intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan niệm của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn: Làm rõ hơn quan niệm của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành, từ đó chỉ ra ý nghĩa của nó đối với nhận thức khoa học. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan niệm của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI VĂN THƢƠNG QUAN NIỆM CỦA I. KAN VỀ LÝ TÍNH TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI VĂN THƢƠNG QUAN NIỆM CỦA I. KAN VỀ LÝ TÍNH TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số: 60 22 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Chung Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Văn Chung. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Hà nội, ngày tháng 05 năm 2015 Tác giả luận văn Mai Văn Thƣơng
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo TS. Phạm Văn Chung về những ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn tận tình của thầy trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn này. Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy giáo, Cô giáo trong khoa Triết học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhận văn đã cung cấp cho tôi những tri thức quý báu trong suốt quá trình học tập cũng như đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình bạn bè, những người đã luôn bên tôi động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Tác giả luận văn Mai Văn Thƣơng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC I. KANT VÀ TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH ............................... 9 1.1. Những tiền đề lịch sử của triết học I. Kant............................................ 9 1.2. I. Kant - Con ngƣời và tác phẩm .......................................................... 14 1.3. Nội dung chính của tác phẩm Phê phán lý tính thực hành ................. 22 CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CHÍNH CỦA QUAN NIỆM CỦA I. KANT VỀ LÝ TÍNH TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH .. 28 2.1. Quan niệm của I. Kant về lý tính và về lý tính thực hành nói chung ....... 28 2.1.1. Cách đặt vấn đề của I. Kant trong nghiên cứu lý tính và thực chất của sự phê phán lý tính thuần túy .......................................................................... 28 2.1.2. Quan niệm của I. Kant về lý tính thực hành nói chung ........................ 33 2.2. Sự khám phá quan năng của lý tính thực hành trong Phê phán lý tính thực hành ........................................................................................................ 41 2.2.1. Tự do, ý chí và tự do ý chí như là những yếu tố cơ bản cấu thành quan năng lý tính thực hành..................................................................................... 41 2.2.2. Đạo đức như là yếu tố quan trọng tất nhiên cấu thành quan năng của lý tính thực hành.................................................................................................. 47 2.3. Ý nghĩa của quan niệm của I. Kant về lý tính đối với nhận thức khoa học ................................................................................................................... 60 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong tiến trình của lịch sử triết học thế giới, triết học cổ điển Đức đóng vai trò quan trọng không chỉ bởi nó là một trong những tiền đề tạo nên triết học Mác mà bản thân những di sản của các triết gia từ Kant đến Hêghen còn có những giá trị to lớn đối với thời đại của các ông và đối với thời đại ngày nay. Trong những di sản ấy triết học của I. Kant chiếm vị trí rất quan trọng. Kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, là nhà tư tưởng vĩ đại mà đến ngày nay những tác phẩm của ông vẫn còn được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Cũng giống như những nhà triết học cổ điển Đức khác Kant đặc biệt đề cao vai trò của lý tính trong quá trình nhận thức của con người. Với tư tưởng phê phán tất cả các quan niệm trước đó về lý tính Kant đã đi sâu vào việc giải thích cụ thể kết cấu của lý tính, các phạm trù của lý tính, cơ chế tác động giữa các phạm trù của lý tính… Đặc biệt hơn Kant đã nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức đối với lý tính cũng như sự quy định của lý tính lên đạo đức. Vai trò to lớn mà triết học của Kant đem lại cho sự phát triển của triết học ở chỗ là đã mở ra một giai đoạn mới trong quá trình nhận thức của nhân loại. Kant đã thực hiện một cuộc đảo lộn Côpécních khi đưa nhận thức của triết học trở về với chính bản thân con người. Bên cạnh đó, không ai có thể phủ nhận công lao to lớn của Kant trong nỗ lực xây dựng một phương pháp luận mới cho nghiên cứu khoa học. Kant cố gắng đưa ra một hệ thống khái niệm, phạm trù nhằm bao quát được những quy luật của tự nhiên nhưng ông đã gặp phải những nghịch lý không thể giải quyết, tuy vậy, nếu không có những cố gắng ban đầu ấy thì cũng sẽ không có những phạm trù, khái niệm cơ bản trong phép biện chứng của triết học Mác sau này. Trong thời đại bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật, của thời đại hội nhập trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, những lối sống, phương thức tư duy của con người dường như bị chi phối bởi, hoặc là nền chính trị, hoặc là tư 1
  7. tưởng của đa số chứ không phải của cá nhân. Nói cách khác, đó là sự mất tự do của con người, của lý tính con người hay tự do, lý tính đang bị xem nhẹ, có khi cá nhân con người không có chính kiến của riêng mình, những hành động của họ cũng chỉ giới hạn như là từ những sự tác động bề ngoài chứ không phải do những quy tắc bên trong họ quy định. Điều này dẫn đến tình trạng tâm lý đám đông hay như thuật ngữ của triết học phương Tây hiện đại là “con người đại chúng” ngày càng tăng lên. Những giá trị, những chuẩn mực đạo đức của con người cũng bị chi phối theo xu hướng đó, theo đó chân lý phụ thuộc vào đám đông chứ không hề phụ thuộc vào bản thân của sự vật hiện tượng. Từ đây nảy sinh nhiều vấn đề lớn như thực chất hành động đạo đức của con người là do đâu? Có tự do trong ý chí hành động của con người hay không? Nếu có thì nó xuất phát từ đâu? Tự do đó bị quy định bởi cái gì, hoặc, tự do hoàn toàn không bị quy định bởi điều gì cả? Hoạt động khoa học của các nhà nghiên cứu cần dựa vào đâu để có tính đạo đức?.... Tìm hiểu quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành sẽ cho chúng ta những gợi mở quan trọng để trả lời cho những vấn đề trên. Ngày nay với sự phát triển bùng nổ của tri thức khoa học, con người đang đứng trước những nghịch lý, mâu thuẫn không dễ giải quyết. Dường như cùng với sự gia tăng kiến thức, tri thức, những phương tiện công nghệ mới con người càng xuống cấp về đạo đức, tỏ ra mất phương hướng trong nhiều vấn đề đời sống như sinh thái môi trường, khoảng cách quá lớn giữa giàu và nghèo, sự phát sinh những bệnh tật hiểm nghèo, chiến tranh, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguy cơ dùng chính những thành tựu của khoa học, công nghệ chống lại loài người… Trong bối cảnh ấy lương tâm của nhà khoa học đang bị thách thức nghiêm trọng. Vì thế, nhận thức khoa học nói chung, tư duy, lý tính nói riêng cần phải được xem xét đến những động lực, cội nguồn, trong đó có cả cội nguồn đạo đức của nó. 2
  8. Ở Việt Nam trước đây việc nghiên cứu tư tưởng của Kant thông qua các tác phẩm của ông chủ yếu là dựa trên những kết quả nghiên cứu khác nhau. Điều đó dẫn đến nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu nội dung tư tưởng triết học của Kant. Tuy nhiên, ngày nay đã có nhiều công trình dịch thuật của các dịch giả uy tín trong nước về các tác phẩm của Kant khiến cho việc nghiên cứu Kant trở nên thuận lợi hơn. Những tác phẩm của Kant được dịch trực tiếp từ tiếng Đức sang tiếng Việt cho phép việc tìm hiểu tư tưởng triết học của Kant được chính xác hơn. Từ những lý do nhận thức và thực tiễn trên tôi chọn đề tài “Quan niệm của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành” để làm luận văn thạc sĩ triết học. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Kant về đạo đức, lý tính và mối quan hệ giữa đạo đức học và lý luận nhận thức, trong đó phải kể đến công trình “Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”. Đây là tác phẩm của nhiều tác giả đã được in thành “Kỷ yếu hội thảo quốc tế” kỷ niệm 200 năm ngày mất của Kant. Có rất nhiều bài viết liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Về nhận thức luận có các công trình “Nhận thức luận và đạo đức học trong triết học cổ điển Đức” của Trịnh Tri Thức; “Phương thức tư duy chủ thể tính của I. Cantơ về những gợi mở của nó đối với đương đại” của Âu Dương Khang; “Thực chất “cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận thức của I. Cantơ và tư tưởng của ông về một nền triết học khoa học” của Phạm Văn Chung; “Tư tưởng của I. Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong nhân học” của Nguyễn Vũ Hảo; “Immanuen Kant và nhận thức luận hiện đại” của Đỗ Văn Khang; “Lý luận nhận thức của I. Cantơ thời kỳ “phê phán” - giá trị và hạn chế” của Trần Văn Phòng; “Nhận thức luận của Cantơ - Nhìn từ triết lý Đông phương” của Lê Công Sự; “Quan niệm của Cantơ về bản chất và giới hạn của 3
  9. nhận thức” của Dương Văn Thịnh; “Quan niệm của Cantơ về bản chất của nhận thức và ý nghĩa của nó” của Vũ Văn Viên. Về đạo đức học có các công trình như “Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện thời của nó” của Nguyễn Trọng Chuẩn; “Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng của nó đối với nền triết học phương Tây” của Ngô Thị Mỹ Dung; “Tìm hiểu một số quan niệm đạo đức của I. Cantơ (Qua so sánh với quan niệm đạo đức của Mạnh Tử)” của Đỗ Thị Hòa Hới; “Quan hệ giữa cá thể và cộng đồng trong học thuyết đạo đức học của Cantơ” của Trịnh Duy Huy; “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim Lai; “Quan niệm của I. Cantơ về mối quan hệ giữa ý chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức” của Nguyễn Thế Nghĩa; “Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời sống xã hội khác trong quan niệm đạo đức học của Cantơ” của Nguyễn Văn Sanh; “Một số khía cạnh đạo đức trong triết học Cantơ” của Lê Thị Thủy; “I. Cantơ và phạm trù nghĩa vụ đạo đức” của Võ Minh Tuấn. Liên quan đến các chủ đề trên còn có công trình luận văn thạc sĩ triết học đã công bố của Vũ Thị Thu Lan về “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của I. Kant”, công trình luận văn tiến sĩ triết học của Vũ Thị Hải về “Một số quan điểm đạo đức cơ bản của Arixtốt và I. Kant”. Trong các công trình nghiên cứu trên đáng chú ý là công trình của Nguyễn Kim Lai về “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ”; công trình của Nguyễn Vũ Hảo về “Tư tưởng của I. Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong nhân học”; công trình của Nguyễn Thế Nghĩa về “Quan niệm của I. Cantơ về mối quan hệ giữa ý chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức”; công trình của Trịnh Tri Thức về “Nhận thức luận và đạo đức học trong triết học cổ điển đức”. Trong luận văn có phần giới thiệu về tiền đề lịch sử ra đời triết học Kant cũng như tiểu sử của ông. Về điểm này luận văn chủ yếu khai thác các tài liệu như “101 triết gia” của Mai Sơn xuất bản năm 2007 do NXB Tri thức 4
  10. và công ty văn hóa Phương Nam liên kết ấn hành; “Câu chuyện triết học” của Will Durant do Trí Hải và Bửu Đích dịch được NXB Văn hóa thông tin ấn hành năm 2008; Phần cuối trong tập 2 của “Phê phán lý tính thuần túy” của Immanuen Kant do Bùi Văn Năm Sơn dịch và chú giải xuất bản năm 2014; “Lịch sử triết học” do Nguyễn Hữu Vui chủ biên xuất bản năm 2008. Nói chung ở đây chúng tôi không có những hiểu biết mới, riêng về cuộc đời, sự nghiệp của Kant cũng như tiền đề cho sự ra đời tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. Điều này là hiển nhiên, vì những dữ kiện về Kant nói chung là cố định và chắc chắn. Các công nói trình trên có ưu điểm là đã phân tích và chỉ ra được như thế nào là lý tính, đạo đức và những đặc điểm của chúng trong quan niệm của Kant. Một số công trình đã đi sâu vào tìm hiểu cấu trúc và các khái niệm đặc thù của lý tính trong triết học của Kant như “Thực chất “cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận thức của I. Cantơ và tư tưởng của ông về một nền triết học khoa học” của Phạm Văn Chung. Một số công trình đã phần nào chỉ ra được mối liên hệ giữa lý tính và đạo đức trong triết học Kant như “Nhận thức luận và đạo đức học trong triết học cổ điển Đức” của Trịnh Tri Thức; “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim Lai; “Tư tưởng của I. Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong nhân học” của Nguyễn Vũ Hảo; “Quan niệm của I. Cantơ về mối quan hệ giữa ý chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức” của Nguyễn Thế Nghĩa. Tuy nhiên, các công trình đều chỉ chú ý khảo sát quan niệm của Kant thông qua nhiều tác phẩm của ông nên chủ yếu mang tính khái quát chung chứ chưa có tính chuyên sâu về một tác phẩm. Các công trình nghiên cứu cũng chưa thể hiện được mối quan hệ sâu sắc giữa lý tính và đạo đức, nhất là vấn đề trong mối quan hệ giữa lý tính và đạo đức, đạo đức có vai trò gì đối với lý tính và ngược lại, cơ chế tác động của lý tính và đạo đức như thế nào, nhìn chung chưa được giải đáp sâu sắc. 5
  11. Các công trình nghiên cứu có đề cập đến tác phẩm Phê phán lý tính thực hành như “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của I. Kant” của Vũ Thị Thu Lan, “Một số quan điểm đạo đức cơ bản của Arixtốt và I. Kant” của Vũ Thị Hải… thường chỉ chú trọng đến khía cạnh đạo đức học mà quên rằng tác phẩm này là một trong bộ ba tác phẩm phê phán rất quan trọng của Kant về lý tính. Đồng thời, một vấn đề không kém phần quan trọng cần phải nói đến ở đây là người ta có xu hướng nghiên cứu tác phẩm Phê phán lý tính thực hành bằng cách đồng nhất nó, xem nó như một tác phẩm đạo đức học của Kant. Ngay cả tên tác phẩm sau khi dịch và xuất bản đã được chú thích thêm ở dưới là “Đạo đức học”. Điều đó dẫn đến tình trạng nghiên cứu tác phẩm này thiên về đạo đức học như đã nói. Nhưng trên thực tế, đây là một trong bộ ba tác phẩm quan trọng được Kant bàn sâu sắc về lý tính đặc biệt là “khám phá quan năng lý tính”. Đối với Kant nghiên cứu lý tính chỉ có thể hiểu đúng, hiểu sâu về lý tính khi đi sâu khám phá các quan năng của nó. Do đó, với tinh thần trung thực trong nghiên cứu khoa học chúng tôi thừa nhận rằng luận văn này có ý tưởng từ bài viết “Thực chất “cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận thức của I. Cantơ và tư tưởng của ông về một nền triết học khoa học” của tác giả Phạm Văn Chung. Trước hết bài viết đã cho thấy tiền đề nảy sinh triết học Kant là do Kant đã xem xét lại nền siêu hình học cũ với tinh thần phê phán. Chính từ đó ông nhận thấy thực chất cái siêu việt của lý tính chính là năng lực tổng hợp chứ không phải khả năng phân tích. Bài viết cho thấy việc khám phá ra năng lực tổng hợp của lý tính thuần túy đã đồng thời đưa Kant tới chỗ khẳng định tổng hợp là năng lực của bản thân lý tính thuần túy. Do đó, phê phán bản thân lý tính với đầy đủ các quan năng của nó trở thành đối tượng của siêu hình học và từ đây nảy sinh ra vấn đề cấp bách là phải xây dựng triết học như là một khoa học. Chính nhờ những gợi mở quan trọng từ bài viết trên đây mà những ý tưởng chính của luận văn đã được xây dựng. Vì vậy, thiết 6
  12. nghĩ rằng việc nghiên cứu Phê phán lý tính thực hành về phương diện đạo đức học vốn là điều rất hiển nhiên, nhưng nghiên cứu quan niệm của Kant về lý tính bao hàm trong đó những vấn đề đạo đức học cũng là điều cần phải làm. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Làm rõ hơn quan niệm của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành, từ đó chỉ ra ý nghĩa của nó đối với nhận thức khoa học. Nhiệm vụ của luận văn: Thứ nhất, tìm hiểu những nét cơ bản về hoàn cảnh lịch sử cuộc đời và sự nghiệp của Kant cũng như về tác phẩm Phê phán lý tính thực hành; thứ hai, chỉ ra nội dung cơ bản trong quan niệm của Kant về lý tính trong Phê phán lý tính thực hành và ý nghĩa của nó đối với nhận thức khoa học. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp logich - lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp, đồng thời kết hợp với các phương pháp, quan điểm, nguyên tắc như lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng của luận văn: Quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành I. Kant đề cập đến rất nhiều vấn đề như đạo đức, tôn giáo, khoa học, triết học… luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của I. Kant về lý tính, cụ thể là việc Kant đào sâu vào quan năng lý tính thực hành. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp thêm một cái nhìn, một cách hiểu về nội dung quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. 7
  13. 7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn góp phần làm sáng rõ hơn quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành của ông, do đó góp phần làm phong phú hơn những hiểu biết về tư tưởng của Kant Quan trọng hơn cả là ý nghĩa của luận văn đối với công tác nghiên cứu khoa học hiện nay. Các nhà khoa học cần đề cao vai trò của đạo đức, tự do trong những hoạt động sáng tạo khoa học của mình. Một công trình khoa học xuất sắc không chỉ thể hiện tính sâu sắc của lý tính mà phải thể hiện ra như là sự kết tinh những quy tắc đạo đức nhất định và ý chí tự do. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên, các học viên có hướng nghiên cứu liên quan. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung chính (gồm có hai chương, mỗi chương 3 tiết), phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 8
  14. CHƢƠNG 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC I. KANT VÀ TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH 1.1. Những tiền đề lịch sử của triết học I. Kant Triết học cũng như bất kỳ các khoa học cụ thể khác đều phải xuất phát từ mảnh đất hiện thực, lấy hiện thực của cuộc sống con người và xã hội làm cơ sở cho sự nghiên cứu của mình. Một giá trị khoa học đích thực phải lấy con người làm trung tâm, phải phục vụ cho con người. Trong lịch sử phát triển của triết học những học thuyết triết học nào biết hóa thân vào thực tiễn xã hội, biến nhận thức thành hành động làm thay đổi tư duy con người thường là những học thuyết tích cực và ưu việt. Như vậy, triết học sản sinh ra từ hiện thực xã hội nên muốn hiểu về tư tưởng của một triết gia hay một trường phái triết học thì nhất thiết phải tìm hiểu hiện thực xã hội mà từ đó học thuyết triết học ấy xuất hiện. Đây thậm chí còn là điểm quan trọng bậc nhất khi bắt tay vào nghiên cứu tư tưởng của một triết gia cụ thể, và việc tìm hiểu những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời triết học Kant cũng không phải là ngoại lệ. I. Kant sinh năm 1724, mất năm 1804 trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản sau khi xuất hiện đã được thiết lập một cách chắc chắn ở những nước Tây Âu. Nước Đức với sự chìm đắm quá lâu ở chế độ phong kiến với tính chất tự cấp tự túc đã không thể đáp ứng nổi với những nhu cầu ngày càng gia tăng của con người. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản thật sự đã phá vỡ những kìm kẹp bấy lâu của những con người cá nhân. Sự sáng tạo, phát triển vượt bậc trong lưu thông hàng hóa cộng với sức sản xuất lần đầu tiên có sự giúp đỡ của máy móc đã đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người. Toàn bộ số lượng sản phẩm mà con người làm ra từ trước tới nay cũng chỉ bằng sức sản xuất trong giai đoạn này. Chế độ tư bản 9
  15. chủ nghĩa đã có màn ra mắt không thể ấn tượng hơn với xã hội loài người, nó chứng minh và khẳng định rằng nó là chế độ ưu việt hơn hẳn so với toàn bộ các chế độ xã hội trước đó mà con người từng trải qua (ít nhất là trên phương diện kinh tế). Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh và cách mạng tư sản Pháp cùng với những thành tựu văn hóa kinh tế ở thời kỳ này đã chứng minh cho khả năng và sức mạnh của con người là vô cùng to lớn. Con người cá nhân ra đời và một thời đại mới cũng ra đời, thời đại của nền văn minh công nghiệp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Trong khi chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện và được thiết lập ở các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý… và làm thay đổi hầu như toàn bộ đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của các nước này thì nước Đức đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia lạc hậu về kinh tế. Tới thời điểm này, nước Đức vẫn là một quốc gia phong kiến. Chính quyền của vua Phridrich Vinhem là thể chế quân chủ vì vậy mà bộ máy này ra sức níu giữ quyền lực của mình bằng những luật lệ hà khắc. Chính quyền Phổ lúc bấy giờ dùng mọi biện pháp để ngăn cấm đất nước chuyển mình sang chế độ tư bản. Việc cố gắng duy trì thể chế quân chủ phong kiến thối nát của chính quyền vua Vinhem đã gây ra hệ quả nghiêm trọng cho sự phát triển của nước Đức so với các nước Châu Âu thời bấy giờ. Công nghiệp Đức đình trệ, kinh tế chậm phát triển, nông nghiệp sa sút. Sự thối nát và bảo thủ của kiến trúc thượng tầng nước Đức bấy giờ gây nên một sự phẫn nộ vô cùng to lớn cho toàn thể nhân dân Đức. Sự mâu thuẫn bị dồn nén của những người lao động Đức với chính quyền quân chủ Phổ báo hiệu một sự thay đổi to lớn sắp sửa diễn ra. Đứng chân trên một hiện thực xã hội như nước Đức lúc bấy giờ, thật khó có thể tin rằng nền văn hóa nghệ thuật và tư tưởng của nước Đức lại vô cùng phát triển. Mặc dù nền kinh tế bị lạc hậu, nền chính trị bảo thủ và thối nát nhưng nước Đức thời kỳ này đã đạt được những sự phát triển chưa từng thấy về triết học, văn học, nghệ thuật. Nước Đức đã sản sinh ra các nhà tư 10
  16. tưởng nổi tiếng như Hécđơ, Gớt, Sinlơ, Kant... Đây không chỉ là các nhà triết học nổi tiếng mà còn là các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Sinh ra trong giai đoạn mà bối cảnh nước Đức đang đi đến sự khủng hoảng tột độ, các nhà tư tưởng thời kỳ này đem lại cho những tác phẩm triết học, văn học của mình một khát khao của tầng lớp tư sản muốn vươn lên khỏi sự kìm kẹp của của hệ thống chính trị quân chủ và nền kinh tế phong kiến lạc hậu. Thêm vào đó, những nhà tư tưởng thời kỳ này cũng tiếp thu và phát triển những học thuyết, tư tưởng của nền văn hóa truyền thống. Tư tưởng mọc trên mảnh đất hiện thực, phản ánh hiện thực xã hội. Hiện thực xã hội là cái gốc của mọi nền văn hóa. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là tư tưởng lúc nào cũng đi sau thực tiễn xã hội, ngược lại, tư tưởng nhiều khi phải đi trước thực tiễn xã hội để làm vai trò người dẫn đường cho những bước phát triển tiếp theo của xã hội. Nếu không có sự đi trước của tư tưởng thì thực tiễn xã hội phải tự tìm đường đi cho mình. Một thực tiễn mò mẫm như vậy ắt sẽ không thể đưa đến sự phát triển nhanh chóng được. Vì vậy tư tưởng tuy xuất phát từ mảnh đất hiện thực nhưng cần phải vượt lên trên và đi trước hiện thực. Điều đó lý giải một phần tại sao nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với những sự khủng hoảng của nền kinh tế và chính trị nhưng lại chứng kiến một thời kỳ nở rộ chưa từng thấy về tư tưởng. Các nhà tư tưởng của nước Đức bấy giờ nói chung đều thể hiện một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và thối nát của xã hội. Tư tưởng của họ là ý chí và nguyện vọng của tầng lớp tư sản. Những tư tưởng khai sáng Pháp và cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) tác động mạnh mẽ đến các tầng lớp nhân dân Đức thức tỉnh họ đấu tranh vì một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn. Khoa học tự nhiên là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng triết học của các triết gia Đức trong giai đoạn bấy giờ. Những tiến bộ vượt bậc của các ngành khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học tự nhiên đã đánh đổ những thành trì của phương pháp tư duy siêu hình thế kỷ XV – 11
  17. XVIII. Sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong tư tưởng của các triết gia Tây Âu trong suốt nhiều thế kỷ đã không thể đứng vững được nữa. Các phát minh khoa học như sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào… đã đòi hỏi một phương pháp tư duy biện chứng đối lập lại với tư duy siêu hình trước đây. Bên cạnh đó, sự phát minh ra điện và cách sử dụng điện là bước nhảy vọt trong lịch sử văn minh loài người. Các ngành công nghiệp đã không chỉ dừng lại ở việc sản xuất với sự giúp đỡ của máy hơi nước nữa mà giờ đây còn có các máy móc chạy bằng điện năng. Điều đó làm thay đổi căn bản nền sản xuất, chuyển từ sản xuất công trường thủ công tiến tới công nghiệp cơ khí mà sau nay sẽ là nền đại công nghiệp. Sức sản xuất vì vậy mà càng được tăng lên một cách nhanh chóng. Sự phát hiện ra điện năng cũng chính là những yếu tố khoa học đầu tiên chứng thực về thuyết bảo toàn và biến hóa năng lượng và vật chất của vũ trụ. Các khoa học cụ thể như sinh vật học, hóa học cũng có những phát minh mới làm lung lay đến tận gốc rễ phương pháp tư duy siêu hình trước đây. Tất cả những yếu tố ấy đòi hỏi con người phải có những phương pháp tư duy mới để có thể lý giải và nắm bắt được bản chất thực sự của sự sống. Sự phát triển của khoa học tự nhiên thực sự đã có vai trò to lớn đối với tư duy triết học. Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng những hiểu biết của con người về thế giới trong những giai đoạn trước đây là không đầy đủ, thậm chí còn là sai lầm. Con người đang sống trong một thế giới với đầy đủ những sự phức tạp và tinh vi của nó, những hiện tượng, những sự vật tưởng như đơn độc lại có mối quan hệ với nhau, thế giới tưởng như là đã được định đoạt lại hóa ra vẫn nằm trong quá trình phát triển vô tận…. Vì vậy mà phương pháp tư duy siêu hình của thế kỷ trước của triết học đem đến cho nhận thức khoa học để chỉ đường cho khoa học là phiến diện và lạc hậu. Đương nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn những đóng góp mà phương pháp tư duy siêu hình đem lại. Việc nghiên cứu khoa học cụ thể 12
  18. về một đối tượng như là những sự vật hiện tượng cụ thể yêu cầu phải tách biệt một cách tạm thời đối tượng ấy với các đối tượng khác, như vậy chúng ta mới tìm ra được bản chất thực sự của đối tượng đang nghiên cứu, như vậy chúng ta mới biết được đối tượng này khác đối tượng khác ở điểm nào. Và về phương diện này, phương pháp tư duy siêu hình lại tỏ ra khá ưu việt. Nhờ phương pháp này mà những khoa học cụ thể đã có những sự nghiên cứu chuyên sâu, bức tranh thế giới tuy mới chỉ là những mảnh ghép nhưng đã đạt được sự rõ ràng nhất định. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình cũng như phương pháp nghiên cứu của các khoa học cụ thể chính là việc sau khi đi sâu tìm hiểu một cách độc lập trong lĩnh vực của mình lại dừng lại ở đây và xem đây là chân lý của khoa học, là bức tranh toàn thể của thế giới, là chân lý và bản chất của sự sống. Muốn nhận thức rõ bản chất thực sự của thế giới thì không thể dừng lại ở việc nghiên cứu đơn độc một lĩnh vực dù cho vấn đề trong lĩnh vực ấy đã được làm sáng rõ. Phải có nhận thức mang tính tổng hợp, nghĩa là xem xét sự vật hiện tượng trong những mối liên hệ phổ biến và trong sự vận động phát triển. Điều này đòi hỏi những nhà nghiên cứu khoa học cụ thể phải có tư duy biện chứng, phải nghiên cứu có tính chất hệ thống. Các sự vật hiện tượng đã được làm rõ bản chất thì không dừng lại ở đó mà phải tìm hiểu những mối liên hệ của nó, để nắm rõ sự vận động phát triển trong những giai đoạn tiếp theo. Phương pháp tư duy siêu hình đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của nhận thức khoa học nói riêng và trong nhận thức của loài người nói chung. Nhưng trong giai đoạn thế kỷ XVIII - XIX nó đã không còn phù hợp nữa. Thực tiễn xã hội và nhu cầu phát triển của con người đòi hỏi phải thay thế phương pháp tư duy siêu hình bằng một phương pháp tư duy mới hợp lý hơn. Phương pháp có thể đáp ứng những yêu sách của thực tiễn bấy giờ chính là phương pháp tư duy biện chứng. Tóm lại, bối cảnh nước Đức cuối thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX đã yêu cầu các nhà triết học phải giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết. Siêu hình học 13
  19. trong thế kỷ trước với các đại biểu như Đêcáctơ, Xpinôza, Lépnít… tuy đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hóa tri thức con người trong giai đoạn trước đó nhưng giờ đây đã lạc hậu và tỏ ra không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư tưởng Tây Âu thế kỷ XVIII. Điều này đã được khẳng định khi mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển và tách ra khỏi cái nôi triết học của mình để trở thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII đã xuất hiện nhiều xu hướng xét lại siêu hình học và các giá trị tư tưởng truyền thống. Trong khi đó triết học tây Âu Phục hưng và Cận đại, kể cả triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII mặc dù đã từng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong thời kỳ bình minh nhưng vẫn chưa thể thoát ra khỏi quan niệm cơ học về thế giới. Nhìn chung, siêu hình học trong giai đoạn này đã bất lực trong việc lý giải bản chất của thực tiễn xã hội. Thực tiễn xã hội đòi hỏi phải có cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên về tiến trình lịch sử của nhân loại. Siêu hình học giai đoạn cổ điển Đức mà người khởi xướng là Kant phải làm rõ nhận thức và hoạt động của con người. Vấn đề lớn lao là con người với vị trí là trung tâm của thế giới, là mục đích tự thân và cao cả nhất với lý tính của mình liệu có vai trò và tác động như thế nào đến thế giới đã được đặt ra. Triết học cổ điển Đức nói chung và triết học Kant nói riêng ra đời nhằm giải đáp vấn đề lớn lao ấy. 1.2. I. Kant - Con ngƣời và tác phẩm Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Kenixbec trong một gia đình làm nghề đóng giầy và cương ngựa ở phía Đông Phổ. Ông là một trong những nhà triết học nổi tiếng nhất trong lịch sử triết học phương Tây và là người khởi xướng ra nền triết học cổ điển Đức. Triết học Kant đã trở thành nền móng cho rất nhiều các trào lưu triết học phương Tây hiện đại sau này. Những hạn chế trong tư tưởng của ông không làm lu mờ những thành tựu mà ông đã đóng góp vào sự phát triển tư tưởng loài người. 14
  20. Kant là một con người rất đặc biệt, có rất nhiều những câu truyện kể thú vị về cuộc đời của ông. Ông sinh ra ở Kenixbec, ông sống và làm việc trong suốt cuộc đời của mình ở tại thành phố quê hương. Năm 1740 ông theo học tại trường đại học Kenixbec. Cha của Kant là chỗ dựa duy nhất về mặt tài chính của cả gia đình còn mẹ ông lại là người có ảnh hướng tích cực đến những tư tưởng của Kant sau này. Sau khi cha ông qua đời, Kant đã mất đi chỗ dựa về mặt tài chính, vì vậy mà năm 1746 Kant đã phải dời trường đại học để làm gia sư ở nhiều gia đình khác nhau để kiếm sống. Nhờ vậy, đây cũng là thời gian cho ông tiếp xúc với nhiều nhà khoa học tự nhiên. Đây cũng là cơ sở cho triết học tiền phê phán của ông (triết học tiền phê phán Kant nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên). Năm 1755 Kant nhận học vị tiến sĩ triết học. Năm 1770 Kant nhận chức giáo sư về logich học và siêu hình học. Trong suốt khoảng thời gian trước đó ông đã phải kiếm sống bằng việc dạy học với khoản tiền lương rất thấp. Kant đã từ chối hai trường đại học danh tiếng Erlangen và Jena để ở lại giảng dạy tại trường đại học Kenixbec. Kant còn là viện sĩ viện hàn lâm khoa học Berlin. Tính cách của ông khác với nhiều người, ông sống cả cuộc đời ở thành phố quê hương mình. Mặc dù nhà gần biển nhưng chưa bao giờ người ta thấy Kant đi dạo trên bãi biển. Ông mất ngày 12 tháng 2 năm 1804. Thời niên thiếu của Kant chịu ảnh hưởng lớn bởi mẹ ông. Mẹ của ông là người sùng bái đạo tin lành chi phái Luther, mặc dù vậy Kant không mặn mà lắm với Kitô giáo, có chăng ông chỉ đề cao đạo Kitô trong đạo đức học của mình. Nước Đức thời bấy giờ chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Kitô, nhà thờ có quyền lực lớn không chỉ về mặt tư tưởng mà còn cả về chính trị. Đó là lí do tại sao triết học của Kant gặp sự phản đối gay gắt ngay tại nước Đức. Năm 1794 nhà vua Đức đã kết án triết học tôn giáo của ông đồng thời cấm lưu truyền những tư tưởng triết học của Kant. Tất cả các trường đại học ở Đức đều không được truyền bá tư tưởng của ông. Tuy nhiên, mọi việc cấm đoán 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2