Luận văn Thạc sĩ Triết học: Suy luận logic và vai trò của nó trong các giai đoạn tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 24
download
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những nội dung chính của suy luận logic như: định nghĩa, cấu tạo, các loại hình và quy tắc của suy luận… luận văn trình bày, phân tích và làm rõ vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Suy luận logic và vai trò của nó trong các giai đoạn tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐINH THỊ NGA SUY LUẬN LOGIC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số: 60 22 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn Hà Nội - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của bản thân và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, tháng 09 năm 2016 Tác giả luận văn Đinh Thị Nga
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 8 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 8 8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8 Chƣơng 1. SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SUY LUẬN LOGIC ................................................................................................. 9 1.1. Sự ra đời và phát triển của suy luận logic ............................................. 9 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của suy luận logic trong triết học Hy Lạp cổ đại ..... 9 1.1.2. Sự phát triển của suy luận logic trong logic học phương Tây cận đại. 12 1.2. Nội dung cơ bản của lý thuyết suy luận logic ...................................... 15 1.2.1. Định nghĩa và cấu tạo của suy luận logic............................................. 15 1.2.2. Phân loại suy luận logic........................................................................ 16 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 33 Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA SUY LUẬN LOGIC TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................................ 34 2.1 Tố tụng hình sự và các giai đoạn tố tụng hình sự ................................ 34 2.1 1. Khái niệm tố tụng hình sự ..................................................................... 34 2.1.2. Các giai đoạn tố tụng hình sự ............................................................... 37 2.2. Vai trò của suy luận logic trong giai đoạn khởi tố .............................. 40 2.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lí và vai trò của khởi tố vụ án hình sự .............. 40 2.2.2. Sự thể hiện vai trò suy luận logic trong khởi tố vụ án hình sự ............ 41 2.3. Vai trò của suy luận logic trong giai đoạn điều tra............................. 49
- 2.3.1. Khái niệm, bản chất pháp lí và vai trò của điều tra vụ án hình sự........... 49 2.3.2. Sự thể hiện vai trò suy luận logic trong điều tra vụ án hình sự............ 51 2.4. Vai trò của suy luận logic trong giai đoạn truy tố, xét xử .................. 81 2.4.1. Khái niệm, bản chất pháp lí và vai trò của truy tố, xét xử vụ án hình sự.... 81 2.4.2. Sự thể hiện vai trò suy luận logic trong truy tố, xét xử vụ án hình sự ...... 85 Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................... 104 KẾT LUẬN .................................................................................................. 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 108
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong logic học hình thức, suy luận được coi là một trong những hình thức cơ bản của tư duy, đồng thời cũng là một thao tác tư duy quan trọng mà nhờ đó con người có thể rút ra được những tri thức mới từ những tri thức đã biết. Bởi thế, hầu hết các tri thức mà nhân loại có được là nhờ vào con đường suy luận. Ngày nay, khoa học và công nghệ hiện đại càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu khám phá và nhận thức của con người về thế giới càng lớn và trở nên cấp thiết bấy nhiêu. Trong đó, những tri thức trực tiếp là kết quả của quá trình nhận thức cảm tính nhờ các giác quan của con người đem lại đang chiếm một vị trí đáng kể trong tổng số tri thức của loài người. Tuy nhiên, còn xa và còn rất lâu con người mới biết và giải thích được tất cả mọi thứ trong thế giới này một cách trực tiếp nhờ các giác quan. Do vậy, bất cứ thứ gì, ở đâu và khi nào… những nơi mà giác quan thông thường của con người bất lực thì không gì có thể thay thế được vai trò của suy luận logic. Vì suy luận logic là một trong hình thức cơ bản quan trọng của tư duy, nó cho phép con người có khả năng chiếm lĩnh những tri thức mới một cách gián tiếp, nghĩa là những tri thức mà con người không thể nhận được theo con đường nhận thức thẳng tắp, trực tiếp. Suy luận logic giúp cho con người nhận được những tri thức mới một cách trung gian từ những tri thức đã biết dựa trên cơ sở logic nhất định để rút ra những tri thức mới đáng tin cậy. Suy luận logic có vai trò vô cùng quan trọng trong tư duy khoa học và nó có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Một mặt, suy luận logic được dùng như là phương thức nhận thức quá khứ, những điều đã xảy ra và đã không còn có thể quan sát trực tiếp được nữa. Mặt khác, suy luận logic cũng càng quan trọng hơn để hiểu tương lai, dự báo, phỏng đoán về những điều vốn dĩ chưa xảy ra trên cơ sở của những kết luận xác định về quá khứ và hiện tại. 1
- Trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là trong hoạt động tố tụng hình sự, suy luận logic lại càng đóng một vai trò quan trọng và cần thiết hơn hết. Bởi lẽ, tố tụng hình sự hay quá trình giải quyết vụ án hình sự thường phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, do ba cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Hơn nữa, ở bất cứ một giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng đều cần sử dụng đến suy luận logic để đưa ra những phán đoán mới, những kết luận xác định, những quyết định chính xác, kịp thời trên cơ sở tiền đề là những căn cứ pháp lý do luật định và những chứng cứ, bằng chứng dấu vết, hành vi phạm tội được thu thập một cách cẩn thận, xác thực trong quá trình điều tra, phá án. Như vậy, suy luận là một hình thức đồng thời cũng là một thao tác tư duy logic tối cần thiết, quan trọng và không thể thiếu được trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Hơn nữa, trong quá trình điều tra, xét xử vụ án hình sự không phải lúc nào chứng cứ, hành vi phạm tội của tội phạm cũng rõ ràng, phơi bày trước mắt các nhà điều tra. Bởi lẽ, những hành vi phạm tội của kẻ gây án, diễn biến quá trình của vụ án hình sự đều là những gì đã xảy ra trong quá khứ, với nhiều góc khuất và tình tiết, quanh co, phức tạp và không còn có thể quan sát trực tiếp được nữa. Do vậy, muốn có kết luận điều tra chính xác, những quyết định đúng đắn, kịp thời và xét xử vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì nhất thiết phải sử dụng đến suy luận logic trong trong quá trình điều tra, xét xử. Không chỉ có thế, mà còn phải cân nhắc thận trọng để sử dụng suy luận logic như thế nào cho đúng, cho thuyết phục để đạt hiệu quả cao nhất, buộc kẻ vi phạm pháp luật phải “tâm phục, khẩu phục” cúi đầu nhận tội. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có những nghiên cứu tỉ mỉ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn về vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự hay tố tụng hình sự. 2
- Việc nghiên cứu để chỉ ra vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự là rất cần thiết, có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và cũng chẳng dễ dàng. Bởi lẽ, việc làm này nếu đúng đắn, khoa học thì sẽ góp phần thúc đẩy nhanh tiến độ điều tra, rút ngắn thời gian phá án, tìm ra thủ phạm một cách nhanh nhất có thể, qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây liên tục xuất hiện những vụ án oan và sai gây hoang mang trong dư luận và bất bình trong nhân dân. Án hình sự mà bị oan, sai là vấn đề rất nghiêm trọng, xâm phạm rất lớn đến quyền con người, quyền công dân, đến công bằng xã hội và niềm tin của người dân vào công lý, vào luật pháp. Oan, sai trong tố tụng hình sự dù ở mức độ nào đi chăng nữa cũng đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực, không lường đối với cá nhân, gia đình, xã hội và nhà nước. Qua các vụ án oan, sai một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong quá trình tiến hành tố tụng, mà nguyên nhân chủ yếu là do đưa ra những kết luận, phán quyết một cách vội vàng về vụ án. Hoặc là do xuất phát từ những bằng chứng, chứng cứ, tài liệu không chân thực để rút ra kết luận phiến diện về vụ án hoặc là do sự truy xét, sự áp đặt mang tính chất thành kiến, chủ quan của những người tiến hành tố tụng vì những mục đích riêng tư, cá nhân… Xét cho tới cùng thì những điều này cũng là hệ quả của việc chưa ý thức hết được vai trò và tầm quan trọng của tư duy logic nói chung và nhất là của suy luận logic nói riêng trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. Do đó, người sử dụng suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng chưa đúng đắn, chưa khách quan và chưa thực sự công tâm. Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 xác định, một trong những mục đích của Bộ luật là xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đó cũng chính là cái đích đến cuối cùng mà công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay hướng tới 3
- trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người và công lý. Vì vậy, việc chỉ ra vai trò suy luận logic trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự một cách đúng đắn còn góp phần đảm bảo cho cả quá trình tố tụng hình sự diễn ra minh bạch, chính xác, xét xử đúng người, đúng tội, tuân thủ đúng qui định pháp luật. Nhờ đó có thể tránh được “oan” và “sai” trong quá trình tố tụng hình sự và góp phần thúc đẩy quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, tình hình tội phạm hình sự cùng với các tệ nạn xã hội ở Việt Nam đang có chiều hướng ngày càng gia tăng về số lượng lẫn tính chất nguy hiểm của nó, các vụ án hình sự đều có diễn biến hết sức phức tạp đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt cho cá nhân, gia đình và xã hội. Nguyên nhân của tình trạng trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, cách làm ăn chụp giật luôn chạy theo lợi nhuận... nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, những yếu kém trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung và quá trình tố tụng hình sự nói riêng. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả và đồng thời có thể khắc phục được những hạn chế, yếu kém của công tác phòng và chống tội phạm thì việc chỉ ra vai trò của suy luận logic cũng như yêu cầu nắm vững suy luận logic và sử dụng chính xác và sáng tạo suy luận logic trong các giai đoạn của tố tụng hình sự là điều thiết thực nên làm. Vì những lý do trên và đồng thời muốn trình bày, phân tích rõ hơn những nội dung cơ bản của suy luận logic, để từ đó có thể chỉ ra vai trò, sự cần thiết của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự, nên tôi quyết định chọn vấn đề Suy luận logic và vai trò của nó trong các giai đoạn tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 4
- 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Có thể thấy lý thuyết về suy luận logic không có gì là mới lạ đối với chúng ta, nó đã được bàn tới khá nhiều trong các công trình, tài liệu logic học của các tác giả, các chuyên gia, các nhà giáo đầu ngành ở Việt Nam như: Nguyễn Đức Dân [4], Vương Tất Đạt [7], Phạm Đình Nghiệm [15], Bùi Thanh Quất [17], Nguyễn Gia Thơ [21], Nguyễn Thúy Vân, Nguyễn Anh Tuấn [31], Vũ Văn Viên [32],... Trong những tài liệu, giáo trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích khá đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề của logic hình thức cũng như những nội dung cơ bản của suy luận logic. Hầu hết các tác giả đều thống nhất quan điểm về những vấn đề cơ bản của suy luận cũng như vai trò của suy luận đối với khoa học và đời sống, coi đó là nội dung trọng tậm khi nghiên cứu logic học. Tuy nhiên, ở một vài điểm không căn bản thì giữa các tài liệu của các tác giả lại có chỗ chưa thống nhất với nhau. Đáng chú ý hơn cả là cuốn giáo trình của tác giả Phạm Đình Nghiệm [15], khi quan niệm về cấu tạo của suy luận, tác giả cho rằng: suy luận gồm có hai thành phần là tiền đề và kết luận, trong khi đó phần lớn các tác giả còn lại đều cho rằng: suy luận gồm ba bộ phận là tiền đề, kết luận và cơ sở logic (các quy tắc). Mặt khác, cũng ở tài liệu này trong phần suy luận diễn dịch xuất phát từ tiền đề là phán đoán phức, tác giả đã đưa thêm một phương pháp logic hiện đại được sử dụng nhiều trong tin học và trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo gọi là “hợp giải”, tức là phương pháp cho phép kiểm tra xem có thể rút ra được kết luận nhất định nào đó từ một tập hợp các tiền đề cho trước... Mặc dù vậy, có thể thấy rằng toàn bộ các tài liệu, giáo trình của các tác giả kể trên, tuy không trực tiếp nói về vai trò của suy luận logic trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhưng chúng lại giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu lĩnh vực này, chúng có thể hỗ trợ một cách gián tiếp, giúp nảy sinh ý tưởng quý giá, chúng có khả năng gợi mở, định hướng và cổ vũ mạnh mẽ cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài này. 5
- Không chỉ riêng logic hình thức mà khi bàn về suy luận, logic biện chứng cũng đề cập đến như là một phần nội dung cơ bản không thể thiếu được. Thuộc loại tài liệu giáo khoa kiểu như trên thì còn phải kể tới công trình Nguyên lý logic biện chứng [13] của tác giả Liên Xô M.M. Rôdentan. Đây là cuốn sách được Nguyễn Thành Dương dịch từ bản tiếng Nga, trong đó tác giả dành ra hẳn một chương để bàn về suy luận trong logic biện chứng. Việc này đòi hỏi tác giả phải so sánh suy luận trong logic biện chứng với suy luận trong logic hình thức để từ đó chỉ ra điểm phân biệt giữa chúng. Quan trọng hơn cả là tác giả đã phân tích một cách rất sâu sắc về vị trí, vai trò của suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch trong quá trình nhận thức. Qua việc chỉ ra vai trò cũng như hạn chế của hai phương pháp này, tác giả đi đến khẳng định việc cần thiết phải kết hợp, bổ sung hai phương pháp nhận thức này với nhau và cả với các phương pháp khác nữa trong quá trình nhận thức. Điều này rất có ý nghĩa đối với luận văn trong việc làm rõ vai trò của suy luận logic trong từng giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng hình sự. Hơn thế, từ góc nhìn lôgíc học biện chứng tác giả đã chỉ ra khá nhiều đặc điểm của suy luận lôgíc hình thức mà các tài liệu thuần tuý lôgíc hình thức chưa chỉ ra được mà những điều này lại rất quan trọng đối với luận văn của chúng tôi. Bên cạnh đó, luận văn còn dựa trên những công trình, tài liệu nghiên cứu quan trọng thuộc lĩnh vực pháp lý, trong đó cần phải kể tới cuốn giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam [19] do tác giả Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ biên. Giáo trình này đã giới thiệu đến người đọc một cách đầy đủ, rõ ràng và cụ thể nhất về trình tự, thủ tục ở từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng cùng với những chứng cứ, bằng chứng thu thập được trong giai đoạn điều tra đã trở thành những tiền đề, cơ sở để cơ quan tố tụng có thẩm quyền tiến hành các bước suy luận logic nhằm đưa ra những phán quyết, kết luận chính xác nhất trong giải quyết vụ án hình sự. 6
- Ngoài ra, trong số hiếm hoi các tài liệu có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực mà luận văn nghiên cứu, không thể không nhắc đến quy định tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 [1] và tại Điều 31 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 [10] về “nguyên tắc suy đoán vô tội”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại, và được đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Tinh thần và những nội dung căn bản nhất của nguyên tắc này đã có tác dụng gợi mở và định hướng rất quan trọng tới lĩnh vực nghiên cứu của luận văn, tức là làm rõ vai trò, tầm quan trọng của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự . Ở Việt Nam hiện nay, việc chỉ ra vai trò suy luận logic trong quá trình tố tụng hình sự là một đề tài khá mới mẻ, nên hầu như chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về vấn đề này, mà chỉ có những công trình, những tài liệu đóng vai trò hỗ trợ gián tiếp cho lĩnh vực nghiên cứu của luận văn. Do vậy, luận văn sẽ cố gắng lấp đầy những khoảng trống đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những nội dung chính của suy luận logic như: định nghĩa, cấu tạo, các loại hình và quy tắc của suy luận… luận văn trình bày, phân tích và làm rõ vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Khái quát những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và phát triển của suy luận logic trong lịch sử logic học. + Trình bày và phân tích những nội dung chính của suy luận logic liên quan đến các giai đoạn tố tụng hình sự. + Trình bày và phân tích để làm rõ vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự. 7
- 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, quan điểm mácxít về lý luận nhận thức và logic học. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận biện chứng duy vật và các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch… 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: suy luận logic và vai trò của nó trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. - Phạm vi nghiên cứu: Các quan niệm về suy luận logic và vai trò của nó trong tố tụng hình sự từ trước tới nay. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn nêu lại lịch sử và hệ thống hoá những nội dung cơ bản của suy luận logic, bước đầu chỉ ra vai trò của suy luận logic trong các giai đoạn tố tụng hình sự, đồng thời cũng đặt ra vấn đề cần thiết phải sử dụng suy luận logic trong suốt quá trình tố tụng hình sự. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần giới thiệu đến người đọc quan tâm đến các vấn đề của logic học và luật học cũng như vai trò của những tri thức logic, cụ thể là suy luận logic trong lĩnh vực pháp lý. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn logic học và luật học. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. 8
- Chƣơng 1. SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SUY LUẬN LOGIC 1.1. Sự ra đời và phát triển của suy luận logic 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của suy luận logic trong triết học Hy Lạp cổ đại Hy Lạp cổ đại là một trong ba cái nôi lớn nhất của nền văn minh nhân loại. Trên mảnh đất này ngay từ khi triết học sinh ra đã có nhiều trường phái khác nhau, thậm chí đối lập nhau và giữa chúng luôn diễn ra cuộc đấu tranh. Những cuộc tranh luận triết học và nhu cầu của thuật nguỵ biện và tu từ học ở thời kỳ cổ đại đã khiến người Hy Lạp cổ đại phải tăng cường quan tâm tới các vấn đề về lập luận lôgíc học, từ đó các tư tưởng về logic học và suy luận dần dần được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của triết học. Trước khi hệ thống logic học của Aristotle được hình thành như một khoa học độc lập thì trong triết học Hy Lạp cổ đại, cũng đã manh nha các tư tưởng logic học liên quan đến suy luận. Tuy đó chỉ là những tư tưởng sơ khai và chưa thành hệ thống, do các tư tưởng triết học và logic học chưa được tách bạch rõ ràng, nên những quy luật, quy tắc logic hay các hình thức của tư duy như suy luận thường nằm lẫn trong các lập luận triết học. Trong đó, tiêu biểu là tư tưởng của phái ngụy biện, của Đêmôcrít, Xôcrat và Plato… Aristotle (384-322 TCN) nhà triết học Hi Lạp cổ đại được coi là người sáng lập ra lôgíc học, ông hoàn toàn xứng đáng được vinh danh là “cha đẻ của lôgíc học”. Aristotle là người đầu tiên đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề của lôgíc học, xây dựng chúng với tư cách là khoa học độc lập. Những hiểu biết sâu rộng của ông đã được tập hợp lại trong bộ sách “Organon” (Bộ công cụ) đồ sộ bao gồm 6 tập. Aristotle là người đầu tiên nghiên cứu tỉ mỉ khái niệm, phán đoán, lý thuyết suy luận, chứng minh và nêu lên các qui luật cơ bản của tư duy. 9
- Có thể nói, vị trí quan trọng nhất trong các công trình lôgíc học Aristotle thuộc về học thuyết suy luận dưới hình thức điển hình là tam đoạn luận. Aristotle là người đầu tiên xây dựng lý thuyết tam đoạn luận, nhất là ở phần về tam đoạn luận nhất quyết đơn rất cẩn thận, chi tiết đến mức mà các nhà nghiên cứu kế tiếp ông sau này chỉ còn phải đưa thêm vào lý thuyết ấy những bổ sung, mở rộng phụ, không đáng kể. Trong học thuyết ấy, Aristotle đã bàn đến những nội dung rất căn bản của suy luận như: tam đoạn luận chuẩn tắc, tam đoạn luận tỉnh lược và phức hợp, các loại hình cũng như các quy tắc chung và riêng của từng loại hình tam đoạn luận… mặt khác, ông cũng đề cập đến vấn đề suy luận quy nạp và suy luận tương tự. Theo Aristotle: Tam đoạn luận là một loại luận chứng, trong đó chỉ cần xác định một vài phán đoán nào đó, những phán đoán khác nơi các sự vật có thể tất yếu từ các phán đoán xác định đó suy ra. Trong học thuyết logic của mình Aristotle còn đưa ra khái niệm về tam đoạn luận hoàn thiện và phân biệt nó với tam đoạn luận không hoàn thiện. Trong đó, tam đoạn luận hoàn thiện là một tam đoạn luận mà nó không cần một cái gì khác, ngoài cái đã trực tiếp nhận, để vạch ra tính tất yếu, còn tam đoạn luận không hoàn thiện là một tam đoạn luận mà nó cần cho một điều nào (cho việc vạch ra tính tất yếu) ở một cái hay nhiều cái. Theo Aristotle chỉ có tam đoạn luận hoàn thiện mới cho ta kết luận đúng một cách tất yếu và hiển nhiên [Xem 23, tr. 60 ]. Tam đoạn luận của ông được cấu thành từ ba phán đoán, trong đó có hai phán đoán tiền đề và phán đoán thứ ba là kết luận. Bất kỳ tam đoạn luận nào cũng có ba thuật ngữ: thuật ngữ lớn, thuật ngữ nhỏ và thuật ngữ giữa. Ông là người đầu tiên đưa ra quy tắc chung cho các loại hình tam đoạn luận và các quy tắc riêng cho từng loại hình. Mục đích của Aristotle xây dựng tam đoạn luận là nhằm tạo ra phương pháp chứng minh (luận chứng) tri thức khoa học. Trong đó, loại hình I tam 10
- đoạn luận là loại hình hoàn thiện nhất mà theo ông phải là cơ sở, nền tảng để từ đó loài người suy ra toàn bộ tri thức khoa học của mình. Bên cạnh tam đoạn luận khoa học và tam đoạn luận biện chứng, Aristotle còn nghiên cứu một loại nữa là tam đoạn luận tranh biện. Tranh biện là nghệ thuật thương thảo, tranh cãi để giành chiến thắng, chứ không phải vì chân lý, các nhà nguỵ biện thường dạy nó trong các trường học của mình. Ngoài tam đoạn luận với tư cách là suy luận diễn dịch, khi nghiên cứu logic học của Aristotle còn phải nói tới suy luận quy nạp. Ông đã định nghĩa suy luận quy nạp khá rõ ràng như sau: “quy nạp là quá trình đi từ cái riêng đến cái chung”. Ông cũng đặt suy luận quy nạp trong sự liên hệ với tam đoạn luận và gọi chúng là suy luận quy nạp tam đoạn luận. Aristotle xem phương pháp loại suy hay phép tương tự như một loại quy nạp. Loại suy, theo ông, là phương pháp dẫn dắt tư duy đi từ một sự vật cá biệt này sang sự vật cá biệt khác. Mặc dù, trong hệ thống logic học của mình, Aristotle không ít lần thừa nhận tầm quan trọng của quy nạp và dành sự quan tâm đáng kể cho vấn đề làm thế nào chúng ta xác lập được các tiền đề xuất phát điểm cung cấp cho diễn dịch, song, cũng như hầu hết những người Hy Lạp thời bấy giờ, do đánh giá thái quá tam đoạn luận so với các cách chứng minh khác, nên Aristotle đã quá đề cao vị trí, vai trò của suy luận diễn dịch. Thực chất tam đoạn luận chỉ là một trong các dạng chứng minh diễn dịch, ví như toán học là lĩnh vực hoàn toàn diễn dịch, nhưng chưa chắc gì có thể gặp tam đoạn luận trong toán học. Thêm vào đó, tuy đã đề cập đến quy nạp, nhưng Aristotle lại chưa đánh giá được hết ý nghĩa nhận thức luận của phương pháp quy nạp không đầy đủ. Đây cũng là một biểu hiện cho tính phiến diện, hạn chế do điều kiện lịch sử của lôgíc học Aristotle. Sau Aristote, các nhà khắc kỷ đã quan tâm phân tích các mệnh đề, cũng như phép tam đoạn luận của Aristotle, lôgíc các mệnh đề của các nhà khắc kỷ 11
- được trình bày dưới dạng lý thuyết suy diễn. Một điểm đáng chú ý là, lôgíc học của Aristotle được tôn vinh và được lấy làm khuôn mẫu trong suốt thời kỳ Trung cổ. Ở đâu người ta cũng chỉ chủ yếu phổ biến, bình luận lôgíc học của Aristotle và coi đó như những chân lý cuối cùng, tuyệt đích. Tuy nhiên, trong suốt thời Trung cổ, lôgíc học mang tính kinh viện và hầu như không được bổ sung thêm gì đáng kể. 1.1.2. Sự phát triển của suy luận logic trong logic học phương Tây cận đại Thời Phục hưng, Cận đại đã trở nên rõ là, lôgíc học Aristotle vốn chủ yếu đề cập đến phép suy diễn, thực ra là khá chật hẹp và khó đáp ứng được những yêu cầu mới của sự phát triển khoa học tự nhiên, đặc biệt là các khoa học thực nghiệm đang nảy nở. Trước sự phát triển của khoa học thực nghiệm, tại Anh, F. Bacon (1561 - 1626) đã xuất bản tác phẩm “Novum Organum” (Công cụ mới) để phê phán phương pháp suy diễn và logic học hình thức của Aristotle, từ đó ông đề xuất phương pháp nhận thức (suy luận) mới là phép quy nạp loại trừ. Đồng thời đặt ra vấn đề là cần phải tuân thủ các qui tắc của phép qui nạp trong quá trình quan sát và thí nghiệm để tìm ra các qui luật của giới tự nhiên. Bước đầu thành công trong việc xây dựng phép quy nạp, nhưng F. Bacon lại rơi vào thái cực khác khi quá đề cao phương pháp này cũng như logic học ứng dụng trong khoa học thực nghiệm. Sau đó, R. Descartes (1596 - 1650) đã cố khắc phục phần nào tư tưởng hơi cực đoan của Bacon đối với diễn dịch trong tác phẩm “Discours de la method” (Luận về phương pháp). R. Descartes là người đã tiếp tục làm sáng tỏ, phát triển và làm sâu sắc thêm những khám phá của F. Bacon trên tinh thần chủ nghĩa duy lý bằng cách đi sâu vào suy luận diễn dịch toán học. Tiếp đó, nhà toán học người Đức Leibniz (1646 - 1716) lại có tham vọng phát triển lôgíc học của Aristotle thành lôgíc ký hiệu hay logic toán. Tuy vậy, phải đến giữa 12
- thế kỷ XIX, khi nhà toán học G. Boole (1815 - 1864) đưa ra công trình Đại số lôgíc thì ý tưởng của Leibniz mới bước đầu trở thành hiện thực. Vào thế kỷ XIX, nhà logic học Anh J.S. Mill (1806 - 1873) đã cố công đi tìm những qui tắc và sơ đồ của phép qui nạp kiểu như các qui tắc tam đoạn luận. Ông là người đã hoàn thiện phương pháp của Bacon và tiếp tục phát triển các phương pháp quy nạp, ông đưa ra bốn phương pháp quy nạp dựa trên cơ sở mối liên hệ nhân quả như: Phương pháp đồng nhất, phương pháp khác biệt duy nhất, phương pháp biến đổi kèm theo và phương pháp phần dư. Như vậy, đến giữa thế kỷ 19, lôgíc học Aristotle cùng với sự phát triển, bổ sung, đóng góp của F. Bacon, R. Descartes và J.S. Mill đã trở thành hệ thống lôgíc hình thức truyền thống cổ điển hoàn chỉnh. Nhưng ngay từ đầu thế kỷ XIX, Hegel (1770 - 1831) nhà triết học cổ điển Đức, nối tiếp những suy tư mang tính đặt vấn đề từ I. Kant đã nghiên cứu và đem lại cho lôgíc học một bộ mặt mới: Lôgíc biện chứng. Nhưng cũng phải khách quan thấy rằng, những yếu tố của Lôgíc biện chứng đã có từ thời cổ đại, trong các học thuyết của Heraclite, Platon, Aristotle… Công lao của Hegel đối với Lôgíc biện chứng là ông đã đem lại cho nó một diện mạo đầu tiên mang tính hệ thống với các nguyên lý, nguyên tắc, quy luật, phạm trù và các thao tác tư duy suy luận tương ứng. Tuy được nghiên cứu một cách toàn diện, nhưng hệ thống lôgic ấy lại được trình bày trên nền tảng thế giới quan duy tâm. Hegel đã xây dựng học thuyết biện chứng của mình bao gồm đồng thời cả phép quy nạp lẫn phép diễn dịch. Thực chất phép diễn dịch của Hegel là phép diễn dịch biện chứng - duy tâm chủ nghĩa được phát triển thông qua các mâu thuẫn. Theo ông, đây là phép suy luận sẽ đảm bảo cho nhận thức đạt tới chân lý tức “ý niệm tuyệt đối”. Hegel phân biệt ba loại hình suy luận gồm: thứ nhất là suy luận về tồn tại hiện có trong thành phần của ba phân nhánh (biểu tượng tam đoạn luận), là những cái được phân biệt tới tính chất khác 13
- nhau của thuật ngữ trung gian với ba cách kết hợp cơ bản giữa “cái chung”, “cái đặc thù” và “cái đơn nhất”. Thứ hai là suy luận phản tư được tập hợp thành bộ ba gồm: suy luận chung, suy luận quy nạp và suy luận loại suy. Thứ ba là suy luận tất nhiên nơi mà các thuật ngữ trung gian không phải là một nội dung trực tiếp nào khác mà chính là phản tư về tính quy định tự nó của các thuật ngữ biên. Ngoài ra, Hegel đã chỉ ra các yếu tố biện chứng trong các tiểu phần logic hình thức, chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa các loại hình tam đoạn luận và chức năng của thuật ngữ trung gian - thuật ngữ không chỉ đơn giản được dùng làm cầu nối giữa các thuật ngữ biên mà còn thể hiện sự thống nhất của cái chung và cái riêng… cách Hegel áp dụng các phạm trù “cái chung”, “cái đặc thù” và “cái riêng” vào việc phân tích các suy luận là điều rất hữu ích, K. Marx, F. Engels và tiếp đến là V.I. Lenine cũng nhiều lần nhắc tới điều đó. Sau này, chính K. Marx (1818 - 1883), F. Engels (1820 - 1895) và V.I Lenine (1870 - 1924) đã cải tạo và phát triển lôgíc học biện chứng trong đó có phép suy luận biện chứng duy tâm chủ nghĩa của Hegel và đặt lại nó trên nền tảng duy vật, đồng thời biến nó thành khoa học về những qui luật và hình thức phản ánh trong tư duy sự phát triển và biến đổi của thế giới khách quan, về những qui luật nhận thức chân lý. Ngày nay, cùng với khoa học kỹ thuật, lôgíc học đang có những bước phát triển mạnh, trong nó đang diễn ra sự phân ngành mạnh mẽ và sự liên ngành rộng rãi. Nhiều chuyên ngành mới của lôgíc học ra đời như: lôgíc đa trị, lôgíc kiến thiết, logic xác suất, lôgíc mờ, lôgíc tình thái… Sự phát triển đó đang làm cho lôgíc học ngày càng thêm phong phú, mở ra những khả năng mới trong việc ứng dụng lôgíc học vào các ngành khoa học và đời sống. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không thể phủ nhận được sự đóng góp cũng như vai trò và tầm quan trọng của khoa học logic hình thức trong đó có phép suy luận logic. 14
- 1.2. Nội dung cơ bản của lý thuyết suy luận logic 1.2.1. Định nghĩa và cấu tạo của suy luận logic Trong quá trình nhận thức về thế giới khách quan con người phản ánh lại các sự vật, hiện tượng thông qua hình thức tồn tại giản đơn nhất của tư duy, đó là khái niệm. Các khái niệm tham gia hình thành phán đoán nhằm phản ánh các thuộc tính cũng như các mối liên hệ giữa các đối tượng của hiện thực. Tiếp đó, phán đoán sau khi được kiểm nghiệm hoặc chứng minh giá trị chân thực của nó một cách chắc chắn, thì lại có thể tham gia vào quá trình tư duy nhận thức để tạo ra những phán đoán mới. Quá trình tạo ra những phán đoán mới từ những phán đoán đã biết như vậy gọi là quá trình suy luận. Định nghĩa: Suy luận là hình thức cơ bản của tư duy, đồng thời cũng là một thao tác tư duy cơ bản mà nhờ đó rút ra những tri thức mới từ những tri thức đã biết [3, tr.131]. Bản chất của suy luận là dựa trên những tri thức đã biết chắc chắn (các phán đoán đã chứng minh) liên kết chúng theo một cách thức nhất định (các qui tắc, các kiểu suy luận) để tạo ra những tri thức mới tất yếu, chân thực (các phán đoán mới) mà trước đó chưa biết. Có thể nói, suy luận có vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn đời sống thường ngày và mọi lĩnh vực khoa học, nhất là trong lĩnh vực pháp lý. Giá trị lý luận cũng như giá trị thực tiễn của suy luận thể hiện ở chỗ nó đưa nhận thức đi từ cái đơn lẻ, cái ngẫu nhiên ở hiện thực khách quan đến nhận thức gián tiếp trừu tượng. Thậm chí, không cần phải kiểm nghiệm thực tiễn, bằng công cụ nhận thức tư duy có thể rút ra tri thức mới chân thực, tất yếu, đáng tin cậy. Cấu tạo của suy luận: cũng như phán đoán và khái niệm, suy luận là một trong những hình thức lôgic, thao tác cơ bản của tư duy. Vì vậy, suy luận cũng có một cấu trúc logic riêng xác định. Bất kỳ một suy luận nào cũng bao gồm ba thành phần: tiền đề, kết luận và cơ sở logic. Tiền đề là những tri thức đã biết, mà dựa vào đó mới rút ra kết luận. Những tri thức này có được nhờ quan sát trực tiếp; nhờ tiếp thu, kế thừa tri 15
- thức của các thế hệ đi trước thông qua học tập và giao tiếp xã hội, hoặc là kết quả của các quá trình nhận thức, suy luận trước đó của chính chủ thể. Kết luận là những tri thức mới nhận được rút ra từ các tiền đề và các hệ quả của chúng. Cơ sở logic là các quy luật và các quy tắc mà việc tuân thủ chúng sẽ đảm bảo rút ra kết luận chân thực từ các tiền đề chân thực. Nói cách khác, cơ sở logic là những quy tắc, những quy luật hay những mối liên hệ tất yếu của tư tưởng cho phép rút ra kết luận tất yếu từ những tiền đề đã cho. Suy luận đúng và suy luận hợp lôgíc: suy luận hợp logic là suy luận mới chỉ đảm bảo điều kiện tuân thủ các quy tắc, quy luật logic chứ nó chưa đảm bảo điều kiện là xuất phát từ những tiền đề chân thực. Vì vậy, chưa thể khẳng định một suy luận hợp logic là suy luận đúng được. Vậy, suy luận đúng là suy luận không chỉ tuân thủ các cơ sở lôgíc mà còn phải xuất phát từ những tiền đề chân thực phản ánh đúng về hiện thực. Hay nói cách khác, suy luận đúng là suy luận mà kết luận được rút ra và được bảo đảm giá trị chân thực một cách tất yếu từ tiền đề chân thực thông qua cơ sở hợp logic. Tóm lại, muốn có một suy luận đúng phải có suy luận hợp logic (tức suy luận phải tuân thủ đúng các quy tắc, quy luật logic) và suy luận phải xuất phát từ các tiền đề là các phán đoán chân thực. Đó là hai điều kiện tiên quyết bảo đảm giá trị chân thực của kết luận được rút ra một cách tất yếu từ tiền đề. Sự phân biệt giữa suy luận hợp logic và suy luận đúng đắn có một ý nghĩa to lớn trong quá trình suy luận, giúp tránh khỏi những kết luận sai lầm, phiến diện. 1.2.2. Phân loại suy luận logic Căn cứ vào cách thức suy luận đi từ tri thức chung đến tri thức riêng hay từ tri thức riêng đến tri thức chung, người ta chia suy luận thành hai dạng cơ bản là: diễn dịch và qui nạp. Ngoài ra, còn có một hình thức suy luận đặc 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 480 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 7 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 6 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 7 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 87 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn