intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Chuheo Dethuong25 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

73
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu làm rõ một số nguồn gốc hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ HÀ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2007
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 NỘI DUNG ......................................................................................................................... 13 CHƢƠNG 1. NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHẬT GIÁO ................................................................................................................................... 13 1.1. Một số nguồn gốc của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Phật giáo ........... 13 1.1.1. Truyền thống gia đình ................................................................. 13 1.1.2. Truyền thống, văn hóa dân tộc ................................................... 17 1.1.3. Tinh hoa văn hóa nhân loại ........................................................ 21 1.1.4. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ....................................... 26 1.1.5. Chủ nghĩa Mác – Lênin .............................................................. 29 1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Phật giáo ................................. 31 1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo Phật ......................... 31 1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, tự do tín ngưỡng của đạo Phật ..................................................... 37 1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết Phật giáo . 40 1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp cận từ góc độ văn hóa đối với Phật giáo........................................................................................................ 45 1.2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá trị của đạo Phật ................... 49 CHƢƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHẬT GIÁO CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................................................ 56 2.1. Khái quát tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay .......................... 56 2.2. Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Phật giáo của Đảng, Nhà nƣớc ta ..................................................................................... 67 2.2.1. Đảng, Nhà nước đề ra đường lối, chính sách chung cho các vấn đề tôn giáo............................................................................................. 67 2.2.2. Đảng, Nhà nước đề ra đường lối, chính sách riêng đối với đạo Phật ....................................................................................................... 79 2.2.3. Một số kiến nghị đề xuất ............................................................. 86 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 97 1
  3. BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT CNCS : Chủ nghĩa Cộng sản CNXH : Chủ nghĩa xã hội GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam KHXH : Khoa học xã hội 2
  4. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn Đỗ Thị Hà 3
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm đến bến bờ vinh quang. Cả cuộc đời Người là tấm gương đạo đức cho mọi thế hệ noi theo. Tư tưởng của Người là kho tàng tri thức vô giá của cả dân tộc Việt Nam. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh, điều kiện của đất nước. Tại các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: Đảng và Nhà nước ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng lại tiếp tục nhấn mạnh bài học lớn đầu tiên qua thực tiễn hai mươi năm đổi mới là “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng”[18, 131]. Theo định hướng chung đó, việc học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thấm nhuần hệ thống tư tưởng sâu sắc, vận dụng một cách sáng tạo các tư tưởng đó trong tình hình hiện nay vừa là yêu cầu lý luận, vừa là đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều vấn đề, nhiều nội dung phong phú, rộng lớn đã được các học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Một trong các nội dung trong hệ thống tư tưởng của Người hiện nay đang thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu là tư tưởng của Người về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. Tính cho đến thời điểm hiện nay, nhiều hội thảo khoa học đã được tổ chức, khá nhiều kết quả nghiên cứu chuyên khảo về vấn đề trên đã được xuất bản. Tuy nhiên, ở một phạm vi hẹp hơn là tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo, các công trình nghiên cứu đã được công bố còn hạn chế. 4
  6. Như chúng ta đã biết, Phật giáo là một tôn giáo lớn đã được du nhập vào Việt Nam khá sớm và tồn tại trong một thời gian dài cho đến ngày nay. Trải qua nhiều thăng trầm, biến động trong lịch sử, Phật giáo đã gắn bó sâu sắc với dân tộc Việt Nam, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của mọi người con đất Việt không chỉ trong quá khứ mà cả hiện tại. Phật giáo cũng đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh trên nhiều phương diện, tư tưởng. Ngược lại, Hồ Chí Minh cũng đã dành nhiều sự quan tâm ưu ái đối với Phật giáo. Như vậy, việc lựa chọn tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung, Phật giáo nói riêng là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Nó sẽ mở ra một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, làm mở rộng và phong phú thêm nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh ở thời điểm hiện tại. Mặt khác, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo theo đánh giá của chúng tôi còn có ý nghĩa quan trọng. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu khai thác ở các nguồn gốc như Nho giáo với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh… Do vậy, với đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ một bộ phận mới trong việc nghiên cứu nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh: Phật giáo với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa, trong điều kiện ngày nay, tôn giáo đang vận động theo các xu hướng phức tạp. Các thế lực thù địch đang hàng ngày, hàng giờ lợi dụng các sơ hở của xu hướng vận động đó để gây mất ổn định chính trị, phá hoại cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH của ta. Việt Nam đang là tâm điểm của âm mưu “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Cho nên vấn đề tôn giáo đang là vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Ngay cả tôn giáo Phật giáo, một tôn giáo đã gắn bó lâu dài cùng dân tộc Việt Nam cũng không tránh khỏi bị lợi dụng bởi âm mưu phản động của các thế lực thù 5
  7. địch. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề tôn giáo và đưa ra các tư tưởng chỉ đạo cho phù hợp với tình hình thực tế. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát huy và kế thừa hơn nữa các di sản chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân ta cũng là một yêu cầu tất yếu. Vì tất cả các lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Các công trình nghiên cứu đều tập trung khai thác ở các góc độ khác nhau trong tư tưởng của Người. Các vấn đề đã được nghiên cứu nhiều như: nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, CNXH…Mỗi công trình nghiên cứu đều làm sáng tỏ, sâu sắc và phát hiện thêm nhiều giá trị mới trong tư tưởng của Người. Theo tình hình chung đó, việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu. Ở lĩnh vực này, có thể khái quát các mảng vấn đề đã được công bố như sau: 1, Các công trình tổng hợp có liên quan là nghiên cứu tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu đó đã nêu bật thực trạng, đặc trưng của tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay dưới tác động của các tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Có thể kể một số các công trình tiêu biểu: - Tác giả Đặng Nghiêm Vạn với công trình “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. 6
  8. Đây là kết quả kế thừa từ đề tài khoa học cấp nhà nước KHXH - 04 - 06 “Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước”. Ở công trình nghiên cứu này, GS. Đặng Nghiêm Vạn đã trang bị cho người đọc những vấn đề lý luận chung nhất về tôn giáo, trình bày đặc điểm và tình hình tôn giáo ở Việt Nam cũng như đặc trưng, vai trò cụ thể của các tôn giáo lớn. Điểm đáng chú ý là các tôn giáo này đều được minh họa cụ thể, chi tiết từ cuộc điều tra xã hội học về tôn giáo ở ba thành phố lớn Hà nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả công trình nghiên cứu cũng đã phân tích và làm rõ một số vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng chính sách tôn giáo lớn ở Việt Nam hiện nay. - Tác giả Đỗ Quang Hưng với cuốn “Về vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam. Lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2005. Theo chúng tôi đây là một công trình tổng hợp đã khái quát các nội dung cơ bản liên quan đến lĩnh vực tôn giáo như tác giả khái quát bối cảnh quốc tế của vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, phân tích dưới góc độ triết học những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo cũng như bước khởi đầu nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo. Đặc biệt là hệ thống hóa sự phát triển về quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề tôn giáo qua các thời kỳ cách mạng. Các văn bản pháp luật về vấn đề tôn giáo nói chung, các tôn giáo cụ thể (Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa hảo) đều được tác giả khái quát và kiến giải. 2. Liên quan trực tiếp đến nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng có các công trình lớn sau: - Công trình của Viện nghiên cứu tôn giáo, “Hồ Chí Minh về tôn giáo tín ngưỡng” Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. Với ba phần cơ bản, có thể khẳng định đây là cuốn cẩm nang cho những ai bước đầu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng. 7
  9. Nội dung cuốn sách đều là các chỉ dẫn quan trọng cho những ai bước đầu nghiên cứu tìm hiểu, học hỏi và kế thừa ở lĩnh vực này. - Công trình của tập thể tác giả thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ đồng chủ biên, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Đây là một công trình nghiên cứu lớn, tập hợp, tổng kết tất cả các bài viết ở các góc độ khác nhau, nghiên cứu sâu về các khía cạnh phong phú trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, có tác dụng chỉ dẫn và định hướng cho các công trình nghiên cứu sau tiếp tục đi sâu tìm hiểu về lĩnh vực này. - Công trình của tác giả Hồ Trọng Hoài và Hoàng Thị Nga “Quan điểm của C. Mác - PH.Ăngghen - V.I Lênin, Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. Cuốn sách gần 200 trang đã khái quát những vấn đề lý luận chung nhất về các quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh về tôn giáo và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo. Khác với các nghiên cứu trước, chúng tôi nhận thấy đây là công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam một cách khái quát và dưới góc độ triết học mới mẻ. Các tác giả không chỉ chú ý về nội dung mà còn phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn cho các quan điểm của mình. 3. Xung quanh vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo, chúng tôi nhận thấy còn ít công trình được công bố. Theo thống kê của chúng tôi, đáng lưu ý có công trình của tác giả Phùng Hữu Phú đã được xuất bản thành sách “Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam (1945 - 1969)”. Ở công trình nghiên cứu này tác giả là người đầu tiên đã cố gắng khái quát nội dung, khẳng định mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Phật giáo dân tộc, 8
  10. tìm hiểu những nhân tố triết lý Phật giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên do dung lượng ít ỏi, tác giả chưa thể chỉ dẫn nhiều Hồ Chí Minh nói gì, viết gì, nghĩ gì về Phật giáo cũng như chưa mở rộng nghiên cứu của mình, đi sâu tìm hiểu những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng ta. Bên cạnh công trình này, chúng tôi nhận thấy một số tác giả khác cũng có xu hướng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với Phật giáo. Song, hầu hết các công trình của các tác giả này được trình bày dưới dạng bài viết nhỏ, đăng trên các tạp chí hoặc các bài phát biểu tại các hội thảo khoa học. Tiêu biểu như các bài viết nhỏ được tập hợp trong cuốn “Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh” tại Thừa Thiên Huế lần I”, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1994: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và giáo lý đạo Phật” của Thượng Tọa Thích Đức Thanh; “Hồ Chí Minh trong lòng tăng ni, Phật tử Thừa Thiên Huế” của tác giả Đặng Văn Chương; “Khát vọng giải phóng những người cùng khổ, nét lớn trong sự gặp gỡ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Phật giáo” của tác giả Lê Cung. Ngoài ra, đáng chú ý còn có “Hồ Chí Minh với Phật giáo” của Lê Cung ; “Cuộc gặp gỡ đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam” của tác giả Minh Chi. Hai bài viết này được đăng trên cuốn “Sáng ngời Hồ Chí Minh những bài viết tâm đắc”, do tác giả Phan Văn Hoàng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà nội, 2005; Bài viết “Hồ Chí Minh với Phật giáo” đăng trên cuốn “Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh” của tác giả Đinh Xuân Lâm và Bùi Đình Phong, Nhà xuất bản Lao Động, 2005. Tất cả các bài viết trên đều là các bài viết nhỏ của các tác giả quan tâm đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo. Mỗi bài viết đề cập đến các góc độ khác nhau của vấn đề, song hầu hết các tác giả đều tìm hiểu điểm tương đồng trong tư tưởng Hồ Chí Minh với giáo lý đạo Phật, tìm nét tương đồng giữa Hồ Chí Minh với đấng chí tôn của đạo Phật là Đức Phật tổ Thích 9
  11. Ca. Ngoài ra các tác giả cũng bộc lộ tình cảm ngưỡng mộ, mến yêu trước một vị lãnh tụ mang trong mình tâm thức sâu sắc của đạo Phật. Do vậy, khi nghiên cứu đề tài này, từ góc độ tiếp cận triết học, chúng tôi đã tham khảo các công trình nghiên cứu nói trên với các gợi ý quan trọng, nhất là chú ý kế thừa và phát triển các thành quả tư tưởng của tác giả Phùng Hữu Phú và các tác giả nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh với Phật giáo. Ngoài ra, chúng tôi cố gắng đi sâu nghiên cứu từ góc độ triết học, giá trị học, triết học văn hoá để khai thác các giá trị tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh về Phật giáo và đặc biệt là đi sâu tìm hiểu sự vận dụng các tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ một số nguồn gốc hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Nhiệm vụ nghiên cứu +Tìm hiểu một số nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo. + Đi sâu nghiên cứu, hệ thống hóa các tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo. +Phân tích sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng để chỉ đạo tình hình tôn giáo hiện nay, nhất là tình hình Phật giáo. +Đề ra các kiến nghị, đề xuất của bản thân để góp phần làm cơ sở cho các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Phật giáo qua các văn bản, trước tác Người để lại, qua các câu chuyện thực tế trong cả cuộc đời hoạt động của Người; các chủ trương, chính 10
  12. sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng giai đoạn hiện nay dưới ánh tư tưởng Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài giới hạn nghiên cứu chủ yếu ở các quan điểm của Hồ Chí Minh về Phật giáo và một số nội dung tư tưởng của Người về tôn giáo, giới hạn ở các thời điểm lịch sử, các địa điểm cụ thể có liên quan đến việc hình thành cũng như nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo. Mặt khác, chúng tôi cũng giới hạn nghiên cứu ở các chủ trương, chính sách cơ bản nhất của Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Đề tài vận dụng những phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lấy các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, thống kê, lôgic - lịch sử … 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đã phân tích, hệ thống hóa được những nguồn gốc và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo. Luận văn cũng đã phân tích được thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta vào việc đề ra các chính sách đối với tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn cũng đề xuất được một số các kiến nghị về mặt giải pháp để góp phần làm cơ sở cho các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. 7. Ý nghĩa của luận văn Với luận văn này, chúng tôi đã làm phong phú, sâu sắc thêm những hiểu biết về tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực tôn giáo mà cụ thể là tư 11
  13. tưởng của Người về Phật giáo. Do vậy, luận văn có ý nghĩa góp thêm vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống nhiều công trình lớn nghiên cứu về tư tưởng của Người. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về vấn đề này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. 12
  14. NỘI DUNG Chương 1 NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHẬT GIÁO 1.1. Một số nguồn gốc của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Phật giáo 1.1.1. Truyền thống gia đình Hồ Chí Minh sinh ra tại một gia đình nhà nho nghèo thuộc Kim Liên - Nam Đàn - Nghệ An - một vùng đất hiếu học, sinh ra nhiều tài danh về nho - Phật - Đạo yêu nước, thương dân. Gia đình Bác cũng là một gia đình có truyền thống hiếu học, khổ học. Cả hai bên nội, ngoại: ông nội - Nguyễn Sinh Nhậm, bà nội - Hà Thị Hy, ông ngoại - Hoàng Đường, bà ngoại - Nguyễn Thị Kép đều là các bậc tiền bối hiếu học, ham học. Tuy không có ai đỗ đạt cao nhưng cũng góp phần làm đông đảo thêm đội ngũ trí thức bình dân ở địa phương, duy trì truyền thống hiếu học, khổ học của quê hương. Cha Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc là một người nổi tiếng thông minh, học giỏi ngay từ khi còn nhỏ. Lớn lên, dù hoàn cảnh gia đình rất mực khó khăn nhưng ông vẫn theo đuổi sự nghiệp học hành. Từ một ông đồ dạy học trong làng, ông đã khổ học, rèn luyện, vượt qua gian truân để trở thành một ông phó Bảng. Với tinh thần hiếu học, khổ học, các thế hệ đi trước đã ảnh hưởng đến các thế hệ về sau mà trực tiếp là cậu bé Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành. Từ nhỏ cậu đã bộc lộ tư chất thông minh, ham học, ham hiểu biết, tìm tòi những điều mới lạ. Những năm tháng theo cha nay đây, mai đó cậu đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới qua các trường lớp và sách vở. Sau này cuộc sống dù gian truân nơi xứ người nhưng cậu vẫn miệt mài học tập, tích lũy tri thức để đạt được mục đích của mình. Chính sự khổ luyện, ham học hỏi thời trẻ đó ở Hồ Chí Minh là cơ sở để sau này Người tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa dân tộc trong đó có Phật giáo. 13
  15. Từ đó hình thành trong tư tưởng của Người một hệ thống sâu sắc những tình cảm, nội dung về một tôn giáo mang đậm nét dân tộc - tôn giáo Phật giáo. Gia đình Hồ Chí Minh ngoài truyền thống hiếu học còn là hiện thân của lòng nhân ái, bao dung độ lượng “từ, bi, hỷ, xả”. Có thể nói lòng nhân ái cao cả của ông bà ngoại là cụ Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép đã làm thay đổi cuộc đời thân phụ của Bác. Thân phụ Bác từ nhỏ đã là trẻ mồ côi, có hoàn cảnh éo le, phải sống nhờ vào người anh cùng cha khác mẹ. Cảm thương trước một cậu bé nghèo khổ nhưng thông minh, ham học, cụ Hoàng Đường lúc bấy giờ là thầy đồ trong làng đã xin về nuôi và dạy cho học. Có thể nói, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chính là sản phẩm của tấm lòng nhân ái ấy, nếu không có tấm lòng nhân ái cao cả đó, có lẽ chỉ có một anh nho Sắc hay một ông đồ Sắc. Cũng từ lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”, bà Hoàng Thị Loan khi lớn lên đã vượt qua lễ giáo phong kiến, môn đăng hộ đối, đem lòng cảm mến, yêu thương ông Nguyễn Sinh Sắc và kết thành tình nghĩa vợ chồng sâu nặng. Trưởng thành trong tình yêu thương, đùm bọc của mọi người, ông Nguyễn Sinh Sắc đã tô đậm thêm lòng nhân ái vốn có của mình. Ông là hiện thân của tình yêu thương nhân dân nghèo khổ. Khi vinh quy về làng, vì sợ tốn kém cho nhân dân, ông đã khước từ lễ đón rước linh đình. Trước khi rời quê vào kinh đô làm quan, ngoài việc để lại cho cô con gái ít ruộng để sinh nhai, ông đã bán hết và chia cho dân nghèo. Sau này, cũng chính từ lòng nhân ái, thương quần chúng nghèo khổ, căm ghét chốn quan trường tham ô, lộng hành, ông đã từ quan về làm ông đồ dậy chữ trong làng và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ lòng nhân ái, bao dung cao cả của ông bà, cha mẹ đó đã tác động đến hai người anh và chị của Bác là ông Nguyễn Tất Đạt, bà Nguyễn Thị 14
  16. Thanh. Lớn lên, họ đều thấu hiểu nỗi khổ cực của nhân dân và trở thành những người yêu nước, hoạt động cách mạng vì dân, vì nước. Chính những nhân cách cao cả trong gia đình Hồ Chí Minh đã tác động đến Người ngay từ khi còn nhỏ, hình thành lên ở Người cái tâm từ bi, nhân ái, bao dung của đạo Phật. Người dành tình thương cho mọi tầng lớp nhân dân: từ thương người nghèo khổ đói ăn, mặc rách đến thương nhân dân, đồng bào đang rên riết dưới những tầng áp bức, bóc lột của thực dân. Đỉnh cao của lòng nhân ái đó đã biến tư tưởng thành hành động - Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nhân loại cùng khổ dù cho có phải hy sinh bản thân mình. Tất cả các tình cảm quý báu đó sau này đã giúp Hồ Chí Minh hiểu được những triết lý sâu sắc của đạo Phật, thấy được những giá trị đích thực của tôn giáo đã gắn bó nhiều năm với dân tộc. Từ đó hình thành ở Người những tư tưởng, tình cảm sâu sắc về Phật giáo, ca ngợi vai trò to lớn, giá trị đạo đức, văn hóa của Phật giáo. Những người thân trong gia đình Bác không chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành tâm từ bi, nhân ái của Hồ Chí Minh mà còn trực tiếp tác động đến việc hình thành tư tưởng của Người về Phật giáo. Trước hết, bà ngoại, mẹ và chị gái cùng với những hoạt động thực tiễn gắn bó với đạo Phật của họ đã ảnh hưởng đến Bác. Ba người phụ nữ ít nhiều mang trong mình tâm linh của người mộ đạo. Họ am hiểu nhiều thơ ca, tục ngữ dân gian, thường xuyên tham gia các lễ hội đình chùa. Đặc biệt bà ngoại Nguyễn Thị Kép là “người rất mộ đạo Phật, thường xuyên đến thăm viếng, dâng hương hoa ở các chùa chiền”[65, 14]. Cụ lên chùa một phần có thể do tâm lý người già, song ở cụ cũng có niềm tin nơi cửa Phật, mong muốn sự che chở, trợ giúp cho cuộc sống của gia đình, dân làng cũng như cả nước thoát khỏi đói khổ, xiềng xích thực dân. Vì thế, mẹ và chị gái của Bác cũng chịu 15
  17. ảnh hưởng từ bà ngoại. Do vậy, ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh thường theo họ lên chùa dâng hương làm lễ cầu Phật. Tất cả các ảnh hưởng thời thơ ấu đó đã tác động nhiều đến Người. Sau này, Người đã dành nhiều tình cảm sâu nặng cho phụ nữ, viết nhiều trang viết thể hiện nỗi cảm thông, thấu hiểu với nỗi khổ của nhiều người phụ nữ. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc nhất đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo chính là thân phụ của Người - cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người nắm vững tam giáo Nho, Phật, Đạo, gắn bó với đạo Phật, tinh thông Phật học. Sử sách đã ghi chép lại nhiều hoạt động của cụ phó bảng liên quan đến Phật giáo: Một thời gian dài khi chán trường chốn quan cụ thường xuyên lui tới các chùa đàm đạo với các nhà sư, nghiên cứu kinh Phật, kết hợp với bắt mạch, bốc thuốc, chữa bệnh cho nhân dân. Những vị sư mà cụ thường tiếp xúc, đàm đạo trong thời gian này là Chư tôn hòa thượng Bích Liên, Liên Tôn ở Bình Định; Huệ Đăng ở chùa Thiên Thai (Bà Rịa Vũng Tàu); Từ văn ở chùa Hội Khánh (Bình Dương)…Cụ Nguyễn Sinh Sắc vào chùa là để nghiên cứu Phật học. Cho nên cụ rất am hiểu và tinh thông Phật học. Cụ đã từng được cấp chứng chỉ quy y do Hòa thượng Hồng Đại Hữu Phước, trụ trì chùa Sùng Phước (Nam Vang – Huế) cấp ngày 2 tháng 7 năm Nhâm Tuất tức ngày 24 tháng 8 năm 1922. Do am hiểu Phật học như vậy nên hầu hết các chùa mà cụ lưu đến đều có bút tích do cụ để lại: “Tiên tức Phật, Phật tức tâm, bát vạn trần lạo độ tịnh tâm Linh như hư, hư như giác, tam thiên thế giới tổng bao hàm” Dịch là: “Tiên là Phật, Phật ở trong tâm, tám vạn khổ đau đều do ở tâm tạo ra Linh như không có, không mà có, ba ngàn thế giới đều nằm trong đó”[25, 98]. 16
  18. Nếu không xuất phát từ một một tình cảm sâu sắc và có tâm huyết với Phật giáo, không có một trình độ hiểu biết thâm sâu triết lý Phật học thì không thể viết lên những câu mang đậm triết lý Phật giáo như vậy và cũng không thể nhiệt tình tham gia vào các công việc của một tín đồ mộ đạo: “Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã từng là cố vấn cho hòa thượng Khánh Hòa - một người chủ xướng phong trào chấn hưng Phật giáo, gây dựng tổ chức Phật giáo. Trong những năm đầu thế kỷ XX, cụ Sắc đã gợi ý sáng tỏ cho cụ Khánh Hòa là phải tổ chức, có tổ chức mới có cơ sở để làm việc, để tạo thế mạnh và hoằng đạo, phải tổ chức thành lập Giáo hội Phật giáo. Bấy lâu cụ Khánh Hòa có ý, giờ đây được cụ Sắc làm sáng tỏ hẳn lên và cụ Sắc trở thành một lý thuyết gia của cụ Khánh Hòa”[65, 12-13]. Rõ ràng, có thể khẳng định rằng quê hương, dòng tộc, những người thân trong gia đình Hồ Chí Minh là cái nôi nuôi mầm gien Phật giáo trong Bác. Từ ông bà đến cha mẹ, anh chị đều có mối quan hệ mật thiết với đạo Phật thì không thể nói rằng Hồ Chí Minh không có mối quan hệ với đạo Phật. Ngược lại, chính Hồ Chí Minh đã thực hành lối sống như là hiện thân của Đức Phật trong đời thường. Những câu chữ Người dùng không phải là ngôn ngữ Phật giáo nhưng nội dung yêu thương con người thì hiện hữu triết lý của đạo Phật. 1.1.2. Truyền thống, văn hóa dân tộc Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử đoàn kết dựng nước và giữ nước. Lịch sử đó đã tạo dựng một nền tảng văn hóa riêng, phong phú, bền vững với những giá trị truyền thống, những tinh hoa tốt đẹp và cao quý. Đó là chủ nghĩa yêu nước, ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống cần cù lao động, đoàn kết dân tộc. Đây chính là những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của người thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc ra đi tìm đường cứu nước. Nó là cơ sở xuất phát, cũng là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động 17
  19. cách mạng của Người. Đây cũng chính là cơ sở, nguồn gốc chính yếu hình thành tư tưởng về Phật giáo ở Người về sau. Truyền thống yêu nước Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam có lịch sử hàng ngàn năm. Ứng với mỗi thời kỳ lịch sử, truyền thống yêu nước thể hiện những nội dung phong phú và sâu sắc khác nhau. Kế thừa truyền thống đó của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển thành nội dung chủ nghĩa yêu nước phù hợp với thời đại mới. Ở Người, yêu nước là quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, là lao vào hoạt động thực tiễn để tìm chân lý cứu nước. Trong hoàn cảnh đất nước dưới ách thống trị của thực dân, nhân dân bị đầy đọa lầm than cơ cực như kiếp ngựa trâu, giá trị văn hóa dân tộc bị trà đạp, xúc phạm, quần chúng nhân dân đã nhiều lần đánh đuổi kẻ thù nhưng không thành công thì chính truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Rõ ràng, yêu nước ở Hồ Chí Minh là xuất phát từ lòng trắc ẩn, từ bi, yêu thương những con người cùng khổ. Yêu nước là nung nấu một nhiệt huyết ra đi tìm đường cứu quần chúng khỏi cảnh lầm than, là luôn luôn mong muốn đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào, dân tộc. Người nhấn mạnh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[46, 161]. Truyền thống yêu nước là cơ sở chủ đạo hình thành hệ thống tư tưởng về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo ở Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở cho việc hình thành các quan điểm của Người đánh giá về giá trị nhân văn, nhân bản của đạo Phật, cũng như các tư tưởng đánh giá vai trò to lớn của đạo Phật đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, tham gia nhiệt tình vào cuộc đấu tranh vì tự do cho đất nước. 18
  20. Truyền thống cần cù, nhẫn nại trong lao động, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất Dân tộc Việt Nam từ buổi bình minh của lịch sử vừa phải chống chọi với thiên tai, lũ lụt, hạn hán vừa phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Chính những hoàn cảnh này đã góp phần hình thành nên đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất của nhân dân ta. Không ai có thể phủ nhận rằng con người Việt Nam là cần cù trong lao động, thông minh sáng tạo trong sản xuất. Không chỉ cần cù trong lao động sản xuất, lao động vật chất, lao động trí óc, con người Việt Nam còn cần cù trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Truyền thống này đã được đúc kết trong các thần thoại, truyền thuyết, tục ngữ ca dao và cả văn chương bác học. Truyền thống đó không chỉ thể hiện ở từng cá nhân mà cả cộng đồng dân tộc. Nó là một đức tính lớn của dân tộc, góp phần gìn giữ đất nước trong lịch sử và xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Truyền thống yêu lao động, siêng năng cần cù là đức tính quý báu của người dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nghệ An nói riêng. Đây là miền quê có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, đất đai khô cằn sỏi đá. Cho nên con người luôn phải lao động cật lực vì miếng cơm manh áo. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, con người Nghệ An luôn phải chống chọi với thiên nhiên, phải đào kênh, lấp biển, đắp đập, khai hoang để mưu sinh. Chính việc lao động và cải tạo thiên nhiên đó làm cho con người xứ Nghệ được tôi luyện càng trở lên cần cù chịu khó, tin yêu, quý trọng sức lao động của mình cũng như những thành quả lao động. Bản lĩnh nhẫn nại, kiên cường trong lao động như vậy đã ăn sâu trong tư tưởng, nhận thức của Hồ Chí Minh từ khi còn nhỏ. Mặt khác, ngay từ tuổi niên thiếu, Người cũng đã trải qua thực tiễn lao động sản xuất vất vả phục vụ cuộc sống. Khi vắng cha, mất mẹ, Người phải tự 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1