intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Chia sẻ: Bananalachuoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

76
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu nội dung triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều, luận văn khẳng định những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và ý nghĩa hiện thời của nó đối với xã hội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

  1. ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -------------- NGUYỄN THỊ CHINH TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.03.01 Đà Nẵng - Năm 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NGỌC ÁNH Phản biện 1: TS. Trần Hồng Lƣu Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thế Tƣ Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học họp tại Trường Đại Học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng vào ngày 24 tháng 08 năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm thông tin – học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, tư tưởng nhân sinh về yêu thương, nhân nghĩa, về khát vọng tự do vươn tới những điều tốt đẹp ... luôn là sợi chỉ đỏ gắn bó giữa người với người, giúp dân tộc ta kề vai sát cánh bước qua bao thăng trầm của thời đại, lúc chiến tranh cũng như khi hòa bình. Chúng ta từng tự hào khi đọc những câu thơ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo" hay xúc động trước những lời nói dản dị và sâu sắc của Bác Hồ: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta" [22]. Suy cho cùng, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, chính nghĩa, yêu nước ấy đều xuất phát từ tình người mà ra, bởi có biết yêu thương, biết căm giận, biết phải trái, biết đúng sai mới biết cư xử để làm người. Chúng ta có cả kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, truyện kể dân gian nhằm bồi dưỡng tâm hồn và trí tuệ con người. Chúng ta cũng có rất nhiều những tác phẩm văn học ngợi ca sức mạnh, tình yêu, ngợi ca sự công bằng, chân lý, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc. Trong số những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bởi Truyện Kiều là tinh hoa văn hóa dân tộc, là sự kết hợp tuyệt vời giữa ngôn ngữ, thể thơ dân tộc và chứa đựng tâm hồn, tính cách của dân tộc Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng nói: "Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta. Một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta. Một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta" [32, tr.30]. Chưa một tác phẩm nào từ trước tới giờ có thể phổ biến rộng rãi, thấm nhuần trong lòng quần chúng nhân dân hơn Truyện Kiều. Bất kể tầng lớp vua
  4. 2 quan, trí thức hay nông dân lao động đều thuộc Kiều, ngâm Kiều như một món ăn tinh thần không thể thiếu: Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, "lẩy" Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ đời thường. Kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngân nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn" [32, tr.34]. Sở dĩ Truyện Kiều đi vào lòng quốc dân bởi đằng sau cô Kiều là cả một tấm lòng mà Nguyễn Du muốn gửi gắm. Đó là tấm lòng yêu thương con người, trân trọng tài năng, đức hạnh của người phụ nữ, căm ghét xã hội phong kiến bất công trà đạp lên con người, đồng thời nói lên ước mơ về công lý, nhân quả báo ứng và sự giải phóng con người khỏi những áp bức, bất công của chế độ xã hội ấy. Đây cũng là tiếng lòng của quảng đại quần chúng nhân dân trong xã hội phong kiến bao đời nay. Trong Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã khẳng định: Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan
  5. 3 điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. [51]. Chính vì vậy, cần tìm hiểu, phân tích và vận dụng tư tưởng tích cực về nhân sinh quan trong các tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói riêng nhằm bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của mỗi một con người, biết phân biệt phải trái, đúng sai. Từ đó khuyến khích con người làm việc thiện, tránh xa việc ác, tự chịu trách nhiệm với những hành vi cá nhân … góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, lành mạnh hơn, hướng con người đến giá trị chân - thiện - mỹ là việc làm hết sức cần thiết. Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu nội dung triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều, luận văn khẳng định những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và ý nghĩa hiện thời của nó đối với xã hội hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng triết lý nhân sinh của Nguyễn Du. - Trình bày nội dung triết lý nhân sinh trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du - Khẳng định những giá trị, hạn chế và ý nghĩa việc nghiên cứu triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
  6. 4 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều - Phạm vi nghiên cứu: Sử dụng văn bản Truyện Kiều và các văn bản diễn giải Truyện Kiều 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Luận văn sử dụng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử - cụ thể, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phân tích và tổng hợp, văn bản học ... 5. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. 6. Tổng quan nghiên cứu của đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về triết lý nhân sinh, về Nguyễn Du và Truyện Kiều nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu văn học. Trong đó, có một số bài viết, cụ thể như sau: * Một số công trình nghiên cứu về triết lý nhân sinh - Lê Kiến Cầu (2008), người dịch Chu Quý: "Triết lý nhân sinh", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá cụ thể các vấn đề về nhân sinh, ý nghĩa nhân sinh trên các bình diện khác nhau như: Sinh mệnh của con người, cuộc sống của con người, phương hướng của con người. Qua đó người đọc có thể rút ra những suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề của bản thân một cách hiệu quả. - Nguyễn Xuân Huy, Đại đức Thích Minh Nghiêm (2010): "Đạo giáo - Triết lý nhân sinh", Nhà xuất bản Thời đại. Công trình
  7. 5 trình bày sự hình thành, quan niệm của Đạo giáo về triết lý nhân sinh và những vận dụng tư tưởng nhân sinh của Đạo giáo trong đời sống xã hội. - Kim Định (1970): "Tâm tư hay là khoa siêu lý viễn đông", Nhà xuất bản Khai trí. Tác giả nghiên cứu về triết lý và nhân sinh trên nhiều bình diện và đi tới khẳng định "Đời sống triết lý nhân sinh phải là một đời sống có thống nhất mọi hành vi cử chỉ phải quy hướng theo một tiết điệu, một đích điểm. Đích điểm đó trong triết lý nhân sinh chính là Tính Bản Nhiên con người". - Nguyễn Lan Anh (2008): "Nhân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam thời Lý - Trần", Luận văn thạc sỹ Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình đã nghiên cứu chi tiết về tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo, những ảnh hưởng của tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội thời Lý - Trần ở nước ta. * Một số công trình nghiên cứu về cuộc đời Nguyễn Du và những ảnh hưởng của nó đến tư tưởng sáng tác cũng như sự nghiệp văn chương của ông, có các công trình tiêu biểu sau: - Vương Trí Nhàn (2009): "Nguyễn Du thơ và đời", Nhà xuất bản Giáo dục. Trong bài viết này tác giả đi sâu lý giải về tâm hồn, tính cách Nguyễn Du thể hiện qua một số tác phẩm của ông như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh ký, Văn tế thập loại chúng sinh, thơ chữ Hán Nguyễn Du ... Qua đó nhấn mạnh, tấm lòng thương người, tâm hồn giàu tình cảm của ông đã tạo nên tính nhân đạo trong hầu hết các tác phẩm. - Lê Thị Lan (2012): "Quan điểm của Nguyễn Du về cuộc đời và thân phận con người". Tác giả bài viết cho rằng, quan điểm về
  8. 6 cuộc đời và thân phận của con người của Nguyễn Du dựa trên tư tưởng của Nho, Phật, Đạo giáo kết hợp. Trong đó Nguyễn Du dành sự quan tâm đặc biệt tới số phận của người tài và người phụ nữ. - Lê Thước, Trương Chính (2001): "Đôi nét về thân thế và thời đại của Nguyễn Du", Những chân dung Truyện Kiều, Nhà xuất bản Thanh niên. Các tác giải đã liệt kê chi tiết về bối cảnh lịch sử thời đại Nguyễn Du, về gốc gác, gia thế, cũng như tố chất, tài năng thiên bẩm của ông. Cảnh ngộ ấy đã ảnh hưởng đến tâm tính và tư tưởng sáng tác văn chương của Nguyễn Du. - Nguyễn Đình Giang: "Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều theo một phương pháp mới", Tạp chí Đại học Huế (số 3-1959). Công trình đã phân tích và đánh giá tính cách Nguyễn Du dưới góc độ khoa học tâm lý và cho rằng Truyện Kiều thể hiện rất rõ tính cách đa sầu đa cảm của Nguyễn Du. - Felích Pita Rođriget - nhà văn Cuba trong bài diễn văn đọc trong Lễ kỷ niệm Nguyễn Du được tổ chức tại Cuba ngày 11/12/1965 đã bày tỏ sự tôn kính với những giá trị thơ ca của ông. Nhà văn đã khẳng định tính nhân đạo và tinh thần nhân văn sâu sắc trong Truyện Kiều đã tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm và thể hiện rõ tính cách, con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. * Một số công trình, bài viết nghiên cứu về chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân sinh trong các sáng tác của Nguyễn Du, gồm có các công trình tiêu biểu sau: - Cao Huy Đỉnh (2013): "Triết lý đạo phật trong Truyện Kiều", Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. Trong bài viết này, tác giả phân tích tư tưởng Phật giáo được Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều là tư tưởng đã được biến đổi khi du nhập vào Việt Nam. Vì vậy,
  9. 7 triết lý đạo Phật trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận với quảng đại quần chúng nhân dân Việt Nam. - Nguyễn Lộc (2013): "Cảm hứng chủ đạo và nội dung xã hội của Truyện Kiều", Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. Trong bài nghiên cứu, tác giả phân tích cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong Truyện kiều là "một chủ nghĩa nhân đạo cao cả, chừng mực nào đó có tính chiến đấu chống phong kiến, là nền tảng vững chắc cho tác phẩm vĩ đại sau này". - Hồ Ngọc Anh (2014): "Nhân sinh quan Phật giáo trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du - Giá trị và hạn chế", Luận án tiến sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mã số 62228005. Luận án trình bày chi tiết về nhân sinh quan phật giáo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều về cơ sở hình thành, cách thức biểu hiện, giá trị và hạn chế của nhân sinh quan phật giáo của tư tưởng nhân sinh quan ấy. - Trương Tửu (1956): "Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du" (Phê bình văn học), Nhà xuất bản xây dựng, Hà Nội. Cuốn sách gồm ba phần nghiên cứu sâu về Truyện Kiều và Thời đại Nguyễn Du. Theo đó, tác giả nhấn mạnh, toàn bộ ý thức về cuộc đời của Nguyễn Du hình thành song song với quá trình thành bại của phong trào Tây Sơn. Đồng thời khẳng định tinh thần nhân đạo sâu sắc, bất diệt của nhân dân ta được Nguyễn Du phản ánh trong Truyện Kiều. Các công trình trình khoa học trên là tiền đề cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài: "Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du". Luận văn tìm hiểu sâu về triết lý nhân sinh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Qua đó thấy được giá trị, hạn chế và ý nghĩa thời đại của tư tưởng ấy đối với lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam.
  10. 8 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGUYỄN DU 1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX 1.1. 1. Tình hình kinh tế Trong những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng. Các thế lực phong kiến thực hiện tư hữu lớn về ruộng đất. Chiến tranh và sự bất lực của nhà nước đã dẫn đến sự thu hẹp của ruộng đất công làng xã. Bên cạnh đó, chế độ tư hữu tư nhân về ruộng đất ngày càng phát triển. Điều đó dẫn tới đời sống nông dân ngày càng khổ cực. Bên cạnh đó, thiên tai thường xuyên đe dọa, quan lại sách nhiễu nhân dân, đê điều vỡ lở dẫn đến mất mùa đói kém lớn xảy ra liên tục ở nhiều nơi. Thêm vào đó, chế độ thuế khóa, lao dịch là một phần gánh nặng trong đời sống nông dân. Nông dân bị đẩy tới bước đường cùng, đói kém, phải bỏ nhà bỏ xứ đi lưu tán khắp nơi. 1.1.2. Tình hình chính trị - xã hội Về chính trị, với một nền kinh tế trì trệ và bất ổn đã dẫn đến sự hỗn loạn về chính trị. Đất nước phân chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, các cuộc khởi nghĩa xảy ra khắp nơi như cuộc khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương (1740 - 1750), khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1736 - 1769) và rất nhiều các cuộc khởi nghĩa nông dân khác. Tất cả khí thế, sức mạnh của thế kỷ nông dân khởi nghĩa ấy kết tinh vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại năm 1771.
  11. 9 Chính những thay đổi kinh thiên động địa của lịch sử cũng khiến cuộc đời Nguyễn Du cũng chao đảo. Ông gọi quãng thời gian này là “Mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Cuộc sống phiêu bạt, khốn khó trăm bề đã đem lại cho ông vốn sống thực tế phong phú, cùng với tài năng chưa được phát huy, ông bắt đầu suy ngẫm nhiều về xã hội, về thân phận con người, từ đó ảnh hưởng lớn tới triết lý sáng tác văn chương của ông. 1.1.3. Tình hình văn hóa, tƣ tƣởng Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Nho giáo vẫn được nhà nước phong kiến bảo vệ, duy trì để làm nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế của chính quyền và làm kỷ cương của xã hội. Tuy vậy, Nho giáo thời kỳ này đã bước vào thời kỳ suy đốn dần, cùng với sự dương quan của Phật giáo và sự phát triển của Đạo giáo tạo nên tinh thần "tam giáo đồng nguyên". 1.2. NHÂN TỐ CHỦ QUAN NGUYỄN DU 1.2.1. Nguyễn Du - Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Ông sinh ngày 3 tháng giêng năm 1766 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình đại quý tộc và có truyền thống khoa cử lâu đời. Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), làm quan đến chức Tể tướng đương triều. Dòng họ Nguyễn của Nguyễn Du không chỉ thành đạt về đường quan lộ mà còn rất có truyền thống về văn học. Cha ông còn là một sử gia, một nhà thơ. Anh cả Nguyễn Du là Nguyễn Khản cũng rất giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với chúa Trịnh Sâm. Một người anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề, cháu ông là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ảnh hưởng của huyết thống và môi trường như thế nên năng
  12. 10 khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và phát triển từ rất sớm. Nguyễn Du đã có một tuổi thơ êm ấm trong cảnh vàng son nhung lụa của gia đình. Thế nhưng cuộc sống ấy kéo dài không được bao lâu. Những biến cố dữ dội của thời đại và của gia đình đã nhanh chóng đẩy Nguyễn Du ra giữa cuộc đời đầy bão táp. Nguyễn Du lên mười tuổi thì thân phụ là Nguyễn Nghiễm mất. Ba năm sau ông lại mồ côi mẹ. Nguyễn Du phải đến ở với người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, bấy giờ đang làm Tả thị lang Bộ Hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây. Nhưng chỉ vài năm sau, địa vị của Nguyễn Khản cũng lao đao. Trong thời gian đầy biến động này, Nguyễn Du còn ít tuổi vẫn tiếp tục đi học. Năm 1783, Nguyễn Du đi thi Hương ở Sơn Nam và đậu tam trường. Sau đó, có lẽ do hoàn cảnh gia đình và biến động xã hội nên ông bỏ luôn không đi thi nữa. Trước đó có một người họ Hà, làm quan dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ chức Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu ở Thái Nguyên, vì không có con trai nên nhận Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi người họ Hà mất, ông được kế chân giữ chức ấy. Năm 1789, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, Nguyễn Du và hai người anh em cùng mẹ là Nguyễn Đề, Nguyễn Ức theo vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc nhưng không kịp. Nguyễn Du trở về quê vợ ở xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, bấy giờ đang làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà thơ sống ở đây được mấy năm thì về quê nhà ở Hà Tĩnh. Năm 1796, Nguyễn Du lên đường vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An, nhà thơ đã bị viên Trấn tướng của Tây Sơn là Quận công Nguyễn Thận bắt giữ. Nguyễn Du
  13. 11 bị giam ba tháng. Sau vì Nguyễn Thận là bạn của Nguyễn Đề, lại mến phục tài năng của nhà thơ nên tha cho ông. Từ đấy, Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền suốt mười năm sau đó. Mười năm gió bụi và những năm tháng tại quê nhà dưới chân núi Hồng Lĩnh là thời gian nhà thơ có dịp gần gũi, hiểu biết, cảm thông và đồng điệu với đời sống của quần chúng nhân dân lao động; nhà thơ có cơ hội tiếp cận những giá trị văn hóa dân gian, nơi khơi nguồn cho những giá trị tinh thần vô giá của dân tộc. Có thể nói, thiên tài lỗi lạc Nguyễn Du; những vần thơ lung linh châu ngọc, bất diệt với thời gian của nhà thơ xứ Tiên Điền đã được ấp ủ, nảy nở trong những năm tháng buồn vui tâm sự của nhà thơ tại quê nhà này. Tháng 8 năm 1802, bấy giờ Gia Long đã lật đổ được Nguyễn Quang Toản (triều Tây Sơn) và lên làm vua, Nguyễn Du được bổ làm tri huyện Phù Dung (nay là tỉnh Hưng Yên). Tháng 11 năm ấy, thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Năm sau, ông được cử lên Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh (Trung Quốc). Năm 1805, Nguyễn Du được thăng Đông các điện học sĩ, tước Du Đức hầu. Năm 1807, được cử làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình, đây là chức vụ nhà thơ giữ lâu nhất trong thời gian làm quan dưới triều Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ phái bộ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815 ông được thăng Tham tri Bộ Lễ. Năm 1920 Minh Mệnh lên ngôi vua, định cử ông làm chánh sứ sang Trung Quốc lần nữa đề cầu phong nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm canh thìn tức 16 tháng 9 năm 1820 ông mất đột ngột trong một nạn đại dịch.
  14. 12 1.2.2. Hệ thống trƣớc tác và tƣ tƣởng Ở chặng đường tiếp nối hai thế kỷ, thơ Nguyễn Du là đỉnh cao của tiếng nói nhân văn, đồng hành với những thăng trầm lịch sử và đời sống tinh thần dân tộc. Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Du trải dài suốt cuộc đời, có cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, có cả Ðường thi và lục bát dân tộc, cả thơ đoản thiên và trường thiên. Nghiệm sinh 55 năm trên cõi đời, Nguyễn Du đã để lại cả một di sản thi ca đồ sộ với ba tập thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục) tổng cộng 250 bài; với những bài ca đối đáp đậm chất dân dã một thời tuổi trẻ tinh nghịch (Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu); rồi với Văn tế thập loại chúng sinh sâu thẳm tình người và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều nổi tiếng. 1.3. NHỮNG TIỀN ĐỀ VỀ MẶT LÝ LUẬN 1.3.1. Khái quát về triết lý và triết lý nhân sinh Khái quát chung, "triết lý" là những quan niệm, cái lý lẽ của con người về một vấn đề nhân sinh hay xã hội. Triết lý có tính triết học nhưng chưa phải là hệ thống lý luận triết học. "Nhân sinh" là: "cuộc sống của con người". Ví dụ: Vấn đề có ý nghĩa nhân sinh, nghệ thuật vị nhân sinh. Hay, "nhân sinh" là "đời người". Ví dụ: Triết học nhằm mục tiêu tìm hiểu vấn đề về nhân sinh. Như vậy, "triết lý nhân sinh" có thể hiểu là: những quan niệm, quan điểm trong về cuộc đời con người như sinh mệnh, cuộc sống, phương hướng phát triển. 1.3.2. Triết lý nhân sinh trong văn hóa phƣơng Đông Trong văn hóa phương Đông, tư tưởng triết lý nhân sinh đến từ ba tôn giáo lớn là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
  15. 13 1.3.3. Triết lý nhân sinh trong lịch sử dân tộc Nhân dân ta vốn có truyền thống nhân nghĩa từ bao đời nay. Điều đó thể hiện trong các tư tưởng về văn hóa, đạo đức, lối sống của quần chúng nhân dân. Biểu hiện rõ nhất về tư tưởng nhân sinh của dân tộc ta là ở kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ. Chúng là kết tinh những nét tài hoa, trí tuệ, óc sáng tạo và tinh thần của dân tộc, là nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam. Qua câu ca dao, dân ca, tục ngữ, nhân dân ta đúc kết lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm sống quý báu, những lời răn dạy về cách sống, về nhân sinh, nhân đức ở đời. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Nguyễn Du sinh ra trong thời kỳ đầy biến động của lịch sử với sự tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, sự xâm lược của nhà Thanh (Trung Quốc). Những bất ổn về chính trị kéo theo sự trì trệ về kinh tế, mất mùa, thiên tai diễn ra liên miên. Người dân không chỉ bị mất ruộng đất sản xuất còn chịu cảnh sưu cao thuế nặng, sự bóc lột tàn tệ của vua quan, quý tộc, địa chủ cường hào. Đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ dẫn tới hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn làm thay đổi lịch sử. Triều Lê - Trịnh bị sụp đổ, nhà Tây Sơn lên nắm quyền nhưng rồi lại bị nhà Nguyễn thay thế. Nguyễn Du đã sống qua ba triều đại. Cuộc đời ông là một cuỗi những biến cố và thăng trầm. Sinh ra trong nhung lụa vàng son, trong một gia đình "danh gia vọng tộc" bậc nhất thời bấy giờ, nhưng khi lịch sử thay đổi, ông trở nên bơ vơ, tha hương, nay đây mai đó, sống trong cảnh nghèo khổ, thiếu thốn suốt 15 năm trời. Nhưng đây cũng là giai đoạn Nguyễn Du được sống trong lòng quần chúng nhân dân, được chứng kiến bao nỗi đau
  16. 14 khổ, cùng cực của nhân dân lao động. Bởi vậy ông thấu hiểu, cảm thông, xót xa với những nỗi đau ấy. Đó cũng là đề tài, là chất liệu ông phản ánh trong các sáng tác của mình. Nguyễn Du hướng đối tượng sáng tác của mình đến con người lớp đáy của xã hội: người hát rong, người đánh đàn, người ăn xin, người kỹ nữ ... hay những con người tài hoa - bạc mệnh, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua việc phản ánh, miêu tả cuộc đời, tình cảnh, tâm tư của những đối tượng này, Nguyễn Du muốn tố cáo xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, chà đạp lên quyền sống và quyền hạnh phúc của con người, ca ngợi phẩm chất, tài năng của những con người tài hoa. Đồng thời cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của ông dành cho quần chúng nhân dân. Tư tưởng ấy kết hợp với tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện đã khiến cho các tác phẩm của Nguyễn Du, đặc biệt là Truyện Kiều đã đi sâu vào lòng quần chúng nhân dân, trở thành một phần tất yếu trong văn hóa Việt Nam, kể cả là văn chương bình dân hay văn chương bác học.
  17. 15 CHƢƠNG 2 NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGUYỄN DU TRONG "TRUYỆN KIỀU" 2.1. KHÁI QUÁT "TRUYỆN KIỀU" VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG "TRUYỆN KIỀU" 2.1.1. Khái quát "Truyện Kiều" “Truyện Kiều” được Nguyễn Du phóng tác từ tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh - Trung Quốc. Câu chuyện kể về cuộc đời tài hoa bạc mệnh, truân chuyên, lưu lạc của người con gái họ Vương tên Thúy Kiều. Nàng là một cô gái tài sắc vẹn toàn. Không chỉ đẹp người, Thúy Kiều còn rất đa tài: cầm, kỳ, thi, họa; đặc biệt là chơi đàn rất hay. Nàng còn là một cô gái có tâm hồn rất đa cảm và đó là dấu hiệu cho cuộc đời đoạn trường, trắc trở của nàng sau này. Khi cha và em trai bị vu oan cho tội giết người, nàng đã phải bán mình lấy tiền chuộc cha và em. Từ đây cuộc đời nàng phải chịu cảnh chìm nổi, làm gái lầu xanh, làm con hầu. Nhưng dù ở hoàn cảnh nào nàng cũng vươn lên số phận, hướng tới điều tốt đẹp. Sau mười lăm năm lưu lạc chìm nổi, nàng đã được đoàn tụ bên gia đình. 2.1.2. Thế giới nhân vật trong "Truyện Kiều" Truyện Kiều xây dựng hai tuyến nhân vật chính: Nhân vật phản diện gồm: Tú Bà, mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, tên quan xử án oan nhà Kiều. Đây là những nhân vật trực tiếp đẩy Kiều vào vòng ô nhục, làm gái lầu xanh, làm con hầu, đày đọa nàng hết lần này đến lần khác.
  18. 16 Nhân vật chính diện, gồm: Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải... là những nhân vật đại diện cho vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, tấm lòng, ước mơ của quần chúng nhân dân. 2.2. BIỂU HIỆN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG "TRUYỆN KIỀU" CỦA NGUYỄN DU Truyện Kiều là kết tinh tâm trạng, suy tư của Nguyễn Du về cuộc đời, về thế sự, về con người, xã hội; là kết quả của những thăng trầm lưu lạc của chính nhà thơ. Tư tưởng triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, là quan niệm về thuyết "định mệnh" của Nguyễn Du trong "Truyện Kiều" Thứ hai, là quan niệm về thuyết "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc mệnh" của Nguyễn Du trong "Truyện Kiều" Thứ ba, chủ nghĩa nhân đạo - tư tưởng nhân sinh chủ yếu của Nguyễn Du trong "Truyện Kiều"
  19. 17 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ trong kho tàng văn hóa Việt Nam, là sách gối đầu giường cho biết bao thế hệ. Sở dĩ Truyện Kiều có sức sống trường tồn như vậy phần lớn bởi triết lý nhân sinh mà Nguyễn Du đã gửi gắm trong đó. Xuất phát từ tình cảm dành cho con người, đặc biệt là những người phụ nữ, người tài trong xã hội cũ, Nguyễn Du đã khái quát tư tưởng triết lý nhân sinh của mình qua ba nội dung chính: Thứ nhất, là tư tưởng định mệnh. Đây là tư tưởng duy tâm cho rằng cuộc sống con người do số phận, mệnh trời quyết định, con người khó chống được mệnh trời. Các nhân vật như Thúy Kiều, Đạm Tiên tiêu biểu cho thuyết định mệnh ấy. Họ được tiền định cho những nạn kiếp phải trải qua, và khi trải qua hết kiếp nạn mới được xóa tên trong “sổ đoạn trường”. Tuy nhiên, Nguyễn Du cũng cho rằng, con người với ý chí vươn lên, tu tâm tích đức của mình thì có thể cải biến được số mệnh. Nàng Kiều với tấm lòng và với ý chí vươn lên của mình đã vượt qua mọi “gió dập sóng dồi”. Tư tưởng định mệnh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều bắt nguồn từ Nho giáo, Phật giáo và từ chính nhận thức của Nguyễn Du về cuộc đời mà mình đã trải qua. Thứ hai, là tư tưởng “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh”. Nguyễn Du cho rằng, giữa “tài” và “mệnh” luôn là mối quan hệ đối nghịch với nhau, người càng có tài thì số mệnh càng trắc trở, cuộc đời gặp nhiều gian truân. Cũng như người con gái càng tài càng sắc thì số phận cũng gặp nhiều đắng cay, vất vả. Thúy Kiều, Từ Hải, Đạm Tiên trong Truyện Kiều tiêu biểu cho những con người như thế.Tư tưởng này mang tính duy tâm siêu hình được Nguyễn Du đúc
  20. 18 kết từ chính cuộc đời mình và những nhận thức về thân phận con người trong xã hội cũ. Thứ ba là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ lòng thương yêu, trân trọng phẩm giá con người đến đồng cảm, xót thương cho những nỗi đau khổ, bất hạnh mà con người đã trải qua, tố cáo xã hội bất công chà đạp lên quyền sống của con người, cuối cùng là ngợi ca ý thức vươn lên, vượt lên số phận của con người để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm được Nguyễn Du truyền tải tư tưởng nhân đạo cao cả ấy. Chính tư tưởng này đã khiến Truyện Kiều có sức sống trường tồn, chạm vào trái tim người đọc qua biêt bao thế hệ. Có thể thấy, triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện tinh thần cộng hưởng giữa Nho giáo, Phật giáo và cả tư tưởng triết lý nhân sinh của dân tộc ta. Nó khiến một tác phẩm truyện thơ chuyển thể từ một tiểu thuyết nước ngoài trở nên thân quen, gần gũi với tâm hồn, tính cách, lối suy nghĩ của quần chúng nhân dân ta. Cộng với thể thơ lục bát dân tộc và chữ nôm dung để sang tác, Truyệ Kiều của Nguyễn Du xứng đáng trở thành “quốc hồn, quốc túy” của văn hóa dân tộc ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2