Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
lượt xem 8
download
Mục đích của luận văn là phân tích sự phê phán của C.Mác đối với những tư tưởng triết học của Pru-đông qua đó làm rõ tính chất phản khoa học của những quan điểm, lý luận đó. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ HOÀI SỰ PHÊ PHÁN CỦA C.MÁC ĐỐI VỚI TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA PRU-ĐÔNG TRONG TÁC PHẨM “SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC” Chuyên ngành: Triết học Mã ngành: 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Minh Hợp Hà Nội - 2015
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4 5. Cơ cở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 4 6. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 5 7. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 5 8. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 5 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC” ................................................................................................................ 6 1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” ........... 6 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Tây Âu đầu thế kỷ XIX ........................... 6 1.1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời của tác phẩm ......................................12 1.2 . Kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”......................... 15 * Tiểu kết chƣơng 1 ...........................................................................................18 CHƢƠNG 2 SỰ PHÊ PHÁN CỦA C.MÁC ĐỐI VỚI TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA PRU-ĐÔNG VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHÊ PHÁN ĐÓ. .................................................................................................................. 19 2.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”............................................ 19 2.1.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học mang tính duy tâm của Pru-đông........................................................................................................... 19 2.1.2. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học mang tính tƣ biện, siêu hình của Pru-đông. ....................................................................... 34 2.1.3. Sự phê phán của C.Mác đối với tính không tƣởng trong tƣ tƣởng triết học kinh tế của Pru-đông. .................................................................... 43
- 2.2. Ý nghĩa sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học của Pru- đông................................................................................................................. 62 2.2.1. Ý nghĩa lý luận ..................................................................................... 62 2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn................................................................................... 67 * Tiểu kết chƣơng 2 ...........................................................................................74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Được đánh giá là một trong những sự kiện nổi bật nhất của thế kỷ XIX- sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân loại. Trên cơ sở tổng kết, kế thừa những thành tựu của khoa học và lịch sử tư tưởng nhân loại C.Mác và Ph.Ănghen đã xây dựng nên học thuyết mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc. Nó không chỉ đóng vai trò là thế giới quan mà còn là phương pháp luận cho khoa học và hoạt động của con người. Bởi vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta xác định “Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động”. Hơn 100 năm trôi qua chủ nghĩa Mác-Lênin luôn chứng tỏ được sức sống mãnh liệt cũng như vai trò định hướng của mình. Vì vậy, để hiểu thực chất tính cách mạng và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác trong thực tiễn thì một trong nhiệm vụ quan trọng nhất là chúng ta phải đi sâu tìm hiểu cội nguồn tư tưởng mà cụ thể là những tư tưởng được thể hiện trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác. Lịch sử hơn 100 năm qua cũng chứng minh quá trình xây dựng và phát triển của chủ nghĩa Mác là quá trình thường xuyên và liên tục đấu tranh chống lại sự chống phá của các lực lượng phản động, thù địch. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các tác phẩm bút chiến trong hệ thống kinh điển của chủ nghĩa Mác. Tiêu biểu trong hàng loạt các tác phẩm kinh điển mang tính bút chiến đó là tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” được viết vào giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Với ngòi bút phê phán quyết liệt, sâu cay C.Mác đã đấu tranh chống lại trào lưu vô chính phủ Pru-đông bởi những luận điểm mang nặng tính duy tâm, tư biện, không tưởng, những luận điểm là sự lừa bịp trong khoa học và là sự dung hòa trong chính trị và qua đó C.Mác cũng trình bày một cách hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về triết học, 1
- kinh tế và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm được đánh giá là một tác phẩm quan trọng và là sự chuẩn bị cuối cùng cho “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” ra đời. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được thì còn tồn tại nhiều phức tạp, khó khăn. Lợi dụng sự phức tạp của tình hình hiện nay các thế lực phản động luôn tìm cách chống phá cách mạng, cùng đó cũng xuất hiện những nghi ngờ, sự dao động tư tưởng trong một bộ phận nhân dân về đường lối lãnh đạo, về lý tưởng mà chúng ta đi theo cùng với đó yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi việc phát triển công tác lý luận. Bởi vậy, nghiên cứu và học tập để nắm chắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê nin đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt là các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác mà tiêu biểu là “Sự khốn cùng của triết học” có ý nghĩa lớn trong tiếp thu và bảo vệ chủ nghĩa Mác trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác có khá nhiều công trình nghiên cứu tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” với nhiều khía cạnh khác nhau về triết học, về kinh tế, về chủ nghĩa xã hội... nhưng chưa có công trình nào trình bày tác phẩm một cách hệ thống, sâu sắc. Đặc biệt là nội dung C.Mác phê phán tư tưởng triết học của Pru- đông, phê phán trào lưu vô chính phủ ảnh hưởng đến phong trào công nhân lúc bấy giờ. Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về nội dung C.Mác phê phán các trào lưu phản động, trước hết phải kể đến các công trình của C.Mác và F. Ănghen trong các tác phẩm như “Bản thảo kinh tế-triết học”, “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”, “Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học”, “Chống Đuy-rinh”, “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” ... 2
- Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” được C.Mác viết trong giai đoạn đầu - giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác và nó được đánh giá là một tác phẩm quan trọng trong hệ thống kinh điển của chủ nghĩa Mác, là sự chuẩn bị cuối cùng cho sự ra đời “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”- cương lĩnh của giai cấp vô sản. Bởi vậy, nghiên cứu chủ nghĩa Mác có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới tác phẩm này như: Trong cuốn “Lịch sử triết học Mác” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền do TS. Trương Ngọc Nam chủ biên. Trong đó tác giả đã giới thiệu những nét khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời, những nội dung lớn và ý nghĩa của tác phẩm “Sự khốn của triết học” trong giai đoạn đầu - giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Các tác giả viết cuốn “Giới thiệu tác phẩm kinh điển Mác-Lê nin” của trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cuốn sách cũng đã chỉ ra những nét cơ bản nhất của tác phẩm về bối cảnh ra đời, nội dung khái quát, giá trị của tác phẩm.. Cuốn “Giáo trình triết học Mác-Lê nin” của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng bàn về tác phẩm “sự khốn cùng của triết học”. Qua việc trình bày những nét chính và vị trí, ý nghĩa của tác phẩm đối với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác. Ngoài ra tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” còn được giới thiệu nhiều trong các cuốn “Giới thiệu tác phẩm kinh điển Mác-Lênin”, trong một số tiểu luận, khóa luận về quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác hay trong một số bài báo, tạp chí bàn về lý luận hình thái kinh tế-xã hội, lý thuyết giá trị… Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở giới thiệu những nét khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời, nội dung chính cũng như ý nghĩa lớn của tác phẩm. Như vậy, vấn đề C.Mác phê phán những tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” là một vấn đề mới chưa có công trình nào nghiên cứu. 3
- 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Mục đích của luận văn là phân tích sự phê phán của C.Mác đối với những tư tưởng triết học của Pru-đông qua đó làm rõ tính chất phản khoa học của những quan điểm, lý luận đó. 3.2. Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, giới thiệu những nét khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”. Thứ hai, phân tích rõ những nội dung phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông. Thứ ba, đánh giá ý nghĩa của sự phê phán đó. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: Đối tượng của luận văn là nội dung phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”. 4.2. Phạm vi: Luận văn tập trung vào khai thác sự phê phán của C.Mác đến các mặt, các khía cạnh như tính chất duy tâm, tư biện và không tưởng.. trong những luận điểm, tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm „Sự khốn cùng của triết học”. 5. Cơ cở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan niệm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và kết hợp sử dụng các phương pháp như tổng hợp tài liệu, phân tích, so sánh,.. để làm rõ các vấn đề mà luận văn đề cập. 4
- 6. Đóng góp của đề tài Luận văn góp phần phân tích một cách hệ thống nội dung phê phán của C.Mác đối với những quan điểm phản khoa học của Pru-đông trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”. 7. Ý nghĩa của đề tài “Sự khốn cùng của triết học” là một tác phẩm lớn trong hệ thống kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Bởi vậy, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng. Bên cạnh đó luận văn góp phần làm rõ vai trò của việc đấu tranh chống những lực lượng phản động để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lê-nin. 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn có kết cấu gồm 2 chương và 5 tiết. 5
- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC” 1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Tây Âu đầu thế kỷ XIX “Sự khốn cùng của triết học” là tác phẩm được C.Mác viết năm 1847 trong giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, trong một bối cảnh hết sức nóng bỏng của kinh tế- xã hội Tây Âu. Từ thế kỷ XV, hàng loạt các phát kiến địa lý ra đời, rất nhiều các phát minh khoa học trong các lĩnh vực xuất hiện tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế, thị trường quy mô thế giới hình thành. Lúc đó giai cấp tư sản đã rất mạnh về kinh tế nhưng chưa có địa vị chính trị tương xứng vì vậy sự thay đổi về mặt chế độ là tất yếu. Bước chuyển đó được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như cách mạng Hà Lan (1566-1572), cách mạng Anh (1640- 1689), cách mạng Pháp (1789-1799)... Như vậy , chủ nghĩa tư bản đã xác lập sự thống trị của mình và để củng cố sự thống trị đó, giai cấp tư sản đã tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp. Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Đầu tiên, cách mạng công nghiệp diễn ra ở nước Anh. Từ những năm 60 của thế kỷ XVIII cách mạng công nghiệp bắt đầu khởi động với tiêu chí quan trọng nhất là máy móc thay thế lao động thủ công. Nước Anh đứng đầu trong nền kinh tế thế giới, hoàn thành cách mạng công nghiệp vào những năm 1840. Cuộc cách mạng này diễn ra từ công nghiệp nhẹ, trong ngành dệt sợi bông và thu được nhiều thành tựu. Năm 1874 với sự ra đời của máy hơi nước đã tạo ra 6
- bước đột phá trong cách mạng công nghiệp khi nó được ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải... Cuối thế kỷ XIX, máy móc chiếm ưu thế trong sản xuất, ngành dệt bông được cơ khí hóa rất sớm. Việc cơ khí hóa sản xuất làm cho sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Các ngành luyện kim và cơ khí phát triển mạnh nhằm trang bị kỹ thuật toàn bộ cho công nghiệp. Năm 1810, sản lượng gang của Anh là 225.000 tấn, năm 1850 con số đó là 2.250.000 tấn. Hệ thống đường sắt phát triển mạnh từ 2.000km tăng lên 10.000km trong thời gian từ 1840 đến 1850. Sự phát triển của đường sắt thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và tăng cường sự liên hệ giữa các trung tâm công nghiệp. Ngành hàng hải cũng có những biến đổi quan trọng nhờ việc ứng dụng máy hơi nước với nhiều công ty hàng hải lớn được thành lập. Sự phát triển của giao thông vận tải ảnh hưởng đến ngoại thương, số lượng hàng xuất khẩu ngày càng nhiều. Sự phát triển công nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp. Máy móc và phương pháp canh tác mới được sử dụng trong nông thôn, do đó năng suất nông nghiệp tăng cao. Anh là một nước có trình độ nông nghiệp tiên tiến thời bấy giờ. Như vậy, cách mạng công nghiệp hoàn thành tạo nên sự phát triển mạnh mẽ trong cả công nghiệp, nông nghiệp và đã hoàn toàn thay đổi bộ mặt kinh tế của nước Anh, đưa nước Anh lên địa vị hàng đầu của thế giới. Sau những khởi đầu ở Anh, cách mạng công nghiệp nhanh chóng lan rộng ra phạm vi thế giới và nó trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang tính tất yếu với các quốc gia tư bản còn lại. Nếu như Anh mất gần một thế kỷ để hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp của mình thì cách mạng công nghiệp diễn ra ở một số nước tư bản khác diễn ra với tốc độ khẩn trương hơn, sôi động hơn và thời gian hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp cũng ngắn hơn. Như cách mạng công nghiệp ở Pháp, nước Pháp có nền kinh tế kém phát triển hơn Anh nhưng mạnh hơn so với các nước Châu Âu lúc bấy giờ. Cách mạng công nghiệp đang trên đà phát triển, hoàn thành vào những năm 60 của thế kỷ XIX. Việc sử dụng máy móc ngày càng rộng rãi trong các ngành công nghiệp nhẹ và 7
- nặng. Năm 1830, Pháp có 616 máy hơi nước đến năm 1847 tăng lên 4.853 cái. Sản lượng công nghiệp các ngành cũng tăng lên rõ rệt. Công nghiệp dệt, đặc biệt là dệt bông phát triển khá nhanh, sản lượng tăng gấp đôi từ 1816-1830. Năm 1832, Pháp sản xuất 225.000 tấn gang và 148.000 tấn sắt. Năm 1846, số gang tăng lên 586.000 tấn và sắt tăng 373.000 tấn. Trong nền kinh tế Pháp, hệ thống tín dụng phát triển khá mạnh, đây là một đặc điểm quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp. Tuy có những bước phát triển đáng kể, nhưng nhìn chung, tốc độ phát triển của công nghiệp còn chậm chạp, quy mô nhỏ bé vì sự tồn tại của chế độ tiểu nông làm cho thị trường trong nước bị thu hẹp, nguồn công nhân hạn chế, nguyên liệu ít ỏi. Sự thống trị của Louis Philippe cũng là một trở ngại vì tư sản tài chính chỉ làm giàu bằng con đường cho vay chứ không phát triển sản xuất. Còn kinh tế Ðức tuy phát triển kém hơn Anh, Pháp, nhưng vượt xa các nước Châu Âu nửa phong kiến lúc bấy giờ. Quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh ở vùng sông Rhin, Westphalie. Bec-lin trở thành trung tâm công thương nghiệp của Ðức, tập trung 1/3 sản xuất cơ khí và vải của cả nước. Trong công nghiệp Ðức, công trường thủ công là hình thức sản xuất phổ biến. Cách mạng công nghiệp ở Ðức bắt đầu vào năm 40 của thế kỷ XIX. Năm 1822 cả nước Ðức chỉ có vài máy hơi nước. Năm 1837, riêng Phổ có trên 300 máy hơi nước. Công nghiệp dệt và khai khoáng phát triển mạnh. Nền sản xuất tư bản đạt nhiều thành tựu đáng kể, ngày càng tỏ ra mâu thuẫn với chế độ phong kiến. Như vậy, trong khoảng từ 1815-1848 cách mạng công nghiệp tiếp tục phát triển ở các nước, thúc đẩy nền kinh tế ở các nước này phát triển lên một bước. Ở các nước chưa tiến hành cách mạng tư sản, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng có những bước phát triển đáng kể. Nó đã tạo ra một nguồn của cải vật chất phong phú cho chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng ảnh hưởng đến sự phát triển xã hộị. Cách mạng công nghiệp thành công với những thành tựu lớn lao làm thay đổi bộ mặt của các nước được C.Mác đánh giá là đã tạo ra khối của cải 8
- khổng lồ bằng nhiều lần các xã hội trước cộng lại. Nhiều khu công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô thị hóa thời cận đại diễn ra mạnh mẽ. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần hình thành. Sự phát triển của kinh tế cũng làm thay đổi cơ cấu giai cấp trong xã hội, đặc biệt là sự xuất hiện và ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân- giai cấp có tính tổ chức, kỷ luât và ý thức giác ngộ. Với điều kiện sống cực khổ, lương thấp, điều kiện làm việc nguy hiểm luôn xảy ra tai nạn, bóc lột và mỗi ngày họ phải làm việc từ 12 đến 15 giờ nên những cuộc đấu tranh của họ đã sớm nổ ra. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Anh nảy sinh sớm nhất vào năm 60 của thế kỷ XVIII. Ngay trong những cuộc đấu tranh đầu tiên hiện tượng đập phá máy móc xuất hiện. Cao trào này phản đối việc sử dụng máy dệt bằng hơi nước, nhưng bị chính quyền ra sắc lệnh xử tử những người đập phá máy móc. Sau năm 1815, do khuynh hướng phản động của chính quyền nên những cuộc đình công đòi phổ thông đầu phiếu và cải thiện đời sống lại bùng lên sôi nổi và trở nên quyết liệt vào 1819. Phong trào đập phá máy móc lại nổ ra mạnh hơn trước. Năm 1822, 1823 công nhân lại nổi dậy đập phá máy móc, thiêu hủy những trang viên của địa chủ, đốt nhà người giàu, những cơ quan của chính quyền. Phong trào công nhân Pháp phát triển muộn hơn ở Anh, bắt đầu nảy sinh từ những năm đầu thế kỷ XIX, bằng việc lập những hội tương tế, nhưng những hội này ngày càng thiếu tính chất giai cấp. Phong trào đập phá máy móc nổ ra và phát triển mạnh ở Pháp vào những năm 20 của thế kỷ XIX. Phong trào công nhân Ðức phát triển muộn hơn ở Anh và Pháp. Nó diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ XIX ở hai vùng công nghiệp quan trọng là Rhin và Saxe, giai cấp vô sản Ðức đấu tranh đòi cấm sử dụng máy móc, họ còn đập phá xí nghiệp. Thông qua những phong trào này, giai cấp vô sản ở các nước được tôi luyện và thu được những kinh nghiệm đấu tranh, thúc đẩy họ ngày càng trưởng 9
- thành, đưa phong trào phát triển lên một bước. Từ những năm 30 trở đi, ý thức chính trị của giai cấp công nhân tuy còn mơ hồ nhưng đã tiến bộ hơn trước, hiện tượng đập phá máy móc không còn nữa. Những yêu sách về kinh tế, chính trị bắt đầu được đưa ra trong các cuộc đấu tranh như những mục tiêu chiến đấu chủ yếu của giai cấp vô sản. Họ đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng xã hội độc lập. Khởi nghĩa của thợ tơ Li-ông năm1831 và 1834 là cuộc khởi nghĩa lớn của công nhân Pháp thời kỳ này. Công nhân ở Li-ông đã đứng lên biểu tình để phản đối việc chủ không chịu tăng lương. Chính quyền phái quân đội đến đàn áp, nhưng họ vẫn kiên quyết đấu tranh với khẩu hiệu Sống trong lao động hay chết trong chiến đấu. Sau 3 ngày đấu tranh, công nhân đã đuổi được quân chính phủ là làm chủ thành phố, nhưng bọn tiểu chủ đã ngăn cản việc tổ chức chính quyền của giai cấp công nhân, vì thế quân đội được phái từ Pari về đàn áp phong trào. Cũng tại Li-ông, năm 1834 đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa khác, công nhân phản kháng đạo luật cấm lập nhóm một cánh khắt khe. Nghiã quân đã ra một bản tuyên bố trong đó mục đích chiến đấu của họ cũng là của toàn thể nhân loại, là hạnh phúc, là một tương lai có bảo đảm. Những khẩu hiệu mà giai cấp công nhân nêu ra trong quá trình khởi nghĩa đã mang tính chất chính trị rõ ràng. Họ đòi thiết lập chế độ cộng hòa, nhưng lần này chính phủ đã chuẩn bị chu đáo nên khởi nghĩa của công nhân bị quân đội đàn áp sau bốn ngày chiến đấu anh dũng. Các cuộc khởi nghĩa này đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân Pháp lần đầu tiên họ bước lên vũ đài chính trị với tư thế là một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của công nhân Anh thể hiện ở phong trào Hiến Chương. Giai cấp vô sản Anh ủng hộ giai cấp tư sản trong cải cách tuyển cử 1832, nhưng kết quả là họ không được chút quyền chính trị gì. Vì thế, yêu cầu của công nhân là đòi quyền chính trị ở nghị viện. Lãnh đạo phong trào là một tổ 10
- chức mang tên Hội công nhân Luân đôn thành lập năm 1836 do Lowet đứng đầu. Hội đã thảo ra một yêu sách gồm sáu điểm trình lên nghị viện: Thực hiện phổ thông đầu phiếu đối với nam giới từ 21 tuổi trở lên, phân chia khu vực tuyển cử, xóa bỏ mọi hình thức thuế với điều kiện nghị viện, trả lương cho nghị viên, tuyển cử hàng năm vào Quốc Hội và bỏ phiếu kín. Ðây là một cương lĩnh mang tính dân chủ của công nhân, nó trở thành cương lĩnh hành động của phong trào. Diễn biến phong trào trải qua ba cao trào với ba cuộc biểu tình ủng hộ cho các bản kiến nghị với cao trào lần 1 diễn ra năm 1839, thu được trên 1 triệu chữ ký của công nhân, cao trào lần 2 diễn ra năm 1842, thu trên 3 triệu chữ ký và cao trào lần 3 diễn ra năm 1848 với trên 5 triệu chữ ký. Tuy vậy, tư tưởng hòa bình của Lowet, họ chủ trương thỏa hiệp với giai cấp tư sản, cho rằng bất đắc dĩ mới dùng đến biện pháp cách mạng, vì vậy họ không dám phát động phong trào đấu tranh của quần chúng để chống đối giai cấp tư sản khi chúng từ chối không chấp nhận các yêu cầu của công nhân. Phong trào tuy thất bại nhưng có một ý nghĩa lịch sử rất lớn, nó là một phong trào mang tính chất quần chúng rộng rãi với một qui mô đấu tranh lớn. Khởi nghĩa của công nhân Ðức nổ ra vào 1844 ở Silêdi. Công nhân đòi tăng lương, phá hủy nhà cửa của tư sản. Chính quyền địa phương cho quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Trong cuộc đàn áp này có nhiều chết và bị thương. C.Mác đánh giá cao cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt Silêdi, xem đó là một hiện tượng có ý nghĩa chính trị lớn lao, mở đầu cho phong trào công nhân có tính chất quần chúng, chứ không phải là "một cuộc khởi nghĩa vì đói" như tư sản cố tình xuyên tạc. Các phong trào công nhân trong những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở Anh, Pháp, Ðức có những đặc điểm chung là những khẩu hiệu chính trị đã được nêu lên bên cạnh những khẩu hiệu về kinh tế, phong trào mang tính chất quần chúng rộng rãi và quy mô đấu tranh ngày càng lớn. Những đặc điểm này chứng 11
- tỏ rằng giai cấp vô sản ở các nước đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Tuy nhiên, sự thất bại của phong trào đã chứng tỏ rằng giai cấp vô sản chưa được giác ngộ đầy đủ, tổ chức chưa chặt chẽ, không được hướng dẫn bằng một lý luận cách mạng khoa học. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Cũng trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Bước sang đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát minh khoa học vạch thời đại như: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô-mô-nô-xốp, thuyết tế bào của Sô-van và Slây-đen, học thuyết tiến hóa của Đác-uyn… Các khoa học khác cũng thu được nhiều thành tựu như kinh tế chính trị Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của A.X-mít, Đ.Ri-các- đô, lý luận xã hội của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh-ximông, Phu-riê hay triết học cổ điển Đức, đặc biệt với 2 hệ thống triết học tiêu biểu của Hê-ghen và Phoiơbắc. Từ đó, C.Mác cùng với Ph.Ănghen đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Trên cơ sở tổng kết các thành tựu khoa học, kế thừa các giá trị tư tưởng của nhân loại và một sức sáng tạo rất lớn. Chủ nghĩa Mác ra đời với hệ thống lý luận hết sức khoa học, phù hợp và phục vụ cho việc đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân được họ trình bày thông qua hàng loạt các tác phẩm lớn. Qua các tác phẩm đó mà những nhà chủ nghĩa Mác đã trình bày hệ thống các quan điểm lý luận của mình cũng như những lý luận bút chiến với những lý luận phản động đang được truyền bá vào trong phong trào công nhân. 1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của tác phẩm Trong giai đoạn đề xuất các nguyên lý cơ bản, C.Mác đã viết rất nhiều tác phẩm đấu tranh chống những trào lưu phản động và cũng qua đó trình bày những nguyên lý của mình. Như: “Phê phán triết học pháp quyền Hêghen”, “Bản thảo kinh tế-triết học”, “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”… Đến 12
- 1847, C.Mác đã viết “Sự khốn cùng của triết học” để trả lời tác phẩm “Triết học về sự khốn cùng” của P.J.Pru-đông. Pie Jo-dep Pru-đông (PierreJoseph Proudhon) sinh năm 1809, mất năm 1865. Ông là một nhà chính luận người Pháp, nhà xã hội học, kinh tế học tầm thường, nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, một trong những cha đẻ của “chủ nghĩa vô chính phủ”. Pru- đông sinh ra ở Besancon, trong một gia đình sản xuất bia rượu.Lúc nhỏ ông làm việc trong quán rượu gia đình, giúp những công việc cơ bản, sống ở nông thôn và ít nhận được sự giáo dục tiên tiến. Ông được dạy đọc bởi người mẹ của mình, biết đánh vần từ năm 3 tuổi và đến năm 10 tuổi ông ông có thể đọc được một số niên giám địa phương.. Năm 1820, ông được nhận vào đại học Besacon, gia đình nghèo nhưng Pru-đông luôn thể hiện một ý chí mạnh mẽ thường xuyên tìm hiểu, đọc sách ở thư viện trường... Năm 1827, Pru-đông bắt đầu học nghề in tại Battant, năm sau ông chuyển sang làm báo ở Besacon-trung tâm quan trọng của tư tưởng tôn giáo thời điểm đó. Pru-đông trong quá trình làm việc của mình đã dành ra rất nhiều thời gian để đọc các tác phẩm văn chương Kitô giáo và cũng trong thời gian đó ông cũng sửa được rất nhiều ấn phẩm báo chí. Từ năm 1829, ông bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xã hội hơn là các lý thuyết tôn giáo. Đến năm 1830, ông thất nghiệp và đi vòng quanh nước Pháp với những công việc không ổn định trong nghề in ấn, làm giáo viên.. Trong thời gian này Fallot-một người bạn của ông đã hỗ trợ tài chính với điều kiện Pru-đông phải đến Pari nghiên cứu triết học. Nhận lời đó, ông đã đến Pari và bắt đầu công việc học thuật của mình, nhưng vì không thích lối sống đô thi, các cuộc tranh luận triết học nên khi dịch tả bùng phát ở Pari ông đã về nhà ở Besacon. Năm 1838 sau một kinh doanh in ấn không thành công, Pru-đông quyết tâm dấn thân hoàn toàn vào học thuật và ông nhận được học bổng của Học viện Besacon để đến Pari nghiên cứu. 13
- Pru-đông có một số tác phẩm lớn như : Sở hữu là gì, Triết học về sự khốn cùng.. Năm 1840, ông cho xuất bản cuốn “Sở hữu là gì?”. Tác phẩm này, ông đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng "Sở hữu, đó là của ăn cắp". Tuy nhiên, trong khi chủ trương xóa bỏ chế độ sỡ hữu tư bản chủ nghĩa, ông lại muốn duy trì nền tư hữu nhỏ, chủ trương chỉ cần cải cách kinh tế, mà phủ nhận đấu tranh chính trị, phủ nhận cách mạng vô sản. Năm 1846, ông viết tác phẩm “Hệ thống những mâu thuẩn kinh tế hay là Triết học của sự khốn cùng”. Tác phẩm này đã bị C.Mác kịch liệt phê phán lập trường chính trị tiểu tư sản, cơ hội chủ nghĩa, chống đấu tranh giai cấp, chống cách mạng vô sản của Pru-đông... Năm 1848, Pru-đông được bầu làm đại biểu trong Hội nghị lập hiến ở Pháp, ông đề xuất ra đề án lập Ngân hàng nhân dân cho vay không lấy lãi. Dự án xã hội chủ nghĩa không tưởng này đã bị thất bại. Pru-đông bị bắt và cầm tù 3 năm từ 1849 đến 1852 vì tội xúc phạm chủ tịch Luis Napoleon Bonaparte. Trong quá trình trong tù, Pru-đông kết hôn và có nhiều hoạt động khác. Sau khi ra tù Pru-đông sống lưu vong ở Bỉ và đến năm 1863 khi tự do hóa đế chế ông trở về Pháp và từ bỏ hoạt động chính trị. Ngoài hai tác phẩm kể trên, ông còn viết một số tác phẩm về kinh tế, xã hội và tôn giáo. Ông mất tại Pari năm 1865. Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản và vô chính phủ của Pru-đông đã có nhiều ảnh hưởng đến phong trào công nhân, do đó C.Mác và F. Ănghen đã đấu tranh để loại trừ tư tưởng này ra khỏi phong trào công nhân. Năm 1846, Pru-đông viết “Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế hay triết học về sự khốn cùng”. Với lời giới thiệu và 8 chương. Giới thiệu: Các giả thuyết về một Thiên Chúa. Chương 1: Trong kinh tế học Chương 2: Phản đối của giá trị trong sử dụng và giá trị trong trao đổi Chương 3: Diễn biến kinh tế - giai đoạn đầu - phòng lao động Chương 4: Thời kỳ thứ 2 - máy móc Chương 5: Giai đoạn thứ 3 - cạnh tranh 14
- Chương 6: Giai đoạn thứ 4 - độc quyền Chương 7: Giai đoạn thứ 5 - cảnh sát hoặc thuế Chương 8: Trong trách nhiệm của con người và của Thiên Chúa, theo luật của mâu thuẫn, hoặc một giải pháp của vấn đề mệnh trời. Trong cuốn sách này, Pru-đông có những quan điểm phản khoa học, tuyên truyền cho chủ nghĩa vô chính phủ và cản trở việc truyền bá tư tưởng cộng sản chủ nghĩa vào phong trào công nhân. Vì vậy, để bóc trần quan điểm phản động của Pru-đông, C.Mác đã viết tác phẩm này. Và cũng thông qua đó để làm sáng tỏ một loạt các vấn đề của phong trào cách mạng vô sản. 1.2 . Kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” C.Mác hoàn thành tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” vào năm 1847, in lần đầu tiên ở Pari và Brúc-xen bằng tiếng Pháp, khi C.Mác còn sống tác phẩm không được tái bản thêm. Năm 1885, tác phẩm lần đầu được xuất bản bằng tiếng Đức, Ph.Ănghen viết lời tựa, hiệu đính và viết thêm nhiều chú thích. Năm 1886, tác phẩm được dịch và in bằng tiếng Nga. Năm 1892 tác phẩm lần thứ 2 được xuất bản bằng tiếng Đức, lần này F.Ănghen có viết một lời tựa đề cập đến việc sửa chữa một chỗ không chính xác trong nguyên bản mà một luật sư người Áo lợi dụng sự nhầm lẫn đó để cho rằng C.Mác vô căn cứ. Sau khi F.Ănghen mất, năm 1896 con gái C.Mác cho in tác phẩm này bằng tiếng Pháp. Trong tác phẩm này C.Mác phê phán quan điểm phản khoa học và phản động trong những quan điểm của Pru-đông và qua đó C.Mác cũng đề cập đến bộ ba cấu thành nên chủ nghĩa Mác, tiếp tục đề xuất những nguyên lý triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị học. Nội dung đó được thể hiện trong kết cấu gồm lời nói đầu và 2 chương lớn. Chương 1- Một phát kiến khoa học, gồm có 3 tiết: I - Sự đối lập giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. II - Giá trị cấu thành hay giá trị tổng hợp. III - Việc ứng dụng quy luật tỷ lệ giữa các giá trị. 15
- Trong chương này, C.Mác tập trung phê phán những sai lầm của Pru- đông về tính không tưởng trong những quan niệm về kinh tế, về những biện pháp mà Pru-đông đưa ra để cải cách kinh tế. Cụ thể là các quan niệm của Pru- đông trong lý luận về giá trị, về giá trị cấu thành, sự ứng dụng của quy luật tỉ lệ... và đặc biệt là các biện pháp cải cách kinh tế được rút ra từ những lý luận đó của Pru-đông. Qua đó ta thấy được sự phản động trong những quan niệm, biện pháp đó của Pru-đông. Thông qua phân tích các phạm trù kinh tế, các quy luật giá trị. C.Mác phê phán Pru-đông đã không thấy những mâu thuẫn biện chứng mà các nhà kinh tế trước đó tìm ra như mâu thuẫn giữa giàu có và cùng khổ, thừa thãi và thiếu thốn là những mặt đối lập vốn có của xã hội tư bản. Thực tế giàu có sinh ra do bóc lột những người bần cùng, thừa thãi sinh ra do thiếu thốn, cho nên không thể xóa bỏ tận gốc sự cùng khổ nếu không xóa bỏ xã hội tư bản. Khi Pru-đông cho rằng chỉ cần xóa bỏ đi phương diện xấu xa của chủ nghĩa tư bản thì lý trí công bằng được thực hiện như để xóa bỏ tự do cạnh tranh thì cần thiết phải bổ sung bằng độc quyền, còn để chống độc quyền thì dùng chính sách thuế khóa. Mà theo C.Mác như vậy là phản biện chứng. Pru-đông còn phủ nhận tính chất hai mặt của mâu thuẫn, xóa nhòa đấu tranh giữa hai mặt đối lập trong chủ nghĩa tư bản, ông ta chỉ thấy sự cùng khổ của giai cấp vô sản mà không thấy tính chất cách mạng của nó, từ chối đấu tranh và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phê phán quan điểm đó, C.Mác cho rằng mâu thuẫn trong các xã hội có giai cấp là không thể điều hòa được, cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu để giải quyết những mâu thuẫn đó. Như vậy, bằng văn phong sắc sảo, lập luận đanh thép, tinh thần đấu tranh trướng những tư tưởng phản khoa học, phản động của Pru-đông, C.Mác đã phân tích làm rõ những sai lầm của Pru-đông trong quan niệm cũng như trong hoạt động về kinh tế. Chương 2- Phép siêu hình của khoa kinh tế chính trị, gồm 5 tiết I - phương pháp. 16
- II - Phân công lao động và máy móc III - Cạnh tranh và độc quyền IV - Quyền sử hữu ruộng đất hay địa tô V – Những cuộc bãi công và những liên minh của công nhân. Trong chương này, thông qua 7 nhận xét quan trọng C.Mác đã đấu tranh quyết liệt với những luận điểm mang tính duy tâm, siêu hình của Pru-đông. Đồng thời với việc phê phán các quan điểm đó, C.Mác còn trình bày những nguyên lý triết học để bổ sung và phát triển những nguyên lý duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Tiếp sau phần phương pháp với 7 nhận xét đó, C.Mác tiến hành phê phán hàng loạt các quan điểm sai lầm của Pru-đông trong vấn đề phân công lao động, độc quyền, phong trào công nhân mà Pru-đông trình bày trong “Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế hay sự khốn cùng của triết học”. Cũng chính từ sự phê phán này, C.Mác trình bày các nguyên lý về phương thức sản xuất, biện chứng của tồn tại xã hội, ý thức xã hội, mối quan hệ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, về vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân... Đáp lại các quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản coi phương thức sản xuất tư bản là vĩnh viễn, C.Mác đã chứng minh xã hội tư bản cũng là hình thức tạm thời trong lịch sử, lịch sử loài người là quá trình hợp quy luật trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng quan hệ sản xuất khác. C.Mác còn vạch ra tính chất đối kháng trong xã hội tư bản và các xã hội có giai cấp, đồng thời chỉ ra lực lượng có vai trò, sứ mệnh lịch sử xóa bỏ sự đối kháng đó. Tóm lại, C.Mác tập trung trình bày rất nhiều những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử khi ông tiến hành phê phán Pru-đông, ông phê phán tính duy tâm, tư biện, siêu hình, không tưởng trong các quan điểm của Pru-đông và cũng thông qua đó trình bày các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của mình. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 480 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 7 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 6 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 6 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 7 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 87 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn