Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay
lượt xem 17
download
Đề tài nghiên cứu nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- TRẦN THỊ HUYỀN ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT TỚI CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số : 60 22 85 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT Hà Nội - 2010 -1-
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................... - 1 - NỘI DUNG................................................................................................ - 10 - Chƣơng 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ ................................................ - 10 - 1.1. Hoàn cảnh ra đời và ngƣời sáng lập ra Phật giáo ............................- 10 - 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo .............................................. - 10 - 1.1.2. Người sáng lập Phật giáo ........................................................ - 12 - 1.2. Những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của triết học Phật giáo ..............- 14 - 1.2.1. Vài nét khái quát về thế giới quan Phật giáo ........................... - 14 - 1.2.2. Quan niệm về nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo .............. - 17 - Chƣơng 2: ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TỚI CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ... - 36 - 2.1. Khái niệm giá trị đạo đức và giá trị đạo đức của ngƣời Việt Nam- 36 - 2.1.1. Khái niệm giá trị đạo đức ........................................................ - 36 - 2.1.2. Giá trị đạo đức của người Việt Nam ........................................ - 38 - 2.2. Vài nét khái quát về ảnh hƣởng của Phật giáo tới đạo đức con ngƣời Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ...............................................................- 40 - 2.3. Ảnh hƣởng của đạo đức Phật giáo tới đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay ..........................................................................................................- 54 - 2.3.1. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc bảo tồn và phát triển đạo đức của người Việt Nam..................................................................... - 54 - 2.3.2. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc điều chỉnh hành vi của con người Việt Nam dưới tác động của nền kinh tế thị trường ......... - 62 - 2.3.3. Đạo đức Phật giáo với vấn đề xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam hiện nay .................................................................... - 77 - KẾT LUẬN ............................................................................................... - 93 - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ - 98 - -3-
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo Phật truyền bá vào nước ta khoảng đầu công nguyên và đã trở thành một trong những tôn giáo lớn, có sức sống lâu dài và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, đồng thời trở thành một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền văn hoá dân tộc. Một thực tế cho thấy, sự hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường đang mang lại cho đất nước ta nhiều cơ hội thuận lợi. Song bên cạnh đó cũng có không ít thách thức, đặc biệt là lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội. Nền kinh tế thị trường mặc dù theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song vẫn có những yếu tố tiêu cực mà ảnh hưởng của chúng không tốt, thậm chí ở một số hoàn cảnh nhất định, đã làm thay đổi các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc vốn được hình thành hàng thế kỷ. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, nền đạo đức mới mà chúng ta đang xây dựng cần phải hướng tới một hệ thống giá trị tinh thần mà ở đó, cái truyền thống và cái hiện đại phải được kết hợp với nhau một cách chặt chẽ để nền văn hoá dân tộc nói chung và các giá trị đạo đức truyền thống nói riêng tham gia vào sự hoà nhập với các giá trị phổ biến toàn nhân loại mà không bị hoà tan, điều mà Đảng ta kêu gọi là không làm mất đi bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Chính vì vậy, việc phát huy cái đúng, cái tốt, cái đẹp (chân, thiện, mĩ), tiếp thu các giá trị tiến bộ và phổ biến toàn nhân loại trong quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, chính là chuẩn mực các giá trị đạo đức của con người Việt Nam hiện nay. -1-
- Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc và trong điều kiện hiện nay. Sự tác động không nhỏ của nó theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực tới đời sống xã hội đang trở thành mối quan tâm của các học giả trong và ngoài giáo hội Phật giáo Việt Nam. Mặt khác, việc nghiên cứu, kế thừa những giá trị tích cực và khắc phục những mặt tiêu cực, hạn chế trong nội dung tư tưởng triết học của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan, đạo đức Phật giáo nói riêng để lành mạnh hoá các quan hệ xã hội là nhiệm vụ quan trọng của khoa học xã hội nước ta hiện nay. Hơn nữa, đúng như Ph.Ăngghen từng viết rằng: “Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [17, tr.487]1. Xuất phát từ lập trường Mácxít và sự cần thiết phải nghiên cứu vai trò, ảnh hưởng của đạo Phật tới nhân cách, đạo đức, lối sống... con người Việt Nam hiện nay, chúng tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay” với kỳ vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đạo Phật và vai trò của nó ở nước ta. Ngoài những công trình do chính các tín đồ Phật giáo từ các tổ chức Phật học và cá nhân, còn có các công trình khoa học của các học giả ngoài Phật giáo. Các công trình đó đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác 1 - Từ đây trở đi, số đầu tiên trong móc chỉ thứ tự tài liệu tham khảo trong Danh mục các tài liệu tham khảo của luận văn, số thứ hai chỉ trang tài liệu. -2-
- nhau của Phật giáo, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo tới lối sống của con người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Về vấn đề nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể như: Thích Tâm Thiện với cuốn Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo [Nxb TP HCM PL 2538 - DL1994], trong đó tác giả lấy Duyên sinh - vô ngã làm đối tượng để nghiên cứu. Đó chính là vấn đề mấu chốt, cốt lõi, thể hiện tinh hoa của Phật giáo. Tác giả đã cho người đọc thấy được vị trí và giá trị của Phật giáo với những nguyên lý nền tảng của nó. Lưu Vô Tâm với cuốn Phật học khái lược [Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002], một cuốn sách giới thiệu cho người đọc thấy được những nét cơ bản nhất về nguồn gốc, kết cấu, nội dung cơ bản của đạo Phật, trong đó các học thuyết Tứ diệu đế, nhân quả, luân hồi, vô ngã…chứa đựng giá trị đạo đức Phật giáo sâu sắc. Cuốn sách Cây giác ngộ của TS. Peter Della Santina, do Thích Tâm Quang dịch ra tiếng Việt [Nxb Tổng hợp TP HCM, PL: 2546 - DL: 2002]. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống các vấn đề của cuốn sách như: Phật giáo - một nhãn quan hiện đại, bối cảnh trước khi có Phật giáo, cuộc đời Đức Phật, bốn chân lý cao quý của nhà Phật, giới, nghiệp, tái sinh, năm khối tập hợp ngũ uẩn. Có thể nói, Cây giác ngộ là một bức tranh minh hoạ tổng thể giáo lý Phật giáo. Cuốn Tâm và Ta của Thích Trí Siêu [Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2005] là cuốn sách đã góp phần bổ túc rất nhiều kiến thức về giáo lý Vô ngã, trong đó tác giả đã giải thích rõ Tâm là gì? Ta là gì? Vì sao mỗi người sinh ra trên cõi đời này chỉ là Vô ngã? -3-
- Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội đã xuất bản cuốn Chân lý sống của Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh. Đây là cuốn sách dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an qua con đường giác ngộ. Đó là con đường rất đơn giản, thích hợp với mọi người, song nó đòi hỏi người tu hành cần phải trang bị cả thân và tâm đề được giải thoát khỏi “Cái ngã”. Danh nhân văn hoá Phật giáo Việt Nam đương đại - chân dung và đối thoại là cuốn sách do Minh Mẫn chủ biên [Nxb Lao Động, Hà Nội, 2006] đã thể hiện sự trân trọng, ghi ơn những bậc cao tăng, các tăng sĩ đã cống hiến hết mình vì đạo pháp và dân tộc, nhất là trên lĩnh vực văn hoá xã hội. Cuốn sách đã mang lại một vốn tri thức phong phú về Phật giáo thông qua các cuộc trao đổi của các vị cao tăng. Đồng thời cũng là bài học quý giá cho những ai có tinh thần dân tộc đang hướng đến bầu trời chân - thiện - mỹ. Tác giả Vân Như Bùi Văn Nhự với Đạo Học [Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2007]. Trong công trình này, tác giả đã thâu tóm những điều căn bản và cốt lõi của toàn bộ giáo lý nhà Phật mà nội dung của nó là Tứ diệu đế, Bát chính đạo. Đây cũng là bài giảng trình bày một cách tổng thể tinh hoa của Đạo Phật. Trường Tâm - Thanh Long đồng biên dịch cuốn Đạo Phật với đời sống [Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008]. Cuốn sách đã làm rõ một cách căn bản chữ "Hoà" trong quan hệ giữa người với người. Từ đó, tác giả trình bày những đóng góp của Phật giáo đối với nền giáo dục, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Về ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức, lối sống, nhân cách của người Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể: Năm 1997, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội cho xuất bản cuốn: Hồ Chí Minh với đạo Phật Việt Nam do PGS.TS. Phùng Hữu Phú (chủ -4-
- biên) cùng Đại đức Thích Minh Trí. Các tác giả cuốn sách đã trình bày mối quan hệ giữa chủ tịch Hồ Chí Minh và Phật giáo Việt Nam mang tính tiền định. Cuộc đời cao đẹp của Hồ Chí Minh được các tăng ni, phật tử kính ngưỡng, xem đó như là hiện thân của triết lý nhà Phật thông qua một con người cụ thể giữa cuộc sống nhân gian. Mặt khác, trong qúa trình hoạt động, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và phát triển những giá trị nhân bản của triết lý nhà Phật để cứu dân, cứu nước. Năm 2001, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội cho ra mắt cuốn Đạo phật với tuổi trẻ của Thích Thanh Từ. Trong cuốn sách này, tác giả đã bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng, đạo Phật chỉ dành riêng cho những bậc lão niên, những người yếm thế nên thanh niên xem thường, bàng quan và tránh xa đạo Phật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu của tác giả, hàng loạt vấn đề như: Đức hỷ xả, Đức thanh tịnh, Đức tinh tấn, tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục... được làm rõ. Từ đó, tác giả đưa ra khẳng định cho rằng, đạo Phật là “đạo của tuổi thanh xuân đang căng tràn nhựa sống và thiết tha yêu đời”. Tác giả khuyên tuổi trẻ nên học Phật từ sớm vì đó là cách tốt nhất để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam [Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006] của TS. Đặng Thị Lan đã khảo lược những nét cơ bản nhất của đạo đức Phật giáo như: Từ bi là giá trị nền tảng của đạo đức Phật giáo; Ngũ giới là các chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật giáo; các khái niệm nhân quả, nghiệp báo, luân hồi…; mối liên hệ giữa đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt Nam; vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay. Đề cập đến giá trị đạo đức Phật giáo, TS. Hoàng Thị Thơ có bài Giá trị đạo đức của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại, đăng trong kỷ yếu của Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II với chủ đề Việt Nam trên đường -5-
- phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại, TP HCM, 14 - 16/7/2004 (tập 3), (Nxb Thế giới & Đại học Quốc gia Hà Nội, VASS, 2007. Trong đó, tác giả đã tập trung phân tích những ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo tới đạo đức truyền thống và hiện đại của Việt Nam. Đó là những vấn đề về tính hướng nội - bình đẳng - phi thần quyền của đạo đức Phật giáo. Năm 2008, Nhà xuất bản Phương Đông, Hà Nội đã xuất bản cuốn Sức mạnh của Đạo Phật của tác giả Jean - Claude Carriere, người dịch là Nguyễn Tiến Lộc. Đọc cuốn sách này chúng ta thấy được những mảng đề tài, những câu chuyện dẫn giải gần gũi, giản dị, khúc triết và thực tiễn về Phật giáo. Tác giả đã đề cập đến một thực tế hiện nay là khi con người tham vọng, chạy đua, vươn tới những đỉnh cao danh vọng và giàu có vật chất, thì đời sống tâm linh, cái Đạo, cái Tâm, cái Thiện trong mỗi người có khi bị thu nhỏ lại, nhường chỗ cho những băn khoăn, trăn trở, lo toan, cho những ham muốn bất tận của cuộc sống. Năm 2010, Nxb Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh cho xuất bản cuốn Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam của PGS.TS. Trần Hồng Liên. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm rõ các vấn đề như: Chức năng của Phật giáo đối với vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, giúp người đọc hiểu rằng dù tác động trên bất cứ lĩnh vực nào thì tựu trung lại, Phật giáo cũng chỉ nhằm vào việc mang lại sự an vui, niềm hạnh phúc về cả vật chất và tinh thần cho con người. Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội bàn về đạo đức như: Đặng Hữu Toàn, "Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường" [Tạp chí triết học, số 4 - 2001, tr 27- 32], Trần Nguyên Việt với "Giá trị đạo đức truyền -6-
- thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" [Tạp chí triết học, số 5 - 2002, tr.20 - 25]. Các bài bàn về nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người Việt Nam như Hoàng Thị Thơ với: "Vấn đề con người trong đạo Phật" [Tạp chí triết học, số 6 năm 2000, tr.41- 44], "Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường" [Tạp chí triết học, số 7 - 2002, tr 28 - 33, "Đạo đức Phật giáo với vấn đề xây dựng nhân cách con người Việt Nam" [Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, Số 1- 2002, tr 44 - 49]. Nhìn chung, các nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới đời sống đạo đức con người Việt Nam hiện nay không còn là một lĩnh vực mới mẻ, xa lạ. Số lượng các công trình cũng như kết quả của các công trình đó rất lớn. Tuy nhiên, việc trình bày vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử và hiện đại là vấn đề rộng lớn, cần phải tiếp tục làm rõ, đặc biệt là ảnh hưởng của đạo Phật đến đạo đức của người Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. - Nhiệm vụ: +Trình bày sự ra đời của Phật giáo và những nội dung tư tưởng cơ bản của nó. -7-
- +Trình bày một cách khái quát về khái niệm đạo đức, giá trị đạo đức, hệ thống giá trị đạo đức của người Việt Nam trong truyền thống và hiện đại. Qua đó thấy được hệ chuẩn các giá trị đạo đức của người Việt Nam từ xưa đến nay. +Trình bày ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức của người Việt Nam trong lịch sử và đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về triết học và lịch sử triết học kết hợp với phương pháp luận nghiên cứu triết học phương Đông. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, logic với lịch sử, quan sát, phỏng vấn. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nội dung tư tưởng cơ bản Phật giáo, đặc biệt là nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Ảnh hưởng của Phật giáo đến các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay, kế thừa các kết quả từ công trình nghiên cứu ở nước ta về đạo Phật. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần hệ thống hoá những nội dung cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo. Từ đó nêu lên được ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đạo Phật, những ảnh hưởng của nó đến các giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn nêu lên được những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của Phật giáo tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam. Từ đó có hướng phát triển -8-
- đạo Phật một cách đúng đắn, hợp lý, phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dậy và tìm hiểu tư tưởng Phật giáo Việt Nam. 8. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, bản luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. -9-
- NỘI DUNG Chƣơng 1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ 1.1. Hoàn cảnh ra đời và ngƣời sáng lập ra Phật giáo 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo Phật giáo Ấn Độ ra đời trên cơ sở văn hoá truyền thống của nó, đó là những điều kiện xã hội và tiền đề tư tưởng, trong đó tiền đề tôn giáo đóng vai trò quyết định đến những nội dung tư tưởng cơ bản của Phật giáo. Ra đời trong giai đoạn cuối của thời kỳ Vệ Đà, tức thời kỳ hình thành các bộ kinh quan trọng của tôn giáo Vệ Đà với sự xuất hiện các dòng phái triết học - tôn giáo chính thống, đồng thời làm xuất hiện giai đoạn mới của tôn giáo này là Bà La Môn, Phật giáo cùng với Kỳ Na giáo (Jaina) đã trở thành những trường phái triết học - tôn giáo chống lại chủ trương phân biệt đẳng cấp xã hội và đi liền với nó là vấn đề giải thoát con người ra khỏi sự khổ đau. Sự phân chia đẳng cấp do Bà La Môn thực hiện, có thể nói, là tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện các trường phái phi chính thống mà chúng ta cần tìm hiểu một cách cặn kẽ hơn những đặc thù về vị thế, vai trò của các đẳng cấp xã hội Ấn Độ thời đó. Từ thế kỷ VI (TCN) đến thế kỷ I (SCN), chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính gia trưởng kiểu phương Đông đã khá phát triển ở Ấn Độ. Thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp. Trên cơ sở của Luật "Ma Nu"2, xã hội Ấn Độ được chia thành 4 đẳng cấp: 1. Brahmana (Tăng lữ, Bà Lamon) 2 - Ma Nu - một vị thần được xem là thuỷ tổ của người ấn Độ, trên cơ sở tín niệm ấy đã xuất hiện Luật Manu thời Bà La Môn giáo về phân biệt đẳng cấp xã hội. - 10 -
- 2. Ksatrya (giai cấp quý tộc) 3. Vai'sya (giai cấp bình dân) 4. Sudra (giai cấp cùng đinh nô lệ) Các đẳng cấp này được phân biệt bởi vị thế, màu sắc y phục, nguồn gốc xuất thân của các thành viên, được sắp xếp từ cao xuống thấp. Ba đẳng cấp trên đều là người Aria, nó cách biệt về mọi lĩnh vực đời sống so với Sudra, đẳng cấp chủ yếu là người Ấn bản địa (Dravia). Những người đàn ông thuộc ba đẳng cấp trên được quyền tiếp xúc với những lễ nghi tôn giáo và thông qua đó mà có được tri thức như là điều kiện tiên quyết cho sự giải thoát. Vì thế, họ được xem là những người được sinh ra lần thứ hai. Đẳng cấp nô lệ (Sudra) và tất cả những người phụ nữ không có quyền nói trên. Do đó, họ không được giải thoát, thậm chí những người thuộc đẳng cấp thứ tư này bị đối xử như súc vật, bị các đẳng cấp khác xua đuổi hoặc giết chết một cách thản nhiên. Như vậy, sự cách biệt không chỉ bởi đặc quyền tiếp xúc với các lễ nghi, tri thức [Veda] của tăng lữ Bà La Môn, bởi sức mạnh thống trị, tàn sát, chiếm hữu về mặt nhà nước của Ksatrya; bởi tầng lớp quốc nhân (tầng lớp nhân dân lao động có một số thực quyền, mà còn bởi điều kiện giải thoát cho con người ra khỏi cuộc đời khổ đau truyền kiếp). Đề cập đến các tiền đề xuất hiện của Phật giáo không thể thiếu văn hoá tư tưởng. Đó là các văn bản tư liệu cổ nhất của Ấn Độ được hình thành qua hàng thế kỷ mà từ đó xuất hiện các trường phái triết học khác nhau, đặc biệt là các dòng chính thống. Tuy Phật giáo là một học thuyết tôn giáo triết học phi chính thống của Ấn Độ, song những khái niệm, phạm trù của nó đều có nguồn gốc từ các văn kinh của Vệ Đà. Vệ Đà có nghĩa là tri thức, là tập hợp các tập quán tín ngưỡng, các bài văn ca ngợi thần linh từ thiên niên kỷ thứ 3 TCN, còn gọi là các samhita. Tiếp theo Vệ Đà hay còn gọi là lớp tư liệu thứ hai là Brâhmana chứa đựng những - 11 -
- nội dung kiến giải, chú thích cho các samhita. Lớp thứ ba là Aranyaka, còn gọi là sách chú giải dành cho các cư sĩ sống trong rừng. Lớp thứ tư là Upanishad, là bộ sách chú giải mang ý nghĩa triết học sâu sắc nhất. Các samhita gồm có 4 bộ. Thứ nhất là Rigveda, hay còn gọi là Vệ Đà của các bài thánh ca ca ngợi các thần linh, được hình thành từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 12 TCN. Thứ hai là Sammaveda, còn gọi là Vệ Đà của các giai điệu, đa phần trùng hợp với các bài thánh ca trong Rigveda nhưng mang ý nghĩa lễ nghi tôn giáo nhiều hơn. Thứ ba là Jadzurveda, còn gọi là Vệ Đà của các lễ nghi hiến tế. Thứ tư là Atharvaveda, còn gọi là Vệ Đà của những yếu tố ma thuật, phù chú. Thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh VêĐa, Upanishad đã trở thành hệ tư tưởng thống trị đời sống tinh thần người Ấn Độ cổ. 1.1.2. Người sáng lập Phật giáo Vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, tại miền Bắc Ấn Độ thuộc lưu vực sông Hằng và chân núi Hi Mã Lạp Sơn có một người từ dòng tộc Gautama thuộc bộ lạc Aria được sinh ra. Đó là hoàng tử của vua Saddhodan nước Ca Tì La Vệ (Capilavastu) tên là Siddhartha Gautama. Siddhartha mồ côi mẹ từ khi mới sinh và tương truyền người cha được báo trước về thân phận của con mình rằng, đứa trẻ về sau sẽ trở thành nhà tu hành, nếu nó bắt gặp những hiện tượng ngoài đời như bệnh, lão và tử của con người. Người cha của Siddhartha không muốn điều đó xảy ra đã cố gắng bằng mọi cách nuôi dạy người con trai duy nhất của mình trong cung điện. Tuy nhiên, khi lớn lên, Siddhartha tỏ ra băn khoăn bởi những mặt trái khổ đau trong cuộc sống của con người. Con đường tu hành của Siddhartha có nguyên nhân liên quan đến điều tiên đoán trước đây. Đó là những lần Siddhartha ra ngoài cung điện, bắt gặp hiện thực cuộc sống của con người như những trường hợp Ngài thấy người bệnh tật, già - 12 -
- yếu, người chết và động lực thúc đẩy mạnh nhất dẫn đến quyết định của ông là sự gặp gỡ nhà tu hành, một cách sống giúp con người thoát khỏi mọi phiền não của cuộc đời. Siddhartha trở thành nhà tu hành từ năm 29 tuổi. Sáu năm nghiên cứu kinh Vệ Đà, sau đó thực hành cuộc sống tu hành khổ hạnh. Song, Ngài đã nhận ra con đường tu hành khổ hạnh thông qua hành xác không đem lại kết quả mà Ngài mong đợi, đó là nhận thức chân lý. Cuối cùng, bằng việc áp dụng phương pháp thiền định dưới gốc cây Bồ Đề, Ngài đã giác ngộ, trở thành Phật (Budha). Sau khi đạt đến chính quả, Sddhartha thực hiện việc truyền bá học thuyết của mình. Các đệ tử của Ngài rất đông, dần dần hình thành nên cộng đồng Phật giáo và họ tôn Ngài là Thích Ca Mâu Ni. Quá trình truyền bá của Thích Ca Mâu Ni kéo dài 45 năm và Ngài viên tịch vào tuổi 80. Các tài liệu khoa học hiện đại khẳng định niên đại của Phật là 563 - 483 tr.CN. Là người sáng lập trường phái Phật giáo thuộc hệ phái phi chính thống trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, song Phật không trước tác, tức không để lại những tác phẩm giáo lý kinh điển của Phật giáo. Những kinh điển Phật giáo mà hiện nay đang được lưu hành đều do các môn đệ của Ngài qua các thế hệ biên tập và phát triển từ hình thức truyền miệng. Những tác phẩm kinh điển đầu tiên được tập hợp trong suốt 300 năm sau khi Phật mất, đó là vào thời thịnh vượng của Phật giáo, thời vua Asoka. Ông vua này được gọi là Phật hoàng, người có công tiến hành ba cuộc kết tập và hình thành nên bộ kinh điển quan trọng của Phật giáo mang tên Tam tạng kinh (Tripitaka - ba giỏ lớn chứa đựng các nội dung giáo lý Phật giáo được viết trên những chiếc lá dừa). Kinh điển được viết bằng tiếng Pali, do đó nó còn được gọi dưới tên khác là kinh Pali. - 13 -
- Tam tạng kinh bao gồm: 1. Kinh tạng (Sutta-pitaka) - tập hợp các bài giảng của Phật và những bài giảng của học trò được Ngài cho phép giảng trong cộng đồng Phật giáo; 2. Luận tạng (Abhidhamma-pitaka) - phần phát triển Kinh tạng về phương diện triết học, tâm lý - đạo đức bởi những bậc đạt đức cao siêu; 3. Luật tạng (Vinaya - pitaka) tập hợp các giới luật, chuẩn tắc cuộc sống của nhà tu hành và điều luật của các tổ chức giáo hội Phật giáo. 1.2. Những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của triết học Phật giáo 1.2.1. Vài nét khái quát về thế giới quan Phật giáo Phật Thích Ca đã né tránh một cách có ý thức những vấn đề lớn của thế giới quan như cấu trúc của vũ trụ, linh hồn và mối quan hệ của nó với thể xác. Những vấn đề khác như thế giới có vĩnh hằng hay không, nó hữu hạn hay vô hạn, linh hồn có đồng nhất với thể xác không, linh hồn bất tử hay không bất tử đều được Phật xem là không quan trọng. Phật chỉ quan tâm nhất đến điều là làm thế nào để giải thoát con người ra khỏi thế giới đầy rẫy những khổ đau. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó, Phật kêu gọi phải có nhận thức đúng về thế giới ngoại cảnh đang không ngừng biến đổi trên lập trường của thuyết duyên sinh vô ngã. Phật giáo bác bỏ Brahman và Atman nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp. Quá trình hình thành thế giới và sự vận động của nó theo luật nhân quả, nhân duyên. Đạo Phật ra đời khi mà xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ. Để cho triết thuyết của mình có thể đứng vững trước thuyết tạo thần của Blamon, Đức Phật đã xây dựng thuyết duyên sinh làm nền tảng cho học thuyết của mình. Đức Phật dạy rằng, vô ngã, vô thường là một sự thực ở đời, nhưng xưa nay hầu như không ai hiểu được điều đó. Do "vô minh" nên ai cũng nghĩ rằng mình tồn tại trên cõi đời này tức là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn) nhưng sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, uẩn là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã mà - 14 -
- "Kinh vô ngã tướng" [58, tr.29 - 32] đã chỉ ra rất rõ, nên thật ra không có cái Ta trên cõi đời này. Năm uẩn hình thành nên con người và cũng chính năm uẩn hình thành nên thế giới. Trong vũ trụ, vạn sự, vạn vật được Phật giáo gọi là vạn pháp không phải do một đấng thiêng nào sáng tạo ra bằng những phép màu huyền bí, mà chúng được tạo nên bởi những phần vật chất nhỏ bé nhất, đó là "bản thể", là thực tướng của thế giới vạn pháp. Các sự vật, hiện tượng, các pháp trong vũ trụ không đứng yên mà luôn vận động, biến đổi gọi là vô thường. Vạn pháp vô thường tức là không gì tồn tại vĩnh cửu mà tất cả tuân theo chu trình: thành - trụ - hoại - không (với pháp vô tình) hay sinh - trụ - dị - diệt (đối với các pháp hữu tình). Con người và vạn vật trong thế giới này luôn luôn thay đổi từng giờ, từng phút, từng satna (thời gian búng móng tay). Vạn pháp sinh diệt, tiếp diễn không ngừng. Vô thường là một tiến trình tự nhiên của mọi sinh vật. Vạn pháp trong vũ trụ không có tự tính (không có bản tính riêng của mình) mà chỉ là sự hoà nhập của nhân duyên. "Nhân là nguyên do chính, những nhân tố phụ gọi là duyên" [12, tr.470]. Các sự vật chuyển động, biến động đều do nhân duyên chi phối. Nhân là mầm tạo quả, duyên là phương tiện, điều kiện - Vạn pháp do nhân duyên mà thành. Một sự vật, hiện tượng không phải là do một nhân duyên mà do nhiều nhân duyên. Vậy nên, các sự vật, hiện tượng quan hệ mật thiết với nhau, tác động và chi phối lẫn nhau. Trong quá trình vận động, nhân duyên liên tục kết hợp, liên tục tan rã, cho nên các sự vật, hiện tượng cũng liên tục sinh, liên tục diệt. Nguyên lý duyên sinh vô ngã nói rằng tất cả những gì hiện hữu trên cõi đời này là hiện hữu của tương duyên. Tương duyên là tính chất cơ bản của hiện hữu. Con người do duyên sinh nên vô ngã. Con người vô ngã vì do duyên sinh. Lý duyên sinh cho thấy con người không có Ngã, mà chỉ là một chuỗi dài mười hai nhân duyên trôi chảy bất tận.Tiếng nói duyên sinh vô ngã của nhà Phật có ý nghĩa - 15 -
- vô cùng to lớn, mang lại một niềm tin lớn cho tất thảy chúng sinh và cũng là điểm khác biệt giữa Phật giáo với tất cả các tôn giáo khác. "Đối với xã hội, đây là một bước ngoặt trọng đại của lịch sử, giải thoát nhân sinh ra khỏi những nô lệ huyễn hoặc mà các tà giáo đã buộc chặt số phận con người, xem con người và vạn hữu như là những tôi đòi của những quyền năng vô hạn. Cũng từ đây, tất cả muôn loài chúng sanh đều được nhìn dưới quan điểm mới, đó là cái nhìn Vô Ngã, một cái nhìn vô cùng tiến bộ trong lịch sử văn minh nhân loại, xuyên suốt hơn 25 thế kỷ qua cho đến thời đại ngày nay của chúng ta" [62, tr.61]. Phật giáo đưa ra thuyết "sắc - không" để lý giải việc nhận thức thế giới. "Sắc" dùng để chỉ sự vật ở trạng thái có hình tướng trong không gian mà con người nhận biết được gọi là “có”. "Không" dùng để chỉ sự vật, hiện tượng ở trạng thái không có hình tướng trong không gian. Theo thuyết "sắc - không", thế giới luôn chuyển động, biến đổi. “Sắc - sắc”, “Không - không” đều là những thuật ngữ của Phật giáo dùng để chỉ cái có mà không có, cái không có mà lại là có. “Sắc”, “Không” là hai dạng tồn tại của thế giới vạn pháp. Như vậy, thế giới trong quan niệm của Phật giáo là thế giới vật chất luôn vận động, biến đổi vô thuỷ và vô chung. Sự biến đổi của thế giới, sinh diệt của vạn vật bắt nguồn từ những nguyên nhân tự nó mà nhà Phật gọi là tự kỷ nhân quả. Sự vật, hiện tượng mà con người nhìn thấy chỉ là ảo giả, không có thực tướng. Tất cả đều được sinh ra từ cát bụi rồi cuối cùng lại trở về cùng cát bụi. Đối với con người thì thế giới khách quan đang tồn tại cũng chỉ là hư ảo, không có thực. Tư tưởng về tam giới, nhân duyên, vô thường, vô ngã là cốt lõi của thế giới quan Phật giáo. Những tư tưởng này đã quyết định đến việc hình thành quan điểm của Phật giáo về nhân sinh và liên quan mật thiết đến quan niệm của Phật giáo về con người và đời người. - 16 -
- 1.2.2. Quan niệm về nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo 1.2.2.1. Quan niệm về con người và cuộc đời con người Phật giáo lấy con người làm trung tâm, coi bản chất con người là khổ và mục đích là cứu chúng sinh thoát khổ. Để thức tỉnh và giáo dục con người, Đức Phật đã đưa ra các thuyết: Duyên khởi, vô thường, vô ngã, nghiệp báo, luân hồi để từ đó xây dựng một nhân sinh quan, một triết lý sống trong học thuyết của mình. Theo quan điểm của Phật giáo thì không có cái Ta thực sự trên cõi đời này nên cũng không có cái gì được gọi là "của Ta". Vì vậy, con người không nên tham cầu quá, không nên chấp ngã. Vì con người không hiểu được bản thân đang tồn tại trên cõi đời này là tồn tại của cái "vô ngã”, cho nên cứ mải mê tham đắm với tiền tài, danh vọng, v.v. Con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hoà hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái hội hợp của năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi đủ nhân duyên, chúng tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan ra thì chết. Không thường mà tưởng là thường, không Ngã mà tưởng là có Ngã - điều đó được xem là sự mê muội lớn nhất của con người. Và cũng chính do cái mê muội ấy mà con người càng trở nên đau khổ thêm. Tuy nhiên, Phật không phủ nhận hoàn toàn cái Ta mà chỉ phủ định quan niệm cái Ta tồn tại "bất di bất dịch". Trường phái Trung Quán phân tích rõ về hai loại ta: cái ta tương đối và cái ta tuyệt đối và chỉ ra rằng giáo lý vô ngã phủ định cái ta tuyệt đối chứ không phủ định cái ta tương đối. "Cái Ta tương đối" là một danh từ giả hợp (tạm lập ra) để chỉ năm uẩn. Mỗi khi năm uẩn hợp lại thì gọi đó là ta (ngã), nó là một danh từ quy ước để xưng hô và chỉ định sự khác biệt giữa từng cá nhân trong cộng đồng" [58, tr.73]. Còn "Cái Ta tuyệt đối " là cái Ta hiện hữu độc lập, tự tánh, không lệ thuộc vào năm uẩn, thường còn, bất biến, nó hiện hữu như là chủ của năm uẩn, điều khiển năm uẩn" [58, tr.74]. Do đó vấn đề cơ bản của người phật tử là phải đi tìm diện mạo chân thật của chính mình, đó là - 17 -
- chân tâm, đó là cái "bản lai diện mục"3. Chỉ khi nào con người vứt bỏ được mọi thứ phiền não để trở về chân tâm của mình thì lúc đó con người mới hết khổ. Vì lẽ đó, Phật giáo kịch liệt bác bỏ thuyết định mệnh. Những người tin vào thuyết định mệnh cho rằng, tất cả đều do trời sắp đặt, kể cả việc sống và chết. Người đã có số thì dù cố gắng đến đâu cũng không thể thay đổi được số mệnh của mình. Ngược lại Phật giáo cho rằng, tiền đồ và vận mệnh của một cá nhân tốt hay xấu đều do việc làm hiện nay của mình quyết định, đó là tiền đồ nằm trong tay chính mình, do mình quyết định. Đây là một quan niệm, có thể nói là tiến bộ về nhận thức hành vi của con người và trách nhiệm cá nhân trước hành vi đó. Phật giáo đưa ra học thuyết nhân quả: "Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là cái mầm, quả là cái hạt, cây trái là do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả và nếu không có quả thì không có nhân" [61, tr.98]. Đây là một giáo lý đề cập đến mối quan hệ nhân quả, nhờ đó giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ phổ biến, cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng, đó là mối quan hệ nhân - duyên - quả. Nó cung cấp cho mỗi người chúng ta một cách suy nghĩ sâu hơn về thế giới hiện tượng và thông qua đó để điều chỉnh hành vi của mình. Nó cảnh tỉnh về hệ quả, hệ luỵ của những hành vi của con người, rằng "ác giả” sẽ có “ác báo". Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Dù lên non, xuống biển, vào hang, nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng, không ai có thể tránh được". Cho nên, con người phải lo trau dồi đức phước ngay cả những hành vi đối xử với môi trường sống. Trong cuộc sống, mỗi con người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, làm tốt ở hiện tại thì sẽ được hưởng thành quả ngọt ngào ở tương lai và ngược lại. 1.2.2.2. Vấn đề giải thoát 3 - Bản lai diện mục: nguyên nghĩa là nhận ra được diện mạo nguyên xưa, tức là hình dung được tính nguyên sơ, cái tâm bản thể chứa trong mỗi sự vật để thấy tính, giác ngộ thành Phật. - 18 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 274 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 461 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 362 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 162 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 5 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 86 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn