố: “thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao” như dấu hiệu trong
CTTP của điểm b Khoản 1 Điều 191 BLHS. Tuy nhiên, do nhân thân của Hà có 01
tiền sự về hành vi “tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu” nên Hà bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội: “Tàng trữ hàng cấm”.
Thứ hai: hậu quả của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Hậu quả của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm gây ra là những thiệt hại
vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...[27]. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là tội
phạm được BLHS quy định có cấu thành hình thức nên hậu quả của tội phạm không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn
thành kể từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi tàng trữ hàng
cấm, vận chuyển hàng cấm đủ lượng theo mô tả của CTTP.
Luật hình sự không quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm không có nghĩa là không có hậu quả xảy ra. Thực tế
cho thấy, hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm gây ra những thiệt hại nghiêm
trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất trong nước, đồng thời gây ra những
tác hại khó lường, ảnh hưởng xấu đến tính mạng, sức khỏe của con người, đến trật
tự quản lý kinh tế và trị an xã hội. Hậu quả tuy không có ý nghĩa quyết định trong
việc định tội song việc xác định hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét TNHS và
cân nhắc quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội tương ứng
với mức độ hậu quả mà hành vi của họ gây nên.
Những dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan như thời gian, địa điểm, phương
pháp, công cụ, thủ đoạn phạm tội...không đóng vai trò định tội mà chỉ có vai trò là
39
tình tiết định khung hay tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.
1.3.3. Về mặt chủ quan
“Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái
tâm lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, bao gồm các dấu
hiệu lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội”.Chính vì vậy, khi xem xét mặt chủ
quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, chúng ta cũng cần làm rõ ba dấu hiệu:
lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội.
Một là, dấu hiệu lỗi của người phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Cũng như các tội phạm khác, lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được trong
CTTP. Không có dấu hiệu lỗi thì không có tội phạm. Lỗi trong luật hình sự được
hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả phạm tội bao
gồm quá trình lý trí và ý trí của chủ thể phạm tội. Người thực hiện hành vi gây thiệt
hại bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận
thức được tính gây thiệt hại của hành vi [57, tr.131]và có đủ điều kiện lựa chọn,
thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội [14, tr.122].
Trong luật hình sự Việt Nam, điều luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
không nêu cụ thể hình thức lỗi của tội phạm. Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như
trong thực tiễn xét xử đều thừa nhận lỗi của tội phạm này là lỗi cố ý. Dấu hiệu hành
vi trong mặt khách quan của tội phạm trong mô tả của CTTP cũng giúp phản ánh lỗi
cố ý trực tiếp của người phạm tội. Có thể nhận định lỗi cố ý trực tiếp là dấu hiệu bắt
buộc trong CTTP của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Về mặt lý trí của chủ thể
nhận thức hàng hoá mà Nhà nước cấm tàng trữ, vận chuyển mà vẫn thực hiện các
hành vi này đối với hàng cấm đủ định lượng trong CTTP hoặc nhân thân đã bị xử
phạt về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà tiếp tục thực hiện hành vi
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Với nhận thức đó, họ cũng sẽ thấy được tính nguy
hiểm của các hành vi trên. Trong trường hợp, chủ thể chủ động tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm để thu lợi nhuận cao, hoặc đã bị xử lý về các hành vi mô tả trong CTTP
của điều luật mà tiếp tục vi phạm càng thể hiện rõ sự nhận thức về mặt pháp lý này
của người phạm tội, và trường hợp này mức độ lỗi của người phạm tội sẽ xem xét
40
nặng hơn. Trong vụ án cụ thể có thể đánh giá các đối tượng Phạm Thanh Lâm và
Vũ Văn Thắng vận chuyển hàng cấm mặc dù biết rõ không được Nhà nước cho
phép nhưng vẫn vận chuyển số lượng lớn các sản phẩm đĩa hình có nội dung không
lành mạnh thể hiện lỗi cố ý trực tiếp thực hiện hàng vi phạm tội. Việc đánh giá mức
độ lỗi là cơ sở quan trọng trong việc quyết định hình phạt với người phạm tội. Đây
là dấu hiệu quan trọng hàng đầu khi đánh giá mặt chủ quan của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm.
Hai là, động cơ và mục đích phạm tội
Động cơ và mục đích phạm tội tuy cũng là dấu hiệu trong mặt chủ quan của
tội phạm nhưng không phải luôn luôn có ý nghĩa quyết định tính chất nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm. “Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý”. Khác với động cơ phạm tội, mục đích
phạm tội là: “kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt
được khi thực hiện hành vi phạm tội”. Trong tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm,
mặc dù động cơ và mục đích phạm tội không được nhắc cụ thể trong quy định của
Điều 191 BLHS năm 2015 nhưng rất dễ để nhận biết, động cơ phạm tội này chủ yếu
vì tư lợi, vì lợi nhuận, thu nhập cao, thu lợi bất chính từ các hoạt động tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm. Người phạm tội nào khi thực hiện hành vi phạm tội cũng đều
hướng đến một mục đích nhất định, thường nhằm mục đích lợi nhuận. Vì lợi nhuận,
họ có nhiều thủ đoạn khác nhau để thực hiện hành vi phạm tội, từ đơn giản đến tinh
vi, xảo quyệt.
1.3.4. Về chủ thể của tội phạm
“Chủ thể của tội phạm là chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội được quy
định trong luật hình sự. Theo truyền thống chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá
nhân” BLHS 1999 cũng thể hiện nguyên tắc chủ thể theo quan điểm truyền thống.
Tuy nhiên, hiện nay quan điểm này đã thay đổi trong BLHS 2015 và BLHS 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017. Có nhiều quan điểm khác nhau về các điều kiện chủ thể
của tội phạm. Về cơ bản, các quan điểm đều đặt ra vấn đề năng lực trách nhiệm
hình sự đối với chủ thể tội phạm [50, tr.152]. Theo mô tả CTTP trong Điều 191
41
BLHS 2015, chủ thể của tội này đáp ứng các điều kiện về chủ thể tội phạm nói
chung.
Pháp luật hình sự Việt Nam truyền thống chỉ thừa nhận duy nhất cá nhân là
chủ thể của tội phạm. Trong một số trường hợp cụ thể pháp luật còn quy định dấu
hiệu đặc biệt của cá nhân và gọi là chủ thể đặc biệt. Chủ thể của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm chỉ đòi hỏi là cá nhân bình thường, không đòi hỏi phải là chủ thể
đặc biệt. Cá nhân này phải có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. “Trong đó,
đặc điểm có năng lực trách nhiệm hình sự là điều cần thiết để cho chủ thể có lỗi khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm đủ tuổi chịu TNHS vừa thể
hiện chính sách hình sự của Nhà nước và cũng là điều kiện cần thiết cho việc hình
thành năng lực TNHS [14, tr.55].
Theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 thì tuổi chịu TNHS đối với mọi tội
phạm là là từ đủ 16 tuổi trở lên (khoản 1); người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng dưới 16
tuổi thì phải chịu TNHS đối với các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng quy định cụ thể tại một số điều luật. Việc xác định một hành vi
phạm tội thuộc loại nào thì căn cứ vào mức hình phạt mà pháp luật quy định đối với
từng loại hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS. Đối chiếu giữa Điều 191,
Điều 12 và khoản 3 Điều 8 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, hàng cấm. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm quy định tại khoản 1 của
điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng nên người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu
TNHS trong trường hợp phạm tội này.
Ví dụ đối tượng Nguyễn Văn A (15 tuổi) bị cơ quan chức năng bắt quả tang
A vận chuyển 13.500 bao thuốc lá nhập lậu. A khai vận chuyển số thuốc lá trên để
nhận tiền công từ người phụ nữ tên Lan. Do A chưa đủ 16 tuổi và có hành vi vận
chuyển số lượng lớn thuốc lá lậu nhưng không thuộc tội phạm quy định tại Khoản 2
Điều 12 BLHS mà người dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nên A không
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Như vậy, quy định mới của BLHS 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã hạn chế một số loại tội phạm mà người từ đủ 14 đến
42
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó có quy định về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm mà theo quy định của BLHS 1999 thì người từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều
155 BLHS 1999 về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.
Pháp luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là năng lực
trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự (điều 12) và
các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (điều 21) đối với cá nhân.
Với quy định này, luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận các chủ thể đạt độ
tuổi chịu TNHS nói chung là có năng lực TNHS. Từ đó, có thể hiểu một cách đơn
giản người có năng lực TNHS là người đạt độ tuổi chịu TNHS và không thuộc
trường hợp không có năng lực TNHS quy định tại Điều 21 BLHS.
Như vậy, bên cạnh yếu tố về độ tuổi, chủ thể là cá nhân của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm là người thực hiện hành vi thoả mãn cấu thành quy định tại Điều
191 BLHS và không thuộc một trong các trường hợp sau:
- Thực hiện hành vi phạm tội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Nếu người phạm tội thuộc trường hợp này thì không truy cứu TNHS mà áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Thực hiện hành vi phạm tội trong khi có năng lực TNHS nhưng đã lâm
vào tình trạng trên trước khi bị kết án. Nếu người phạm tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm trong trường hợp này thì được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, sau
khi khỏi bệnh người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, trước đây BLHS Việt Nam 1999 không quy định TNHS của pháp
nhân. Mặc dù, có những trường hợp người tàng trữ, vận hàng cấm đại diện cho
pháp nhân, tổ chức hoặc thực hiện theo sự chỉ đạo của cấp trên nhằm đem lại lợi ích
cho tổ chức. Nhưng BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã khắc phục được
thiếu sót này và đưa pháp nhân vào chủ thể của tội phạm này.
So sánh quy định về chủ thể trong luật hình sự nói chung, về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nói riêng một số nước trên thế giới với quy định về chủ thể của
43
tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam có thể thấy sự giống nhau khi xác định
dấu hiệu của cá nhân phạm tội phải đủ hai yếu tố có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS. Tuy nhiên, BLHS Việt Nam chỉ mới đưa quy định chủ thể của tội phạm là
pháp nhân trong thời gian gần đây. Việc quy định TNHS đối với tổ chức nói chung,
pháp nhân nói riêng là phù hợp với xu thế chung của hoạt động lập pháp hính sự
trên thế giới, cũng như đảm bảo công bằng và xử lý triệt để các hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm trong thực tế.
Tại Khoản 1 Điều 74 Bộ luật dân sự 2015 quy định một tổ chức được công
nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: Được thành lập theo quy định của Bộ
luật này, luật khác có liên quan; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 Bộ
luật dân sự 2015; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của minh; Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách
độc lập.
Xét về điều kiện để xác định chủ thể là pháp nhân phải chịu TNHS về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017. Theo đó, pháp nhân thương mại bao gồm các doanh nghiệp và
các tổ chức kinh tế khác, có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được
chia cho các thành viên; Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương
mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định
khác của pháp luật liên quan. Theo quy định của BLHS, pháp nhân thương mại chỉ
phải chịu TNHS thực hiện hành vi phạm tội nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân,
hành vi phạm tội được sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân và đảm
bảo thởi hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, việc pháp nhân thương mại
chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ TNHS của cá nhân.
Qua việc nghiên cứu và phân tích bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm nhận thấy bốn yếu tố này là một thể thống nhất, có quan
hệ biện chứng với nhau, cho phép người nghiên cứu nhận thức sâu sắc tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội này. Đồng thời, các dấu hiệu cũng là căn cứ
quan trọng để phân biệt giữa tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với các tội phạm cụ
44
thể khác.
1.3.5. Về hình phạt
Cũng như các điều luật khác, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định các khung hình phạt tương xứng với hành vi và số lượng hàng
cấm, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính khi người phạm tội thực hiện. Các
khung hình phạt để xử lý đối với tội phạm này cho thấy tinh thần của nguyên tắc
phân hoá TNHS một cách rõ ràng, đồng thời cho thấy tính nghiêm khắc cũng như
sự khoan hồng của pháp luật trong đường lối xử lý đối với tội phạm nói chung và
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm nói riêng với
mức hình phạt nhẹ hơn. Có thể thấy rằng các nhà làm luật đã có sự phân hóa tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm so với hành vi
sản xuất, buôn bán hàng cấm khi quy định mức hình phạt của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nhẹ hơn mức hình phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng
cấm.
Khung cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 191, đối với trường hợp phạm tội
không có các tình tiết định khung thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến ba
trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt này sẽ được áp
dụng để xử lý đối với người có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm quy định đủ
để CTTP.
Khoản 2 Điều 191 BLHS là khung tăng nặng đầu tiên của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm. Hình phạt quy định đối với những người có hành vi phạm tội phù
hợp với cấu thành tội phạm theo khoản 2 Điều 191 thì “bị phạt tiền từ 300.000.000
đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”. Như vậy, so với
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS
1999 thì tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đã được phân hóa lại với mức hình phạt
thấp hơn rất nhiều, do các nhà làm luật đã xem xét toàn diện, khách quan tính chất
nguy hiểm cho xã hội đối với loại hành vi này so với hành vi sản xuất, mua bán
hàng cấm. Cụ thể, các tình tiết tăng nặng ở khoản này gồm:
Phạm tội “có tổ chức” là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ về mặt chủ quan
45
giữa những người cùng thực hiện tội phạm, có mức độ phân hoá vai trò, phân công
nhiệm vụ cụ thể, rõ rệt về mặt khách quan. Trong đó có người tổ chức, người thực
hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên. Hoạt
động tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có tổ chức nhiều khả năng cho phép nhóm
đồng phạm thực hiện hành vi liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả nghiêm
trọng cho xã hội.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là trường hợp người phạm tội có chức vụ,
quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện công vụ. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ
và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Nếu những người
này, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, thì
mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội quy định tại điểm b khoản 2
Điều 191 Bộ luật hình sự. Ví dụ đối tượng Phạm Thị Hương là chấp hành viên chi
cục thi hành án dân sự huyện. Do được giao tiêu huỷ lượng pháo thu giữ của VAHS,
Hương đã lợi dụng việc này mang số pháo trên về nhà cất giữ và để lại cho người
quen để đốt trong đám cưới. Hành vi của Hương đã phạm tội “tàng trữ hàng cấm”
với tình tiết định khung tăng nặng: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” theo quy định tại
Điểm b Khoản 2 Điều 191 BLHS.
Phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp người phạm tội chủ
yếu lấy việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là nguồn sống chính
của bản thân và gia đình mình và hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Theo
hướng dẫn tại khoản 5.1 Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự đã giải thích tính chất chuyên nghiệp khi đáp ứng hai điều kiện.
Một là cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị
46
truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa
hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích. Hai là người
phạm tội lấy việc phạm tội là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm
nguồn sinh sống chính. Ví dụ một người vận chuyển thuê mỗi lần 1.500 bao thuốc
lá điếu nhập lậu để nhận tiền công làm nguồn sống thì hành vi của người này bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội “vận chuyển hàng cấm” với tình tiết định khung tăng
nặng “có tính chất chuyên nghiệp” theo Điểm d Khoản 2 Điều 191 BLHS.
“Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm
sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít;
Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao; Pháo nổ từ 40 kilôgam đến
dưới 120 kilôgam; Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,
cấm sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi
bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Hàng hóa chưa được
phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới
700.000.000 đồng”. Tương tự như quy định tại khung cơ bản của Điều luật, hàng
phạm pháp theo quy định chủng loại và số lượng cụ thể là trường hợp người phạm
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm mà thuộc quy định về loại và số lượng hàng cấm
đó được quy định cụ thể hoặc giá trị hàng hóa hoặc lợi nhuận trong mức quy định
tại khoản nàythìbị xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 191. Khắc phục những hạn
chế trước đây, BLHS 2015quy định và hướng dẫn cụ thể khi định lượng đối với số
lượng hàng cấm và lợi nhuận thu được từ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cụ thể là
các loại thuốc bảo vệ thực vật Nhà nước cấmkinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ và hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng đã
được cụ thể hóa về định lượng, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính.
“Tái phạm nguy hiểm" là trường hợp tương tự như trường hợp tái phạm nguy
hiểm quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, phạm tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi:
47
- Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 191 BLHS (vì khoản 1
Điều 191 BLHS không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng). Như vậy, trường hợp tái phạm nguy hiểm này đồng thời đã thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 191 nên việc xác định tình tiết
tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS
chứ không có ý nghĩa định khung hình phạt.
- Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại
khoản nào của Điều 191 Bộ luật hình sự.
Khoản 3 Điều 191 BLHS quy định tình tiết định khung nặng nhất của Điều
luật. Đó là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn
hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn được quy định cụ thể. Trường hợp này, người
phạm tội sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình
phạt bổ sung như phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm (Khoản 4 Điều 191 BLHS).
Khoản 5 Điều 191 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định mức
hình phạt đối với pháp nhân có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp nhân
có hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, d, đ, e,
g, h, i, k và l khoản 2 điều này thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng; phạm tội quy định tại khoản 3 điều này thì bị phạt tiền từ
3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ
06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 Bộ luật này
thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cụ thể pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt
hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố
48
môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có
khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc pháp nhân thương mại được thành lập chỉ
để thực hiện tội phạm. Như vậy, đối với pháp nhân thương mại có hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm thì có mức hình phạt từ 300.000.000 đồng đến 5.000.000.000
đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 còn có
thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy
động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 này, tác giả đã đưa ra khái niệm hàng cấm để từ đó phân
tích bản chất và khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Dưới góc độ lý luận,
các khái niệm các nhà khoa học đưa ra đều nhằm mục đích thể hiện bản chất của tội
phạm này một cách rõ nhất.
Bên cạnh đó, từ nhiều quy định pháp luật về các hành vi phạm tội cụ thể của
Luật hình sự trong từng thời kỳ đến quy định trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 hiện hành, tác giả đã khái quát toàn cảnh lịch sử Việt Nam về tội
phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm và cho thấy quy định về tội này trong pháp
luật hình sự là cả một quá trình lâu dài, thể hiện thái độ của Nhà nước trong cuộc
đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Trên cơ sở nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm càng khẳng định sự
cần thiết phải hoàn thiện quy định về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cho
phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu xử
lý triệt để trước diễn biến phức tạp của tội phạm này trong thực tế. Những vấn đề lý
luận nêu trên là cơ sở cho việc tìm hiểu, đánh giá sự phù hợp của BLHS Việt Nam
hiện hành về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại chương tiếp theo và đưa ra kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn diễn biến của tội phạm cũng như
đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế.
49
Chương 2
THỰC TIỄNVÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TẠI
HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Đức Hòa, Long An là một huyện phía Bắc tỉnh Long An với diện tích tự
nhiên 42.169 ha, dân số 345.817 người. Đức Hòa giáp các huyện Hóc Môn, Bình
Chánh, Củ Chi của Thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp huyện Bến Lức, Long
An; phía Bắc giáp Trảng Bàng, Tây Ninh và phía Tây giáp huyện biên giới Đức
Huệ. Từ địa phận huyện Đức Hòa có thể di chuyển thuận lợi đến Thành phố Hồ Chí
Minh qua Quốc lộ 22 và Quốc lộ 1A và còn Quốc lộ N2 là trục giao thông liên hệ
trực tiếp giữa vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Đức Hòa là vùng đất tương đối bằng phẳng và cao ráo, nền đất cứng có điều
kiện tự nhiên phù hợp phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều,
địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho san lắp mặt bằng và xây dựng cơ sở
hạ tầng, lại tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh nên phù hợp phát triển công
nghiệp, là địa phương đi đầu trong việc thu hút và phát triển công nghiệp của tỉnh
Long An. Hiện nay, huyện Đức Hòa có nhiều cụm khu công nghiệp, thương mại,
dịch vụ với rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có tổng diện tích 18.000 ha. Đức
Hòa đứng đầu tỉnh Long An với nguồn thu cho ngân sách năm 2018 đạt 960 tỷ đồng,
mức tăng trưởng kinh tế đạt 17,5% năm. Theo đồ án quy hoạch năm 2020, tầm nhìn
năm 2030 thì Đức Hòa sẽ trở thành tiểu vùng trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh và
trở thành vùng đô thị phát triện trọng điểm phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh
và vùng kinh tế động lực phía bắc của Long An
Đức Hòa hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với việc tiếp giáp
huyện biên giới và thành phố Hồ Chí Minh, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giao lưu, buôn bán hàng hóa với Campuchia và hội nhập trên tuyến hành lang
50
thương mại quốc tế. Với sự phát triển về công thương nghiệp đã đóng góp quan
trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh Long An nói riêng và của
Việt Nam nói chung.
Trong những năm gần dây, kinh tế - xã hội của huyện đã có những bước phát
triển mới với các thành phần kinh tế đa dạng, các ngành nghề phong phú thu hút
mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó mà cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt,
bộ mặt của tỉnh thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên đi cùng sự phát triển kinh tế
nhanh mạnh mẽ lại là những vấn đề về xã hội về tội phạm vô cùng nhức nhối, phức
tạp, luôn có chiều hướng gia tăng. Điển hình trong đó là tội phạm về xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế, cụ thể là tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, nó đã và đang gây ra
những tác động tiêu cực và ảnh hưởng tới việc thực hiện những chính sách kinh tế
xã hội của tỉnh Long An và của cả nước.
Đức Hòa, Long An là một trong những địa bàn trong cả nước mà hoạt động
buôn bán, vận chuyển hàng cấm diễn ra phức tạp và khó kiểm soát nhất.Bởi lẽ các
đặc điểm về điều kiện tự nhiên, dân cư, trình độ văn hóa, tốc độ phát triển kinh tế...
đã có rất nhiều tác động tới thực trạng này. Điều kiện địa lý, giao thông phức tạp…
tạo điều kiện thuận lợi về địa hình để các đối tượng phạm tội lợi dụng tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm qua liên tục qua vùng biên giới khiến các cơ quan chức năng khó
kiểm soát. Hàng cấm được vận chuyển vào sâu nội địa và dễ dàng chuyển tiếp tới
các tỉnh thành khác Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và ngược lại. Thêm nữa, với
đường sông, kênh rạch là nơi thuận lợi để neo đậu, ẩn nấp, tạo điều kiện tốt cho các
tàu thuyền chở hàng cấm trốn, giấu và tàng trữ, rất khó để phát hiện và vây bắt. Với
các tuyến đường sông lớn như Kênh Thầy Cai và hệ thống sông Vàm Cỏ là nơi có
số lượng hàng cấm xuất nhập lớn, hàng ngày có nhiều tàu chở hàng cập bến xen lẫn
hoạt động hợp pháp sẽ có một khối lượng lớn hàng cấm nhập nội địa không được
kiểm soát.
Các hoạt động tàng trữ, vận chuyển hàng hóa còn được vận chuyển theo
đường mòn, theo bờ sông, các vùng xa xôi hẻo lánh từ khu vực biên giới Đức Huệ
vào nội địa huyện Đức Hòa để vận chuyển đến Thành phố Hồ Chí Minh. Dân
51
cưsống ở khu vực giáp vùng biên giới lại sống thưa thớt, phân tán, đời sống khó
khăn, lạc hậu nên trở thành những đối tượng bị kẻ xấu lợi dụng để vận chuyển hàng
cấm qua biên giới. Đồng thời với sự đa dạng về địa hình, trình độ văn hóa khác biệt
cũng là một bất lợi về việc phổ cập kiến thức, giáo dục, pháp luật cho người dân,
khó khăn trong việc tuyên truyền đường lối chính sách.
Hiện nay, lực lượng các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Đức
Hòa được các cấp Lãnh đạo quan tâm và phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng
cán bộ công chức lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đối với công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm về hàng cấm nói riêng, Công an huyện Đức Hòa thành lập
Đội Cảnh sát phòng chống tội phạm về kinh tế, môi trường phối hợp với Đội Cảnh
sát điều tra và Đội hình sự để thực hiện công tác chung về các loại tội phạm xâm
phạm quản lý kinh tế, môi trường, trong đó chú trọng đặc biệt đến tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm. Ngoài lực lượng chính quy tại Công an huyện Đức Hòa còn có
lực lượng Công an xã, dân quân tự vệ tại địa bàn các xã, phường, thị trấn và Lực
lượng quản lý thị trường thường xuyên phối hợp tổ chức tuần tra, truy xét những
đối tượng có tin báo của quần chúng nhân dân về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm. Đối với lực lượng tiến hành tố tụng tại Viện kiểm sát, TAND huyện Đức Hòa,
phần lớn các cán bộ, KSV, thư ký, Thẩm phán với trình độ cử nhận Luật trở lên đã
góp phần không nhỏ trong trong việc thực hiện công tác đấu tranh, phòng chống tội
phạm nói chung và tội phạm về hàng cấm nói riêng.
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình áp dụng
PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành thực hiện ở hầu hết các giai đoạn của cả
quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn xét xử.
Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và và
được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết
thực tế của VAHS để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
52
cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do
luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đánh giá chính xác
tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hóa trách
nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [10].
Từ năm 2014 đến năm 2018, Công an huyện Đức Hòa đã thụ lý điều tra 105
vụ với 157 bị can về tội phạm này, điều này được thể hiện trong Bảng 2.1 cụ thể
như sau:
Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội phạm tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ2014-2018
Số vụ án phải giải quyết
Năm Cũ còn lại Mới thụ lý Tổng số
2014 Vụ án 2 Bị can 2 Vụ án 29 Bị can 39 Vụ án 31 Bị can 41
2015 1 1 22 35 23 36
2016 2 2 18 33 20 35
2017 0 0 19 25 19 25
2018 0 0 12 20 12 20
Tổng số 5 5 100 152 105 157
Nguồn: Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Năm 2014 điều tra phát hiện được 31 vụ án về hàng cấm với 41 bị can, số án
tồn đọng lại không nhiều, chỉ có 02 vụ án với 02 bị can. Năm 2015, số vụ án giảm
còn 23 vụ án và 35 bị can trong đó án cũ còn lại cũng chỉ có 1 vụ án với 1 bị can.
Đến năm 2016, số vụ án phát hiện điều tra về hàng cấm giảm nhẹ còn 20 vụ án và
32 bị can do có 2 án cũ còn lại với 2 bị can. Tuy nhiên đến năm 2017 và 2018, Công
an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã không còn một vụ án nào tồn đọng lại, đồng
thời số án về hàng cấm liên tục giảm từ 19 án với 25bị can của năm 2017 xuống còn
12 án với 20 bị can của năm 2018, giảm 07 vụ án. Điều này cho thấy sự chuyển
biến lớn trong công tác điều tra phòng chống tội phạm của Công an huyện Đức Hòa
đã có những kết quả rõ rệt, đã hạn chế được tội phạm về tội tàng trữ, vận chuyển
53
hàng cấm trong năm năm gần đây. Đây cũng là tín hiệu khả quan và kết quả rõ rệt
nhất trong việc loại trừ tội phạm này trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý về những vụ án, những tội phạm chưa được phát hiện, tố
giác để lấy đó làm động lực và mục tiêu cho công tác điều tra sau này của cơ quan
Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, hạn chế nhất những sự việc đáng tiếc và
không để bỏ lọt tội phạm.
Đồng thời trong những năm trở lại đây, ngành VKSND, TAND, đội ngũ cán
bộ, công chức của các ngành Viện và Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã khắc
phục mọi khó khăn, đoàn kết phấn đấu để thực hiện có hiệu quả chức năng của
mình là kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các VAHS nói chung, tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nói riêng nhằm đưa ra các bản án chính xác, đúng người, đúng tội,
thỏa đáng nhằm răn đe, chung tay phòng ngừa tội phạm.
Bảng 2.2. Thống kê số vụ án đã xét xử hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ năm 2014 -2018
Sô vụ án phải giải quyết
Năm Các tội phạm khác Tội, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
2014 276 568 27 33
2015 219 483 20 31
2016 206 457 19 27
2017 245 581 17 20
2018 237 542 10 15
Tổng số 1.183 2.631 93 126
Nguồn:TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã xét xử
1.183 vụ án trong đó có 93 án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm chiếm 7,86%.
Có thể thấy số vụ án về hàng cấm không nhiều so với những án hình sự khác, 54
nhưng là cả sự nỗ lực của Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong việc giải
quyết án về hàng cấm, bởi trong tổng số án đã thụ lý đều đã được giải quyết nhanh
chóng, đúng thời hạn luật định, không có vụ án nào phải trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát để điều tra bổ sung, chất lượng công tác xét xử đối với loại tội phạm này cơ bản
đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không có án bị hủy. Đặc biệt trong hoạt
động xét xử án, Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã lựa chọn những vụ án điển
hình, có tính chất đặc biệt nghiêm trọng để xét xử lưu động trong giai đoạn từ năm
2014 đến năm 2018 xét xử lưu động 07 vụ án.
2.3.Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là việc xác
định loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi pháp luật cho phép để áp
dụng đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép, vận chuyển trái phép những
mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh với, số lượng, trọng lượng hoặc giá trị, thu lợi
bất chính. Quyết định hình phạt đối với tội tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thực
chất là hoạt động áp dụng pháp luật trên cơ sở của quá trình định tội danh trước đó.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân
nhấc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự [30, Đ.50].
Theo quy định này, thì khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thứ nhất, theo quy
định của BLHS bao gồm cả phần chung và điều luật quy định hình phạt đối với tội
phạm cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. Quá trình áp dụng pháp luật hình
sự phải xác định từ khâu định tội danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt
và lựa chọn biện pháp hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Đặc biệt, phải tuân
thủ mức hình phạt đối với tội phạm được quy định trong điều luật, bởi vì Toà án chỉ
có thể quyết định hình phạt mà Điều luật đã quy định cho tội đã vi phạm.Thứ hai,
cần phải đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi có thể dựa
55
vào các yếu tố như: tính chất của hành vi khách quan, quan hệ xã hội bị xâm phạm,
trong đó việc xác định tính chất của phương pháp, thủ đoạn, phương tiện, công cụ,
đặc biệt là mức độ hậu quả gây ra cho quan hệ xã hội bị xâm hại, tội phạm thực hiện
đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Ngoài ra, việc xác định tính chất, mức độ lỗi,
cũng như động cơ, mục đích của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đó
như thế nào. Đồng thời, cần phải lưu ý đến hoàn cảnh chính trị - xã hội nơi hành vi
phạm tội xảy ra.Thứ ba, về nhân thân người phạm tội như: tiền án, tiền sự, lần phạm
tội này là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp hay không,
thái độ khai báo như thế nào, có biện pháp khắc phục hậu quả hay không, có tham
gia cứu giúp người bi nạn hay không, … Ngoài ra, còn có thể lưu ý đến đối tượng
phạm tội là phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, trẻ em,
người già trên 70 tuổi, có đang mắc bệnh hiểm nghèo không… Thứ tư, là xem xét
đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cụ thể như thế nào, vai trò của
người phạm tội trong đồng phạm trong vụ án [24].
Bảng 2.3. Thống kê mức án TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử
trong giai đoạn từ 2014 - 2018
Phân tích mức án đã xét xử với các bị cáo
Miễn Đưa vào Cải Khô Cho Tù từ TNHS trường giáo tạo Năm ng Trục Cảnh Phạt hưởng 3 năm hoặc dưỡng hoặc không có xuất cáo tiền án trở Miễn giáo dục tại giam Tù trên 3 năm đến duới 7 tội treo xuống Tù từ trên 7 năm đến 15 năm HP xã phường giữ
0 0 0 0 0 0 0 7 14 năm 9 3 2014
0 0 0 0 0 0 0 11 12 6 2 2015
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 9 4 6 11 11 6 5 3 2 2 2 1
2016 2017 2018 Tổng 0 0 0 0 0 0 0 37 54 25 10
số
Nguồn:TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
56
Phân tích số bị cáo đã xét xử thì không có bị cáo nào bị áp dụng hình phạt
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc giáo dục tại xã phường, trục xuất hoặc cảnh cáo,
không có phạt tiền hay cải tạo không giam giữ mà các bị cáo bị áp dụng từ án treo
cho tới hình phạt tù có thời hạn. Cụ thể số bị cáo cho hưởng án treo là 37 bị cáo, có
54 bị cáo có mức án tù từ 3 năm trở xuống và kế đến là xử phạt tù từ 3 năm đến 7
năm với 25 bị cáo, mức án cao nhất của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là hình phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm gồm 10 bị cáo, ngoài hình phạt
chính có bị cáo còn bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Như vậy có thể
thấy hình phạt áp dụng nhiều nhất cho tội phạm hàng cấm tại huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An là tù từ 3 năm trở xuống với 54 bị cáo và tù từ 7 đến 15 năm là mức phạt
được áp dụng ít nhất với 10 bị cáo. Điều đó chứng tỏ tính răn đe mạnh mẽ về việc
xét xử áp dụng hình phạt chính là chủ yếu đối với tội phạm này thay vì chỉ áp dụng
biện pháp xử phạt hành chính, tịch thu tang vật hay phạt tiền sẽ không đảm bảo sự
công bằng và sự trừng phạt thích đáng. Đây cũng là những chế tài mạnh tay đối với
loại tội phạm này của TAND tỉnh Long An trong những năm vừa qua, đảm bảo sự
nghiêm minh của pháp luật, trừng trị đúng người đúng tội, tác động tích cực tới
nhận thức, sự răn đe, cảnh cáo với những ai đã phạm tội hoặc có ý định phạm tội
đều phải nghiêm khắc nhìn lại.
Xem xét các bản án đã xét xử thì các hành vi phạm tội điển hình là vận
chuyển chiếm lượng án nhiều hơn hành vi tàng trữ. Về loại hàng cấm bị phát hiện
thu giữ trên địa bàn tỉnh phổ biến và chủ yếu nhất là các loại thuốc lá điếu nhập lậu
có nguồn gốc xuất xứ từ Campuchia và các loại hàng hóa khác như pháo nổ đối
tượng mua ở khu vực các cửa khẩu rồi vận chuyển vào Việt Nam tiêu thụ trong dịp
tết Nguyên đán và lễ hội hàng năm. Có thể tham khảo một số ví dụ sau đây:
Vụ án thứ nhất đối với bị cáo Trần Hoàng Đăng: Vào khoảng 9 giờ 30 phút
ngày 22/01/2015 tại Ấp 1, xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Trần
Hoàng Đăng có hành vi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 62L - 8160 vận chuyển
trái phép 17 kg pháo nổ với mục đích đem về Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng
vào dịp Tết Nguyên Đán, thì bị Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An bắt và thu
57
giữ vật chứng. VKSNDhuyện Đức Hòa đã truy tố, Trần Hoàng Đăng, về tội “Vận
chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm
sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xét xử phạt Trần Hoàng Đăng từ 09 tháng
tù đến 12 tháng tù. TAND huyện Đức Hòa đã xử phạt Trần Hoàng Đăng, phạm tội
“Vận chuyển trái phép hàng cấm” áp dụng khoản 1 Điều 155, điểm p khoản 1,
khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt Trần Hoàng Đăng 09 tháng tù.
Vụ án thứ hai đối với bị cáo Nguyễn Thành Vũ. Vào tháng 7 năm 2016,
Nguyễn Thành Vũ thuê xe ô tô biển kiểm soát 62N-5124 chở khách đến cửa khẩu
Tho Mo, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An để đánh bạc tại Campuchia. Tối ngày
12/7/2016 sau khi đưa khách đến cửa khẩu Tho Mo,Vũ ở lại xe ô tô đợi tại khu vực
chợ. Tại đây Vũ đã nhận chở thuê 5 bao nylong chứa thuốc lá cho 2 đối tượng
không rõ lai lịch. Vũ đã cất giấu 50 cây thuốc lá Hero, 150 cây thuốc lá 555 và 60
cây thuốc lá Jet ở băng ghế sau. Sau khi cất xong số thuốc lá thì Vũ đón khách và
điều khiển xe ô tô đi về, đến khoảng 21 giờ ngày 12/7/2016 khi tới thị trấn Hậu
Nghĩa, huyện Đức Hòa thì bị lực lượng công an dừng xe để kiểm tra thu giữ được
toàn bộ số thuốc lá ngoại nêu trên. Theo chứng thư giám định về tên hàng và xuất
xứ của Hội đồng giám định tài sản huyện Đức Hòa kết luận: 50 cây thuốc lá Hero,
150 cây thuốc lá 555 và 60 cây thuốc lá Jet, tổng số 2600 bao có xuất xứ nước ngoài.
VKSND huyện Đức Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành Vũ về tội “Vận chuyển
hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ
15 tháng tù đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30-36 tháng.
TAND huyện Đức Hòa đã tuyên bố Nguyễn Thành Vũ phạm tội “Vận chuyển hàng
cấm” áp dụng khoản 1 Điều 155 BLHS, điểm p khoản 1, 2 Điều 46, khoản 1, 2 Điều
60 BLHS, xử phạt Nguyễn Thành Vũ 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử
thách 30 tháng.
2.4. Đánh giá việc thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
2.4.1. Những kết quả đạt được
Công tác đấu tranh phòng chống hàng cấm của các cơ quan chức năng trên
58
địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần làm hạn chế tình hình
của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Trong những năm trở lại
đây, các cơ quan chức năng đã khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết phấn đấu để thực
hiện có hiệu quả chức năng của mình góp phần làm hạn chế tình hình tội phạm.
Trong công tác điều tra, truy tố tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm luôn đảm
bảo tính khách quan, minh bạch và đúng trình tự thu thập chứng cứ, định tội danh,
hạn chế trường hợp trả điều tra bổ sung và đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng
thời hạn, không để án tồn quá hạn, vi phạm quy đinh về thời hạn trong tố tụng hình
sự.
Ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, lực lượng cán bộ điều tra
đã nhanh chóng thụ lý tin báo và thực hiện tốt các quy trình tố tụng, giải quyết vụ
việc, củng cố hồ sơ, thu thập chứng cứ, hoàn tất hồ sơ để khởi tố vụ án kịp thời.
Khi nhận được hồ sơ vụ án, các KSV đã trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
chứng cứ xác định tội phạm, tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm
nhẹ TNHS ... để kết luận tính có căn cứ, hợp pháp của khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
đồng thời kiểm sát điều tra xuyên suốt quá trình thực hiện các hoạt động từ giai
đoạn điều tra, truy tố và đến khi xét xử sơ thẩm các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm nhằm đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy
ra oan, sai và kịp thời phát hiện vi phạm tố tụng hình sự (nếu có), để đưa ra văn bản
trình bày kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm.
Đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm phần lớn là do bắt quả tang
đối tượng cùng tang vật nên chứng cứ rõ ràng, tuy nhiên, cần đảm bảo việc lập các
văn bản bắt người phạm tội quả tang đúng quy định của BLTTHS, tránh việc vi
phạm nghiêm trọng quy định của luật dẫn đến đến chứng cứ không được công nhận.
Tuy nhiên, thực tiễn trên địa bàn huyện Đức Hòa chưa để xảy ra trường hợp vi
phạm nghiêm trọng tố tụng ảnh hưởng đến bản chất, nội dung vụ án, phần lớn các
bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với tang vật thu giữ tại hiện trường
cũng như lời khai người làm chứng.
Đặc biệt việc xét xử các VAHS nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng
59
cấm nói riêng là một trong những nhiệm vụ chiến lược trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm.Thực tiễn áp dụng hình phạt nghiêm khắc không áp dụng
hình phạt tiền mà chỉ áp dụng hình phạt tù hoặc phạt tù cho hưởng án treo chứng tỏ
tính răn đe mạnh mẽ về việc xét xử áp dụng hình phạt chính là chủ yếu đối với tội
phạm này là đảm bảo sự công bằng và sự trừng phạt thích đáng. Đây cũng là những
chế tài mạnh tay đối với loại tội phạm này mà TAND cấp sơ thẩm huyện Đức Hòa
đã áp dụng trong những năm vừa qua, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật,
trừng trị đúng người đúng tội, tác động tích cực tới nhận thức, sự răn đe, cảnh cáo
với những ai đã phạm tội hoặc có ý định phạm tội đều phải nghiêm khắc nhìn lại.
2.4.2. Những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, công tác điều tra vẫn còn án án tồn đọng lại, năm 2014 và năm
2015 có 1 án, năm 2016 tăng thêm lên 2 án cũ còn lại. Công tác điều tra theo các
chuyên án còn chua mang tính chủ động và trọng điểm. Còn xảy ra tình trạng một
số cán bộ trong lực lượng chống hàng cấm tiếp tay cho tội phạm hoặc do trình độ
nghiệp vụ yếu kém không xử lý tốt các thông tin cũng như tiến hành các thủ tục tố
tụng không chặt chẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố tội phạm. Công
tác tuần tra chủ yếu mang tính hành chính, việc bắt giữ đối tượng chủ yếu nhằm tịch
thu hàng hóa mà không chú trọng tới việc điều tra mở rộng vụ án nên xử lý chưa
triệt để.
Thứ hai, Điều 155 Bộ luật hình sự được áp dụng từ năm 2014 đến trước ngày
01/01/2018 quy định một nhóm tội chứ không phải là một tội danh. Cần phân biệt
đây là bốn tội danh độc lập được nhóm lại trong một điều luật. Cụ thể: tội sản xuất
hàng cấm, tội vận chuyển hàng cấm, tội tàng trữ hàng cấm, tội buôn bán hàng cấm.
Bốn tội danh trên được nhóm lại và được quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự với
tên gọi “tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm”. Khi xác định tội
danh theo Điều luật này phải phân biệt nhu sau:
- Trường hợp người nào chỉ thực hiện một trong bốn hành vi sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội
60
danh tương ứng với hành vi đó.
- Trường hợp người nào vừa có hành vi tàng trữ một loại hàng cấm này, vừa
có hành vi buôn bán một loại hàng cấm khác với số lượng lớn thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự về hai tội tàng trữ hàng cấm và buôn bán hàng cấm. Tòa
án sẽ tiến hành tổng hợp hình phạt đối với hai tội này theo quy định chung.
- Trường hợp người nào có một hoặc các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán một loại hàng cấm thì bị xử lý về một tội với tên tội danh bao
gồm các hành vi đó.
Thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn nhiều bản án nhầm lẫn cách gọi tên tội
danh, dẫn đến xác định tội danh không đúng với hành vi thực hiện tội phạm. Một số
bản án sơ thẩm cũng như phúc thẩm chưa thống nhất cách xác định tên tội danh. Cụ
thể:
Ngày 4/4/2014 Công an thị xã Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa bắt quả tang tại
nhà Lê Thành Dương đang tàng trữ 4.800 bao thuốc lá điếu. Quá trình điều tra
Dương khai nhận do cần tiền tiêu xài nên Dương đã dùng nhà của mình làm nơi
tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu cho Nguyễn Văn Ái. Mỗi ngày Ái thuê người vận
chuyển thuốc lá đến nhà Dương cất giấu, cứ mỗi chuyến xe chở đến cất giấu, Ái
đưa cho Dương 50.000đ, sau đó Ái thuê xe ô tô để vận chuyển thuốc lá đi nơi khác
tiêu thụ. Tổng số tiền Dương nhận được của Ái là 500.000đ thì bị phát hiện bắt quả
tang. Tại bản án sơ thẩm số 22/2014/HSST ngày 22/12/2014 của Tòa án nhân huyện
Đức Hòa đã áp dụng khoản 02 Điều 155 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Lê Thành
Dương phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Qua bản án
trên nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm ghi luôn tên Điều 155 để xác định tội danh đối
với Lê Thành Dương là không chính xác. Hành vi của Dương là tàng trữ hàng cấm,
do đó tội danh của Dương cũng chỉ được xác định là tội tàng trữ hàng cấm là đầy đủ.
Thứ ba, đối tượng tác động của tội phạm quy định trong điều luật hiện nay
còn chung chung và phụ thuộc vào văn bản dưới luật rất nhiều, các văn bản đó do
Chính phủ hoặc bộ chuyên ngành quy định. Ví dụ: Danh mục hàng hóa cấm kinh
doanh được quy định tại Phần A phụ lục I (Ban hành kèm theoNghị định số
61
59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2005 của Chính phủ) có tất cả 18 loại hàng hóa thuộc
loại hàng cấm. Đến Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 đã bổ sung Danh
mục hàng hóa cấm kinh doanh thêm thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành
phẩm nhập lậu khác. Qua đó có thể thấy có thể loại hàng hóa này ở thời điểm này là
hàng cấm nhưng ở thời điểm khác có thể được phép kinh doanh hay ngược lại. Điều
này là vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng, xử lý tội phạm, nếu cơ quan tiến hành
tố tụng không cập nhật kịp thời các văn bản mới sẽ dẫn tới việc bỏ lọt tội phạm, xét
xử không chính xác gây án oan sai. Có giai đoạn các cơ quan tiến hành tố tụng gặp
khó khăn khi xử lý hành vi vận chuyển, tàng trữ hàng cấm đối với hàng hóa là thuốc
lá ngoại nhập lậu do có sự mâu thuẫn giữa các Luật hiện hành do không xem thuốc
lá điếu là hàng cấm.
Thứ tư, quy định về định lượng và giá trị hàng cấm quy định tại Điều 155
BLHS 1999 còn mang tính chất khái quát chưa có hướng dẫn cụ thể cũng gây khó
khăn cho các nhà làm luật trong việc xử lý tội phạm, hoặc nếu có thì các văn bản
còn mâu thuẫn và chưa tìm được sự thống nhất, gây khó khăn cho quá trình xét xử.
Điều 191 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có quy định cụ thể về hàng
cấm có số lượng và thu lợi bất chính để xác định các hành vi đó có CTTP được quy
định tại Điều 191 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ví dụ về hàng cấm là
thuốc lá điếu nhập lậu, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số
124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Theo đó, hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có
số lượng 500 bao trở lên thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải áp dụng
quy định của Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính chuyển ngay hồ sơ vụ vi
phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể
tại khoản 22 Điều 1 như sau: Đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu
nhập lậu có số lượng từ 500 bao trở lên thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc
62
phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, tại thời điểm chưa có quy định hướng dẫn bổ sung hoặc thay thế
Thông tư liên tịch số 36/2012/TTLT-BCT-BCA- BTP-BYT- TANDTC-VKSNDTC
ngày 07/12/2012 của Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Toà án
nhân dân tối cao, VKSND tối cao hướng dẫn xử lý vi phạm về kinh doanh rượu
nhập lậu, sản phẩm thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá nhập lậu gây khó khăn trong
xác định định lượng để xử lý hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển thuốc lá điếu
nhập lậu. Bởi theo Thông tư này thì:
Đối với hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ sản phẩm thuốc lá nhập lậu,
việc xác định số lượng làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, lại có quy định
từ 1500 bao trở lên như sau:
a) Số lượng từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao được coi là số lượng lớn;
b) Số lượng từ 4.500 bao đến dưới 13.500 bao được coi là có số lượng rất lớn;
c) Số lượng từ 13.500 bao trở lên được coi là có số lượng đặc biệt lớn.
Hơn nữa, song song với quy định của Nghị định số 124/2015/NĐ-CP, Bộ
luật hình sự năm 2015 (chưa sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 191, theo đó để xử lý hình sự về
hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thì hàng cấm phải thỏa mãn những điều kiện
sau: “hàng cấm trị giá từ 100.000.000 đồng”; “thu lợi bất chính từ 50.000.000
đồng” hoặc duới mức định lượng nêu trên nhung “đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190,
192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các
tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm ”.
So sánh quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (chưa sửa đổi, bổ sung năm
2017) và quy định định lượng chuyển xử lý hình sự của Nghị định số 124/2015/NĐ-
CP, thực tế sẽ gặp khó khăn trong trường hợp xử lý hành vi vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500 gói trở lên (đảm bảo theo
Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) nhưng không đảm bảo giá trị 100.000.000 đồng,
63
hoặc thu lợi bất chính không đủ 50.000.000 đồng theo quy định tại 191 BLHS năm
2015. Như vậy, hầu hết các trường hợp chuyển xử lý hình sự đối với hành vi vận
chuyển, buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500 gói nhưng
không đảm bảo giá trị theo quy định của Bộ luật hình sự thì không thể xử lý hình sự
được, phải chuyển lại xử lý theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Rõ ràng, quy
định trên của Nghị định 124/2015/NĐ- CP đã không đáp ứng được tác dụng như
mong muốn trong quá trình đấu tranh, phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác áp dụng
pháp luật.
Do đó, trước những khó khăn nêu trên, BLHS năm 2015 đã được hoãn thời
hạn thi hành và sửa đổi, bổ sung năm 2017, theo đó, hành vi tàng trữ, vận chuyển
thuốc lá điếu nhập lậu đã được quy định vụ thể về định lượng để truy cứu TNHS,
giải quyết những khó khăn trong thời gian trước.
Thứ năm, văn bản quy định về cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp với
Tòa án còn thiếu, chưa có và nếu có cũng còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Vì vậy,
nhiều cơ quan, tổ chức chưa phối hợp với Tòa án, thậm chí chưa làm hết trách
nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu,chứng cứ
làm cho thời gian xét xử vụ án kéo dài và vẫn có những án tồn đọng lâu năm.
Thứ sáu, về số lượng án hàng cấm số vụ xử lý về hình sự chiếm tỷ lệ nhỏ,
dưới 3% so với tổng số án hình sự của cả huyện. Chất lượng các vụ án hàng cấm
còn thấp như việc thu thập tài liệu hồ sơ vụ án còn sơ sài, không mở rộng điều tra
để xử lý tận gốc, chủ yếu xử lý các đối tượng vận chuyển còn chủ hàng chuyên
nghiệp nguy hiểm lại không bị phát hiện
Thứ bảy, việc xét xử hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trước khi BLHS
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thì các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm còn quy định chung mà không có sự phân biệt rõ ràng
về đặc tính, công dụng, khả năng gây nguy hại hay tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội. Chúng được quy định gộp chung trong cùng một điều luật với
cùng một chế tài xử phạt là chưa hợp lý, thiếu sự công bằng.
64
2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, lực lượng mỏng, trong đó đội ngũ chuyên trách chống hàng cấm
chiếm số lượng nhỏ, lực lượng chủ yếu là cán bộ điều tra chống tội phạm của Công
an, Hải quan. Lực lượng chống hàng cấm của Biên phòng, Quản lý thị trường còn
thiếu, nhiều người chưa qua đào tạo cơ bản, chuyên sâu về nghiệp vụ chống hàng
cấm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lực lượng chức năng còn yếu chưa đồng
đều gây khó khăn trong việc kiểm tra phát hiện các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của
tội phạm hàng cấm. Ngoài ra một số bộ phận chính trị không vững vàng, vì lợi ích
kinh tế đã tiếp tay cho tội phạm hàng cấm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu
quả công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm hàng
cấm nói riêng. Địa hình hiểm trở, nhiều vùng hoang vu, đi lại khó khăn tạo điều
kiện cho các đối tượng có thể dễ dàng tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (các loại pháo
và thuốc lá điếu sản xuất ở nước ngoài) và lẩn trốn khỏi sự truy bắt của cơ quan
chức năng. Nhận thức của người dân còn lạc hậu, trình độ dân trí thấp dẫn tới việc
quan niệm sử dụng hàng cấm còn diễn ra trong đời sống hàng ngày như sử dụng
pháo nổ tại các dịp lễ Tết. Phương tiện kỹ thuật trang bị cho lực lượng điều tra,
chống hàng cấm còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác phòng
chống tội phạm trong tình hình mới.
Thứ hai, nhiều vụ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được chuyển xử lý hành
chính, đây là biện pháp xử lý đơn giản nhất về thủ tục, tài sản hàng hóa tịch thu, số
tiền phạt hành chính cũng góp phần bổ sung ngân sách địa phương nên biện pháp
này chủ yếu được áp dụng nên không đủ hiệu lực để ngăn chặn tội phạm một cách
có hiệu quả. Xét xử còn tiến hành chậm chạp, chưa kịp thời.
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật còn chậm được sửa đổi bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tiễn. Thực tế hiện nay có quá nhiều văn bản quản lý đối với
loại hàng đó đã không còn hiệu lực hoặc còn rất nhiều văn bản còn hiệu lực hiện
hành, hướng dẫn của nhiều đơn vị, cơ quan ban ngành địa phương trên nhiều lĩnh
vực chồng chéo, mâu thuẫn nhau như: Nghi định số 59/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
65
kinh doanh có điều kiện; Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm
2013 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài; Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 2009 về sửa đổi bổ sung
danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện, Nghị định số 02/1995/NĐ-CP ngày 5 tháng 1
năm 1995 của Chính phủ quy đinh về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh và kinh doanh có điều kiện ở thị trường trong nước; Nghị định số
11/1999/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu
thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế
kinh doanh, kinh doanh có điều kiện; Quyết định số 88/2000/QĐ- BTM ngày 18
tháng 1 năm 2000 của Bộ thương mại về ban hành danh mục chi tiết hàng hóa cấm
lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh,
kinh doanh có điều kiện; Quyết định số 40/2006/QĐ-BCN ngày 01 tháng 12 năm
2006 của Bộ Công nghiệp bổ sung danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm nhập
khẩu Ban hành kèm theo Quyết định số 05/2006/QĐ-BCN ngày 07 tháng 4 năm
2006 của Bộ Công nghiệp về việc công bố danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm
nhập khẩu; Quyết định số 06/2006/QĐ-BCN ngày 10 tháng 4 năm 2006 của Bộ
Công nghiệp về việc công bố danh mục hàng cấm nhập khẩu phương tiện đã qua sử
dụng; Quyết đinh số 80/2006/QĐ-BQP ngày 9 tháng 5 năm 2006 của Bộ Quốc
phòng về việc công bố danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu vũ khí đạn
dược, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự...
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt được
hiệu quả cao, các phương tiện thông tin truyền thông chưa thường xuyên có nội
dung phản ánh đúng đắn kịp thời thực trạng, mối nguy hiểm của tệ nạn buôn bán
hàng cấm khiến người dân chưa tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm hàng cấm, không tố giác tội phạm hoặc tiếp tay cho tội phạm.
Thứ năm, chính quyền địa phương chưa có những chỉ đạo mạnh mẽ trong
66
công tác phòng chống tội phạm hàng cấm, sự chỉ đạo còn chung chung chưa có biện
pháp cụ thể, bám sát tình hình địa phương. Tình hình hiện nay cho thấy, tại một số
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử ở cấp huyện khối lượng công việc nhiều đồng thời
giải quyết nhiều loại công việc, vì thế phần nào làm ảnh hưởng đến tiến độ điều tra,
xét xử các vụ án về hàng cấm.
2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm
2.5.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội,tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Thứ nhất, về xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó quy
định trong Bộ luật Hình sự tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 quy định một cách chua rõ khái niệm thế nào là tội phạm tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm. Quy định tại khoản 1 Điều 191 BLHS cho thấy, việc mô tả cấu thành tội
phạm mà dấu hiệu về đối tượng tác động của tội phạm còn chung chung - hàng cấm;
phạm vi điều chỉnh quá rộng - các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm hoặc chưa được
phép tàng trữ, vận chuyển kinh doanh trái phép. Trong khi đó, danh mục các loại
hàng hóa thuộc hàng cấm tàng trữ, vận chuyển trái phép chỉ quy định một số loại
hàng hóa như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ mà còn một số
hàng cấm khác quy định tại các điểm d, đ không được quy định cụ thể trong Điều
luật mà chủ yếu do Chính phủ hoặc bộ chuyên ngành quy định. Như vậy, để xác
định một loại hàng hóa nào đó thuộc “hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh,
cấm lưu hành, cấm sử dụng” và “hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được
phép sử dụng tại Việt Nam” thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào rất nhiều
các nghị định của Chính phủ, quyết định của bộ chuyên ngành ban hành. Trong
thực tế, các văn bản này luôn sửa đổi, bổ sung liên tục để đáp ứng yêu cầu điều
chỉnh của pháp luật đối sự phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau.
Vì vậy, có thể loại hàng hóa này ở thời điểm này sẽ bị cấm kinh doanh nhưng ở thời
điểm khác có thể được phép kinh doanh hoặc ngược lại. Do đó, cần bổ sung quy
định khái niệm về hàng cấm và các vấn đề khác có liên quan vào các khoản tương
ứng với các thông tư, nghị định. Bởi không xác định được thế nào là hàng cấm thì
sẽ không thể nhận thức đúng việc tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đáp ứng yêu cầu
67
về tính khái quát cao,dễ hiểu để các cơ quan tư pháp dễ vận dụng trong áp dụng
pháp luật.
Thêm nữa, Điều 191 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017đã có dấu hiệu
định lượng, số lượng thu lợi bất chính, giá trịmột số “hàng phạm pháp” cụ thể. Theo
đó,có quy định về việc xác định người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không phải căn cứ vào mặt hàng phạm pháp đã liệt kê trong điều
luật hoặc giá trị hàng phạm pháp.Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mặt hàng Nhà nước
cấm thì việc xác định giá trị hàng phạm pháp là khá vô lý và cơ sở được tính như
thế nào cũng rất khó đặt ra cũng như cơ quan nào có trách nhiệm thẩm định giá và
căn cứ vào giá nào để áp giá xác định giá trị hàng phạm pháp có đủ định lượng truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này đều là những bất cập cần giải quyết khi
áp dụng vào thực tế
Thứ hai, trên cơ sở những Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh Chính phủ và
các bộ chuyên ngành ban hành để xem xét thêm những loại hàng hóa hiện nay và
trong tương lai sẽ luôn cấm tàng trữ, vận chuyển để quy định cụ thể trong BLHS
nhằm đảm bảo tính công bằng, tránh sự phụ thuộc vào các văn bản dưới luật, trên
cơ sở phân biệt rõ ràng đặc tính, công dụng, tính nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ như:
Nghiêm cấm tàng trữ, vận chuyển hàng hóa là văn hóa phản động, đồi trụy, phế liệu
gây ô nhiễm môi trường, khoáng sản đặc biệt độc hại ... Làm được điều này không
chỉ có ý nghĩa với các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn với cả những hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân trong ngoài nước, nâng cao tính tự chủ,
năng động trong kinh doanh, giúp họ nhận biết được đâu là hàng cấm để tránh tàng
trữ, vận chuyển cũng như kinh doanh, sản xuất.
2.5.2. Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các VAHS về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Hoạt động tư pháp bao gồm: Việc phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra, thu
thập chứng cứ trong các VAHS do Cơ quan điều tra thực hiện; hoạt động kiểm sát
khởi tố VAHS, khởi tố bị can, kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ, cải tạo, kiểm sát
xét xử, kiểm sát thi hành án do Viện kiểm sát thực hiện; hoạt động xét xử các
VAHS, giải quyết và xét xử các vụ, việc tranh chấp khác do TAND thực hiện và
68
hoạt động thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực do Cơ quan Thi hành án
thực hiện. Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay,
cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không
thể thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan Nhà, hệ thống các cơ quan tư pháp
có vị trí và vai trò rất quan trọng.Hoạt động tư pháp ở nước ta được tiến hành bởi
nhiều cơ quan, ở nhiều địa phuơng và liên quan tới quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
Tuy nhiên để hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật và hiệu quả,
ngoài việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các cơ quan tư
pháp; Hiến pháp và các đạo Luật phải quy định rõ cơ chế giám sát và quy định các
cơ quan tư pháp phải được đặt duới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và cơ quan
được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của Viện kiểm
sát được quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân năm
2014. Theo quy định của luật tổ chức VKSND năm 2014 thì đối tượng của kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong các VAHS là việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
tư pháp (cơ quan điều tra, cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án), các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các tổ chức cá nhân có
trách nhiệm hoặc liên quan đến giải quyết VAHS. Khi tiến hành hoạt động này,
Viện kiểm sát phải căn cứ vào Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Luật tổ chức
VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, xem xét đảm bảo
việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát, cũng như để đảm
bảo tính có căn cứ và hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát của VKS.
Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các VAHS về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cụ thể là:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố. Các cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo đầy
69
đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho
VKSND. Đảm bảo mọi tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các
VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đều phải được tiếp nhận, và quyết
đúng trình tự pháp luật.
Đối với giai đoạn điều tra các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển, hàng cấm.
Quán triệt đầy đủ, thường xuyên chủ trương của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra”tới từng cán bộ, KSV để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức. Viện kiểm sát có nhiệm vụ THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình điều tra (kiểm sát điều tra). Điều này được quy định tại 14 của Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 và Điều 165 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhiệm
vụ kiểm sát điều tra được quy định tại Điêu 15 của Luật Tổ chức VKSND năm
2014 và Điều 166 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Kiểm sát điều tra các tội phạm hình sự về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cần
kiểm sát chặt chẽ các quyết định của cơ quan điều tra như các quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn... Kiểm sát chặt chẽ việc áp
dụng các biện pháp điều tra của cơ quan điều tra như: Khám nghiệm hiện trường,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, khám xét. KSV phải thường xuyên phối
hợp với Điều tra viên làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, kiểm sát
chặt chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra, đảm bảo cho việc điều tra được khách
quan, toàn diện, đúng pháp luật. Trong mỗi vụ án, KSV đều có các yêu cầu điều tra
rõ ràng, cụ thể, có tính khả thi, trao đổi với Điều tra viên và được Điều tra viên thực
hiện đầy đủ kịp thời. Việc kiểm sát hồ sơ VAHS được làm chặt chẽ ngay từ giai
đoạn điều tra sẽ tạo thuận lợi cho KSV trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, xây dựng
cáo trạng truy tố và tham gia phiên tòa. Vì khi đó, KSV đã nghiên cứu khá kỹ, nắm
chắc nội dung và diễn biến của vụ án cũng như đánh giá được các chứng cứ một
cách toàn diện tránh tình trạng bị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đồng thời giúp
KSV đối đáp lại tất cả những vấn đề khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về trách nhiệm công tố
70
của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Cán bộ, KSV cần nhận thức rõ hai
nhiệm vụ THQCT và kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ này để đạt
hiệu quả cao trong hoạt động.
Viện kiểm sát các cấp cần quản lý, theo dõi chặt chẽ các vụ án đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra. Việc xây dựng hồ sơ vụ án tạm đình chỉ phải đảm bảo đầy đủ,
đúng pháp luật vì có những vụ án sau nhiều năm mới có thể phục hồi điều tra. Nếu
không xây dựng hồ sơ chặt chẽ ngay từ đầu thì việc khắc phục vi phạm, thiếu sót rất
khó hoặc không thể thực hiện được. Viện kiểm sát cần định kỳ rà soát, chủ động,
tích cực đôn đốc Cơ quan điều tra làm rõ đối tượng phạm tội, truy bắt bị can để
phục hồi điều tra. Từng KSV phải tăng cường trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ
sơ vụ án, chủ động đề ra các yêu cầu điều tra đảm bảo xác đáng, có ý nghĩa thiết
thực để giúp Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng hướng, toàn diện.
Đối với giai đoạn xét xử các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật trong giai đoạn xét
xử VAHS và THQCT. Điều này được quy định tại Điêu 19 của Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 và Điều 267 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để
VKSND thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS, bảo đảm cho
việc xét xử của Toà án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời;
VKSND các cấp phải quan tâm, lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV nói
chung, KSV làm nhiệm vụ THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hàng cấm nói
riêng, có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, vừa có trách nhiệm cao, đặc biệt
chú ý việc rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng trình bày, đồng thời phải nhạy bén, linh
hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra tại phiên toà. Thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, KSV. Đình kỳ 6 tháng,
năm lãnh đạo Viện phụ trách tiến hành kiểm tra chất lượng xây dựng hồ sơ kiểm sát,
chất lượng nghiên cứu, báo cáo tham mưu đề xuất đường lối giải quyết; khả năng
phát hiện vi phạm, tồn tại của Tòa án... của cán bộ, KSV để nhận xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Tăng cường mối quan hệ phối hợp
với Tòa án; mở các cuộc liên ngành thống nhất giải quyết đối với các vụ án hàng
71
cấm phức tạp, các vụ án dư luận xã hội quan tâm.
Đối với giai đoạn thi hành án các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi
hành án hình sự căn cứ các điều 25, 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều
141 Luật thi hành án hình sự năm 2010. Đẩy mạnh công tác kiểm sát hoạt động thi
hành án hình sự, đặc biệt đối với việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Bảo đảm bản án quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi hành. Kiểm sát chặt chẽ việc ra
Quyết định thi hành án hình sự của Tòa án trong thời hạn luật định, bảo đảm bản án
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi
hành; kịp thời phát hiện những sai sót, các trường hợp chậm ra quyết định thi hành
án, chậm áp giải, chậm ra quyết định truy nã. Tăng cường áp dụng các biện pháp
pháp luật như kháng nghị, kiến nghị nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong việc thi
hành án hình sự nói chung và thi hành án hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm nói riêng, coi đây là những biện pháp pháp luật có tầm quan trọng để cơ quan
có vi phạm khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp pháp luật đòi hỏi tính
chính xác, kịp thời và khách quan đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án hình sự
đem lại hiệu quả cao, đồng thời thể hiện vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND.
Ngoài ra thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, VKSND cần kịp thời phát hiện những lĩnh vực chưa được
pháp luật điều chỉnh để kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ và các Bộ, Ngành ở Trung uơng ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh kịp thời. Những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế và quá
trình quản lý cũng được VKSND yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan quản lý, kịp
thời có biện pháp bổ sung, khắc phục nhằm ngăn chặn các nguyên nhân, điều kiện
dẫn đến vi phạm pháp luật.
72
2.5.3. Nâng cao trình độ đội ngũ những người tiến hành tố tụng giải quyết
VAHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Tổ chức kiện toàn các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội
phạm về hàng cấm, đặc biệt là Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hàng cấm ở các
Công an các xã có tuyến biên giới. Ở những xã này phải tuyển chọn những người có
đủ các điều kiện cần thiết theo quy định nhung phải có sức khoẻ tốt, thông thạo địa
hình.
Tuyển chọn những người tham gia trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm
về hàng cấm của các lực lượng Công an, quản lý thị trường, quốc phòng phải là
những cán bộ, chiến sỹ có kinh nghiệm trong điều tra các vụ án về hàng cấm truớc
đây, có phẩm chất chính trị vững vàng, phải được bồi duỡng thường xuyên về
nghiệp vụ đấu tranh chống tội phạm và có am hiểu nhất định về hàng cấm.
Đối với lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm về hàng cấm ở cấp
huyện cần phải bố trí đủ lực lượng, có bộ phận theo dõi theo các tuyến và địa bàn
trọng điểm ở các xã giáp vùng biên giới; có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng ở
cấp xã, ấp để hướng dẫn làm tốt các mặt công tác phòng ngừa, đặc biệt là công tác
phòng ngừa nghiệp vụ và trực tiếp điều tra khám phá các vụ án hàng cấm lớn phức
tạp, hoạt động theo băng, ổ, nhóm hay hoạt động liên xã, liên huyện... với nhiều đối
tượng tham gia.
Đối với các khu vực gần huyện biên giới phức tạp, khu vực đường bộ, đường
thủy: bọn tội phạm thường hoạt động cần bố trí đủ lực lượng phụ trách theo địa bàn,
tuyến trọng điểm; đồng thời phải làm tốt công tác điều tra cơ bản nắm tình hình, xây
dựng cơ sở bí mật và sử dụng chó nghiệp vụ kết hợp với việc thực hiện quy trình
thủ tục thường xuyên lập chốt kiểm tra để phòng ngừa và phát hiện hàng cấm.
Trong công tác cán bộ cần phải rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ chiến sỹ
từ tỉnh đến các huyện, thị về trình độ, năng lực, sở trường, năng khiếu trên cơ sở
hiệu quả giải quyết vụ án được giao để có cơ sở bố trí sắp xếp cho phù hợp; tạo điều
kiện cho những cán bộ có khả năng phát triển được đào tạo nâng cao trình độ.
Thường xuyên tập huấn bồi dưỡng về kiến thức phòng hàng cấm cho cán bộ
73
chiến sỹ, điều tra viên trực tiếp tiến hành công tác đấu tranh chống tội phạm về
hàng cấm, đặc biệt là tổng kết rút kinh nghiệm về các vụ án đã điều tra khám phá tại
khu vực để xây dựng kế hoạch cho toàn bộ hoạt động đấu tranh loại tội phạm này
trong thời gian tiếp theo.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Toà án, Viện kiểm sát
các cấp, phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường trách nhiệm cá nhân; làm tốt công tác
tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Đổi mới mạnh
mẽ phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động
của Toà án, Viện kiểm sát theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả; phân công, phân nhiệm
và phân cấp rõ ràng trong từng lĩnh vực công tác... trong đó đặc biệt chú trọng đến
giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, KSV, Thẩm phán trong công tác
truy tố, xét xử.
Phân công cán bộ có năng lực, trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án về hàng cấm; thường xuyên phối hợp, họp bàn với các
cơ quan tiến hành tố tụng để đề ra những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh
tiến độ giải quyết các vụ án và lựa chọn các vụ án trọng điểm đưa ra xét xử lưu
động tại các địa bàn phức tạp, đảm bảo nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về
hàng cấm; Đảm bảo các vụ án này được tiến hành chính xác, đúng pháp luật không
để quá hạn luật định, tồn đọng; kiên quyết không xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
Tiếp tục kiện toàn đội ngũcán bộ Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, cán bộ có
đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức theo quy định; Tăng cường công tác đào
tạo, tập huấn, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, từng bước nâng cao trình độ,
kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp cho cán bộ, Điều tra viên, KSVThẩm phán,
đáp ứng yêu cầu công tác điều tra, truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án về hàng cấm nói riêng;
Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và trách nhiệm
của KSV, quan tâm hơn nữa đến công tác lựa chọn bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV
làm nhiệm vụ THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS. Mỗi cán bộ, KSV cần thường
xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức, vừa có trách nhiệm cao; tích cực học tập, tự
74
nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân; phải nhạy bén,
linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra tại phiên tòa.
KSV cần nâng cao trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ sơ
kiểm sát án hình sự theo đúng Quy chế và thực hiện đầy đủ các thao tác nghiệp vụ
đúng quy định của Quy chế về công tác THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS. Khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án về hàng cấm phải trích cứu và xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ xác định tội phạm, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây
ra, các tình tiết tặng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết về nhân thân
bị cáo, áp dụng pháp luật để đề xuất quan điểm xử lý phù hợp. Kết quả nghiên cứu,
nắm chắc hồ sơ vụ án KSV có thể thực hiện các thao tác nghiệp vụ tại phiên tòa và
chủ động tham gia xét hỏi và tranh luận đạt hiệu quả cao.
Trong hoạt động điều tra và kiểm sát điều tra, KSV thường xuyên phối hợp
với Điều tra viên làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, kiểm sát chặt
chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra, đảm bảo cho việc điều tra được khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Phối hợp với các cơ quan tư pháp Trung ương ban hành các văn bản pháp
luật nhằm hướng dẫn áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án và khẩn trương nghiên cứu, giải đáp những vấn đề về nghiệp vụ hoặc
những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng các cấp áp dụng đúng pháp luật để ngày càng nâng cao chất lượng công tác
xử lý các vụ án về hàng cấm.
Đặc biệt để hoạt động xét xử, hoạt động tranh tụng của Thẩm phán, KSV có
chất lượng và hiệu quả, cần đảm bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết về chế độ tiền
lương, trụ sở, trang thiết bị làm việc, phương tiện kỹ thuật.
2.5.4. Các giải pháp khác
Vận động, tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân đặc biệt các vùng dân
cư giáp huyện biên giới nắm bắt và hiểu được chủ trương, chính sách pháp luật về
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm hàng cấm nói riêng.
Các biện pháp tuyên truyền, giáo dục phải thực hiện trực tiếp thông qua các phương
75
tiện thông tin đại chúng như báo, đài, các lớp học phổ biến kiến thức pháp luật định
kỳ, đặc biệt thực hiện gián tiếp qua vai trò gương mẫu của các Đảng viên, cán bộ, nêu
gương, biểu dương những việc tốt người tốt trong đấu tranh phòng, chống hàng cấm.
Trong các dịp lễ Tết, các lễ hội cấn ký cam kết không dùng hàng cấm, sử
dụng pháo nổ, không tiếp tay cho hàng cấm. Loại bỏ những suy nghĩ lạc hậu, tập
tục không còn phù hợp và tác động tiêu cực đời sống xã hội.
Báo, đài cần đưa tin chính xác, đúng đắn đầy đủ những vụ án tham nhũng,
buôn bán hàng cấm, các hành vi tiếp tay bao cho hoạt động tội phạm này đã được
xử lý nghiêm minh, triệt để nhằm tác động mạnh mẽ tới ý thức pháp luật của nhân
dân, đồng thời tạo sự tin tưởng, yên tâm vào pháp luật.
Nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là người dân còn
khó khăn trong đời sống. Bởi một trong những nguyên nhân của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm là kinh tế khó khăn khiến nhiều người đi theo kẻ xấu, bị lợi dụng,
tiếp tay cho tội phạm. Huyện Đức Hòa phải chú trọng các biện pháp như mở dự án
phát triển kinh tế tại những vùng sâu vùng xa để tạo việc làm, phát triển những gì
sẵn có của địa phương như nuôi trồng thủy hải sản, trồng cây, công nghiệp... đa
dạng ngành nghề giúp người dân được xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân
trí, nhận thức pháp luật.
Phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, Hải quan,
Công an, Cảnh sát, Bộ đội Biên phòng, các cơ quan báo đài địa phương Trung ương,
chính quyền tại địa phương, các Uỷ ban xã phường, thị trấn... bởi hàng cấm muốn
vào được nội địa phải qua khu vực các xã giáp huyện biên giới. Chính quyền địa
phương nếu chủ động nắm tình hình có sự liên kết phối hợp sẽ ngăn chặn kịp thời
để không bỏ lọt tội phạm.
Cơ quan cảnh sát điều tra phải được thực hiện tốt hơn nữa nghiệp vụ điều tra,
tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương để đấu tranh chống hàng
cấm, phải chủ động thường xuyên rà soát, nắm tình hình đặc biệt những địa hình
phức tạp như các xã giáp huyện có cửa khẩu, chợ biên giới. Chú trọng đặc biệt tới
việc quản lý nhân khẩu trên địa bàn, bởi kẻ xấu có thể lợi dụng về địa hình để lẩn
76
trốn và tập trung vào những đối tượng có tiền án, tiền sự hay nghi ngờ về hành vi
phạm tội để chủ động trong việc phòng ngừa tội phạm.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hàng
cấm như: thực hiện nghiêm quy chế biên giới giữa Việt Nam với Campuchia, quy
chế trong công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm về hàng cấm nói
riêng; thường xuyên thông báo về tình hình tội phạm giữa hai tỉnh và các huyện
giáp biên đặc biệt cần thường xuyên trao đổi thông tin về những đối tượng có
những biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội về ma tuý, những đối tượng đã có tiền
án, tiền sự hiện nay đang có điều kiện khả năng hoạt động phạm tội; phối hợp để
giúp đỡ về công tác tổ chức quản lý, chỉ đạo, đào tạo cán bộ, trang thiết bị, phương
tiện kiểm soát...
Tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng. Các
loại hàng cấm có những đặc tính riêng, và việc xử lý đối với loại hàng hoá này cũng
cần được trang bị những thiết bị đặc biệt. Do đó, cần tổ chức quy định chặt chẽ và
trang bị cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giám định, bảo quản, xử lý hàng cấm cho
phù hợp.
Tiểu kết chương 2
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm nguy
hiểm xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế. Trên địa bàn huyện Đức Hòa, loại tội
phạm này đang có chiều huớng giảm trong giai đoạn 2014- 2018. Để có được điều
đó các cơ quan tiến hành tố tụng đã và đang kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm
minh đối với loại tội phạm này. Nhiều vụ án nghiêm trọng về hành vi tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm được đua ra xét xử nghiêm minh. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tích đạt được thì vẫn còn lại một số vuớng mắc, bất cập. Nguyên nhân là do
một vài quy định của pháp luật liên quan đến tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm còn
bất cập, chưa hoàn thiện, cũng như chua có văn bản huớng dẫn kịp thời. Mặt khác,
do đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử vẫn còn một số thẩm phán, hội thẩm nhân
dân còn hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời cũng do sự
77
căn trở, khó khăn trong địa hình khu vực và trình độ dân trí nơi đây còn hạn chế
trong công tác đấu tranh chống hàng cấm.
Từ những phân tích về những tồn tại, hạn chế, tác giả đã đồng thời đưa ra
những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện về hệ thống pháp luật, tăng cường công tác
kiểm sát, nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác đấu tranh, phòng
chống loại tội phạm liên quan đến hàng cấm cũng như một số giải pháp khác. Thiết
nghĩ việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật là yêu cầu cấp bách, góp phần
củng cố, xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ điều tra viên, KSV, thẩm phán, hội thẩm nhân
dân, nâng cao ý thức pháp luật và đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
78
KẾT LUẬN
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hiện tượng tiêu cực của xã hội đã và đang
diễn biến phức tạp, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống kinh tế - xã
hội của đất nước, ảnh hưởng không nhỏ tới trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, đe
doạ đến trật tự quản lý đất nước và trở thành vấn đề nhức nhối trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, nó cũng là trở ngại lớn với sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình phát triển của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm, yêu cầu đặt ra đối với không chỉ cơ quan pháp luật mà cả với các
nhà nghiên cứu pháp luật cũng như toàn thể nhân dân và cộng đồng xã hội là tìm ra
các giải pháp hướng tới xử lý có hiệu quả tội phạm này, hướng tới loại bỏ tội phạm
ra khỏi đời sống xã hội.
Qua thực tiễn công tác giải quyết các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa cho thấy các vụ án ngày càng xâm hại đặc biệt lớn
tới nền kinh tế của đất nước, mức độ và tính chất ngày càng nguy hiểm. Mặt khác,
việc xử lý đối với tội phạm này còn gặp khó khăn, vướng mắc, chưa triệt để. Trước
thực tiễn nhức nhối của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, việc đấu tranh phòng
chống và xử lý tội phạm này là việc làm cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Do đó,
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực thiết hoạt động xử lý tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm là cần thiết.
Bằng việc nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong pháp luật hình
sự Việt Nam, luận văn đã làm rõ các vấn đề về mặt lý luận và pháp luật cần khai
thác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào phân tích
việc vận dụng các quy phạm pháp luật trong hoạt động thực tiễn xét xử về tội phạm
này và chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, bất cập trong việc xử lý đối với tội phạm
này. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất những kiến nghị liên quan tới việc tiếp tục
hoàn thiện pháp luật hình sự và hoạt động áp dụng pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng của các quy phạm pháp luật hình sự vào việc xử lý tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm trên thực tiễn.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO