BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Ngọc Trang
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ DÂN GIAN Ê ĐÊ
DƯỚI GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Ngọc Trang
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ DÂN GIAN Ê ĐÊ
DƯỚI GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, phòng Khoa học Công
nghệ - Sau đại học, thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi học tập nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin dành phần trang trọng để cảm ơn TS. Hồ Quốc Hùng – thầy đã tận
tình giảng dạy, hướng dẫn tôi sự cẩn trọng, nghiêm túc trong công việc khoa
học, động viên tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn.
Tp. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 3 năm
2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1.TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ
VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TRUYỆN
CỔ Ê ĐÊ
7
1.1. Vài nét về dân tộc Ê đê ........................................................................................ 7
1.1.1. Địa bàn cư trú và tổ chức xã hội ................................................................... 7
1.1.2. Những biểu hiện về sắc thái văn hóa ............................................................ 9
1.2. Vấn đề phân loại truyện cổ dân gian Ê đê ......................................................... 13
1.2.1. Tình hình sưu tầm và phân loại .................................................................. 13
1.2.2. Đề xuất tiêu chí phân loại ........................................................................... 21
Chương 2 :THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT
45
2.1. Thần thoại .......................................................................................................... 45
2.1.1. Về đề tài ...................................................................................................... 45
2.1.1.1. Thần thoại giải thích sự tạo lập thế giới............................................... 45
2.1.1.2. Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên ..................................... 52
2.1.1.3 Thần thoại giải thích nguồn gốc tộc người ........................................... 53
2.1.2. Các mô típ trong thần thoại Ê đê ................................................................ 56
2.1.2.1. Mô típ người khổng lồ kiến tạo ........................................................... 56
2.1.2.2. Mô típ hồng thủy .................................................................................. 57
2.1.2.3. Mô típ quả bầu ..................................................................................... 59
2.1.2.4. Mô típ cây nối trời và đất ..................................................................... 62
2.2Truyền thuyết ....................................................................................................... 64
2.2.1. Về đề tài – cốt truyện .................................................................................. 64
2.2.1.1. Truyền thuyết lịch sử ........................................................................... 64
2.2.1.2 Truyền thuyết địa danh ......................................................................... 71
2.2.2 Các môtíp trong truyền thuyết ..................................................................... 74
2.2.2.1 Môtíp gươm thần .................................................................................. 74
2.2.2.2 Môtíp thực hiện sứ mệnh ...................................................................... 76
Chương 3 :TRUYỆN CỔ TÍCH
78
3.1Truyện cổ tích thần kì .......................................................................................... 78
3.1.1. Về đề tài – Cốt truyện ................................................................................. 78
3.1.1.1. Cổ tích về nhân vật mồ côi .................................................................. 78
3.1.1.2. Cổ tích về nhân vật dũng sĩ .................................................................. 88
3.1.1.3 Cổ tích về nhân vật mang lốt ................................................................ 96
3.1.2. Các mô típ chính ......................................................................................... 98
3.1.2.1 Môtíp sự ra đời kì lạ .............................................................................. 98
3.1.2.2 Mô típ bà Đuôn Sun .............................................................................. 99
3.1.2.3 Mô típ thần Rồng ................................................................................ 100
3.1.2.4. Mô típ về sự xuất hiện con số 7 ........................................................ 100
3.2 Truyện cổ tích thế sự......................................................................................... 102
3.2.1. Về đề tài – cốt truyện ................................................................................ 102
3.2.1.1. Nhóm truyện kể địa danh ................................................................... 102
3.2.2.2. Nhóm truyện kể khác ......................................................................... 104
3.2.2. Các mô típ chính ....................................................................................... 107
3.2.2.1. Mô típ sụt đất ..................................................................................... 107
3.2.2.2 Mô tip hóa thân ...................................................................................... 109
3.2.2.3. Mô típ đá thiêng ................................................................................. 109
3.1.2.4. Mô típ hồn lúa ................................................................................... 111
3.3. Truyện cổ tích loài vật ..................................................................................... 113
3.3.1. Về đề tài .................................................................................................... 113
3.3.2. Những mô típ chính .................................................................................. 115
3.3.2.1. Mô típ xử kiện .................................................................................... 115
3.3.2.2 Mô tip mẹo lừa .................................................................................... 115
KẾT LUẬN 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 119
PHỤ LỤC .............................................................................................................................. 130
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Ê đê là dân tộc có bề dày văn hóa lịch sử, sinh sống lâu đời ở
Đăk Lăk, chiếm tỉ lệ đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở Đăk Lăk.
Người Ê đê từ xa xưa đã có một nền văn học dân gian phong phú. Trong đó
có một bộ phận truyện cổ đặc sắc chiếm một vị trí đáng kể trong đời sống văn
hóa. Người Ê đê gọi kho tàng truyện kể của mình là klei đưm (klei có nghĩa là
lời, bài, chuyện; đưm là những câu chuyện xưa). Truyện cổ nảy sinh từ chính
cuộc sống lao động của đồng bào Ê đê. Trong sinh hoạt văn hóa truyền thống,
ngoài kể khan (sử thi), các già làng và nghệ nhân còn kể clay đưm cho con
cháu nghe dưới ánh lửa bập bùng trong những ngôi nhà sàn. Mỗi một câu
chuyện thấm đẫm trong đó biết bao triết lí nhân sinh, cách cảm cách nghĩ của
cả một cộng đồng dân cư có bản sắc văn hóa riêng, tập tục riêng trên một địa
bàn cư trú gắn liền với núi rừng Tây Nguyên. Đọc truyện cổ Ê đê, người ta
thấy được bức tranh đời sống tinh thần có nhiều nét độc đáo của người Ê đê
trên dải đất Tây Nguyên. Nghiên cứu truyện cổ Ê đê sẽ là một công việc khoa
học hứa hẹn nhiều khám phá thú vị. Tuy nhiên, truyện cổ là một khái niệm
bao quát gồm nhiều thể loại. Tiếp cận truyện cổ dân gian Ê đê không thể bỏ
qua vấn đề nghiên cứu về loại hình của nó. Hiện nay, chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu truyện cổ Ê đê một cách hoàn chỉnh về mặt thể loại.
Việc xác định truyện cổ Ê đê dưới góc độ thể loại là một việc cần thiết. Vì
vậy, đề tài của luận văn tập trung xác định vấn đề thể loại của truyện cổ dân
gian Ê đê từ hệ thống đến cấu tạo cốt truyện. Chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu này trong một bối cảnh cấp thiết. Hiện nay, ngoài một số lượng ít
ỏi truyện cổ Ê đê đã được sưu tầm và xuất bản, truyện cổ Ê đê vẫn tồn tại
trong đời sống cộng đồng người Ê đê nhưng đang phải đối diện với nguy cơ
sẽ mất đi vĩnh viễn khi chịu sự tác động của nếp sống hiện đại. Chỉ còn
những bậc cao niên nhớ được truyện cổ và khi lớp người già lần lượt ra đi,
những truyện kể kì diệu cũng sẽ theo họ đi vào quên lãng.
Chúng tôi mong rằng đề tài nghiên cứu của luận văn sẽ làm được công
việc phân loại truyện cổ Ê đê một cách hoàn chỉnh và sẽ là bước mở đầu cho
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn về truyện cổ dân gian Ê đê sau
này.
2. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành sưu tầm và khảo sát toàn bộ truyện cổ dân gian Ê đê, chúng
tôi xác định mục đích nghiên cứu của luận văn là : xây dựng diện mạo truyện
cổ dân gian Ê đê một cách có hệ thống từ cách phân loại đến hệ thống cốt
truyện và đi vào mô típ để thấy được đặc trưng về thể loại của truyện cổ Ê đê.
3. Lịch sử vấn đề
Hiện tại, chúng tôi tìm được và khảo sát những tài liệu liên quan đến
đề tài của luận văn như sau:
Công trình Văn hóa dân gian Ê đê của tác giả Ngô Đức Thịnh (Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1992), bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê
đê của tác giả Ngọc Anh (Tạp chí Văn học số 3 năm 1996), Văn học dân gian
Ê đê, Mơ nông của tác giả Trương Bi (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2007),
bài viết Clay đưm của người Ê đê của tác giả Đỗ Hồng Kì (Tạp chí Dân tộc
học số 2 năm 2011).
Trước hết là tài liệu Văn hóa dân gian Ê đê. Đây là công trình nghiên cứu
về tổng thể văn hóa của dân tộc Ê đê. Trong đó tác giả khảo sát về kiến trúc
nghệ thuật, luật tục cũng như các lễ thức trong đời sống cộng đồng Ê đê. Tài
liệu này có dành vài trang điểm qua vài nét về sử thi và truyện cổ. Ở đây
truyện cổ Ê đê được xem xét như một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian
Ê đê và được phân loại thành ba bộ phận: truyền thuyết, truyện cổ tích và
truyện ngụ ngôn. Thể loại thần thoại không thấy được nói đến. Điều này đặt
ra cho chúng tôi một nghi vấn về vấn đề phân loại. Bởi lẽ thần thoại là hình
thức nghệ thuật ra đời đầu tiên của loài người. Một dân tộc có bề dày văn hóa,
có một đời sống tinh thần gắn chặt với tín ngưỡng vạn vật hữu linh như dân
tộc Ê đê chắc hẳn phải tồn tại những câu chuyện thần thoại ở một số lượng
nào đó.
Thứ hai là công trình Văn học dân gian Ê đê, Mơ nông, tác giả Trương
Bi đã khai thác những vấn đề cơ bản của văn học dân gian Ê đê. Bên cạnh sử
thi, lời nói vần, truyện cổ Ê đê được dành khá nhiều trang viết và được trình
bày theo sự phân loại của tác giả. Theo Trương Bi, truyện cổ Ê đê chỉ có hai
tiểu loại là thần thoại và truyện cổ tích. Như vậy, theo tác giả này, truyện cổ Ê
đê không xuất hiện thể loại truyền thuyết.
Thứ ba là bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê đê của tác giả
Ngọc Anh. Tác giả chỉ đề cập đến nhóm truyện thần thoại trong truyện cổ Ê
đê. Theo tác giả, người Ê đê có một mảng truyện thần thoại rất phong phú và
đã tiến hành phân chia tiểu loại trong thần thoại thành các nhánh nhỏ trên cơ
sở nội dung phản ánh của thần thoại: thần thoại giải thích các hiện tượng tự
nhiên, thần thoại phản ánh tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên, thần
thoại phản ánh đời sống xã hội.
Thứ tư là bài viết Clay đưm của người Ê đê, tác giả Đỗ Hồng Kì đã khẳng
định giá trị của truyện cổ dân gian Ê đê nói chung qua việc đánh giá vắn tắt về
nội dung và nghệ thuật của truyện. Tác giả dẫn ra ba thể loại trong truyện cổ
Ê đê để minh họa cho những luận điểm của mình. Đó là thể loại truyền thuyết,
truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Ngoài ra, bài viết này không đề cập đến
vấn đề phân loại.
Từ những công trình trên có thể thấy, truyện cổ Ê đê còn nhiều điểm
thuộc về vấn đề phân loại chưa có sự nhất quán, đã được quan tâm đánh giá
nhưng chưa được nghiên cứu sâu. Điều đó cho thấy vấn đề phân loại truyện
cổ Ê đê cũng có nhiều sự khác biệt với nhiều quan điểm phân loại khác nhau.
Đây chính là lí do để chúng tôi tiến hành khảo sát trong đề tài luận văn này.
4. Phạm vi đề tài
Căn cứ vào nhiệm vụ khoa học của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo
sát toàn bộ truyện cổ dân gian Ê đê đã được xuất bản. Những văn bản truyện
có được trong quá trình điền dã sưu tầm chỉ mang tính chất tham khảo. Chúng
tôi chỉ tập hợp những văn bản truyện của người Ê đê ở địa bàn tỉnh Đăk Lăk
để phục vụ cho công việc nghiên cứu đồng thời chú ý xem xét truyện cổ Ê đê
trong mối quan hệ gắn liền với đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Ê đê ở
tỉnh Đăk Lăk. Do chưa đủ tài liệu và điều kiện cần thiết, chúng tôi mới chỉ
dừng ở việc phân loại và nghiên cứu theo cốt truyện, nhân vật và mô tip.
Theo đó, chúng tôi tiến hành thống kê và phân loại, chỉ ra những đặc
điểm của truyện cổ Ê đê ở từng thể loại. Việc thống kê mô tip cũng chỉ giới
hạn ở những thể loại mà chúng tôi thấy ổn định về phong cách thể loại .
Những thể loại nào mờ nhạt, chúng tôi chỉ dừng ở việc đánh giá về đề tài và
nêu một số suy nghĩ về hiện tượng của nó.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, miêu tả
Sau khi tập hợp văn bản truyện, chúng tôi thống kê các tác phẩm theo
số liệu cụ thể, miêu tả đề tài, kết cấu và phân chia các mô tip.
5.2. Phương pháp phân tích, so sánh
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích
để tìm hiểu đề tài, cấu tạo cốt truyện. Trong chừng mực chúng tôi có tiến
hành đối chiếu giữa truyện cổ Ê đê với truyện của dân tộc Kinh và một số dân
tộc cùng cư trú trên địa bàn Tây Nguyên.
5.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Chúng tôi có kết hợp tìm hiểu thể loại trên góc độ dân tộc học để hỗ trợ
cho việc khảo sát truyện cổ.
5.4. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa
Chúng tôi tiến hành phân loại những tác phẩm đã tập hợp được, lựa
chọn tác phẩm theo tiêu chí đã đặt ra và sắp xếp chúng vào từng mảng truyện,
nhóm truyện, nhóm mô típ để nhận diện được bản chất và đặc điểm thể loại
của chúng.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thực hiện đề tài này, luận văn sẽ xác lập được một hệ thống truyện cổ
dân gian đã được sưu tầm từ trước đến nay. Hệ thống tư liệu này được xác lập
theo quan niệm của người viết, mong rằng có thể trở thành tư liệu tham khảo
cho những người có nhu cầu nghiên cứu sâu hơn.
Kế thừa có chọn lọc công trình của người đi trước, chúng tôi mong
rằng luận văn sẽ xây dựng được diện mạo đầy đủ và góp một cách nhìn mới
mẻ, khoa học về vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê. Từ công trình này, chúng tôi
hi vọng tạo thêm một điểm nhấn trong bức tranh tổng thể về văn hóa tộc
người Ê đê.
7. Kết cấu của luận văn
Theo nhiệm vụ đặt ra, ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có ba chương tập trung vào các vấn
đề sau:
- Chương 1 : Tổng quan về dân tộc Ê đê và vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê
- Chương 2 : Thần thoại và truyền thuyết
- Chương 3 : Truyện cổ tích
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ VẤN ĐỀ
PHÂN LOẠI TRUYỆN CỔ Ê ĐÊ
1.1. Vài nét về dân tộc Ê đê
1.1.1. Địa bàn cư trú và tổ chức xã hội
Người Ê Đê hay Đêgar, còn có các tên gọi khác là Anăk Ea Ðê, Ra Ðê
(hay Rhađê), Êgar, là tộc người có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo,
ngữ hệ có dân số khá đông trong khu vực Đông Nam Á. Tùy theo vùng cư trú,
người Ê đê vẫn có những nét khác biệt ít nhiều về phương ngữ, sinh hoạt văn
hóa, tạo nên các nhóm địa phương khác nhau như nhóm Kpă, Atham, Mdthur,
Ktul, Bih.
Tỉnh Đăk Lăk là địa bàn sinh sống của 40 dân tộc thiểu số khác nhau.
Theo số liệu điều tra của Ban dân tộc tỉnh Đăk Lăk, người Ê đê ở Đăk Lăk
vào tháng 12/2003 là 271.111 người. Đồng bào Ê đê sống tập trung ở vùng
trung tâm Đăk Lăk – thành phố Buôn Mê Thuột và các huyện Krông Pach,
Krông Buk, Easup, Mdrah. Ngoài ra còn ở một vài tỉnh lân cận như phía Nam
tỉnh Gia Lai, phía Tây Khánh Hoà, Phú Yên. Người Ê đê có quan hệ gần gũi
với các dân tộc láng giềng cùng chung một nguồn gốc Mã lai – Đa đảo như
Chăm, Gia rai, Churu, Raglai và dân tộc Mnông cùng sinh sống trên cao
nguyên Đăk Lăk. Trong đó mối quan hệ với đồng bào Giarai, Mnông có thể
xem là gần gũi hơn cả, nhất là trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Một số
trường ca, truyện cổ phổ biến của người Ê đê cũng thấy ở người Giarai,
Mnông do quá trình cộng cư tương tác văn hóa.
Tổ chức xã hội của người Ê đê theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ là
người làm chủ trong gia đình, con cái mang họ mẹ, con trai không có quyền
được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú bên nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ
không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái
mình và khi chết thì được mang về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ
đẻ.
Người Ê đê lấy buôn làm đơn vị tổ chức xã hội cơ bản tương đương với
khái niệm làng của người Việt. Kết cấu buôn truyền thống là các gia đình lớn
mẫu hệ và một số gia đình nhỏ, các gia đình trong buôn đều có quan hệ hữu
cơ với nhau hoặc cùng thân tộc hoặc cùng huyết thống trong quan hệ hôn
nhân.
Buôn là không gian tụ cư của nhiều ngôi nhà dài, quy mô lớn nhỏ của
buôn phụ thuộc vào số gia đình mẫu hệ sống trong buôn. Buôn nhỏ có ít nhất
từ 20 đến 40 ngôi nhà, buôn lớn khoảng từ 50 đến 100 ngôi nhà. Mỗi buôn có
một người đứng đầu gọi là khua buôn. Khua buôn là người được quyền tổ
chức cúng bến nước (pô tuh pin êa) hằng năm. Trước đây, khi có dịch bệnh
hoặc một tai họa nào đó xảy ra cho buôn làng, người Ê đê lại chọn một địa thế
mới để dựng buôn mới. Số lượng các gia đình mẫu hệ này phải có giới hạn để
thuận tiện cho những lần di chuyển. Hầu hết các buôn ngày nay đều trải qua
nhiều lần xây dựng lại do nhiều nguyên nhân nên hình thức tổ chức và qui mô
của buôn của buôn có những đổi thay tùy theo từng thời kì. Ngày nay, với sự
phát triển của kinh tế xã hội, cơ cấu tổ chức buôn của người Ê đê có những
đổi thay. Nhiều buôn Ê đê có khuynh hướng định canh định cư nên số gia
đình nhỏ mẫu hệ trong buôn có thể nhiều hơn. Buôn của người Ê đê thường
được xây dựng gần các trục lộ chính theo hướng Bắc Nam trên những địa thế
tương đối bằng phẳng cao ráo, gần nguồn nước, thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Bộ máy điều hành buôn gồm có khua buôn (chủ bến nước), pô phat
kđi (xử kiện), pô iêô yang (cúng thần). Các thành viên này hỗ trợ khua buôn
điều hành tổ chức xã hội theo từng trọng trách của mình. Quan hệ giữa khua
buôn và các thành viên trong buôn là quan hệ hai chiều, khua buôn phải là
người công minh, chính trực, bình đẳng và dân chủ. Khi quy định một việc hệ
trọng liên quan đến quyền lợi của cộng đồng, khua buôn đều phải thông qua ý
kiến dân chủ của buôn theo luật tục. Vai trò của khua buôn trong xã hội Ê đê
sẽ càng được nâng lên thông qua uy tín của gia đình phía vợ. Có thể nói chức
vụ khua buôn thuộc về dòng nữ, tức là thuộc về gia đình vợ, còn khua buôn
chỉ là người đại diện gia đình điều hành công việc của buôn. Thông qua vai
trò và quyền lực của khua buôn, có thể nói rằng đằng sau người khua buôn
chính là sự điều hành của người phụ nữ của buôn làng. Người phụ nữ Ê đê là
người có vai trò trực tiếp đối với gia đình mẫu hệ đồng thời họ có vai trò gián
tiếp đối với thiết chế tổ chức xã hội.
1.1.2. Những biểu hiện về sắc thái văn hóa
Như đã nói, trong số những dân tộc định cư lâu đời ở Đăk Lăk, dân tộc
Ê đê có số dân đông nhất, có nền văn hóa giàu bản sắc truyền thống. Đời sống
của người Ê đê gắn bó mật thiết với núi rừng. Buôn làng của họ nằm giữa núi
rừng, tồn tại giữa thiên nhiên hùng vĩ. Trong xã hội truyền thống của họ, từ
nhà cửa đến chuyện ăn mặc, vui chơi, lễ hội cho đến khi trở về cát bụi cũng
không tách khỏi núi rừng. Rừng vì vậy là mẫu số chung của văn hóa Ê đê.
Nói về bản sắc văn hóa của dân tộc Ê đê, có thể nhận định đó là nền
văn hóa mang đậm tính chất mẫu hệ. Bước vào các buôn làng của người Ê đê
sinh sống, người ta sẽ ấn tượng ngay về những ngôi nhà dài có khi phải đến
cả trăm mét. Đặc biệt nhà dài của họ có hình dáng giống chiếc thuyền mang
đậm hình ảnh ông bà tổ tiên ở vùng hải đảo khi xưa đã lênh đênh trên biển cả
để tìm đất sống. Ngôi nhà dài đã được các sử thi ca ngợi: dài như tiếng chiêng
ngân, dài bằng một hơi ngựa chạy, dài đến nỗi con chim bay mỏi cánh cũng
không hết… Trong những ngôi nhà dài đó là cả đời sống của một gia đình
mẫu hệ. Những thành viên sống trong nhà dài gồm có hai vợ chồng cùng với
con cháu ruột và con của chị em gái trong nhà, cùng với những người đàn ông
(anh hoặc em trai) chưa vợ hoặc li dị vợ, và cả những người là con nuôi.
Người làm chủ căn nhà này là người phụ nữ, không phải người đàn ông. Bà
chủ nhà được xem như bà tổ của dòng họ (còn gọi là “nồi cơm cái” hay “nồi
cơm mẹ”). Ngôi nhà dài sẽ là nơi ở của tất cả các thành viên vốn là hậu duệ
của bà tổ. Bà chủ nhà cũng như bao người phụ nữ bình thường khác, làm
công việc nội trợ, trông coi con cháu… nhưng lại có trách nhiệm và uy quyền
khá lớn. Bà cùng với người chồng có bổn phận giảng giải và dạy bảo cho con
cháu về phong tục tập quán của dân tộc mình. Bà điều hành công việc trong
gia đình như quản lí của cải, phân chia tài sản. Trong gia đình hoặc dòng họ,
nếu cần quyết định một việc trọng đại nào đó như mua bán, cưới hỏi, nếu
không thông qua ý kiến của nữ chủ nhà thì không được phép thực hiện. Giả sử
người con trai của nữ chủ nhà muốn kết hôn, nếu chỉ có những người anh em
trai trong gia đình đồng ý mà không có sự chấp thuận của bà và các chị em
gái trong nhà, đám cưới sẽ không được tổ chức. Khi làm lễ cúng trong gia
đình, bà chủ nhà là người đầu tiên cầm cần rượu rồi đến những người phụ nữ
trong dòng họ rồi sau cùng mới đến lượt những người anh em trai của bà. Và
trong các nghi lễ nông nghiệp, người phụ nữ làm chủ dòng họ cũng là người
thực hiện các thao tác như cầm cần rót rượu, mặc dù người đàn ông là người
tổ chức các nghi lễ đó. Khi bà chủ nhà đã già yếu hoặc qua đời, vai trò “nồi
cơm cái” lại được truyền cho người chị gái cả trong gia đình. Và người chị gái
cả này cũng đóng vai trò như một người mẹ trong gia đình. Và nếu người chị
gái cả này là một bà góa đã già thì người con gái cả của bà sẽ thay mặt bà giữ
quyền người mẹ. Cách tổ chức sinh hoạt cũng như cấu trúc của gia đình Ê đê
trong ngôi nhà sàn đã nói lên một cách tổng thể về sự chi phối của dòng nữ
trong gia đình cũng như trong cộng đồng.
Trong lĩnh vực hôn nhân, người phụ nữ cũng là người chủ động. Sau đám
cưới, người đàn ông sẽ về cư trú bên gia đình nhà vợ. Người Ê đê ngày trước
có một tập tục khá độc đáo là tục nối dây (chuê nuê). Tập tục hôn nhân này
nhằm gìn giữ sự liên minh giữa các dòng họ và để bảo vệ tài sản phía dòng họ
nữ. Cụ thể là khi vợ chết, chồng có thể lấy em vợ hay chị vợ. Còn khi người
chồng chết, người vợ sẽ lấy anh trai hoặc em trai chồng… Ngày nay thì tập
tục này không còn nữa.
Về tín ngưỡng, người Ê đê theo tín ngưỡng đa thần. Họ quan niệm mọi
vật đều có yang (hồn). Thờ cúng là một hoạt động chi phối sâu sắc đời sống
của người Ê đê. Họ có hai hệ thống nghi lễ chính: nghi lễ vòng đời người và
nghi lễ nông nghiệp. Nghi lễ vòng đời người gồm có lễ cầu sinh nở dễ dàng,
đặt tên, cầu chúc sức khỏe…Nghi lễ nông nghiệp gồm có lễ tìm đất, cúng
thần gió, cúng cào cỏ, trỉa lúa, cầu mưa, mừng lúa mới… Các nghi lễ nông
nghiệp xuất hiện đa dạng không chỉ để thỏa mãn đời sống tinh thần của cộng
đồng mà còn là sự thể hiện ý thức trân trọng của người Ê đê đối với tài
nguyên đất, nước và rừng. Lễ hội là hoạt động văn hóa thường thấy ở dân tộc
Ê đê. Họ có nhiều lễ hội trong đó lễ bỏ mả có thể xem là lễ hội độc đáo nhất.
Hầu hết các lễ hội của người Ê đê không thể thiếu một nhạc cụ quan trọng
chính là cồng chiêng. Cồng chiêng không chỉ là một nhạc cụ truyền thống của
người Ê đê. Trong quan niệm của họ, cồng chiêng chính là một phương tiện
thiêng liêng để con người giao tiếp với thần linh. Âm thanh cồng chiêng gắn
bó với mỗi người Ê đê từ lúc chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Ngoài
ra người Ê đê còn có một loạt các nhạc cụ phục vụ cho các nghi lễ trong tang
ma như kèn đing năm, đing buôt, đing tuut… Các loại nhạc cụ này cũng phản
ánh đời sống tinh thần của dân tộc Ê đê.
Trong quan niệm cổ truyền, người Ê đê cho rằng vạn vật xung quanh
con người đều có hồn vía (yang) như núi, sông, cây cỏ, chiêng, ché… Thậm
chí giọt sương, hòn sỏi cũng có yang. Riêng đối với con người, yang được gọi
là Mngăt, thường quen gọi là hồn. Hồn quyết định sự tồn tại của thân xác. Khi
hồn đau thì thân thể cũng bị đau. Các yang của đồ vậy cũng như con người,
có yang tốt yang xấu, có yang hữu ích mà cũng có yang phá hại. Nó có thể vui
mà cũng có thể buồn, có thể mạnh mà cũng có thể yếu. Con người có thể nghe
tiếng nói của vật, nhất là vật thiêng để hỏi ý kiến của chúng qua những giấc
mơ. Khi chạm đến các vật, để cho chúng đồng tình, người ta thường hỏi han,
vỗ về các vật. Chẳng hạn trước khi chặt cây thì khấn. Và trước khi đào ché
rượu lên để uống thì bảo với ché : “Tôi lấy bà lên không phải là để làm việc
này việc nọ mà để tiếp khách quý, để cúng thần”. Quan niệm các vật có
“yang” dẫn đến việc đặt tên riêng cho các vật quý như chiêng, ché. Cũng từ
quan niệm đó mà người ta có sự chăm chút, tô điểm cho các vật. Trong các lễ
cúng quan trọng, người ta đeo các chuỗi hạt cho các ché quý. Các đồ vật vừa
được chế tạo cũng được phong cho một “yang”. Khi đồ vật đó ra đời cũng có
nghĩa là nó đã có hồn vía.Vì vậy cho dù là sử dụng bất kì đề vật gì, con người
cũng phải biết quý trọng và sử dụng một cách đúng đắn. Chẳng hạn như ngôi
nhà dài của người Ê đê, khi mới làm xong nó đã có yang vì bản thân nó được
làm bằng gỗ, mà gỗ dưới dạng cây cối trong rừng là nơi trú ngụ của các
thần… Quan niệm mọi vật đều có linh hồn đã khiến cho cuộc sống của người
Ê đê có một sự giao hòa rất tinh tế với vạn vật xung quanh.
Tóm lại, nói về bản sắc văn hóa của dân tộc Ê đê, chúng tôi tập trung
chú ý mấy đặc điểm: Thứ nhất, nguyên tắc mẫu hệ chi phối sâu sắc cách tổ
chức buôn làng, gia đình cũng như quan hệ hôn nhân của người Ê đê. Thứ hai,
tổ chức buôn làng và các hoạt động lễ hội, tín ngưỡng cho thấy tính cộng
đồng biểu hiện rất rõ trong đời sống văn hóa của họ. Và thứ ba, tín ngưỡng
vạn vật hữu linh luôn thường trực trong tâm thức của cộng đồng Ê đê và đã
trở thành một niềm tin sâu sắc trong nhận thức và ứng xử của họ.
Tìm hiểu sơ lược những đặc điểm về tổ chức xã hội, về văn hóa của người
Ê đê, chúng tôi muốn tìm hiểu sự xuyên thấm của đời sống văn hóa trong các
thể loại của của truyện cổ Ê đê. Những ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ, tính
cộng đồng và tín ngưỡng vạn vật hữu linh được biểu hiện khá rõ nét trong hệ
thống các thể loại truyện cổ của người Ê đê mà chúng tôi sẽ khảo sát ở
chương sau.
1.2. Vấn đề phân loại truyện cổ dân gian Ê đê
1.2.1. Tình hình sưu tầm và phân loại
* Tình hình sưu tầm
Truyện cổ Ê đê đã sớm được sưu tầm từ năm 1985, được tuyển chọn và
in trong các tuyển tập sau đây:
- Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên do Đặng Nghiêm Vạn
sưu tầm, xuất bản năm 1985, tập 1, gồm có 31 truyện: Sự tích sông Krông
Buk, Truyền thuyết Krông Pa, Sự tích Biển Hồ, Sự tích hang A Đrênh, Vì sao
có hồ Lăk, Nấm Hồng và Nấm Đỏ, Sự tích con voi, Vì sao heo ăn cám chó ăn
cơm, Chỉ có ông thợ rèn phạt được tội khỉ, Tổ chim tồ rộc, Vượn trắng, Y
Đăm tai to, Rum Dú với gái nhà trời, H bia Ngo, Y Tơ Lông giết trăn tinh, Pơ
nan giết cọp, Anh em Pơrôngpha, Đăm Thí, Chàng Gơrăn Dơhông, Hơ Điêu
và Y Nhớt, Hơ Kung và Y Du, Nung Kuang và bác cháu chàng Rít, Anh em
chàng Rit, Đăm Ktỉa Truôi, Anh em chim cút, Cô gái đẹp và hạt gạo, Hồn lúa
và lão Mtao, Y Luăc, Gà và Chó, Khỉ và Rùa, Nhóm truyện về con thỏ tinh
ranh.
- Truyện cổ Ê đê do Y Điêng và Hoàng Thao tuyển chọn, xuất bản năm
1988, gồm có 16 truyện: Sự tích người Ê đê lên sống trên mặt đất, Hơ Kung
và Y Du, nàng Ngo và chàng Rit, Chàng Gơ răn Dơhông, Anh em chàng Rit,
Chàng Bun Lô và nàng Tac Ty, Đăm Kơtỉa Truôi, Bảy anh em trai và nàng A
Rế, Nung Kuang và bác cháu chàng Rit, Y Tăn và Y Măn, Chàng Cóc, Anh
em Kun Koi, Chàng rể Khỉ, Hồn lúa và lão chủ nô, Nhóm truyện về con thỏ
tinh ranh, Rùa và Khỉ.
- Truyện cổ Ê đê, tập 2, xuất bản năm 1997 do Trương Bi, Y Wơn tuyển
chọn, có 23 truyện: Sự tích các dân tộc, Sự tích hang A Đrênh, Sự tích bốn
mùa xuân hạ thu đông, Sự tích Hồ Lăk, Hai anh em Đăm Thí và Đăm Di,
Chàng Y Siêm, Chàng Y Rit và Khỉ bảy đầu, Lấy chồng heo, Sự tích cồng
chiêng, Sự tích kèn Đing Năm, Sự tích điệu múa tung khắc, Sự tích Drai
Hling, Sự tích Drai Sáp, Sự tích Krông Buk, Sự tích dòng Krông Hnăng, Sự
tích tượng nhà mồ, Sự tích Ea Hleo, Sự tích cây Knia, Sự tích con voi, Chuột
nâu và Y Rit, Cọp vật nhau với cái cối, Chàng Y Rit và con thỏ nâu, Sự tích
đảo Sing Gar Pour.
- Truyện cổ Tây Nguyên xuất bản năm 1999, do Đỗ Thiện và Ngọc Anh
tuyển chọn, có 3 truyện: Nạn hồng thủy, Hơ Kung và Y Du, H Bia Ngo và Y
Rit.
- Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 1, xuất bản năm 1999, tuyển tập
này có trích in 1 truyện cổ Ê đê : Thế giới thần linh
- Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xuất bản năm 2000:
+ Ở tập 3 có tuyển chọn 2 truyện: Quả bầu vàng, Thế giới các thần.
+ Ở tập 14 có 5 truyện: Bác thợ săn lạc trong rừng, Con mèo khôn ngoan,
Bác Blông Bluê, Bác thợ săn và cô gái đười ươi, Cô gái đẹp và hạt gạo.
+ Ở tập 15 có 6 truyện : H Bia Yăk Yơng, Cả nhà Mtao biến thành khỉ, Sự
tích chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Chàng cơm cháy, Thần Rắn và cô
gái H Long.
+ Ở tập 16 có tuyển chọn 5 truyện: Truyền thuyết về nữ tù trưởng A Duôn H
Du, Sự tích kèn Đing buốt và kèn đinh năm, Thần Rồng và anh em nhà Y Rắc,
Y Rin, Cây kiếm của Thần Rồng, Sự tích đảo Singapor
- Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xuất bản năm 2002, tập 2
có tuyển chọn 19 truyện: Sự tích hang A Đrênh, Sự tích Biển Hồ, Sự tích
dòng sông Krông Buk, Vì sao có hồ Lăk, Sự tích con voi, Tổ chim tồ rộc, Chỉ
có ông thợ rèn phạt được tội khỉ, Đăm Thí, Vượn trắng, Y Tơ lông giết trăn
tinh, Pơ nan giết cọp, Hơ Kung và Y Du, Nung Kuang và bác cháu chàng Rit,
Anh em chim cút, cô gái đẹp và hạt gạo, Hồn lúa và lão Mtao, Y Luăc, Gà và
chó, Khỉ và Rùa, Nhóm truyện về con thỏ tinh ranh.
- Trong công trình nghiên cứu dân tộc học Người Ê đê – Một xã hội mẫu
quyền, xuất bản năm 2004, tác giả Anne De Hautecloque – Howe có dẫn 4
truyện cổ Ê đê sưu tầm được: A Ma Mang, Y Kum, A Ma Sat, Chim xử kiện.
Ở Đăk Lăk, Sở văn hóa thông tin đã tổ chức sưu tầm truyện cổ trong các
buôn làng của người Ê đê, cho in rải rác trên tạp chí Văn hóa Đăk Lăk. và cho
xuất bản thành các tập truyện được lưu giữ ở Bảo tàng Đăk Lăk. Chúng tôi
liệt kê các tác phẩm cụ thể như sau:
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 1 năm 2003 có in 2 truyện: Truyện Mẹ con
nàng H Bia và chú dê con, Chuột trắng.
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 3 năm 2004 có in 3 truyện: Tục đặt tên, Quả
bầu vàng, Hồ Chư Lăm.
- Tạp chí văn hóa Đăk Lăk Số 1 năm 2005 có in 2 truyện: Gà đẻ trứng
vàng, Chàng Y Rit và lông gà thần.
- Tập truyện Quả bầu vàng, xuất bản năm 2002 do Trương Bi, Y Wơn sưu
tầm gồm có 14 truyện: Quả bầu vàng, Dũng sĩ diệt cọp, Cả nhà Mtao biến
thành khỉ, Sự tích điệu múa tung khắc, Y Do chữa bệnh cho Mtao, H Bia Plêô
và anh trai thủy thần, Y Kluch chém trăn thần, H Liu và H La, , Tháp Yang
Prong, Sự tích Buôn Ur, , Chàng Y Dú, Y Nan nuôi cá lóc, Chàng Y Ban.
- Tập truyện Sự tích hạt gạo, xuất bản năm 2003, do Trương Bi, Y Wơn sưu
tầm gồm có 7 truyện: Sự tích hạt gạo, Sự tích dòng sông Krông Hmlai, Sự
tích núi Mẹ bồng con, Sự tích núi Cư Mta, Đàn trâu nhà trời, Sự tích núi Mẹ
và con, Đá đẻ con, Thanh gươm thần.
- Tập truyện Bác thợ săn lạc trong rừng, xuất bản năm 2005 do Trương Bi,
Y Wơn sưu tầm gồm có 5 truyện : Ánh sáng và bóng tối, Hai chị em và con
quỷ Yăk Yơng, Bác thợ săn lạc trong rừng, Hbia Đung và Dăm Bhu, Bác
Blông Bluê.
- Truyện cổ Tây Nguyên, xuất bản năm 2006, do Trương Bi, Y Wơn tuyển
chọn gồm 13 truyện: Hạt dẻ thần kì, Sự tích các dân tộc, Con ếch Ea Đuk,
Cây kơpang và ngôn ngữ loài người, Đăm Thí, Đường lên mặt đất, Lấy trộm
lửa của trời, Con dê và loài người, Sự tích loài ong, Con voi bảy ngà, Sự tích
chiêng tre, Sự tích Cư Mta, Cây tông lông, Sự tích sông Sêrêpôk, Cây si trên
sông Sêrêpôk.
- Tập truyện Nữ tù trưởng A Duôn H Du, do Trương Bi, Y Wơn tuyển chọn
xuất bản năm 2007, gồm có 10 truyện: Y Luăc, Chàng cơm cháy, Y Yu, Y Ya,
Y Din lên mặt trăng, H wan lên mặt trời, Con kiến và con voi, Chàng Y Niăk,
chàng Yang Mda, Y Nan nuôi cá lóc, Anh chàng mắc nợ, Chàng nghèo tát
biển, Chàng Rit và voi bay, Lấy chồng trăn, Đàn trâu nhà trời, Chàng Y Ban,
Dòng họ Niê Mla, Rắn thần và Hơ Rit, Thằng bé lọ nồi, Y Tô cháu của trời,
cọp nuôi Y Rit
- Tập truyện Sự tích con voi trắng do Trương Bi, Y Wơn sưu tầm năm 2008
gồm có 6 truyện: Sự tích con voi trắng, Sự tích đảo Sing Gar Pour, Sự tích
chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Truyện H Bia Yăk Yơng, Đá đẻ con.
Thống kê những truyện đã được sưu tầm, số truyện cổ dân gian Ê đê mà
chúng tôi thu thập được là 135 truyện. Trong quá trình thực hiện luận văn,
chúng tôi cũng tiến hành công việc sưu tầm tại buôn Ea Khit (huyện Krông
Ana), buôn Niêng (huyện Buôn Đôn), buôn Ki (phường Thành Nhất ở Buôn
Mê Thuột) và buôn Bua (xã Hòa Xuân ở Buôn Mê Thuột). Số lượng văn bản
thu thập được là 10 bản kể, : Hơ Kung và Y Du, Nàng Plêô và anh trai thủy
thần, Lươn thần và cậu cháu chàng Rit, Lươn thần và Y Rit, Chàng Đăm Thí,
lấy chồng Trăn, Y But Sin, Hang A Đrênh, Chàng Y Tô, Nạn hồng thủy.
Những bản kể này chủ yếu là những dị bản của tài liệu công bố như đã nêu.
Nhưng chính những dị bản này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong việc
giải mã những vấn đề về đời sống thực tế và vấn đề phân loại truyện cổ Ê đê.
Chúng tôi nhận thấy hiện nay và cả về sau, công việc sưu tầm sẽ gặp phải
nhiều khó khăn vì thế hệ những người còn ghi nhớ được truyện cổ đang dần
dần vắng bóng. Họ là những già làng, những bậc cao niên trong buôn làng.
Thời gian và tuổi tác làm mờ nhòa dần những kí ức của họ về truyện cổ và có
một thực tế là đời sống của đồng bào Ê đê đã chuyển biến mạnh mẽ, cuộc
sống hiện đại đã chi phối đến từng gia đình trong buôn. Họ không còn lưu giữ
được nguyên vẹn nếp sinh hoạt truyền thống. Truyện cổ không có không gian
văn hóa để lưu truyền, phổ biến. Dần dần người ta quên đi di sản truyện cổ
quí giá của dân tộc mình. Qua quá trình thực tế điền dã, chúng tôi nhận thấy
công việc sưu tầm truyện cổ Ê đê hiện nay chưa được quan tâm đúng mức.
Những tích truyện xưa của người Ê đê vẫn còn lưu giữ trong dân gian, đặc
biệt trong những buôn làng ở vùng sâu vùng xa. Nhưng không còn mấy ai lưu
tâm đến việc tìm kiếm và bảo tồn truyện cổ. Chúng tôi mong rằng trong thời
gian sắp tới có thể thực hiện được những chuyến sưu tầm tại những buôn làng
mà chúng tôi chưa có điều kiện đến thăm.
* Tình hình phân loại
Xem xét vốn truyện cổ đã tập hợp được cũng như những tài liệu phân
tích, đánh giá và phân loại truyện cổ Ê đê, chúng tôi nhận thấy tình hình phân
loại như sau:
Trong Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số (xuất bản năm 2000),
người sưu tầm tiến hành tuyển chọn 13 truyện cổ dân gian Ê đê vào tuyển tập
này và phân chia các truyện theo từng thể loại thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích. Chúng tôi liệt kê các truyện đã được xếp đặt theo từng tập:
- Thần thoại: Quả bầu vàng, Thế giới các thần (Tập 3)
- Truyện cổ tích loài vật : Bác thợ săn lạc trong rừng, Con mèo khôn ngoan
(Tập 14)
- Truyện cổ tích sinh hoạt : Bác Blông Bluê, Bác thợ săn và cô gái đười ươi,
Cô gái đẹp và hạt gạo (Tập 14)
- Truyện cổ tích thần kì: H Bia Yăk Yơng, Cả nhà Mtao biến thành khỉ, Sự
tích chiếc vòng ngày cưới, Chàng cá sấu, Chàng cơm cháy, Thần Rắn và cô
gái H Long. (Tập 15)
Ở công trình Văn hóa dân gian Ê đê, khi bàn về văn học dân gian Ê đê,
tác giả Ngô Đức Thịnh có dành vài trang đánh giá về truyện cổ Ê đê. Tác giả
đã đưa ra một cách xác định truyện cổ Ê đê với các thể loại cơ bản là truyền
thuyết, truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Tác giả chưa đưa ra một tiêu chí
nào làm cơ sở cho sự phân loại mà chỉ đơn thuần liệt kê các nhóm truyện, nêu
nội dung và lấy ví dụ một số truyện làm dẫn chứng. Theo tác giả:
Thứ nhất, truyền thuyết về tên núi tên sông có thể kể đến các truyện sau:
Hang A Đrênh, Sự tích dòng sông Krông Buk.
Thứ hai, truyện cổ tích có thể kể đến các truyện: Anh em chàng Rit, Đăm
Ktỉa Truôi, Chàng Cóc, Sự tích kèn đing năm, Nàng H Bia Ngo, Chàng nghèo
tát biển.
Thứ ba, truyện ngụ ngôn có thể kể đến các truyện: Thỏ và Hổ, Thỏ và Ốc,
Thỏ bán bà già cho Mtao làm vợ.
Như vậy, theo cách phân loại này, truyện cổ Ê đê không tồn tại thể loại
thần thoại. Chúng tôi không đồng ý với quan điểm này bởi lẽ qua khảo sát,
chúng tôi tìm được ít nhất hai văn bản truyện mang đậm màu sắc thần thoại,
truyện được tóm tắt như sau:
- Truyện Hạt dẻ thần kì kể về vị thần sáng tạo vũ trụ:
Thuở xưa, vũ trụ là một hạt dẻ to lớn vô cùng, có một vị thần khổng lồ
từ trong hạt dẻ đứng dậy, đội nửa hạt dẻ lên cao thành bầu trời, nửa còn lại
thần đạp xuống chân thành trái đất. Vị thần này dùng hai bàn tay đào đất đá
nặn ra loài người, cỏ cây muôn vật. Chỗ thần đào biến thành sông, dấu chân
thần biến thành đầm lầy. Thần vo tròn hai tảng đá ném lên trời thành mặt
trăng và mặt trời, xong việc thần biến đi đâu mất.
- Truyện Quả bầu vàng kể về nguồn gốc các dân tộc:
Buôn làng Ê đê đang sống yên vui bỗng bị mưa lũ nhấn chìm trong
biển nước, chỉ còn lại hai anh em Khốt và Kho sống sót, hai người ngồi trong
một trái bầu để lánh nạn. Trái bầu đưa họ đến một vùng đất lạ, họ tìm một cái
hang gần đó để trú ngụ. Hai anh em tìm được hạt bầu trong quả bầu, họ đem
gieo chúng trước cửa hang và thu hoạch được một quả bầu khổng lồ, họ chọc
thủng quả bầu và từ lỗ thủng đó có sáu mươi đôi nam nữ chui ra. Sáu mươi
đôi nam nữ chia nhau đi khắp mọi nơi sinh cơ lập nghiệp đó cũng chính là
nguồn gốc của các dân tộc ngày nay.
Trong bài viết Một vài đặc điểm của thần thoại Ê đê, tác giả Ngọc Anh
đã khẳng định về một bộ phận thần thoại rất phong phú của người Ê đê. Ngọc
Anh đã tiến hành phân chia các tiểu loại trong thần thoại thành các nhánh nhỏ
dựa trên nội dung phản ánh: thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên, thần
thoại phản ánh tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên, thần thoại phản
ánh đời sống xã hội. Trong quá trình mô tả thần thoại Ê đê, tác giả Ngọc Anh
có dẫn một số thần thoại để minh họa: Chuyện về Aê Diê, Kho Y Rit, Hơ Kung
và Y Du, Thế giới thần linh, Sự tích về đất trời, Hang A Đrênh.
Chúng tôi nhận thấy cách phân loại của tác giả Ngô Đức Thịnh xem ra
chưa hợp lí. Số lượng 11 văn bản truyện đưa ra ở các thể loại truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn chưa thể làm toát lên cái nhìn tổng thể về bức
tranh truyện cổ dân gian của người Ê đê.
Ở công trình Văn học dân gian Ê đê, Mnông, tác giả Trương Bi phân loại
truyện cổ Ê đê chỉ với hai thể loại là thần thoại và truyện cổ tích. Chúng tôi
cũng không thấy tác giả đưa ra một tiêu chí cụ thể nào để phân loại. Như vậy,
theo Trương Bi, truyện cổ Ê đê không tồn tại thể loại truyền thuyết. Quan
điểm này hoàn toàn trái ngược với tác giả Ngô Đức Thịnh. Trong khi đó, ở
bài viết Clay đưm của người Ê đê, tác giả Đỗ Hồng Kì cũng khẳng định bên
cạnh truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn, truyền thuyết là một bộ phận khá
quan trọng của truyện cổ dân gian Ê đê và dẫn ra 2 truyện làm dẫn chứng:
Hang A Đrênh, Chàng Đăm Thí.
Trong số các tài liệu có đề cập đến vấn đề phân loại, tài liệu Văn học dân
gian Ê đê, Mnông có thể xem là qui mô hơn cả. Tác giả Trương Bi tập hợp
48 truyện cổ dân gian Ê đê và phân loại thành các tiểu loại.
Thứ nhất, thể loại thần thoại với các tiểu loại:
- Thần thoại giải thích nguồn gốc của vũ trụ (1 truyện): Hạt dẻ thần kì
- Thần thoại giải thích các địa danh (8 truyện): Vì sao có hồ Lăk, Truyền
thuyết về dòng sông Krông Pa, Sự tích Drai Hling, Sự tích Drai Sáp, Truyền
thuyết về dòng sông Krông Buk, Sự tích suối Ea Hleo, Sự tích dòng sông
Krông Hnăng, Hang A Đrênh.
- Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên (5 truyện): Truyện ánh sáng và
bóng tối, Hơ Kung và Y Du, Sự tích bốn mùa xuân hạ thu đông, Nấm Hồng
Nấm Đỏ, Những người đầu tiên.
- Thần thoại giải thích về nguồn gốc muôn loài (4 truyện): Người hóa voi, Sự
tích cây kơ nia, Gà và Chó, Hồn lúa và lão chủ nô.
- Thần thoại giải thích về nguồn gốc tộc người (4 truyện): Quả bầu vàng,
Hang A đrênh, Sự tích người Ê đê lên mặt đất, Những người đầu tiên.
- Thần thoại giải thích các hiện tượng khác (7 truyện): Sự tích tượng nhà mồ,
Sự tích kèn đing năm, Hai anh em Đăm Thí và Đăm Di, Tục để cơm nguội, Sự
tích điệu múa tung khắc, Đá đẻ con, Thanh gươm thần.
Thứ hai, thể loại truyện cổ tích với các tiểu loại:
- Truyện về nhân vật dũng sĩ (3 truyện): Chàng Gơ răn Dơ hông, Bảy anh em
trai và nàng A Rế, Y Kluch chém trăn thần.
- Truyện về các nhân vật có địa vị thấp kém trong xã hội (8 truyện): Đăm Ktỉa
Truôi, Anh em chàng Rit, Y Nan và voi bay, Nung Kuang và bác cháu chàng
Rit, Rum Dú và gái nhà trời, Chàng Y Rit và con thỏ nâu, Anh em Kun Koi,
Chàng nghèo tát biển.
- Truyện về nhân vật xấu xí mà có tài (3 truyện): Chàng rể khỉ, Thằng bé lọ
nồi, Y Đăm tai to.
- Truyện về loài vật (5 truyện) : Thỏ và hổ, Thỏ và ốc, Thỏ và lão Mtao bụng
to, Thỏ chọn bạn đổi công, Thỏ cọp và cái cối.
Như vậy, việc phân loại truyện cổ dân gian Ê đê cho đến nay vẫn chưa đi
đến một sự thống nhất và thiếu một tiêu chí rõ ràng để khu biệt thể loại. Trước
di sản văn học dân gian có giá trị của đồng bào Ê đê, trước tình hình nhận
diện truyện cổ Ê đê còn nhiều nan giải, chúng tôi mạnh dạn vận dụng những
tiêu chí khoa học của các nhà nghiên cứu để tiến hành phân chia thể loại
truyện cổ Ê đê một cách thật đầy đủ và chính xác.
1.2.2. Đề xuất tiêu chí phân loại
Việc phân loại truyện cổ dân gian sẽ gặp rất nhiều trở ngại nếu chỉ
phân loại một cách cảm tính mà không dựa trên những tiêu chí mang tính
khoa học. Và đôi khi phải kết hợp vận dụng nhiều tiêu chí để soi chiếu, xác
định loại thể của một đối tượng, nhận ra sự giao thoa thể loại giữa chúng.
Prop có ý kiến cho rằng “Đặc trưng của thể loại thể hiện ở chỗ thực tại được
phản ánh là thực tại nào. Thực tại ấy được miêu tả bằng những biện pháp
nào, đánh giá thực tại ấy ra sao” [35, 28]. Tiến hành phân loại truyện cổ Ê
đê, chúng tôi dựa vào hai tiêu chí : chức năng thể loại và đặc trưng thi pháp
của từng thể loại. Thực ra cách phân loại dựa trên hai tiêu chí lớn này không
phải là mới. Nhưng cách xử lí trong từng trường hợp cụ thể của những người
đi trước có thể chưa ổn thỏa, chúng tôi thấy cần phải làm rõ hơn.
* Về thể loại thần thoại
Để tiện khảo sát, chúng tôi nêu tóm lược vài nét về bản chất của thần
thoại: Theo quan điểm của Mác thì thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của
nhân loại “trong những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”,
nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”. Cũng theo Mác thì “Thần thoại nào cũng
chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng
tượng và bằng trí tưởng tượng”. Theo E.M. Mêlêtinxki (Từ điển thần thoại,
1991, Nxb Bách khoa Xôviết): thần thoại được hiểu là “những truyện về các
vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị
thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như vào việc tạo lập nên những nhân
tố của nó – thiên nhiên và văn hoá”. Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên cũng
đưa ra ý kiến: “Nói một cách đơn giản thần thoại là một loại truyện nói về
thần, mang yếu tố thiên nhiên và xuất hiện vào thời kì khuyết sử” (Nghiên
cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, 1978, Nxb Đại học
Sư phạm)
Như vậy, dựa trên các quan niệm này, có thể rút ra mấy nhận xét: Thứ nhất,
thời điểm ra đời của thần thoại và thời điểm được phản ánh trong thần thoại
chính là “quá khứ khởi nguyên”. Thứ hai, thần thoại gắn liền với nhu cầu lý
giải và chinh phục tự nhiên của con người thời cổ đại. Vì sao nói như vậy?
Trong khi tiếp xúc với thiên nhiên và các hiện tượng vũ trụ kỳ bí, người
nguyên thủy khao khát tìm hiểu bản chất của nó để bớt nỗi kinh hoàng và thắc
mắc. Nhưng với một trình độ tư duy chưa cho phép, họ đã nỗ lực hết mình
nhận thức thế giới bằng một tư duy hoang đường và ấu trĩ. Họ đặt niềm tin
vào sự tưởng tượng ấy và cho rằng thế giới này do các vị thần tạo ra. Họ gán
vai trò của thần thánh cho tất cả các hiện tượng tự nhiên xảy ra quanh mình.
Trong quan niệm của họ, hết thảy cõi tự nhiên đều chịu sự chi phối của các
thần. Trong tâm lí lo sợ những tai họa mà thế giới tự nhiên giáng xuống cuộc
sống của họ, họ sùng bái các vị thần mà họ đã tạo ra trong trí tưởng tượng. Và
những truyện kể thần thoại đầu tiên ra đời bao giờ cũng có các nhân vật là các
vị thần với quyền năng và tầm vóc khổng lồ. Thần lúc ban sơ trong óc sáng
tạo của con người khi đó thường mang những hình dạng có phần cổ quái, kì
lạ, (khổng lồ, mình Rồng, có cánh, v.v …). Nhân vật các thần trong thần thoại
có tính cách đơn giản một chiều (Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Gió v.v...) mỗi
thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành động. Về mặt kết cấu, đa phần
thần thoại có cốt truyện đơn giản, chưa có nhiều chi tiết, thể hiện cách lý giải
còn thô sơ rời rạc trong nhận thức về thế giới của con người thời cổ. Căn cứ
vào lí thuyết về thể loại, chúng tôi rút ra ba tiêu chí quan trọng để nhận diện
thần thoại như sau:
Tiêu chí 1: Nhận thức và lí giải các hiện tượng tự nhiên (nguồn gốc vũ
trụ, muôn loài…), thể hiện ước mơ chinh phục tự nhiên.
Tiêu chí 2: Thời gian nghệ thuật được phản ánh trong thần thoại là thời
kì hỗn mang của lịch sử loài người (quá khứ khởi nguyên).
Tiêu chí 3: Nhân vật chính là thần mang trong mình sức mạnh của tự
nhiên với tầm vóc và kích thước khổng lồ, ra đời trên cơ sở thủ pháp
nhân hóa tự nhiên.
Trong đó, tiêu chí 1 thuộc về chức năng thể loại, tiêu chí 2, 3 thuộc về
đặc trưng thi pháp.
Dựa vào những tiêu chí này, chúng tôi tán thành việc xếp hai truyện
Quả bầu vàng và Thế giới các thần vào mục thần thoại ở Tổng tập văn học
các dân tộc thiểu số (tập 3, xuất bản năm 2000).
Xem xét việc xác định thể loại thần thoại trong tài liệu Văn học dân
gian Ê đê, Mơ nông của tác giả Trương Bi, chúng tôi thống kê có 26 truyện
được xếp vào thể loại thần thoại. Căn cứ vào tiêu chí nhận diện thể loại,
chúng tôi chỉ nhất trí 8 truyện mang đặc điểm của thần thoại : Hạt dẻ thần kì,
Hang A Đrênh, Ánh sáng và bóng tối, Nấm Hồng Nấm Đỏ, Sự tích bốn mùa
xuân hạ thu đông, Những người đầu tiên, Sự tích người Ê đê lên sống trên
mặt đất. Trong đó truyện Những người đầu tiên và Sự tích người Ê đê lên
sống trên mặt đất thực chất là dị bản của truyện Hang A Đrênh. Còn lại 18
truyện không thuộc phạm vi của thần thoại. Những trường hợp tác giả Trương
Bi phân loại chưa chính xác, chúng tôi dẫn ra cụ thể: Sự tích hồ Lăk (1),
Truyện Krông Pa (2), Sự tích thác Drai Hling (3), Sự tích thác Drai Sáp (4),
Sự tích dòng sông Krông Buk (5), Sự tích suối Ea Hleo (6), Sự tích sông
Krông Hnăng(7), Hơ Kung và Y Du (8), Người hóa voi (9), Sự tích cây kơnia
(10), Gà và chó (11), Hồn lúa và lão chủ nô (12), Sự tích tượng nhà mồ (13),
Kèn đing năm (14), Anh em Đăm Thí Đăm Di (15), Tục để cơm nguội (16), Sự
tích điệu múa tung khắc (17), Đá đẻ con (18).
- Nhóm truyện giải thích địa danh:
Sự tích hồ Lăk (1): Xảy ra hạn hán, hai anh em Y Lăk Y Liêng mồ côi đi
tìm nước, bắt được một con lươn đem về nuôi. Lươn lớn nhanh, đào hố rộng
mãi tạo nên hồ nước. Buôn làng không phải chịu khát nữa. Có một con rồng
đến đánh nhau với lươn. Lươn thắng nhưng kiệt sức chìm xuống hồ. Hai anh
em ngồi bên hồ gọi lươn mãi, đến sáng hôm sau thì cả hai hóa đá bên hồ. Từ
đó hồ có tên là hồ Lăk.
Truyện Krông Pa (2): Chàng mồ côi Y Pa đói khát cùng với ba con chó
vào rừng đi săn nhưng chẳng kiếm được gì, lại không có nước uống. Y Pa nói
một câu trách thần Sông thần Núi. Chàng bị phạt, lập tức nước ở đâu dâng
lên đuổi chàng chạy mãi đến khi kiệt sức. Ba con chó của chàng hoảng sợ
chạy vào rừng từ đó chúng trở thành chó sói. Dòng nước đuổi theo Y Pa trở
thành dòng sông, người ta gọi là sông Krông Pa.
Sự tích thác Drai Hling (3): Hling là con gái xinh đẹp của tù trưởng.
Nàng đi hái hoa gặp bầy cọp dữ nhưng được chàng Y Rit mồ côi cứu thoát.
Hai người đem lòng yêu nhau. Cha Hling ngăn cấm, gả Hling cho nhà giàu,
nàng gieo mình xuống sông tự vẫn. Y Rit lặn tìm và chàng cũng chết. Từ đó
dòng sông biến thành một dòng thác dữ. Buôn làng đặt tên thác là Drai
Hling.
Sự tích thác Drai Sáp (4): Tù trưởng giàu mạnh ở buôn nọ có cô con gái
xinh đẹp là H Mí. Y Rit cứu H Mí khỏi dòng nước dữ. H Mí đem lòng yêu
chàng Y Rit mồ côi, trao vòng bạc. Mtao không đồng ý gả H Mí cho Y Rit.
Quái vật xuất hiện bắt H Mí đi mất. Y Rit hóa thành cây cổ thụ. Dòng thác
nơi hai người chia tay gọi là Drai Sap.
Sự tích dòng sông Krông Buk (5): Một ngày nọ, Hai chị em H Ring, H Rao
xinh đẹp nhất buôn làng vào rừng chơi, họ lạc đến một bờ sông lạ. Ở đó hai
chị em gặp chàng Y Krông vốn là thần Sông. Họ kết bạn gặp gỡ nhiều lần,
hai chị em đem lòng yêu Y Krông. Y Krông cũng yêu mến hai chị em. Nhưng
Y Krông không thể sống trên cạn. Hai chị em thì không thể sống dưới nước.
Hai nàng quyết định chia tay Y Krông. Y Krông giữ lại không được, chàng cắt
nắm tóc của hai chị em. Từ đó dòng sông được đặt tên Krông Buk (con sông
tóc).
Sự tích suối Ea Hleo (6): Mtao Pui có cô con gái xinh đẹp tên là Hleo.
Hleo đem lòng yêu chàng Y Rit mồ côi. Buôn làng của Mtao Pui bị đàn cọp
dữ tấn công. Mtao Pui hứa ai diệt được cọp sẽ gả con gái cho. Y Rit giết được
cọp nhưng chàng cũng chết, xác chàng bị nước cuốn đi. Nàng Hleo khóc
thương Y Rit suốt ngày đêm, nàng tan biến thành dòng suối. Buôn làng gọi
tên dòng suối là Ea Hleo.
Sự tích sông Krông Hnăng (7): Buôn làng người Ê đê đang sống yên vui
bỗng một hôm từ trên đỉnh núi phun ra lửa, hủy hoại tất cả nguồn nước,
nương rẫy. Dòng họ Mlô làm chủ đất. H Năng là con gái đầu lòng của chủ
đất Y Kheo. Cha mất truyền trọng trách chủ đất lại cho hai vợ chồng Y Jút,
HNăng. Y Jút đi tìm đất lập buôn nhưng không thấy trở về. HNăng quyết ra đi
một mình tìm vùng đất mới nơi có nguồn nước dồi dào. Đi mãi, đến khi kiệt
sức, nàng khấn Giàng xin cho mưa xuống rồi chết. Lập tức trời mưa làm sống
dậy muôn loài cây cối, thú vật. Dân làng đi tìm H Năng đến nơi thấy nàng đã
chết, nhớ công ơn của nàng mà đặt tên dòng sông nơi nàng HNăng gục
xuống là Krông HNăng.
Khi khuôn xếp 7 truyện này vào tiểu loại thần thoại giải thích địa danh, có
lẽ tác giả Trương Bi đã dựa vào chức năng nhận thức và lí giải tự nhiên –
cũng chính là tiêu chí thứ nhất mà chúng tôi đưa ra để nhận diện thần thoại.
Tuy nhiên, sự xác định này chưa được thấu đáo. Những truyện vừa nêu đúng
là có yếu tố lí giải vì sao có tên gọi của dòng sông ngọn thác nhưng cái nội
dung mà truyện hướng tới để nhận thức không phải là thế giới tự nhiên mà
chính là mối quan hệ và số phận của con người trong cuộc sống đời thường –
các truyện (1), (2), (3), (4), (5), (6) và vị trí của con người trong một cộng
đồng, bộ lạc - truyện (7). Xét ở góc độ thi pháp, các truyện này cũng không
phản ánh thời kì hỗn mang sơ khai của loài người. Và điểm đáng lưu ý ở đây
là các nhân vật không phải là thần, không mang dáng dấp thần linh mà chỉ là
những con người hết sức bình thường (anh em Y Lăk mồ côi, chàng Y Pa mồ
côi, nàng Hling, chàng Y Rit…)
- Khi xác định thần thoại giải thích về hiện tượng tự nhiên, Trương Bi đưa ra
truyện Hơ Kung và Y Du làm dẫn chứng: Ở buôn nọ có một bà góa sống với
con gái xinh đẹp tên là Hơ Kung và con trai là Y Dang. Bà góa nhặt được Y
Du ngoài rừng đem về nuôi. Lớn lên Hơ Kung và Y Du đem lòng yêu nhau. Vì
họ là anh em bú cùng một vú mẹ nên không được phép lấy nhau. Hai người
dắt nhau bỏ trốn nhưng chưa dám thành vợ thành chồng vì sợ thần linh trừng
phạt. Họ nghĩ ra cách mỗi người chọn một việc để làm, nếu cả hai người xong
cùng một lúc thì sẽ sống với nhau, nếu không xong cùng một lúc thì phải chia
tay. Hơ Kung chọn việc dệt vải, Y Du chọn việc ngăn thác bắt cá. Cuối cùng
việc của Y Du lại xong trước. Chàng không nói cho Hơ Kung biết mà có ý đợi
Hơ Kung xong việc để được ở bên nhau. Trong lúc Y Du ngắm Hơ Kung thì
cũng vừa lúc nàng quay lại nhìn chàng. Hiểu được sự tình, Hơ Kung bỏ chạy.
Y Du đuổi theo, đuổi theo mãi để giữ Hơ Kung ở lại. Hơ Kung chạy đến buôn
Mặt trời, nàng mệt quá nghỉ ở đó. Y Du chạy đến buôn Mặt trăng. Chàng mệt
quá cũng nghỉ ở đó. Không ngờ Mặt trời, Mặt trăng lại đi theo hai ngả khác
nhau. Từ đó Hơ Kung và Y Du không thể gặp lại nữa. Chỉ đến khi có nguyệt
thực họ mới được gặp nhau. Nguyệt thực xảy ra là để cho đôi trai gái đoàn
tụ.
Khi soi chiếu những tiêu chí của thể loại thần thoại vào truyện Hơ Kung
và Y Du, chúng tôi thấy rằng truyện có chức năng nhận thức, lí giải về tự
nhiên (hiện tượng nguyệt thực) nhưng đây không phải là chức năng chính.
Chức năng trội ở truyện này chính là sự phản ánh quan hệ xã hội – mối tình
loạn luân của đôi trai gái với những rào cản của tập tục xã hội. Truyện Hơ
Kung và Y Du cũng không thỏa mãn tiêu chí 2 và 3 của thể loại thần thoại.
Trường hợp này có thể khẳng định không phải là một truyện kể thần thoại.
- Nhóm thần thoại giải thích nguồn gốc muôn loài:
Người hóa voi (9): Người thợ săn bắn con dọc bạch rồi ném xuống suối.
Suối hóa ra rất nhiều cá. Dân làng rủ nhau đi bắt cá, nướng ăn. Cả nhà Mtao
cũng đi bắt cá. Họ biến thành voi, chỉ có nàng H Bia con gái Mtao và Y Rit
không ăn cá nên không bị biến thành voi. Đàn voi đi vào rừng ở. Từ đó người
ta xem voi là con vật thân thiết gần gũi. Nếu bắt được voi trong rừng người ta
sẽ không giết mà đem về thuần dưỡng.
Sự tích cây kơ nia (10): Chàng K Đăm và nàng H Nia yêu nhau. Họ là
nô lệ của Mtao. Mtao ra điều kiện nếu chàng K Đăm làm được tất cả những
việc hắn giao thì sẽ cho phép hai người lấy nhau : đi hạ cây đại thụ trong
rừng, đi bắt con thuồng luồng, đi phát rẫy. Khi phát rẫy, H Nia mang nước
cho K Đăm nhưng vì quá đói khát, H Nia gục ngã, K Đăm chạy lại đỡ người
yêu. Vì kiệt sức, K Đăm cũng chết bên cạnh H Nia. Hai người hóa thành cây
kơ nia.
Hồn lúa và lão chủ nô (11): Mtao chỉ lo ăn năm uống tháng, để cỏ dại lấn
hết lúa, không chăm sóc nương lúa. Hồn lúa bị khinh rẻ bèn rủ nhau đến ở
với bà lão nghèo. Đến khi thu hoạch, lúa tự bò về chòi của bà lão. Cả nhà
Mtao thì chết đói.
Gà và Chó (12): Ngày xưa, Gà và Chó không giống như bây giờ. Chó
ngày xưa lông vũ, gà thì lông mao. Do bộ lông gây khó khăn cho việc kiếm ăn
nên chúng muốn đổi bộ lông cho nhau. Chó muốn đổi lông cho Gà nhưng Gà
còn làm cao lưỡng lự. Cuối cùng hai con đổi lông cho nhau. Chó tức vì câu
nói xỏ của Gà, nên hễ thấy Gà đâu là đuổi đi.
Ba truyện (9), (10), (11) cho thấy truyện nảy sinh trong thời kì xã hội đã có
sự phân chia giai cấp, xuất hiện Mtao là người có vai trò thủ lĩnh của cộng
đồng. Rõ ràng hai truyện này không phải thuộc về thời kì nguyên thủy của
thần thoại. Có lẽ ở ba truyện này, tác giả đã có sự nhầm lẫn khi nhìn nhận mô
típ hóa thân trong truyện cổ tích và cho rằng đây là bộ phận thần thoại giải
thích nguồn gốc muôn loài. Ở truyện Gà và Chó, tác giả đã không phân biệt
đuợc sự khác nhau giữa chức năng lí giải nguồn gốc muôn loài của thần thoại
với chức năng suy nguyên đặc điểm loài vật của truyện cổ tích loài vật.
- Nhóm thần thoại giải thích các hiện tượng khác:
Sự tích tượng nhà mồ (13): Nàng H Ren yêu chàng Y Thih mồ côi. Thầy
cúng trong buôn muốn H Ren làm vợ con trai hắn. Thầy cúng vu oan Y Thih
có lòng độc ác, bắn thú rừng nhiều, bắt Y Thih chịu tội, vu oan H Ren là ma
lai. Cuối cùng H Ren chết, Y Thih hóa thành tượng gỗ.
Sự tích kèn đing năm (14): Hai vợ chồng già không có con. Người vợ
uống nước hốc đá sinh được 6 người con (3 trai 3 gái) giống nhau như đúc.
Người cha làm 6 ống nứa khác nhau cho 6 người con để phân biệt. Người em
út lấy 6 ống nứa cắm vào quả bầu khô làm kèn thổi. Âm thanh gợi sự buồn
thương. Sau này để thổi trong đám tang, gọi là kèn Đing Năm.
Hai anh em Đăm Thí, Đăm Di (15): Nàng Pơ lang xuống suối tắm, nhặt
được hai thanh sắt sáng chói dài bằng gang tay. Về nhà nàng có mang sinh
được hai người con trai khôi ngô, đặt tên con là Đăm Di và Đăm Thí. Lớn lên
Pơ Lang trao hai thanh sắt cho hai con rèn gươm, gươm rèn xong nóng
không chịu nguội, bay vào rừng. Hai anh em đi tìm thấy gươm nằm dưới suối.
Hai anh em lội xuống suối thì trở nên cao lớn mạnh khỏe thần kì, rồi lên
đường đi giết giặc cứu dân làng. Dẹp giặc xong hai thanh gươm được thờ ở
buôn làng.
Tục để cơm nguội (16): Ở buôn nọ bị hạn hán, người và thú chết dần. Chỉ
có nhà Mtao giàu có là ăn uống linh đình. Trời cùng với cháu xuống giả làm
người khố rách đi xin ăn. Họ đến nhà Mtao thì bị đuổi, đến nhà nghèo thì
được cho cơm nguội. Trời tức giận hóa phép khiến của cải của Mtao ra đi
hết. Mtao đói khát phải đi xin ăn nhà nghèo. Từ đó có tục ăn cơm xong phải
để dành cơm nguội vì đó chính là hồn cơm hồn lúa.
Sự tích điệu múa tung khắc (17) : Hai vợ chồng sinh con trai đặt tên là Y
Rit. Y Rit lớn lên khỏe mạnh lớn như thổi, vào rừng mải săn thú bị lạc. Ông
Gỗn chỉ cho cách làm trống và dạy cách múa trống. Chàng mang theo trống
tìm đường về nhà. Nghe tiếng trống các loài thú dữ không hại chàng. Muôn
loài chim thú tụ họp về dẫn đường cho Y Rit về nhà. Điệu múa trống gọi là
điệu múa tung khắc.
Đá đẻ con (18) : Khỉ giao phối với đá sinh ra cậu bé. Người thợ săn nhặt
về nuôi đặt tên là Yang Mya. Chàng lấy vợ rồi đi làm ăn xa. Khi trở về biết vợ
ngoại tình. Chàng hỏi người đi đường ai cũng giấu. Tức giận chàng giết và
hóa đá họ. Chàng giết kẻ gian phu và về nhà hóa đá người vợ đang sinh con.
Chàng thách ông trời vật lộn rồi hóa đá tất cả những người đến xem. Cuối
cùng ông trời biến chàng thành con lợn lòi. Chàng bị dân làng giết rồi cũng
hóa thành đá.
Thanh gươm thần: Pôthê lạc vào hoang đảo, chàng lấy được các vật thần
quý giá. Pôthê kết bạn với người bạn có viên đá hóa phép ra ngàn quân và
roi mây thần. Pôthê gặp vua của các dân tộc Chăm, Giarai, Kinh, Lào, Ê đê
đang mò gươm thần. Gươm từ trên trời rơi xuống, ánh sáng rực cả đáy sông.
Vua Chăm mò được lưỡi gươm nhưng vừa lên đến bờ thì bị Pôthê cướp mất.
Chàng trao cho vua Giarai. Vua Khmer mò được vỏ gươm. Tức giận vì mất
gươm, Người Chăm gây cuộc chiến tranh lớn với người Khơme. Pôthê giúp
người Giarai đánh giặc nhưng không phân thắng bại. Chàng làm lễ cúng
thần và cầm gươm xông ra trận mạc. Cuối cùng người Chăm phải thua. Pô
thê trao gươm thần cho Vua Lửa của người Giarai và dặn dò người Giarai
kết hiếu với người Khmer. Từ đó có tục thờ gươm.
Theo chúng tôi, tất cả các truyện trong nhóm này đều không đáp ứng
những tiêu chí của thể loại thần thoại. Các hiện tượng như sự hóa thân thành
tượng nhà mồ, sự ra đời của kèn đing năm, tục để cơm nguội, điệu múa tung
khắc, tục thờ gươm người hóa đá được kể ở các truyện trên không phải là
những vấn đề mang tầm vóc vũ trụ, nhân loại vào thuở sơ khai của loài người.
Đây là những truyện phản ánh phong tục và những bi kịch trong gia đình và
xã hội ở thời kì xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Bên cạnh đó, hai truyện
Hai anh em Đăm Thi, Đăm Di và Thanh gươm thần lại kể về người anh hùng
có công đánh giặc của lịch sử cộng đồng. Nội dung phản ánh này cũng không
nằm trong khung tiêu chí của thể loại thần thoại.
* Về thể loại truyền thuyết
Từ trước đến nay có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về truyền
thuyết, chúng tôi điểm qua một số ý kiến:
- Theo Nguyễn Xuân Kính, truyền thuyết “là những điều truyền tụng trong
dân gian (Bằng văn bản hay truyền miệng) về các nhân vật, các sự vật, địa
danh, các sự kiện liên quan đến sự phát triển của cộng đồng và đồng thời
cũng là đại diện, là tiêu biểu hay là thể hiện những giá trị văn hóa (vật chất,
tinh thần) của cộng đồng đó” (Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp học và việc
nghiên cứu thi pháp văn họa dân gian, Tạp chí văn hóa dân gian số 3 năm
1982)
- Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “truyền thuyết thường có cái lõi
là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, đã gửi gắm
vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng chắp đôi cánh của
sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm văn hóa
mà đời đời con người ưa thích” (Văn học dân gian Việt Nam trong nhà
trường, 1998, NXB Giáo dục)
- Theo Lã Duy Lan “Truyền thuyết là những truyện dân gian về lịch sử. Nó
không phải chính sử mà là một thứ dã sử, là lịch sử dân gian. Nó là văn học
chứ không phải là lịch sử. Nhưng chính cái nội dung lịch sử lại là đặc điểm
nổi bật của thể loại văn học dân gian này”. (Lã Duy Lan (1997), Truyền
thuyết Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội)
- Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Truyền thuyết là một cảm quan của cộng đồng
về những sự kiện và nhân vật lịch sử, là cách đánh giá, phản ánh lịch sử một
cách không chính thống của mọi thời đại, cách phản ánh dân dã nhất, vì thế
mà hồn nhiên và đầy chất thơ nhất” (Vũ Ngọc Khánh (1998), Truyền thuyết
Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội)
- Theo Hồ Quốc Hùng, “truyền thuyết là kí ức cộng đồng về quá khứ, chủ yếu
nó phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với các nhân vật và sự
kiện lịch sử của dân tộc ít nhiều bằng hư cấu, tưởng tượng. Lịch sử đọng lại
trong truyền thuyết như những tia hồi quang phủ lên cảnh vật, phong thổ của
đất nước làm say đắm biết bao thế hệ” (Hồ Quốc Hùng, 2003, Truyền thuyết
Việt Nam và vấn đề thể loại, NXB Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn
học TP. HCM).
Mỗi định nghĩa trên có một đóng góp riêng, nhìn chung các nhà nghiên
cứu đều quan tâm đến truyền thuyết ở các phương diện: Dạng thức tác phẩm,
thời gian phản ánh, quan hệ cộng đồng, đặc điểm nội dung và nghệ thuật. Căn
cứ vào những điểm chung trong quan niệm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi
rút ra hai dấu hiệu nhận dạng cũng chính là tiêu chí quan trọng để xác định
thể loại truyền thuyết:
Tiêu chí 1: Phản ánh những sự việc và nhân vật liên quan đến lịch sử
cộng đồng, được nhân dân gửi gắm niềm tin và lòng ngưỡng mộ.
Tiêu chí 2: Nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử được nhân dân lí tưởng
hóa, có yếu tố hư cấu.
Trong đó, tiêu chí 1 thuộc về chức năng thể loại, tiêu chí 2 thuộc về đặc
trưng thi pháp.
Về vấn đề phân loại các tiểu loại trong truyền thuyết, hiện nay có nhiều
cách phân loại khác nhau tùy theo quan điểm của mỗi nhà nghiên cứu. Chúng
tôi dựa vào tiêu chí phân loại khá đầy đủ về truyền thuyết của tác giả Hồ
Quốc Hùng (trong công trình Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại):
Truyền thuyết có hai loại lớn là truyền thuyết địa danh và truyền thuyết
lịch sử.
- Truyền thuyết địa danh : có hai tiểu loại là truyền thuyết địa danh gán với
con người, sự kiện lịch sử xác thực. Và truyền thuyết địa danh được gán với
con người và sự kiện lịch sử không xác thực.
- Truyền thuyết lịch sử : cũng có hai tiểu loại truyền thuyết anh hùng và
truyền thuyết danh nhân.
+ Truyền thuyết anh hùng: có hai tiểu loại là truyền thuyết anh hùng dân tộc
và truyền thuyết anh hùng địa phương.
+ Truyền thuyết danh nhân: có ba tiểu loại là danh nhân tổ nghề; người lập
làng, tổ dòng họ; danh nhân văn hóa.
Khi đã xác định được những tiêu chí quan trọng của thể loại truyền thuyết,
chúng tôi đưa ba truyện mà tác giả Trương Bi đã xếp đặt nhầm chỗ về đúng
với vị trí thể loại truyền thuyết của nó: Sự tích dòng sông Krông HNăng (ca
ngợi người thủ lĩnh của cộng đồng cư dân đi tìm đất lập buôn), Hai anh em
Đăm Thí, Đăm Di và Thanh gươm thần (ca ngợi người anh hùng đánh giặc
của cộng đồng).
Trong tài liệu Văn hóa dân gian Ê đê, khi xác định kho tàng truyện cổ dân
gian Ê đê có tồn tại bộ phận truyền thuyết, tác giả Ngô Đức Thịnh có dẫn ra
hai truyện: Hang A Đrênh, Sự tích dòng sông Krông Buk. Ở bài viết Clay
đưm của người Ê đê, tác giả Đỗ Hồng Kì cũng nhắc tới hai truyện để minh
họa cho thể loại truyền thuyết: Hang A đrênh và Đăm Thí.
Trong ba truyện đã được các tác giả xác định là truyền thuyết, chúng tôi chỉ
nhất trí trường hợp truyện Đăm Thí là một truyền thuyết đúng với đặc điểm
loại hình của nó. Truyện được tóm tắt như sau:
Thuở xưa bọn Mtao độc ác chuyên đi cướp bóc và bắt các cô gái đẹp.
Chàng Đăm Thí đau lòng trước cảnh các cô gái của buôn làng bị hãm hại.
Chàng căm phẫn giậm chân bảy lần trên phiến đá trắng, đá nứt ra nước tuôn
trào thành cái hồ. Dưới lòng hồ là một thỏi thép quý. Đăm Thí mang về rèn
thanh gươm lại ra chiếc liềm, rèn lưỡi liềm lại thành lưỡi rựa, rèn lưỡi rựa
lại thành lưỡi dao, đập lưỡi dao lại thành lưỡi giáo, cuối cùng rèn được
thanh kiếm sắc. Nhưng kiếm không chịu nguội, nhúng xuống suối suối cạn,
mài trên đá đá tan thành bụi, bỏ trên cỏ cỏ cháy. Thần chỉ cách đâm kiếm vào
cô gái đẹp. Kiếm nguội Đăm Thí đem giết bọn Mtao. Kiếm của Đăm Thí
tương truyền người Kinh giữ vỏ gươm, người Lào giữ cán gươm, người Ê đê
giữ lưỡi kiếm, người Giarai có nhiệm vụ bảo vệ gươm thần. Đăm Thí ra đi.
Trong truyện này, nhân vật chính là chàng Đăm Thí với tư cách là người
anh hùng của cả cộng đồng, có công giết giặc bảo vệ sự bình yên cho buôn
làng. Đăm Thí được cộng đồng ngưỡng mộ và ca ngợi. Truyện cũng phản ánh
một giai đoạn trong lịch sử cộng đồng người Ê đê. Đó là thời kì các tù trưởng
giàu mạnh thường xuyên đi cướp bóc của cải và cướp đoạt phụ nữ để củng cố
cho địa vị của mình. Tất cả nội dung phản ánh này đã thỏa mãn những tiêu chí
quan trọng của thể loại truyền thuyết.
Khi xác định truyện Hang A Đrênh và Sự tích dòng sông Krông Buk là một
truyền thuyết, có lẽ các tác giả đã căn cứ vào đặc điểm về không gian nghệ
thưật của truyền thuyết. Thông thường, không gian được xác định một cách
cụ thể (truyện xảy ra ở đâu, liên quan đến địa danh nào? ...) và trong truyền
thuyết cũng có một bộ phận được gọi là truyền thuyết địa danh.
Tuy nhiên, không phải bất cứ truyện nào gắn với một địa danh cũng được
xem là truyền thuyết. Vì ngay cả trong thể loại truyện cổ tích cũng có rất
nhiều truyện lí giải về nguồn gốc địa danh. Chẳng hạn Sự tích núi Vọng Phu,
Sự tích Đầm Nhất Dạ... Chúng tôi có sự cân nhắc khi xác định thể loại của
những truyện có liên quan đến địa danh và cho rằng yếu tố địa danh không
phải là yếu tố nổi bật, đặc trưng để nhận diện thể loại truyền thuyết. Căn cứ
vào chức năng của thể loại, xét trường hợp truyện Sự tích dòng sông Krông
Buk, chúng tôi thấy rằng truyện hoàn toàn không phản ánh các sự kiện và con
người liên quan đến lịch sử cộng đồng. Nội dung phản ánh ở đây là tình yêu
không thành do những cách trở về địa vị trong xã hội.
Truyện Hang A Đrênh được tóm tắt như sau: Thuở người và muông thú
còn hiểu tiếng nói của nhau, loài người sống ở hang sâu trong lòng đất, chưa
biết nấu cơm nấu rượu, chưa biết dệt chăn dệt khố. Pôlăn (thần Đất) bảo con
trai Pô Êpik xuống trần dạy cho loài người nấu cơm nấu rượu. Khi biết làm
ra rượu, họ quên hết mọi thứ, không đi kiếm ăn không có cái ăn. Họ oán Pô
Êpik, đánh đuổi thần, đuổi theo mãi thì gặp cái hang, chui lên là mặt đất
màu mỡ họ chưa từng biết. Đoàn người kéo nhau lên mặt đất sinh sống, trâu
của Y Rit ngáng đường nên Y Rit phải giết trâu. Đoàn người lần lượt kéo ra:
người Thái, người Mèo, người Tày, người Kinh, người Ê đê… Cái hang nơi
họ chui ra gọi là hang A Đrênh. Các tộc người chia nhau đi tìm nơi sinh
sống.
Ở truyện này, khi đối chiếu với khung tiêu chí của thể loại truyền thuyết,
chúng tôi thấy rằng màu sắc truyền thuyết rất mờ nhạt nếu chỉ căn cứ vào tính
chất địa danh của nó. Thử đối chiếu với thể loại thần thoại, chúng tôi thấy
được những biểu hiện của thể loại thần thoại trong truyện này khá rõ: lí giải
nguồn gốc tộc người, phản ánh thời kì nguyên thủy sống theo bầy đàn, cư trú
trong hang hốc của loài người, tư duy đậm chất thần thoại khi phản ánh mối
quan hệ giữa người và thần linh. Theo chúng tôi, đây là một truyện kể thần
thoại.
* Về thể loại truyện cổ tích
Về thể loại truyện cổ tích, sự ra đời của truyện cổ tích gắn liền với quá
trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành sự phân hóa giai cấp
trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính
phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất
riêng tư giữa người và người trong phạm vi gia đình và xã hội.
Trong Từ điển văn học, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên đã nêu ra những
nội dung ít nhiều được thống nhất về truyện cổ tích như sau:
- “Truyện cổ tích đã nảy sinh trong xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu
tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng tự nhiên
và xã hội có ý nghĩa ma thuật. Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong
xã hội có giai cấp nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội”.
- “Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực
tại, đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lí
xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.”
- “Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân,
và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kì tạo nên một đặc trưng
nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ”
Căn cứ vào những kiến giải sẵn có về truyện cổ tích, chúng tôi rút ra ba
tiêu chí cơ bản để xác định thể loại truyện cổ tích trong quá trình phân loại
truyện cổ dân gian:
Tiêu chí 1: Phản ánh xung đột và các mối quan hệ trong gia đình, xã
hội.
Tiêu chí 2: Nhân vật chính là những con người lao động trong cuộc
sống đời thường.
Tiêu chí 3: Thể hiện ước mơ về công lí xã hội và hạnh phúc của nhân
dân, giáo dục khát vọng hướng thiện.
Trong đó, tiêu chí 1 và 3 thuộc về chức năng thể loại, tiêu chí 2 thuộc
về đặc trưng thi pháp.
Dựa vào chức năng thể loại và đặc trưng thi pháp của thể loại truyện cổ
tích, chúng tôi đưa các truyện sau về đúng với vị trí thể loại cổ tích: Sự tích hồ
Lăk, Sự tích dòng sông Krông Pa, Sự tích thác Drai Hling, Sự tích thác Drai
Sáp, Sự tích dòng sông Krông Buk, Sự tích suối Ea Hleo, Hơ Kung và Y Du,
Sự tích bốn mùa xuân hạ thu đông, Sự tích tượng nhà mồ, Sự tích kèn đing
năm, Tục để cơm nguội, Sự tích điệu múa tung khắc, Đá đẻ con, Người hóa
voi, Sự tích cây kơ nia, Gà và Chó, Hồn lúa và lão chủ nô.
Dựa trên những tiêu chí khoa học, chúng tôi đồng ý với tác giả Trương Bi
khi nhận định 19 truyện thuộc thể loại cổ tích trong công trình Văn học dân
gian Ê đê, Mnông. Tương tự, chúng tôi cũng đồng ý với 7 trường hợp được
xác định là truyện cổ tích trong công trình Văn hóa dân gian Ê đê của tác giả
Ngô Đức Thịnh.
Khi phân loại truyện cổ tích, chúng tôi thống nhất dựa vào cách phân loại
phổ biến hiện nay, xác định truyện cổ tích có ba tiểu loại:
- Truyện cổ tích thần kì :
Có thể nói đây là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại truyện cổ tích đồng
thời là một trong những bộ phận quan trọng của kho tàng truyện cổ mỗi dân
tộc. Hầu như những truyện cổ tích hay nhất, có giá trị nhất đều nằm ở thể loại
cổ tích thần kì. Chúng tôi cho rằng để nhận diện truyện cổ tích thần kỳ, vấn đề
cơ bản nhất chính là xác định vai trò của yếu tố thần kỳ trong truyện. Truyện
cổ tích thần kì không thể thiếu các nhân vật trợ giúp như tiên bụt, các vật trợ
giúp hoặc trả ơn, các phép biến hóa… giúp cho nhân vật chính nghĩa chiến
thắng được những hoàn cảnh, những thử thách khó khăn. Yếu tố thần kì có
vai trò quan trọng quyết định hoặc chi phối mạnh mẽ đối với sự phát triển và
giải quyết xung đột, mâu thuẫn trong truyện.
- Truyện cổ tích sinh hoạt:
Để nhận diện truyện cổ tích sinh hoạt, chúng tôi căn cứ vào đặc điểm thể
loại của nó trên cơ sở xác định ranh giới giữa truyện cổ tích sinh hoạt và
truyện cổ tích thần kì. Thứ nhất, trong truyện cổ tích sinh hoạt, nội dung hiện
thực đậm đà hơn so với truyện cổ tích thần kì. Thứ hai, nếu truyện cổ tích
thần kỳ giải quyết xung đột trong “cõi thần kì” và bằng “cái thần kì”, thì
truyện cổ tích sinh hoạt giải quyết xung đột trong cõi thực và bằng cái lôgic
của đời sống thực. Cái thần kỳ ở đây chỉ là thứ yếu, giống như cái “đường
viền” của truyện mà thôi. Yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích sinh hoạt không
có vai trò quyết định đối với sự phát triển của cốt truyện nữa. Nếu có, nó chỉ
tác động và chi phối theo quy luật thông thường của đời sống thực tại trần
gian. Trong truyện cổ tích sinh hoạt, xung đột mâu thuẫn trong truyện được
phát sinh, phát triển và giải quyết chủ yếu bằng tác động của con người, tức là
bằng sự vận động của bản thân các nhân vật người. Thứ ba, nhân vật chính
diện trong cổ tích sinh hoạt có tính chủ động và tích cực hơn trong truyện cổ
tích thần kỳ. Con người tự lo liệu lấy số phận, khẳng định phẩm chất của họ
thông qua những ứng xử cụ thể của bản thân. Thứ tư, khác với truyện cổ tích
thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt có khuynh hướng mất dần kiểu kết thúc có
hậu.
- Truyện cổ tích về loài vật
Truyện cổ tích loài vật là một bộ phận cổ tích có nhân vật chính là các con
vật, lấy đề tài về cuộc sống của loài vật - thường là những loài vật gần gũi với
đời sống của nhân dân (như trâu, thỏ, gà…) - để giải thích nguồn gốc đặc
điểm của loài vật, ngoài ra còn nhằm đề cao trí tuệ của người bình dân qua
hình tượng các con vật thông minh. Ở một mức độ nào đó, xã hội loài vật
được phản ánh trong truyện chính là sự phản chiếu của xã hội loài người.
Với những đặc trưng dễ nhận thấy, truyện cổ tích loài vật có thể phân biệt
rõ ràng với hai tiểu loại truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế sự. Tuy
nhiên, truyện cổ tích loài vật lại có khả năng bị nhầm lẫn với truyện ngụ ngôn.
* Về thể loại truyện ngụ ngôn
Về thể loại truyện ngụ ngôn, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định
về đặc điểm của thể loại này:
Theo tác giả Hoàng Trọng Miên : “Truyện ngụ ngôn là một loại truyện
tưởng tượng ra để thuyết minh một chủ đề luân lí, đạo đức, làm sáng tỏ một ý
niệm trừu tượng nào đó và ngụ triết lí răn đời, bênh vực cho lí tưởng của tác
giả”. (Việt Nam văn học toàn thư, 1972, Nxb Tiếng phương Đông, Sài Gòn):
Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đưa ra quan niệm: “Các lối ẩn dụ qua việc
đời phần nhiều bằng hình tượng súc vật là đặc điểm của ngụ ngôn. Mỗi con
vật biết nói, biết nghĩ, biết hành động là một biểu tượng của một loại người
nhất định. Quan hệ xung đột hay đồng tình giữa chúng nói lên những vấn đề
đạo đức thật sự” (Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, 1974,
Nxb Khoa học xã hội).
Theo Minh Hạnh, “truyện ngụ ngôn là một câu chuyện kể có tính chất thế
sự, nó là những kinh nghiệm về một cách đối nhân xử thế, những quan niệm
về luân lí, đạo đức, triết lí nhân sinh, những nhận định về các qui luật phát
triển của tự nhiên và xã hội” (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 năm 1986).
Tác giả Đinh Gia Khánh thì cho rằng: “Tư tưởng triết học của nhân dân
có thể tìm thấy trong tất cả các loại hình văn học dân gian, nhưng thể hiện
tập trung nhất là ở truyện ngụ ngôn” (Trên đường tìm hiểu văn hóa dân
gian, 1989, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội)
Dựa trên nhận định của các nhà nghiên cứu, chúng tôi rút ra các tiêu chí
cơ bản để nhận diện thể loại ngụ ngôn:
Tiêu chí 1: Chuyên chở một bài học luân lí, đạo đức, một kinh nghiệm sống
đã được nhân dân đúc kết từ thực tiễn.
Tiêu chí 2: Ẩn dụ đi liền với ngắn gọn, súc tích là đặc trưng về mặt phương
thức diễn đạt.
Tiêu chí 1 thuộc về chức năng thể loại, tiêu chí 2 thuộc về đặc trưng thi
pháp.
Thể loại truyện ngụ ngôn rất dễ bị nhầm lẫn với thể loại truyện cổ tích
loài vật trong trường hợp nhân vật chính của hai thể loại này đều là loài vật…
Chúng tôi đưa ra căn cứ để phân biệt hai thể loại này với nhau.:
Các con vật trong truyện ngụ ngôn không được chú trọng miêu tả kĩ về đặc
điểm như ở truyện cổ tích loài vật. Trong khi đó, truyện cổ tích loài vật là sự
sáng tạo của người xưa nhằm giải thích về nguồn gốc, hình dáng, các đặc tính
của loài vật. Chẳng hạn như vì sao lông quạ lại đen, lông chim công lại có
màu sắc sặc sỡ. Đó là cách hiểu của người xưa về thế giới động vật chứ không
hề ngụ ý về đời sống con người. Ngược lại, truyện ngụ ngôn không nhằm kể
chuyện về loài vật mà chỉ mượn chuyện về loài vật để nói về con người và xã
hội loài người. Ở truyện ngụ ngôn, nhân vật các con vật chỉ là nơi náu mình
của con người để nói lên tiếng nói của họ về cuộc sống với những tình huống
xảy ra với họ, nhằm nêu lên những quan niệm ứng xử và những kinh nghiệm
sống.
Khi bàn về thể loại của truyện cổ dân gian Ê đê, tác giả Trương Bi xác
định không tồn tại thể loại truyện ngụ ngôn. Tác giả Ngô Đức Thịnh và Đỗ
Hồng Kì cùng một quan điểm khi cho rằng truyện cổ Ê đê có tồn tại một bộ
phận truyện ngụ ngôn. Như vậy có hay không một thể loại truyện ngụ ngôn
trong truyện cổ dân gian Ê đê? Cả hai tác giả Ngô Đức Thịnh và Đỗ Hồng Kì
đều dẫn ba truyện để minh họa cho thể loại ngụ ngôn:
- Thỏ và ốc: Thỏ dạo chơi gặp ốc giữa đường. Thỏ nghĩ thương thân ốc nên
nói một câu thương hại. Ốc thách thỏ chạy thi. Ốc dùng mưu, gọi cả họ hàng
ra đứng dọc bờ suối. Thỏ cố sức chạy nhưng vẫn nghe tiếng của Ốc ở phía
trước mình. Thỏ chạy tới đích thì thấy Ốc đã về đích từ lúc nào. Thỏ đề nghị
chạy thi lại hai ba lượt nhưng lần nào cũng vẫn thua. Cuối cùng Thỏ mệt quá
lăn ra chết.
- Thỏ và hổ: Thỏ gặp hai chú hổ con đang định vồ bắt mình. Thỏ ưỡn ngực
lớn tiếng nói mình là cha của chúng. Lũ hổ con tưởng thật chạy về khoe với
mẹ rằng đã gặp cha. Hổ mẹ đuổi bắt Thỏ, bị kẹt vào cái cổng không rút đầu
ra được. Thỏ lấy roi quất vào mông Hổ mẹ. Lũ hổ con thấy vậy sợ quá chạy
biến vào rừng.
- Thỏ bán bà già cho Mtao làm vợ : Thỏ phá lúa của bà Y Rit, Y Rit đuổi theo
bắt Thỏ. Thỏ lừa Y Rit chui vào gốc cây không ra được. Thỏ lừa bà đốt hốc
cây làm Y Rit chết. Bà bắt được Thỏ. Thỏ nói ngọt với bà đem đổi Thỏ cho
Mtao mà lấy của cải. Thỏ lén gặp Mtao nói dối mình mang đến cho Mtao một
cô gái xinh đẹp đang chờ Mtao ở ngoài cầu thang. Thỏ chạy trốn. Mtao ra
cầu thang thấy bà già mới biết mình bị lừa.
Cả ba truyện này đều là truyện về con thỏ. Việc xác định đây có phải là
truyện ngụ ngôn hay không cần phải dựa vào những tiêu chí cụ thể của thể
loại ngụ ngôn mới có thể làm sáng tỏ.
Theo chúng tôi, về mặt chức năng thể loại, cả ba truyện đều không thể hiện
được vai trò chuyên chở một bài học luân lí đạo đức của thể loại truyện ngụ
ngôn. Truyện Thỏ và Hổ, Thỏ bán bà già cho Mtao làm vợ chỉ đơn giản kể về
những mẹo lừa tinh quái của thỏ để đạt được mục đích của mình. Truyện Thỏ
và Ốc thoạt nhìn có vẻ giống như truyện ngụ ngôn Thỏ và Rùa của người
Việt. Cũng là chuyện một con thỏ nhanh nhẹn chạy thi với một con vật chậm
chạp, bé nhỏ (Rùa, Ốc), cuối cùng con thỏ phải chịu thua. Nhưng sự khác biệt
là ở chỗ con thỏ trong truyện ngụ ngôn của người Việt thua cuộc vì ham chơi,
kiêu ngạo trong khi con thỏ trong truyện Thỏ và Ốc thua cuộc không phải vì
sự kiêu ngạo. Nó đã ráng hết sức chạy tới hai ba lần với tất cả sự nỗ lực
nhưng vẫn phải thua vì Ốc dùng mưu mẹo. Kết thúc của truyện Thỏ và Ốc
cũng không phải là kiểu kết thúc rút ra bài học kinh nghiệm như ở truyện ngụ
ngôn. Ở đây, cuối cùng con thỏ đã lăn ra chết mà không bao giờ biết được lí
do vì sao nó thua cuộc.
Về mặt thi pháp, trong ba truyện chỉ có truyện Thỏ và Ốc đảm bảo được
kết cấu ngắn gọn và súc tích nhưng về mặt chức năng thì không đạt yêu cầu
của thể loại ngụ ngôn. Truyện Thỏ và Hổ là một bộ phận trong chuỗi truyện
liên hoàn kể về con thỏ và con hổ. Truyện Thỏ bán bà già cho Mtao làm vợ
cũng là một bộ phận trong chuỗi truyện về các hành động chơi khăm của thỏ.
Theo chúng tôi, cả ba truyện này đều không thuộc thể loại truyện ngụ ngôn.
Vị trí thể loại của nó nằm ở truyện cổ tích loài vật. Qua khảo sát, chúng tôi
cũng khẳng định truyện cổ dân gian Ê đê không tồn tại thể loại truyện ngụ
ngôn.
Nhận xét:
Trước tình hình phân loại truyện cổ dân gian Ê đê với nhiều bất cập như đã
trình bày ở trên, chúng tôi dựa vào những tiêu chí đã xây dựng để phân loại
truyện cổ Ê đê một cách hợp lí hơn. Dựa trên 135 truyện đã tập hợp được, kết
quả phân loại mà chúng tôi thu được như sau:
Chúng tôi xác định truyện cổ dân gian Ê đê chỉ có ba bộ phận là thần
thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích.
Ở thể loại thần thoại có 14 truyện, chiếm 10,5 % trong tổng số 135 truyện,
gồm ba tiểu loại: Thần thoại giải thích sự tạo lập thế giới, thần thoại giải thích
nguồn gốc tộc người và các hiện tượng tự nhiên. Gồm các truyện: Tìm đất
sống, Con ếch Aê Đuk, Quả bầu vàng, Núi Cư Mta, Nạn hồng thủy, Hạt dẻ
thần kì, Thế giới thần linh, Cây kơpang và ngôn ngữ loài người, Nấm hồng
nấm đỏ, Sự tích về đất trời, Ánh sáng và bóng tối, Hang Ađrênh, Lấy trộm lửa
của trời, Truyện thần Aê Điê.
Ở thể loại truyền thuyết có 7 truyện, chiếm 5 % trong tổng số 135 truyện,
phân thành hai tiểu loại : truyền thuyết lịch sử và truyền thuyết địa danh. Gồm
các truyện : Đăm Thí, Thanh gươm thần, Nữ tù trưởng A Duôn H Du, Sự tích
sông Krông Hnăng, Buôn Ur, Buôn Kroa, Sự tích đảo Sing Gar Pour. Truyền
thuyết lịch sử có 3 truyện (Đăm Thí với 3 dị bản, Thanh gươm thần, Truyền
thuyết về nữ tù trưởng A Duôn H Du). Trong kho tàng văn học dân gian Ê đê,
hình ảnh người anh hùng chiến trận là nhân vật trung tâm của thể loại sử thi,
được phản ánh trong những trường ca dài. Ở truyền thuyết chỉ có vài bản kể
về người anh hùng lịch sử và có phần nào là sự thâm nhập của truyền thuyết
của các dân tộc lân cận, tạo nên các dị bản.
Những truyện còn lại thuộc thể loại truyện cổ tích, gồm có 114 truyện,
chiếm 84,5 % trong tổng số 135 truyện cổ dân gian.
Trong tổng số 114 truyện cổ tích: truyện cổ tích thần kì có 38 truyện,
chiếm tỉ lệ 31, 5 %. Truyện cổ tích sinh hoạt có 54 truyện, chiếm tỉ lệ 49 %.
Truyện cổ tích về loài vật có 22 truyện, chiếm tỉ lệ 29, 5 %.
Tiểu kết:
Với 135 truyện cổ dân gian thu thập được, chúng tôi cố gắng phân chia các
truyện về đúng vị trí thể loại của nó một cách khoa học và có những đánh giá
tổng thể về cơ cấu thể loại của truyện cổ dân gian Ê đê.
Thứ nhất, truyện cổ Ê đê tồn tại với ba thể loại cơ bản: thần thoại, truyền
thuyết, truyện cổ tích. Trong đó, thần thoại và truyền thuyết chiếm số lượng
khiêm tốn, truyền thuyết chiếm tỉ lệ ít nhất, bộ phận truyện cổ tích nổi bật lên
như một thể loại chiếm ưu thế. Điều này chứng tỏ truyện cổ tích có một vị trí
quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào Ê đê. Trong cơ cấu của
truyện cổ tích, truyện cổ tích sinh hoạt nổi bật lên với số lượng nhiều hơn cả.
Qua sự nhìn nhận bước đầu về thể loại truyện cổ tích, chúng tôi cho rằng đây
là bộ phận gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người Ê đê.
Thứ hai, chúng tôi nhận định truyện cổ Ê đê không tồn tại thể loại ngụ
ngôn như cách phân loại của các tác giả đi trước. Yếu tố ngụ ngôn có thể có
trong một số truyện nhưng chưa đủ cơ sở để có thể tạo nên một thể loại độc
lập với đầy đủ các đặc điểm của nó.
Chương 2: THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT
2.1. Thần thoại
2.1.1. Về đề tài
2.1.1.1. Thần thoại giải thích sự tạo lập thế giới
Một vấn đề lớn đặt ra đối với người nguyên thủy là giải thích vũ trụ.
Vũ trụ được hình thành như thế nào, cái gì có trước cái gì có sau, ai sắp đặt vũ
trụ luôn luôn là câu hỏi lớn đối với họ. Sự bí ẩn của thế giới tự nhiên đã được
giải thích thông qua những câu chuyện thần thoại. Hầu như vùng đất nào
cũng có những mảng truyện kể về quá trình khai thiên lập địa gắn liền với các
nhân vật huyền thoại của địa phương mình.
Khảo sát 14 thần thoại của người Ê đê, chúng tôi tách ra được 5 thần
thoại liên quan đến vấn đề giải thích sự hình thành thế giới, chiếm tỉ lệ 33%.
Đó là các truyện Hạt dẻ thần kì, Thế giới thần linh, Chuyện thần Aê Diê, Nấm
Hồng Nấm Đỏ. Bốn thần thoại này mô tả thời kì sơ khai của thế giới khi mới
được hình thành đến thời kì xuất hiện các thần linh ngự trị cai quản cả ba cõi
trời, mặt đất và dưới lòng đất.
Thần sáng tạo thế giới của người Ê đê cũng giống như thần sáng tạo vũ
trụ của người Việt, cũng là một vị thần khổng lồ. Truyện Hạt dẻ thần kì kể
rằng thuở xa xưa, vũ trụ chỉ là một hạt dẻ to bằng cái ché. Trải qua bao mưa
nắng, hạt dẻ to dần chiếm cả không gian bao la. Một ngày kia có tiếng sấm
làm hạt dẻ tách làm đôi. Có một vị thần khổng lồ từ trong hạt dẻ đứng dậy đội
nửa hạt dẻ lên cao thành bầu trời, nửa còn lại thần đạp xuống đất thành trái
đất. Tạo núi tạo sông và con người xong, thần biến đi mất. Vị thần khổng lồ
này trong trí tưởng tượng của người Ê đê cũng giống như các vị thần khổng lồ
sáng tạo thế giới của các dân tộc anh em khác.Nhưng có một điểm đặc biệt là
thần bước ra từ một hạt dẻ. Thần thoại này phản ánh trình độ tư duy nhận thức
của người Ê đê thuở xưa. Có lẽ khi đó họ đã có sự hình dung về vai trò sinh
sôi nảy nở của cây, quả. Hạt dẻ ở đây là hình ảnh cụ thể sinh động của một
thứ quả. Quan niệm này của người Ê đê cho thấy một trí tưởng tượng ngây
thơ và chất phác.
Truyện Thế giới thần linh và Chuyện thần Aê Diê đã mô tả thế giới các
vị thần ở một thời điểm muộn hơn. Sau khi thế giới được thiết lập, vị thần từ
trong hạt dẻ đã hoàn thành sứ mệnh của mình, con người ra đời nhưng họ
không sinh tồn một mình mà đồng hành với cuộc sống của họ luôn có sự can
thiệp của thần linh ở khắp cõi trời đất. Thần linh bắt đầu xuất hiện cai quản
thế giới, mỗi người đảm nhiệm một việc. Xuất phát từ tín ngưỡng đa thần,
người Ê đê tin rằng các thần ngự trị ở khắp mọi nơi, sự tồn tại của thế giới
đồng nghĩa với sự tồn tại của các vị thần. Mối quan hệ của các vị thần này
không tách rời nhau. Nó giống như hình thức của một cộng đồng có sự liên
kết. Người Ê đê quan niệm vũ trụ cao bảy tầng : ba tầng trên là nơi ở của các
thiên thần, tầng giữa là nơi con người sinh sống. Ba tầng còn lại là nơi ở của
linh hồn và các thần. Thế giới của các thần trong thần thoại Ê đê về hình thức
có phần tựa như thế giới của các vị thần trên đỉnh Olympia của Hi Lạp, tất
nhiên không phong phú và hoành tráng bằng.
Chúng tôi mô tả thế giới các vị thần này cụ thể như sau: Sau khi thần
sáng tạo biến mất, một thế giới thần linh được xuất hiện. Đứng đầu là thần tối
cao Aê Diê, là chúa tể của vũ trụ, ở trên tất cả các thần, thiện cũng như ác.
Ngày xưa Aê Diê ở tầng sát trần gian , lấy mẹ đất làm vợ, sinh được một
người con trai một người con gái. Về sau người con trai bị một con rết cắn
chết. Kể từ đó Aê Dê lên tận trời sống. Phụng sự bên cạnh Aê Diê là thần Aê
Du – vị thần canh nông. Aê Du vốn là em vợ của Aê Diê, cũng có quyền lực
rất lớn. Dưới quyền của Aê Du có thần Mtao Nla phụ trách về lúa gạo, thần
Aê Mtao Tioa và Aê Mbôa Lan chăm sóc cho muôn loài cây cỏ được tốt
tươi. Trên trời còn có thần Cây Đa Cây Si luôn mang đến cho con người
những điều tốt lành. Thần Rồng cũng được người Ê đê rất kính trọng và họ
không bao giờ quên nhắc tên thần trong những lễ cầu khấn mưa.
Trong hàng các nữ thần, có nữ thần Hbia Dung Đay với đôi vú dài lõng
thõng chuyên trông nom linh hồn trẻ nhỏ. Người Ê đê quan niệm rằng linh
hồn trẻ con hoặc bào thai chết trong bụng mẹ sẽ lên trời ở với nữ thần này. Ở
tận cùng mặt đất còn có một nữ hung thần là nữ thần Y Rít. Phần giáp giữa
chân trời và mặt đất có cột chống trời là Knhal Lan, hễ cột nào lay và muốn
đổ thì các hung thần coi sóc các cột này phải có trách nhiệm thay các cột mới
để khỏi sập trời. Và tất cả các thần này đều ở dưới quyền nữ hung thần Y Rít.
Ở trên trời có Ayut, Biut Sa là các thần Mây thần Khói. Aê Mghi và Aê
Mghăn là hai vị thần lo việc làm mưa. Người Ê đê quan niệm có mưa trên trời
và có mưa dưới đất. Mỗi khi bị hạn hán phải cúng xin mưa, người ta đều cầu
khấn cả hai thần này cùng một lúc. Truyện Nấm Hồng Nấm Đỏ cũng nhắc đến
chi tiết loài người không cúng thần Mưa trên trời. Khi Ông Trời trừng phạt
cho thiêu đốt trái đất, các thần Mưa đã không cho mưa xuống hạ giới.
Aê M Ghân là thần mặt trời. Khi chưa biết tới sự tồn tại của vị thần này ở
trên trời, con người chỉ gọi tên thần mặt đất khi cúng lễ. Thần Mặt Trời tức
giận xin trời cho ngừng quay 7 ngày 7 đêm, báo mộng cho con người phải
làm lễ hiến sinh từ đó con người mới có ánh sáng trở lại.
Ở dưới lòng đất vừa là nơi trú ngụ của linh hồn người chết, nơi của những
buôn người chết chờ đợi được đầu thai. Lòng đất cũng là nơi trú ẩn của các
thần nông nghiệp và các ác thần. Hma là thần nương rẫy. Matao Êa và Mtao
Pui là thần nước và thần lửa. Mtao Kla và Mtao Klu là thần chăm sóc đất đai
và đồng áng. Pô lăn là thần đất. Đối lập với các thần thiện là các ác thần.
Hung thần Yang Liê cầm đầu các giống quỷ, bộ dạng đáng sợ với trán cắm
dao và cổ đeo gông. Yang Liê có một thuộc hạ trung thành là Yang Briêng
(còn gọi là thần sao băng, hình thù giống như con khỉ) nổi tiếng dữ tợn
chuyên mang tai họa đến cho con người. Và một thần hầu cận nữa là Kơ sớt
chuyên ăn xác người chết. Ngoài ra còn có thần Aê Mdao trông nom về các
bệnh dịch và thiên tai. Người Ê đê thường cúng lễ đều đặn cho các thần này vì
e sợ những tai họa mà những thần này gieo rắc cho con người.
Xem xét một hệ thống dày đặc thần linh trong thần thoại của người Ê đê,
chúng tôi cho rằng trong tín ngưỡng, thần chi phối đời sống của người Ê đê
với một sức mạnh tâm linh đáng kể. Điều này cũng cho thấy sự tôn thờ đi đôi
với sự khiếp sợ của người xưa đối với các lực lượng siêu nhiên.
Dựa vào các bản kể Thế giới thần linh và Chuyện thần Aê Diê, Nấm Hồng
Nấm Đỏ đã mô tả ở trên, chúng tôi lập sơ đồ hệ thống các vị thần ở 7 tầng vũ
trụ của người Ê đê (Bảng 1, trang 50).
Bảng 1: Hệ thống thần linh của người Ê đê ở 7 tầng vũ trụ
3 TẦNG TRÊN
Thần
Aê Diê (vợ là Hba Klu) Aê Du (Em vợ Aê Diê)
Aê M Ghân Yang Mlan Yang Kên rô Hbia Đung Day Yang Mnut hra
(Mặt trời – nữ) (Mặt trăng) (Cầu vồng) (Linh hồn – nữ) (Cây Đa Cây
Si)
Ayut Biut Sa Yang Kên rô Aê Mghi Anak rai
(Mây) (Khói) (Cầu vồng) (Mưa) (Rồng)
………
TẦNG GIỮA
Người
3 TẦNG DƯỚI
Yang Liêng (Ác quỷ)
Aê Mghăn (Mưa)
Hma (Nương rẫy)
Aê Mtao Tioa (Cây cỏ)
Yang Briêng (Thiên tai)
Matao Êa (Nước)
Aê Mbôa Lan (Cây cỏ)
Aê Mdao (Dịch bệnh)
Mtao Pui (Lửa)
Kơ sớt (Ăn thây người)
Pô Lăn (Đất)
Mtao Nla (Lúa gạo) Yang Mdiê (Lúa gạo – nữ)
Y Rít (Hung thần – nữ)
Yang Êa Cư (Hạn hán)
Thần, linh hồn
Mtao Axe (Động vật)
Mtao Kla (Đồng áng)
Mtao Klu (Đồng áng)
Nói về mối quan hệ giữa các vị thần trong thần thoại Ê đê, tất cả các thần
đều phải tuân theo sự chỉ đạo của thần Aê Diê và mối quan hệ giữa các thần
cũng là sự phản ánh bức tranh đời sống của người Ê đê thời cổ, thời kì còn bộ
lạc với tính cộng đồng rất cao. Chuyện Thế giới thần linh kể rằng nữ thần Lúa
(Yang Mdiê) thỉnh thoảng lại mặc váy xanh leo lên trời đến thăm nhà chị ruột
của mình là Hba Klu nghe chị bày vẽ thêm công việc. Mặc dù thế giới các
thần đã phân chia có trật tự nhưng đó chưa hẳn là sự phân chia có đẳng cấp.
Thần tối cao Aê Diê dùng đạo đức của mình để chỉ huy các thần bên dưới làm
việc theo đúng chức năng của mình, can thiệp khi có ác thần lộng hành. Aê
Diê luôn chăm chỉ coi sóc công việc khắp cõi nhân gian. Khi các thần thiện
mải lo săn bắn hoặc ngủ quên, các thần ác quấy nhiễu loài người, thần Aê Diê
liền gọi trùm ác thần Yang Liê về trời xiềng chân lại.
Các vị thần trong trí tưởng tượng của người Ê đê phần lớn mang dáng
vóc kì lạ. Chẳng hạn chân dung Aê Diê được mô tả đầu tròn là bầu trời, trán
nhăn là mây bay lượn, hơi thở là không khí, mắt phải là mặt trời vàng, mắt
trái là mặt trăng bạc.Thần sinh mệnh của giới động vật là Mtao Axe có mặt
người, có hai tay và có đuôi cùng với bốn chân. Thần Aê Mbôa Lan thì đầu
người mình giun. Nữ thần Hbia Đung Day có đôi vú dài lõng thõng, hai vú
trước ngực, hai vú sau lưng, sữa nhiều như suối. Nữ thần Yang Mdiê có thân
hình như bó lúa. Thần Hạn hán (Yang Êa Cư) thì có hình thù như con dê, có
lưỡi dài có thể hút cạn sông ngòi. Nhìn chung hình dáng các thần luôn có nét
kì quái khác lạ so với người bình thường. Điều này có lẽ xuất phát từ tư duy
nguyên thủy khi cuộc sống của người Ê đê gắn bó mật thiết với thế giới hoang
dã. Cũng có thể đó là tàn dư của những hình thức tô tem giáo, bái vật giáo
thâm nhập vào thần thoại Ê đê.
Nhìn vào tộc phả các thần trong sơ đồ trang 50, có thể thấy thần thoại của
đồng bào Ê đê có nét khác biệt so với thần thoại của người Kinh. Thứ nhất,
người Kinh quan niệm vũ trụ chỉ có ba tầng: thiên đình (do Ngọc hoàng ngự
trị), mặt đất (trần gian nơi con người sinh sống) và âm phủ (nơi Điêm Vương
cai quản). Với người Ê đê, vũ trụ có tới 7 tầng : 3 cõi trời, mặt đất và 3 cõi
dưới lòng đất. Thứ hai, đó là sự có mặt của nhiều nữ thần trong thần thoại Ê
đê và các nữ thần này giữ những vai trò rất quan trọng trong thế giới thần
linh. Điều này gợi lên mối liên hệ về dấu ấn mẫu hệ trong đời sống xã hội Ê
đê. Aê Diê là thần đứng đầu và có vợ là nữ thần Hba Klu. Em ruột của nữ
thần Hba Klu là Aê Du cũng có vị trí không thua kém Aê Diê. Những nam
thần này điều khiển thế giới nhưng phía sau họ là hình ảnh của một nữ thần
đầy quyền uy. Aê Diê và Aê Du có thể được hình dung như bóng dáng của
những người đại diện cho một gia tộc mẫu hệ.
Từ xa xưa, con người đã ý thức được tầm quan trọng của mặt trời trong
cuộc sống, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Mặt trời là ánh sáng, là khởi
nguyên của mọi sự sống. Thông thường trong quan niệm của nhiều dân tộc,
mặt trời là một nam thần. Ở thần thoại Ê đê, mặt trời đầy quyền năng lại là
một nữ thần. Vị thần đón nhận những linh hồn trẻ nhỏ lên trên trời cũng là
một nữ thần (Hbia Đung Day) được khắc họa ấn tượng với đôi vú dài có thể
nuôi nấng bao linh hồn trẻ con bằng bầu sữa không bao giờ cạn của mình.
Hình ảnh Hbia Đung Day chính là niềm tự hào và sự tôn sùng nữ giới của một
cộng đồng mẫu hệ. Trong nhận thức của mình thời xa xưa, người Ê đê tin
rằng trên đầu họ, trời là một vòm mái tròn, giống như hình một cái chuông úp
(Sự tích về đất trời). Cái chuông úp trong trí tưởng tượng của họ là hình ảnh
có mối liên hệ với biểu tượng cái vú của người phụ nữ. Và ở mỗi nếp nhà sàn
của dân tộc Ê đê, trên đầu cầu thang họ đều đẽo hình hai cái vú. Với người Ê
đê, người phụ nữ là trụ cột của gia đình, và cái vú của người phụ nữ được
xem như nguồn gốc của sự sống, của mọi sự sáng tạo. Chính vì thế mà nữ
thần Hbia Đung Day được người Ê đê tôn kính và rất mực yêu mến. Trong hệ
thống thần của người Ê đê, các thần nông nghiệp khá đông đúc và một trong
các thần phụ trách về lương thực cũng có một nữ thần (Yang Mdiê). Ở tận
cùng dưới đất, nơi chỉ có các hung thần lo việc chống trời, đứng đầu các
hung thần này lại là một nữ hung thần (Y Rit). Có thể thấy rằng các nữ thần
giữ vị trí quan trọng trong tâm thức của cộng đồng Ê đê, phản ánh vai trò
làm chủ xã hội của nữ giới trong cộng đồng. Thần thoại Nấm Hồng Nấm Đỏ
kể rằng Nấm Đỏ (con gái Nữ thần mặt trời) yêu Nấm Hồng (con trai của Trái
đất). Họ trốn xuống trần gian sinh được con gái là nàng Xơ nut. Vì sống dưới
trần gian nên nàng Xơ nut không có phép thần. Trời biết được đã phái loài
Arê Rân xuống thiêu đốt trái đất, chính nàng Xơ nut đã nhổ cây tông lông
đem giấu đi. Cây tông lông về sau nhờ sự bảo vệ của Xơ nut mà có phép thần
đánh bại cả loài Arê Rân, cứu trái đất khỏi sự tuyệt diệt. Như vậy, người lập
công cứu loài người lại chính là một hậu duệ nữ của các thần chứ không phải
là một nam thần. Qua đó chúng ta thấy được tính chất mẫu hệ biểu hiện khá
rõ trong thần thoại của người Ê đê.
2.1.1.2. Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên
Trong 14 thần thoại, người Ê đê có 2 thần thoại liên quan tới chủ đề
giải thích các hiện tượng tự nhiên, chiếm tỉ lệ 13 % : Lấy trộm lửa của trời và
Sự tích về đất trời. Chúng tôi cho rằng số lượng thần thoại giải thích các hiện
tượng tự nhiên vốn dĩ không phải chỉ có con số ít ỏi như hiện tại. Với tín
ngưỡng đa thần của người Ê đê, bất kì một hiện tượng tự nhiên nào cũng được
khoác một lớp áo màu nhiệm, được giải thích một cách kì diệu và đều được
gán vào đó vai trò của các vị thần. Có lẽ bộ phận thần thoại này đã bị thất lạc
nhiều trong quá khứ.
Tổ tiên người Ê đê cũng như bao dân tộc khác ở thời kì hồng hoang của
lịch sử loài người, cũng tìm cách hình dung và giải thích các hiện tượng tự
nhiên bằng trí tưởng tượng của mình. Ở truyện Sự tích về đất trời, người Ê đê
cho rằng sở dĩ có mưa là do các vị thần Mưa tạo ra. Hạn hán là do các thần
Mưa vô ý quên mất nhiệm vụ ban nước mưa cho hạ giới. Lũ lụt là do các thần
Mưa lỡ tay xối nước quá nhiều xuống trần gian. Và sở dĩ có ngày đêm là vì
“mặt trăng, mặt trời mọc, đi vòng lên trời cao, rồi lại rớt xuống đất thấp,
xong lại leo lên trời cao… cứ như thế mà có đêm rồi lại có ngày”. Ở thời kì
muộn hơn khi con người đã tìm ra lửa để chế ngự bóng tối, để phục vụ những
nhu cầu trong cuộc sống, họ kì diệu hóa sức mạnh của lửa như một báu vật
của trời mà người trần muốn có được chỉ còn cách đánh cắp của trời. Việc tìm
ra lửa cũng được coi như một chiến công văn hóa lớn của nhân loại. Người Hi
Lạp có thần Prômêtê vì thương loài người nên đã lấy lửa chia cho loài người
và phải chịu hình phạt bị xiềng vào núi đá. Người Ê đê cũng có một người
anh hùng là Đăm Săn – cháu của Trời đã lên trời lấy trộm lửa khi Ông bà trời
đi vắng. Về đến hạ giới chàng vấp phải hòn đá làm ngọn lửa vụt tắt. Tức giận
chàng lấy tre nứa quất vào đá, đá lăn va vào nhau phát ra tia lửa trả lại cho
Đăm Săn. Lửa bén vào tre nứa bùng cháy. Từ đó loài người có lửa một cách
dễ dàng. Người Ê đê đã giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng trí tưởng
tượng và bằng cả sự quan sát của họ về thế giới, tất cả các hiện tượng tự nhiên
đều khoác một lớp áo màu nhiệm.
2.1.1.3 Thần thoại giải thích nguồn gốc tộc người
Thuộc về nhóm truyện giải thích nguồn gốc tộc người, người Ê đê có 7
thần thoại, chiếm 54 % trong tổng số 14 thần thoại : Quả bầu vàng, Sự tích
hang A Đrênh, Cây kơpang và ngôn ngữ loài người, Tìm đất sống, Con ếch
Aê Đuk, Núi Cư Mta, Nạn hồng thủy.
Về nguồn gốc tộc người, đồng bào Ê đê cho rằng ông bà tổ tiên của họ
ngày xưa được sinh ra từ một quả bầu. Chuyện Quả bầu vàng kể rằng : thuở
xa xưa buôn làng Ê đê đang sống yên vui bỗng nước bốn phía đổ về trắng xóa
nhấn chìm tất cả. Chỉ còn hai anh em Khốt và Kho ngồi trong một trái bầu
khô để lánh nạn. Trong những thứ họ mang theo có một hạt bầu, đem gieo
xuống đất thì được cả rẫy bầu nhưng chỉ có một quả duy nhất. Hai anh em
lấy lửa đốt thì quả bầu thủng một lỗ rồi có từng đôi trai gái chui ra từ quả
bầu: người Kinh, người Tày, Nùng, Ê đê, Giarai… Người Ê đê tin rằng dân
tộc Ê đê có cùng một nguồn gốc với các dân tộc anh em khác. Thần thoại Ê đê
còn có bốn bản kể mang tính chất dị bản của truyện Quả bầu vàng cũng nhằm
giải thích về nguồn gốc loài người: Tìm đất sống, Con ếch Aê Đuk, Núi Cư
Mta, Nạn hồng thủy.Các dị bản này chỉ khác truyện Quả bầu vàng ở chi tiết
nguyên nhân xảy ra hồng thủy, phương tiện tránh lụt (trống, ghế) và loài
người tái sinh trở lại không phải từ quả bầu chui ra mà do đôi trai gái sống sót
sinh ra.
Ở thời kì muộn hơn, khi người nguyên thủy đã sống theo bầy đàn đông
đúc, tuy nhiên vẫn ở thời kì sơ khai - thời còn ăn lông ở lỗ, người Ê đê lại có
một cách giải thích về sự ra đời và phân bố những bộ lạc nguyên thủy của
mình qua câu chuyện về hang A Đrênh. Chúng tôi tìm thấy ba bản kể :
Bản kể 1: Thuở loài người sống ở dưới lòng đất sâu, hai cha con Y
Tang, Y Tung đuổi theo một con lợn rừng phá rẫy, chạy mãi đuổi mãi vào một
cái hang, chui lên khỏi hang là mặt đất phì nhiêu chưa bao giờ được biết. Hai
cha con về dẫn các bộ tộc ra khỏi hang sâu dưới đất lên sinh sống trên mặt
đất. Trên đường đi con trâu hai đầu của Y Rit ngáng đường phải giết trâu.
Thần Aê Diê phân chia loài người thành các họ khác nhau (Ayun, Mlô, Êban,
Niê Kđăm…) chia nhau đi tìm đất sống. (Y Điêng và Hoàng Thao, 1988,
Truyện cổ Ê đê, NXB Văn hóa dân tộc)
Bản kể 2: Thuở người và muông thú còn hiểu tiếng nói của nhau, loài
người sống ở hang sâu trong lòng đất, chưa biết nấu cơm nấu rượu, chưa
biết dệt chăn dệt khố. Pôlăn (thần Đất) bảo con trai Pô Êpik xuống trần dạy
cho loài người nấu cơm nấu rượu. Khi biết làm ra rượu, họ quên hết mọi thứ,
không đi kiếm ăn không có cái ăn. Họ oán Pô Êpik, đánh đuổi thần, đuổi
theo mãi thì gặp cái hang, chui lên là mặt đất màu mỡ họ chưa từng biết.
Đoàn người kéo nhau lên mặt đất sinh sống, trâu của Y Rit ngáng đường nên
Y Rit phải giết trâu. Đoàn người lần lượt kéo ra: người Thái, người Mèo,
người Tày, người Kinh, người Ê đê… Cái hang nơi họ chui ra gọi là hang A
Đrênh. Các tộc người chia nhau đi tìm nơi sinh sống. (Trương Bi, Y Wơn,
2006, Truyện cổ Tây Nguyên, Sở VHTT Đăk Lăk)
Bản kể 3: Thuở trời đất còn mịt mù, loài người sống dưới lòng đất
chưa biết nấu cơm nấu rượu. Thần Đất thương tình sai con trai dạy loài
người biết chăm lo cuộc sống của mình. Con trai của thần dạy loài người nấu
rượu. Loài người từ đó chỉ say sưa uống rượu không đi kiếm ăn. Họ đói khát
rồi đánh đuổi con trai thần Đất. Họ đuổi mãi đến khi chui ra khỏi hang sâu
thì thấy mặt đất và bầu trời. Đoàn người kéo nhau lên mặt đất. Từng bộ tộc
lần lượt chui ra: Người Thái,người Kinh,người Mnông, người Giarai… Ông
Trời xuất hiện hỏi từng bộ tộc muốn chọn vật gì để mang theo hộ thân. Người
Kinh đã chọn súng và chữ viết, người Ê đê chọn muối, người Thái chọn gạo…
Cái hang nơi họ chui ra gọi là hang A Đrênh. Từ đó họ chia nhau ra đi tìm
nơi cư trú. (Trương Bi, Y Wơn, 1997, Truyện cổ Ê đê, tập 2, Sở VHTT Đăk
Lăk)
Cả ba bản kể này đều phản ánh giai đoạn nhận thức của người Ê đê về quá
trình chuyển từ hang sâu trong lòng đất lên sống trên mặt đất. Đây chính là
bước ngoặt trong lịch sử loài người trong việc thay đổi địa bàn cư trú và sự
phân chia các tộc người. Trong ba bản kể, bản thứ ba có lẽ là bản kể muộn
hơn ở những thời kì sau. Bản kể này đã có sự thâm nhập những chi tiết không
thuộc về thời kì lịch sử của thần thoại: súng, chữ viết. Hiện tượng này cho
thấy quá trình biến đổi theo thời gian của truyện kể dân gian, một số truyện sẽ
mất dần những yếu tố nguyên thủy ban đầu của nó mà thay vào đó là kiểu tư
duy của một trình độ văn minh hơn.
Về tiếng nói của mỗi tộc người, trong thần thoại Cây kơ pang và ngôn
ngữ loài người, người Ê đê giải thích sở dĩ dân tộc Ê đê có tiếng nói khác các
dân tộc anh em từ miền ngược đến miền xuôi là bởi vì Bà Trời (Hba Klu) rắc
lá cây xuống trần, loài người không ai hiểu tiếng của nhau, mỗi người nói một
thứ tiếng không ai hiểu ai nữa. Vì thế họ phải chia nhau ra đi sinh cơ lập
nghiệp ở mỗi miền khác nhau.
Tiểu kết:
Khảo sát bộ phận thần thoại của truyện cổ dân gian Ê đê, chúng tôi nhận
thấy mặc dù số lượng thần thoại không nhiều nhưng bộ phận thần thoại này
đã phản ánh nội dung nhận thức thế giới khá phong phú của người Ê đê thời
cổ. Người Ê đê có cách giải thích về sự hình thành vũ trụ, loài người, tộc
người cũng có nét giống với thần thoại của nhiều dân tộc trên đất Việt : vũ trụ
thì do thần khổng lồ tạo ra, các dân tộc sinh ra đều có chung một nguồn gốc,
các hiện tượng tự nhiên xảy ra đều do sự điều khiển của các vị thần. v.v… Đó
là tư duy thần thoại nằm trong một hệ thống không tách rời thần thoại Đông
Nam Á. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý ở thần thoại Ê đê là thế giới quan của cư
dân bản địa trên đất Tây Nguyên đã được thể hiện rất ấn tượng trong quan
niệm về 7 tầng vũ trụ và hệ thống thần linh. Khi quan sát kĩ thế giới thần linh
trong thần thoại, chúng tôi lại thấy sự chi phối của yếu tố văn hóa mẫu hệ
ngay trong đời sống tâm linh của người Ê đê.
2.1.2. Các mô típ trong thần thoại Ê đê
2.1.2.1. Mô típ người khổng lồ kiến tạo
Hình tượng người khổng lồ là một kiểu nhân vật rất phổ biến trong
truyện kể dân gian mọi dân tộc, mọi vùng miền đất nước. Người khổng lồ
trong thần thoại Việt Nam cũng rất phong phú. Đó là thần trụ trời, bà Nữ Oa,
ông Tứ Tượng, ông Tát Bể, ông Đào Sông… Người Ê đê cũng có một vị thần
khổng lồ gánh vác trọng trách kiến tạo thế giới. Đó là vị thần trong bản kể
duy nhất về việc sáng tạo vũ trụ (Hạt dẻ thần kì). Việc làm của thần diễn ra
rất nhanh chóng. Thần dùng hai bàn tay đào đất đá nặn thành loài người và
muôn vật. Chỗ thần đào hóa thành sông. Đất đá biến thành núi đồi, dấu chân
thần thành ao hồ đầm lầy, chỗ thần nằm nghỉ hóa thành đồng bằng. Thần vo
tròn hai hòn đá ném lên trời thành mặt trăng và mặt trời. Sự xuất hiện của vị
thần này đồng nghĩa với việc vũ trời đất vạn vật được khai sinh. Điểm đặc
biệt ở vị thần khổng lồ của người Ê đê là ở chỗ thần bước ra từ một hạt dẻ.
Người Ê đê đã quan niệm vũ trụ ban đầu không phải là cõi hỗn độn ngổn
ngang mà tất cả đều nằm gọn trong một hạt dẻ. Chỉ khi vị thần khổng lồ xuất
hiện từ trong hạt dẻ, thần mới tách hạt dẻ ra thành trời, thành đất. Hạt dẻ ở
đây cũng có thể xem là một dạng của quả. Quan niệm thần khổng lồ xuất
thân từ trong hạt dẻ chứng tỏ ngay từ thời xa xưa, người Ê đê đã ý thức được
vai trò của hạt, quả với ý nghĩa như một sự khởi sinh của sự sống. Với người
Ê đê, dù là thần sáng tạo vũ trụ thì cũng có nguồn gốc từ một loại quả, hạt.
Đây là quan niệm rất hồn nhiên trong thần thoại của họ.
2.1.2.2. Mô típ hồng thủy
Trong đời sống của người nguyên thủy, những hiện tượng tự nhiên nhất
là thiên tai thường ghi lại dấu ấn rất sâu trong tâm trí con người. Và một trong
những hiện tượng tự nhiên khiến con người cảm thấy khiếp sợ và ám ảnh mãi
về sau có lẽ chính là nạn hồng thủy. Đó là lí do thần thoại Việt Nam nói riêng
và thần thoại Đông Nam Á nói chung đều nhắc tới nạn hồng thủy như một
biến cố làm thay đổi vũ trụ. Ở Tây Nguyên cao hơn 2000m so với mực nước
biển cũng có thần thoại nói về hiện tượng lụt. Thần thoại Ê đê cũng nói tới
nạn hồng thủy như một nguyên nhân khiến loài người gần như tuyệt diệt rồi
lại tái sinh. Nạn hồng thủy là một thiên tai lớn trong quá khứ, được nhân lên
gấp bội trong nhận thức hạn hẹp của người xưa về thế giới tự nhiên. Trong
tiềm thức của họ, những trận lụt khủng khiếp xảy ra đã hủy diệt tất cả loài
người. Thực ra loài người ở đây có thể được hiểu là một thị tộc hay một bộ
lạc nguyên thủy ở một vùng cư trú cổ đại nào đó. Gắn liền với môtíp lụt là chi
tiết chỉ còn đôi trai gái sống sót (có thể là hai anh em hoặc cặp vợ chồng) và
đây là một trong những nguyên cớ mà thần thoại thường đưa ra để giải thích
về nguồn gốc tộc người.
Ở thần thoại của người Ê đê, trong số 14 thần thoại, có 5 bản kể về
nguồn gốc tộc người xuất hiện môtíp hồng thủy, đó là các truyện: Tìm đất
sống, Con ếch Aê Đuk, Quả bầu vàng, Núi Cư Mta, Nạn hồng thủy. Trong đó,
truyện quả bầu vàng là bản kể chính, bốn truyện còn lại mang tính chất như
những dị bản. Chúng tôi lập sơ đồ cốt truyện:
- Quả bầu vàng: Lụt → Chỉ còn hai anh em sống sót → loài người được
tái sinh
- Tìm đất sống : Đại hạn → Cóc lên trời xin 7 nồi đồng nước mưa →
Lụt → Chỉ còn hai vợ chồng sống sót → loài người được tái sinh.
- Con ếch Aê Đuk : Đại hạn → Ếch lên trời xin mưa, lỡ đổ thêm 3 gáo
nước → Lụt → Chỉ còn hai vợ chồng sống sót → loài người được tái sinh
- Quả bầu vàng: Lụt → Chỉ còn hai anh em sống sót → loài người
được tái sinh
- Núi Cư Mta: Đại hạn → Lụt → Chỉ còn hai vợ chồng sống sót → loài
người được tái sinh
- Nạn hồng thủy: Lụt → Chỉ còn hai vợ chồng sống sót → loài người
được tái sinh
Trong các bản kể này, có 2 truyện đề cập tới nguyên nhân của hiện tượng
lụt, còn lại không nói tới nguyên nhân. Mô tip nạn hồng thủy trong thần thoại
Ê đê đều có một chức năng là thúc đẩy cho sự tái sinh của loài người.
2.1.2.3. Mô típ quả bầu
Hình ảnh quả bầu trong kí ức xa xưa của cư dân Đông Nam Á được
xem là nguồn gốc sản sinh ra các tộc người. Mô típ quả bầu được nhắc đến
trong rất nhiều thần thoại Đông Nam Á và cũng xuất hiện trong hàng trăm
bản kể ở Việt Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc trong công trình
Truyện kể dân gian đọc bằng tif và motif đã tìm hiểu các dạng truyện có mô
típ này và khái quát thành ba dạng của mô típ quả bầu : mô típ bầu mẹ, mô típ
bầu con và mô típ bầu thuyền. Khảo sát thần thoại của người Ê đê, chúng tôi
tìm được năm bản kể liên quan đến mô típ quả bầu: Tìm đất sống, Con ếch Aê
Đuk, Quả bầu vàng, Núi Cư Mta, Nạn hồng thủy để tìm hiểu các dạng thức
của mô típ quả bầu trong thần thoại Ê đê. Chúng tôi không thấy tồn tại môtíp
bầu mẹ nở ra các tộc người, cũng không thấy môtíp bầu con do đôi trai gái
sinh ra mà chỉ có sự xuất hiện của môtíp bầu thuyền trong cả 5 văn bản
truyện.
Chúng tôi xem xét truyện thứ nhất là Quả bầu vàng. Trong truyện kể này,
khi nạn hồng thủy xảy ra, quả bầu là phương tiện cho hai anh em tránh lụt
(ngồi chơi trong quả bầu khô mà thoát nạn), sau đó nhờ sự gieo trồng của hai
anh em mà hạt bầu lớn lên thành quả bầu. Hai anh em đục quả bầu ra thì loài
người lũ lượt chui ra. Từ bản kể này, chúng tôi khái quát thành thành công
thức:
Lụt → Hai anh em + Bầu (2) → Người
Bầu (1)
Như vậy quả bầu có hai chức năng, vừa là phương tiện tránh lụt vừa là
nguồn gốc sinh ra loài người. Quả bầu (1) với vai trò “thuyền cứu nạn” đã giữ
được mạng sống cho hai anh em, từ đó mới có việc đem gieo hạt bầu thành
quả bầu sinh ra các tộc người, tạm gọi là quả bầu thuyền. Quả bầu (2) phải có
sự vun trồng chăm sóc của hai anh em mới sinh ra loài người, tuy nhiên
không phải là kết quả hôn phối của hai anh em. Ở đây môtíp quả bầu thuyền
giữ vị trí quan trọng là điều kiện trước tiên mở ra cơ hội cho loài người xuất
hiện trở lại.
Ở bốn bản kể còn lại nói về nguồn gốc tộc người, môtíp quả bầu thuyền
không xuất hiện một cách trực tiếp mà gián tiếp qua hình ảnh của vật thay thế
cho quả bầu. Các truyện kể được tóm tắt như sau:
- Tìm đất sống: Trời gây đại hạn, Cóc lên trời xin 7 nồi đồng nước mưa,
không ngờ xin nước xuống trần gian nhiều quá lại gây ra lụt cuốn trôi
tất cả. Chỉ còn hai vợ chồng sống sót nhờ nằm trong cái trống. Hai vợ
chồng sinh con đẻ cái từ đó loài người đông đúc trở lại.
- Con ếch Aê Đuk: Hạn hán kéo dài, con ếch Aê Đuk lên trời xin mưa,
lỡ đổ thêm 3 gáo nước gây ra nạn hồng thủy, chỉ có hai vợ chồng sống
sót ngồi trên cái trống. Hai vợ chồng sinh con, loài người trở lại.
- Núi Cư Mta: Trời đất xảy ra đại hạn rồi lại xảy ra hồng thủy. Loài
người chết hết chỉ còn hai vợ chồng trốn trong cái trống nên thoát nạn.
Cái trống trôi đến núi Cư Mta. Hai vợ chồng lên núi sinh sống, sinh
con, lập buôn làng đông đúc.
- Nạn hồng thủy: Xảy ra nạn lụt, thần báo mộng cho hai vợ chồng ngồi
trên chiếc ghế kpan lánh nạn. Hai vợ chồng sống sót, về sau sinh con
đẻ cái, loài người lại đông đúc.
Như vậy ở bốn bản kể này, phương tiện tránh lụt là cái trống và
chiếc Kpan (ghế dài), không phải là quả bầu. Dựa trên bốn bản kể này,
chúng tôi khái quát thành công thức:
Lụt → Đôi nam nữ → Người
Trống/Kpan
Nếu như quả bầu là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng gợi nhắc về một
thời kì văn hóa bầu bí cùng với quan niệm phồn thực về sự sinh sôi nảy nở,
thì cái trống, chiếc Kpan là những vật dụng rất thực tế trong đời sống hàng
ngày của người Ê đê. Cái trống trở thành phương tiện cứu nạn cũng là chi tiết
thường thấy trong truyện kể của nhiều dân tộc… Đối với người Ê đê, cái
trống không chỉ là một vật có thể nổi được, có khả năng cứu giúp người bị
nạn qua cơn hồng thủy mà còn có một vị trí linh thiêng trong tín ngưỡng của
các cư dân Nam Đảo này. Thần thoại Ê đê kể rằng ở thế giới các thần, thần
Aê Diê vẫn thường đánh trống thần Dam- bơ- hu để sai khiến các thần thuộc
quyền mình. Trong mỗi gia đình truyền thống của người Ê đê đều có một cái
trống da trâu được gìn giữ cẩn thận. Trống da trâu có hai mặt đực – cái được
xem là một trong những phương tiện để con người giao tiếp với thần linh.
Môtíp quả bầu dùng làm thuyền có lẽ ra đời từ rất sớm trong nhận thức của
người xưa, còn vật dụng như trống làm vật cứu nạn thì xuất hiện ở thời kì
muộn hơn. Và dị bản nhắc đến chiếc kpan thì ra đời còn muộn hơn nữa. Bởi
vì trong đời sống văn hóa của người Ê đê, chiếc kpan xuất hiện khi tổ chức xã
hội của người Ê đê đã có qui củ và thứ bậc. Kpan là chiếc ghế dài trang trọng
được làm từ một thân gỗ độc mộc. Chiếc ghế này dành cho những người đánh
chiêng trong các nghi lễ ở gia đình hoặc cộng đồng. Điểm qua thần thoại của
các dân tộc anh em, chúng tôi thấy phương tiện tránh lụt thường là quả bầu,
phần nhiều cũng là cái trống, có khi là cái chày, cái cối. Tuy nhiên chiếc kpan
làm phương tiện thì chỉ thấy ở người Ê đê.
Ở mô típ quả bầu thuyền, chi tiết đôi trai gái sống sót nằm trong quả
bầu (trống, kpan) có một điểm đáng lưu ý là tuyệt nhiên không xảy ra tình
trạng anh em ruột lấy nhau. Cả năm bản kể của thần thoại Ê đê chỉ có một
trường hợp cặp nam nữ sống sót là anh em ruột, nhưng hoàn cảnh không tạo
sức ép họ phải lấy nhau để tái tạo loài người, nhiệm vụ đó đã đặt vào quả bầu
và họ chỉ làm công việc là gieo trồng hạt, chăm sóc bầu lớn lên. Vì sao trong
thần thoại Ê đê lại không xảy ra trường hợp anh em ruột lấy nhau? Có lẽ trải
qua nhiều thời đại, thần thoại được tư duy con người nhào nặn và trải qua một
tình huống gạn lọc khắt khe nào đó, nó gần như phản ánh đúng quan niệm của
cộng đồng người. Hôn nhân trái tự nhiên – anh em ruột lấy nhau là chuyện
ngược với lẽ thường và khó chấp nhận. Và đối với dân tộc Ê đê, họ có những
luật tục rất nghiêm khắc về tội loạn luân – một điều tối kị. Quan niệm này đã
có từ xa xưa, phải chăng đã soi chiếu phần nào vào trong thần thoại? Bốn
trường hợp còn lại đôi nam nữ là vợ chồng, và họ lại sinh con đẻ cái làm cho
loài người sinh sôi. Tỉ lệ 4/5 bản kể đều nói người sống sót là cặp vợ chồng.
Điều này cho thấy có lẽ truyện ra đời ở thời điểm người Ê đê đã chú trọng mô
hình gia đình một vợ một chồng, và cũng cho thấy đây là những truyện xuất
hiện ở thời kì muộn sau này.
Như vậy, qua môtíp quả bầu, có thể thấy về vấn đề lí giải nguồn gốc
tộc người, thần thoại Ê đê không tách rời thần thoại Đông Nam Á trong hệ
thống quan niệm về thế giới, về con người, tuy nhiên cũng mang bản sắc
riêng của dân tộc mình.
2.1.2.4. Mô típ cây nối trời và đất
Ở 15 truyện thần thoại, người Ê đê có hai bản kể nói đến hai loài
cây có chức năng nối trời và đất. Đó là cây kơ pang (Cây kơpang và ngôn
ngữ loài người) và cây tông lông (Nấm hồng nấm đỏ). Thuở xa xưa, khi
người nguyên thủy còn sống theo bầy đàn thì xung quanh họ là cả thế giới
cây cỏ hoang dã, cây cối dày đặc bao quanh không gian sống của họ. Cây
cối là hình ảnh sinh động của sự sống. Cây cối từ dưới đất mọc lên, cứ thế
lớn lên trước mắt họ. Đối với người nguyên thủy, sự vươn dậy nhanh
chóng của cây cối cũng là một điều hết sức thần kì. Trong đời sống tín
ngưỡng, người Ê đê dành cho cây cối một vị trí linh thiêng. Trong ngôi
nhà dài của mỗi gia đình người Ê đê đều có một chiếc ghế kpan dài làm
bằng thân gỗ độc mộc, trên dưới 20m. Để làm được chiếc ghế này, người
ta phải xin phép thần cây, làm lễ cúng Trong lễ cúng, người ta khấn “Hỡi
yang của cây, ta biết thân thể lực lưỡng của mày đã vươn lên tới trời xanh,
cành là của mày đã dang rộng che cả cánh rừng, rễ của mày đã cắm sâu
dưới lòg đất… Nay buôn làng ta đành xin phép yang để ngả cây xuống
làm ghế kpan, mong yang tha tội”. Theo truyền thống, người Ê đê chết đi
sẽ được mai táng trong quan tài là thân cây khoét rỗng. Và khi làm nhà
mồ, họ cũng dùng những khúc cây đẽo thành tượng người, chim thú đứng
ngồi đủ kiểu dựng xung quanh nhà mồ.
Trong nhận thức của họ từ xa xưa, cây cối có thần, có hồn. Và họ càng
tin vào điều đó khi chứng kiến ngay trước mắt mình hình ảnh cây cối cao
lớn có thể nối liền ba thế giới: dưới lòng đất (rễ), mặt đất (thân) và trời cao
(ngọn). Trong truyện cổ, họ gửi gắm vào cây cối ước mong đưa họ lên thế
giới cao nhất và ngưỡng mộ cái sức sống diệu kì của cây cối. Cây kơ pang
“to lớn, ngọn nó cao tận mây xanh, bóng nó rợp cả bầu trời… cao vút lên
đến tận nhà của Ông bà Trời” (Cây kơpang và ngôn ngữ loài người), trở
thành con đường lí tưởng để loài người leo lên nhà Ông bà trời, khám phá
cái thế giới trên tận mây xanh mà họ chưa từng biết đến. Cây tông lông thì
“cành lá vươn đến tận mây, bầy Arê Rân càng thiêu đốt càng nhổ gốc bao
nhiêu thì cây lại càng vươn cao lên đến tận nhà trời” (Nấm Hồng Nấm
Đỏ). Quả tông lông rụng xuống giết chết bầy Arê Rân, cứu mặt đất khỏi sự
tuyệt diệt. Cả hai loài cây này đều rất gần gũi với đời sống của người Ê đê,
thường thấy ở chốn núi rừng tây nguyên. Đặc điểm của những cây này
trong thần thoại là sự lớn lên nhanh chóng, kì diệu, cao lên đến tận trời,
nối thế giới mặt đất với thế giới thần tiên. Hoặc nó là phương tiện để con
người hăm hở tìm cách lên trời (cây kơ pang). Và cũng có thể là sự thách
thức đối với trời (cây tông lông). Chúng tôi xem đây là một trong những
biểu hiện của môtíp cây thần thiêng trong thần thoại.
Tiểu kết:
Thần thoại Ê đê tuy chỉ có số lượng khiêm tốn với 14 bản kể nhưng
cũng nổi bật lên một số mô típ quan trọng: mô típ người khổng lồ sáng tạo,
mô típ hồng thủy, mô típ quả bầu, mô típ cây. Đây cũng là những mô típ
quen thuộc trong hệ thống thần thoại của người Kinh, người Mường,
người Chăm… Các mô típ này cũng mang dấu ấn riêng của đời sống tinh
thần người Ê đê. Chẳng hạn như sự tưởng tượng vị thần sáng tạo vũ trụ
xuất thân từ một hạt dẻ, sự tưởng tượng chiếc ghế kpan thiêng liêng trong
đời sống văn hóa trở thành một phương tiện tránh lụt trong mô típ nạn
hồng thủy.
.2.2Truyền thuyết
2.2.1. Về đề tài – cốt truyện
2.2.1.1. Truyền thuyết lịch sử
Ở thể loại truyền thuyết lịch sử, hình ảnh người anh hùng đánh giặc bảo
vệ sự ấm no cho dân làng không phải là không có nhưng xuất hiện rất ít.
Trong tổng số 7 truyền thuyết, người Ê đê có 3 truyền thuyết về người anh
hùng, chiếm tỉ lệ 42 %. Chúng tôi tìm được năm bản kể về người anh hùng
dạng này: truyện về người anh hùng Đăm Thí (với 4 bản kể) và truyện về
chàng Pôthê. Truyện còn lại là truyền thuyết về nữ anh hùng lập buôn (Nữ tù
trưởng A Duôn H Du).
Truyền thuyết về người anh hùng chiến trận có phần hiếm hoi trong
truyện cổ Ê đê bởi lẽ những vị anh hùng của cộng đồng đã đi vào những thiên
trường ca bất hủ của người Ê đê. Chúng tôi tóm tắt nội dung truyền thuyết về
Đăm Thí qua các bản kể:
Bản kể 1:
Thuở xưa bọn Mtao độc ác chuyên đi cướp bóc và bắt các cô gái đẹp.
Chàng Đăm Thí đau lòng trước cảnh các cô gái của buôn làng bị hãm hại.
Chàng căm phẫn giậm chân bảy lần trên phiến đá trắng, đá nứt ra nước tuôn
trào thành cái hồ. Dưới lòng hồ là một thỏi thép quý. Đăm Thí mang về rèn
thanh gươm lại ra chiếc liềm, rèn lưỡi liềm lại thành lưỡi rựa, rèn lưỡi rựa
lại thành lưỡi dao, đập lưỡi dao lại thành lưỡi giáo, cuối cùng rèn được
thanh kiếm sắc. Nhưng kiếm không chịu nguội, nhúng xuống suối suối cạn,
mài trên đá đá tan thành bụi, bỏ trên cỏ cỏ cháy. Thần chỉ cách đâm kiếm vào
cô gái đẹp. Kiếm nguội Đăm Thí đem giết bọn Mtao. Kiếm của Đăm Thí
tương truyền người Kinh giữ vỏ gươm, người Lào giữ cán gươm, người Ê đê
giữ lưỡi kiếm, người Giarai có nhiệm vụ bảo vệ gươm thần. Đăm Thí ra đi.
(Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xuất bản năm 2002, tập 2)
Bản kể 2:
Nàng Pơ Rác Hơ Ghi Ê uống nước ở hốc cây sinh ra một lúc 7 người con.
Đứa con trai đầu – Đăm Thí - khi mới lọt lòng đã nắm trong tay một thỏi sắt.
Đăm Thí là cháu của Trong Đăn. Lớn lên Đăm Thí đi diệt tù trưởng Mối
chuyên cướp phụ nữ của buôn làng, cứu được vợ của bác Trong Đăn… Anh
em Đăm Thí đi tìm đất dựng buôn làng, mang thỏi sắt đi rèn thành thanh
kiếm. Kiếm rèn xong không nguội, ném phải người đàn bà chửa mới nguội.
Anh em chia nhau đi tìm đất tốt dựng buôn làng. Đăm Thi làm rơi kiếm xuống
dòng sông, lặn tìm. Anh em của Đăm Thí thấy nhẫn đeo trên tay bị lỏng ra
liền đi tìm Đăm Thí và thanh gươm. Người Việt, người Ê đê, người Lào,
người Giarai cùng lặn tìm. Tìm được kiếm mỗi dân tộc chia nhau gìn giữ một
bộ phận. Cuối cùng Đăm Thí ra đi. (Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây
Nguyên, Đặng Nghiêm Vạn sưu tầm, xuất bản năm 1985, tập 1)
Bản kể 3:
Cô gái uống nước ở hốc cây sinh ra Đăm Thí và thỏi sắt. Đăm Thí lớn lên
đem nung sắt thì hóa cuốc, hóa rìu, hóa dao rồi liềm, cuối cùng rèn thành
thanh gươm. Thanh gươm không nguội nhúng xuống sông thì hút cạn nước
sông, thanh gươm phải đâm vào người đàn bà chửa mới nguội. Đăm Thí đấu
gươm với vua Lào, vua Chăm đều thắng. Chàng quăng gươm ở Biển Hồ, ra
đi. Người Lào, người Việt, người Ê đê mò được các bộ phận của gươm. Đến
nay vẫn còn tục thờ gươm (Truyện cổ Tây Nguyên, xuất bản năm 2006, do
Trương Bi, Y Wơn sưu tầm)
Bản kể 4:
Nàng Pơ lang xuống suối tắm, nhặt được hai thanh sắt sáng chói dài bằng
gang tay. Về nhà nàng có mang sinh được hai người con trai khôi ngô, đặt tên
con là Đăm Di và Đăm Thí. Lớn lên Pơ Lang trao hai thanh sắt cho hai con
rèn gươm, gươm rèn xong nóng không chịu nguội, bay vào rừng. Hai anh em
đi tìm thấy gươm nằm dưới suối. Hai anh em lội xuống suối thì trở nên cao
lớn mạnh khỏe thần kì, rồi lên đường đi giết giặc cứu dân làng. Dẹp giặc
xong hai thanh gươm được thờ ở buôn làng. (Truyện cổ Ê đê, tập 2, xuất bản
năm 1997 do Trương Bi, Y Wơn sưu tầm).
Dựa trên những truyền thuyết có được về nhân vật anh hùng Đăm Thí với
những nét khá tương đồng về cốt truyện, chúng tôi đưa ra lược đồ kết cấu cốt
1. XUẤT THÂN
truyện như sau:
- Bà mẹ (uống nước hốc cây/ xuống suối tắm)
- Sinh ra Đăm Thí
Đăm Thí và Đăm Di
Đăm Thí và 6 anh em
- Có thỏi sắt quý (sinh ra cùng sắt/nhặt được)
2. SỰ NGHIỆP
- Rèn gươm (gươm không chịu nguội
lấy mạng cô gái đẹp/đàn bà chửa, gươm nguội)
- Đánh giặc/ diệt tù trưởng, cứu phụ nữ
- Tìm đất lập buôn
3. KẾT THÚC
- Làm rơi gươm, lặn tìm gươm
- Trao gươm cho các bộ tộc/ buôn làng gìn giữ
- Ra đi
Những truyền thuyết này cũng phần nào phản chiếu bóng dáng của lịch
sử cộng đồng, thời kì các mtao (tù trưởng) đầy uy quyền mà cũng đầy tham
lam hung ác chuyên đi cướp bóc tài sản của người vô tội và nhất là cướp
đoạt phụ nữ. Đó là thời kì các bộ tộc đang củng cố khu vực cư trú của mình,
có những tranh chấp xảy ra, cần phải có một người anh hùng đứng ra bảo vệ
cho dân.
Khi nghiên cứu truyền thuyết về người anh hùng của dân tộc Ê đê, ở
trường hợp nhân vật Đăm Thí, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết về nhân vật
này có một mối liên hệ khá thú vị với nhân vật người anh hùng Đăm Thí
trong khan Khinh Dú của người Ê đê.
Chúng tôi tóm lược nội dung của khan Khinh Dú và chú ý các chi tiết liên
quan đến nhân vật Đăm Thí:
Phần thứ nhất: kể chuyện vợ chồng Khinh Dú giàu sang, Đăm Phu kết
làm anh em với Khinh Dú để mưu toan chiếm vợ bạn là nàng H Bia Dao.
Khinh Dú đã bỏ qua nhưng Đăm Phu chứng nào tật nấy, cướp được H Bia
Dao. Hai bên đánh nhau. Vì giết hại nhiều người, Khinh Dú bị thần linh bắt
phải đền tất cả của cải.
Phần thứ hai: Em gái của Khinh Dú sinh con trai đặt tên là Trong Đăn.
Lớn lên chàng đi đánh Đăm Phu để trả thù. Buôn làng của Khinh Dú –
Trong Đăn đang rất phồn thịnh. Đăm Phu đến giết trộm được cả hai bác
cháu Khinh Dú - Trong Đăn. Ông Gỗn cho thuốc thần cứu sống Khinh Dú,
Đăm Phu. Khinh Dú ngày càng già yếu. Em gái Trong Đăn uống nước trong
hốc cây, sinh được 7 người con, 6 trai 1 gái. Con trai đầu sinh ra trong tay
đã có một thỏi sắt. Nàng đặt tên con là Đăm Thí. Đăm Thí lớn lên đi đánh
Đăm Phu để báo thù cho ông và cha. Mẹ chàng đưa cho cục sắt để rèn vũ
khí. Ông thợ rèn muốn rèn cục sắt thành ngọn mác thì cục sắt hóa thành
lưỡi liềm, khi rèn lưỡi liềm thì thành chà gạc, khi rèn chà gạc thì cục sắt hóa
thành một ngọn đao sắc. Ngọn đao đỏ rực nhúng xuống suối làm cạn suối,
không chịu nguội. Chàng đành phải để ngọn đao giữa đường. Một người
đàn bà chửa đi qua. Ngọn đao bắn trúng bụng. Người đàn bà chết, lúc đó
đao mới chịu nguội. Đăm Thí đi giết được Đăm Phu, bắt H Bia Dao trả về
cho ông Khinh Dú. Xong việc, chàng giao cán đao cho Trong Đăn đem lên
đất Lào, thân đao chàng mang xuống vùng biển, lưỡi đao để cho Khinh Dú
giữ ở buôn làng để thờ cúng. Sau khi chia nhau thanh đao. Ba ông cháu
Khinh Dú, Trong Đăn, Đăm Thí chia nhau mỗi người đi một nơi để dựng
buôn làng mới. Đăm Thí đưa cho mỗi người một cái nhẫn đeo ở tay để biết
đườngg cứu nhau khi gặp hiểm nguy. Đăm Thí đi về hướng mặt trời lặn cho
đến khi gặp một con sông lớn. Chưa tìm được cách vượt qua, chàng nằm
ngủ bên bờ sông, vô tình để thanh đao rơi xuống nước. Chàng lặn tìm nhưng
không thấy. Anh em của chàng thấy nhẫn lỏng ra ở tay liền đến giúp. Cuối
cùng mò được thanh đao. Đăm Thí ở vậy không lấy vợ.
Sau đây là phần tóm lược sự kiện liên quan đến Đăm Thí trong sử thi Khinh
Dú:
1. Xuất thân:
- Là cháu 3 đời của Khinh Dú
- Người mẹ uống nước hốc cây
- Sinh ra Đăm Thí với 6 anh em
- Sinh ra có thỏi sắt trong tay
2. Sự nghiệp:
- Rèn thanh đao (đao không nguội, đao văng trúng đàn bà chửa mới
nguội)
- Đánh thắng tù trưởng Đăm Phu
- Báo thù cho ông và bác
- Bắt H Bia Dao trả về cho ông Khinh Dú
- Chia thanh đao, ra đi tìm đất lập buôn
3. Kết thúc:
- Làm rơi đao xuống sông, lặn tìm đao, được anh em lặn tìm giúp
- Quay trở về
Nếu cắt nội dung về chàng Đăm Thí trong khan Khinh Dú thành một bộ
phận riêng, chúng tôi thấy rằng giữa nhân vật Đăm Thí trong truyền thuyết và
nhân vật Đăm Thí trong sử thi có nhiều nét tương đồng. Chúng tôi khẳng định
những bản kể về chàng Đăm Thí ở truyền thuyết dân gian Ê đê chính là những
kí ức rời rạc của cộng đồng về chàng Đăm Thí trong sử thi. Những kí ức
không trọn vẹn này được kể lại theo những cách sáng tạo khác nhau theo con
đường của phương thức truyền miệng, từ đó tạo nên nhiều dị bản trong truyền
thuyết. Như vậy có thể thấy bộ phận truyền thuyết về người anh hùng Đăm
Thí thực chất là sự phản chiếu của hình tượng người anh hùng chiến trận
trong sử thi Ê đê.
Ở trường hợp Thanh gươm thần, truyện kể rằng :
Vua trời mách cho Pôthê cách có được các vật thần quý giá: viên ngọc
thần, quả cây có thể làm ra mưa gió. Pôthê kết bạn với người bạn có viên đá
có thể hóa phép ra ngàn quân và roi mây thần. Họ đến một con sông lớn,
Pôthê gặp vua của các dân tộc Chăm, Giarai, Kinh, Lào, Ê đê đang mò gươm
thần. Gươm từ trên trời rơi xuống, ánh sáng rực cả đáy sông. Vua Chăm mò
được lưỡi gươm nhưng vừa lên đến bờ thì bị Pôthê cướp mất. Chàng trao cho
vua Giarai. Vua Khmer mò được vỏ gươm. Tức giận vì mất gươm, Người
Chăm gây cuộc chiến tranh dữ dội với người Khơme suốt bao nhiêu năm
tháng. Pôthê giúp người Giarai đánh giặc nhưng không phân thắng bại.
Chàng làm lễ cúng thần và cầm gươm xông ra trận mạc, người Chàm phải
chịu thua trước sức mạnh của Pôthê. Cuối cùng Pô thê trao gươm thần cho
Vua Lửa của người Giarai và dặn dò người Giarai kết hiếu với người Khmer.
Cuối cùng Pôthê ra đi. (Sự tích hạt gạo, xuất bản năm 2003, do Trương Bi,
Y Wơn sưu tầm)
Pô thê cũng là một người anh hùng chiến trận, nhưng không phải kiểu anh
hùng đi đánh các tù trưởng để báo thù cho cộng đồng hay cứu phụ nữ. Trong
truyền thuyết này, Pôthê tham gia trận chiến giữa các bộ tộc đang tranh giành
gươm báu. Pôthê giúp người Giarai chiến thắng nhờ có vật thần và sự ủng hộ
của thần linh. Truyền thuyết về chàng Pôthê phản ánh một giai đoạn lịch sử ,
khi đó trong công cuộc khai phá đất đai và chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, giữa
các bộ tộc luôn xảy ra những cuộc xung đột gay gắt dẫn tới chiến tranh.
Truyền thuyết của người Ê đê có một nét khá độc đáo. Bên cạnh truyền
thuyết kể về người anh hùng của cộng đồng còn có truyền thuyết về nữ tù
trưởng của buôn làng. Đó là truyền thuyết về nàng A Duôn H Du. Chuyện kể
rằng : duới chân núi đi xuống miền xuôi, theo dòng sông A Junpa có một tộc
họ Mlô, có cụ A Duôn Du, tên H Krưm sống lâu trăm tuổi. Không có ai chăm
nom bà cụ ngoài đứa chắt gái là H Du. Một hôm, bà kêu nóng đầy người. H
Du lấy nước tắm cho bà, tắm bao nhiêu nước bà vẫn thấy nóng, thấy ngứa,
rồi trên đỉnh đầu mọc mào. Bà biến thành Yang Mta (thủy thần). Dân làng
tôn H Du làm chủ buôn. Dân làng đi bắt cá vô tình bắn mũi tên độc vào Yang
Mta làm dòng sông A Junpa khô cạn tận đáy. Bà báo mộng cho H Du mang
xương, vây của bà đi tìm đất lập buôn. H Du lập buôn nơi mưa thuận gió
hòa, buôn làng sống ấm no. Từ đó dòng họ Mlô Duôn Du mỗi ngày thêm
đông đúc.
2.2.1.2 Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết về địa danh của người Ê đê có 4 truyện, chiếm 57 %
trong tổng số 7 truyền thuyết, gồm các truyện: Sự tích dòng sông Krông
HNăng, Truyền thuyết đảo Sing Ga Puôr, Truyền thuyết Buôn Kroa và
Truyền thuyết Buôn Ur.
Ở loại truyện kể về địa danh, có thể hiểu đó là những truyện kể dân
gian nhằm lí giải nguyên do trực tiếp hoặc gián tiếp về việc địa danh đã đi vào
tâm thức của một cộng đồng. Tuy nhiên, không phải bất kì truyện kể địa danh
nào cũng được xem là truyền thuyết. Ở đây chúng tôi chú ý tới mối quan hệ
giữa địa danh và cảm hứng lịch sử. Đồng thời quan tâm đến ý thức tôn vinh
lịch sử được thể hiện trong truyện. Từ đó xác định truyện cổ Ê đê có hai
truyền thuyết địa danh về việc di dân lập làng và hai truyền thuyết về nguồn
gốc tên gọi của buôn làng.
Ở truyền thuyết di dân lập làng, câu chuyện thứ nhất kể về hai anh em
chàng Sing Chơ Nga và Sing Ga Puôr ở buôn làng người Ê đê, đi thuyền vượt
biển trao đổi hàng hóa với các buôn làng khác, làm chủ buôn làng giàu có.
Bỗng một ngày mưa to gió lớn ngập cả buôn làng, hai anh em đưa dân lên núi
lập buôn mới. Chàng Sing Ga Puôr lại vượt biển đi buôn bán, lúc trở về gặp
bão, lạc vào một hòn đảo, lập buôn làng mới ở đây, thuyền buôn khắp nơi tấp
nập ghé vào. Từ đó gọi tên đảo là Sing Ga Puôr. (Truyền thuyết đảo Sing Ga
Puôr).
Người Ê đê sinh sống trên đất Tây Nguyên, nơi chỉ có núi đồi và những
cánh rừng nối tiếp nhau. Tuy nhiên truyền thuyết của họ lại kể về quá trình
vượt biển, buôn bán trên biển. Đó là những tàn dư còn sót lại của yếu tố văn
hóa biển trong kí ức của cộng đồng. Điều này gợi nhắc tới hình ảnh những
ngôi nhà dài của người Ê đê như biểu tượng của chiếc thuyền vượt biển. Theo
những tài liệu dân tộc học, tổ tiên của người Ê đê là những cư dân Mã Lai -
Đa đảo, xưa kia sống ở vùng hải đảo – một số hòn đảo thuộc Inđônêsia hiện
nay. Với quá trình phát triển của lịch sử, những người Mã Lai cổ đã có những
cuộc thiên di vào đất liền để chọn cho mình một địa bàn cư trú. Một bộ phận
cư dân này đã dừng chân ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên nước ta. Từ
đó hình thành nên các nhóm người Giarai, Chăm, Churu, Raglai, Ê đê. Chính
vì thế, tổ tiên của người Ê đê có thể nói là rất thạo nghề đi biển. Truyền thuyết
về chàng Sing Gar Puôr chính là sự phản chiếu sinh động về hình ảnh một
thời quá khứ của lịch sử tộc người.
Câu chuyện thứ hai kể về dòng sông Krông H Năng: Buôn làng người Ê đê
đang sống yên vui bỗng một hôm từ trên đỉnh núi phun ra lửa, hủy hoại tất cả
nguồn nước, nương rẫy. Dòng họ Mlô làm chủ đất. H Năng là con gái đầu
lòng của chủ đất Y Kheo. Cha mất truyền trọng trách chủ đất lại cho hai vợ
chồng Y Jút, H Năng. Y Jút đi tìm đất lập buôn nhưng không thấy trở về. H
Năng quyết ra đi một mình tìm vùng đất mới nơi có nguồn nước dồi dào. Đi
mãi, đến khi kiệt sức, nàng khấn Giàng xin cho mưa xuống rồi chết. Lập tức
trời mưa làm sống dậy muôn loài cây cối, thú vật. Dân làng đi tìm H Năng
đến nơi thấy nàng đã chết, nhớ công ơn của nàng mà đặt tên dòng sông nơi
nàng H Năng gục xuống là K Rông H Năng. Con người thời cổ đại không
chỉ sợ hãi những trận đại hồng thủy có thể cuốn trôi cả loài người, không chỉ
sợ sức mạnh của nước mà còn sợ sự hủy diệt của lửa. Cảnh tượng “từ trên
đỉnh núi phun ra lửa, hủy hoại tất cả nguồn nước, nương rẫy” được kể trong
truyền thuyết về nàng H Năng không có gì khác hơn là những cơn địa chấn
từng xảy ra trong quá khứ, sự hoạt động của núi lửa đã từng để lại nỗi kinh
hoàng cho loài người.
Truyền thuyết về tên gọi của buôn gồm có 2 truyện: Buôn Kroa, Buôn Ur.
Cuộc sống của người Ê đê chịu sự chi phối mạnh mẽ của tín ngưỡng vạn vật
hữu linh.Và trong những thời kì đầu khi con người còn đang tìm đất lập buôn,
xác định khu vực cư trú, họ rất quan tâm đến việc nơi định cư có hợp ý các vị
thần hay không. Cả ba bản kể về tên gọi của buôn đều cho thấy ảnh hưởng về
mặt tâm linh trong cách gọi tên của buôn làng.
Sự ra đời của buôn Kroa được kể trong Truyền thuyết về buôn Kroa:
Chuyện kể rằng: chàng Y Kroa dẫn đoàn người đi săn thú rừng. Mệt mỏi nên
mọi người ngồi nghỉ bên cạnh một gò đất. Con chó đầu đàn của Y Kroa cứ
cào bới chỗ đất này. Mọi người thấy lạ đào đất lên thì thấy một chiếc chiêng
đồng hình mai rùa. Y Kroa là tên chàng thợ săn, cũng có nghĩa là rùa. Mọi
người cho là ý thần linh sắp đặt, họ quyết định lập buôn ở đó sinh sống và lấy
tên buôn là Y Kroa.
Người Ê đê có câu chuyện Truyền thuyết về buôn Ur : Thuở xưa người Ê
đê lên cao nguyên lập buôn, họ chưa tìm thấy nguồn nước, phải chia nhau
từng đoàn đi tìm nhiều ngày mà vẫn không thấy. Trong lúc ngủ mê mệt, họ
nghe thấy tiếng hú vọng lại từ xa. Tiếng hú như lời kêu gọi. Họ đi theo âm
thanh của tiếng gọi linh thiêng đó thì đến một cái hang sâu, gần một con suối
đầu nguồn đã khô cạn. Cả buôn làm lễ cúng thần, tự nhiên có một dòng nước
trong vắt, mát rượi chảy ra trên con suối cạn trước sự chứng kiến, reo hò, vui
sướng của già trẻ, gái trai trong buôn. Cũng từ đó, buôn được đặt cái tên là
buô Ur. “Ur’’ được cho là âm thanh của tiếng hú ở cái hang đã cho buôn
làng nguồn nước.
Như vậy, những truyền thuyết về tên của buôn làng cũng phản ánh phần
nào thời kì sơ khai khi con người bắt đầu khai phá tự nhiên để tìm một không
gian tồn tại cho mình, họ vẫn rất e sợ thế giới tự nhiên và nhận thức về nó với
một thái độ tôn kính. Cái tên của buôn được truyền đời cho con cháu và cho
tới ngày nay họ vẫn tin rằng sự chỉ dẫn của các thần là có thật. Trong những
việc trọng đại của cộng đồng, người Ê đê trong xã hội truyền thống vẫn luôn
mong chờ sự mách bảo của các thần linh.
Tiểu kết:
Khảo sát bộ phận truyền thuyết của dân tộc Ê đê, ở mảng truyền thuyết
lịch sử, chúng tôi thấy nổi bật lên hai đặc điểm: Thứ nhất, truyền thuyết về
người anh hùng đánh giặc bảo vệ cộng đồng có nguồn gốc từ trong sử thi.
Qua sự đối chiếu với bản kể khan, chúng tôi có thể kết luận về sự giao thoa
thể loại giữa truyền thuyết anh hùng và sử thi anh hùng (trường hợp Đăm
Thí). Thứ hai, người Ê đê có truyền thuyết về nữ anh hùng với vai trò là người
thủ lĩnh của cộng đồng đi tìm đất lập buôn (trường hợp A Duôn HDu). Đây
chính là dấu ấn của chế độ mẫu hệ trong tâm thức của cộng đồng người Ê đê.
Trong hai tiểu loại của truyền thuyết, truyền thuyết địa danh chiếm ưu thế
hơn. Ở truyền thuyết địa danh, nội dung phản ánh cũng xoay quanh những
vấn đề cơ bản: vai trò dẫn dắt cộng đồng của người phụ nữ, nguồn gốc hải
đảo của tộc người Ê đê, quá trình di cư tìm vùng đất mới, xác lập địa bàn cư
trú của một đơn vị buôn làng.
2.2.2 Các môtíp trong truyền thuyết
2.2.2.1 Môtíp gươm thần
Trong cốt truyện của truyền thuyết anh hùng, ở năm bản kể (Đăm Thí
và Pôthê), chúng tôi đều thấy sự xuất hiện của môtíp gươm thần.
Ở truyền thuyết Đăm Thí: Gươm thần được rèn từ một thanh sắt → làm
rơi xuống sông → phải lặn tìm → các bộ tộc/anh em chia nhau giữ các bộ
phận của gươm.
Ở truyền thuyết Thanh gươm thần : gươm thần rơi từ trên trời xuống
đáy sông → các bộ tộc mò gươm, tranh giành → mỗi tộc người giữ một bộ
phận của gươm.
Mô típ gươm thần với hình tượng lưỡi gươm và cán gươm đang rời rạc
khi ráp với nhau bỗng biến thành sức mạnh vô địch vốn được lưu hành rất
phổ biến ở nhiều dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam (dân tộc Kinh, Chăm,
Khmer, Giarai…) và ở khu vực Đông Nam Á (In đônêxia…) nhằm ca ngợi
tình đoàn kết giữa các bộ lạc. Việc phân công gìn giữ các bộ phận của gươm
mang ý nghĩa về sự đảm bảo sức mạnh của cộng đồng. Có thể những truyện
có chứa đựng môtíp gươm thần chính là thể hiện một hồi ức sâu xa đầy tự hào
về chiến công của tổ tiên tộc người trong các bộ lạc cổ đại, ở thời kì xa xưa
khi con người đã phát hiện ra một thứ vật chất mới hết sức quý báu. Đó là vũ
khí bằng kim loại – vật hộ thân làm tăng sức mạnh của con người trong quá
trình khai phá, chinh phục thiên nhiên và mở rộng lãnh thổ. Gươm báu được
nhân dân kính cẩn tôn thờ và họ quan niệm nó ẩn chứa một sức mạnh vô cùng
linh thiêng. Có được nó chắc hẳn không phải là việc dễ dàng. Các bản kể của
người Ê đê hầu như nhấn mạnh chi tiết rèn gươm vất vả (rèn thanh gươm lại
ra chiếc liềm, rèn lưỡi liềm lại thành lưỡi rựa, rèn lưỡi rựa lại thành lưỡi dao,
đập lưỡi dao lại thành lưỡi giáo, cuối cùng rèn được thanh kiếm), và một điểm
đáng lưu ý là thanh gươm nóng đáng sợ, phải đâm vào người phụ nữ đẹp hoặc
đang có mang mới nguội. Chúng tôi đặt nghi vấn về một nghi thức tế lễ cổ
xưa nào đó liên quan đến việc rèn gươm, liên quan đến việc phải hi sinh
người phụ nữ để có được thanh gươm báu vật này.
2.2.2.2 Môtíp thực hiện sứ mệnh
Mô típ này xuất hiện trong những có nhân vật chính là người phụ nữ
gánh vác trọng trách tìm vùng đất mới cho buôn làng sinh sống, gồm có 2
truyện : Nữ tù trưởng A Duôn H Du và Sự tích dòng sông Krông Hnăng.
Truyền thuyết “thường giữ lại những bằng chứng quý giá về chế độ xã hội, về
các thể chế xã hội, tín ngưỡng, tâm lí xã hội và văn hóa vật chất của các thời
đại đã qua” [34, 38]. Có thể khẳng định truyền thuyết về tù trưởng A Duôn H
Du và truyền thuyết về nàng H Năng đã phản ánh rất rõ tính chất mẫu hệ
trong tâm thức của cộng đồng Ê đê. Đầu tiên là cụ bà sống lâu được miêu tả
“cháu đầy nhà, chắt đầy buôn, chít đầy mặt đầy lưng. Già đến nỗi chân
không thể rời khỏi chiếu, tay không thể kéo khỏi chăn, răng kì nhông mọc đầy
hàm” [11, 40] đã được chọn làm Yang Mta (thủy thần). Thủy thần được chọn
là một người phụ nữ đã trăm tuổi, người già cả nhất buôn – có thể xem như
“bà tổ”, không phải là một người đàn ông. Yang Mta này lại truyền lời báo
mộng cho cháu gái là H Du mang xương, vây của mình đi tìm đất lập buôn
làng mới. Trọng trách gây dựng buôn làng được đặt lên vai hậu duệ nữ của
dòng họ.
Nàng H Năng là con của chủ đất, cũng gánh vác trọng trách ra đi tìm
đất mới lập buôn làng. Nàng đi tìm nguồn nước mới, khấn trời cho mưa có
thể xem đã hoàn thành trọng trách mà cả buôn làng đặt lên vai. Đó là trọng
trách cao cả của người phụ nữ làm chủ buôn, người dẫn dắt của cả chế độ
mẫu hệ. Chúng tôi tóm tắt típ truyện về người phụ nữ của buôn làng đi tìm
đất mới theo sơ đồ:
Tai họa (hạn hán/Giàng phạt)
Nữ tù trưởng ra đi
Tìm được nguồn nước
Lập buôn/ Hi sinh
Trong típ truyện này, người phụ nữ với vai trò là người quyết định sự
tồn vong của cộng đồng, phải thực hiện nhiệm vụ đi tìm nguồn nước. Đây
chính là sứ mạng cao cả mà tổ tiên (thế hệ trước) truyền dặn (Bà báo mộng
cho H Du mang xương, vây đi tìm nước/Người cha trăn trối với Hnăng phải
tìm được nguồn nước). Đối với người Ê đê, việc di dân tìm địa bàn cư trú mới
nhất định phải tìm được nơi có nguồn nước dồi dào, có nước chính là có sự
sống. Mỗi một buôn làng đều phải có một bến nước để sinh hoạt. Mô típ
“thực hiện sứ mệnh” trong truyền thuyết về các nữ tù trưởng có thể nói là một
mô típ khá độc đáo, thể hiện được khía cạnh nào đó của văn hóa mẫu hệ trong
đời sống của cộng đồng người Ê đê.
Tiểu kết:
Với số lượng truyền thuyết hạn chế, chúng tôi chỉ đi vào phân tích hai
mô típ chính và nhận định rằng đây là hai mô típ khá quan trọng, có chức
năng nhận diện màu sắc đặc trưng của truyền thuyết dân gian Ê đê. Đặc biệt
là mô típ “thực hiện sứ mệnh” - kể về công lao của các nữ anh hùng - dù
không phải lập công theo kiểu xông pha trận mạc để giết giặc như Bà Trưng
Bà Triệu của người Việt. Mô típ này vừa gợi nhắc về một hoàn cảnh lịch sử
của cộng đồng vừa cho thấy thái độ biết ơn và tôn vinh tuyệt đối dành cho
người phụ nữ của cộng đồng người Ê đê.
Chương 3
TRUYỆN CỔ TÍCH
3.1Truyện cổ tích thần kì
3.1.1. Về đề tài – Cốt truyện
3.1.1.1. Cổ tích về nhân vật mồ côi
Với tổ chức xã hội mẫu hệ, người Ê đê có tục nối dây (chuê nuê). Luật
tục Ê đê từ xa xưa đã qui định “rầm nhà gẫy thì phải thay, giát sàn nát thì
phải thế. Chết người này thì phải nối bằng người khác” [39; 41]. Tục chuê nuê
không những tạo sự liên kết bền vững giữa dòng họ này với dòng họ khác mà
ẩn chứa ở bề sâu là ý nghĩa nhân văn hết sức cao đẹp. Việc nối dây giúp cho
người già và con trẻ có nơi nương tựa, không gặp cảnh bơ vơ. Như vậy, dựa
trên thực tế đời sống của người Ê đê với tục chuê nuê, chúng ta thấy rằng hiện
tượng trẻ mồ côi có lẽ ít xảy ra. Trường hợp mồ côi xảy ra khi người mẹ mất,
người cha không được nối dây đành phải để con cái và của cải ở lại nhà vợ để
về cư trú bên dòng họ của mình. Khi đó có thể nói đứa trẻ đã mồ côi cả cha
lẫn mẹ. Với cơ cấu xã hội mẫu hệ, có lẽ sự ghẻ lạnh của cộng đồng đối với
nhân vật mồ côi không đến mức gay gắt như ở quan hệ mẹ ghẻ con chồng
trong truyện cổ của người Việt. Tuy vậy, vấn đề mồ côi cũng đã đi vào cổ tích
Ê đê với những biểu hiện khá phong phú về nội dung. Nhân vật mồ côi là
nhân vật bất hạnh với cuộc sống thiếu thốn về vật chất và cả sự thiếu thốn về
tình cảm gia đình.Cuộc sống của mồ côi là cuộc sống cô đơn và hiu quạnh,
chịu sự hắt hủi của mọi người. Ở nhân vật mồ côi có những điểm chung thuộc
về tính cách như siêng năng, chăm chỉ, có tình nghĩa, tốt bụng và bao dung.
Chúng tôi chú ý đến số phận của mồ côi cùng mối quan hệ giữa mồ côi với
các lực lượng đối kháng. Thứ nhất lá mối quan hệ giữa mồ côi và lực lượng
thống trị. Và thứ hai là mối quan hệ giữa mồ côi và người cậu, người cha và
người dì ghẻ độc ác. Lực lượng thống trị ở đây là những Mtao (tù trưởng)
độc ác, tham lam, luôn rắp tâm mưu hại mồ côi và cướp đoạt tất cả những gì
thuộc về mồ côi. Các Mtao thường dồn mồ côi vào con đường cùng, đi ở, lao
dịch, cướp vợ và cả tài sản.
Ở truyện cổ của dân tộc Ê đê cũng như một số dân tộc còn theo chế độ
mẫu hệ, ta vẫn thường thấy trường hợp nhân vật cậu can thiệp vào cuộc đời
của mồ côi. Cậu là nam giới và theo tổ chức xã hội của người Ê đê, cậu cũng
là đại diện cho mẫu hệ và cho dòng họ mẹ. Sau khi mẹ qua đời, cậu là người
có quyền định đoạt cuộc sống của cháu mình. Lợi dụng địa vị này, có những
người cậu đã có sự đối xử độc ác đối với đứa cháu mồ côi.
Về dạng truyện nhân vật mồ côi, người Ê đê có 22 truyện, chiếm 58 %
trong tổng số 38 truyện cổ tích thần kì. Dựa trên 22 văn bản truyện mà chúng
tôi có được qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện cổ tích về nhân vật mồ
côi có thể chia làm hai nhóm theo cấu tạo cốt truyện. Nhóm 1 là cốt truyện thể
hiện mâu thuẫn giữa nhân vật mồ côi và các lực lượng đối kháng. Nhóm 2 là
cốt truyện về nhân vật mồ côi tốt bụng được phù trợ (không nói tới xung đột
giữa mồ côi và lực lượng đối kháng).
Nhóm 1: Gồm 14 truyện. Chúng tôi tóm tắt tình tiết chính của mỗi truyện:
(1) Chàng Y Rit và khỉ 7 đầu:
- Chàng Y Rit mồ côi sống với bà Sun
- Mtao Mxây ép các chàng trai vào rừng tìm khỉ 7 đầu, đuổi vợ con
họ vào rừng
- Y Rit vào rừng. Chàng cứu được mẹ con thỏ nâu, được tặng viên
ngọc ước, thu phục được khỉ 7 đầu mang về nộp theo yêu cầu của
Mtao.
- M Tao bị chôn trong đống vàng/ Y Rit được làm chủ buôn
(2) Chuột nâu và Y Rit
- Y Rit ở với bà Sun
- Y Rit bắt được con chuột nâu nhưng không giết, được tặng viên ngọc
ước.
- Mtao buộc Y Rit phải đổi viên ngọc ước cho hắn
- Mtao cầm ngọc lên ước bị rắn cắn chết/ Y Rit làm chủ buôn
(3) Chàng Y Niăk
- Y Niăk ở với bà Sun.
- Cậu rủ đi săn nhưng bỏ đói không cho ăn, không chia phần thú săn
được.
- Y Niăk bắt được con tê tê nhưng không giết. Tê tê cho chất dính.
- Y Niăk bôi chất dính vào cậu, vào ghế nhà Mtao. Mọi người phải làm
theo yêu cầu của Y Niăk thì mới thoát được chất dính.
- Mtao phải chia cho Y Niăk nửa gia tài.
(4) Anh em Kun Koi
- Hai anh em Kun, Koi mồ côi mẹ. Cha lấy dì ghẻ.
- Cha và dì ghẻ nhiều lần bỏ hai anh em vào rừng nhưng hai anh em không
chết.
- Thần cây tặng cho hai anh em lông chim thần ước gì được nấy.
- Hai anh em lập buôn, trở nên giàu có.
- Cha và dì ghẻ đến xin của cải, lúc về bị rơi xuống sông chết
(5) Sự tích con voi trắng
- Y Rit ở với bà Sun
- Y Rit cứu được heo xám, thỏ nâu, voi trong rừng/ được tặng ngọc ước.
- Mtao bắt cống nạp khỉ bảy đầu, heo bảy đuôi, voi bảy ngà.
- Y Rit cùng bà và các con vật bỏ đi/ Mtao đuổi theo bị chết trong rừng sâu.
(6) Gà đẻ trứng vàng
- H Niêng ở với bà Sun
- H Niêng cứu được con gà mắc bẫy gà đẻ trứng vàng cho hai bà cháu
- Mtao ép H Niêng phải dổi cho hắn
- Mtao mang gà về, gà bay mất, Mtao đuổi theo bị chết trong rừng
- H Niêng và bà sống sung sướng với những quả trứng vàng
(7) Y Rit và lông gà thần
- Y Rit sống với bà Sun
- Bà bệnh nặng, Y Rit vào rừng tìm thuốc, cứu được gà nói tiếng người.
- Gà cho Y Rit lông gà thần ước gì được nấy
- Mtao ép Y Rit đổi lông gà thần cho hắn
- Mtao lấy long gà thần ra ước thì cả nhà bị biến thành khỉ.
(8) Y Nan nuôi cá lóc
- Y Nan mồ côi cha. Mẹ lấy chồng khác
- Cha dượng độc ác cắt gân chân của Y Nan
- Thần cây báo mộng cho chàng tìm cây thuốc chữa lành, bắt con cá lóc nuôi.
Cá lóc giúp chàng ước gì được nấy.
- Người cha dượng bị sét đánh chết
(9) H Bia Ngo và Y Rit
- Y Rit mồ côi bị Mtao ép ra đảo mang nàng H Bia Ngo về cho hắn
- Nhờ quạ giúp, Y Rit lấy được H Bia Ngo làm vợ
- Mtao bắt Y Rit vào rừng tìm những sản vật quý
- H Bia Ngo có phép đều giúp Y Rit thực hiện được.
- Mtao đành phải chịu thua
(10) Nung Kuang và cậu cháu chàng Rit
- Y Rit ở với bà Sun
- Cậu rủ vào rừng chặt cây nhưng bỏ đói không cho ăn, chia phần ít ỏi cho
chàng.
- Rit đi xúc cá được con lươn. Lươn giúp Y Rit có nhiều của cải
- Cậu mượn lươn để có nhiều của cải, làm lươn chết
- Thần báo mộng lấy tro của lươn rắc lên dấu chân thú, thú rừng theo về Y Rit
không phải đi săn.
- Cậu lấy cắp tro, bị hổ về cắn chết.
(11) Chàng Cơm cháy
- Chàng sống với bà Sun
- Chàng cứu được con mèo, cho chó nhà Mtao
- Chàng nhặt được hai quả trứng rắn, không vứt đi mà đem về nhà
- Trứng nở ra rắn thần, tặng cho chàng viên ngọc ước
- Mtao Ăk đến cướp viên ngọc ước
- Chó, mèo giúp chàng lấy viên ngọc về. Mtao bị trừng phạt.
(12) Anh em Cun, Coi
- Mẹ của hai anh em Cun, Coi mất sớm. Cha lấy dì ghẻ
- Cha và dì ghẻ bỏ hai anh em ở hố củ mài trong rừng
- Hai anh em lạc đến nhà của Hổ, lấy được vật báu của hổ, trở nên giàu có
- Cha và dì ghẻ biết hai anh em giàu có, muốn đến cướp của cải nên bị sét
đánh chết.
(13) Rắn thần và Hơ Rit
- Hơ Rit mồ côi ở với bà Sun
- Hơ Rit bắt được con rắn nhỏ nhưng không giết
- Rắn giúp Hơ Rit lấy được nhiều của cải
- Cậu mượn rắn để có nhiều của cải nhưng rắn chỉ cho cậu đất cát và phân.
(14) Đăm Ktỉa Truôi
- Nàng Mơlut ăn quả bưởi trôi sông, về có mang sinh ra Đăm Ktỉa Truôi.
- Đăm Ktỉa Truôi bị con trai của Mtao vu oan ăn cắp chỉ thêu của nhà Mtao
- Mtao đòi chàng phải thi chọi gà với hắn và phải làm cho hắn một ngôi nhà
trên mặt nước.
- Thủy thần giúp chàng. Cả nhà Mtao bước xuống nhà trên mặt nước đều bị
chết chìm.
Với những truyện được mô tả ở trên, chúng tôi lập mô hình cốt truyện như
MỒ CÔI MTAO / CẬU/CHA MẸ
sau:
GHẺ
- Cha mẹ chết
- Giàu có
- Ở với bà Sun
- Có quyền lực
- Nghèo khổ
- Tham lam
- Tốt bụng
- Độc ác
- Hào hiệp, siêng năng
THÂN PHẬN
- Nhẫn tâm
- Dũng cảm, thật thà
- Cứu loài vật gặp nạn,
- Cướp đọat tài sản,
PHẨM CHẤT
được cho vật báu.
vật báu của mồ côi
- Thần cứu giúp, cho vật
- Cướp vợ/ em mồ côi
báu
- Giết mồ côi
- Bị trừng phạt
- Chống lại kẻ xấu - Chiến thắng
- Chết
HÀNH ĐỘNG
- Sống sung sướng
- Nghèo đói
KẾT QUẢ
Những truyện có kết cấu như ở nhóm 1 trước hết phản ánh xung đột gay
gắt giữa mồ côi và lực lượng thống trị lúc bấy giờ - những Mtao (tù trưởng)
giàu có nhưng độc ác trong buôn làng. Nhóm truyện về nhân vật mồ côi chịu
sự ức hiếp của Mtao có lẽ xuất hiện ở thời kì xã hội đã có sự phân chia giai
cấp rõ rệt. Và uy quyền của Mtao trong buôn làng ở vị trí tuyệt đối. Thân
phận mồ côi không nơi nương tựa lại nghèo đói lại càng chịu sự điều khiển
của Mtao. Trong hoàn cảnh khốn cùng, những người mồ côi nghèo khổ lại
giàu lòng nhân hậu, hay cứu giúp các loài thú trong rừng. Mồ côi được các
loài thú hoặc thần linh ban cho những phần thưởng có thể đổi đời: Chuột nâu
cho Y Rit viên ngọc ước, con gà cho Y Rit lông gà thần, thần báo mộng cho
Y Nan nơi trồng thuốc quý, gà cho H Niêng trứng vàng, thần Rồng tặng cho
chàng mô côi viên ngọc thần,… Mtao lần lượt cướp đoạt những vật thần của
mồ côi, có truờng hợp ép mồ côi tìm những thứ quí hiếm trên rừng dưới biển
để dồn mồ côi vào chỗ chết, hòng cướp người vợ xinh đẹp của chàng (Hơ Bia
Ngo và Y Rit)
Trong mối quan hệ gia đình, nhân vật mồ côi cả cha lẫn mẹ sống với bà
Sun nhân hậu Bà Sun có thể là ruột thịt hoặc là người nhặt được mồ côi đem
về nuôi. Nhân vật mồ côi cha hoặc mẹ thì gặp phải dì ghẻ hoặc cha dượng
(Anh em Cun Cơi, Y Nan nuôi cá lóc). Và khi có dì ghẻ hoặc cha dượng thì
đồng nghĩa với việc mồ côi mất cả cha lẫn mẹ. Vì cả cha mẹ lúc này đều rắp
tâm hãm hại mồ côi (thả vào rừng, chôn sống) để khỏi phải nuôi nấng. Ở một
số truyện, mồ côi không chỉ sống với bà mà còn có họ hàng là người cậu (Y
Niăk, Nung Kuang và bác cháu chàng Rit, Rắn thần và Hơ Rit). Nhưng mồ
côi không thể nương nhờ người cậu này. Người cậu thường có những hành
động với mồ côi:
- Rủ đi rừng chặt cây/ bắt cá, lấy phần nhiều hơn
- Không cho mồ côi ăn uống
- Cướp vật thần của mồ côi
Ở dạng kết cấu này, mồ côi luôn được sự trợ giúp của các lực lượng thần
kì dù qua năm lần bảy lượt trải qua những thử thách khó khăn mà Mtao đặt
ra hoặc người cậu gây ra.
Nhóm 2: Gồm 7 truyện. Chúng tôi tóm tắt tình tiết chính của mỗi
truyện:
(1) Dòng họ Niê Mla
- Y Rit ở với bà
- Y Rit bắt được con ếch biết nói, đổi ếch lấy quả bưởi, trồng bưởi sau nhà
- Con Ê đai A răn đến ăn bưởi, phá nhà Y Rit/ Chàng bắt được nhưng tha chết
- Con Ê đai A răn cho Y Rit cái sừng chứa nhiều của cải
- Y Rit được sống sung sướng
(2) Chuột trắng
- Y Rit kết bạn với chuột trắng
- Chuột trắng giúp Rit lấy được con gái Mtao làm vợ
- Y Rit được sống sung sướng
(3) Rum Dú và gái nhà trời
- Rum Dú mồ côi ra suối bắt cá thấy 9 cô tiên xuống tắm
- Chàng được thần mach lấy cắp quần áo của cô tiên thứ 9
- Cô tiên phải theo chàng về làm vợ
- Rum Dú được sống hạnh phúc
(4) Cây kiếm của thần Rồng
- Y Jar mồ côi sống trong rừng
- Thần Rồng báo mộng tặng cho chàng thanh kiếm thần hộ mệnh
- Y Jar phát rẫy được nhiều lúa gạo, sống sung sướng
(5) Thần Rắn và cô gái H Long
- Dân làng bị bệnh dịch hoành hành
- Ba anh em nàng H Long mồ côi đi làm rẫy
- Thần Rắn báo mộng cho H Long cúng thần, dân làng hết bệnh, anh em nàng
trở nên giàu có
(6) Y Du, Y Da
- Y Du, Y Da mồ côi đi lên trời hỏi cách làm sao để không còn nghèo khổ
- Hai anh em nhận lời hỏi giúp cho các con vật trong rừng làm sao để được to
khỏe
- Trời ban cho hai anh em của cải, từ đó hai anh em không còn nghèo khổ
nữa.
(7) Thần Rồng và anh em nhà Y Rắc Y Rin
- Hai anh em mồ côi Y Răc Y Rin vào rừng chặt cây đan gùi
- Hai anh em gặp con vật thiêng trong rừng, bắt được nhưng tha không giết
- Thần Rồng báo mộng cho hai anh em cúng thần bằng ché rượu
- Hai anh em được thần phù hộ, trở nên giàu có
Dựa trên 7 truyện được mô tả ở trên, chúng tôi rút ra mô hình cấu tạo cốt
Ở với bà Sun
Sống trong rừng
Nghèo khổ
Siêng năng làm việc
Cứu vật bị nạn
Bắt vật phá hoại, tha chết
Được đền vật báu
Được thần báo mộng, ban điều ước
Giàu có
Sống sung sướng hạnh phúc
truyện ở nhóm truyện thứ 2 về nhân vật mồ côi:
Những truyện này có cốt truyện đơn giản, khẳng định triết lí ở hiền gặp lành
và những mong ước của người xưa cho số phận bất hạnh của mồ côi. Nhìn
chung dạng 1 và dạng 2 ở truyện về nhân vật mồ côi đều thể hiện tinh thần lạc
quan và kết thúc có hậu.
Ở truyện cổ tích về nhân vật mồ côi của dân tộc Ê đê, chúng tôi tìm thấy
một bản kể về nhân vật H Liu - có thể xem là dị bản của truyện Tấm Cám
của người Việt. Ở bản kể này không có hoàn cảnh dì ghẻ con chồng . Người Ê
đê đã biến đổi nó một cách phù hợp với hoàn cảnh và tâm lí của cộng đồng
mình: Nàng H Liu là cô gái mồ côi sống một mình. Lớn lên kết bạn thân thiết
với H la. Hoàng tử Chàm nhặt được chiếc giày đẹp. Chàng kén vợ bằng cuộc
thi ướm giày. Nàng H Liu thử giày vừa vặn nên được làm vợ hoàng tử. H La
xin đi theo bạn. Hoàng tử đi vắng, H La giết bạn rồi đem chôn. Nơi chôn H
Liu mọc lên một cây trúc. H La chặt trúc thì hóa thành chim. H La lại giết
chim thì lông mọc thành cây đu đủ. Hồn của H Liu gọi bà lão đến. Bà lão dắt
hoàng tử đến nghe hồn H Liu nói chuyện. Hồn nhập xác trở lại, nàng H Liu
sống lại còn bà lão thì biến mất. Về cung, H Liu cho người giết H La rồi làm
mắm gửi cho mẹ H La.
Sự xuất hiện của bản kể có dạng truyện Tấm Cám trong truyện cổ tích về
nhân vật mồ côi của người Ê đê cho thấy biểu hiện về sự giao lưu và tiếp nhận
những típ truyện của các dân tộc anh em.
Tiểu kết:
Đề tài về nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích Ê đê chủ yếu phản ánh xung
đột trong xã hội giữa kẻ giàu và người nghèo – những người không nơi nương
tựa và không có điều kiện để phản kháng.
Khi xây dựng truyện về những nhân vật mồ côi, cộng đồng người Ê đê cũng
như nhân dân các vùng miền kh ác đều gửi gắm ước mơ về sự đổi đời cho
những người thấp cổ bé họng, và đòi hỏi công lí phải được thực thi, kẻ ác phải
bị trừng phạt.
Nhóm truyện thứ nhất về nhân vật mồ côi chiếm số lượng nhiều hơn nhóm
truyện thứ hai, điều này cho thấy nội dung chủ yếu của truyện về nhân vật mồ
côi là khắc họa xung đột trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Đồng thời
là tiếng nói tố cáo sự áp bức đối với nhân vật mồ côi trong xã hội.
3.1.1.2. Cổ tích về nhân vật dũng sĩ
Bản thân truyện cổ tích không phải chỉ là một truyện kể đơn thuần mà
ẩn chứa bên trong nó là những dấu ấn văn hóa của cả một cộng đồng người.
Truyện cổ là một bộ phận của văn hóa dân gian và bản thân nó tất nhiên mang
tính nguyên hợp. Người ta có thể thấy trong truyện cổ những phong tục tập
quán và tín ngưỡng dân gian còn lưu giữ ở những mức độ đậm nhạt khác
nhau. Khi nghiên cứu truyện cổ về nhân vật dũng sĩ của dân tộc Ê đê, chúng
tôi có được một gợi ý lí thú từ bài viết của tác giả Nguyễn Việt Hùng trên tạp
chí Văn hóa nghệ thuật (số 11/2003), về mối quan hệ giữa nghi lễ trưởng
thành và kiểu truyện dũng sĩ của các dân tộc Trường Sơn, Tây Nguyên. Dân
tộc Ê đê cũng là một trong những dân tộc định cư lâu đời ở dải đất Trường
Sơn,Tây Nguyên. Bằng con đường tiếp cận văn hóa tộc người, chúng tôi tiến
hành tìm hiểu nguồn cội của những truyện kể về nhân vật dũng sĩ. Thử tìm
hiểu dấu vết tín ngưỡng trong truyện cổ, chúng tôi thấy những biểu hiện rất
sinh động của phong tục trong truyện cổ. Chẳng hạn như tục đặt tên. Có rất
nhiều bản kể về nhân vật dũng sĩ có chi tiết đứa bé sinh ra khóc không chịu
nín. Người mẹ hoặc bà phải đặt đúng tên nó mới ngưng khóc. Người Ê đê
quan niệm khi đứa trẻ sinh ra đồng nghĩa với việc một linh hồn của ông bà tổ
tiên đã về đầu thai sau 7 lần hóa kiếp. Vì thế phải đọc đúng tên của tổ tiên,
đúng tên của hồn để hồn nhập vào thì đứa bé mới thôi không khóc. Chúng tôi
cũng quan tâm tới mối liên hệ giữa nghi lễ trưởng thành và kiểu truyện về
nhân vật dũng sĩ. Nghi lễ trưởng thành là nghi thức công nhận chàng trai trở
thành thành viên chính thức của cộng đồng, có quyền lợi và nghĩa vụ với bản
làng, có quyền được kết hôn. Nghi lễ này mang tính cộng đồng rất cao, có
tính trang nghiêm và thử thách. Từ buổi ấy, chàng trai được hội đồng già làng
thừa nhận là thành viên của cộng đồng. Nghi lễ này đánh dấu thời điểm chàng
trai đã biết dùng rìu ngả cây, đẵn gỗ, biết cầm khiên múa kiếm, biết phóng lao
đâm chết thú dữ. Sau buổi lễ trưởng thành này, chàng trai của cộng đồng phải
có trách nhiệm đóng góp công sức làm cho buôn làng giàu mạnh lên mãi.
Nghi lễ này được tiến hành như sau: Chàng trai thức giấc từ tinh mơ,
tay phải cầm kiếm, tay trái cầm khiên, chàng đi ra bến nước tắm (hành động
mang ý nghĩa tẩy rửa sự non nớt và những tội lỗi). Chàng trai hứng bầu nước
tinh khôi từ lòng đất đem về cúng thần. Mọi thứ lễ vật cúng thần đã được
chuẩn bị đầy đủ . Chàng về nhà, bước tới gần cầu thang. Ở đầu cầu thang đã
trồng sẵn hai cây chuối. Chàng vung kiếm chém một nhát đứt thân cây bên
phải, vung kiếm chém một nhát đứt thân cây bên trái. Xong chàng bước lên
nhà. Trong nhà đã có người mẹ đứng sẵn chờ con và hỏi: “Chào con trai, mẹ
chào. Đón con trai,mẹ đón. Con từ đâu đến? Có phải con đi đánh giặc phía
đông, múa khiên phía tây thắng trận trở về?”. Chàng trai sẽ lễ độ đáp lại : “
Chào mẹ. Con chào người mẹ của đất rừng Ê đê. Đúng như mẹ nói. Con đã
thử kiếm. Cây lớn đã ngã. Cây bé đã đổ. Con đã múa khiên từ phía tây, múa
kiếm từ phía đông. Con đem vinh quang về cho mẹ.” Chàng trai vào nhà,
chiêng trống nổi lên và cùng với thầy cúng làm lễ. Chúng tôi cho rằng nghi
thức cầm gươm chém chuối và lời đối đáp của chàng trai và người mẹ là hình
thức rút gọn của nghi lễ này trong quá khứ. Trải qua thời gian, nghi lễ nào
cũng có xu hướng đơn giản hóa những thủ tục của nó cho phù hợp với đời
sống. Có thể ở thời xa xưa, các chàng trai của buôn làng bước vào tuổi trưởng
thành phải thực hiện một hành động để chứng tỏ tài năng, bản lĩnh và sự khôn
lớn của mình : thực hiện một cuộc săn bắn, thực hiện một chuyến vào rừng
chẳng hạn, để giết được con thú dữ làm bằng chứng xứng đáng với lễ trưởng
thành của mình. Nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ luôn có những chuyến ra đi
rời gia đình, và luôn chủ động tiêu diệt những loài quái thú để bảo vệ buôn
làng. Đối thủ của các chàng luôn là những loài thú dữ dưới hình thức này hay
hình thức khác. Có thể nói truyện về nhân vật dũng sĩ cũng lưu giữ trong nó
những dấu ấn của phong tục tập quán dù những biểu hiện đó chỉ còn rất mờ
nhạt.
Khảo sát kiểu truyện về nhân vật dũng sĩ, chúng tôi tìm được 10 truyện,
chiếm tỉ lệ 28 % trong tổng số 38 truyện cổ tích thần kì. Chúng tôi xác định
có hai nhóm truyện tiêu biểu:
Thứ nhất là nhóm truyện kể về chiến công diệt thú dữ, gồm có 4 truyện,
chúng tôi tóm tắt tình tiết chính:
(1) Pơ nan giết cọp
- Cha mẹ Pơ nan bị cọp ăn thịt
- Chàng đi tìm cọp trả thù
- Giao chiến, giết được bầy cọp
(2) Chàng Y Siêm
- Có tài bắn ná, xin đi giết bầy diều hâu đang phá hoại buôn làng
- Vót bảy bó tên, giết sạch lũ diều hâu
(3) Bảy anh em trai và nàng A Rế
- Cha mẹ nghèo
- Bảy anh em từ biệt cha mẹ đi tìm đất lập buôn
- Chàng Út giết được quỷ một mắt, đánh nhau với chim dữ, chàng
chết
- Các anh em tìm đến hợp sức, đặt bẫy giết được chim dữ, cứu sống
em.
(4) Y Rit và voi bay
- Y Rit rèn gươm giết chết con cọp dữ.
- Gấu, báo đến trả thù. Chàng lừa chúng phải làm nô lệ cho chàng
- Gặp con voi hung ác, chàng giết voi, lừa lũ quạ chui vào xác voi làm voi
bay
- Chàng lừa Mtao đổi voi bay lấy của cải. Đàn quạ ra tới biển chui ra khỏi
xác voi. Mtao chết
Chúng tôi lập mô hình kết cấu của nhóm truyện này:
1. Xuất thân Gia đình nghèo/ Cha mẹ mất/ Cha mẹ bị ác thú ăn thịt
Có tài (bắn ná/vót chông/rèn gươm/mưu trí)
2. Thử thách Chuẩn bị vũ khí/ Đặt bẫy
Giết ác thú (cọp, chim dữ…)
3. Kết thúc Được ca ngợi
Lập buôn, đem lại cuộc sống ấm no cho dân làng
Thứ hai là dạng truyện kể về chiến công giết ác thú cứu người đẹp, gồm
có 6 truyện có các tình tiết chính như sau:
(1) Y Tơ Lông giết trăn tinh
- Cha mẹ đuổi ra khỏi nhà
- Chàng ra đi, tới buôn gặp cô gái chờ nộp mạng cho trăn tinh
- Chàng chuẩn bị chão trâu, làm thòng lọng, giết trăn tinh, cứu cô gái
- Bị cô gái cắt đuôi khố
- Về sau nhận ra nhau, kết hôn
(2) Anh em Pơrông Pha
- Trời cho 7 viên thuốc, hai vợ chồng già sinh được 7 người con
- 7 anh em ra đi diệt trừ các loài thú hung ác, cứu 7 cô gái
- Pơrông Pha cùng em út giết được con hổ thành tinh
- Pơrông Pha lấy cô út trong 7 cô gái làm vợ
(3) Y Kluch chém trăn thần
- Ở với bà Sun, gặp Y Rit kết nghĩa anh em
- Cùng Y Rit đến buôn nọ, rèn gươm, chém trăn thần cứu cô gái
- Y Kluch bị cắt đuôi khố
- Về sau nhận ra nhau, lấy nhau
(4) Chàng Gơ răn Dơ Hông
- Cha mẹ không thương, chàng bỏ đi
- Gặp Y Rit kết nghĩa anh em, về ở cùng bà Sun
- Hai anh em rèn gươm, đánh thắng thần nước, cứu cô gái đẹp
- Gơ răn Dơ Hông bị cắt đuôi khố
- Về sau nhận ra nhau, lấy nhau
(5) Con quỷ H Bia Yăk Yơng
- Chàng Dăm Poh Kneh lớn lên đi tìm mắt cho mẹ
- Dùng trí khôn, chàng thoát chết qua nhiều lần quỷ tìm cách giết chàng
- Chàng đến buôn quỷ, lấy mắt lại cho mẹ, cứu được mẹ
- Đánh nhau với quỷ, giết chết quỷ
(6) Cây tông lông
- Bà mẹ uống nước hốc cây sinh ra hạt tông lông, đem trồng
- Chim đẻ trứng trên cây tông lông, nở ra chàng trai
- Chàng trai giết chim dữ, cứu cô gái đẹp, lấy nàng làm vợ
- Chàng lên trời, giết thần Sét, lấy nữ thần mặt trời làm vợ
Chúng tôi lập sơ đồ kết cấu của nhóm truyện này như sau:
1. Xuất thân Ở với bà Sun và Y Rit
Cha mẹ đuổi đi
Mẹ uống thuốc của Trời sinh ra
2. Thử thách Ra đi Một mình
Cùng Y Rit
Cùng anh em
Hành động Chuẩn bị vũ khí/ Đặt bẫy
Giết quái thú cứu người đẹp
(1 mình/anh em trợ giúp)
Không nói tên, bị cắt đuôi
khố
3. Kết thúc So đuôi khố, lấy cô gái đẹp làm vợ
Sống hạnh phúc
Nhìn chung kết cấu của truyện cổ tích về nhân vật dũng sĩ của người Ê đê
cũng mang những nét gần gũi với truyện về nhân vật dũng sĩ của người Việt.
Truyện Y Kluch chém trăn thần, Y Tơ Lông giết trăn tinh có thể xem như một
dạng dị bản truyện Thạch Sanh của người Việt. Cả hai truyện này đều kể về
chàng dũng sĩ tài năng, khỏe mạnh, dũng cảm giết trăn để cứu sống cô gái
đang phải nộp mạng cho trăn. Bên cạnh truyện kể về chàng dũng sĩ giết quái
thú cứu người đẹp, truyện kể về chàng dũng sĩ giết thú dữ bảo vệ buôn làng
cũng khá phổ biến. Có lẽ bởi vì môi trường sinh sống của họ ở giữa núi rừng,
thuở xưa con người vẫn luôn phải chống chọi với các loài thú dữ để lập buôn
lập làng. Con người phải đấu tranh với thiên nhiên, khuất phục nó để khẳng
định sự tồn tại của mình. Giết được thú dữ xem như lập được chiến công. Đối
tượng thú dữ thường xuất hiện đe dọa buôn làng chính là con cọp trong rừng
sâu. Vì thế, người Ê đê có rất nhiều truyện cổ kể về chiến công của chàng
dũng sĩ diệt loài cọp dữ.
Nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ Ê đê không phải lúc nào cũng ra đi và
chiến đấu một mình. Có trường hợp chàng dũng sĩ đi cùng Y Rit là người đã
cưu mang mình (Y Tơ Lông giết trăn tinh, chàng Gơrăn Dơhông), Y Rit hỗ
trợ cho chàng dũng sĩ đánh thắng quái vật rồi cùng trở về. Có trường hợp là
tập thể bảy chàng dũng sĩ là anh em một nhà cùng hợp sức giết quái vật (Bảy
anh em trai và nàng A Rế, Anh em Pơrôngpha). Ở trường hợp này bao giờ
cũng có một chàng dũng sĩ là nhân vật chính, sáu người còn lại chỉ có vai trò
giúp sức khi nhân vật chính gặp nguy nan. Đây là hình thức liên minh chiến
đấu mang tính cộng đồng rất cao nhưng không phải liên minh theo kiểu nhập
bọn như ở truyện cổ Chăm, Tày (Anh Đóng Cọc, anh Tát Nước, anh Đục
Máng…), mà là liên minh dựa trên quan hệ huyết thống. Điều này đã thể hiện
khá rõ nét văn hóa của cộng đồng người Ê đê.
Trong kiểu truyện về chàng dũng sĩ, người Ê đê có một truyện kể với nội
dung và hình thức khá đặc biệt, không nằm trong mạch kết cấu như ở hai
nhóm truyện mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Đó là truyện cổ H Bia Yăk
Yơng : Hai chị em H Bia Lui và H Bia Jei vì nghèo không có váy áo mặc nên
không cùng dân làng đi bắt cá. Mãi đến khi trời gần tối, dân làng về hết hai
chị em mới ra suối bắt cá. Chẳng may họ gặp phải con quỷ H Bia Yăk Yơng.
Con quỷ đuổi theo hai chị em để ăn thịt. Hai chị em lần lượt trốn vào các con
vật ở rừng (gà rừng, heo rừng, trâu rừng…) để ẩn nấp. Các con vật cắn xé
con quỷ ra từng mảnh nhưng nó lại sống lại và tiếp tục đuổi theo hai chị em.
Hai chị em chạy đến nhà Mtao. Mtao lấy hai chị em làm vợ cho ở trong căn
phòng được đóng gỗ kín mít. Con quỷ không vào được lại hóa thành cô gái
đẹp. Mtao lấy nó làm vợ. Con quỷ vào được phòng của hai chị em, móc mắt
họ rồi giấu mắt ở buôn quỷ. Cô chị sinh được con trai là Đăm Poh Kneh. Lớn
lên Đăm Poh Kneh tài giỏi vô cùng, được mệnh danh đánh đâu thắng đó,
không ai địch nổi. Con quỷ đội lốt người muốn giết chàng, mấy lần đều giết
hụt. Đăm Poh Kneh ra đi, được thần Aê Diê giúp sức, chàng đến buôn quỷ,
giả dạng thành người khác, gặp em của quỷ H Bia Yăk Yơng. Chàng lừa nó
lấy lại được mắt cho mẹ. Em của quỷ đuổi theo, chàng đánh nhau với nó, giết
chết. Về nhà, chàng đánh nhau với quỷ H Bia Yăk Yơng, giết chết nó, quỷ
hiện nguyên hình con hổ.
Ở đây, lực lượng mà chàng dũng sĩ phải đối đầu cũng là loài thú dữ thành
tinh nhưng nguy hiểm và nhiều mưu mô hơn so với các loài quái thú ở những
truyện cùng loại. Chàng dũng sĩ phải đấu tranh năm lần bảy lượt dùng cả sức
mạnh và mưu trí mới có thể tiêu diệt được nó. Về mặt nội dung, truyện cổ này
có cốt truyện phức tạp, cấu trúc lặp đi lặp lại của hành động nhân vật và
những cách nói so sánh phóng đại khiến nó có hình thức như một bản kể
khan, có nhiều khác lạ khi đặt bên cạnh những truyện kể về nhân vật dũng sĩ
khác. Trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê đê, thuở xưa, họ rất thích nghe kể
khan và cả truyện cổ (clay đưm) trong những ngôi nhà dài dưới ánh lửa bập
bùng. Dù là kể truyện cổ thì người kể vẫn có xu hướng nhấn mạnh và lặp đi
lặp lại những hành động của nhân vật, tình huống của nhân vật mà người nghe
vẫn không cảm thấy chán. Có lẽ đây là một truyện cổ tích còn lưu giữ được
tính chất sinh hoạt cộng đồng đằng sau cốt truyện về chàng dũng sĩ.
Tiểu kết:
Nhìn chung, truyện cổ tích về nhân vật dũng sĩ của người Ê đê có nét gần
gũi với nghi lễ trưởng thành trong tín ngưỡng dân gian của dân tộc Ê đê.
Truyện về nhân vật dũng sĩ có nét tương đồng với kiểu truyện dũng sĩ của
người Việt (truyện Thạch Sanh) nhưng cũng có những nét riêng. Đó chính là
tính cộng đồng thể hiện rất cao qua những nhân vật dũng sĩ chiến đấu có sự
giúp sức của anh em. Trường hợp truyện có kết cấu dài, có nhiều tình tiết
truyện lặp đi lặp lại cũng phần nào cho thấy đặc điểm diễn xướng của truyện
trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
3.1.1.3 Cổ tích về nhân vật mang lốt
Kiểu truyện người mang lốt là kiểu truyện phổ biến ở Việt Nam và Đông
Nam Á. Ở truyện cổ tích của dân tộc Ê đê cũng xuất hiện những truyện về
nhân vật mang lốt nhưng không nhiều. Trong 38 truyện cổ tích thần kì, có 6
truyện về nhân vật mang lốt, chiếm tỉ lệ 14 %. Chúng tôi tóm lược tình tiết
của các truyện cụ thể và có những nhận xét về nhóm truyện này:
(1) Lấy chồng heo
- Nàng H len cứu được chú heo thoát khỏi bẫy trong rừng, đem về
nuôi.
- Hlen đi rẫy, về nhà đã thấy cơm nước dọn sẵn
- Hlen rình xem thì phát hiện chàng trai bước ra từ lốt heo
- Hlen xé bỏ lốt, hai người thành vợ chồng sống hạnh phúc
(2) Chàng rể khỉ
- Hai vợ chồng già khấn trời xin con, sinh ra khỉ
- Khỉ đi trồng rẫy cà. Con gái Mtao hái nhầm rẫy cà của Khỉ
- Khỉ bắt đền, muốn cô gái lấy mình làm vợ. Mtao không đồng ý
- Mtao cho người giết khỉ mấy lần nhưng không chết
- Cuối cùng Mtao phải gả con gái cho Khỉ. Khỉ cởi lốt thành chàng
trai đẹp
(3) Lấy chồng trăn
- Người cha đi rừng gặp trăn, phải gả con gái cho trăn nếu không sẽ
chết
- Cô em thương cha nên đồng ý lấy trăn, cô em khinh ghét trăn
- Trăn cởi lốt thành chàng trai đẹp
- Cô chị cũng muốn được như em, bắt cha tìm một con trăn khác cho
mình
- Con trăn nuốt cô chị, may được em rể cứu nên thoát chết.
(4) Y Đăm tai to
- Y Đăm có đôi tai kì quái, to như tai voi
- Y Đăm kết bạn với Y Rit, về ở với bà Sun
- Y Đăm cởi lốt thành chàng trai đẹp, hẹn hò với con gái Mtao. Cô
gái không nhìn rõ mặt Y Đăm, cắt đuôi khố của chàng làm tin.
- Con gái Mtao sinh con, đứa con đi tìm Y Đăm
- Y Đăm cởi lốt sống hạnh phúc bên vợ con
(5) Chàng Lọ Nồi
- Lọ Nồi sinh ra đen đủi xấu xí. Cha mẹ bắt Lọ Nồi ra ở chuồng bò
- Lọ Nồi có phép hóa ra cơm canh, vàng bạc
- Nàng H Bia yêu thương Lọ Nồi, tình cờ biết được bí mật
- Hai người lấy nhau sống hạnh phúc
(6) Chàng rể Cóc
- Bà mẹ uống nước hốc cây sinh ra cóc
- Cóc có phép biến hóa
- Nàng H Bia thương Cóc. Trời mưa, Cóc phải cởi lốt thành chàng trai
ra cứu thóc
- H Bia biết được bí mật, rình trộm xé lốt.
- Hai người sống hạnh phúc bên nhau
Như vậy, qua 6 truyện về nhân vật mang lốt đã mô tả, chúng tôi rút ra một
số kết luận:
Nhìn chung, truyện cổ tích về nhân vật mang lốt có số lượng khiêm tốn.
Nhân vật mang lốt trong truyện cổ Ê đê thường có hình hài của cóc, lợn, dê,
trăn, khỉ (Lấy chồng lợn, Chàng Cóc, Chàng rể khỉ, Hbia và con dê, Lấy
chồng trăn) và đôi khi cái lốt cũng có trường hợp là người có một đặc điểm
nào đó kì dị (Y Đăm tai to, Chàng Lọ Nồi)
Nhân vật mang lốt thường là kết quả của một cuộc hôn phối lạ lùng và chịu
sự khinh miệt, ghẻ lạnh của cộng đồng do hình hài quái dị. Đồng hành với
nhân vật mang lốt là nhân vật cô gái đẹp. Cốt truyện thường diễn biến như
sau:
Xuất thân hèn kém, hình hài quái dị → Có phép thần kì/tài năng → Che
giấu thân phận → thử thách bộc lộ bí mật → Cô gái đẹp phát hiện con người
bên trong lốt → Kết thúc lấy cô gái đẹp làm vợ.
Phép thần kì của nhân vật mang lốt thường là khả năng biến hóa ra của cải
vàng bạc, biến hóa ra cả buôn làng giàu có, hoặc chết đi có thể sống lại. Nhân
vật mang lốt ước mơ có được cô gái đẹp nhưng không cởi lốt ngay từ đầu mà
chỉ khi cô gái tự phát hiện ra con người thật bên trong, nhìn thấy vẻ đẹp của
tài năng và phẩm chất bên trong cái lốt.
3.1.2. Các mô típ chính
3.1.2.1 Môtíp sự ra đời kì lạ
Môtíp sự ra đời kì lạ là một môtíp quen thuộc trong truyện cổ Việt Nam
và thế giới. Trong công trình “Truyện Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ
trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á”, nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà
đã khái quát được mười dạng thức khác nhau của sự sinh đẻ thần kì trong
truyện cổ. Chúng tôi xét thấy trong truyện cổ tích thần kì của người Ê đê có
các trường hợp ra đời kì lạ như sau:
- Nhân vật được thụ thai và ra đời một cách thần kì, chỉ có vai trò của
người mẹ: người mẹ ăn phải quả bưởi về nhà mang thai sinh ra con (Đăm K
tỉa Truôi), người mẹ uống nước hốc cây sinh ra con (Cây tông lông)
- Con ra đời có cả bố và mẹ nhưng bố là thần linh : cô gái lấy thủy thần
sinh ra con (Chàng Cá Sấu). Hoặc bà mẹ có sự tác động của thần linh để sinh
ra con : Trời cho viên thuốc thần, uống vào mang thai (Anh em Pơrông Phan,
anh em Cun, Coi…)
- Nhân vật được sinh ra một cách bình thường nhưng có hình dáng kì
lạ: hình dạng con cóc (Chàng Cóc)
Mô tip về sự thụ thai và ra đời kì lạ trong truyện cổ tích Ê đê cũng
giống như trong truyện kể của nhiều dân tộc anh em. Nguồn gốc của nó cũng
bắt nguồn từ quan niệm xa xưa : người và vật có mối quan hệ cảm ứng tự
nhiên. Người xưa với nhận thức ấu trĩ đã cho rằng đứa trẻ sinh ra chỉ cần có
mẹ mà không có bố. Điều này có lẽ cũng là sự phản ánh tàn dư của chế độ
quần hôn khi những đứa trẻ ra đời chỉ biết mẹ mà không biết cha.
3.1.2.2 Mô típ bà Đuôn Sun
Hình ảnh bà Đuôn Sun là hình ảnh thường gặp trong các truyện về
nhân vật mồ côi cũng như rất phổ biến ở cả truyện về chàng dũng sĩ và
người mang lốt (Y Kluch chém trăn thần, Chàng Gơrăn Dơhông, Nung
Kuang và cậu cháu chàng Rit, Y Tơ Lông giết trăn tinh, Chàng Cơm Cháy,
Sự tích con voi trắng, Chuột nâu và Y Rit…). Trong 38 truyện cổ tích thần
kì, mô típ bà Đuôn Sun xuất hiện 13 lần.
Nhân vật chính ngay từ đầu đã ở với bà Sun khi cha mẹ mất. Cũng có
trường hợp nhân vật chính từ bỏ mẹ cha, phiêu bạt và đến ở với bà Sun. Bà
Sun chính là đại diện cho người mẹ cao cả của văn hóa mẫu hệ Ê đê.
Theo truyền tụng của người Ê đê, bà Duôn Sun là một người đàn bà
góa, sống cô quạnh trong một ngôi nhà rách nát. Ở sử thi Ê đê, bà Duôn
Sun thường ở cùng một cô con gái nuôi xinh đẹp. Ở truyện cổ, bà Duôn
Sun lại ở cùng với cháu là Y Rit, đôi khi Y Rit chỉ là đứa trẻ mồ côi mà bà
cưu mang. Ngôi nhà của bà Duôn Sun là nơi trú ngụ của những chàng Y
Rit bất hạnh và cả những cô gái bị cha mẹ đánh đuổi.
Trong tiềm thức của người Ê đê, bà Sun tượng trưng cho tình thương và
lòng từ thiện. Bà không có một phép màu nhiệm nào nhưng bao giờ cũng
là chỗ dựa vững chãi cho những người không gặp may mắn trong cuộc
đời. Có thể nói bà Sun chính là hiện thân của bà mẹ cao cả trong chế độ
mẫu hệ.
3.1.2.3 Mô típ thần Rồng
Trong 22 truyện cổ tích về nhân vật mồ côi, mô tip thần Rồng xuất
hiện 6 lần với nhiều dạng khác nhau Rồng, rắn, lươn: Thần Rồng phù hộ
cho anh em Y Rắc Y Rin (Thần Rồng và anh em Y Rắc Y Rin), Thần Rồng
tặng thanh kiếm cho Y Pa (Cây kiếm của thần Rồng), Rắn báo mộng cho
ba anh em mồ côi cúng thần để được giàu có (Thần Rắn và cô gái H
Long). Rắn giúp Hơ Rit được giàu có (Rắn thần và Hơ Rit). Lươn phù hộ
cho chàng mồ côi (Sự tích hồ Lăk, Nung Kuang và bác cháu chàng
Rit)Rồng với tư cách là một loài thủy tộc, dạng rắn đã trở thành tín
ngưỡng của rất nhiều cư dân: Rồng của người Việt, Nâga của Khơme,
Nagari của người Chăm, Nak của người Lào… Đối với dân tộc Ê đê, Rồng
cũng là một vị thần có vị trí cao trong tín ngưỡng.
Trong truyện cổ Ê đê, Thần Rồng xuất hiện như một lực lượng phù trợ
đối với nhân vật mồ côi. Trong đời sống văn hóa, Rồng thực chất được tô vẽ
từ hình tượng rắn mà ra. Con lươn cũng là một dạng biến thể của rắn, cũng
thuộc vào hàng thủy tộc. Truyện cổ Ê đê thường kể lươn được chàng Y Rit
đem về nuôi làm bầu bạn. Lươn vốn bản tính hiền lành thích hợp để chàng
người nuôi. Và khi có biến cố xảy ra, lươn mới thể hiện sức mạnh linh thiêng
của mình (đánh nhau với thủy thần hoặc với cả rồng), và bao giờ cũng chiến
thắng.
3.1.2.4. Mô típ về sự xuất hiện con số 7
Không chỉ trong truyện cổ tích mà trong cả thần thoại và truyền thuyết, con
số 7 cũng xuất hiện với mức độ phổ biến với một ý nghĩa và vị trí đặc biệt.
Đối với người Ê đê, con số 7 là một con số thiêng liêng. Nó là con số chứa
đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong tín ngưỡng dân gian, người Ê đê tin rằng vũ trụ
có 7 tầng. Con số 7 đối với họ là tất cả vũ trụ. Tác giả Phạm Đặng Xuân
Hương đã có một bài viết phân tích ý nghĩa biểu tượng của con số 7 trong tín
ngưỡng của các dân tộc Tây Nguyên. Trong quá trình khảo sát truyện cổ Ê đê,
chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện con số 7 là một mô típ khá độc đáo. Con số 7
xuất hiện trong cách đo đếm thời gian và cách nói so sánh:
- Họ nghỉ 7 ngày, họ ngủ 7 đêm và lại quyết định ra đi (Krông Buk)
- Một lúc sau, chàng lại tiếp tục lên đường, băng qua 7 ngọn núi, vượt qua 7
con sông, con suối lớn, chàng phi ngựa rất nhanh (Hbia Yăk Yơng)
- Ông Gỗn dẫn Y Drao ra bờ suối chỉ vào gốc cây đại thụ to lớn khoảng 7
người ôm mới hết (Chiếc vòng ngày cưới)
- Ngươi hãy đi bắt cho ta con heo mẹ 7 đuôi, con voi 7 ngà về đây (Sự tích
con voi trắng)
- Đăm Săn nhảy múa, ca hát. Dân làng vui chơi như vậy suốt 7 ngày 7 đêm
(Chiêng tre)
- Y Rit làm theo lời ông Myang, chỉ sau 7 ngày đã làm xong cái trống (Điệu
múa tung khắc)
- Đứa bé vừa lọt lòng đã vượt qua 7 quả núi. Người mẹ đuổi theo đến tận quả
núi thứ 7 mới cắt được rốn cho nó (Anh em Pơrông Pha)
Ý nghĩa của con số 7 không dừng lại ở giá trị tính đếm về mặt đơn vị. Nó
mang ý nghĩa về một sự cao quý và lớn lao. Người Ê đê quan niệm con số 7
là sự biểu trưng cho những gì đầy đủ, chính xác, trọn vẹn, là giới hạn cuối
cùng hoàn thành một chu kì, đồng thời diễn ra một sự thay đồi về chất để tạo
nên chiều hướng của một sự đổi mới tích cực. Sau con số 7 bao giờ cũng là
một sự đổi mới tích cực [80,15]. Quan niệm này thể hiện rất rõ trong tín
ngưỡng của người Ê đê. Trong các lễ cúng, lễ vật thường được chuẩn bị đủ
số lượng. Và sự đầy đủ thể hiện ở số 7: 7 ché rượu, 7 bầu nước, 7 thau
đồng… Trong nghi lễ trưởng thành của các chàng trai, họ được trao một chiếc
vòng đồng có 7 khấc, đánh dấu sự chín chắn, đủ tuổi, đủ điều kiện để gia nhập
vào cộng đồng. Trong quan niệm về linh hồn, người Ê đê tin rằng con người
sau khi chết, hồn sẽ về buôn người chết, biến hóa 7 lần, lần cuối cùng là dưới
hình thức một giọt sương để quay trở về đầu thai vào một đứa trẻ mới sinh ra.
Niềm tin về con số 7 thiêng liêng đã đi vào truyện cổ và để lại dấu ấn văn hóa
của họ ở đó.
3.2 Truyện cổ tích thế sự
3.2.1. Về đề tài – cốt truyện
3.2.1.1. Nhóm truyện kể địa danh
Người Ê đê có một nhóm truyện cổ tích sinh hoạt nói về mối tình của các
chàng trai cô gái Ê đê. Nội dung những truyện này một mặt phản ánh bức
tranh đời sống và hoàn cảnh xã hội, một mặt lại nhằm giải thích tên gọi của
các dòng sông thác nước. Chúng tôi tạm gọi nhóm truyện này là truyện kể địa
danh. Trong 54 truyện cổ tích sinh hoạt, có 11 truyện là truyện kể địa danh
(Sự tích hồ Lăk, Sự tích tháp Yang Prong, Sự tích núi Cư Hmú, Sự tích sông
Sêrêpôk, Sự tích hồ Chư Lăm, Sự tích thác Drai Un, Sự tích thác Drai Sáp, Sự
tích suối Ea Hleo, Sự tích sông Krông Hmlai, Sự tích sông Krông Buk). Khác
với nhóm truyện địa danh gắn với những sự kiện lịch sử của cộng đồng, ở thể
loại cổ tích, mỗi địa danh lại được lồng vào đó rất nhiều chuyện đời và những
tâm sự của con người trong cuộc sống đời thường. Mỗi địa danh được kể đều
chở theo biết bao tâm tình của người kể chuyện, có thể là những khát khao hi
vọng hoặc những sự trắc trở éo le trong cuộc đời, những niềm ân hận đau xót
trong muôn mặt của các mối quan hệ đời thường. Và thông qua tất cả những
điều đó, tác giả dân gian muốn gửi gắm một quan niệm nhân sinh. Khu vực
cư trú của người Ê đê có một đặc điểm là lắm thác nhiều ghềnh xen lẫn trong
những cánh rừng hùng vĩ. Họ có nhiều truyện kể về sự tích của những dòng
sông, thác nước. Và ẩn đằng sau tên gọi của núi sông, dòng thác là cả một số
phận con người.
Những cuộc tình của đôi trai gái trong truyện dở dang do cha mẹ ngăn
cấm hoặc do những trở ngại không thể vượt qua của hoàn cảnh. Nguyên nhân
của sự ngăn cấm này là do sự không tương xứng về địa vị xã hội. Những
truyện kể này ra đời khi xã hội đã có sự phân chia giàu nghèo. Những truyện
cổ tích sinh họat lí giải địa danh là nơi người lao động trong xã hội Ê đê gửi
gắm những nỗi niềm uất ức về thân phận bé nhỏ của họ, nói lên niềm khao
khát tình yêu tự do. Có một điều đáng chú ý trong mảng truyện này là đa số
các dòng sông, thác nước đều là nhân chứng cho tình yêu chung thủy của các
cô gái Ê đê. Ở những truyện này, nhân vật chính là các cô gái có tình yêu son
sắt và đức hạnh:
- Thác Drai Hling: Ở một buôn làng giàu có, có nàng Hling con gái tù
trưởng vô cùng xinh đẹp. Y Rit cứu Hling khỏi bầy cọp dữ. Hling đem lòng
yêu chàng Y Rit mồ côi, trao vòng bạc. Mtao chê Y Rit nghèo, gả Hling cho
con trai tù trưởng giàu mạnh ở buôn khác. Ngày Hling phải về nhà chồng,
nàng nhảy xuống dòng sông tự vẫn. Y Rit lao xuống lặn tìm không thấy Hling
rồi chàng cũng biến mất giữa dòng nước xiết. Từ đó dòng sông biến thành
dòng thác dữ. Dân làng đặt tên thác là Drai Hling.
- Thác Drai Sap: Tù trưởng giàu mạnh ở buôn nọ có cô con gái xinh đẹp là
H Mí. Yrit cứu H Mí khỏi dòng nước dữ. H Mí đem lòng yêu chàng Y Rit mồ
côi, trao vòng bạc. Mtao không đồng ý gả H Mí cho Y Rit. Quái vật xuất hiện
bắt H Mí đi mất. Y Rit hóa thành cây cổ thụ. Dòng thác nơi hai người chia tay
gọi là Drai Sap.
- Sông Krông Buk: Hai chị em Hring Hrao đem lòng yêu thần nước. Họ
không đến được với nhau. Dòng sông nơi họ ước hên đặt tên là Krông Buk.
- Suối Ea Hleo: Nàng Hleo con gái tù trưởng yêu chàng Y Rit. Hai người đính
ước với nhau, trao vòng bạc. Trong buôn xuất hiện cọp dữ bảy đầu. Y Rit
đánh được cọp nhưng chàng mất tích trong rừng sâu. Hleo khóc thương
chàng đến chết, nước mắt hóa thành suối.
Kết thúc bi kịch thường gắn với tình yêu bị ngăn trở. Nhưng cũng có trường
hợp kết thúc bi kịch của các chàng trai cô gái không phải do sự chênh lệch về
địa vị xã hội. Chẳng hạn như truyện Sự tích cây kơ nia : Chàng Kđăm và
nàng Hnia yêu thương nhau. Cả hai cùng là nô lệ của Mtao. Họ không lấy
được nhau vì Mtao không cho phép và ra những điều kiện vô cùng khó khăn.
Chàng Kđăm được các loài thú giúp tìm vật quý nhưng không vượt qua được
thử thách cuối cùng. Cả hai người đều chết hóa thành cây kơnia. Hay truyện
Sự tích nhà mồ: Chàng Y Thíh mồ côi và nàng Hren đều là con cái nhà
nghèo đem lòng yêu thương nhau. Thầy cúng muốn Hren lấy con trai lão nên
đã vu oan Y Thih là người xấu, đuổi chàng vào rừng. Hren không đồng ý lấy
con trai lão. Thầy cúng vu oan Hren là ma lai bắt trói. Thần giúp Y Thíh tìm
được ngà quý về cứu H Ren nhưng không kịp. Cuối cùng Hren chết và Y Thih
cũng hóa thành tượng gỗ.
Ở mảng truyện kể địa danh, mặc dù được lồng trong đó nhiều vẻ thơ mộng
nhưng hiện thực đời sống vẫn hiện lên rất rõ nét. Từ đó có thể thấy rằng cộng
đồng người Ê đê dành nhiều sự quan tâm tới hạnh phúc của con người cụ thể
trong đời thực và luôn khát vọng những điều tốt đẹp cho những đôi lứa yêu
nhau thủy chung son sắt.
3.2.2.2. Nhóm truyện kể khác
Truyện cổ tích sinh hoạt của người Ê đê kể về nhiều vấn đề khác nhau
trong cuộc sống thường nhật. Chúng tôi nhận thấy một số nội dung nổi bật
như sau:
Thứ nhất là truyện về nhân vật ngốc nghếch, đây cũng là kiểu truyện
thường gặp trong truyện cổ tích sinh hoạt của người Việt. Người Ê đê có một
câu chuyện kể về bác Blông Bluê như sau: Bác Blông Bluê đi chơi,mang theo
một con kiến. Đến nhà người quen, bác để con kiến bò ngoài hiên. Con kiến
bị gà ăn mất, bác bắt đền chủ nhà phải đổi cho bác con gà. Đến một nhà
khác, con gà của bác bị con chó cắn chết, bác bắt chủ nhà phải đền con chó.
Bác lần lượt đến từng nhà, các con vật của bác lần lượt vô tình bị chết, cứ thế
bác bắt đền chủ nhà phải đưa cho bác con dê, con bò, con voi, lửa, nước và
hai cô gái xinh đẹp, cuối cùng bác bị hai cô gái đẩy xuống sàn nhà cho cọp
bắt. Câu chuyện cũng cho thấy phần nào luật tục của người Ê đê trong đời
sống (gây thiệt hại cho người khác thì phải đền gấp nhiều lần).
Thứ hai là chuỗi truyện về chàng Y Luăc (Chàng Láo), nhát gan nhưng
hay gặp may và cũng có phần láu cá. Nhân vật này cũng có nét giống với
nhân vật Cuội trong cổ tích Việt ở đặc điểm nói khoác “một tấc đến giời”. Y
Luăc là một chàng trai nghèo, nhát gan nhưng khi bị đặt vào tình huống khó
khăn lại luôn nảy ra những mưu mẹo giúp mình vượt qua hoàn cảnh. Chàng
thường được các con vật giúp đỡ ở những lúc gần như mất mạng. Chúng tôi
tóm tắt nội dung chính:
Chàng Y Luăc lén nghe ở vách nhà Mtao xem Mtao chọn con rể như
thế nào. Chàng giả vờ là người can đảm, siêng năng, săn bắn giỏi. Cả làng
nhìn vào ai cũng tưởng chàng đã thay đổi. Mtao đến hỏi gả con gái cho
chàng. Y Luăk gặp hổ. Hổ bị kẹp vào chạc cây lăn ra chết. Y Luăk dàn cảnh
để dân làng tin mình là người đã giết cọp. Hai vợ chồng chàng ngủ ngoài rẫy
canh rẫy. Con voi đến phá rẫy. Vợ chàng lấy cung tên bắn chết voi. Y Luăk
nhận là mình đặt bẫy voi để thuần dưỡng, chàng ra vẻ tiếc con voi do vợ bắn
chết. Từ đó tiếng tăm chàng càng vang xa. Mẹ vợ chàng đi khoe con rể ở
buôn khác. Mtao buôn khác thách chàng nằm trên giàn lửa xem thế nào.
Chàng được Rùa và Nhím giúp nên thoát chết, khiến Mtao khâm phục. Lại có
Mtao ở buôn khác đòi gặp chàng để thử tài. Chàng nấp trên cây, sợ quá vãi
đái xuống bọn tráng buôn nọ đang rình bắt chàng. Chúng đánh nhau rồi bỏ
về. Y Luăk lại nhận mình đã đánh tan tác bọn chúng. Tiếng tăm chàng lại
vang xa. Mtao Kinh nhờ chàng diệt cọp. Chàng nhanh trí lừa được bầy cọp,
bắt gọn. Mtao Lào nhờ chàng xin mưa của trời. Y Luăk được con ếch giúp,
biết ngày có mưa báo cho Mtao. Từ đó Y Luăk lúc nào cũng được sống sung
sướng.
Chuỗi truyện về Y Luăc là sự tập hợp của nhiều truyện nhỏ mang tính
chất liên hoàn. Chúng tôi cho rằng phần văn bản có được hiện nay chỉ là một
phần nhỏ trong số rất nhiều truyện về Y Luăc hiện nay đã thất lạc. Trong quá
trình đi điền dã sưu tầm, chúng tôi nhận thấy cái tên Y Luăc rất quen thuộc
đối với những người Ê đê ở độ tuổi trung niên. Thậm chí tên của Y Luăc đã
trở thành một cách nói bóng gió, một cách ví von trong đời sống thường ngày
khi người ta muốn đánh giá một ai đó hay gặp may hoặc một người hay nói
khoác.
Thứ ba là nhóm truyện phản ánh bi kịch trong gia đình với những kết thúc
không có hậu, chúng tôi dẫn một số truyện tiêu biểu:
- Hbia Đung và Đăm Bhu: Hai vợ chồng Hbia Đung và Đăm Bhu đang sống
hạnh phúc. Người chồng xuống đồng bằng mua muối. Người vợ ở nhà lấy
thủy thần làm chồng. Người chồng về biết chuyện, chàng giết thủy thần. Vợ
chàng cũng chết theo. Chàng lấy vợ khác nhưng các con không sống được với
dì ghẻ. Bọn trẻ bỏ đi.
- Đá đẻ con: Chàng Yang Mya vốn sinh ra từ đá. Chàng lấy vợ và đi xa. Vợ ở
nhà ngoại tình. Yang Mya trở về hỏi chuyện. Những người chàng gặp trên
đường giấu không nói cho chàng biết, Yang Mya hóa đá họ. Chàng giết kẻ
tình địch và hóa đá hắn. Chàng về nhà hóa đá vợ. Cuối cùng chàng chết và
cũng hóa thành đá.
- Chàng Yang Mda: Chàng Yang Mda vốn sinh ra từ đá. Chàng lấy vợ và đi
xa. Chàng trở về thấy vợ đeo nhẫn của anh. Nghi vợ ngoại tình, chàng đuổi
người anh đi. Chàng chết hóa thành bụi cây biết khóc.
- Thứ tư là nhóm truyện suy nguyên sự vật và phong tục trong đời sống của
người Ê đê: Sự tích nhà sàn, Tục để cơm nguội, sự tích tượng nhà mồ, sự tích
cây si, sự tích cây kơ nia, sự tích con voi, sự tích kèn đing năm, Hơ Kung và Y
Du, Cô gái đẹp và hạt gạo, Hồn lúa và lão Mtao, Sự tích hạt gạo…
Tiểu kết:
Trong kết cấu thể loại của truyện cổ dân gian Ê đê, truyện cổ tích sinh hoạt
có thể nói là bộ phận chiếm số lượng nhiều hơn cả. Các vấn đề của đời sống
được phản ánh trong truyện rất chân thực, tập trung vào vấn đề tình yêu đôi
lứa, ngợi ca tình yêu chung thủy, nêu lên bi kịch của những mối tình trái với
đạo lí (loạn luân, ngoại tình) với những cách xử lí rất nghiêm khắc. Các tác
giả dân gian gắn tên gọi của dòng sông thác nước vào những câu chuyện tình
là một cách thể hiện một đời sống tinh thần rất phong phú và nên thơ.
3.2.2. Các mô típ chính
3.2.2.1. Mô típ sụt đất
Mô típ sụt đất phổ biến khắp Tây Nguyên. Đây là những mô típ trong
nhóm truyện kể về địa danh. Trong truyện cổ tích sinh họat của người Ê đê,
chúng tôi tìm được ba bản kể có mô típ này: Sự tích Ia Nueng – Biển Hồ, Sự
tích Drai Un, Sự tích hồ Chư Lăm. Nguyên nhân là do ăn phải con vật thiêng,
thường là con lợn trắng hoặc do tội loạn luân. Có thể khái quát mô tip này
như sau:
Cấm kị → vi phạm → trừng phạt (sụt đất)
Ở ba bản kể chúng tôi tìm được đều có chi tiết ăn con vật thiêng là con lợn
trắng. Ở Sự tích Drai Un: “Khi con heo trắng đã được lũ làng mổ bụng,
thui và đang đặt trong mâm lễ, đúng lúc già làng thực hiện nghi thức cúng
thần linh thì con heo trắng trong mâm lễ vật đột nhiên sống lại. Con heo
hét ầm lên, nó chạy như tên bắn một vòng quanh làng. Con heo chạy đến
đâu, đất dưới chân nó nứt toác ra đến đó, vết nứt mỗi ngày một rộng ra,
đất sụt suống. Rồi nhà cửa, vườn tược, người và vật cả buôn làng nọ chìm
nghỉm xuống lòng đất. Đất sụt xuống đến đâu, nước ào ào dâng lên đến
đó”.
Ở Sự tích Biển Hồ, già Chao đem con lợn trắng về nuôi, làng bắt phải
đem cúng thần, già thề nếu ăn thịt lợn trắng thì đất sẽ động, sẽ sụt lở.
“Nhưng đứa cháu gái của già Chao thấy thịt lại đòi ăn. Đứa bé khóc hoài.
Vì quá thương cháu, bà đành lấy phần thịt được chia đem nướng. Ông Trời
nổi giận. Trong chốc lát, trời đất núi rừng bỗng nhiên rung chuyển, nhà
cửa ngả nghiêng. Ia Nueng sụp xuống thành Biển Hồ.”
Người Ê đê giải thích sự hình thành Hồ Chư Lăm do hai anh em ruột
yêu nhau. Đôi trai gái phạm tội loạn luân này bị làng phạt phải cúng một
con heo trắng, “đúng lúc già làng thực hiện nghi thức cúng thần linh thì
con heo trắng trong mâm lễ vật đột nhiên sống lại. Con heo hét ầm lên, nó
chạy như tên bắn một vòng quanh làng. Con heo chạy đến đâu, đất dưới
chân nó nứt toác ra đến đó, vết nứt mỗi ngày một rộng ra, đất sụt suống.
Rồi nhà cửa, vườn tược, người và vật cả buôn làng nọ chìm nghỉm xuống
lòng đất.”
Mô típ sụt đất thường xuất hiện trong những truyện kể giải thích sự hình
thành sông hồ trên đất Tây Nguyên. Đó là cách lí giải đầy tính huyền bí
trong tư duy cổ tích của người xưa. Trên thực tế, có thể hiện tượng sụt đất
tạo nên sông hồ không có gì khác hơn là những hoạt động địa chấn từng
xảy ra trong quá khứ.
3.2.2.2 Mô tip hóa thân
Mô típ hóa thân nói về mối tương quan giữa người và vật. Trong truyện
cổ Ê đê, hình thức hóa thân phổ biến là người hóa thành vật. Cụ thể là người
hóa thân thành sông suối, người hóa thân thành loài vật, cây cối và người hóa
thành đá, tượng gỗ. Riêng vấn đề người hóa đá chúng tôi sẽ nói cụ thể trong
mô típ đá thiêng. Mô típ hóa thân xuất hiện 4 lần trong mảng truyện cổ tích
sinh hoạt.
Ở mô típ biến hóa từ người sang loài vật. Nó cho thấy mối quan hệ chặt
chẽ giữa người và thế giới động thực vật, giữa con người và giới tự nhiên nói
chung. Thuở xưa, người nguyên thủy sống trong rừng giữa các loài vật và cây
cối. Trong nhận thức của họ, dường như con người là một phần của thế giới
tự nhiên. Và có lẽ họ tin rằng loài người cũng là một trong muôn loài muông
thú. Nhận thức này đã đi vào truyện cổ của họ một cách hồn nhiên. Chẳng hạn
như người ăn thịt cá do con vật lạ biến thành, hóa voi (Sự tích con voi). Người
hóa thành cây cối cũng là mô típ thường gặp trong truyện cổ Ê đê. Nguyên
nhân của sự hóa thân này bắt nguồn từ một tình yêu bị cấm đoán. Chàng trai
cô gái không lấy được nhau thì tự vẫn hóa thành cây si, hoặc chết đi hóa thành
cây kơ nia quấn quýt bên nhau (Sự tích cây si, Sự tích cây kơ nia), cũng có
trường hợp người hóa thành tượng gỗ như ở truyện Sự tích tượng nhà mồ
(Nàng Hlen bị vu oan là ma lai, nàng chết đi cả buôn làng thương tiếc. Dân
làng khóc thương Hlen và tất cả hóa thành tượng gỗ)
3.2.2.3. Mô típ đá thiêng
Đá là chất liệu đầu tiên gắn với thuở sơ khai của loài người khi mới xuất
hiện trên mặt đất này. Loài người nguyên thủy đã có một thời kì dài sống
trong hang động, hốc đá, các công cụ lao động đầu tiên cũng bằng đá. Thời
đại đồ đá là thời đại trải dài trong lịch sử loài người và ấn tượng về đá chắc
hẳn đã in dấu rất sâu trong nhận thức của con người. Mô tip đá thiêng không
chỉ xuất hiện trong truyện cổ của dân tộc Ê đê mà còn thấy phổ biến trong
truyện cổ Chăm và Raglai. Một số dân tộc còn có tục thờ đá như một tín
ngưỡng quan trọng của cộng đồng (người Chăm thờ linga, yoni). Với niềm tin
vạn vật hữu linh, người Ê đê cũng dành cho đá một vị trí thiêng trong tín
ngưỡng. Với họ, đá cũng có linh hồn như cỏ cây, chiêng ché…
Trong truyện cổ tích sinh hoạt của người Ê đê, mô típ đá thiêng xuất hiện
7 lần ở nhiều dạng khác nhau. Trước tiên, đá xuất hiện trong các nhạc cụ bằng
đá như cồng đá. Đây là phần thưởng của Giàng cho người tốt bụng hoặc để
khẳng định lòng hiếu khách và mối giao hảo tốt đẹp giữa các buôn làng:
“Ngày chia tay già làng tặng cho hai cha con bộ nhạc cụ kì là bằng đá quý,
gồm sáu chiếc được đẽo gọt tròn trịa như vành những chiếc gùi” (Sự tích
cồng chiêng)
Đá xuất hiện dưới dạng người bị hóa đá, là kết quả của một bi kịch trong
gia đình. Mô típ người hóa đá ở đây mang ý nghĩa về sự ăn năn hối hận, là kết
quả của một hành động sai lầm. Ở Sự tích núi Cư HMú, người chồng đi xa, vợ
ở nhà sống với bạn của chồng như vợ chồng rồi sinh được đứa con. Chồng trở
về biết chuyện liền bỏ đi. Người bạn xấu hổ cũng bỏ đi. Người vợ ôm con lên
núi ngóng trông rồi hóa đá (giống trường hợp núi Vọng Phu của người Việt).
Chồng trở về ôm xác vợ và hóa đá. Người bạn nghe tin trở về núi cũng hóa đá
ngay bên cạnh.
Mô típ người hóa đá còn là kết quả của việc trút giận và trả thù, nguyên
nhân cũng xuất phát từ một bi kịch trong gia đình. Việc bị chém hóa đá như
một hình phạt đối với người mắc tội.Vì ghen tuông, người chồng giết kẻ
ngoại tình hóa hắn thành đá, sau đó trở về giết và hóa đá tất cả những ai giúp
vợ sinh con. Chàng biến thành lợn lòi bị làng bắn chết rồi cũng thành đá (Núi
Mẹ và con). Hoặc trong truyện Đá đẻ con, chàng Yang Mya đi xa về biết vợ
ngoại tình. Trên đường về hỏi mọi người ai cũng giấu, chàng giết và hóa đá
họ. Về đến nhà thấy vợ đang sinh, hóa đá vợ. Chàng tức giận thách ông Trời
vật lộn. Chàng hóa đá tất cả những ai đến xem. Cuối cùng chàng chết và cũng
hóa thành đá. Ở truyện Tháp Yang Prong, vì tức giận bà đỡ mải nghe tiếng
sáo không đỡ đẻ khiến vợ mình chết, người chồng đã chém chết bà đỡ. Bà đỡ
hóa thành đá. Người vợ chết cũng hóa thành đá.
Không những vậy, đá còn xuất hiện dưới dạng một thực thể linh thiêng,
có thể sinh ra người: Khỉ giao phối với đá sinh ra đứa trẻ (Đá đẻ con) hoặc đá
tự nứt ra sinh ra đứa trẻ (Chàng Yang Mơ Da).
3.1.2.4. Mô típ hồn lúa
Với quan niệm vạn vật hữu linh, người Ê đê tin rằng mọi sự vật quanh con
người đều có Yang (hồn). Hạt lúa cũng vậy, cũng có hồn vía riêng của nó. Có
thể gặp trong truyện cổ Ê đê khá nhiều truyện kể về hồn lúa:
Ở buôn nọ, Mtao chỉ lo ăn năm uống tháng, để cỏ dại lấn hết lúa mà không
chịu chăm sóc cho ruộng lúa. Hồn lúa bị khinh rẻ bèn rủ nhau đến ở với bà
lão nghèo. Đến khi thu hoạch, lúa tự bò về chòi của bà lão. Còn ở nhà Mtao
lúa không trổ bông. Dần dần, cả nhà Mtao thì chết đói. (Hồn lúa và lão Mtao)
Nàng Munga khinh rẻ và chửi bới hồn lúa. Nàng nói với lúa gạo mình đẹp
không phải nhờ lúa gạo. Họ hàng nhà gạo lăn ra rừng sâu ở. Munga đói khát
tiều tụy, bấy giờ mới hối hận. Thần Lúa bảo các con mình trở về với nhà
Munga. (Cô gái đẹp và hạt gạo)
Thuở xưa, buôn làng Ê đê sống sung túc. Khi đó một quả dưa gang to đến
mức mười người ăn vẫn thừa, một hạt gạo đủ cho cả ba người ăn. Một bắp
ngô phải năm người ăn mới hết…Vua của xứ Ê đê một ngày nọ cùng với vợ
vắng nhà. Người vợ giao cho con là công chúa H Rin trông coi nồi cơm nếp.
Nàng H Rin chỉ mải mê ngắm sắc đẹp của mình. Cơm nếp sắp cháy mà không
rút củi. Cơm nếp kêu cứu, H Rin mắng nhiếc cơm nếp rồi bê nồi cơm nếp vứt
ngay vào vũng nước bẩn dưới gầm sàn. Hồn của hạt cơm nếp bay lên trời gặp
thần Sơ Ri để kể tội con người không quý trọng lúa gạo. Thần Sơ Ri gọi hồn
lúa gạo, ngô bắp về trời. Buôn làng của ông Vua từ đó nấu cơm không được
hạt cơm nở to như trước. (Sự tích hạt gạo)
Chuyện kể ở vùng nọ bị hạn hán mất mùa nhưng vẫn có buôn ăn năm uống
tháng linh đình. Ông Trời cùng với cháu giả làm người hành khất đến xin cơm
thừa nhưng Mtao đuổi đi không cho, cơm thừa thì đem đổ. Trời đến nhà
nghèo, nhà nghèo cho ăn cơm. Trời tức giận buôn làng của Mtao không biết
quý trọng lúa gạo, gọi hồn lúa về trời. Buôn làng của Mtao trở nên đói khát,
lúa không trổ bông. Mtao phải đi ăn xin của nhà nghèo (Tục để cơm nguội)
Môtíp này cho thấy tín ngưỡng sùng bái hồn lúa, tinh lúa của người Ê đê.
Nương rẫy là nơi thiêng liêng sản sinh ra hạt lúa. Hạt lúa không chỉ là sản
phẩm của nương rẫy mà còn là sản phẩm các thần ban phát cho con người.
Nếu không quý trọng, hạt lúa sẽ không ở với con người. Người Ê đê tôn thờ
hạt lúa bởi quan niệm hết sức thiết thực: hạt lúa nuôi sống con người. Thần
Lúa là vị thần được kính trọng trong tín ngưỡng của họ. Trong lễ nghi liên
quan đến nông nghiệp, họ cũng dành cho hạt lúa những lễ cúng kính cẩn.
Chẳng hạn như lễ trỉa lúa, lễ rước hồn lúa từ ngoài ruộng về nhà, lễ đóng kho
lúa. Và khi thực hiện xong lễ đóng kho lúa, người Ê đê mới yên tâm hạt lúa sẽ
ở mãi với họ và cho gia đình được no đủ.
Tiểu kết:
Các mô típ chính trong mảng truyện cổ tích sinh hoạt cho thấy tín ngưỡng
dân gian Ê đê có sự ảnh hưởng khá sâu đậm trong truyện cổ. Thế giới vạn vật
hữu linh không chỉ biểu hiện trong thần thoại của dân tộc này mà còn thể hiện
rất rõ trong những câu chuyện gắn liền với đời sống thường nhật của họ.
3.3. Truyện cổ tích loài vật
3.3.1. Về đề tài
Trước hết, truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Ê đê phản ánh những
đặc điểm và thuộc tính của thế giới loài vật. Qua đó con người muốn
truyền cho nhau những tri thức về giới tự nhiên, về loài vật nhằm hiểu biết
và chinh phục nó trong cuộc sống lao động của mình.
Người Ê đê có những cách giải thích rất hồn nhiên và chất phác về
nguồn gốc và đặc điểm của các loài vật. Chẳng hạn truyện cổ về loài vật
của họ giải thích lí do heo ăn cám, chó ăn cơm là bởi Mtao tin lời xu nịnh
của cho mà ra phán quyết về số phận của chúng, và điều đó không thay đổi
cho đến bây giờ. Hoặc họ giải thích gà và chó ghét nhau là bởi ngày xưa
khi chúng đổi bộ lông của mình cho nhau, gà đã chọc tức chó. Con khỉ vì
sao có đít đỏ là do ăn trộm ngô của bác thợ rèn, khỉ bị bác thợ rèn bắt ngồi
vào cục sắt nung đỏ..v.v. Trong số 22 truyện cổ tích về loài vật, có 8
truyện thuộc loại suy nguyên về đặc điểm của loài vật: Chim xử kiện, Anh
em chim cút, Tổ chim tồ rộc, Gà và chó, Con mèo khôn ngoan, Sự tích loài
ong, Vì sao heo ăn cám chó ăn cơm, Chỉ có ông thợ rèn phạt được tội khỉ.
Ngoài nhóm truyện suy nguyên về loài vật, có rất nhiều truyện ca
ngợi trí thông minh của các con vật. Trong đó nổi bật lên nhóm truyện về
con Rùa khôn ngoan và con thỏ tinh ranh. Loại truyện này gồm những
mẩu ngắn được chắp nối lại với nhau theo kiểu liên hoàn, và sử dụng công
thức lặp lại về tình huống.
Thứ nhất là truyện về con Rùa. Rùa vốn là loài vật hiền lành, gần
gũi và có được thiện cảm của con người. Trong truyện cồ Ê đê, Rùa cũng
được xây dựng với tính cách thật thà, hiền lành nhưng khi bị áp bức, nó
cũng trở nên cứng cỏi và không chịu thua kẻ thù. Ở đây, Rùa thường được
đặt trong mối quan hệ với Khỉ - loài vật ranh mãnh, ích kỉ và tham lam.
Khỉ thường bắt nạt và lợi dụng Rùa. Rùa nhẫn nhịn chịu đựng nhưng
không để bị vùi dập mãi. Cuối cùng Rùa đều giành lại được những gì của
mình. Còn Khỉ phải chịu sự trừng phạt và cuối cùng chết nhăn răng. Qua
những câu chuyện về Rùa và Khỉ, người đọc có thể hình dung về một sự
phản kháng của người lao động đối với những bất công xã hội đã được
lồng vào đó một cách khéo léo. Hình ảnh con Rùa chính là hình ảnh của
người lao động trong xã hội đã phân chia giai cấp, chịu nhiều ấm ức. Họ
luôn khao khát về công bằng xã hội.
Thứ hai là truyện về con thỏ (13 truyện). Con thỏ cũng là loài vật
hiền lành, nhanh nhẹn. Đi vào truyện cổ, thỏ được xây dựng tính cách
nhạy bén, thông minh, lanh lợi. Thỏ đã lập được mưu lừa cả hổ, cá sấu…
là những con vật to khỏe hơn nó nhiều. Kiểu truyện về con thỏ tinh ranh là
kiểu truyện phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực Đông Nam
Á, là kiểu truyện đặc trưng của các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên.
Trong một số trường hợp, hình ảnh con thỏ tượng trưng cho tinh
thần phản kháng của người nghèo chống lại sự o ép, đè nén của kẻ mạnh.
Nó dùng trí thông minh để dạy cho các loài thú hung dữ một bài học (Thỏ
và Hổ, Thỏ, Cọp và cái cối, Thỏ lừa Cá Sấu…). Thỏ cũng đứng ra bênh
vực những kẻ yếu thế. Ở góc độ này, thỏ đóng vai trò là nhân vật trợ thủ.
Trong truyện cổ Ê đê, hình tượng con thỏ rất độc đáo, được kể với nhiều
yếu tố bất ngờ. ThỎ chạy thi với ốc rồi cuối cùng phải chịu thua ốc (Thỏ
và Ốc). Ở nhiều truyện, thỏ là con vật tham lam và gian xảo, lừa bà cháu Y
Rit và những người lái trâu (Thỏ và Y Rit, Thỏ và hai người lái trâu…)
cuối cùng phải nhận lấy cái chết. Ở góc độ này, có thể xem thỏ là nhân vật
chơi khăm gây ra tai họa và đáng bị phê phán. Ở những trường hợp thỏ
quấy phá phải nhận cái chết, tác giả dân gian cũng gửi gắm quan niệm ác
giả ác báo thường thấy trong truyện cổ tích.
Tiểu kết:
Truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Ê đê nhìn chung về mặt nội
dung khá sinh động và phong phú. Bên cạnh nhóm truyện giải thích đặc
điểm của loài vật, nhóm truyện con thỏ tinh ranh là một bộ phận khá độc
đáo của truyện cổ dân gian Ê đê. Không phải truyện cổ tích của dân tộc
nào cũng có một số lượng truyện về con thỏ nhiều như ở truyện của người
Ê đê.
3.3.2. Những mô típ chính
3.3.2.1. Mô típ xử kiện
Ở nhóm truyện về con thỏ, chúng tôi nhận thấy xuất hiện mô tip xử
kiện quen thuộc thường gặp ở truyện con thỏ tinh ranh của người Chăm,
người Mnông. Ở trường hợp này, thỏ đứng ra giàn xếp, giải quyết mâu
thuẫn cho hai bên : Một bên là con cọp dữ muốn ăn thịt người vì vô tình vi
phạm lời thề với hổ. Một bên là bác thợ săn yếu thế. (Thỏ xử kiện). Thỏ
dùng lời lẽ và đóng vai là kẻ thay mặt thần linh để xử kiện. Thỏ đặt ra tình
huống thử thách cho cả hai bên nhưng thực chất là tạo cơ hội cho bác thợ
săn có thể giết được con hổ.
3.3.2.2 Mô tip mẹo lừa Mô tip mẹo lừa là mô tip xuất hiện ở cả hai nhóm truyện về con Rùa và
con Thỏ. Nhờ vào mẹo lừa mà các con vật mới trả đũa được hành vi bất công
và đạt được mục đích của mình. Mô tip mẹo lừa này cũng cho thấy trí tuệ dân
gian độc đáo.
Ở truyện Khỉ và Rùa:
- Rùa giả giọng ma quỷ dọa Khỉ. Khỉ sợ quá bỏ chạy vứt lại giỏ cá.
Rùa nhặt mang về
- Rùa cố tình chỉ sai hướng để Khỉ đánh phá chính ngôi nhà của
mình.
- Rùa giả làm gốc cây làm Khỉ vấp ngã tối tăm mặt mũi. Rùa lấy giỏ
quả chín của Khỉ mang về.
- Rùa nói dối mía không ngọt. Rùa lấy mía còn Khỉ ngu ngốc lấy
-
phải cây lau Rùa nói dối đá cuội là trứng. Khỉ không lấy trứng mà lấy đá cuội. Rùa lấy trứng mang về. Ở truyện Con thỏ tinh ranh:
- Thỏ lừa hai cha con, giả giọng hăm dọa không cho hai cha con bắt
cá
- Thỏ lừa dân làng đang đuổi bắt nó, bảo nó không phải là con thỏ
mọi người cần tìm
- Thỏ lừa hai bà cháu Y Rit về nhà trước, Thỏ ở lại phá rẫy lúa của
hai bà cháu
- Thỏ nói dối Y Rit rằng bà bảo nướng con gà. Y Rit phải nướng gà
cho Thỏ ăn
- Thỏ lừa Y Rit vào hốc cây rồi bịt gốc cây lại - Thỏ lừa bà đốt hốc cây làm Y Rit chết - Thỏ lừa Mtao lấy cồng chiêng - Thỏ lừa Mtao lấy xác chết của con gái Mtao - Thỏ lừa hai bác lái trâu lấy con trâu, đổi cô gái (xác chết) lấy trâu - Nói khích để hai con trâu húc nhau, thỏ khỏi phải chăn dắt - Lừa hổ chia phần xương và thịt, lấy hết phần thịt trâu… Mô tip mẹo lừa vừa thể hiện tài trí của con vật, vừa tạo cho câu chuyện
có sức hấp dẫn, nhiều tình huống bất ngờ và chứa đựng cả yếu tố hài.
Tiểu kết: Qua việc khảo sát hai mô típ chính ở nhóm truyện về con vật khôn ngoan, chúng tôi thấy rằng tác giả dân gian đã xây dựng nhân vật các con vật với một trí óc thông minh, chủ yếu là dùng mẹo lừa trong mọi tình huống để đạt được mục đích. Điều này khiến cho truyện có nhiều yếu tố bất ngờ, dí dỏm và cũng cho thấy tầm trí tuệ của các tác giả dân gian.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua quá trình khảo sát truyện cổ Ê đê dưới góc độ loại hình,
chúng tôi nhận thấy những điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, truyện cổ Ê đê tồn tại ở ba thể loại: thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích. Trong đó, thể loại truyện cổ tích là bộ phận chiếm số lượng lớn
nhất và nội dung cũng phong phú hơn cả. Trong truyện cổ tích có ba tiểu loại:
truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích loài vật. Thể loại
thần thoại tuy chỉ ở con số khiêm tốn nhưng những câu chuyện còn lưu giữ
được về thế giới của các vị thần cũng tạo nên một thế giới thần thoại khá hoàn
chỉnh. Thể loại truyền thuyết có số lượng ít nhất bởi lẽ hình ảnh người anh
hùng chiến trận lập công cho buôn làng chủ yếu được thể hiện trong thể loại
sử thi (khan)
Thứ hai, từ thần thoại, truyền thuyết đến cổ tích đều thấm đẫm bản sắc
văn hóa riêng của dân tộc, phản chiếu đời sống tâm linh và những dấu vết của
tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Ê đê. Niềm tin vào các lực lượng
siêu nhiên và sự sùng bái thần thánh là đặc điểm vốn có ở thần thoại mọi dân
tộc. Tuy nhiên, trong thần thoại của người Ê đê, niềm tin vào thế giới vạn vật
hữu linh được thể hiện một cách ấn tượng qua hệ thống thần linh dày đặc ở 7
tầng vũ trụ. Ở thể loại truyện cổ tích, nhất là trong truyện cổ tích sinh hoạt, tín
ngưỡng này vẫn luôn xuyên thấm trong từng câu chuyện.
Thứ ba, Truyện cổ Ê đê nhìn chung đã nói lên tính chất mẫu hệ trong
nội dung phản ánh. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở thể loại thần thoại và
truyền thuyết. Tính chất mẫu hệ đã chi phối sự hình thành hệ thống thần linh
trong thần thoại và biểu hiện một cách đầy tôn vinh qua hình tượng nữ thủ
lĩnh của cộng đồng trong thể loại truyền thuyết. Ở thể loại truyện cổ tích, tính
chất mẫu hệ cũng được biểu hiện qua lớp nhân vật nữ trong truyện cổ tích
sinh hoạt cũng như qua hình tượng bà Đuôn Sun trong truyện cổ tích thần kì.
Công trình nghiên cứu của chúng tôi mới chỉ dừng lại ở sự tìm hiểu
bước đầu, trong vốn văn bản và tư liệu khiêm tốn về truyện cổ của dân tộc Ê
đê sinh sống ở Đăk Lăk, chưa có điều kiện mở rộng phạm vi khảo sát, so sánh
với truyện cổ Ê đê ở các địa phương lân cận Đăk Lăk, ở những nơi cũng có sự
phân bố của các nhánh người Ê đê. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn sẽ có ích
cho quá trình nghiên cứu lâu dài về sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2001), Văn
học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo Dục, TP. HCM
2. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục.
3. Trương Bi (2007), Văn học dân gian Ê đê, Mơ nông, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
4. Ngô Đức Thịnh (1992), Văn hóa dân gian Ê đê, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội
5. Y Điêng, Hoàng Thao (1988), Truyện cổ Ê đê, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội
6. Trương Bi, Y Wơn (2006), Sự tích cây kơ nia, Sở văn hóa thông tin
Đăk Lăk
7 Trương Bi, Y Wơn (2002), Quả bầu vàng, Sở văn hóa thông tin Đăk
Lăk
8. Trương Bi (2005), Bác thợ săn lạc trong rừng, Sở văn hóa thông tin
Đăk Lăk
9. Tuyết Nhung Buôn Krông (2010), Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê đê,
Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, Hà Nội.
10 Phan Trọng Thưởng – Trịnh Bá Đĩnh – Nguyễn Hữu Sơn, Tuyển tập
40 năm Tạp chí văn học (1960 – 1999), Tập 1, Văn học dân gian, Nhà xuất
bản TP. HCM 1999
11 Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập 1, Nxb
Giáo dục 2000
12. Nguyễn Xuân Đức, Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb
Khoa học xã hội 2003
13. Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, Nxb
Khoa học xã hội 2001.
14. Công Thành, Truyện cổ Ê đê, Tạp chí Văn hóa Đăk Lăk, số 1, 2005
15. Lê Lan, Truyện cổ Ê đê, Tạp chí Văn hóa Đăk Lăk, số 3, 1998
16. Bế Viết Thắng – Chu Thái Sơn – Vũ Thị Hồng – Vũ Đình Lợi, Đại
cương về các dân tộc Ê đê, Mơ nông ở Đăk Lăk, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội 1982.
17 PTS. Lưu Hùng, Buôn làng cổ truyền xứ thượng, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội 1994
18. Anne De Hautecloque – Howe, Người Ê đê – Một xã hội mẫu
quyền, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004.
19. Nguyễn Bích Hà (1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong
truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục
20. Nguyễn Bích Hà (1991), “Hình tượng rắn từ thần thoại đến truyện
cổ tích”, Tạp chí văn hóa dân tộc.
21. Nhiều tác giả, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng,
1997
22. Đặng Nghiêm Vạn, Y Điêng (1985) Truyện cổ các dân tộc Trường
Sơn Tây Nguyên, tập 1, Nxb Văn học.
23. Nguyễn Ngọc Thường (1987), Quan hệ giữa môtip và các cốt
truyện, Tạp chí văn học, số 2.
24. Đỗ Hồng Kì (2001), Klei Đưm của người Ê đê, Dân tộc học, số 2.
25. Phan Đăng Nhật (1977), Cố gắng phân loại văn học dân gian các
dân tộc ít người, Tạp chí văn học, số 6
26. Chu Xuân Diên, Văn hóa dân gian và phương pháp nghiên cứu liên
ngành, Nxb KHXH, 2000
27. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân
gian, Tạp chí văn học, số 5.
28. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kì Việt đọc theo hình thái
học của truyện cổ tích của V. Ja. Propp, Nxb Đại học quốc gia TP. HCM.
29. Chu Xuân Diên (2008), Nghiên cứu văn hóa dân gian, phương
pháp, lịch sử, thể loại, Nxb Giáo dục.
30. Trương Bi – Y Wơn (2008), Sự tích con voi trắng, Sở văn hóa
thông tin ĐăkLăk.
31. Trương Bi – Y Wơn (2006) Sự tích đoàn kết các dân tộc, Sở văn
hóa thông tin Đăk
Lăk.
32. Trương Bi – Y Thih (1997), Truyện cổ Ê đê, tập 2, Sở văn hóa
thông tin Đăk
Lăk.
33. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2004), Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
34. Bộ giáo dục và đào tạo (2000) Thi pháp văn học dân gian, Nxb
Giáo dục
35. Nguyễn Việt Hùng, Nghi lễ trưởng thành và kiểu truyện dũng sĩ,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 11, 2003
36. Đặng Nghiêm Vạn, Về truyện quả bầu mẹ ở Việt Nam, Tuyển tập
40 năm Tạp chí văn học
37. Nhiều tác giả, Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn, Tây Nguyên, Tập
1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1985
38. K.V.Tsi – xlốp, Văn học dân gian và dân tộc học. Dân tộc học 1999
39. Hình tượng con rồng trong truyện kể dân gian Ê đê, Mnông, Tập
san Cư Jút, số 1 năm 2012
40. Lương Thanh Sơn, Truyền thuyết về nữ tù trưởng A Duôn H Du,
Bảo tàng Đăk Lăk, 2007
41. Lê Trung Vũ, Luật tục Ê đê, Nxb Văn hóa, 1995
42. Chu Xuân Biên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
43. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt tập
5: Truyền thuyết dân gian người Việt, Nxb khoa học xã hội.
44. Hà Liên, Anh Thư bs (2002), Truyện cổ chọn lọc các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông
Tây.
45. Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn (1975), Truyện cổ các dân tộc thiểu số
miền Nam tập 2, Nxb Văn hóa.
46. Tổ văn học dân gian các dân tộc – Viện văn học (1986), Truyện cổ
dân gian của các dân tộc Việt Nam tập 3, Nxb Văn học.
47. Trung tâm từ điển học (2008), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
48. Viện nghiên cứu văn học (2009), Truyền thuyết dân gian người Việt
quyển 2, Nxb KHXH.
49. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb
ĐHQG Hà Nội.
50. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, 2 tập,
Nxb Giáo dục, HN.
51. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học,
Nxb ĐHTH. TPHCM.
52. Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (b/s) (2001), Tuyển tập truyện cổ tích
Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội.
53. Jacques Dournes (2002), Rừng, Đàn bà, Điên loạn (Nguyên Ngọc
dịch, giới thiệu), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
54. J.G Frazer (2000), Các huyền thoại về nguồn gốc của lửa, (Ngô Bằng
Lâm dịch), Nxb Văn hóa Tộc người, Hà Nội.
55. Lưu Hùng (1996), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Nxb VHDT, Hà
Nội.
56. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh
văn hóa Đông Nam Á, Nxb KHXH, Hà Nội.
57. Đinh Gia Khánh (1999), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Khánh (1995), Từ vựng thuật ngữ folklore Việt Nam, Nxb
VHTT, Hà Nội.
59. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt đặc điểm cấu tạo
cốt truyện, Nxb KHXH, HN.
60. Bùi Văn Nguyên (1993), Việt Nam: thần thoại và truyền thuyết, Nxb
KHXH, Cà Mau.
61. Bùi Văn Nguyên (1991), Việt Nam – truyện cổ triết lý và tình thương,
Nxb KHXH, HN.
62. Lữ Huy Nguyên (1996), Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam, Nxb
Giáo dục, HN – Đặng Văn Lung (biên soạn…).
63. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội.
64. Lê Chí Quế (2001), Văn hóa dân gian – khảo sát và nghiên cứu, Nxb
ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
65. Lê Chí Quế (chủ biên) (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
ĐHQG Hà Nội, HN.
66. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1990), Quan niệm về folklore, Nxb
KHXH, Hà Nội.
67. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, tập hai, Nxb
Giáo dục, HN.
68. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy nghiên
cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. E.B. Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy (Huyền Giang dịch), Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
70. Đặng Nghiêm Vạn (biên soạn) (1986), Truyện cổ các dân tộc Trường
Sơn – Tây Nguyên, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
71. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
72. Trần Thị An (1994), Nghiên cứu truyền thuyết – những vấn đề đặt ra,
Văn học, số 7, 1994.
73. Nguyễn Đức Dân (1987), Mỗi truyện có nhiều truyện, Văn học, số 2,
1987.
74. Chu Xuân Diên (1994), Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu
văn hóa dân gian, Tập san Khoa học ĐHTH.TPHCM, số 1, 1994.
75. Nguyễn Thị Huế (1983), Tìm hiểu về môtíp cây trong truyện Họ Hồng
Bàng và Đẻ đất đẻ nước, Văn học, số 6, 1983.
76. Ngọc Anh, Đỗ Thiện (1991), Truyện cổ Tây Nguyên, Nxb Văn hóa
dân tộc.
77. Nguyễn Xuân Kính (2003), Nhận diện thể loại truyện ngụ ngôn, Văn
hóa dân gian, số 2 (86).
78. Vũ Tuyết Loan (1993), Lý thuyết hình thái học của V. IA. Prốp và
truyện cổ tích thần kỳ của tộc người Cămpuchia, Văn hóa dân gian,
số 4.
79. Tăng Kim Ngân (1991), Truyện cổ tích xét về mặt thể loại – vấn đề
định nghĩa truyện cổ tích, Văn hóa dân gian, số 4, 1991.
80. Prop (2000), Cấu trúc truyện cổ tích, Văn học nước ngoài, số 1, 2000.
81. Phạm Đặng Xuân Hương, Ý nghĩa không gian thời gian của con số
7 trong đời sống dân tộc Ê đê, Tạp chí Văn hóa dân gian, Số 5 năm
2005.
PHẦN PHỤ LỤC
TÓM TẮT TRUYỆN CỔ Ê ĐÊ
A. Nhóm thần thoại
1. Lấy trộm lửa của trời
Trước khi trời đất hình thành, loài người sống với nhau trong một buôn
làng. Họ chưa có lửa, sống trong cảnh tối tăm. Họ cử Đăm San – cháu của
Trời lên trời xin lửa, chàng cầm ngọn nến mang về. Trên đường mang về
chàng vấp cục đá làm tắt ngọn lửa, chàng lấy cây tre quật đá, những hòn đá
đập vào nhau làm tre cháy bùng lên. Buôn làng mở hội ăn mừng, ai cũng vui
sướng hân hoan bên ngọn lửa hồng.
2. Quả bầu vàng
Buôn làng Ê đê đang sống yên vui bỗng bị mưa lũ nhấn chìm trong
dòng nước, chỉ còn lại hai anh em Khốt và Kho sống sót, hai người ngồi trong
một trái bầu để lánh nạn. Trái bầu đưa họ đến một vùng đất lạ, họ tìm một cái
hang gần đó để trú ngụ. Hai anh em tìm được hạt bầu trong quả bầu, họ đem
gieo chúng trước cửa hang và thu hoạch được một quả bầu khổng lồ, họ chọc
thủng quả bầu và từ lỗ thủng đó có sáu mươi đôi nam nữ chui ra. Sáu mươi
đôi nam nữ chia nhau đi khắp mọi nơi sinh cơ lập nghiệp đó cũng chính là
nguồn gốc của các dân tộc ngày nay.
3. Con ếch Aê Đuk
Hạn hán xảy ra, con ếch Aê Đuk rủ hổ và cáo cùng đi lên trời xin mưa.
Trời đồng ý đổ nước xuống trần gian để có mưa. Ếch sợ ít nên múc thêm ba
gáo nước nữa dội xuống, gây ra lụt lớn, nhấn chìm tất cả chỉ còn hai vợ chồng
sống sót do ngồi trú trong cái trống, từ đó sinh con đẻ cái cho loài người đông
đúc.
4. Cây Kơ pang và ngôn ngữ loài người
Một ngày nọ cây kơ pang đột nhiên cao vút tận trời, đến tận nhà ông bà
trời. Dân làng nối đuôi nhau trèo lên cây để đến xem nhà ông bà trời thế nào.
Bà trời rắc lá cây xuống làm con người không hiểu tiếng của nhau nữa, mỗi
người nói một tiếng khác nhau.
5. Hang Ađrênh
Thuở con người còn sống dưới lòng đất, thần Pô Êpik bảo con trai
xuống dạy cho loài người biết nấu cơm, biết làm rựợu. Làm ra rượu loài
người có tối ngày say sưa không làm việc gì cả. Đói khát họ lại đâm ra oán
thần và đuổi thần. Đuổi theo mãi họ đến một cái hang sâu và bước ra là mặt
đất phì nhiêu. Từ đó loài người mới sinh sống trên mặt đất. Cái hang đó được
đặt tên là hang Ađrênh.
6. Nấm Hồng Nấm Đỏ
Con trai của mặt trời và con gái của trái đất đem lòng yêu nhau. Họ cùng
trốn xuống hạ giới sinh con gái. Trời phát hiện nổi giận cho bầy chim dữ
xuống thiêu đốt trái đất cho tuyệt diệt muôn loài không còn ai sống sót.
Nhưng cô con gái đã giấu một cây tông lông, đem trồng. Cây cứ vươn cao
mãi lên đến tận trời. Bầy chim dữ không hại được cây mà còn bị cây đánh bại.
7. Thế giới thần linh
Truyện miêu tả vũ trụ có 7 tầng và kể tên cũng như xác định chức năng
và mối quan hệ giữa các thần. Đứng đầu là thần Aê Diê.
8. Hạt dẻ thần kì
Thuở xưa vũ trụ là một hạt dẻ to bằng cái ché. Có một vị thần từ trong
hạt dẻ bước ra đội nửa hạt dẻ lên cao thành bầu trời, nửa hạt dẻ còn lại thần
đạp xuống đất thành mặt đất, thần tạo ra sông núi, loài người, mặt trăng mặt
trời rồi thần biến mất.
9. Tìm đất sống
Trời đại hạn, cóc lên trời xin 7 nồi đồng nước mưa làm mặt đất lại đâm
ra lụt lớn, nhấn chìm loài người, chỉ còn hai vợ chồng sống sót ngồi trong cái
trống. Hai vợ chồng sinh con đẻ cái loài người lại đông đúc
10. Nạn hồng thủy
Buôn làng Ê đê đang sống yên vui bỗng xảy ra một trận lụt lớn. Thần
báo mộng cho hai vợ chồng nhà kia giữ chặt ghế kpan mà thoát nạn. Hai vợ
chồng sinh con cái laòi người lại đông đúc.
11. Ánh sáng và bóng tối
Người chưa biết có thần ở trên trời. Người làm lễ cúng chỉ gọi tên thần
trên mặt đất. Aê Mghân tức giận xin trời ngừng quay 7 ngày 7 đêm, báo mộng
cho một cụ già phải cúng 3 chung rựơu, trâu trắng và khấn tên thần. Từ đó
con người mới có ánh sáng trở lại.
12. Truyện thần Aê Diê
Thuở xưa, thần Aê Diê lấy nữ thần Đất làm vợ, thần sống dưới trần
gian và có hai người con, một trai, một gái. Con gái của thần chính là nữ thần
Mặt trời. Một ngày, con trai của thần Aê Diê bị một con rết nghìn chân hình
chiếc nồi cắn chết. Từ đó thần Aê Diê không ở dưới mặt đất nữa, thần lên
sống ở thế giới trên cao, vừa có thể tránh những hiểm nguy dưới mặt đất vừa
dễ dàng cai quản các thần dưới quyền mình.
13. Núi Cư Mta
Trời đất xảy ra đại hạn rồi lại xảy ra hồng thủy. Loài người chết hết chỉ còn
hai vợ chồng trốn trong cái trống nên thoát nạn. Cái trống trôi đến núi Cư
Mta. Hai vợ chồng lên núi sinh sống, sinh con, lập buôn làng đông đúc.
14. Sự tích về đất trời
Thuở xa xưa, khi vừa có bầu trời, các vị thần lần lượt xuất hiện ban mưa,
ban gió. Thần Mưa là vị thần đãng trí, có lần lỡ tay xối nước quá nhiều
xuống trần gian lại gây ra ngập lụt, có lần lại quên xối nước làm mặt đất
hạn hán nứt nẻ. Ở trên cao có mặt trăng và mặt trời. Cứ mỗi lần mặt trăng,
mặt trời mọc thì đi vòng lên cao xong lại rớt xuống đất thấp, xong lại leo
lên trời cao, cứ như thế mà có đêm rồi có ngày.
B. Nhóm truyền thuyết
1. Truyền thuyết Buôn Ur
Ngày xưa, khi người Êđê mới đến lập buôn dọc theo dòng sông Krông
Năng thì nơi đây chưa có tên gọi buôn Ur. Cuộc sống mới thật vất vả. Giữa
chốn rừng thiêng, con người ốm đau bệnh tật liên miên, nguồn nước uống thì
chưa tìm được. Già làng bèn kêu gọi mọi người tập trung lại để cùng nhau tạo
sức mạnh đoàn kết chống lại các loài thú dữ và thiên tai dịch bệnh, trong đó
việc đi tìm nguồn nước uống được ưu tiên hàng đầu . Một hôm dân làng cùng
nhau đi tìm nguồn nước. Họ đi dọc theo một dòng suối cạn, đi mãi, đi mãi, đi
đến bảy ngày bảy đêm mà không sao tìm được nước. Họ đào một cái hang
thật sâu ở đầu nguồn nhưng vẫn không có một giọt nước. Đoàn người đành ra
về trong sự thất vọng. Đêm hôm đó, khi buôn làng còn chìm trong giấc ngủ,
bỗng từ đâu có tiếng hú vang động núi rừng. Tiếng hú như gió rít muốn quật
ngã cành cây kơ nia cổ thụ, tiếng hú nghe như tiếng kêu của loài thú dữ.
Người già, trẻ con hốt hoảng, chim chóc bay tản lạc trong đêm. Già làng bèn
cho gọi cấp tốc một nhóm thanh niên và một số người có kinh nghiệm đi tìm
để biết rõ thực hư. Lần theo tiếng hú, họ phát hiện âm thanh phát ra là từ cái
hang sâu do đoàn người đã đào ngày hôm trước. Sự việc được báo đến già
làng ngay trong đêm.
3. Nữ tù trưởng A Duôn HDu
Duới chân núi đi xuống miền xuôi, theo dòng sông A Junpa có một tộc họ
Mlô, có cụ A Duôn Du, tên H Krưm sống lâu trăm tuổi. Không có ai chăm
nom bà cụ ngoài đứa chắt gái là H Du. Một hôm, bà kêu nóng đầy người. H
Du lấy nước tắm cho bà, tắm bao nhiêu nước bà vẫn thấy nóng, thấy ngứa, rồi
trên đỉnh đầu mọc mào. Bà biến thành Yang Mta (thủy thần). Dân làng tôn H
Du làm chủ buôn. Dân làng đi bắt cá vô tình bắn mũi tên độc vào Yang Mta
làm dòng sông A Junpa khô cạn tận đáy. Bà báo mộng cho H Du mang
xương, vây của bà đi tìm đất lập buôn. H Du lập buôn nơi mưa thuận gió hòa,
buôn làng sống ấm no. Từ đó dòng họ Mlô Duôn Du mỗi ngày thêm đông
đúc.
4. Đăm Thí
Cô gái uống nước ở hốc cây sinh ra Đăm Thí và thỏi sắt. Đăm Thí lớn lên
đem nung sắt thì hóa cuốc, hóa rìu, hóa dao rồi liềm, cuối cùng rèn thành
thanh gươm. Thanh gươm không nguội nhúng xuống sông thì hút cạn nước
sông, thanh gươm phải đâm vào người đàn bà chửa mới nguội. Đăm Thí đấu
gươm với vua Lào, vua Chăm đều thắng. Chàng quăng gươm ở Biển Hồ.
Người Lào, người Việt, người Ê đê mò được các bộ phận của gươm. Đến nay
vẫn còn tục thờ gươm
5. Sự tích sông Krông HNăng
Buôn làng người Ê đê đang sống yên vui bỗng một hôm từ trên đỉnh núi
phun ra lửa, hủy hoại tất cả nguồn nước, nương rẫy. Dòng họ Mlô làm chủ
đất. H Năng là con gái đầu lòng của chủ đất Y Kheo. Cha mất truyền trọng
trách chủ đất lại cho hai vợ chồng Y Jút, HNăng. Y Jút đi tìm đất lập buôn
nhưng không thấy trở về. HNăng quyết ra đi một mình tìm vùng đất mới nơi
có nguồn nước dồi dào. Đi mãi, đến khi kiệt sức, nàng khấn Giàng xin cho
mưa xuống rồi chết. Lập tức trời mưa làm sống dậy muôn loài cây cối, thú
vật. Dân làng đi tìm H Năng đến nơi thấy nàng đã chết, nhớ công ơn của nàng
mà đặt tên dòng sông nơi nàng HNăng gục xuống là KRông HNăng.
6. Sự tích đảo Sing Gar Puôr
Ở buôn nọ có một nhà sinh được hai anh em Sing Gar Puôr, Sing Chơ Nga.
Lớn lên hai chàng làm hai chiếc thuyền to như hai ngọn núi để vượt biển trao
đổi buôn bán hàng hóa, tiếng tăm họ lan khắp mọi vùng. Trời bỗng nhiên nổi
mưa to gió lớn nước ngập khắp nơi, họ đưa dân làng lên núi tránh nạn, xây
dựng buôn làng no ấm. Một ngày nọ chàng Sing Gar Puôr lại lên thuyền ra
khơi buôn bán, gặp bão, thuyền chàng dạt vào một hoang đảo, về sau chàng
lập buôn ở đảo và đặt tên đảo là Sing Gar Puôr.
7. Thanh gươm thần
Vua trời mách cho Pôthê cách có được nhiều vật thần quý giá. Pôthê đồng
hành với người bạn có viên đá có thể hóa phép ra ngàn quân và roi mây thần.
Pôthê gặp vua của các xứ đang mò gươm thần. Vua Chăm mò được lưỡi
gươm bị Pôthê cướp mất, chàng giúp vua Giarai đánh thắng vua Chăm. Vua
Khmer mò được vỏ gươm. Cuối cùng Pô thê trao gươm thần cho Vua Lửa và
dặn dò người Giarai kết hiếu với người Khmer. Cuối cùng Pôthê ra đi.
C. Nhóm Truyện cổ tích
1. Chàng Y Rít và khỉ bảy đầu
Mtao Mxây nghe tin nếu ai có được con khỉ 7 đầu sẽ trở thành chủ nhân
của vàng bạc châu báu trong rừng. Mtao Mxây cử hàng trăm trai tráng vào
rừng tìm cho được con khỉ. Nhưng không ai tìm được. Mtao Mxây đuổi tất cả
họ cùng vợ con vào rừng. Trong buôn có chàng Y Rit mồ côi sống với bà
ngoại, có sức mạnh phi thường. Y Rit xin đi tìm khỉ 7 đầu để cứu các chàng
trai của buôn. Y Rít cứu được ba mẹ con thỏ nâu, được tặng viên ngọc ước
thu phục thú dữ. Y Rit gặp được khỉ bảy đầu. Khỉ cùng Y Rit về, tuôn vàng
bạc chôn vùi cả nhà Mtao.
2. Cây tông lông
Hai vợ chồng nghèo hiếm con. Người vợ vào rừng khát nước, uống nước
trong một gốc cây tông lông, về nhà thụ thai sinh ra hạt tông lông, đem trồng
sau nhà, mọc thành hai cây tông lông mập mạp, lớn nhanh lạ thường. Chim
phượng hoàng đến làm tổ, đẻ trứng. Gió to, trứng nở ra con chim con. Con
chim biết nói, xin làm con nuôi của hai vợ chồng người nông dân. Nó rất háu
ăn. Đến khi mọc lông, chim cao to đụng nóc nhà. Cha mẹ không nuôi nổi bảo
chim tự đi kiếm ăn. Chim bay vào rừng cởi lốt thành một chàng trai khỏe
mạnh. Chàng chặt cây tông lông làm ná, cành cây tông lông làm tên, giết chết
một con chim dữ chuyên ăn thịt dân làng và cứu một cô gái đẹp, lấy nàng làm
vợ. Nhưng vợ giã gạo không kịp cho chàng ăn. Chàng lên trời hỏi cưới nữ
thần mặt trời làm vợ bị thần sét đánh trọng thương. được cây tông lông cứu
sống. Lần sau chàng giết được thần sét, lấy nữ thần mặt trời làm vợ.
3. Chàng Y Siêm
Hai vợ chồng nghèo sinh được người con khôi ngô đặt tên là Y Siêm. Y
Siêm có tài bắn nỏ. Trong buôn làng có con gái chủ bến nước xinh đẹp tên
Hlen bị đại bàng bắt đi. Y Siêm bắn đại bàng cứu được Hlen. Trong buôn lại
có bầy diều hâu ăn thịt chim thú của dân làng. Y Siêm lại dùng tài bắn nỏ
đánh đuổi được lũ diều hâu. Nhưng vẫn còn những con sót lại, chúng bắt
chim thú của rừng khiến cả khu rừng tiêu điều. Y Siêm lên đường đi cứu các
loài chim thú trong rừng, mang theo nỏ và bó tên. Các loài thú cho Y Siêm
bao nhiêu thuốc quý. Chủ bến nước gả H len cho Y Siêm.
4. Chàng Y Niăk
Chàng mồ côi Y Niăk ở với bà và cậu. Cậu rủ Y Niăk đi săn. Cậu hứa chia
một nửa thú săn được nếu đi cùng. Nhưng mấy lần đều không cho Y Niăk thứ
gì cả. Y Niăk bắt được con tê tê nhưng không giết, tê tê cho chất dính. Y Niăk
bôi lên vai cậu. Cậu không gỡ thú ra khỏi vai được phải cầu xin Y Niăk. Tê tê
bày Y Niăk bôi chất dính ở nhà Mtao đang ăn năm uống tháng. Mtao mời phù
thủy về cũng không gỡ ra được. Mtao phải chia cho Y Niăk nửa gia tài. Y
Niăk chia của cải cho cậu, cậu hối hận.
4. Chuyện họ Niê Mla
Y Rit ở với bà. Bà đi bắt cá không có cá lại được con ếch biết nói. Y Rit
bán ếch lấy quả bưởi chua. Hai bà cháu ăn vứt hạt sau nhà mọc lên cây bưởi.
Y Rit xuống đồng bằng mua muối. Ở nhà bưởi chín rụng nhiều. Các con vật
đến xin bà được ăn. Có con Ê đai Arăn ăn xong phá đổ cả nhà . Y Rit đi tìm
bắt. Con Ê đai Arăn hứa cho Rit cái sừng nếu Rit tha mạng. Rit lấy ngà của
nó, về nhà từ trong chiếc ngà chui ra bao nhiêu tôi tớ của cải. Rit lập buôn
làm chủ buôn lấy tên là Niê Mla
5. Chuột trắng
Chàng Y Rit mồ côi bất hạnh, người đen nhẻm lại bốc mùi hôi. Không ai
chơi với Y Rit, chàng kết bạn với con chuột trắng. Chuột trắng hứa sẽ giúp
chàng lấy con gái của Mtao làm vợ. Chuột trắng gặp con gái Mtao, dọa sẽ cắn
chết trâu bò heo gà và cả vợ chồng Mtao. Cô gái sợ nên bằng lòng lấy Y Rit.
Chuột trắng lại đến túm chân dọa thần cây. Thần cây chấp nhận hóa phép cho
Y Rit hết mùi hôi, trở nên khôi ngô, lấy con gái Mtao sống sung sướng.
6. Con quỷ H Bia Yăk Yơng
Ở buôn nọ, có hai chị em H-Lui, H-Jei. Hai chị em đi bắt cá được một gùi
đầy cá. Người cha ngờ rằng hai chị em bắt cá trong ao của ông, đánh đuổi ra
khỏi nhà, hai người đến ở nhà cụ Sun, bà có đứa cháu Y Rít. Bà nhờ hai chị
em đến nhà H-Bia Drâo lấy men làm rượu cho ngày lễ cúng Yàng, hai người
bị quỷ H-Bia Yăk lừa và nhốt vào một chiếc nồi đồng đổ đầy nước. Trong lúc
H-Bia Yăk đi ra ngoài, hai chị em khoét hết lỗ ở dưới đáy các quả bầu, con
quỷ H-Bia Yăk trở về đem những trái bầu đi lấy nước, nhân cơ hội đó, hai chị
em bỏ trốn. Con quỷ H-Bia Yăk đuổi theo, hai chị em lần lượt chui vào bụng
bà Hươu, bà Heo, bà Voi để trốn. Hai chị em chui vào bụng con cá lớn ở dưới
một cái hồ lớn, để bắt hai chị em con quỷ H-Bia Yăk biến thành cô gái xinh
đẹp dụ hai chàng Mù và Điếc tát nước lấy đôi bông tai dưới đáy hồ, hai chàng
trở về kể mọi chuyện cho Mtao biết, Mtao sai tôi tớ đi mời mọi người gần xa
đến tát nước, nhưng may thay bà Sun đã bắt con cá có hai chị em trong bụng
về, bà lấy dao mổ bụng cá nhưng hai chị em đã chết, bà dùng bùa cầu khấn và
hóa phép cho hai chị em sống dậy. H-Lui, H-Jei ở nhà với bà cụ Sun giúp cụ
làm nương rẫy. Tìm mãi không thấy hai chị em, con quỷ H-Bia Yăk về làm
vợ Mtao. Hai người thợ săn của Mtao nói về hai cô gái xinh đẹp ở nhà bà Sun,
Mtao lấy hai người làm vợ. Mtao biết H-Bia Yăk là con quỷ nhưng không
giết. Con quỷ H-Bia Yăk rủ hai chị em H-Lui, H-Jei đi tắm suối rồi móc mắt
hai người, Mtao không còn yêu thương hai chị em nữa và dắt họ đến ở căn
nhà bỏ hoang. H-Lui sinh được cậu con trai Dăm Poh Kneh, cậu đến ở nhà bà
Sun và được mọi người yêu quý, con quỷ H-Bia Yăk biết cậu là con H-Lui
nên âm mưu giết cậu ăn thịt. H-Bia Yăk nói Dăm Poh Kneh đến giúp con gái
mình để nhờ cô ta giết cậu, Dăm Poh Kneh gặp Dăm Bhu và biết mọi chuyện,
chàng đóng giả là Dăm Bhu đánh lừa H-Bu Nga Pang trở thành người của
buôn làng, Dăm Poh Kneh và H-Bui Nga Pang trở thành vợ chồng. Dăm Poh
Kneh chuốc rượu cho dân làng ngủ say và chạy trốn mang theo đôi mắt của
H-Lui, H-Jei, các vật thần và những linh hồn của buôn H-Bu Nga Pang.
Chàng giết hết những con quỷ ở buôn H-Bu Nga Pang và quay về giết con
quỷ H-Bia Yăk. Chàng quay về chòi bỏ hoang gắn lại hai mắt cho hai mẹ H-
Lui, H-Jei. Mtao chết, Dăm Poh Kneh sống cùng hai mẹ H-Lui, H-Jei và bà
Sun cho đến trọn đời.
7. Chuột nâu và Y Rit
Chàng Y Rit mồ côi đi đào củ mài về nuôi bà, bắt được con chuột nâu.
Chuột cho Y Rit viên ngọc ước. Mtao đòi đổi ngọc của Y Rit nếu không Rit
sẽ bị đuổi khỏi buôn. Mtao cầm ngọc ước thì hóa ra bầy rắn cắn chết Mtao.
Chàng Rit làm chủ buôn sống sung sướng.
8. Chàng Y Jú
Thuở xưa, buôn làng của người Ê đê bị đàn cọp dữ tấn công, bố mẹ anh em
chàng Y Jú cũng bị cọp bắt. Chàng Y Jú tuổi vừa tròn mười lăm mùa rẫy xin
đi diệt cọp. Chàng kêu gọi trai tráng rào buôn, làm hầm chông nhử cọp vào
làng. Cọp sập bẫy, Y Jú và dân làng giết được cọp.
9. Anh em Cun, Cơi
Hai anh em Cun và Cơi, mẹ chết sớm, cha đi lấy dì ghẻ. Hai anh em Cun và
Cơi bị đem bỏ vào rừng nhiều lần nhưng không chết. Một lần, thần Cây đem
hai anh em về buôn của thần và tặng cho hai anh em lông chim thần. Hai anh
em lập buôn mới, trở nên giàu có. Cha mẹ ghẻ đến xin của cải, lúc về bị rơi
xuống sông chết.
11. Chàng nghèo tát biển
Chàng mồ côi và người bạn lấy vợ. Chỉ có một cô gái nghèo đồng ý lấy
chàng mồ côi. Hai vợ chồng siêng năng vẫn nghèo mãi. Người bạn đã giàu lại
có tính xấu, lừa chàng mồ côi, bảo rằng tát cạn biển thì sẽ giàu.Chàng mồ côi
thật thà nghe theo. Thần Rồng thương tình cho chàng 7 gói cát và 7 viên ngọc
thần. Chàng trở nên giàu có. Người bạn cũng bắt chước tát biển nhưng chẳng
được gì, bèn đánh cướp của chàng mồ côi. Mồ côi dùng viên ngọc thần đánh
bại.
12. Sự tích con voi trắng
Chàng Y Rit mồ côi ở với bà, chàng đi săn cứu các con vật bị nạn như con
heo xám, con thỏ nâu, con voi. Chàng được tặng viên ngọc ước gì được nấy
và trở nên giàu có. Mtao Ăk đến ép chàng phải cống nạp khỉ bảy đầu, heo mẹ
bảy đuôi, voi bảy ngà. Y Rit cùng bà và các con vật bỏ đi. Mtao đuổi theo bị
chết tan xương trong rừng sâu.
13. Chàng cá sấu
Nàng H Nhí gặp chàng trai trên sông vốn là thủy thần. Hai người yêu
thương nhau. H Nhí về buôn của thủy thần sống sinh con trai. Nàng đặt con
bên bờ suối, người thợ săn đem về nuôi đặt tên là chàng Cá Sấu. Chàng Cá
Sấu có phép thần do cha chàng ban cho. Chàng lập buôn giàu có. Mtao Ăk
đến cướp phá buôn chàng. Mtao Tuôr cũng đến cướp. Nhưng cả hai Mtao đều
thất bại. Mtao Tuôr phải gả con cho chàng Cá Sấu.
14. Mẹ con nàng H’Bia và chú dê con
Ở một buôn nọ, có hai mẹ con bà H’Bia. Một hôm, hai mẹ con H’Bia
vào rừng gặp một chú dê bị mắc bẫy, hai mẹ con cứu chú dê và mang về nhà
nuôi. Hai mẹ con H’Bia vô cùng ngạc nhiên vì mọi việc trong nhà đều đã
được làm hết, họ phát hiện ra chú dê chính là chàng trai to khỏe đã giúp họ,
họ vui mừng giấu bộ lông dê đi và chàng trai không hóa thân vào được nữa.
Bà H’Bia gả con gái cho chàng trai, chàng trai làm lại nhà đón hai mẹ con về
ở hạnh phúc, êm ấm.
15. Gà đẻ trứng vàng
Ở một buôn nọ, có hai bà cháu đi lấy củi gặp một chú gà con bị nạn và
họ đã cứu gà con, chú gà về nhà hai bà cháu và làm bạn với hai người. Hai bà
cháu H’Niêng vui sướng khi chú gà đẻ trứng vàng. Chuyện đến tai M’tao độc
ác, M’tao đem đồ đến đổi gà, con gà bay mất và M’tao bị chết, hai bà cháu
H’Niêng và dân làng sống yên ổn.
16. Chàng Y Rít và lông gà thần
Ở một buôn làng nọ, có cậu bé Y Rít sống với bà ngoại, của cải làm ra đều
bị M’tao M’xây cướp. Bà Y Rít ốm nặng, cậu vào rừng kiếm lá thuốc và gặp
được gà trống nói được tiếng người, gà trống đưa Y Rít chiếc lông thần. Về
nhà, Y Rít dùng chiếc lông chữa bệnh cho bà, hai bà cháu không phải lên rẫy
nữa mà chỉ chăm đàn gà. M’tao M’xây biết chuyện bắt hai bà cháu đổi lông
gà thần, M’tao M’xây và cả gia đình bị biến thành chim, của cải của M’tao
M’xây được chia đều cho dân làng. Đàn chim vừa ăn vừa phá lúa dân làng,
dân làng gọi là chim K’tia.
17. Tục đặt tên
Một gia đình sinh được một bé gái, đã 7 ngày mà vẫn chưa có ai đặt tên.
Thần Cây Đa và Cây Sung bàn nhau đặt tên cho đứa bé là H Đai và chỉ cho cô
bé sống đến 17 tuổi. Hai thần bàn nhau, người thợ săn nghe được. Sau này khi
cô gái đúng 17 tuổi anh xin cưới cô làm vợ. Khi về thăm bố mẹ chồng, cô bị
đàn cọp bắt vào rừng. Từ đấy có phong tục sinh con ra phải đặt tên ngay không
để quá ba ngày.
18. Sự tích hồ Lăk
Sông suối khô cạn. Dân làng đói khát. Già làng cử hai anh em Y Lăk, Y
Liêng mồ côi đi tìm nước. Một vị thần báo mộng cho hai anh em tìm nước
trong cây lồ ô. Hai anh em chặt cây lồ ô thì được một chú lươn con. Con lươn
lớn nhanh, chật nồi đất, chật nồi đồng, chật ché lớn. Hai anh em phải đào hố
sâu cho lươn ở. Lươn đào hố càng sâu càng rộng thì có đầy nước cho dân
làng. Rồng trên trời thách thức đánh nhau với lươn, rồng thua, lươn thì chìm
xuống nước. Hai anh em đứng bên bờ hồ gọi lươn mãi rồi hóa đá. Từ đó gọi hồ
là hồ Lăk (anh em chàng Lăk)
19. Lấy chồng heo
Hai mẹ con H Lá nghèo khổ cứu được chú heo ra khỏi đám bùn lầy. Hai mẹ
con nuôi nấng heo. Mỗi khi hai mẹ con đi rừng về lại thấy nhà cửa gọn gàng,
nước đổ đầy bầu, củi chất đầy bếp, cơm chín, cá thơm. Hai mẹ con rình xem
thì thấy chàng trai khỏe mạnh bước ra từ chuồng heo. Cô con gái giấu bộ da
heo. Hai người lấy nhau sống hạnh phúc.
20. Sự tích cồng chiêng
Hai cha con đi rừng hái quả bị lạc. Nghe được âm thanh kì lạ, họ đi theo thì
đến một buôn làng, được già làng tiếp đón và ở đấy suốt mấy mùa rẫy. Ngày
chia tay, già làng tặng bộ cồng đá. Về sau buôn làng Tây Nguyên dùng đồng
thau để đúc thành bộ cồng chiêng.
21. Sự tích kèn đing năm
Hai vợ chồng già không có con. Người vợ uống nước hốc đá sinh được 6
người con (3 trai 3 gái) giống nhau như đúc. Người cha làm 6 ống nứa khác
nhau cho 6 người con để phân biệt. Người em út lấy 6 ống nứa cắm vào quả
bầu khô làm kèn thổi. Âm thanh gợi sự buồn thương. Sau này để thổi trong
đám tang, gọi là kèn Đing Năm.
22. Sự tích điệu múa tung khắc
Hai vợ chồng sinh con trai đặt tên là Y Rit. Y Rit lớn lên khỏe mạnh lớn
như thổi, vào rừng mải săn thú bị lạc. Ông Gỗn chỉ cho cách làm trống và dạy
cách múa trống. Chàng mang theo trống tìm đường về nhà. Nghe tiếng trống
các loài thú dữ không hại chàng. Muôn loài chim thú tụ họp về dẫn đường cho
Y Rit về nhà. Điệu múa trống gọi là điệu múa tung khắc.
23. Tháp Yang Prong
Ngày xưa có hai vợ chồng lấy nhau lâu năm không có con, một ngày nọ
người vợ mang thai, đến ngày sinh nở, người chồng đi tìm một bà đỡ về. Bà
đỡ vừa bắt tay vào đỡ đẻ thì có một con diều sáo ở đâu bay lạc vào. Tiếng sáo
làm mê hoặc lòng người khiến bà đỡ ngẩn ngơ, hồn đi theo tiếng sáo mà quên
mất công việc đỡ đẻ. Khi tiếng sáo ngừng thì người vợ và đứa con trong bụng
đã chết. Người chồng tức giận rút gươm chém chết bà đỡ. Cả ba người chết
đều hóa đá. Người dân quanh đó gọi 2 mẹ con là Yang Prong nghĩa là Thần
Lớn. Nước mắt của dân làng hòa cùng rượu cần chảy thành con suối Ea Nao
quanh ngọn tháp.
24. Thác Drai Hling
Ở một buôn làng giàu có, có nàng Hling con gái tù trưởng vô cùng xinh
đẹp. Y Rit cứu Hling khỏi bầy cọp dữ. Hling đem lòng yêu chàng Y Rit mồ
côi, trao vòng bạc. Mtao chê Y Rit nghèo, gả Hling cho con trai tù trưởng
giàu mạnh ở buôn khác. Ngày Hling phải về nhà chồng, nàng nhảy xuống
dòng sông tự vẫn. Y Rit lao xuống lặn tìm không thấy Hling rồi chàng cũng
biến mất giữa dòng nước xiết. Từ đó dòng sông biến thành dòng thác dữ. Dân
làng đặt tên thác là Drai Hling.
25. Drai Sap
Tù trưởng giàu mạnh ở buôn nọ có cô con gái xinh đẹp là H Mí. Yrit cứu H
Mí khỏi dòng nước dữ. H Mí đem lòng yêu chàng Y Rit mồ côi, trao vòng
bạc. Mtao không đồng ý gả H Mí cho Y Rit. Quái vật xuất hiện bắt H Mí đi
mất. Y Rit hóa thành cây cổ thụ. Dòng thác nơi hai người chia tay gọi là Drai
Sap.
26. Sự tích cây Kơ nia
Chàng K Đăm mồ côi làm nô lệ cho Mtao, yêu nàng Hnia cũng là tôi tớ của
Mtao. Hai người muốn lấy nhau phải có sự đồng ý của Mtao, Mtao ép K Đăm
làm quần quật, đi tìm cây đại thụ trong rừng cho hắn. Voi giúp K Đăm hạ
được cây. Mtao lại bắt K Đăm đi bắt thuồng luồng. Thủy thần giúp K Đăm
bắt được thuồng luồng. Mtao lại bắt chàng đi phát rẫy. H Nia mang nước cho
K Đăm, nắng gắt lại đói khát, H Nia gục ngã. K Đăm chạy lại đỡ H Nia,
chàng cũng chết bên cạnh. Hai người hóa thành cây Kơ nia.
27. Sự tích cây si
Có một cô gái Ê Đê bên này sông Sêrêpốk yêu một chàng trai M'Nông bên
kia sông. Nhà cô gái là chủ bến nước. Mtao không chấp nhận chàng trai vì
nhà chàng nghèo. Để được sống bên nhau suốt đời, cô gái trốn nhà cùng
chàng trai. Cha mẹ cô gái sai người đuổi theo và bắt được, nhốt cô vào buồng.
Tìm đủ cách nhưng không cứu được cô gái, chàng trai ngồi buồn bã rồi chết
ngay bên dòng sông. Một thời gian sau, nơi ấy mọc lên một cây si nhỏ. Nhận
được tin, cô gái xót thương, khóc lóc nhiều ngày nên đổ bệnh rồi cũng hồn lìa
khỏi xác bay đi tìm chàng trai. Bỗng một ngày, phía bờ sông bên này cũng
mọc lên một cây si nhỏ. Cứ thế, theo từng con trăng, hai cây si lan ra mép
nước, vươn ra bờ bên kia để mọc, cuối cùng là chúng mọc đan xen nhau. Lâu
dần, lũ làng Ê Đê và M'Nông cũng coi đó như một biểu tượng vĩnh cửu trong
tình yêu của con trai, con gái buôn mình.
28. Sự tích dòng sông Sêrêpôk
Ngày xưa, có một cô gái yêu chàng trai ở bên kia sông. Nhưng nhà cô
gái nghèo, không có chiêng ché, trâu bò để “bắt” chàng trai về làm chồng. Hai
bên gia đình do có hiềm khích nên cũng ngăn cấm không cho hai người
thương nhau. Đau khổ, tuyệt vọng, cả hai cùng gieo mình xuống sông tự vẫn.
Cô gái hóa thành dòng Krông Ana, chàng trai hóa thành dòng Krông Nô. Còn
dòng sông Sêrêpôk chính là sự hòa quyện vĩnh hằng của hai người, như lời
ngợi ca một tình yêu thủy chung, bất diệt.
29. Hồ Chư Lăm
Từ ngày xửa, ngày xưa, ở một buôn làng của dòng họ Niê của người Ê Đê
có đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết. Nhưng tình yêu của họ thật ngang trái
bởi tình yêu ấy lại nảy sinh giữa hai anh em ruột trong cùng một nhà. Biết
chuyện loạn luân của đôi trai gái, buôn làng đã trừng phạt theo luật tục của
đồng bào Ê Đê. Buộc gia đình đôi trai gái phải thịt một con trâu trắng để cúng
thần linh. Vì nhà nghèo, không đủ tiền mua trâu trắng, hội đồng già làng đã
thương cảm và cho phép đôi trai gái ấy thay lễ vật trâu trắng bằng một con
heo trắng. Khi con heo trắng đã được lũ làng mổ bụng, thui và đang đặt trong
mâm lễ, đúng lúc già làng thực hiện nghi thức cúng thần linh thì con heo trắng
trong mâm lễ vật đột nhiên sống lại. Con heo hét ầm lên, nó chạy như tên bắn
một vòng quanh làng. Con heo chạy đến đâu, đất dưới chân nó nứt toác ra đến
đó, vết nứt mỗi ngày một rộng ra, đất sụt suống. Rồi nhà cửa, vườn tược,
người và vật cả buôn làng nọ chìm nghỉm xuống lòng đất. Đất sụt xuống đến
đâu, nước ào ào dâng lên đến đó và hình thành hồ Chư H’Lăm
30. Truyện Ama Sat
Sat nằm mơ thấy các thần báo mộng phải đi đến đầm lầy cùng với cái khăn
trắng để lấy một vật quý. Sat đến đầm lầy thấy một con rắn vừa to vừa dài,
quá sợ hãi, Sat tất tả chạy về. Sau đó trở thành người nửa điên nửa dại. Mọi
người đều nói rằng vì Sat đã không làm theo lời mách bảo của các thần và
cũng không làm lễ hiến sinh.
31. Truyện A Ma Mang
A Ma Mang đi làm cỏ trên rẫy thì gặp một con rắn lớn. Cái đuôi của con
rắn có bùa thần tài. A Ma Mang cắt đuôi con rắn mang về.Tối đi ngủ chàng
mơ thấy con rắn và cảnh một lễ hiến sinh có cả bò. Ngày hôm sau A Ma
Mang làm lễ cúng và từ đó trở nên giàu có nhất buôn làng.
32. Truyện Y Kum
Chàng nô lệ Y Kum nằm mộng thấy thần Rồng. Sáng hôm sau Y Kum làm
lễ cúng lợn, gà. Từ đó Y Kum trở nên giàu có. Chàng lấy vợ rồi vô tình tiết lộ
về giấc mộng gặp thần Rồng với vợ. Y Kum chết khi vào rừng tìm gỗ quý.
33. Bác thợ săn lạc trong rừng
Ở buôn nọ có bác thợ săn rất tài giỏi. Bác thợ săn đi vào rừng, bác vào nhà
H-Bia Drong Hit để sưởi lửa, bác làm cô gái tức giận và biến mất, bác bỗng
thấy mình dưới một giàn mướp đắng chứ không phải đang sưởi lửa. Bác gặp
chòi của một chú hươu và vào sưởi lửa, không nghe lời dặn của chú hươu, bác
thấy mình đang ngồi ở bụi cây chứ không phải đang trong chòi. Đến một gốc
cây đa, bác nghỉ lại nhà lũ khỉ và vượn, không nghe lời lũ khỉ và vượn, bác
thợ săn tỉnh dậy và thấy mình đang nằm trên cành cây cao. Đêm hôm sau, vì
muốn biết đàn khỉ hóa phép biến cây đa thành ngôi nhà như thế nào, bác thợ
săn lại không nghe lời dặn của lũ khỉ và vượn và lại trên cây cao, hôm sau bác
ngủ ở cuối cầu thang sáng tỉnh dậy thấy mình nằm dưới gốc đa. Bác thợ săn
trở về kể đầu đuôi câu chuyện cho vợ con và dân làng nghe.
34. H Bia Đung và Đam Bhu
Có hai vợ chồng, chồng là Dăm Bhu, vợ là H-Bia Đung sống với nhau rất
hạnh phúc, họ có ba người con, đứa thứ nhất là Dăm Can M’Nga, thứ hai là
Dăm Băn M’Nga và cô con gái út là H-Băng Êra, họ chỉ thiếu muối ăn, vải và
một số đồ dùng trong gia đình nên Dăm Bhu xuống vùng đất của người Kinh
để mua sắm những thứ đó. Ở nhà, H-Bia Đung đi lấy bột tro về nhuộm vải,
nàng đã lỡ hứa lấy vua Thủy tề về sống với ông ta. Chàng Dăm Bhu trở về
nghe con kể lại chuyện, thương vợ nên tìm cách cướp lại nàng. Không thấy
vợ, vua Thủy tề sai tôm, cua lên bờ xem xét nhưng đều bị đánh chạy về, Vua
Thủy tề biến thành con rắn xanh lên bờ xem xự thể ra sao, Dăm Bhu giết rắn
cùng vợ con sống vui vẻ. H-Bia Đung vẫn còn thương nhớ vua Thủy tề, nàng
chết, sau đó, bốn cha con sống với nhau côi cút. Thời gian sau đó, người cha
đồng ý lấy H-Bia Yăk làm vợ. H-Bia Yăk mang bầu, bà sai những đứa con
của Dăm Bhu kiếm thức ăn cho bà. Được một thời gian, các con của Dăm
Bhu ra ở riêng trong một căn nhà nhỏ, vui vẻ và đầm ấm.
35. Bác Blông Bluê
Ở một buôn nọ, có một bác tên là Blông Bluê rất khờ dại. Con kiến của
bác bị một con gà mổ chết, người hàng xóm phải đền cho bác con gà. Đến
buôn khác, con gà của bác bị con chó cắn chết, bác lại được đền một con chó,
cứ như vậy bác được đền con dê, con bò, con trâu, con voi, lửa, nước và cuối
cùng là hai cô gái đã phải làm vợ bác. Hai cô vợ kêu bác Blông Bluê cắm
chông phòng hổ, lúc đi ngủ bảo bác nằm sát cửa, nửa đêm hai cô vợ xô bác
xuống chông chết. Câu chuyện của bác Blông Bluê trở thành bài học cho
những ai nhẹ dạ, cả tin, nhắc nhở chúng ta không nên bắt ép người khác.
36. Đá đẻ con
Khỉ giao phối với đá sinh ra cậu bé. Người thợ săn nhặt về nuôi đặt tên là
Yang Mya. Chàng lấy vợ rồi đi làm ăn xa. Khi trở về biết vợ ngoại tình.
Chàng hỏi người đi đường ai cũng giấu. Tức giận chàng giết và hóa đá họ.
Chàng giết kẻ gian phu và về nhà hóa đá người vợ đang sinh con. Chàng
thách ông trời vật lộn rồi hóa đá tất cả những người đến xem. Cuối cùng ông
trời biến chàng thành con lợn lòi. Chàng bị dân làng giết rồi cũng hóa thành
đá.
37. Sự tích hạt gạo
Thuở xưa, buôn làng Ê đê sống sung túc. Khi đó một quả dưa gang to đến
mức mười người ăn vẫn thừa, một hạt gạo đủ cho cả ba người ăn. Một bắp
ngô phải năm người ăn mới hết…Vua của xứ Ê đê một ngày nọ cùng với vợ
vắng nhà. Người vợ giao cho con là công chúa H Rin trông coi nồi cơm nếp.
Nàng H Rin chỉ mải mê ngắm sắc đẹp của mình. Cơm nếp sắp cháy mà không
rút củi. Cơm nếp kêu cứu, H Rin mắng nhiếc cơm nếp rồi bê nồi cơm nếp vứt
ngay vào vũng nước bẩn dưới gầm sàn. Hồn của hạt cơm nếp bay lên trời gặp
thần Sơ Ri để kể tội con người không quý trọng lúa gạo. Thần Sơ Ri gọi hồn
lúa gạo, ngô bắp về trời. Buôn làng của ông Vua từ đó nấu cơm không được
hạt cơm nở to như trước.
38. Núi mẹ và con
Chàng Y Siêng biết chuyện vợ ngoại tình. Chàng giết kẻ tình địch, hóa hắn
thành đá. Về nhà chàng thấy bà đỡ đang đỡ đẻ cho vợ. Chàng hóa đá tất cả
mọi người. Chàng bị biến thành lợn lòi, bị dân làng giết rồi chàng cũng hóa
thành đá.
39. Con mèo khôn ngoan
Ở một buôn nọ, có ông đầu buôn M’Tao M’Sei giàu có, hùng mạnh. Trong
một lần đi săn, ông phát hiện được viên ngọc quý trong bụng chim sâu, ông
mang về cất ở chén trong phòng ngủ, cho lính canh giữ cẩn thận. Ở buôn khác
có ông đầu buôn M’Tao M’Ro biết chuyện viên ngọc cho người đến cắp ngọc
về. Trước khi ngủ, M’Tao M’Ro đều ngậm viên ngọc vào miệng, M’Tao
M’Sei nhờ hai đứa tôi tớ đi lấy lại ngọc nhưng không thành. Thất vọng
M’Tao M’Sei bỗng thấy con mèo lạ, ông nhờ mèo và chó đi lấy lại ngọc giúp
mình, mèo và chó dũng cảm, vất vả mới lấy được ngọc về cho M’Tao M’Sei.
M’Tao M’Sei nghe mèo kể lại chuyến đi lấy lại viên ngọc, ông cho mèo ăn
cơm ngon, bát đẹp, còn chó thì bị phạt, ăn cơm thừa xương xẩu.
40. Chim xử kiện
Chim Borling Borlang hoặc Mlang Mling (chim khướu) được Yang phân
công chuyên xử kiện. Còn có Diều Hâu, nhưng nó là loài chim ác. Gà Rừng
nhưng nó uống rượu nhiều quá. Con Công nhưng không ai chịu được tiếng
gào quá to của nó. Chim Borling Borlang phải dạy cho các thủ lĩnh cách phân
xử. Từ khi xảy ra nạn hồng thủy, loài chim đó không biết nói nữa, việc xử
phạt trong buôn do các pô bhiăn kđi – già làng phán xử.
41. Y Tô cháu của trời
Trời cho Y Tô xuống trần gian để giúp nàng H’Hliêo. H’Hliêo ngày nào
cũng đào củ mài vất vả. Y Tô biến hóa ra cơm gạo ngon, nương rẫy bạt ngàn
cho H’Hliêo. Chàng còn biến hóa ra nhà cao cửa rộng và sống như vợ chồng
với H’Hliêo. Y Tô kết nghĩa anh em với Y Rit. Y Tô và Y Rit đi đánh thần
sông cứu con gái của Mtao. Y Tô giết được thần song cứu nàng H Bia. H Bia
giữ lại chàng không ở. H Bia cắt đuôi khố của chàng. Mtao cho người đi so
đuôi khố thì phát hiện ra Y Tô. Y Tô đã có gia đình nên không lấy H Bia làm
vợ.. Mtao cho Y Tô rất nhiều của cải.
42. Sự tích loài ong
Ngày xưa ở rừng núi Tây Nguyên có những đàn ong rất kỳ lạ. Chúng phá
hoa màu, gia súc, gia cầm của dân làng. Buôn làng cử một đoàn người đi lên
gặp trời, trời bắt ong chúa đưa về hỏi tội và trừng phạt bầy ong. Loài người
thắng lợi sống yên ổn và hạnh phúc, loài ong phải hút mật và trả nợ cho loài
người.
43. Con voi bảy ngà
Ngày xưa ở núi rừng Tây Nguyên có một con voi hung dữ bảy ngà, uy
hiếp chim thú trong rừng và các buôn làng Tây Nguyên. Chàng Đăm Sing
đứng lên nhận bắt voi bảy ngà, cuộc chiến với voi bảy ngà hết sức quyết liệt
nhưng với sự dũng cảm của Đăm Sing và sự giúp sức của Trời, nữ thần mặt
trời, mặt trăng chàng đã thu phục được voi bảy ngà, từ đó voi bảy ngà trở
thành bạn tốt của buôn làng Ê Đê.
44. Gà và Chó
Ngày xưa, Gà và Chó không giống như bây giờ. Chó ngày xưa lông vũ, gà
thì lông mao. Do bộ lông hai con vật khó khăn trong cuộc sống và sinh hoạt
nên muốn đổi bộ lông cho nhau. Chó muốn đổi lông cho Gà nhưng Gà còn
làm cao lưỡng lự. Cuối cùng hai con đổi lông cho nhau. Chó tức vì câu nói xỏ
của Gà, nên hễ thấy Gà đâu là đuổi đi.
45. Khỉ và Rùa
Ngày xưa, Khỉ và Rùa ở chung một làng. Rùa có con trai là Ama Nôi, Khỉ
có con trai tên là Ama Nêng. Rùa tuy chậm chạp nhưng suy nghĩ chín chắn,
khôn ngoan, tính tình trung thực, Khỉ nhanh nhẹn, táo tợn nhưng nhiều khi
xấu nết, ngốc dại. Khỉ rủ Rùa đi bắt cá, đi kiếm trái cây, ăn trộm mía của bác
Dây, đi lấy trứng, ăn trộm thóc nhưng lần nào Khỉ cũng thất hứa với Rùa
khiến Rùa rất bực tức, tuy nhiên nhờ sự khôn ngoan, Rùa đã nhiều lần cho
Khỉ bài học và lấy lại được quyền lợi của mình.
46. Thỏ và ốc
Thỏ bắt gặp chú Ốc nhồi ở một bờ suối. Thỏ mỉa mai Ốc bò chậm chạp không
bằng mình. Chú Ốc ra lời thách đấu chạy với Thỏ. Ốc dùng mưu kế đánh bại
Thỏ trong cuộc thi, kết quả là Ốc thắng trong cuộc thi còn Thỏ thì lăn ra chết.
47. Thỏ và lão Mtao bụng to
Có một lão Mtao khi chưa giàu có thì siêng năng, chịu khó nhưng khi giàu
có rồi thì lười biếng, chỉ biết ăn uống phè phỡn, đối với nô lệ thì lão bắt làm
mà chả cho ăn. Dần dần lão thấy trong người khó chịu, cơm không muốn ăn,
rượu không muốn uống. Một chú Thỏ cho Mtao biết lí do lão không muốn ăn
uống, từ đó, lão đi làm chăm chỉ và ăn uống ngon miệng hơn. Lão muốn đến
ơn Thỏ nhưng Thỏ chỉ nhắc nhở lão không được để nô lệ đói nữa.
48. Chàng Yang Mơ Da
Bà cụ đi tắm thấy một tảng đá nứt ra sinh ra đứa bé. Bà đem về nuôi đặt
tên là Yang Mơ Da. Yang Mơ Da lớn lên cùng với cùng với con trai bà cụ là
chàng Y Săn. Lớn lên, Yang Mơ Da lấy vợ, chàng đi làm ăn xa. Ngày trở về
chàng thấy vợ đeo nhẫn của anh. Nghi vợ ngoại tình, chàng đánh đuổi người
anh, dọc đường hỏi người đi đường, họ giấu không nói người anh ở đâu.
Chàng hóa đá họ rồi hóa đá anh. Ông trời thấy vậy trách chàng. Chàng chết
hóa thành bụi cây biết khóc.
49. Người hóa voi
Hai anh em đi săn kì đà. Người anh nướng anh bị ngứa, thân phồng to như
voi. Nghe lời em, người anh vứt thịt kì đà xuống suối. Thịt kì đà lại hóa ra
đàn cá đông đúc. Dân làng kéo nhau đi tát cạn suối bắt cá. Ăn cá vào cả làng
hóa voi không nói được tiếng người nữa.
50. Y Nan nuôi cá lóc
Người mẹ được trăn thần cho ba củ thuốc. Bà nhai hai củ đẻ ra con trai đặt
tên là Y Nan, một củ đem trồng. Cha chết, người mẹ lấy chồng khác. Người
cha dượng độc ác cắt gân chân của Y Nan. Thần báo mộng cho chàng tìm cây
thuốc mẹ trồng, chữa lành. Chàng bắt con cá lóc nuôi trong ao, chữa khỏi
bệnh cho con gái của Mtao. Người cha dượng bị trời đánh chết.
51. Đàn trâu nhà trời
Chàng mồ côi đi làm thuê làm mướn, dành dụm sắm được con trâu thì bị
bầy chim dữ trên trời bắt mất. Chàng đuổi theo bắt được chim đầu đàn, theo
nó lên trời đòi trâu. Chàng được đền hai con trâu mang về hóa thành hai bộ
sừng. Lần sau chàng lên đòi trâu nữa thì được đền nắm dây mang về. Nắm
dây hóa thành đàn trâu đông đúc. Chàng chia cho cả làng.
52. Chàng Lọ Nồi
Hai vợ chồng đã già mà không có con. Một ngày bà vợ ăn quả xoài thì có
mang, ba ngày sau sinh được đứa bé xấu xí đen đủi. Hai vợ chồng coi khinh
cho con ở chuồng trâu, ăn mặc rách rưới. Không ai biết Lọ Nồi có phép lạ.
Chàng bỏ đi ở riêng. Mỗi khi đói cơm tự đến trước miệng, muốn của cải thì
vàng bạc tự đến. Chàng đãi khách chỉ một chén cơm nhỏ mà ăn hoài không
hết. Sau chàng lấy vợ sống sung sướng. Cha mẹ phải đến xin cơm của chàng.
53. H Liu và H La
H Liu và H La là hai người bạn thân thiết như chị em. H Liu ướm hài vừa
vặn, nàng được làm vợ hoàng tử Chàm. H La xin đi theo cùng H Liu. Hoàng
tử đi vắng, H La giết bạn đem chôn. Nơi chôn H Liu mọc lên một cây trúc. H
La chặt trúc thì hóa thành chim. H La lại giết chim thì lông mọc thành cây đu
đủ. Hồn của H Liu gọi bà lão đến. Bà lão dắt hoàng tử đến nghe hồn H Liu
nói chuyện. Hồn nhập xác trở lại, nàng H Liu sống lại còn bà lão thì biến mất.
Về cung, H Liu cho người giết H La rồi làm mắm gửi cho mẹ H La.
54. Chàng Rit và voi bay
Trong buôn làng xuất hiện một con cọp tinh. Cọp giết người chồng rồi biến
thành người chồng về nhà tìm người vợ để ăn thịt. Người vợ biết được. Dặn
đồ vật trả lời thay mình rồi bỏ trốn đến chỗ Y Rit. Chàng Y Rit giết được con
cọp dữ. Biết tin, con gấu và con báo đi trả thù cho con cọp cũng bị chàng giết
chết. Chàng lừa lũ quạ vào xác của con voi. Bầy quạ bay khiến con voi cũng
bay. Chàng lừa Mtao cưỡi voi bay. Cuối cùng Mtao bị dìm chết ở biển. Chàng
sống sung sướng.
55. Hơ Kung và Y Du
Bà mẹ Y Dang nhặt được cậu bé trong túp lều ngoài đồng, đặt tên là Y Du.
Y Du lớn lên cùng với con trai bà là Y Yang. Y Du và em gái út của Y Yang
là Hơ Kung đem lòng yêu thương nhau. Theo luật tục, họ không được lấy
nhau dù Y Du chỉ là con nuôi. Hai người bỏ trốn nhưng vẫn sợ Giàng phạt
nên họ nghĩ ra một cách. Họ muốn thử xem ý thần linh thế nào. Họ quyết định
hai người bắt đầu cùng làm một việc. Y Du chọn việc ngăn thác để lấy nước
làm ruộng. Hơ Kung se bông dệt một chiếc khăn. Nếu không xong cùng một
lúc thì họ phải xa nhau. Nhưng rồi công việc của Y Du lại xong trước. Nhưng
chàng không báo cho Hơ Kung biết, chàng nấp vào một chỗ theo dõi công
việc của Hơ Kung. Cùng lúc ấy Hơ Kung cũng nhìn sang chỗ của Y Du. Hơ
Kung bỏ chạy. Y Du đuổi theo. Họ chạy mãi. Hơ Kung đến buôn Mặt trăng.
Y Du đến buôn Mặt trời và từ đó họ không gặp được nhau nữa vì mặt trăng
mặt trời đi theo hai ngả khác nhau.
56. H Bia Ngo và Y Rit
Ở một hòn đảo có một cô gái được gia đình hổ nuôi tên là H Bia Ngo. Nàng
xinh đẹp vô cùng. Chàng Y Rit trong đất liền nhờ quạ giúp mà ra đảo lấy
được H Bia Ngo làm vợ. Hai người bỏ trốn khỏi đảo về đất liền. Lão Mtao
tham lam muốn cướp vợ của Y Rit, ép chàng vao rừng tìm những thứ quý
hiếm: sữa gấu mới đẻ, sữa hổ, dây mây một đốt và tre không đốt. Nàng H Bia
Ngo có phép thần đều giúp chàng lấy được. Cuối cùng Mtao phải chịu thua.
57. Sự tích nhà mồ
Nàng H Ren yêu chàng Y Thih mồ côi. Thầy cúng trong buôn muốn H
Ren làm vợ con trai hắn. Thầy cúng vu oan Y Thih có lòng độc ác, bắn thú
rừng nhiều, bắt Y Thih chịu tội, vu oan H Ren là ma lai. Cuối cùng H Ren
chết, Y Thih hóa thành tượng gỗ.
58. Thỏ đánh lừa cá sấu
Có một con Thỏ thèm ăn cỏ bên kia sông mà không cách nào qua sông
được, thấy cá sấu nổi lên nó nghĩ kế lừa cá sấu để qua sông. Tức giận vì bị
Thỏ lừa, cá sấu nói sẽ nuốt sống nếu Thỏ quay lại, từ đó, Thỏ không bao giờ
dám đến gần bờ sông.
59. Thỏ và hai mẹ con hổ
Có một chú Thỏ đang ung dung gặm cỏ gặp hai con Hổ con định ăn thịt
mình, chú nhanh trí lừa hai con hổ và thoát chết. Hai con hổ nghe cọp mẹ nói
biết mình bị lừa. Thỏ bị cọp mẹ rượt đuổi nhưng không bắt được Thỏ, lại còn
bị Thỏ cho một bài học, cọp con sợ quá trốn mất.
60. Thỏ và Y Rít
Thỏ gặp Y Rít đang khóc ở một khu rừng, Y Rít kể bị lão Cọp đến bắt mất
nghé con. Thỏ tìm đến hang lão Cọp, bằng sự khôn ngoan, Thỏ đã lấy lại
được nghé con giúp Y Rít. Thấy Thỏ vui tính và nhanh trí, Cọp kết bạn, mời
Thỏ về nhà ở nhưng tính thích lang thang nên Thỏ từ chối.
61. Thỏ, Y Rít và các con vật
Y Rít than thở cùng Thỏ nhà nghèo chỉ có hai bà cháu, bà Pôm thì ốm yếu.
Thỏ nhanh trí bàn kế giúp hai bà cháu Y Rít có thịt ăn. Cuối cùng kế hoạch
thành công và Y Rít có rất nhiều thịt để mang về.
62. Chàng Y Luăk.
Y Luăk còn gọi là chàng Láo, rất lười và láu cá. Lén nghe ở vách nhà
Mtao xem Mtao chọn con rể như thế nào. Chàng giả vờ là người can đảm,
siêng năng, săn bắnn giỏi. Cả làng nhìn vào ai cũng tưởng chàng đã thay đổi.
Mtao đến hỏi gả con gái cho chàng. Y Luăk gặp hổ. Hổ bị kẹp vào chạc cây
lăn ra chết. Y Luăk dàn cảnh để dân làng tin mình là người đã giết cọp. Hai
vợ chồng chàng ngủ ngoài rẫy canh rẫy. Con voi đến phá rẫy. Vợ chàng lấy
cung tên bắn chết voi. Y Luăk nhận là mình đặt bẫy voi để thuần dưỡng,
chàng ra vẻ tiếc con voi do vợ bắn chết. Từ đó tiếng tăm chàng càng vang xa.
Mẹ vợ chàng đi khoe con rể ở buôn khác. Mtao buôn khác thách chàng nằm
trên giàn lửa xem thế nào. Chàng được Rùa và Nhím giúp nên thoát chết,
khiến Mtao khâm phục. Lại có Mtao ở buôn khác đòi gặp chàng để thử tài.
Chàng nấp trên cây, sợ quá vãi đái xuống bọn tráng buôn nọ đang rình bắt
chàng. Chúng đánh nhau rồi bỏ về. Y Luăk lại nhận mình đã đánh tan tác bọn
chúng. Tiếng tăm chàng lại vang xa. Mtao Kinh nhờ chàng diệt cọp. Chàng
nhanh trí lừa được bầy cọp, bắt gọn. Mtao Lào nhờ chàng xin mưa của trời. Y
Luăk được con ếch giúp, biết ngày có mưa báo cho Mtao. Từ đó Y Luăk lúc
nào cũng được sống sung sướng.
63. Y Đăm tai to
Chàng Y Rit gặp Y Đăm có đôi tai kì quái kết nghĩa anh em và rủ về
sống với bà. Con gái Mtao đến nhà Y Rit chơi, gặp Y Đăm cởi lốt thành
chàng trai đẹp. Tối tối Y Đăm vẫn hẹn hò với con gái Mtao. Nàng có mang
sinh ra đứa bé. Đứa bé nhận Y Đăm làm cha. Chàng cởi lốt lập buôn làng giàu
có.
64. Rum Dú với gái nhà trời
Rum Dú đen đủi xấu xí một lần câu cá thấy 9 cô tiên xuống tắm. Thần
mách chàng lấy quần áo của nàng tiên út. Nàng tiên phải theo về làm vợ
chàng. Họ có con. Nhớ nhà, nàng tiên hỏi mẹ Rum Dú thấy váy áo của mình
rồi bay về trời. Chàng lên trời tìm vợ và đoàn tụ.
65. Hơ bia Ngo
Hai cô con gái tự đi tìm chồng theo lời cha dặn. Cô em lấy chàng trai
siêng năng. Cô chị lấy anh chồng lười nhác. Người cha thử thách hai chàng
rể. Chồng cô chị nảy sinh ác tâm, giết chồng cô em. Người cha có vật thần
cứu được chồng cô em, Chồng cô chị bị cọp vồ.
66. Vì sao heo ăn cám chó ăn cơm
Ngày xưa, heo được người cho ăn cơm vì siêng năng. Còn chó phải ăn
cám vì lười biếng. Con chó bẻm mép nói xấu heo không chịu làm việc, chỉ
ham chơi. Mtao nghe lời chó nên từ đó heo phải ăn cám còn con chó được ăn
cơm.
67. Chỉ có ông thợ rèn phạt được tội khỉ
Ngày xưa người và khỉ là bạn thân của nhau. Bác thợ rèn thương tình
nên cho Khỉ rât nhiều lúa bắp. Nhưng Khỉ tham lam còn đến trộm của bác, lại
còn đổ tội cho Rùa. Bác thợ rèn nung một thanh sắt to bắt khỉ ngồi vào đó. Từ
đó khỉ bị đỏ đít và cứ thấy người là bỏ chạy.
68. Tổ chim tồ rộc
Chim tồ rộc đi xem nhà của Mtao, thấy đẹp quá về nhà bắt chước để
làm tổ cho hai vợ chồng. Vợ sắp đẻ. Chim làm nhà chính trước đến khi vợ
gần đẻ mới làm cầu thang. Nhà vừa làm xong thì vừa kịp lúc chim vợ sinh.
Từ đó chim tồ rộc đều có cách làm nhà như vậy.
69. Truyện Krông Pa
Chàng Y Pa đói khát đi tìm cái ăn, tìm nước uống, đi mãi chẳng tìm
được gì, chàng tưc giận nói một câu làm các thần linh nổi giận, dâng nước
đuổi theo chàng và từ đó hình thành dòng sông Krông Pa.
70. Sự tích Biển Hồ
Già Chao gặp con lợn trắng trên đường thấy đẹp nên mang về nuôi.
Làng bắt già phải nộp con heo để cúng thần. Già nhất định không chịu nhưng
cuối cùng người ta cũng bắt được heo của già. Già thề nếu làng chia phần già
nhất định sẽ không ăn thịt heo trắng. Nhưng đứa cháu giá của già thèm thịt nó
cứ khóc hoài. Thương cháu, già đem xâu thịt đi nướng. Già đã không giữ
được lời thề nên đất sụt xuống, nước dâng lên nhấn chìm tất cả, chỉ có 3
người sống sót do không ăn thịt heo.
71. Pơnan giết cọp
Cọp giết và ăn thịt ông A Ma, sau hóa thành ông A Ma gõ cửa gọi bà vợ
của A Ma. Bà vợ thấy chồng có điều gì khác lạ, sinh nghi. Cọp ngủ say hiện
nguyên hình. Bà vợ trông thấy sợ hãi, khoét thủng sàn nhà rồi bế con chạy
trốn, Bà dặn các đồ vật trả lời thay bà rồi bỏ chạy về nhà của các anh em của
mình. Lửa không được dặn nên ấm ức chỉ đường cho cọp đi tìm bà A Ma.
Anh em của bà A Ma nướng hai quả bí ngô lừa giết được cọp. Cậu con trai
lớn lên tên là Pơ nan. Chàng đi giết cọp. Con cọp cái thành tinh hóa thành cô
gái xinh đẹp lừa nhà vua. Pơnan giết được, cọp hiện nguyên hình.
72. Y Tơ Lông giết trăn tinh
Y Tơ Lông lớn rồi chỉ ham chơi đánh quay, thả diều không làm gì cả. Cha mẹ
buồn lòng đuổi chàng ra khỏi nhà. Chàng gặp thỏ, khỉ xin đi cùng. Đến buôn
nọ gặp cô gái bị trói, làng cống nạp cô cho trăn. Chàng làm dây thòng lọng từ
da trâu, đợi trăn đến. Trăn bị thòng lọng thít cổ rồi chết. Cô gái là con gái
Mtao. Nàng cắt đuôi khố của chàng. Sau so đuôi khố Y Tơ Lông được lấy cô
gái làm vợ.
73. Anh em Pơrông Pha
Hai vợ chồng già không có con, lên xin Trời. Trời cho bảy viên thuốc dặn đi
đường không được uống. Nóng ruột nên người vợ uống lúc đi đường, sinh
bảy người con. Con đầu tên là Pơrông Pha. Cả bảy anh em đều tài giỏi. Bảy
anh em mài kiếm sắc đi giết quỉ ác cứu bảy cô gái. Gặp bà quỷ Kây. Quỷ vật
chết các em của Pơrông Pha. Chỉ còn chàng và em út còn sống. Chàng dặn
các đồ vật, lừa chồng của quỷ rồi giết chết hắn và vợ. Sau chàng đánh nhau
với Vua Nước, Vua Lửa đều thắng. Cuối cùng lấy cô gái xinh đẹp làm vợ.
74. Chàng Gơrăn Dơhông
Hai vợ chồng sinh được chàng Gơrăn Dơhông. Chàng chỉ chăm làm không
biết chơi diều, đánh quay. Cha mẹ nói mãi, chàng giận. Từ đó chỉ chơi diều
đánh quay không làm nương làm rẫy. Cha mẹ đi làm không để cơm cho
chàng. Chàng bỏ nhà đi. Chàng gặp Y Rit mồ côi, kết nghĩa anh em và cùng
về sống với bà. Bà kể con gái Mtao phải nộp mạng cho thần nứơc. Hai anh
em quyết định đi đánh thần nứơc. Chàng chém chết thần nước. Cô gái cắt
đuôi khố của chàng. Sau so đuôi khố chàng lấy cô gái làmvợ.
75. Hơ Điêu và Y Nhớt
Hai gia đình sinh hai đứa con đặt tên là Hơ Điêu và Y Nhớt. Hơ Điêu hỏi Y
Nhớt làm chồng. Sợ Hơ Điêu không thật lòng yêu mình, chàng bỏ vào rừng
để thử lòng chung thủy của Hơ Điêu. Hơ Điêu băng rừng đi tìm chàng. Hai
người sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng Hơ Điêu bị cá đâm, nàng chết. Y
Nhớt cũng chết theo. Mộ của họ mọc lên hai cây chanh.
76. Nung Kuang và cậu cháu chàng Rit
Y Rit mồ côi ở với bà. Cậu rủ Y Rit vào rừng chặt cây. Cậu lấy hết cây to.
Cậu không cho Y Rit ăn cơm cùng. Chàng lấy bánh ngô ra ăn. Lừa người cậu
tham lam phải ăn cứt chó. Y Rit đi xúc cá được mỗi con lươn bé. Lươn lớn
nhanh. Lươn đánh nhau với thần nước. Thần nứơc bị giết chết, lươn cùng Y
Rit lấy hết của cải đem về, trở nên giàu có. Cậu mượn lươn bắt lươn đi tìm
của cải cho mình. Lươn bị giết chết. Thần báo mộng cho chàng nhổ nanh của
lươn đem về chôn. Nanh mọc thành tre. Tre ngả hướng nào, vật quý từ hướng
đó bay về nhà Y Rit. Cậu lại mượn cây tre. Nhưng gùi bay về nhà cậu toàn
phân. Cậu chặt tre. Thần báo mộng cho chàng lấy tro từ tre rắc lên dấu chân
thu rừng. Thú rừng theo về chàng không phải đi săn bắn. Cậu lấy cắp gói tro
cũng đem rắc như Y Rit. Cậu rắc vào dấu chân của chính mình và vợ, hai vợ
chồng lăn ra chết.
77. Anh em chàng Rit
Hai vợ chồng sinh được bốn đứa con. Đứa con đầu là Y Rit, những đứa sau
là bò, gà, chó. Mẹ bị ốm, cha làm lễ cúng. Thầy cúng bảo phải giết bò tế thần.
Rit thương em nên trồng mía cao tới tận trời, dắt các em lên trời đi trốn. Lên
buôn trời có Mtao độc ác, bắt bò, gà, chó phải đấu với các con vật của hắn.
Các em của Rit chết. Rit đến buôn khác xin làm nô lệ. Chàng bị ép làm việc
quần quật, bắt làm rẫy, đốt rẫy, tra lúa. Hồn của bò đều giúp Rit. Mtao bắt Rit
phải làm cho hắn ngôi nhà trên mặt nước. Bò lại giúp anh gọi các loài trăn,
tôm, cá đến tập hợp lại xếp thành ngôi nhà giả. Mtao không biết, cùng cả nhà
bước xuống, nổi lửa mổ thịt ăn mừng. Lửa nóng làm các loài lặn sâu xuống
nứơc. Cả nhà Mtao chết theo. Từ đó Y Rit làm chủ bến nước.
78. Đăm Ktỉa Truôi
Nàng Mơrum Mơlut ở với bà Sun. Nàng ra suối tắm, thấy trái bưởi bóc ra
ăn. Về nhà có mang. Thủy thần hiện lên dặn nàng đặt tên con là Đăm Ktỉa
Truôi. Bị Mtao bắt nạt, bắt đền vi làm hỏng con quay của con trai hắn, Chàng
được thủy thần giúp. Cuối cùng làm nhà cho Mtao trên mặt nứơc. Cả nhà
Mtao bị chết chìm.
79. Anh em chim cút
Anh đi vắng dặn em ở nhà không cho ai vào nhà. Chồn dụ dỗ em chim cút
ngồi ở cầu thang rồi vào trong nhà, ăn hết cơm, chuối rồi chạy đi mất. Em
chim cút đói bụng ngồi khóc đợi anh về. Anh chim cút làm bẫy. Hôm sau
chồn lại đến, sập bẫy và chết. Hai anh làm thịt chồn, nổi lửa không để ý làm
cháy nhà. Hai anh em đậu vào cành nào cành ấy đều gãy. Từ đó họ hàng nhà
cút chỉ đi trên mặt đất không đậu trên cây.
80. Hồn lúa và lão Mtao
Mtao chỉ lo ăn năm uống tháng, để cỏ dại lấn hết lúa, hồn lúa bị khinh rẻ
bèn rủ nhau đến ở với bà lão nghèo. Đến khi thu hoạch, lúa tự bò về chòi của
bà lão. Cả nhà Mtao thì chết đói.
81. Cô gái đẹp và hạt gạo
Nàng Munga khinh rẻ và chửi bới hồn lúa. Nàng nói với lúa gạo mình đẹp
không phải nhờ lúa gạo. Họ hàng nhà gạo lăn ra rừng sâu ở. Munga đói khát
tiều tụy, bấy giờ mới hối hận. Thần Lúa bảo các con mình trở về với nhà
Munga.
82. Thần Rồng và anh em nhà Y Rắc – Y Rin
Hai anh em Y Răc Y Rin mồ côi, vào rừng chặt cây đan gùi để đổi lấy heo
gà của buôn làng. Gặp con vật thiêng trong rừng không giết. Thần Rồng báo
mộng cho hai anh cúng thần bằng con heo và ché rượu. Cúng thần xong cả hai
anh em được thần phù hộ trở nên giàu có.
83. Cây kiếm của thần Rồng
Chàng Y Jar mồ côi sống trong rừng. Chàng không dám về buôn làng vì
rách rưới và bị mọi người đánh đuổi. Thần Rồng báo mộng chàng cúng thần
và tặng một thanh kiếm thần. Từ đó Y Jar phát rẫy, chăm chỉ làm lụng.
Chẳng bao lâu sau trở nên giàu có.
84. Bảy anh em trai và nàng A Rế
Hai vợ chồng già sinh được 7 người con trai khỏe mạnh. Lớn lên 7 anh
em chia nhau đi tìm đất lập buôn làng. Cha đeo cho các con mỗi người một
chiếc nhẫn. Chàng Út lên đường giết được con quỷ, đến buôn nọ đánh nhau
với bầy chim dữ, chàng bị chim chúa ăn mất quả tim. Anh cả thấy nhẫn ở tay
lỏng ra, tập hợp các anh em đi cứu, tới buôn nọ cùng hợp sức làm thòng lọng
giết được chim chúa, làm sống lại tất cả mọi người.
85. Anh em Y Tăn, Y Măn
Hai anh em Y Tăn Y Măn con nhà nghèo, nhặt được sợi chỉ thừa của nhà
giàu, đem làm diều rất đẹp. Con Mtao bắt đền buộc tội hai chàng lấy cắp sợi
chỉ của nhà nó. Cha mẹ bảo hai con trai đi trốn. Thần Cây chỉ cho hai anh em
tới khu rừng của Thần Núi, thần Nước. Các thần tặng cho hai anh em hạt
giống thuốc lá đem gieo trồng và trở nen giàu có.
86. Sự tích kèn đing buốt
Ở buôn làng nọ có 6 cô gái là con của 6 gia đình khác nhau nhưng rất
thân thiết, lúc ranh rỗi họ thường cắt thân lúa làm kèn thổi. Khi trong buôn có
người qua đời, các cô gái mang kèn đến thổi chia buồn. Về sau các chàng trai
làm được loại kèn 6 ống nứa thay cho thân lúa. Và từ đó có tục lệ thổi kèn
này trong các lễ tang
87. Cọp, thỏ và cái cối
Cọp đi kiếm ăn thường gặp cái cối đá nằm bên đường, trong lòng rất ghét.
Thỏ lừa cọp bảo rằng cái cối rất khỏe, thách cọp lên núi vật nhau với cái cối.
Thỏ lừa cọp buộc chặt cọp và cái cối cho cả hai lăn xuống núi. Cọp bị cối đè
bầm dập đau đớn.
88. Chàng Y Rit và con thỏ nâu
Y Rit chăm chỉ làm việc nên đã có mấy rẫy bầu bí xanh tốt. Thỏ than thở
không có việc gì làm, muốn giúp Y Rit canh rẫy. Thỏ ăn trộm của Y Rit rồi
đổ lỗi cho loài thú khác. Y Rit phát hiện ra, đặt bẫy. Thỏ mắc bẫy chết nhăn
răng.
89. Sự tích núi Cư HMu
Hai vợ chồng H mú, Y Ya sống rất hạnh phúc. Người chồng xuống đồng
bằng để đổi muối. Khi chồng vắng nhà, Y San bạn Y Ya thường đến sửa nhà
giúp H Mu rồi hai người ở với nhau như vợ chồng, sinh được con trai. Y Ya
về nghe tin chàng lạp tức bỏ đi. Y San xấu hổ với bạn cũng bò đi. Nàng HMu
khóc hết nứơc mắt ôm con lên đỉnh núi rồi hai mẹ con hóa đá. Y Ya quay về
núi đá, chàng cũng biến thành đá, Y Săn trở về đến bên núi đá rồi cũng biến
thành đá.
90. Thần Rắn và cô gái H Long
Ba anh em Y Khan, Y Khun, H Long thấy vết rắn to bò qua rẫy của mình.
Hai người anh làm lễ cúng thần. Có dịch bệnh xảy ra trong buôn làng. Cha mẹ
và hai anh của H Long đều chết. Thần Rắn báo mộng cho H Long cúng thần
bằng cơm xôi và một con gà thui vàng. Từ đó buôn làng của H Long hết dịch
bệnh. H Long chăm làm, về sau lấy được chàng trai tài giỏi trong buôn.
91. Chàng Cơm Cháy
Chàng sống với bà Sun ở ngoài chòi rẫy. Chàng ngồi dưới gốc lê, thần Cây
chỉ cho chàng bắt cá dưới gốc cây đa. Chàng gặp đày tớ nhà Mtao đi thả con
mèo và con chó, chàng xin nuôi. Chàng nhặt được hai quả trứng về nở ra hai
con rắn. Chàng đưa hai con rắn đi tìm bố mẹ chúng ở buôn của thủy thần.
Chàng được thủy thần tặng hòn đá vàng ước gì được nấy. Chàng hỏi con gái
Mtao làm vợ. MTao Ăk cho người đến lấy cắp viên ngọc ước của chàng. Chó
và mèo lấy được ngọc ước về cho chàng
92. Chàng rể khỉ
Hai vợ chồng già cầu khấn thần xin cho một đứa con. Người vợ sinh ra một
con khỉ. Cha mẹ chết chỉ còn lại một mình con khỉ. Nàng Hơ Bia hái phải
những quả cà khỉ đã để dành làm giống. Khỉ đòi lấy Hơ Bia làm vợ. M tao
không đồng ý, giết khỉ năm lần bảy lượt khỉ đều sống lại. Cuối cùng M Tao
phải gả con gái cho khỉ. Khỉ cởi lốt thành chàng trai đẹp, tài giỏi.
93. Chàng Bun Lô và nàng Tac Ty
Hai vợ chồng già sinh được con trai đặt tên là Bun Lô. Lớn lên Bun Lô làm
biếng chỉ biết ăn và ngủ. Chàng đi đặt bẫy được con chuột nan. Chuột xin tha
chết, hứa với Bun Lô sẽ giúp chàng lấy được nàng Tac Ty là cô con gái xinh
đẹp của Mtao. Chuột dọa Tac Ty sẽ cắn chết cả nhà nàng. Nàng đồng ý lấy
Bun Lô. Chuột dặn Bun Lô làm chòi cho hai vợ chồng ở giữa đường đi. Từng
đoàn người đi qua đều không tin chàng lấy được nàng Tac Ty, họ đánh cược
thế là chàng có được rất nhiều của cải. Cuối cùng hai vợ chồng chàng sống
sung sướng hạnh phúc.'
94. Chàng Cóc
Nàng Hơ Lúi uống nước hốc cây có mang. Bị cha mẹ đuổi đi. Nàng được bà
Sun đem về nuôi. Nàng sinh ra cóc. Con cóc biết nói, có phép ước gì được
nấy. Cả làng khinh thường ghê tởm cóc. Nàng Hơ Bia đến nghe cóc kể khan,
nàng thương cóc. Cóc canh thóc cho bác, sợ gà ăn mất, cóc phải cởi lốt thành
chàng trai khỏe đẹp ra đuổi gà, chàng thổi sáo. Hbia trông thấy. Lần sau,
chàng lại cởi lốt ra cào thóc lúc trời mưa xuống. Hơ Bia lại trông thấy, nàng
chạy sang ôm lấy cóc. Từ đó hai người yêu thương nhau. Cóc phải về nhà. Hơ
Bia ốm tương tư không nói một lời. Cuối cùng cha mẹ phải đi hỏi cóc để cưới
cho nàng. Chàng cóc lập buôn mới giàu có, cởi lốt, đón cha mẹ về ở sung
sướng.
95. Anh em Kun Koi
Anh em Kun Koi mẹ mất sớm, cha lấy dì ghẻ. Cha và dì ghẻ bỏ hai anh em
xuống hố củ mài trong rừng. Hai anh em không chết. Hai anh em đi lạc đến
nhà của vợ chồng hổ. Hổ sập bẫy chết. Hai anh em làm nương rẫy trở nên
giàu có. Cha mẹ nghèo đói lại đên xin ăn, rồi rắp tâm hãm hại hai anh em để
cướp của cải nhưng chưa kịp làm gì thì bị sét đánh chết.
96. Thỏ và dân làng
Hai cha con đi bắt cá nghe tiếng hăm dọa trong bụi cỏ, hai cha con về gọi
dân làng nhưng vẫn bị hăm dọa. Họ phát hiện ra thủ phạm là thỏ. Thỏ bỏ
chạy, dân làng đuổi theo, thỏ lừa dân làng chạy theo hướng khác, thỏ thoát
nạn.
Thỏ gặp bà và Rit đang làm cỏ. Thỏ ngỏ ý giúp bà và Rit. Thỏ bảo bà và
Rit về trước, thỏ ở lại phá hỏng rẫy lúa. Thỏ bị Rit đánh đuổi. Rit bị thỏ lừa
nhốt trong hốc cây. Thỏ lừa bà đốt hốc cây, Rit chết. Bà bắt được thỏ mang
bán cho Mtao. Thỏ lừa Mtao lấy chiêng. Thỏ đến buôn khác, gặp đám ma con
gái Mtao, thỏ lừa cả nhà Mtao, cõng xác con gái Mtao đi. Thỏ gặp hai người
đi bán trâu, lừa họ đổi cô gái lấy trâu. Thỏ lừa hai con trâu cho nó đánh nhau
chết. Hổ đến ăn thịt trâu. Thỏ quát nạt sai hổ đi nhóm lửa. Thỏ chia phần cho
hổ toàn xương, buộc đuôi hổ vào gốc đa, hổ loay hoay mãi mới thoát được.
Thỏ lừa hổ tự móc ruột mình. Hổ chết. Em hổ đi trả thù cũng bị thỏ lừa chết.
Hổ em út đi trả thù cho hai anh bị thỏ lừa vào làng. Dân làng đuổi đánh, thỏ
chết nhăn răng.
97. Thỏ và ốc
Thỏ thách ốc chạy thi. Họ hàng nhà ốc giống nhau như đúc, đứng sẵn ở bờ
suối. Thỏ chạy đến đâu cất tiếng hỏi củng nghe thấy tiếng của ốc ở phía trước.
Thỏ thua, đòi chạy thi lại mấy lần. Lần nào cũng thua, thỏ kiệt sức lăn ra chết.
98. Thỏ và lão Mtao bụng to
Lão Mtao ăn sung mặc sướng không chịu lao động chân tay nên béo ục
ịch, chỉ nằm một chỗ. Thỏ bảo Mtao cúng thần và làm theo lời thần chỉ bảo.
Mtao đi phát rẫy làm quần quật từ sáng tới chiều. Từ đó Mtao khỏe mạnh.
99. Thỏ xử kiện
Hai cha con hổ đi bắt cá. Chim dữ mổ vào dái hổ bố, Hổ bảo ông thợ săn
bắn đựoc chim hổ sẽ kết bạn nhưng phải giữ bí mật. Thợ săn giết chết chim,
hổ ăn thịt chim. Từ đó thợ săn lúc nào cũng có thịt hổ cho, không phải đi săn.
Dân làng nghi ngờ thợ săn là ma lai, thợ săn phải kể cho làng nghe, hổ nghe
thấy bảo thợ săn 3 ngày nữa sẽ tới ăn thịt cả nhà. Thỏ đứng ra xử kiện. Thỏ
giả vờ đọc thư của ông trời, bảo thợ săn bắn hổ 3 phát mà không trúng thì hổ
được ăn thịt cả nhà thợ săn.ngửi thấy mũi tên có thuốc độc chạy biến vào rừng
không dám quay lại. Thỏ được bác thợ săn chia cho phần lúa nhưng quen tính
ăn vụng nên một ngày sập bẫy mà chết.
100. Lấy chồng trăn
Bác thợ săn đi rừng gặp phải con tră lớn chặn đường. Trăn ra điều kiện phải
gả con gái cho trăn. Cô em thương cha nên đồng ý lấy trăn. Cô chị thì khinh
ghét trăn. Trăn cởi lốt thành chàng trai đẹp. Cô em sống sung sướng hạnh
phúc. Cô chị đòi cha tìm cho mình một con trăn để lấy làm chồng, mong cũng
được như cô em. Cô chị bị trăn nuốt suýt chết may mà em rể cứu được. Cô chị
xấu hổ sống một mình.
101. Rắn thần và Hơ Rit
Được voi giúp bẻ nứa, Hơ Rit làm cái đơm cái đó bắt được con rắn nhỏ đem
về nuôi. Rắn đi đánh các thần ác đem của cải về cho Rit, cậu Rit mượn rắn để
có của cải nhưng không thu được gì.
102. Heo rừng đền nợ hổ
Hổ ăn thịt heo bố. Gặp heo con đi tìm bố, hổ đem về nuôi chờ ngày lớn lên
sẽ ăn thịt. Heo lớn lên đẻ 12 đứa con, hẹn khi nào con lớn sẽ nộp cho hổ. Heo
út khỏe mạnh nhất, tập luyện rồi diệt cả nhà hổ.
103. Chàng Y Ban
Mtao vu oan cho hai vợ chồng nhà nghèo ăn trộm chuối, bắt họ làm nô lệ.
Ông Gỗn cho viên thuốc, người vợ uống vào sinh con trai đặt tên là Y Ban.
Thần Tun Sun và Sáo Đen giúp cho chàng được giàu có. Mtao bán cha mẹ Y
Ban cho người Lào. Y Ban đựơc Y Rit bế đi trốn. Y Ban lớn nhanh, tài giỏi,
chàng chuộc được cha mẹ và trở về đánh Mtao, Mtao thua, chàng chia của cải
cho dân làng, lấy vợ sống hạnh phúc.
104. Y Kluch chém trăn thần
7 năm làng phải nộp cô gái cho trăn thần. Có hai vợ chồng trốn ra rừng ở,
sinh được con trai đặt tên là Y Kluch. Cha mẹ chết, chàng ở với bà Sun và Y
Rit. Hai anh em chàng đi cứu cô gái, chém chết trăn thần. Cô gái cắt đuôi khố
của Y Kluch. Về sau Mtao cho người so đuôi khố, gả con gái cho chàng.
105. H Bia Plêô và anh trai thủy thần
Ở buôn nọ có chàng Y Ritvà Cim Mta đều mồ côi cha mẹ. Hai chàng kết
bạn từ khi còn nhỏ. Một hôm đang đi làm cỏ. Cim Mta khát nước về chòi tìm
nước uống. Thấy nồi canh của em gái nấu với trứng rắn thơm ngon, chàng ăn
hết nồi canh. Đến chiều thấy mình mẩy ngứa ngáy rồi biến thành một con rắn
khổng lồ. Chàng phải xuống sông ở nếu không sẽ chết. Plêô không chịu để
anh đi. Chàng phải hóa em gái mình thành tổ mối rồi xuống sông đánh nhau
với thủy thần, làm chủ một buôn giàu có dưới nước. Hai người nhà Mtao đi
săn thấy Plêô trong tổ mối. Mtao cho phá tổ mối nhưng không ai làm đựơc.
Plêô báo mộng cho Y Rit cứu được nàng ra. Plêô ra điều kiện cho Mtao nếu
bắt được anh trai nàng ở dưới nước nàng sẽ lấy hắn. Cuối cùng Mtao đành
cho nàng được tự do. Cim Mta báo mộng nên Y Rit bắt được chàng lên bờ.
Nhà chật nên Plêô gửi anh trai mình ở nhà H Lui. Cim Mta lột xác thành
chàng trai khỏe đẹp, lấy H Lúi làm vợ, chàng trở thành tù trưởng giàu mạnh
nhất. Bố của các ô gái Ôh H Rôh, Ă H Ra thấy vậy liền vào rừng bắt trăn về
làm chồng cho con. Trăn nuốt các cô gái, may nhờ chàng Cim Mta cứu được.
106. Sự tích nhà sàn
Thuở xưa, người còn đi kiếm ăn chung với các loài thú. Hổ đến tìm người
đòi chia phần. Người sợ hổ đến phá nên làm nhà sàn cao lên để có thể chủ
động đối phó với hổ.
107. Anh chàng mắc nợ
Có anh chàng mắc nợ nhiều không trả nổi. Chàng được tặng cây sáo thần,
tiếng sáo du dương mê hoặc lòng người. Mỗi khi thổi sáo lên, các chủ nợ đều
vui vẻ không ai đòi nợ chàng nữa.
108. Y Din lên mặt trăng, H Wan lên mặt trời
H Wan, Y Din là hai chị em một nhà. H Wan đã có chồng. Y Din chưa
vợ đem lòng yêu chị mình. Y Din tỏ lòng mấy lần cuối cùng H Wan cũng
xiêu lòng rồi gần gũi với em trai. Chồng H Wan vào buồng thấy vợ đang ở
bên người lạ, đuổi bắt nhưng chỉ cắt được đuôi khố. Chàng so đuôi khố của
trai làng, bắt tội Y Din nhưng Y Din chối. Chồng H Wan đi xa trở về lại thấy
hai chị em tình tự bên suối. Chàng bắt trói đem cho làng xử. Dân làng khinh
ghét đôi trai gái loạn luân. Họ bán Y Din cho Mặt trăng, bán H Wan cho mặt
trời. Kể từ đó hai chị em không được gặp nhau, trừ những lúc nguyệt thực.
109. Cọp nuôi Y Rit
Cọp bắt gia đình Y Rit nuôi. Hai vợ chồng cọp ăn thịt cha mẹ của Y Rit
trước. Cọp nuôi hai anh em Y Rit lớn lên, định bụng sẽ ăn thịt anh của Y Rit –
vốn là một con bò. Y Rit dùng mưu giết cọp vợ, cưỡi anh bò bỏ trốn bay lên
trời. Mtao ở buôn trên trời muốn có bò của Y Rit, cho thợ săn bắn bò, bò chết.
Mtao bắt Y Rit làm nô lệ. Bò hiện về cho Y Rit cái sừng, mỗi khi thổi cái
sừng sẽ có người đến giúp. Nhờ đó Y Rit thực hiện được tất cả công việc khó
khăn mà Mtao bắt làm. Mtao đòi Y Rit phải làm cho hắn ngôi nhà trên mặt
nước. Các loài dưới nước giả làm ngôi nhà. Cả nhà Mtao bước xuống thì các
loài lặn xuống nước. Cả nhà Mtao phải chết. Y Rit được làm chủ buôn.
110. Con kiến và con voi
Voi ỷ mình to lớn nên giày xéo lũ kiến không thương tiếc. Mtao kiến
thách đánh nhau với voi. Voi kiêu ngạo, kiến kéo đến từng đàn bám lên lông
voi, chui vào óc voi. Cuối cùng voi phải đâm đầu vào tảng đá mà chết.
111. Y Du, Y Da
Hai anh em Y Du, Y Da mồ côi, nghèo khổ rách rưới đi lên trời xin Aê
Diê ban cho sự hiểu biết và của cải. Trên đường đi, chim phóng sinh nhờ hai
anh em hỏi trời làm sao ấp trứng với đôi cánh mỏng. Hai anh em lại gặp một
con cheo nhờ hỏi làm sao để thân nó to khỏ hơn. Heo rừng lại nhờ hỏi trời
xem ăn thứ gì cho to khỏe. Hai anh em lại gặp chú hoẵng, con hổ, con voi
đều nhờ hỏi giùm điều tương tự. Aê Diê ban cho hai anh em nhiều vật quí. Từ
đó họ trở nên giàu có.
112. Sự tích chiếc vòng ngày cưới.
Hai gia đình sinh được hai người con. Y Drao là con trai, H Liêng là
con gái. Mtao Ăk ép H Liêng phải làm vợ hắn. Y Drao và H Liêng dắt nhau
bỏ trốn. Ông Gỗn che chở cho hai người. Y Drao luyện múa gươm trở thành
chàng trai tài giỏi, đi đánh Mtao Ăk, cứu H Liêng, cuối cùng chiến thắng, hai
người sống bên nhau hạnh phúc, lấy nhau trao vòng từ đó có tục lệ trao vòng.
113. Sự tích suối Ea Hleo
Mtao Pui có cô con gái xinh đẹp tên là Hleo. Hleo đem lòng yêu chàng
Y Rit mồ côi. Buôn làng của Mtao Pui bị đàn cọp dữ tấn công. Mtao Pui hứa
ai diệt được cọp sẽ gả con gái cho. Y Rit giết được cọp nhưng chàng cũng
chết, xác chàng bị nước cuốn đi. Nàng Hleo khóc thương Y Rit suốt ngày
đêm, nàng tan biến thành dòng suối. Buôn làng gọi tên dòng suối là Ea Hleo.
114. Tục để cơm nguội
Ở buôn nọ bị hạn hán, người và thú chết dần. Chỉ có nhà Mtao giàu có là
ăn uống linh đình. Trời cùng với cháu xuống giả làm người khố rách đi xin
ăn. Họ đến nhà Mtao thì bị đuổi, đến nhà nghèo thì được cho cơm nguội. Trời
tức giận hóa phép khiến của cải của Mtao ra đi hết. Mtao đói khát phải đi xin
ăn nhà nghèo. Từ đó có tục ăn cơm xong phải để dành cơm nguội vì đó chính
là hồn cơm hồn lúa.