intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay

Chia sẻ: Elfredatran Elfredatran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

71
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao vị thế người phụ nữ trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN LỆ THU BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN LỆ THU BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 85 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐỖ THỊ THẠCH HÀ NỘI - 2012
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS, TS Đỗ Thị Thạch. Các trích dẫn tham khảo được chú thích đầy đủ, chi tiết. Luận văn có tham khảo các công trình khoa học khác với tinh thần cầu thị, học hỏi. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa có ở các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Lệ Thu
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 4 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH 12 1.1. Quan niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình 12 1.1.1. Quan niệm về giới 12 1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới 15 1.1.3. Bình đẳng giới trong gia đình 20 1.1.4. Tầm quan trọng của bình đẳng giới trong gia đình đối với sự phát triển kinh tế xã hội 25 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới 30 1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới 30 1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới 34 1.2.3. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới 39 1.3. Một số yếu tố tác động đến quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc 42 1.3.1. Điều kiện tự nhiên 42 1.3.2. Tình hình kinh tế 45 1.3.3. Điều kiện văn hóa xã hội 47 Kết luận chương 1 52 Chương 2: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 54 2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay 54 2.1.1. Một vài nét về gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc 54 1
  5. 2.1.2. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc 58 2.1.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta hiện nay 80 2.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc 89 2.2.1. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở vùng dân tộc thiểu số tạo tiền đề thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình 89 2.2.2. Nâng cao nhận thức về mục tiêu bình đẳng giới cho các thành viên trong gia đình, cộng đồng 92 2.2.3. Tiếp tục nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nhất là cho phụ nữ 94 2.2.4. Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở bình đẳng giới 96 2.2.5. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị 97 2.2.6. Hoàn thiện cơ chế chính sách về bình đẳng giới đối với phụ nữ dân tộc thiểu số 99 Kết luận chương 2 101 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 PHỤ LỤC 110 2
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Người làm chính trong công việc nông nghiệp 60 Bảng 2.2: Tình hình lao động của phụ nữ dân tộc Mông và Tày với những hoạt động kinh tế hộ gia đình 61 Bảng 2.3: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong công việc nội trợ gia đình 64 Bảng 2.4: Người quyết định chính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh 72 Bảng 2.5: Ai là người quyết định sử dụng vốn (theo nghề nghiệp) 74 Bảng 2.6: Người quyết định các khoản chi lớn của gia đình 75 Bảng 2.7: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 77 3
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Có thể nói lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ những sự bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất bình đẳng giới. Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Ngày nay khi nói đến phát triển, người ta không chỉ đề cập đến chỉ số phát triển con người HDI mà còn xem xét đến chỉ số phát triển liên quan đến giới GDI (Gender Devevelopment Index). Những nghiên cứu thực tế cho thấy đầu tư cho phụ nữ mang lại hiệu quả, lợi ích cao hơn bất kỳ sự đầu tư nào ở các nước đang phát triển. Hay nâng cao khả năng và tạo cơ hội lựa chọn cho phụ nữ không chỉ đem lại lợi ích cho họ mà còn là cách chắc chắn nhất để đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và phát triển chung [68]. Những minh chứng đó chứng tỏ bình đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề của phát triển mang tính toàn cầu. Theo báo cáo của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đến cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển con người, nhưng vẫn còn có sự khác biệt trong các chỉ số phát triển giữa nam và nữ. Trong đó, người ta nhận thấy rằng sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất cả các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt tại các quốc gia chậm phát triển. Quan sát thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia, UNDP cũng thấy rằng bất bình đẳng giới thực sự vừa là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất cả các thành viên trong xã hội. Trước thực tế đó, bình đẳng giới đã trở thành một trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), được Đại hội đồng Liên hợp quốc đề ra vào đầu thiên niên kỷ mới. 4
  8. Ở nước ta, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và Nhà nước luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, trong đó các tiêu chí phát triển được hướng vào cả nam và nữ. Vùng Đông Bắc nước ta bao gồm 11 tỉnh, là địa bàn tụ cư của nhiều dân tộc thiểu số. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với hội nhập kinh tế thế giới đã tạo cho vùng Đông Bắc có bước khởi sắc mới, đời sống của người dân từng bước được cải thiện, nhưng đây vẫn là một trong những vùng kinh tế - xã hội phát triển chậm so với các vùng khác trong cả nước. Hạn chế này có nhiều nguyên nhân trong đó định kiến giới nặng nề là nguyên nhân khá nổi bật. Do vậy chưa khai thác, phát huy được tiềm năng của lực lượng lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số. Đại bộ phận các gia đình dân tộc thiểu số đang sống ở mức nghèo đói, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, miền núi. Trong bộ phận dân cư ấy, phụ nữ lại là nhóm xã hội cực khổ nhất. Họ là một lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của khu vực dân tộc và miền núi. Họ vừa phải tham gia lao động sản xuất ngoài xã hội, cộng đồng; vừa trực tiếp chăm lo công việc gia đình nên cường độ lao động và thời gian lao động đối với họ là quá tải trong khi mức thu nhập lại thấp, thậm chí họ lao động vất vả nhưng ít được cộng đồng, xã hội đánh giá khách quan đầy đủ. Xuất phát từ lý do trên, hơn nữa được sinh ra và trưởng thành ở vùng đất này, tác giả chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Triết học chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, mong muốn góp một phần nhỏ vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới khu vực Đông Bắc hiện nay. 5
  9. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn mang tính toàn cầu. Tuy vậy, nghiên cứu khoa học về giới và bình đẳng giới được “phổ biến ” vào Việt Nam và chính thức trở thành một chuyên ngành khoa học độc lập chỉ trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây (nhiều nhà khoa học coi sự kiện thành lập trung tâm nghiên cứu phụ nữ, nay là viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, thuộc viện Khoa học xã hội Việt Nam vào năm 1987 như là cột mốc của sự ra đời và phát triển của khoa học này). Các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc tổ chức đã góp phần luận giải nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình. - Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng (1996), “Phụ nữ - giới và phát triển”, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Tác giả cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển. Phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ trong đổi mới kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn; phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình; chính sách xã hội đối với phụ nữ và ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới. - Lê Thi (1998), “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Công trình khoa học này chính là kết quả bước đầu của sự vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết hợp với các hình thức thu thập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ nữ công nhân, nông dân, trí thức trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã nêu lên những vấn đề đáng quan tâm và đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội cần thiết, nhằm xây dựng sự bình đẳng giới trong tình hình mới. - Chu Thị Thoa - Luận án tiến sĩ Triết học (2002), “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông dân đồng bằng sông Hồng hiện nay”. Tác giả đã phân 6
  10. tích thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở vùng đồng bằng sông Hồng trong công cuộc đổi mới và đề xuất những giải pháp nhằm từng bước xóa bỏ bất bình đẳng giới trong gia đình nông dân đồng bằng sông Hồng. - Nguyễn Linh Khiếu (2003), “Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình”, Nxb KHXH, Hà Nội. Tác giả đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ cũng như quan hệ giới trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, tiếp cận nguồn lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh hơn đối với phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia đình cũng như những rào cản văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận mà tác giả khái quát cũng chính là những vấn đề đặt ra cho những nhà khoa học cũng như những nhà hoạch định chính sách đối với vấn đề phụ nữ - giới và gia đình. - Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2007), “Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại”. Đây là công trình của tập thể các nhà khoa học của Viện CNXHKH - Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Các tác giả của công trình đã nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam; vấn đề giới trong một số phương tiện thông tin đại chúng và trong sách giáo khoa. Có thể nói, đây là một công trình đã đề cập đến tương đối đầy đủ những vấn đề về giới. Đó cũng chính là căn cứ lý luận và thực tiễn về thực trạng quan hệ giới ở nước ta hiện nay. - Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), (2008),“Bình đẳng giới ở Việt Nam”, (Phân tích số liệu điều tra). Nxb KHXH, Hà Nội. Với mục tiêu chính là điều tra cơ bản về bình đẳng giới, xác định thực trạng bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ và nam giới và tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội. 7
  11. - Trịnh Quốc Tuấn - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), “Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Các tác giả của công trình này đã cung cấp một bức tranh về lịch sử phát triển của khoa học giới; đồng thời nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội: Vấn đề giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động; giới trong chiến lược giảm nghèo; giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; giới trong hoạch định và thực thi chính sách; giới trong lĩnh vực văn hóa; giới trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo; giới trong gia đình và chiến lược dân số; lồng ghép giới trong các chương trình phát triển. - Đỗ Thị Thạch (2010): “Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” (đề tài khoa học cấp cơ sở của viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trên cơ sở phân tích làm rõ sự tác động của toàn cầu hóa đến việc thực hiện bình đẳng giới trong các mặt đời sống xã hội và gia đình, đề tài đề xuất một số giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Đối với gia đình dân tộc thiểu số và vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số trong gia đình và xã hội, chúng ta có thể kể đến một số công trình sau: - Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã miền núi phía Bắc), Khoa học về phụ nữ, số 3, tr 20-33. Từ phân tích vai trò giới trong gia đình dân tộc Thái, Mông, Dao, tác giả đã chỉ ra sự biến đổi vai trò giới trong gia đình ở đây theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực. - Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai Châu, Hòa Bình), Khoa học về phụ nữ, số 1, tr 33-36. Tác giả phân tích vai trò, vị thế của phụ nữ H’mông trong gia đình trước đây cũng như hiện nay và kết luận: Người phụ nữ H’mông là người phụ thuộc trong gia đình lại 8
  12. càng trở nên bị cách biệt trong xã hội khi họ không có trình độ học vấn, ngôn ngữ phổ thông, không thể hòa nhập vào cộng đồng và càng không thể chủ động tham gia công tác xã hội. Những ràng buộc về phong tục tập quán, thói quen trong suy nghĩ, cách làm của họ bị khép kín trong cộng đồng và chưa thể hòa nhập với nhịp độ phát triển của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. - Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình nông thôn miền núi” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên Bái), Khoa học về phụ nữ, số 1, trang 25- 29. Trong khuôn khổ một cuộc khảo sát tiền dự án tại một xã nghèo miền núi phía Bắc, tác giả đã chỉ ra những thành tựu đã đạt được, những hạn chế cần phải khắc phục, cũng như những xu hướng vận động và phát triển trong tương lai của nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. - Đặng Thị Ánh Tuyết (2005) “Thực hiện bình đẳng giới các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Xã hội học. Trên cơ sở phân tích thực trạng thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình (Qua khảo sát ở Yên Bái và Hà Giang), tác giả đã đề xuất phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện bình đẳng giới ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Những công trình trên bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ - gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên cứu mới nhưng rất hiệu quả, đã phác họa bức tranh đa dạng, nhiều vẻ về địa vị người phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Qua đó tác động đến suy nghĩ, quan niệm, thái độ và hành vi của mọi người đối với gia đình và bình đẳng giới ở Việt Nam thời gian qua, do vậy đây là những tư liệu hết sức quý cho việc triển khai đi sâu nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta. 9
  13. Đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay” trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu trước đây về gia đình, vai trò phụ nữ nói chung, góp phần đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn về thực trạng bình đẳng giới trong môi trường sinh hoạt gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao vị thế người phụ nữ trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ + Khái quát làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình + Làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay, và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu bình đẳng giới (mối quan hệ giới) trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta hiện nay. Phạm vi: Dưới góc độ lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số chủ yếu ở một số tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng với các dân tộc thiểu số là Mông, Tày trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới, gia đình và vị thế, vai trò của phụ nữ. 10
  14. - Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu là: phân tích, tổng hợp, khái quát, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, đối chiếu…. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ thực trạng bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở Đông Bắc, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra - Bước đầu luận văn nêu lên một số giải pháp nhằm hạn chế bất bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, góp phần thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình văn hóa ở miền núi. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Bằng những đóng góp mới về mặt khoa học nêu trên, luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho hoạch định các chủ trương, chính sách của địa phương nhằm tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ phát triển, xây dựng gia đình văn hóa. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ Hội Phụ nữ nói chung và Hội Phụ nữ Hà Giang, Cao Bằng nói riêng, làm tài liệu giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học, các chuyên đề về gia đình và giới. 8. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 11
  15. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH 1.1. Quan niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình 1.1.1. Quan niệm về giới Giới là khái niệm mới xuất hiện trong khoa học về giới ở các nước nói tiếng Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỉ XX. Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giới. Tác giả Trần Thị Quế trong công trình “Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt Nam” đã đưa ra định nghĩa “ Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ xã hội”[54]. Trong tác phẩm “Tóm tắt tình hình giới” của Liên hiệp quốc ở Việt Nam cũng đã đưa ra một định nghĩa về giới: Giới là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một nam giới hay một phụ nữ (hoặc một cô bé hay một cậu bé) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định. Giới cũng phản ánh các mối quan hệ giữa nam và nữ, ai cần làm gì và ai là người kiểm soát việc ra quyết định, tiếp cận các nguồn lực và hưởng lợi [67]. Theo Luật Bình đẳng giới Việt Nam năm 2006, giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội [57]. Tóm lại, khi nói về giới có thể hiểu là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội. Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là một người phụ nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà còn 12
  16. phải đối diện với những mong đợi khác nhau của xã hội về mặt ngoại hình, cách cư xử, tính cách và những công việc được cho là thích hợp đối với giới tính của người đó. Ví dụ theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ phải làm hầu hết các công việc trong nhà như nấu ăn, chăm sóc con, phục vụ chồng… Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội. Khi bàn về khái niệm giới, các nhà khoa học còn dựa vào các đặc trưng sau đây: Thứ nhất: Do học mà có, khác với giới tính, những đặc trưng về giới là do dạy và học mà có. Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nền nếp của gia đình, quy ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hóa. Đứa trẻ phải học để làm con trai hoặc con gái. Bắt đầu từ khi sinh ra nó đã được đối xử và dạy dỗ tùy theo việc nó là trẻ trai hay gái. Đó là sự khác biệt về quần áo, đồ chơi, cách nói năng, thái độ và có thể cả thức ăn và tình cảm của cha mẹ, anh chị. Đứa trẻ cũng được dạy dỗ để trở thành phụ nữ hay nam giới theo quan niệm, khuôn mẫu của xã hội. Ví dụ con trai không được khóc, phải tỏ ra mạnh mẽ, dũng cảm, không được chơi búp bê, còn con gái không được cáu kỉnh, không được nói to, phải dịu dàng, giúp mẹ cơm nước, nội trợ. Các quan niệm vốn có này và các dự định, mong đợi của cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè và xã hội đối với trẻ trai và gái trở thành khuôn mẫu đối với trẻ trai và gái, trở thành khuôn mẫu cụ thể đối với mỗi giới, khiến nó luôn phải điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp. Bởi vậy sở dĩ phụ nữ hay làm việc nội trợ hay đi cấy thì không phải vì họ là phụ nữ mà vì họ đã được dạy để làm những việc đó từ khi còn là đứa trẻ. Tiếp đó nhà trường và quan niệm về tập quán xã hội tiếp tục củng cố các khuôn mẫu cụ thể về từng giới. Ví dụ nam sinh học thêm môn kỹ thuật, xây dựng; nữ sinh học môn nữ công. Các thể chế như chính sách, luật pháp… 13
  17. cũng có ý nghĩa làm tăng hoặc giảm sự khác biệt giữa hai giới. Chẳng hạn: ưu tiên nhận phụ nữ vào các nghề thư ký, đánh máy, lễ tân… Thứ hai: Đa dạng, giới thể hiện các đặc trưng của những quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới cho nên rất đa dạng. Địa vị của người phụ nữ xã hội Việt Nam khác xa so với địa vị của phụ nữ ở các nước Hồi giáo. Ngay ở Việt Nam, địa vị xã hội của phụ nữ nông thôn cũng không hoàn toàn giống phụ nữ thành thị. Thứ ba: Luôn biến động, quan hệ giới luôn luôn biến đổi cùng với xã hội và các yếu tố xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, các phong tục tập quán… Chẳng hạn quan niệm của đạo Khổng về việc con gái không cần cho đi học đã thay đổi căn bản dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; gia đình truyền thống thường thích con trai hơn con gái nhưng điều đó đang có những thay đổi ở những gia đình trẻ. Thứ tư: Có thể thay đổi, các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm các công việc “bếp núc” là “thiên chức” của người phụ nữ đang được xem xét lại khi có rất nhiều đầu bếp giỏi là nam giới. Trong nhiều gia đình hạt nhân, khi cả vợ và chồng cùng phải tham gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất nhằm tăng thu nhập thì nam giới đang tham gia một cách tích cực vào các công việc nội trợ như nấu ăn, chăm sóc con cái… Thậm chí trong một số gia đình, khi người vợ tham gia vào các công việc quản lý, điều hành xã hội, tham gia công việc sản xuất nhiều hơn chồng, người chồng đã thay vai trò của người vợ đảm đương các công việc gia đình, người vợ có điều kiện tham gia những công việc sản xuất hay làm các công tác lãnh đạo, các công việc quản lý xã hội nhiều hơn. Có thể thấy rằng, sự khác biệt xã hội giữa nam và nữ do xã hội tạo ra, sự khác biệt đó đã đưa tới sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Bất bình đẳng giới thực chất là sự bất bình đẳng xã hội, là sự bất công phổ biến, lâu dài và nặng nề về mặt xã hội. Xóa bỏ sự bất bình đẳng giới vì thế rất cần thiết nhằm thay đổi tương quan địa vị xã hội giữa nam và nữ. 14
  18. 1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới Khái niệm bình đẳng giới Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn. Sự ra đời của khái niệm bình đẳng giới là kết quả của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ quyền. Lịch sử nhân loại ở các nền văn hóa khác nhau, trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội và nhiều thời đại, đã cung cấp nhiều bằng chứng về sự bất bình đẳng đối với phụ nữ, về thân phận khốn cùng của người phụ nữ. Do đó, ngay từ khi ra đời, phong trào phụ nữ đã là phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào nam giới và cho ra đời phong trào nữ quyền và chủ nghĩa nữ quyền (feminism). Bình đẳng giới là nguyên tắc chỉ đạo của phong trào nữ quyền trong suốt mấy chục năm qua. Mặc dù vậy, không phải lúc nào, ở đâu cũng có cách hiểu thống nhất về vấn đề này. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về bình đẳng giới: Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới cùng có những điều kiện như nhau để phát huy hết năng lực tiềm tàng của mình, cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng thụ bình đẳng các kết quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Điều quan trọng nhất là bình đẳng giới đem lại kết quả ngang nhau cho cả phụ nữ và nam giới [67]. Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ cũng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Phụ nữ và nam giới cùng: có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện mong muốn của mình, có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong tiếng nói [76]. Bình đẳng giới là sự bình đẳng về luật pháp, về cơ hội, bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng trong thù lao cho công việc và bình đẳng trong tiếng nói [2]. 15
  19. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [57]. Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới, là tình hình lý tưởng trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, có các cơ hội bình đẳng để phát hiện đầy đủ tiềm năng của mình nhằm cống hiến cho sự phát triển chung và hưởng lợi bình đẳng từ các kết quả đó [28, tr 37]. Như vậy, bình đẳng giới trước hết được hiểu là sự đối xử như nhau giữa nam giới và phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Nguyên tắc đối xử như nhau là điều hết sức cần thiết, song có lẽ nó chưa đủ để phụ nữ được bình đẳng thực sự. Vì việc đối xử như nhau, cơ hội như nhau không đem lại kết quả như nhau đối với giới nữ và giới nam, vì cũng là con người như nam giới nhưng phụ nữ lại có những đặc tính hết sức riêng biệt (do đặc trưng sinh học và đặc trưng xã hội quy định hay chi phối), cho nên, nếu chỉ thực hiện sự đối xử như nhau căn cứ vào cái chung và không chú ý đến cái riêng để có các đối xử đặc thù thì sẽ không có bình đẳng thực sự. Những đối xử đặc thù tác động đến sự khác biệt tự nhiên giữa nam và nữ, hạn chế những thiệt thòi của phụ nữ, tác động làm thay đổi vị thế của phụ nữ do lịch sử để lại được duy trì chừng nào đạt được sự bình đẳng hoàn toàn. Đối xử đặc thù không chỉ căn cứ vào sự khác biệt giữa nam và nữ, quá trình bình đẳng giới còn phải chú ý sự khác biệt ngay trong giới nữ, thể hiện qua các nhóm phụ nữ khác nhau: giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân và nông dân, trí thức, giữa phụ nữ giàu và phụ nữ nghèo… Như vậy, đối xử như nhau giữa các bộ phận xã hội không giống nhau sẽ không thể đạt tới bình đẳng, điều kiện để đạt tới bình đẳng chính là sự đối xử đặc thù dành cho các nhóm xã hội yếu thế. Đối xử đặc thù sẽ chấm dứt ngay sau khi bình đẳng giới được thực hiện, vì kéo dài quá mức các biện pháp đặc biệt khó tránh khỏi hậu quả làm tái hiện 16
  20. tình trạng bất bình đẳng. Luật Bình đẳng giới (2007) của Việt Nam gọi đó là biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó chỉ rõ: đây là biện pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. Ngoài ra khi đề cập tới bình đẳng giới, không nên hiểu bình đẳng giới theo cách đơn giản là nam giới và nữ giới tham gia như nhau trong tất cả các hoạt động, cũng không phải là phương châm phụ nữ “vùng lên” đòi hỏi quyền lợi ngang bằng với nam giới, bất chấp sự khác biệt về đặc tính sinh học giữa nam và nữ. Việc không phân định rõ ràng sự khác biệt mang tính chất giới và giới tính lại chỉ thấy có một phía là không bình đẳng nghiêng về phía nữ, chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả ngược lại với mong muốn ban đầu mang tính nhân văn sâu sắc của nhận thức giới và cách giải quyết sẽ chỉ là: hoặc hoán vị vai trò giới một cách máy móc những gì phụ nữ có và phải làm thì đem chuyển cho nam giới và ngược lại, hoặc đi đến chủ nghĩa bình quân giữa nam và nữ để chi chia nhau cơ hội, lợi ích, trách nhiệm… Qua sự phân tích trên có thể hiểu bình đẳng giới là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ có xét đến những đặc điểm giống nhau và khác nhau của mỗi giới, thậm chí sự cả sự khác biệt trong giới nữ, và được điều chỉnh bởi các chính sách đối với từng giới một cách hợp lí. Những chính sách về bình đẳng giới phải thể hiện những đặc điểm sau: tính ngang bằng của nữ giới với nam giới trong mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế - xã hội và gia đình; tính ưu đãi: Do đặc điểm sinh học và quan hệ xã hội mang tính truyền thống của phụ nữ là thiệt thòi hơn so với nam giới nên để đạt được sự bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích đặc biệt và hợp lý đối với 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2